PDA

View Full Version : Thiên Đường Của Thy



giavui
01-10-2015, 08:03 PM
Thiên Đường Của Thy


http://i796.photobucket.com/albums/yy249/hangnga_01/vietmessengercom-1.jpg





MỤC LỤC [−]

1. Số Phần
2. Hạnh Phúc Ngắn Ngủi
3. Kỷ Vật Của Chồng
4. Nạn Nhân Của Chồng
5. Nạn Nhân Của Xã Hội
6. Một Tấm Tình Chung
7. Tìm Con Đường Sống
8. Thành Tích Của Những Người Hùng Cộng Sản
9. Mối Tình Giấu Kín Trong Tim
10. Kẻ Thù Của Hồ-Chí-Minh Và Đảng Cộng Sản Là Ai?
11. Ngày Của Hòa Bình
12. Chính Thể Dân Chủ Tự Do Công Bình Hạnh Phúc Của Chính Phủ Cộng Sản
13. Thiên Đường Của Thy
14. Mọi Con Đường Dẫn Tới Tù Ngục




Tiểu thuyết tình cảm xã hội và Việt sử thời Cộng Sản VN gây thảm họa trên quê hương từ 1954 đến hiện đại.
(Chuông Saigon-Úc Châu xuất bản 1989)

Vài dòng sử trước khi vào truyện

(Đây là một câu chuyện tình, lồng trong khung cảnh chính trị của miền Nam Việt Nam trong 30 năm chiến tranh và sau ngày Cộng Sản Hà Nội chiếm Saigon.

Nhân vật trong truyện dù vai chính hay vai phụ, những việc xảy ra dù kinh thiên hay vụn vặt, cũng đều là những chuyện có thật, mà tôi sưu tầm từ báo chí của người Việt tị nạn ở hải ngoại, hoặc từ bạn bè và thân nhân trong gia đình tôi.)

HD

° ° °

Sau hiệp định Genève 1954, nước Việt Nam bị chia làm đôi, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới.
Miền Bắc theo chủ nghĩa Cộng Sản - do Hồ Chí Minh cầm đầu, thủđô là Hànội.
Miền Nam theo chế độ Cộng Hòa Tự Do - do Vua Bảo Đại và Thủ Tướng Ngô Đình Diệm lãnh đạo, thủđô là Saigon.

Theo bản ký kết, trong vòng 6 tháng, dân chúng hai miền được di chuyển ra Bắc hay vào Nam sinh sống, tùy theo chế độ họ lựa chọn. Sau đó hai chính phủ cai trị dân mình, không ai xâm lấn đất ai, để hai năm sau tổ chức một cuộc “tổng tuyển cử” toàn quốc, thành lập một chính phủ duy nhất cho Việt Nam.

Sau ngày ký kết, có một triệu dân miền Bắc di cư vào Nam. Trong khi đó chỉ có một số ít dân miền Nam ra Bắc, mà số này đều là đảng viên Đảng Cộng Sản. Họ ra đi không mang gia quyến theo, vì mục đích của Hồ Chí Minh là muốn chiếm trọn miền Nam và Đông Dương, nên việc đưa đảng viên ra Bắc chỉ là tạm bợ và một số ít. Thành phần Cộng sản cao cấp chính yếu vẫn để lại trong Nam với mục đích “gián điệp, phá rối trật tự an ninh, dẫn dụ dân chúng chống đối chính phủ”, mà họ lấy lý do là chống Pháp, chống Mỹ, để xúc động lòng ái quốc của dân miền Nam.

Câu chuyện này bắt đầu năm 1956, chính phủ Saigon là ông Ngô Đình Diệm được dân chúng ủy nhiệm chức Tổng Thống, vừa dẹp loạn các đảng phái trong Nam, bắt đầu kiến thiết lảnh thổ…

Trong khi đó Cộng Sản cũng ngấm ngầm hoạt động trong các tầng lớp dân chúng…



LỜI TỰA
của sử gia Paris - Bernard Le Calloc’h
viết cho tác phẩm Le Paradis de Thy

Thiên Đường của Thy tuy là tiểu thuyết, nhưng không hẳn là sáng tác tiểu thuyết. Chính tác giả cũng thú nhận rằng tác phẩm này không hoàn toàn do tưởng tượng của mình, mà thảm thay câu chuyện hầu như là chuyện thật đã xảy ra dưới chế độ khủng bố, tham nhũng và bần cùng ở miền Nam VN sau cuộc chiến thắng của Cộng Sản năm 1975.

Thiết tưởng ta không cần phải thêu dệt thêm khi viết tả một sự thật đầy hãi hùng mà người dân của phần đất này đã trãi qua trong 14 năm dài đăng đẳng, không khác gì sống trong ác mộng. Miền Nam trước đây là vùng giàu có và phồn thịnh, dân cư an lạc, dù không phải là thiên đường hay một nơi có nền dân chủ kiểu mẫu, giờđây những người từ phương Bắc đã biến nơi này thành một nơi máu lệ, họ không đối xử như anh em hay những người hùng giải phóng, mà là kẻ xâm lăng chiếm đoạt. Với quyết tâm đặt miền Nam dưới ách thống trị, họ đã dùng sự cướp đoạt tài sản, đàn áp dân chúng của một hệ thống chính trị tàn nhẫn. Những ai có dịp nhìn thấy họ làm, dù là người chưa được báo trước, cũng có thểđo lường mức tàn ác, sự thù hằn và bản chất vô nhân đạo của họ.

Độc giả chưa hiểu thực trạng của Việt Nam, cũng nên biết rằng bất cứ chương nào, đoạn nào…tác giả tả trong truyện lại là giả tưởng, ngay cả những đoạn nghe rất khó tin, cũng đều là sự thật, một sự thật vô cùng tàn nhẫn đã xảy ra trên đất nước đáng thương này, quá sức tưởng tượng của con người!

Cuộc giải phóng miền Nam bởi người miền Bắc đã diễn tiến đúng như tác giả tả, trong bầu không khí tối tăm, giữa những cuộc tàn sát, những vụ chiếm đoạt tài sản và những vụ xử tội rất buồn cười. Dân chúng bị đấu tố nhưđã kể, ngay cả những người miền Nam trước đây ủng hộ cuộc thống nhất miền Bắc, hay với cả những người từng đối lập chính phủ Saigon. Không những họ không buông tha ai, mà những kẻ đồng minh đồng lỏa của họ trưóc đây cũng bị trừng trị một cách tàn bạo. Thật không ai thoát khỏi làn sóng khủng bố, lưu đày và tù ngục sau cái ngày mà những kẻ ngây thơ gọi là “ngày của hòa bình”.

Những người từng theo hay chống chế độ cũ đều bịđàn áp, hành hạ, dày xéo dưới bánh xe khủng bố của CS, dựa vào những nhãn hiệu tuyên truyền lố bịch.

Quả là xa vời để đem lại thanh bình cho đất nước mà chiến tranh tàn phá trong 30 năm, cuộc xâm chiếm miền Nam bởi miền Bắc chỉ gây trầm trọng thêm cho hiện tình khốn khổ của dân chúng hai miền. Miền Nam chưa hề lâm cảnh đói kém như hiện tại, chỉ vì ngày nay dân chúng vừa là nạn nhân bị cướp đoạt bởi bọn xâm lăng, vừa bị thủ đoạn lưu manh của tập đoàn điên rồ. Ngày xưa nơi đây là vùng phồn thịnh, giờ là nơi nghèo nàn đói khổ. Trong khi đó quân đội và Đảng đặt ra pháp luật cai trị theo ý thích của họ trên xứ sở bị lệ thuộc, dân không còn sức chống cự.

Một giáo sư người Pháp là ông Tonga, khi xưa từng cộng tác với Việt Minh và tin tưởng chủ nghĩa Mác Xít, vì tưởng đâu sẽ đưa đến hạnh phúc, sau khi tỉnh ngộ để chọn lựa tự do đã nói rằng: Chế độ cộng sản Bắc Việt chỉ là “địa ngục đỏ” và những tên chủ chốt trong sự nghiệp tàn ác này chỉ là “những kẻ sát nhân dâm ác”. Như thế đủ cho người chưa hồi tỉnh hiểu được vì sao từ năm 1975 chúng ta chứng kiến hàng loạt người di cư “những người tị nạn đường biển” mà ta thường gọi là “thuyền nhân” (boat people), dù đàn ông hay đàn bà, nam hay nữ, thà đương đầu với cái chết trên biển cả, hơn là sống lâu dài dưới “kinh nghiệm” hãi hùng mà CS đang hoành hành trên quê hương của họ.

Điều đau thương là có hàng ngàn người miền Nam bị mắc bẫy tuyên truyền của Việt Minh trước khi đi đến thảm trạng này. Lê Thy, nhân vật chính, cũng là nhân vật thảm thương trong truyện mà quí vị sẽ đọc, là một trong số những kẻ bị tuyên truyền đó. Chàng tin tưởng thiên đường của Bác Hồ, mà cuối cùng nhận ra là địa ngục. Thay vì có những ngày mai an lạc, chỉ thấy những vụđàn áp, bạo hành, những vụ thanh trừng hàng loạt và vụ tẩy não với “những trại cải tạo” khét tiếng. Quả là bi hài!

Quyển sách này là câu chuyện anh em thù nghịch nhau. Một Lê Thy theo CS miền Bắc, một Lê Thanh trong quân đội của chính phủ Saigon. Qua hai anh em họ, ta nhìn thấy định mệnh của Việt Nam, một Việt Nam chia đôi trận địa bởi một cuộc nội chiến như Tây Ban Nha vào những năm trước thế chiến thứ hai. Và ai cũng biết rằng không có cuộc chiến nào khốc liệt bằng cuộc chiến huynh đệ trở thành thù nghịch, nhất là ở một xứ có truyền thống lễ giáo như VN từ thuở xưa.

Giữa cảnh điêu tàn của quê hương, người đẹp Thu Vân khốn khổ cùng cực mà lúc nào cũng tha thiết làm điều tốt, khiến cho chúng ta cảm động thương xót. Cuộc đời nàng trải qua bao nhiêu dao động: hãm hiếp, chết chóc…Nàng như chuột con bé nhỏ chống cự dưới nanh vuốt của mèo, cảnh này khiến người đọc phải đau lòng. Và ta cũng nhận thấy rõ, đó là cảnh ngộ chung của dân tộc nàng, lòng ta chợt dâng lên nỗi buồn vô tận.

Madame Huỳnh Dung thật có đủ khả năng để viết câu chuyện thảm thương xảy ra ở miền Nam VN sau cuộc xâm lăng của Bắc Việt. Sinh ở miền Nam, Madame đã sống trên quê hương đến 1969 mới sang Thụy Sĩ lập nghiệp. Sau ngày Saigon thất thủ, thúc đẩy bởi một khao khát bí ẩn là “làm một cái gì” cho đồng bào khốn khổ của mình, Madame đã dốc hết lòng nghiên cứu lịch sử của đất nước và bắt đầu sáng tác. Madame Huynh Dung đã hoàn toàn thành công vì tác phẩm văn chương này rất xứng đáng cho bà hãnh diện, đồng thời cũng chứng tỏ cho chúng ta thấy được văn tài và khả năng của tác giả.

Thiên Đường của Thy là một đóng góp của Madame Huỳnh Dung cho hồ sơ của lịch sử, khi quê hương của bà đang rên siết dưới sựđàn áp của CS và tất cả quyền tự do bị tước bỏ một cách trắng trợn.

Tôi xin phép nói thêm, đây cũng là bản dịch đặc sắc mà tác giả đã hợp soạn cùng với bác sĩ Trần Quang Đệ, Giáo sư Thạc sĩ y khoa và Viện Trưởng Đại Học Saigon.

Chúng ta cũng nên biết rằng tiếng Việt khác với ngôn ngữ chúng ta, nhưng tôi tin rằng những độc giả Pháp ngữ sẽ nhận được giá trị kỳ công dịch thuật của hai người, để cho chúng ta được thưởng thức một tác phẩm độc đáo, tuy dưới hình thức tiểu thuyết, nhưng trước tiên vẫn là một chứng liệu lịch sử có giá trị.

Bernard Le Calloc’h


LỜI GIỚI THIỆU

Từ năm 1940 đến 1949 có 60 vạn người bỏ mình trong cuộc chiến giữa hai phe Quốc Gia và Cộng sản ở Hy Lạp, trong đó có một bà mẹ tên Eleni Gatzoyianis đã hết lòng hy sinh cho bốn con thoát màn lưới quân du kích cộng sản, trốn sang Hoa Kỳ đoàn tụ với cha. Người mẹ còn kẹt lại bị cộng sản hành hạ tra tấn trong tù, cuối cùng bị họ xử bắn. Một trong số những người con tên Nicolas sau trở thành phóng viên lỗi lạc của báo New York Times, uất hận về cái chết đau thương của mẹ, đã trở về Hy Lạp để điều tra sự tình, viết câu chuyện tựa đề "Eleni" tả lại cuộc đời của mẹ. Sách được phổ biến năm 1983, được độc giả hoan nghênh và các nhà phê bình của Hoa Kỳ không ngớt lời ca tụng.

Nicolas Gatzoyianis đã dùng lời văn hùng hồn kể lại tội ác của bọn du kích cộng sản, với những chứng liệu lịch sử để ghi chép cuộc đời bi thương đau khổ dầy hy sinh của người mẹ đáng được tôn vinh.

Cho đến nay Hy Lạp là Quốc gia đầu tiên và duy nhất đã triệt hạ được đoàn thể võ trang khuấy động của cộng sản. Và lời văn bén nhọn của Nicola Gatzoyianisge trong tác phẩm Eleni quả là những viên gạch góp phần xây dựng bức tường kiên cố, giúp cho thành trì quốc gia của Hy Lạp được vững bền.

Câu chuyện trên đây là chuyện xứ người, nhưng cũng liên hệ đến xứ mình. Sao 30 năm chiến tranh chống cộng gần một triệu đồng bào đã chết, hơn một triệu bỏ nước ra đi. Người Việt chúng ta không thiếu những bà mẹ hy sinh cho con, những dũng tướng thà chết quyết không đội trời chung với kẻ thù cộng sản, những chiến sĩ oai hùng bảo vệ màu cờ quốc gia đến phút cuối cùng...

Nếu Hy Lạp là một nước đầu tiên dẹp được du kích sộng sản, thì Việt Nam chúng ta thế nào cũng có ngày quang phục.

Nếu Hy Lạp có bốn ngàn năm lich sử vẻ vang, thời nay có một văn tài như Nicolas Gatzo viết những lời vinh danh tiết liệt để tố cáo tội ác cộng sản, thì nước Việt Nam của chúng ta thường tự hào là một nước có bốn ngàn năm văn hiến cũng phải có những người như vậy.

Và nhà văn hiện tại đáng cho chúng ta chú ý mà tôi xin giới thiệu ở đây là Huỳnh Dung với tác phẩm "Thiên Đường Của Thy".

Thiên Đường Của Thy là câu chuyện vinh danh sự hy sinh phi thường của người phụ nữ Việt Nam. Một câu chuyện có thể xảy ra rất nhiều trong xã hội miền Nam.

Chuyện một người vợ trẻ có chồng bỏ theo cộng sản, phải sống đời goá bụa giữa tuổi thanh xuân để nuôi con trong mấy mươi năm, chịu bao đắng cay tuổi nhục. Để rồi ngày gặp lại chồng, ngày quân HàNội tràn vào miền Nam, ngày mà thế giới gọi là ngày Hoà bình, chính là ngày đen tối nhất đời nàng: Con cái thân nhân ruột thịt đều chết một cách tức tửi. Và chồng nàng, người chồng khi bỏ vợ ra đi hứa hẹn ngày trở về sẽ đem lại thiên đường cho quê hương cũng chết một cách oán hờn, vì đã mê muội nghe lời tuyên truyền bịp bợm của Hồ Chí Minh, mấy mươi năm làm giặc, hãm hại đồng bào và gia đình mình.

"Thiên Đường Của Thy" với cốt chuyện lâm ly bi thiết, tình tiết éo le, nhiều biến cố dồn dập, khi đau thương, lúc oán hờn, nhưng cũng có lắm đoạn tình yêu thơ mộng với lời văn vô cùng diễm lệ. Thiết tưởng tôi không cần kể dài dòng chi tiết ra đây, để dành cho độc giả cái lý thú trọn vẹn khi đọc tác phẩm này.

Ngày xưa Victor Hugo thuộc nhà văn trẻ đầu thế kỷ 19 của Pháp, vì chán nản trước chế độ mới mà viết câu chuyện dã sử "Notre Dame de Paris". Và để có thể viết một cách trung trực và sống động, ông đã bỏ ra nhiều năm để nghiên cứu lịch sử và đời sống của dân Ba-Lê hồi 400 năm về trước.

Khi tạo dựng tác phẩm, Victor Hugo như sống trở lại thời đại lịch sử xa xưa ấy và quen thuộc với nhân vật của mình. Cho đến đổi khi hoàn thành câu chuyện, ông thấy tâm hồn trống trải buồn chán, y như tâm trạng một người giàu tình cảm đau buồn trước sự ra đi vĩnh viễn của những người bạn cố tri. Rồi phải đợi 30 năm sau (1862), ông mới cho ra đời tuyệt tác "Les Misérables", để nói lên thảm cảnh thời ông đang sống.

Huỳnh Dung cũng mang tâm trạng giống như Victor Hugo trước thời cuộc đổi thay. Quê hương ta rơi vào tay bọn cộng sản tham tàn, đồng bào bỏ xứ ra đi sống chết trên biển cả, những người còn lại sống trong ngục tù, trong đói khổ... Và Huỳnh Dung đã trở về với mấy trăm năm lịch sử để viết những câu chuyện dã sử như "Mài Gươm Phục Quốc" và "Hờn Vong Quốc", mượn bối cảnh vong quốc ngày xưa để nói lên nỗi lòng mình, nỗi lòng của một dân tộc mất nước. Sau cùng không đè nén được uất hận trước sự cai trị tham tàn của chính phủ cộng sản hiện hữu, Huỳnh Dung đã cho ra đời "Thiên Đường củaThy", một áng văn chương sôi động như "Eleni" của Nicolas Gatz, để tố cáo tội ác của cộng sản Việt Nam trước thế giới và cũng như "Les misérables" của Victor Hugo, để ghi lại cảnh khốn cùng đói khổ trên quê hương thời hiện đại.

Người nữ văn sĩ tài hoa diễm lệ của chúng ta đã sống với người trong truyện, đã truyền sinh lực vào nhân vật trong truyện, nhờ đó gây được sự rung cảm tột cùng cho người đọc.

Đối với độc giả Việt Nam, Huỳnh Dung là một nhà văn ái quốc được nhiều người ngưỡng mộ. Một nữ sĩ đa tài đã sáng tác nhiều loại tiểu thuyết khác nhau: Phóng tác, dã sử, trinh thám, xã hội tình cảm, chính trị v.v... vừa là một thi nhân với những vần thơ ướt át trữ tình, không kém những vần thơ lãng mạn của Pháp. Ngoài ra nữ sĩ còn viết truyện ngắn, tùy bút, bài nghi luận v.vv... Dù thể tài nào nữ sĩ cũng đã thành công. Nhưng phải nói hai tác phẩm mới nhất là "LL12 Nữ Điệp Viên" và "Thiên Đường của Thy" chứng tỏ Huỳnh Dung không những có biệt tài, mà còn có kiến thức sâu rộng, tầm mức văn chương nay ở trên địa bàn quốc tế. Tác phẩm có thể chuyển ngữ cho độc giả trên thế giới thưởng thức.

Thiên Đường Của Thy đã được nữ sĩ dịch ra Pháp ngữ với sự trợ giúp của Giáo Sư Thạc Sĩ Trần Quang Đệ, cựu Viện Trưởng Đại Học Saigon. Nhân việc tham dự Đại Hội Văn Bút Quốc Tế tại Hán Thành (Seoul) hồi tháng 9/1988, nữ sĩ cũng đã giới thiệ "Thiên Đường của Thy" với văn hữu các nước bạn.

Tóm lại "Thiên Đường của Thy" là một tác phẩm có tác dụng chính trị không những đối với Việt Nam mà còn cho thế giới tự do và cũng là áng văn chương quí báu ghi dấu thời đại lịch sử bi đát của dân tộc chúng ta. Tuyệt phẩm này sẽ nâng địa vị Huỳnh Dung lên văn đàn quốc tế và cũng là một kiệt tác góp phần giàu sang cho kho tàn văn hoá nước ta.

Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh


CHƯƠNG MỘT

SỐ PHẦN

Tòa dinh thự trắng toát, đồ sộ, nằm trong khu cư xá của giới trưởng giả tỉnh lỵ Mỹ Tho miền Nam Việt Nam chính là nhà của ông tiến sĩ Trần Văn, Hiệu Trưởng trường Trung và Tiểu học Mỹ Tho.

Ông là một trong ba nhà trí thức trong vùng, uyên thâm nho học lẫn Tây học. Một người thật quí phái, dễ mến, tính tình hiền hậu. Cho nên ông được mọi người thương yêu ngưỡng mộ, ngay cả học trò.

Dù vậy tên tuổi ông vang dội khắp nơi là nhờ con gái của ông, tên là Trần Thu Vân. Nàng là một giai nhân nổi tiếng thời bấy giờ và là một cô gái được giáo dục toàn vẹn trí đức.

Bất cứởđâu, dù chốn tư gia hay quán khách, trong các buổi lễ hay các cuộc tập họp gia đình, nơi nào có cuộc tụ họp đông đảo là nơi đó thiên hạ bàn về nhan sắc của Trần Thu Vân. Đương nhiên người ta nôn nao muốn biết ông Trần Văn sẽ gả cô con gái đẹp cho ai?

Cũng vì từ mùa hè năm ngoái Thu Vân đậu tú tài nên nhân dịp lễ sinh nhật thứ 18 của con gái, ông Trần Văn mời khách khá đông để giới thiệu ái nữ. Từđó có rất nhiều chàng trai si tình và đến nhà xin hỏi cưới. Dĩ nhiên họ là thành phần con nhà giàu có, hoặc con nhà quan… và đều những chàng trai học cao, có địa vị trong xã hội.

Thế nhưng một năm qua Thu Vân vẫn chưa chọn ai là chồng tương lai cho mình.

Bất thần sáng hôm ấy người trong xóm sững sờ nghe gia nhân ông Trần Văn cho biết gia chủđang tổ chức tiệc cưới. Và người đẹp ThuVân kết hôn với Lê Thy, con trai của bà goá phụ Lê Thân, một gia đình nghèo, sống với nhờ cửa tiệm bán tạp hoá gần trường học.

Lễ cưới hầu như không mời ai, ngoài thân quyến của hai gia đình. Có lẽ ông bà Trần Văn cũng biết cuộc hôn nhân này không có gì để phô trương, nên tổ chức lễ cưới thật âm thầm và đơn sơ. Dù vậy cô dâu và chú rễ vẫn đến nhà thờ làm lễ và sau đó có một buổi tiệc nho nhỏ gia đình.

Tin người đẹp của tỉnh lỵ lấy chồng được loan đi thật nhanh và khi biết được người cô chọn là Lê Thy, thiên hạđàm tiếu cười chê, nhất là những chàng trai từng si tình và cầu hôn Thu Vân thuở trước.

Lê Thy là bạn học cùng lớp với Thu Vân, cùng đậu tú tài một lượt, lớn hơn Thu Vân ba tuổi, hình hài cao lớn tuấn tú. Điểm nổi bậc nhất của Lê Thy là vẻ ngang tàng khí phách của chàng trai hùng thế hệ mới, làn da ngăm ngăm đen, mái tóc bồng bềnh lãng tử…

Thu Vân yêu Lê Thy từ khi bắt đầu học Trung Học. Bởi đó mà nàng luôn từ chối những chàng trai khác đến cầu hôn. Sau cùng nàng thú thật với cha mẹ, nàng đã có bạn trai là Lê Thy và xin cha mẹ chấp nhận cho nàng được kết hôn với chàng ta. Ông bà Trần Văn cũng không lạ gì gia đình họ Lê này.

Nguyên khi xưa cha của Lê Thy là Lê Thân vốn là cai trường. Ông ta chết vì tai nạn trong khi quét dọn nhà trường nên được chính phủ bù đền tiền nhân mạng. Ông Trần văn cũng gíúp thêm cho bà goá phụ Lê Thân một số tiền. Nhờđó bà có được số vốn, mở một tiệm tạp hoá làm kế sinh nhai.

Hai người con trai của ông bà Lê Thân là Lê Thy và Lê Thanh cũng được sự gíúp đỡ của ông Trần Văn để có thể tiếp tục đi học.

Ông Trần Văn thật là người tốt và cưng chiều con gái. Nghe Thu Vân thú nhận đã yêu Thy và chọn Thy làm chồng, ông không nói một lời chống đối nào. Mặc dù ông thừa biết rằng chấp nhận cho con gái ông kết hôn với Thy là gia đình ông sẽ bị thiên hạ chê bai cười nhạo và con gái ông kết hôn với chàng trai gia đình nghèo, học hành chưa xong, nghề nghiệp chưa có, là cả một sự thiệt thòi!

Và sự thiệt thòi ấy bắt đầu từ việc tổ chức lễ cưới đơn sơ, gần như giấu giếm. Ông là người nổi tiếng trong tỉnh, giao thiệp rộng, nhưng ngày cưới của con không báo tin một ai!

Sau ngày cưới Lê Thy về sống nơi toà biệt thự của gia đình vợ, vì chưa có nghề nghiệp để có tiền thuê nhà riêng, cũng không thể đưa vợ về sống chung nơi nhà mẹ và em trai, bởi cửa tạp hoá vừa là chỗở vừa là chỗ mua bán, không còn phòng riêng cho đôi vợ chồng mới cưới.

Ông Trần Văn rất tế nhị. Ông dành riêng cho gái và con rể nguyên tầng lầu trên của tòa biệt thự, có lối đi riêng, để Thy tuy sống chung nhà với gia đình bên vợ vẫn tự do thoái mái như nhà riêng của mình.

Ông Trần Văn còn cung cấp tài chánh cho con gái và con rể chi dụng và sẵn sàng gíúp Thy tiếp tục bậc đại học. Hai ngày sau lễ cưới, ông gọi Thy và Thu Vân đến trước mặt ông và vợ ông để bàn chuyện tương lai. Ông nói với Thy:

- Ba mẹ muốn cho con sang Pháp học ngành y khoa, vì nước mình thiếu nhiều bác sĩ. Vậy ý hai con thế nào?

Thu Vân mừng rỡ nói với chồng:

- Đi du học thích quá anh hỡ?

Thy mỉm cười, không nói gì. Ông Trần Văn thấy chàng rể lặng thinh, nghĩ con rể e ngại về chi phí ăn ở xứ người, nên mỉm cười:

- Con đừng thắc mắc việc hao tốn chi phí du học của con. Ta sẵn sàng đài thọ cho con mọi chi tiêu. Ba xem con như con ruột, vì ta chỉ có một đưá con gái. Tương lai của con cũng là của nó.

Thy đưa mắt nhìn ông mỉm cười, ngụ ý cảm ơn, song cũng không mở miệng nói tiếng nào. Thu Vân đinh ninh chồng thỏa thích lắm, nhưng vì quá cảm xúc mà không thốt được lời cảm tạ cha mẹ mình. Nàng vòng tay ôm lưng chồng, nũng nịu nói:

- Ba cưng anh Thy, cho anh đi du học, con ở nhà chắc buồn chết được! Hay là ba cho con cùng đi du học với ảnh?

Ông Trần Văn cười lớn:

- Đâu có ai đi du học mà dắt vợ theo? Đâu có chồng nào có vợ bên cạnh mà học hành được? Phải vậy không Thy?

Thy lại mỉm cười. Bà Trần Văn chỉ có cô con gái, bà không muốn xa con, nghe chồng không muốn con gái đi du học, bà mừng lắm nói với con gái:

- Học bác sĩ chỉ sáu bảy năm, không lâu lắm đâu! Hai con còn quá trẻ, Thy cần đi du học để có nghề nghiệp, con đi theo làm bận tâm trí nó, không tốt lắm đâu!

Thu Vân nói là nói vậy, sự thật trong lòng không có ý muốn cha mẹ phải hao tốn cho vợ chồng nàng, nếu cả hai du học. Nàng mỉm cười trấn an cha mẹ:

- Con nói đùa thôi! Sự thật con làm biếng lắm! Để anh Thy học thay con, sau này anh trở thành bác sĩ người ta cũng gọi con là bà bác sĩ vậy!

Nàng nheo mắt hỏi chồng:

- Phải đúng như vậy không anh Thy?

Thy vẫn nụ cười cố hữu! Thu Vân nói tiếp với vẻ mặt nhí nhảnh:

- Anh thấy làm đàn bà khoẻ không? Không cần luyện óc mài tâm vẫn thành danh!

Ông Trần Văn nghe con gái nói, mắng yêu: -Con bé này láu lỉnh quá!

Ông quay sang nói với Thy:

- Để ba lo việc xuất ngoại cho con. Có lẽ vài tháng sau con có thể rời xứđi qua Pháp hoặc Thụy Sĩ. Thụy Sĩ ngành y khoa cũng nổi tiếng lắm.

Thy vẫn lặng thinh với nụ cười trên môi. Cuộc bàn bạc từ đầu đến cuối chỉ có ông Trần Văn, vợ ông và con gái ông nói. Thy y như người ngoại cuộc, dù câu chuyện dính líu đến chàng!

Ông Trần Văn có chút ngạc nhiên về thái độ của chàng rể, song ông nghĩ: “Có lẽ tính Thy ít nói, hơn nữa rể mới bao giờ cũng e dè với cha mẹ vợ”.

Vì nghĩ thế nên ông càng thương con rể, thâm tâm không có chút ân hận nào việc gả Thu Vân cho Thy. Ông tự nhủ:

- Thy tuy là con nhà nghèo, nhưng tính tình hiền hậu ít nói, con gái ta có người chồng như thế cũng tốt. Bây giờ ta chỉ cần lo cho nó có nghề nghiệp khá là có thể hãnh diện với đời.

giavui
01-10-2015, 08:04 PM
CHƯƠNG HAI

HẠNH PHÚC NGẮN NGỦI

Hạnh phúc của đôi vợ chồng mới cưới thật êm đềm và tuyệt dịu. Ngày ngày họ quấn quít bên nhau, không giây phút nào rời.

Thy thích cảnh đồng quê nên thường cùng Thu Vân đạp xe đạp đi chơi vùng ngoại ô từ sáng sớm. Cả hai mang theo thức ăn làm picnic ngoài đồng và ở lại đó chơi đùa bắt bướm hái hoa đến tối mới về nhà.

Thời gian trôi qua thật nhanh. Mới đó đã qua hai tuần trăng mật!

Hôm ấy Thy cùng Thu Vân đi xem ruộng lúa. Cả hai đạp xe đi xa hơn thường lệ. Bấy giờ trước mắt họ là cánh đồng bát ngát mút chân trời. Mùa này lúa bắt đầu chín, hạt vàng óng ánh, gió thổi dìu dặt đong đưa đọt lúa, trông xa xa không khác gì một tấm thảm nhung mênh mông vô tận.

Miền Nam ruộng đồng thẳng tắp, đất nhiều mầu mỡ, người nông dân làm việc không cực nhọc lắm mà đến mùa gặt thu lợi tức rất khá, đủ cho họ sống quanh năm mặc dù họ làm trên đất thuê của điền chủ.

Các địa chủ miền Nam phần đông có vài ngàn mẫu ruộng. Họ rất giàu mà không phải làm việc, ngoài việc cho thuê ruộng đất.

Vào đệ nhị thế chiến, Nhật chiếm Việt Nam một tháng và trao quyền thuộc địa cho Cộng Sản Việt Nam. Chỉ một tháng cầm quyền đó, Đảng Cộng sản bắt giết gần hết các địa chủ. Một số chạy thoát cũng bỏ nhà bỏ ruộng đất trốn đi nơi khác.

Đến khi Nhật bị bom nguyên tử của Mỹ dội ở đảo Hirochima thua chạy về xứ, người Pháp trở lại, nhưng số địa chủ còn sống cũng không dám trở về địa phận của mình.

Thành ra có thể nói đời sống của nông dân miền Nam lúc bấy giờ khá sung túc. Mỗi gia đình có năm bảy mẫu đất trồng trọt, tuy rằng không chính thức là chủ, nhưng họ không phải trả tiền thuê. Phần đất người này, tiếp nối phần đất người kia phân chia bởi một bờđê nhỏ, lúa mọc cao lên, không trông rõ đâu là ranh giới. Đó đây chỉ thấy một vùng ruộng lúa phì nhiêu, bát ngát, khoe sắc dưới bầu trời xanh. Thật không khác gì một bức tranh thiên nhiên của Tạo Hoá.

Thy say sưa ngắm cảnh ruộng đồng trước mắt, chép miệng nói:

- Một ngày kia tất cả đồng ruộng này sẽ thuộc về nhân dân. Nhân dân sẽ làm chủ khoảnh đất của họ.

Cả hai bỏ xe đạp bên bờ ruộng, ngồi tựa lưng nhau trên bờđê. Thu Vân lim dim đôi mắt, tận hưởng giây phút tuyệt dịu bên người tình, không để tâm nghe chàng nói gì?

Thời gian trăng mật của người con gái bắt đầu làm đàn bà, ngồi bên cạnh tình nhân thì đâu còn để tâm nghe thấy gì ngoài nhịp tim rộn ràng?

Thy vẫn say sưa:

- Em à, ngày nào giới địa chủ không còn nữa, nhân dân sẽ hưởng được thái bình an lạc. Kẻ giàu bị diệt, toàn dân ai cũng như ai, một xã hội đồng đều, không có những bất công. Lúc đó chúng ta sẽ sống trong thiên đường của quê hương.

Thu Vân bá vào cổ chồng, nói như mơ:

- Chúng mình hiện đang sống trong thiên đường của tình yêu phải không anh?

Thy lắc đầu, hôn nhẹ trên tóc vợ:

- Tội nghiệp cưng tôi, mơ mộng nhiều quá! Làm gì có thiên đường trong xã hội hiện tại đâu em? Chúng ta cần phải tranh đấu. Tranh đấu đến ngày nào quét sạch hết bọnViệt gian, tiêu diệt lũ địa chủ, đuổi bọn ngoại quốc ra khỏi xứ, lúc ấy mới có thiên đường trên quê hương em à.

Thu Vân vẫn lim dim đôi mắt:

- Bên anh, em đã tìm thấy thiên đường. Thy cúi sát mặt vợ, nói nhỏ:

- Tỉnh dậy đi em! Thiên đường của em là mộng ảo! Thu Vân chui vào vòng tay chồng, cười dòn tan:

- Anh là cõi thiên đưòng của em. Anh là người thật, sao bảo là mộng ảo? Sống bên anh là em sống trong thiên đường, em không cần tìm thiên đường nào khác.

Thật thế! Nàng si tình Thy từ khi cả hai bắt đầu học chung ở Trung học. Biết gia đình Thy nghèo, nàng lo sợ cha mẹ không đồng ý cho cả hai kết hôn, nên nhiều năm trời yêu trong tuyệt vọng.

Cho đến ngày cha mẹ nàng muốn nàng phải chọn một trong những chàng trai đến nhà cầu hôn, Thu Vân mới thú thật với cha mẹ mối tình của mình với Thy.

Điều mà nàng không ngờ là cha nàng không chống đối chi hết, mặc dù mẹ nàng có vẻ không vừa lòng. Cha nàng chỉ nói:

- Ta là người có tư tưởng mới, nên ta để con tự do kết hôn với người con yêu, ta không phân biệt giai cấp nghèo giàu hay chức tước địa vị, miễn rằng nó thật tình yêu con mà không vì nhan sắc hay vì những gì con có.

Thu Vân nói với cha bằng giọng chắc chắn:

- Sở dĩ con yêu anh Thy vì con biết anh không dám yêu con. Anh thường bảo: “Phải em không đẹp, không giàu, tình chúng mình trọn vẹn biết mấy!” Chính vì con thấy anh ấy có nhiều mặc cảm, không dám yêu con, nên con mới thương cái nghèo, cái thua thiệt trong đời ảnh.

Cha nàng cười nhẹ, bảo:

- Con cao quý lắm! Ta chỉ mong Thy xứng đáng với tấm lòng cao quý của con dành cho nó.

Mẹ nàng không vừa lòng, song cũng không dám chống đối. Bà nhìn nàng một lúc thở dài:

- Nói thật là mẹ không hiểu nổi con. Phàm con gái lớn lên ai cũng mơ ước có chồng giàu sang, có địa vị, có danh phận. Tài sắc của con ít người sánh nổi, vậy mà con lại chọn một người chồng không có gì! Con không cảm thấy uổng phí cho đời con sao?

Ngừng một lúc đểđè nén cảm xúc, mẹ nàng nói tiếp:

- Ta không dám ép con, vì ta chủ trương con lấy chồng cho con, song ta lo sợ trong tương lai đời con sẽ khổ.

Thu Vân nắm tay mẹ trấn an:

- Xin mẹ an tâm. Người xưa vẫn nói: “Đồng vợ đồng chồng tát biển Đông cũng cạn”. Chúng con yêu nhau, cùng nhau tạo dựng sự nghiệp, ngày sau chắc chắn cũng rỡ ràng danh phận như mọi người.

Phải lắm! Nàng đã thuyết phục như thế để được kết hôn với Thy. Giờđây con đường duy nhất Thy phải đi là tiếp tục học để trở thành một bác sĩ.

Điều này không khó vì Thy đủ thông minh, cha mẹ nàng sẵn sàng gíúp đỡ tài chánh. Bây giờ chỉ còn Thy quyết định muốn đi xứ nào.

Không nghe vợ nói gì, nhìn thấy ánh mắt vợ mơ màng nghĩ ngợi đâu đâu… Thy gọi khẽ:

- Này em! Em có nghe những lời anh vừa nói không em? Thu Vân ngưng dòng tư tưởng, ngơ ngác hỏi:

- Anh nói gì? Xin lỗi, em không nghe rõ.

- Anh nói về việc tạo dựng thiên đường trên quê hương mình.

Thu Vân nguýt yêu chồng:

- Tạo dựng thiên đường cho vợ con anh trước đã, anh chàng cao vọng kia ơi!

Mặt nàng đã đẹp, lại thêm bộđiệu đáng yêu, khiến Thy ngây ngất nhìn vợ. Một lúc chàng quay mặt hướng khác nhìn phương trời xa, lẩm bẩm nói:

- Hy sinh! Ta phải hy sinh!

Thu Vân nghe chồng lẩm bẩm nói lời khó hiểu, bật ngồi dậy hỏi:

- Anh nói gì?

- Anh nói, chúng ta cần phải hy sinh cuộc đời để tạo dựng thiên đường cho quê hương.

- Hay lắm! Tạo dựng thế nào?

Nàng hỏi giọng trêu chọc, miệng cười thật xinh, nhưng Thy không cười, hậm hực đáp:

- Trước tiên là diệt lũ địa chủ cường hào ác bá, đập đầu những tên bán nước cho Tây cho Mỹ. Sau khi dành được độc lập và hòa bình, ta tạo một xã hội công bằng tự do và hạnh phúc. Tức là tạo dựng thiên đường cho quê hương.

Thấy đôi mắt chồng đỏ ngầu, sắc mặt giận dữ khi nói, Thu Vân hết dám cười, nắm tay chồng, lo lắng hỏi:

- Anh sao vậy?

Thy nhìn vợ, giọng còn hờn giận:

- Em lớn rồi, sao cứ mãi ngây thơ? Trong đời phải biết tìm con đường lý tưởng để đi chớ?

Thu Vân cười mơn trớn:

- Thì lý tưởng của anh là của em mà?

Thy gắt:

- Vậy em biết anh muốn làm điều gì không?

- Em biết! Em biết anh có lý tưởng cao đẹp, muốn tạo dựng thiên đường cho quê hương, muốn san bằng những bất công của xã hội… Nhưng việc ấy đâu phải dễ? Vả lại, vào thời phong kiến xa xưa giới quan quyền địa chủ làm mưa làm gió, ức hiếp dân lành. Chớ ngày nay người địa chủ tuy tiếng là địa chủ, nhưng họ bỏ nhà bỏ ruộng đất sinh sống nơi khác, họ nghèo xơ xác. Người nông dân ngày nay làm trên đất của họ đâu phải trả tiền thuê? Huống chi, chắc anh cũng nghe nói chính phủ hiện hữu đang thi hành chính sách: “cải cách điền địa“. Tất cả ruộng đất trong xứ nhà nước sẽ mua lại của địa chủ để phát tặng cho nông dân. Trong tương lai người làm ruộng trồng trọt trên mãnh đất của mình làm chủ. Điều này chẳng phải đúng vào mơ ước của anh sao?

Thy cười khảy:

- Hừ! Cải cách điền địa! Cải cách điền địa sao vẫn để cho địa chủ 100 mẫu ruộng? Còn nông dân thì chỉ có 5, 7 mẫu? Như thế thì sao gọi là công bằng chứ? Huống chi chưa chắc tất cả nông dân đều được nhà nước cho tặng đất ruộng. Có thể nhà nước lừa bịp , chia nhau cho bọn tay chân bộ hạ của họ. Rốt cuộc rồi bọn địa chủ cấu kết với bọn Việt-gian, giao quốc gia cho Tây cho Mỹ.

Thu Vân không hiểu chồng muốn ám chỉ giới Việt-gian là giới nào, nên hỏi:

- Bọn Việt gian là ai?

- Là bọn theo Tây học, bọn làm quan, bọn chức quyền bóc lột dân chúng, chớ còn ai nữa?

Nghe chồng giải thích, Thu Vân giận dỗi:

- Bộ hễ theo Tây học là Việt gian? Vậy anh cho rằng ba em cũng là Việt gian?

Thy lặng thinh. Thu Vân kề má sát mặt chồng nhỏ nhẹ nói:

- Anh à, nước mình chậm tiến, muốn theo kịp đà tiến hoá của thế giới dân mình phải học văn hoá, kỹ thuật của các nước Âu Mỹ. Như vậy người theo học những cái hay của người Pháp, người Mỹ, người Nhật, người Tàu v.v… Học những tinh hoa tiến bộ của người để xây dựng cho nước mình là điều nên làm. Em nghĩ, những quốc gia văn minh giàu có ở Âu Mỹ dân họ cũng vẫn sưu tầm học hỏi những cái hay, những phát minh mới của nước khác. Nhờđó nền văn minh của họ tiến bộ vượt bực. Dân nưóc ta cần phải học rất nhiều, không những ở các quốc gia Âu Mỹ, mà bất cứ quốc gia nào trên thế giới tiến bộ hơn mình, mình cần phải học nơi họ.

Vậy người Việt nào học được cái hay của người, đem lợi ích cho dân cho nước, họ là những người đáng khen, cớ sao anh phỉ báng họ là Việt gian? Gian tức là giả dối, lừa bịp, xảo trá… thì người vô học mà có tính ấy cũng là Việt gian. Tóm lại “gian” ám chỉ một người không có đức hạnh, một kẻ lừa dịp, lưu manh, gian xảo, chớ không phải người theo Tây học hay Mỹ học.

Những lời phân giải hữu lý của Thu Vân khiến Thy cứng họng không cãi lại được, liền cười khẩy:

- Em đúng là miệng lưỡi của con gái tư bản!

Thy tránh không muốn nói vợ là con gái của “Việt gian”, nhưng ánh mắt long lên hận thù.

Thu Vân thấy thái độ của chồng vừa lo sợ vừa tủi thân, rưng rưng nước mắt.

Nhìn hai hàng lệ chảy dài trên gương mặt mĩ miều của vợ, Thy se lòng nói giọng ân hận:

- Tha lỗi cho anh, anh không có ý làm buồn lòng em.

Nghe chồng nói lời xin lỗi, Thu Vân tươi tắn ngay, miệng nở nụ cười thật xinh, mắt ngời hạnh phúc, mặc dù lệ còn ướt trên khóe mắt.

Nàng nhủi vào ngực chồng, thỏ thẻ:

- Chúng mình vô lý quá, cãi vã chuyện không đâu! Thôi bỏ qua nghe anh?

Thy âu yếm vuốt tóc vợ, một lúc chợt thở dài, nói giọng xa xăm:

- Anh mong rằng một ngày kia em sẽ hiểu những gì anh nói hôm nay.

Thu Vân nằm trên đùi chồng, lim dim đôi mắt. Thy ngồi lặng yên sắc mặt dàu dàu, tâm trí chừng nhưđang nghĩđiều gì quan trọng lắm, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn vợ, rồi cau mày thở ra.

Mặt trời đã lên cao, nắng bắt đầu gay gắt. Vài cơn gió nhẹ thoảng qua đong đưa đọt lúa, nghe xào xạt rì rào như lời thì thầm tình tự của đôi tình nhân .

Thy xúc động cúi xuống hôn lên môi vợ, gọi nhỏ:

- Em ơi! Mình về thôi! Nắng nóng quá, em không sợ mặt trời nướng chín chúng ta sao?

Thu Vân choàng tay vào cổ chồng, hai gương mặt sát nhau, môi chạm môi… Nụ hôn tình ái nóng bỏng không khác gì tia nắng của thái dương.

**

Thời gian trăng mật trôi qua thật nhanh, mới đó đã sắp hết tháng. Thy vẫn dịu dàng và trầm lặng bên cạnh Thu Vân. Ngoài trừ hai lần Thy vắng nhà, nói là để gặp bạn bè, kỳ dư lúc nào cũng quấn quít bên vợ.

Thu Vân tươi như hoa, rộn ràng như chim. Tình yêu mầu nhiệm đã biến cô gái nhu mì ít nói thuở nào trở thành cô gái cười nói ca hát ví von cả ngày.

Ông bà Trần Văn thấy con gái hạnh phúc vui vẻ cũng an lòng về chàng rể.

Gần một tháng qua… đã ba lần ông Trần Văn nhắc Thy việc xuất ngoại du học, song lần nào chàng cũng mỉm cười, không nói tiếng bằng lòng, cũng không tỏ lời phản đối.

Ông Trần Văn bắt đầu khó chịu về thái độ của con rể, nhưng bà Trần Văn tâm lý hơn, bảo chồng:

- Vợ chồng chúng nó mới cưới, yêu nhau khắn khít dường ấy, ông cứ bàn chuyện nó phải xa vợ, đương nhiên nó đâu có muốn? Nó ngại nói ra làm mất lòng ông, nên phải cười trừ chớ sao? Thôi, ông đừng tính chuyện cho Thy du học nữa! Chính tôi cũng không muốn con rểđi xa, con gái ở nhà một mình thương nhớ chồng, thật tội nghiệp. Tôi đề nghị, để Thy lên Saigon học. Như thế Thu Vân cũng có thể tiếp tục học ở Đại học.

Ông Trần Văn nghe lời bàn của vợ rất vừa ý, vui vẻ nói:

- Bà nói phải lắm! Cho hai đứa nhỏ lên Saigon học y khoa vào niên học năm nay. Thu Vân chắc sẽ vui mừng lắm.

**

Hôm ấy vào một buổi sáng đẹp trời, nắng mai trải dài trước ngỏ, chim sẻ líu lo trên cành… Thu Vân giật mình tỉnh giấc, bỗng thấy mình nằm trơ trọi trên giường ngủ rộng thênh thang.

Nàng bật ngồi dậy, tuột khỏi giường định đi tìm chồng, song nghĩ: Có lẽ Thy đang ở trong phòng tắm, hay quanh quẩn đâu đó dưới nhà, nên chạy tới mở banh hai cánh cửa sổ nhìn bên ngoài…

Khu vườn hôm nay dường như khởi sắc thêm hoa. Nào hồng, nào cúc, nào hướng dương, nào thược dược… trăm hoa, nghìn sắc đua nhau nở. Thật chưa có hôm nào vườn hoa nở đẹp như bữa nay!

Bên phải của sân là vườn cây trái với vài khóm tre bụi trúc, lá cành ẻo lả. Bầy chim sẻ bay nhảy trên cành, miệng kêu tíu tít, trông thật vui mắt.

Thu Vân nghiêng mình, tì tay bên khung cửa sổ ngắm cảnh một lúc vẫn không thấy Thy về phòng, nên lên tiếng gọi. Nàng gọi mấy lượt không nghe hồi đáp nên chạy về phiá cầu thang hỏi lớn:

- Mẹơi, có anh Thy dưới nhà không hỡ mẹ?

Bỗng dưng nàng linh tính như có điều trầm trọng xảy ra, hốt hoảng phóng nhanh xuống lầu trong lớp áo ngủ. Bà Trần Văn không nghe rõ câu hỏi của con gái, định lên lầu, gặp nàng chạy xuống với sắc mặt hơ hãi, bà châu mày hỏi:

- Vụ gì vậy? Thy đâu?

- Anh không có trên phòng.

Nàng đáp lời mẹ, cùng lúc chạy vào nhà bếp hổn hển hỏi cô gái giúp việc:

- Ngà, Ngà, em thấy chồng của cô ởđâu không?

Cô gái giúp việc ngơ ngác lắc đầu. Bà Trần Văn đi theo con gái phiá sau, thấy thái độ của nàng bà tức cười:

- Thằng Thy không có trên lầu mà con hốt hoảng y như có động đất! Chao ôi!

Rồi bà mỉm cười, nói với cô gái giúp việc:

- Con ra ngoài vườn xem, nếu thấy chồng cô Vân thì gọi vào nhà. Bà nghĩ, chắc nó đang lang thang ngoài vườn như mọi khi.

Nghe mẹ nói, Thu Vân an định tâm thần, hổ thẹn nói:

- Thật ra con chỉ muốn bàn việc học với anh ấy.

Đang khi hai mẹ con còn đứng trong nhà bếp, cô Ngà chạy trở vào thưa:

- Con đã tìm khắp nơi ngoài vườn không thấy cậu Thy.

Ông Trần Văn đang ăn sáng nơi phòng ăn, nghe vợ con xôn xao, ông lớn tiếng hỏi:

- Việc gì vậy?

Bà Trần Văn bước nhanh vào phòng ăn, đáp lời chồng:

- Không biết thằng Thy đi đâu mà tìm không thấy trong nhà.

- Chắc là nó về nhà của mẹ nó. Chỉ có vậy mà bà và con gái làm ồn lên, thật tức cười!

Ông đã ăn xong, sắp sữa đi đến trường, xe và người tài xế đã chờ sẵn ông trước ngõ.

Không hiểu sao Thu Vân chẳng an tâm. Mấy ngày qua vẻ mặt Thy lạ lùng khó hiểu, y như mưu tính làm điều gì, ban đêm thường hay thao thức không ngủ, thỉnh thoảng thở ra. Nàng muốn gạn hỏi chồng về tâm trạng kỳ lạấy, song chưa có dịp hỏi.

Bởi đó mà hôm nay không thấy Thy trong phòng nàng kinh hoảng dường ấy. Nàng không dám nói rõ những lo âu trong lòng với cha mẹ, nên lặng lẽ bước lên mấy bậc thang lầu về tư phòng, bên tai còn nghe văng vẳng tiếng cười nói của cha:

- Con bé khắn khít với chồng như vậy, hèn chi thằng ấy không hứng thú việc đi du học.

Thu Vân trở về tư phòng với dáng điệu thẫn thờ, chợt thấy trên bàn viết có một phong thư. Sáng nay nàng mãi ngắm cảnh vườn hoa bên ngoài, không lưu ý mọi vật trong phòng.

Giờ nhìn thấy lá thư, nàng kinh động chạy tới lấy lên. Đúng là nét chữ của Thy! Tay run run nàng mở phong bì, lấy tờ giấy bên trong ra. Những hàng chữ nhảy múa trước mắt nàng…

Ngày…

Em yêu quí,

Anh không can đảm nói lời giã từ trước mặt em, vì anh sợ nước mắt em sẽ giữ chân anh.

Anh biết tình yêu của em dành cho anh thật to lớn, và anh tin em cũng biết rõ anh yêu em sâu đậm thế nào. Chính vì yêu em, yêu gia đình, yêu quê hương, yêu dân tộc, nên anh mới hy sinh đời mình, bỏ em ra đi. Từđây thân anh phải giãi dầm sương gió, nếm mật nằm gai, góp phần xương máu cùng với bạn đồng chí tranh đấu cho tự do hoà bình, diệt lũ Việt gian theo Tây theo Mỹ, đem lại hạnh phúc cho đồng bào.

Mục đích của anh và các bạn đồng chí là tạo dựng quê hương Việt Nam thành cõi thiên đường hạ giới, cho thế giới năm châu thèm khát.

Lời anh nói với em hôm nào ở bờ ruộng huyện Hương Thanh, giờđây chắc em đã hiểu?

Anh tin với trí thông minh của em, em sẽ thấy rõ lý tưởng cao đẹp của anh và chắc chắn em rất hoan nghênh hành động của anh, cũng như đồng ý con đường anh lựa chọn là lối đi vinh dự nhất của người trai hùng.

Rồi đây em sẽ hãnh diện những việc anh làm và những thành tích mà anh và các bạn của anh thu lượm được trong thời gian sắp tới. Anh tin, ngày anh trở vềđoàn tụ với em không lâu lắm. Ngày ấy sẽ là ngày toàn dân reo hò vui mừng, xóm làng hoan lạc.

Ngày ấy mẹ già sẽ không phải mỏi mắt ngóng trông con, người vợ trẻ ngưng rơi lệ nhớ thương chồng, đàn trẻ con chỉ biết cười đùa trong no ấm.

Ngày ấy không xa đâu em! Anh mong em trung thành với anh và chờ đợi ngày anh trở về với đoàn quân chiến thắng để tiếp tục duyên tình chồng vợ của chúng ta.

Chúng mình sẽ vai kề vai “ngao du sơn thủy” từ Bắc chí Nam, tận hưởng lạc thú… Lúc ấy ta không cần làm việc vẫn được cơm no áo ấm, ruộng không cấy cũng lên mạ, hạt không trồng cây trái vẫn đơm hoa kết quả… Ấy là cõi thiên đường đó em! Thiên đường hạ giới do bác Hồ và Đảng xây dựng và chúng ta sẽ sống tại đó. Một cõi thiên đường thật sự, chớ không mơ hồ hưảo như Jesus và Thích Ca tưởng tượng ra để mê hoặc nhân loại.

Vui mừng lên nghe em! Hôn em, hẹn trở lại sum họp với em một ngày gần đây.

Anh yêu em thật nhiều. Ký tên : Lê Thy

Thu Vân ngã ngồi trên ghế hồi nào không hay! Bức thư của chàng dài với bao nhiêu hàng chữ, nàng đọc tới đọc lui mấy lượt vẫn không nhớ chàng nói gì ngoài mấy chữ:”anh đi tạo dựng thiên đường”.

Nàng ngồi thừ một chỗ, thần xác đờ đẫn như người điên. Mãi một lúc lâu nước mắt mới chảy ra được. Nàng nấc lên mấy tiếng thật to, kêu gào:

- Anh ơi! Sao anh nỡ lòng bỏ em ra đi? Thiên đường của em là tình yêu, là hạnh phúc của chúng mình, nó ngự trị trong nhà này, trong phòng này… anh đâu cần phải đi đâu hay tranh đấu mới có được? Trời ơi, cõi thiên đường trước mắt mà anh không chịu sống hưởng, lại dấn thân phong trần tìm kiếm thiên đường nào đó của bác Hồ. Anh đi rồi đây sẽ cực khổ tấm thân, còn em ở lại nhà sẽ chết dần chết mòn vì thương nhớ anh. Chúa ơi! Xin Chúa hãy giúp chồng con hồi tâm trở về.

Nàng gục đầu trên thành ghế khóc thật thảm thiết, một lúc ngẩng mặt lên trời cao cầu cứu Thượng Đế…Thời gian không biết bao lâu nước mắt chừng nhưđã cạn, nàng đứng lên đi vào phòng tắm lau rửa, thay áo, chải lại mái tóc, trang điểm sơ sài, rồi xuống nhà dưới.

Gặp mẹđang ngồi xem báo nơi phòng khách, nàng ngồi đối diện với mẹ, trên môi gượng nở nụ cười, nhỏ nhẹ nói:

- Mẹ à, anh Thy có việc đi vắng nhà một thời gian. Anh có viết thư nhắn lại với con. Sáng này con không lưu ý nên… mới chạy tìm anh. Con…

Dù nàng mở miệng cười, đè nén không khóc, song lời nói đứt khoảng, âm thanh nghẹn ngào, sắc mặt bơ phờ. Bà Trần Văn nhìn sắc diện của con gái, bà biết con buồn đau lắm, song vì không hiểu cuộc diện trầm trọng, bà mỉm cười an ủi:

- Chồng con đã biên thư nói rõ lý do nó vắng nhà, vậy con đâu còn gì phải lo nữa? Con chớ nên buồn vì sự ra đi của nó. Đàn ông không ai muốn suốt ngày ở một bên vợ. Thỉnh thoảng con cũng nên để nó tự do gặp gỡ bạn bè vui chơi vài ngày.

- Dạ, mẹ nói phải.

- À, nó có nói đi bao lâu không?

- Anh không nói rõ trong thư.

- Nó có nói đi đâu và làm gì không?

- Dạ… dạ anh đi tìm việc làm.

- Chao ôi! Thằng lầm lì ít nói, hoá ra cũng biết lo! Bà nói câu ấy với vẻ mặt tươi cười rạng rỡ, bỗng chợt

nhớ ra thằng rể của bà chưa có nghề nghiệp, nên nhăn mặt hỏi: -Nó đi tìm việc làm ởđâu? Nghề gì? -Dạ anh không nói rõ. -Đi khơi khơi như vậy à? Thu Vân cố giữ không cho lệ chảy ra trước mặt mẹ, đứng

lên nói:

- Con xin phép mẹđi thăm mẹ anh Thy một lúc. Mẹ đừng chờ con ăn trưa. Có lẽ chiều con mới trở về.

- Phải lắm! Nên đi ra ngoài cho vui. Tới nhà mẹ chồng con, cho ta gửi lời chào thăm bà xuôi.

- Dạ! Con sẽ không quên.

Thu Vân thẫn thờ bước ra cửa, bên tai còn nghe tiếng cằn nhằn của mẹ:

- Thằng ấy chưa có nghề mà tìm được gì làm chứ? Đã vậy còn đi bất chợt như vậy không cho ai biết. Thật là…

Nàng không để tâm nghe mẹ nói tiếp, chân bước nhanh ra đường cái…

Con đường dài hun hút, với hai hàng cây cao chót vót. Giờấy không thấy khách bộ hành, cũng không có xe cộ qua lại, vắng cả tiếng chim kêu. Một khoảng đường vắng teo!

Hình như có mặt trời? Nắng rọi lưa thưa qua kẻ lá, nên không đủ sức đem hơi ấm, hay vì một thân bơ vơ con tim cô độc, mà nàng có cảm tưởng nhưđang đi trên con đường giữa mùa đông ở một vùng tuyết giá, hồn xác lạnh băng băng…

Một tháng hôn nhân, ái ân chưa thỏa, lời yêu đương chưa kịp nói, chàng ra đi là mất tất cả, nàng không còn gì nữa! Một cuộc tình ngắn ngủi! Một hạnh phúc ngắn ngủi. Tất cả đều tan biến mất đi… bỏ nàng lại với nỗi đau thương và một nửa hồn chết!

Nhưng nàng vẫn phải tiếp tục đi… đi nốt khoảng đường đời còn lại của mình, một khoảng đường mờ mịt âm u, thiếu hơi nắng ấm áp của ngày hè, thiếu tiếng chim véo von của ngày xuân… Đi… đi tới… đi mà không biết đến bao giờ mới gặp lại người tình yêu dấu?

giavui
01-10-2015, 08:05 PM
CHƯƠNG BA

KỶ VẬT CỦA CHỒNG

Thời gian dài dằn dặc trôi qua… Nàng sống dật dờ trong thương nhớ, đêm đêm lăn lộn trên gối chiếc, khát khao vòng tay ân ái của chồng, ngày ngày ngóng trông qua khung cửa sổ, chờđợi bóng dáng người tình hiện ra đầu ngõ…

Nhưng chàng ví như cánh chim vỗ cánh tung trời, bay đi biền biệt… Chim bay đến bao giờ mỏi cánh mới bay về tổ, còn chàng dấn bước phong trần, có biết quay về cùng vợ trẻ khi mỏi gối chồn chân hay chăng?

Nàng hỏi để chỉ nàng nghe, hỏi mà không tiếng hồi đáp! Thấm thoát đã hai tháng, Thu Vân vẫn không nhận được tin tức của Thy. Ông bà Trần Văn bắt đầu đặt nghi vấn về sự ra đi bí mật của chàng rể.

Mỗi lần cha mẹ gạn hỏi, Thu Vân đều nói:

-

Anh ấy đi tìm việc làm. Bao giờ có nghề nghiệp vững chắc mới báo tin cho con.

-

Anh ấy là người rất tự ái. Nếu chưa tạo được sự nghiệp, chắc không muốn thư từ cho vợ.

Thấy cha mẹ vẫn không tin lời mình nói, nàng mỉm cười trấn an:

Ông Trần Văn cũng nghĩ: «Vì tự ái Thy âm thầm ra đi tìm việc làm, không muốn sự giúp đỡ của ông». Là đàn ông, ông cảm thông điều đó nên càng tội nghiệp và thương quí chàng rể.

Thu Vân không chịu đựng cuộc sống «ăn không ngồi rổi» sáng chiều trông ngóng tin chồng, nên quyết định tìm việc làm, hoặc đi học tiếp. Song lúc bấy giờở tỉnh lỵ chưa có trường Đại học. Nếu muốn học tiếp nàng phải lên Saigon ở nội trú đại học xá. Điều này có lẽ cha mẹ nàng không đồng ý cho nàng đi xa, mà chính nàng cũng không muốn sống một mình trong hoàn cảnh cô đơn hiện tại.

Nàng hỏi ý cha. Ông Trần Văn cũng muốn con gái ra ngoài tiếp xúc với mọi người để quên sự ra đi của chồng, nên ông rất hoan hỉ tìm việc làm cho Thu Vân. Ông nói:

- Cha Giám Đốc cô nhi viện quen thân với Ba. Cha nói, cha muốn tìm người có chút học vấn để lo thủ tục hồ sơ tìm cha mẹ nuôi cho những trẻ mồ côi. Nếu con đồng ý, ta sẽ giới thiệu con với Cha. Tuy nhiên, đó là việc xã hội, nhà Dòng chỉ trả lương tượng trưng.

- Con chỉ cần có việc làm cho qua ngày giờ, tiền lương không là điều quan trọng. Huống chi, làm việc xã hội con thích lắm.

- Tốt!

**

Hôm ấy là ngày ông Trần Văn hẹn với Cha Giám Đốc cô nhi viện giới thiệu con gái. Thu Vân phải thức dậy sớm để theo cha.

Đồng hồ báo thức vừa reo lên, Thu Vân bật ngồi dậy, vụt ngã trở xuống vì đầu óc choáng váng xây xẩm. Nàng nằm trên giường mà có cảm tưởng nằm trên cái chong chóng, gian phòng quay vù vù. Kinh hãi, nàng nhắm mắt lại, song toàn thân như bị quay theo cái giường. Sự khó chịu mỗi lúc một tăng, rồi từ dạ dày cuồn cuộn trào lên… Thu Vân cố gắng ngồi dậy định chạy vào phòng tắm, nhưng nàng chưa kịp nhấc bước sụm ngay chân giường ụa mửa vang dội.

Bà Trần nghe tiếng «ụa mửa» vội vàng từ nhà dưới chạy lên, thấy con gái ngồi phệt dưới nền nhà ôm bụng nôn mửa, sắc mặt tái mét, bà dìu con gái nằm lên giường, nói:

- Để mẹ bảo con Ngà đi mời bác sĩ Hoàng.

Thu Vân khoác tay nói:

- Không! Mẹ không cần mời bác sĩ. Con không có bệnh gì đâu! Chẳng qua cả tháng nay con ngủ ít, người bần thần mệt mỏi, trong bụng mới khó chịu như vậy. Để con uống một viên thuốc an thần, ngủ một giấc là không có việc gì nữa.

Nàng nói xong lại ôm bụng ụa một hơi dài. Bà Trần không nghĩ như con gái. Triệu chứng nôn mửa của con khiến bà nghi ngờđiều gì đó, tuy bà không nói ra. Bà đi xuống lầu, thì thầm với chồng vài câu, rồi gọi Ngà, người tớ gái, bảo đi mời bác sĩ trong xóm.

Một lúc sau Ngà trở lại với người đàn ông khoảng trên 30 tuổi, gương mặt khả ái, trên tay có xách một vali nhỏ.

Ông bà Trần đón khách hết sức niềm nở. Vị khách này đối với ông bà Trần cũng quen biết thân tình, chính là bác sĩ Võ Hoàng, có phòng mạch cách biệt thự họ Trần vài trăm thước. Cha mẹ của bác sĩ Võ Hoàng là bạn hàng xóm thân thiết với ông bà Trần.

Thuở nhỏ Bác sĩ Hoàng được gửi lên Saigon học trường Trung Học của người Pháp. Rồi sau đó sang Paris học y khoa. Sau khi trở thành bác sĩ Hoàng về nước được giữ ngay chức Phó Giám Đốc bệnh viện Mỹ Tho và có thêm phòng mạch tư ở ngay biệt thự của cha mẹ. Vì toà nhà này rộng lớn, có ba tầng, cha mẹ chàng dành trọn tầng dưới cho Hoàng làm phòng mạch chăm sóc bệnh nhân trong xóm, ngoài giờ làm việc ở bệnh viện.

Hoàng chưa lập gia đình, cũng là một trong số chàng trai si tình Thu Vân, đã từng cầu hôn nàng và dĩ nhiên đã bị nàng từ chối. Dù vậy Hoàng vẫn chưa quên Thu Vân. Mấy tháng qua chàng lưu ý biết được Thy không còn sống chung với Thu Vân nơi biệt thự.

Ngày nào chàng cũng thấy Thu Vân đi lang thang trên con đường trước nhà. Từ cửa sổ phòng mạch của chàng nhìn ra, chàng thấy rõ gương mặt đẹp của Thu Vân bơ phờ, thiếu thần sắc. Nàng đi tới đi lui trên con đường vắng như kẻ mất hồn mất trí.

Bằng vào sự kiện đó, Hoàng đoán giữa Thu Vân và Thy có xảy ra điều gì trầm trọng. Và một điều Hoàng biết chắc là Thu Vân đang buồn khổ lắm.

Khi Ngà, người tớ gái tới mời Hoàng đến biệt thự họ Trần xem bệnh cho cô chủ, Hoàng lập tức đi theo cô ta với vali nghề nghiệp.

Sau lời chào hỏi xã giao, Hoàng theo chân ông bà Trần Văn lên tầng lầu trên. Thu Vân đã dứt cơn nôn mửa, song vẫn còn chóng mặt nên nằm nhắm mắt trên giường. Nghe tiếng chân nhiều người vào phòng nàng mở mắt ra, thấy cha mẹ và bác sĩ Hoàng. Nàng hổ thẹn ngồi dậy, cho tay vuốt lại mái tóc. Hoàng bước tới đỡ nàng nằm xuống, nói:

- Madame cứ nằm yên, không cần phải ngồi dậy đâu.

Chàng hỏi thăm những triệu chứng xảy ra, hỏi đường kinh nguyệt… Thu Vân nói:

- Tôi vắng kinh nguyệt hai lần rồi. Có lẽ vì tôi ngủ ít, thiếu máu mới chóng mặt và buồn nôn phải không bác sĩ?

Hoàng không đáp, chẩn mạch cho nàng xong mỉm cười:

- Madame có tin mừng, chớ không phải đau bệnh. Chóng mặt hay nôn mửa là triệu chứng tự nhiên của các bà mẹ tương lai.

Nghe bác sĩ bảo mình sắp có con, Thu Vân hết sức vui mừng, đồng thời cũng xót xa hoàn cảnh mình không có chồng một bên, nên miệng cười hớn hỡ mà nước mắt ứa ra.

Một đứa con trong lúc này là nguồn an ủi vô biên, gíúp nàng vui sống và can đảm chờ đợi ngày chồng trở lại. Đứa con ra đời trong lúc này đúng là điều mong ước của nàng. Nàng muốn được bảo đảm nên gặn hỏi bác sĩ:

- Bác sĩ tin chắc là tôi đã mang thai?

- Tôi không lầm đâu!

Hoàng bỗng muốn biết Thy hiện ởđâu, nên vờ nói:

-

Madame có thể báo tin mừng này với ông Thy. Tôi tin chắc ông sẽ làm tiệc mừng mời hàng xóm đấy. ThuVân biến sắc sau câu nói của bác sĩ Hoàng, nhưng trấn tĩnh ngay, giả vờ hỏi chuyện thuốc men. Hoàng đáp:

-

Madame cứăn uống bình thường, không cần thuốc bổ. Tôi sẽ cho Madame thuốc trị chứng nôn mửa. Trường hợp bao tử khó chịu buồn nôn thì uống một viên trước bữa ăn. Dù sao Madame cần phải đến bác sĩ sản khoa thường xuyên để theo dõi thai nhi. Bác sĩ Tú ở ngay trung tâm tỉnh lỵ, chắc Madame biết ?

- Dạ, tôi có nghe tên.

- Để tôi viết thơ giới thiệu Madame với bác sĩ Tú.

Hoàng mở vali hành nghề lấy ra hộp thuốc trị nôn mửa cho Thu Vân, rồi lấy giấy viết mấy lời giới thiệu Thu Vân với bác sĩ sản khoa.

Ông bà Trần Văn từ khi đưa bác sĩ Hoàng vào khám bệnh cho Thu Vân, cả hai lặng im không nói tiếng nào. Nghe tin con gái sắp có con, ông bà vẫn chẳng tỏ ra vui mừng vì sắp có cháu, mà trái lại sắc mặt lộ vẻưu tư sầu muộn. Hoàng lưu ý ngay nên không dám lên tiếng hỏi thăm về Thy. Chàng từ giã mọi người ra về.

Ông Trần Văn đưa Hoàng ra tận ngõ. Lúc ông trở lại phòng Thu Vân, thấy vợ ngồi trên ghế cạnh giường, cầm khăn tay thắm nước mắt ; còn con gái thì đôi mắt đỏ hoe. Ông không hỏi tại sao hai mẹ con khóc, mà lại hỏi:

- Thy đi luôn rồi phải không?

Thu Vân không dám nhìn cha, cúi mặt đáp nhỏ:

- Anh nói, anh sẽ trở về một ngày gần đây.

- Dù nó đi đâu cũng phải thư từ cho gia đình chứ? Ngoại trừ nó theo Cộng Sản mới bí mật trốn đi rồi bặt tin luôn.

Câu nói của cha càng làm Thu Vân sợ hãi. Ông Trần Văn gằn giọng hỏi con gái với vẻ giận dữ:

- Con nói dối với ba phải không? Nó theo Cộng Sản phải không?

Thu Vân vốn là con độc nhất, được cha mẹ cưng chìu từ nhỏ, nay là lần đầu thấy cha giận dữ, nàng vừa sợ vừa tủi thân, nước mắt tuôn ra, nói giọng nghẹn ngào:

- Xin ba tha lỗi cho con đã giấu sự thật. Anh Thy nói trong thư, lý do anh ra đi là để tranh đấu cho công bằng xã hội, tạo dựng thiên đường cho quê hương. Anh… anh vì lý tưởng mà đi theo họ, chớ anh không là Cộng Sản.

Nghe con gái nói mấy lời, ông Trần Văn bật cười to. Có điều giọng cười nghe chua chát đau thương chớ không vì vui thích, nên âm thanh như xóay và tai người nghe.

- Con rể tôi đi tạo dựng thiên đường cho quê hương. Cao quí thay! Ha ha ha…

Ông lại tiếp tục cười. Giọng cười mỗi lúc một quái dị, tưởng chừng như tiếng tru tiếng khóc.

Bà Trần bực mình quát lên:

- Im ông đi! Ông cười chỉ làm tôi tức giận thêm thôi. Lúc trước tôi không đồng ý cho hai đưá nó lấy nhau, vì tôi nghĩ chúng còn quá trẻ, chưa suy nghĩ chính chắn để quyết định hôn nhân. Nhưng ông cứ muốn cho hai đưá nó làm đám cưới ngay. Ông nói, tôi gả con gái cho một chàng trai của một gia đình nghèo, thân phận thấp hèn, không địa vị, không nghề nghiệp. Như thế nó sẽ cảm kích tấm lòng cao thượng của ông mà yêu thương quí trọng con gái ông.

Thật vậy! Chính ông đã nói mấy lời đó với vợ và thương lượng với bà Lê Thân làm lễ cưới cho Thy và Thu Vân một cách hối hả.

Bà Lê Thân khi biết con trai mình yêu con gái nhà giàu, bà ngăn cấm dữ lắm. Nếu không phải ông Trần Văn lên tiếng trước, không bao giờ bà dám nêu vấn đề hôn nhân cho con trai với con gái ông Trần Văn.

Một lẽ dễ hiểu. Khi xưa chồng bà làm cai trường, đối với Hiệu Trưởng trường học thì không khác gì giữa chủ và gia nhân. Hơn nữa, khi ông Lê Thân chết, ông Trần Văn giúp đỡ gia đình bà mọi mặt, bà mang ân nhiều, nên không bao giờ cho phép con trai nuôi vọng tưởng yêu con gái ông chủ.

Có thể nói lễ cưới xảy ra đều là do ý muốn của ông Trần Văn, ngay cả Thy và Thu Vân cũng không tin cả hai được kết hôn với nhau.

Rõ ràng lỗi này là lỗi của ông. Ngày nay con gái ông khổ là do ông gây ra. Ông ân hận ngồi phệt xuống ghế, sắc mặt thật thảm đạm.

Bà Trần vẫn chưa nguôi tức giận, hậm hực nói tiếp:

- Ông thích khắp thiên hạ ca ngợi ông là người không coi trọng phú quí. Bây giờ ông đã thấy rõ cái tánh gàn bướng của ông rồi chứ?

Thu Vân thấy mẹ cứ mãi bắt tội cha, nàng tuột xuống giường, sụm bên chân mẹ nghẹn ngào nói:

- Xin mẹ đừng trách cha nữa! Con yêu anh Thy là con đã chọn cái khổ cho mình. Giờđây con sắp có con, đứa bé sắp ra đời sẽ là nguồn vui cho con. Anh Thy con kể nhưđã chết.

- Trời cao đố kỵ khách má hồng nên để con gái tôi số phận quá bạc!

Hết trách chồng, bà trách trời! Ông Trần Văn biết lỗi của mình nên vỗ về vợ:

- Thôi bà đừng ưu phiền nữa! Mọi sự đều là lỗi bởi tôi. Bây giờ việc quan trọng là làm sao giải quyết tình trạng thằng Thy.

- Giải quyết thế nào?

- Mình có thằng rể theo Cộng Sản nếu chính quyền biết được sẽ rất phiền phức, không những suốt đời Thu Vân bị công an theo dõi, mà ngay chính tôi cũng bị mất chức vụ.

- Vậy phải làm sao hỡ ông?

Nghe chồng nói, bà Trần hoảng sợ hết dám cằn nhằn chồng, hỏi giọng lo âu. Thu Vân cũng một tâm trạng như mẹ, chờ nghe cha cho biết ý.

Ông Trần Văn suy nghĩ một lúc rồi chẫm rãi nói:

- Cần giấu mọi người việc Thy đi theo Cộng Sản và chúng ta lập tức tung tin: “hai tháng nay Thy lên Saigon để lo thủ tục xuất ngoại du học. Hiện giờ nó đang ở Thụy Sĩ.”

- Mình dối gạc bà con hàng xóm thì dễ, chớ đối với các cơ quan nhà nước quận làng thì phải làm sao?

- Thì mình cứ khai ở quận làng nó đã xuất ngoại. Thu Vân xen vào:

- Nhỡ cảnh sát điều tra nơi Bộ Giáo Dục và sở xuất ngoại không thấy tên anh rời xứ thì sao?

- Việc này để ba lo. Ba có người quen hai nơi đó. Chắc họ sẽ giúp ba lo giấy tờ đầy đủ. Còn việc Thy lên máy bay rời xứ hay không ai mà biết được?

Rồi ông quay sang vợ, nói gần như ra lệnh:

- Bà xuống bếp bảo con Ngà rằng hai tháng nay chồng của cô chủ lên Saigon lo giấy tờđi du học ở Thụy Sĩ và đã rời Saigon hôm qua. Dặn nó bất cứ ai hỏi về Thy thì nói như vậy. Phần bà, từđây phải có bộ mặt vui tươi mừng rở, để thiên hạ không nghi ngờđiều gì.

Quay sang Thu Vân, ông hỏi:

- Mẹ chồng con có biết Thy theo Cộng Sản không?

- Con nghĩ, chắc bà không hay biết gì. Hôm anh Thy bỏ nhà đi, con báo mẹ chồng hay. Bà ngạc nhiên hỏi: “Nó đi đâu sao không cho mẹ biết? Sao con lại để nó đi như vậy?”. Vì con thấy mẹ anh ấy không biết gì nên nói rằng: “Anh Thy đi tìm việc làm”.

- Vậy bữa nay con nên về bên đó nói tất cả sự thật cho mẹ chồng nghe và dặn chịấy hễ ai hỏi về Thy thì phải nói là Thy đã rời Việt Nam, hiện du học ở Thụy Sĩ.

- Vâng, con sẽ y theo lời ba dạy.

- Còn cuộc hẹn với Cha Giám Đốc cô nhi viện nếu hôm nay con không khoẻ, ba sẽ hẹn lại ngày khác.

- Khi nãy uống thuốc của bác sĩ Hoàng cho, con đã khoẻ, con có thểđi theo Ba đến gặp Cha. Con muốn đi làm vài tháng, gần ngày sinh con sẽở nhà luôn để lo cho đứa nhỏ.

- Cũng được! Vậy con sữa soạn nhanh lên, ba xuống nhà dưới chờ con nhé.

Mọi việc đã giải quyết. Bà Trần Văn đã rút lui từ khi nãy.Ông Trần Văn hối hả xuống mấy bậc thang.

Thu Vân thẫn thờđi vào phòng tắm lau rửa mặt mũi và thay đổi xiêm y. Nàng trở vô tư phòng, ngồi trước bàn trang điểm, chợt thấy bóng sắc mình bơ phờ rũ rượi, lòng chán nản đứng lên.

**

Tin Thy được học bổng của chính phủđi du học ở Thụy Sĩ được loan đi mau lẹ. Người tớ gái chỉ việc kể với vài người, chẳng mấy chốc hàng xóm xa gần ai cũng hay tin.

Thời bấy giờ con đi du học ở các nước Âu Mỹ là điều hãnh diện cho gia đình. Cho nên mỗi khi chạm mặt bà con bạn bè hàng xóm, ông bà Trần Văn và Thu Vân đều nhận được lời chúc mừng.

Riêng bà Lê Thân, ai cũng cho rằng bà người may mắn nhất. Con trai cưới được người đẹp trong tỉnh, con nhà giàu, giờ lại còn được học bổng của chính phủ. Người ta nói đến bà, không khỏi ganh tị ghen ghét.

Bà Lê Thân là người hiền lành chất phác. Bà không biết nhiều việc ngoài đời. Cả ngày chỉ tảo tần mua bán nuôi con. Khi biết Thy yêu con gái nhà giàu vừa là chủ nhân, bà rầu rĩ lo âu. Mãi đến khi ông Trần Văn đến tìm bà bàn chuyện hôn nhân của Thy và Thu vân bà hết sức cảm kích và biết ơn. Rồi để tùy ông Trần Văn quyết định, nói sao bà cũng làm theo.

Lần trước Thu Vân về báo tin bà: “Thy bỏ nhà ra đi tìm việc làm”. Bà cũng tin như vậy. Lần này Thu Vân nói sự thật việc Thy theo Cộng Sản và nàng đã có thai. Bà nghe xong cũng không biết nói lời gì để an ủi con dâu.

Sự thật bà cũng không rõ Cộng Sản là gì, là ai? Bà nghe người ta nói Cộng Sản là những người sống ở trong rừng, chống đối chính phủ. Bà không hiểu lý do tại sao họ chống đối? Việc Thy bỏ vợ mới cưới đi theo họ, bà nghĩ, có lẽ vì Thy thích đồng quê rừng núi nên đi theo họ.

Bà thương hoàn cảnh bị bỏ rơi của con dâu, nhưng cũng không giận trách con trai. Chỉ Lê Thanh, em trai của Thy, khi nghe tin anh ruột đi theo Cộng Sản, Thanh tức giận lắm, nói:

- A, anh ấy đi theo Cộng Sản phá rối làng nước, con sẽ gia nhập quân đội quốc gia đối địch với ảnh. Thử xem ảnh còn phá rối được không?

Lê Thanh năm ấy đã 19 tuổi, đang học năm chót để thi tú tài. Thanh là đưá con rất có hiếu, rất thương mẹ. Ngoài giờ đến trường học Thanh về nhà phụ giúp mẹ việc mua bán, việc nhà, không đi chơi hay tụ họp bạn bè như Thy. Có lẽ nhờđó Thanh không bị Cộng sản dụ dỗ tuyên truyền.

**

Mọi việc được giải quyết êm thấm như ông Trần Văn dự liệu. Bà con hàng xóm ngay cả các cơ quan hành chánh quận làng và sở cảnh sát đều được khai báo Thy đã rời Việt Nam đi du học.

Thu Vân phụ việc văn phòng Cha Giám Đốc cô nhi viện ngày hai buổi, công việc khá bận rộn. Nhờ vậy nàng cũng phôi pha nỗi thương nhớ chồng.

Đến tháng thứ tám, Thu Vân nghỉđi làm và một tháng sau nàng sinh được một trai kháu khỉnh đặt tên là Lê Vân Long.

Từ khi có con, Thu Van bận bịu suốt ngày với con. Thằng bé dễ nuôi, lớn mau, đôi má bầu bỉnh, mắt to, mũi xinh đẹp. Nó giống cha như khuôn đúc. Có nó bên cạnh Thu Vân bớt lẽ loi, hết buồn khổ. Hạnh phúc làm mẹ tuy không giống với hạnh phúc một tháng trăng mật bên chồng độ nào, nhưng nó tuyệt dịu vô cùng.

Ôi, tình mẫu tử! Không gì đẹp bằng tình mẫu tử. Không hình ảnh nào súc tích bằng hình ảnh người mẹ ôm con trong lòng cho uống từng giọt sữa của mình.

Một món quà Thượng Đế ban cho loài người đẹp đẽ nhất, kỳ diệu nhất, thiêng liêng nhất, cao quí nhất, vĩnh cữu nhất – Đó là tình mẫu tử!

Bất cứ trường hợp nào, hoàn cảnh nào, người đàn bà khi sanh con cũng nặng tình với hài nhi. Chính tình yêu kỳ dịu đó đã giúp nhận loại trường tồn.

Hiện tại Thu Vân đã tìm được lẽ sống và nguồn hạnh phúc trong tình mẫu tử này.

giavui
01-10-2015, 08:05 PM
CHƯƠNG BỐN

NẠN NHÂN CỦA CHỒNG

Một đêm kia trời nóng bức oi ả, Thu Vân nằm trằn trọc trên giường một lúc lâu vẫn không ngủ được. Nàng phải chổi dậy mở hai cánh cửa sổ cho gió loảng vào bên trong.

Vân Long ngủ phòng bên cạnh bị nóng nực, không ngủ được cũng khóc ré lên. Từ khi Vân Long được năm tháng thì không còn bú đêm nên Thu Vân để con ngủở căn phòng nhỏ, ăn thông với phòng nàng.

Nghe tiếng con khóc nàng chạy đến giường con ru nho nhỏ và lấy quạt phe phẫy một lúc. Thằng bé được mẹ ru và quạt mát nên ngủ yên trở lại.

Trong phòng không để đèn, đêm ấy nhằm vào đêm không trăng, sao trên nền trời với chút ánh sáng yếu ớt không trông rõ mọi vật. Bỗng nhiên Thu Vân nghe như có hơi thở phát ra từ một nơi mà nàng nhìn thấy lờ mờ một con vật đen xì, đen hơn nền trời đêm.

Quá kinh hãi, nàng đứng chết trân một chỗ, mắt mở to nhìn con vật trước mắt, miệng há ra để kêu cứu, song sự kinh hoàng tột độ khiến lưỡi nàng như co rút lại, không phát ra được âm thanh.

Con vật di động về phía nàng… Thu Vân nghe rõ bước chân và hơi thở của người chớ không phải thú. Sự kinh sợđã giảm bớt, nàng nhảy thụt lùi hai bước, tầm tay đúng vào cái bật đèn trên vách. Ánh sáng tỏa ra khắp phòng…

Bấy giờ Thu Vân thấy rõ một người ăn mặc toàn đen, râu tóc lù xù, mặt mày dơ bẩn nhem nhuốc như người rừng. Nàng thét lên…

Người kia dường nhưđoán biết trước, hắn nhào tới bụm miệng nàng, nói thật khẽ:

- Anh đây mà! Em không nhận ra anh sao?

Thu Vân đã ngất, ngã đúng vào vòng tay người ấy. Người ấy ôm nàng đặt lên giường, Thu Vân lấy lại tri giác nhận ra chồng. Nàng ôm chặt chồng khóc sướt mướt. Thy hoảng kinh bụm miệng vợ nài nỉ:

- Em đừng khóc làm kinh động mọi người. Anh trở về thăm em nhưng không thể để ai hay biết.

Nghe chồng nói, Thu Vân không dám khóc ra tiếng, sụt sùi hỏi:

- Anh đi đâu mà hơn cả năm trời không về thăm em ? Hiện chúng mình đã có con. Con của anh giống anh như tạc vậy!

Thy hững hờ:

- Thế à?

- Từ hôm anh bỏ nhà ra đi, em thương nhớ anh ngày đêm khốn khổ âu sầu. Hai tháng sau em biết được em đã có thai. Ngày sinh con em có gặp khó khăn, nhưng cũng may mẹ con em bình an. Thằng bé dễ thương lắm đó anh. Nó giống anh…

Dường như Thy không để tâm nghe Thu Vân nói. Hơn một năm xa vợ, chàng khát tình hơn khát nghe lời thủ thỉ tâm sự. Chàng nhào lên giường trong lớp y phục lấm lem bùn đất. Loại y phục bằng vải thô đen của những cán binh Cộng Sản may vụng về như áo quần của nông dân khi làm việc đồng áng. Toàn thân Thy nồng nặc mùi hôi thúi của một người ăn ở chốn rừng sâu lâu ngày không tắm rửa, áo quần không giặt, mùi hôi xông lên, khó ngửi vô cùng.

Thu Vân gỡ vòng tay chồng, nhỏ nhẹ nói:

- Anh tới thăm con một chút rồi đi tắm cho mát. Em đi lấy áo quần cho anh thay đổi nhé?

Nàng bật ngồi dậy khi nói. Song bàn tay dơ bẩn của Thy như cái móc, đè nàng trở xuống. Một tay chàng giật phăng áo ngủ của nàng quăng ra, để lồ lột tấm thân nõn nà của người đàn bà vừa mới 20 tuổi, xuân xanh phơi phới như nụ hoa vừa nở.

Còn bức tượng vệ nữ nào đẹp bằng thân thể của người đàn bà một con, với thớ thịt làn da căng căng nhựa sống?

Dù không dám mở mắt nhìn chồng trong lúc này, Thu Vân cũng mường tượng được đôi mắt đỏ ngầu chứa đầy tình dục của chồng qua hơi thở hào hển. Chàng nhào lên mình vợ trong lớp y phục hôi thúi. Thu Vân vùng vẫy nài nỉ:

- Anh! Đừng! Đừng! Thăm con trước nghe anh. Khoan đã!

Nàng nói chi cũng mặc, Thy kẹp cứng thân thể vợ, một tay chống lên giường, một tay kéo quần chàng tụt xuống đến đì… Thu Vân ngốc đầu dậy thét lên, nhưng âm thanh chưa thoát ra, Thy vội trám miệng mình lên miệng vợ.

Sau khi thỏa mản dục tình, chàng nằm ngữa trên giường nhắm mắt ngáy pho pho, mặc cho vợ nằm một bên sụt sùi khóc.

Thái độ phủ phàng của chồng làm Thu Vân cảm thấy mình vừa bị hiếp dâm. Nàng nghe toàn thân ê ẩm sau cuộc ái ân, con tim đau nhói, lệ tủi hờn chảy ra mỗi lúc một nhiều.

Hơn một năm trời thương nhớ và chờ đợi ngày chồng trở về, chờ hưởng nụ hôn ngọt ngào trên đôi môi mềm, chờ được nghe những lời tình tự yêu dấu, chờ được nhìn thấy đôi mắt diễm tình âu yếm , chờ được say trong vòng tay ân ái tuyệt vời của người tình…

Tất cả những mơ ước ấy chỉ là ảo mộng! Một cuộc tái ngộ hết sức phủ phàng cay đắng, bằng một cuộc tình cưỡng bức!

Thần tượng của nàng còn đâu nữa? Người tình yêu dấu của nàng còn đâu nữa?

Chàng nằm một bên mà Thu Vân cảm nghe nhưđã mất tất cả, y như người đàn ông bên cạnh không phải là chồng nàng.

Chàng thay đổi từ hình hài đến nhân cách. Nét mặt đẹp trai với thân hình đều đặn thuở nào… giờ hốc hác vì thiếu ăn. Cử chỉ dịu dàng yêu yếm ngày xưa… nay trở nên thô bạo như người rừng rú.

Vì sao một người có thể thay đổi toàn diện như thế khi tiêm nhiễm chủ nghĩa Mác Lê?

Tại sao khi theo Cộng Sản thì phải bỏ tất cả bản chất thân ái của con người?

Chủ nghĩa nào, con người vẫn là con người, mà đã là con người tại sao không muốn giữ bản chất người?

Thu Vân ngồi dậy, mở mắt to ra để nhìn chồng cho kỹ… Gương mặt chàng thay đổi thật nhiều khi thức, nhưng lúc ngủ trở lại bản chất thuần lương, đôi má gầy, vầng trán rộng còn phảng phất nét thư sinh ngày nào…

Bỗng dưng Thu Vân nhận ra chồng bị người ta đầu độc. Mà thứ độc dược ấy là lời quỷ quyệt tuyên truyền. Chàng còn trẻ, có lý tưởng, tấm lòng yêu nước hăng say. Bọn cáo già Cộng Sản lợi dụng bầu nhiệt huyết hăng say đó để xúi dục chàng vào con đường đấu tranh, để làm tay sai cho chúng trong việc đánh cướp miền Nam.

Chàng vô tội! Trời ơi, chàng vô tội! Chàng là nạn nhân đáng thương đáng cứu vớt.

Ý nghĩấy khiến Thu Vân đau xé tâm can, cơn hờn giận vì bị chồng đối xử tệ nhi nãy như không còn nữa. Nàng nằm xuống giường, gục đầu trên vai chồng thổn thức từng cơn:

- Tội nghiệp chồng tôi! Anh ơi, làm sao em có thể cứu anh ra khỏi vũng lầy kinh tởm đó? Chúa ơi! Xin Chúa hãy giúp chồng con tỉnh cơn mê muội lầm đường.

Thy bừng tỉnh giấc ngủ, chớ không phải bừng tỉnh cơn mê muội mà Thu Vân vừa cầu xin Chúa.

Thấy vợ gục đầu khóc trên vai mình, Thy không rõ nguồn cơn, nhưng không hỏi. Chàng nhẹ đỡ nàng nằm lên gối, rồi ngốc đầu dậy nhìn đồng hồ treo trên vách…

Chàng vùng dậy như cái lò xo, kêu khẽ:

- Đã 4 giờ sáng rồi, anh phải đi!

Chàng kêu nhỏ, Thu Vân vừa nghe lọt vào tai, hốt hoảng nhào tới ôm níu chàng, nói trong nước mắt ràn rụa:

- Không! Anh không đi đâu nữa! Anh ở nhà với vợ con. Em van anh, đừng theo họ nữa! Họđã phá hoại hạnh phúc của chúng mình, đã hủy diệt tương lai của anh. Anh ơi, hãy vì em, vì con, anh ở lại với gia đình mình nghe anh?

Thy vuột khỏi tay vợ, đứng lên buộc vội giây quần. Thu Vân nằm úp xuống giường nấc từng tiếng khóc to. Thy sợ kinh động người trong nhà, nhỏ giọng nài nỉ:

- Đừng khóc nữa em! Anh yêu em, anh nhớ em, mới trở về thăm em, em không thấy sao?

Chàng ngồi xuống giường, lấy áo mặc lại cho vợ, ngọt ngào nói:

- Bữa nay anh phải đi, nhưng mai anh sẽ trở lại thăm em và con.

- Mai anh trở lại và không bỏđi nữa.

- Phải! Anh sẽ trở lại sống bên cạnh em mãi mãi.

Thu Vân không tin mấy về lời hứa hẹn của chồng, gặng hỏi:

- Anh không dối gạc em chớ?

- Nếu anh không thực hiện đúng lời hứa, em được bạt tai anh trăm cái, nhéo ngàn cái, chịu chưa?

Nghe chàng đùa âu yếm, Thu Vân đã vững lòng tin, tuột xuống giường nắm tay chồng kéo đi, nói:

- Anh tới thăm con một chút nhé? Thy nhìn đồng hồ, lắc đầu:

- Trễ lắm rồi! Anh phải đi ngay. Tối mai anh sẽ trở lại thăm con.

- Không! Tối mai anh sẽ về nhà ở lại luôn, anh đã hứa khi nãy.

- Phải! Tối mai anh sẽ về sống bên cạnh em suốt đời. Chàng bước nhanh về phía cửa sổ, quay mặt hỏi:

-

Nó là trai hay gái? Em đặt tên gì?

-

Nó là trai, tên Lê Vân Long. Chàng cười nhỏ, khen:

- Em đặt tên con nghe đẹp lắm!

Chàng vừa nói vừa hôn lên má vợ rồi phóng qua cửa sổ, mặc dù nhà có cầu thang.

Thu Vân đứng bất động nhìn theo chàng với nỗi buồn tiếc rẻ, y như cuộc hội ngộ cùng chồng vừa qua là một giấc mộng ngắn ngủi.

Mộng đã tàn rồi! Trước mắt nàng còn lại màn trời…

Đó đây vắng lặng, không còn thấy gì nữa! Người tình nàng đã biến mất trong sương.

**

Trời đã khuya lắm rồi, phố phường đã ngủ yên. Ngoài vườn sương rơi lất phất…

Từ lầu cao của tòa biệt thự trắng phủ hơi sương có một người đàn bà đứng tựa lưng bên khung cửa sổ, đôi mắt nhìn qua cõi không gian tịch mịch…

Đêm nay không rõ là đêm thứ mấy, nàng đứng đó chờđợi người tình hiện ra nhưđêm nào…

Nhưng chàng là cánh chim. Một lần chim bay về tổ, rồi bay đi biền biệt… Lời hẹn hò: «anh sẽ trở lại đêm mai» còn để lại dư âm.

Để rồi từng đêm, từng đêm… nàng thao thức không ngủ, làm tượng đá ngóng trông chồng đến mỏi mắt mòn hơi!

Ba tháng trôi qua là chín mươi lần hy vọng và tuyệt vọng, Thu Vân sống dật dờ không ngủ quên ăn, ban ngày mong cho thời gian chóng qua, ban đêm muốn thời khắc dừng lại.

Nhưng thời gian vốn vô tình, hễ người mong chậm thì nó trôi đi thật nhanh!

Và đêm nay ThuVân thấy mình vừa đứng đó, trời đã bắt đầu sáng. Vầng thái dương lấp ló dưới chân trời. Đêm đã tàn hẳn rồi!

Thêm một lần tuyệt vọng!

Nàng uể oải quay gót trở lại giường ngủ, bỗng đầu óc quay cuồng như chong chóng, tay nàng vừa vịn thành giường đầu đã ngã chúi xuống, đồng thời cơn khó chịu trong người nàng cũng dâng lên, trái tim đập một cách bất thường.

Triệu chứng này nàng nhớ giống như triệu chứng hai tháng sau ngày Thy bỏ nhà ra đi. Trời ơi, có lẽ nào một lần như thế nàng đã mang thai hay sao?

Kinh tâm động khách, nàng ngồi bật dậy, toàn thân run rẩy. Nàng cố gắng đứng lên đi tới bàn trang điểm tìm sổ tay ghi ngày kinh nguyệt.

Ba tháng qua nàng không ghi chép một dấu hiệu nào, ngày đêm thấp thỏm trông chờ chồng, dù nàng có chết nửa thân xác cũng không hay biết, huống hồ thiếu mất ba lần kinh nguyệt?

Nàng ngồi đờ trên ghế soi gương… Bỗng thấy trước mắt hiện ra hình bóng một người đàn bà hốc hác xanh xao, đang ở vào thời kỳ thai nghén. Không còn nghi ngờ gì nữa! Người đàn bà ấy đã có thai! Nàng lại sắp có con!

Trên thế gian này chưa có người đàn bà nào có chồng, khi biết mình sắp có con lại hoảng sợ đến như thế!

Phải nói nàng có lý do để sợ hãi: Thy bỏ nhà ra đi đã hơn năm. Gia đình nàng đã phao tin Thy đi du học ở ngoại quốc. Các cơ quan, quận, làng, cảnh sát… đâu đâu cũng được sự khai báo của Thu Vân về sự vắng mặt của Thy. Cái đêm Thy lẽn trở về thăm vợ rồi cưỡng bức ái ân không ai hay biết, ngay cả cha mẹ nàng cũng không rõ tí gì.

Giờ nàng có thai thì phải giải thích làm sao với mọi người? Nàng không thể xác nhận nó là con của chồng, thì phải nói nó là con hoang, cha vô danh.

Trong xã hội này người ta không chấp nhận một ngưòi đàn bà không chồng mà có thai, người ta không chấp nhận những đứa con hoang! Người ta buộc người vợ phải trung thành với chồng, dù chồng có bỏ nhà ra đi hay có chết chăng nữa, vợ cũng không thể giao tình với người đàn ông khác.

Nàng đã trung thành với chồng, nhưng trường hợp này phải chịu tiếng oan là «người đàn bà hư đốn phản bội». Trên thế gian này có ai gặp cảnh bẽ bàng oan ức như nàng không?

Rồi đây làm sao nàng có thể sống trong xã hội này? Làm sao nàng có thể ngẩng mặt nhìn đời?

- Trời ơi! Thy ơi! Sao anh nở nào đối xử phụ phàng với em như thế? Anh trở về nào phải vì thương nhớ em? Anh đã không tròn bổn phận làm chồng, không ngó ngàng đến bổn phận làm cha, lại còn gây điều khổ nhục cho vợ! Vì sao anh có thể tàn nhẫn với em như thế?

Nàng kêu thảm thiết trong lòng, tiếng kêu không thoát ra môi miệng, xoay cuồng đè ép con tim, làm tim nàng ngưng đập, các luồng máu như ngưng chảy, toàn thân cứng đờ.

Trong giây phút trầm trọng ấy, tâm trí Thu Vân còn chút tỉnh táo, nàng nghĩ: «Có lẽ Thy có công tác trong vùng, đêm đó chàng lẽn về tìm vợ để thoả mãn dục tình». Ý nghĩấy làm nỗi uất hận trong lòng nàng bừng bừng trào lên, nàng thét to:

- Lê Thy là tên Cộng Sản hèn nhát, một thằng chồng tồi bại! Hắn đã hiếp dâm vợ hắn! Hắn đã hãm hại đời vợ con hắn!

Cũng may cửa phòng đóng kín, tiếng thét của nàng không ai nghe, nhờđó nỗi uất hận cũng vơi đi, cơn khó chịu nơi tim đã dịu xuống và cuối cùng nước mắt chảy ra được. Nàng gục đầu trên thành ghế khóc thật hả hê.

Một lúc sau nước mắt đã cạn, nàng uể oải đứng lên đi qua phòng tắm lau rửa, trong đầu miên man suy tính: «Chờ đến sáng nàng sẽ lập tức xin gặp bác sĩ Tú, nhờ ông trục xuất bào thai ra. Nàng tin ông sẽ giúp nàng giải quyết việc này. Nàng quyết giấu cha mẹ, vì cha mẹ nàng theo Thiên Chúa giáo, chắc chắn sẽ ngăn cản nàng việc giết bỏ thai nhi».

Đang khi nàng còn trong phòng tắm nghĩ ngợi, thình lình từ phòng bên tiếng khóc của Vân Long ré lên. Thu Vân bàng hoàng như người vừa tỉnh mộng, chạy nhanh vào phòng con, ôm con vào lòng.

Được nằm trong tay mẹ, Vân Long nín khóc, mở to đôi mắt lộ vẻ vui thích.

Gương mặt nó là hình ảnh của chồng. Nàng đã si tình Thy từ thuở học trò, với tuổi đam mê. Nàng kết hôn với Thy, nhưng hạnh phúc bên nhau quá ngắn ngủi, chưa kịp hưởng, Thy đã bỏđi. Hơn một năm thương nhớ, ba tháng đợi chờ…càng làm cho mối tình si sâu đậm hơn thêm, thì trong một phút oán hận chàng cũng không làm cho nàng hết yêu chồng trong khoảnh khắc.

Bàn tay xinh xinh nho nhỏ của Vân Long ngờ quạng mâm mê bầu sửa mẹ, cái miệng lép chép bập bẹ thứ ngôn ngữ của trẻ thơ, đôi mắt mở to chờ được mẹ cho ăn…

Bao nhiêu thứđó làm rung động tim nàng, làm nàng sung sướng chất ngất trong tình yêu huyền dịu này.

Thu Vân hôn con từng chập. Hạnh phúc tràn ngập vào hồn nàng. Hạnh phúc đang nằm trong vòng tay nàng. Hạnh phúc này vĩnh viễn không bao giờ mất.

Dù oán hận chồng bao nhiêu, dù Thy bạc bẽo với nàng bao nhiêu, đưá bé này vẫn là kỷ vật quí báu Thy để lại cho nàng. Nàng yêu con hơn hết trên đời.

Bỗng dưng toàn thân nàng toát mồ hôi lạnh, khi nhớ lại bào thai trong bụng cũng là giọt máu của Thy. Nàng đã thương yêu Vân Long vô tận thì sao muốn hủy diệt đứa con thứ hai? Có người mẹ nào lại tàn nhẫn giết con ngay khi nó được Thượng Đế cho cuộc sống?

Nhớ lại dự tính giết con khi nãy, Thu Vân run lên vì hối hận! Không! Bằng bất cứ giá nào nàng cũng không thể giết con.

Nàng phải can đảm chấp nhận làm mẹ, dù bị người đời sĩ nhục và ruồng bỏ.

Nàng đã quyết định như thế!

giavui
01-10-2015, 08:06 PM
CHƯƠNG NĂM

NẠN NHÂN CỦA XÃ HỘI

Quả thật Thu Vân đã có thai do kết quả của đêm tái ngộ đầy bẽ bàng với chồng. Người được nàng báo tin trước tiên dĩ nhiên là bà Trần.

Nàng thuật cho mẹ biết mọi sự tình. Bà Trần nghe xong ngồi lặng người, không nói được một lời an ủi hay khuyên nhủ con gái.

Thu Vân không can đảm nói chuyện của mình với cha, song đương nhiên mẹ nàng biết, tất cha nàng cũng phải biết.

Chiều đó trong giờăn cả ba ngồi trầm lặng nơi bàn, không ai nói chuyện với ai, không khí ngột ngạt khó chịu.

Mẹ nàng ăn rất ít, ngồi thở vào thở ra… Cha nàng tâm trí như nghĩ ngợi đâu đâu…

Chẳng thà bị cha mẹ la rầy, Thu Vân dễ chịu hơn là ngồi chờ đợi một cuộc định tội, y như một tội nhân ngồi trước tòa án chờ quan tòa tuyên án, hồi họp lo sợ biết ngần nào?

Không để kéo dài lâu hơn, Thu Vân lên tiếng:

- Xin ba mẹ tha lỗi cho con. Con yêu một người chồng không ra gì, để phiền lụy ba mẹ. Con ân hận… con…

Nàng nghẹn lời không nói tiếp được nữa. Ông Trần Văn ngước mặt nhìn con gái với ánh mắt thật hiền từ, ông nói:

- Con nào có lỗi gì với cha mẹ? Con bị một thằng chồng Cộng Sản làm khổ, ấy là do lỗi của ta đã đưa con cho nó. Ta chỉ buồn là tướng con không phải là tướng khổ, mà vẫn không thóat khỏi định mệnh “Hồng nhan bạc phận”.

Thật thế! Cái đẹp củaThu Vân là cái đẹp tinh khiết, để người nhìn thấy chiêm ngưỡng. Đôi mắt dịu hiền, chiếc miệng lúc nào tươi nhưđang mỉm cười. Nhìn nàng, không ai biết nàng đang ưu tư sầu khổ, ngay cả lúc lệ vương khoé mắt.

Thu Vân nghe mấy lời cha nói, lòng càng thêm chua xót cho đời mình, lệ như sắp chảy ra. Nàng cố gắng ngăn dòng cảm xúc, ngước mặt nhìn lên vách… Bất thần mắt nàng chạm với đôi mắt của người trong ảnh, chính là thánh mẫu Marie. Đôi mắt ấy như muốn nhủ với nàng:

-

Con chớ từ bỏ trọng trách làm mẹ. Khi xưa ta chịu thai bởi đức Thánh Linh đã bị người đời sĩ nhục và ruồng bỏ. Nhưng ta vì con ta mà chịu nhận tất cả. Vậy con haỹ can đảm nhận đứa con trong bụng dù bị xã hội này chống đối cười chê. Loài người là của Thượng Đế, con của con cũng là của Thượng Đế, con không có quyền giết nó. Thu Vân tưởng chừng như lời khuyên cũng là cảnh cáo của Đức mẹ vang bên tai mình, nàng cảm nghe sợ hãi toàn thân lạnh ngắt, run giọng nói:

-

Con sẽ giữ đứa con của con và thương yêu nó đến giờ phút cuối cùng của đời mình.

Nghe nàng nói, cha nàng gật đầu tán thành:

- Ba cũng mong con giữ lời nguyền đó. Hãy can đảm đón những phũ phàng sắp tới. Đấy cũng là một thử thách lớn lao của Thượng Đếđối với con về tình mẫu tử.

Bà Trần Văn chợt thở dài:

- Tội nghiệp cho đứa bé sắp ra đời, có cha mà bị xem như là con hoang.

- Cha nó đã chọn chủ nghĩa “tam vô” 1 thì hài nhi trong bụng vợ nó chỉ xem như sinh vật. Thiết tưởng cha nó đâu tha thiết với con mình?

Nghe lời chua chát của chồng, bà Trần Văn càng rầu rĩ. Bỗng nhiên sắc mặt bà thay đổi một cách đột ngột, từ vẻ âu sầu biến thành giận dữ:

- Chẳng thà con chịu nhục, làm ngưòi đàn bà có chữa hoang, còn hơn thừa nhận với mọi người “Chồng con là Cộng Sản”. Bởi không những gia đình ta gặp rắc rối với cơ quan chính phủ, mà giòng họ ta nếu khi biết ta có thằng rể chối bỏ gia đình, tổ quốc, đạo lý để tôn thờ chủ nghĩa Mác Lê càng nhục nhã hơn.

Thu Vân thừa biết mẹ nàng có lý do oán thù cộng sản. Giòng họ bên ngoại nàng bị Cộng Sản giết chết hồi 1945 về tội trí thức và địa chủ.

Gìới lãnh đạo Cộng Sản rất sợ người có học, có trí óc biết suy luận, sẽ thấy rõ những gian xảo lừa bịp của họ, rồi sẽ chống lại họ. Cho nên họ chủ trương chính sách “ngu dân. Cố để cho dân ngu dốt để dễ bề cai trị, dễ dàng bóc lột. Vì dân không có học, không biết đòi hỏi quyền lợi, họ sẽ biến thành những người máy, những con thú, cho cấp lãnh đạo sai khiến.

Đáng thương mà cũng đáng trách những người có học, chỉ vì lý tưởng yêu nước mà bị Hồ chí Minh lường gạt, nhảy vào vòng tranh đấu, hy sinh cuộc đời cho tham vọng của lão.

Thy là một trong những người có học bị Hồ Chí Minh dụ dỗ theo lão để xây dựng thiên đường cho quê hương và còn biết bao từ ngữ đẹp đẽ họ Hồ dùng làm mồi câu những tấm lòng ái quốc.

Chính vì hiểu rõ hoàn cảnh đáng thương của Thy mà dù bị bỏ rơi Thu Vân vẫn chưa hết yêu chồng.

Nàng còn yêu chồng, tất chấp nhận những khổđau do chồng gây ra.

**

Theo lời khuyên của cha, Thu Vân đến gặp mẹ của Thy thuật lại mọi sự tình và từđó nàng không ra khỏi nhà, nhưng đến tháng thứ năm nàng phải đi khám thai nơi phòng mạch bác sĩ sản khoa.

Nơi phòng chờ đợi của bác sĩ Tú hôm ấy có rất nhiều thân chủ. Dĩ nhiên có người biết Thu Vân, có người chỉ nghe tên. Nhưng hầu hết những kẻ quen biết nàng, đều biết chồng nàng du học ở ngoại quốc từ lâu. Thấy nàng có bầu, những người đàn bà xầm xì với nhau, mà cố ý nói lớn cho nàng nghe:

- Lạ quá! Chẳng phải chồng bà ấy đi vắng sao?

- Phải! Ông ấy vắng nhà đã gần hai năm rồi.

- Vậy làm sao bà ta có bầu được?

- Đương nhiên là của thằng cha nào khác.

- Đàn bà không có giáo dục như vậy à? Chồng đi vắng lại mang bầu với người khác được à?

- Suỵt, người ta là con cái con nhà mô phạm, có giáo dục toàn vẹn đó nghe.

Mặc cho thiên hạ mỉa mai châm chọc, Thu Vân giả tuồng không nghe, mắt chăm chú đọc báo. Sự thật nàng không đọc được chữ nào, tai ù, đầu nhức, tim đau nhói… tưởng chừng mỗi câu nói của họ là những mũi kim chích vào tim, đâm vào óc, làm nàng đau nhức không chịu đựng được.

Nàng chỉ mong cô y tá gọi tới lượt mình, nhưng thời gian trôi thật chậm, mỗi phút chờđợi dài bằng một năm!

Trong khi đó những ngươi đàn bà tàn nhẫn kia chưa chịu buông tha nàng. Một bà chạy tới giật tờ báo trên tay nàng rồi hất hàm nói:

- Này, báo để người khác đọc với chứ? Vô giáo dục ở nhà thì được, tới chỗ công cộng phải biết điều lễ giáo chứ?

Bị sĩ nhục và hiếp đáp, Thu Vân cố nhẫn nhục chịu đựng, không dám phản đối một lời.

Tờ báo trên tay bị người lấy mất, nàng với tay lấy tờ tuần báo còn lại trên bàn nhỏ. Bất thần người đàn bà ngồi cạnh nàng, từ nãy giờ nằm ngã đầu trên ghế lim dim đôi mắt, tưởng chừng như ngủ, bỗng ngồi bất dậy giật tờ báo trên tay nàng, rồi cười lớn nói giọng châm biếm:

- Cái mặt đẹp quá, hãy để mọi người nhìn. Có gì xấu hổ sao mà phải lấy báo che mặt?

Trong phòng đợi có bảy tám bà xúm nhau cười rộ lên. Một bà mặt nhọn, người ốm yếu, cái bụng thật to, vùng khỏi ghế, nê cái bụng nặng trĩu tiến về phía nàng, đôi mắt bà ta trợn lên, cái miệng phồng ra, không khác gì con rắn sắp sửa táp người.

Thu Vân sợ hãi, cúi gầm mặt xuống. Nào ngờ mụ ta đưa hai tay nắm mớ tóc của nàng, kéo đầu nàng quật lên quật xuống, vừa cười vừa nói với mọi người:

- Quí chị em, hãy nhìn kỹ người đẹp tỉnh lỵ, chồng đi vắng đã vội vàng làm đĩ.

Bịđau, Thu Vân cố gỡ tóc khỏi tay mụ ta, nhưng mụ vẫn hung hăng không buông, cố nắm tóc nàng kéo lên quật xuống. Chẳng ngờ vì dùng quá sức, đôi chân ốm yếu không chịu đựng nổi cái bụng to, mụ bị mất thăng bằng ngã phịch xuống đất.

Mái tóc được giải thoát, Thu Vân chưa kịp định tĩnh tinh thần, bỗng nghe nhiều tiếng thét:

- Trời ơi, con đĩ này đã xô ngã chị Thông rồi!

Các người đàn bà trong phòng, người dọng cửa phòng bác sĩ kêu cứu, những người còn lại, kể thoi, người đập túi bụi lên đầu Thu Vân. Thu Vân không kịp kêu la đã bất tỉnh ngất đi.

Lúc tỉnh dậy thấy mình nằm trên giường trong phòng mạch của bác sĩ Tú. Còn ông ta ngồi trên ghế bên cạnh, nhìn nàng với đôi mắt hết sức thương hại.

Nàng ngồi bật dậy, ngơ ngác hỏi:

- Vì sao tôi nằm đây?

Bác sĩ Tú chưa kịp đáp, nàng vùng ngồi dậy nắm tay ông ta kêu thất thanh:

- Tôi bị sảy thai phải không bác sĩ?

Bác sĩ Tú lắc đầu đỡ nàng nằm trở xuống, nhỏ nhẹ nói:

- Madame chớ kinh tâm! Bào thai trong bụng rất khoẻ mạnh, không điều gì phải lo cả! Tôi chỉ lo Madame sẽ gặp phiền phức trong những ngày sắp tới thôi.

Câu nói của bác sĩ Tú giúp Thu Vân nhớ lại trận đòn chí tử khi nãy ngoài phòng đợi. Hai nàng nước mắt rưng rưng, nàng phân trần:

-

Tôi không làm gì các bà ấy, thế mà họ xúm nhau đánh tôi, vu tôi xô té bà Thông nào đó. Bác sĩ, ông không tin lời họ chứ?

-

Tôi làm sao tin lời họ được? Khi cô y tá mở cửa ra thấy các bà ấy đang hành hung Madame. Dĩ nhiên họ nói lý do: “Vì Madame xô té Madame Thông nên họ bênh vực”. Tôi hỏi: “Bởi cớ nào Madame làm té Madame Thông?”. Không ai trả lời được. Nhưng tôi cũng đoán biết nội vụ xảy ra.

Có thể nói Thu Vân mang thai làm Bác sĩ Tú ngạc nhiên hơn ai hết. Ông có dịp tiếp xúc nhiều lần với ông Trần Văn, biết ông là người đạo đức hiền lành. Năm trước ông chăm sóc cho Thu Vân đến ngày sinh Vân Long, ông biết rõ nàng tính tình đứng đắn nhu mì. Điểm ông quí trọng nhất là, nàng vốn con nhà quí phái, lại hoa khôi trong tỉnh mà không kiêu kỳ, không làm điệu nhưđàn bà con gái khác. Giọng nói nàng thanh tao nhỏ nhẹ, đôi mắt hiền như nai tơ, gương mặt đẹp của nàng thật khó thể tả bằng lời, một vẻ đẹp tinh khiết không vướng bụi trần. Có thể ví nàng là một bà tiên trong truyện cổ tích. Tóm lại nàng là người đàn bà để người chiêm ngưỡng kính trọng.

Bỗng dưng hôm nay nàng có thai. Khi nàng điện thoai xin giờ hẹn với bác sĩ nàng không nói rõ lý do. Lúc mới bước vào phòng đợi, cô y tá thấy nàng mang bầu, cô nói lại ông.Ông không khỏi ngạc nhiên, vì Lê Thy vắng nhà đã lâu, làm sao nàng có con, nếu không phải đã ngoại tình với đàn ông khác?

Nhưng ông không tin một người đàn bà đức hạnh như nàng có những phiêu lưu tình ái đến nỗi mang bầu.

Thói thường những người phiêu lưu tình ái với đàn ông khác nếu lỡ có con thì họ tìm cách giết hài nhi và rất xấu hổ về đứa con họ mang trong bụng.

Thái độ của Thu Vân khiến bác sĩ Tú quyết chắc con nàng là con của Thy. Ông mỉm cười hỏi:

- Monsieur Lê Thy trở về nhà bao giờ? Ông ấy sẽ lưu lại một thời gian chứ?

Câu hỏi của bác sĩ Tú làm Thu Vân biến sắc, tưởng ông ta biết Thy theo Cộng Sản, nàng sợ hãi chối quanh:

- Không đâu! Anh Thy du học ở Thụy Sĩ mà, anh đâu có về.

Câu đính chính và thái độ thất sắc kinh hoàng của Thu Vân khiến Bác sĩ Tú nhìn nàng trân trối. Thật tình ông không hiểu nổi tình cảnh của nàng!

Một người đàn bà nếu chồng đi vắng, lỡ có con với người khác, nghe hỏi như thế tất sẽ trả lời ỡm ờ rằng: “Chồng tôi có trở về”. Còn Thu Vân quyết phủ nhận sự trở về của chồng. Như vậy là thế nào? Nhất định có uẩn khúc gì đây!

Ông không muốn gạn hỏi cho ra lẽ, lặng im chờ nàng giải bày tâm sự. Nào ngờ nàng ngồi bật dậy, nói:

- Nếu bác sĩđã khám thai xong, mà tôi và thai nhi không có vấn đề gì, tôi có thể ra vềđược chứ?

- Đương nhiên Madame có thể an tâm ra về vì bào thai mạnh khoẻ bình thường. Tuy nhiên lần sau tái khám Madame không nên tới phòng mạch của tôi, tôi sẽđích thân đến nhà khám thai cho Madame để tránh phiền phức như lúc nãy.

Thu Vân cảm động lắm, nói:

- Cám ơn bác sĩ nhiều lắm. Tôi… thật không biết nói gì hơn.

Nàng mặc lại áo chỉnh tề và nói cám ơn lần nữa. Bác sĩ Tú bắt tay giã từ nàng, nói giọng thật chân tình:

- Ngoài tư cách của bác sĩ đối với thân chủ của mình, Madame có thể tín nhiệm tôi như người trong gia đình. Lúc nào cần tôi, xin đừng ngại.

- Xin đa tạ tấm lòng tốt của bác sĩ.

Để tránh phiền phức cho nàng, bác sĩ Tú bảo cô y tá đưa nàng ra đường, đón taxi cho nàng.

Chẳng mấy chốc taxi đến nơi. Thu Vân trả tiền cho người tài xếđi vào nhà với tâm thần ngớ ngẩn bàng hoàng như người vừa mới tỉnh dậy sau cơn ác mộng!

**

Bị người hành hung nơi phòng mạch bác sĩ Tú, Thu Vân giấu kín không cho cha mẹ biết. Thế nhưng ít hôm sau tin người đẹp tỉnh lỵ bị các bà hạ nhục tại phòng đợi của bác sĩ Tú được thiên hạ bàn tán xôn xao , sôi động hơn lúc trước họ bàn về hôn nhân của nàng với Lê Thy, thành ra cuối cùng ông bà Trần Văn cũng hay biết.

Tuy cả hai đã dự liệu trước là con gái mình sẽ bị làng xóm cười chê, nhưng không tưởng tượng thiên hạ tàn nhẫn đến mực độđó.

Bây giờởđâu cũng nghe người ta xầm xì về đưá nhỏ trong bụng của Thu Vân mà họ không đoán được:“ai là cha đưá bé?”

Cũng vì từ khi Thu Vân có chồng, rồi có con, thì ít ra khỏi nhà, cũng chẳng giao thiệp với bạn bè, nên tình nhân của nàng trở thành nhân vật bí mật. Mà những gì bí mật người ta càng tò mò muốn biết. Rồi có những người quá tò mò muốn biết đã không ngại bỏ thì giờ đứng rình trước ngõ nhà ông bà Trần Văn để xem có đàn ông lạ mặt nào ra vào nhà của ông không? Nhưng họđã hoài công vô ích!

Thế rồi họ đổi chiến lược, mua quà tặng cho Ngà, người tớ gái của ông bà Trần để cô ta cho biết những điều bí ẩn. Ngà thật thà nói:

- Chính tôi cũng không hiểu vì sao cô chủ mang bầu. Cả ngày cô bận bịu với con, chẳng thấy khách khưá bạn bè nào của cô đến nhà, ngoại trừ người cô họ và mẹ chồng. Năm trước khi cô chủ chưa sinh Vân Long, thỉnh thoảng có người em chồng là cậu Lê Thanh đến thăm. Từ khi cậu ấy đi học trường sĩ quan ởĐà-Lạt thì không có trở lại nữa.

Không điều tra được sự gì nơi nhà ông Trần Văn, thiên hạ xoay chiều, dọ dẫm nơi bà Lê Thân, mẹ chồng của Thu Vân.

Nhưng ai hỏi chi thì hỏi, nói chi thì nói, bà Lê Thân chỉ nghe chớ không có phản ứng gì! Người ta nói móc bà sắp có đưá cháu thứ hai, bà chỉ mỉm cười.

Không tìm ra nhân tình của người đẹp tỉnh ly, ngày qua ngày dư luận cũng lắng dịu.

Hôm ấy ông Trần Văn vào đến trường học, bỗng thấy học trò và thầy giáo xôn xao giữa sân. Ông bước xuống xe thì vị giáo sư phụ tá chạy ngay lại trình cho ông biết trên vách của mỗi lớp học đều có hình vẽ, hiện người cai trường đang lau rửa.

Ông TrầnVăn hỏi:

- Đứa nào vẽ? Vẽ cái gì?

- Có lẽ là tụi học trò sáng nay đến sớm vẽ bậy bạ.

- Chúng vẽ gì?

Vị giáo sư phụ tá không trả lời. Ông Trần Văn nhìn sắc mặt ông ta cũng đoán ra phần nào về hình vẽ. Ông đi một vòng các lớp. Một vài nơi người cai trường chưa kịp cạo rửa còn rành rành hình vẽ một người đàn bà có bụng thật to. Phiá dưới đề tên con gái ông và nơi bụng có “dấu hỏi”.

Ông đứng lặng người, một lúc đi thẳng vào văn phòng ngồi đờ trên ghế.

Học đường là nơi trang nghiêm. Ông làm hiệu trưởng từ 15 năm nay, được các giáo sư và học trò thương yêu kính nể. Nay vì việc Thu Vân có thai trong lúc Thy vắng mặt đã gây phản đối đến học đường.

Tình trạng này không thể kéo dài hơn. Hoặc giả ông phải từ chức, hoặc giả Thu Vân không thể lưu lại tỉnh này để cho người ta quên đi, hoặc giả ông phải đổi đi làm việc ở tỉnh khác.

Ông đổi đi nơi khác, nhà cửa bỏ không ai coi, vợ ông sống ở tỉnh lạ chắc sẽ buồn lắm. Bằng như để Thu Vân ra đi, thì sẽđi đâu? Con gái ông bị chồng bỏ rơi, lẽ nào ông là cha cũng muốn bỏ rơi con gái mình trong hoàn cảnh đáng thương này?

Suy nghĩ mãi không tìm ra lối thoát, ông rầu rỉ trọn buổi sáng không làm được việc gì. Đến gìờ về nhà ăn trưa, trên mặt ông vẫn còn nét ưu tư. Bà Trần nhìn chồng nhưđoán ra có điều trầm trọng xảy ra nên gạn hỏi ông, song vì có mặt Thu Vân nơi bàn ăn ông không muốn nói cho vợ biết.

Thu Vân quyết chắc việc cha không muốn nói có liên quan đến mình, nên lên tiếng:

- Thưa ba, dù ba không nói ra, con cũng đoán ba bị phiền phức ở trường vì con. Bấy lâu con quen chịu đựng những sĩ nhục của người đời, ba không còn gì phải ái ngại mà không dám nói cho mẹ và con biết việc gì đã xảy ra.

Nghe con gái nói, ông Trần Văn nhắm giấu cũng không được, nên đành thuật lại những gì xảy ra ở trường và cho biết ông muốn từ chức, hoặc xin đổi đi tỉnh khác.

Thu Vân nói với cha bằng giọng cương quyết:

- Không! Ba làm việc ởđây, nhà cửa ởđây, không nên đổi đi nơi khác. Chính con mới cần rời khổ chỗ này! Con muốn lên Saigon tìm việc làm. Ở ThủĐô người đông đảo, chẳng ai tò mò đời sống của ai, chắc chắn con sẽ không gặp cảnh khó chịu.

- Phải đó! Mẹ thấy con sống ở Saigon yên thân hơn tỉnh nhỏ. Chỉ một điều, con trai con còn quá nhỏ, lại sắp sữa sinh đứa thứ hai, một thân một mình con làm sao lo cho xuể hai đưá bé? Vả lại tìm đâu ra chỗở?

Nghe vợ đồng ý để con gái lên Saigon sống, ông Trần Văn thở ra nhẹ nhỏm nhưđã giải quyết được mọi khó khăn. Ông bảo vợ:

- Ngày mai bà lấy xe đò đi Saigon gặp chị họ của tôi, nhờ chị tìm mua hoặc thuê dùm Thu Vân một căn nhà, rồi bà ở lại đó với con gái.

- Ông tính như vậy cũng được. Nhưng tôi ở lại đó với con rồi ai lo cho ông?

- Tôi tự lo cho tôi.

Thu Vân không đồng ý, nói:

- Ba mẹ giúp con phương tiện sống ở Saigon một thời gian là được. Mẹ không cần phải ở lại đó với con. Nếu có thể cho con mượn tạm con Ngà để trông coi Vân Long trong thời gian con sinh đẻở nhà thương.

Không nghe cha mẹ phản đối, Thu Vân nói tiếp:

- Dù con còn trẻ, song cũng đã làm mẹ. Con muốn sống tự lập, chớ không thể lúc nào cũng có sự che chỡ và gíúp đỡ của cha mẹ. Có như thế con mới quen chống chọi với đời, mới không bị người hà hiếp.

- Con nói phải lắm! Ba đồng ý để con sống tự lập. Việc trước tiên là tìm nhà, giúp con an cư buổi đầu.

- Cám ơn ba mẹ.

Giải quyết được mọi việc, ông Trần Văn an tâm trở lại trường học. Bà Trần Văn sữa soạn hành lý để sáng sớm đi Saigon lo việc tìm nhà cho con gái.

Thu Vân còn lại một mình nơi phòng khách, mắt bâng quơ nhìn cảnh vật… Nàng đã chào đời và lớn lên nơi đây. Mọi vật trong ngoài, từ cái bàn cái ghế, từ khóm hoa bụi cỏ… Thứ chi cũng cho nàng rất nhiều kỷ niệm…

Kỷ niệm những ngày thơấu chạy nhảy ngoài vườn, kỷ niệm tuổi học trò nhiều mơ mộng, bắt bướm hái hoa… Kỷ niệm cuộc tình ngắn ngủi: “Một tháng trăng mật cùng chồng, chiều chiều ngồi tựa lưng nhau trên băng đá, nghe gió lộng, nhìn mây trôi...”

Hai mươi năm qua sống trong ngôi nhà này, ấp ủ bởi tình yêu vô bờ của cha mẹ. Hai mươi năm gót chân mài kỷ niêm trên từng viên đá thỏi gạch khắp nẻo hoa viên…

Rồi mai đây nàng sẽ phải dứt bỏ những kỷ niệm tuyệt vời của 20 năm dài dĩ vãng, để âm thầm bước đi trên những nẻo đường xa lạ…

Nẻo đường ấy chắc sẽ có nhiều chông gai và hiểm trở, mà nàng, một người đàn bà trẻ bơ vơ với hai con dại, chẳng biết có đủ sức bước tới hay không?

Dạ bùi ngùi, Thu Vân rời gian phòng khách, chân bước thẫn thờ ra ngỏ… Con đường trước của nhà nàng với hai hàng cây cao ngất che lấp ánh mặt trời, buổi nay bỗng vô cùng rực rỡ. Các tia nắng chiếu qua kẻ lá lấp lánh rạng ngời, không khác gì trên cành có treo kết trăm vạn ngọn hoa đăng, khiến Thu Vân có cảm tưởng như phố phường đang tưng bừng mở hội tiển chân nàng lần cuối.

Lòng cảm xúc, dạ bâng khuâng… chân nàng bước đều trên con đường “tống biệt”… Thình lình Thu Vân nghe nhiều tiếng thét tiếng cười vang bên tai. Tâm trí trở về với thực tại, nàng thấy trước mắt một đám trẻ con, độ chín mười đứa, tuổi khoảng 12, 13 đang hùng hục tiến về phía nàng… Thu Vân chưa kịp có phản ứng gì, chúng đã ùa đến tay nắm tay nhau làm thành cái vòng, bao Thu Vân vào giữa. Rồi chúng vừa nhảy vừa hát vang vang:

“Đàn bà không chồng mà chữa, ông Trời có biết chuyện này không? Đàn bà có chữa, không chồng, lạ chưa?!”

Ban đầu vòng tay chúng còn dang rộng, dần dần chúng xáp lại gần, Thu Vân bị ép giữa bầy con nít, muốn tìm lối thoát cũng không được. Nàng nhỏ giọng nài nỉ:

- Các em cho chịđi về.

Nghe nàng van xin, bầy con nít được dịp làm tới, đưá nọ xô, đứa kia đẩy, có đưá còn nắm áo nàng kéo chạy vòng vòng… Phần bụng bảy tháng đã to, phần bị níu kéo đầu óc choáng váng, phần sợ hãi… Thu Vân không đứng vững được nữa, ngã xịu xuống…

Bỗng dưng nàng có cảm tưởng ngã vào vòng tay một người và bầy con nít bỏ chạy tán loạn, cùng lúc có tiếng quát:

- Quân vô giáo dục! Cút đi!

Thu Vân hoàn hồn, mở mắt ra thấy vị cứu tinh của mình là bác sĩ Hoàng. Nàng nghẹn ngào muốn nói cám ơn, song Hoàng không chờ nàng lên tiếng, nhỏ nhẹ bảo:

- Con nít ởđây quỉ quái lắm, Madame chớ ra khỏi nhà một mình.

Sự thật khi nãy nàng thẫn thờđi với bước chân vô định, ra tới đường lộ mà không hay! Từ nhà đến đây chỉ vài chục thước đã gặp bầy con nít. Cũng may việc xảy ra trước ngõ phòng mạch của Hoàng và cũng may Hoàng có thói quen thường hay nhìn qua cửa sổ mới trông thấy Thu Vân bịđám trẻ con vây hiếp.

Thấy sắc mặt nàng còn tái mét, Hoàng lo lắng hỏi:

- Cô thấy trong người thế nào? Bọn ấy có xúc phạm dến cô không?

Thu Vân lắc đầu. Hoàng an lòng dìu nàng bước tới, hỏi:

- Tôi đưa cô vào phòng mạch của tôi nghỉ chốc lát nhé?

Thu Vân nghe Hoàng mời vào nghỉở phòng mạch, sợ đụng mặt thân chủ của Hoàng, nên vội vàng từ chối:

- Không! Tốt hơn tôi nên về nhà. Tôi sợ…

Hoàng đoán được nỗi lo sợ của Thu Vân, vội vàng nói:

- Bữa nay tôi không có giờ hẹn đón tiếp thân chủ. Nếu cô ái ngại không muốn vào phòng mạch của tôi, tôi sẽ đưa cô về tận nhà.

- Tôi không dám phiền bác sĩ, tôi có thểđi về một mình.

Hoàng thân thiết:

- Cô đừng sợ phiền tôi. Tôi đang chán muốn có người trò chuyện chốc lát. Dù cô từ chối, tôi quyết đưa cô về tận nhà, không để cô đi một mình.

Thu Vân biết không thể cản được ý định của Hoàng nên lẳng lặng bước tới. Hoàng đi bên cạnh cũng im lời, dù thâm tâm chàng muốn nói với Thu Vân thật nhiều.

Mấy tháng qua, từ khi dư luận xôn xao về đức con trong bụng Thu Vân, Hoàng muốn gặp Thu Vân để nói lời an ủi. Chàng muốn tỏ cho nàng biết, dù nàng bị xã hội này ruồng bỏ khinh rẻ, chàng vẫn luôn luôn quí trọng nàng.

Chàng yêu Thu Vân từ nhiều năm nay, từ buổi chiều đẹp trời nhàn rỗi nhìn qua khung cửa sổ nơi phòng mạch, bắt chợt trông thấy người con gái đẹp tay ôm sách đi ngang qua con đường trước ngõ. Nàng mặc chiếc áo trắng, vóc người thanh lịch đài các, gương mặt mĩ miều…

Nàng hiện ra trước mắt chàng không khác gì nàng tiên trong cõi mộng.

Từđó có thói quen chàng hay nhìn ra đường giờ nàng đi học về. Để rồi hình bóng quen thuộc của nàng tiên áo trắng xuất hiện trên con đường nhà chàng nhưđóng khung vào tim vào óc, không giờ phút nào chàng không nghĩ tới.

Biết mình đã yêu, chàng hỏi thăm cô y tá mới rõ nàng tiên áo trắng chỉ là cô hàng xóm tên Trần Thu Vân, vốn là một giai nhân nổi tiếng trong tỉnh. Vì Hoàng đi du học vắng nhà nhiều năm nên không hay biết.

Cha mẹ chàng rất hoan hỉ khi biết chàng đã yêu Thu Vân. Cha chàng vui vẻ nói:

- Hôm nào ta sẽ đưa con đến thăm gia đình cô ấy. Cha cô là bạn hàng xóm rất thân với ba.

Dịp may đến là vào sinh nhật thứ 18 của Thu Vân, gia đình chàng được mời trong số khách tham dự. Hôm ấy khách khứa đông đảo lắm và cũng có lắm chàng trai đến ngõ ý cầu hôn, cha mẹ Hoàng cũng lên tiếng với ông bà Trần Văn về việc con trai mình yêu Thu Vân và ước mong kết duyên với nàng.

Ít lâu sau Hoàng nhận được thư của của ông Trần Văn báo tin ông rất ân hận vì Thu Vân đã có người yêu.

Sau đó chàng hay tin Thu Vân đã lấy chồng, chàng vẫn tiếp tục si tình nàng, nhất là một tháng sau ngày cưới Thy đột nhiên biến mất, mặc dù gia đình nàng loan tin Thy đi du học. Nhưng Hoàng là người duy nhất không tin điều đó bởi nhiều lý do. Mà lý do để nghi ngờ hơn hết là nỗi thống khổ của Thu Vân chàng thấy được mỗi khi nàng thơ thẫn trên con đường trước ngõ nhà chàng như con người mất hồn mất trí.

Ngày Thu Vân bị xỉu, Hoàng tới khám bệnh và báo tin nàng sắp có con, tuy nàng có mừng rỡ, song Hoàng nhận ra trong vui mừng của nàng có ẩn chưá nỗi buồn, nhất là vẻảm đạm trên gương mặt của cha mẹ nàng ngày ấy càng khiến Hoàng nghi ngờ sự ra đi của Thy có điều bí ẩn.

Nàng sinh Vân Long không bao lâu, lại mang bầu trong lúc Thy vắng mặt, làm chấn động dư luận trong tỉnh, chỉ riêng Hoàng không mấy chút ngạc nhiên. Bởi chàng quyết chắc Thy không phải đi du học nước ngoài, mà vẫn còn lẫn quẫn đâu đó trong nước và đứa con thứ hai của Thu Vân là con của Thy.

Có điều Hoàng vẫn chưa đoán ra lý do vì sao Thy Không sống chung với vợ? Vì tự ái không muốn nhờ vã gia đình bên vợ hay vì ẩn tình nào khác? Theo Cộng Sản chăng?

Câu hỏi sau cùng vương vấn trong đầu chàng, Hoàng càng nghi ngờ Thy theo Cộng Sản, càng xót xa thương yêu Thu Vân hơn thêm.

Ngày nghe tin nàng bị các bà hành hung nơi phòng mạch bác sĩ Tú, Hoàng hết sức đau lòng, đâm oán hận tất cả dân thành phố.

Chàng muốn giúp Thu Vân xa lánh xã hội này mà không biết phải làm cách nào, vì nàng đã là đàn bà có chồng.

Bữa nay thêm một lần chứng kiến Thu Vân bị bầy con nít vây hiếp, Hoàng thương hại muốn khuyên nàng bỏ tỉnh lỵ, nhưng không biết lấy tư cách gì để nói lời khuyên ấy? Thành ra trên đoạn đường đưa Thu Vân về nhà, chàng suy tính mãi vẫn chưa ra câu nói.

Thu Vân không đo lường được tình yêu của Hoàng dành cho mình, nên nàng không dám thố lộ chuyện riêng tư của mình. Rốt cuộc cả hai ngậm câm! Mãi đến lúc về đến cổng rào nhà nàng, Thu Vân mới lên tiếng:

- Cám ơn bác sĩđã đưa tôi về tận nhà. Nếu bác sĩ cho phép tôi được mời bác sĩ chén trà, xin vui lòng theo tôi vào nhà.

Hoàng không từ chối, bước theo nàng đi vào sân, vừa hỏi:

- Tôi không làm phiền gia đình cô chứ?

Nàng lắc đầu kèm với nụ cười. Hoàng đoán trong lòng nàng có lẽđang buồn khổ lắm, song nụ cười xinh như hoa trên gương mặt thiên tiên ấy, đẹp lạ lùng!

Hoàng ngây ngất nhìn nàng. Thật không ai tưởng tượng nổi trên gương mặt diễm kiều ấy có chứa cả một trời sầu!

Bỗng dưng lòng chàng dâng lên nỗi niềm «thương hương tiếc ngọc», chàng se sẽ thở dài.

Thu Vân đi bên cạnh nghe tiếng thở dài của Hoàng lấy làm ngạc nhiên, ngước mặt nhìn lên… Bốn mắt vô tình gặp nhau… Thu Vân thấy rõ ánh mắt của Hoàng chan chứa tình yêu, nàng bối rối cúi mặt, bước nhanh tới trước. Hoàng vụt nắm tay Thu Vân giữ lại, gọi khẽ:

- Thu Vân, tôi có thể làm người bạn chân thành của cô không?

- Cả thành phố này khinh ghét tôi, bác sĩ không sợ người ta chống đối khi tử tế với tôi sao?

Nàng hỏi bằng giọng cay đắng, sắc mặt buồn thiu. Hoàng nhìn thẳng vào mắt Thu Vân, nói giọng thật ấm:

- Dù cho cả thế giới chống đối, tôi cũng quyết làm bạn tốt của cô, miễn cô chấp nhận là được.

Câu nói thiết tha và chân tình của Hoàng làm Thu Vân cảm động, bàn tay nàng còn nằm trong tay chàng vụt xiết nhè nhẹ.

Hoàng cảm giác được cái xiết tay ấy là một sự thuận tình, Chàng sung sướng nói:

- Đã là bạn với nhau cô đừng gọi tôi là bác sĩ nữa nhé? Cô gọi tên tôi được không?

- Nếu bác sĩ cho phép.

Hoàng cười dòn:

- Lại bác sĩ nữa rồi!

Thu Vân cũng cười. Cả hai vui vẻ sóng bước. Vào nhà, nàng mời chàng ngồi nơi phòng khách, rồi đi thẳng vào nhà bếp bảo cô gái giúp việc nấu nước pha trà. Nàng lấy đĩa để đầy bánh mứt mang ra, bất ngờ thấy mẹ và bác sĩ Hoàng đang trò chuyện với nhau. Nàng lo sợ Hoàng thuật lại chuyện mình bịđám con nít hành hung, nên vội vàng nói:

- Con đang đứng trước ngõ, thấy bác sĩ Hoàng đi ngang qua nên sẵn dịp mời bác sĩ vào nhà uống trà.

Hoàng đưa mắt nhìn Thu Vân như xin nàng thứ lỗi, chàng nói:

- Xin lỗi cô, tôi đã thuật cho bác nghe những gì xảy ra lúc nãy, vì tôi muốn khuyên bác để cô rời thành phố này. Tôi không ngờ là hai bác và cô đã liệu tính trước rồi.

Bà Trần Văn ra dấu bảo con gái ngồi xuống ghế, rồi bảo:

- Không việc gì con phải giấu mẹ! Dù bữa nay bác sĩ Hoàng không kể mẹ nghe, ít hôm sau mẹ cũng sẽ biết.

Thu Vân ngồi xuống ghế, đặt đĩa bánh mứt trước mặt Hoàng, mời:

- Kính mời bác sĩăn thử bánh mứt này do chính tôi làm. Hoàng cười, nói nửa đùa nửa thật:

- Nếu cô mãi gọi tôi là bác sĩ, tôi nhất định không ăn uống gì đâu!

- Xin mời… anh.

Nàng có chút hổ thẹn khi gọi Hoàng bằng anh, hai má đỏ bừng, trông càng mỹ lệ.

Hoàng không dám nhìn nàng lâu, quay sang nói với với bà Trần Văn:

- Cháu có người anh họ làm luật sưở Saigon, anh làm cả việc mua bán nhà cửa. Nếu bác muốn mua hay thuê nhà cho cô Thu Vân ở Saigon, để cháu liên lạc với anh, nhờ anh lo dùm.

Bà Trần Văn hoan hỉ:

- Nếu được bác sĩ giúp cho thì còn gì tốt hơn nữa. Như thế ngày mai tôi khỏi phải đi Saigon.

- Phải! Cháu nghĩ, khi nào anh họ cháu tìm được nhà, anh báo tin cho cháu, lúc ấy hai bác và cô Thu Vân hãy lên xem, nếu đồng ý thì làm thủ tục mua hay thuê.

- Bác sĩ tính như vậy đúng ý tôi lắm. Cám ơn bác sĩ nhiều.

Thu Vân mừng rỡ lắm, nói với Hoàng bằng giọng xúc động:

- Thật không biết nói lời gì ngoài hai tiếng cám ơn anh.

Hoàng cười thân thiết:

- Cô không cần phải cám ơn tôi. Sau này khi cô có nhà ở Saigon, nếu tôi có dịp lên đó, tôi sẽ tìm đến cô xin được đãi bánh uống trà như hôm nay là đủ.

Lúc ấy Ngà mang cái mâm bạc với bình trà và mấy cái tách. Thu Vân lấy trà rót ra tách trao cho mẹ và Hoàng, vừa đối đáp câu nói của Hoàng:

- Chỉ sợ nhà em nghèo, không xứng đáng để mời một vị bác sĩ.

Hoàng cười lớn:

- Còn tôi thì sợ lúc ấy cô sẽ mắng thầm rằng: «thằng cha này quá lỳ lợm, cứ tới nhà bắt người ta phải đãi trà bánh, thật đáng ghét!

Bà Trần Văn nghe Hoàng cười nói pha trò vui vẻ, bà bỗng tiếc rẻ việc Thu Vân từ chối lời cầu hôn của Hoàng độ nào, sắc mặt đang vui bỗng đổi dàu dàu.

Không muốn để con gái và khách thấy nét sầu buồn của mình, bà đứng lên nói:

- Bác sĩ ngồi lại trò chuyện với con gái tôi nhé? Tôi phải vào bếp sửa soạn buổi ăn chiều. Nếu bác sĩ không có chương trình, xin mời bác sĩở lại dùng cơm với gia đình chúng tôi.

Hoàng không muốn sự thăm viếng bất thần của mình làm phiền gia chủ nên từ chối:

- Cám ơn bác đã mời cháu. Sự thật tối nay cháu đã hẹn về nhà ăn cơm chung với ba mẹ cháu. Xin phép bác lần khác.

- Đương nhiên là tôi không dám nài ép bác sĩ, nếu bác sĩ đã có hẹn với cha mẹ.

Sau câu nói bà Trần Văn mỉm cười rút lui vào nhà trong. Còn lại một mình với Hoàng, Thu Vân mới giải bày tâm sự:

- Em muốn đi Saigon vì dân chúng ở thành phố này không để em sống yên, mà còn lý do chính yếu là em muốn sống tự lập, không muốn mãi sống nhờ cha mẹ. Khổ một điều em chưa học xong, chưa có nghề nghiệp, mãnh bằng tú tài không biết sẽ tìm được việc gì làm không?

Hoàng suy nghĩ một lúc bỗng mừng rỡ reo lên:

- Có rồi! Có rồi! Anh họ tôi làm luật sư công việc rất nhiều. Tuy hiện anh có một phụ tá và một thư ký riêng, nhưng ai cấm anh có hai cô thư ký? Để tôi khuyên anh thuê thêm cô phụ gíup văn phòng anh là thượng sách. Huống chi anh có rất nhiều cơ sở, chắc anh cần thuê rất nhiều nhân viên. Cô yên chí! Lên Saigon cô chắc có ngay việc làm.

Câu nói quá chắc chắn của Hoàng khiến Thu Vân bật cười:

- Anh có lòng tốt với em, chẳng lẽ anh buộc anh họ của anh cũng phải tốt với em sao chứ? Em nghĩ, chắc ông ấy không muốn thuê một người chưa học xong, chưa có kinh nghiệp nghề nghiệp như em đâu!

- Tôi buộc anh ấy phải thu nhận cô. Nều anh từ chối tôi sẽ dọa anh là sẽ không bao giờ tới nhà thăm viếng hay chăm sóc con cái anh khi đau ốm.

Hoàng cười ha hả sau khi nói. Chàng muốn đùa với Thu Vân cho vui, vì chàng biết Võ Lang, anh họ chàng rất nể quí chàng, một khi nghe chàng nói rõ hoàn cảnh của Thu Vân chắc chắn sẽ thu nhận nàng.

Nghe Hoàng cười, Thu Vân biết chàng nói đùa nên cũng cười theo. Sự thật Hoàng ăn nói có duyên, lại hay pha trò, nên dù Thu Vân không vui cũng phải cười. Cái miệng như hoa nở, nàng dí dỏm hỏi Hoàng:

- Làm bác sĩ cũng biết hâm dọa người sao?

Hoàng làm bộ nghiêm trang:

- Vậy chớ cô không biết ống chích khiến người ta sợ vạn lần hơn cây súng à?

- Ai mà sợống chích hơn cây súng bao giờ? Em không tin!

- Cô thật không tin? Này nhé, nếu một đứa bé khóc dỗ mãi không nín, cô thử hăm dọa nó như vầy: “Nếu bé còn khóc, ông bác sĩ sẽ chích thuốc đau lắm đó”. Đứa nhỏ nghe nói sẽ sợ hãi, nín khóc ngay. Ngược lại nếu cô hăm dọa: “Nếu bé còn khóc ông lính sẽ lấy súng bắn bé đó nhé”. Thằng nhỏ chắc chắn sợ bị chích chớ không sợ bị bắn đâu!

Câu nói của Hoàng khiến Thu Vân tức cười lắm, song cố giữ nét mặt tự nhiên nói:

- Hoá ra làm nghề bác sĩ có thể hù dọa con nít à? Sau này hễ con em khóc, em sẽ nói: Nếu con khóc bác sĩ Hoàng sẽ chích thuốc con đau lắm đấy.

Hoàng lắc đầu lia lịa:

- Không được! Cô không được nói thế! Sau này tôi đến thăm cô, các con cô sẽđuổi tôi ra sân, tôi làm sao có được dịp hưởng chén trà thơm và bánh mứt cô làm nữa? Tôi xin cô! Chớđem tôi ra để hù con nít. Nguy quá! Tôi bày kế cho người, lại chính mình bị hại!

Thu Vân nhìn bộđiệu Hoàng, không nhịn cười được, bật cười thành tiếng, âm thanh trong vắt. Lúc ấy bỗng có tiếng trẻ con khóc, Thu Vân và Hoàng đồng giật mình nhìn lên… Bà Trần Văn từ trên lầu đi xuống, trên tay bế Vân Long. Bà trao cháu ngoại cho con gái, nói:

- Thằng nhỏ tới giờăn rồi!

Hoàng biết đã tới giờ Thu Vân phải cho con bú sửa, nên không dám ở lại thêm, vội vã đứng lên từ giã.

Vân Long được mẹ ôm trong lòng, nhưng vì chưa được ăn nên vẫn khóc. Thu Vân hôn con và nói lớn, cố ý trêu Hoàng:

- Nín đi, cưng của mẹ! Nếu con còn khóc là Bác sĩ Hoàng sẽ chích thuốc cho con, đau lắm đấy.

Vân Long mới 12 tháng, chưa hiểu biết gì, cái miệng xinh xinh càng quát to hơn, đòi ăn.

Hoàng bỏ chạy ra đường, ngoái đầu nói vọng lại:

- Ống chích của tôi không hâm dọa được con của cô đâu!

Thu Vân đứng trước cửa trông theo Hoàng, trên môi còn giữ nụ cười tuyệt đẹp.

Nụ cười ấy… ánh mắt ấy… khiến Hoàng đứng sựng lại.

Trời đã xế chiều mà chàng có cảm tưởng như ngày mới bắt đầu… cây cỏ hoa lá xinh tươi và bầu trời xanh chợt đổi màu hồng.
--------------------------------
1 Thuyết tam vô của cộng sản là: vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo.

giavui
01-10-2015, 08:06 PM
CHƯƠNG SÁU

MỘT TẤM TÌNH CHUNG

Nhà của Thu Vân là một biệt thự xưa, nhỏ, loại song cư, không có lầu, có phòng khách và phòng ăn chung, hai phòng ngủ, hai phòng tắm và nhà bếp, phía trước có sân cỏ. Nhà nằm trên đường PhanThanhGian, ngã tư với đường DuyTân, thuộc quận hai Saigon.

Nhà này dĩ nhiên do luật sư Võ Lang, anh họ của Hoàng giới thiệu. Người chủ vốn là một công chức về hưu, ông ta bán nhà để về sống chung với con.

Nhà xây cất trên hai mươi năm nên ông Trần Văn phải cho thợ sữa chữa và sơn phết lại.

Thu Vân rời Mỹ Tho với Vân Long và Ngà, cô gái giúp việc, đến sống ở căn nhà mới mua khi thợ còn đang sữa chữa.

Tuy là nhà cũ của người, nhưng đối với Thu Vân hoàn toàn mới từ khung cảnh đến đồ vật. Hơn nữa là lần đầu tiên rời nhà của cha mẹ, làm chủ căn nhà, làm chủ gia đình, mọi việc làm cho nàng bỡ ngỡ và Thu Vân có cảm tưởng như cuộc đời nàng bắt đầu từđây.

Một tuần sau khi đến Saigon, nàng được luật sư Lang thu nhận làm thư ký riêng nơi văn phòng của ông ta.

Chẳng biết Hoàng đã nói thế nào, mà ông ta tuyển dụng nàng một cách mau lẹ dễ dàng, lại vào thời kỳ sắp sinh con. Thêm vào đó nàng còn có đồng lương khá cao, đủ cho nàng cuộc sống tự lập một cách thoải mái.

Hai tháng sau đến kỳ lâm sản, nàng được luật sư Lang cho phép nghỉ làm việc một tháng rưỡi. Nàng sinh thêm một trai, đặt tên là Vân Trường.

Đưá nhỏ phải mang họ mẹ, vì trên pháp lý cha nó vắng nhà đã lâu. Một điều đáng nói là Vân Trường hoàn toàn giống mẹ, khác hẳn với Vân Long giống cha nhưđúc.

Bà Trần Văn có lên Saigon giúp con gái trong thời gian sinh con. Một tháng sau bà trở về Mỹ Tho mang theo bé Vân Long lúc bấy giờđã được 15 tháng.

Thu Vân đành để mẹ nuôi dưỡng đứa con đầu, vì nàng đi làm không thể chăm sóc hai đứa con còn bé, dù có Ngà phụ việc.

Thu Vân vắng mặt ở Mỹ Tho ít lâu dư luận hết xôn xao, gần như người ta quên bẵng đến nàng. Ông bà Trần Văn từđó tiếp tục sống đời êm đềm thuở trước.

Bà Trần Văn có thuê một cô gái giúp việc khác, tên Nhu, để lo việc nhà. Còn bà dành thì giờ chăm sóc cháu ngoại.

Thời gian qua mau.

Thắm thoát Thu Vân đã lập nghiệp ở ThủĐô được hai năm. Ngày hai buổi nàng làm việc cho văn phòng luật sư Lang, buổi trưa và buổi tối về nhà lo cho con. Thành ra suốt ngày bận rộn, nàng không có giờ để buồn khổ vì sự ra đi của chồng.

Cuộc sống ở Saigon hoàn toàn khác biệt với cuộc sống ở tỉnh, người đông, nhà cửa phố phường san sát, nhưng nhà ai nấy ở, không ai dòm ngó tò mò đời tư người khác. Nhờđó Thu Vân được yên thân sống đời người đàn bà không chồng, có con.

Dân Saigon kém tình lân cận, mà nàng là người ít giao thiệp, nên ngoài bạn gái làm chung văn phòng luật sư Lang và người hàng xóm nhà bên cạnh, Thu Vân không giao tiếp với ai. Tuy vậy mà cuộc sống của nàng không hiu quạnh vắng vẻ lắm.

Hai tháng một lần mẹ nàng đem Vân Long lên Saigon ở lại một tuần để Thu Vân gần gủi con và hai đứa bé quyến luyến nhau. Cha nàng trong những dịp nghĩ lễở trường cũng lên Saigon thăm con gái và cháu ngoại và lưu lại vài ngày. Bà Lê Thân, mẹ của Thy, thỉnh thoảng cũng tới thăm con dâu và cháu nội.

Riêng Lê Thanh, em của Thy, chỉ viếng Thu Vân một lần vào lúc Thu Vân vừa sinh Vân Long ở Mỹ Tho. Sau đó thì Lê Thanh theo học trường sĩ quan ởĐà Lạt, khi ra trường xung phong ra chiến trường nên chẳng có dịp về Mỹ Tho hay Saigon.

Lê Thanh rất thương quí chị dâu. Thấy nàng còn trẻ mà sống như người đàn bà goá bụa, chàng rất đau lòng. Càng thương hoàn cảnh chị dâu, chàng càng giận anh ruột của mình, và càng giận anh, chàng càng oán hận Cộng Sản.

Đó là lý do khiến chàng chiến đấu rất hăng say. Nơi nào có Cộng Sản phá rối là đoàn quân xung phong của chàng đến thanh trừng. Một năm chàng ra chiến trường nhiều lần, thắng nhiều trận, cấp bậc cũng vì đó mà thay đổi liền liền. Sự gan dạ của Lê Thanh được các binh sĩ ca ngợi và đặt cho cái tên «NapoléonViệt Nam».

Nếu Thy mê thiên đường Cộng Sản, thì Thanh là kẻ thù số một của Cộng Sản. Ruột thịt tâm thù chém giết nhau, chính là thảm trạng xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.

Một số trí thức không theo xu hướng chính trị nào họ rất nản trước thời cuộc, nên tìm cách rời ViệtNam sang Âu Châu hoặc Hoa Kỳ như tính cách những sinh viên du học, hoặc tu nghiệp, để ở lại xứ người.

Hoàng cũng là một trong số người muốn ra đi, nhưng vì yêu Thu Vân mà chàng còn nấn ná ở lại làm việc cho bệnh viện Mỹ Tho.

Dĩ nhiên từ khi Thu Vân có nhà ở Saigon, chàng là khách thường xuyên của nàng. Gần như mỗi tháng chàng có mặt ở nhà Thu Vân hai lần và lần nào cũng ở lại suốt ngày Chúa Nhật, đùa giỡn bồng bế Vân Trường, ăn trưa chiều với Thu Vân.

Bây giờ họ là đôi bạn thân thiết, xưng gọi anh em, tuy vậy cả hai vẫn chưa phải là tình nhân. Dù Hoàng chưa mở miệng nói lời yêu đương, song Thu Vân cũng đo lường được tình chàng dành cho mình rất sâu đậm qua cử chỉ và sự chăm sóc từ hai năm qua.

Chính nhờ Hoàng, Thu Vân mới tìm được nhà và có được việc làm nơi luật sư Lang.

Trong nhà này từ cái bàn cái ghế, lọ hoa, chậu kiểng, tranh ảnh v.v… thứ chi cũng do Hoàng cho tặng hoặc giúp đỡ việc mua sắm. Những việc nặng nhọc mà Thu Vân hay Ngà làm không nổi đều do Hoàng cáng đáng làm hết.

Có thể nói chàng là người bạn tốt độc nhất trên đời, chăm sóc cho nàng không khác gì người chồng lo cho vợ. Và Thu Vân cũng biết rằng ân nghĩa này nàng không cách gì trả nổi, mà chỉ có tình mới đền đáp được.

Cho đến bây giờ Thu Vân vẫn chưa rõ lòng mình có yêu Hoàng không? Một điều nàng biết là mỗi lần chàng đến không khí trong nhà đột nhiên thay đổi. Người nào cũng nói cũng cười nhiều hơn, ngay cả Vân Trường là đưá bé mới hai tuổi cũng biết hân hoan đón mừng vị khách thân thuộc của gia đình.

Chiều hôm ấy sau giờ làm việc, Thu Vân vừa từ văn phòng luật sư Lang bước ra đường lộ bỗng thấy xe Hoàng đậu bên lề. Nàng có hơi ngạc nhiên vì thói thường Hoàng chỉđi Saigon vào đầu tháng và giữa tháng để lo việc nhà thương, vào dịp đó chàng ghé nhà Thu Vân.

Tuần rồi chàng đã đến nên tuần này nàng không tưởng là chàng trở lại Saigon. Thấy xe mà không thấy chủ nhân, Thu Vân nghĩ, có lẽ Hoàng có việc riêng cần gặp anh họ chớ không phải đến gặp mình, nên thản nhiên đi đến bến Bus. Bất thần sau lưng nàng có tiếng réo gọi:

- Thu Vân! Thu Vân!

Nàng quay đầu nhìn lại, thấy Hoàng lái xe vút tới. Nàng chưa kịp nói gì, giọng cười và tiếng nói của chàng đã vang lên:

- Tôi đến đón em, sao lại bỏđi?

- Em ngỡ anh đến gặp luật sư Lang.

- Thì tôi đến đây đón em, chẳng lẽ không tới chào hỏi anh ấy một tiếng sao? Vừa vô tới văn phòng anh chưa nói đuợc lời nào, tôi thấy em ra đường nên vội vàng từ giã anh ấy rượt theo em. May mà em chưa lên Bus, nếu không tôi phải mất công chạy về nhà đón em trở ra phố.

Chàng xuống xe và mở cửa để Thu Vân lên xe. Nhưng nàng không vào xe, thắc mắc hỏi:

- Anh muốn em ra phốđể làm gì?

- Tôi muốn mua quà tặng em, nên đưa em ra tiệm chọn lựa cho hợp ý.

- Trời ơi, sao anh cứ tặng quà cho em? Lần nào đến nhà em anh cũng mang quà, em không nhận nữa đâu!

Nàng vừa nói vừa ngồi vào xe, Hoàng đóng cửa và sau khi vào ngồi bên cạnh nàng mới nhỏ nhẹ nói:

- Bữa nay tôi từ Mỹ Tho lên Sagon chỉ có mục đích duy nhất là mua quà tặng em.

Thu Vân kêu lên:

- Hả? Anh bỏ phòng mạch bỏ nhà thương lên đây chỉ để mua quà cho em, anh có điên không?

Thấy nàng nhăn mặt tỏ vẻ không bằng lòng, Hoàng cười:

- Một năm nhờ có ngày sinh nhật của em tôi mới được dịp lấy ngày nghỉ.

Câu nói của Hoàng khiến Thu Vân giật mình. Hoá ra hôm nay là ngày sinh nhật của nàng mà nàng cũng không nhớ! Cả ngày nàng làm việc ở văn phòng luật sư, lúc về nhà bận bịu với con, không giờ phút nào rỗi rãnh nghĩ đến mình, nên năm nào sinh nhật của Thu Vân cũng chính Hoàng nhớ dùm. Thật là buồn cười!

Hoàng thấy vẻ ngượng nghịu trên gương mặt nàng lúc đó, nên nói chọc:

- Chắc là em cố ý quên ngày sinh nhật của em để khỏi phải mời đãi tôi chớ gì?

Thu Vân hổ thẹn:

- Em bậy quá, không nhớ ngày tháng gì cả! Thành ra năm nào cũng chẳng nhớ làm tiệc mời anh, rốt cuộc vẫn được quà. Tốt hơn em không nhận quà của anh nữa.

Hoàng nhấn ga cho xe chạy vút tới, vừa nói:

- Nếu em không thích quà, tôi mời em đi ăn cơm Tây tối nay nhé?

Thu Vân lắc đầu từ chối. Hoàng nài nỉ:

- Tôi từ xa lặn lội tới đây chỉ muốn mời em bữa ăn ngày sinh nhật, chẳng lẽ em từ chối hay sao?

- Không! Sinh nhật của em, hãy để em mời anh.

- Em mời tôi ăn quanh năm rồi. Hãy để tôi mời em một lần, em từ chối là mích lòng tôi đó nhé.

Không nghe nàng phản đối, chàng biết nàng đã thuận tình nên mừng rỡ nói:

- Tôi đưa em về nhà thay đổi y phục, thăm con, sau đó chúng ta sẽđi.

Suốt khoảng đường từđó về nhà Hoàng thuật chuyện ở Mỹ Tho cho Thu Vân nghe. Mỗi lần lên Saigon gặp Thu Vân Hoàng luôn kể những sự việc xảy ra ở tỉnh nhà, nhất là tin tức của cha mẹ nàng và Vân Long. Hoàng kể lại rành rẻ, vì trước khi đi Saigon chàng đều ghé thăm Vân Long.

Thời bấy giờ đường điện thoại từ Saigon đi các tỉnh chỉ có ở các cơ sở hoặc cơ quan của chính phủ, chớ tư gia chưa có. Cho nên nhờ Hoàng tới lui hai gia đình, Thu Vân mới được tin tức của cha mẹ và Vân Long thường xuyên.

Hoàng nói:

- Thằng con trai lớn của em nay đã đến trường mẫu giáo rồi.

- Nó sắp bốn tuổi, mẹ em gửi nó đến mẫu giáo là phải.

- Mẹ em cưng nó lắm, đi đâu cũng dắt nó theo. Anh chỉ sợ sau này thằng nhỏ thích bà ngoại hơn mẹ.

Thu Vân cười nhẹ:

- Nó quyến luyến bà ngoại hơn mẹ là lẽ đương nhiên. Trẻ con hễ gần gủi người nào sẽ yêu thích người đó. Ví như Vân Trường thích Ngà bồng ẩm hơn em, vì em vắng mặt cả ngày, đến chiều tối về nhà thì thằng bé đã tới giờ ngủ.

Nàng bỗng thở dài sau câu nói. Xe đã đến nơi. Hoàng đậu bên lề đường, song không vội mở cửa. Chàng nhìn thẳng vào mắt Thu Vân, nói:

- Thượng đế ban cho người đàn bà cái ân huệ làm mẹ là để thì giờ chăm sóc thương yêu con. Tôi muốn em nghỉđi làm và rước Vân Long về sống chung.

- Em không đi làm thì lấy đâu ra tiền để nuôi con? Chẳng lẽ em sống nhờ sự giúp đỡ của cha mẹ em mãi sao? Ngày nào họ không còn nữa thì em ra sao?

- Tôi…

Bỗng dưng Hoàng cười dòn:

- Chúng ta sẽ bàn tiếp câu chuyện này tối nay. Bây giờ em mời tôi vào nhà chứ?

Thu Vân cười thật tươi:

- Anh cũng như người nhà, nhà này cũng là nhà của anh, đâu cần em mời anh mới vào?

Hoàng mở cửa cho Thu Vân xuống xe, hỏi nửa đùa nửa thật:

- Em xem tôi như người nhà? Có thật không? Hay là lúc nào tôi cũng vẫn là khách của em?

Thu Vân trốn ánh mắt của Hoàng, đôi chân bước nhanh. Hoàng nối gót nàng, chờ nghe câu trả lời, nhưng cả hai đã vào sân. Ngà dắt Vân Trường chạy ra đón.

Vân Trường nhào vào lòng mẹ, song đôi mắt láu lia nhìn Hoàng. Nó đã biết nói khá nhiều nên vừa khi Thu Vân buông ra liền chạy tới níu Hoàng gọi:

- Bác! Bác đi! Đi xe! xe!

Mỗi lần chàng đến nhà đều cho Vân Trường và Ngà lên xe chạy một vòng. Thằng nhỏđã quen lệ, thấy chàng là đòi lên xe đi.

Hoàng bế Vân Trường lên, hôn túi bụi lên mặt nó, vừa bảo Thu Vân:

- Em trang điểm thay đổi xiêm y, tôi đưa thằng nhỏđi chơi một vòng rồi trở lại đón em.

- Cũng tại anh chìu nó quá, bây giờ hễ thấy mặt anh là đòi lên xe đi chơi. Ngày sau nó cứng đầu khó dạy là lỗi ở anh đó.

Hoàng ôm Vân Trường ra đường, nói vọng lại:

- Người ta nói «con hư tại mẹ», chớđâu phải tại chú bác?

Sau câu nói chàng cười vang và biến mất sau tiếng rồ máy xe. Lúc sau chàng trở lại Thu Vân đã ngồi chờ chàng trong phòng khách. Nàng mặc chiếc áo dài bằng tơ trắng có thêu vài cánh hoa hồng, tóc bới cao để lộ vành tai xinh nhỏ với đôi bông hạt trai. Cổ nàng cũng đeo một sâu chuỗi hạt trai. Nàng trang điểm rất nhẹ : đôi má, đôi môi, phơn phớt hồng. Chính nhờ lối trang sức thanh nhã đã tạo cho gương mặt đẹp quí phái của nàng thêm phần tinh khiết thoát tục.

Và chiều nay sự hiện diện của nàng trong gian phòng mờ ảo càng gây cho Hoàng có cảm giác nhưđang bước vào cõi tiên. Và nàng tiên trước mắt không hiểu đang mơ mộng gì? Mắt nàng đăm chiêu nhìn lên vách…

Hoàng đứng im ru nơi ngưỡng cửa, tay bế Vân Trường đã ngủ, không dám buông hơi thở mạnh sợ làm tan giấc mộng của nàng.

Bất thần tim chàng vụt đau nhói khi trông thấy nơi vách mà Thu Vân đang chăm chăm nhìn có treo bức ảnh của Thy rọi lớn.

À, thì ra nàng vẫn mãi nghĩ đến chồng, không hay biết sự hiện diện của chàng!

Ôi, mỗi người chạy theo một ảo ảnh!

Thu Vân mãi mãi yêu Thy và chàng mãi mãi vẫn không ngừng yêu Thu Vân. Ái tình quả là cái vòng lẩn quẩn oan trái!

Bỗng dưng Hoàng nghe từ dạ dày cuồn cuộn dâng lên một chất nước đăng đắng, làm chàng khó chịu choáng váng.

Vân Trường vụt tỉnh giấc kêu lên:

- Maman! Maman!

Thu Vân giật mình quay mặt ra cửa, trên môi điểm nụ cười rạng rỡđón Hoàng và con trai.

Nụ cười ấy có chứa mật ngọt, khiến bao chất đắng trong miệng chàng như tiêu tan!

Chàng sung sướng ôm Vân Trường bước nhanh vào nhà. Thu Vân rời ghế chạy tới đưa hai tay đón con.

- Maman!

- Cưng của mẹ!

Thằng bé vụt một tay quàng cổ mẹ, một tay bá vào cổ Hoàng. Ba gương mặt kề nhau, cùng vang tiếng cười rộn rã.

Hạnh phúc này Hoàng mường tượng là của riêng chàng mà không một người đàn ông nào khác, ngay cả Thy, cũng không được hưởng.

**

Khách sạn Majestic nằm ngay tại thương cảng Saigon, hướng nhìn ra giòng sông, là một toà nhà có nhiều tầng. Tầng thứ nhất làm nhà hàng, có khoảng sân lộ thiên; lối kiến trúc tân kỳ, lối trang hoàng vừa mỹ lệ, vừa thơ mộng.

Khách sạn này có thể xem là khách sạn sang trọng nhất ở ThủĐô Saigon lúc bấy giờ và hầu như là chỉ chứa khách Âu Mỹ, người Việt không mấy ai lui tới.

Hoàng vì sống nhiều năm ở ngoại quốc, không e ngại sự sống chung đụng với người nước ngoài, nên mỗi lần về Saigon chàng đều tới ngụở khách sạn này.

Nhà hàng do người đầu bếp người Pháp nổi tiếng nấu nhiều món ăn thật ngon, nên rất đắt khách.

Khi Hoàng đưa Thu Vân tới nơi thực khách đã chiếm hết chỗ, may mà chàng đã đặt trước nên còn một bàn trống gần nơi lan can. Một chỗ thật tốt có cái nhìn ra bờ sông.

Nếu là nhà hàng Tàu, thường thì để đèn sáng choang, tiếng nói tiếng cười của thực khách cùng với tiếng khua động chén bát vang vang… tạo bầu không khí ồn áo náo nhiệt, thì nơi đây hoàn toàn trái ngược; thực khách ăn uống rất kín đáo, trò chuyện nho nhỏ, mỗi bàn gần như một góc riêng biệt, lại thêm ánh sáng lập loè của những ngọn bạch lạp càng làm khung cảnh mờảo thơ mộng.

Người Âu Mỹ bản tánh chộn rộn cởi mở, song giờăn họ giữ gìn ý tứ một cách quí phái, ăn uống thật khẽ, cười nói thật nhỏ, chỉ giữa họ mới nghe.

Người Á thì trái lại, tánh tình nhút nhát nghiêm chỉnh, sống với nội tâm hơn là vui nhộn bề ngoài, nhưng khi họ tụ họp trong bữa ăn với nhau, họồn ào như giữa chợ.

Quả là hai thái cực!

Và đêm nay Hoàng muốn hưởng những giây phút êm đềm thi vị bên cạnh Thu Vân nên chàng chọn nhà hàng Tây.

Hoàng gọi rượu cho bữa ăn, song Thu Vân từ chối không muốn uống. Hoàng cười bảo:

- Ăn thức ăn Tây phải uống rượu, vì rượu kích thích vị giác giúp ta ngon miệng.

- Người mình bữa ăn đâu cần uống rượu? Anh bịảnh hưởng Âu Mỹ quá nặng rồi!

Giọng nói của Thu Vân có phần châm biếm, ngay cả nụ cười trên môi nàng. Hoàng nghiêm chỉnh giải thích:

- Chẳng phải tôi bị Âu Mỹ hoá đâu! Sự thật thức ăn Á, hay Việt Nam nói riêng, đều bỏ nhiều gia vị, nhất là các vị cay nhướt tiêu gừng v.v… làm kích thích vị giác ở lưỡi, giúp ta ngon miệng. Thức ăn Tây gia vị rất ít, mà nhiều chất béo như bơ, crème… Nếu không có cái nóng của rượu thì ăn mau ngán lắm.

- Như vậy là anh buộc em phải uống rượu à?

- Không đâu! Tôi không bao giờ nài ép em chuyện gì. Có điều, nếu em không muốn uống thì tôi cũng không gọi rượu cho mình, vì uống một mình buồn lắm.

Thu Vân cười nhỏ:

- Thôi thì em sẽ cùng uống với anh cho vui, nhưng một tí thôi nhé?

- Cám ơn em!

Chàng mừng rỡ bảo người bồi đem cho chàng loại rượu ngon và nhẹ, cùng với món ăn chàng thích nhất hồi còn sống ở Paris là món «chateaubriand» cho cả chàng và Thu Vân. Chỉ vì Thu Vân viện cớ không rành về thức ăn Tây.

Trong buổi ăn Hoàng nói chuyện rất ít, trái với bản tánh của chàng vui vẻ cười nói luôn miệng.

Có lẽ chàng giữ gìn ý tứở một nơi có nhiều khách ngoại quốc, mà cũng có lẽ vì đêm nay giữa khung cảnh này, vẻ mỹ lệ và đài cát của Thu Vân càng nổi bật hơn thêm, khiến chàng ngất ngây chiêm ngưỡng quên cả trò chuyện?

Mãi đến khi người bồi mang món tráng miệng và ly cà phê, chàng mới lên tiếng:

- Từ khi em sống ở Saigon, Mỹ Tho biến thành vùng sa mạc Sibérie.

- Anh muốn nói gì, em không hiểu?

- Mỹ Tho ngày nay phố phường vắng teo không người, y như thành phố chết!

Thu Vân nhíu đôi mày đẹp nhìn Hoàng, tỏ ý càng không hiểu câu giải thích của chàng. Hoàng nhìn xoáy vào mắt nàng nói:

- Thiếu một người, dù giữa vạn người tôi vẫn thấy trống trãi đơn chiếc. Bởi thế mà tôi có cảm tưởng như sống giữa vùng sa mạc lạnh lẽo, cô đơn, buồn.

Thu Vân chừng nhưđã hiểu câu nói của chàng, cúi mặt lặng thinh, chẳng biết nghĩ ngợi gì?

Hoàng dàu dàu:

- Tôi không thể nào tiếp tục sống đời buồn tẻởđó lâu hơn nữa. Chắc chắn tôi sẽ bỏ Mỹ Tho ra đi.

- Anh muốn đi đâu?

- Chưa biết! Còn tùy ở em.

- Tùy ở em? Sao lại tùy ở em?

Nàng trố mắt ngạc nhiên hỏi Hoàng. Chàng nhìn nàng bằng ánh mắt thật tình tứ, chậm rãi nói:

- Phải! Tùy quyết định của em, về chúng ta.

Cả hai vụt im lặng nhìn nhau.

Lần đầu tiên Thu Vân xúc động mãnh liệt trước người đàn ông đối diện. Tuy Hoàng không có cái đẹp hào hùng của Thy, song gương mặt trí thức già dặn, có phần khã ái, có phần quyến rũ hơn. Và cái nhìn thiết tha đắm đuối của chàng đêm nay bỗng làm cho Thu Vân sợ hãi, tim đập bấn loạn, y như người con gái mới lớn trò chuyện với trai lần đầu.

Cho đến một lúc lâu Thu Vân mới lấy được bình tĩnh và bắt đầu từ phút đó cả hai biến thành hai người câm, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ…

Hoàng sắp đặt trong đầu những lời sẽ nói với Thu Vân đêm nay, những lời quan trọng trong đời chàng, quyết định tương lai của chàng.

Thu Vân mắt đăm đăm nhìn phía trước, nhưng có lẽ chẳng trông thấy gì? Lòng nàng vô cùng bối rối trước những ân tình chàng dành cho mình.

Buổi ăn tàn sau món tráng miệng và ly cà phê. Hoàng mời Thu Vân đi dạo một vòng bến tàu trước khi về nhà. Thu Vân không từ chối.

Cả hai thả bộ từ nhà hàng đến bến Thủ Thiêm, rồi đi lần đến bến hải quân Bạch Đằng.

Trời vềđêm khách nhàn du thưa vắng. Trăng sao trên trời bắt đầu tỏ hơn ngọn đèn đường. Dọc theo bờ sông gió lồng lộng thổi, mang cả hơi sương lành lạnh, khiến Thu Vân rùng mình. Chàng ôm vai nàng hỏi khẽ:

- Em lạnh lắm sao? Hay là tôi đưa em về?

- Không!

Nàng đáp thật ngắn và thật khẽ. Cả hai tiếp tục đi… cuộc đàm thoại rất ít. Họ dừng bước nơi công viên Hải quân.

Giờ này công viên chỉ còn đôi ba cặp nhân tình ngồi thủ thỉ những lời tình tự dưới ánh trăng.

Hoàng chọn chiếc băng dài cạnh bờ sông, trước mặt có gốc liễu, lá rơi là đà xuống mặt nước.

Cả hai ngồi lặng yên bên nhau, ngắm giòng sông êm ả trước mắt không khác gì tấm gương khổng lồ soi rõ bầu trời với trăng sao vằng vặc…

Chưa bao giờ Hoàng hưởng được hạnh phúc êm đềm như đêm nay. Bên cạnh người đàn bà này tâm tư chàng nhẹ nhàng thơ thới, bao nhiêu phiền toái mệt nhọc của đời như tan biến.

Trên thế gian này không có người đàn ông nào có người vợ đẹp và hiền dịu như nàng mà nỡ nhẫn tâm bỏ nhà ra đi. Thật tình Hoàng không hiểu nổi Thy!

Hai năm qua tới lui thân thiết với Thu Vân, Hoàng tế nhị không hỏi, cũng không nhắc đến sự ra đi của Thy, song chàng quyết chắc Thy theo Cộng Sản.

Miền Nam lúc bấy giờ bị Cộng Sản len lỏi chui rúc vào các cơ quan chính quyền và dân chúng để phá rối, không khác gì xã hội mắc phải chứng bệnh ung thư, mỗi ngày một trầm trọng, làm hư thúi cơ thể quốc gia.

Chứng bệnh ung thư vốn là chứng bệnh bất trị. Hoàng nghĩ, quốc gia mình bị nạn ung thư Cộng Sản thì sợ không còn cách cứu chữa, dù người Mỹ có đủ khí giới tối tân. Nhưng thuốc hay mà không chữa trị từ đầu, hoặc không biết cách chữa trị, thì cũng không thể ngăn chặn được sự bành trướng của hàng hàng rễ ung thúi…

Một Thy, nghe lời dụ dỗ đường mật của Hồ Chí Minh bỏ người vợ trẻ mới cưới ra đi, và còn hàng vạn người như Thy cùng chạy theo lý tưởng «Thiên đường Cộng Sản».

Nghĩ đến Cộng Sản, Hoàng bỗng lo sợ đến đại họa sẽ xảy trên quê hương. Nếu họ thắng, hai mươi triệu dân miền Nam sẽ bị đọa đày khốn khổ và nơi này sẽ biến thành địa ngục, chớ không là thiên đường như Thy mơ ước.

- Anh đang mơ mộng gì thế?

Câu hỏi của Thu Vân ngắt dòng tư tưởng của Hoàng. Chàng không giấu giếm, đáp:

- Tôi đang nghĩ đến hiểm họa Cộng Sản trong tương lai.

Câu nói của Hoàng khiến Thu Vân biến sắc. Cũng may họ không ngồi đối mặt với nhau và cũng may trời vềđêm trăng sao không soi rõ gương mặt đẹp của nàng đã mất sắc hồng!

Hoàng vụt đổi đề tài:

- Cũng có thể lần này gặp em là lần cuối. Trọn đời chúng mình không còn dịp ngồi bên nhau nữa.

- Vì sao chứ?

Nàng hỏi bằng giọng ngạc nhiên, xen lẫn kinh hãi. Nhưng Hoàng đáp bằng giọng bình tĩnh:

- Vì tôi sẽđi… đi thật xa.

- Tại sao anh phải đi? Anh đi đâu?

Nàng chiếu đôi mắt đẹp tuyệt vời nhìn chàng với nỗi buồn luyến tiếc. Hoàng muốn hôn đôi mắt đó, nhưng không dám, nói giọng dàu dàu:

- Tôi không thể tiếp tục sống đời buồn tẻở Mỹ Tho nên tôi muốn đi. Còn đi nơi nào thì tôi chưa quyết định, vì còn tùy ở em. Phải! Thu Vân, chỉ có em mới có thể gìữ chân tôi ở lại xứ này.

Câu nói của Hoàng làm Thu Vân bối rối, cúi mặt. Hoàng vụt choàng tay ôm vai nàng, một tay nâng mặt nàng lên, nhìn vào mắt nàng, nói giọng thật nhẹ và thật êm:

- Thu Vân! Anh yêu em! Lời này anh không cần nói ra chắc em cũng dư biết từ lâu. Anh muốn biết: em có yêu anh không? Và em bằng lòng làm vợ anh không?

Thu Vân không đáp, mắt long lanh ngấn lệ. Hoàng lấy khăn thắm nước mắt cho nàng, nhỏ nhẹ hỏi :

- Vì sao em khóc?

- Em sợ anh ra đi. Anh đi chắc em sẽ buồn lắm.

Chàng cười âu yếm:

- Anh sẽở bên em suốt đời, miễn em cho anh biết rõ rằng: Em cần anh, em yêu anh, em bằng lòng làm vợ anh. Một câu nói đó thôi anh sẽ về Saigon chung sống với em. Anh sẽ tìm mua căn nhà khác rộng rãi hơn để em đem Vân Long về sống chung. Em sẽ nghỉ làm việc và ở nhà chăm sóc hai con. Hai con của em cũng là con của anh…

Chàng hứa hẹn… chàng sắp sẵn cuộc sống tương lai…

Nhưng Thu Vân vẫn rơi rơi nước mắt. Hoàng ngạc nhiên hỏi:

- Em không bằng lòng những dự tính tương lai anh đề ra sao? Hay là em muốn thế nào, hãy nói ra, anh nhất định sẽ làm tất cả theo ý em.

- Em muốn chúng mình giữ mãi tình bạn như hiện hữu.

Câu nói của Thu Vân khiến Hoàng có cảm tưởng như bị nàng tạt vào mặt một ly nước lạnh. Chàng sững sờ, buông nàng ra, ngồi đờ một lúc mới lên tiếng:

- Không! Chúng ta không thể kéo dài tình bạn. Tôi không thể tiếp tục chịu đựng cuộc đời của một người đàn ông không vợ để mãi mãi si tình em. Không! Tôi đã dứt khoát: hoặc chúng mình sẽ nên duyên chồng vợ, hoặc tôi bỏ xứ ra đi thật xa để không còn thấy còn nghĩđến em nữa.

- Nhưng em còn chồng, còn con, làm sao em có thể kết hôn với anh?

- Có thật em còn chồng không? Hay là hắn đã bỏ em đi theo Hồ Chí Minh từ ba năm qua? Em có thể tiếp tục yêu một tên Cộng Sản à?

Giọng nói của chàng vừa lạnh, vừa gay gắt, khiến Thu Vân tủi thân, bật khóc thành tiếng.

Hoàng hối hận nắm tay nàng nài nỉ:

-

Anh xin lỗi, anh không cố ý làm em buồn. Tha lỗi cho anh! Thu Vân ngước mắt lệ nhìn chàng, nói:

-

Anh nào có lỗi gì với em? Em khóc là tủi thân em có chồng bỏ nhà đi theo Cộng Sản như anh đã biết.

Nói xong lời này nàng không khóc nữa, lấy khăn thấm nước mắt. Gương mặt đẹp thùy mị của nàng vụt rắn trở lại, y như sẵn sàng chấp nhận mọi thử thách của đời.

Hoàng lặng thinh theo dõi sắc thái biến đổi trên gương mặt của nàng, không dám nói lời gì thêm. Hay đúng ra chàng không còn lời để nói nữa.

Thu Vân chợt hỏi:

- Thì ra anh đã biết Thy theo Cộng Sản từ lúc đầu?

Hoàng gật đầu thay cho câu trả lời.

- Và anh cũng biết rằng Vân Trường chính là con của Thy?

Hoàng gật đầu lần thứ hai. Thu Vân nhìn Hoàng bằng ánh mắt nghi ngờ như không tin chàng nói thật. Hoàng biết nàng không tin lời mình, chàng cười nhẹ đứng lên đi tới gốc liễu, tựa lưng vào thân cây, hướng mặt về phía nàng, chẫm rãi nói:

- Không có gì khiến em ngạc nhiên cả! Anh đã từng đi du học, tất nhiên anh biết rõ thủ tục xuất ngoại du học ở nước mình khó khăn. Người sinh viên muốn ra nước ngoài học phải được Bộ Giáo Dục chấp thuận và luật lệ giấy tờ phải mất thời gian cả năm, chớđâu phải hễ ai có tiền là muốn rời xứđi đâu tùy ý như dân nước khác? Cho nên sự vắng mặt đột ngột của Thy ở Mỹ Tho mà gia đình em phao tin là Thy đi du học, chỉ những người chưa từng đi ngoại quốc mới tin, chứ như anh làm sao tin được?

- Như thế là anh đã đoán biết Thy theo Cộng Sản từ lúc đầu, nhưng sao lại nghĩ Vân Trường là con của Thy? Một khi Thy đã bỏ vợđi mất thì anh phải nghĩ rằng em đã phiêu lưu với người đàn ông khác chứ?

Câu nói của Thu vân khiến Hoàng ngước mặt lên trời cười một tràng dài. Thu Vân không hiểu cái cười của chàng, nghĩ chàng muốn chế riễu mình, nàng hổ thẹn đứng phắt dậy, chạy tới trước mặt Hoàng run giọng nói:

- Em biết anh muốn chế nhạo em! Em biết anh nghĩ em đã phiêu lưu với đàn ông khác mới có Vân Trường. Sự thật là như vậy! Em là người đàn bà vô đức hạnh như tất cả dân chúng tỉnh Mỹ Tho đã biết. Em đã hiến thân cho một tên rừng rú… Hắn đã… Hắn… hắn…

Nàng không quen nói dối, lại trong lúc tức giận vì hổ thẹn, miệng lấp bấp nói không ra câu. Nhắc đến đêm bị chồng cưỡng hiếp trong lòng nàng vừa tức giận vừa tủi thân, nước mắt ứa, đôi chân lệch lạc tiến tới phiá trước…

Hoàng thấy nàng sắp rơi xuống nước, hốt hoảng nhào tới chụp. Trong lúc khẩn trương, chàng dùng quá nhiều sức, cánh tay níu được Thu Vân kéo vào bờ, cả hai cùng té. Nàng nằm gọn trong lòng chàng đúng vào lúc tiếng khóc bật ra.

Hoàng ôm nàng đứng lên, vỗ về:

- Anh xin lỗi! Tại em hỏi anh một câu quá ngớ ngẩn khiến anh phải cười. Một người đàn bà như em mà muốn anh nghi ngờđiều đức hạnh sao được? Đừng nói chi đến việc hai năm qua tới lui với em, hiểu rõ tính nết đoan chính của em, nội nhìn mặt em cũng biết được em không thuộc loại đàn bà thích phiêu lưu tình ái, thìVân Trường hay em có một chục đứa con nữa, anh cũng biết là con của chồng em. Vả lại chính vì em có thai lần thứ hai nên anh mới quyết chắc Thy theo Cộng Sản. Bởi chỉ có người theo Cộng Sản mới sống lén lút và biệt tích một cách đột ngột.

Những lời giải thích của Hoàng không khác gì chàng vừa thoa chất thuốc sáp mát dịu trên vết thương lòng của Thu Vân. Nàng cảm nghe an ủi rất nhiều. Ít ra trong xã hội này có một người thấy được sự trung thành của nàng đối với chồng.

Bấy lâu thấy Hoàng theo đuổi mình, Thu Vân hiểu lầm vì Hoàng cho rằng nàng thuộc loại đàn bà thích phiêu lưu tình ái trong lúc chồng vắng nhà nên mới tới lui thân thiết.

Không ngờ chàng đã đoán biết Thy theo Cộng Sản, chàng cũng biết nàng là loại đàn bà trung thành đoan chính, thế mà chàng vẫn theo đuổi, vẫn yêu nàng! Tại sao?

Nàng ngước mắt lên…

Hoàng vụt nới lỏng vòng tay, bấy giờ mặt đối mặt… Thu Vân vẫn còn bận tâm với những câu hỏi trong đầu, thình lình môi chàng vụt đặt lên môi nàng.

Nụ hôn này Hoàng mơ ước từ hai năm qua. Nụ hôn này có thể là nụ hôn đầu của cuộc tình chàng, mà cũng có thể là nụ hôn cuối, nếu cuộc gặp gỡđêm nay trở thành buổi giã từ.

Hoàng nhắm mắt lại để tận hưởng cái hạnh phúc ôm người yêu trong vòng tay, mà cũng để thưởng thức cái thú vị trọn vẹn của nụ hôn tình.

Thu Vân không chống đối nụ hôn của Hoàng. Nhưng hình như nàng không dám thụ hưởng ? Đạo lý Khổng Mạnh buộc nàng phải tuyệt đối trung thành với chồng, đã cấm con tim nàng bồi hồi cảm xúc trước người đàn ông này. Nàng phải biến thành gỗđá không tim để giữ tiết hạnh của người đàn bà theo khuôn phép luân lý đặt ra.

Hoàng cảm giác được cái lạnh trong tâm hồn của Thu Vân trên môi nàng, nên không giữ nụ hôn lâu. Chàng buông nàng ra, nói giọng ngượng ngùng:

- Xin lỗi!

Tâm trạng của Thu Vân thật lạ lùng! Khi nãy nể tình Hoàng, nàng không chống đối, để mặc Hoàng ôm trong lòng, hôn lên môi, song thâm tâm có phần bất mãn. Bây giờ thấy chàng không nhìn mình nữa, lại có vẽ lãnh đạm xa cách, nàng tủi thân nước mắt đổ dài.

Hoàng dìu nàng trở lại ngồi nơi băng. Chàng cũng ngồi bên cạnh, nhưng cách nhau một khoảng. Khoảng ấy tuy gang tấc, nhưng Thu Vân có cảm tưởng như xa vợi muôn trùng.

Định mệnh đã như thế, đã xui cho nàng chọn Thy là chồng, nàng đành phải cam chịu số phận hẩm hiu của người đàn bà goá. Giữa nàng với Hoàng, hay bất cứ với người đàn ông nào khác, phải luôn luôn giữ một khoảng cách. Và nàng cũng biết rằng khoảng cách này mỗi ngày một nới ra xa, xô đẩy nàng về cõi chết cô đơn.

Nàng ngẩng mặt còn hoen lệ nhìn Hoàng nói giọng thảm thiết:

- Phải khi xưa em yêu anh thì em không gặp cảnh khốn khổ như vầy. Bây giờ duyên mình đã lỡ, em đành phải chấp nhận số phận của em.

Hoàng nhỏ giọng khẩn cầu:

- Em còn quá trẻ, cuộc đời còn dài. Em nên nghĩ đến tương lai em và hai con. Em đừng vì hai chữ tiết hạnh mà giết chết đời mình và các con.

Thu Vân tuyệt vọng:

- Nhưng em làm sao có thể làm lại cuộc đời? Làm sao em có thể kết hôn với anh? Hôn thú giữa em với Thy còn rành rành đó, trên pháp lý em vẫn còn chồng. Thy âm thầm ra đi, em phải khai Thy đi du học. Vì chắc anh cũng biết rõ, nếu chính phủ biết được em có chồng theo cộng sản, thì em làm sao sống yên? Đó cũng là lý do gia đình em không khai báo sự thật việc Thy bỏ vợ ra đi. Hơn nữa em theo Thiên Chúa giáo, cuộc hôn nhân giữa em và Thy có giáo hội và giáo đường chứng dám và em cũng có con với Thy. Giờđây nếu em muốn ly dị với Thy cũng không thể dễ dàng. Em sẽ viện lý do gì để đưa Thy ra tòa? Anh đừng quên là em không thể nói thật trước tòa án hiện Thy làm gì và ởđâu?

Những lời phân trần hữu lý của Thu Vân khiến Hoàng ngồi lặng với niềm tê tái.

Thật vậy! Hoàn cảnh của Thu Vân không thể chính thức ly dị với chồng, tất nhiên không thể chính thức kết hôn với chàng. Như thế nếu cả hai yêu nhau thì chỉ có thể sống lén lút như cặp nhân tình.

Quả là điều đáng buồn! Nhưng nếu chàng không chấp nhận cuộc tình như vậy thì chỉ còn cách dứt khoát xa nhau, rồi chàng sẽđi thật xa để tìm quên. Chắc là chàng sẽ buồn lắm. Nhưng tôị nghiệp cho người đàn bà đáng thương này. Nếu chàng bỏđi, còn ai lo lắng giúp đỡ nàng?

Tình yêu vốn có sức mạnh vô hình, không có biên giới nào ngăn cản được tình yêu, mà cũng không thành trì nào giam hãm được tình yêu.

Đạo lý và luật pháp không thểđình chỉ con tim chàng rung động trước một Thu Vân, thì tại sao chàng đầu hàng trước luật pháp và đạo lý?

Không! Chàng không cần phải tuân theo luật pháp hay đạo lý của người đời. Chàng chỉ cần nàng yêu mình. Chàng trân trọng nói:

- Anh chỉ cần em xác nhận là em yêu anh, chúng ta có thể làm chồng vợ mà không cần sự chứng nhận của pháp lý và giáo hội. Ở các nước Âu Mỹ, trai gái sống chung như vợ chồng, họ không cần ký kết hôn thú, cũng không cần giáo đường hay cơ quan hành chánh chứng giám.

- Nhưng chúng ta hiện sống trên đất nước chúng ta, đạo lý Khổng Mạnh còn ảnh hưởng nặng nề trong xã hội mình, sẽ không cho phép chúng ta yêu nhau, nếu không có pháp lý thừa nhận. Bởi vì pháp lý đã dựa vào luân lý của gia đình, xã hội và đạo giáo.

Hoàng cười nhẹ:

- Hừ! Luân lý! Đạo giáo! Hai thứđó là trò lừa phỉnh của xã hội và gia đình bày ra để trói buộc hai kẻ yêu nhau phải lệ thuộc vào họ. Anh không là người đàn ông ngu ngốc để người đời trói buộc mình. Thu Vân, anh mong em nhận thức điều này: «Chính luân lý và đạo giáo đã hãm hại đời em, đã khiến cho dân chúng tỉnh Mỹ Tho hành hung sĩ nhục em và sẽ để em chết dần mòn trong cuộc đời người goá phụ.

- Phải! Em biết chứ!

- Nếu em đã biết, sao em cứ khư khư giữđiều đức hạnh? Huống chi cái đức hạnh Khổng Mạnh đặt ra từ mấy ngàn năm xưa, ngày nay đâu còn giá trị nữa? Vào thời đại ấy đầu óc con người còn chưa phát triển; tất cả mọi lãnh vực khoa học, chính trị, xã hội, văn hoá… đều gò bó theo khuông phép gia đình. Cho nên đạo lý thời ấy phải khắt khe. Ngày nay theo đà tiến hoá của nhân loại, với sự phát triễn vượt bực của khoa học, cuộc sống con người đã đổi thay. Luân lý và đạo giáo cũng phải theo trào tiến hoá mà thay đổi chứ?

Thu Vân cúi mặt nghĩ ngợi… Một lúc nhìn thẳng vào mắt Hoàng, hỏi:

-

Anh muốn chúng mình sống chung như tình nhân? Cha mẹ anh có chấp nhận không? Hoàng trả lời không chút đắn đo:

-

Anh đã nói với em rồi. Anh sống cho em, cho anh, chớ không cho người khác. Cha mẹ anh có cuộc đời của họ.

- Nếu Thy trở về, anh sẽ giải quyết ra sao? Hoàng cười đau khổ:

- Đến giây phút này em còn hy vọng chồng em trở về! Em có biết, một người đã lỡ theo Cộng Sản suốt đời họ không thể ra khỏi vũng lầy đó không? Kẻ nào bỏ hàng ngủ Cộng Sản sẽ bị Đảng thủ tiêu, em biết chứ?

Thu Vân biến sắc sau câu nói của Hoàng. Hoàng hỏi tiếp:

- Giả tỉ Thy có thể trở về, em có thể yêu Thy như thuở ban đầu không?

Thu Vân đáp giọng yếu ớt:

- Em… em không biết!

Sự thật nàng cũng không rõ lòng mình có còn yêu Thy không? Một điều nàng biết chắc là nàng không dám yêu Hoàng, vì từ nhỏ đến lớn chịu ảnh hưởng gia đình ràng buộc bởi luân lý và đạo giáo, nàng không dám yêu người đàn ông thứ hai, ngoài chồng!

Lý trí đã cấm cản nàng, không cho nàng yêu Hoàng, nhưng tình là sự rung động của con tim. Con tim và lý trí ít khi nào hợp nhất! Cho nên mặc dù không dám, nhưng tim nàng có yêu Hoàng không? Thu Vân chưa biết rõ!

Hoàng thấy trời đã khuya, chàng đứng lên định mời nàng ra về, nhưng không hiểu sao chàng bỗng ngồi trở lại. Chàng ngồi thật sát với nàng. Thu Vân nghe rõ hơi thở của chàng dồn dập theo tiếng nói:

- Thu Vân em! Cho anh biết rõ sự thật, em có yêu anh không? Nếu em yêu anh mà vì sợ luân lý và đạo giáo cấm cản thì anh sẽ đưa em đi thật xa. Nước ngoài không ai chống đối tình duyên của chúng mình. Chúng ta sẽ được tự do yêu nhau, kết hôn với nhau. Vậy em hãy nói đi! Anh chỉ cần biết rõ lòng em yêu anh, anh sẽ đạp bằng mọi chướng ngại trên đời để tình yêu của chúng ta được trọn vẹn.

Hoàng đã cho nàng rất nhiều lựa chọn.

Bây giờ phần nàng quyết định. Nàng phải quyết định! Một lời nói của nàng thôi có thể thay đổi được vận mệnh của nàng…

Thu Vân thẫn thờ nhìn giòng sông lặng lờ trước mắt… Trời về khuya sương rơi lớp lớp…

Nàng không còn thấy gì nữa, ngoài lớp sương mù mịt giăng giăng che kín mặt nước. Tương lai của nàng thật mịt mờ không khác gì giòng sông kia…

Bỗng dưng nàng nghe cõi lòng trống lạnh và buồn tênh, đồng thời Thu Vân cũng nghĩ rằng mình chưa yêu Hoàng.

Bất thần hình ảnh hai con hiện ra… một Vân Long mủm mỉm dễ thương, một Vân Trường xinh đẹp kháu khỉnh… làm cho con tim nàng đập rộn lên.

Và Thu Vân chợt biết thêm một điều là nàng vẫn còn yêu chồng!

Oan nghiệt của ái tình là mỗi người chạy theo một ảo ảnh. Nàng không còn gì để quyết định nữa ! Con đường định mệnh đã có sẵn rồi.

Thu Vân đưa mắt nhìn Hoàng bằng cái nhìn ân hận tiếc rẽ. Hoàng như nhận được sự tuyệt tình của nàng qua ánh mắt, chàng cúi đầu che giấu nỗi thống khổ và tuyệt vọng, ngồi đờ một lúc đứng lên, nói:

- Khuya rồi, anh xin đưa em về.

Thu Vân cũng đứng lên bước đi một cách vội vã. Bước chân nặng chịch của Hoàng lê lết phía sau.

Suốt khoảng đường trở về khách sạn lấy xe và lên xe về nhà cả hai không mở miệng nói thêm lời nào. Mãi đến khi xe đậu bên lề trước ngõ nhà Thu Vân, Hoàng mới lên tiếng:

- Cám ơn em đã cho tôi đêm nay.

Chàng dứt câu, hối hả bước xuống xe mở cửa cho nàng ra ngoài. Thu Vân vẫn còn trong trạng thái thẫn thờ, chưa biết nói lời gì với Hoàng. Hoàng đã lướt qua mặt nàng, tới mở cửa rào, nói giọng thật bình thản :

- Chúc em nhiều may mắn. Đêm nay ngủ ngon nhé?

Không chờ nàng nói lời từ giã, chàng quày quả ra xe, chạy vọt đi.

Đôi chân Thu Vân bước đều đều trên lối đi vào nhà như người bằng máy.

Khi nãy nàng nghĩ: “Nàng chưa yêu Hoàng”. Nhưng giờ đây chàng bỏđi rồi, hồn nàng y như không còn nữa, y như chàng đã mang theo?

giavui
01-10-2015, 08:07 PM
CHƯƠNG BẢY

TÌM CON ĐƯỜNG SỐNG

Luật sư Lang vừa buông điện thoại xuống, hối hả xách cặp bỏ chạy, sau khi nói với Thu Vân :

- Tôi có một thân chủ vừa chết ở nhà tù, tôi phải đi ngay. Nhờ cô dọn dẹp bàn viết và tới giờ cứđóng cửa văn phòng ra về, đừng chờ tôi.

- Thưa vâng !

Thu Vân nhìn qua cửa sổ, thấy ông chủ của mình chạy quýnh ra đường suýt đâm vào một khách bộ hành. Nàng mỉm cười, nói một mình :

- Cả đời ổng chắc chỉ có chạy chớ không biết đi ! Lúc nào ổng cũng vội vàng, lúc nào ổng cũng gấp rút. Có lẽổng cũng không có giờ để ăn và để thở nữa ! Thật là con người đáng thương !

Nàng không rõ, lúc luật sư Lang về tư gia, cạnh vợ con, chẳng biết ông ta có bình thản không ? Tưởng tượng một người đàn bà có ông chồng lúc nào cũng lýnh quýnh cuống cuồng, chắc phải phát điên !

Nàng lại cười một mình. Tự nhủ : Có lẽ ông chủ mình nhiều việc quá nên lúc nào cũng gấp rút.

Thật thế ! Ngoài luật sư cãi tội cho tội nhân, ông ta còn quản lý một hảng bào chế thuốc, mà ông ta có 2/3 phần hùn. Ông còn làm việc mua bán nhà cửa và quản lý hai khách sạn cho người Mỹ thuê nên công việc rất bề bộn.

Ông có tất cả ba văn phòng. Hai văn phòng kia rộng lớn và có nhiều nhân viên hơn. Nơi văn phòng Thu Vân làm việc chỉ dành để tiếp những thân chủ có dính líu đến tòa án, trụ sở nhỏ và chỉ có hai thư ký là Lan Mai và Thu Vân.

Lan Mai giúp việc cho luật sư Lang mười năm rồi, đã 30 tuổi. Hai tuần nay Lan Mai được nghỉ phép ở nhà để lấy chồng, là một sĩ quan thuộc sở cảnh sát. Vì đã lớn tuổi và không còn thì giờ để chọn lựa, nàng bằng lòng làm vợ quan cảnh sát đã goá vợ, có hai con, mà nàng cũng không yêu ông ta.

Cuộc hôn nhân này hoàn toàn khác biệt với cuộc hôn nhân giữa Thu Vân và Thy độ nào. Một đàng vì tình, một đàng vì lý. Trong xã hội Việt Nam có rất nhiều cặp vợ chồng không hề yêu nhau trước, nhưng sau thời gian chung sống họ vẫn tìm được hạnh phúc, mặc dù khi kết hôn cả hai chỉ vì nhu cầu cần thiết của đôi bên.

Cũng vì không yêu nhau nên Lan Mai không có giây phút nôn nao cảm xúc như những cô gái sắp lấy chồng. Cho đến đổi chính luật sư Lang bảo cô nghỉở nhà lo việc hôn nhân, chớ Mai Lan vẫn muốn tới văn phòng làm việc.

Thu Vân tự hỏi : Cuộc hôn nhân này sẽ kéo dài được bao lâu ? Dù sao thì chắc chắn cũng không ngắn ngủi như nàng với Thy !

Buổi nay ngồi một mình trong văn phòng làm việc, Thu Vân vừa sắp xếp hồ sơ trên bàn viết của chủ, vừa nghĩ ngợi vẫn vơ…

Chợt nàng thấy ngăn tủ thường ngày luật sư Lang khóa kỹ, nay có lẽ vì hấp tấp ra đi không kịp đóng lại, để mở giữa chừng. Thu Vân cho tay định đóng lại, bỗng mấy hàng chữ ghi trên bìa hồ sơ để bên trong đập vào mắt nàng, khiến nàng tò mò lấy ra.

Mấy hàng chữ chẳng có gì đặc biệt, nhưng đối với nàng phải nói là đặc biệt, vì ghi như vầy : « Hồ sơ cá nhân của Mme Lê Thy, nhủ danh Trần Thu Vân » .

Ngần ngại một lúc Thu Vân quyết định mở ra xem bên trong luật sư ghi thế nào về mình ?

Ngoài phiếu lý lịch, khai sinh, bản kê lương bổng, Thu Vân còn thấy rất nhiều bì thư nét chữ của Hoàng gửi cho luật sư Lang.

Thu Vân lấy làm ngạc nhiên, không hiểu vì sao hồ sơ cá nhân của mình có dính líu đến Hoàng ? Lòng nàng chợt dâng lên niềm cảm xúc.

Nhớ lại buổi chiều cách đây sáu tháng…Hoàng từ Mỹ Tho lên Saigon đãi nàng cơm Tây, nhân ngày sinh nhật của nàng. Đêm đó cả hai tâm tình rất nhiều và Thu Vân đã từ chối lời cầu hôn của Hoàng, khiến chàng giận dỗi ra về. Sáu tháng qua chàng không tới lui nhà nàng nữa, nàng buồn nhớ lắm.

Hai năm tình bạn thân thiết, bỗng dưng chấm dứt một cách đột ngột, khiến cho không riêng Thu Vân, mà ngay cả Ngà và Vân Trường, chỉ hơn hai tuổi, cũng mất vui. Vì lệ thường cứ hai tuần Hoàng tới nhà một lần, trong nhà ai cũng vui cười thỏa thích, nghe Hoàng kể chuyện dí dỏm pha trò. Hoàng lại rất cưng Vân Trường, mỗi lần đến đều cho nó với Ngà lên xe dạo một vòng thành phố. Chúng thỏa thích lắm, còn quà bánh thì lúc nào cũng có sẵn trong xe.

Bây giờ thì không khí trong nhà buồn thiu. Bây giờ Thu Vân mới thấy được sự hiện diện của Hoàng trong đời nàng là cần thiết. Nhiều đêm trằn trọc không ngủ, nàng mơ ước Hoàng trở lại tiếp nối tình bạn ngày nào…

Nhưng mơ ước cũng chỉ là mơ ước thôi ! Hoàng cũng làm một cánh chim bặt tâm không khác gì Thy. Có điều lần này nàng không quá đau thương khốn khổ, vì Hoàng không là chồng, mà cũng có lẽ vì nàng đã quen chịu đựng cảnh bị bỏ rơi, nên nỗi khổ cũng nhẹ hơn.

Nàng nghĩ là nàng không yêu Hoàng, nhưng mỗi khi nhớ đến chàng lòng nàng dâng lên niềm cảm xúc. Nhìn nét chữ quen thuộc của chàng trên bì thư, Thu Vân bồi hồi xúc động, mặc dù thơ Hoàng đề gửi cho Lang.

Không cầm lòng được, nàng mở thư ngày gửi sau cùng nhất, cách đây một tháng. Thư như vầy :

Ngày …

Anh Lang thương mến,

Ngày mai này em sẽ lấy phi cơđi Hoa Kỳ và sẽở tiểu bang Boston. Cũng như anh đã biết, em xin rời Việt Nam với lý do đi học thêm ngành giải phẩu ở y khoa Đại Học Boston.

Em đi để tìm quên, nhưng chắc trọn đời em không thể quên nàng, dù mai kia em có lập gia đình với người khác. Tình yêu có một dây vô hình ràng buộc, trói chặc linh hồn mình với người mình yêu. Dù em sống ở phương trời nào, chắc linh hồn em không thể xa rời Thu Vân.

Mà có lẽ suốt đời em ôm mãi mối tình si với nàng, người đàn bà đã có chồng. Nàng càng chung tình với chồng, em càng quí trọng, càng yêu nàng hơn thêm. Cả hai cùng chạy theo ảo ảnh, rốt cuộc rồi cả hai cùng khổ ! Biết thế mà vẫn không mở được sợi dây oan nghiệt đó. Ôi chẳng qua là số phận ! Số phận nàng không may, mà số phận của em cũng chẳng vui sướng gì ! Thôi thì đành chấp nhận vậy !

Anh à,

Em ra đi, còn một số tiền ở ngân hàng khá nhiều để lại cho nàng. Em nhờ anh giữ dùm và hàng tháng cứ thêm vào tiền lương của nàng như bấy lâu nay. Hoặc giả lúc nào thấy nàng cần thì anh tự tiện trích ra trợ giúp nàng. Nhớ là đừng bao giờ cho nàng biết là tiền của em.

Nàng là người đàn bà đáng trọng và đáng thương. Tiếc rằng em không được diễm phúc nên duyên chồng vợ để chăm sóc thương yêu.

Vậy khi em đi rồi, mong anh cũng vì em mà giúp đỡ nàng như em dâu của anh.

Mấy lời gửi gấm với bao nhiêu tình. Cho em gửi lời chào thân ái đến chị và hôn các cháu.

Em họ của anh. Hoàng.

Nước mắt của Thu Vân rơi rớt một vùng trên bàn viết của luật sư Lang hồi nào nàng cũng không hay ! Tay run run, nàng mở những lá thư trước… hầu hết là thư của Hoàng chuyển tiền cho Lang hàng tháng để bù thêm lương cho Thu Vân.

Bức thư đầu tiên nhất, tức cách đây hơn ba năm, Hoàng giới thiệu Thu Vân đến làm việc văn phòng cho Lang. Trong thư Hoàng kể mối tình thầm kín của chàng với Thu Vân từ khi nàng chưa lấy chồng, đến khi nàng kết hôn với Thy và Thy bỏ vợ ra đi như thế nào…Thu Vân có con ra sao và khi có thai đứa thứ hai bị sự phản đối của dân chúng tỉnh Mỹ Tho như thế nào…Nhất nhất Hoàng rõ cho Lang biết và yêu cầu thu nhận Thu Vân vào làm việc ở văn phòng luật sư. Thư này Hoàng cũng cho biết hàng tháng chàng sẽ để thêm một số tiền vào lương của Thu Vân, để nàng có cuộc sống thoải mái. Thời gian Thu Vân sinh Vân Trường, ở nhà, cũng được hưởng lương do Hoàng gửi đến.

Bấy lâu thấy mình lương cao hơn Lan Mai gấp đôi, thỉnh thoảng còn được Lang tặng thưởng vào dịp cuối năm, lễ lộc v.v…Thu Vân rất cảm kích trước đặc ân của Lang mà trong lòng có chút thắc mắc, không hiểu sao ông chủ lại quá tốt với mình như vậy ?

Gìờđây rõ lại thì những gì Thu Vân có được đều do Hoàng âm thầm giúp đỡ.

Tình yêu của chàng dành cho nàng thật to lớn, mà có thể trên thế gian này không có người đàn ông nào đối đãi với người mình yêu hết tình và cao thượng như thế !

Vậy mà nàng nhẫn tâm tuyệt tình, nhẫn tâm từ chối tấm lòng cao thượng của chàng, khiến chàng phải ôm nỗi khổ ra đi.

- Trời ơi ! Hoàng ơi ! Khi em biết rõ tấm chân tình to lớn của anh dành cho em, khi em biết yêu anh thì đã muộn rồi. Ân tình của anh đời này em không trả được, tha lỗi cho em !

Nàng kêu thảm thiết trong lòng như vậy và ngồi phệt xuống ghế, gục đầu nơi bàn viết của Lang khóc ngất.

Nàng khóc mỗi lúc một tức tửi hơn. Nhớ đến bức thư chót của Hoàng trước khi ra đi để lại cho nàng một số tiền lớn, lại còn căn dặn Lang chăm sóc nàng như là vợ của chàng, nàng càng khốn khổ muốn chết.

Phải ! Chỉ có cái chết mới giải tội nàng đã làm khổ một người hết dạ yêu thương nàng.

- Hoàng ơi, em chỉ còn có cái chết để tạ tội cùng anh, mà cũng để trốn bỏ cuộc đời bơ vơ không có anh. Em đã mù quáng yêu Thy, một người chồng không ra gì. Em đã vì xã hội, vì luân lý, vi đạo giáo… mà hy sinh đời mình. Nhưng em đã không vì anh, đã tàn nhẫn với anh, trong khi anh cho em tất cả, hy sinh cho em tất cả !

Nàng rên rỉ ! Nàng ân hận ! Nàng nuối tiếc ! và ước mong giờ phút này có một cú sét từ trời giáng xuống đầu nàng, cho nàng được chết.

Đồng hồ trên vách ngân nga đổ sáu tiếng. Mặt trời đã bỏ trốn phương Tây rồi !

Thu Vân đứng lên, dọn dẹp nốt giấy tờ trên bàn của luật sư Lang, rồi thẫn thờ rời văn phòng làm việc.

Ra tới đường lộ, nàng không nhớ mình đã khóa cửa văn phòng chưa, nên quay trở lại.

Nàng trở lại đứng tần ngần trước cửa mà không biết mình phải làm gì ? Ngẩn ngơ một lúc nàng bước ra đường lộ, mà cũng chẳng biết đi đâu ? Đôi chân bước đều đều từ con đường này, qua con đường khác…

Một lúc sau trước mắt nàng hiện ra một công viên, bên cạnh là giòng sông nước chảy cuồn cuộn. Mùa này là mùa mưa, nước chảy thật xiết.

Nàng đi vào công viên… chợt nhớ lại nơi này cách đây sáu tháng Hoàng và nàng đã tới. Rõ ràng chiếc băng kia, gốc liễu nọ còn sờ sờđó…Những lời thân ái ngọt ngào của chàng như còn văng vẳng bên tai… Nụ cười thân ái trên gương mặt rạng rỡ của chàng như hiện ra trước mắt…

Bất thần toàn thân nàng rạo rực đê mê khi nhớ lại khoảng đó là nơi cả hai cùng té và chàng đã ôm nàng vào lòng, đã hôn lên môi nàng…

Nụ hôn đêm nào nàng không dám thụ hưởng, giờđây nàng mới cảm xúc mãnh liệt hơi nóng ấm áp của đôi môi chàng truyền vào cơ thể, khiến con tim nàng đập rộn ràng, hồn xác sung sướng chất ngất…

Thu Vân nhắm mắt lại thật lâu để tưởng nhớ tất cả những gì xảy ra trong đêm gặp gỡ hôm nào…

Đáy lòng nàng chợt kêu lên tiếng kêu thảm thiết :

- Hoàng ơi, nụ hôn tình chàng đã cho em từ sáu tháng trước, hôm nay em mới nhận. Hôm nay em mới biết rõ lòng em yêu anh. Chỉ vì hai chữ « tiết hạnh » em không dám nhận thức điều này. Em đã giả tuồng hờ hững với anh, em đã dối gạc anh, cũng như em đã dối gạc lòng em ! Em đã bóp nát tim anh, mà em cũng đã giết chết đời em !

Cùng với tiếng lòng, tiếng khóc cũng bật ra, nước mắt ràng rụa, nàng chạy phăng phăng tới trước…

Giòng nước chảy cuồn cuộn…Giòng nước này có thể đưa nàng xa lìa cõi đời đau khổ, nàng sẽ không phải sống ray rứt tiếc thương mối tình vừa nẩy sinh, nàng sẽ được bình an trong cõi chết !

Đây là giòng sông định mệnh của nàng !

Chân đang lao tới…bất thần Thu Vân bị một cánh tay giữ lại. Trong giây phút cận kề với cái chết, Thu Vân mường tượng cánh tay đó của Hoàng, nàng ngã vào tay chàng kêu khẽ :

- Anh ! Anh đừng bỏ em ! Em yêu…

Miệng nàng đang nói, vụt há hốc kinh hãi vì thấy màu đen y phục của ai? Thu Vân chợt nhớ đến bộ y phục đen xì của Thy đêm nào…

Lòng kinh sợ tột độ, nàng thét lên một tiếng rồi ngất đi. Lúc ấy có một giọng nói thật ấm và thật dịu phát ra:

- Chúa ôi, tôi đã làm cô kinh sợ đến thế sao? Cô! Tỉnh dậy đi cô! Cô còn trẻ quá, chớ vội tìm cái chết.

Tiếng nói người này thật ấm, mơ hồ như khúc nhạc trầm, gây êm ái trong lòng người nghe. Tiếng nói này hoàn toàn xa lạ, không phải của Thy, cũng không phải của Hoàng.

Thu Vân mở mắt ra…

Một người đứng trước mặt nàng trong lớp áo đen dài và rộng. Người này còn trẻ lắm, chắc vào khoảng ba mươi, gương mặt thông minh thánh thiện, vóc người đong đỏng cao.

Một linh mục?

Nàng đã chết hay sắp chết mà bên cạnh hiện diện một nhà tu?

Nàng chờn vờn ngồi bật dậy trong trạng thái kinh hoàng, mặc dù trước đó nàng tìm cái chết, nhưng con người khi nghĩ mình sắp chết không khỏi hoảng kinh!

Chợt giọng nói đầm ấm của người ấy lại vang lên, cùng với cái nhìn thật từ ái:

- Tôi có thể giúp cô điều gì không? Trời đã tối rồi, tôi gọi xe đưa cô về nhà nhé? Cô còn quá trẻ, cuộc đời còn dài, chớ nên tìm cái chết mà làm đau lòng cha mẹ.

Dù nàng đã là đàn bà hai con, dù khổđau đã chồng chất, nhưng với mớ tuổi 22, trên gương mặt xinh đẹp ấy chưa lưu nét phủ phàng của thời gian, khiến người kia tưởng lầm nàng là gái mới lớn, thất tình, tuyệt vọng!

Thu Vân vẫn chưa định tĩnh tinh thần, dù tai nàng nghe rõ những lời người ấy nói.

Người ấy ngồi xuống bên cạnh nàng, nhỏ nhẹ hỏi:

- Nhà cô ởđâu?

Không nghe nàng đáp, người ấy hỏi tiếp:

- Vì sao cô tìm cái chết? Cô không còn thân quyến sao?

Câu hỏi sau cùng của người ấy nhắc Thu Vân nhớ đến hai con và cha mẹ. Trong giờ phút quá đau khổ và ân hận vì đã bỏ mất tình yêu của Hoàng, nàng quyết tìm cái chết mà quên mất trách nhiệm làm mẹ!

Toàn thân nàng toát mồ hôi lạnh khi nhớ tới giờ này Vân Trường đang khóc gào nhớ mẹ. Và Ngà, cô gái giúp việc, chắc lo âu sợ hãi vì chủ chưa về đến nhà! Có lẽ nó đang dắt con nàng ra đường tìm nàng…

Ý nghĩấy làm nàng sợ hãi, đứng phắt dậy, toan chạy.

Vị tu sĩ không rõ ý nghĩ trong đầu nàng, tưởng nàng lại muốn đâm đầu xuống giòng nước, nên nắm cánh tay nàng giữ chặt, nói:

- Tôi đưa cô về nhà.

Không chờ nàng đồng ý hay không, người ấy dắt nàng rời khỏi công viên. Thu Vân ngoan ngoản đi theo người ấy ra đến lộ vừa lúc có một taxi chạy tới.

Người ấy đón xe và mở cửa cho Thu Vân leo lên, rồi cũng vào ngồi một bên. Người tài xế hỏi:

- Quí vịđi đâu?

Vị linh mục hết sức bối rối trước câu hỏi của người tài xế. Cũng may Thu Vân đã qua cơn chấn động tâm thần, nàng đáp bằng giọng khẩn trương:

- Xin gấp đưa tôi về ngã tư Phan Thanh Giản và Duy Tân.

Xe chạy vút đi sau câu nói của Thu vân. Khi nãy nàng tìm cái chết, giờ nàng nóng lòng gặp con, hai tay bấu víu với nhau, sắc mặt lo âu, đôi môi mím chặt…

Vị tu sĩ ngồi lặng im theo dõi mọi cử động của nàng. Xe đến nơi, Thu Vân bảo người tài xế dừng xe trước ngõ nhà nàng và lýnh quýnh mở cửa xe bỏ chạy. Nàng chạy được mấy bước, chợt nhớđến vị linh mục nên quay trở lại nói:

- Cám ơn Cha…

Nhưng nàng chưa nói dứt câu, vị linh mục đã trả tiền xe và bảo:

- Tôi đưa cô vào nhà. Tôi muốn gặp cha mẹ của cô.

Thu Vân có hơi bối rối, nhưng không chống đối. Nàng bước nhanh đến cỗng rào đã thấy Ngà đang đứng trông ngóng chủ trở về. Nghe tiếng động trước ngõ, nó mừng rỡ bật ngọn đèn trước sân chạy ra ngoài, reo lên:

- Cô đã về! Cám ơn Trời Phật! Em lo cho cô quá! Vân Trường đã ngủ. Em…

Cô gái không nói tiếp, vì chợt thấy sau lưng chủ có người lạ, một linh mục.

Thấy mặt con Ngà và nghe những lời nó nói, Thu Vân thở phào nhẹ nhõm. Bao nhiêu đau buồn khốn khổ trọn buổi chiều như qua đi!

Nàng đã về đến nhà, con nàng đã yên ngủ. Không còn nỗi vui mừng nào hơn nữa, nàng mỉm cười với vị linh mục:

- Kính mời Cha vào nhà.

Gương mặt thiên thần của nàng với nụ cười rạng rỡ qua ánh đèn như có vầng hào quang, khiến người tu sĩ nhìn nàng sững sờ, tâm thần y như bị chấn động, bàng hoàng một lúc mới bước đi.

Trong nhà đèn đốt sáng choang, vị linh mục được Thu Vân mời ngồi nơi phòng khách. Nàng kính cẩn nói:

- Trong nhà không có ai ngoài thằng con của con hai tuổi và cô gái giúp việc kia. Con xin phép Cha vào thăm thằng bé một phút rồi sẽ trở ra đây hầu tiếp Cha.

- Xin Madame cứ tự nhiên.

Nàng gật đầu lui bước vào phòng trong. Bấy giờ vị linh mục mới biết nàng là đàn bà, đã có con. Và theo như lời nàng vừa nói, nàng sống một mình với con và người tớ gái, không có chồng hay thân quyến nơi đây.

Từ lúc gặp nàng ngoài công viên đến giờ tâm tình nàng thay đổi liền liền, lúc khóc lóc thảm thiết tìm cái chết, lúc kinh hoàng sợ hãi, lúc rạng rỡ mừng vui. Bây giờ trở thành người đàn bà tề chỉnh, bình thản, y như mọi sự xảy ra trước đó không dính líu đến nàng. Thật là người đàn bà lạ lùng!

Giữa lúc vị tu sĩ thắc mắc nghĩ ngợi…Thu Vân trở ra, trên môi điểm nhẹ nụ cười. Nàng ngồi xuống ghế đối diện, nhỏ nhẹ nói:

- Cám ơn Cha đã cứu con và đưa vềđây. Trong phút giây nông nổi con…

Nàng nghẹn ngào không nói tiếp và chợt đổi sắc mặt tươi cười khi thấy con Ngà đi ra, trên tay mang một cái khay với bình trà và hai cái tách.

Nàng đỡ lấy khay đặt lên bàn nhỏ, rót trà mời khách và hỏi giọng thật bình thản:

- Hôm nay Cha không có lễ buổi chiều ở nhà thờ?

- Tôi vừa từ ngoại quốc tu học trở về, được bề trên cho nghỉ ít hôm. Hiện tôi chưa nhận chức việc ở nhà thờ, nên nhân lúc rỗi rảnh đi đó đi đây nhìn phố phường Saigon sau mười năm xa cách. Buổi chiều mát trời tôi thuờng hay thả bộ dọc theo bờ sông, nhờđó mới gặp …bà.

Thu Vân có hơi ngượng khi nghe vị tu sĩ nói chuyện với mình bằng lời trịnh trọng, nàng ấp úng nói:

- Con tên là Trần Thu Vân. Xin Cha gọi con là Thu Vân …tiện hơn.

Vị tu sĩ mỉm cười :

- Nếu cô cho phép. À, tôi xin tự giới thiệu, tên tôi là Nguyễn Duy Quang, dân Saigon. Còn cô ? Chắc cô cũng dân Saigon ?

- Không ! Con gốc người Mỹ Tho. Con sống ở Saigon chỉ vài năm thôi.

Dường như nàng tránh nói về mình nên đổi ngay vấn đề:

- Thế ra Cha đi tu học ở Pháp mới về?

- Không! Tôi tu học ở Bỉ và được thụ phong linh Mục ở Bỉ từ hai năm qua.

Ngà vụt ló mặt ra hỏi:

- Con có thể dọn bữa ăn tối chưa, thưa cô?

Thu Vân kính cẩn hỏi Cha Duy Quang:

- Thưa Cha, Cha đã ăn cơm chiều chưa? Nếu chưa, con xin phép mời Cha bữa cơm thanh đạm.

Duy Quang vui vẻ nhận lời:

- Tôi rất thèm những món ăn bình dân xứ mình, vì những món này ở ngoại quốc không có dịp ăn.

Thu Vân mừng rỡ:

- Nếu thế bữa nay con xin mời Cha món ăn bình dân của tỉnh Mỹ Tho.

Nàng đứng lên xin phép Cha Duy Quang vào nhà bếp trong chốc lát. Trong khi Ngà, cô gái giúp việc, đặt bàn. Duy Quang ngồi trên ghếđưa mắt quan sát gian phòng…

Phòng khách trình bày thật trang nhã. Có hai điều Duy Quang lưu ý là bức ảnh rọi lớn của người đàn ông trẻ treo trên mặt vách và một hình vẽ Đức mẹ Marie chưng trên tủ buffet.

Như vậy nữ chủ nhân theo Thiên Chúa giáo và người đàn ông trong ảnh có lẽ là chồng. Có lẽ người ấy mới chết nên người đàn bà khốn khổ này không muốn sống nữa!

Thức ăn đã có sẵn nên nữ chủ nhân trở ra nhanh lắm. Và khi cả hai ngồi vào bàn, Duy Quang lên tiếng:

- Tôi nghĩ, chắc cô theo Thiên Chúa giáo, tôi xin cầu nguyện tạơn trước khi ăn.

- Vâng! Xin Cha vui lòng cầu nguyện.

Cha Duy Quang ăn rất tự nhiên. Trong bữa ăn Cha kể: Khi xưa cha của Cha làm Thông dịch viên cho các Linh Mục và các bà Sơ người Pháp. Một hôm cha mẹ của Cha về Tây Ninh thăm gia quyến bị Cộng Sản bắt giết về tội giao thiệp với người Pháp, mà họ gọi là tội Việt Gian. Dĩ nhiên họ giết cả giòng họ. Cha thoát chết là nhờ bà vú nuôi ẳm Cha chạy trốn về Saigon, giao cho Cha nhà dòng, lúc ấy Cha mới ba tuổi. Và vì mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được nhà Dòng nuôi dưỡng, nên lớn lên Cha mới chọn cuộc đời dâng cho Chúa. Cha nói:

- Đạo có thể giải tỏa nỗi khổ của đời. Từ khi tôi dứt khoát với đời, chọn cuộc đời tu sĩ, tâm linh tôi nhẹ nhàng thơ thới. Tôi rất vui sống, và không thấy lẻ loi khốn khổ vì thân phận mồ côi, bởi tôi biết Chúa lúc nào cũng cận kề bên tôi.

Thu Vân nghe mấy lời Cha nói, cúi đầu ngẫm nghĩ một lúc ngẩng mặt lên hỏi:

- Thưa Cha, một người không thể bỏ đời, sống với đạo được không Cha?

- Được chứ! Có biết bao nhiêu người tu tại gia. Đấy là những người không phải là tu sĩ, nhưng họ sống không khác gì người tu. Ngoài những lúc phải giao tiếp với đời, thời giờ còn lại họ lo việc đạo. Ở nước ta, tín hữu theo Phật giáo rất nhiều. Nếu cô lưu ý sẽ thấy, có nhiều người Việt ăn chay trường, sống thanh đạm đơn sơ không khác gì các nhà Sư.

- Thưa phải! Cha nói đúng lắm!

Nàng chợt ngưng ăn, ánh mắt xa xăm…hồi tưởng cuộc đời mình, 22 xuân xanh, với hai mối tình phù du ngắn ngủi.

Cuộc đời này không còn gì để nàng theo đuổỉ nữa! Nhưng nàng còn trách nhiệm nặng nề làm mẹ cho hai con, nên không thể chọn kiếp sống tu sĩ. Cha Duy Quang đã vạch cho nàng một hướng đi: “làm người tu tại gia”. Tức là nàng vẫn sống đời bình thường, tìm lẽ sống ở đạo, ở Chúa.

Thật thế! Chỉ có con đường đó mới giúp nàng can đảm tiếp tục sống đời người đàn bà không chồng, có hai con. Đời của một goá phụ! Trong xã hội này người ta rất quí trọng những người đàn bà có chồng quyền cao chức trọng và người ta rất coi rẽ những người đàn bà không chồng, những goá phụ! Họ và những đưá con côi là những nạn nhân bi thảm nhất trong xã hội này. Vì không những họ thiếu thốn từ vật chất đến tình thương , mà còn chịu biết bao điều tủi nhục!

Trong xã hội có chiến tranh con người trở nên tàn nhẫn, lòng nhân đạo bác ái cũng mất đi, hay suy giảm. Gặp người đàn bà bơ vơ khốn khổ, thay vì người ta đưa tay nâng đỡ cứu giúp, an ủi…thì người ta lại muốn nhận xuống vũng lầy cho chết luôn!

Vì sao có trạng thái vô nhân đạo đó?

Xét về tâm lý học, có thể vì người sống trong chiến tranh, họ thấy cái chết quá cận kề, nên mới xâu xé chà đạp hủy hoại nhau để tranh giành cái sống.

Xem như một quốc gia thanh bình, thường thường dân họ sống chung rất thân thiện. Họ dễ cảm thông, dễ tha thứ và lòng bái ái từđó cũng nảy sinh.

Thượng Đế tạo nên loài người lúc sinh ra đời chỉ là đứa bé hồn nhiên không biết điều thiện ác. Khi lớn lên đưá trẻ trở thành người tốt hay người xấu là do xã hội tốt xấu mà đưá trẻ bị tiêm nhiễm.

Đương nhiên những người không bị tiêm nhiễm cái xấu của xã hội thì họ là nạn nhân, hoặc nếu không là nạn nhân thì họ cũng là người chịu nhiều thiệt thòi.

Thu Vân không những là nạn nhân của người chồng Cộng Sản, mà còn là nạn nhân của xã hội xấu gây ra bởi chiến tranh. Nàng còn sống trong xã hội này, tất còn khổ. Chỉ một phương cách duy nhất giúp nàng đương đầu với cái khổ là hướng về đạo.

“Đạo có thể giải toả những nỗi khổ của đời.”

Câu nói của Cha Duy Quang khi nãy vô cùng chí lý!

Phải chăng Chúa muốn cảm hoá nàng, mới khiến cho giờ phút nàng đi tìm cái chết có một linh mục xuất hiện để cứu nàng phần xác lẫn phần hồn?

Ý nghĩấy khiến nàng xúc động, ngẩng mặt lên trời như muốn tạơn Thượng Đế.

Duy Quang ngồi đối diện với nàng, theo dõi từng sắc thái biến chuyển trên gương mặt của nàng…

Bất thần chàng nhận ra gương mặt của người đàn bà trẻ trước mặt có nhiều diểm tương hợp với người đàn bà chàng tôn thờ: Chính là thánh mẫu Marie.

Phải! Một gương mặt dịu hiền, với nét đẹp thiên tiên, không phải của loài người!

Lúc nãy ngoài ngưỡng cửa, khi đèn bật lên, nàng cười rạng rỡ dưới ánh đèn, tưởng chừng như có vầng hào quang bao quanh gương mặt ấy, khiến chàng chấn động tâm thần mà không rõ vì sao?

Giờđây chàng mới rõ nguyên nhân và khi rõ được nguyên nhân Duy Quang không khỏi xúc động. Đồng thời trong lòng chàng dâng lên niềm thương kính, khiến chàng muốn làm điều gì đó cho nàng, hay nói đúng ra chàng muốn giúp nàng qua cơn khủng hoảng trầm trọng của đời. Chàng hỏi:

- Tôi có thể biết lý do vì sao chiều nay cô muốn tìm cái chết?

Câu hỏi đột ngột của Cha Duy Quang khiến Thu Vân lúng túng vài giây. Nàng không dám ngẩng mặt lên, cúi đầu đáp thật nhỏ:

- Tâm sự của con khá dài, chỉ sợ giờ này đã khuya rồi, con không đủ thời giờ để kể Cha nghe.

- Nếu cần nói để vơi nỗi khổ, cô cứ nói, tôi sẵn sàng nghe, chắc chắn tôi sẽ giúp cô nhiều ý kiến. Hoặc giả hôm nay cô không tiện nói, hôm khác tôi sẽ trở lại. Hay là tôi mời cô tới giáo đường Chúa Nhật sau, sau giờ Thánh lễ?

- Vâng, con rất muốn được Cha giải tội. Hôm nay ở nhà không tiện nói. Con sẽ tới gặp Cha ở Giáo đường. Xin Cha cho con rõ, Cha lo giáo vụở nhà thờ nào?

- Tôi làm phụ tá cho Cha xứở nhà thờ Đức Mẹ, ngay trung tâm Saigon, chắc cô biết?

- Thưa vâng! Con vẫn đi lễ nơi đó.

- Vậy tôi hẹn cô tuần sau nhé?

- Vâng! Cám ơn Cha.

Uống tách trà một cách vội vã, Duy Quang đứng lên giã từ. Thu Vân tiễn Cha ra tận đường lộ.

Đón một chiếc xích lô đạp, Duy Quang lên xe, sau khi nhủ với Thu Vân lần chót:

- Những lúc buồn khổ cô nên cầu nguyện nói chuyện với Chúa, tâm linh sẽđược nhẹ nhàng.

- Vâng, con xin ghi nhớ lời Cha dạy.

**

Giáo đường lúc bấy giờ vô cùng im vắng, không còn lai vãng bóng người.

Nơi “phòng cáo giải” Thu Vân nghẹn ngào kể lại đời mình… Bên kia vách ngăn, Duy Quang nghe với niềm xót xa thương cảm.

Có thể nói là lần đầu tiên, từ khi nhậm chức Linh Mục, Duy Quang mới nghe một tâm sự não nùng và thương tâm đến thế.

Một người đàn bà bị chồng bở rơi, phải nuôi con, lại còn bị người đời sĩ nhục.

Trong xã hội này con người quá tàn nhẫn. Phải chăng vì luân lý quá khắt khe, hay vì xã hội đầy vẫy những con người vô nhân?

Có thể nói nàng là nạn nhân của tất cả!

Điều thương tâm hơn hết là vì “tiết hạnh” mà nàng không dám chấp nhận tình yêu của Hoàng, một người đàn ông hoàn hảo mọi phương diện.

Đức hạnh của Không tử đặt ra từ mấy nghìn năm xưa, buộc người đàn bà phải chung tình với chồng, dù chồng có bỏ đi bao năm, vẫn phải kiên tâm chờ đợi, không được luyến ái người đàn ông khác.

Giáo lý này đã ăn sâu vào gia đình và xã hội Việt Nam biến thành thói quen và tập tục, cho đến đổi chính người đàn bà cũng thấy điều đó là phải. Họ không phản đối, họ sẵn sàng chấp nhận cái giáo lý bất công ấy. Thật đáng thương!

Càng nghĩ, Duy Quang càng tội nghiệp Thu Vân, tuổi còn quá trẻ, tình yêu chưa kịp hưởng, xuân xanh sẽ chôn vùi theo thời gian để tròn bổn phận người vợ chung tình và người mẹđức hạnh cho hai con.

Kẻ có tội là Thy! Nhưng xét cho cùng Thy cũng đáng được tha thứ. Vì phe Cộng Sản có lối tuyên truyền xảo quyệt, dễ thu hút người nghe, nhất là giới trẻ. Thy còn trẻ, yêu nuớc, muốn làm người hùng…tất rơi vào cạm bẫy của họ dễ dàng. Thy cũng là kẻđáng thương !

Dĩ nhiên, chàng là người tu hành, tấm lòng vị tha đã có sẵn, nên tìm mọi lý lẽ để tha thứ tội lỗi của Thy. Chàng nói :

- Tôi không biết khuyên cô điều gì hơn là can đảm sống, tìm niềm vui bên hai con và tìm an ủi nơi Chúa. Cô cũng đừng nên oán hận chồng. Thy tuy có tội với vợ con, nhưng cũng là kẻđáng thương nhất, vì Thy đã bị bọn cầm đầu Cộng Sản lợi dụng để hy sinh cuộc đời cho tham vọng của họ. Thy không khác gì người mù, bị bọn người tàn ác dẫn đưa về nẽo chết mà không hay biết, chỉ vì mơ ước tạo dựng thiên đường cho quê hương. Tội nghiệp Thy ! Hy vọng một ngày nào đó chồng cô sẽ thấy bộ mặt thật của phe Cộng Sản, sẽ hồi tâm trở về với vợ con. Cô nên cầu nguyện thật nhiều, Chuá sẽ giúp cô.

- Thưa vâng !

Theo lời khuyên của Cha Duy Quang, nàng phải cầu nguyện thật nhiều, xin Chuá khiến cho Thy hồi tâm trở về.

Nàng tự hỏi : Thy còn sống hay đã chết ?

Hơn ba năm nàng không nhận được tin của chồng. Có thể chàng đã chết trong rừng sâu, cũng có thểđã phơi thây ngoài chiến địa…Hay dù chàng còn sống mà hồi tâm trở về, không biết tình yêu của cả hai có còn nguyên vẹn như thuở ban đầu không ?

Chắc chắn là tình yêu đối với chồng trong lòng nàng không còn nguyên vẹn nữa, vì nàng đã yêu Hoàng.

Nhưng Cha Duy Quang đã không khuyên nàng nguyện cầu cho sự trở về của Hoàng và chính nàng cũng không dám cầu xin Thượng Đếđiều đó.

Thu Vân bật khóc !

giavui
01-10-2015, 08:07 PM
CHƯƠNG TÁM

THÀNH TÍCH CỦA NHỮNG NGƯỜI HÙNG CỘNG SẢN
(1969)

« Đạo đã giải tỏa những nỗi khổ của đời »

Thật thế ! Mười năm qua Thu Vân làm tín đồ ngoan đạo, ngoài giờ tiếp xúc với người đời trong công việc, thời gian còn lại nàng sống cho đạo.

Gần như mỗi ngày sau giờ làm việc nàng ghé giáo đường cầu nguyện trước khi về nhà. Nàng đã tìm được nguồn vui trong tâm linh, nhờđó nỗi khổ cũng vơi đi.

Bây giờ nàng có rất nhiều nghị lực sống đời người góa phụđể nuôi con.

Con nàng đã lớn theo thời gian. Vân Long nay đã 13 tuổi, Vân Trường 12 tuổi. Vân Long vì được bà ngoại nuôi từ nhỏ, nên quyến luyến ngoại, không chịu về với mẹ, thành ra nó vẫn sống ở Mỹ Tho.

Vì vậy Thu Vân chỉ phải chăm sóc cho Vân Trường. Vân Trường giống mẹ từ bản chất đến hình hài, thật đẹp trai, tính tình vui vẻ hiền hậu và rất chí hiếu. Tuy mới 12 tuổi mà biết làm việc trong nhà, trong khi mẹđi làm.

Cô gái giúp việc là Ngà, Thu Vân đã cho nghỉ việc từ một năm qua, vì đồng lương của nàng hiện giờ không đủ để nuôi gia tớ, dù rằng lương của nàng được luật sư Lang trả cao hơn nơi khác.

Chỉ vì kinh tế trong nước khủng hoảng trầm trọng, đồng tiền mất giá một cách thảm hại. Bây giờ đời sống của các công tư chức, dù cao cấp ở bậc Giám Đốc cũng phải rất tiện tặn.

Nguyên nhân là vì chiến tranh mỗi ngày một gia tăng. Cộng sản đánh phá khắp nơi. Miền quê bất an, nông dân di tản về thành phố, ruộng vườn không người trồng trọt, nạn thất nghiệp lan tràn.

Hồi đầu năm 1968, nhân ngày Tết, dân chúng vui chơi đón lễ đầu năm, quân Cộng Sản thừa dịp tấn công vào các thành phố và thủđô Saigon, mặc dù hai bên ký kết đình chiến vào những ngày này.

Bịđánh bất ngờ, song quân đội của chính phủ cũng giải cứu kịp thời Saigon và các tỉnh. Tuy nhiên , trong khi hai bên giao tranh, nhà cửa bị tàn phá, dân chúng bị trúng thương, vô số người bị chết cháy vì bom lữa.v.v…Sự thiệt hại về dân sự thật nặng nề, nhất là những nơi quân đội chính phủ không giải cứu kịp thời, bị cộng sản chiếm cứ 2,3 ngày, như các tỉnh miền Trung và thành phố Huế, Cộng Sản đã giết hàng chục ngàn dân vô tội bằng cách chôn sống trong những mồ tập thể, số người bị chết gần phân nửa dân chúng trong tỉnh. Phố phường và lăng tẩm của Vua Chúa xưa kia bị tàn phá.

Thật là một thành tích vỉ đại của những người hùng Cộng Sản!

Mặc dù đánh lén, đánh bất chợt, trong thời gian hai bên ký kết đình chiến và thu lượm được thành tích vỉ đại vào đầu năm 1968 mà vẫn không chiếm được miền Nam, nên phe cộng Sản tung ra chiến lược mới là pháo kích vào thành phố Saigon và các tỉnh, bất kể giờ giấc.

Lúc đầu chúng nhắm vào các cơ quan của chính phủ, sau đó các nhà lãnh đạo Cộng Sản thấy rằng: muốn gây xáo trộn dân tình, cần phải nhắm vào đại đa số quần chúng, nên chúng pháo kích bừa bãi vào khu dân cư, bất kể trường học hay nhà thương v.v…

Đương nhiên vớí chiến lược mới này, các nhà Cộng Sản “ái dân” thành công rực rỡ, vì ngày nào cũng có vô số đồng bào vô tội chết hoặc bị thương, bất luận giàu nghèo, già trẻ.

Người dân miền Nam lúc bấy giờ sống trong hãi hùng, vì không biết lúc nào bom đạn rơi xuống đầu mình, không ai còn hăng hái làm việc. Các cơ quan công, tư, các xí nghiệp vv…cũng vì đó mà hoạt động ngưng trệ, kinh tế kiệt quệ, dân tình hổn loạn…

Hôm ấy Thu Vân vừa đi làm về đến nhà đã thấy Vân Trường đứng đón ngoài cổng rào, đôi mắt còn đỏ hoe như vừa mới khóc. Thu Vân ôm con vào lòng, nhỏ nhẹ hỏi:

- Vì sao con khóc? Mấy thằng bạn làm mích lòng con chăng?

Vân Trường lắc đầu, kéo mẹ vào nhà, nói:

- Có ông ngoại trong nhà mẹ à.

Nghe tin cha đến thăm, Thu Vân mừng rỡ bước gấp vào nhà, trên môi điểm sẵn nụ cười đón mừng. Chừng thấy cha ngồi ủ rũ trên ghế, Thu Vân linh tính có điều trầm trọng xảy ra, chạy tới nắm tay cha, run giọng hỏi:

- Có việc gì hỡ ba? Mẹ mạnh chứ?

Ông Trần Văn nhìn con gái với ánh mắt thật buồn. Ông chỉ ghế bảo nàng ngồi xuống và nói:

- Con hãy ngồi xuống và bình tĩnh nghe ba báo tin này.

Thu Vân vâng lời ngồi xuống ghế đối diện, ngước mắt lo âu chờ nghe cha nói. Ông Trần Văn nghẹn ngào một lúc mới thốt ra câu:

- Bọn Cộng Sản đã giết chết Vân Long rồi!

Thu Vân không tin tai mình vừa nghe một tin “kinh thiên động địa”. Nàng nhíu mày hỏi lại:

- Ba nói sao? Thằng Vân Long ra sao?

Ông Trần Văn cúi mặt, giấu hàng nước mắt chảy ra. Ông cố giữ giọng nói bình thường, tường thuật:

- Hồi sáng này Cộng Sản pháo kích vào trường đang lúc học trò vừa bắt đầu vào lớp học. Hai trái đạn họa tiễn rơi vào lớp 8 và lớp 5. Bọn trẻ và thầy giáo, lớp chết, lớp bị thương, không ai toàn mạng! Lúc ấy Ba đang ngồi trong văn phòng, nghe tiếng nổ bỏ chạy ra, thấy cảnh tượng quá hãi hùng không nhớ là có Vân Long trong lớp học đó. Đến khi xe cứu thương tới, y tá đưa mấy đứa bị thương lên xe, lúc đó ba mới nhận ra cháu ngoại, liền lên xe theo nó vào nhà thương. Nào ngờ giữa đường nó ...chết! Ba đã đem xác nó về nhà. Mẹ con thấy nó chết thì nằm luôn trên giường như kẻ mất trí. Hiện giờ có mẹ chồng con tới nhà giúp đỡ trong khi ba lên đây.

Giọng cha rì rào bên tai, Thu Vân nghe mà không rõ cha đã nói gì? đầu óc quay cuồng, té nhào xuống đất, bất tỉnh!

Vân Trường chạy tới ôm mẹ, khóc gọi:

- Mẹơi, tỉnh dậy mẹ!

Ông Trần Văn đỡ con gái lên, Vân Trường cũng phụ ông ngoại khiêng mẹ vào buồng, đặt nằm trên giường.

Khi ấy Thu Vân cũng vừa tỉnh lại, vùng ngồi dậy, nắm tay cha, hỏi như kẻ mất trí:

- Vân Long đâu? Vân Trường đâu?

Vân Trường nghe hỏi tới mình, vội vàng lên tiếng:

- Con là Vân trường đây mẹ.

- Anh con đâu? Vân Long đâu?

- Anh con…

Thằng nhỏ không dám nói tiếp. Ông Trần Văn ngồi bên giường, nét mặt rầu rĩ. Ông xót xa nói với con gái:

- Con ơi, can đảm lên con! Biết rằng con cái là thân thể của mình, mất con tức là mất một phần thân thể, đau đớn biết

ngần nào? Nhưng ba khuyên con hãy nén đau thương. Con người sống chết là do số Trời…

Thu Vân bỗng thét lên :

- Trời thương nhân loại, chớ Trời nào giết nhân loại? Chính Cộng Sản đã giết con của con. Chính cha của nó đã giết nó. Đây chính là thành tích vĩđại của cha nó, của những người hùng Cộng Sản!

Nàng nói đến đó, khóc ngất. Ông Trần Văn nghẹn ngào:

- Phe Cộng sản lúc nào cũng nói họ “thương dân, cứu nước khỏi ngoại bang”. Chẳng hiểu họ thương dân kiểu nào? Chỉ thấy mỗi ngày dân vô tội chết bởi họ càng nhiều. Tội nghiệp lũ học trò tuổi còn thơ dại, chúng có tội tình gì mà phe Cộng Sản phải giết?

Vân Trường đang ôm mẹ, khóc thút thít, chợt ngẩng mặt lên nói:

- Ngoại à, mẹ à, lớn lên con sẽđi lính như chú con, tiêu diệt Cộng Sản, trả thù cho anh con.

Thu Vân nghe con nói càng khóc thêm. Thảm trạng trên đất nước này, cha giết con, anh em giết nhau như kẻ tử thù. Dù Vân Trường không nói ra, năm sáu năm nữa tới tuổi nó phải gia nhập quân đội thì dù muốn dù không nó cũng sẽ cùng cha nó đối đầu ngoài chiến trường, như Lê Thanh, em của Thy, ngày nay.

Bỗng dưng Vân Trường nắm tay mẹ dụt dặt, hỏi: -Mẹ nói ba con chết từ lâu rồi, phải không mẹ?

Thu Vân gật đầu.

Từ khi con lớn, Thu Vân không dám nói sự thật việc cha nó theo Cộng Sản, vì sợ chúng kể lại bạn bè, nhỡ cơ quan an ninh biết được sẽ hại cả nhà. Vì vậy nàng buộc lòng phải nói dối với con. Khi nãy vì quá đau khổ khi hay tin Vân Long chết, nàng tức giận buộc tội cha nó, khiến thằng nhỏ nghi ngờ về sự sống chết của cha nó.

Ông Trần Văn thấu hiểu những thắc mắc trong lòng cháu, nên giả vờ bảo:

- Vân Trường! Con nên giúp mẹ con soạn hành lý. Chúng ta phải về Mỹ Tho ngay.

Thu Vân lau nước mắt, cùng với Vân Trường sọan hành lý , rồi hai mẹ con theo cha ra xe.

Saigon - Mỹ Tho cuộc hành trình không xa, chỉ 70 cây số. Nhưng vì Cộng Sản thường đặt mìn huỷ hoại cầu cống, đường xá…Trên lộ trình luôn luôn gặp trở ngại, xe không chạy suông sẻ được nên mất rất nhiều thời gian.

Cả ba về đến nhà thì trời đã tối hẳn.

Chính giữa phòng khách có một quan tài chưa đậy nấp. Xác của Vân Long đuợc lau rửa và ăn mặc tươm tất. Trong phòng còn có mẹ của Thy, bà Trần Văn, vợ chồng người chị họ của bà Trần Văn và mấy người hàng xóm.

Thu Vân vào đến nhà nhìn thấy xác con, lòng quá đau đớn gục đầu trên quan tài khóc ngất. Một lúc nàng nén bi thương chào hỏi mọi người trong phòng.

Bà Trần Văn bước tới ôm con gái, nghẹn ngào nói:

- Lỗi tại mẹ giữ nó ở Mỹ Tho mới bị chết vì pháo kích Cộng Sản. Tha lỗi cho mẹ.

Nước mắt lưng tròng, Thu Vân lắc đầu:

- Cộng Sản giết đám học trò vô tội, giết cả đứa con yêu quí của con. Chính bọn Cộng Sản có tội với nhân dân và gia đình ta, chớ nào phải lỗi mẹđã thương yêu nuôi dưỡng nó?

Bà Lê Thân vụt xen vào bằng giọng tức giận:

- Chính cha nó giết nó! Thằng cha không biết trách nhiệm với vợ con, đi theo Cộng Sản giết dân hại nước, giết cả con mình! Thằng cha nó mới là kẻ có trọng tội.

Vân Trường từ khi vào nhà nắm tay ông ngoại đứng im ru một góc, nghe lời bà nội nó vừa nói, nó mở to đôi mắt đầy vẻ ngạc nhiên.

Đây là lần thứ hai nó nghe người ta buộc tội cha nó, mà người đầu tiên là mẹ nó và lần này là mẹ của cha nó.

Tuy nó không có cha, song vẫn biết mặt qua ảnh. Thỉnh thoảng nó được bà nội và chú đến thăm, cho rất nhiều quà. Cho nên tình thương của nó đối với gia đình của cha vẫn trọn vẹn.

Có lần nó hỏi mẹ nó: vì sao cha nó chết?

Mẹ nó trả lời: Vì cha con muốn làm anh hùng.

Nó hỏi rất nhiều câu hỏi, song mẹ nó không trả lời. Dù vậy, một câu trả lời đó cũng đủ để nó mường tượng về cha…Một người đàn ông trẻ tuổi, đẹp trai, vóc dáng hào hùng, y như chú Lê Thanh của nó.

Mỗi lần chú nó ghé thăm, trên áo chú đeo rất nhiều huy chương, trông thật oai vệ. Ai gặp chú nó cũng kính cẩn chào “Ông Trung Tá” . Nó rất hãnh diện về chú nó, nên nghĩ cha nó lúc sống cũng là con người như chú nó.

Bất ngờ hôm nay nó biết được dường như cha nó chưa chết, dường như cha nó không như chú nó. Với mớ tuổi mười hai, đủ trí thông minh để nó đoán được là cha nó đã theo Cộng Sản.

Cái chết của anh, Vân Trường không đau khổ bằng thần tượng của cha vừa mất trong lòng nó. Nó buông tay ông ngoại ra, ngồi sụm dưới nền nhà, hai tay ôm mặt khóc rống lên.

Trong phòng không ai hiểu tâm sự nó, đinh ninh nó khóc vì cái chết của anh nó, nên mọi người càng xót xa.

Thu Vân hết sức đau thương vì cái chết quá tức tửi của đưá con đầu, ngồi đờ một chỗ như kẻ không hồn, chừng nghe tiếng khóc của Vân Trường mới nhớ đến đứa con thứ hai của mình.

Giờđây nàng còn mỗi mình Vân Trường, nó là lẽ sống duy nhất của nàng. Chồng nàng bỏ nàng mười ba năm qua, nay Vân Long vĩnh viễn xa mẹ lìa bỏ cõi đời. Bỗng dưng nàng lo sợ Vân Trường cũng bỏ nàng ra đi, nên hốt hoảng chạy tới ôm con vào lòng. Nhưng Vân Trường vụt nhoài khỏi lòng mẹ, chạy bắn ra sân, khóc oà lên.

Không hiểu sao giờ phút đó nó cảm thấy giận mẹ nó vô cùng. Mẹ nó đã dối gạc về cha nó, nó muốn làm cử chỉ gì đó để chống đối mẹ.

Chừng vọt ra sân rồi nó cảm thấy ân hận, vì vốn dĩ là đưá con ngoan hiền, rất thương yêu mẹ, nên lầm lủi trở vô nhà.

Thu Vân dang hai tay đón con và Vân Trường nhào vào lòng mẹ, cả hai cùng ôm nhau khóc.

Trong nhà, các ngọn nến đã được đốt. Mọi người bắt đầu đọc bài cầu kinh.

Bên ngoài, bóng đêm bao trùm…

Tiếng côn trùng đã bắt đầu kêu rỉ rã trong sương, nghe u buồn như khúc nhạc chiêu hồn, tiễn đưa một thiếu niên mười ba tuổi, sớm lìa cõi đời vì chủ nghĩa Mác Lê mà Hồ Chí Minh theo đuổi.

giavui
01-10-2015, 08:08 PM
CHƯƠNG CHÍN

MỐI TÌNH GIẤU KÍN TRONG TIM

Đã hơn ba tuần nay Duy Quang lưu ý sự vắng mặt của Thu Vân nơi giáo đường.

Mười năm qua, kể từ buổi chiều chàng vô tình cứu nàng khỏi cái chết tự tử nơi bờ sông Saigon, nàng trở thành tín đồ thật ngoan đạo của chàng. Gần như mỗi buổi chiều, sau giờ làm việc, nàng ghé nhà thờ cầu nguyện trước khi về nhà và mỗi Chúa Nhật nàng đều tham dự thánh lễ.

Mười năm qua nếu nàng là một tín hữu tốt, thì chàng là một linh mục gương mẫu, giàu lòng bác ái.

Trong cuộc sống hàng ngày của Thu Vân, Duy Quang đều theo dõi để giúp đỡ và khuyên bảo những ý kiến hay. Chàng cũng là người an ủi vỗ về mỗi khi nàng buồn khổ.

Hơn nữa, chàng còn là cha đỡ đầu của Vân Trường. Chàng đã làm bổn phận như cha ruột nó: thương yêu, giáo dục, giúp đỡ về mọi phương diện từ tinh thần đến việc học.

Cho nên cuộc đời của Thu Vân với Vân Trường cũng là cuộc đời của Duy Quang.

Nếu giáo đường và lời Chúa là thức ăn để nuôi dưỡng Thu Vân, thì những lời an ủi của Duy Quang là giòng nước mát giúp nàng sống còn.

Nàng và con nàng đã sống nhờ thức ăn và nước uống thần linh ấy. Mười năm qua chàng làm người mục đồng chăn giữ con chiên khốn khổ bơ vơđó và hàng ngày đem thức ăn nước uống nuôi dưỡng nó.

Đương nhiên đối với người mục đồng, bầy chiên là lẽ sống, là nguồn vui của họ. Không có chúng đời họ vô cùng tẻ nhạt, đồng cỏ xanh mướt đối với họ không cần nữa, mà trời quang gió mát cũng chẳng làm cho họ cảm khái.

Tâm trạng ấy chính là tâm trạng của Duy Quang mấy tuần nay. Sự vắng mặt lâu dài của Thu Vân khiến chàng cảm nghe thiếu thốn và lòng buồn hiu quạnh, y như người mục đồng đứng bơ vơ giữa cánh đồng hoang không tìm thấy con chiên yêu quí của mình.

Chàng tự hỏi: Vì sao Thu Vân không có mặt ở giáo đường? Phải chăng có sự thay đổi trong đời nàng? Phải chăng chồng nàng đã trở về? Vì sao Vân Trường cũng bặt tăm? Hay là cả hay gặp tai nạn hoặc đau bệnh?

Câu hỏi sau cùng khiến Duy Quang không còn bình tĩnh. Chàng đang hành lễ trước thánh đường, hai bên hàng ghế có vô số người ngồi, mà chàng có cảm tưởng nhưđang đứng giữa đồng hoang, bốn bề gió lạnh.

Chàng bỗng lo sợ con chiên bé nhỏ yếu đuối của chàng đang đi lạc, có thể nó chết mất vì bảo tố phong ba…

Không chần chờ được nữa, chàng vội vàng chấm dứt cuộc thánh lễ và lẫn vào phòng trong cởi bộ áo lễ, mặc áo đen chạy nhanh ra đường.

Một taxi chạy trờ tới đúng lúc, Duy Quang lên xe hối người tài xế chạy gấp đến ngã tư đường Duy Tân và Phan Thanh Giản. Lúc xe đến nơi chàng mới nhớ là quên lấy theo cái ví tiền chàng để trong túi áo veste, khi nãy vì hối hảđi mà quên mang theo.

Người tài xế thấy bộđiệu của chàng, đoán biết chàng không có tiền nên nói:

- Cha không phải trả tiền, nếu quên mang theo.

Duy Quang ngượng ngịu nói:

- Nếu bác tài không phiền, lúc nào có dịp chạy qua nhà thờ, nhớ đến tìm tôi, tôi sẽ thanh toán tiền xe hôm nay. Tên tôi là Duy Quang.

Người tài xế cười vui vẻ:

- Xin Cha an lòng. Hôm nào tôi sẽ ghé nhà thờ tìm Cha nhờ giải tội, kể như là thanh toán tiền xe hôm nay. Tôi cũng theo Thiên Chúa giáo Cha à.

Duy Quang mừng rỡ nói cám ơn , rồi bước nhanh đến cỗng rào nhà Thu Vân. Cửa rào không khóa, chàng mở cửa đi vào sân cố ý nện gót giày thật mạnh để trong nhà biết có khách, chắc chắn Vân Truờng sẽ chạy ra đón chàng như thường lệ.

Nào ngờ trong nhà vẫn yên lặng như tờ. Chàng bấm chuông đứng chờ, chợt thấy cửa nhà mở he hé, chàng ló mặt vào trong gọi:

- Thu Vân, cô có trong nhà chứ?

Không nghe trả lời, chàng gọi lần thứ hai:

- Vân Trường!

Bỗng có tiếng yếu ớt từ phòng ngủ vang ra:

- Ai đó? Có việc chi?

Duy Quang bước vào nhà, hỏi:

- Thu Vân? Phải cô đó không? Cô đau chăng? Duy Quang đây.

- Cha đó à ? Xin lỗi, con không thể…

Giọng nàng nhỏ xíu như không đủ sức phát ra âm thanh. Duy Quang lo lắng:

- Cô đau nặng lắm sao? Tôi có thể vào trong thăm cô chứ?

- Để con ra ngoài…Mời Cha…

Nghe nàng nói, Duy Quang ngồi xuống ghế nơi phòng khách. Thình lình bên trong vang lên tiếng « huych », không chần chờ Duy Quang phóng nhanh vào buồng. Thu Vân té ngã cạnh giường, đang gắng sức ngồi dậy.

Vừa trông thấy nàng, Duy Quang hốt hoảng kêu lên : -Chúa ôi ! Cô sao vậy ? Chàng đỡ nàng nằm lên giường. Thu Vân nói giọng thều

thào :

- Xin lỗi Cha, con yếu quá không đi nổi…ra bên ngoài để tiếp Cha.

Mặt nàng tái xanh, đôi môi nhợt nhạt, hình vóc gầy gò…Nàng xơ xác không khác gì con chiên nằm thoi thóp trên cánh đồng hoang !

Duy Quang thương xót lắm, muốn gập mình xuống ôm chiên vào lòng, chuyền hơi ấm cho nó, chuyền sinh lực cho nó và đôi tay dịu dàng chàng muốn ve vuốt trên những vết đau của nó…

Nhưng chàng không làm được điều mình muốn, sẽ kéo

chăn đấp cho nàng, dịu dàng hỏi :

- Vì sao cô ra nông nổi này ? Cô đau bệnh gì ?

Thu vân rưng rưng nước mắt :

- Vân Long chết rồi Cha à.

- Hả ? Cô nói sao ?

- Vân Long đã chết ! Bọn Cộng Sản đã giết nó ! Cha nó đã

giết nó! Nó chết đã một tháng nay rồi.

Nàng nói xong hai hàng nước mắt đổ dài xuống má. Duy Quang đứng lặng một lúc mới nói bằng giọng trầm buồn :

- Phải rồi ! Phải có nguyên cớ trầm trọng thếấy mới làm thân thể cô tàn hại như vậy.

Giọng chàng vụt đổi âm thanh cao vợi như tiếng chuông thánh đường :

- Can đảm lên Thu Vân ! Một lần nữa tôi mong cô có can đảm vượt qua khỏi khoảng đường chong gai của đời mình.

Sau câu nói chàng nhắm mắt lại, ngẩng mặt lên trời lâm râm khấn :

- Lạy Cha là Đấng toàn năng từ ái, xin Cha hãy ở cùng Thu Vân, ban cho nàng nhiều can đảm và nghị lực để vượt qua nỗi khốn khổ của đời.

Sau lời cầu nguyện, chàng kéo ghế ngồi bên cạnh giường, nghẹn ngào một lúc mới hỏi :

- Vân Long chết trong trường hợp nào?

- Pháo kích Cộng Sản bắn vào trường học, giữa lúc học trò đang học.

- Chúa ôi! Sao có thể như thếđược?

Mặt chàng nhăn nhó đau đớn khi nói. Thu Vân sụt sùi kể:

- Nó chết hơn ba tuần nay rồi. Hai ngày sau khi chôn cất nó con nhận được thư của Thy báo tin đang hoạt động trong

vùng, hẹn sẽ quá ghé qua nhà thăm con. Con đoán rằng những trái bom ấy do Thy và đồng bọn bắn vào. Con uất hận chồng và không muốn gặp hắn nên lập tức cùng Vân Trường trở về Saigon ngay. Phần tức giận chồng, phần đau đớn về cái chết của Vân Long, con đau bệnh mấy tuần nay.

Vì nàng nói hơi lâu, lại với nỗi cảm xúc, hơi sức không còn, âm thanh mỗi lúc một nhỏ.

Duy Quang xót xa bảo:

- Cô nên nằm nghỉ, đừng nhớđến việc đau buồn đó nữa.

- Con ước muốn được tỏ bày nỗi khổ với Cha cho vơi những uất ức trong lòng.

- Nhưng cô nên nghỉ một lúc. Tôi rót trà cho cô uống nhé ?

Nàng gật đầu. Chàng với tay lấy bình trà trên bàn nhỏ cạnh giường rót ra, chừng thấy trà quá nguội, chàng đứng lên nói :

- Để tôi vào bếp đun nước sôi làm trà nóng cho cô. Trà này nguội quá rồi !

Thu Vân cảm động :

- Cha cứ phải cực nhọc vì con, con áy náy lắm !

Duy Quang đang đi vụt đứng khựng lại, quay mặt nhìn nàng nói :

- Mấy tuần qua cô vắng mặt ở nhà thờ, tôi xốn xang lo âu. Cô đau mà tại sao không bảo Vân trường báo tin cho tôi biết ?

- Con không muốn làm phiền Cha.

- Cô sợ làm phiền tôi, nhưng để tôi lo lắng không yên, cô đáng trách không ?

Nước mắt Thu Vân tuôn ra. Duy Quang quay gót trở lại, nhỏ nhẹ :

- Đừng khóc nữa ! Tôi van cô ! Từđây hễ có điều gì xảy ra, cô nên cho tôi biết. Cô hứa vâng lời tôi chứ ?

- Thưa vâng.

Chàng đi vào bếp một lúc trở ra với bình trà nóng. Chàng đỡ nàng ngồi tựa lưng nơi thành giuờng, rồi rót trà ra tách trao cho nàng.

Nàng nhận tách trà, lòng xúc động. Duy Quang ngồi một bên sắc mặt rầu rĩ. Bỗng chàng như nhớ ra điều gì, kêu lên :

- Vân Trường đâu ? Hôm nay Chúa Nhật nó đâu phải đi học ?

- Nó đi chợ. Từ khi con đau, mọi việc trong nhà nó làm hết.

- Tội nghiệp thằng nhỏ.

Trà nóng, nàng uống từng ngụm nhỏ. Duy Quang nhìn thấy đôi tay gầy yếu của nàng cầm tách trà, dạ xót xa, mặt buồn thiu, hỏi :

- Cô đã đi bác sĩ chưa ? Có uống thuốc gì không ?

- Con vì nỗi đau thương và lòng uất hận mà mất ngủ, không ăn, thân xác kiệt quệ, chớđâu có đau bệnh gì mà phải đi bác sĩ ?

Duy Quang lắc đầu thở ra :

- Tại sao cô muốn hành hạ thân xác cô như thế ? Cô có biết hình hài cô tiều tụy lắm không ? Chẳng lẽ cô muốn nằm hoài một chỗ chờ ngày chết à ? Bệnh gì bác sĩ cũng giúp được. Trong lòng cô khốn khổ, tinh thần căng thẳng, cần bác sĩ cho thuốc trấn an lấy lại tinh thần, mới có thểăn ngủ bình thường chứ ?

Nàng cúi mặt lặng thinh. Chàng nhìn nàng một lúc hỏi:

- Bức thư Thy nói gì?

- Bức thư con để trên bàn trang điểm kia. Cha hãy lấy đọc thì sẽ hiểu tại sao con uất tức đến sinh bệnh.

Duy Quang đưa mắt nhìn lên bàn trang điểm , thấy một bì thư xấu xí cũ kỹ như từ mấy chục năm xưa. Thư không dán tem, cũng không đóng dấu cục bưu điện, hẳn là thư gửi người cầm tay đem tới.

Chàng bước tới lấy thư bóc ra. Tờ giấy bên trong nhầu nát dơ bẩn, giấy trắng đã ngả màu vàng, mực viết lem nhem, chỗ đậm, chỗ lợt.

Xem thế cũng biết đời sống của Thy thiếu thốn mọi thứ, từ giấy mực phải xài những thứ cũ kỹđáng vứt đi.

Dĩ nhiên thưđề ngày viết cách đây một tháng.

Thư viết như vầy:

Hơn mười năm qua anh không tin tức cho em, vì anh được cao cấp gửi ra miền Bắc học khóa huấn luyện của bác Hồ.

Tim óc anh ngày nay không bằng máu thịt của cha mẹ tạo thành, mà đúc bằng tinh hoa của hai thánh tổ Mác Lê.

Giòng máu yếu hèn của anh và các bạn đồng chí đã được Bác Hồ lọc rửa để chúng anh trở thành siêu nhân, không giống loài người. Nhờơn Bác chúng anh trở thành bất tử, không cần ăn, không cần mặc, không cần ngủ…Lớp da bọc xương của chúng anh dẻo hơn chì, tim gan chúng anh cứng hơn sắt. Chúng anh không khác gì những con người đúc bằng kim khí của đế quốc đàn anh vĩ đại Sô Viết, tức là súng bắn không chết. Chúng anh trường sinh bất tửđó em.

Với con người hoàn toàn đổi mới, Bác và Đảng rất tin tưởng và hãnh diện gửi chúng anh trở lại miền Nam để thanh trừng đám con dân Mỹ Ngụy. Chúng anh sẽ tiêu diệt dân Ngụy từ trẻ đến già, để bọn cầm đầu Ngụy không còn chỗ dựa phải đầu hàng Bác và Đảng.

Chắc em đã thấy những thành tích vĩ đại của chúng anh từ mấy năm qua? Từ ThủĐô đến các tỉnh, đâu đâu dân Ngụy cũng sống trong phập phòng lo sợ, bất an, vì những quả pháo kích của chúng anh bắn vào thành phố.

Một ngày gần đây dân Ngụy chết hết, chúng anh sẽ trở về cùng con cháu bác Hồ tạo lập thiên đường trên quê hương yêu dấu của chúng ta.

Ngày ấy không xa đâu em. Mong em mãi mãi trung thành chờ đợi anh.

Hôn em. Lê Thy.

Đọc xong bức thư, Duy Quang thở dài nói:

- Tội nghiệp! Quả là những con người đáng thương!

Câu nói của Duy Quang khiến Thu Vân giận dỗi:

- Bọn hung tàn ác quỷ như thế mà Cha còn tội nghiệp được sao? Cha tội nghiêp họ, vậy những người dân chết vì họ Cha nghĩ sao?

- Thu Vân! Họ là những con người u mê, ngu muội, mất cả khôn ngoan, lý trí và tình cảm. Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản ở Hànội đã diệt cái nhân trong người họ. Đúng như chồng cô đã nói: “Hắn không còn là con người nữa!”. Một người mà không còn bản chất con người như Thượng Đế ban cho thì thật là bi đát. Cô nên tha thứ cho hắn!

Thêm một lần nữa Duy Quang gỡ tội cho Thy, song lần này không giống như những lần trước, nói xong câu ấy chàng biết mình đã dối gạc mình.

Sự thật trong lòng đang oán giận Thy cùng cực. Sự oán giận ấy không những chỉ do những việc làm tàn ác của Thy và đồng bọn đã hãm hại đồng bào, giết chết Vân Long, mà nguyên nhân chính là Thy đã làm khổ cả đời Thu Vân, một tín đồ yêu quí của chàng, lại còn buộc nàng phải trung thành chờ đợi.

Hắn là một thằng chồng vừa ngu vừa ích kỷ, dù chàng có tấm lòng vị tha của một kẻ tu hành cũng không thể không oán ghét Thy.

Từ lòng oán ghét này chàng chợt nhận ra cuộc đời của Thu Vân đã nằm trọn trong tim chàng từ lâu. Sự qua lại thân thiết giữa chàng và nàng trong mười năm đã tạo nên một thứ tình yêu, không hoàn toàn giống như tình giữa nam nữ. Bởi thế tình này không có những đòi hỏi của xác thịt, nhưng nó ràng buộc cuộc đời của hai người.

Cũng có thể nói đó là tình của người chăn chiên đối với con chiên hiền lành bé bỏng của mình. Nàng là cuộc đời, là nguồn vui, là lẽ sống của chàng. Nàng khốn khổđau thương thế nào, chàng khốn khổđau thương thếấy.

Cho nên buông lời gỡ tội cho Thy xong, Duy Quang cảm thấy khó chịu, y như chính mình vừa lấy roi quất vào thân xác mình một cái đánh thật đau, khiến chàng xây xẩm ngồi phệt xuống ghế, bức thư của Thy trên tay buông rơi xuống đất.

Thu Vân im lặng nhìn chàng…

Nàng thừa biết người tu hành có lòng vị tha vô lượng, nên Cha Duy Quang khuyên nàng thứ tội cho Thy là lẽ đương nhiên.

Nàng không nên oán hận chồng nữa!

Sự thật Thy đáng thương, đáng được tha thứ hay không, trong lúc này nàng không phán xét được; song nàng vốn là con người bản chất hiền lành, không có ý niệm chống đối lời của người nàng kính trọng thương yêu, nên trân trọng vâng theo.

Vả chăng, gương mặt từ ái và giọng nói đầm ấm của Cha như xoa dịu những đau thương trong lòng nàng, làm bao oán hờn chứa chất trong người đã tiêu tan, cơn đau như không còn nữa!

Hơn ba tuần qua nàng nằm liệt trên giường như kẻ sắp chết, thế mà sự hiện diện của Duy Quang nơi này chỉ một thời gian ngắn, đã làm cho cơ thể nàng phục hồi sinh lực.

Thật là lạ lùng!

Phải chăng ở Cha có quyền phép nhiệm mầu của Chúa? Hay là Cha là hiện thân của Đức Thánh Linh từ Trời hiện xuống để cứu giúp nàng?

Nắng bên ngoài tràn ngập vào khung cửa sổ khiến Thu Vân có cảm tưởng như hào quang từ Thiên thượng rọi xuống.

Nàng rúng động, ngẩng mặt trông lên…bắt gặp Duy Quang đang nhìn mình bằng ánh mắt xót xa thương cảm. Nàng bồi hồi xúc động , nước mắt ứa ra…Cả hai im lặng nhìn nhau...dường như muôn lời thầm kín cũng phát ra theo ánh mắt, mà những lời đó chắc chắn cả hai không dám hé môi để phát ra âm thanh!

Một lúc thật lâu, Duy Quang gọi khẽ:

- Thu Vân!

- Vâng, thưa Cha?

- Sinh mạng của cô liên hệ đến lẽ sống của nhiều người, thì chớ nên để lòng âu sầu uất hận mà hủy hại thân xác.

Nàng bật khóc thành tiếng.

Nàng khóc mà không biết vì sao mình khóc? Có điều nàng biết chắc những giọt lệ này không vì Thy hay vì những nỗi khổ trong đời.

Duy Quang cứđể tự nhiên cho nàng khóc.

Lòng chàng rối bời giữa mối thương tâm và con đường đạo hạnh. Chàng muốn đưa hai tay nắm Thu Vân, đưa nàng khỏi vũng lầy đầy rắn rít ghê tởm đó, nhưng đời chàng đã trót hiến dâng cho Chúa, chàng thuộc về giáo hội, thuộc về đại chúng giáo hữu…

Đời chàng không thuộc về chàng nữa, chàng không thể sống cho mình, cho con tim mình!

Có tiếng nói tha thiết trong lòng chàng:

“Thu Vân em ơi, anh yêu em! Anh chắc em cũng hiểu rõ lòng anh, và chắc em cũng biết đời anh không thuộc về anh nữa. Anh đau xót trước những đau thương của em mà không thể làm gì cho em! Anh bất lực trước hoàn cảnh của chúng mình! Thôi thì chúng ta mỗi người cố gắng đi nốt con đường của chúng mình. Hai con đường dù không trùng nhau, nhưng lúc nào anh cũng bên cạnh em, che chỡ cho em.

Chàng gục đầu chua xót nghĩ rằng: Hai con đường định mệnh đi song song cho đến chết chẳng bao giờ trùng hợp, thì tình yêu này trọn đời phải giấu kín trong tim!

- Mẹơi, con đã vềđây mẹ.

Tiếng kêu của Vân Truờng từ ngoài ngõ vang lên, gọi Duy Quang và Thu Vân trở về với thực tại.

Chàng mừng rỡ chạy ra ngoài đón Vân Trường, ôm nó vào lòng, hôn trên trán nó, hỏi giọng thương yêu:

- Mẹđau, con cực lắm phải không?

Vân Trường gật đầu, rồi bỗng lắc đầu nói:

- Con thương mẹ! Con không cực đâu! Con chỉ lo lắng cho mẹ.

- Con ngoan lắm! Con muốn Cha thưởng gì?

Vân Trường không đáp lời ngay, cắn môi suy nghĩ…Một lúc đưa mắt nhìn Cha Duy Quang, hậm hực nói:

- Bọn Cộng Sản giết chết anh con, làm mẹ con đau bệnh. Cha ơi, Cha xin Chúa giết hết bọn chúng đi Cha!

Duy Quang nhìn sững thằng bé…Trong ánh mắt của nó chàng thấy có niềm đau và nỗi hận thù.

Tội nghiệp trẻ thơ trong xã hội này, sớm nhận niềm đau và sớm kết hận thù! Lòng chàng chợt dâng lên niềm chua xót đớn đau, thương cho quê hương, thương cho dân tộc.

Không nghe chàng hứa hẹn lời cầu xin của nó, Vân Trường lập lại:

- Cha! Cha xin Chúa giết chết bọn Cộng Sản, trả thù cho anh con, nghe Cha?

Duy Quang đặt Vân Trường ngồi trên đùi mình, ngọt ngào bảo:

- Con nè, kẻ nào làm tội khi chết xuống địa ngục bị quỷ Satan hành hạ. Còn người hiền lành khi chết được về Thiên Đường của Chúa. Như anh con hiện giờđang sống bên Chúa, con đừng buồn nữa, đừng oán hận Cộng Sản nữa.

Vân Trường nghe nói anh mình hiện sống trên Thiên Đường với Chúa, mừng rỡ lên mặt, nỗi hận thù đã tan biến. Gương mặt của nó là hình ảnh của mẹ nó, một gương mặt đẹp tinh khiết, không chứa chất hận thù.

Bỗng dưng Vân Trường nhìn xoáy vào mắt Duy Quang, hỏi:

- Làm sao Cha biết được anh con hiện ở Thiên Đường?

- Chúa nói. Vân Trường trố mắt nửa tin nửa ngờ, hỏi gặng: -Chuá nói với Cha? -Chúa nói với tất cả mọi người. -Bao giờ? -Bao giờ Chúa cũng nói: Hễ người tốt được về nước

Thiên Đường của Chúa. Trong Thánh kinh, các Thánh đều có chép lời Chúa nói như vậy.

Thỏa mãn câu trả lời của Duy Quang, Vân Trường nhoài khỏi lòng chàng, chạy vào buồng mẹ, nhưng không quên xách theo giỏ thức ăn.

Từ nãy giờ Thu Vân lắng tai nghe câu chuyện giữa Duy Quang với Vân Trường, nên vừa thấy con chạy vào, Thu Vân ngồi dậy dang hai tay đón con.

Vân Trường chạy tới ôm mẹ, giọng mừng rỡ:

- Mẹ à, Cha bảo anh con hiện đang sung sướng lắm, đang

sống với Chúa ở Thiên Đường.

- Cha nói đúng lắm!

- Mẹ có mừng không mẹ?

- Đương nhiên là mẹ mừng lắm chứ?

Nàng đáp mà đôi mắt ửng đỏ như muốn khóc, sợ con trông thấy nàng gượng mỉm cười. Vân Trường chợt thấy mẹ ngồi, vẻ mặt tươi cười, mừng rỡ hỏi:

- Ủa, mẹ hết bệnh rồi phải không mẹ?

- Ừ, mẹ hết bệnh.

Thằng bé nhảy dựng, reo lên:

- Vui quá! Mẹđã hết bệnh. À, nhờđâu mẹ hết bệnh vậy ?

- Nhờ Cha vừa cầu nguyện Chúa cho mẹ hết bệnh.

Sau câu nói, Thu Vân nhìn thấy Duy Quang hiện trước cửa buồng, ánh mắt thật vui nhìn hai mẹ con nàng.

Không hiểu sao Thu Vân cảm thấy lúng túng và bối rối vì gian phòng chật hẹp, không tươm tất và nàng trong trạng thái người bệnh hốc hác bơ phờ, nên hổ thẹn cúi mặt không dám nhìn lên.

Thật là kỳ ! Khi nãy Cha từ trong phòng này đi ra, mà bây giờ trở vào nàng có cảm tưởng như người đàn ông nào khác lạ, trái tim vụt đánh thình thịch.

Nàng không hiểu lý do vì sao? Phải chăng tâm tình nàng đã đổi khác trong khoảnh khắc đó ?

Cũng may Duy Quang không ở lại lâu. Chàng trở vào để nói giã từ.

- Tôi vềđây. Mong cô không quên lời khuyên bảo của tôi.

- Thưa vâng! Xin Cha an lòng.

- Ngày mai tôi sẽ gửi bác sĩ tới thăm bệnh cô.

- Cám ơn Cha.

Chàng ngoắc Vân Trường lại gần, hôn trên trán nó cái hôn thật từ ái:

- Con yêu quí của Cha, để rồi Cha sẽ có quà cho con.

Vân Trường sung sướng cười lên mắt. Thu Vân bảo con:

- Con hãy đưa Cha ra đường, đón taxi cho Cha nhé?

- Dạ, thưa mẹ.

Thằng bé nắm tay Duy Quang ra cửa. Chàng quay lưng đi mà tim xao động, vì biết có đôi mắt

đẹp trông theo.

giavui
01-10-2015, 08:08 PM
CHƯƠNG MƯỜI

KẺ THÙ CỦA HỒ-CHÍ-MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN LÀ AI?
(1974)

Chàng đứng một mình trước giảng đường, hai tay chấp trước ngực, mắt không rời tượng Thánh Mẫu Marie.

Từ khi khoác áo nhà tu, không ngày nào chàng không chiêm ngưỡng Đức Mẹ. Gương mặt dịu hiền của mẹ như xóa dịu bao nỗi nhọc nhằn trong đời tu sĩ của chàng, như giúp chàng vững niềm tin trong Chúa và nhờđó chàng tìm được lòng hăng hái trong nhiệm vụ giáo hội giao phó.

Đối với chàng Mẹ là Thánh nhân, là từ Mẫu, là người đàn bà hoàn hảo mọi mặt, mà chàng đã kính yêu khi còn là trẻ mồ côi trong cô-nhi-viện.

Mười lăm năm qua chàng còn tìm thấy nơi Mẹ hình ảnh của Thu Vân, người đàn bà chàng yêu, cũng gương mặt đẹp thiên thần thếấy…cũng đôi mắt dịu hiền thếấy…

Chàng không rõ mối tình thầm kín này phát sinh từ lúc nào ? Chỉ biết rằng nó thật đẹp, thật tuyệt dịu, không giống bất cứ mối tình nào khác trên thế gian. Bởi nó đi vào hồn hàng bằng thứ tình cảm thật êm dịu, không có những xâu xé của con tim, không có những đòi hỏi của xác thịt. Một thứ tình lý tưởng cao vợi của hai tâm hồn san sẻ niềm vui, chia nhau lẽ sống.

Tuy ngoài mặt lúc nào cả hai cũng giữ sự giao hảo khoảng cách giữa một linh mục với một tín đồ, mà trong lòng họđều biết rằng họ sống cho nhau.

Hai thể xác chưa từng làm một, mà hai cuộc đời đã xem như một !

Và chàng đã tìm được nguồn hạnh phúc vô biên bên đời, bên đạo…mặc cho thế sự bên ngoài đảo điên, điên đảo !

Hồ Chí Minh đã chết năm 1969, nhưng để lại di chúc buộc những đảng viên kế vị lão phải tranh đấu đến khi chiếm được miền Nam.

Thế nên chiến tranh vẫn không ngừng tiếp diễn, mặc dù phe hai bên, Mỹ và Cộng Sản bàn chuyện Hoà bình, ký kết hiệp định Paris 1972.

Nhưng Cộng Sản Việt Nam nói là nói, ký là ký. Còn hành động thì bất cần những gì đã nói đã ký, không tôn trọng những gì đã giao ước, y như thuở trước ký kết Hiệp định Genève với Pháp.

Người Mỹ đối đầu với Cộng Sản Việt Nam không khác gì người lớn gặp phải đứa con nít 7, 8 tuổi, lưu manh, gian xảo, ngổ ngáo, bất trị…mà không dám dơ tay đánh nó, để mặc cho nó thoi, nó cấu, nó cào… đứng im chịu trận lãnh đòn !

Và buồn cười là thế giới tự do không ai chịu mở mắt nhìn sự thật. Chỉ nghe nó la hét thì cho rằng « người lớn hiếp trẻ con » , bao nhiêu Đồng Minh của Mỹ đều chống Mỹ, ngay cả dân Mỹ cũng chống Mỹ !

Thế giới tự do đều muốn có Hoà Bình cho Việt Nam, và Hoà Bình theo họ là không muốn nghe thằng bé Cộng Sản kia la hét, chớ không phải thế giới tự do muốn dân tộc Việt Nam có cuộc sống thanh bình, no ấm, tự do.

Bị cô lập, người Mỹđành nhượng bộ với thằng con nít ngổ ngáo Cộng Sản, bỏ rơi chính phủ miền Nam.

Trước tình thếấy chính phủ Saigon phải gia tăng quân lính. Sinh viên, học sinh, cuối năm không thi đậu lên lớp, phải gia nhập quân đội.

Vân Trường năm ấy mới 17 tuổi đã đỗ tú tài, lại được hạng cao. Quả là thanh niên vừa anh tuấn vừa thông minh ! Duy Quang hết sức thương yêu, xem nó không khác gì viên ngọc quí mà Thượng Đế giao cho chàng gìn giữ.

Chàng rất sợ mất viên ngọc đó, nên sợ Vân Trường thi rớt sẽ phải gia nhập quân đội. Cho nên trọn năm qua chàng kèm dạy Vân Trường và thằng con đỡ đầu của chàng cũng cố công đèn sách. Kết quảđúng như mơ ước của chàng, Vân Trường đậu cao.

Chàng dự tính cho nó đi du học ở Thụy Sĩ hoặc ở Bỉ. Chàng không muốn đứa con tinh thần của mình dính líu vào cuộc chiến tranh nhơ nhớp 30 năm.

Chàng không muốn có ngày nó cùng cha nó đối đầu trên chiến trường nên sắp sẵn chương trình cho nó rời xứ, mặc dù Vân Trường không tha thiết lắm.

Từ nhỏ tới lớn sống gần gủi mẹ, thấy mẹ sống đời goá phụ giữa tuổi thanh xuân, Vân Trường rất thương mẹ, nên không muốn rời mẹ. Nó là đưá con rất chí hiếu và dễ dạy, ít khi cãi lời mẹ. Đối với chàng nó thương yêu như cha ruột, từ việc học đến tâm tình nó luôn luôn thố lộ với chàng.

Nghĩ đến Vân Trường trong lòng Duy Quang dâng lên niềm cảm xúc, y như người cha nghĩ đến đứa con ngoan hiền của mình.

Tuy chàng là tu sĩ, một kẻ độc thân, song lại được cái may mắn hưởng hạnh phúc gia đình :

« Một người tình ấp ủ trong tim, một người tình không ân ái, không làm vợ, nhưng vô cùng thân thiết và gần gủi.

« Một đưá con không do máu huyết của chàng tạo thành, nhưng tình thương yêu không khác gì ruột thịt.

Còn ai hạnh phúc hơn chàng ?

Mười mấy năm qua, song song với cuộc đời tu hành, sống cho lý tưởng, sống cho đạo, cho Chúa ; chàng còn có cuộc đời bình thường của con người trên thế gian là sống cho tình yêu.

Một tình yêu cao quí thánh sạch, mà thiết tưởng không ai có được những thứ chàng có.

- Cha ơi ! Cha !

Đang lúc tâm hồn phiêu diêu bay bổng với hạnh phúc, Duy Quang chợt nghe tiếng gọi quen thuộc sau lưng.

Chàng giật mình quay đầu nhìn lại, thấy Vân Trường từ ngoài hơ hãi chạy vào. Chàng chưa kịp lên tiếng, Vân Trường đã chạy tới ôm chàng, mếu máo nói :

- Cha ơi, mẹ con… Thấy thái độ của Vân trường, Duy Quang hoảng kinh,

không chờ nó nói dứt câu, chụp vai nó, hỏi giọng thất thanh : -Mẹ con ra sao ? -Mẹ con đã về Mỹ Tho. Mẹ bảo con đến báo tin Cha… -Chuá ơi! Mẹ con về Mỹ Tho mà con làm ta hoảng hốt

tưởng xảy ra điều chi trầm trọng. Thêm một lần nữa Duy Quang ngắt lời Vân Trường, song lần này trên môi chàng điểm nhẹ nụ cười và guơng mặt biến

sắc khi nãy bây giờ hết sức ôn nhu, từ ái. Nhưng Vân Trường rưng rưng nước mắt, nói tiếp: -Bà ngoại con chết vì trúng “mìn” Cộng sản Cha à! -Không! Nụ cười của Duy Quang tắt ngay cùng với tiếng kêu

thảng thốt.

- Không! Không thể nào tin được trong gia đình có hai người là nạn nhân của cuộc khủng bố Cộng Sản! Tại sao đại nạn cứ rơi lên đầu gia đình này?

Duy Quang muốn phản đối một sự thật. Nhưng sự thật vẫn là sự thật! Vân Trường đang đứng trước mặt chàng, đôi mắt còn ướt lệ và cái tin nó vừa mới báo là trầm trọng chớ không phải thường.

Bởi chàng biết rõ tinh thần Thu Vân rất yếu. Năm năm trước sau cái chết của Vân Long, nàng đau nặng. Chàng đã phải hết sức chăm sóc về mặt tinh thần, thêm với thuốc thang của bác sĩ, ba tháng sau nàng mới tìm được an bình. Giờđây mẹ nàng chết bởi khủng bố của Cộng Sản, e rằng nỗi thương đau và lòng uất hận có thểảnh hưởng đến thần kinh.

Chàng nghĩ thế nên lòng vô cùng lo lắng, kéo Vân Trường ngồi xuống chiếc băng dài, hỏi:

- Ngoại con chết từ bao giờ và bị trúng mìn ởđâu? Ai đã báo tin cho mẹ con biết?

- Ngoại chết hôm qua. Mìn đặt ở chợ nhà lồng, không biết lúc nào? Ngoại cùng chị Hai giúp việc nhà vừa trờ tới, đúng vào lúc tiếng nổ phát ra. Nghe nói mìn đặt ở bốn gốc chợ, nên rất nhiều người chết, vì giờđó người đi đông đảo. Ông ngoại nhờ một thầy gíáo lên Saigon báo tin cho mẹ biết và rước mẹ về Mỹ Tho ngay. Vì con còn phải đến báo tin cho Cha và thu dọn nhà cửa nên còn ở lại, nhưng sáng mai con sẽ lấy xe đò chuyến đi sớm để về dự tang lễ của ngoại vào 11 giờ trưa.

Duy Quang ngồi lặng một lúc đứng lên nói:

- Thôi con hãy trở về sắp xếp việc nhà như mẹ con căn dặn đi. Sáng mai ta sẽ gặp con nơi bến xe đò. Ta cần phải xin phép Bề Trên đểđi Mỹ Tho dự tang lễ của ngoại con.

Vân Trường lộ vẻ vừa ý :

- Con mừng có Cha cùng đi. Con rất lo cho mẹ con. Khi nghe tin ngoại chết, sắc mặt của mẹ lạnh lùng kỳ lạ lắm!

Duy Quang nghe Vân Trường kể, lòng càng không yên. Chàng đưa Vân Trường ra cửa, rồi quay trở lại quỳ trước tượng Đức Mẹ cầu kinh.

**

Sáng hôm sau Vân Trường và Duy Quang về đến nhà ông Trần Văn khoảng hơn 10 giờ sáng. Giờấy trong nhà không có ai. Mọi người đưa linh cửu bà Trần Văn và người tớ gái tới nhà thờ.

Vân Trưòng và Duy Quang lại phải lấy taxi đi đến nhà thờ. Xe chạy được một đoạn đường thì không thể chạy tới được nữa, vì thiên hạ từ các nơi đổ xô về nhà thờ. Các ngã tư đều bị ứ đọng. Vân Trường và Duy Quang phải bỏ taxi đi bộ.

Lúc cả hai đến nơi thấy người đông như kiến. Cũng vì quá nhiều người chết, Cha xứ tổ chức đám tang tập thể , nên gần như tất cả dân trong tỉnh đều có mặt tại đó.

Nhà thờ nhỏ, nghĩa trang không to lắm, người người đứng chen chúc dưới sân, nối dài ra đường lộ.

Đương nhiên những người tới đó đều có thân nhân tử thương trong vụ nổở chợ, nên sắc mặt họ ngoài nỗi đau thương, còn có oán hận.

Duy Quang nghe tiếng khóc đó đây vang lên giữa rừng người, lòng xúc động, con tim đau nhói. Chàng tự hỏi:

“Kẻ thù của Đảng Cộng Sản là ai?

“Kẻ thù của Hồ Chí Minh là ai?

Chẳng lẽ là những người bán hàng? Chẳng lẽ là những bà nội trợ?

Bấy lâu họ pháo kích bừa bãi vào thành phố, chàng có thể lấy lý do vì họ không đủ khả năng bắn đích xác vào các cơ quan nhà nước, nên mới rủi ro rớt vào nhà dân. Chớ như đặt chất nổ giữa chợ là họ có mục đích giết dân hẳn hòi!

Hồ Chí Minh lúc nào cũng rêu rao đánh Mỹ, đánh những người theo Mỹ, nhưng những người bán hàng, những nông dân bán rau cãi, những bà nội trợ, những đứa học trò v.v…chẳng lẽ là kẻ thù để họ tiêu diệt sao?

Duy Quang chợt nhớ đến bức thư của Thy gửi cho Thu Vân hồi năm năm về trước. Thy viết:

“Bác và Đảng gửi chúng anh trở lại miền Nam là để thanh trừng đám con dân Mỹ Ngụy. Chúng anh sẽ giết sạch dân Ngụy từ già đến trẻ, hầu cho bọn Ngụy không còn chỗ dựa, phải đầu hàng Bác và Đảng.

Mục đích của phe Cộng Sản đã rõ ràng như vậy. Họ cần giết dân, để dân sợ hãi không dám ủng hộ chính quyền miền Nam, tức là chính phủ Saigon không còn thế dựa ở dân. Thật là một chính sách dã man và tàn bạo!

Vân Trường đang nắm tay Duy Quang len lỏi vào chỗ hạ huyệt , bỗng nghe tiếng xôn xao, rồi những người đứng phía trước đồng nép mình làm lối cho mấy người mặc quân phục đi ra, mà người đi đầu là một vị tướng oai phong lẫm liệt, trên tay có bồng một người đàn bà. Còn ba người kia, một người mang cấp bậc Thiếu Tá, một người Trung Úy, một người Hạ sĩ.

Thấy mặt vị tướng Vân Trường há miệng gọi lớn:

- Chú!

Rồi Vân Trường chợt vuột khỏi tay Duy Quang, kêu thất thanh:

- Mẹ! Trời ơi, mẹ sao vậy hỡ chú?

Duy Quang cũng chạy theo Vân Trường và khi nhận ra Thu Vân đang nằm quằn quại trên tay một vị tướng trẻ, mà chàng đoán là Lê Thanh, em trai của Thy, Duy Quang không khỏi kinh tâm.

Cũng may Thanh đã lên tiếng trấn an Vân Trường:

- Mẹ con bị ngất xỉu, chớ không việc gì đâu! Ta đem mẹ con vào nhà thất của Cha xứ, vì ngoài này quá đông người.

Lê Thanh nói với Vân Trường, song đôi chân bước thật nhanh. Vân Trường và Duy Quang cùng theo vào nhà thất.

Căn nhà này là chỗở của Cha xứ, Cha đang bận cử hành tang lễ bên ngoài nên trong nhà không có ai.

Lê Thanh đặt Thu Vân nằm trên ghế dài trong phòng khách và cởi chiếc áo veste nhà binh đấp lên mình nàng. Vân Trường quỳ bên ghế kêu gọi mẹ. Một lúc Thu Vân mởđôi mắt lờđờ nhìn mọi người.

Thình lình nàng ngồi bật dậy, chụp Lê Thanh, nói như thét:

- Chính anh! Anh đã giết con tôi! Anh đã giết mẹ tôi! Anh theo Cộng Sản để hãm hại gia đình tôi! Tôi thù anh! Tôi thù anh!

Nàng vừa nói vừa khóc, hai tay níu chặt Lê Thanh, y như một người vừa bắt được kẻ trộm, sợ kẻđó chạy mất.

Lê Thanh đứng trân người, nét mặt rầu rĩ. Vân Trường hoảng sợ nhìn Duy Quang cầu cứu. Duy Quang bước tới nói với Lê Thanh:

- Cô ấy bị khủng hoảng tinh thần, không nhận ra ai được nữa. Để tôi đi tìm bác sĩ.

Cho tới lúc đó Lê Thanh mới thấy Duy Quang. Chàng kính cẩn hỏi:

- Thưa Cha, có phải là Cha Duy Quang ở Saigon ?

- Phải, chính tôi !

- Tôi có nghe chị dâu và cháu nói về Cha, nay mới dịp tận mặt Cha. Cám ơn Cha đã giúp đỡ chị dâu và cháu tôi bấy lâu nay. Anh tôi thật quá khốn nạn, làm khổ cả một đời chịấy.

Duy Quang nói giọng buồn thiu:

- Khổđau chồng chất, tinh thần cô ấy không còn bình thường được nữa. Trung Tướng ởđây, để tôi đi ra ngoài tìm một bác sĩ.

- Cám ơn Cha.

Duy Quang bước đi, trong khi Thu Vân vẫn còn lảm nhảm nói như người điên.

Chàng trở ra giữa rừng người và hỏi tìm một bác sĩ. Có người cho biết có một bác sĩđang đứng gần chỗ hạ huyệt, nơi Cha xứđang hành lễ. Duy Quang nghe nói mừng rỡ, tiến về phía ấy và mời ông ta theo chàng vào nhà thất.

Lúc chàng trở lại Thu Vân đã nằm yên, mắt nhắm như ngủ. Vân Trường ngồi sụm dưới đất, Lê Thanh ngồi trên ghế cạnh đó. Vị Thiếu Tá và viên Trung Úy đứng nơi bệ cửa.

Vị bác sĩ gật đầu chào mọi người chớ không lên tiếng. Và vì không có đồ nghề, ông lấy tay chẩn mạch Thu Vân rồi nhỏ giọng với Lê Thanh và Duy Quang :

- Bà ấy bị sốt nặng nên đưa về nhà. Xin Quý vịđi trước, tôi trở ra chỗ tang lễ một chút rồi sẽ ghé phòng mạch lấy dụng cụ nghề nghiệp đến nhà ông Trần Văn.

Thấy sắc mặt Lê Thanh và Duy Quang quá lo âu, vị bác sĩ trấn an :

- Xin Cha và Trung Tướng an tâm. Bà ấy vì quá đau buồn trước cái chết thê thảm của mẹ nên uất khí dâng lên, gây nhiệt độ trong người. Tôi nghĩ, chắc chẳng phải đau bệnh chi trầm trọng.

Lê Thanh nói cảm ơn, rồi đích thân bồng chi dâu đi ra. Mấy người quân nhân cùng Duy Quang và Vân Trường cùng theo ra.

Xe đậu trước ngõ của nhà thờ, có điều xe quá nhỏ, loại xe jeep của nhà binh. Ông Hạ Sĩ, vốn là tài xế của Lê Thanh, vội vàng leo lên xe, nhưng vị Thiếu Tá bảo ông ta :

- Chú để tôi lái xe đưa Trung Tướng đi. Ông Trung Uý và chú nên tìm xe khác đến nhà ông Hiệu Trưởng sau.

Hai người này vâng lệnh rút lui. Bây giờ xe do vị Thiếu Tá lái, Duy Quang ngồi phía trước, băng ghế phía sau Lê Thanh bồng Thu Vân và Vân Trường phụđỡ mẹ.

Xe vềđến nhà mọi người mới nhớ là nhà không có người, cửa khóa. Lê Thanh toan phá cửa vào nhà, Vân Trường chợt nhớ ra cái ví của mẹ, vội mở ra, thấy ngay sâu chìa khóa.

Mở được cửa vào nhà, Lê Thanh bồng nàng thẳng lên tư phòng nàng ở tầng lầu trên, Vân Trường cùng theo chú. Duy Quang ngồi lại nơi phòng khách với vị Thiếu tá, chưa kịp trò chuyện Lê Thanh đã trở xuống, nói giọng lo âu :

- Chịấy vẫn còn nóng mê man. Tôi chờ bác sĩ đến đây xem sao ?

Chàng ngồi trên ghế đối diện với Duy Quang đàm luận việc nhà, việc nước, tình hình chính trị, quân sự…lời lẽ minh quang, chính đại, hiểu rộng biết nhiều. Chứng tỏ chàng không những là một vị anh hùng bất khuất, mà còn là người thông minh, sâu sắc và tình cảm.

Duy Quang hỏi :

- Chẳng hay Trung Tướng bao nhiêu tuổi ? Đã lập gia đình chưa ?

- Tôi đã 37 tuổi rồi, nhưng chưa dám cưới vợ. Chắc Cha cũng rõ, đời quân nhân không biết sống chết lúc nào, cưới vợ mà không làm tròn bổn phận làm chồng làm cha, thật là hạng đàn ông vô trách nhiệm.

Chàng bỗng cười, giọng cười chua chát, xen với nỗi oán giận :

- Như anh tôi, cưới vợ một tháng thì bỏ vợđi theo Cộng Sản để làm người hùng. Tội nghiệp chị dâu tôi bỏ phí một đời xuân sắc vì ảnh. Càng thương xót chị dâu, tôi càng oán giận anh tôi và cũng không muốn cưới vợ.

Mười mấy năm qua Duy Quang thấy hình ảnh của Lê Thanh trên báo. Lê Thanh nổi tiếng là một quân nhân can trường từ khi còn mang cấp bậc Thiếu Úy, mà binh sĩ gọi là Napoléon Việt Nam. Đến khi thăng cấp bậc Tá, đến Tướng, báo chí ca ngợi luôn, nhân dân ai cũng nghe biết. Duy Quang lại còn nghe Thu Vân và Vân Trường kể về Lê Thanh, nên lòng vốn có sẵn cảm tình.

Bữa nay đàm đạo với vị tướng trẻ này, chàng càng kính phục, ngưỡng mộ, đâm tiếc rẽ Lê Thy đã chọn lầm đường. Nếu muốn làm người hùng thì như Lê Thanh mới đúng là đường đường một vị anh hùng. Phải chi Thy là Thanh thì cuộc đời của Thu Vân đẹp biết mấy ?

Tại sao khi xưa Thu Vân không yêu Thanh, lại yêu Thy ? Gương mặt hai anh em họ không khác nhau, xui chi Thu Vân lại chọn Thy làm chồng để khổ một đời ?

Ôi chẳng qua định mệnh của nàng ! Định mệnh của một người đàn bà Việt Nam không thể đổi thay. Chứ như trong xã hội Âu Mỹ, Thy bỏđi rồi Thu Vân có thể kết hôn với người khác, ngay cả với Thanh.

Lòng chàng vụt se lại khi nghĩ rằng trong xã hội này còn hàng triệu người đàn bà sống đời cô phụ để nuôi con, như Thu Vân. Họ can đảm chấp nhận số phận hẩm hiu của mình mà không một lời than van, thật đáng thương !

- Thưa Cha, nghe nói Cha tu học ở Bỉ ?

Câu hỏi của Thanh làm Duy Quang giật mình. Chàng ngớ ngẩn một lúc mới trả lời :

- Phải ! Tôi ở Bỉ 10 năm.

- Chắc Cha đã viếng nhiều nước Âu Châu ?

- Vâng ! Sự qua lại các nước Âu Châu dễ dàng và không mắc lắm, nên phần đông sinh viên mình hay đi đó đi đây trong các dịp nghỉ học. Riêng tôi, hồi còn học ở Bỉ, ngoài những dịp đi du lịch, còn phải đi nơi khác để lo đạo vụ, nên hầu hết các nước Âu Châu tôi đã đi qua, ngoại trừ các quốc gia cộng sản.

Lê Thanh chép miệng nói :

- Ước gì có hoà bình để tôi được dịp đi Âu Châu một lần. Tôi rất thích đi du lịch đây đó.

Vị Thiếu Tá xen vào :

- Mình muốn có hoà bình, nhưng phe Cộng không ngừng tấn công, mặc dù chúng ký kết đủ thứ. Chẳng bao giờ có hoà bình ! Ngoại trừ ta giao miền Nam cho chúng và khi đó hoà bình sẽ biến cả xứ Việt Nam thành địa ngục !

Lê Thanh thở dài :

- Khổ một điều là thế giới tự do không biết rõ điều đó. Đâu đâu cũng biểu tình chống Mỹ, ngay cả dân Mỹ ! Hiệp định Paris thì thiệt thòi về phía chính phủ mình. Tôi chỉ sợ một ngày gần đây Mỹ không giữđiều cam kết với miền Nam, bỏ rơi chúng ta, không giúp khí giới đạn dược nữa, thì dù quân lực của ta có mạnh thế mấy cũng buông tay cho Cộng Sản tràn vào.

Duy Quang nói :

- Hồ Chí Minh là con người quá nhiều tham vọng, khiến cho hai miền Nam Bắc khốn khổ vì chiến tranh đã 30 năm. Xem như, trên thế giới có nước Đức và Đại Hàn cũng chia đôi, nhưng người ta ở yên, ai có phần đất người đó, không xâm phạm nhau, dù rằng…

Đang khi Duy Quang nói, bỗng có tiếng chân ngoài ngõ. Mọi người đoán là vị bác sĩ tới nơi. Lê Thanh bước ra cửa đón ông ta và đưa lên lầu.

Thu Vân vẫn còn nằm thiêm thiếp trên giường. Vị bác sĩ chẩn mạch, lấy nhiệt độ, rồi tiêm cho nàng mũi thuốc. Ông ta trao cho Vân Trường một hộp thuốc, rồi căn dặn :

- Trước mỗi bữa ăn cậu nên cho mẹ cậu uống một viên. Nhớ là chỉ cho những thức ăn nhẹ, khi nào hết sốt thì ngưng thuốc.

- Con sẽ không quên lời bác sĩ dặn.

Lê Thanh hỏi :

- Bệnh chịấy có trầm trọng không hỡ bác sĩ ?

- Bà ấy bị kiệt sức vì lo việc mấy hôm, lại thêm sầu hận khí uất dồn lên, gây nóng sốt. Chỉ cần an nghỉ vài hôm, sức khoẻ sẽ trở lại bình thường.

Vân Trường vẫn không an tâm :

- Khi xưa anh con chết, mẹ con đau nặng cả tháng. Con sợ lần này càng đau nặng hơn.

Không ai hay biết Duy Quang có mặt nơi đó từ lúc nào thình lình giọng nói trầm trầm của chàng vang lên :

- Cô ấy bị khổđau dồn dập trong đời, sợ khủng hoảng đến thần kinh, bác sĩ nghĩ sao ?

Lê Thanh nhớ lại lúc nãy chị dâu không nhận ra mình, nên hỏi giọng lo âu :

- Bác sĩ nghĩ thế nào về những lo lắng của Cha ?

Vị bác sĩ suy nghĩ một lúc, đáp :

- Cũng có thể người bị nhiều đau khổ trên đời, khi thêm một đau buồn mới họ không bịảnh hưởng nặng nề bằng người chưa gặp bất hạnh.

Vừa thu xếp vali nghề nghiệp, ông ta vừa nói thêm :

- Dù sao tôi không dám nói trước với quí vịđiều gì. Chờ khi bà ấy tỉnh lại, hết sốt, xem phản ứng thế nào mới biết được. Tôi sẽ trở lại thăm bà ngày mai, nếu có điều gì trầm trọng quí vị có thể gọi tôi tới ngay.

- Cám ơn bác sĩ.

Cả Lê Thanh và Duy Quang cùng đưa vị bác sĩ xuống lầu. Lê Thanh mời ông ta ngồi lại uống trà, nhưng ông ta từ chối. Đúng vào lúc ấy ông Trần Văn cũng về đến nhà. Ông hỏi thăm vị bác sĩ bệnh trạng của Thu Vân rồi tiễn ông ta ra ngõ. Khi trở vào ông mới thấy Duy Quang, nên mừng rỡ hỏi :

- Cha xuống đây từ lúc nào ?

Tôi và Vân Trường đi chuyến xe từ sáng sớm, nhưng không may xe bị trục trặc giữa đường, thành ra lúc tới nơi trong nhà không còn ai. Chúng tôi liền đi thẳng đến nhà thờ, song người đông nghịt, chưa đến được chỗ Cha xứ làm tang lễ chúng tôi gặp ôngTrung Tướng bế Thu Vân đi ra. Thế là chúng tôi theo ông Trung Tướng vềđây.

- À, hoá ra thằng Vân Trường cũng đã vềđây rồi. Nó đâu ?

- Thưa bác, nó trên lầu, trong phòng của mẹ nó.

Lê Thanh trả lời thay cho Duy Quang. Ông Trần Văn chợt thấy có mặt vị Thiếu Tá không quen, nên mời mọi người ngồi, rồi nói :

- Vợ tôi chết, người làm cũng chết, con gái bịđau, trong nhà không còn ai để nấu nước pha cà phê cho khách. Quí vị ngồi đây, chờ tôi vào bếp đun nước sẽ trở lại ngay.

Lê Thanh đứng lên nói :

- Xin Bác để cháu làm việc ấy cho. Từ thuở nhỏ cháu vẫn quen làm việc trong nhà. Trong quân đội cũng phải biết làm mọi việc.

Vị Thiếu tá vội vàng dành :

- Xin Trung Tướng cho phép tôi làm thay việc này. Trung Tướng nên ngồi đây trò chuyện với ông Hiệu Trưởng và Cha. Tôi chắc quí vị có nhiều điều cần nói với nhau.

Lê Thanh lắc đầu, nghiêm giọng nói :

- Ởđây ông Thiếu Tá là khách, còn tôi là người nhà. Lúc nào trong quân ngũ ông sẽ làm thay tôi vậy !

Vị Thiếu Tá không dám cãi lệnh, vội ngồi xuống ghế. Lê Thanh đi vào nhà bếp. Ông Trần Văn hỏi Duy Quang :

- Bao giờ Cha sẽ trở về Saigon ?

- Tôi chờ xem Thu Vân tỉnh dậy xem sao ? Nếu bệnh cô ấy không có gì trầm trọng tôi sẽ trở về Saigon chiều nay.

- Nếu có thể, mong Cha lưu lại đây vài hôm. Tôi đang buồn khổ quá, rất cần Cha ở lại cầu nguyện cho, nhất là Thu Vân.

- Nếu ông Hiệu Trưởng muốn thế, tôi cần điện thoại về Saigon xin phép Bề trên.

- Cám ơn Cha nhiều.

Khi ấy Lê Thanh trở ra với bốn tách cà phê, nói :

- Nhà binh pha cà phê chắc không ngon, xin quí vị miễn chấp.

Đồng hồ trên vách đổ 12 tiếng, ông Trần Văn giật mình kêu lên :

- Chao ôi ! Giờ này đã đúng ngọ rồi, là giờăn, chớ nào phải là giờ cà phê. Đầu óc tôi bây giờ không còn nhớ gì nữa ! Tôi xin mời Cha, cháu Thanh và ông Thiếu tá ra nhà hàng dùng cơm với tôi vậy.

Lê Thanh cung kính nói : -Cháu xin phép mời Bác và Cha bữa nay. -Nếu cháu có lòng mời, xin đưa dùm Cha đi ăn trưa thay

bác. Nói thật hiện giờ bác không ăn được.

Không riêng gì ông Trần Văn, Duy Quang cũng không thấy đói. Trước cái chết thảm của mấy chục dân vô tội, khiến cho hàng trăm người khóc lóc đau thương mà chàng chứng kiến nơi nghĩa trang sáng này, làm chàng buồn bực không

muốn ăn uống gì nữa !

Chàng nói :

- Thật tình hiện giờ tôi chưa thấy đói, xin ông Hiệu

Trưởng và ông Trung Tướng đừng bận lòng vì tôi.

Lê Thanh thừa hiểu tâm trạng mọi người nên không nài ép. Chàng đứng lên từ giã :

- Cháu xin phép bác về nhà mẹ cháu một lúc. Chiều nay

cháu sẽ trở lại thăm chị dâu.

Lê Thanh bắt tay Cha Duy Quang, nói :

- Nếu Cha còn ở lại, tôi sẽ gặp lại Cha chiều nay.

- Rất hân hạnh cho tôi được chuyện trò với Trung Tướng.

Cả Duy Quang và ông Trần Văn cùng tiễn đưa hai vị

tướng, tá ra ngõ. Ông Trần Văn nói cám ơn trước khi chia tay :

- Cảm tạ quí vịđã đến dự tang lễ của nhà tôi. Tha lỗi cho tôi về sự tiếp đãi thiếu sót. À, do đâu quí vị biết tin này kịp thời ?

Lê Thanh đáp :

- Trong quân đội tin tức đươc loan nhanh. Tiếng nổ vừa phát ra thì cháu đã nhận được điện thoại của Tỉnh Trưởng báo cáo mọi sự và cho biết tên các nạn nhân. Cháu nghe tên bác gái, liền dàn xếp công vụ để hôm nay có thể về Mỹ Tho tham dự tang lễ. Sáng mai cháu phải trở lại Bộ Tư Lệnh.

Ông Trần Văn gục gật đầu :

- À thì ra Trung Tướng nhận được tin từ ông Tỉnh Trưởng.

Mọi người đã ra đến lộ. Ông Trung Úy và ông Hạ Sĩđã chờ sẵn nơi đó. Thấy cao cấp đi ra họ vội vàng chào theo quân cách một cách nghiêm chỉnh, rồi ông Hạ Sĩ nhảy lên xe làm tài xế, viên Trung Úy mở cửa.

Lê Thanh oai vệ bước lên xe ngồi phía trước. Vị Thiếu Tá và quan Trung Úy ngồi băng sau. Vị Thiếu Tá là phụ tá của Lê Thanh, còn Trung Úy là cận vệ.

Xe chạy vút đi, ông Trần Văn và Duy Quang vẫn còn đứng một chỗ trông theo. Cả hai cùng nghĩ về Lê Thanh, một con người khã ái, nhưng không kém vẻ uy nghi của một nhà tướng. Cả hai tuy không nói ra, song cùng một ao ước : « Phải chi, Thy là người ấy ».

Ông Trần Văn chợt kể :

- Cùng một Cha một mẹ mà hai anh em họ tánh tình khác biệt. Lê Thanh rất chí hiếu, ngày nay dù làm Tướng, tư lệnh vùng 4 1 oai quyền một cõi, mà đối với mẹ lúc nào cũng một lòng yêu kính. Không lập gia đình, nên Thanh có tiền giúp mẹ sữa sang cửa tiệm ngày nay khá đồ sộ, lại còn xây thêm căn nhà cạnh tiệm buôn cho mẹ có chỗở. Khi trước chị sui tôi buôn bán và sinh sống trong cửa tiệm tạp hoá chật hẹp. Ngày nay nhờ có Lê Thanh mà có chỗở tươm tất, buôn bán phát đạt, hãnh diện với làng xóm. Tánh nó rất thương bà con xa gần, ai nghèo nó giúp tiền bạc. Nghe nói binh sĩ dưới trướng nó cũng đối đãi như vậy. Thật là một người đáng trọng.

- Tôi thường nghe Thu Vân và Vân Trường kẻ về tướng Thanh. Lần này gặp ông ấy tôi rất cảm tình và ngưỡng phục một vị anh hùng.

- Nó rất thương quí Thu Vân và Vân Trường. Mấy năm sau này cung cấp cho cháu tiền học, mua sách vở quần áo…

- Điều này tôi cũng biết.

- Thằng Thy có vợ mà không biết trách nhiệm, theo bọn Cộng Sản giết hại đồng bào.

Nói đến đó ông vụt nhớ đến cái chết của vợ, nước mắt ứa ra. Ông lẳng lặng quay gót vào nhà. Duy Quang đi theo sau lưng không nói gì thêm.

Vân Trường bây giờ mới nghe tiếng ông ngoại, vội vàng chạy xuống lầu ôm ông ngoại, nghẹn ngào:

- Tội nghiệp bà ngoại con…

Ông Trần Văn ôm cháu, an ủi:

- Thôi, cháu chớ khóc nữa! Con người ai cũng một lần chết.

Ông cố gắng nói được mấy tiếng, cỗ họng nghẹn lại, không nói thêm được nữa. Một lúc ông buông Vân Trường ra, hỏi:

- Mẹ con thế nào?

- Mẹ còn ngủ. Có lẽ nhờ mũi thuốc bác sĩ tiêm lúc nãy, nhiệt độ trong người mẹđã hạ, mẹ ngủ yên. Con muốn nấu ít cháo, chờ khi mẹ thức cho mẹăn.

- Phải đó! Con chăm sóc mẹ thay cho ông ngoại nhé? Ông không còn sức nữa.

Duy Quang biết ông Trần Văn đã mệt sức lắm, không thể chịu đựng lâu hơn nữa nên khuyên:

- Ông Hiệu Trưởng nên vào tư phòng nghỉ một lúc, tôi sẽ lo cho Thu Vân, xin ông an lòng.

- Cám ơn Cha nhiều. Tôi thật vô lễ, không hầu tiếp Cha tươm tất…

Duy Quang ngắt lời:

- Xin ông chớ bận lòng vì tôi. Tôi đến đây với tư cách một Linh Mục giúp đỡ tín đồ, chớ không là khách.

- Cám ơn Cha, nếu thế tôi xin phép về phòng riêng nghỉ một lúc.

Sau câu nói ông cúi đầu chào Duy Quang rồi bước đi. Vân Trường chợt nhỏ giọng:

- Cha có thể giúp con trông mẹ con một lúc? Con vào bếp nấu cháo cho mẹ.

Duy Quang gật đầu ưng thuận, nhẹ bước lên lầu.

Chàng vào phòng thấy Thu Vân vẫn ngủ yên, nên ngồi trên ghế bên cạnh giuờng, hai tay chấp trước ngực, mắt nhắm lại, miệng lâm râm nguyện cầu…

Lời cầu nguyện vừa dứt, chàng mở mắt ra, chợt thấy Thu Vân đang nhìn mình chăm chăm. Duy Quang chưa kịp lên tiếng, nàng đã hỏi:

- Cha xuống đây từ bao giờ?

- Tôi theo Vân Trường đến đây từ sáng, nhưng chúng tôi đến trễ nên không kịp dự tang lễ.

Nghe Duy Quang nhắc đến tang lễ, Thu Vân giật mình không hiểu sao mình nằm ở nhà, ngồi bật dậy, ngơ ngác hỏi:

- Vì sao con nằm đây?

- Cô bị ngất xỉu, ông Trung Tướng đưa cô vềđây. Hiện ông Trung Tướng đã về nhà của mẹ chồng cô. Còn ông Hiệu Trưởng đang nghỉở tư phòng dưới nhà. Cô thấy trong người thế nào?

Thu Vân không đáp câu hỏi của Duy Quang, nói giọng buồn thiu:

- Mẹ chết, cha già sống bơ vơ một mình. Chắc là con phải trở vềđây sống với cha già. Ngặt một điều Vân Trường năm nay đã vào Đại Học, nếu con vềđây nó ở Saigon một mình, không biết lo thân được không?

Nghe nàng nói chuyện tỉnh táo, Duy Quang mừng lắm, ngọt ngào bảo:

- Việc học của Vân Trường thì tôi đang lo xin học bổng cho nó. Nếu được chính phủ chấp thuận, nó có thể rời Việt Nam mùa Thu này. Cô không phải lo nữa!

- Xin học bổng đi du học đâu phải dễ, thưa Cha?

- Ví như nó không được học bổng đi du học thì vẫn có thể học ở Saigon. Tôi còn đó để lo cho nó, xin cô an lòng. Tôi chỉ mong cô dẹp nỗi ưu phiền để không hủy hại sức khoẻ.

Thu Vân nói giọng uất nghẹn:

- Làm sao hết buồn, làm sao thôi hận hỡ Cha? Con là con người phàm tục, không có lòng vị tha vô biên của Chúa, nên không thể không oán hận Cộng Sản dã man, trong đó có chồng con, đã giết con của con, mẹ của con và bao nhiêu đồng bào vô tội khác. Phải chăng họ là quỷ Satan?

Duy Quang thở dài.

Lần này chàng không biết nói thế nào để bào chữa tội lỗi của Thy và đồng bọn hầu làm nhẹ nỗi oán hận trong lòng Thu Vân? Chàng cúi mặt lặng thinh, chốc chốc lại thở ra.

Thu Vân thấy chàng cứ mãi thở ra, cười nhẹ, giọng cay đắng:

- Chắc là Cha không tìm ra lý lẽ để gỡ tội cho họ phải không? Vì sao Trời và Chúa làm ngơ trước hành động vô nhân của bọ Cộng Sản? Nói thật với Cha là con không tin ở Trời và ở Chúa nữa!

Duy Quang hoảng hốt, kêu lên:

- Thu Vân! Tôi van cô! Chớ nên xúc phạm tới Đấng thiêng liêng! Thượng Dế vốn công bình, kẻ làm tội ác sẽ bị xét xử sau khi chết.

- Vì sao Thượng Đế không xét xử ngay khi họ còn sống? Tại sao Thượng Đế không khiến cho họ chết để tránh tai hoạ cho người lành?

- Vì Ngài thương yêu nhân loại. Từ đứa trẻ lọt lòng mẹ Ngài đã cho nó cái quyền sống tự do trên thế gian, thì đương nhiên Ngài không lấy cái quyền đã cho.

- Nếu Ngài đã cho nhân loại cái quyền tư do sống, tại sao Ngài tạo ra kẻ ác để hủy diệt quyền sống của người lành?

Duy Quang lắc đầu, cười nhỏ:

- Thượng Đế không tạo ra kẻ ác! Đứa trẻ lọt lòng mẹ do Ngài tạo ra vốn vô tư và hồn nhiên. Từđó Ngài cho nó có quyền sống trên thế gian. Vậy khi lớn lên nó trở thành người tốt hay người xấu là do ảnh hưởng của những người chung quanh nó và xã hội nó sống. Đương nhiên Thượng Đế không xen xỏ vào việc của loài người trong thời gian sống trên thế gian. Nhưng con người đã lạm dụng quyền tự do ấy làm những điều tàn ác, chém giết thù ngịch nhau, khiến cho Thượng Đế phải gửi Đấng Christ đến thế gian để nhắc nhỡ răn dạy người đời phải sống hoà bình, thương yêu lẫn nhau. Xem thế Thượng Đế muốn nhân loại là người hiền, người tốt. Những kẻ tàn ác vì họ không nghe lời răn của Chúa.

Duy Quang ngừng nói, liếc mắt quan sát Thu Vân, thấy nàng có vẻ xúc động, chàng tiếp:

- Cộng Sản chủ trương vô thần, bài trừ tín ngưỡng, xem thường lời răn của Chúa, đả kích Thánh Kinh…Đó là nguyên nhân tại sao họ dám làm những việc hung bạo. Nhưng cô hãy an lòng! Trên thế gian này kẻ làm ác sẽ gặp điều dữ. Bởi Chúa Jesus chẳng đã từng nói với môn đồ: “Ai gieo giống chi, sẽ gặt giống đó” hay sao? Không ai gieo hạt dẽ mà có được trái táo bao giờ!

Những lơi phân giải của Duy Quang giúp Thu Vân an định tâm thần, niềm tin ở Chúa như lấy lại được. Nàng nói giọng ân hận:

- Con thật có tội! Con xấu hổ quá!

Nàng nói mà hai tay ôm mặt khóc sướt mướt. Duy Quang không biết vỗ về ra sao, bước tới ngồi bên bệ giuờng, nhỏ nhẹ:

- Thu Vân, đừng khóc nữa! Nào cô có tội lỗi gì đâu? Cô là con chiên đáng thương của Chúa.

Thu Vân nghe nói càng hổ thẹn, khóc to hơn. Duy Quang bối rối, không biết làm thế nào cho nàng nín, quàng tay ôm nàng, nài nỉ:

- Tôi van cô! Đừng khóc nữa! Nước mắt cô làm não lòng tôi, tôi đau lòng khi thấy cô khóc.

Trong một phút giây không kềm chế, chàng đã thố lộ tâm tình, con tim cũng vì thế mà bị xao động, khiến cho giọng nói của chàng lệch lạc run run.

Thu Vân nín khóc, nhưng hai tay vẫn ôm mặt, mắt vẫn khép kín. Nàng sợ phải nhìn thấy chiếc áo đen chàng đang mặc. Chiếc áo ấy là thành trì, là biên giới, ngăn cách giữa hai người. Chiếc áo ấy cấm ngặt con tim nàng giao động, không cho nàng ước mơ, buộc nàng phải luôn luôn kính trọng người đàn ông trước mắt.

Nàng không muốn nhìn thấy sự thật trong lúc này.

Duy Quang xiết nàng trong vòng tay, mắt nhắm lại để nghe con tim xao xuyến và tình yêu giấu kín tận đáy lòng, được một lần bay cao.

Thời gian như ngừng trôi, vũ trụ như thu hẹp trong gian phòng này, cho hai kẻ yêu nhau được hưởng trọn vẹn một giây hạnh phúc.

Và “giây hạnh phúc” ấy chấm dứt, Duy Quang buông nàng ra, trở lại ngồi xuống ghế.

Không! Chàng không có quyền tiến thêm bước nữa, tình yêu này phải dừng lại đó.

Chàng đã chọn cuộc đời theo tiếng gọi thiêng liêng, một cuộc đời vĩnh cửu trong nước Chúa. Chàng không thể hy sinh, không thể từ bỏ cuộc đời cao quí đã chọn, dù chàng có yêu nàng thế mấy chăng nữa.

Số phận của cả hai đã thế rồi! Mỗi người đã có sẵn một con đường.

Cả hai đều biết rõ: “họ không thể yêu nhau!”.

Thu Vân vụt buông hai tay ra, mở choàng đôi mắt nhìn Duy Quang. Duy Quang cốđè nén tâm tình, nhưng khi bắt gặp ánh mắt của nàng, chàng bỗng nghe toàn thân bủn rủn, nghị lực không còn, toan thốt lên:

“-Em yêu quí của anh! Anh yêu em! Anh sẽ bỏ cuộc đời tu sĩđể sống cho em, cho tình yêu của chúng mình”.

Cũng may, miệng chàng đã há ra, nhưng âm thanh không thốt lên được. Vừa lúc ấy có tiếng chân bước lên cầu thang và Vân Trường hiện ra trước cửa buồng, hai tay bưng cái khay có tô cháo nóng, khói bay nghi ngút.

Duy Quang như người chết đuối gặp bè trôi tới, mừng rỡ đứng lên đón Vân Trường:

- Con đến đúng lúc lắm! Mẹ con vừa tỉnh thức, rất cần được ăn để lấy lại sức.

Sự thật Duy Quang cũng biết rằng chàng cũng vừa tỉnh thức, chính chàng rất cần được ăn, mà thức ăn ấy là lời Chúa.

Trong lúc này chàng rất cần thức ăn thiêng liêng ấy để đủ nghị lực tiếp tục sống đời tu sĩ.
--------------------------------
1 Miền Nam chia làm bốn vùng. Mỗi vùng có nhiều tỉnh, do một vị Tướng giữ chức Tư Lệnh trông coi. Vùng 4 thuộc các tỉnh miền Tây Nam phần. Bộ Tư lệnh đặt tại Cần Thơ, cách Mỹ Tho khoảng 100km và Saigon khoảng 200km.

giavui
01-10-2015, 08:09 PM
CHƯƠNG MƯỜI

KẺ THÙ CỦA HỒ-CHÍ-MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN LÀ AI?
(1974)

Chàng đứng một mình trước giảng đường, hai tay chấp trước ngực, mắt không rời tượng Thánh Mẫu Marie.

Từ khi khoác áo nhà tu, không ngày nào chàng không chiêm ngưỡng Đức Mẹ. Gương mặt dịu hiền của mẹ như xóa dịu bao nỗi nhọc nhằn trong đời tu sĩ của chàng, như giúp chàng vững niềm tin trong Chúa và nhờđó chàng tìm được lòng hăng hái trong nhiệm vụ giáo hội giao phó.

Đối với chàng Mẹ là Thánh nhân, là từ Mẫu, là người đàn bà hoàn hảo mọi mặt, mà chàng đã kính yêu khi còn là trẻ mồ côi trong cô-nhi-viện.

Mười lăm năm qua chàng còn tìm thấy nơi Mẹ hình ảnh của Thu Vân, người đàn bà chàng yêu, cũng gương mặt đẹp thiên thần thếấy…cũng đôi mắt dịu hiền thếấy…

Chàng không rõ mối tình thầm kín này phát sinh từ lúc nào ? Chỉ biết rằng nó thật đẹp, thật tuyệt dịu, không giống bất cứ mối tình nào khác trên thế gian. Bởi nó đi vào hồn hàng bằng thứ tình cảm thật êm dịu, không có những xâu xé của con tim, không có những đòi hỏi của xác thịt. Một thứ tình lý tưởng cao vợi của hai tâm hồn san sẻ niềm vui, chia nhau lẽ sống.

Tuy ngoài mặt lúc nào cả hai cũng giữ sự giao hảo khoảng cách giữa một linh mục với một tín đồ, mà trong lòng họđều biết rằng họ sống cho nhau.

Hai thể xác chưa từng làm một, mà hai cuộc đời đã xem như một !

Và chàng đã tìm được nguồn hạnh phúc vô biên bên đời, bên đạo…mặc cho thế sự bên ngoài đảo điên, điên đảo !

Hồ Chí Minh đã chết năm 1969, nhưng để lại di chúc buộc những đảng viên kế vị lão phải tranh đấu đến khi chiếm được miền Nam.

Thế nên chiến tranh vẫn không ngừng tiếp diễn, mặc dù phe hai bên, Mỹ và Cộng Sản bàn chuyện Hoà bình, ký kết hiệp định Paris 1972.

Nhưng Cộng Sản Việt Nam nói là nói, ký là ký. Còn hành động thì bất cần những gì đã nói đã ký, không tôn trọng những gì đã giao ước, y như thuở trước ký kết Hiệp định Genève với Pháp.

Người Mỹ đối đầu với Cộng Sản Việt Nam không khác gì người lớn gặp phải đứa con nít 7, 8 tuổi, lưu manh, gian xảo, ngổ ngáo, bất trị…mà không dám dơ tay đánh nó, để mặc cho nó thoi, nó cấu, nó cào… đứng im chịu trận lãnh đòn !

Và buồn cười là thế giới tự do không ai chịu mở mắt nhìn sự thật. Chỉ nghe nó la hét thì cho rằng « người lớn hiếp trẻ con » , bao nhiêu Đồng Minh của Mỹ đều chống Mỹ, ngay cả dân Mỹ cũng chống Mỹ !

Thế giới tự do đều muốn có Hoà Bình cho Việt Nam, và Hoà Bình theo họ là không muốn nghe thằng bé Cộng Sản kia la hét, chớ không phải thế giới tự do muốn dân tộc Việt Nam có cuộc sống thanh bình, no ấm, tự do.

Bị cô lập, người Mỹđành nhượng bộ với thằng con nít ngổ ngáo Cộng Sản, bỏ rơi chính phủ miền Nam.

Trước tình thếấy chính phủ Saigon phải gia tăng quân lính. Sinh viên, học sinh, cuối năm không thi đậu lên lớp, phải gia nhập quân đội.

Vân Trường năm ấy mới 17 tuổi đã đỗ tú tài, lại được hạng cao. Quả là thanh niên vừa anh tuấn vừa thông minh ! Duy Quang hết sức thương yêu, xem nó không khác gì viên ngọc quí mà Thượng Đế giao cho chàng gìn giữ.

Chàng rất sợ mất viên ngọc đó, nên sợ Vân Trường thi rớt sẽ phải gia nhập quân đội. Cho nên trọn năm qua chàng kèm dạy Vân Trường và thằng con đỡ đầu của chàng cũng cố công đèn sách. Kết quảđúng như mơ ước của chàng, Vân Trường đậu cao.

Chàng dự tính cho nó đi du học ở Thụy Sĩ hoặc ở Bỉ. Chàng không muốn đứa con tinh thần của mình dính líu vào cuộc chiến tranh nhơ nhớp 30 năm.

Chàng không muốn có ngày nó cùng cha nó đối đầu trên chiến trường nên sắp sẵn chương trình cho nó rời xứ, mặc dù Vân Trường không tha thiết lắm.

Từ nhỏ tới lớn sống gần gủi mẹ, thấy mẹ sống đời goá phụ giữa tuổi thanh xuân, Vân Trường rất thương mẹ, nên không muốn rời mẹ. Nó là đưá con rất chí hiếu và dễ dạy, ít khi cãi lời mẹ. Đối với chàng nó thương yêu như cha ruột, từ việc học đến tâm tình nó luôn luôn thố lộ với chàng.

Nghĩ đến Vân Trường trong lòng Duy Quang dâng lên niềm cảm xúc, y như người cha nghĩ đến đứa con ngoan hiền của mình.

Tuy chàng là tu sĩ, một kẻ độc thân, song lại được cái may mắn hưởng hạnh phúc gia đình :

« Một người tình ấp ủ trong tim, một người tình không ân ái, không làm vợ, nhưng vô cùng thân thiết và gần gủi.

« Một đưá con không do máu huyết của chàng tạo thành, nhưng tình thương yêu không khác gì ruột thịt.

Còn ai hạnh phúc hơn chàng ?

Mười mấy năm qua, song song với cuộc đời tu hành, sống cho lý tưởng, sống cho đạo, cho Chúa ; chàng còn có cuộc đời bình thường của con người trên thế gian là sống cho tình yêu.

Một tình yêu cao quí thánh sạch, mà thiết tưởng không ai có được những thứ chàng có.

- Cha ơi ! Cha !

Đang lúc tâm hồn phiêu diêu bay bổng với hạnh phúc, Duy Quang chợt nghe tiếng gọi quen thuộc sau lưng.

Chàng giật mình quay đầu nhìn lại, thấy Vân Trường từ ngoài hơ hãi chạy vào. Chàng chưa kịp lên tiếng, Vân Trường đã chạy tới ôm chàng, mếu máo nói :

- Cha ơi, mẹ con… Thấy thái độ của Vân trường, Duy Quang hoảng kinh,

không chờ nó nói dứt câu, chụp vai nó, hỏi giọng thất thanh : -Mẹ con ra sao ? -Mẹ con đã về Mỹ Tho. Mẹ bảo con đến báo tin Cha… -Chuá ơi! Mẹ con về Mỹ Tho mà con làm ta hoảng hốt

tưởng xảy ra điều chi trầm trọng. Thêm một lần nữa Duy Quang ngắt lời Vân Trường, song lần này trên môi chàng điểm nhẹ nụ cười và guơng mặt biến

sắc khi nãy bây giờ hết sức ôn nhu, từ ái. Nhưng Vân Trường rưng rưng nước mắt, nói tiếp: -Bà ngoại con chết vì trúng “mìn” Cộng sản Cha à! -Không! Nụ cười của Duy Quang tắt ngay cùng với tiếng kêu

thảng thốt.

- Không! Không thể nào tin được trong gia đình có hai người là nạn nhân của cuộc khủng bố Cộng Sản! Tại sao đại nạn cứ rơi lên đầu gia đình này?

Duy Quang muốn phản đối một sự thật. Nhưng sự thật vẫn là sự thật! Vân Trường đang đứng trước mặt chàng, đôi mắt còn ướt lệ và cái tin nó vừa mới báo là trầm trọng chớ không phải thường.

Bởi chàng biết rõ tinh thần Thu Vân rất yếu. Năm năm trước sau cái chết của Vân Long, nàng đau nặng. Chàng đã phải hết sức chăm sóc về mặt tinh thần, thêm với thuốc thang của bác sĩ, ba tháng sau nàng mới tìm được an bình. Giờđây mẹ nàng chết bởi khủng bố của Cộng Sản, e rằng nỗi thương đau và lòng uất hận có thểảnh hưởng đến thần kinh.

Chàng nghĩ thế nên lòng vô cùng lo lắng, kéo Vân Trường ngồi xuống chiếc băng dài, hỏi:

- Ngoại con chết từ bao giờ và bị trúng mìn ởđâu? Ai đã báo tin cho mẹ con biết?

- Ngoại chết hôm qua. Mìn đặt ở chợ nhà lồng, không biết lúc nào? Ngoại cùng chị Hai giúp việc nhà vừa trờ tới, đúng vào lúc tiếng nổ phát ra. Nghe nói mìn đặt ở bốn gốc chợ, nên rất nhiều người chết, vì giờđó người đi đông đảo. Ông ngoại nhờ một thầy gíáo lên Saigon báo tin cho mẹ biết và rước mẹ về Mỹ Tho ngay. Vì con còn phải đến báo tin cho Cha và thu dọn nhà cửa nên còn ở lại, nhưng sáng mai con sẽ lấy xe đò chuyến đi sớm để về dự tang lễ của ngoại vào 11 giờ trưa.

Duy Quang ngồi lặng một lúc đứng lên nói:

- Thôi con hãy trở về sắp xếp việc nhà như mẹ con căn dặn đi. Sáng mai ta sẽ gặp con nơi bến xe đò. Ta cần phải xin phép Bề Trên đểđi Mỹ Tho dự tang lễ của ngoại con.

Vân Trường lộ vẻ vừa ý :

- Con mừng có Cha cùng đi. Con rất lo cho mẹ con. Khi nghe tin ngoại chết, sắc mặt của mẹ lạnh lùng kỳ lạ lắm!

Duy Quang nghe Vân Trường kể, lòng càng không yên. Chàng đưa Vân Trường ra cửa, rồi quay trở lại quỳ trước tượng Đức Mẹ cầu kinh.

**

Sáng hôm sau Vân Trường và Duy Quang về đến nhà ông Trần Văn khoảng hơn 10 giờ sáng. Giờấy trong nhà không có ai. Mọi người đưa linh cửu bà Trần Văn và người tớ gái tới nhà thờ.

Vân Trưòng và Duy Quang lại phải lấy taxi đi đến nhà thờ. Xe chạy được một đoạn đường thì không thể chạy tới được nữa, vì thiên hạ từ các nơi đổ xô về nhà thờ. Các ngã tư đều bị ứ đọng. Vân Trường và Duy Quang phải bỏ taxi đi bộ.

Lúc cả hai đến nơi thấy người đông như kiến. Cũng vì quá nhiều người chết, Cha xứ tổ chức đám tang tập thể , nên gần như tất cả dân trong tỉnh đều có mặt tại đó.

Nhà thờ nhỏ, nghĩa trang không to lắm, người người đứng chen chúc dưới sân, nối dài ra đường lộ.

Đương nhiên những người tới đó đều có thân nhân tử thương trong vụ nổở chợ, nên sắc mặt họ ngoài nỗi đau thương, còn có oán hận.

Duy Quang nghe tiếng khóc đó đây vang lên giữa rừng người, lòng xúc động, con tim đau nhói. Chàng tự hỏi:

“Kẻ thù của Đảng Cộng Sản là ai?

“Kẻ thù của Hồ Chí Minh là ai?

Chẳng lẽ là những người bán hàng? Chẳng lẽ là những bà nội trợ?

Bấy lâu họ pháo kích bừa bãi vào thành phố, chàng có thể lấy lý do vì họ không đủ khả năng bắn đích xác vào các cơ quan nhà nước, nên mới rủi ro rớt vào nhà dân. Chớ như đặt chất nổ giữa chợ là họ có mục đích giết dân hẳn hòi!

Hồ Chí Minh lúc nào cũng rêu rao đánh Mỹ, đánh những người theo Mỹ, nhưng những người bán hàng, những nông dân bán rau cãi, những bà nội trợ, những đứa học trò v.v…chẳng lẽ là kẻ thù để họ tiêu diệt sao?

Duy Quang chợt nhớ đến bức thư của Thy gửi cho Thu Vân hồi năm năm về trước. Thy viết:

“Bác và Đảng gửi chúng anh trở lại miền Nam là để thanh trừng đám con dân Mỹ Ngụy. Chúng anh sẽ giết sạch dân Ngụy từ già đến trẻ, hầu cho bọn Ngụy không còn chỗ dựa, phải đầu hàng Bác và Đảng.

Mục đích của phe Cộng Sản đã rõ ràng như vậy. Họ cần giết dân, để dân sợ hãi không dám ủng hộ chính quyền miền Nam, tức là chính phủ Saigon không còn thế dựa ở dân. Thật là một chính sách dã man và tàn bạo!

Vân Trường đang nắm tay Duy Quang len lỏi vào chỗ hạ huyệt , bỗng nghe tiếng xôn xao, rồi những người đứng phía trước đồng nép mình làm lối cho mấy người mặc quân phục đi ra, mà người đi đầu là một vị tướng oai phong lẫm liệt, trên tay có bồng một người đàn bà. Còn ba người kia, một người mang cấp bậc Thiếu Tá, một người Trung Úy, một người Hạ sĩ.

Thấy mặt vị tướng Vân Trường há miệng gọi lớn:

- Chú!

Rồi Vân Trường chợt vuột khỏi tay Duy Quang, kêu thất thanh:

- Mẹ! Trời ơi, mẹ sao vậy hỡ chú?

Duy Quang cũng chạy theo Vân Trường và khi nhận ra Thu Vân đang nằm quằn quại trên tay một vị tướng trẻ, mà chàng đoán là Lê Thanh, em trai của Thy, Duy Quang không khỏi kinh tâm.

Cũng may Thanh đã lên tiếng trấn an Vân Trường:

- Mẹ con bị ngất xỉu, chớ không việc gì đâu! Ta đem mẹ con vào nhà thất của Cha xứ, vì ngoài này quá đông người.

Lê Thanh nói với Vân Trường, song đôi chân bước thật nhanh. Vân Trường và Duy Quang cùng theo vào nhà thất.

Căn nhà này là chỗở của Cha xứ, Cha đang bận cử hành tang lễ bên ngoài nên trong nhà không có ai.

Lê Thanh đặt Thu Vân nằm trên ghế dài trong phòng khách và cởi chiếc áo veste nhà binh đấp lên mình nàng. Vân Trường quỳ bên ghế kêu gọi mẹ. Một lúc Thu Vân mởđôi mắt lờđờ nhìn mọi người.

Thình lình nàng ngồi bật dậy, chụp Lê Thanh, nói như thét:

- Chính anh! Anh đã giết con tôi! Anh đã giết mẹ tôi! Anh theo Cộng Sản để hãm hại gia đình tôi! Tôi thù anh! Tôi thù anh!

Nàng vừa nói vừa khóc, hai tay níu chặt Lê Thanh, y như một người vừa bắt được kẻ trộm, sợ kẻđó chạy mất.

Lê Thanh đứng trân người, nét mặt rầu rĩ. Vân Trường hoảng sợ nhìn Duy Quang cầu cứu. Duy Quang bước tới nói với Lê Thanh:

- Cô ấy bị khủng hoảng tinh thần, không nhận ra ai được nữa. Để tôi đi tìm bác sĩ.

Cho tới lúc đó Lê Thanh mới thấy Duy Quang. Chàng kính cẩn hỏi:

- Thưa Cha, có phải là Cha Duy Quang ở Saigon ?

- Phải, chính tôi !

- Tôi có nghe chị dâu và cháu nói về Cha, nay mới dịp tận mặt Cha. Cám ơn Cha đã giúp đỡ chị dâu và cháu tôi bấy lâu nay. Anh tôi thật quá khốn nạn, làm khổ cả một đời chịấy.

Duy Quang nói giọng buồn thiu:

- Khổđau chồng chất, tinh thần cô ấy không còn bình thường được nữa. Trung Tướng ởđây, để tôi đi ra ngoài tìm một bác sĩ.

- Cám ơn Cha.

Duy Quang bước đi, trong khi Thu Vân vẫn còn lảm nhảm nói như người điên.

Chàng trở ra giữa rừng người và hỏi tìm một bác sĩ. Có người cho biết có một bác sĩđang đứng gần chỗ hạ huyệt, nơi Cha xứđang hành lễ. Duy Quang nghe nói mừng rỡ, tiến về phía ấy và mời ông ta theo chàng vào nhà thất.

Lúc chàng trở lại Thu Vân đã nằm yên, mắt nhắm như ngủ. Vân Trường ngồi sụm dưới đất, Lê Thanh ngồi trên ghế cạnh đó. Vị Thiếu Tá và viên Trung Úy đứng nơi bệ cửa.

Vị bác sĩ gật đầu chào mọi người chớ không lên tiếng. Và vì không có đồ nghề, ông lấy tay chẩn mạch Thu Vân rồi nhỏ giọng với Lê Thanh và Duy Quang :

- Bà ấy bị sốt nặng nên đưa về nhà. Xin Quý vịđi trước, tôi trở ra chỗ tang lễ một chút rồi sẽ ghé phòng mạch lấy dụng cụ nghề nghiệp đến nhà ông Trần Văn.

Thấy sắc mặt Lê Thanh và Duy Quang quá lo âu, vị bác sĩ trấn an :

- Xin Cha và Trung Tướng an tâm. Bà ấy vì quá đau buồn trước cái chết thê thảm của mẹ nên uất khí dâng lên, gây nhiệt độ trong người. Tôi nghĩ, chắc chẳng phải đau bệnh chi trầm trọng.

Lê Thanh nói cảm ơn, rồi đích thân bồng chi dâu đi ra. Mấy người quân nhân cùng Duy Quang và Vân Trường cùng theo ra.

Xe đậu trước ngõ của nhà thờ, có điều xe quá nhỏ, loại xe jeep của nhà binh. Ông Hạ Sĩ, vốn là tài xế của Lê Thanh, vội vàng leo lên xe, nhưng vị Thiếu Tá bảo ông ta :

- Chú để tôi lái xe đưa Trung Tướng đi. Ông Trung Uý và chú nên tìm xe khác đến nhà ông Hiệu Trưởng sau.

Hai người này vâng lệnh rút lui. Bây giờ xe do vị Thiếu Tá lái, Duy Quang ngồi phía trước, băng ghế phía sau Lê Thanh bồng Thu Vân và Vân Trường phụđỡ mẹ.

Xe vềđến nhà mọi người mới nhớ là nhà không có người, cửa khóa. Lê Thanh toan phá cửa vào nhà, Vân Trường chợt nhớ ra cái ví của mẹ, vội mở ra, thấy ngay sâu chìa khóa.

Mở được cửa vào nhà, Lê Thanh bồng nàng thẳng lên tư phòng nàng ở tầng lầu trên, Vân Trường cùng theo chú. Duy Quang ngồi lại nơi phòng khách với vị Thiếu tá, chưa kịp trò chuyện Lê Thanh đã trở xuống, nói giọng lo âu :

- Chịấy vẫn còn nóng mê man. Tôi chờ bác sĩ đến đây xem sao ?

Chàng ngồi trên ghế đối diện với Duy Quang đàm luận việc nhà, việc nước, tình hình chính trị, quân sự…lời lẽ minh quang, chính đại, hiểu rộng biết nhiều. Chứng tỏ chàng không những là một vị anh hùng bất khuất, mà còn là người thông minh, sâu sắc và tình cảm.

Duy Quang hỏi :

- Chẳng hay Trung Tướng bao nhiêu tuổi ? Đã lập gia đình chưa ?

- Tôi đã 37 tuổi rồi, nhưng chưa dám cưới vợ. Chắc Cha cũng rõ, đời quân nhân không biết sống chết lúc nào, cưới vợ mà không làm tròn bổn phận làm chồng làm cha, thật là hạng đàn ông vô trách nhiệm.

Chàng bỗng cười, giọng cười chua chát, xen với nỗi oán giận :

- Như anh tôi, cưới vợ một tháng thì bỏ vợđi theo Cộng Sản để làm người hùng. Tội nghiệp chị dâu tôi bỏ phí một đời xuân sắc vì ảnh. Càng thương xót chị dâu, tôi càng oán giận anh tôi và cũng không muốn cưới vợ.

Mười mấy năm qua Duy Quang thấy hình ảnh của Lê Thanh trên báo. Lê Thanh nổi tiếng là một quân nhân can trường từ khi còn mang cấp bậc Thiếu Úy, mà binh sĩ gọi là Napoléon Việt Nam. Đến khi thăng cấp bậc Tá, đến Tướng, báo chí ca ngợi luôn, nhân dân ai cũng nghe biết. Duy Quang lại còn nghe Thu Vân và Vân Trường kể về Lê Thanh, nên lòng vốn có sẵn cảm tình.

giavui
01-10-2015, 08:09 PM
Bữa nay đàm đạo với vị tướng trẻ này, chàng càng kính phục, ngưỡng mộ, đâm tiếc rẽ Lê Thy đã chọn lầm đường. Nếu muốn làm người hùng thì như Lê Thanh mới đúng là đường đường một vị anh hùng. Phải chi Thy là Thanh thì cuộc đời của Thu Vân đẹp biết mấy ?

Tại sao khi xưa Thu Vân không yêu Thanh, lại yêu Thy ? Gương mặt hai anh em họ không khác nhau, xui chi Thu Vân lại chọn Thy làm chồng để khổ một đời ?

Ôi chẳng qua định mệnh của nàng ! Định mệnh của một người đàn bà Việt Nam không thể đổi thay. Chứ như trong xã hội Âu Mỹ, Thy bỏđi rồi Thu Vân có thể kết hôn với người khác, ngay cả với Thanh.

Lòng chàng vụt se lại khi nghĩ rằng trong xã hội này còn hàng triệu người đàn bà sống đời cô phụ để nuôi con, như Thu Vân. Họ can đảm chấp nhận số phận hẩm hiu của mình mà không một lời than van, thật đáng thương !

- Thưa Cha, nghe nói Cha tu học ở Bỉ ?

Câu hỏi của Thanh làm Duy Quang giật mình. Chàng ngớ ngẩn một lúc mới trả lời :

- Phải ! Tôi ở Bỉ 10 năm.

- Chắc Cha đã viếng nhiều nước Âu Châu ?

- Vâng ! Sự qua lại các nước Âu Châu dễ dàng và không mắc lắm, nên phần đông sinh viên mình hay đi đó đi đây trong các dịp nghỉ học. Riêng tôi, hồi còn học ở Bỉ, ngoài những dịp đi du lịch, còn phải đi nơi khác để lo đạo vụ, nên hầu hết các nước Âu Châu tôi đã đi qua, ngoại trừ các quốc gia cộng sản.

Lê Thanh chép miệng nói :

- Ước gì có hoà bình để tôi được dịp đi Âu Châu một lần. Tôi rất thích đi du lịch đây đó.

Vị Thiếu Tá xen vào :

- Mình muốn có hoà bình, nhưng phe Cộng không ngừng tấn công, mặc dù chúng ký kết đủ thứ. Chẳng bao giờ có hoà bình ! Ngoại trừ ta giao miền Nam cho chúng và khi đó hoà bình sẽ biến cả xứ Việt Nam thành địa ngục !

Lê Thanh thở dài :

- Khổ một điều là thế giới tự do không biết rõ điều đó. Đâu đâu cũng biểu tình chống Mỹ, ngay cả dân Mỹ ! Hiệp định Paris thì thiệt thòi về phía chính phủ mình. Tôi chỉ sợ một ngày gần đây Mỹ không giữđiều cam kết với miền Nam, bỏ rơi chúng ta, không giúp khí giới đạn dược nữa, thì dù quân lực của ta có mạnh thế mấy cũng buông tay cho Cộng Sản tràn vào.

Duy Quang nói :

- Hồ Chí Minh là con người quá nhiều tham vọng, khiến cho hai miền Nam Bắc khốn khổ vì chiến tranh đã 30 năm. Xem như, trên thế giới có nước Đức và Đại Hàn cũng chia đôi, nhưng người ta ở yên, ai có phần đất người đó, không xâm phạm nhau, dù rằng…

Đang khi Duy Quang nói, bỗng có tiếng chân ngoài ngõ. Mọi người đoán là vị bác sĩ tới nơi. Lê Thanh bước ra cửa đón ông ta và đưa lên lầu.

Thu Vân vẫn còn nằm thiêm thiếp trên giường. Vị bác sĩ chẩn mạch, lấy nhiệt độ, rồi tiêm cho nàng mũi thuốc. Ông ta trao cho Vân Trường một hộp thuốc, rồi căn dặn :

- Trước mỗi bữa ăn cậu nên cho mẹ cậu uống một viên. Nhớ là chỉ cho những thức ăn nhẹ, khi nào hết sốt thì ngưng thuốc.

- Con sẽ không quên lời bác sĩ dặn.

Lê Thanh hỏi :

- Bệnh chịấy có trầm trọng không hỡ bác sĩ ?

- Bà ấy bị kiệt sức vì lo việc mấy hôm, lại thêm sầu hận khí uất dồn lên, gây nóng sốt. Chỉ cần an nghỉ vài hôm, sức khoẻ sẽ trở lại bình thường.

Vân Trường vẫn không an tâm :

- Khi xưa anh con chết, mẹ con đau nặng cả tháng. Con sợ lần này càng đau nặng hơn.

Không ai hay biết Duy Quang có mặt nơi đó từ lúc nào thình lình giọng nói trầm trầm của chàng vang lên :

- Cô ấy bị khổđau dồn dập trong đời, sợ khủng hoảng đến thần kinh, bác sĩ nghĩ sao ?

Lê Thanh nhớ lại lúc nãy chị dâu không nhận ra mình, nên hỏi giọng lo âu :

- Bác sĩ nghĩ thế nào về những lo lắng của Cha ?

Vị bác sĩ suy nghĩ một lúc, đáp :

- Cũng có thể người bị nhiều đau khổ trên đời, khi thêm một đau buồn mới họ không bịảnh hưởng nặng nề bằng người chưa gặp bất hạnh.

Vừa thu xếp vali nghề nghiệp, ông ta vừa nói thêm :

- Dù sao tôi không dám nói trước với quí vịđiều gì. Chờ khi bà ấy tỉnh lại, hết sốt, xem phản ứng thế nào mới biết được. Tôi sẽ trở lại thăm bà ngày mai, nếu có điều gì trầm trọng quí vị có thể gọi tôi tới ngay.

- Cám ơn bác sĩ.

Cả Lê Thanh và Duy Quang cùng đưa vị bác sĩ xuống lầu. Lê Thanh mời ông ta ngồi lại uống trà, nhưng ông ta từ chối. Đúng vào lúc ấy ông Trần Văn cũng về đến nhà. Ông hỏi thăm vị bác sĩ bệnh trạng của Thu Vân rồi tiễn ông ta ra ngõ. Khi trở vào ông mới thấy Duy Quang, nên mừng rỡ hỏi :

- Cha xuống đây từ lúc nào ?

Tôi và Vân Trường đi chuyến xe từ sáng sớm, nhưng không may xe bị trục trặc giữa đường, thành ra lúc tới nơi trong nhà không còn ai. Chúng tôi liền đi thẳng đến nhà thờ, song người đông nghịt, chưa đến được chỗ Cha xứ làm tang lễ chúng tôi gặp ôngTrung Tướng bế Thu Vân đi ra. Thế là chúng tôi theo ông Trung Tướng vềđây.

- À, hoá ra thằng Vân Trường cũng đã vềđây rồi. Nó đâu ?

- Thưa bác, nó trên lầu, trong phòng của mẹ nó.

Lê Thanh trả lời thay cho Duy Quang. Ông Trần Văn chợt thấy có mặt vị Thiếu Tá không quen, nên mời mọi người ngồi, rồi nói :

- Vợ tôi chết, người làm cũng chết, con gái bịđau, trong nhà không còn ai để nấu nước pha cà phê cho khách. Quí vị ngồi đây, chờ tôi vào bếp đun nước sẽ trở lại ngay.

Lê Thanh đứng lên nói :

- Xin Bác để cháu làm việc ấy cho. Từ thuở nhỏ cháu vẫn quen làm việc trong nhà. Trong quân đội cũng phải biết làm mọi việc.

Vị Thiếu tá vội vàng dành :

- Xin Trung Tướng cho phép tôi làm thay việc này. Trung Tướng nên ngồi đây trò chuyện với ông Hiệu Trưởng và Cha. Tôi chắc quí vị có nhiều điều cần nói với nhau.

Lê Thanh lắc đầu, nghiêm giọng nói :

- Ởđây ông Thiếu Tá là khách, còn tôi là người nhà. Lúc nào trong quân ngũ ông sẽ làm thay tôi vậy !

Vị Thiếu Tá không dám cãi lệnh, vội ngồi xuống ghế. Lê Thanh đi vào nhà bếp. Ông Trần Văn hỏi Duy Quang :

- Bao giờ Cha sẽ trở về Saigon ?

- Tôi chờ xem Thu Vân tỉnh dậy xem sao ? Nếu bệnh cô ấy không có gì trầm trọng tôi sẽ trở về Saigon chiều nay.

- Nếu có thể, mong Cha lưu lại đây vài hôm. Tôi đang buồn khổ quá, rất cần Cha ở lại cầu nguyện cho, nhất là Thu Vân.

- Nếu ông Hiệu Trưởng muốn thế, tôi cần điện thoại về Saigon xin phép Bề trên.

- Cám ơn Cha nhiều.

Khi ấy Lê Thanh trở ra với bốn tách cà phê, nói :

- Nhà binh pha cà phê chắc không ngon, xin quí vị miễn chấp.

Đồng hồ trên vách đổ 12 tiếng, ông Trần Văn giật mình kêu lên :

- Chao ôi ! Giờ này đã đúng ngọ rồi, là giờăn, chớ nào phải là giờ cà phê. Đầu óc tôi bây giờ không còn nhớ gì nữa ! Tôi xin mời Cha, cháu Thanh và ông Thiếu tá ra nhà hàng dùng cơm với tôi vậy.

Lê Thanh cung kính nói : -Cháu xin phép mời Bác và Cha bữa nay. -Nếu cháu có lòng mời, xin đưa dùm Cha đi ăn trưa thay

bác. Nói thật hiện giờ bác không ăn được.

Không riêng gì ông Trần Văn, Duy Quang cũng không thấy đói. Trước cái chết thảm của mấy chục dân vô tội, khiến cho hàng trăm người khóc lóc đau thương mà chàng chứng kiến nơi nghĩa trang sáng này, làm chàng buồn bực không

muốn ăn uống gì nữa !

Chàng nói :

- Thật tình hiện giờ tôi chưa thấy đói, xin ông Hiệu

Trưởng và ông Trung Tướng đừng bận lòng vì tôi.

Lê Thanh thừa hiểu tâm trạng mọi người nên không nài ép. Chàng đứng lên từ giã :

- Cháu xin phép bác về nhà mẹ cháu một lúc. Chiều nay

cháu sẽ trở lại thăm chị dâu.

Lê Thanh bắt tay Cha Duy Quang, nói :

- Nếu Cha còn ở lại, tôi sẽ gặp lại Cha chiều nay.

- Rất hân hạnh cho tôi được chuyện trò với Trung Tướng.

Cả Duy Quang và ông Trần Văn cùng tiễn đưa hai vị

tướng, tá ra ngõ. Ông Trần Văn nói cám ơn trước khi chia tay :

- Cảm tạ quí vịđã đến dự tang lễ của nhà tôi. Tha lỗi cho tôi về sự tiếp đãi thiếu sót. À, do đâu quí vị biết tin này kịp thời ?

Lê Thanh đáp :

- Trong quân đội tin tức đươc loan nhanh. Tiếng nổ vừa phát ra thì cháu đã nhận được điện thoại của Tỉnh Trưởng báo cáo mọi sự và cho biết tên các nạn nhân. Cháu nghe tên bác gái, liền dàn xếp công vụ để hôm nay có thể về Mỹ Tho tham dự tang lễ. Sáng mai cháu phải trở lại Bộ Tư Lệnh.

Ông Trần Văn gục gật đầu :

- À thì ra Trung Tướng nhận được tin từ ông Tỉnh Trưởng.

Mọi người đã ra đến lộ. Ông Trung Úy và ông Hạ Sĩđã chờ sẵn nơi đó. Thấy cao cấp đi ra họ vội vàng chào theo quân cách một cách nghiêm chỉnh, rồi ông Hạ Sĩ nhảy lên xe làm tài xế, viên Trung Úy mở cửa.

Lê Thanh oai vệ bước lên xe ngồi phía trước. Vị Thiếu Tá và quan Trung Úy ngồi băng sau. Vị Thiếu Tá là phụ tá của Lê Thanh, còn Trung Úy là cận vệ.

Xe chạy vút đi, ông Trần Văn và Duy Quang vẫn còn đứng một chỗ trông theo. Cả hai cùng nghĩ về Lê Thanh, một con người khã ái, nhưng không kém vẻ uy nghi của một nhà tướng. Cả hai tuy không nói ra, song cùng một ao ước : « Phải chi, Thy là người ấy ».

Ông Trần Văn chợt kể :

- Cùng một Cha một mẹ mà hai anh em họ tánh tình khác biệt. Lê Thanh rất chí hiếu, ngày nay dù làm Tướng, tư lệnh vùng 4 1 oai quyền một cõi, mà đối với mẹ lúc nào cũng một lòng yêu kính. Không lập gia đình, nên Thanh có tiền giúp mẹ sữa sang cửa tiệm ngày nay khá đồ sộ, lại còn xây thêm căn nhà cạnh tiệm buôn cho mẹ có chỗở. Khi trước chị sui tôi buôn bán và sinh sống trong cửa tiệm tạp hoá chật hẹp. Ngày nay nhờ có Lê Thanh mà có chỗở tươm tất, buôn bán phát đạt, hãnh diện với làng xóm. Tánh nó rất thương bà con xa gần, ai nghèo nó giúp tiền bạc. Nghe nói binh sĩ dưới trướng nó cũng đối đãi như vậy. Thật là một người đáng trọng.

- Tôi thường nghe Thu Vân và Vân Trường kẻ về tướng Thanh. Lần này gặp ông ấy tôi rất cảm tình và ngưỡng phục một vị anh hùng.

- Nó rất thương quí Thu Vân và Vân Trường. Mấy năm sau này cung cấp cho cháu tiền học, mua sách vở quần áo…

- Điều này tôi cũng biết.

- Thằng Thy có vợ mà không biết trách nhiệm, theo bọn Cộng Sản giết hại đồng bào.

Nói đến đó ông vụt nhớ đến cái chết của vợ, nước mắt ứa ra. Ông lẳng lặng quay gót vào nhà. Duy Quang đi theo sau lưng không nói gì thêm.

Vân Trường bây giờ mới nghe tiếng ông ngoại, vội vàng chạy xuống lầu ôm ông ngoại, nghẹn ngào:

- Tội nghiệp bà ngoại con…

Ông Trần Văn ôm cháu, an ủi:

- Thôi, cháu chớ khóc nữa! Con người ai cũng một lần chết.

Ông cố gắng nói được mấy tiếng, cỗ họng nghẹn lại, không nói thêm được nữa. Một lúc ông buông Vân Trường ra, hỏi:

- Mẹ con thế nào?

- Mẹ còn ngủ. Có lẽ nhờ mũi thuốc bác sĩ tiêm lúc nãy, nhiệt độ trong người mẹđã hạ, mẹ ngủ yên. Con muốn nấu ít cháo, chờ khi mẹ thức cho mẹăn.

- Phải đó! Con chăm sóc mẹ thay cho ông ngoại nhé? Ông không còn sức nữa.

Duy Quang biết ông Trần Văn đã mệt sức lắm, không thể chịu đựng lâu hơn nữa nên khuyên:

- Ông Hiệu Trưởng nên vào tư phòng nghỉ một lúc, tôi sẽ lo cho Thu Vân, xin ông an lòng.

- Cám ơn Cha nhiều. Tôi thật vô lễ, không hầu tiếp Cha tươm tất…

Duy Quang ngắt lời:

- Xin ông chớ bận lòng vì tôi. Tôi đến đây với tư cách một Linh Mục giúp đỡ tín đồ, chớ không là khách.

- Cám ơn Cha, nếu thế tôi xin phép về phòng riêng nghỉ một lúc.

Sau câu nói ông cúi đầu chào Duy Quang rồi bước đi. Vân Trường chợt nhỏ giọng:

- Cha có thể giúp con trông mẹ con một lúc? Con vào bếp nấu cháo cho mẹ.

Duy Quang gật đầu ưng thuận, nhẹ bước lên lầu.

Chàng vào phòng thấy Thu Vân vẫn ngủ yên, nên ngồi trên ghế bên cạnh giuờng, hai tay chấp trước ngực, mắt nhắm lại, miệng lâm râm nguyện cầu…

Lời cầu nguyện vừa dứt, chàng mở mắt ra, chợt thấy Thu Vân đang nhìn mình chăm chăm. Duy Quang chưa kịp lên tiếng, nàng đã hỏi:

- Cha xuống đây từ bao giờ?

- Tôi theo Vân Trường đến đây từ sáng, nhưng chúng tôi đến trễ nên không kịp dự tang lễ.

Nghe Duy Quang nhắc đến tang lễ, Thu Vân giật mình không hiểu sao mình nằm ở nhà, ngồi bật dậy, ngơ ngác hỏi:

- Vì sao con nằm đây?

- Cô bị ngất xỉu, ông Trung Tướng đưa cô vềđây. Hiện ông Trung Tướng đã về nhà của mẹ chồng cô. Còn ông Hiệu Trưởng đang nghỉở tư phòng dưới nhà. Cô thấy trong người thế nào?

Thu Vân không đáp câu hỏi của Duy Quang, nói giọng buồn thiu:

- Mẹ chết, cha già sống bơ vơ một mình. Chắc là con phải trở vềđây sống với cha già. Ngặt một điều Vân Trường năm nay đã vào Đại Học, nếu con vềđây nó ở Saigon một mình, không biết lo thân được không?

Nghe nàng nói chuyện tỉnh táo, Duy Quang mừng lắm, ngọt ngào bảo:

- Việc học của Vân Trường thì tôi đang lo xin học bổng cho nó. Nếu được chính phủ chấp thuận, nó có thể rời Việt Nam mùa Thu này. Cô không phải lo nữa!

- Xin học bổng đi du học đâu phải dễ, thưa Cha?

- Ví như nó không được học bổng đi du học thì vẫn có thể học ở Saigon. Tôi còn đó để lo cho nó, xin cô an lòng. Tôi chỉ mong cô dẹp nỗi ưu phiền để không hủy hại sức khoẻ.

Thu Vân nói giọng uất nghẹn:

- Làm sao hết buồn, làm sao thôi hận hỡ Cha? Con là con người phàm tục, không có lòng vị tha vô biên của Chúa, nên không thể không oán hận Cộng Sản dã man, trong đó có chồng con, đã giết con của con, mẹ của con và bao nhiêu đồng bào vô tội khác. Phải chăng họ là quỷ Satan?

Duy Quang thở dài.

Lần này chàng không biết nói thế nào để bào chữa tội lỗi của Thy và đồng bọn hầu làm nhẹ nỗi oán hận trong lòng Thu Vân? Chàng cúi mặt lặng thinh, chốc chốc lại thở ra.

Thu Vân thấy chàng cứ mãi thở ra, cười nhẹ, giọng cay đắng:

- Chắc là Cha không tìm ra lý lẽ để gỡ tội cho họ phải không? Vì sao Trời và Chúa làm ngơ trước hành động vô nhân của bọ Cộng Sản? Nói thật với Cha là con không tin ở Trời và ở Chúa nữa!

Duy Quang hoảng hốt, kêu lên:

- Thu Vân! Tôi van cô! Chớ nên xúc phạm tới Đấng thiêng liêng! Thượng Dế vốn công bình, kẻ làm tội ác sẽ bị xét xử sau khi chết.

- Vì sao Thượng Đế không xét xử ngay khi họ còn sống? Tại sao Thượng Đế không khiến cho họ chết để tránh tai hoạ cho người lành?

- Vì Ngài thương yêu nhân loại. Từ đứa trẻ lọt lòng mẹ Ngài đã cho nó cái quyền sống tự do trên thế gian, thì đương nhiên Ngài không lấy cái quyền đã cho.

- Nếu Ngài đã cho nhân loại cái quyền tư do sống, tại sao Ngài tạo ra kẻ ác để hủy diệt quyền sống của người lành?

Duy Quang lắc đầu, cười nhỏ:

- Thượng Đế không tạo ra kẻ ác! Đứa trẻ lọt lòng mẹ do Ngài tạo ra vốn vô tư và hồn nhiên. Từđó Ngài cho nó có quyền sống trên thế gian. Vậy khi lớn lên nó trở thành người tốt hay người xấu là do ảnh hưởng của những người chung quanh nó và xã hội nó sống. Đương nhiên Thượng Đế không xen xỏ vào việc của loài người trong thời gian sống trên thế gian. Nhưng con người đã lạm dụng quyền tự do ấy làm những điều tàn ác, chém giết thù ngịch nhau, khiến cho Thượng Đế phải gửi Đấng Christ đến thế gian để nhắc nhỡ răn dạy người đời phải sống hoà bình, thương yêu lẫn nhau. Xem thế Thượng Đế muốn nhân loại là người hiền, người tốt. Những kẻ tàn ác vì họ không nghe lời răn của Chúa.

Duy Quang ngừng nói, liếc mắt quan sát Thu Vân, thấy nàng có vẻ xúc động, chàng tiếp:

- Cộng Sản chủ trương vô thần, bài trừ tín ngưỡng, xem thường lời răn của Chúa, đả kích Thánh Kinh…Đó là nguyên nhân tại sao họ dám làm những việc hung bạo. Nhưng cô hãy an lòng! Trên thế gian này kẻ làm ác sẽ gặp điều dữ. Bởi Chúa Jesus chẳng đã từng nói với môn đồ: “Ai gieo giống chi, sẽ gặt giống đó” hay sao? Không ai gieo hạt dẽ mà có được trái táo bao giờ!

Những lơi phân giải của Duy Quang giúp Thu Vân an định tâm thần, niềm tin ở Chúa như lấy lại được. Nàng nói giọng ân hận:

- Con thật có tội! Con xấu hổ quá!

Nàng nói mà hai tay ôm mặt khóc sướt mướt. Duy Quang không biết vỗ về ra sao, bước tới ngồi bên bệ giuờng, nhỏ nhẹ:

- Thu Vân, đừng khóc nữa! Nào cô có tội lỗi gì đâu? Cô là con chiên đáng thương của Chúa.

Thu Vân nghe nói càng hổ thẹn, khóc to hơn. Duy Quang bối rối, không biết làm thế nào cho nàng nín, quàng tay ôm nàng, nài nỉ:

- Tôi van cô! Đừng khóc nữa! Nước mắt cô làm não lòng tôi, tôi đau lòng khi thấy cô khóc.

Trong một phút giây không kềm chế, chàng đã thố lộ tâm tình, con tim cũng vì thế mà bị xao động, khiến cho giọng nói của chàng lệch lạc run run.

Thu Vân nín khóc, nhưng hai tay vẫn ôm mặt, mắt vẫn khép kín. Nàng sợ phải nhìn thấy chiếc áo đen chàng đang mặc. Chiếc áo ấy là thành trì, là biên giới, ngăn cách giữa hai người. Chiếc áo ấy cấm ngặt con tim nàng giao động, không cho nàng ước mơ, buộc nàng phải luôn luôn kính trọng người đàn ông trước mắt.

Nàng không muốn nhìn thấy sự thật trong lúc này.

Duy Quang xiết nàng trong vòng tay, mắt nhắm lại để nghe con tim xao xuyến và tình yêu giấu kín tận đáy lòng, được một lần bay cao.

Thời gian như ngừng trôi, vũ trụ như thu hẹp trong gian phòng này, cho hai kẻ yêu nhau được hưởng trọn vẹn một giây hạnh phúc.

Và “giây hạnh phúc” ấy chấm dứt, Duy Quang buông nàng ra, trở lại ngồi xuống ghế.

Không! Chàng không có quyền tiến thêm bước nữa, tình yêu này phải dừng lại đó.

Chàng đã chọn cuộc đời theo tiếng gọi thiêng liêng, một cuộc đời vĩnh cửu trong nước Chúa. Chàng không thể hy sinh, không thể từ bỏ cuộc đời cao quí đã chọn, dù chàng có yêu nàng thế mấy chăng nữa.

Số phận của cả hai đã thế rồi! Mỗi người đã có sẵn một con đường.

Cả hai đều biết rõ: “họ không thể yêu nhau!”.

Thu Vân vụt buông hai tay ra, mở choàng đôi mắt nhìn Duy Quang. Duy Quang cốđè nén tâm tình, nhưng khi bắt gặp ánh mắt của nàng, chàng bỗng nghe toàn thân bủn rủn, nghị lực không còn, toan thốt lên:

“-Em yêu quí của anh! Anh yêu em! Anh sẽ bỏ cuộc đời tu sĩđể sống cho em, cho tình yêu của chúng mình”.

Cũng may, miệng chàng đã há ra, nhưng âm thanh không thốt lên được. Vừa lúc ấy có tiếng chân bước lên cầu thang và Vân Trường hiện ra trước cửa buồng, hai tay bưng cái khay có tô cháo nóng, khói bay nghi ngút.

Duy Quang như người chết đuối gặp bè trôi tới, mừng rỡ đứng lên đón Vân Trường:

- Con đến đúng lúc lắm! Mẹ con vừa tỉnh thức, rất cần được ăn để lấy lại sức.

Sự thật Duy Quang cũng biết rằng chàng cũng vừa tỉnh thức, chính chàng rất cần được ăn, mà thức ăn ấy là lời Chúa.

Trong lúc này chàng rất cần thức ăn thiêng liêng ấy để đủ nghị lực tiếp tục sống đời tu sĩ.
--------------------------------
1 Miền Nam chia làm bốn vùng. Mỗi vùng có nhiều tỉnh, do một vị Tướng giữ chức Tư Lệnh trông coi. Vùng 4 thuộc các tỉnh miền Tây Nam phần. Bộ Tư lệnh đặt tại Cần Thơ, cách Mỹ Tho khoảng 100km và Saigon khoảng 200km.

giavui
01-10-2015, 08:10 PM
CHƯƠNG MƯỜI MỘT

NGÀY CỦA HÒA BÌNH
(30.4.1975)

Từ khi thành lập Đảng Cộng Sản và suốt ba mươi năm gây chiến tranh, Hồ Chí Minh và đồng bọn luôn luôn hô hào : « Họ tranh đấu cho ĐộcLập- HòaBình-Tự Do- Hạnh Phúc của nhân dân ». Các cơ quan chính quyền Cộng Sản, đâu đâu cũng ghi mấy chữ này, ngay cả giấy thông hành cấp cho dân. Họ muốn rêu rao cho toàn dân biết rằng chính phủ của họ là chính phủ dân chủ. Cuộc tranh đấu chống Pháp, chống Mỹ là để đem lại Độc Lập, Hòa Bình, Tự Do , Hạnh Phúc, cho dân.

Với chiêu bài này Cộng Sản Hànội đã lừa phỉnh toàn dân miền Bắc, một số dân miền Nam và lừa phỉnh cả thế giới tự do và dân tộc Hoa Kỳ, để tất cảủng hộ họ.

Cuối cùng họ thắng được Mỹ và chính phủ Saigon nhờ chiến thuật tuyên truyền gạc gẫm này.

Chính phủ sau chót của miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ là tướng Dương Văn Minh (big Minh) vừa nhậm chức Tổng Thống hai ngày, vì muốn tránh những thiệt hại về dân sự và ThủĐô Saigon không bị tàn phá nên tuyên bố đầu hàng Hànội vô điều kiện.

Đoàn quân thiết giáp Cộng Sản tiến vào dinh Tổng Thống miền Nam ngày 30.4.1975.

Trong ba mươi năm, ngày này thế giới gọi là « Ngày của Hòa Bình ». Nhưng quả thật trong lịch sử của Việt Nam và của nhân loại, chưa có dân tộc nào đón Hoà Bình như hai mươi triệu dân miền Nam lúc bấy giờ.

Vì không phải họ vui mừng hoan hỉđón tiếp những vị anh hùng Cộng Sản đã giải phóng họ, như khi xưa dân Paris đón tiếp đoàn quân Đồng Minh giải phóng Paris, mà trái lại họ kinh hoàng sợ hãi đến tột độ.

Nhân dân miền Nam bất luận ởđâu, bất luận giàu nghèo, bất luận tuổi tác, bất luận nam nữ…ai ai cũng một tâm trạng hãi hùng, y như loài người trước một thiên tai khủng khiếp, mà có lẽ còn hơn thế nữa !

Người ta tranh nhau níu chiếc trực thăng di tản cuối cùng của người Mỹ, kẻ chen lấn leo lên những chiếc hạm Hải quân, người dùng tàu đánh cá, kẻ lấy canot, thuyền, bè v.v…Tất cả đều nhào ra biển, tất cả đều bỏ nhà cửa sản nghiệp chạy trốn, bất kể sống chết, bất kể hiểm nguy, bất kểđi tới đâu…Cho đến đổi một số người không rời được Việt Nam trước ngày đó, họ tự tử chết 1. Họ bằng lòng chết, thà chịu chết, chỉ vì họ quá sợ « Hoà Bình » này.

« Hoà Bình » mà cả thế giới tự do, đồng minh của Mỹ và dân tộc Hoa Kỳ tranh đấu chống chính phủ Mỹ và chính phủ Saigon để tặng cho nhân dân miền Nam, mà nhân dân miền Nam còn kinh sợ hơn cái chết !

Thật là mỉa mai và đau thương!

Bấy giờ nơi Bộ Tư Lệnh vùng 4 của tướng Lê Thanh tại tỉnh Cần Thơ, Lê Thanh vừa nhận được điện thoại của tân Tổng Thống ra lệnh buông súng đầu hàng Cộng Sản, chàng ngồi đờ trên ghế, cõi lòng tê tái đau thương.

Mười tám năm binh nghiệp, chàng đã góp phần xương máu cùng người lính Quốc Gia bảo vệ phần đất này không rơi vào tay Cộng Sản. Giờđây giang san đâu đã mất ? Mà thượng cấp buộc chàng phải quy hàng ! Bổn phận người quân nhân phải tuyệt đối tuân theo chỉ thị cấp trên, chàng không làm gì khác được ! Nhưng chàng cũng không thể ngồi đó chờ quân thù tới còng tay mình để nhục một đời dũng tướng !

Không ! Mười tám năm nay chàng đã xem Cộng Sản là kẻ thù không đội trời chung.Ngày nay nếu chúng nhờ mưu mô xảo quyệt mà thắng được chiến trường quốc tế, để cưỡng bách thượng cấp chàng giao cho chúng phần đất còn lại của quê hương, thì chàng vì tuân lệnh mà làm người chiến bại, dù chưa ra trận !

Một con người như chàng thà chết, chớ quyết không làm kẻ thua. Chàng quyết chọn cái chết hùng, hơn là cái sống nhục, nên mạnh dạn đứng lên khỏi ghế, sắc mặt ngạo nghễ.

Trong văn phòng lúc ấy còn có vị Phó tướng Tư lệnh, ông Đại Tá Tham mưu trưởng, ông Thiếu Tá Chánh văn phòng, viên Trung Úy cận vệ và Vân Trường.

Nguyên, Vân Truờng không xin được học bổng du học, nên đang học tại Đại học y khoa Saigon. Tháng này Đại Học đóng cửa vì tình hình chính trị sôi động, sinh viên biểu tình chống đối chính phủ v.v…Lê Thanh gọi cháu xuống Cần Thơ là tránh nhóm biểu tình do Cộng Sản xúi giục. Do đó mà Vân Trường có mặt tại Bộ Tư lệnh trong lúc này.

Lê Thanh nhìn thuộc cấp mình một lúc lâu, vẫn không tìm ra câu nói khả dĩ báo cho họ biết một sự thật mà họ không đến nỗi bàng quàng kinh hãi. Bất thần chàng thấy trong những bộ mặt quen thuộc thương yêu đó còn có thằng cháu của chàng. Âu cũng là cái may cho chàng gửi gấm nó vài lời trước khi chết.

Chàng bình tĩnh lên tiếng :

- Quí anh em ! Cú điện thoại vừa rồi tân Tổng Thống ra lệnh cho tôi và toàn thể quân nhân các cấp buông khí giới đầu hàng địch. Là quân nhân chắc anh em cũng biết rằng tôi không thể nào bất tuân lệnh của cấp trên. Vậy tôi trân trọng báo cho anh em rõ để mọi người ra lệnh cho thuộc cấp của mình thi hành. Riêng tôi, từ khi gia nhập quân đội với một quyết tâm bảo vệ quê hương không để lọt vào tay Cộng Sản, giờđây tâm nguyện không thành, nên tôi thà chết chớ quyết không làm tù binh của họ để nhục một đời dũng tướng.

Chàng nghẹn một lúc mới nói tiếp :

- Tôi cũng nhân giờ phút cuối cùng này nói mấy lời vĩnh biệt anh em đã…đã cùng tôi chia xớt hiểm nguy những lúc xông pha ngoài mặt trận , giúp đỡ tôi mọi ý kiến và thi hành mệnh lệnh cấp trên giao phó trong mười năm dài. Tiếc rằng duyên hội ngộ của chúng ta chấm dứt, giữa lúc sứ mệnh của chúng ta chưa hoàn thành. Quê hương nay đã rơi vào tay Cộng Sản, tội nghiệp cho dân lành…

Giọng chàng lệch lạc nghẹn ngào, lúc bi thương, lúc oán hờn khi nhắc đến Cộng Sản. Những thuộc cấp của chàng lắng tai nghe, mà có lẽ tâm tư họ chết lặng, nên chẳng ai mở miệng nói tiếng nào.

Vân Trường vụt nhào tới ôm chú, nước mắt ướt đẫm trên mặt. Lê Thanh ôm đầu cháu, ve vuốt mái tóc rất chiều âu yếm xúc động. Nhưng chỉ một thoáng, sắc mặt chàng rắn lại, nhìn mọi người bảo :

- Thôi các anh em hãy đi lo phận sự vì thời gian cấp bách lắm rồi. Chúng ta còn nhiều việc phải làm và giải quyết chuyện gia đình. Tôi xin vĩnh biệt anh em.

Cho đến lúc đó vị Phó Tư lệnh mới lên tiếng :

- Tôi cũng quyết chọn cái chết như Trung Tướng, chớ không để bọn hung thần hành hạ mình. Trung Tướng an lòng, cõi đời này hai ta sát cánh diệt thù, cõi chết tôi nguyện không để Trung Tướng bơ vơđâu !

Những vị sĩ quan trong phòng đều xin được cùng chết. Lê Thanh cảm động ứa nước mắt, nói giọng nghẹn ngào :

- Tôi không có gia đình và vợ con, tôi có chết cũng chẳng để khổ cho ai. Quí vị đừng nên theo con đường của tôi. Hoặc giả nếu không muốn hàng giặc, quí vị có thể giả dạng thường dân rời bỏ chốn này ngay bây giờ. Thôi anh em hãy đi đi…Đi trước khi địch tới.

Mọi người ôm nhau từ giã với nỗi nghẹn ngào xúc động, và sau đó hối hả chạy đi.

Còn lại một mình với cháu, Lê Thanh kéo cháu đến ngồi nghiêng nghiêng nơi bàn viết, mặt đối mặt. Chàng nhìn cháu bằng ánh mắt hết sức thương yêu và bình thản nói :

- Năm nay ta mời con đến đây nghỉ hè, thật chẳng tốt đẹp tí nào ! Con cũng nên tha lỗi cho ta. Mấy tuần qua tình hình quá nghiêm trọng, chú cháu ta không có dịp gần gủi chuyện trò, ta chưa có dịp đưa cháu viếng các nơi nhưđã hưá. Bây giờ tất cả mọi chương trình của chú cháu mình phải bỏ rồi ! Con đã nghe những gì xảy ra và con cũng biết ý định của ta rồi. Vậy con cũng phải rời chỗ này về Mỹ Tho với mẹ. Ta nhờ con nói lại với bà nội và mẹ con rằng : « Ta không thể sống nhục, nên đành chọn cái chết. Ta xin gửi lời vĩnh biệt hai người mà ta yêu quí nhất trong đời.

Vân Trường gục đầu vào ngực chú khóc sướt mướt. Lê Thanh nói tiếp :

- Con người ai cũng một lần chết, con đừng quá bi lụy mà làm nhũn chí ta trước giờ tử biệt.

Vân Trưòng ngước đôi mắt đỏ hoe nhìn chú, nói giọng nghẹn ngào :

- .Chú ơi ! Chú có thể giả dạng thường dân rời bỏ chốn này. Chú đừng chết, chú ơi !

Lê Thanh mỉm cười, rồi nghiêm giọng :

- Con thương chú, con không muốn chú chết ? Nhưng con muốn ta làm kẻ hèn nhát, trốn chui, trốn nhủi như loài chuột nhắt hay sao ? Không ! Đời ta một đời dũng tướng, đã từng xem nhẹ cái chết ngoài chiến trường, thì hôm nay ta cũng chọn cho mình một cái chết danh dự.

Vân Trưòng thừa biết rằng mình không thể nào lay chuyển ý chết của chú. Vả chăng máu anh hùng của chàng thanh niên mới lớn sôi sụt trong người, khiến Vân Trường cũng muốn làm điều gì để chứng tỏ mình không là kẻ yếu hèn. Hai tay lau nước mắt, chàng nói :

- Con tới đây nghỉ hè là để gần gủi chú. Nay vì nước mất, chú quyết chết chớ không đầu hàng kẻ thù. Vậy chú cũng nên cho con chết với chú. Bởi vì con không thể sống với bọn Cộng Sản được đâu !

- Trời ơi, con có điên không ? Ta là quân nhân, đối với cộng sản là kẻ thù. Chứ như con chỉ là một thư sinh, cuộc chiến này con đâu có dính líu gì mà phải chọn cái chết ? Huống chi…

Chàng vụt nhìn thẳng vào mắt Vân Trường, nói thật chậm như để dò phản ứng của cháu :

- Huống chi cha của con theo họ từ 19 năm nay, công nghiệp đối với Hồ Chí Minh và Đảng chắc cũng nhiều. Thế nào ngày nay cha con cũng làm quan to, chắc chắn mẹ con với con sẽ có cái vui sum hợp. Dù ta chết, nhưng hồn ta thỏa mãn vì biết rằng mẹ con tìm lại hạnh phúc ngày xưa, không uổng công 19 năm chung thủy chờ chồng. Còn bà nội con, khi cha con bỏđi nội con thương nhớ và buồn khổ lắm, vì còn mỗi ta là thân quyến. Giờđây ta không còn nữa, cha con trở về, như vậy nội của con cũng vẫn có đứa con. Trước sau vẫn vậy, cha con…

Vân Trường chợt nấc lên tiếng khóc :

- Chú ơi, xin chú đừng nhắc đến người ấy nữa ! Ông ta đã chết rồi ! Mẹ con nói, không nhận được tin ông ta từ khi anh Vân Long chết.

- Ta nghĩ, cha con chưa chết. Vì cách đây vài năm, anh ấy có lẽn về thăm bà nội con, cố ý nhờ bà nội chiêu dụ ta bắt tay hoạt động cho Hànội. Khi ta nghe bà nội con nói lại, ta nổi giận nói : « bất luận là ởđâu, bất cứ lúc nào, nếu ta gặp anh, ta sẽ bỏ tù ».Từ khi nghe ta nói thế, cha con sợ ta, không dám lẽn về gặp nội con nữa. Nhưng ta chắc chắn anh ấy còn sống.

Vân Trường vụt nín khóc, tỉnh táo nói :

- Nếu thế thì chú càng nên cho con được chết theo chú, vì con không thể nào chịu đựng nổi một người cha làm cán binh Cộng sản. Mẹ con không quên cái chết thảm của anh Vân Long và bà ngoại con, nên chắc chắn mẹ không thể nào đối diện với ông ta. Chú ơi ! Nếu chú nói, con người ai cũng một lần chết, thì chú hãy để con chết ngày hôm nay, cho con khỏi phải gặp tên Cộng sản mà con phải gọi bằng cha.

- Vân Trường !

Giọng chàng thật nhẹ và thật êm như vỗ về :

- Vân Trường con ! Dù thế nào, cha con vẫn là cha con. Tình máu mủ không thểđoạn tuyệt được ! Con chớ nên oán ghét cha con. Con nên yêu thương cha con như con thương yêu ta vậy.

- Con yêu chú chớ không thể nào yêu ông ấy. Huống chi ông ấy chẳng biết con là ai, chẳng nuôi con ngày nào thì làm sao con yêu ông ta được ?

- Vân Trường ! Chúng ta khác với Cộn Sản là chúng ta đầy lòng yêu thương. Chúng ta yêu Thượng Đế, yêu Chúa, yêu Phật, yêu nhân loại, yêu tổ quốc, yêu gia đình…Còn cán binh Cộng sản họ bị mất tất cả những tình ấy, lẽ nào con cũng bị mất tình phụ tử như họ hay sao ?

Sắc mặt chàng vừa nghiêm nghị vừa buồn thảm. Vân Trường không dám nói thêm lời gì. Lê Thanh đúng lên đi tới kéo hộc tủ bàn viết lấy ra một xấp giấy bạc, trao cho cháu :

- Ta còn mớ tiền này, ta cho con. Vậy con kíp rời nơi đây, về Mỹ Tho với mẹ. Bọn Cộng chắc cũng sắp đến nơi rồi.

- Con…

- Đừng nhùng nhằng cãi lời ta nữa !

Chàng kéo Vân Trường ra cửa, sau khi nhét xấp giấy bạc vào trong áo chemise của Vân Trường.

Ngoài sân lúc bấy giờ không còn mấy người. Những sĩ quan không muốn đầu hàng giặc đã dẫn lính đi trốn cả rồi. Chỉ còn hai cận vệ của Lê Thanh là Trung Úy Cẩn và Hạ sĩ Ve vẫn ở lại với chủ.

Lê Thanh thấy họ, liền nói :

- Hai chú không trốn đi đi, còn ởđây làm gì ?

Trung Úy Cẩn nói :

- Chúng tôi không thể nào để Trung Tướng ở lại chết một mình.

Lê Thanh cười dòn :

- Có ai chết mà mang theo cận vệ bao giờ ?

Trong giờ phút nghiêm trọng như vậy mà chàng còn tỉnh táo cười được, khiến cho hai thuộc cấp của chàng thêm phần kính phục, họ lại càng không muốn bỏđi.

Lê Thanh chợt đổi giọng buồn thảm :

- Các chú có thương tôi thì đưa dùm thằng Vân Trường về Mỹ Tho giao cho mẹ nó. Tôi cần sự yên tĩnh để soạn cho mình một cái chết thoải mái. Các chú hãy đi ngay. Đây là lệnh cuối cùng của tôi.

Quay sang Vân Trường, Thanh hôn lên trán cháu một cái hôn thật thương yêu, rồi nói :

- Vĩnh biệt con yêu dấu ! Nhớ những lời ta dặn con khi nãy. Thôi con hãy đi đi.

Chàng buông Vân Trường ra và căn dặn Trung Úy Cẩn và Hạ Sĩ Ve mặc thường phục đi bộ ra tỉnh đón xe đò về Mỹ Tho.

Sau lời nói cũng là lệnh phát ra, chàng quay lưng trở vào văn phòng trụ sở Bộ Tư lệnh.

Hai cận vệ của Lê Thanh liền cỡi bỏ bộ quân phục quăng lại, vì cả hai đã dự trù trước nên người nào cũng đã mặc sẵn thường phục bên trong.

Cả hai kéo Vân Trường chạy ra đường lộ. Chạy được một đổi Vân Trường vụt đứng sựng lại, nói :

- Hai vịđi đi. Tôi trở lại chờ chú tôi chết rồi tôi mới đi.

Thấy Vân Trường không chịu đi, hai cận vệ của Lê Thanh hết sức bối rối nhưng không biết tính sao ? Vân Trường ứa nước mắt, nói :

- Chú tôi chết mà xác không chôn, nhỡ bọn Cộng thấy được bâm vầm thân xác chú, tủi nhục vong linh chú.

Trung Úy Cẩn và Hạ Sĩ Ve nghe nói lấy làm xúc động. Cả hai bàn với Vân Trường là ba người trở lại Bộ Tư Lệnh, chờ chủ tướng chết mang xác đem chôn rồi sẽ về Mỹ Tho.

Vân Trường cảm động nói :

- Cám ơn hai chú thật nhiều.

Cả ba chạy trở về chốn cũ. Khi nãy, lúc cả ba chạy ra còn thấy vài ba tên lính gác cổng. Bây giờ thì chẳng còn ai. Bộ Tư Lệnh vắng teo không người !

Ba người cùng đi rón rén về phía hành lang của toà nhà. Đúng vào lúc trong nhà vang lên một tiếng nổ, rồi bặt luôn.

Không chần chờ, Vân Trường tông cửa chạy vào văn phòng chú. Hai cận vệ của Lê Thanh cũng vọt theo.

Lê Thanh ngồi ngoẹo đầu nơi bàn viết. Trên bàn trống trơn, không còn hồ sơ vật dụng gì ngoài bức thư viết tay nét bút vội vàng. Có lẽ chàng vừa mới viết trước khi tự sát, tay mặt còn cầm khẩu súng lục. Phát đạn xuyên qua màng tang, máu đỗ lênh láng trên bàn viết, dưới nền gạch và lấm lem cả bộ quân phục trắng của chàng.

Chàng còn thì giờ để thay bộ quân phục ngày đại lễ trước khi chết, nét mặt thật bình thản, mắt nhắm lại như ngủ.

Chàng đã ngủ giấc ngàn thu, đã chọn cái chết danh dự không đầu hàng Cộng sản.

Chàng đã chết, nhưng tên tuổi sẽ sống mãi trong lòng hai mươi triệu dân miền Nam. Và dòng sử oai hùng của dân tộc sẽ thêm một lần ghi danh vị anh hùng bất khuất.

Trong khi Vân Trường ôm xác chú nghẹn ngào rơi lệ,Trung Úy Cẩn và Hạ sĩ Ve chụp ngay lá thư để trên bàn cùng chụm đầu đọc, tưởng rằng chủ tướng họ còn trăn trối điều gì với họ truớc khi chết. Nào dè trên giấy viết như vầy :

« Từ khi ta khoác áo lính, ta thề chỉ có ta giết bọn Cộng phỉ chúng bây, chớ không để bọn bây giết ta.

« Ngày nào ta không thích sống nữa, tự ta giết ta. Chớ bọn bây, ngay cả thằng Hồ Chí Minh đã chết, cũng không xứng đáng đối diện với ta, để được cái vinh dự giết ta đâu !

« Bởi vì con người của ta lấy sự thương dân yêu nước làm đầu, còn bọn bây lấy việc giết dân cướp của làm đầu. Thử hỏi một phường đạo tặc, sánh sao được với ta một bậc anh hùng, mà hòng muốn ta làm tội nhân của chúng bây ?

« Hồ Chí Minh và Đảng chúng bây có thể có được cái mạnh của kẻ cướp, chớ chúng bay không thể có được cái dũng của bậc anh hùng.

« Xác chết của lão dù chúng bây có tẩm nước hoa ướp giữ ngàn năm, cái tên của lão cũng là cái tên thúi tha, người đời nhờm gớm phỉ nhổ.

« Còn như xác của ta có mục nát hư thúi, tên tuổi ta vẫn thơm ngát đời đời.

« Ta chết để sống vĩnh viễn trong lòng dân tộc Việt Nam đó. 2

Tư lệnh vùng 4 chiến thuật. Lê Thanh

Đọc xong lá thư, Trung Úy Cẩn và Hạ sĩ Ve nghiêng mình kính cẩn trước người chết, tỏ sự kính phục của chủ tướng mình trước khi chết vẫn kiêu hùng ngạo nghễ với địch.

Nhìn thấy Vân Trường quá đau thương, ngồi sụm dưới chân chú, mình mẩy lấm lem máu, Trung Úy Cẩn nói:

- Em hãy để chúng tôi khiêng Trung Tướng đặt nằm trên bàn cho ngay ngắn. Trong khi tôi và Hạ Sĩ Ve ra vườn đào huyệt, em hãy ngồi lại đây chờ chúng tôi trở lại đưa xác Trung Tướng đem chôn.

Vân Trường nghe nói nghe nói liền đứng lên làm chỗ cho Trung Úy Cẩn và Hạ Sĩ Ve khiêng xác Lê Thanh đặt lên bàn. Cũng may, chàng vừa mới chết, thân thể chưa cứng đơ, nên họ có thể đặt nằm thẳng thắn trên bàn. Sau đó cả hai chạy ra vườn lo việc đào huyệt.

Vân Trường còn lại một mình trong phòng, đứng tựa nơi bàn, gục đầu trên mình chú sụt sùi khóc. Hồi nhớ đời mình mồ côi cha từ thuở lọt lòng mẹ, may nhờ có Cha Duy Quang tới lui chăm sóc không khác gì cha ruột. Ngoài ra còn có chú yêu quí tưng tiu, dù cả hai ít có dịp gần gủi, nhưng cái tình chú cháu thân thiết đậm đà, không khác gì tình cha con. Thêm nữa, Vân Trường lúc nào cũng chiêm ngưỡng cái oai hùng của chú, nên lòng càng quí trọng thương yêu.

Cái chết của chú, Vân Trường nghe đau đớn như cha ruột mình chết, như từ giờ phút này mình thật sự mồ côi!

Ba năm sau này mỗi kỳ hè Vân Trường đều về Cần Thơ sống với chú vài tuần. Chú cháu tâm sự rất tương đắc. Một điều Vân Trường lưu ý là trong đời chú dường như không có người đàn bà nào? Dường như chú chỉ yêu binh nghiệp, yêu những thuộc cấp và những người lính của mình.

Có lần Vân Trường hỏi chú:

- Chú nè, tại sao chú không lấy vợ? Chẳng lẽ từ tuổi thanh niên tới giờ chú chưa từng yêu người đàn bà nào sao?

Lê Thanh cười dòn:

- Có chứ! Trong đời ta có yêu hai người đàn bà, người thứ nhất là bà nội con, người thứ hai là mẹ con. Hai người đàn bà sống đời goá phụ để nuôi con đã làm cho ta thương xót, cảm phục và kính yêu. Vì thế tim ta không còn chỗ trống để chứa tình cảm với người đàn bà nào khác.

Câu trả lới của chú, Vân Trường có cảm tưởng như chú nói đùa. Sau này Vân Trường chợt hiểu có lẽ chú nói thật. Có lẽ chú yêu mẹ mình, nhưng vì luân lý của xã hội Việt Nam không cho phép yêu người đàn bà đã là vợ của anh ruột mình, nên chú phải giấu kín tình yêu này.

- Thật tội nghiệp cho chú! Phải chi chú là cha của con, chắc con hạnh phúc lắm!

Đang khi lảm nhảm nói một mình, Vân Trường chợt nghe tiếng la ó vang dậy và tiếng chân chạy phình phịch ngoài sân.

Bọn Cộng đã tới! Vân Trường hốt hoảng chạy ra cửa, bỗng nghe tiếng trọ trẹ miền Bắc:

- Các đồng chí hãy bao vây tòa nhà này!

Nhắm chạy ra ngoài không kịp, Vân Trường chạy lộn trở vô phòng, núp bên trong cánh cửa. Vừa lúc bên ngoài vang lên thứ thứ hai, giọng miền Nam:

- ĐM, bọn Ngụy trốn cả rồi! Thằng mắc dịch Lê Thanh chạy cúp đuôi rồi!

Giọng nói đầu tiên lại vang lên:

- Coi chừng bọn Ngụy có ngụy kế.

Hắn ra lệnh:

- Tất cả đồng chí xiết chặc vòng vây tòa nhà này, đừng để tên nào chạy thoát! Riêng đồng chí Mén và đồng chí Vòi đi tiên phong vào trong xem tình hình và báo cáo.

Có nhiều tiếng “vâng ạ” vang rền.

Vân Trường nghe tiếng chân hai người rón rén đi vào… Chúng vụt đứng khựng lại trước cửa văn phòng của tướng Thanh, vì thấy trên bàn viết có một người đang nằm như ngủ. Cả hai thối lui mấy bước, thét lên:

- Dơ tay lên! Đầu hàng!

Chúng thét hai ba lần, khiến bọn đi sau sợ hãi bước thụt lùi ra sân vì tưởng trong nhà còn nhiều quân phục kích.

Từ khe cửa, Vân Trường nhìn thấy hai thằng lính Cộng sản đi tiên phong quá hèn nhát trong bụng cười thầm, quên cả tình trạng hiểm nguy của mình!

Hai tên nọ đứng một chỗ thét một lúc không thấy người nằm đó nhúc nhích, bấy giờ chúng mới nhận ra người ấy đã chết, vì bộ quân phục trắng đầy huy chương thấm máu nửa bên. Biết người đó đã chết hẳn rồi, tên thứ nhất hùng hổ chạy tới, tên thứ hai chỉa súng nhìn dáo dác quanh phòng và cẩn thận hơn hắn mở từng cửa tủ tìm người núp bên trong. Cũng may chúng không kiểm soát phía sau cánh cửa nơi Vân Trường ẩn núp nên không tìm ra kẻ thứ hai, ngoài xác chết. Bấy giờ cả hai mới cười hô hố, chạy qua các phòng khác và tầng lầu trên.

Vân Trường toan rời chỗ núp, chạy trốn qua phòng khác, song sợ bọn bên ngoài đi vào nên đứng y một chỗ. Tự nhủ:

“Chúng thấy ởđây chỉ có xác chết của chú ta chúng sẽ bỏ đi, chừng đó ta sẽ rời toà nhà này”.

Hai tên lúc nãy chạy lục soát trên lầu không thấy người, liền xuống lầu chạy ra ngoài báo cáo:

- Trình đồng chí Vẹm: Trong toà nhà này không còn ai, ngoài xác chết tên “Ngụy” hạng nhớn đang nằm trong văn phòng dưới nhà.

Tên Vẹm nghe nói liền tức tốc theo hai tên lính đi vào nhà, nhưng khi đến bệ cửa văn phòng tướng Thanh hắn bước thật chậm, cố nện gót chân thật mạnh cho ra vẻ hào hùng trước kẻ địch đã chết, mà cũng để làm oai với với thuộc cấp. Chỉ có điều vì hắn mang dép râu (cán bộ cs mang loại dép làm bằng bánh xe cũ, dân miền Nam gọi là dép râu) nên muốn nện gót giày cho kêu, cũng chẳng nghe gì hơn là tiếng phịch phịch như tiếng vịt đi!

Vân Trường thấy hắn mang lon Đại Úy, thân hình lùn sủn, ốm nhom, gương mặt xấu xí, đôi má hóp như người già sắp chết. Khó có thểđoán được tuổi hắn là bao nhiêu? Sau lưng hắn một tên cũng mang lon Đại Úy, cũng ốm nhom, nhưng cao lớn hơn tên Vẹm một cái đầu, mặt vàng tái như người bị bệnh rét. Tuy vậy hắn thuộc loại đàn ông đẹp, mắt to, mũi cao… Tuổi hắn chắc vào khoảng trên dưới 40.

Vừa tới cửa phòng, tên Đại Úy đi sau chạy vọt tới chụp cái xác của tướng Thanh nhìn vào mặt, bỗng tức giận hầm hầm, chữi lớn:

- ĐM, thằng này chết để trêu tức ta!

Tên này nói giọng miền Nam. Tên Vẹm cười nham hiểm:

- Có đúng thật hắn không? Hay là đồng chí nhận lầm?

Hắn nói giọng miền Bắc thật khó nghe. Tên Đại Úy gốc miền Nam trả lời hắn bằng giọng bực tức:

- Lầm sao được? Tôi làm sao lầm được? Chính nó là Lê Thanh, Tư Lệnh vùng 4.

Tên Đại Úy miền Bắc, tức tên Vẹm, cười nửa miệng. Nụ cười của hắn làm tên kia đỏ mặt uất hận. Tên Vẹm giả bộ không lưu ý, chụp ngay lá thư trên bàn nhìn vào, nhưng không hiểu sao hắn không đọc? Hắn lại đưa cho bạn hắn, nói giọng gần như ra lệnh:

- Đồng chí đọc lớn để tôi nghe coi thằng Ngụy tội lỗi này nói gì?

Lời nói và cử chỉ của hắn y như thượng cấp, mặc dù cả hai cùng cấp bậc. Tên Đại Úy miền Nam cầm lá thư với vẻ mặt ngạo nghễ, tuy vậy hắn cũng không dám để lộ quá lâu. Hắn đọc lớn:

“Từ khi ta khoác áo lính, ta thề chỉ có ta giết bọn Cộng phỉ chúng bây, chớ không để bọn bây giết ta.

Đọc đến đó hắn nổi sung thiên, vung tay tống cái xác tướng Thanh văng xuống đất. Tên Vẹm lại cười gian xảo, nhắc:

- Giận lắm à? Đồng chí hãy đọc tiếp bức thư cho tôi nghe cái đã.

Vân Trường đoán tên nọ không biết đọc, nên mặc dù lên giọng phách lối với tên kia, song phải chờ tên kia đọc thư cho hắn nghe. Tên kia dường như cũng sợ hắn, nên phải nghe lời hắn. Hắn đọc tiếp:

“ Ngày nào ta không thích sống nữa, ta tự giết ta. Chớ bọn bây, ngay cả thằng Hồ Chí Minh đã chết, chẳng đứa nào xứng đáng…

Đọc đến đó mặt hắn tái thêm, tay chân hắn run rẩy vì tức giận, hắn buông lá thư lên bàn, chạy tới đá vào xác tướng Thanh lăn một vòng. Cái xác bây giờ nằm chênh chếch với cánh cửa Vân Trường đang núp.

Xác đã cứng đơ, máu không chảy nữa, nhưng Vân Trường thấy xác chú bị dằn vật, không khỏi thương tâm, nước mắt đổ dài.

Tên nọ dường như chưa đã nư giận, đá thêm mấy cái lên mặt tướng Thanh. Bỗng có giọng gàn gàn của tên Vẹm:

- Đồng chí Lê Thy! Thằng em tội lỗi của đồng chí đã dám xúc phạm đến bác Hồ kính yêu của chúng ta, đồng chí phải trừng trị hắn như thế nào?

Hắn vừa nói vừa xếp lá thư của tướng Thanh cất vào túi. Câu nói của tên Vẹm vừa phát ra, Vân trường có cảm tưởng như vừa bị tiếng sét đánh ngang tai, đầu óc choáng váng, con tim ngưng đập, hơi thởứ nghẹt.

Cho đến trước phút đó, dù không có tình thương với người cha không hề chạm mặt, nhưng Vân Trường vẫn không mường tượng được cha mình có thể là tên đó… Một tên dám chửi ĐM chú mình, thù hận dằn vật xác chết của chú mình, tức là em ruột của hắn!

Không! Một người đàn bà quí phái như mẹ ta, không thể nào yêu một người mở miệng ra văng lời thô bỉ. Một người quân tử anh hùng như chú ta, không thể nào là em của một tên Cộng sản tồi tệ dường ấy!

- Không! Không thể như thếđược!

Vân Trường muốn thét lên để chống đối một sự thật, nhưng sự thật vẫn hiển nhiên trước mắt và đang diễn tiến…

Lê Thy nghe tên Vẹm muốn trút tội lên đầu mình, liền nói:

- Vậy chứ đồng chí muốn tôi trừng trị nó như thế nào? Phải nó còn sống thì tôi xử nó trước mặt đồng chí ngay. Tiếc rằng nó đã chết, tôi muốn trừng trị nó cũng không được. Hay là đồng chí muốn tôi bâm vầm thân xác nó, chặt nó ra từng khúc, như vậy đồng chí vừa lòng chứ?

Không chờ tên Vẹm trả lời, Lê Thy hậm hực chỉa lưỡi lê nơi đầu súng, đâm liên tu trên xác tướng Thanh nghe “phực phực”, y như nỗi oán hận giữa hắn với tên Vẹm trút vào những nhát dao ấy.

Không chịu đựng được nữa, Vân Trường tung cửa nhảy ra thét lên:

- Dừng tay lại!

Sự xuất hiện đột ngột của Vân Trường làm bốn tên trong phòng hốt hoảng lên nòng súng “rắc rắc”.

Chừng chúng thấy một chàng thanh niên trẻ, mặc thường phục, áo quần lấm lem máu, nước mắt nước mũi tèm nhem, cả bọn mới hoàn hồn buông súng xuống.

Và bây giờ Lê Thy với tên Vẹm cùng chụp Vân Trường một lúc, không khác gì hai con hổđói vớ được nai tơ.

Trong khi tên Vẹm kêu lên:

- Tên gián điệp Mỹ!

Thy đã tát lên mặt Vân Trường mấy bạt tai nẩy lửa, vừa hỏi:

- Mầy làm gì ởđây? Mầy là tay chân bộ hạ của thằng chết bầm nằm đó phải không? Tao phải trị tội mầy thay nó.

Vớ được Vân Tường, Thy như vớ được con mồi, là dịp để Thy có chỗ phát tiết cho hả cơn bực tức trong lòng, vừa để trị tội thằng em trước mặt đồng chí của hắn. Cho nên sau mấy cái tát, Thy đấm túi bụi vào mặt Vân Trường nhưđánh “boxe”.

Mặt mày xưng húp, máu mũi chảy ra có vòi, nhưng Vân Trường không khóc, không kêu la, không chống đối, để mặc cho cha mình hành hạ!

Tên Vẹm gằn giọng nói:

- Đồng chí không được giết nó. Cần phải khai thác tên gián điệp Mỹ này để bắt trọn ổ chúng.

Nhờ câu nói đó của tên Vẹm, Vân Trường ngưng lãnh đòn. Nhưng Thy vẫn chưa buông tha, véo tai Vân Trường đẩy tới đẩy lui hỏi:

- Mầy làm gián điệp cho Mỹ hay cho thằng chết nằm đó?

Tự nãy giờ bị hành hạ Vân Trường đau lắm, nhưng cái đau thể xác không bằng cái đau trong lòng, khiến Vân Trường có cảm tưởng như hồn xác mình đã chết phân nửa. Sự khốn khổ tột cùng, Vân Trường chỉ mong được chết hẳn để không phải nhìn thêm con người hung bạo tàn ác là cha mình.

giavui
01-10-2015, 08:10 PM
Hỏi mấy lần vẫn không nghe trả lời, Thy càng nổi cơn thịnh nộ, vung tay thoi vào bụng Vân Trường một cái thật mạnh. Bị mất thăng bằng, Vân Trường té nhào, nhưng không đau lắm, nhờ mớ giấy bạc bên trong che chỡ. Dù vậy lòng oán ghét cha mỗi lúc một tăng, Vân Trường bất kể sống chết, đứng lên ưỡn ngực ra nói:

- Ông hãy giết tôi đi! Tôi thích chết hơn là nhìn cái bản mặt của ông.

Một cái thoi thứ hai của Thy tung ra cùng một lượt với câu chửi thề:

- ĐM. Mày dám nói khích tao hả? Đúng là giòng máu Ngụy lì lợm.

Cái thoi thứ hai vì phát ra cùng lúc với nỗi hằn học, nên không mạnh lắm, Vân Trường không bị ngã. Và khi nghe cha mình mắng mình là giòng máu Ngụy, Vân Trường nhịn cười không nổi, bật cười ha hả.

Tiếng cười ha hả của Vân Trường khiến Thy điên tiết, lập tức dơ báng súng đập lên đầu Vân Trường một cái “bốp”, Vân Trường ngã lăn xuống đất, bất tỉnh.

Tên Vẹm lại cười nham hiểm:

- Đồng chí không đủ khả năng khai thác nó à? Coi chừng nó chết, đồng chí thêm một cái tội “bịt miệng” đồng lỏa của thằng em đồng chí đó.

Rồi hắn không chờ phản ứng của Thy, ra lệnh cho hai tên Mén và Vòi:

- Một đứa chạy đi kiếm nước dội lên mặt tên gián điệp Mỹ này cho nó tỉnh lại. Một đứa ra ngoài qui tụ những đồng chí khác trước sân chờ lệnh ta.

Thái độ của tên Vẹm càng làm cho Thy thêm tức giận, co chân đá “binh binh” lên đầu của Vân Trường.

Bất chợt Thy nhận ra tên Ngụy này mặt mày non choẹt, chắc khoảng 17, 18 tuổi, tóc để dài như bọn thanh niên trẻ thời đại ở miền Nam. Hắn nghĩ lung tung trong đầu:

- “Bọn lính Ngụy dù cấp bực nào cũng đâu được phép để tóc dài? Tên này chắc không phải lính, nhưng tại sao nó lại núp trong phòng của thằng em ta? Tại sao nó lại có phản ứng khi ta đâm vào xác Thanh? Dường như lúc ló mặt ra nó khóc. Chẳng lẽ nó là con của thằng Thanh? Không! Thằng Thanh chưa vợ, tên tuổi nó vang lừng ai cũng biết nó là ông tướng chưa vợ. Ngay cả hai lần về thăm mẹ ta, ta chẳng hề nghe bà ấy nói thằng Thanh có vợ con bao giờ. Chẳng lẽ thằng nhỏ này là…

Toàn thân hắn lạnh ngắt khi nghĩ rằng: “Thằng nhỏ này là Vân Long, con của hắn”.

Mười chín năm bỏ vợ ra đi hắn thương nhớ lắm. Dù rằng Bác Hồ dạy rằng “Người đảng viên cộng sản là người vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo, và phải xem Bác là gia đình, Đảng là tổ quốc và thuyết Mác Lê là tôn giáo.

Mười chín năm qua hắn yêu Bác, vâng lệnh Đảng và tôn thờ Mác Lê làm thánh, nhưng không thể nào quên người vợ đẹp của mình. Đối với con, hắn không có tình thương, nhưng không oán ghét nhưđối với em hắn.

Nguyên từ khi gia nhập Đảng, tuy hy sinh hết mình, Trung thành với Bác và Đảng hết mực, nhưng hắn vẫn không được tin dùng, chỉ vì hắn có thằng em là “Kẻ thù số một của Bác và Đảng”. Bởi thế mà mười chín năm sống vất vả trong rừng, bao phen suýt chết ngoài mặt trận, công nghiệp hiến cho Bác và Đảng khá nhiều, nhưng hắn chỉ lên đến cấp bậc Đại Úy.

Cách đây mấy năm hắn được lên cấp Thiếu Tá, Hồ Chí Minh ra lệnh hắn lẽn về nhà chiêu dụ tướng Thanh, vì bọn Cộng biết rằng tướng Thanh còn đó thì khó thểđánh chiếm vùng 4.

Thế nhưng cái đêm lẽn về nhà mẹ, Thy vừa mới mở miệng nói ý muốn chiêu dụ Thanh, bị bà Lê Thân đuổi đi tức khắc. Mấy ngày sau hắn trở lại bà Lê Thân không cho vô nhà, bảo rằng: “Mầy đi theo Cộng sản giết hại đồng bào thì đi luôn đi, không được về nhà của ta nữa. Em mầy có nói: Nếu gặp mầy nó sẽ bắt bỏ tù, ta không cứu mầy được đâu.” Hắn tiu nghỉu bỏđi, không kịp hỏi thăm tin tức vợ con.Từđó vì sợ Thanh bắt, Thy không dám trở về nhà mẹ nữa.

Dĩ nhiên công tác chiêu dụ địch không thành, hắn bị Hồ Chí Minh cất chức Thiếu Tá. Cho nên hiện tại hắn chỉ là Đại Úy.

Đã vậy trong hàng ngũ Cộng sản Việt Nam, cán bộ và quân chính qui Bắc Việt được Hồ Chí Minh và Đảng tin dùng cho nhiều quyền hành hơn cán bộ gốc miền Nam. Chính vì thế mà tên Vẹm tuy cùng một cấp bậc với Thy mà hắn hống hách với Thy, y như thượng cấp. Thy uất ức lắm song cũng biết mình yếu thế.

Khi chính quyền Saigon vừa tuyên bố đầu hàng, Thượng cấp của Thy ra lệnh Thy dẫn một đại đội đi tiếp thu Bộ Tư Lệnh vùng 4 và bắt tướng Thanh, vì chỉ có Thy mới biết rõ mặt của Thanh. Nhưng thượng cấp của Thy không quên cho tên Vẹm cán bộ gốc Bắc đem theo một đại đội đi kèm để kiểm soát mọi hành động của Thy.

Thy đinh ninh chuyến này mình sẽ lập được công to trong việc bắt Thanh. Nào ngờ Thanh đã chết, lại còn để lại lá thư miệt thị bác Hồ và Đảng. Phen này tên Vẹm sẽ dựa vào bức thưđó để hài tội Thy với thượng cấp.

Vừa tuyệt vọng vì không lập được công to, vừa lo sợ vì Thanh có dính líu ruột thịt với mình, bao nhiêu tức giận Thy đổ lên đầu chàng thanh niên trẻ này, vì quyết chắc nó là cận vệ của em mình. Giờ nhìn kỹ lại thì chàng thanh niên này không thể là lính, mà có thể là con mình. Hắn rối loạn trong lòng, không biết phải xử trí ra sao?

Tên Mén ra ngoài tìm được một thùng nước mang vào tạt vào mặt Vân Trường. Chốc lát Vân Trường lấy lại tri giác, lồm cồm ngồi dậy. Thy muốn điều tra thằng nhỏ có đúng là con mình không, bèn kéo Vân Trường đứng lên bảo ngồi xuống ghế, hỏi giọng bớt hung hăng hơn lúc nãy:

- Mầy tên gì?

Vân Trường từ lúc tỉnh dậy thấy lại những bộ mặt của bọn Cộng sản hung thần thì rất muốn bất tỉnh trở lại hay chết luôn. Nên khi nghe câu hỏi của Thy, Vân Trường nín im không trả lời.

Tên Vẹm bây giờ mới xen vào, nói với Vân Trường:

- Mầy muốn chết lắm à? Mầy không chết được đâu! Chúng ông sẽđể mầy nửa sống nửa chết, con ạ!

Câu nói của tên Vẹm không riêng gì Vân Trường, mà cả Thy cũng rùng mình. Thy lại càng muốn biết tên của chàng thanh niên. Hắn thừa biết tên này cứng đầu, nếu làm cứng nó sẽ không chịu nói, song trước mặt tên Vẹm, hắn cũng không thể nói lời dịu ngọt. Hắn trừng mắt lên, song giọng nói hoà dịu hơn:

- Mầy muốn khai tên họ mầy hay lãnh đòn?

Vân Trường vẫn cứng đầu:

- Tôi đã nói ông biết rồi. Ông muốn giết tôi thì cứ giết, tôi chán nghe ông hỏi và nhìn mặt ông lâu hơn.

Bản tính Thy rất nóng nảy, tuy có dạ nghi ngờ thằng nhỏ là con mình, nhưng hắn không thể dịu dàng mềm mỏng lâu. Hắn tát lên má Vân Trường một cái tát thật đau, gằn giọng hỏi:

- Mẹ mầy tên gì?

Vân Trường nghĩ thầm: “A, hắn muốn biết tên mẹ ta, ta nói tên ra có khi hắn xỉu đấy. Nhưng ta không điên dại gì nói tên mẹ ra để hắn biết ta là con.” Vì nghĩ thế, Vân Trường đáp:

- Tôi không nhớ mẹ tôi tên gì.

Tên Vẹm lại xen vào:

- Thế mày còn nhớ cha mầy tên gì không?

- Cha tôi tên… tôi không có cha, làm gì biết tên mà nhớ?

Câu trả lời ngập ngừng của Vân Trường khiến Thy vừa hồi hộp, vừa biến sắc.

- Mầy giấu tên mày, mày không muốn khai tên cha mẹ, nên viện cớ không có cha. Vậy mầy là giống gì mà không có cha hử?

Câu nói đó là của tên Vẹm. Hắn chụp bàn tay Vân trường bẻ nghe cái “rắc” đồng lúc với hắn nói. Hắn không nóng nảy như Thy, nhưng ra tay độc ác hơn.

Những cái tát cái đấm của Thy xem ra hung hổ, nhưng Vân Trường không đau bằng cái bẻ lọi xương của tên Vẹm. Quá đau, Vân Trường suýt thét lên, vô tình ánh mắt chiếu về phía xác chết của chú. Nhớ đến cái oai hùng của chú lúc sống, khí huyết can đảm tuổi trẻ bừng lên, Vân Trường trừng mắt nhìn tên Vẹm hỏi lại:

- Ông đã quên bài học của bác Hồ ông dạy rồi ư? “Con người là một sinh vật, không ai là cha mẹ của ai”. Ông buộc tôi có cha, là chống lại giáo huấn của bác Hồ. Tôi thách ông bắt tôi đó! Tôi sẽ tường thuật cái ý phản Bác của ông lên thượng cấp của ông khi gặp họ.

Nguyên Vân Trường vẫn thường nghe Lê Thanh kể: “Trẻ con trong chế độ Cộng sản không biết thương yêu cha mẹ. Chúng có bổn phận theo dõi và kiểm soát cha mẹ chúng để báo cáo với Đảng. Chính sách Cộng sản là dùng trẻ con làm gián điệp cho họ. Như vậy nhà nước kiểm soát được mọi hành động và tư tưởng của dân một cách chặt chẽ. Bởi thế Hồ chí Minh phải nhồi vào óc chúng: Con người là một sinh vật, không ai là cha mẹ của ai”. Người đảng viên Cộng Sản ai cũng nhớ lời này.

Câu hâm dọa của Vân Trường khiến tên Vẹm tái mặt. Trước Hiệp Định Genève hắn chỉ là tên bán thịt ở Hanoi. Sau khi chia đôi Việt Nam, miền Bắc theo chủ nghĩa Cộng sản, những kẻ buôn bán khá giả như hắn đều bịở tù và bị tịch thu tài sản. Hai năm sau nhờ biết nịnh nọt Cộng sản hắn được ra tù và sau đó gia nhập Đảng. Tuy lanh lợi hiểm ác, nhưng hắn không biết đọc biết viết, cũng chẳng là con người thông minh biết suy nghĩ. Cho nên lời của Bác nói ra, hắn thuộc lòng như kinh.

Quả thật Bác Hồ có dạy: “Người cán binh Cộng sản là người vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo. Mỗi người là một sinh vật, không ai là cha mẹ của ai, gia đình là Bác Hồ, tổ quốc là Đảng, tôn giáo là hai thánh tổ Mác Lê”.

Câu này hắn phải tụng ba lần trong ngày, trước bữa ăn, y như tín đồ Thiên Chúa giáo cầu nguyện tạơn trước khi ăn.

Bữa nay trong một phút nóng nảy hắn đã xúc phạm đến câu kinh của đấng tối cao hắn dạy, bây giờ chỉ còn cách giết hoặc tha chàng thanh niên “ngụy” này, để nó không có dịp tố cáo cấp trên. Đó cũng là phương pháp bịt miệng hữu hiệu nhất.

Đã có mưu định như thế, Vẹm xây qua Thy mỉm cười thân thiện:

- Tôi có nhận xét chàng thanh niên này không phải là lính Ngụy hay điệp viên Mỹ. Nó thuộc cả lời kinh của Bác, thật là phần tử tốt. Vậy tôi đề nghị thả nó, để tôi và đồng chí cùng anh em binh sĩăn mừng ngày chiến thắng, ngày hoà bình.

Thy không thuộc hạng ngu ngốc nên hiểu ngay hậu ý của tên Vẹm. Hắn nghĩ ngay trong đầu: “Nếu thằng nhỏ này là Vân Long, ta cũng nhân cơ hội này thả nó đi. Bằng nếu không phải là con của ta, ta ngu dại gì mà tha nó. Ta cần giữ nó để hài tội tên Vẹm với cấp trên, cũng như hắn đã giữ lá thư của thằng Thanh để bắt nạt ta vậy.

Bởi ý ấy, Thy nói hàng hai:

- Đồng chí có nhận xét đúng lắm! Thằng nhỏ này không thể là lính Ngụy hay điệp viên Mỹ. Xem mặt nó quá trẻ như đứa học trò. Tôi đồng ý tha nó. Tuy nhiên tôi cần biết nó tên gì, nhà cửa quê quán ởđâu, để phòng ngừa nếu nó là phần tử phản cách mạng thì chúng ta bắt nó trở lại.

Tên Vẹm nghe Thy nói thế liền bảo Vân Trường:

- Mầy thấy không? Chúng ông luôn luôn lấy lòng bác ái của Bác và Đảng đối xử với dân chúng miền Nam. Mầy chỉ cần khai rõ tên họ, chỗở, chúng ông sẽ tha mầy trở về với cha mẹ.

Vân Trường lặng thinh suy nghĩ:

“Khi xưa tên Thy hiếp dâm mẹ ta đẻ ra ta, hắn đâu hay biết có ta là con? Vậy ta có nói tên ta cũng chẳng hề gì. Còn địa chỉ thì ta cứ cho đại một địa chỉ bậy bạ nào đó ở Saigon. Chớ một khi ta thoát bọn này mà cho chúng địa chỉ thật, ắt sau này khốn đốn với chúng.

Nghĩ như thế nên Vân Trường nói:

- Nếu các ông hứa tha tôi, tôi sẽ nói thật tên họ và địa chỉ.

Thy sợ mất miếng mồi ngon nên lên tiếng:

- Tao cần biết tên họ mầy trước mới quyết định được.

- Cũng được! Tôi họ Trần, tên Vân Truờng.

Nguyên khi xưa Thu Vân làm khai sinh cho VânTrường phải lấy họ mẹ, khai cha vô danh, vì sự vắng mặt của Thy. Cho nên Vân Trường họ Trần, chớ không mang họ Lê.

Thy nghe không đúng họ tên của con mình, liền đổi thái độ:

- Cái tên này tao nhớ dường như hoạt động cho CIA của Mỹ. Tao không tha được đâu! Phải vậy không đồng chí?

Câu sau đương nhiên Thy nói với Vẹm và nhìn Vẹm bằng đôi mắt của kẻ vừa thắng được một ván bài.

Vẹm biết kế tha Vân Trường không xong, liền nghĩ cách giết thằng nhỏ. Hắn nghiêm giọng:

- Nếu đồng chí biết nó có tên trong số gián điệp Mỹ, nên bắt nó khai đồng lỏa để chúng ta bắt trọn ổ, vừa để đồng chí lập công. Tôi đểđồng chí trọn quyền khai thác nó đấy.

Vẹm biết tính Thy nóng nảy và chàng thanh niên kia cứng đầu. Nhất định khi Thy hạch hỏi điều gì, chàng trai kia không chịu nói, tất Thy nổi tức có thể giết chết.

Thy không biết thâm ý của Vẹm, bỗng dưng thấy Vẹm không lên giọng đàn anh với mình, lại để mình toàn quyền khai thác địch, trong lòng khoan khoái lắm. Hắn hất mặt nói với Vân Trường:

- Hễ tao hỏi câu nào, mày phải trả lời râm rấp câu đó, nếu mầy cứng đầu thì sẽ bị lãnh đòn nghe chưa?

Thấy cha mình vừa hung hăng vừa tráo trở, Vân Trường chán nản cúi gầm mặt xuống để không nhìn thấy gương mặt đáng ghét ấy.

Giờ phút đó Vân Trường bỗng nghĩ đến mẹ… Mười chín năm sống đời cô phụ để giữ thủy chung cho thằng chồng côn đồ. Thật tội nghiệp cho mẹ! Rồi nay mai hắn sẽ về Mỹ Tho tìm mẹ, nếu mẹ phải làm vợ hắn trở lại càng khốn khổ hơn. Vậy điều cần thiết là mình thoát khỏi bọn này, gấp trở về Mỹ Tho đưa mẹ trốn đi. Mình cũng cần kể cho bà nội rõ về hành động tàn nhẫn của hắn đối chú của mình.

Thấy Vân Trường gầm mặt nghĩ ngợi, Thy nắm tóc quật mặt Vân Trường lên, hùng hổ nói:

- Thằng gián điệp Mỹ! Mày…

Lúc bấy giờ trời chiều, tia nắng cuối cùng vàng rực chiếu vào gian phòng tỏa rõ gương mặt đẹp của Vân Trường. Thy chợt thấy gương mặt này quá quen thuộc. Một gương mặt không bao giờ phai mờ trong tâm trí hắn, chính là gương mặt của người vợđẹp của hắn hồi 19 năm xưa.

Hắn sững sờ buông Vân Trường ra, hỏi bằng giọng xúc động:

- Có đúng thật mày tên Vân Trường? Hay mầy tên Vân Long?

Đến lượt Vân Trường sững sờ nhìn Thy. Đôi mắt vừa chạm mắt cha, Vân Trường uất hận nghĩ thầm:

“Hoá ra hắn nghi ngờ ta là anh Vân Long, con hắn, vậy mà còn đánh đập ta tàn nhẫn như thế. Thật hắn không còn là con người nữa! Dù chết, ta cũng quyết không nhận hắn là cha!

Vì nghĩ thế, Vân Trường mím môi trả lời:

- Tôi tên Vân Trường. Vì sao ông muốn tôi tên Vân Long?

Thy không đáp câu hỏi của Vân Trường, tiếp tục chất vấn:

- Quê mày ở Mỹ Tho phải không?

- Không! Tôi là dân Saigon. Thy thét lên:

- Mầy nói láo! Vân Trường cũng lớn tiếng:

- Vì sao ông muốn tôi là dân Mỹ Tho? Vì sao ông muốn tôi tên Vân Long? Ông dám nói lý do chứ?

Đương nhiên Thy không dám nói nguyên nhân trước mặt tên Vẹm, nên giả vờ quát:

- Im! Mầy là tù nhân, hay tao là tù nhân mà mầy chất vấn tao? Một khi tao hỏi, mầy phải ngoan ngoản trả lời nếu không muốn bị hành hạ.

- Thế tại sao tôi trả lời thế này, ông muốn tôi nói khác? Tôi nói tên Vân Trường, ông không chịu. Tôi nói là dân Saigon, ông cho không đúng. Ông đã không tin tôi, vậy hỏi tôi làm gì?

- Được! Mầy muốn làm dân Saigon cũng được. Thế tao hỏi mầy: Tại sao mầy không ở nhà mầy ở Sàigon, lại núp trong phòng của thằng chết nằm kia? Mầy là tay chân bộ hạ của hắn, hay là gián điệp Mỹ?

- Tôi không làm gián điệp cho Mỹ, cũng không làm gì cho ông Trung Tướng đã chết.

Thy lộ sắc mừng, hỏi gấp:

- Vậy chắc mầy là con cháu của hắn phải không?

- Không! Tôi chẳng có bà con thân thuộc chi với ông Trung Tướng.

Trả lời xong câu này, Vân Trường khoan khoái nghĩ thầm: «Ông tưởng tôi mắc bẫy ông à? Tôi chẳng bao giờ cho ông biết tôi là con ông. Ông không xứng đáng làm cha tôi!».

Thy nhưđoán được ý nghĩ thầm kín trong đầu Vân Trường, tức giận thét lên:

- Mày tưởng tao không có cách khiến mầy khai thật à?

- Bất quá ông giết tôi là cùng!

- Tao sẽ không giết mày. Tao sẽ hành hạ mầy đến lúc phải khai ra sự thật.

Vân Trường lẳng lặng nhìn cha bằng ánh mắt oán ghét. Thy hỏi:

- Địa chỉở Saigon?

- Số 150 đường Pasteur.

- Mầy nói láo!

- Nếu ông không tin, đừng hỏi nữa!

- Nhà mầy ở Saigon, vậy mầy đến đây làm gì? Vân Trường không đáp, lại hỏi:

- Đất nước chia đôi, phe Cộng sản của các ông ở miền Bắc, các ông vô miền Nam làm gì?

Thy trừng mắt giận dữ. Tên Vẹm vênh mặt nói:

- Chúng ông vào đây giải phóng đồng bào.

- Giải phóng ai? Giải phóng tiền bạc nhà cửa của dân à? Đồng bào miền Nam thấy các ông ai nấy hoảng sợ bỏ chạy trốn còn hơn gặp quỷ.

Tên Vẹm giận tái mặt chụp Vân Trường đứng lên. Thy sợ hắn ra tay độc ác, liền nắm Vân Trường kéo về phía mình. Hai bên dằn co, nút áo chemise của Vân Trường bung ra, mớ bạc bên trong văng tứ tung xuống nền nhà. Tên Vẹm sáng mắt, kêu lên:

- Tiền! Té ra mầy chỉ là thằng ăn trộm! Dân Ngụy chúng bây chắc chỉ biết nghề này!

Tuổi trẻ không biết nhẫn nhục, Vân Trường tức giận nói:

- Còn bọn Cộng chúng bây là phường giết người cướp của! Hồ Chí Minh là chủ tịch đảng cướp nước giết người.

- Đ.M. Thằng nhỏ này dám xúc phạm đến bác Hồ và Đảng. Tao phải xử tử mầy tại chỗ, không cần điều tra mất thì giờ.

Tên Vẹm vừa nói vừa chỉa mũi súng vào ngực Vân Trường lên nòng rắc rắc. Thy muốn tránh cái chết nhất thời cho chàng thanh niên mà hắn nghi ngờ là Vân long, nên vung tay thoi vào bụng chàng ta một cái thật mạnh.

Vân Trường té nằm đơ, đầu va vào ngạch cửa, máu đổ ra, không biết sống chết ra sao?

Thy đinh ninh chàng thanh niên đã chết, tâm thần xúc động ngồi phệt xuống ghế, sắc mặt buồn thiu.

Tên Vẹm được dịp hài tội Thy, mặc dù hắn rất mong Thy giết Vân Trường. Hắn bắt đầu trở giọng thượng cấp:

- Tôi chỉ giả vờ hâm dọa thằng giáp điệp Mỹ, sao đồng chí đã vội vàng giết nó? Nó chết, làm sao chúng ta bắt được trọn ổ gián điệp và bọn lính Ngụy của thằng em của đồng chí?

Thy lặng im. Tên Vẹm càng cao giọng:

- Thằng Lê Thanh tội lỗi quá nặng, Đảng không hình phạt nó được thì phải trừng phạt cha mẹ anh em nó, phải không đồng chí?

Thy biến sắc. Tên Vẹm cười nham hiểm:

- Chắc đồng chí phải biết nhà của cha mẹ nó chứ?

- Nó chỉ có mẹ, cha chết lâu rồi!

- Vậy chúng ta tới nhà bắt mẹ nó, đồng chí phản đối đề nghị của tôi không?

- Ơ… không!

- Được lắm! Nó có anh chị em không?

- Ơ… không! Tên Vẹm cười nhỏ:

- Đồng chí là gì của hắn vậy? Thy cúi gầm mặt đáp:

- Tôi là… Bác có dạy người cán bộ chúng ta vô gia đình. Tôi không có liên hệ với người nào là cha mẹ anh em. Gia đình tôi là Bác.

Tên Vẹm không dám chống đối lời nói ấy của Thy. Hắn cười tươi, nói giọng thân thiết:

- Đồng chí nói đúng lắm! Vậy ít hôm nữa chúng ta đi bắt mẹ của thằng tướng Ngụy này nhé?

Thy miễn cưỡng gật đầu, sắc mặt ra chiều thống khổ. Dù sao hắn vẫn còn chút bản chất người. Đối với mẹ già dù không có tình thương, nhưng hắn cũng không có oán hận như với em hắn nên không thể hân hoan trước đề nghị của tên Vẹm đi bắt mẹ.

Gian phòng bấy giờ hoàn toàn im vắng. Hai tên lính dường nhưđang ở ngoài sân với đồng bọn. Thy ngồi đờ một chỗ với nỗi lo âu nặng trĩu trong lòng, lo lắng về những ngày sắp tới… Ngày hắn dẫn đoàn quân về Mỹ Tho bắt mẹ, ngày hắn gặp lại vợ… Không biết hắn sẽ nói sao với vợ, nếu chàng thanh niên đã chết bởi hắn lúc nãy là Vân Long?

Tên Vẹm ngồi ngã người trên ghế đối diện với Thy, theo dõi sắc mặt đau khổ của Thy, tâm trạng cực kỳ khoan khoái.

Thình lình bọn lính ngoài sân xôn xao. Tên Vẹm bật mình ngồi dậy, súng cầm lên tay, hỏi to tiếng:

- Vụ gì đó tụi bây?

Một tên lính chạy vào báo cáo:

- Trình đồng chí nhớn. Có hai người dân chỡ một xe la-ve tặng quân đội cách mạng. Anh em đang khát nước quá! Mong đồng chí khao thưởng anh em.

Tên Vẹm nghe nói lập tức phóng ra sân, thấy hai người đàn ông vào tuổi trung niên ăn mặc như nông dân, đầu chít khăn, quần áo mặt mũi lắm lem bùn đất, tay chân dơ bẩn như vừa cày cấy chưa kịp lau rửa, bên cạnh họ là chiến xe ba bánh chỡđầy những két la-ve, mắt hắn sáng lên.

Một người nông dân chấp tay chào tên Vẹm và nói:

- Anh em chúng tôi đang làm việc ngoài đồng, nghe tin đoàn quân cách mạng anh dũng chiếm Bộ Tư Lệnh của lính Ngụy nên vội vàng mang đến đây vài két la-ve tặng các vị anh hùng của Bác đã… thành công trong vụăn cướp miền Nam.

Tên Vẹm vì nghe câu nói «Đoàn quân của hắn đã anh dũng chiếm Bộ Tư Lệnh, hắn khoan khoái cười híp mắt, không nghe câu sau của người nông dân. Hắn vênh mặt khoe khoang:

- Quân của Bác đi tới đâu là chiến thắng ởđó. Tụi Ngụy chết như ruồi! Bộ Tư lệnh của chúng không còn tên nào sống sót!

Người nông dân cười nhẹ:

- Bởi thế chúng tôi mới mang rượu đến đây để hậu đãi anh hùng của Bác.

Vừa nói người này vừa khiêng mấy két la-ve bỏ xuống đất. Két sau cùng là két Whisky. Người ấy bưng lên nhưng không bỏ xuống, hỏi lớn:

- Đây là Whisky của Mỹ. Không biết quân đội của Bác Hồ có đả đảo món này không?

Tên Vẹm nghe nói Whisky, hắn mở to đôi mắt hí. Thuở giờ hắn chỉ nghe nói chớ chưa từng nhìn thấy thứ này. Hắn rối rít trả lời:

- Không đâu! Không đâu! Bác và Đảng chống Mỹ, chớ không bao giờ chống đô-la Mỹ và bất cứ thứđồ gì của Mỹ cả.

- Vậy sao? Nếu thế tôi mang két này vào nhà dành cho Đại Úy nhé?

Tên Vẹm mừng quýnh, nói với bọn lính của hắn:

- Chúng bay được phép uống la-ve, mừng ngày chiến thắng, ngày của hoà bình.

Bọn lính hoan hô nhào tới chụp. Người nông dân thứ hai vội vàng mỡ sẵn la-ve đưa cho mọi người.

Trong khi đó người nông dân khiên két Whisky đi theo tên Vẹm vào nhà, gặp ngay cái thây của Vân Trường nơi thềm cửa văn phòng của tướng Thanh. Người ấy biến sắc đứng khựng lại. Tên Vẹm đi lướt qua, cười nói:

- Đừng sợ chi, người anh em! Tên này là lính Ngụy, bị người bạn đồng chí của ta giết chết.

Bấy giờ người nông dân mới lưu ý trong phòng có một Đại Úy khác ngồi lù lù nơi ghế, im lìm bất động. Người nông dân gật đầu chào, rồi đặt két Whisky lên bàn, lấy một chai whisky mở nút ra trao cho Thy, trịnh trọng nói:

- Kính mời ông Đại Úy.

Thy không nói không rằng, chụp chai whisky đưa lên miệng uống một hơi. Có lẽ Thy cần say để quên những lo âu bứt rứt trong lòng.

Người nông dân nhìn thấy lối uống whisky của Thy, chắc lưỡi khen:

- Ông Đại Úy quả thật anh hùng! Ông uống whisky như uống nước lã vậy!

Lần đầu tiên trong đời tên Vẹm mới trông thấy chai whisky. Món này đồng chí «cồ» cỡ bác Hồ hay Phạm văn Đồng cũng chưa được nếm, huống hồ đồng «mén» cỡ hắn? Hắn không biết độ nóng bao nhiêu, nhưng vì nghe người nông dân khen Thy uống whisky như anh hùng, hắn lên giọng phách lối:

- Thứ này ngoài Hà Nội chúng ông uống thay nước. Ngày nào ông cũng uống cả chục chai 3.

Nói xong, không chờ người nông dân mở sẵn mời hắn, hắn chụp một chai, nhưng lay hoay không biết mở. Người nông dân mỉm cười, mở dùm hắn. Hắn bắt chước Thy, cho vào miệng uống một hơi.

Đúng vào lúc Thy ngã xuống nền nhà, hắn ngồi không vững nữa, nhào lăn khỏi ghế. Cả hai say như chết!

Người nông dân nhìn quanh trong phòng thấy không còn ai, liền cúi xuống xem xét Vân Trường, nghe tim còn đập hơi thởđều hòa, mừng quýnh kêu lên:

- Chú em còn sống! Cám ơn Trời Phật!

Không chần chờ, người này bồng Vân Trường ra cửa. Bọn lính bên ngoài tên nào cũng chếnh choáng hơi men, ca hát nghêu ngao. Thấy người nông dân ôm Vân Trường đi ra, chúng hỏi:

-

Ông ôm cái gì đó? Người nông dân cười đáp:

-

Ông Đại Úy bảo tôi đem chôn tên Ngụy này. Mấy tên lính lè nhè nói:

- Chôn xác Ngụy hả? Ừ chôn đi! Chôn hết đi!

Người nông dân bên ngoài thấy bạn đi ra với cái xác trên tay, hốt hoảng chạy ngay lại. Người kia nói nhỏ vào tai:

- Vân Trường chưa chết. Mau vào trong mang Trung Tướng ra. Chúng mình đi ngay.

Người ấy nghe nói chạy vào nhà, trong nháy mắt ôm xác tướng Thanh đem ra đặt lên xe ba bánh bên cạnh Vân Trường.

Cả hai vội vàng đẩy xe rời Bộ Tư Lệnh. Bọn lính Cộng chống mắt nhìn theo, cười nói lè nhè, giọng say rượu…
--------------------------------
1 Sau khi Saigon thất thủ, có nhiều dân sự tự tử, trong đó có cựu Ngoại Trưởng Trần-Chánh-Thành.
2 Sau ngày Saigon thất thủ, có rất nhiều sĩ quan và 4 vị tướng của quân đội VN Cộng Hòa tự tử, trong đó có tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê văn Hưng, là Tư Lệnh và Phó Tư lệnh vùng 4 chiến thuật.
3 Cán binh Cộng sản Hànội khi vào Nam thấy thứ chi cũng ngỡ ngàng xa lạ từ thức ăn, nước uống, đến vật dụng trong nhà… Đời sống ngoài Hà Nội nghèo nàn, nền văn minh đi thụt lùi như thời trung cổ. Vì thế ngày chiếm được miền Nam, người cán binh thường hay nói phóng đại để che dấu cái ngu cái nghèo của mình.

giavui
01-10-2015, 08:11 PM
CHƯƠNG MƯỜI HAI

CHÍNH THỂ DÂN CHỦ TỰ DO CÔNG BÌNH HẠNH PHÚC CỦA CHÍNH PHỦ CỘNG SẢN

Thu Vân ngồi đờ trên ghế, một lúc đứng lên đi tới đi lui như kẻ mất hồn.

Ông Trần Văn cùng đồng một tâm trạng như con gái. Và có lẽ tâm trạng của hai mươi triệu dân miền Nam lúc bấy giờ cũng mang tâm trạng như vậy. Tâm trạng của con người vừa trải qua giờ phút khủng khiếp trong đời, không biết mình đang ởđâu ? sẽ ra sao ?

Chính phủđã đầu hàng kẻ thù, quê hương đã mất ! Linh hồn của người dân cũng mất theo quê hương ! Mặc dù khung trời vẫn như thế, cảnh vật vẫn như thế, nhưng người người có cảm tưởng như nơi mình đang sống không còn là quê hương của mình nữa.

Tiếng nói hùng hổ của người xướng ngôn viên Cộng sản vang vang trong máy truyền thanh, hoan hỉ về ngày hoà bình, rêu rao chế độ « dân chủ, tự do, công bình, hạnh phúc » của chính phủ mới, càng gây trong lòng người dân nỗi hoang mang lo sợ.

Chưa ai biết tai họa gì sẽ đến với mình, nhưng ai ai cũng biết bắt đầu từ giờ phút này cuộc đời họ sẽ không có bình an.

Số người đổ xô ra biển trốn chạy chế độ mới không biết sống chết ra sao ? Nhưng kẻở lại biết mình sống để chờ đợi « cái gì đó » sẽ xảy ra đáng sợ hơn cái chết.

Và « cái đáng sợ » sẽđến từng người, từng gia đình…

Thu Vân tắt máy phát thanh, trở lại ngồi xuống ghế với cha, nét mặt lo âu :

- Thằng Vân Trường đang kẹt ở Cần Thơ nơi bộ Tư lệnh của Thanh, không biết có gì xảy ra cho nó nơi đó không ? Tại sao nó không trở vềđây ?

- Ông Trần Văn trấn an con gái:

Vân Trường là đứa học trò, không ai bắt nó làm gì. Con không cần phải lo! Ta lo là lo cho chú nó. Con người anh hùng như chú nó, chắc không dễ gì chịu đầu hàng kẻ thù. Ta sợ…

Không nghe cha nói tiếp, Thu Vân hỏi:

- Ba nghĩ Lê Thanh sẽ chống địch đến phút cuối cùng, phải không ba?

- Nếu hai bên giao tranh, chắc chắn Thanh sẽ làm thế. Nhưng đây là thượng cấp ra lệnh đầu hàng, Thanh không thể làm trái lệnh trên, nhưng con người đó cũng không chịu nhục, tất phải chọn cái chết.

- Ba muốn nói Thanh sẽ tự tử? Trời ơi, tội nghiệp Thanh!

Thu Vân kêu lên, nước mắt ứa ra. Không muốn cha nhìn thấy, nàng rời ghế bước thẫn thờ đến bên cửa sổ nhìn ra ngoài trời.

Trời đã về chiều rồi. Ngày này dân miền Nam thấy dài bằng một thế kỷ! Bao nhiêu diễn biến xảy ra…

Thế cuộc đổi thay! Thu Vân cảm nghe mất tất cả, chỉ còn lại nỗi lo sợ mỗi lúc một thêm. Không chịu đựng được nữa, Thu Vân dứt khoát nói:

- Ba ơi, con phải đi Cần Thơ tìm Vân Trường và Lê Thanh. Con lo lắng cho chú cháu nó lắm.

- Con không nghe từđài truyền thanh : “ai ởđâu phải ở tại chỗ, không được ra khỏi nhà” sao?

- Nhưng con không thể ngồi yên ởđây mà không biết sự gì đã xảy ra ở Cần Thơ. Con phải đi đến đó xem rõ tình hình ra sao?

- Nhưng đi trong lúc này nguy hiểm lắm. Con đừng cãi lời ba! Hãy ở nhà chờ nó thì hơn. Ba nghĩ, nó đang trên đường về đây. Bằng như con muốn đi Mỹ Tho thì chờ đến sang mai hãy đi.

Thu Vân lắc đầu:

- Không! Con muốn đi ngay chiều nay. Ba tha lỗi cho con, con không thể vâng lời ba lần này. Bởi vì con không thể nào chịu đựng nỗi lo sợ trong lòng suốt đêm nay nữa.

Thu Vân bước nhanh lên lầu lấy bộ áo ngủ, vật dụng cần thiết cho cuộc hành trình ở lại đêm, một ít tiền chi dụng …tất cả để vào trong một túi sắc nhỏ, rồi nhanh chân xuống nhà dưới. Hành trang nàng chỉ sơ sài ít món , vì nàng dự tính sẽ trở về nhà ngày mai.

Ông Trần Văn đứng đón con gái nơi cầu thang với nét mặt buồn thiu. Chưa bao giờ Thu Vân thấy cha có sắc mặt ảm đạm như thế. Nàng mỉm cười với cha:

- Sáng mai con sẽ trở về nhà với Vân Trường. Xin Ba an lòng, con không vắng mặt lâu đâu! Trường học vẫn còn nghĩ, ba chưa phải đến trường lúc này, đúng không?

Ông Trần Văn gật đầu, song ánh mắt vẫn buồn hiu hắt. Ông không hiểu sao lại có cảm tưởng như lần chia tay này với con gái là lần cuối. Nước mắt ông ứa ra, ông nói giọng nghẹn ngào:

- Chúa giữ gìn cho con.

Thu Vân cố nén nỗi xúc động nhưng lệ vẫn trào ra. Thật là lạ lùng! Nàng dự tính xa nhà chỉ một đêm thôi, mà hồn buồn nặng trĩu như một chuyến đi vĩnh biệt! Cha nàng là người ít để lộ tình cảm ra ngoài, bỗng dưng hôm nay ứa lệ nghẹn ngào trước sự vắng mặt ngắn ngủi của con gái!

Cả hai linh tính như có sự gì sẽ xảy ra. Cả hai cùng lo lắng cho nhau. Thu Vân nén cảm xúc, căn dặn:

- Ba nhớđóng cửa cho kỹ. Nếu có người gõ cửa ban đêm, chớ nên mở. Con hứa ngày mai sẽ về sớm.

- Con cũng phải cẩn thận. Nên dọ dẫm dân chúng trong tỉnh để biết tình hình Bộ Tư Lệnh trước khi đến đó tìm Lê Thanh và Vân Trường.

- Con xin nhớ lời ba dặn.

Thu Vân hôn cha, nói lời từ giã. Ông Trần Văn đưa con gái ra trước ngõ.

Con đường trước nhà nàng thường ngày rất thanh tĩnh, nhưng phải là không có xe cộ và khách bộ hành. Nhưng bữa nay hoàn toàn không có bóng xe, bóng người!

Dân chúng hoang mang lo sợ, không ai dám ra khỏi nhà, các cửa nhà đều đóng kín. Biết không thể nào đón được taxi, Thu Vân nói với cha:

- Ba hãy vào nhà đi. Con lội bộđến bến xe đò.

Ông Trần Văn vẫn bịn rịn:

- Con à, ba có cảm tưởng như từđây cha con mình không gặp lại nữa. Ba nguyện cầu ơn Trên cho con tai qua nạn khỏi và tìm gặp Vân Trường.

Thu Vân nói giọng quả quyết:

- Cha con ta sẽ gặp lại ngày mai mà. Ba an lòng nhé ?

Ông Trần Văn cúi mặt nén nỗi cảm xúc.Thu Vân quay lưng đi với bước chân nặng trĩu.

Con đường này quá quen thuộc với nàng, từng viên đá thỏi gạch, từng hàng cây bụi cỏ…Thế mà hôm nay nàng có cảm giác nhưđang đi trên nẻo đường xa lạ hiểm nguy rình rập, khiến tim nàng đập thình thịch, đôi chân vướng víu với nhau không bước nhanh được. Nỗi lo sợ mỗi lúc một tăng, nàng cấm đầu chạy và nghe như có người rượt theo phía sau.

Sự thật khoảng đường Thu Vân vừa đi qua vắng teo không người. Nàng vì quá sợ hãi mà có cảm tưởng như bị người rượt phía sau. Mãi đến khi bến xe đò hiện ra với một số hành khách quây quần nơi đó, Thu Vân mới hoàn hồn, bước chậm lại để lấy hơi thở.

Và sau khi mua vé xe, lên xe ngồi với đám hành khách, Thu Vân mới có cảm giác an toàn, dù những người này đều xa lạ và sắc mặt cũng lo lắng sợ hãi như nàng.

Chuyến xe đi Cần Thơ không đông khách như chuyến xe đi Saigon, nên người tài xế khởi hành trễ hơn 15 phút để đón thêm khách. Mọi người đều lộ vẻ khẩn trương, nhưng không ai dám lên tiếng phản đối.

Có thể nói lần đầu tiên ThuVân chứng kiến khung cảnh yên tĩnh nơi bến xe đò. Và cũng là lần đầu tiên nàng không thấy có sự cãi vã giữa nhóm nọ với nhóm kia vì vấn đề cạnh tranh hành khách.

Thu Vân tự hỏi: Phải chăng vì mọi người đang lo nghĩ đến những tai họa có thể xảy ra nên không còn hơi sức để cãi vã, hay vì bắt đầu từ ngày này, ngày cộng sản nắm quyền cai trị, người dân miền Nam mới biết thương yêu nhau?

Xe bắt đầu rời bến.

Lúc xuyên qua phố chính, Thu Vân nhìn thấy các tiệm buôn còn mở he hé cửa và vài khách hàng bước gấp rút trên đường.

Khoảng đường trong thành phố thỉnh thoảng có một toán quân Cộng sản võ trang. Họ mặc y phục đen như nhà nông, chân không giày dép, họđi nghênh ngang giữa lộ. Sắc mặc họ, ngoài nỗi vui mừng của kẻ chiến thắng, còn có vẻ thích thú của những người chưa hề thấy phố xá tỉnh thành.

Luôn luôn sau đám quân có một vài thường dân chạy theo hoan hô những vị anh hùng của Bác. Họ là những người trong thành phố, nhưng hoạt động kín đáo cho Cộng sản trong công tác phá hoại hoặc gián điệp v.v…Trong lúc này dân chúng mới thấy bộ mặt thật của họ.

Khi xe rời tỉnh thành chạy trên quốc lộ, cứ một khoảng đường có một toán quân Cộng sản chận xe lại và những người lính Cộng ghìm súng nhìn mặt từng hành khách với đôi mắt “cú vọ”, khiến ai nấy đều sợ hãi.

Thu Vân nghĩ, có lẽ họ muốn tìm bắt những quân nhân công chức của chế độ cũ trốn khỏi thành phố.

Cũng may trên chuyến xe đò của Thu Vân không có đàn ông trai trẻ. Phần đông là những người mua bán từ tỉnh nọ đến tỉnh kia, mà đa số là đàn bà nên việc kiểm soát không gặp khó khăn.

Mỹ Tho và Cần Thơ khoảng đường độ 100 cây số, nhưng phải qua hai lần “phà” để qua sông và phải dừng xe nhiều lần cho sự khám xét, nên mặc dù khởi hành từ 5 giờ chiều mà 9 giờ tối xe mới đến nơi.

Cần Thơ là tỉnh lớn sau Saigon, phố sá đồ sộ, dân cư đông đảo hơn Mỹ Tho.

Thường buổi chiều từ 5 giờ chiều đến 9 giờ tối, khí trời mát mẻ, dân chúng trong tỉnh thường đi dạo phố, tiệm buôn còn mở, đèn điện sáng choang, quang cảnh nhộn nhịp vui vầy.

Trái lại lần này, nhà cửa phố sá đều đóng kín, trên đường thỉnh thoảng mới có một chiếc xe chạy qua. Khách bộ hành gần như không có. Mỗi ngã tư đưòng đều có lính Cộng canh gác, tạo cho ngày Hoà Bình khung cảnh ghê rợn chưa từng thấy trong thời chiến!

Xe đò xuyên tỉnh về đến bến gặp vấn đề khó khăn, vì hành khách không tìm ra taxi, Bus của thành phố không có. Chỉ còn vài “xích lô” đạp, nên ai nấy đều tranh nhau.

Thu Vân nhìn thấy không xa bến xe đò có một khách sạn nhỏ, nàng nhanh chân rảo bước đến đó. Nào dè lúc đến nơi mới thấy khách sạn đã đóng cửa, bên trong tối om.

Nàng đứng tần ngần trước khách sạn với nỗi tuyệt vọng và lo sợ. Bấy giờ Thu Vân mới ân hận đã cãi lời cha rời Mỹ Tho vội vã. Nàng tới đây vào giờ này, không những chẳng làm được việc gì, mà đêm nay không có chỗ trú có thể bị lính Cộng bắt nhốt vào tù.

Nhớ đến cha rưng rưng nưóc mắt lúc tiễn đưa mình vì lo sợ hai cha con không còn gặp lại, Thu Vân tưởng tượng mình sẽ bị bắt và bị giết ngay đêm nay, nên hoảng sợ đập cửa khách sạn gọi lớn:

- Xin vui lòng giúp tôi! Xin cứu tôi!

Nàng đập cửa kêu gọi nhiều lần, một lúc sau đèn bên trong bật lên và có tiếng người đàn ông từ bên trong vọng ra:

- Ai đó? Có việc gì? Khách sạn không còn nhận khách nữa.

Thu Vân dán mặt vào cửa, nài nỉ:

- Xin vui lòng cho tôi vào trong. Nếu không còn phòng, cho tôi ngồi đỡ trong phòng tiếp khách cũng được. Tôi sợở bên ngoài quân lính sẽ bắt tôi. Xin hãy giúp tôi.

- Bà từđâu tới đây vào giờ này?

- Tôi từ Mỹ Tho đi xe đò đến đây. Xe về đến bến quá tối, nên không đón được taxi đi đâu được nữa. Nhìn thấy khách sạn ông gần đây nên tôi mới tới tìm chỗ nghỉ tạm, chờ trời sáng.

Một phút im lặng. Dường như người ấy bàn tính với ai đó.

Thu Vân hồi hộp chờ đợi…Bỗng có tiếng mở cửa và một người đàn ông vào tuổi trung niên ló mặt ra ngoài nhìn dáo dác. Chừng không thấy ai ngoài Thu Vân, người ấy bảo:

- Mời bà vào.

Thu Vân vừa bước vào trong, người ấy liền khép cửa khoá lại và tắt ngay đèn điện. Trong nhà còn ngọn đèn sáp lờ

mờ đặt nơi bàn tiếp khách, nơi đó có một người đàn bà. Người đàn ông giới thiệu:

- Đây là vợ tôi.

Thu Vân chào người đàn bà. Bà ta nói:

- Xin lỗi, chúng tôi không để đèn điện sáng quá, sợ họ biết mình còn thức họđến khám xét.

Thu Vân gật đầu:

- Ông bà tắt đèn là phải.

Người đàn bà trao cho Thu Vân mẫu giấy in và nói :

- Xin bà làm thủ tục ghi danh.

Thu Vân điền nhanh vào giấy các chi tiết rồi trao cho bà ta. Bà ta liếc sơ qua tên họ của nàng rồi trao cho chồng. Người này sau khi đọc tên nàng, ông ta vụt nhìn nàng chòng chọc, rồi hỏi :

- Bà có phải là con gái của ông Hiệu Trưởng Trần Văn ở Mỹ Tho ?

Thu Vân trố mắt ngạc nhiên :

- Vì sao ông biết ?

- Tôi vốn là học trò của ông. Quê quán tôi cũng ở Mỹ Tho. Tôi vềđây lập khách sạn này từ khi cưới vợ.

Thu Vân mừng rỡ hỏi : -Như vậy ông là người cùng quê với tôi ? Người đàn ông vụt cười thân thiết : -Chị Thu Vân ! Tôi với chị không những người cùng quê,

mà còn là bạn học cùng lớp với nhau. Có lẽ tôi thay đổi nhiều nên chị không nhận ra.

Thu Vân nghe nói liền chăm chú nhìn người ấy… Có lẽ vì ngọn đèn quá mờ, cũng có thể người này thay đổi nhiều sau hai mươi năm, nàng cố moi trong trí những gương mặt bạn học thuở xưa vẫn không nhận ra người ấy, nên hổ thẹn nói :

- Xin lỗi ! Tôi vẫn không nhận ra anh là… -Tôi là Lý Châu ! Tôi học lớp B, chị học lớp A. Vào năm đệ nhất, giờ Pháp Văn và Anh văn hai lớp nhập chung với

nhau, tôi thường ngồi bàn chót. Thu Vân nhíu mày nghĩ ngợi một lúc rồi lắc đầu : -Quả thật trí nhớ tôi tệ lắm ! Người đàn bà xen vào trêu ghẹo chồng : -Khi xưa anh ốm nhom, giờ thì mập ú, làm sao chịấy

nhận ra anh được ? Sự thật thuởấy Thu Vân quá si tình Thy, nên không để ý chàng trai nào khác trong lớp, ngay cả bạn gái nàng cũng không nhớ nhiều. Sau đó rời học đường, nàng lấy chồng rồi

sinh con và trốn bỏ Mỹ Tho khi mang thai Vân Trường. Đó là lý do nàng không giao tiếp bạn bè thuở còn đi học. Nàng mỉm cười gượng gạo :

- Xin anh tha lỗi ! Bạn bè ở trường lúc xưa tôi không còn nhớ ai.

Châu cười dòn, nhắc kỷ niệm :

- Chắc chị phải nhớ thầy Pháp Văn gọi tôi là « baguette », còn anh Thy là Tarzan chứ ?

- A, tôi nhớ ra rồi ! Anh ốm và cao, ngồi bàn chót cùng với anh Thy phải không ?

- Đúng đấy !

Vợ Châu vụt cười khúc khích :

- Sao anh dám ngồi gần Tarzan ? Không sợ ông ấy bẽ gẫy thân baguette của anh à?

Câu nói của vợ Châu khiến cả ba cùng cười, quên mất những lo sợ trong lòng. Châu mời Thu Vân ngồi nơi ghế dài và nói:

- Nếu chị không mệt vì cuộc hành trình hãy ngồi đây chuyện trò với chúng tôi một lúc.

Vợ Châu nghe chồng nói liền rời quày tiếp khách, đến ngồi bên cạnh Thu Vân với nụ cười hết sức khả ái.

Trước sự thân thiết của vợ chồng bạn, Thu Vân cảm động nói:

- Tôi thật vui mừng gặp được anh chịởđây. Trong giờ phút trầm trọng này, bên cạnh bạn bè không khác gì bên cạnh người thân.

Châu chợt nhăn mặt hỏi:

- Chắc chị có việc hệ trọng lắm mới ra khỏi nhà vào ngày

này? Tại sao anh Thy không đi với chị?

Sau câu nói, Châu giải thích với vợ:

- Chị Thu Vân và anh Thy kết hôn sau ngày ra trường.

Thu Vân cố tránh không muốn nói về Thy, nên đáp:

- Tôi có thằng con bị kẹt ởđây, tôi đi tìm nó.

- Nó ởđây với ai? Ở xa hay gần thành phố?

- Anh biết bộ Tư Lệnh vùng 4 chứ? Trung Tướng Lê

Thanh là…

Không chờ Thu Vân dứt câu, Châu kêu lên:

- Trung Tướng Lê Thanh là em của anh Thy. Hoá ra con

chịđã vào quân đội rồi sao?

- Không! Nó còn đi học. Tháng này Đại học đóng cửa vì tình hình chính trịở Saigon nghiêm trọng, sinh viên biểu tình

theo sự phá rối xúi dục của Cộng sản. Tôi cho nó về Bộ Tư lệnh với chú nó. Tôi không ngờ lại có ngày này…

Vợ Châu kêu khẽ với giọng hoảng hốt:

- Trời ơi!

Thu Vân biến sắc, hỏi giọng hơi run:

- Phải chăng có điều gì xảy ra ởđây?

Châu đáp thay vợ:

- Dân chúng trong tỉnh ai cũng biết Trung Tướng Lê Thanh và ai cũng thương mến ông ta. Thật không ngờ lại có ngày …

Thu Vân nóng lòng muốn biết tin tức về Thanh, nên ngắt lời bạn:

- Xin anh vui lòng cho tôi biết những gì đã xảy ra ở Bộ Tư Lệnh và tướng Thanh ra sao?

- Tôi nghe nói quan quân ở Bộ Tư Lệnh đều ra đi hết, ngoại trừ tướng Thanh, ông ngồi chờ bọn Cộng sản đến, nhưng mà với xác chết.

Mặc dù cha nàng đã tiên liệu điều này, Thu Vân vẫn bàng quàng xúc động khi nghe Thanh tự tử chết. Nàng gục đầu, nước mắt rơi lã tã xuống áo. Vợ Châu nắm tay Thu Vân an ủi:

- Xin chị bớt đau thương. Sự thật đấy chỉ là tin đồn thôi. Chưa ai biết đích xác tướng Thanh chết lúc nào và chết ra sao?

Thu Vân ngẩng mắt lệ hỏi:

- Do đâu anh chị biết tin đó?

Châu đáp:

- Những người lính của Bộ Tư Lệnh lúc trốn khỏi thành phố họ có nói với thân nhân họ là: “tướng Thanh và tướng Hùng, hai vị Tư Lệnh và Phó Tư Lệnh nhất định không đi trốn, cũng không đầu hàng kẻ thù. Hai ông cùng tự tử trước khi Cộng sản tới.

Vợ Châu nghẹn ngào kể tiếp:

- Có lời đồn nói hai tướng ấy tự tử một lượt dưới trụ cờ, cả hai cùng mặc quân phục đại lễ. Có người nói tướng Thanh chết tại Bộ Tư Lệnh, tướng Hùng chết ở nhà riêng, trước mặt vợ con.

Vợ Châu vụt thấp giọng nói thêm:

- Cũng có nguồn tin hai vịấy chưa chết. Họở lại chờ bọn Cộng tới, cho nổ bộ Tư Lệnh rồi mới thoát đi. Tin này có thể đúng, vì chiều này bọn Cộng đi lùng từng khu phố tìm kiếm hai người giả làm nông dân từ Bộ Tư lệnh đi ra.

Thu Vân nghe câu nói sau cùng của vợ Châu, đôi mắt ủ dột lộ ánh vui mừng hy vọng, nói:

- Nếu Thanh không chết, thằng con tôi chắc không hề gì. Hay là…

- Hay là hai người giả làm nông dân chính là tướng Thanh và thằng con chị?

Châu tiếp câu nói dỡ chừng của Thu Vân. Vợ Châu kêu khẽ:

- Đúng rồi! Tướng Hùng tự tử tại nhà riêng, thì hai người từ Bộ Tư Lệnh đi ra chắc phải là tướng Thanh và con chị.

Thu Vân không giấu được nỗi vui mừng, đôi môi đã làm nụ cười mặc dù đôi mắt còn ướt lệ. Nhưng nụ cười không giữ được lâu, vì nàng chợt nhớ đến câu nói của cha: “Con người với bản chất anh hùng như Thanh nhất định không hàng kẻ thù, cũng không hèn nhát chạy trốn, tất phải chọn cái chết vinh dự”.

Nàng nhìn hai người bạn, lắc đầu nói:

- Không! Con người như Thanh không hèn nhát trốn chạy đâu! Tôi tin chắc Thanh chọn cái chết. Nhưng tại sao Thanh không trả cháu về với mẹ nó trước khi chết?

Nàng nói lời sau cùng, cổ họng như nghẹn lại. Vợ Châu choàng tay ôm vai nàng, an ủi:

- Xin chị chớ thất vọng và quá lo về đứa con. Một khi tướng Thanh đã cho thuộc cấp rời Bộ Tư lệnh trước khi địch tới, tất nhiên ông cũng cho thằng con chị rời nơi đó trước khi chết. Bằng như ông không chọn cái chết, thì ông và cháu trốn đi. Trường hợp nào con chị cũng sẽ về Mỹ Tho với chị.

Nghe lời khuyên đầy chí lý của vợ Châu, Thu Vân nuôi hy vọng trở lại, nhìn Châu như hỏi ý. Châu gật đầu ra chiều thoả mãn câu nói của vợ, nói:

- Tôi không ngờ vợ tôi thông minh như vậy. Tôi cũng nghĩ như vậy! Trường hợp tướng Thanh sống hay chết, thằng con của chị cũng đã rời Bộ Tư lệnh trước khi bọn Cộng sản tới. Nói ví như Cộng sản có bắt được con chị, khi biết nó chỉ là sinh viên họ cũng thả ra. Xin chị an lòng.

Dù không tin lòng nhân đạo của phe Cộng Sản, Thu Vân cũng muốn tin lời Châu cho nhẹ nỗi lo âu. Nàng nói với bạn bằng giọng cảm xúc:

- Cám ơn những lời an ủi của anh chị. Tôi thật may mắn gặp được anh chị lần này, ởđây.

Châu vẫn còn thắc mắc về Thy nên hỏi:

- Năm xưa tôi nghe tin anh Thy đi du học. Năm nào anh ấy về nước? Và hiện nay anh đang làm gì hỡ chị?

Thu Vân không dám nhìn bạn, cúi mặt đáp:

- Anh ấy chết lâu rồi!

- Ồ, xin lỗi chị!

Cả ba chợt im lặng. Châu ân hận vì đã nhắc đến nỗi buồn của bạn nên tìm cách gợi chuyện khác:

- Từ Mỹ Tho đến đây chị có gặp khó khăn gì không?

- Những gì có ngày nay, chưa từng có thuở trước. Chẳng hạn mỗi chặng đường xe đò phải dừng lại cho họ khám xét, ai nấy đều hồi hộp lo sợ. Trong thành phố thì lính Cộng võ trang kiểm soát từng khu phố, làm cho dân chúng có cảm tưởng ngày này, ngày của Hoà Bình, là ngày bắt đầu một cuộc chiến tranh mới. Một cuộc chiến không có hai phe giao tranh bằng súng đạn, mà là một cuộc đàn áp của chính phủ Cộng với hai chục triệu dân miền Nam.

Châu thở dài:

- Lời nói của cấp lãnh đạo Cộng sản khó thể tin được! Cho nên mặc dù họ kêu gọi quân nhân và công chức ở yên, chính phủ sẽđối đãi tử tế mà ai nấy đều lo sợ.

Thu Vân nói giọng chua chát:

- Chờ xem thiên đường của nhà nước cộng sản tạo dựng ra sao? Ba mươi năm chiến tranh, hàng triệu dân chúng hai miền đã chết vì thiên đường hứa hẹn của Hồ Chí Minh. Tôi sợ ngày nay họ sẽ dùng máu và nước mắt của hai mươi triệu dân miền Nam để tô điểm và trang hoàng cho thiên đường của họ.

Vợ Châu lúc nào cũng lạc quan:

- Em nghĩ, tình hình không đến nỗi như thếđâu chị! Ngày nay họđã chiếm được miền Nam, họđã nắm quyền cai trị, tất cả tham vọng của họđã được đạt thành. Bây giờ không còn lý do gì họ còn muốn khủng bố dân miền Nam nữa!

Châu thở ra, nói với vợ:

- Chờ xem! Anh không lạc quan như em, cũng không quá bi quan như chị Thu Vân. Việc gì phải đến sẽ đến. Chúng ta không nên quá lo âu cho ngày mai, mà nên vui với hiện tại. Hiện tại anh vui mừng vì gặp lại chị Thu Vân bạn học cũ sau hai mươi năm. Em nên vào bếp làm vài món ăn, chúng ta ăn mừng ngày hội ngộ này.

Quay sang Thu Vân, Châu nói:

- Tôi chắc chị chưa ăn chiều? Từ nãy giờ mãi lo chuyện trò với chị chúng tôi quên mời chịăn uống gì cả! Mong chị tha lỗi cho chúng tôi đã tiếp khách không chu đáo.

Vợ Châu nghe chồng nói liền đứng lên đi ngay vào nhà bếp. Thu Vân cảm động trước tâm tình của bạn, nói:

- Tôi rất cảm kích tấm lòng của anh chị đối với tôi. Mong rằng sau này có dịp đền đáp.

Châu cười:

- Chị đừng nghĩđên điều ân nghĩa. Chính chịđã mang niềm vui hội ngộ cho chúng tôi tối nay.

Thu Vân hỏi:

- Chắc con anh chịđã lớn và đã ở riêng?

Châu lắc đầu:

- Chúng tôi không có may mắn! Vợ tôi có thai hai lần, nhưng lần nào đưá bé cũng chết trước khi ra đời. Bác sĩ khuyên vợ tôi không nên để có thai nữa.

Châu đứng lên kể tiếp:

- Chúng tôi sống tại khách sạn này. Hai tầng trên làm khách sạn, tầng dưới ngoài phòng tiềp khách và nhà bếp, chúng tôi còn ba phòng rộng để ở. Mời chị theo tôi lên phòng trọ của khách sạn để cất hành lý và lau rửa, trong khi chúng tôi sữa soạn bữa ăn.

Thu Vân theo Châu lên mấy bậc thang, vừa hỏi:

- Anh chị hiện có khách trọ nhiều chứ?

- Chẳng ai đến khách sạn vào những ngày nghiêm trọng như vầy, mà chúng tôi cũng rất ngại đón khách vào lúc này. Vì vậy mà khách sạn đóng cửa từ hai tuần nay, nhân viên khách sạn chúng tôi cũng cho tạm nghỉ.

- Như vậy khi nãy anh mở cửa cho tôi vào là lý do gì?

- Tôi nghe tiếng gọi cửa của đàn bà, gần như tiếng cầu cứu nên không thể làm lơ, nhất là nghe nói dân Mỹ Tho. Tôi nghĩ tình đồng hương nên mở cửa nhưng không ngờ là chị.

Đưa Thu Vân đến trước cửa phòng và mở cửa cho Thu Vân vào, Châu nói trước khi rút lui:

- Chúng tôi chờ chị nơi phòng ăn dưới nhà. Xin chị từ từ lau rửa.

- Cám ơn anh.

Châu dành cho Thu Vân một phòng rộng rãi với đầy đủ tiện nghi. Phút chốc Thu Vân đã trở xuống nhà dưới. Nàng định vào bếp phụ giúp vợ Châu việc nấu nướng. Nào ngờ hai vợ chồng đã chờ nàng nơi cầu thang và mời nàng đến phòng ăn.

Châu vừa đi vừa cười vui vẻ:

- Đàn bà sữa soạn nhanh như chị thật hiếm lắm.

- Tôi tưởng còn thì giờ phụ bếp chị Châu, không ngờ chị nấu nướng nhanh như các bà tiên biến hoá món ăn .

Nàng nói thế vì thấy trên bàn bày nhiều món ăn, khói bay nghi ngút. Vợ Châu cười nhỏ:

- Em chỉ hâm nóng thức ăn đã có sẵn trong khi chồng em bày bàn, chớ nào có tài ba gì đâu? Nào mời chị ngồi.

Thu Vân thừa biết vợ chồng bạn đã dùng bữa ăn chiều, song vì muốn tiếp đãi nàng nên cùng ngồi ăn với mình. Nàng vừa cảm động, vừa xốn xang. Châu đoán biết tâm trạng của nàng nên nói:

- Chị đừng ái ngại điều chi. Tuy chúng tôi đã dùng bữa ăn chiều rồi, nhưng giờ này trong bụng đã nghe đói. Nhờ chị mà vợ tôi mới cho ăn nữa đấy.

Chàng cười dòn, vừa ăn vừa nhắc lại kỷ niệm thuở học trò. Vợ Châu nghe rất thích thú, thỉnh thoảng xen vài câu pha trò khiến Thu Vân cũng vui lây.

Tối dêm đó đến nửa đêm cả ba mới chia tay về phòng ngủ. Bấy giờ nằm một mình trong gian phòng lạ Thu Vân bắt đầu nghĩ ngợi miên man…

Từ khi mẹ nàng chết, tính đến nay đã hơn năm, cha nàng lúc nào cũng tỏ sự can đảm che giấu nỗi buồn khổ, tiếp tục nghề dạy học trò. Vì không nỡ để cha sống lẽ loi nơi gian nhà rộng lớn nên từ khi mẹ chết Thu Vân phải sống hai nơi.

Ba ngày đầu tuần nàng ở Saigon, tiếp tục làm việc văn phòng cho luật sư Lang, sống với con. Bốn ngày còn lại ở Mỹ Tho chăm sóc cha già. Thứ bảy và Chúa Nhật Vân Trường cũng về Mỹ Tho với mẹ và ông ngoại.

Những ngày Thu Vân vắng mặt ở Saigon là những ngày Duy Quang tới nhà nàng kềm dạy Vân Trường thêm hai môn Pháp văn và Anh văn. Thành ra hơn một năm qua Duy Quang tới lui thường xuyên, có hôm ngủđêm lại đó, mà vẫn không chạm mặt Thu Vân.

Sở dĩ họ không gặp nhau vì thời dụng biểu của Thu Vân thời gian ở Saigon rất eo hẹp. Nàng không có giờ đến giáo đường cầu nguyện mỗi chiều như lúc trước. Ngày Chúa Nhật Thu Vân lại ở Mỹ Tho nên cũng không có dịp gặp Duy Quang trong giờ thánh lễ.

Mà sự thật cả hai cũng cố ý lánh mặt để chạy trốn tình yêu mỗi ngày một sâu đậm. Họ sợ tình yêu, họ trốn tình yêu, nhưng trên thực tế chưa bao giờ họ cảm thấy gần gủi như lúc này, vì cả hai sống một nhà. Giường nàng ngủ cũng là chỗ chàng nghỉđêm mỗi khi lưu lại. Bởi căn nhà này không còn phòng nào dành cho khách.

Bây giờ thì tình của họ không còn là tình của người chăn chiên với con chiên nữa. Mà hoàn toàn giống như tình giữa đàn ông với đàn bà, hay nói cách khác là của Adam với Eve.

Có điều cả hai đã nhiều tuổi đời, biết đè nén tình thuơng nỗi nhớ, biết khắc phục tình dục, biết để lý trí trước tình cảm, vì họ là những con người trọng đạo lý.

Lần gặp gỡ thứ nhất giữa Thu Vân với Duy Quang năm nay là hồi đầu tháng. Thu Vân gặp Duy Quang để hỏi ý về việc cho Vân Trường về Cần Thơở với chú trong thời gian Đại Học Saigon đóng cửa.

Duy Quang vốn quí trọng Lê Thanh nên không chống dối việc Vân Trường đến một chỗ quân sự. Nhưng chàng có căn dặn Vân trường hễ thấy tình hình nghiêm trọng phải rời Cần Thơ về Mỹ Tho ngay.

Vân Trường hứa nghe lời căn dặn của người cha đỡ đầu, thế mà không hiểu vì lý do gì vẫn bặt tăm?

Nhớ đến con, trong lòng Thu Vân xao xuyến lo âu. Hai mươi năm qua nàng can đảm sống đời góa phụ là nhờ nương tựa nơi con. Giờđây nếu Vân Trường có mệnh hệ nào, chắc nàng không thể tiếp tục sống.

Nước mắt nàng đổ ra hồi nào nàng không hay? Nàng úp mặt lên gối…

Một lúc nàng thiếp trong giấc ngủ chập chờn, thấy mình đang ở nhà Mỹ Tho, đang bận rộn trong nhà bếp. Vân Trường từ ngoài sân chạy vào với nét mặt tươi vui rạng rỡ, nói:

- Mẹơi, ông ngoại và con đã treo đèn xong rồi. Mẹ ra sân xem coi có vừa ý không?

Thu Vân theo con hấp tấp bước ra vườn.

Giữa sân cỏ hôm nay có đặt chiếc bàn dài. Bàn được trải tấm khăn thêu thật đẹp. Trên bàn có lọ hoa cùng với chén đĩa ly tách sang trọng dành sẵn cho hai mươi người.

Hai hàng cây dọc theo sân đều có treo đèn kết hoa, tạo cho ngôi vườn vô cùng đẹp mắt.

Ông Trần Văn khi thấy con gái đi ra, ông nheo mắt hỏi:

- Sao? Trang hoàng như vậy con vừa ý chứ?

Thu Vân đáp với nụ cười:

- Ba và Vân Trường làm đẹp lắm!

- Thế à? Vậy phần nấu nướng con đã xong chưa?

- Con cũng đã sẵn sàng, chờ khách tới thì dọn ra thôi.

Nàng vừa dứt câu đã nghe tiếng xe dừng trước ngõ. Vân Trường mừng rỡ chạy ra ngõ đón khách.

Nào bà nội, nào chú Thanh, nào nghĩa phụ Duy Quang, nào gia quyến bà Lan Mai bạn đồng nghiệp của mẹ, nào bạn học cùng trường…Tất cả cùng đến để dự ngày sinh nhật thứ 18 của Vân Trường.

Chủ và khách chào hỏi xong mọi người bắt đầu ngồi vào bàn tiệc. Thu Vân và cha nàng ngồi đầu bàn, hai bên là khách và ban bè của Vân Trường. Tựu chung vừa chủ vừa khách 20 người, cùng nhau ăn uống cười nói vui vẻ và mọi người đều khen ngợi tài làm bếp của Thu Vân, nhất là Thanh. Thu Vân nghe em chồng cứ mãi khen ngon, liền nói:

- Lính của chú chắc nấu ăn dỡ lắm nên chú mới khen chị nấu ngon, phải không?

Thanh lắc đầu, kể:

- Trong số lính của em có một người gốc Trung Hoa, vốn là đầu bếp của một nhà hàng nổi tiếng ở Chợ Lớn. Ông ta…

Không chờ em chồng dứt câu, Thu Vân cười nhỏ, ngắt lời:

- Chao ôi, nếu vậy thì tự nãy giờ chú khen nịnh chị rồi!

- Không đâu! Em khen thật đó. Bởi vì món ăn Tàu tuy nổi tiếng trên thế giới nhưng quá nhiều dầu mở, nếu như thỉnh thoảng ăn sẽ thấy ngon, còn ăn thường ngày thì ngán lắm. Cũng vì lý do đó mà đôi khi em phải đổi đầu bếp là một người không chuyên nghiệp để thay đổi khẩu vị.

Duy Quang xen vào:

- Trung Tướng nói đúng lắm! Tôi đồng ý với Trung Tướng, món ăn Tàu không thểăn mỗi ngày. Và các món ăn hôm nay thật tuyệt hảo!

Từ lâu rồi họ thầm kín yêu nhau. Lời khen của Duy Quang tuy là lời phê bình chân thật về món ăn, nhưng Thu Vân có cảm tưởng như bởi tình yêu mà chàng mới nói những lời đó.

Nàng xúc động cúi mặt xuống che dấu nỗi cảm kích. Lúc ngẩng mặt lên Thu Vân bỗng thấy trời đất tối sầm, mây đen che kín bầu trời, gió thổi ào ào, cây run, lá đổ…Rồi từ xa có một con trốt cuồn cuộn bay tới, hốt mọi người lên cao.

Thu Vân bị nhào lộn trên không chẳng biết bao lâu? Lúc rơi xuống nhằm chỗ rừng núi dây lá chằng chịt, bốn bề không thấy người, bên tai nghe tiếng gầm gừ gào thét của muôn loài thú dữ.

Nàng kinh hoàng cấm đầu chạy, vừa kêu gọi những người thân. Nhưng tiếng kêu của nàng nhưng chìm vào rừng núi thâm u, không ai hồi đáp!

Tất cả người thân của nàng đều lạc mất. Nàng còn lại một mình giữa chốn hiểm nguy! Thình lình trước mắt nàng có một bóng đen của một con thú hình dung quái dị lao tới. Thu Vân hốt hoảng nhảy thụt lùi. Con thú chợt há miệng ra như cười với nàng. Bấy giờ Thu Vân mới thấy rõ không phải là thú, mà chính là Lê Thy.

Hắn dang hai tay ôm nàng. Thu Vân sợ hãi thét lên, giật mình tỉnh giấc, bật mình ngồi dậy, toàn thân ướt đẫm mồ hôi, tim đập thình thịch.

Nàng ngồi lặng trên giường nhớ đến Thy, nhớ đến cơn ác mộng… không khỏi bàng quàng sợ hãi.

Mười mấy năm qua nàng làm người vợ chung thủy, không phải vì chồng mà vì đức hạnh của Không Tử.

Thy đến trong đời nàng như mây như khói, chợt đến, chợt đi…Thương yêu hờn oán theo thời gian cũng đã tiêu mất. Nàng không nhớ không nghĩ đến Thy nữa, kể như chồng đã chết.

Bỗng dưng hôm nay Thy hiện về trong giấc mộng. Thy còn sống hay đã chết? Vì sao khi nàng gặp lại hắn thì người thân của nàng không còn ai nữa?

Thu Vân chợt run lên khi nhớ tới thực trạng bên ngoài… Đoàn quân Cộng sản từ khắp nơi ồạt dẫn về. Trong lớp người đó có thể có Thy.

Cũng vì họ trở về nên Thanh mới chết và Vân Trường…

Thu Vân không dám nghĩ thêm nữa. Nàng bước xuống giường đi vào phòng tắm dội nước lên mặt. Nước mát lạnh giúp tinh thần nàng tỉnh táo.

Nàng xem giờ, thấy chỉ 5 giờ sáng. Giờ này còn sớm, chắc vợ chồng Châu còn ngủ. Thu Vân lên giường nhắm mắt lại, song vẫn không ngủ được.

Nàng chờ thời gian trôi qua từng phút…

Thời gian trôi thật chậm khi người đợi chờ, nhưng lại nhanh vô cùng khi người không nghĩ tới.

Thy bỏ vợ ra đi đúng 19 năm. Mười chín năm dài đau buồn khổ hận mà Thu Vân có cảm tưởng như mới xảy ra, không khác gì nàng vừa tỉnh thức sau cơn ác mộng.

Phải chăng Thy sẽ trở về, để nàng thêm một lần nữa rơi vào ác mộng triền miên?

giavui
01-10-2015, 08:12 PM
Cả ngày hôm ấy Châu và Thu Vân chia nhau đi dọ dẫm tin tức của Lê Thanh và Vân Trường. Mặc dù báo chí thời trước đều bịđóng cửa, đài phát thanh chỉ dành cho chính phủ Cộng sản ban hành lệnh cho dân, tin tức trong nước hoàn toàn bế tỏa. Nhưng tại tỉnh lỵ Cần Thơ ai cũng đều biết Bộ Tư Lệnh hiện do lính Cộng sản chiếm giữ. Hai tướng Thanh và tướng Hùng tự tử chết.

Đương nhiên tin ấy truyền bằng miệng, không có hình ảnh để xác nhận, nên người đồn thế này, kẻ nói thế kia…Đại khái y như những gì vợ chồng Châu tường thuật với Thu Vân đêm trước. Có điều tin tướng Thanh không chết người ta thích nói hơn. Thu Vân không hiểu vì dân chúng thương yêu vị tướng của họ nên không muốn nghe tin vị anh hùng này chết, hay sự thật Thanh còn sống?

Dù nghi ngờ, Thu Vân cũng muốn tin Thanh còn sống và hai người thoát khỏi Bộ Tư Lệnh sau cùng là chàng với Vân Trường. Nàng tưởng tượng hai chú cháu đã rời Cần Thơ, đã về đến Mỹ Tho và hiện đang chờ đợi nàng. Ý nghĩấy khiến Thu Vân nôn nao muốn trở về nhà. Nàng quyết định rời Cần Thơ ngay chuyến xe 15 giờ.

Vợ chồng Châu tiễn nàng ra tận bến xe đò. Trước sự tiếp đãi đầy thân tình của bạn, Thu Vân cảm động không nói được lời gì hơn ngoài tiếng “cám ơn”. Nàng nói thêm:

- Bao giờ anh chị về Mỹ Tho xin cho tôi được mời. Tôi cũng ước muốn biết địa chỉ của hai bác để khi có dịp ghé thăm.

Châu đáp:

- Ba mẹ tôi ngụ tại số 2, đường Tự Do. Chúng tôi thường về Mỹ Tho thăm cha mẹ, chắc chắn có dịp đến thăm ông Hiệu Trưởng và chị.

Ba người chia tay hết sức bịn rịn. Vợ chồng Châu chúc Thu Vân đi đường bình an và sớm gặp con.

Bây giờ chuyến xe đi Mỹ Tho đã rời bến. Ngoài đường bữa nay xe cộ cũng nhiều hơn, khách bộ hành cũng đông đảo hơn.

Sau một ngày lo sợ, mà không thấy điều gì xảy ra cho mình, dân chúng đã bắt đầu tin tưởng về “dân chủ, tự do, công bình, hạnh phúc” của nhà nước.

Sáng này từĐài phát thanh chính phủ Cộng sản ngọt ngào kêu gọi quân nhân và công chức của chế độ cũ tới trình diện các cơ quan của mình để tiếp tục làm việc như trước. Ai ở chức vụ gì sẽ được giữ chức vụđó.

Những lời dụ dỗấy được nhiều người tin, nên sinh hoạt trong thành phố bắt đầu nhộn nhịp trở lại. Không ai còn tính chuyện bỏ nhà bỏ xứ trốn chạy nữa. Quân nhân và công chức lần lượt đến trình diện cơ sở của mình.

Hành khách trên chuyến xe đò bắt đầu cười nói chuyện trò, mường tượng đến thiên đường tuyệt vời của Bác Hồ trong những ngày sắp tới…

Xe chạy trong thành phố không việc gì xảy ra. Đến khi xe ra đến quốc lộ thì gặp một toán quân cộng sản độ 6, 7 người chận xe lại. Tất cả hành khách đều phải xuống xe cho họ kiểm soát. Tất cả hành lý từ thùng carton đến giỏ rau cải, gà vịt v.v…chất trên mui xe, cũng bị phanh phui kiểm soát.

Thu Vân đoán, có lẽ họ nghi ngờ dân chúng chuyển vũ khí đi nơi khác nên mới kiểm soát kỹ như vậy và đinh ninh khi họ không tìm thấy gì sẽ cho phép xe chạy.

Nào ngờ sau khi kiểm soát đồ đạc, họ xét giấy tờ. Người dân miền Nam quen mang theo “Thẻ kiểm tra” trong người, nên ai cũng có giấy đưa ra trình diện. Thế nhưng tên trưởng toán Cộng sản lại nói:

- Chính phủđã ra thông cáo “Ai ởđâu phải ở tại chỗ, không được ra khỏi nhà”. Chúng bay rời thành phố là chống lệnh chính phủ. Cho nên chúng ông phải đưa chúng bay đến “trại giáo hóa” để Đảng dạy bài học kỷ luật.

Câu nói của tên cán bộ Cộng sản khiến mọi người xanh mặt. Một bà khoảng 60, ăn mặc như nông dân, nghĩ mình là đàn bà lớn tuổi sẽ được kính nể nên cao giọng nói:

- Chúng tôi là dân mua bán các thứ vặt từ Cần Thơ qua Mỹ Tho. Nếu các ông cấm ra khỏi thành phố thì làm sao buôn bán được? Còn xin giấy phép thì phải xin ởđâu? Từ xưa đến nay dân từ tỉnh nọ qua tỉnh kia không cần…

- Im! Không được biện luận!

Tên nọ không chờ người đàn bà dứt câu, trở báng súng đẩy bà ta một cái thật mạnh cùng lúc với tiếng quát. Bà ta bị té nhào. Mọi người sợ hãi đứng xích lại nhau, không ai dám lên tiếng.

Thu Vân nhớ đến cha đang mong chờ mình, cũng có thể Vân Trường đã về nhà đang chờ mẹ, trong lòng bấn loạn. Nàng bất chấp sự hung hăng của tên Cộng sản, chạy tới níu hắn ta, nài nỉ:

- Xin ông vui lòng cho tôi về Mỹ Tho, cha và con tôi đang chờ tôi ở nhà.

Nàng vừa dứt câu, tên kia sừng sộ hỏi:

- Nhà mầy ởđâu? Giấy tờ mầy đâu?

Tuổi hắn có lẽ vào khoảng trên 20, thế mà nói chuyện với nàng, đàn bà lớn tuổi hơn, hắn lại dùng ngôn từ hết sức vô lễ. Tuy khó chịu nhưng Thu Vân không lấy làm phiền, nhỏ nhẹ đáp:

- Tôi ở Mỹ Tho. Đây là thẻ kiểm tra của tôi chứng thật tôi ngụở Mỹ Tho. Tôi van xin ông, cho tôi được về nhà.

Tên nọ cầm giấy tờ của nàng, nhưng cũng như lúc xét giấy tờ của mọi người lúc nãy, hắn chỉ nhìn vào chớ không đọc. Hắn cầm căn cước của Thu Vân lật qua lật lại, rồi nạt lớn: -Có thật mầy ở Mỹ Tho không?

- Xin ông đọc, sẽ thấy địa chỉ nhà tôi ghi trong đó.

- Mầy nói láo!

Thu Vân lấy làm kỳ, không hiểu sao hắn không chịu đọc, lại bảo nàng nói láo? Nàng nhỏ giọng:

- Ông ơi, tôi sinh sống ở Mỹ Tho. Xin ông nhìn vào giấy…

- Câm mồm! Tao nói mầy không ở Mỹ Tho! Mầy nói lôi thôi, ông giết tại chỗ!

Thu Vân sừa sợ vừa ngơ ngác vì không hiểu sao hắn ta cứ quả quyết nàng không ở Mỹ Tho? Giấy tờ ghi địa chỉ rành rành, hắn không tin, lại không chịu đọc.

Sự thật cán binh cộng sản 90% không biết đọc và không biết viết. Hồ Chí Minh chỉ dạy chúng cầm súng giết người, chớ không dạy cầm bút học chữ. Chỉ những cán bộ cao cấp mới có học. Chúng ra chỉ thị cấp dưới bằng miệng, y như thời xưa các tù trưởng Bộ Lạc Mông Cổ ra lệnh cho thuộc cấp bằng miệng từ người này truyền người kia.

Vào thế kỷ thứ 20, con người đã lên đến mặt trăng, khoa học và văn hoá các nước trên thế giới đã đến tuyệt đỉnh, thì Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Hà Nội cố ý đưa dân họđi thụt lùi về thời thượng cổ, con người chưa biết gì về văn hoá, văn minh!

Chỉ vì chính sách cai trị của phe Cộng sản tàn ác và bất công, nên chúng sợ sự chống đối của nhân dân và binh lính. Thành ra cấp lãnh đạo không cho cấp dưới và dân chúng học hành biết chữ để hai thành phần đông đảo này mãi mãi ngu dốt, hầu chúng có thể lợi dụng, bốc lột và chịu tuân hành mệnh lệnh cấp trên một cách tuyệt đối.

Hành khách xe đò thấy toán quân Cộng sản quá hung hăng, không ai dám hé môi nói lời gì nữa. Tên trưởng toán hiu hiu tựđắc, hất hàm ra lệnh cho thuộc cấp hắn:

- Tịch thu tài sản của họ, bỏ lên xe, mang về trại 14.

Bọn lính được lệnh liền nhào tới chụp giựt các giỏ sắc trên tay hành khách. Người nào trì níu chống đối đều bị tên trưởng toán đập túi bụi cáng súng lên đầu. Kết quả thì nhà nước Cộng sản cướp đoạt tài sản của dân bằng võ lực quá dễ dàng!

Trên tay Thu Vân chỉ có cái túi sắc nhỏ để chiếc áo ngủ, ít vật dụng của đàn bà và cái ví tiền, cũng bị họ gom lấy.

Sau khi chất đồ đạc lên xe, tên trưởng toán Cộng liền ra lệnh cho tài xế chạy về địa điểm theo sự hướng dẫn của hai tên lính của hắn đi theo xe.

Bấy giờ những nạn nhân bị cướp còn bị mang thêm cái tội: “lìa gia cư không giấy phép”. Họ bị đưa vào nhà tù mà chính phủ Cộng Sản đặt tên là “trại giáo hóa hoặc trại cải tạo”. Tù nhân đều bị bịt mắt dẫn đi bộ.

Không ai biết sẽđi đến đâu? Nhưng chắc phải xa, vì họđi không ngừng trên hai tiếng đồng hồ, lúc đi trên đường đá, lúc trên đường đất. Sau cùng mọi người có cảm tưởng nhưđi trên cái sân có lót gạch.

Lúc được mở trói và lấy khăn bịt mắt ra, Thu Vân thấy mình đang đứng trong một phòng to lớn. Chung quanh nàng ngoài những người đàn bà và trẻ con đi cùng chuyến xe đò, còn có vô sốđàn bà và trẻ con khác, kẻ đứng, người ngồi, dáng điệu bơ phờ mệt mỏi và gần như ai cũng rưng rưng nước mắt khóc thầm. Trẻ con có đưá nằm ngủ dưới nền gạch, có đưá ôm mẹ khóc rấm rứt.

Gian phòng này khá rộng, không thấy bàn ghế vật dụng chi, nốc cao, có nhiều cửa sổ, lối kiến trúc như nhà Chùa.

Quả thật Thu Vân không lầm. Xuyên qua khung cửa sổ, nàng thấy nhiều tượng Phật nằm lăn lóc dưới đất, đầu mình và tay chân rời ra, bàn thờ và lư hương nằm ngổn ngang bên cạnh đó.

Không còn nghi ngờ gì nữa! Bọn chúng đã chiếm nhà Chùa làm nhà tù! Các sư sãi trong Chùa chắc bị giải đi nơi khác? Và nơi đây trở thành nhà tù chứa nữ tội nhân và trẻ con!

Sau khi nhốt Thu Vân và nhóm hành khách đi cùng xe với nàng vào nhà Chùa, bọn Cộng ra ngoài khoá cửa lại. Bấy giờ người nọ mới hỏi thăm người kia. Nhờđó Thu Vân biết được nơi đây chỉ giam những hành khách của các chuyến xe đò từ Cần Thơđi nơi khác.

Chiều đó tù nhân đều bị bỏđói. Trẻ con đói bụng khóc la ỏm tỏi. Có thể nói những người bị bắt ởđây là dân mua bán từ tỉnh nọ qua tỉnh kia, hoặc nông dân mang rau cải trái cây từ miền quê đến bán các chợở tỉnh lỵ. Giờđây hàng hoá đều bị tịch thu, lại còn ngồi tù! Cho nên họ vô cùng uất ức, chửi rủa bọn Cộng tham tàn, cướp của và lừa bịp.

Thu Vân ngồi một gốc nhìn họ với tấm lòng thương hại. Ba mươi năm chiến tranh, phải nói là giới nông dân đã nuôi dưỡng và chưá chấp quân Cộng sản. Chỉ vì Hồ Chí Minh dụ dỗ: “Ngày nào Cộng Sản thắng, giới nông dân sẽ trở nên giàu có, ruộng đất và tài sản của điền chủ sẽđem phân phát cho họ. Cho nên họ bí mật nuôi lính Cộng trong ba mươi năm, mong chờ ngày chúng thắng cuộc chiến.

Không ngờ ngay ngày thứ hai, sau khi Saigon thất thủ, giới nông dân đã từng ủng hộ phe Cộng Sản bị chúng cướp giựt của cải và ngồi tù đầu tiên!

Bây giờ khi biết mình bị lừa phỉnh, họ tiếc thương chính phủ Saigon và người Mỹ. Nhưng đã muộn rồi!

Thu Vân bỗng nghĩ đến Thy 19 năm bỏ vợ con, hy sinh mạng sống cho Hồ Chí Minh và Đảng. Giờđây nếu Thy còn sống trở về, sẽ được hưởng ân huệ gì? Hay là sẽ ôm mối oán hờn suốt đời vì bị lừa phỉnh như những người kia?

**

Sáng hôm sau trời còn lờ mờ, mọi người còn dật dờ sau một đêm không ngủ thì có một toán lính Cộng sản mở cửa đi vào với một tên hạ sĩ. Sau khi nhìn mặt từng người, tên hạ sĩ chỉđịnh người nào phải theo hắn ra ngoài.

Thu Vân cũng trong số người phải ra ngoài, gần như hầu hết phải ra ngoài, ngoại trừ những người có con còn bé và các bà lão.

Tù nhân không phải đi đâu xa, ngồi ngay dưới sân gạch của nhà Chùa còn ướt hơi sương, khí trời lạnh buốt. Người nào người nấy ngồi bó gối dưới nền nhà để nghe tên cán bộ chính trị mặt mày đần độn, tuổi khoảng 40, giáo huấn bài học gồm hai câu:

Câu thứ nhất: “Không có Trời Đất Thánh Thần Chuá Phật”, mà chỉ có hai thánh tổ Mác Lê, Bác Hồ là đấng tối cao thiêng liêng”.

Câu thứ hai: “Không có tổ quốc, không có gia đình, mà chỉ có Đảng nhà nước. Vậy mọi người dân phải thương yêu và tuyệt đối trung thành với Đảng nhà nước, như chó đối với chủ.

Trong nhóm tù nhân có Thu Vân với ba cô gái khoảng 18-20 tuổi, có lẽ là sinh viên, là không mệt nhọc về bài học. Nhưng vì họ là thành phần trí thức nên rất khó chịu khi phải học những lời nói chướng tai ấy.

Một cô không dằn được tức giận khi bị tên cán bộ bảo cô phải trả bài. Cô ta tức giận nói thêm ởđoạn chót của câu thứ hai: “…như chó đối với chủ, như Bác Hồ đối với quan Thầy vĩ đại Sô Viết”.

Thu Vân biến sắc nhìn tên cán bộ, lo sợ hắn sẽ hình phạt cô gái. Nào dè hắn ta cười tươi nói:

- Đúng lắm! Bác Hồ vẫn nói như thế.

Thu Vân chưng hửng nhìn hắn, không tưởng tượng nổi hắn quá ngu ngốc, không hiểu lời châm biếm của cô gái ví Bác Hồ của hắn với chó. Mà nàng cũng không tưởng tượng được Hồ Chí Minh đã lấy cái gương lão vâng lời Nga sô để răn dạy cán binh Cộng Sản.

Những người nông dân vô học, không hiểu ý nghĩa của bài học, cũng không hiểu lời châm biếm của cô gái kia, cho nên họ không khó chịu không phản đối, lập theo lời tên cán bộ như két học nói.

Chỉ có điều khi hắn ngừng nói, họ quên tức khắc. Thành ra buổi học kéo dài trên ba tiếng đồng hồ, vẫn có người chưa thuộc bài học hai câu!

Tên cán bộđã bắt đầu lưu ý Thu Vân và ba cô gái, môi hắn nở nụ cười bí hiểm. Hắn hỏi lớn:

- Ởđây ai biết tiếng Tây và tiếng Mỹ?

Cô gái trẻ nhất vội vàng dơ tay lên:

- Tôi biết.

Tên cán bộ bảo cô ta bước ra ngoài. Cô ta mừng rỡ, tưởng mình biết tiếng Tây tiếng Mỹ sẽ được khoan hồng ra tù.

Thu Vân biết thâm ý của tên cán bộ, đưa mắt nhìn cô gái ngồi chênh chếch với nàng, ngụ ý bảo đừng nói thật như cô gái kia. Tên cán bộ lưu ý đến thái độ của Thu Vân. Hắn ra lệnh nàng đứng lên, rối hất hàm hỏi lớn:

- Mầy cũng biết tiếng Mỹ tiếng Tây phải không?

Thu Vân lắc đầu:

- Tiếng Mỹ tiếng Tây ra sao? Trong bài học tôi nghe hai tiếng Mác Lê. Phải chăng đó là tiếng Tây tiếng Mỹ?

- Mầy nói bậy! Đó là tiếng…ơ…

Hắn ú ớ không nói tiếp. Bác và Đảng dạy hắn thuộc làu hai tên ông Thánh ấy, mà thật sự hắn không rõ hai ông ấy là dân nước nào? Mặc dù trong nhà của cán bộ đều có treo hình hai ổng để thờ.

Hắn chợt nhớ trong các buổi lễ, luôn luôn có một số người da trắng tóc vàng được ăn trước ngồi trước. Bác và cao cấp hắn hết sức cung kính hầu hạ và gọi là đàn anh vĩ đại Sô Viết. Vậy theo hắn, tên hai ông ấy là tiếng Sô Viết.

Lý luận như thế, hắn nhìn Thu Vân bằng sắc mặt ngạo nghễ, nói:

- Mầy ngu quá, cho mầy ngồi xuống! Đấy là tiếng vĩ đại của đàn anh vĩđại Sô Viết.

Thu Vân tức cười thầm về câu nói ngu ngốc của tên nọ. Có lẽ những chi thuộc về Nga, cộng sản Hà Nội chua vào thêm hai chữ “vĩ đại” để chứng tỏ sự sùng kính tuyệt đối.

Cứ nghe binh lính Cộng sản Hà Nội nói chuyện cũng đo lường được Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam làm nô lệ cho Nga đến mức không ngốc đầu dậy nổi!

Hãnh diện vì thấy trong đám tù nhân không ai thông minh như mình, tên cán bộ chính trị cho phép mọi người được nghỉ 10 phút để ăn sáng. Riêng cô gái biết tiếng Tây tiếng Mỹ bị hắn dẫn đi. Chẳng ai biết hắn đưa cô ta đi đâu?

Ba tên lính khiêng vào sân một thúng khoai lang và hai thùng nước giếng đục ngầu. Bữa ăn sáng của mọi người là một củ khoai sùng và một chén nước giếng.

Vì quá đói tù nhân đành cố nuốt khoai hư. Riêng Thu Vân không ăn được, uống vài ngụm nước. Nước tanh mùi bùn làm nàng nôn trở ra, mặt mày tái mét ngồi sụm dưới đất. Hai cô sinh viên nhìn thấy nàng như thế liền chạy đến hỏi thăm. Nhưng vào lúc đó tên cán bộ ra lệnh cho mọi người sắp hàng hai và theo hắn ra phía sau vườn nhà Chùa.

Đoàn người đi qua dãy tịnh thất của các sư, giờ là chỗở của tên giữ ngục thì tới khoảng vườn rẫy của nhà Chùa. Rẫy khá rộng, trồng nhiều loại như bắp, khoai, đậu, mướp, cà, bí, rau cải v.v…Có điều hiện tại các thứ chỉ còn rễ cây và lá thúi quăng bừa bãi trên mặt đất.

Tên cán binh Cộng sản ra lệnh cho tù nhân:

- Chúng mầy dọn dẹp rẫy và xới đất trồng trọt trở lại. Công việc xong xuôi chúng mầy sẽ được trả tự do.

Tuy rằng số tù nhân khá đông, nhưng khoảng đất rẫy khá lớn, công việc xới đất và trồng trọt lại phải mất nhiều ngày.

Hàng hoá của cải tiền bạc bị tướt đoạt, giờ sức lao động bị chèn ép cưỡng bức! Mọi nguời đều biết thế, nhưng không ai dám phản đối ngoài sắc mặt âu sầu uất hận.

Thu Vân không quen việc đồng áng, lại thêm bịđói bị mất ngủ, nàng phải cố hết sinh lực để không phải ngã lăn ra đất. Vừa làm Thu Vân vừa khốn khổ nghĩ đến mấy tiếng “Tự do, Hạnh Phúc” của chế độ này, nước mắt ứa ra…

**

Trong khi Thu Vân bị cưỡng bách lao động ở Cần Thơ, thì ở Mỹ Tho cha nàng gặp đại nạn.

Sáng hôm ấy như thường lệ, ông Trần Văn ngồi nơi phòng khách nghe tin tức Đài phát thanh. Từ khi Thu Vân đi tìm Vân Trường rồi bặt tin luôn, ông Trần Văn lo lắng vô cùng. Ngày nào ông cũng ngồi một chỗ nghe ngóng tin tức trên truyền thanh và truyền hình.

Thế nhưng từ khi chính quyền Cộng sản chiếm miền Nam, tin tức dân sự và quân sự không hề nói tới.

Đài phát thanh và đài truyền hình chỉ dành cho việc tuyên truyền những thành tích của quân đội Cộng sản trong 30 năm đánh Tây đánh Mỹ và lệnh nhà nước ban hành cho dân.

Báo chí thời trước đều bịđóng cửa. Hiện có vài ba tờ báo mới của chính phủ Cộng sản, song cũng chỉ dùng cho việc tuyên truyền. Thành ra dân chúng mù tịt tin tức trong nước, không ai biết những gì xảy ra bên ngoài.

Hiện giờ chỉ còn một nguồn tin duy nhất là nghe ngóng lời đồn của dân chúng. Ông Trần Văn biết như thế nên dự tính sáng này sẽ ra bến xe đò để hỏi thăm tin tức ở Cần Thơ.

Ông đã uống xong tách trà, đứng lên tắt máy truyền thanh vừa bước đi, thình lình nghe tiếng chuông kêu inh ỏi.

Nghĩ là con gái trở về, ông hấp tấp mở cửa nhìn ra ngõ, thấy thấp thoáng hai cái đầu đàn ông. Ông ngạc nhiên vừa lo sợ, vội vàng chạy ra. Chừng thấy hai người đàn ông ấy không phải ai xa lạ, chính là người cai trường và một đứa học trò của ông. Ông mỉm cười hỏi:

- Có việc chi thế ông cai?

- Thưa ông Hiệu Trưởng. Tôi đến đây để mời ông đến trường.

- Học trò còn nghỉ học đến cuối tuần này. Có đứa nào đến trường phá rối hay sao?

- Thưa ông, có người của chính phủ mời ông.

Ông Trần Văn gật đầu:

- Thế à? Được, tôi đi ngay. Ông chờ tôi khóa cửa nhà nhé?

Ông quày quảđi vào nhà khóa cửa, rồi lẹ làng trở ra theo người cai trường đi đến trường. Lúc bấy giờ ông mới để ý thằng học trò không chào hỏi ông. Sắc mặt nó lộ vẻ mừng rỡ hí hửng, y như kẻđánh bài vừa được thắng cuộc. Nó tên Bi, học lớp 9.

Sở dĩ ông nhớ rành như vậy là vì nó là đứa học trò học dở lắm, lại luôn làm náo loạn ở trường vào giờ học, hổn láo với giáo sư và thường xúi giục học trò làm reo phản đối nhà trường điều nọ việc kia.

Hội đồng giáo sư có làm đề nghịđuổi nó đưa lên Hiệu Trưởng cùng với hai đứa học sinh khác ở lớp 7 và lớp 8. Nhưng ông Trần Văn có lòng nhân từ không đuổi bọn chúng, chỉ gọi cả ba đến văn phòng ông khuyên bảo chúng phải cố gắng học và nói : “nếu chúng không vâng lời lần sau tái phạm lỗi lầm sẽ giao trả cha mẹ chúng”.

Từđó tên Bi không dám chạm mặt ông, nhưng ông biết nó vẫn ngấm ngầm xúi giục học sinh các lớp náo loạn trong giờ học.

Bữa nay nó ngang nhiên đến nhà ông với sắc mặt ngạo nghễ, ông linh tính như sẽ có điều trầm trọng xảy ra cho mình. Trong lòng bất an, ông liếc nhìn người cai trường, thấy hắn ta luôn cúi gầm mặt y như hổ thẹn đã làm điều xấu.

Khoảng đường từ nhà đến trường không xa. Cả ba cùng im lặng, kẻđi trước, người đi sau.

Ông Trần Văn chợt nghĩ đến con gái và cháu ngoại. Không biết cả hai hiện ởđâu? Và ra sao?

Bỗng dưng ông có cảm tưởng chuyến đi này ông không trở về nhà nữa, ông sẽ không còn gặp lại con gái và cháu nữa! Chân ông bước tới mà hồn xác như tách rời ra.

* *

Lúc bấy giờ khoảng 8 giờ sáng. Nếu là ngày có học trò thì giờ này sân trường ồn ào lắm. Nhưng hôm nay còn bãi trường, các lớp học đều đóng kín cửa. Tuy nhiên cổng rào mở banh và chính giữa sân cỏ có khoảng 5,7 lính Cộng mặc y phục đen, võ trang, và còn có khoảng 10 thường dân ăn mặc như nông dân, gồm đàn ông và đàn bà, trẻ, già…đủ hạng tuổi. Họ đứng thành hàng, quay lưng ra đường.

Lúc đến gần ông Trần Văn giật mình biến sắc, vì thấy sau lưng nhóm nông dân có 5 giáo sư của nhà trường đang quỳ dưới đất, hai tay bị trói ngược sau lưng. Có giáo sư còn mặc quần áo ngủ, có lẽ bọn Cộng đến bắt ông ta lúc còn đang ngủ?

Trong lòng kinh động, ông Trần Văn chạy tới toan hỏi các giáo sư việc gì đã xảy ra? Nhưng ông chưa kịp mở miệng, đã bị hai tên lính chụp hai tay ông trói lại và đẩy ông quỳ xuống bên cạnh các cộng sự viên.

Trong số 5 giáo sư bị bắt, có hai ông và một bà dạy Pháp văn, hai ông dạy Anh văn. Năm người họ khi thấy ông Hiệu Trưởng cũng bị trói, ai nấy đều hoảng kinh. Bà giáo sư Quí dạy Pháp Văn, hỏi ông Trần Văn bằng giọng run run:

- Vì sao họ bắt chúng ta hỡ ông Hiệu Trường?

- Tôi thật không hiểu vì lý do gì!

Một ông giáo sư lên tiếng càu nhàu:

- Chúng ta làm nghề dạy học, nào có dính líu gì đến chính trị mà…

Ông ta nói chưa dứt câu đã bị một tên mang lon Trung úy trừng mắt lườm ông ta, quát:

- Tội nhân im mồm! Chúng bây không được mở miệng giữa toà án nhân dân, hiểu chưa?

Câu nói của hắn làm 5 giáo sư và cả ông Trần Văn đều kinh hãi. Từ lâu họ đọc sách báo nghe kể về Tòa án nhân dân của cộng sản Hà Nội đối với nhân dân miền Bắc khi trước rất dã man. Hôm nay họ là nạn nhân của phiên toà này! Thắc mắc và lo sợ, ông Trần Văn lên tiếng hỏi:

- Chúng tôi bị bắt về tội gì?

- Mầy muốn chết gấp lắm sao? Để rồi nhân dân sẽ kể rõ tội của chúng bây trước khi chết.

Đấy là câu nói của một tên mặc y phục màu cỏ úa, đầu đội nón cối, chân đi dép cao su, không võ trang. Không hiểu hắn thuộc loại cán bộ gì? Hắn nói giọng miền Bắc rất khó nghe.

Câu nói của hắn khiến bà giáo sư Quí sợ hãi, ngã lăn xuống đất, bất tỉnh.

Tên Trung Úy Cộng thấy thế liền ra lệnh cho một tên lính:

- Chúng bây lấy nước cứu con mụ này tỉnh dậy, để nó nghe nhân dân xử tội.

Nước không phải tìm đâu xa! Vì giữa sân trường có bồn nước. Một tên lính chạy tìm cái thùng múc nước.

Sau phút kinh hoàng, Ông Trần Văn đã lấy lại bình tĩnh, ông nhìn bọn người đứng lố nhố trước mắt… Ngoài bọn Cộng và số nông dân lạ mặt, còn có 4 gương mặt quen thuộc là ông cai trường và 3 đứa học trò tên Bi, tên Lanh, tên May. Sắc mặt của người cai trường vô cùng thảm não, gần như ông ta bị bắt buộc đứng đó.

Bọn Cộng khoảng 6, 7 tên, mặc quần áo đen, đi chân không, cườm tay trái có buộc một dây băng đỏ, vai mang súng, tuổi khoảng 12 đến 15. Tên Trung Úy tuổi khoảng 22-25 tuổi. Người quan trọng trong nhóm có lẽ là tên mặc quân phục màu cỏ úa, gốc miền Bắc, tuổi trên 40, mặt mày hung ác.

Xem thế, phiên tòa nhân dân gồm bầy con nít võ trang, mấy đứa học trò ngỗ nghịch, năm bảy người nông dân xa lạ và một tên cán bộđóng vai quan toà.

Bà Giáo sư Quí bị nước tạt vào mặt đã hồi tỉnh. Ông Trần Văn quay sang bà an ủi, vừa cũng muốn nhắn nhủ với các cộng sự viên:

- Một bọn người như vậy mà chính phủ Cộng sản dùng để xử tội chúng ta, thì tôi thiết tưởng dù chúng ta có chết ngày hôm nay cũng may hơn là sống dằng dai dưới sự cai trị của bọn người như thế.

Tên cán bộ quan tòa nghe ông nói chuyện rì rào với các giáo sư, hắn nổi giận vỗ tay ba cái, tuyên bố:

- Phiên tòa khai mạc, tất cả im lặng!

Tên Trung Úy moi trong túi áo hắn lấy ra một mãnh giấy, đọc lớn:

- Tội nhân Kha văn Huân, đứng lên.

Kha văn Huân là giáo sư lâu năm ở trường, tuổi ông nay đã trên 50, vẻ mặt phúc hậu.

Ông đứng lên nhìn bọn người trước mắt với vẻ khinh miệt hơn sợ hãi. Tên Trung Úy nói:

- Mầy hãy thú tội trước nhân dân.

Giáo sư Kha Văn Huân tình tĩnh đáp:

- Tôi chẳng có tội gì phải thú. Các ông muốn giết tôi thì giết.

- Đương nhiên là mầy sẽ chết, nhưng chính phủ cách mạng bao giờ cũng làm việc minh bạch, dân chủ. Tội của mầy sẽ được truy tố trước Tòa án nhân dân. Như thế nhân dân biết rằng chính phủ bao giờ cũng theo ý dân.

Rồi hắn quay nhìn nhóm người nói lớn:

- Tội nhân Kha văn Huân không nhìn nhận tội lỗi. Đồng bào lần lượt truy tố tội hắn cho mọi người biết.

Học sinh tên Bi bước ra ngoài trước, mặt mày hí hửng, chỉ tay vào mặt giáo sư Huân nói:

- Ông này dạy tiếng Tây ở trường. Học trò không muốn

học, ông bắt phạt đủđiều.

Tên Lanh học lớp 7, mới 13 tuổi, cũng chạy ra nói:

- Tôi không làm bài tiếng Tây, ông ta phạt tôi qùy gối.

Học trò tên May học lớp 8, đã 15 tuổi, nhảy ra khỏi chỗ đứng với vẻ khoái chí, điểm vào mặt giáo sư Huân:

- Chính ông này đã méc ông Hiệu trưởng việc tôi viết giấy bảo bạn bè bãi học giờ ông ta và bị ông ta phạt quỳ gối nửa ngày.

- Còn ai tố cáo người này nữa không?

Câu nói này tên Trung Úy cố ý hỏi người cai trường. Hắn nhìn chòng chọc vào ông ta. Ông ta buộc lòng phải bước ra, song không dám ngẩng mặt lên, đầu cúi xuống đất đáp nhỏ:

- Tôi nhìn nhận biết giáo sư Huân dạy tiếng Tây.

Tên cán bộ quan tòa bấy giờ lên tiếng:

- Bốn nhân chứng xác nhận tội nhân Kha văn Huân mang tội Việt Gian, tội đáng xử tử. Đồng bào đồng ý chứ?

Những nông dân ngu dốt, chẳng hiểu tiếng Tây là gì? Cũng chẳng biết tội Việt Gian là thế nào? Nhưng họ như cái máy, dơ hai tay lên hô to:

- Xử tử!

Thế là tên Trung Úy Cộng sản phất tay ra lệnh cho hai thằng lính con nít, tuổi 12 , 15 , kéo giáo sư Huân đi đến gốc sân cách đó vài thước, mỗi tên bắn một phát súng vào đầu ông ta. Nạn nhân ngã xuống, máu văng tung toé trên sân cỏ.

Tên Trung Úy mở giấy đọc tiếp:

- Tội nhân Đỗ Vệ, hãy đứng lên. Đổ Vệ là giáo sư Anh văn, tuổi dưới 30, người thanh tú,

trí thức.

Tên Trung Úy vẫn nói một câu như khi nãy:

- Mầy hãy thú tội trước nhân dân.

Giáo sư Đỗ Vệ lặng thinh. Thế là màn đấu tố tái diễn.

Tên Bi cũng nhảy ra trước, điểm vào mặt giáo sư Vệ nói:

- Ông này dạy tiếng Mỹ. Tôi bảo bạn bè tẩy chay giờ học ông ta, ông ta báo cáo với ông Hiệu trưởng và đề nghịđuổi tôi.

Hai tên Lanh và May cũng lần lượt tố cáo thầy của chúng. Kế đến người cai trường xác nhận có biết giáo sư Vệ

dạy tiếng Mỹ.

Tên cán bộ quan tòa tuyên bố:

- Tội nhân Đỗ Vệ mang tội Mỹ Ngụy, còn dạy học trò trở

thành Mỹ ngụy, đáng tội tử hình. Đồng bào đồng ý chứ?

Tất cả nông dân đồng loạt đo tay hô to:

- Xử tử!

Cũng hai thằng con nít 12, 13 tuổi cầm súng giết giáo sư

Đỗ Vệ!

Người thứ ba bị gọi tên là giáo sư Tăng văn Thông, dạy Anh văn, tuổi khoảng 35. Khi tên Trung Úy bảo ông thú tội, ông nói:

- Tôi không có tội, các ông bắt lầm tôi.

Tên Bi liền nhảy ra điểm vào mặt ông, xác nhận ông dạy tiếng Mỹở lớp 12. Giáo sư Tăng văn Thống lắc đầu, nói:

- Tao dạy tiếng Anh chớ không phải tiếng Mỹ. Mày không học lớp tao, làm sao mầy biết tao dạy tiếng gì?

Hai đưá học trò Lanh và May học lớp 7 và 8, cũng không là học trò của giáo sư Thống, chúng không biết ông dạy tiếng Anh hay tiếng Mỹ, nên không dám nhảy ra tố cáo.

Ông cai trường lại càng mù tịt, không biết tiếng Anh và tiếng Mỹ khác hay giống nhau, nên không dám hó hé.

Bọn Cộng sản càng ngu dốt hơn. Phiên tòa gần như bế

tắc! Tên quan tòa ngẫm nghĩ một lúc hỏi:

- Mầy nói mầy dạy tiếng Anh? Vậy tiếng Anh là tiếng gì?

- Là tiếng nói của người Anh.

- Người Anh ra sao? Nước họ có gần nước Mỹ không?

- Không! Nước Anh gần nước đàn anh vĩ đại Sô Viết của

Bác Hồ.

Tên quan tòa nghe nhắc đến Bác Hồ và đàn anh vĩ đại, liền cười tươi:

- Được! Nếu thế thì ông vô tội. Tòa xử trắng án. Đồng bào đồng ý chứ?

Đám nông dân chỉ là những người máy, đồng lượt dơ tay hô to:

- Vô tội!

Giáo sư Thống thoát chết trong trường hợp hết sức buồn cười. Lính Cộng mở dây trói cho ông ra về. Trước khi đi ông đưa mắt nhìn ông Trần Văn và những giáo sư còn lại, nước mắt ông rơi xuống.

Nhưng ông không dám chần chờ, đôi chân bước gấp ra đường, vì sợ bọn Cộng đổi ý. Ra khỏi tầm mắt bọn chúng ông mới bắt đầu chạy như người điên. Ông nhớ đến hai đồng nghiệp bị chết thê thảm lúc nãy, ông thét lên:

- Chính thể “dân chủ, tự do, hạnh phúc” của chúng nó là thếđó. Thiên đường của chúng nó trang hoàng bằng máu của người vô tội! Trời ơi! Thượng Đế ơi! Xin hãy cứu dân tộc con khỏi bọn hung tàn ngu dốt.

Ông vừa khóc vừa nói, chạy phăng phăng giữa lộ. May mà vào lúc này không có xe cộ trên đường!

Trong khi ấy giữa sân trường, phiên tòa nhân dân của Cộng sản tiếp tục…

Giáo sư Trịnh Cần dạy Pháp Văn bị gọi tên. Ông nghĩ thầm: “Bọn cộng sản chỉ là một lũ ngu dốt. Vậy ta phải lường

gạt chúng để khỏi bị chết oan”. Ông đứng lên nói giọng hết sức bình thản: -Mấy ông xử tội những giáo sư dạy tiếng Tây tiếng Mỹ. Nhưng tôi không dạy hai thứ tiếng ấy, sao các ông lại bắt tôi? Tên Bi nhảy ra ngoài, thét lên: -Ông này nói láo! Ông dạy tiếng Tây cho học sinh lớp 10 và 11. Giáo sư Cần cười lớn, nói với tên quan tòa:

- Thằng học trò này nó không học lớp tôi. Nó đâu biết tôi dạy tiếng gì mà tố caó? Ông làm quan tòa phải xử cho công bình.

Tên quan tòa Cộng sản nhếch miệng hỏi: -Vậy mày dạy tiếng gì? -Tôi dạy tiếng Genève. -Tiếng Genève là tiếng gì? -Là tiếng nói của người Thụy Sĩ. -Người Thụy Sĩ là người gì -Người Thụy Sĩ là người Âu. Tên nọ nhíu mày nghĩ ngợi, một lúc hỏi:

- Người Âu là người gì? -Là người da trắng ở Âu Châu. Giáo sư Cần nghe tên quan tòa hỏi lòng vòng ngu ngốc,

ông bực mình chửi đổng một tràng tiếng Pháp:

- Merde! Thằng này ngu hơn bò! Bọn bây ngu như vậy mà nắm quyền cai trị thì xã hội này sẽđi thụt lùi về thời thượng cổ!

Cũng May ông chửi bằng tiếng Pháp. Cả toà nhân dân của bọn chúng không ai hiểu ông nói gì, ngay cả ba đưá học trò ngỗ nghịch. Tên quan tòa nghe ông nói một tràng tiếng lạ

hoắc, hắn hỏi:

- Mầy nói tiếng Thụy Sĩ, phải không?

- Đúng vậy! Là tiếng Thụy Sĩ.

Bỗng nhớ ra điều gì, giáo sư Cần nói tiếp:

- Thụy Sĩ là nước lập ra Hồng Thập Tự. Chắc các ông

từng thấy dấu thập đỏ trên các hộp thuốc và xe cứu thương chứ?

Tên Trung úy Cộng nghe nói, la lên:

- Tôi biết! Tôi biết nước Hồng Thập Tự.

Tên quan toà mừng rỡ reo lên:

- Nước Hồng Thập Tự ai mà không biết? Mầy ngu quá, nói là nước Thụy Sĩ, làm sao tao biết mầy muốn nói nước nào? Được rồi ! Nếu mầy dạy tiếng nước Hồng Thập Tự thì không phạm tội.

Giáo sư Cần thừa dịp tên nọ cười nói vui vẻ, muốn cứu ông Hiệu trưởng và bà giáo sư Quí, nên nói:

- Bà này cũng như tôi, dạy tiếng Hồng Thập Tự. Vậy bà cũng vô tội. Còn ông HiệuTrưởng đâu có dạy tiếng gì ở trường ? Xin các ông tha ổng.

Tên quan tòa lắc đầu:

- Đâu thể được! Phiên tòa chưa chấm dứt.

Ông Trần Văn thấy bà giáo sư Quí ngất xỉu mấy lần nên cũng muốn dịp này cứu bà ta. Ông nói:

- Tôi xin xác nhận với các ông, bà giáo sư này dạy tiếng Hồng Thập Tự. Vậy các ông hãy tha cho bà, xử chi cho mất thì giờ ? Tôi làm Hiệu Trưởng, tôi chịu trách nhiệm với học trò, các ông cứ xử tôi.

Tên quan toà gằn giọng:

- Có đúng thật bà này dạy tiếng Hồng Thập Tự chứ?

- Bà ấy làm gì biết tiếng Tây mà dạy? Bà chỉ dạy tiếng Hồng Thập Tự thôi. Tôi xin bảo đảm điều này.

Tên quan tòa nghe nói liền ra lệnh hai tên lính cỡi trói cho bà Quí. Bà run rẩy té lên té xuống không bước đi được.

Giáo sư Cần đỡ ba ta, nhưng ông ta chưa muốn đi vì muốn tìm cách cứu ông Hiệu Trưởng của mình. Ông Trần Văn biết ý nên bảo :

- Ông giáo sư nên đưa bà Quí đi ngay đi. Đừng lo cho tôi.

Giáo sư Cần miễn cưỡng dìu bà Quí bước tới, thỉnh thoảng ông ngoái đầu nhìn ông Trần Văn. Ông thoát chết nhưng không cứu được chủ mình, ông buồn thiu, nước mắt ứa ra. Bên cạnh ông, bà Quí như người đã chết, thần sắc đờ đẫn. Dường như bà còn trong cơn khủng khiếp chưa biết mình thoát chết ?

Bây giờ chỉ còn lạị mỗi ông Trần Văn là tội nhân. Ông không biết bọn này sẽ xử ông về tội gì ? Ông không sợ chết vì nghĩ mình đã già, không chết ngày hôm nay thì vài năm sau cũng chết. Hơn nữa ông là người thấm nhuần triết lý Khổng Lão, xem cái chết như sự thay đổi cuộc đời. Ông chỉ tiếc một điều là trước phút chết ông không biết gì về tin tức của Thu Vân và Vân Trường. Phải chi con cháu ông bình yên ở nhà, ông sẵn sàng lìa bỏ cõi đời này không luyến tiếc.

Chứng kiến một phiên toà của một bọn man rợ ngu ngốc, ông hết sức đau lòng, không riêng cho hai giáo sưđã chết, mà nghĩ đến 50 triệu đồng bào hai miền Nam-Bắc phải sống dưới sự cai trị tham tàn của lũ người dốt nát. Rồi đây thế hệ ngày mai sẽ ra sao ?

Là một nhà giáo dục, ông rất quan tâm tới tương lai của giới trẻ. Bởi chúng là tiền đồ của dân tộc, là tương lai của quốc gia. Nếu nhà cầm quyền chỉ biết dạy giới trẻ lòng hung bạo cầm súng thì đất nước sẽđi vềđâu, trong khi thế giới tiến bộ vượt bực trên mọi lãnh vực ?

Đang khi ông Trần Văn âu sầu nghĩ đến số phận của học trò ngày mai, tên Trung Úy thét vào tai ông :

- Tội nhân Trần Văn ! Mầy thú tội đi chứ ?

Hắn chỉđáng vào tuổi con cháu ông, nói với ông bằng lời thật vô lễ. Nhưng ông vẫn hiền từđáp :

- Tội gì ? Tôi thật không rõ mình đã làm tội gì ? Cả đời tôi chỉ biết lấy lòng nhân từ đối đãi với mọi người, đem sự hiểu biết truyền dạy giới trẻ để chúng trở thành người hữu dụng trong xã hội, hầu quốc gia tiến bộ văn minh. Tôi…

Tên quan tòa lớn tiếng ngắt lời ông :

giavui
01-10-2015, 08:12 PM
- Chính vì thế ngươi mới mang trọng tội. Ngươi dạy cho bọn trẻ biết chữ, biết thế nào là văn hóa văn minh, là có tội. Ngươi dạy nó biết hiếu đạo với cha mẹ, thương yêu anh em, quí trọng hàng xóm v.v…cũng là trọng tội. Bởi vì Bác hồ có dạy rằng : « Con người không cần học, không cần biết gì về văn hoá văn minh, không cần biết thế nào là tự do và quyền lợi, không biết suy nghĩ, không có tình cảm, giống như súc vật vậy, thì sẽ không đau khổ mà sẽ sung sướng hạnh phúc. » Tao hỏi mày : « Có khi nào mầy thấy con trâu kéo cày nặng nhọc mà nghe nó than khổ không ? Bác Hồ nói : « Chính vì trâu ngựa, hay nói chung loài vật, nhờ chúng không có đầu óc, không biết suy nghĩ, không có tình cảm, nên chúng mới sung sướng với cái kiếp của chúng ! ».

Câu nói của tên Cộng sản khiến ông Trần Văn hết sức kinh hãi. Kinh hãi không phải vì sợ hắn buộc tội mình, mà vì không tưởng tượng nổi Hồ Chí Minh muốn biến đổi dân chúng thành loài súc vật để dễ dàng cai trị sai khiến.

Đến bây giờ ông mới hiểu lý do vì sao các quốc gia Cộng sản tự tiến bộ chậm hơn các quốc gia tự do. Chỉ vì giới lãnh đạo dùng chính sách ngu dân để dễ dàng cai trị.

Và Hồ Chí Minh còn muốn đi xa hơn các quốc gia Cộng sản đàn anh, là biến đổi nhân dân Việt Nam thành loài súc vật.

Tên quan toà nhìn thấy sắc mặt ông sững sờ kinh hãi, hắn khoai khoái nói thêm :

- Mầy dạy trẻ con thương yêu cha mẹ, anh em , làng xóm …là mày mang tội rất nặng. Bởi mày tạo chúng tâm hồn ủy mị, khiến chúng trở thành con người yếu hèn không cầm được vũ khí giết địch.

Ông Trần Văn hỏi :

- Nếu tôi dạy trẻ con thương yêu gia đình, thương yêu làng nước là có tội, vậy sao ông Hồ dạy dân yêu ổng ?

- Vì yêu Bác Hồ thì bỏ được tình cảm gia đình, có lòng can đảm. Nói ví như chú nhỏ cán binh này.

Hắn chỉ tên lính nhóc, nói :

- Chú nhỏ này chỉ mới 12 tuổi mà đã gan dạ giết địch. Thử hỏi trong thế giới tự do, có đứa trẻ nào nào ở vào tuổi đó dám cầm súng giết người không ?

Thằng con nít nghe khen, mặt mày hí hửng, dí mủi súng vào người ông Trần Văn.

Tên quan tòa khoát tay nói với nó :

- Khoan đã ! Chờ tao hỏi tội nó xong sẽ cho mầy xử nó.

Quay sang ông Trần Văn, hắn hỏi :

- Bây giờ mầy chịu nhận tất cả tội lỗi của mầy rồi chứ ?

- Ông muốn giết tôi, hãy giết ngay đi ! Tôi thích chết hơn là sống trong xã hội mà con người trở thành súc vật và trẻ con chỉ học giết người.

Tên quan toà cười thích thú, hắn nói với mọi người :

- Tội nhân muốn chết mà không chịu nhận tội. Vậy nhân chứng hãy ra tố cáo tội hắn.

Tên học trò Bi lúc nào cũng nhảy ra trước, nó chỉ vào mặt ông Trần Văn :

- Ông này dạy tôi phải vâng lời và thương yêu ba má tôi, cấm tôi không được bỏ học giờ tiếng Tây tiếng Mỹ.

Hai thằng học trò tên Lành và tên May cũng nhảy ra tố cáo ông Hiệu Trưởng chúng một câu tương tự như vậy.

Ông Trần Văn nhìn chúng với ánh mắt buồn thương hại hơn là oán giận. Ông chợt nghĩ đến cha mẹ chúng mà ông có dịp tiếp xúc. Ba gia đình ấy đều rất đau lòng vì đứa con ngổ nghịch. Giờđây, dưới chế độ này dạy trẻ con không thương yêu cha mẹ, thì sẽ có ngày chúng tố cáo cha mẹ nó như hôm nay đã tố cáo thầy và Hiệu Trưởng của chúng vậy. Nghĩ đến đấy tim ông đau nhói.

Tên quan tòa chợt chỉ người cai trường, hỏi :

- Còn ông ? Ông mau ra truy tố tội hắn đi chứ ? Ngày nay ông được chính phủ cách mạng đề cử chức Hiệu Trưởng thay cho hắn, thì ông phải tố cáo hắn để lập công chứ ?

Người cai trường cúi mặt lặng thinh.

Ông Trần Văn đưa mắt nhìn người cai trường, thấy ông ta gầm mặt hổ thẹn, ông rất tội nghiệp. Ông ta làm cai trường cũng lâu năm rồi, từ khi ông Lê Thân cha của Thy chết, tính đến nay cũng trên hai mươi năm. Ông Trần Văn thương yêu giúp đỡ gia đình ông, cũng như giúp gia đình bà Lê Thân. Cho nên Cộng sản bảo ông ra tố cáo ông chủ tốt của mình ông rất khổ sở và xấu hổ, tuy rằng được chính phủ mới đề cử chức Hiệu Trưởng. Ông được chức nhưng không vui vì biết mình ăn học thấp kém không đủ khả năng lãnh chức vụấy. Hơn nữa ông Trần Văn đối với gia đình ông quá tốt, nên ông không muốn ông chủ mình bị hại. Ông bước ra, nước mắt rưng rưng, nói với tên quan tòa :

- Tôi không muốn làm Hiệu Trưởng. Ông Trần Văn là người tốt được mọi người thương yêu.

Tên quan tòa nghe ông cai trường đổi ý không tố cáo ông Trần Văn, nên vội vàng nói :

- Ba nhân chúng đủ buộc tội ông Trần Văn. Đồng bào đồng ý xử tội hắn chứ ?

Đám nông dân đồng loạt dơ tay :

- Xử tử !

Hai thằng con nít được lệnh kéo ông Trần Văn tới chỗ xử hai ông giáo sư lúc nãy, mỗi đứa bắn vào đầu ông một phát.

Ông Trần Văn chết ! Nhưng trước phút chót ông có được chút an ủi là người cai trường không phản bội ông. Gươngmặt ông trước phút chết thật bình thản, vì ông biết trước mình sẽ bị chúng giết. Vả chăng, ông không muốn sống trong chế độ này, nên càng muốn chết nhanh để khỏi phải thấy những việc dã man rùng rợn của bọn côn đồ.

Lúc bấy giờđã 10 giờ sáng. Nắng chiếu rực xuống sân cỏ nhuộm máu. Bọn Cộng hoan hỉ kéo nhau lên camion, chỡ theo nhóm nông dân rời trường học.

Phiên tòa ấy là phiên tòa lưu động. Chúng đến từng vùng, xử tội tại chỗ những người nổi tiếng của chế độ cũ. Đây của là dịp để bọn bất lương hãm hại người lành.

Bọn ấy đi rồi chỉ còn lại người cai trường với ba xác chết. Ông ta chạy tới ôm Trần Văn trên tay, nước mắt đầm đìa. Ông lảm nhảm nói mấy lời tạ lỗi, rồi mang xác ông Trần Văn và hai vị giáo sư đặt nơi hành lang của trường. Sau đó ông chạy đi báo tin cho gia đình các nạn nhân biết để tới trường mang xác đem chôn. Riêng ông Trần Văn không có ai ở nhà nên ông cai trường tìm bà Lê Thân.

Bà Lê Thân khi nhận được hung tin bà khóc ngất, nhưng bà là người rất giỏi lo liệu. Trong ngày đó bà đưa xác ông Trần Văn về nhà lo việc tẩm liệm và chôn cất ngay trong vườn sau nhà ông Trần Văn.

Hôm Thu Vân đi Cần Thơ rồi bặt tin luôn, ông Trần Văn có báo cho bà Lê Thân biết. Cho nên bà rất nóng lòng về tin tức của Thu Vân, Vân Trường và Lê Thanh.

Bất ngờ sáng này có người lính của Lê Thanh trốn từ Cần Thơ qua Mỹ Tho ghé nhà cho bà biết tình hình bộ Tư Lệnh ở Cần Thơ vào giờ chót. Nhờđó bà Lê Thân biết được con mình đã tự tử chết. Người lính ấy là người lính gác cổng, nên quyết chắc đã nhìn thấy Vân Trường với hai cận vệ của Lê Thanh rời Bộ Tư Lệnh.

Bà Lê Thân nghe tin con trai chết, bà khốn khổ lắm. Song bà nghĩ, đó cũng là giải pháp duy nhất cho Thanh, hơn là đầu hàng kẻ thù để vào tù. Thanh chết, bà tưởng như mình không còn người thân nữa nên cũng chết theo. Bà quên bẵng bà còn có đứa con đầu là Lê Thy.

Hôm ấy là ba ngày sau khi chôn cất ông Trần Văn, bà Lê Thân nghe lệnh của chính phủ Cộng sản ban hành trên Đài phát thanh là tất cả sách vở báo chí phát hành trong ba mươi năm tại miền Nam phải đốt bỏ. Kẻ nào trái lệnh cất giữ sẽ bị vào tù.

Tiệm buôn của bà Lê Thân từ mười năm qua khá đồ sộ. Một bên bán sách báo tiểu thuyết và dụng cụ học trò. Một bên bán bánh kẹo và vài dụng cụ vặt trong nhà.

Phần sách báo chiếm 2/3 cửa tiệm, vì trong ba mươi năm, dưới chế độ tự do văn hoá miền Nam phát triển mạnh. Sách văn chương, sách tài liệu khoa học v.v… đầy dẫy. Thế mà giờ đây dân chúng phải thi hành lệnh của nhà nước đốt bỏ tất cả trong một ngày.

Bà Lê Thân cùng với hai cô gái nhân viên bán hàng phải tuôn các sách từ kệ xuống và mang ra trước sân để đốt. Sách quá nhiều, chất cao như núi. Cả ba vừa làm vừa khóc, mồ hôi hòa chung với nước mắt !

Họ là những người quí sách. Quí không phải vì giá tiền quyển sách, mà quí công trình người viết, không riêng cho thế hệ này đọc, mà còn để cho thế hệ tương lai cả kho tàng quí báu văn học.

Ngày xưa, vào khoảng 300 năm trước Tây Lịch, Vua Tần Thủy Hoàng bên Trung Hoa cũng vì sợ sự chống đối của giới trí thức trước sự cai trị bạo tàn của mình đã chôn sống học trò và đốt các sách báo trong nước. Khiến cho thế hệ sau thiệt thòi rất nhiều vì không học hỏi được những tinh hoa của thời trước.

Bởi vì hủy diệt văn hoá tức là hủy diệt lịch sử và nền văn minh của một dân tộc.

Cộng sản Hà Nội đối với chính sách cai trị hung bạo dã man, rất sợ dân chúng đọc biết những gì trên sách báo, nên chúng phải bắt chước hành động của Tần Thủy Hoàng thuở xưa.

Lúc bấy giờ không riêng gì ở cửa tiệm của bà Lê Thân, mà tư nhân cũng ôm sách trong nhà ra sân đốt bỏ. Khói lửa ngút trời, tro bụi bay nghịt cả thành phố…

Thật là một quang cảnh chưa từng thấy trên thế giới hiện hữu !

Đang khi bà Lê Thân và hai cô gái đứng ủ rũ nơi bệ cửa, nhìn ngọn lữa thiêu dần mòn kho tàng văn hoá…Bỗng từ xa có một toán Cộng sản võ trang đi tới.

Bà Lê Thân ngỡ chúng muốn đến nơi để kiểm soát việc đốt sách nên bà và hai cô gái vội đứng ra làm lối cho họ vào cửa tiệm khám xét.

Thế nhưng tên sĩ quan cấp bậc Đại Úy hỏi bà :

- Mày là chủ nhân tiệm này ?

Hắn nói giọng miền Bắc thật khó nghe. Bà Lê Thân nghe

không rõ câu hỏi của hắn nên hỏi lại :

- Ông hỏi điều chi ?

- Tao hỏi ai là chủ tiệm này ?

- Chính tôi.

- Tên họ mày là gì ?

- Tôi là bà Lê Thân.

- Mày là mẹ thằng Lê Thanh phải không ?

Câu hỏi của hắn khiến bà Lê Thân tái mặt. Nhưng bà

không chối, bà cúi mặt đáp nhỏ : -Phải !

Tức thì tên nọ ngoái cổ ra đường ngoắc một tên Cộng khác đứng bên kia đường, gọi lớn :

- Đồng chí Lê Thy ! Hãy tới đây xác nhận con mụ này có phải là mẹ của thằng Lê Thanh không ?

Câu nói của hắn không khác gì tiếng sét đánh ngang tai bà Lê Thân. Đầu óc bà choáng váng khi nhìn thấy một tên Cộng gầm mặt bước đi. Hắn đích thị là đứa nghịch tử của bà ! Hắn không dám nhìn bà. Hắn đưa mắt nhìn bạn đồng chí của hắn gật đầu rồi lầm lũi đi tới.

Tên kia liền phất tay ra lệnh bọn lính:

- Bắt con mụ này.

Mấy tên lính liền áp lại chụp hai tay bà Lê Thân. Bà

vùng vẫy chống đối, nhưng rốt cuộc vẫn bị trói lại. Bà giận dữ la lớn :

- Tôi chỉ là dân thường, các ông lấy cớ gì bắt tôi ?

- Mầy có rất nhiều tội.

- Tội gì ?

- Tội đẻ ra thằng con chống lại quân đội của Bác Hồ. Tội hành nghề thương mại làm lũng đoạn kinh tế nhà nước.

Bà Lê Thân vẫn không chịu nhịn. Bà chỉ Lê Thy hỏi lớn:

- Vậy tôi đẻ thằng con đi theo ông Hồ, tôi có tội không ? Còn chính phủ các ông mới cai trị một tuần , tôi làm gì lũng đoạn kinh tế…

Tên nọ không để bà nói dứt câu, hất hàm cho bọn lính kéo bà bỏ lên xe jeep đậu bên kia đường. Chiếc xe ấy là của Lê Thanh lúc trước.

Bị kéo lê lết, bà Lê Thân ngoái cổ nhìn Thy, gọi thảm thiết :

- Thy ! Con nỡ để bọn này bắt mẹ hỡ Thy ?

Thy không dám nhìn mẹ, quay mặt hưóng khác. Thấy thái độ của con, bà Lê Thân vừa tức giận vừa đau thương, bà bất tỉnh.

Bọn lính khiêng bà quăng lên xe. Hai cô gái bán hàng vốn là hai chị em ruột, thấy chủ bị bắt hai cô run rẩy sợ hãi ngồi sụm dưới đất. Tên Đại Úy Cộng sản vẫn không buông tha, hắn ra lệnh bọn lính của hắn :

- Bắt hai con nhỏ này về tội đồng lỏa hành nghề thương mại.

Hai cô gái khóc lóc xin tha. Nhưng nước mắt hai cô không thể làm yếu lòng kẻ gian ác không tim. Kết quả hai cô cũng bị trói và quăng lên xe với chủ. Xe do một tên hạ sĩ chỉ huy, một tên lính làm tài xế lái xe, một tên ghìm súng ngồi bên cạnh tù nhân.

Từ khi Cộng sản nắm chính quyền, có hai con đường mà người dân miền Nam phải đi. Thứ nhất là con đường về cõi chết. Thứ hai là đường vào nhà tù.Và chuyến xe ấy đã đưa bà Lê Thân và hai cô gái phụ việc bán hàng đi trên con đường thứ hai.

giavui
01-10-2015, 08:13 PM
CHƯƠNG MƯỜI BA

THIÊN ĐƯỜNG CỦA THY

Chờ xe chở mẹđi khuất nơi đó Thy mới chạy tới tủ tiền khóa cẩn thận và đi một vòng trong tiệm kiểm soát.

Phía bán sách báo - vì sáng này bà Lê Thân gấp tuôn các sách báo trên kệ để mang ra sân đốt, mà việc làm chưa xong nên dưới đất còn bừa bãi sách báo.

Thy là người có học, thấy sách quí phải đốt có vẻ tiếc rẻ, cúi xuống nhặt lên để lại tử tế lên kệ.

Trong khi ấy đồng chí của Thy đang sờ mó các thứở hàng bánh kẹo và vật dụng trong nhà. Những thứ này đối với hắn đều mới lạ, ngay cả viên kẹo Tây ! Hắn sung sướng nghĩ rằng, tất cả những thứ trong nhà này đều thuộc về hắn.

Hắn không ai khác hơn là Đại Úy Vẹm, người cùng với Thy đến Bộ Tư Lệnh của Thanh bữa trước.

Hôm ấy được người nông dân cho uống whisky, cả hai say như chết. Ngày hôm sau tỉnh dậy thấy mất xác chết của tướng Lê Thanh và Vân Trường, cả hai mới biết bịđịch dụ dỗ.

Vụ này thấu đến tai thượng cấp, Thy bị giáng chức từ Đại Úy xuống chức Trung Úy, còn tên Vẹm chỉ bị khiển trách chớ không bị xuống chức.

Sở dĩ Thy bị phạt nặng hơn Vẹm vì khi chính quyền Saigon đầu hàng, thượng cấp của Thy ra lệnh Thy đi bắt Thanh. Nhưng Thy không bắt được Thanh, báo cáo là Thanh đã tự tử, nhưng lại không có xác Thanh để chứng minh. Thượng cấp Thy nghi ngờ Thy đã giải thoát em ruột của mình.

Đương nhiên tên Vẹm biết Thanh thật sựđã chết, nhưng trước mặt thượng cấp hắn nói : Hôm ấy ở bộ Tư Lệnh có xác chết, nhưng của một tên lính. Hắn cố ý nói như vậy để cấp trên buộc Thy tội phản bội. Đương nhiên hắn giấu nhẹm bức thư của Thanh, mặc dù trước đó hắn có ý định dùng lá thư để uy hiếp Thy.

Vẹm thành công trong việc hãm hại đồng chí bạn ! Thy bị giáng chức, lại còn là thuộc cấp của hắn nữa. Vẹm muốn lập thêm công trạng nên xin cấp trên đưa quân qua Mỹ Tho bắt bà Lê Thân, mặc dù đội binh của hắn chỉ có nhiệm vụ trấn giữ bộ Tư lệnh ở Cần Thơ.

Thy bị bắt buộc phải đưa Vẹm đi bắt mẹ, trong lòng không vui. Nhưng hắn nghĩ, mẹ hắn già chắc không bịở tù lâu. Tạm thời hắn làm chủ ngôi nhà và tiệm buôn. Hắn sẽ xin cấp trên đổi về Mỹ Tho xa lánh tên Vẹm.

Từ tiệm buôn có cửa ăn thông qua nhà ở. Thy quan sát một vòng…thấy mẹ ngày nay sống giàu có, với đầy đủ tiện nghi. Hắn chợt nghĩ mình 19 năm sống đói khát trong rừng cũng vì trước kia gia đình mẹ hắn nghèo, hắn mới chạy theo thiên đường hứa hẹn của Bác Hồ. Chớ nếu biết mẹ hắn có cuộc đời giàu có như thế này, hắn đã không bỏ nhà ra đi.

Bởi vì hiện tại Thy thấy rõ thiên đường của Bác Hồ không giống như sự tưởng tượng của hắn.

Bỗng dưng Thy thở dài một cách chán chường, khi nhìn lại bộ quân phục cũ kỹ của mình đang mặc. Thy muốn lột bỏ tất cả.

Mười chín năm hy sinh cuộc đời giúp Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Hànội thôn tính miền Nam. Ngày nay mục đích của họ đạt thành, Thy thấy rõ mình bị bỏ rơi. Không khác gì thời xưa người thợ săn dùng cây cung giết thú, khi giết xong rồi vứt bỏ cung nơi xó nhà đểăn uống no say.

Bây giờ Thy mới thấm thía thân phận mình bị người xử dụng như một món đồ. Ngày nay họ không cần dùng, họ quăng một chỗ, ngày kia đồ vật cũ kỹ sẽ bị thiêu hủy ! Thy rùng mình sợ hãi khi nghĩ đến một ngày mình sẽ bị giết như như chó săn về già vì không gíúp được gì thêm cho chủ.

Càng nghĩ Thy càng chua xót, vẻ mặt u sầu buồn bã. Thình lình có tiếng gọi lớn của Vẹm :

- Đồng chí Lê Thy ! Hãy vào đây ! Trong phòng này có chứa chất nổ! Gấp vào đây!

Thy nghe tiếng Vẹm từ nhà bếp và nghe hắn nói có chất nổ nên hốt hoảng chạy vào bếp. Vừa thấy Thy, Vẹm chửi lớn:

- Đ.M. Con mụấy đặt chất nổ trong này để giết chúng ông chăng? May mà ông thông minh, khám phá ra mưu mô của mụ. Chắc là do thằng tướng Thanh bày kế cho mụ.

Thy nghe Vẹm chửi bới mẹ mình, nhưng đảo mắt một vòng nhà bếp, vẫn chẳng thấy nơi nào đặt chất nổ? Còn tên Vẹm thì đứng núp đàng xa, tay chỉ về phía tủ lạnh.

Thy ngơ ngác hỏi:

- Chất nổ đặt nơi đâu?

- Ởđó! Đồng chí không nghe tiếng kêu rè rè từ cái tủ trắng kỳ lạ kia sao?

Bấy giờ Thy mới vỡ lẽ ra là tên này không biết đó là tủ lạnh. Tiếng điện chạy tự động lúc chạy lúc tắt, hắn tưởng là máy đặt chất nổ.

Sự thật miền Bắc, có lẽ ngoài Hồ Chí Minh có xài tủ lạnh. Nhân dân miền Bắc sống nghèo nàn với những dụng cụ thô sơ như thời thượng cổ. Ngay cả đồng hồ, máy ảnh họ cũng chưa từng thấy. Cho đến đổi người lính cộng sản cũng chưa từng thấy ngọn đèn điện.

Gia đình Thy lúc xưa tuy nghèo, trong nhà thiếu thốn mọi tiện nghi, nhưng các hiệu buôn bày la liệt các máy móc tân kỳ. Trẻ con miền Nam dù cha mẹ không có tiền mua sắm các thứ , chúng cũng biết rành. Huống chi Thy đã từng sống trong biệt thự của ông Trần Văn với tất cả tiện nghi?

Bỗng dưng Thy cảm thấy khinh rẻ những cán bộ miền Bắc, lúc nào cũng huênh hoang tự đại, phô trương kiêu ngạo…mà sự thật chỉ là một lũ man rợ, ngu si, bần cùn, không riêng gì tên Vẹm, mà ngay các cao cấp Đảng.

Bởi thế mà từ một tuần nay, từ khi chiếm được miền Nam, họ chiếm nhà giựt của, lấy cớ là kẻ này có tội, kẻ kia có tội, tài sản bị tịch thu.

Và vì cán bộ hạng cao muốn chiếm những biệt thự đồ sộ, nên cho phép cấp dưới trưng dụng nhà của các tù nhân. Cán bộ cấp trung chiếm nhà trung trung, cấp nhỏ chiếm nhà nhỏ nhỏ v.v…

Dĩ nhiên Đảng viên nào cũng muốn có tài sản nhà cửa ở miền Nam nên tìm cách bắt bớ dân chúng nhiều thêm. Nếu không có chứng cớ để bắt giam thì bọn họ đến nhà rình rập, hâm dọa…khiến dân chúng hoảng sợ bỏ nhà trốn đi. Thế là Đảng viên có cớ chiếm nhà bỏ trống.

Thật không khác gì một đảng cướp chết đói ba mươi năm, bây giờ nhào ra chiếm cứ nhà cửa làng xóm của đồng bào!

Mười chín năm qua Thy mù quáng nghe lời dụ dỗ của Hồ Chí Minh, nhưng từ một tuần nay mắt Thy bắt đầu mở. Thy không còn là người mù nữa!

Và bây giờ nhân vật thần thánh Hồ Chí Minh trong tâm trí Thy đã trở thành một lão già quỷ quyệt, đầy tham vọng. Thần thánh đã trở thành kẻ xấu xa, thì đối với bọn cầm đầu Cộng sản hiện tại Thy mường tượng như một loài quỷđói.

Mà nơi nào quỷ ngự trị thì nơi đó là địa ngục, chớ nào phải là thiên đường?

Mười chín năm hy sinh cuộc đời vì muốn tạo dựng thiên đường cho quê hương, giờ Thy mới thấy rõ chính mình đã góp sức cho loài quỷ đỏ xây dựng thành trì địa ngục nơi đây.

Giờ phút này Thy mới thấy tội lỗi của mình trong mười chín năm theo họ làm chiến tranh, khủng bố giết hại dân lành. Mười chín năm bỏ người vợ trẻ với con thơ, không màng đến bổn phận làm chồng làm cha! Mười chín năm không thăm viếng chăm sóc mẹ già!

Và cuối cùng cái tội bắt mẹ, giết con, hành hạ thân xác em ruột…khiến Thy toát mồ hôi, đầu óc nhức nhối vì xấu hổ, con tim ray rức đau đớn vì ân hận…

Thy gục đầu nơi thành tủ lạnh, nước mắt ứa ra.Vẹm lại lên mặt đàn anh:

- Đồng chí sao mãi đứng đó? Tôi đã báo đồng chí biết có chất nổ bên trong. Hay là đồng chí muốn chết để chuộc tội cho con mụ già ấy?

Thy không buồn nhìn Vẹm, cũng không thèm nói tiếng nào, đưa tay mở tủ lạnh. Vẹm kinh hoàng bỏ chạy.

Thy nhìn thấy bánh trái, rau cải, thịt cá…đầy ấp bên trong. Những thứấy mười chín năm qua Thy không được ăn nên thèm khát lắm. Nhưng trong lúc này lòng dạ âu sầu khốn khổ Thy không còn hứng thú để ăn, thuận tay lấy một hộp coca cola rồi đóng tủ lại, đứng tựa lưng nơi đó uống ừng ực, cùng một lúc với nước mắt chảy ra…

Vẹm không nghe tiếng nổ chạy trở vào, thấy Thy đang uống coca, hắn không biết là thứ gì? Hắn nghĩ là rượu. Mà các thứ trong nhà này, hắn nghĩ là đã thuộc về hắn, nên hất hàm hỏi Thy:

- Đồng chí lấy thứđó ởđâu?

Thy không đáp, mở tủ lạnh lấy ra một hộp trao cho Vẹm. Hắn cầm trên tay nghe mát rượi, cơn khát dâng lên cuồn cuộn, nhưng không biết làm sao mở?

Thy cố ý để hắn lay hoay với hộp coca một lúc mới mở dùm hắn. Vẹm hổ thẹn giả vờ chửi một câu cho đỡ mắc cở:

- Bọn Ngụy ngu như bò! không biết làm cái nấp hộp để mở ra.

Thy cười khỉnh:

- Món này là coca của Mỹ đấy.

Nghe nói là món Mỹ, Vẹm nhớ bữa trước uống cái thứ gọi là “quít quít chi” (whisky) đó của Mỹ say đến ngày hôm sau mới tỉnh, suýt mất chức. Lần này hắn sợ không dám uống ngay, hớp một ngụm nhỏ, nghe ngon ngọt mới dám uống.

Sau khi nốc cạn hộp coca, Vẹm nói:

- Những gì trong nhà này đều thuộc về tôi. Đồng chí muốn lấy thứ chi phải hỏi tôi trước.

Thy không tưởng tượng nổi Vẹm muốn chiếm giựt tài sản của mẹ mình, bừng mặt giận:

- Đồng chí đừng quên nhà cửa tài sản trong nhà này là của mẹ tôi, tức là của tôi. Đồng chí không được đụng tới.

Vẹm cười nham hiểm:

- Nhà của Ngụy thì anh hùng của Bác được quyền chiếm lấy. Tôi đã có công bắt con mụ già ấy, thì những gì của mụ là của tôi.

Đã đến lúc Thy không nhịn được nữa, quát lên:

- Mầy đừng tưởng mầy có quyền lấn áp tao! Tao sẻ trình lên thượng cấp vụ này. Tài sản này là của mẹ tao. Kẻ nào dám…

- Mầy dám chống lại ông chăng?

Vẹm ngắt lời Thy bằng giọng kiêu ngạo, cùng lúc hắn rút súng ra…

Thy nhào tới chụp súng trên tay hắn. Cả hai vật lộn dưới nền nhà. Súng nổ…

Bọn lính bên ngoài nghe tiếng nổ liền chạy vào, thấy hai thượng cấp của chúng nằm dưới nền nhà, người nọđè lên mình người kia, máu chảy lênh láng.

Chúng còn đang ngơ ngác không hiểu lý do gì cả hai bắn giết nhau? Chợt người nằm dưới cựa quậy đứng lên, lảm nhảm nói:

- Tao đã nói, nhà này là của mẹ tao. Kẻ nào muốn chiếm giựt, kẻđó phải chết.

**

Thu Vân được ra tù sau ba tuần bị cưỡng bách lao động. Sáng hôm ấy tù nhân được cấp giấy phép trở về nhà và một chiếc xe camion đưa tù nhân trả lại bến xe đò Cần Thơ.

Được rả tự do, những người nông dân mua bán phần đông là dân tỉnh này nên họ về nhà không gặp khó khăn. Riêng Thu Vân phải về Mỹ Tho, mặc dù nàng có giấy phép đi đường, nhưng tiền bạc đều bị lính Cộng lấy hôm bị bắt, nên hiện nàng không còn tiền để mua vé xe.

Hôm ấy nhờ đồng hồđeo tay khuất bên trong áo bọn Cộng không thấy, nhưng hai hôm sau nàng phải đưa hối lộ cho tên Hạ Sĩ coi nhà tù để hắn dễ dãi trong lúc làm việc. Nhờ nhận được hối lộ nên tên nọ mới giao cho nàng việc nhẹ nhàng một chút và đối xử không tàn bạo. Có như thế Thu Vân mới chịu đựng nổi ba tuần làm việc lao động.

Bấy giờ trong người nàng không còn thứ gì để bán ngoài chiếc nhẫn cưới. Nàng chợt nhớ vợ chồng Châu, nên nhanh chân đi về khách sạn, dự định mượn bạn ít tiền làm lộ phí đi đường.

Lúc bấy giờ khoảng giờ sáng. Khách sạn và tiệm buôn đều còn đóng cửa. Thu Vân đứng chờ trước ngõ khách sạn thật lâu, trời bắt đầu nắng gay gắt mà khách sạn và tiệm buôn vẫn im lìm đóng kín.

Thu Vân lấy làm ngạc nhiên, dán mặt vào cửa gọi nhiều lần vẫn không nghe động tĩnh. Nàng liền băng qua đường hỏi thăm bà chủ quán cà phê đối diện. Bà ta nói:

- Khách sạn ấy không còn đón khách nữa. Chính phủđã “quốc hữu hoá” tài sản ông bà ấy. Dường như ông bà đã về Mỹ Tho sống nhờ nơi nhà cha mẹ.

Thu Vân ngạc nhiên hỏi:

- Vì sao khách sạn bị nhà nước tịch thu?

Câu hỏi của Thu Vân khiến người đàn bà nhìn nàng chăm chăm.

Toàn quốc ai cũng biết : “Tất cả cơ sở thương mại, kỹ nghệ …đều bị chính phủ tịch thu. Chỉ còn những quán ăn nhỏ những tiệm buôn nhỏ buôn bán vặt thì vẫn để cho tư nhân cai quản”.

Mấy tuần nay biết bao nhiêu người giàu có trở thành tay không. Nhà nước tịch thu các cơ sở kinh doanh, nhà cửa, tiền bạc, ngay cả áo quần tư nhân cũng bịđoạt. Không biết phải sinh sống ra sao, có nhiều gia đình tự tử chết cả nhà. Có người chống đối bị nhốt vào tù. Thời buổi này chỉ những người sống trong túp lều lá mới không bị sợ bị vào tù hay mất mát. Kỳ dư ai có chút tiền của đều phập phòng không yên.

Đó là thời sự dân chúng toàn quốc đang thì thầm với nhau. Bà chủ quán không hiểu sao Thu Vân chẳng biết điều đó?

Bà nhìn nàng quan sát…thấy dung nhan nàng tiều tụy, sắc mặt xanh xao, thân hình hơi gầy. Dù vậy nàng thuộc vào hàng đàn bà đẹp quí phái. Chiếc áo nàng đang mặc tuy dính đầy bùn đất, dơ bẩn và bay mùi hôi, nhưng thuộc hạng tơ lụa đắt tiền. Nhất là đường may kiểu áo thì không phải là kiểu của người nhà quê hay của nữ cán bộ Cộng sản từ rừng chui ra.

Xem nàng rõ ràng là người đàn bà tỉnh thành, nhưng không hiểu vì lý do gì giống như kẻ lưu lạc tha phương? Trong lòng thắc mắc, người chủ quán hỏi:

- Xin lỗi bà, bà ởđâu mà không hay biết gì tình hình trong nước lúc này? Nhà nước đã tịch thu tất cả tài sản của dân. Bây giờ không ai có quyền làm chủ thứ gì, ngay cả sinh mạng của mình cũng thuộc vềĐảng của nhà nước.

Câu chót bà ta nói với giọng tức giận. Thu Vân cười nhẹ, giọng chua chát:

- Tôi không ngạc nhiên những điều bà kể. Sở dĩ tôi không hay biết mọi sự vì tôi mới vừa ra tù.

Câu nói của Thu Vân khiến người đàn bà trố mắt nhìn nàng, vừa ngạc nhiên, vừa thương hại. Thu Vân không chờ bà ta hỏi, tường thuật những gì xảy ra trong ba tuần lễ lao động và lý do vì sao nàng muốn tìm vợ chồng Châu. Nàng nói:

- Tôi không tiền mua vé xe đò để về nhà tôi ở Mỹ Tho, xin bà giúp tôi mua chiếc nhẫn này.

Nàng nói vừa cỡi nhẫn trao cho bà chủ quán. Bà ta lắc đầu, nắm tay nàng kéo ra đường, sau khi dặn con gái coi cửa quán.

Thu Vân lẳng lặng đi theo bà, nghĩ rằng bà muốn giới thiệu người khác mua nhẫn. Nào ngờ bà đưa nàng đến bến xe đò và thì thầm với người bán vé một lúc. Người ấy liền mời nàng lên xe và nói:

- Mời bà lên xe. Mỗi buổi chiều xe tôi đều đậu ở bến Mỹ Tho. Sau này bà đem tiền trả lại tôi, đừng ngại chi.

Thu Vân mừng rỡ cám ơn người bán vé và chào từ giã người chủ quán cà phê với nhiều cảm tình.

Bây giờ nàng không còn trở ngại nào nữa. Một lúc nữa đây nàng sẽ về đến nhà, nàng sẽ gặp lại cha già và con trẻ. Nhưng không hiểu sao trong lòng nàng không có nỗi vui mừng? Nàng linh tính như có điều gì trầm trọng xảy ra. Nàng hồi hộp lo sợđiều gì đó sẽ xảy ra …

**

Xe khởi hành lúc 12 giờ, mà đến ba giờ chiều mới về đến nơi. Thu Vân vì tâm thần bất an, đầu óc mãi lo lắng nghĩ ngợi, nên xe về đến bến Mỹ Tho lúc nào nàng cũng không hay?

Lúc đặt chân lên đường lộở Mỹ Tho, Thu Vân mới biết mình còn sống và cuộc tương phùng với cha không còn trở ngại nữa.

Nàng muốn đón taxi để về nhà cho nhanh, nhưng đứng chờ một lúc vẫn chẳng tìm ra taxi, nên đành đi bộ về nhà.

Về đến cổng rào trước sân bỗng nhiên tim Thu Vân đập liên hồi. Nàng đã vào đến ngõ, chỉ một phút nữa cha con sẽ gặp mặt, nhưng trong lòng vô cùng bất an.

Cửa rào không khóa, Thu Vân tất tả chạy vào trong, vừa gọi:

- Ba ơi! Vân Trường ơi!

Nàng gọi mấy lượt, cho đến khi chân đã đứng trước cửa nhà vẫn không nghe tiếng hồi đáp. Nàng bấn loạn nhấn chuông, đập cửa ầm ầm, nhưng bên trong vẫn im lìm. Nàng muốn mở cửa, nhưng không có chìa khoá để mở. Cũng vì hôm bị bọn Cộng bắt, chúng lấy cái sắc của nàng, chìa khóa nhà để bên trong cũng mất luôn.

Không làm sao mở cửa vào trong, Thu Vân đành ngồi chờ trước băng dài ngoài sân. Bất chợt nàng nhìn thấy cửa sổ phòng ngủ của cha mở he hé. Nàng mừng rỡ chạy tới kéo cánh cửa nhìn qua song sắt…

Cha nàng không có trong phòng, nhưng Thu Vân thấy rõ chăn gối không ngay ngắn, mùng the chưa được vén lên. Chứng tỏ cha nàng đi vắng từ sớm, chưa kịp làm giường.

Thu Vân nghĩ, có lẽ cha nàng và Vân Trường đi dọ dẫm tin tức của nàng, chốc lát sẽ trở về, nên cửa sổ mới không khép kỹ.

Nàng đi vòng phía sau nhà bếp. Từ nhà bếp có khoảng hành lang ăn thông với gian nhà dành cho gia nhân. Từ khi mẹ nàng với cô gái giúp việc chết bởi chất nổở chợ, cha nàng không thuê gia nhân, nên gian nhà ấy hiện chỉ chứa đồ đạc bàn ghế không cần dùng. Cửa sổ gian nhà này thường không khóa và cũng không có song sắt.

Thu Vân chợt nhớ từ gian nhà gia nhân có đường hầm ăn thông với nhà hầm của biệt thự. Khi xưa cha nàng cho xây hầm và đường hầm là để tránh bom đạn.

Nhớ lại điều này, Thu Vân mừng rỡ leo từ cửa sổ gian nhà gia nhân vào trong không khó khăn lắm. Nắp hầm nằm dưới đáy cái tủ lớn. Thu Vân phải chất đồ đạc trong tủ ra mới mởđược nấp hầm. Nàng leo xuống mấy bậc thang và mò mẫm bật nút đèn điện.

Đường hầm bề ngang chỉ một người đi, bề dài khoảng hai mươi thước và thẳng tấp, nên đèn cháy lên Thu Vân thấy rõ hầm của biệt thự đầu bên kia.

Nàng sung sướng chạy vào nhà không khác gì trẻ con xa cha mẹ lâu năm lúc trở về nhà. Từ nhà hầm leo lên mấy bậc thang tới phòng ăn Thu Vân mới thấy mệt lả vì đói bụng.

Ba tuần nay mỗi ngày nàng chỉ được ăn một chén cơm với muối. Ba tuần thiếu ăn, thiếu chất dinh dưỡng, thiếu sinh tố… khiến cho trong người nàng bần thần rời rạc như người bệnh. Và trọn ngày hôm nay nàng cũng chưa ăn uống gì nên sức cũng đã kiệt.

Trong lúc này Thu Vân rất thèm được ăn, muốn được ngủ một giấc. Nhưng khi nhìn y phục của mình dơ bẩn, toàn thân hôi hám vì ba tuần không tắm rửa, Thu Vân chán nản thở ra. Nàng cố gắng leo thêm mấy bậc thang lên tư phòng nàng ở tầng lầu trên và vào phòng tắm ngâm mình trong bồn nước.

Sau khi trút xong lớp dơ bẩn và bùn đất trong người, Thu Vân có cảm tưởng như bao nhiêu mệt nhọc của ba tuần lao tù như vơi đi một nửa!

Nàng ngã dài trên giường, trong lớp khăn lông, mắt lim dim nhưng không ngủ. Nỗi sung sướng được sống trong ngôi nhà này, nằm trên giường êm ấm của mình, được thở không khí tự do…làm nàng ngây ngất.

Có sống trong tù mới thấy tất cả những gì bên ngoài nhà lao là quí giá, ngay cả không khí và nước.

Thu Vân chợt nhớ đến lời nói của bà chủ quán cà phê ở Cần Thơ: “Bây giờ không ai được quyền làm chủ thứ gì, ngay cả sinh mạng của mình cũng thuộc về Đảng nhà nước”.

Nhớ đến điều này Thu Vân rùng mình ớn lạnh, bật ngồi dậy đi đến tủ quần áo. Chợt nàng thất sắc kinh hoàng khi thấy bóng mình trong gương. Thu Vân kêu lên:

- Trời ơi! Chỉ ba tuần lao tù mà thân xác ta tàn hại dường ấy! Cơ hồ ta không còn nhận ra ta nữa!

Một phút trôi qua, cơn xúc động dịu xuống, Thu Vân tự trấn an :

- Chỉ vì ta thiếu ngủ thiếu ăn hình hài mới như thế. Giờ chỉ cần ăn uống tẩm bổ nghỉ ngơi vài tuần là có thể lấy lại sức.

Nàng mở tủ lựa chiếc áo đẹp. Và sau khi mặc xiêm y, nàng ngồi trước bàn trang điểm làm tóc, điểm trang.

Nàng không muốn cha nhìn thấy hình hài tiều tụy của mình, sợ gây thương tâm trong lòng cha. Nàng cũng không muốn Vân Trường đau đớn hối hận khi thấy mẹ nó gầy gò xơ xác cũng vì đi tìm nó.

Nàng quyết định không nói lại cho cha và con nghe biết về những nhọc nhằn khốn khổ của mình chốn lao tù, để cha già và con trẻ vui trọn ngày sum họp.

Điểm trang xong Thu Vân xuống nhà dưới mở banh các cửa sổ cho không khí lùa vào. Nàng hít một hơi dài khoan khoái, rồi lững thững đi vào nhà bếp.

Nàng mở tủ lạnh, thấy thịt cá rau cải trái cây chứa đầy bên trong nhưng mùi hôi xông lên tận mũi. Chứng tỏ các thứ đã mua từ lâu mà không dùng đến.

Thu Vân tự hỏi : Cha đã bỏ nhà đi bao lâu ? Vân Trường vẫn chưa về nhà sao?

Cùng với câu hỏi trong đầu, nàng chạy lên tầng lầu trên, vào phòng của Vân Trường, thấy mọi vật nguyên y như ngày nàng rời nhà hồi ba tuần trước. Như vậy tức là Vân Trường chưa về.

Thu Vân bấn loạn chạy trở xuống nhà dưới vào tư phòng của cha, thấy trên bàn viết có cái ví tiền và giấy tờ tùy thân. Tiền bạc giấy tờ còn đó, chăn mền không dọn dẹp, chứng tỏ cha nàng không đi xa, hoặc giả không dự trù ra khỏi nhà.

- Hay là bọn Cộng đến bắt cha thình lình ?

Câu hỏi này làm nàng kinh hoàng muốn ngất đi. Bỗng một ý nghĩ khác giải thích :

- Chắc chắn tự cha ra đi vì nhà có khóa cửa hẳn hòi. Chỉ có điều cha không dự tính đi xa và đi lâu.

Nàng bỗng nhớ đến câu nói cuối cùng của cha khi chia tay với nàng : « Ba sợ từđây cha con ta không gặp lại được nữa ». Rồi nàng lại nhớ đến giấc mộng trong đêm ngủở khách sạn của Châu ở Cần Thơ. Trong giấc mộng ấy nàng sẽ gặp lại Thy và khi ấy tất cả người thân của nàng đều biến mất.

Ác mộng đêm đó đã làm nàng toát mồ hôi lạnh khi tỉnh giấc. Giờ nhớ lại nàng không khỏi rùng mình sợ hãi khi nghĩ rằng Thy sẽ trở về.

Thy còn sống ? Thy sẽ tìm nàng ? Nàng sẽ làm vợ Thy trở lại để được thương yêu che chỡ ? Vì ngay nay có thể Thy sẽ là đảng viên cao cấp ?

Không hiểu sao Thu Vân không có nỗi vui mừng của một người có chồng là một cán bộ cao cấp Cộng Sản ?

Mười chín năm qua chứng kiến bao cái chết thảm khốc do chính họ gây ra, trong đó có đứa con và người mẹ yêu quí của nàng và mới đây ba tuần lao tù càng làm cho nàng chán ghét ghê sợ phe Cộng Sản.

Không ! Nàng không thể làm vợ Thy được nữa ! Tình yêu đã không còn, mà đối với chồng nàng sinh lòng ghê tởm oán ghét thì làm sao chung sống với nhau ?

Nàng phải trốn, phải rời tỉnh này, để Thy không thể tìm gặp. Nàng cần căn dặn mẹ chồng không cho Thy địa chỉ của nàng ở Saigon.

Vậy điều trước tiên là nàng phải tới nhà mẹ chồng, cũng để hỏi thăm tin tức của cha và Vân Trường.

Cùng với ý nghĩ Thu Vân chạy vọt ra cửa, nhưng đôi chân nàng vụt sụm xuống vì mệt lả. Nàng lê lết trở vô nhà bếp, nấu nước nóng pha một ly sửa đặc. Uống xong ly sửa sinh lực đã phục hồi dần, nàng ăn thêm ít bánh ngọt, rồi hấp tấp bước đi.

Ra đến ngưỡng cửa Thu Vân phải lộn trở vào phòng cha tìm chìa khoá nhà. May sao nàng tìm thấy sâu chìa khoá của mẹ thuở trước. Không chần chờ, nàng lấy chìa khoá với cái ví tiền của cha, rồi ra khỏi nhà khoá cửa lại.

Ra đường lộ nàng may mắn tìm được ngay một taxi và 10 phút sau xe tới trước ngõ nhà mẹ chồng. Thu Vân xuống xe, thấy tiệm buôn của mẹ chồng còn đóng cửa, nên chạy qua phía nhà riêng gọi cửa. Nàng gọi « mẹơi, mẹơi »vài tiếng, bỗng có người từ phía sau nắm cánh tay nàng kéo đi và nói thật khẽ :

- Đừng đứng đây !

Thu Vân giật mình quay mặt lại, thấy là bà Chu, chủ tiệm thuốc Tây, hàng xóm của mẹ chồng nàng.

Nàng mỉm cười chào bà ta, nhưng bà ta không nhìn nàng, sắc mặt đầy sợ hãi, mắt dáo dác nhìn quanh…Sau cùng bà kéo nàng vào nhà bà, rồi lập tức đóng cửa lại.

Thu Vân còn đang ngạc nhiên về thái độ của bà Chu, bà chỉ ghế mời nàng ngồi và hỏi :

- Cô không hay biết gì sao ?

Thu Vân ngơ ngác hỏi lại :

- Biết điều gì, thưa bà ? Mẹ chồng tôi…

Không chờ nàng dứt câu, bà nói :

- Cô không hay biết mẹ chồng cô bị bắt từ hai tuần nay sao ?

- Về tội gì, thưa bà ?

- Tôi không rõ lắm ! Cũng có thể vì là mẹ của tướng Thanh.

- Trời ơi !

Nàng kêu khẽ, nước mắt ứa ra. Bà Chu ngồi xích gần nàng, rỉ nhỏ vào tai :

- Hai tuần nay lính Cộng canh chừng nhà và cả tiệm buôn của mẹ chồng cô. Người nào đi lẩn quẩn quanh nhà cũng bị bắt hỏi cung. Cô may mắn nhằm lúc bọn mật vụ không có ở đó. Có lẽ chúng đi ăn uống ở quán nước gần đây.

Thu Vân không khỏi kinh tâm, nói :

- Nếu không nhờ bà kéo đi có lẽ tôi phải vào tù lần thứ hai.

- Sao ? Cô đã vào tù ? Về tội gì ?

- Tôi bị tù ba tuần nay, vừa mới được thả ra hồi sáng này. Tôi bị bắt về tội lìa gia cư không có giấy phép. Tôi về nhà không gặp cha tôi, nên tôi mới đến đây tìm mẹ chồng để hỏi thăm tin tức cha…

Nàng nghẹn ngào không nói hết câu. Bà Chu nhìn nàng bằng đôi mắt xót xa thương hại, nhỏ nhẹ nói :

- Hoá ra cô bị tù và cũng không hay biết gì về ông Hiệu Trưởng ?

- Bà có nghe biết gì cha tôi sao ?

Bà Chu mím môi nhưđè nén nỗi xúc động, không đáp câu hỏi của nàng. Thu Vân thấy thái độ của bà, lo lắng hỏi :

- Phải chăng ba tôi đã bị bắt vì có liên hệ gia đình với tướng Thanh ?

Bà Chu lắc đầu, nói giọng nghẹn ngào :

- Thu Vân ! Cô nên bình tĩnh nghe tôi báo tin này…Ba cô bị họ xử …bắn cùng với một số giáo sưở trường cách đây mấy tuần rồi. Vụ này làm chấn động dư luận trong tỉnh. Mẹ chồng cô thì bị bắt vào ngày chính phủ ra lệnh đốt sách. Hôm ấy …

Bà Chu mãi kể câu chuyện với nỗi cảm xúc, không hay Thu Vân ngồi bên cạnh bà đã bất tỉnh. Đến khi đầu nàng ngoẹo lên vai bà, bà mới giật mình kêu lên :

- Thu Vân ! Cô Thu Vân ! Hãy tỉnh lại ! Ông ơi ! Ông ơi, mau mau tới phụ tôi.

Từ phòng trong một người đàn ông chạy ra, hỏi giọng hơi quạu :

- Vụ gì mà bà la lối om sòm vậy ?

Ông ta chợt thấy vợđang lay huay với một người đã ngất xỉu, liền chạy tới đỡ người ấy nằm trên ghế dài. Bỗng ông trố mắt nhìn vợ hỏi :

- Ai đây ? Sao giống con dâu của chị Thân quá vậy?

- Thì cô ấy chớ còn ai nữa? Ông mau lấy thuốc cứu cô ta tỉnh lại, mau lên!

Chỗ này chính là cửa tiệm thuốc Tây. Từ khi Cộng sản nắm quyền, các nhà thuốc đều bị tịch thu, nên tuy bảng hiệu còn đó, mà các ngăn tủ đều trống trơn. Ông Chu phải đi tìm thuốc mà ông giấu một ít trên tầng gác nhà ông.

Khi ông trở lại Thu Vân đã tỉnh rồi. Nàng ngồi yên lặng trên ghế, hai hàng nước mắt rơi lã tã. Bà Chu cũng khóc theo.Ông Chu không biết khuyên nhủ ra sao, nhìn hai người với sắc mặt rầu rĩ.

Một lúc Thu Vân nín khóc lau nước mắt, nói:

- Tôi làm phiền ông bà quá, xin tha lỗi cho tôi. Ông bà có thể cho tôi biết, sau khi giết cha tôi, họ chôn xác nơi đâu không?

- Thật tình chúng tôi không biết rõ! Vụ ông Hiệu Trưởng và các giáo sư bị giết là do lời đồn xôn xao trong tỉnh, chớ tôi không nghe chị Thân nói. Nhưng tôi chắc chịấy biết rõ về cái chết của cha cô. Tuần lễ trước khi bị bắt, chị buồn khổ nhiều về cái chết của tướng Thanh, rồi lại đến cái chết của cha cô, nên chịđóng cửa tiệm buôn và không tiếp xúc với ai. Chính vì thế mà chúng tôi không có dịp gặp chịđể nghe biết điều gì.

Thu Vân lại hỏi:

- Ông bà có biết mẹ chồng tôi bị giam nơi đâu không?

Ông Chu đáp:

- Cộng sản không bao giờ cho dân biết nhà tù của chúng ở đâu.

Thu Vân gục gậc đầu. Nàng nhớ hôm nàng bị bắt ở Cần Thơ, họ bịt mắt dẫn đi, chuyến thả về cũng bịt mắt. Họ làm thế vì muốn giữ bí mật địa điểm nhà tù.

giavui
01-10-2015, 08:13 PM
Nàng uể oải đứng lên, nói:

- Tôi xin hết lòng cảm tạ ông bà. Tôi xin phép ra về.

Ông bà Chu đứng lên tiễn đưa. Ông nói :

- Để tôi lấy xe đưa cô về nhà. Tuy đoạn đường không xa, nhưng trời sắp tối rồi, cô không nên đi một mình.

Thu Vân không từ chối lời mời của ông Chu. Nàng theo ông đến chỗ đậu xe. Bà Chu cũng đi theo tiễn nàng ra xe. Bà căn dặn nàng :

- Cô nên đề phòng bọn Cộng sản đột nhập gia cư. Nhà lúc nào cũng phải đóng cửa kỹ…

Bà đang nói chợt bấm tay nàng, hạ thấp giọng :

- Cô nên kín đáo nhìn trước cửa tiệm buôn và nhà của mẹ chồng cô. Hiện có mấy thằng lính mật vụ cộng sản đang đứng ẩn ẩn hiện hiện nơi đó. Cô thấy chứ ?

Bà dứt lời quay lưng đi nhanh vào nhà. Thu Vân ngồi xuống xe, liếc mắt nhìn qua tấm gương nhỏ thấy có mấy đàn ông mặc thường phục. Nhưng nàng nhận ra ngay là bọn mật vụ Cộng Sản ! Vì từ hình hài mặt mũi và aó quần của chúng đều khác hẳn dân miền Nam.

Xe chạy xa nơi đó ông Chu mới lên tiếng :

- Hình như chúng nghi ngờ tướng Thanh còn sống mới canh chừng nhà của mẹ chồng cô như thế.

Thu Vân cười nhẹ :

- Thật là một lũ ngu xuẩn ! Bởi vì nếu Thanh còn sống, chàng chẳng ngu dại gì ló mặt về nhà của mẹ mình.

Ông Chu bật cười :

- Quả là ngu !

Thu Vân thở dài, giọng đau thương :

- Buồn là một lũ ngu ngốc như thế lại thắng chúng ta, lại cai trị chúng ta !

- Cô đừng quên Hồ Chí Minh và bọn cầm đầu HàNội không ngu. Nhưng chúng lại không có tài ba nào khác để có thể làm cho nước giàu dân mạnh. Chờ xem trong những ngày sắp tới Cộng sản Hànội có tài gì ?

- Hồ chí Minh và Đảng Cộng Sản HàNội thắng Tây thắng Mỹ, thắng chính phủ miền Nam là nhờ sự gian manh, lật lừa, xảo trá. Vậy với tài này sẽđưa quốc gia và dân tộc vềđâu ?

- Cô nói đúng ! Chúng không có tài gì ngoài tài lưu manh lừa đảo, tàn ác. Một dân tộc cai trị bởi nhóm người tàn ác ngu xuẩn như vậy thì sẽđi đến họa diệt chủng.

Thu Vân rơi rơi nước mắt, tự hỏi :

« Tương lai của dân tộc sẽ ra sao ? Cuộc đời mình trong những ngày sắp tới sẽ ra sao ? »

« Cha mẹ nàng đều chết, đưá con biệt tích, nàng có đủ nghị lực để sống tiếp tục trong xã hội này không ? »

Xe đã chạy đến nơi. Thu Vân mời ông Chu vào nhà, nhưng ông từ chối, nói :

- Tôi phải trở về nhà ngay kẻo vợ tôi lo sợ. Thời buổi này ra khỏi nhà là hiểm nguy rình rập. Tốt hơn cô cũng tránh ra khỏi nhà.

Thu Vân nói bằng giọng cảm xúc :

- Cám ơn lời khuyên của ông. Cũng xin cám ơn ông đã đưa tôi về nhà.

Ông Chu cười hiền :

- Tôi còn tí xăng trong xe nên muốn chạy cho hết. Vì mai này tôi không còn xe nữa.

- Vì sao ? Họ lại tịch thu cả xe của ông nữa sao?

- Hiện tại thì chưa! Nhưng nhà nước cấm bán xăng cho dân thì có xe cũng không xài được. Bây giờ chỉ cán bộ Cộng sản mới được mua xăng, mới có xe. Họ muốn có xe cũng không cần phải mua, cứ bỏ tù một người là có thể chiếm nhà cửa tài sản xe cộ…

- Xã hội này không có giai cấp nghèo giàu, mà chỉ có giai cấp giữa dân và cán bộ. Họ có quyền tước đoạt tài sản của dân, biến người giàu trở nên trắng tay, nghèo đói.

- Hoá ra nhà nước cướp hết tài vật của người giàu, biến họ nghèo đói, tạo nên một xã hội đồng đều nghèo đói. Chớ không phải giúp người nghèo có cuộc sống tốt đẹp để có một xã hội toàn dân sung túc. Vậy người nghèo sống trong xã hội này cũng vẫn nghèo, có lợi ích gì đâu? Tại sao họ vẫn mê theo Cộng sản?

- Vì người nghèo nghe nói “công bằng xã hội” thì hiểu lầm chính phủ Cộng sản sẽ lấy của người giàu chia cho họ. Chính vì lòng tham lam đó mà họ bị Hồ Chí Minh lừa phỉnh. Rồi đây không bao lâu nữa người nghèo sẽ vỡ mộng!

Thu Vân chợt thở dài:

- Vậy mà vẫn còn có môt số dân tộc mê muội theo chủ nghĩa Cộng sản, thật là lạ!

- Phải công nhận các quốc gia Cộng sản không giàu không mạnh, nhưng họ có lối tuyên truyền lừa phỉnh thật hay.

- Tại sao phe thế giới Tự Do không có một chiến lược hoàn hảo “phản tuyên truyền lừa phỉnh” của bọn chúng để trừ họa Cộng sản trên thế giới?

Thu Vân ngẫm nghĩ một lúc nói thêm:

- Cộng sản có lối tuyên truyền lừa phỉnh từ đứa trẻ mới lên 3 tuổi. Vậy thế giới tự do cần phải phanh phui cái xấu của họ với đứa trẻ vừa lên ba tuổi. Họ có chiến thuật lừa phỉnh lâu dài, mình cần có chiến thuật phản tuyên truyền lâu dài, mới tiêu diệt được chúng chớ?

- Cô nói đúng lắm! Chỉ có điều lời nói của cô trên thế giới tự do chưa ai nghe.

Giọng của ông Chu có phần chế nhạo, khiến Thu Vân cũng phải tức cười cho sự lo âu “bao đồng thế giới” của mình.

Cả hai chào giã từ nhau. Thu Vân cám ơn ông Chu lần nữa rồi thẫn thờđi vào nhà…

Khi nãy, trước mặt ông bà Chu, nàng cố nén bi thương khi hay tin cha chết. Giờ về đến nhà, nhìn đâu đâu cũng thấy kỷ niệm của cha già, lòng nàng đớn đau cùng cực.

Không chịu đựng được nữa, nàng cấm đầu chạy về tư phòng, nhào lên giường khóc lóc kêu gào thảm thiết.

Một giờ sau nước mắt đã cạn, cổ cũng khô hốc, nàng ngồi bất động trên giường một lúc bỗng dưng trong đầu loé lên ý chết…

Phải lắm! Người thân của nàng không còn ai nữa, nàng sống để làm gì?

Nàng chết để khỏi phải sống phập phồng lo sợ, để khỏi phải rơi vào nhà tù, để không bị xiềng xích Cộng Sản tròng vào thân, trói tư tưởng!

Nàng chết để không phải sống trong thiên đường xây dựng bằng máu và nước mắt của đồng bào và của gia đình nàng.

Nàng chết để không còn nhìn thấy những bộ mặt hung thần của những con người không còn bản chất người!

Phải lắm! Chỉ có chết là giải pháp duy nhất giúp nàng giải thoát những khổđau hiện tại.

Lòng đã quyết, Thu Vân phóng xuống giường, chạy đến tủ thuốc tìm ống thuốc ngủ.

Thật là may! Thuốc còn đầy một chai, đủ cho nàng đi vào giấc ngủ vĩnh viễn.

Nàng vào phòng tắm lấy một ly nưóc và trở lại ngồi nơi bệ giường.

Thuốc đã trút hết vào tay và sắp sửa cho vào miệng… đôi mắt Thu Vân vô tình trông thấy bức ảnh của Vân Trường chưng trên bàn trang điểm. Bức ảnh ấy chụp cách đây hai năm. Gương mặt tuấn tú của chàng thanh niên trong ảnh gây xúc động mạnh trong tim nàng, làm toàn thân nàng nhủn ra, tay chân bủn rủn xuội đơ. Nước và thuốc văng tứ tung, ướt đẫm cả áo mà nàng không hay!

Đôi mắt chăm chú nhìn người trong ảnh, nàng lảm nhảm nói như người điên:

- Con tôi! Trời ơi, con tôi! Con tôi còn sống chớ nào đã chết? Không! Tôi phải sống để đi tìm con. Con ơi! Mẹ hứa không bỏ con. Mẹ sẽđi khắp nơi tìm con, dù sức tàn hơi kiệt…mẹ nhất định phải tìm lại con.

Giọng nàng mỗi lúc một nhỏ dần, nàng ngả xuống giường, mắt nhắm lại, hồn mê đi…

**

Thu Vân giật mình tỉnh giấc bởi tiếng chuông kêu inh ỏi. Nàng bật ngồi dậy nhìn qua cửa sổ, thấy trời đã có nắng. Giờ này có lẽđã hơn 9 giờ sáng!

Thế ra nàng đã ngủ mê man từ chiều qua. Nếu không có người nhận chuông có lẽ nàng vẫn chưa thức! Nàng tự hỏi:

“Ai? Ai đến thăm vào lúc này? Hay là Vân Trường trở về?

Câu hỏi sau cùng làm nàng quýnh quáng chạy nhanh xuống nhà dưới, chân không kịp mang dép.

Cũng may chiều qua nàng không thay aó ngủ. Nàng mở hé cửa ló mặt nhìn ra ngoài, thấy khách chính là cô gái bán hàng ở tiệm buôn của mẹ chồng nàng. Thu Vân hơi ngạc nhiên, song hết sức vui mừng, kêu lên:

- Ồ cô Lan! Tôi không ngờ khách là cô! Mời cô vào nhà.

Thiếu nữ theo Thu Vân vào phòng khách. Thu Vân ngồi xuống ghế và mời cô ta ngồi ghế đối diện. Nhưng cô không

ngồi, mắt dáo dác nhìn quanh, hỏi nhỏ:

- Bà ở một mình hay có ông trong nhà?

Thu Vân nhíu mày hỏi lại:

- Cô muốn hỏi thăm ba tôi?

- Không! Ông nhà.

- Ai? Ông nào?

- Chồng bà! Ông có ởđây không?

Thu Vân nhăn mặt tỏ vẻ khó chịu:

- Từ mười chín năm nay tôi không có chồng. Sao cô lại

hỏi kỳ lạ vậy?

Nghe nàng nói thế, thiếu nữ tỏ vẻ hân hoan ngồi xuống ghế. Cô ta moi trong túi áo lấy ra một phong thư xếp nhỏ và nói:

- Bà chủ tôi bảo tôi đưa cho bà lá thư này.

Thu Vân nhận phong thư, mừng rỡ hỏi:

- Của mẹ chồng tôi? Bà đã ra tù rồi sao? Hình như cô cũng bị bắt cùng lúc với mẹ chồng tôi phải không?

- Vâng! Tôi bị bắt cùng lúc với bà chủ và vừa được phóng thích sáng này. Còn bà chủ tôi…chết rồi!

Giọng cô nghẹn ngào xúc động.

Từ khi ra tù về nhà mới mấy hôm, mà Thu Vân đón nhận toàn tin bất hạnh, tinh thần và thể xác nàng không khác gì bị khủng bố triền miên, khiến nàng không còn đủ sức chịu đựng, ngồi xuội đơ trên ghế như một xác chết, nước mắt không còn chảy ra được nữa!

Một lúc thật lâu, cơn xúc động dịu xuống, nàng hỏi giọng yếu ớt:

- Chúng xử tử bà về tội mẹ của tướng Thanh phải không?

- Không! Bà tự tử.

- Tự tử? Vì sao chứ? Cô Lan! Xin cô vui lòng tường thuật những gì xảy ra từ ngày mẹ chồng tôi bị bắt.

- Vâng! Hôm ấy chúng tôi đang ôm sách báo ra sân đốt bỏ theo lệnh của nhà nước, thì bất ngờ có một toán bộ đội võ trang đến bắt bà chủ tôi. Bà vùng vẫy chống đối, nhưng rốt cuộc vẫn bị chúng bắt quăng lên xe chởđi. Hai chị em chúng tôi cũng bị bắt với chủ và họ đưa chúng tôi đến trại tù gọi là trại tạm giam. Nơi đấy có rất nhiều người, đủ mọi thành phần, đủ loại tội. Chúng tôi bị nhốt chung trong gian phòng lớn với nhiều đàn bà và con gái khác. Sau đó họ phát chúng tôi giấy và bút, bảo chúng tôi phải khai ra tội lỗi của mình.

Ngừng một lúc như để moi trí nhớ, cô gái nhỏ nhẹ kể tiếp:

- Tôi với em tôi không biết mình phạm tội gì? Nhưng họ buộc khai, chúng tôi đành phải khai rằng: “Chúng tôi có tội đã giúp bà chủ bán sách báo và có tội đã đọc những sách báo ấy”. Bà chủ tôi thì viết trong tờ thú tội rằng: “ Tôi không có tội gì. Tôi là người buôn bán đứng đắn, không gian lận, không phạm pháp”. Sau khi đọc tờ khai bà chủ tôi viết, bọn lính vào phòng giam bắt bà dẫn đi. Vài giờ sau chúng khiêng bà trở lại trong tình trạng bất tỉnh, mình mẫy đầy thương tích. Các tù nhân xúm nhau chăm sóc cho bà. Khi lấy lại tri giác, thấy mặt hai chị em chúng tôi bà mừng lắm. Bà cho chúng tôi biết bà bị họ đánh đập tàn nhẫn và ra lệnh viết một tờ kể rõ tội trạng: “Tội thứ nhất là mẹ của tướng Thanh. Tội thứ hai là bán sách báo Mỹ Ngụy, đầu độc dân chúng. Tội thứ ba là hành nghề thương mại làm lũng đoạn kinh tế của chính phủ cách mạng”. Nếu bà chịu nhận cả ba tội trên và tỏ ý ăn năn sẽ được gia giảm án tử hình, và chỉ bị án “khổ sai 30 năm tù”.

Thu Vân rơi rơi nước mắt:

- Mẹ chồng tôi tuổi trên 60 mà chúng đánh đập tàn nhẫn như thế làm sao bà chịu đựng nổi?

Cô gái sụt sùi kể tiếp:

- Chiều đó bà gắng sức viết một phong thư trao cho tôi, dặn tôi giấu kỹ chờ ra tù tới đây tìm bà trao thư với điều kiện là chồng bà không sống chung với bà ởđây.

Thu Vân nghe cô gái nói mấy lời trong lòng vô cùng thắc mắc. Không hiểu vì sao mẹ chồng nàng lại căn dặn lạ lùng như vậy? Nàng mở bức thư định đọc, nhưng chưa kịp đọc thì cô gái kể tiếp:

- Tối đêm đó chờ mọi người ngủ, bà đập đầu vào tường tự vận. Cái chết của bà thật rùng rợn. Các tù nhân trông thấy đều sợ hãi. Trước khi chết bà có viết một thư gửi cho tên Quản giáo nhà tù. Chúng tôi cũng có đọc! Thật chúng tôi không ngờ một người đàn bà già lão như bà mà can trường không khác gì một nhà tướng.

Thu Vân hỏi:

- Cô còn nhớ những gì mẹ chồng tôi viết cho họ không?

- Không bao giờ tôi quên những lời bà chủ viết! Tôi đã học thuộc lòng và khi ra tù tôi liền viết ngay lên giấy để không quên và cũng để cho mọi người xem.

Vừa nói cô gái vừa moi trong túi áo một mãnh giấy với nét bút vội vàng. Giấy ghi như vầy:

“Tôi chỉ là một goá phụ nghèo, hạ cấp, nhưng nhờ sống trong xã hội mà các ông gọi là Ngụy mà có phương tiện cho hai con ăn học.

“Nếu tôi là người mẹ sung sướng và hãnh diện về đứa con thứ tên Lê Thanh, một đứa con chí hiếu, một vị anh hùng thương dân yêu nước, một quân nhân can trường, một vị tướng chỉ huy gương mẫu trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa, được toàn dân ngương mộ…

“Thì tôi cũng là một người mẹ vô cùng khốn khổ và nhục nhã về đứa con trưởng tên Lê Thy, một đứa con bất hiếu, ngu ngốc, bị tên côn đồ Hồ Chí Minh dụ dỗ làm giặc trong hai mươi năm, giết hại khủng bố đồng bào. Ngày nay nó còn đưa quân Cộng Sản Hà Nội vào Nam cướp nước, cướp nhà, giết dân, giựt của…làm bao điều tàn ác, gây bao đau thương cho mấy mươi triệu đồng bào!

“Cho nên đối với quốc gia tôi là một công dân có tội đã sinh ra thằng con bán nước, hại dân, làm nhục tổ tiên nòi giống. Tội này đáng bị nhân dân nguyền rủa hành hạ cho đến chết.

“Tôi chỉ xin đồng bào nghĩ tình đứa con thứ hai của tôi là Lê Thanh mà gia giảm tội lỗi của tôi, cho phép tôi được tự xử lấy mình. Cám ơn đồng bào. Bà goá phụ Lê Thân.

Thu Vân đọc xong tờ thú tội của mẹ chồng, trong lòng vô cùng thắc mắc vềđoạn mẹ chồng nói về Thy. Y như Thy đã trở về?

Nàng hỏi cô gái:

- Cô có hay biết gì về…người con trưởng của bà chủ không? Chắc mẹ chồng tôi đã gặp lại hắn?

Cô gái không trả lời câu hỏi của nàng, bảo nàng:

- Bà nên đọc bức thư của chủ tôi gửi cho bà, tất sẽ rõ mọi điều.

Thu Vân gật đầu, mở thư ra đọc. Thư như vầy:

“Con yêu dấu của mẹ,

“Con đi Cần Thơ ít hôm thì có người của Thanh đến nhà cho mẹ biết tin Thanh đã tự tử và hai cận vệ của Thanh và Vân Trường đã rời Bộ Tư Lệnh trước khi Thanh chết. Vậy sớm muộn gì Vân trường cũng sẽ về nhà. Nếu nó chưa về ngay, chắc chắn có lý do. Mẹ khuyên con bình tĩnh chờ tin nó.

“Cũng có thể khi con đọc thư này hai mẹ con con đã gặp nhau rồi. Mẹ nguyện cầu cho các con gặp may lành.

“Trong khi con vắng nhà, cha của con gặp đại nạn quá ư bi thảm. Bọn cộng sản đã giết cha con cùng với một số giáo sư ở trường. Người cai trường đã chứng kiến phiên toà dã man đó. Con có thể hỏi ông ta để biết rõ chi tiết hơn.

“Khi mẹ hay tin thì cha của con đã chết rồi. Mẹ lo việc tẩm liệm và chôn cất cha con ngay sau vườn nhà con, nhưng chưa kịp xây mộ bia. Vậy con nên thuê thợ làm.

“Còn một điều mẹ muốn cho con hay là Thy đã trở về. Nếu con còn yêu nó và muốn sống với nó, thì mẹ không còn lời gì hơn là chúc con tìm lại hạnh phúc ngày xưa. Bằng như con đã hết yêu Thy, mẹ khuyên con nên sớm rời Mỹ Tho, về Saigon sinh sống. Đừng để nó gặp lại con và Vân Trường mà mang họa. Bởi vì 19 năm theo cộng sản, Hồ Chí Minh và Đảng đã biến nó thành quỷ, không còn bản chất loài người. Chính nó đã đưa bộ đội đến nhà bắt mẹđó!

“Mẹ bị bọn dã man đánh đập hành hạ, nhưng điều làm cho mẹđau hơn hết là chính con mình đưa quân về nhà bắt mình. Càng nhớ đến nó, mẹ càng xấu hổđã không biết dạy nó, để nó bị người dụ dỗđi làm giặc, giết hại đồng bào.

“Mẹ quyết chọn cái chết theo Thanh, để không làm tù nhân lâu dài của bọn Cộng sản và cũng để không phải gặp lại đứa con bất hiếu Lê Thy!

“Con đừng buồn về cái chết của mẹ. Mẹđã già rồi. Thanh chết, mẹ không còn niềm vui để sống. Con và Vân Trường tha lỗi cho mẹđã bỏ các con.

“Hôn con và cháu nội. Mẹ của con. Lê thị.

Nước mắt Thu Vân lã tã tuôn rơi… Bao nhiêu chuyện dồn dập, nàng đã khóc quá nhiều, tưởng như không còn lệ để đổ ra nữa. Nhưng rồi lệ vẫn trào ra! Có lẽ cơ thể nàng chưá quá nhiều lệ nên khiến nàng gặp mãi chuyện đau buồn?

Cô gái ngồi im một lúc đứng lên xin phép ra về. Thu Vân không giữ khách, vì biết cô ta vừa mới ra tù cần được về nhà nghỉ ngơi. Nàng đưa ra cửa và hỏi :

- Em gái cô cũng được thả ra cùng lúc với cô chứ ?

- Thưa vâng ! Tôi từ nhà lao đi thẳng tới đây tìm bà. Còn em tôi về nhà báo tin cho cha mẹ chúng tôi.

- Các cô có bị hành hạ lắm không ?

- Ngày nào họ cũng dẫn chúng tôi ra đồng làm việc. Chúng tôi thuộc thành phần tội nhẹ, không bịđánh đập tra khảo. Nhưng làm việc cực nhọc thiếu ăn, nên chúng tôi gầy sút nhiều.

- Tôi cũng trãi qua những ngày lao tù như cô nên tôi biết rõ lắm. Cô bị tội bán sách báo Ngụy và đọc sách báo Ngụy. Còn tôi bị tội vì ra khỏi nhà không có giấy phép. Cha tôi bị giết về tôi dạy học trò nên người. Ôi ! Còn biết bao nhiêu tội án kỳ lạ mà các nhà hình luật Cộng sản phát minh ra để xiềng xích sự tự do của con người ! Thiết tưởng trên thế giới chưa có quốc gia nào người làm luật có tư tưởng phong phú như Đảng Cộng nước ta ! Quả thật họ thuộc loại « đỉnh cao trí tuệ ».

Câu nói đầy mai mỉa và oán hờn của Thu Vân khiến cô gái chợt nhớ đến một nữ tù nhân. Cô ta mỉm cười kể :

- Trong trại tù của tôi có một bà khoảng trên 40 tuổi, làm nghề lau chùi trong nhà thương quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Khi lính Cộng chiếm nhà thương, tất cả bác sĩ, y tá, nhân viên nhà thương đều bị bắt giam và mỗi người phải làm tờ thú tội. Bà ấy không biết mình phạm tội gì nên hỏi tên quản giáo. Tên ấy bảo : « « bà có tội nặng vì đã lau chùi sạch sẽ nhà thương, đem thoái mái cho lính Ngụy trong thời gian dưỡng bệnh, khiến họ mau bình phục và trở lại chiến trường đánh với quân của Bác Hồ ».

Thu Vân lắc đầu chán nản. Cô gái nói tiếp :

- Bị buộc viết tờ khai tội như thế, bà ấy tức giận nói với tên quản giáo : « Phải tôi biết làm việc lau chùi nhà thương cũng phạm tội nặng, tôi thà cầm súng bắn lộn với các ông ». Cũng vì câu nói ấy bà bị chuyển sang trại tù khác. Trại này chuyên giam những tù nhân chính trị chống đối chính phủ cách mạng. Xem thế từ tù nhân thường bà trở thành tù nhân chính trị, có thể bị xử chết.

Thu Vân kêu khổ :

- Tự do, hạnh phúc của chế độ này là thếđó ! Giờđây toàn dân đã thấy rõ bộ mặt thật của chế độ này.

- Và khi thấy rõ mọi người bỏ nhà bỏ cửa, nhào ra biển !

Nói xong câu ấy cô gái chào từ giã Thu Vân.

Khách đi rồi, Thu Vân chạy nhanh ra sau vườn thấy ngay nấm mộ đất có đặt cây thánh giá bằng tre viết tên cha mình.

Nàng ngồi sụm bên mộ, hồn phách cơ hồ như chui vào lòng đất đối diện cùng cha, thủ thỉ nỗi niềm nhớ nhung xa cách..

« Xin Ba tha lỗi cho con đã cãi lời Ba ra đi và không còn thấy mặt Ba lần cuối. Ba ơi ! Thy còn sống và sẽ trở về tìm con. Con không thể nào gặp lại Thy nên tạm thời con phải rời Mỹ Tho. Nhưng xin Ba an lòng. Tòa nhà này con hứa sẽ gìn giữđể sau này trở về sống gần gủi với Ba.

« Ba ơi ! Hãy giúp con tìm gặp Vân Trường « Ba ơi…….

Nàng chuyện trò tâm sự với cha mình một lúc lâu thấy trời đã quá trưa, nên uể oải đứng lên đi vào nhà, làm bữa ăn qua loa. Ăn xong, nàng vào phòng cha mở tủ sắt kiểm điểm tiền bạc để dự trù chi phí xây mộ.

Ông Trần Văn vốn là người biết lo xa. Mấy tháng sau cùng thấy tình hình chính trị nghiêm trọng, ông ra ngân hàng rút hết tiền ở chương mục để phòng hờ trường hợp chiến cuộc gây go, ngân hàng đỉnh chỉ phát tiền ra, thì ông có sẵn tiền chi dụng. Nhờđó mà trong tủ sắt có rất nhiều tiền.

Ngoài ra còn có vô số vàng và nữ trang bằng kim cương và các loại đá quí chất đầy trong tủ sắt, không khác gì một kho tàng.

Nguyên cha mẹ bà Trần Văn là một điền chủ giàu có. Khi bà Trần Văn lấy chồng được cha mẹ chia cho một phần tài sản gồm ruộng đất với vàng bạc và số nữ trang kếch sù. Tất cả những thứ này ông Trần Văn đã tặng hết cho con gái sau ngày vợ chết. Nhưng Thu Vân không đem về Saigon mà giữ cất trong tủ sắt của cha.

Thu Vân thấy số tiền mặt của cha để lại quá nhiều nên nghĩ việc thuê thợ xây mộ bia không thành vấn đề. Nàng khóa tủ sắt lại và đóng các cửa nhà, rồi tìm taxi đến bến xe đò trả lại tiền vé xe mà Thu Vân đã thiếu hôm trước. Sau đó nàng tìm người cai trường để hỏi thăm tường tận về cái chết của cha và nhờ ông ta tìm gấp hai người thợđể xây mộ bia.

Trên đường đi, Thu Vân ghé qua chợ mua một ít thịt cá rau cải trái cây mang về nhà thì trời đã chạng vạng tối.

Đêm đó sau bữa ăn nàng gom góp tất cả vàng bạc và nữ trang trong tủ sắt bỏ vào túi da rồi khệ nệ mang ra sau vườn.

Phiá sau vườn có một khoảng đất khá rộng thẳng tấp ra bờ sông Hậu Giang (chi nhánh của Cửu long giang). Khoảng đất này thuở trước cha nàng làm sân nuôi gà vịt. Từ khi mẹ nàng chết, cha nàng buồn khổ dẹp bỏ các chuồng gà vịt, mà cũng không thuê người làm vườn. Cho nên chỗ này cỏ mọc um tùm, cao cả thước, không khác gì đồng hoang. Xen lẫn với cỏ có mấy cây xoài cao ngất, trồng từ 20-30 năm về trước, gốc cây to, cành lá sum sê, che khuất cả giòng sông.

Thu Vân nghĩ, vườn sau gần như đất hoang ít người lưu ý, sẽ là chỗ an toàn cho nàng chôn giấu kho tàng của mình.

Nàng lấy cuốc đào lỗ cạnh gốc xoài cận bờ sông. May mà đêm đó có trăng thật tròn đầy, ánh sáng thật tỏ. Trăng đã làm bạn vói nàng suốt đêm và nàng đã đào một lỗ khá sâu. Nàng cẩn thận bỏ cái lu bằng sành chôn dưới đất trước, sau đó bỏ túi da kho tàng của mình vào trong lu, rồi đậy nấp cẩn thận để tránh mưa và đất ẩm thấm vào túi da. Cuối cùng trên mặt lu nàng đấp thêm lớp đất và lớp cỏ như cũ. Nàng nghĩ, nơi này ngoài nàng ra không ai nhận biết dưới lòng đất có giấu của quí.

Thu Vân trở vào nhà thì đã 4 giờ sáng. Nàng tắm rửa xong ngả lên giường ngủ say như chết.

Cũng tiếng chuông kêu inh ỏi đánh thức Thu Vân sáng hôm đó. Nàng bật ngồi dậy, mặc vội áo quần và chạy xuống nhà. Nàng đoán là thợ đến để xây mộ cha nàng.

Quảđúng như Thu Vân nghĩ ! Người cai trường đến cùng với hai người thợ đẩy xe ba bánh chứa đầy xi măng, vật dụng và bia đá. Thu Vân hướng dẫn họ ra vườn nơi mộ cha. Hai người thợ cho biết sẽ xong việc trong ngày.

Người cai trường phụ giúp hai người thợ khuân vác các vật dụng bỏ xuống xe xong thì từ giã Thu Vân. Nàng mời ông ta vào nhà uống trà, nhưng ông từ chối, nói :

- Tôi phải dọn nhà đi nơi khác. Gia đình tôi không còn ở căn nhà của nhà trường dành cho cai trường. Cũng bởi hôm đó tôi không chịu đấu tố ông Hiệu Trưởng trước toà án nhân dân nên họđuổi tôi, không cho làm việc và ở nhà đó nữa. Ngày mai người mới sẽ tới để trông coi trường và làm Hiệu trưởng trường học. Người này tôi cũng có biết.

- Ai thế ?

- Chính là ông phu quét chợ Mỹ Tho. Ông ta có công với Đảng nhà nước nên được ban thưởng chức vị.

Thu Vân không nhịn cười được, bật cười hỏi :

- Một phu quét đường làm Hiệu Trưởng, vậy giáo sư thuộc hạng nào ?

Nàng hỏi xong chợt nhớ lại cán bộ Cộng sản phần đông không biết chữ. Ông phu quét đường chế độ cũ dù sao cũng biết đọc biết viết, sánh với bọn kia vẫn thuộc hạng khá hơn.

Người cai trường chợt thở dài :

- Ông ấy là Cộng sản nằm vùng mà không ai biết. Năm trước đặt chất nổở chợ là do ông ấy. Mấy chục người chết ngày đó là thành tích của ông ấy. Bởi thế chính phủ cách mạng mới thưởng ông chức Hiệu Trưởng trường học.

Thu Vân nghe nói vụt cười như người điên mà nước mắt ứa ra vì nhớđến cái chết đau thương của mẹ và người tớ gái.

Hoá ra chất nổ đặt ở chợ là do tên Cộng sản nằm vùng làm phu quét chợ. Lần ấy ban an ninh và cảnh sát điều tra mà không tìm ra kẻ phá hoại. Không ai nghi ngờ một phu quét chợ già yếu lại làm việc đó ! Và bây giờ nhà nước trọng dụng cho làm Hiệu Trưởng trường học, không phải vì ông có trí tuệ của một học giả để dạy học trò, mà vì có thành tích giết người !

Thu Vân lại cuời !

Người cai trường thấy nàng mãi cười, ông cũng cười theo !

Có lẽ sống trong xã hội này để khóc mà cũng để cười. Có điều nụ cười này không vì vui sướng hạnh phúc, mà vì đau thương uất hận không trút ra được. Và nụ cười của Thu Vân lần này ngoài đau khổ còn có mỉa đời.

Một thi nhân viết rằng :

« Cười là tiếng khóc khô không lệ »

Con người khi nỗi thống khổ cùng cực, không khóc được nữa, sẽ phát ra nụ cười này.

Và khi nàng không cười nữa, sắc mặt nàng vô cùng ủ rũ. Nàng bảo người cai trường :

- Ông theo tôi vào nhà, tôi có chút tiền tặng ông.

- Cám ơn bà. Ông Hiệu Trưởng đã giúp gia đình tôi mười mấy năm nay, tôi mang ơn rất nặng. Tôi không dám nhận thêm lòng tốt của bà. Huống chi nỗi thống khổ của bà hiện tại không ai chia xớt, tôi rất lấy làm buồn.

Thu Vân chợt đổi giọng hết sức nghiêm trọng :

- Tôi muốn tặng ông ít tiền. Ông hãy theo tôi vào nhà.

Người cai trường không dám cãi lời nàng, lặng lẽ bước theo nàng vào nhà. Nàng hỏi :

- Ông định đi đâu ?

- Thật tình tôi không biết đưa gia đình đi đâu ? Tôi có người anh ruột làm ruộng ở xã Hương Thanh. Có lẽ tôi đưa gia đình đến ở đậu nhà anh. Nghe nói : Chính phủ cho phép nông dân cày cấy trồng trọt tự do mà không phải trả tiền thuê đất. Tôi nghĩ, ở thành phố bây giờ khó tìm việc làm, nên về miền quê làm ruộng may ra sống nổi.

Thu Vân ngẫm nghĩ : « Trong chế độ này có lẽ chỉ giai cấp nông dân được ưu đãi, mà họ là thành phần đông đảo, chiếm 80% dân số. Như thế nhà nước sẽ được sựủng hộ của sốđông quần chúng. Cũng tốt ! Nếu nhà nước đem được no ấm cho người nông dân cũng là điều đáng mừng. ».

Nàng nói :

- Phải lắm ! Ông nên về làng làm ruộng, chắc chắn sẽ sung sướng hơn ở thành thị. Làm cai trường mỗi tháng ông lãnh được bao nhiêu ?

- Lương tôi mỗi tháng 10.000 $ cho gia đình vợ chồng và 4 con.

Thu Vân mở ví tiền lấy 30.000$ đưa cho người cai trường rồi nói :

- Tôi tặng ông ba tháng lương để chi tiêu trong thời gian trồng trọt chưa thu được huê lợi.

Ông ta cầm số tiền trên tay, cảm động không nói được lời cám ơn. Thu Vân bảo :

- Thôi ông về lo việc nhà đi nhé ?

Người cai trường giã từ Thu Vân với nỗi bồi hồi cảm xúc. Thu Vân vô nhà đóng cửa lại, bắt đầu với việc của mình.

Nàng gom tất cả đồ vật quí giá chưng bày trong nhà cất vào phòng kín dưới hầm. Đến xế chiều hai người thợ hoàn tất việc xây mộ, Thu Vân cũng xong việc thu dọn đồ đạc.

Sau khi thanh toán tiền công cho hai người thợ, Thu Vân bắt đầu việc xới đất trồng hoa trước mộ cha. Thật ra nàng chỉ có việc bứng những khóm hoa trong vườn đem trồng lại đó. Cho nên chẳng mấy chốc ngôi mộ của cha nàng đã tô điểm màu sắc của hoa cỏ, không còn vẻảm đảm bữa trước.

Lo việc mồ mả cho cha xong, nàng vô cùng an ủi, bỗng nghĩ đến mẹ chồng và em chồng, chết mà không được yên mồ mả, lòng buồn tê tái. Nàng ngồi yên trước mộ cha một lúc mới trở vào nhà, trời cũng đã tối hẳn.

Đêm nay Thu Vân có nhiều việc phải làm. Nàng lấy một số y phục thường dùng của nàng và của Vân Trường chất vào vali để mai sáng đem về nhà ở Saigon. Những y phục không thường mặc, nàng bỏ lại. Ngoài ra Thu Vân cũng lấy theo những vật kỷ niệm của cha mẹ gồm bức ảnh cha mẹ rọi lớn, tập ảnh gia đình, khăn trãi bàn do chính tay mẹ nàng thêu và tập giấy ghi chép thi thơ cha nàng viết.

Sau cùng nàng vào mở tủ sắt kiểm điểm tiền mặt, thấy có hơn ba triệu. Nàng không biết phải bỏ vào đâu để mang đi mà không bị lính Cộng xét lấy ? Chắc chắn nàng không thể để trong vali hành lý, cũng không thể bỏ trong túi sắc đeo bên mình.

Ngồi suy nghĩ một lúc Thu Vân đi vào nhà bếp lấy cái giỏ tre thường ngày dùng đựng rau cải trái cây. Nàng xếp tiền nằm dưới đáy, đậy một lớp giấy nylon. Sau đó ra vườn lấy mớ đất bùn trét một lớp đất như trét ciment dưới đáy giỏ.

Nàng nghĩ, sáng mai nàng sẽ bỏ vào giỏ vài cây cải, ít cũ khoai và mớ cá khô. Như thế bọn Cộng có xét thấy thức ăn rẽ tiền chúng sẽ không tịch thu.

Nàng bỏ lại trong tủ sắt một ít tiền và mớ giấy tờ không quan trọng. Các giấy tờ quan trọng như tờ địa bộ ruộng đất, nhà cửa, khai sinh, hôn thú, bằng cấp …nàng giấu vào hai túi may kín bên trong ống quần.

Sắp sửa xong các thứ Thu Vân đi ngủ sớm. Sáng hôm sau nàng thức khoảng 8 giờ sáng , ăn mặc trang điểm sơ sài và vào bếp sữa soạn bữa ăn lót lòng cho mình.

Nàng dự tính khi ăn xong sẽđi thăm một vài hàng xóm, nhân thể gửi gấm nhà cho họ trông chừng. Ngoài ra nàng cũng phải ghé Phường trưởng trong làng để xin giấy tờ rời Mỹ Tho.

Từ hôm về nhà gặp bao nhiêu điều khốn đốn, nàng chưa kịp hỏi thăm Phường trưởng làng này là ai ? Dù là người lạ hay quen cũng là người chính phủ Cộng Sản tin dùng, chắc chắn không thuộc hạng tử tế. Nhưng đối với cộng sản, Thu Vân biết được một điều là chúng rất nghèo đói nên rất tham nhận hối lộ. Nàng có tiền đưa ra, chắc chắn việc xin giấy đi đường không phải khó khăn.

Hành trang đã sẵn sàng…

Đang ngồi ăn Thu Vân chợt nghe nhiều tiếng chân đi vào sân và nhiều giọng nói xa lạ miền Bắc. Trong lòng vừa ngạc nhiên vừa kinh sợ, Thu Vân chạy nhanh ra phòng khách xách vai quần áo và cái giỏ tre đựng tiền định cất vào phòng cha, rồi sẽ mở cửa xem khách lạ đến nhà là ai ?

Nhưng nàng chưa kịp làm điều muốn làm, cửa nhà bịđá tung ra…Ba tên lính Cộng ùa vào cùng với một sĩ quan mang lon Trung tá, khoảng tuổi trung niên, theo sau có một người đàn cũng tuổi trung niên.

Thu Vân còn đang ngơ ngác không hiểu bọn họ muốn gì ? Mụđàn bà trợn mắt hỏi nàng :

- Mày là ai ? Làm gì trong nhà này ?

Cùng một lúc với câu hỏi, mụ chợt thấy trên tay nàng xách vali và cái giỏ đựng thức ăn. Mụ sừng sộ chạy tới giựt cả hai thứ trên tay nàng, vừa chu chéo lên :

- Quân trộm cắp ! Mầy định chuyển tài sản của bà đi đâu ?

Nghe mụ nói, Thu Vân càng ngơ ngác lạ lùng ! Nàng đang ở trong nhà nàng, bỗng nhiên một tốp người lạ mặt ùa vào vu nàng trộm cắp tài sản của họ !

Ai ở trong hoàn cảnh của nàng chắc phải phát điên ! Thu Vân đã có chút kinh nghiệm với lối ăn nói ngang ngược của phe Cộng sản từ khi chúng vào Nam, nên chưa đến nỗi phát điên, nhưng mắt lơ láo nhìn họ, miệng đớ ra không nói được, y như một người chứng kiến một sự quái lạ trong đời.

Tên Trung tá Cộng sản hất hàm hỏi nàng :

- Ai cho phép bà vô nhà này ?

Giọng nói của hắn không đến nỗi hung dữ và có lẽ là người đầu tiên nói chuyện với nàng không xưng gọi mầy tao vô lễ. Thu Vân đã lấy được tình tĩnh, nhỏ nhẹđáp :

- Đây là nhà của cha mẹ tôi ! Cũng là nhà của tôi. Những đồ đạc trong nhà này đều là của tôi. Tôi nào có trộm cắp của ai đâu ?

- Bà nói vậy là lầm lắm ! Nhà này đã thuộc về tài sản của Đảng nhà nước. Chủ nhà này có tội với quốc dân, nên bị tước quyền công dân, tài sản bị tịch thu. Hiện tại tôi là chủ tài sản này.

Thu Vân nghe hắn nói, tay chân bủn rủn, người xịu xuống. Cũng may nàng đứng gần cái ghế, tay nàng phải vịn thành ghế mới không bị ngã.

Mụđàn bà giựt vali và giỏ thức ăn. Nhưng thấy giỏ thức ăn rẻ tiền lấm lem bùn đất, mụ quăng giỏ xuống nền nhà, lay huay mở vali để xem thứ gì bên trong ? Tuy nhiên vali Thu Vân đã khóa, mụ mở không được. Mụ giận dữ vung tay tát lên mặt Thu Vân, vừa thét lên :

- Mầy giấu cái chi trong đó ? Mau mở ra cho bà coi, chậm trễ bà xẻo thịt mầy đấy, con ạ !

Hai hàm răng hô của mụ nghiến lại, gương mặt đen đúa xấu xí, thân hình thô bỉ, tay chân kịch cợm nhưđàn ông ! Đứng gần người đàn bà nhan sắc như Thu Vân, trông mụ không khác gì con giả nhân.

Tên Trung tá Cộng từ khi trông thấy nàng, có lẽ hắn bị nhan sắc nàng thu hút, cho nên dù quen thói hung hăng với đồng bào miền Nam, nhưng trước người đàn bà đẹp giọng nói dịu dàng như nàng, tâm thần hắn dường như bị xúc động. Bởi thế từ lúc vào nhà thấy nàng, hắn chưa ra lệnh gì với thuộc hạ, cũng chưa có thái độ tàn nhẫn thô lỗ với Thu Vân.

Hắn thấy vợ hành hung nàng, liền nắm tay vợ kéo ra, nói :

- Đồng chí vợ chớđánh người ta. Để tôi bảo bà ấy mở vali.

Rồi hắn quay sang Thu Vân ra lệnh :

- Hãy mở vali.

Thu Vân không chống đối. Nàng lấy chìa khoá mở vali. Trung tá Cộng lục soát thấy chỉ toàn quần áo, hắn nói :

- Được rồi ! Tôi cho phép bà mang vali đi.

Nghe chồng nói, mụ vợ sợ Thu Vân lấy các thứ mang đi, vội vàng chụp vali lại, chu chéo nói với chồng :

- Đồng chí chồng đâu có quyền lấy của cải tài sản của Đảng tặng cho dân Ngụy ? Áo quần này là của tôi. Đồng chí không được cho con này. Tôi phản đối thái độ yếu hèn của đồng chí.

Vừa nói mụ vừa lấy áo của Thu Vân ướm thử lên người mụ. Đương nhiên với thân hình thô kệch như trâu của mụ không thể mặc vừa y phục của nàng.

Tên Trung tá Cộng cũng chẳng phải hạng tử tế gì. Chỉ vì cảm nhan sắc của Thu Vân nên lòng hắn yếu mềm không dám dỡ thói tham tàn quá mức. Hắn can gián vợ :

- Đồng chí vợ mặc y phục này không vừa đâu ! Thôi hãy tặng cho bà ấy. Trong nhà này còn rất nhiều thứ.

Mụ vợ vẫn còn tiếc rẽ chưa muốn buông bỏ cái áo trên tay. Mụ nói với chồng :

- Tơ lụa này thuở nào đến giờ tôi chưa được rờ mó. Giờ đây đã là của tôi, lẽđâu tôi để cho đàn bà Ngụy xài ? Tôi mặc không vừa, tôi sửa lại.

- Nếu to rộng thì đồng chí vợ mới sửa nhỏ lại được. Còn đây ni tấc nhỏ hơn, đồng chí vợ làm sao sửa rộng lớn lên được ? Thôi đi ! Hãy để cho bà ta mang đi đi. Tôi đã nói, còn nhiều thứ trong nhà này đáng giá hơn, mặc sức mà thích.

Không chờ sự thuận tình của vợ, tên Trung tá trao vali cho Thu Vân.

giavui
01-10-2015, 08:14 PM
Thái độ của mụ nữ cán bộ Cộng sản làm cho Thu Vân khinh bỉ hơn là oán giận. Thật tình trong lòng nàng chán chường đến độ không thiết gì nữa !

Mất quê hương, mất cha mẹ, mất con cái nhà cửa tài sản…Giờ có mất thêm vali quần áo, đối với nàng không còn là điều quan trọng nữa !

Cho nên khi tên Trung Tá Cộng trao vali cho nàng, nàng đón lấy một cách hững hờ, không nói tiếng nào, lững thững đi ra cửa…

Tên Trung tá đưa mắt trông theo.

Hiện tại đối với hắn, các thứ trong toà nhà này không có gì quí bằng người đàn bà xinh đẹp kia… Cho nên cái nhìn của hắn là cái nhìn tiếc rẽ.

Hắn muốn chạy tới nắm tay nàng giữ lại, mời nàng ở lại trong nhà này. Hay nếu cần hắn cũng muốn van xin nàng ở lại. Nhưng có mụ vợ bên cạnh, hắn không dám làm điều mình muốn, hắn đứng không yên.

Bất chợt thấy giỏ thức ăn của nàng còn đó, hắn như tìm được cớ chạy theo nàng. Hắn xách giỏ bước nhanh ra cửa, giả vờ nói với vợ :

- Cái giỏ này dơ bẩn quá, tôi phải đưa cho bà kia mang đi khỏi chỗ này. Đểở đây trông gớm quá !

Sau câu nói hắn chạy đi, vừa réo gọi Thu Vân :

- Này bà kia ! Còn giỏ thức ăn đây. Chờ tôi mang ra cho.

Mụ vợ có lẽđoán được thâm ý của chồng, mụ nổi cơn ghen, chạy theo chồng giựt cái giỏ lại, nói giọng hậm hực :

- Đồng chí chồng muốn đưa cho con nọ cái giỏ này thì để tôi mang ra giao cho nó. Ý gì đồng chí muốn chạy theo nó ?

Tên chồng sầm mặt, giựt cái giỏ trên tay vợ giao cho tên lính, nói :

- Mi chạy theo người đàn bà kia, trao giỏ cho bà ta.

Tên lính cầm giỏ chạy đi. Mụ vợ tức tối về thái độ của chồng liền chạy theo tên lính. Trung Tá Cộng sản bực tức quay vào nhà. Chợt thấy hai thằng lính đang sờ mó các thứ trong phòng khách, hắn trút cơn thịnh nộ lên đầu chúng :

- Chúng mầy không được sờ đến bất cứ vật gì trong nhà này. Mau ra sân kiểm soát khu vườn cho ta.

Hai người lính « vâng ạ » chạy đi. Hắn còn một mình trong phòng khách, đưa mắt quan sát một lượt đó đây…

Trong đời hắn có lẽ đến chết vẫn không tưởng tượng có ngày được sống trong toà biệt thự sang trọng như vậy. Cho nên hắn có cảm tưởng như mình đang nằm mộng. Và trong giấc mộng hắn thấy có cả tiên nữ. Tiếc rằng tiên nữđã đi rồi !

Vợ hắn, một cán bộ có nhiều thành tích, là do bác Hồ xe duyên cho hắn. Khi còn ở Hà Nội và chiến khu hắn rất hãnh diện mụ vợ, vì nàng là người đàn bà gan dạ, giết người như ngoé !

Thế nhưng từ khi chiếm được miền Nam, thấy đàn bà con gái trong Nam xinh đẹp, nhất là nàng tiên trong nhà này lúc nãy như hốt hồn hắn. Tự nhiên hắn mất nỗi vui sướng của kẻ vừa chiếm được tài sản nhà cửa !

Hắn thở dài thườn thượt. Tưởng tượng cuộc đời hắn cứ phải dính liền với vợ hắn thì dù có sống trong đền vua cũng chán ngấy !

Tâm lý chung của con người không có đạo đức, khi nghèo đói thì tham muốn tiền bạc của cải. Khi có đầy đủ vật chất thì khao khát tình ái.

Bởi thế mộng ước của tên Trung tá Cộng sản bây giờ không phải là được sống trong thiên đường của Bác, mà được sống với người vợ đẹp như người đàn bà chủ nhân ngôi nhà này.

Hắn nhắm mắt lại, mường tượng đến nàng…miệng lảm nhảm một mình :

- Trời ơi ! Một người đàn bà đẹp như thế nếu ta được nàng làm vợ một đêm thôi, hôm sau có chết cũng đáng một đời !

Bỗng dưng một ý nghĩ loé trong đầu hắn : « Tại sao ta không tiêu trừ mụ vợ ? Mụ làm cán bộ mật vụ, lại còn là đồng chí tin dùng của đồng chí chủ tịch. Ta làm chồng mụ mà lúc nào cũng sợ mụ. Chi bằng ta tìm cách thủ tiêu mụ không để lại dấu vết. Sau đó ta tìm người đàn bà lúc nãy, mời nàng trở về đây chung sống với ta. Hoặc giả, ta cũng có thể tìm một cô gái miền Nam xinh đẹp nào khác làm vợ.

- Phải lắm ! Giết mụ ! ta phải giết mụ !

Trong khi tên Trung Tá Cộng sản ngồi suy tính cách giết mụ vợ hắn thì Thu Vân đã ra tới đường lộ.

Tên lính Cộng chạy theo đưa trả nàng giỏ thức ăn. Thu Vân nhận lấy mới chợt nhớ trong giỏ có rất nhiều tiền.

Tâm hồn nàng đang đau thương đến cực điểm nên khi nhận lại giỏ tiền nàng cũng chẳng nghe vui. Nàng bước đi vài bước thì mụ cán bộ cũng ra tới. Mụ nắm áo nàng kéo lại, rồi giật cái vali trên tay Thu Vân, nói :

- Những áo quần tao mặc không vừa, tao cho mầy ! Cái vali tao không cho ! Trả lại tao !

Vừa nói mụ vừa mở vali trút các thứ xuống đường, rồi xách vali chạy tuốt vào nhà, không chờ phản ứng của Thu Vân.

Đồ đạc văng tứ tung dưới đất, nhất là tập thơ của cha nàng còn nhiều trang giấy để rời, gặp gió bay loạn ra đường lộ. Thu Vân sợ mất thơ kỷ niệm của cha, hấp tấp rượt theo lượn gió chụp mấy trang thơđang bay bay...

Thừa dịp nàng không lưu ý, tên lính bươi đống quần áo của nàng. Hắn chọp ngay mớ quần áo của Vân Trường rồi bỏ chạy. Chạy được vài bước hắn quay trở lại lấy thêm cái áo soutien của nàng. Sau đó mất dạng trong vườn nhà nàng.

Từ xa Thu Vân không thấy rõ tên lính đã lấy thứ gì của mình ? Nàng chỉ thấy hắn ôm một mớ áo quần chạy đi. Đối với nàng những bài thơ của cha mới đáng quí. Vì thế nàng mặc kệ thái độ lấy cắp của tên lính.

Thâm tâm nàng nghĩ : « Thượng cấp của hắn đã cướp nhà giựt của của nàng, nàng chẳng phản ứng, sá gì mớ quần áo ? ».

Nàng trở lại sau khi gom nhặt được mấy tờ giấy viết thi thơ của cha. Nhìn đồ đạc bừa bãi dưới đất Thu Vân không biết làm sao mang đi ? Chợt trông thấy bức ảnh cha mẹ, nước mắt nàng chảy ra.

Khi nãy bọn Cộng cướp nhà, hành hung, nàng không khóc. Giờ thấy hình ảnh của cha mẹ, nàng tủi thân khóc như mưa !

Thình lình trong nhà có hai tên lính chạy ra, đồng nói :

- Bà đưa cho chúng tôi mỗi đứa một cái lược cà phê.

Thu Vân trông thấy chúng đã vội vàng quẹt nước mắt. Nghe chúng bảo đưa cho chúng hai cái lược cà phê, nàng lắc đầu :

- Tôi không có.

Hai tên lính thấy nàng không chịu đưa cho, chúng nhào tới giựt đại chạy đi. Thu Vân thấy mỗi đứa lấy một cái áo soutien của nàng. Nàng lấy làm lạ, không hiểu chúng lấy áo soutien của đàn bà để làm gì ? Chợt nàng nghe cả hai bàn bạc từ xa :

- Cái lược cà phê này có hai bên. Mình cắt ra làm hai, xài một cái, một cái để dành 1.

Câu nói của chúng vừa lọt vào tai, Thu Vân nín cười không được, bật ra tiếng cười, mặc dù lệ còn rơi rơi...

Té ra bọn này thấy áo soutien của đàn bà tưởng là cái lược cà-phê ! Có lẽ tên lính ăn cắp đồ đạc khi nãy có lấy áo soutien của nàng và đem khoe hai tên này, nên chúng mới chạy ra xin nàng. Thu Vân tự hỏi : « Vì sao chúng ngu đến độ đó ? ».

Nàng nhớ cả ba mặt mày non choẹt, ở vào tuổi của Vân Trường. Có lẽ chúng sinh ra và lớn lên ở rừng sâu, chẳng hề tiếp xúc với xã hội bên ngoài, nên chẳng biết gì về cách ăn mặc của xã hội văn minh.

Nghĩ đến đó lòng nàng dâng lên niềm thương cảm. Tội nghiệp chúng nào biết gì ? Hy sinh cuộc đời cho bọn cầm đầu Hà Nội, giờ chiếm được đất đai, nhà cửa, của cải… của dân miền Nam thì cũng chỉ bọn cầm đầu hưởng thụ. Còn người lính Cộng sản vẫn sống khổ cực như kiếp thú vật!

Nàng vừa nghĩ ngợi vẫn vơ, vừa sắp xếp đồ đạc vào hai tấm khăn trãi bàn của mẹ, bó làm hai bó, đứng lên xách đi…

Thình lình từ xa có một cán binh Cộng sản từ xa đi tới, dáng điệu hết sức bơ phờ thiểu não, y như người thất tình thất chí. Phong cách hắn hoàn toàn khác lạ những cán binh Cộng Sản mà Thu Vân đã thấy từ khi Saigon thất thủ. Bởi bọn kia mặt mày hí hửng của kẻ vui mừng chiến thắng.

Trong lòng có chút tò mò, Thu Vân kín đáo nhìn hắn. Người hắn cao và gầy, sắc mặt vàng tái như người bị chứng rét rừng. Có điều hắn thuộc loại đàn ông đẹp. Hắn mang lon Thiếu Úy, bộ quân phục màu cỏ uá cũ kỷ, nơi thắt lưng có đeo súng.

Lúc hắn đến gần, Thu Vân bỗng thấy gương mặt hơi quen và đoán chừng tuổi hắn phải trên 40. Đôi mắt hắn âu sầu áo não. Mà hình như hắn không lưu ý đến sự hiện diện của nàng trước mặt, bước chân thất thểu như kẻ không hồn.

Hắn đứng trước cỗng rào nhà nàng một lúc lâu mới đưa tay nhận chuông. Thu Vân nghĩ mãi không ra đã gặp hắn ở đâu ? Nàng tự hỏi : « Phải chăng nàng đã gặp hắn ở nhà tù Cần Thơ ? Có lẽ không phải ! Một điều nàng đoán chắc hắn là đồng bọn với nhóm cướp nhà nàng, nên mới đến đây vào lúc này.

Hắn nhận chuông, song không hiểu sao hắn lại quay mặt ra đường như sợ người trong nhà thấy hắn ? Lúc bấy giờ hắn chợt thấy Thu Vân hai tay xách bó quần áo và giỏ thức ăn. Hắn mở to mắt lộ vẻ kinh ngạc, miệng há hốc như đứng trước một sự quá bất ngờ không thốt được lời.

Bỗng dưng Thu Vân bủn rủn chân tay, bỏ rơi các thứ trên tay xuống đất khi nhận ra hắn. Đúng vào lúc hắn kêu lên :

- Em ! Thu Vân em !

Hắn không ai khác hơn là Thy ! Người tình mà Thu Vân si mê điên dại hồi 19 năm xưa. Người chồng có mộng anh hùng, muốn dây dựng thiên đường cho quê hương !

Mới đầu Thu Vân nhớ đến lời của mẹ chồng viết trong thơ trước khi chết: «Chính Thy đã dẫn bộ đội về bắt mẹ. Con và Vân Trường phải trốn khỏi Mỹ Tho, đừng để Thy bắt gặp mà mang họa».

Thu Vân dợm chân muốn chạy. Nhưng lạ lùng làm sao đôi chân nàng như dính cứng trên mặt đường, không nhất lên được ! Toàn thân nàng từ từ sụm xuống…

Hắn bước tới nâng nàng lên, nhỏ nhẹ hỏi :

- Em ! Em nhận ra anh không?

Thu Vân ngước mặt nhìn hắn một lúc bỗng bật cười, giọng cuời thật chua chát:

- A! Thì ra anh hùng hồi gia đó à?

Nói mấy lời nàng tiếp tục cười như người điên. Thy không dám nhìn vợ, vẻ mặt khốn khổ.

Thu Vân hỏi:

- Anh còn nhớ bức thư anh viết cho tôi ngày anh ra đi, hẹn rằng: “Khi anh trở về nơi này là thiên đường?”. Và bây giờ thiên đường của anh đem cho gia đình anh và gia đình tôi thế nào, anh biết không?

Thy ứa nước mắt nói:

- Anh van em! Xin em vào nhà cho anh được thú tội với em. Rồi anh sẵn sàng chết đểđền tội.

Nghe chồng nói Thu Vân càng cười to hơn. Giọng cười về sau nghe như tiếng khóc nức nở. Thy ôm vai vợ dìu đi:

- Vào nhà cho anh được thú tội với em. Rồi anh sẽ tự xử anh trước mặt em.

Thu Vân vuột khỏi tay Thy:

- Tôi đâu còn nhà? Đồng chí của anh đã cướp nhà tôi, quăng đồđạc tôi ra đường, anh không thấy sao?

Thy biến sắc:

- Em nói sao? Chúng đã chiếm giựt nhà của em? Thế còn ba mẹ dâu?

Thu Vân vụt quắc mắt câm hờn nhìn Thy, khóc ré lên:

- Anh hỏi ba mẹ tôi ởđâu à? Anh giết mẹ tôi, anh giết cha tôi, anh giết con tôi, anh giết cả mẹ ruột và em ruột của anh! Anh đưa quân chó sói hổ mang về quê hương giết gia đình, giết đồng bào, giựt nhà, cướp của…Thiên đường của anh xây dựng bằng xác chết và tô điểm bằng máu! Tôi sợ thiên đường của anh, tôi ghê tởm anh! Tôi không muốn nhìn thấy anh nữa!

Nàng vừa khóc vừa nói, cùng lúc nhặt hai bó quần áo và giỏ thức ăn bước đi… Nhưng Thy nắm tay nàng giữ lại, nói giọng khẩn cầu:

- Anh van em! Em khoan đi! Chờ anh vào nhà nói chuyện với chúng nó. Anh không để chúng cướp nhà của em đâu! Chờ anh một chút thôi! Em đừng bỏđi! Hãy chờ anh!

Nói xong Thy rút súng cầm nơi tay, chạy phăng vào nhà.

Thu Vân đứng lặng nhìn theo…Rồi không hiểu nghĩ sao, nàng từ từ cất bước. Nàng đi độ khoảng mươi thước bỗng nghe tiếng súng nổ. Nàng đứng sựng lại nghe ngóng…

Bỗng nghe hai tiếng súng liên tiếp vang lên. Thu Vân ngoái đầu nhìn lại…

Từ trong nhà có một người chạy ra, bước chân lệch lạc xiêu vẹo, trên ngực đẫm máu. Người ấy cố chạy về phía Thu Vân, nhưng sức đã kiệt. Chỉ còn cách nàng vài ba bước người ấy ngã xuống. Người ấy chính là Thy!

Thu Vân đứng y một chỗ nhìn chồng… vẻ mặt vừa đau khổ, vừa lạnh lùng.

Thy cố gắng ngốc đầu dậy nhìn vợ bằng ánh mắt của kẻ sắp chết van cầu được tha tội, miệng thều thào nói:

- Anh có tội …quá nặng! Anh lầm…anh mù quáng! Em…em tha…

Nói đến đó Thy cúi đầu xuống, cơ hồ sức đã tàn, hơi thở đã dứt.

Thu Vân vẫn đứng bất động nhìn chồng bằng ánh mắt buồn và lạnh. Một lúc sau đầu Thy cử động, như muốn ngẩng mặt lên nhìn vợ lần cuối nhưng không đủ sức.

Thu Vân buông các thứ trên tay, bước tới nâng đầu chồng lên. Máu trong miệng Thy đã tràn ra. Thy mấp máy nói lời cuối cùng:

- Tha tội cho anh nghe em! Anh không cố ý… giết con. Anh không biết là Vân…

Thy chết trên tay vợ, mắt mở trừng trừng, linh hồn vĩnh viễn không tan nỗi uất hận.

Mườì chín năm bị Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Hanội lường gạc hy sinh cuộc đời, để rồi gia đình Thy và cả Thy đều chết bởi họ.

Mười chín năm làm chiến tranh, mục đích tạo dựng thiên đường, đem no ấm, hạnh phúc cho gia đình và dân tộc. Nào ngờ tài sản của gia đình Thy và của vợ đều bị mất và mọi người bị chết một cách tức tửi.

Thy chết! Nhưng trước phút chết tâm linh không tìm được an bình!

Nguyên hôm trước vật lộn với Đại Úy Vẹm, Thy quật được tay của Vẹm, chỉa vào tim hắn, lảy cò. Súng nổ…Bọn lính chạy vô thấy hai thượng cấp vật lộn nhau. Sau đó người nằm dưới cựa quậy đứng lên nói lảm nhảm như người điên. Chúng sợ Thy nổi cơn điên nên bỏ chạy cầu cứu ban cảnh sát an ninh.

Sau đó Thy bị vào tù. Thy tường thuật nội vụ xảy ra và khai mình vì tự vệ vật lộn với Vẹm, rủi ro súng trên tay Vẹm nổ. Những tên lính vốn không ưa Vẹm nên làm chứng thấy Thy bị uy hiếp. Mà cũng nhờ trong lúc khám tử thi của Vẹm, thượng cấp Thy tìm thấy bức thư của Thanh, biết chắc Thanh đã chết nên họ mừng rỡ bỏ qua việc hai cán bộấu đả giết nhau. Thy được ra tù.

Chằng ngờ ít hôm sau có một Đảng viên cao cấp đọc lá thư của Thanh quá tức giận, đứng tim chết ngay. Vì thế Thy bị cách chức, lại còn bị nhốt cả tháng.

Những ngày trong tù Thy ăn năn hối hận tội lỗi của mình đã làm trong mười chín năm, nhất là đối với mẹ và với vợ con. Nên sau khi ra tù Thy tức tốc tới nhà tù tìm mẹ để xin tha thứ, mà cũng dự tính cứu mẹ khỏi nhà giam. Nào ngờ lúc tới nơi mới hay biết mẹ tự tử chết. Tâm tưđau đớn, Thy thẩn thờđi về nhà của mẹ. Chẳng ngờ lúc đến nơi, nhà đã có một cán bộ cao cấp chiếm ở rồi. Biết mình yếu thế không chống lại tên cán bộ chiếm nhà, Thy đi lang thang từ đường nọ đến đường kia… Sau cùng quyết định đi tìm vợ để xin tha thứ, cũng để tự tử trước mặt nàng để tạ tội.

Nào ngờ mọi sự xảy ra không đúng như dự tính. Thy chết! Nhưng không phải cái chết chuộc tội với vợ, mà bị đồng bọn giết chết! Cho nên cái chết đầy tức tửi oán hận, mắt không nhắm lại được.

Thu Vân vuốt mắt chồng, nói:

- Tôi tha thứ anh cái tội đã làm khổ đời tôi. Nhưng tội anh đưa quân Cộng sản Hànội vào Nam hãm hại đồng bào, tội ấy lớn lắm, không thể tha thứ được!

Nàng nói xong buông Thy nằm xuống, đứng lên lấy hành trang của mình bước đi…

Con đường này thêm một lần nữa in vết chân của nàng. Nhưng có lẽđây là lần cuối, vì nó không còn là con đường dẫn về nơi nàng sinh sống.

Nàng đã bị mất tất cả! Ngay cả con đường đầy kỷ niệm này!

Những chiếc lá vàng của hai hàng cây bên đường chợt rơi lã tã xuống đất, không khác gì những giọt lệ buồn tiễn chân một người trong chuyến đi không có trở về.

**

Suốt khoảng hành trình từ Mỹ Tho đi Saigon Thu Vân không nhớ mình đã nghĩ gì và làm gì? Mãi đến khi lấy taxi bảo tài xếđưa về địa chỉ nhà nàng, Thu Vân bỗng lo sợ.

Trong đời nàng nhiều bất hạnh xảy ra không biết trước, nên nàng lo sợ có thêm một điều không may xảy đến.

Khi nàng trả tiền xe và xuống taxi bước đến cổng rào nhà nàng, chợt trông thấy các cửa sổ đều mở, chứng tỏ trong nhà có người ở. Lòng kinh động đôi chân Thu Vân sụm xuống, toàn thân tê dại, cơ hồ như tim ngưng đập, máu ngưng chuyển.

Nàng muốn thét lên : -Lại có kẻ chiếm giựt nhà! Nàng nhớ trước khi về Mỹ Tho nàng có khóa cửa cẩn

thận và giao chìa khóa cho người hàng xóm giữ dùm. Chẳng lẽ bọn Cộng đã bức bách người hàng xóm để giao nhà cho chúng?

Đang lúc Thu Vân hoang mang sợ hãi, bỗng có một cô gái từ trong nhà chạy ra kêu giọng mừng rỡ:

- Dì Vân! Dì đã về! Trời ơi, dì sao thế?

Chỉ vì cô ta thấy Thu Vân ngồi phệt dưới đất, đồ đạc văng tứ tung nên cô mới la hoảng, vừa chạy tới đỡ Thu Vân.

Thu Vân đã qua cơn hãi hùng, vui mừng đến ứa nước mắt, nói với cô gái:

- Con ởđây mà dì tưởng kẻ lạ nào chiếm nhà! Con đến một mình hay…

Nàng chưa dứt lời, trong nhà có hai người chạy ra. Một người nhào tới ôm nàng, nghẹn ngào nói:

- Em! Chị rất vui mừng có em vềđây!

Người ấy không ai khác hơn là Lan Mai, bạn đồng nghiệp của nàng, cũng là bạn thân duy nhất của Thu Vân.

Cả hai ôm chầm lấy nhau, bồi hồi xúc động. Từ khi chia tay đến nay chỉ hơn tháng, mà cả hai có cảm tưởng như nhiều năm không gặp!

Lan Mai dìu bạn vào nhà, trong khi hai cô gái lượm nhặt các thứ Thu Vân để rơi dưới đất. Thu Vân vừa đi vừa nói với bạn:

- Khi nãy đến cổng rào thấy các cửa sổ đều mở, em ngỡ bọn Cộng đã chiếm nhà em, em kinh tâm sụm ngay trước ngõ. May sao Mỹ thấy em, nó chạy ra và em thấy nó em mới hoàn hồn! Chị đến chơi và người hàng xóm mở cửa cho chị vào, phải không?

Lan Mai rưng rưng nước mắt, kéo bạn vào ngồi chung nơi băng dài trong phòng khách, nói:

- Chị sẽ giải thích lý do vì sao chị và hai con chị đến đây. Chị rất mừng gặp lại em. Bác và Vân Trường bình an chứ?

Câu hỏi của Lan Mai khiến Thu Vân cúi mặt, nước mắt chảy dài. Lan Mai thấy Thu Vân khóc, biết có điều trầm trọng xảy ra, giọng nàng đầy lo âu:

- Vân Trường ra sao hỡ em? Còn bác…

Thu Vân đáp giọng nghẹn ngào:

- Chết rồi! Em không còn ai nữa! Em mất tất cả chịơi! Gia đình em chết hết rồi!

- Vì sao chứ?

Lan Mai hỏi bằng gịong run run xúc động. Thu Vân ngồi lặng một lúc để đè nén cảm xúc, rồi mới nhìn bạn nói:

- Chuyện của em dài lắm, em sẽ kể chị nghe tường tận. Chị hãy kể em rõ, chồng chị có bị phiền phức gì không? Vì sao chị và hai cháu đến đây?

- Ảnh bị bắt rồi! Saigon thất thủ vài ngày sau họ kêu gọi trên đài phát thanh: “quân nhân và công chức hãy đến cơ quan của mình để tiếp tục làm việc, ai giữ chức vụ gì sẽ được trở lại chức vụđó. Anh Du nghĩ mình là sảnh sát đã lớn tuổi, chắc chẳng có tội gì nên đến sở cảnh sát trình diện. Nào ngờ anh vừa lú mặt đến văn phòng, họ bắt bỏ lên xe. Họ chỡđi đâu không ai biết rõ? Ngày hôm sau chị và hai con gái đang ở nhà chờ tin tức ảnh thì có một tên Cộng sĩ quan cấp tá, cùng với hai tên lính võ trang, xông vào nhà kéo chị với hai con gái xô ra đường. Quần áo tiền bạc hay thứ chi cũng không có trong người. Ít phút sau một chiếc xe chỡ tới vợ con tên sĩ quan Cộng vào nhà.

Ngừng một lúc đểđè nén xúc động, Lan Mai kể tiếp:

- Chị và hai con bị tống ra ngoài nhà, ngồi bên vệ đường mà không biết đi dâu? Tiền bạc không có một xu, bà con ở Saigon không có ai! Bất ngờ chị nhớ đến em, nên ba mẹ con chạy bộ tới nhà em. Lúc đến nơi chị mới nhớ em đã về Mỹ Tho. Thất vọng vì không gặp được em, ba mẹ con chị đứng khóc trước cửa nhà em. May sao bà hàng xóm của em trông thấy chạy tới hỏi thăm. Khi biết hoàn cảnh của chị, bà trao chìa khóa nhà em cho chị và bảo chị với hai cháu hãy ở lại nhà em để giữ nhà cho em. Vì nhà bỏ trống bọn Cộng biết được sẽ chiếm ở. Chị vào nhà em mà không xin phép trước nên chị rất e ngại. Mong em tha lỗi cho chị.

Thu Vân lắc đầu:

- Em phải cám ơn chị nữa là. Bởi nếu chị không ở trong nhà, biết đâu họđã chiếm mất rồi! Em bây giờ chỉ còn một thân. Em rất cần chị và hai cháu đến với em. Từđây chúng ta che chỡđùm bộc nhau. Cũng vì em chưa rõ Vân Trường sống hay chết nên phải tiếp tục sống để tìm con, chứ không em đã tự tử chết ngay khi nghe tin cha em bị bọn Cộng xử bắn tại phiên tòa nhân dân.

Nàng tường thuật cho bạn nghe chuyến đi Cần Thơ tìm Vân Trường bị vào tù. Khi ra tù về nhà mới hay tin cha chết, kế đến tin mẹ chồng chết. Đến chuyện nàng bị bọn Cộng cướp toà nhà của cha mẹở Mỹ Tho và gặp lại Thy v.v…

Hơn hai tiếng đồng hồ nàng mới trút cạn tâm sự khốn khổ của mình với bạn. Lan Mai ngồi nghe mà lệ rơi lã tã, nàng nói:

- Chị cứ tưởng chị với hai con chị không may. Dè đâu hỏi ra mới biết gia đình nào cũng gặp đại nạn, mà có lẽ nỗi thống khổ của em là to lớn nhất.

Thu Vân hỏi:

- Từấy đến nay chị còn đi làm không? Văn phòng luật sư Lang vẫn còn mở?

Lan Mai nghe bạn hỏi càng khóc to hơn, sụt sùi nói:

- Em ơi! Một tuần sau ngày Saigon mất, chính phủ Cộng sản tịch thu tất cả cơ sở thương mại và kỹ nghệ và các văn phòng tư đều bịđóng cửa. Bao nhiêu tài sản của ông chủ mình đều bị họ lấy sạch. Tối đêm đó ông uất ức cùng với vợ con uống thuốc độc, chết cả nhà!

- Trời ơi!

Thu Vân kêu bằng giọng thất thanh. Lan Mai quàng tay ôm bạn, nói tiếp:

- Em ơi! Giờđây mỗi gia đình có một thiên sử hận. Gia đình nào cũng gặp khốn khổ, chỉ hoàn cảnh mỗi người khác nhau thôi.

Thu Vân nhớ đến gương mặt khã ái của ông chủ tốt của mình phải chết một cách tức tửi, nỗi oán hờn dâng lên ngùn ngụt:

- Trong lịch sử của nhân loại không có bọn nào vừa tham vừa ác như bọn Cộng Hànội.

- Chúng giựt nhà cướp của, không cho ai có việc làm, tức là đẩy dân vào chỗ chết mà không cần phải giết, vừa để che mắt thế giới. Sự thật đấy là lối giết dân tàn ác nhất.

Thu Vân chợt nhớđến giỏ tiền của mình, nên nói:

- Hiện thời em còn tiền. Xin chị yên tâm phần này. Em ở lại đây vài ngày rồi em sẽđi tìm Vân Trường.

- Tìm ởđâu? Em có nghe chút tin tức gì về nó không?

Thu Vân lắc đầu:

- Em chẳng biết nó lạc lõng phương nào? Mẹ chồng em trước khi chết được tin Vân Trường cùng với hai cận vệ của tướng Thanh rời Bộ Tư Lệnh trước khi Thanh tự tử. Nếu đúng như thế thì nó đã về nhà từ lâu rồi. Em nghĩ, đến nay nó chưa về chắc là đã bị bọn Cộng bắt. Vì thế em định đi tìm nó ở nhà tù.

- Chị cũng muốn biết anh Du bị giam ởđâu? Nhưng nhà tù Cộng Sản giữ kín, làm sao mình có thể tìm gặp thân nhân?

- Đối với bọn Cộng, hễ có tiền hối lộ chúng là việc gì cũng không khó lắm. Em đề nghị: Hai chúng ta chia nhau đi dọ tin tức anh Du và Vân Trường. Nhà giao cho hai con chị trông coi. Thỉnh thoảng em với chị trở về nhà để báo tin nhau.

- Ý em hay lắm! Ngặt bây giờ chị không còn tiền bạc tài sản gì ngoài vài món nữ trang đeo trong người. Hôm đến đây chịđã bán một chiếc cà rá để có tiền xài tháng nay, giờ cũng sắp hết rồi.

Thu Vân moi tiền trong giỏ thức ăn của mình, nói:

- Em còn khoảng hơn ba triệu tiền mặt ởđây. Ba em đã rút hết tiền mặt ở ngân hàng cất vào tủ sắt trong nhà. Ngoài ra em cũng còn hơn 300 ngàn ở chương mục của em. Thiết tuởng với số tiền em có, đủ cho chúng ta tiêu xài một thời gian.

Lan Mai lắc đầu:

- Chị và các con ở đậu nhà em, lẽđâu còn dám xài tiền của em? Không! Em hãy cất để dành tiêu dùng. Phần tiền ở ngân hàng của em thì đứng nghĩ tới nữa. Vì tiền để ở nhà băng của thân chủ đều bị nhà nước tịch thu. Phần chị, chị sẽ bán hai món nữ trang còn lại để làm vốn mua bán vặt, làm kế sinh nhai.

- Xin chị đừng tính chuyện bán nữ trang. Hiện em còn quá nhiều tiền, chị hãy xài tiền của em. Bao giờ em không còn tiền mặt nữa, chị hãy bán nữ trang của chị.

Lan Mai cảm động trước tấm lòng tốt của bạn. Giờ phút này mới biết tình bạn là quí giá.

Thu Vân có Lan Mai trong lòng cảm thấy an ủi hơn lúc nào hết. Những ngày hoạn nạn bơ vơ, tinh thần và thể xác nàng đau thương cùng cực. Nay được sống trong tình bạn đầy thân ái, Thu Vân nhẹ nỗi đau sầu.

Cả hai bàn tình chuyện nhà một lúc, Thu Vân đi tắm. Thanh Mai lo việc nấu cơm chiều. Hai cô gái lo sắp xếp đồ đạc của Thu Vân vào tủ và dọn dẹp phòng cho nàng.

Ăn chiều xong Thu Vân đi thăm người hàng xóm, tức ông bà Trí. Ông là công chức về hưu đã năm năm rồi. Ông có hai con trai, một là công chức, một là sĩ quan. Và hai con gái đều làm cô giáo tiểu học Các con ông đều có gia đình và ở riêng nên mấy năm qua nhà ông rất vắng.

Khi Thu Vân nhận chuông, một cô gái mở cửa mời nàngvào nhà. Ông bà Trí tiếp đón nàng rất niềm nở. Bà Trí tâm sự ngay :

- Nhà tôi bây giờđông đảo lắm, chứa hai con gái, ba con dâu, bốn cháu ngoại, năm cháu nội, chật ních một nhà ! Cũng vì chồng chúng nó đều vào tù, tài sản tiền bạc bị Cộng sản lấy hết, chúng phải tới đây sống nương tựa nơi chúng tôi.

May mà chồng tôi đã hưu trí, chứ nếu còn là công chức chắc cũng vào tù và nhà này cũng bị tịch thu rồi !

Thu Vân thở dài :

- Bây giờ gia đình nào cũng gặp đại họa.

Nàng tường thuật cảnh tình của mình. Lần này nàng không khóc khi kể, một phần vì đã khóc quá nhiều, một phần vì thấy ai cũng gặp hoạn nạn chớ không phải riêng mình.

Nàng thấy hai con gái và ba con dâu của ông bà Trí đều còn trẻ, chồng bị tù, họ phải sống đời goá phụ giữa tuổi thanh xuân để nuôi con, thật tội nghiệp ! Hoàn cảnh của họ gần giống như hoàn cảnh của nàng khi xưa.

Nghĩ đến họ, nhớ đến mình, trong lòng Thu Vân càng thêm chua xót. Sợ nỗi cảm xúc dâng lên, nàng xin phép chủ nhà ra về, sau khi nói cám ơn đã cho bạn mình là Lan Mai vào nhà. Bà Trí vui vẻ nói :

- Đáng lý tôi phải xin lỗi cô. Vì tôi đã tự tiện đưa chìa khóa cho bà ấy. Chỉ vì nghe hoàn cảnh của bà ấy không khác gì các con tôi, nên tôi thương cảm mới để bà vào ở nhà cô, cũng để giữ nhà dùm cô.

- Bà thật là người giỏi tính bà biết lo liệu. Bởi vì nếu không nhờ bà làm vậy, chắc là căn nhà của tôi đã bị bọn Cộng tịch thu rồi.

- Bây giờ chúng ta chỉ còn đặt niềm tin nơi Chúa, nơi Phật, để sống còn. Con người khi đau khổ cùng cực sẽ trở về với đạo.

Câu nói của người hàng xóm khiến Thu Vân nhớ đến Duy Quang, con tim vụt đập liên hồi.

Từ ngày Cộng sản chiếm miền Nam đến nay thời gian không bao lâu, nàng gặp hoạn nạn triền miên, không để tâm trí nghĩ đến chàng. Giây phút này Thu Vân cảm thấy nhớ và cần sự hiện diện của chàng hơn bao giờ hết !

Mười mấy năm qua nàng sống nhờ thức ăn nước uống thần linh của chàng. Mười mấy năm qua nàng sống nhờ sự chăm sóc thương yêu của chàng. Và mười mấy năm qua cả hai đã sống cho nhau.

Tình yêu của họ không tạo bởi tình dục nên chẳng bao giờ có sự nhàm chán. Chỉ cần một khoảnh khắc nghĩ về nhau, đủđem cho họ cái hạnh phúc vô biên.

Tự nhiên Thu Vân có cảm tưởng như bao nhiêu khổ sầu đã vơi đi một nửa !

Từ nhà người hàng xóm trở về, khoảng đường vài thước, mà nàng hối hả bước vì nôn nao về cuộc hội ngộ ngày mai…

**

Sáng hôm sau nhằm ngày Chúa Nhật, Thu Vân sữa soạn đi lễ nhà thờ. Lan Mai theo đạo Phật nên không cùng đi với Thu Vân, nhưng nàng không quên căn dặn bạn :

- Em nên cẩn thận lúc vào thánh đường, phải đề phòng công an mật vụ theo dõi và làm khó dễ em.

Thu Vân châu mày :

- Chúng nó không để yên chỗ thờ phượng nữa sao ?

- Chắc chắn không còn như ngày trước đâu ! Hai tuần trước chị và hai con đi Chùa. Nào ngờ đến nơi không gặp các Thầy, chỉ thấy các nhà sư lạ hoắc, đầu mới cạo trọc, mặt mày hung tợn, đôi mắt soi bói nhìn đạo hữu vào Chùa. Chị và hai con sợ quá phải hấp tấp ra về.

Thu Vân nói giọng chua chát :

- Chỉ vì tôn giáo dạy con người tránh làm điều dữ. Chúng tàn ác vô nhân nên sợ lời Chúa lời Phật.

Lan Mai lắc đầu :

- Chúng không sợ lời Chúa lời Phật đâu em ! Sở dĩ chúng không muốn dân chúng đến chỗ thờ phượng vì sợ gặp mặt các nhà lãnh đạo tôn giáo. Chúng sợ giới này xúi giục tín hữu của mình chống lại sự cai trị tàn ác của chúng.

- Và chúng cho người giả làm nhà tu để dễ bề kiểm soát tư tưởng của dân. Vì đạo hữu thường hay tâm sự kể lễ mọi việc với các Cha, các Sư.

- Đúng vậy !

- Như thế hiện nay chỗ thờ phượng đều do người của chúng trông coi ?

- Đương nhiên chúng phải để vài người cũ, những người chịu theo mệnh lệnh của họ và đương nhiên chúng không cho những người này được tiếp xúc thân cận với tín hữu.

Thu Vân rầu rĩ trong lòng. Nàng mong gặp lại Duy Quang để tâm sự chuyện nhà và cũng để cho chàng biết về sự mất tích của Vân Trường. Nhưng trước tình cảnh này chưa chắc Duy Quang có mặt ở nhà thờ, mà nếu có chưa chắc nàng tới gần được !

Lan Mai nhưđoán được tâm sự của nàng, nên nói :

- Chị nóí như thế để em đề phòng khi tới giáo đường. Em đừng quá tuyệt vọng. Có thể Cha Duy Quang đang chờ sự thăm viếng của em ở nhà thờ.

Thu Vân cám ơn bạn rồi ra đường đón xe. Nàng đón cyclo đạp vì giờđó Bus quá đầy khách. Cũng vì xe tư nhân không còn nên ai nấy chen lấn trên Bus.

Đến nhà thờ Thu Vân lưu ý và nhận ra ngay những tên Cộng Sản mật vụ đứng loanh quanh các cửa ra vào. Nàng cúi mặt lặng lẽ bước vào giảng đường. Thường thường buổi lễ 10 giờ sáng tín hữu rất đông. Bữa nay không có mấy người. Cha làm lễ là một người lạ, Thu Vân chưa hề gặp.

Cuộc lễ chấm dứt thật nhanh và mọi người hối hả ra về. Thu Vân còn ngồi lại cầu nguyện, với hy vọng Duy Quang từ bên trong thấy nàng sẽđi ra.

Nàng đang lâm râm cầu nguyện, chợt có một người đàn bà đi tới quỳ bên cạnh nàng. Người ấy cũng giả vờ gục đầu cầu nguyện, song nói thật khẽ cho nàng nghe :

- Bà Thu vân ! Tôi chờ bà hơn hai tuần nay rồi. Bà nên theo tôi ra chợ « Trời ». Ởđó người đông đảo, không ai lưu ý, tôi sẽ bà biết một tin quan trọng. Bà nên rời nhà thờ ngay. Cha làm lễ khi nãy là…

Người đàn bà nói chưa dứt câu, chợt nghe tiếng chân thật nhẹđi tới. Bà ta giả vờ đọc đoạn chót bài cầu kinh thường nhật, rồi làm dấu thánh đứng lên hấp tấp bước đi.

Thu Vân cũng chấm dứt bài cầu kinh và đứng lên. Chợt nghe tiếng nói xa lạ từ phía sau :

- Chắc con có điều phiền muộn cần tâm sự ? Cha mời vào phòng cáo giải.

Thu Vân ngỡ vị tu sĩ nói với mình nên quay mặt lại định trả lời. Song nàng nghe tiếng của người đàn bà, lần này nàng nhận ra giọng nói quen thuộc, chính là bà Phú, người hay trò chuyện với Cha Duy Quang lúc trước. Bà ấy nói :

- Cám ơn Cha thật nhiều. Hiện nay toàn dân đang hưởng thái bình an lạc, con đâu có điều gì phiền muộn? Con sở dĩở lại cầu nguyện là để cám ơn Chúa đã giúp cho quân đội của Bác Hồ thành công việc giải phóng miền Nam, giúp cho nhân dân miền Nam ngày nay sống no ấm hạnh phúc.

- À thì ra con cầu nguyện là để tạơn Chúa đã giúp Bác Hồ à ? Sự thật cách mạng thành công là do Bác Hồ và Đảng tranh đấu. Chúa làm gì mà giúp được chứ ?

- Phải phải ! Cha nói đúng ! Con nói bậy ! Xin lỗi Cha ! Con xin phép… đi về…Kính chào Cha.

Bà Phú nói giọng lấp bấp sợ hãi, rồi quýnh quáng đi ra cửa. Thu Vân nghe mấy lời bà nói khi nãy, tưởng bà đã khôn khéo trả lời. Nào đâu tên mật vụ đội lớp tu sĩ cũng bắt bẽ được ! Quả thật nguy hiểm khi đối đáp với họ !

Nàng cũng lo sợ mình bị chất vấn nên vội vã bước đi. Nào ngờ tên tu sĩ Cộng chận nàng lại, hỏi :

- Sao vẻ mặt con đầy suy tư vậy ? Chắc là con cần phải vào phòng cáo giải để nói cho Cha nghe chứ ?

Thu Vân quýnh quáng đáp :

- Không ! Không ! Con chẳng có điều gì lo nghĩ. Chẳng qua thằng con của con cứng đầu…không nghe lời dạy bảo của con, nên con có chút phiền muộn.

- Nếu thế con cần phải vào phòng cáo giải tâm sự với Cha để Cha rõ thằng con làm gì ?

- Thưa Cha, con xin phép vào phòng cáo giải hôm khác. Hôm nay con phải về ngay vì…không dám bỏ thằng con ở nhà một mình.

- Nó bao nhiêu tuổi ?

- Dạ…5 tuổi !

- A !

Có lẽ hắn nghĩ con nàng đã lớn, nên muốn điều tra con nàng làm gì. Chừng nghe Thu Vân cho biết đứa con 5 tuổi, hắn cụt hứng nói sẳng :

- Thôi đi vềđi !

Thu Vân bước nhanh khỏi giảng đường mà có cảm tưởng tên Cộng sản đội lớp Linh mục đang theo dõi mình, khiến nàng sỡn tóc gáy.

Nàng ra đường nhìn dáo dác không thấy bà Quí, trong lòng vô cùng thất vọng. Chợt nhớ lại khi nãy bà có hẹn nàng ở chợ lộ thiên. Nàng nhằm hướng chợ Trời tiến bước.

Đi một đỗi xa nhà thờ, Thu Vân thấy có người đứng ở nhã tư đường đưa tay ngoắt nàng. Thu Vân nhận ra bà Phú nên mừng rõ bước nhanh tới. Bà chào nàng và nói.

- Xin lỗi, tôi không dám chờ bà trước nhà thờ vì mật vụ đứng quanh đó. Hễ thấy người người tụ lại trò chuyện họ gọi từng người tới tra hỏi đang bàn chuyện gì ? Nếu là chuyện không quan trọng và mình dám nói thật, thì mọi người cùng trả lời giống nhau. Bằng như câu chuyện có lời gì phê bình đến chính phủ, không ai dám nói thật ra, mỗi người phịa ra một câu chuyện, thành ra không ăn khớp với nhau. Lúc đó họ biết mình nói dối, họ bắt bỏ tù viết lời khai. Khai cho đến khi nào cả nhóm nói ăn khớp với nhau họ mới ngưng tra tấn. Lúc đó thì mình đã chết mất rồi !

Thu Vân từng sống trong nhà tù Cộng Sản, nghe Bà Phú nói cũng phải rùng mình kinh hãi. Nàng hỏi :

- Do đâu bà biết rành quá vậy ?

- Tôi đã chứng kiến nhiều người bị bắt trước cửa nhà thờ, chỉ vì trước khi ra về còn đứng nán lại bàn tán nghi ngờ về những Cha Cộng Sản đội lớp. Tôi suýt bị bắt một lần, nên sau đó tôi rút kinh nghiệm không dám đi chung với người thứ hai vào nhà thờ.

Bà Phú vụt nắm tay nàng kéo đi, nói tiếp :

- Chúng ta vừa đi vừa nói chuyện, tiện hơn. Tôi muốn ra chợ Trời. Bà muốn đi chợấy với tôi không ?

Thu Vân mỉm cười, gật đầu :

- Đương nhiên tôi muốn theo bà để nghe bà cho biết tin quan trọng mà bà đã nói với tôi lúc nãy trong giáo đường. Phải chăng là tin tức của Cha Duy Quang ?

- Đúng vậy ! Từ ba tuần nay tôi tới lui thường xuyên ở giáo đường là để tìm bà, theo lời căn dặn của Cha.

- Xin Bà cho tôi biết hiện Cha ởđâu ?

- Chính tôi cũng không biết.

Thu Vân biến sắc hỏi :

- Như vậy nghĩa là sao ?

- Sau ngày Saigon mất, tín đồ tới nhà thờđông lắm. Chính quyền Cộng Sản lưu ý chuyện này. Hôm ấy Cha Duy Quang giảng một bài thật hay, nói vềđiều lành và điều ác. Cha nói : Chúa Jesus dạy môn đồ : « Ai gieo giống chi sẽ hái trái đó, kẻ làm ác sẽ bị hình phạt của Chúa Trời ». Trong nhóm tín hữu có người thóc mách câu nói đó với bọn mật vụ. Vì thế Cha bị mời đến cơ quan an ninh. Cha nhận được giấy thì sắp sữa đi trình diện họ. May nhờ một tín hữu cho biết : « các Cha bị cơ quan an ninh gửi giấy mời đều bị bắt gìữ luôn » và khuyên Cha nên trốn đi. Cha rời nhà thờ thì ít phút sau bọn lính tới. Không gặp Cha chúng bắt các Cha phụ tá. Hiện trong nhà thờ chỉ còn một Cha theo phe Cộng Sản. Còn những Cha mới lạ đều là công an đội lớp.

- Làm sao Cha Duy Quang gặp bà ? Và Cha nhờ nhắn với tôi chuyện gì?

- Chính là Cha đến nhà tôi ! Sau khi trốn khỏi nhà thờ Cha đến nhà tôi, nhờ tôi trở lại phòng Cha ở tu viện lấy quần áo và số tiền của Cha còn để đó. Tối đó Cha ngủ lại nhà tôi và nhờ tôi tìm bà nhắn rằng : « Bà và con trai bà đừng tới nhà thờ, cũng đừng lo cho Cha. Cha tìm chỗ an toàn lánh mặt một thời gian. Sau này sẽ gặp lại ».

Thu Vân hỏi giọng buồn thiu :

- Như vậy Cha rời Saigon chăng ?

- Tôi thật không rõ ! Cha ngủở nhà chúng tôi một đêm, sáng sớm hôm sau lấy taxi ra đi, không cho vợ chồng tôi hay biết đi đâu.

Thu Vân lặng im một lúc nói :

- Cám ơn bà đã cho tôi rõ mọi sự.

Lúc ấy cả hai đã đến chợ Trời. Khi xưa nơi đây chỉ vài sạp hàng bán đồ cũ dọc theo lề đường. Vào thời Mỹ, lính Mỹ mua các thứ trong chợ dành riêng cho quân đội Mỹ, là hàng hoá từ nước ngoài không có thuế, đưa bán tại đây. Từđó nơi đây trở thành chợ bán các thứ của lính Mỹ. Sau ngày Cộng Sản chiếm Saigon, chợ này biến thành chỗ để dân Saigon đem đồ đạc trong nhà ra bán để có tiền sinh sống. Bởi hiện nay công tư chức đều vào tù, hoặc thất nghiệp, và dân miền Nam kéo dài sự sống của họ bằng việc mang đồ đạc trong nhà ra bán. Dĩ nhiên khách hàng là cán binh Cộng Sản, vì chỉ họ mới có tiền và chỉ họ mới chưa từng có các thứấy.

Thu Vân nhìn khung cảnh chợ trời dạ bùi ngùi. Tự nhủ : Một ngày nào đó nàng cũng sẽ mang đồ đạc ra bán, vì nàng cũng sẽ như mọi người, cần tiền để mua thức ăn để sống còn.

Bỗng dưng lòng nàng dâng lên nỗi bi quan cùng cực… Tự hỏi : « Tại sao mọi người cần phải sống ? Nơi địa ngục trần gian này đâu có gì là sinh thú, tại sao ai cũng bám lấy sự sống và lo sợ cái chết ? ».

- Bà cần mua thứ chi không ?

Câu hỏi của bà Phú giúp Thu Vân qua cơn bi thiết trong lòng. Nàng lắc đầu :

- Không !

Bà Quí nói :

- Nếu tôi còn tiền trong nhà tôi sẽ ra đây mua các thứđem về nhà trữ để dành. Vì nay mai chắc chắn chính phủ Cộng Sản sẽ ra thứ tiền mới và lúc ấy chưa chắc mình đổi tiền cũ dễ dàng và sòng phẳng.

Câu nói của bà Phú khiến Thu Vân giật mình khi nhớ tới giỏ tiền của mình. Nàng nghĩ, có lẽ nàng không nên giữ tiền mặt quá nhiều, phòng khi nhà nước ra tiền mới, tiền cũ không đổi được hay bị mất như bà Phú dựđoán. Cho nên nàng cần phải xử dụng số tiền mặt hiện có bằng cách mua đồ đạc về nhà trữđó để sau này bán lại.

Nghĩ như thế, Thu Vân muốn trở về nhà lập tức để bàn bạc với Lan Mai. Nàng giã từ bà Phú và nói :

- Xin cám ơn Bà lần nữa. Tôi phải về nhà vì còn nhiều việc phải làm.

Bà Phú mỉm cười :

- Không có chi ! Chúc bà nhiều may mắn.

Cả hai chào nhau lần nữa. Thu Vân hấp tấp rời chợ Trời, cõi lòng đa đoan…
--------------------------------
1 Chuyện có thật khi cộng sản Hanội vào Nam.

giavui
01-10-2015, 08:14 PM
Thái độ của mụ nữ cán bộ Cộng sản làm cho Thu Vân khinh bỉ hơn là oán giận. Thật tình trong lòng nàng chán chường đến độ không thiết gì nữa !

Mất quê hương, mất cha mẹ, mất con cái nhà cửa tài sản…Giờ có mất thêm vali quần áo, đối với nàng không còn là điều quan trọng nữa !

Cho nên khi tên Trung Tá Cộng trao vali cho nàng, nàng đón lấy một cách hững hờ, không nói tiếng nào, lững thững đi ra cửa…

Tên Trung tá đưa mắt trông theo.

Hiện tại đối với hắn, các thứ trong toà nhà này không có gì quí bằng người đàn bà xinh đẹp kia… Cho nên cái nhìn của hắn là cái nhìn tiếc rẽ.

Hắn muốn chạy tới nắm tay nàng giữ lại, mời nàng ở lại trong nhà này. Hay nếu cần hắn cũng muốn van xin nàng ở lại. Nhưng có mụ vợ bên cạnh, hắn không dám làm điều mình muốn, hắn đứng không yên.

Bất chợt thấy giỏ thức ăn của nàng còn đó, hắn như tìm được cớ chạy theo nàng. Hắn xách giỏ bước nhanh ra cửa, giả vờ nói với vợ :

- Cái giỏ này dơ bẩn quá, tôi phải đưa cho bà kia mang đi khỏi chỗ này. Đểở đây trông gớm quá !

Sau câu nói hắn chạy đi, vừa réo gọi Thu Vân :

- Này bà kia ! Còn giỏ thức ăn đây. Chờ tôi mang ra cho.

Mụ vợ có lẽđoán được thâm ý của chồng, mụ nổi cơn ghen, chạy theo chồng giựt cái giỏ lại, nói giọng hậm hực :

- Đồng chí chồng muốn đưa cho con nọ cái giỏ này thì để tôi mang ra giao cho nó. Ý gì đồng chí muốn chạy theo nó ?

Tên chồng sầm mặt, giựt cái giỏ trên tay vợ giao cho tên lính, nói :

- Mi chạy theo người đàn bà kia, trao giỏ cho bà ta.

Tên lính cầm giỏ chạy đi. Mụ vợ tức tối về thái độ của chồng liền chạy theo tên lính. Trung Tá Cộng sản bực tức quay vào nhà. Chợt thấy hai thằng lính đang sờ mó các thứ trong phòng khách, hắn trút cơn thịnh nộ lên đầu chúng :

- Chúng mầy không được sờ đến bất cứ vật gì trong nhà này. Mau ra sân kiểm soát khu vườn cho ta.

Hai người lính « vâng ạ » chạy đi. Hắn còn một mình trong phòng khách, đưa mắt quan sát một lượt đó đây…

Trong đời hắn có lẽ đến chết vẫn không tưởng tượng có ngày được sống trong toà biệt thự sang trọng như vậy. Cho nên hắn có cảm tưởng như mình đang nằm mộng. Và trong giấc mộng hắn thấy có cả tiên nữ. Tiếc rằng tiên nữđã đi rồi !

Vợ hắn, một cán bộ có nhiều thành tích, là do bác Hồ xe duyên cho hắn. Khi còn ở Hà Nội và chiến khu hắn rất hãnh diện mụ vợ, vì nàng là người đàn bà gan dạ, giết người như ngoé !

Thế nhưng từ khi chiếm được miền Nam, thấy đàn bà con gái trong Nam xinh đẹp, nhất là nàng tiên trong nhà này lúc nãy như hốt hồn hắn. Tự nhiên hắn mất nỗi vui sướng của kẻ vừa chiếm được tài sản nhà cửa !

Hắn thở dài thườn thượt. Tưởng tượng cuộc đời hắn cứ phải dính liền với vợ hắn thì dù có sống trong đền vua cũng chán ngấy !

Tâm lý chung của con người không có đạo đức, khi nghèo đói thì tham muốn tiền bạc của cải. Khi có đầy đủ vật chất thì khao khát tình ái.

Bởi thế mộng ước của tên Trung tá Cộng sản bây giờ không phải là được sống trong thiên đường của Bác, mà được sống với người vợ đẹp như người đàn bà chủ nhân ngôi nhà này.

Hắn nhắm mắt lại, mường tượng đến nàng…miệng lảm nhảm một mình :

- Trời ơi ! Một người đàn bà đẹp như thế nếu ta được nàng làm vợ một đêm thôi, hôm sau có chết cũng đáng một đời !

Bỗng dưng một ý nghĩ loé trong đầu hắn : « Tại sao ta không tiêu trừ mụ vợ ? Mụ làm cán bộ mật vụ, lại còn là đồng chí tin dùng của đồng chí chủ tịch. Ta làm chồng mụ mà lúc nào cũng sợ mụ. Chi bằng ta tìm cách thủ tiêu mụ không để lại dấu vết. Sau đó ta tìm người đàn bà lúc nãy, mời nàng trở về đây chung sống với ta. Hoặc giả, ta cũng có thể tìm một cô gái miền Nam xinh đẹp nào khác làm vợ.

- Phải lắm ! Giết mụ ! ta phải giết mụ !

Trong khi tên Trung Tá Cộng sản ngồi suy tính cách giết mụ vợ hắn thì Thu Vân đã ra tới đường lộ.

Tên lính Cộng chạy theo đưa trả nàng giỏ thức ăn. Thu Vân nhận lấy mới chợt nhớ trong giỏ có rất nhiều tiền.

Tâm hồn nàng đang đau thương đến cực điểm nên khi nhận lại giỏ tiền nàng cũng chẳng nghe vui. Nàng bước đi vài bước thì mụ cán bộ cũng ra tới. Mụ nắm áo nàng kéo lại, rồi giật cái vali trên tay Thu Vân, nói :

- Những áo quần tao mặc không vừa, tao cho mầy ! Cái vali tao không cho ! Trả lại tao !

Vừa nói mụ vừa mở vali trút các thứ xuống đường, rồi xách vali chạy tuốt vào nhà, không chờ phản ứng của Thu Vân.

Đồ đạc văng tứ tung dưới đất, nhất là tập thơ của cha nàng còn nhiều trang giấy để rời, gặp gió bay loạn ra đường lộ. Thu Vân sợ mất thơ kỷ niệm của cha, hấp tấp rượt theo lượn gió chụp mấy trang thơđang bay bay...

Thừa dịp nàng không lưu ý, tên lính bươi đống quần áo của nàng. Hắn chọp ngay mớ quần áo của Vân Trường rồi bỏ chạy. Chạy được vài bước hắn quay trở lại lấy thêm cái áo soutien của nàng. Sau đó mất dạng trong vườn nhà nàng.

Từ xa Thu Vân không thấy rõ tên lính đã lấy thứ gì của mình ? Nàng chỉ thấy hắn ôm một mớ áo quần chạy đi. Đối với nàng những bài thơ của cha mới đáng quí. Vì thế nàng mặc kệ thái độ lấy cắp của tên lính.

Thâm tâm nàng nghĩ : « Thượng cấp của hắn đã cướp nhà giựt của của nàng, nàng chẳng phản ứng, sá gì mớ quần áo ? ».

Nàng trở lại sau khi gom nhặt được mấy tờ giấy viết thi thơ của cha. Nhìn đồ đạc bừa bãi dưới đất Thu Vân không biết làm sao mang đi ? Chợt trông thấy bức ảnh cha mẹ, nước mắt nàng chảy ra.

Khi nãy bọn Cộng cướp nhà, hành hung, nàng không khóc. Giờ thấy hình ảnh của cha mẹ, nàng tủi thân khóc như mưa !

Thình lình trong nhà có hai tên lính chạy ra, đồng nói :

- Bà đưa cho chúng tôi mỗi đứa một cái lược cà phê.

Thu Vân trông thấy chúng đã vội vàng quẹt nước mắt. Nghe chúng bảo đưa cho chúng hai cái lược cà phê, nàng lắc đầu :

- Tôi không có.

Hai tên lính thấy nàng không chịu đưa cho, chúng nhào tới giựt đại chạy đi. Thu Vân thấy mỗi đứa lấy một cái áo soutien của nàng. Nàng lấy làm lạ, không hiểu chúng lấy áo soutien của đàn bà để làm gì ? Chợt nàng nghe cả hai bàn bạc từ xa :

- Cái lược cà phê này có hai bên. Mình cắt ra làm hai, xài một cái, một cái để dành 1.

Câu nói của chúng vừa lọt vào tai, Thu Vân nín cười không được, bật ra tiếng cười, mặc dù lệ còn rơi rơi...

Té ra bọn này thấy áo soutien của đàn bà tưởng là cái lược cà-phê ! Có lẽ tên lính ăn cắp đồ đạc khi nãy có lấy áo soutien của nàng và đem khoe hai tên này, nên chúng mới chạy ra xin nàng. Thu Vân tự hỏi : « Vì sao chúng ngu đến độ đó ? ».

Nàng nhớ cả ba mặt mày non choẹt, ở vào tuổi của Vân Trường. Có lẽ chúng sinh ra và lớn lên ở rừng sâu, chẳng hề tiếp xúc với xã hội bên ngoài, nên chẳng biết gì về cách ăn mặc của xã hội văn minh.

Nghĩ đến đó lòng nàng dâng lên niềm thương cảm. Tội nghiệp chúng nào biết gì ? Hy sinh cuộc đời cho bọn cầm đầu Hà Nội, giờ chiếm được đất đai, nhà cửa, của cải… của dân miền Nam thì cũng chỉ bọn cầm đầu hưởng thụ. Còn người lính Cộng sản vẫn sống khổ cực như kiếp thú vật!

Nàng vừa nghĩ ngợi vẫn vơ, vừa sắp xếp đồ đạc vào hai tấm khăn trãi bàn của mẹ, bó làm hai bó, đứng lên xách đi…

Thình lình từ xa có một cán binh Cộng sản từ xa đi tới, dáng điệu hết sức bơ phờ thiểu não, y như người thất tình thất chí. Phong cách hắn hoàn toàn khác lạ những cán binh Cộng Sản mà Thu Vân đã thấy từ khi Saigon thất thủ. Bởi bọn kia mặt mày hí hửng của kẻ vui mừng chiến thắng.

Trong lòng có chút tò mò, Thu Vân kín đáo nhìn hắn. Người hắn cao và gầy, sắc mặt vàng tái như người bị chứng rét rừng. Có điều hắn thuộc loại đàn ông đẹp. Hắn mang lon Thiếu Úy, bộ quân phục màu cỏ uá cũ kỷ, nơi thắt lưng có đeo súng.

Lúc hắn đến gần, Thu Vân bỗng thấy gương mặt hơi quen và đoán chừng tuổi hắn phải trên 40. Đôi mắt hắn âu sầu áo não. Mà hình như hắn không lưu ý đến sự hiện diện của nàng trước mặt, bước chân thất thểu như kẻ không hồn.

Hắn đứng trước cỗng rào nhà nàng một lúc lâu mới đưa tay nhận chuông. Thu Vân nghĩ mãi không ra đã gặp hắn ở đâu ? Nàng tự hỏi : « Phải chăng nàng đã gặp hắn ở nhà tù Cần Thơ ? Có lẽ không phải ! Một điều nàng đoán chắc hắn là đồng bọn với nhóm cướp nhà nàng, nên mới đến đây vào lúc này.

Hắn nhận chuông, song không hiểu sao hắn lại quay mặt ra đường như sợ người trong nhà thấy hắn ? Lúc bấy giờ hắn chợt thấy Thu Vân hai tay xách bó quần áo và giỏ thức ăn. Hắn mở to mắt lộ vẻ kinh ngạc, miệng há hốc như đứng trước một sự quá bất ngờ không thốt được lời.

Bỗng dưng Thu Vân bủn rủn chân tay, bỏ rơi các thứ trên tay xuống đất khi nhận ra hắn. Đúng vào lúc hắn kêu lên :

- Em ! Thu Vân em !

Hắn không ai khác hơn là Thy ! Người tình mà Thu Vân si mê điên dại hồi 19 năm xưa. Người chồng có mộng anh hùng, muốn dây dựng thiên đường cho quê hương !

Mới đầu Thu Vân nhớ đến lời của mẹ chồng viết trong thơ trước khi chết: «Chính Thy đã dẫn bộ đội về bắt mẹ. Con và Vân Trường phải trốn khỏi Mỹ Tho, đừng để Thy bắt gặp mà mang họa».

Thu Vân dợm chân muốn chạy. Nhưng lạ lùng làm sao đôi chân nàng như dính cứng trên mặt đường, không nhất lên được ! Toàn thân nàng từ từ sụm xuống…

Hắn bước tới nâng nàng lên, nhỏ nhẹ hỏi :

- Em ! Em nhận ra anh không?

Thu Vân ngước mặt nhìn hắn một lúc bỗng bật cười, giọng cuời thật chua chát:

- A! Thì ra anh hùng hồi gia đó à?

Nói mấy lời nàng tiếp tục cười như người điên. Thy không dám nhìn vợ, vẻ mặt khốn khổ.

Thu Vân hỏi:

- Anh còn nhớ bức thư anh viết cho tôi ngày anh ra đi, hẹn rằng: “Khi anh trở về nơi này là thiên đường?”. Và bây giờ thiên đường của anh đem cho gia đình anh và gia đình tôi thế nào, anh biết không?

Thy ứa nước mắt nói:

- Anh van em! Xin em vào nhà cho anh được thú tội với em. Rồi anh sẵn sàng chết đểđền tội.

Nghe chồng nói Thu Vân càng cười to hơn. Giọng cười về sau nghe như tiếng khóc nức nở. Thy ôm vai vợ dìu đi:

- Vào nhà cho anh được thú tội với em. Rồi anh sẽ tự xử anh trước mặt em.

Thu Vân vuột khỏi tay Thy:

- Tôi đâu còn nhà? Đồng chí của anh đã cướp nhà tôi, quăng đồđạc tôi ra đường, anh không thấy sao?

Thy biến sắc:

- Em nói sao? Chúng đã chiếm giựt nhà của em? Thế còn ba mẹ dâu?

Thu Vân vụt quắc mắt câm hờn nhìn Thy, khóc ré lên:

- Anh hỏi ba mẹ tôi ởđâu à? Anh giết mẹ tôi, anh giết cha tôi, anh giết con tôi, anh giết cả mẹ ruột và em ruột của anh! Anh đưa quân chó sói hổ mang về quê hương giết gia đình, giết đồng bào, giựt nhà, cướp của…Thiên đường của anh xây dựng bằng xác chết và tô điểm bằng máu! Tôi sợ thiên đường của anh, tôi ghê tởm anh! Tôi không muốn nhìn thấy anh nữa!

Nàng vừa khóc vừa nói, cùng lúc nhặt hai bó quần áo và giỏ thức ăn bước đi… Nhưng Thy nắm tay nàng giữ lại, nói giọng khẩn cầu:

- Anh van em! Em khoan đi! Chờ anh vào nhà nói chuyện với chúng nó. Anh không để chúng cướp nhà của em đâu! Chờ anh một chút thôi! Em đừng bỏđi! Hãy chờ anh!

Nói xong Thy rút súng cầm nơi tay, chạy phăng vào nhà.

Thu Vân đứng lặng nhìn theo…Rồi không hiểu nghĩ sao, nàng từ từ cất bước. Nàng đi độ khoảng mươi thước bỗng nghe tiếng súng nổ. Nàng đứng sựng lại nghe ngóng…

Bỗng nghe hai tiếng súng liên tiếp vang lên. Thu Vân ngoái đầu nhìn lại…

Từ trong nhà có một người chạy ra, bước chân lệch lạc xiêu vẹo, trên ngực đẫm máu. Người ấy cố chạy về phía Thu Vân, nhưng sức đã kiệt. Chỉ còn cách nàng vài ba bước người ấy ngã xuống. Người ấy chính là Thy!

Thu Vân đứng y một chỗ nhìn chồng… vẻ mặt vừa đau khổ, vừa lạnh lùng.

Thy cố gắng ngốc đầu dậy nhìn vợ bằng ánh mắt của kẻ sắp chết van cầu được tha tội, miệng thều thào nói:

- Anh có tội …quá nặng! Anh lầm…anh mù quáng! Em…em tha…

Nói đến đó Thy cúi đầu xuống, cơ hồ sức đã tàn, hơi thở đã dứt.

Thu Vân vẫn đứng bất động nhìn chồng bằng ánh mắt buồn và lạnh. Một lúc sau đầu Thy cử động, như muốn ngẩng mặt lên nhìn vợ lần cuối nhưng không đủ sức.

Thu Vân buông các thứ trên tay, bước tới nâng đầu chồng lên. Máu trong miệng Thy đã tràn ra. Thy mấp máy nói lời cuối cùng:

- Tha tội cho anh nghe em! Anh không cố ý… giết con. Anh không biết là Vân…

Thy chết trên tay vợ, mắt mở trừng trừng, linh hồn vĩnh viễn không tan nỗi uất hận.

Mườì chín năm bị Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Hanội lường gạc hy sinh cuộc đời, để rồi gia đình Thy và cả Thy đều chết bởi họ.

Mười chín năm làm chiến tranh, mục đích tạo dựng thiên đường, đem no ấm, hạnh phúc cho gia đình và dân tộc. Nào ngờ tài sản của gia đình Thy và của vợ đều bị mất và mọi người bị chết một cách tức tửi.

Thy chết! Nhưng trước phút chết tâm linh không tìm được an bình!

Nguyên hôm trước vật lộn với Đại Úy Vẹm, Thy quật được tay của Vẹm, chỉa vào tim hắn, lảy cò. Súng nổ…Bọn lính chạy vô thấy hai thượng cấp vật lộn nhau. Sau đó người nằm dưới cựa quậy đứng lên nói lảm nhảm như người điên. Chúng sợ Thy nổi cơn điên nên bỏ chạy cầu cứu ban cảnh sát an ninh.

Sau đó Thy bị vào tù. Thy tường thuật nội vụ xảy ra và khai mình vì tự vệ vật lộn với Vẹm, rủi ro súng trên tay Vẹm nổ. Những tên lính vốn không ưa Vẹm nên làm chứng thấy Thy bị uy hiếp. Mà cũng nhờ trong lúc khám tử thi của Vẹm, thượng cấp Thy tìm thấy bức thư của Thanh, biết chắc Thanh đã chết nên họ mừng rỡ bỏ qua việc hai cán bộấu đả giết nhau. Thy được ra tù.

Chằng ngờ ít hôm sau có một Đảng viên cao cấp đọc lá thư của Thanh quá tức giận, đứng tim chết ngay. Vì thế Thy bị cách chức, lại còn bị nhốt cả tháng.

Những ngày trong tù Thy ăn năn hối hận tội lỗi của mình đã làm trong mười chín năm, nhất là đối với mẹ và với vợ con. Nên sau khi ra tù Thy tức tốc tới nhà tù tìm mẹ để xin tha thứ, mà cũng dự tính cứu mẹ khỏi nhà giam. Nào ngờ lúc tới nơi mới hay biết mẹ tự tử chết. Tâm tưđau đớn, Thy thẩn thờđi về nhà của mẹ. Chẳng ngờ lúc đến nơi, nhà đã có một cán bộ cao cấp chiếm ở rồi. Biết mình yếu thế không chống lại tên cán bộ chiếm nhà, Thy đi lang thang từ đường nọ đến đường kia… Sau cùng quyết định đi tìm vợ để xin tha thứ, cũng để tự tử trước mặt nàng để tạ tội.

giavui
01-10-2015, 08:15 PM
Nào ngờ mọi sự xảy ra không đúng như dự tính. Thy chết! Nhưng không phải cái chết chuộc tội với vợ, mà bị đồng bọn giết chết! Cho nên cái chết đầy tức tửi oán hận, mắt không nhắm lại được.

Thu Vân vuốt mắt chồng, nói:

- Tôi tha thứ anh cái tội đã làm khổ đời tôi. Nhưng tội anh đưa quân Cộng sản Hànội vào Nam hãm hại đồng bào, tội ấy lớn lắm, không thể tha thứ được!

Nàng nói xong buông Thy nằm xuống, đứng lên lấy hành trang của mình bước đi…

Con đường này thêm một lần nữa in vết chân của nàng. Nhưng có lẽđây là lần cuối, vì nó không còn là con đường dẫn về nơi nàng sinh sống.

Nàng đã bị mất tất cả! Ngay cả con đường đầy kỷ niệm này!

Những chiếc lá vàng của hai hàng cây bên đường chợt rơi lã tã xuống đất, không khác gì những giọt lệ buồn tiễn chân một người trong chuyến đi không có trở về.

**

Suốt khoảng hành trình từ Mỹ Tho đi Saigon Thu Vân không nhớ mình đã nghĩ gì và làm gì? Mãi đến khi lấy taxi bảo tài xếđưa về địa chỉ nhà nàng, Thu Vân bỗng lo sợ.

Trong đời nàng nhiều bất hạnh xảy ra không biết trước, nên nàng lo sợ có thêm một điều không may xảy đến.

Khi nàng trả tiền xe và xuống taxi bước đến cổng rào nhà nàng, chợt trông thấy các cửa sổ đều mở, chứng tỏ trong nhà có người ở. Lòng kinh động đôi chân Thu Vân sụm xuống, toàn thân tê dại, cơ hồ như tim ngưng đập, máu ngưng chuyển.

Nàng muốn thét lên : -Lại có kẻ chiếm giựt nhà! Nàng nhớ trước khi về Mỹ Tho nàng có khóa cửa cẩn

thận và giao chìa khóa cho người hàng xóm giữ dùm. Chẳng lẽ bọn Cộng đã bức bách người hàng xóm để giao nhà cho chúng?

Đang lúc Thu Vân hoang mang sợ hãi, bỗng có một cô gái từ trong nhà chạy ra kêu giọng mừng rỡ:

- Dì Vân! Dì đã về! Trời ơi, dì sao thế?

Chỉ vì cô ta thấy Thu Vân ngồi phệt dưới đất, đồ đạc văng tứ tung nên cô mới la hoảng, vừa chạy tới đỡ Thu Vân.

Thu Vân đã qua cơn hãi hùng, vui mừng đến ứa nước mắt, nói với cô gái:

- Con ởđây mà dì tưởng kẻ lạ nào chiếm nhà! Con đến một mình hay…

Nàng chưa dứt lời, trong nhà có hai người chạy ra. Một người nhào tới ôm nàng, nghẹn ngào nói:

- Em! Chị rất vui mừng có em vềđây!

Người ấy không ai khác hơn là Lan Mai, bạn đồng nghiệp của nàng, cũng là bạn thân duy nhất của Thu Vân.

Cả hai ôm chầm lấy nhau, bồi hồi xúc động. Từ khi chia tay đến nay chỉ hơn tháng, mà cả hai có cảm tưởng như nhiều năm không gặp!

Lan Mai dìu bạn vào nhà, trong khi hai cô gái lượm nhặt các thứ Thu Vân để rơi dưới đất. Thu Vân vừa đi vừa nói với bạn:

- Khi nãy đến cổng rào thấy các cửa sổ đều mở, em ngỡ bọn Cộng đã chiếm nhà em, em kinh tâm sụm ngay trước ngõ. May sao Mỹ thấy em, nó chạy ra và em thấy nó em mới hoàn hồn! Chị đến chơi và người hàng xóm mở cửa cho chị vào, phải không?

Lan Mai rưng rưng nước mắt, kéo bạn vào ngồi chung nơi băng dài trong phòng khách, nói:

- Chị sẽ giải thích lý do vì sao chị và hai con chị đến đây. Chị rất mừng gặp lại em. Bác và Vân Trường bình an chứ?

Câu hỏi của Lan Mai khiến Thu Vân cúi mặt, nước mắt chảy dài. Lan Mai thấy Thu Vân khóc, biết có điều trầm trọng xảy ra, giọng nàng đầy lo âu:

- Vân Trường ra sao hỡ em? Còn bác…

Thu Vân đáp giọng nghẹn ngào:

- Chết rồi! Em không còn ai nữa! Em mất tất cả chịơi! Gia đình em chết hết rồi!

- Vì sao chứ?

Lan Mai hỏi bằng gịong run run xúc động. Thu Vân ngồi lặng một lúc để đè nén cảm xúc, rồi mới nhìn bạn nói:

- Chuyện của em dài lắm, em sẽ kể chị nghe tường tận. Chị hãy kể em rõ, chồng chị có bị phiền phức gì không? Vì sao chị và hai cháu đến đây?

- Ảnh bị bắt rồi! Saigon thất thủ vài ngày sau họ kêu gọi trên đài phát thanh: “quân nhân và công chức hãy đến cơ quan của mình để tiếp tục làm việc, ai giữ chức vụ gì sẽ được trở lại chức vụđó. Anh Du nghĩ mình là sảnh sát đã lớn tuổi, chắc chẳng có tội gì nên đến sở cảnh sát trình diện. Nào ngờ anh vừa lú mặt đến văn phòng, họ bắt bỏ lên xe. Họ chỡđi đâu không ai biết rõ? Ngày hôm sau chị và hai con gái đang ở nhà chờ tin tức ảnh thì có một tên Cộng sĩ quan cấp tá, cùng với hai tên lính võ trang, xông vào nhà kéo chị với hai con gái xô ra đường. Quần áo tiền bạc hay thứ chi cũng không có trong người. Ít phút sau một chiếc xe chỡ tới vợ con tên sĩ quan Cộng vào nhà.

Ngừng một lúc đểđè nén xúc động, Lan Mai kể tiếp:

- Chị và hai con bị tống ra ngoài nhà, ngồi bên vệ đường mà không biết đi dâu? Tiền bạc không có một xu, bà con ở Saigon không có ai! Bất ngờ chị nhớ đến em, nên ba mẹ con chạy bộ tới nhà em. Lúc đến nơi chị mới nhớ em đã về Mỹ Tho. Thất vọng vì không gặp được em, ba mẹ con chị đứng khóc trước cửa nhà em. May sao bà hàng xóm của em trông thấy chạy tới hỏi thăm. Khi biết hoàn cảnh của chị, bà trao chìa khóa nhà em cho chị và bảo chị với hai cháu hãy ở lại nhà em để giữ nhà cho em. Vì nhà bỏ trống bọn Cộng biết được sẽ chiếm ở. Chị vào nhà em mà không xin phép trước nên chị rất e ngại. Mong em tha lỗi cho chị.

Thu Vân lắc đầu:

- Em phải cám ơn chị nữa là. Bởi nếu chị không ở trong nhà, biết đâu họđã chiếm mất rồi! Em bây giờ chỉ còn một thân. Em rất cần chị và hai cháu đến với em. Từđây chúng ta che chỡđùm bộc nhau. Cũng vì em chưa rõ Vân Trường sống hay chết nên phải tiếp tục sống để tìm con, chứ không em đã tự tử chết ngay khi nghe tin cha em bị bọn Cộng xử bắn tại phiên tòa nhân dân.

Nàng tường thuật cho bạn nghe chuyến đi Cần Thơ tìm Vân Trường bị vào tù. Khi ra tù về nhà mới hay tin cha chết, kế đến tin mẹ chồng chết. Đến chuyện nàng bị bọn Cộng cướp toà nhà của cha mẹở Mỹ Tho và gặp lại Thy v.v…

Hơn hai tiếng đồng hồ nàng mới trút cạn tâm sự khốn khổ của mình với bạn. Lan Mai ngồi nghe mà lệ rơi lã tã, nàng nói:

- Chị cứ tưởng chị với hai con chị không may. Dè đâu hỏi ra mới biết gia đình nào cũng gặp đại nạn, mà có lẽ nỗi thống khổ của em là to lớn nhất.

Thu Vân hỏi:

- Từấy đến nay chị còn đi làm không? Văn phòng luật sư Lang vẫn còn mở?

Lan Mai nghe bạn hỏi càng khóc to hơn, sụt sùi nói:

- Em ơi! Một tuần sau ngày Saigon mất, chính phủ Cộng sản tịch thu tất cả cơ sở thương mại và kỹ nghệ và các văn phòng tư đều bịđóng cửa. Bao nhiêu tài sản của ông chủ mình đều bị họ lấy sạch. Tối đêm đó ông uất ức cùng với vợ con uống thuốc độc, chết cả nhà!

- Trời ơi!

Thu Vân kêu bằng giọng thất thanh. Lan Mai quàng tay ôm bạn, nói tiếp:

- Em ơi! Giờđây mỗi gia đình có một thiên sử hận. Gia đình nào cũng gặp khốn khổ, chỉ hoàn cảnh mỗi người khác nhau thôi.

Thu Vân nhớ đến gương mặt khã ái của ông chủ tốt của mình phải chết một cách tức tửi, nỗi oán hờn dâng lên ngùn ngụt:

- Trong lịch sử của nhân loại không có bọn nào vừa tham vừa ác như bọn Cộng Hànội.

- Chúng giựt nhà cướp của, không cho ai có việc làm, tức là đẩy dân vào chỗ chết mà không cần phải giết, vừa để che mắt thế giới. Sự thật đấy là lối giết dân tàn ác nhất.

Thu Vân chợt nhớđến giỏ tiền của mình, nên nói:

- Hiện thời em còn tiền. Xin chị yên tâm phần này. Em ở lại đây vài ngày rồi em sẽđi tìm Vân Trường.

- Tìm ởđâu? Em có nghe chút tin tức gì về nó không?

Thu Vân lắc đầu:

- Em chẳng biết nó lạc lõng phương nào? Mẹ chồng em trước khi chết được tin Vân Trường cùng với hai cận vệ của tướng Thanh rời Bộ Tư Lệnh trước khi Thanh tự tử. Nếu đúng như thế thì nó đã về nhà từ lâu rồi. Em nghĩ, đến nay nó chưa về chắc là đã bị bọn Cộng bắt. Vì thế em định đi tìm nó ở nhà tù.

- Chị cũng muốn biết anh Du bị giam ởđâu? Nhưng nhà tù Cộng Sản giữ kín, làm sao mình có thể tìm gặp thân nhân?

- Đối với bọn Cộng, hễ có tiền hối lộ chúng là việc gì cũng không khó lắm. Em đề nghị: Hai chúng ta chia nhau đi dọ tin tức anh Du và Vân Trường. Nhà giao cho hai con chị trông coi. Thỉnh thoảng em với chị trở về nhà để báo tin nhau.

- Ý em hay lắm! Ngặt bây giờ chị không còn tiền bạc tài sản gì ngoài vài món nữ trang đeo trong người. Hôm đến đây chịđã bán một chiếc cà rá để có tiền xài tháng nay, giờ cũng sắp hết rồi.

Thu Vân moi tiền trong giỏ thức ăn của mình, nói:

- Em còn khoảng hơn ba triệu tiền mặt ởđây. Ba em đã rút hết tiền mặt ở ngân hàng cất vào tủ sắt trong nhà. Ngoài ra em cũng còn hơn 300 ngàn ở chương mục của em. Thiết tuởng với số tiền em có, đủ cho chúng ta tiêu xài một thời gian.

Lan Mai lắc đầu:

- Chị và các con ở đậu nhà em, lẽđâu còn dám xài tiền của em? Không! Em hãy cất để dành tiêu dùng. Phần tiền ở ngân hàng của em thì đứng nghĩ tới nữa. Vì tiền để ở nhà băng của thân chủ đều bị nhà nước tịch thu. Phần chị, chị sẽ bán hai món nữ trang còn lại để làm vốn mua bán vặt, làm kế sinh nhai.

- Xin chị đừng tính chuyện bán nữ trang. Hiện em còn quá nhiều tiền, chị hãy xài tiền của em. Bao giờ em không còn tiền mặt nữa, chị hãy bán nữ trang của chị.

Lan Mai cảm động trước tấm lòng tốt của bạn. Giờ phút này mới biết tình bạn là quí giá.

Thu Vân có Lan Mai trong lòng cảm thấy an ủi hơn lúc nào hết. Những ngày hoạn nạn bơ vơ, tinh thần và thể xác nàng đau thương cùng cực. Nay được sống trong tình bạn đầy thân ái, Thu Vân nhẹ nỗi đau sầu.

Cả hai bàn tình chuyện nhà một lúc, Thu Vân đi tắm. Thanh Mai lo việc nấu cơm chiều. Hai cô gái lo sắp xếp đồ đạc của Thu Vân vào tủ và dọn dẹp phòng cho nàng.

Ăn chiều xong Thu Vân đi thăm người hàng xóm, tức ông bà Trí. Ông là công chức về hưu đã năm năm rồi. Ông có hai con trai, một là công chức, một là sĩ quan. Và hai con gái đều làm cô giáo tiểu học Các con ông đều có gia đình và ở riêng nên mấy năm qua nhà ông rất vắng.

Khi Thu Vân nhận chuông, một cô gái mở cửa mời nàngvào nhà. Ông bà Trí tiếp đón nàng rất niềm nở. Bà Trí tâm sự ngay :

- Nhà tôi bây giờđông đảo lắm, chứa hai con gái, ba con dâu, bốn cháu ngoại, năm cháu nội, chật ních một nhà ! Cũng vì chồng chúng nó đều vào tù, tài sản tiền bạc bị Cộng sản lấy hết, chúng phải tới đây sống nương tựa nơi chúng tôi.

May mà chồng tôi đã hưu trí, chứ nếu còn là công chức chắc cũng vào tù và nhà này cũng bị tịch thu rồi !

Thu Vân thở dài :

- Bây giờ gia đình nào cũng gặp đại họa.

Nàng tường thuật cảnh tình của mình. Lần này nàng không khóc khi kể, một phần vì đã khóc quá nhiều, một phần vì thấy ai cũng gặp hoạn nạn chớ không phải riêng mình.

Nàng thấy hai con gái và ba con dâu của ông bà Trí đều còn trẻ, chồng bị tù, họ phải sống đời goá phụ giữa tuổi thanh xuân để nuôi con, thật tội nghiệp ! Hoàn cảnh của họ gần giống như hoàn cảnh của nàng khi xưa.

Nghĩ đến họ, nhớ đến mình, trong lòng Thu Vân càng thêm chua xót. Sợ nỗi cảm xúc dâng lên, nàng xin phép chủ nhà ra về, sau khi nói cám ơn đã cho bạn mình là Lan Mai vào nhà. Bà Trí vui vẻ nói :

- Đáng lý tôi phải xin lỗi cô. Vì tôi đã tự tiện đưa chìa khóa cho bà ấy. Chỉ vì nghe hoàn cảnh của bà ấy không khác gì các con tôi, nên tôi thương cảm mới để bà vào ở nhà cô, cũng để giữ nhà dùm cô.

- Bà thật là người giỏi tính bà biết lo liệu. Bởi vì nếu không nhờ bà làm vậy, chắc là căn nhà của tôi đã bị bọn Cộng tịch thu rồi.

- Bây giờ chúng ta chỉ còn đặt niềm tin nơi Chúa, nơi Phật, để sống còn. Con người khi đau khổ cùng cực sẽ trở về với đạo.

Câu nói của người hàng xóm khiến Thu Vân nhớ đến Duy Quang, con tim vụt đập liên hồi.

Từ ngày Cộng sản chiếm miền Nam đến nay thời gian không bao lâu, nàng gặp hoạn nạn triền miên, không để tâm trí nghĩ đến chàng. Giây phút này Thu Vân cảm thấy nhớ và cần sự hiện diện của chàng hơn bao giờ hết !

Mười mấy năm qua nàng sống nhờ thức ăn nước uống thần linh của chàng. Mười mấy năm qua nàng sống nhờ sự chăm sóc thương yêu của chàng. Và mười mấy năm qua cả hai đã sống cho nhau.

Tình yêu của họ không tạo bởi tình dục nên chẳng bao giờ có sự nhàm chán. Chỉ cần một khoảnh khắc nghĩ về nhau, đủđem cho họ cái hạnh phúc vô biên.

Tự nhiên Thu Vân có cảm tưởng như bao nhiêu khổ sầu đã vơi đi một nửa !

Từ nhà người hàng xóm trở về, khoảng đường vài thước, mà nàng hối hả bước vì nôn nao về cuộc hội ngộ ngày mai…

**

Sáng hôm sau nhằm ngày Chúa Nhật, Thu Vân sữa soạn đi lễ nhà thờ. Lan Mai theo đạo Phật nên không cùng đi với Thu Vân, nhưng nàng không quên căn dặn bạn :

- Em nên cẩn thận lúc vào thánh đường, phải đề phòng công an mật vụ theo dõi và làm khó dễ em.

Thu Vân châu mày :

- Chúng nó không để yên chỗ thờ phượng nữa sao ?

- Chắc chắn không còn như ngày trước đâu ! Hai tuần trước chị và hai con đi Chùa. Nào ngờ đến nơi không gặp các Thầy, chỉ thấy các nhà sư lạ hoắc, đầu mới cạo trọc, mặt mày hung tợn, đôi mắt soi bói nhìn đạo hữu vào Chùa. Chị và hai con sợ quá phải hấp tấp ra về.

Thu Vân nói giọng chua chát :

- Chỉ vì tôn giáo dạy con người tránh làm điều dữ. Chúng tàn ác vô nhân nên sợ lời Chúa lời Phật.

Lan Mai lắc đầu :

- Chúng không sợ lời Chúa lời Phật đâu em ! Sở dĩ chúng không muốn dân chúng đến chỗ thờ phượng vì sợ gặp mặt các nhà lãnh đạo tôn giáo. Chúng sợ giới này xúi giục tín hữu của mình chống lại sự cai trị tàn ác của chúng.

- Và chúng cho người giả làm nhà tu để dễ bề kiểm soát tư tưởng của dân. Vì đạo hữu thường hay tâm sự kể lễ mọi việc với các Cha, các Sư.

- Đúng vậy !

- Như thế hiện nay chỗ thờ phượng đều do người của chúng trông coi ?

- Đương nhiên chúng phải để vài người cũ, những người chịu theo mệnh lệnh của họ và đương nhiên chúng không cho những người này được tiếp xúc thân cận với tín hữu.

Thu Vân rầu rĩ trong lòng. Nàng mong gặp lại Duy Quang để tâm sự chuyện nhà và cũng để cho chàng biết về sự mất tích của Vân Trường. Nhưng trước tình cảnh này chưa chắc Duy Quang có mặt ở nhà thờ, mà nếu có chưa chắc nàng tới gần được !

Lan Mai nhưđoán được tâm sự của nàng, nên nói :

- Chị nóí như thế để em đề phòng khi tới giáo đường. Em đừng quá tuyệt vọng. Có thể Cha Duy Quang đang chờ sự thăm viếng của em ở nhà thờ.

Thu Vân cám ơn bạn rồi ra đường đón xe. Nàng đón cyclo đạp vì giờđó Bus quá đầy khách. Cũng vì xe tư nhân không còn nên ai nấy chen lấn trên Bus.

Đến nhà thờ Thu Vân lưu ý và nhận ra ngay những tên Cộng Sản mật vụ đứng loanh quanh các cửa ra vào. Nàng cúi mặt lặng lẽ bước vào giảng đường. Thường thường buổi lễ 10 giờ sáng tín hữu rất đông. Bữa nay không có mấy người. Cha làm lễ là một người lạ, Thu Vân chưa hề gặp.

Cuộc lễ chấm dứt thật nhanh và mọi người hối hả ra về. Thu Vân còn ngồi lại cầu nguyện, với hy vọng Duy Quang từ bên trong thấy nàng sẽđi ra.

Nàng đang lâm râm cầu nguyện, chợt có một người đàn bà đi tới quỳ bên cạnh nàng. Người ấy cũng giả vờ gục đầu cầu nguyện, song nói thật khẽ cho nàng nghe :

- Bà Thu vân ! Tôi chờ bà hơn hai tuần nay rồi. Bà nên theo tôi ra chợ « Trời ». Ởđó người đông đảo, không ai lưu ý, tôi sẽ bà biết một tin quan trọng. Bà nên rời nhà thờ ngay. Cha làm lễ khi nãy là…

Người đàn bà nói chưa dứt câu, chợt nghe tiếng chân thật nhẹđi tới. Bà ta giả vờ đọc đoạn chót bài cầu kinh thường nhật, rồi làm dấu thánh đứng lên hấp tấp bước đi.

Thu Vân cũng chấm dứt bài cầu kinh và đứng lên. Chợt nghe tiếng nói xa lạ từ phía sau :

- Chắc con có điều phiền muộn cần tâm sự ? Cha mời vào phòng cáo giải.

Thu Vân ngỡ vị tu sĩ nói với mình nên quay mặt lại định trả lời. Song nàng nghe tiếng của người đàn bà, lần này nàng nhận ra giọng nói quen thuộc, chính là bà Phú, người hay trò chuyện với Cha Duy Quang lúc trước. Bà ấy nói :

- Cám ơn Cha thật nhiều. Hiện nay toàn dân đang hưởng thái bình an lạc, con đâu có điều gì phiền muộn? Con sở dĩở lại cầu nguyện là để cám ơn Chúa đã giúp cho quân đội của Bác Hồ thành công việc giải phóng miền Nam, giúp cho nhân dân miền Nam ngày nay sống no ấm hạnh phúc.

- À thì ra con cầu nguyện là để tạơn Chúa đã giúp Bác Hồ à ? Sự thật cách mạng thành công là do Bác Hồ và Đảng tranh đấu. Chúa làm gì mà giúp được chứ ?

- Phải phải ! Cha nói đúng ! Con nói bậy ! Xin lỗi Cha ! Con xin phép… đi về…Kính chào Cha.

Bà Phú nói giọng lấp bấp sợ hãi, rồi quýnh quáng đi ra cửa. Thu Vân nghe mấy lời bà nói khi nãy, tưởng bà đã khôn khéo trả lời. Nào đâu tên mật vụ đội lớp tu sĩ cũng bắt bẽ được ! Quả thật nguy hiểm khi đối đáp với họ !

Nàng cũng lo sợ mình bị chất vấn nên vội vã bước đi. Nào ngờ tên tu sĩ Cộng chận nàng lại, hỏi :

- Sao vẻ mặt con đầy suy tư vậy ? Chắc là con cần phải vào phòng cáo giải để nói cho Cha nghe chứ ?

Thu Vân quýnh quáng đáp :

- Không ! Không ! Con chẳng có điều gì lo nghĩ. Chẳng qua thằng con của con cứng đầu…không nghe lời dạy bảo của con, nên con có chút phiền muộn.

- Nếu thế con cần phải vào phòng cáo giải tâm sự với Cha để Cha rõ thằng con làm gì ?

- Thưa Cha, con xin phép vào phòng cáo giải hôm khác. Hôm nay con phải về ngay vì…không dám bỏ thằng con ở nhà một mình.

- Nó bao nhiêu tuổi ?

- Dạ…5 tuổi !

- A !

Có lẽ hắn nghĩ con nàng đã lớn, nên muốn điều tra con nàng làm gì. Chừng nghe Thu Vân cho biết đứa con 5 tuổi, hắn cụt hứng nói sẳng :

- Thôi đi vềđi !

Thu Vân bước nhanh khỏi giảng đường mà có cảm tưởng tên Cộng sản đội lớp Linh mục đang theo dõi mình, khiến nàng sỡn tóc gáy.

Nàng ra đường nhìn dáo dác không thấy bà Quí, trong lòng vô cùng thất vọng. Chợt nhớ lại khi nãy bà có hẹn nàng ở chợ lộ thiên. Nàng nhằm hướng chợ Trời tiến bước.

Đi một đỗi xa nhà thờ, Thu Vân thấy có người đứng ở nhã tư đường đưa tay ngoắt nàng. Thu Vân nhận ra bà Phú nên mừng rõ bước nhanh tới. Bà chào nàng và nói.

- Xin lỗi, tôi không dám chờ bà trước nhà thờ vì mật vụ đứng quanh đó. Hễ thấy người người tụ lại trò chuyện họ gọi từng người tới tra hỏi đang bàn chuyện gì ? Nếu là chuyện không quan trọng và mình dám nói thật, thì mọi người cùng trả lời giống nhau. Bằng như câu chuyện có lời gì phê bình đến chính phủ, không ai dám nói thật ra, mỗi người phịa ra một câu chuyện, thành ra không ăn khớp với nhau. Lúc đó họ biết mình nói dối, họ bắt bỏ tù viết lời khai. Khai cho đến khi nào cả nhóm nói ăn khớp với nhau họ mới ngưng tra tấn. Lúc đó thì mình đã chết mất rồi !

Thu Vân từng sống trong nhà tù Cộng Sản, nghe Bà Phú nói cũng phải rùng mình kinh hãi. Nàng hỏi :

- Do đâu bà biết rành quá vậy ?

- Tôi đã chứng kiến nhiều người bị bắt trước cửa nhà thờ, chỉ vì trước khi ra về còn đứng nán lại bàn tán nghi ngờ về những Cha Cộng Sản đội lớp. Tôi suýt bị bắt một lần, nên sau đó tôi rút kinh nghiệm không dám đi chung với người thứ hai vào nhà thờ.

Bà Phú vụt nắm tay nàng kéo đi, nói tiếp :

- Chúng ta vừa đi vừa nói chuyện, tiện hơn. Tôi muốn ra chợ Trời. Bà muốn đi chợấy với tôi không ?

Thu Vân mỉm cười, gật đầu :

- Đương nhiên tôi muốn theo bà để nghe bà cho biết tin quan trọng mà bà đã nói với tôi lúc nãy trong giáo đường. Phải chăng là tin tức của Cha Duy Quang ?

- Đúng vậy ! Từ ba tuần nay tôi tới lui thường xuyên ở giáo đường là để tìm bà, theo lời căn dặn của Cha.

- Xin Bà cho tôi biết hiện Cha ởđâu ?

- Chính tôi cũng không biết.

Thu Vân biến sắc hỏi :

- Như vậy nghĩa là sao ?

- Sau ngày Saigon mất, tín đồ tới nhà thờđông lắm. Chính quyền Cộng Sản lưu ý chuyện này. Hôm ấy Cha Duy Quang giảng một bài thật hay, nói vềđiều lành và điều ác. Cha nói : Chúa Jesus dạy môn đồ : « Ai gieo giống chi sẽ hái trái đó, kẻ làm ác sẽ bị hình phạt của Chúa Trời ». Trong nhóm tín hữu có người thóc mách câu nói đó với bọn mật vụ. Vì thế Cha bị mời đến cơ quan an ninh. Cha nhận được giấy thì sắp sữa đi trình diện họ. May nhờ một tín hữu cho biết : « các Cha bị cơ quan an ninh gửi giấy mời đều bị bắt gìữ luôn » và khuyên Cha nên trốn đi. Cha rời nhà thờ thì ít phút sau bọn lính tới. Không gặp Cha chúng bắt các Cha phụ tá. Hiện trong nhà thờ chỉ còn một Cha theo phe Cộng Sản. Còn những Cha mới lạ đều là công an đội lớp.

- Làm sao Cha Duy Quang gặp bà ? Và Cha nhờ nhắn với tôi chuyện gì?

- Chính là Cha đến nhà tôi ! Sau khi trốn khỏi nhà thờ Cha đến nhà tôi, nhờ tôi trở lại phòng Cha ở tu viện lấy quần áo và số tiền của Cha còn để đó. Tối đó Cha ngủ lại nhà tôi và nhờ tôi tìm bà nhắn rằng : « Bà và con trai bà đừng tới nhà thờ, cũng đừng lo cho Cha. Cha tìm chỗ an toàn lánh mặt một thời gian. Sau này sẽ gặp lại ».

Thu Vân hỏi giọng buồn thiu :

- Như vậy Cha rời Saigon chăng ?

- Tôi thật không rõ ! Cha ngủở nhà chúng tôi một đêm, sáng sớm hôm sau lấy taxi ra đi, không cho vợ chồng tôi hay biết đi đâu.

Thu Vân lặng im một lúc nói :

- Cám ơn bà đã cho tôi rõ mọi sự.

Lúc ấy cả hai đã đến chợ Trời. Khi xưa nơi đây chỉ vài sạp hàng bán đồ cũ dọc theo lề đường. Vào thời Mỹ, lính Mỹ mua các thứ trong chợ dành riêng cho quân đội Mỹ, là hàng hoá từ nước ngoài không có thuế, đưa bán tại đây. Từđó nơi đây trở thành chợ bán các thứ của lính Mỹ. Sau ngày Cộng Sản chiếm Saigon, chợ này biến thành chỗ để dân Saigon đem đồ đạc trong nhà ra bán để có tiền sinh sống. Bởi hiện nay công tư chức đều vào tù, hoặc thất nghiệp, và dân miền Nam kéo dài sự sống của họ bằng việc mang đồ đạc trong nhà ra bán. Dĩ nhiên khách hàng là cán binh Cộng Sản, vì chỉ họ mới có tiền và chỉ họ mới chưa từng có các thứấy.

Thu Vân nhìn khung cảnh chợ trời dạ bùi ngùi. Tự nhủ : Một ngày nào đó nàng cũng sẽ mang đồ đạc ra bán, vì nàng cũng sẽ như mọi người, cần tiền để mua thức ăn để sống còn.

Bỗng dưng lòng nàng dâng lên nỗi bi quan cùng cực… Tự hỏi : « Tại sao mọi người cần phải sống ? Nơi địa ngục trần gian này đâu có gì là sinh thú, tại sao ai cũng bám lấy sự sống và lo sợ cái chết ? ».

- Bà cần mua thứ chi không ?

Câu hỏi của bà Phú giúp Thu Vân qua cơn bi thiết trong lòng. Nàng lắc đầu :

- Không !

Bà Quí nói :

- Nếu tôi còn tiền trong nhà tôi sẽ ra đây mua các thứđem về nhà trữ để dành. Vì nay mai chắc chắn chính phủ Cộng Sản sẽ ra thứ tiền mới và lúc ấy chưa chắc mình đổi tiền cũ dễ dàng và sòng phẳng.

Câu nói của bà Phú khiến Thu Vân giật mình khi nhớ tới giỏ tiền của mình. Nàng nghĩ, có lẽ nàng không nên giữ tiền mặt quá nhiều, phòng khi nhà nước ra tiền mới, tiền cũ không đổi được hay bị mất như bà Phú dựđoán. Cho nên nàng cần phải xử dụng số tiền mặt hiện có bằng cách mua đồ đạc về nhà trữđó để sau này bán lại.

Nghĩ như thế, Thu Vân muốn trở về nhà lập tức để bàn bạc với Lan Mai. Nàng giã từ bà Phú và nói :

- Xin cám ơn Bà lần nữa. Tôi phải về nhà vì còn nhiều việc phải làm.

Bà Phú mỉm cười :

- Không có chi ! Chúc bà nhiều may mắn.

Cả hai chào nhau lần nữa. Thu Vân hấp tấp rời chợ Trời, cõi lòng đa đoan…
--------------------------------
1 Chuyện có thật khi cộng sản Hanội vào Nam.

giavui
01-10-2015, 08:15 PM
CHƯƠNG MƯỜI BỐN

MỌI CON ĐƯỜNG DẪN TỚI TÙ NGỤC

Hai năm trôi qua…

Thu Vân đã đi từ Nam ra Bắc, từ Bắc trở về Nam, viếng gần 500 trại tù ở khắp nơi, nhưng vẫn không tìm ra tung tích của Vân Trường !

Bao nhiêu tiền bạc và đồ đạc trong nhà nàng cũng đã bán dần để dùng vào việc di chuyển và hối lộ các cơ quan Cộng sản, nhờ họ cho biết tin tức về con trai mình.

Nhưng nhà tù Cộng Sản không có tổ chức, không có danh sách tù nhân, không có qui chế ra tòa, cũng không nói rõ tội trạng khi bị vào tù. Bất cứ cán bộ Cộng sản nào cũng có quyền bắt dân miền Nam với lý do hồđồ là « thành phần Mỹ Ngụy ». Mà nguyên nhân chính là vì họ muốn chiếm nhà, đoạt của, nên bắt người một cách bừa bãi.

Người dân không có quyền khiếu nại. Vả lại dù muốn khiếu nại chính quyền Cộng Sản cũng không biết thân nhân mình bị giam ởđâu ? Thành ra quyền sanh sát tù nhân trong tay những tên « Giám Đốc nhà ngục », mà chúng gọi là « Quản Giáo trại cải tạo ».

Những nạn nhân nào may mắn liên lạc được với gia đình, đem tiền hối lộ tên Quản Giáo thì đỡ bị hành hạ, có khi còn được trả tự do, nếu số tiền hối lộ có thểđổi được người tù.

Nạn hối lộ hết sức trầm trọng, chưa từng xảy ra trong xã hội Việt Nam hay nước khác. Cũng vì chính phủ Cộng sản đặt ra những điều lệ khắt khe, mà quyền hành trong tay cán bộ Đảng vốn nghèo đói than tàn.

Ví như Thu Vân muốn rời Saigon đi đến tỉnh nào, mỗi lần đều phải có giấy phép. Muốn có giấy phép nàng phải hối lộ cán bộ xã cấp giấy. Đi đến đâu mỗi lần gặp lính Cộng xét giấy phải hối lộ mới không bị bắt. Tới nhà ngục muốn hỏi thăm tin tức con, phải hối lộ từ lính gác cổng đến các cấp cai quản nhỏ lớn của nhà tù v.v…

Các hãng xưởng , các xí nghiệp công tư vẫn đóng cửa, vì chuyên viên, kỷ sư, đều bị tù. Thợ thuyền và cán bộ cộng sản không đủ khả năng điều khiển các xí nghiệp với máy móc tối tân. Thành ra các ngành sản xuất đều ngưng hoạt động. Nền kinh tế trong nước hoàn toàn suy sụp, không khác gì một người thoi thóp sắp chết.

Miền Nam là xứ nông nghiệp, đồng ruộng phì nhiêu, mênh mông. Thế mà từ khi chính quyền Cộng Sản chiếm miền Nam, dù rằng miền quê không còn chiến tranh, nhưng mức sản xuất thật yếu kém.

Hôm ấy Thu Vân trở về Mỹ Tho có ý muốn viếng mồ cha mẹ. Lúc nàng buớc xuống xe đò chợt trông thấy người cai trường thuở trước ngồi bên lề đường bán giỏ tre, cùng với một người đàn ông lạ mặt. Gặp nàng ông ta mừng rỡ chào hỏi và giới thiệu người bên cạnh ông ta là anh ruột.

Thu Vân nhớ mấy năm trước ông ta có kể với nàng : « Ông về quê làm ruộng với anh ruột ». Nàng thắc mắc hỏi :

- Hai ông đã bỏ nghề làm ruộng rồi sao ?

- Thưa cô, ngày xưa người nông dân thuê ruộng của điền chủ cày cấy trồng trọt tự do, mỗi năm chỉ phải trả tiền thuê đất. Dù thời ấy điền chủ có bốc lột thế mấy, nông dân cũng còn chút huê lợi để sống. Luá gạo cây trái rau cải trồng trên đất thuê, nông dân muốn ăn muốn bán tuỳ ý. Cho nên vào thời đại trước nông dân dù nghèo vẫn sống được. Từ khi chính phủ Cộng sản cai trị, đất ruộng thuộc Đảng nhà nước, ai muốn trồng trọt bao nhiêu mẫu cũng được cung cấp mà không phải trả tiền thuê. Nhiều gia đình nông dân quá ham, ra sức trồng trọt thật nhiều. Chẳng ngờ đến ngày lúa chín, lúc vừa gặt xong, nhà nước đem xe tới chỡđi hết, không chừa lại một chút gì cho người làm ruộng ! Ở miền quê nhà nào cũng có trồng vài luống rau, năm ba cây ăn trái, nuôi một vài súc vật như heo, gà, vịt…Ngày nay bất cứ thứ gì cũng thuộc nhà nước ! Người nông dân không có quyền ăn lúa rau trái mình trồng, không được ăn gà vịt mình nuôi, ngay cả con gà đẻ bao nhiêu trứng cũng thuộc sở hữu của nhà nước và bị kiểm soát. Kẻ nào lén lúc cất giấu những thứ mình sản xuất cũng bị vào tù. Cho nên đời sống nông dân bây giờ nghèo đói khốn khổ vô cùng.

Thu Vân nhíu mày hỏi :

- Như vậy ngày nay người nông dân đều bỏ nghề làm ruộng hết cả sao ?

Người cai trường cười chua chát :

- Đương nhiên là không ai muốn làm ruộng nữa ! Nhưng khốn nỗi vì lúc đầu không ai biết bị nhà nước lường gạt, người nào cũng tới xã xin cấp đất, ký giấy làm ruộng. Chẳng ai ngờ giấy ấy là giấy nợ làm công. Họ bắt buộc mình phải cày cấy trồng trọt trên phần đất đã lãnh, nếu không làm sẽ bị vào tù. Vì sợ ngồi tù nông dân phải làm việc không công cho Đảng nhà nước. Tất nhiên sức thu lợi phải kém, vì làm mà không được hưởng thì không ai đem sức để làm ?

Thu Vân nghĩ thầm :

« Té ra giới nào cũng bị Cộng Sản lường gạt ! Giờđây giai cấp nông dân đã rõ bộ mặt thật của Cộng Sản thì đã muộn rồi ! Thiên đường hứa hẹn của lão Hồ cho họđã sụp đổ rồi ! Người nghèo trong chếđộ Cộng sản đã mở mắt ra rồi ! ».

Nàng hỏi :

- Vậy ông và anh của ông không làm ruộng hay sao mà lại ngồi đây bán giỏ ?

- Như tôi đã nói với cô lúc nãy. Những ai đã lỡ lãnh đất thì phải làm. Chúng tôi vừa gặt lúa xong, xe nhà nước chỡđi hết rồi, chúng tôi mới đi vào rừng đốn tre mang về nhà đan giỏ đem ra bán để kiếm chút tiền sống qua ngày. May mà xứ mình tre mọc thành rừng, nhà nước còn để yên.

Thu Vân thở dài ngẫm nghĩ :

« Thứ chi nhà nước cũng cướp lấy, nhưng rồi quốc gia vẫn nghèo. Vậy tài sản cướp được chạy vào đâu ? Chắc chắn là vào túi riêng của những đảng viên cao cấp ! »

Người cai trường vụt bước tới bên nàng, rỉ nhỏ vào tai :

- Có lẽ chúng tôi sẽ trốn đi ngoại quốc. Ởđây không biết lúc nào vào tù, mà kéo dài kiếp sống trâu ngựa không công cho nhà nước, chẳng thà chết trên biển cả cũng không uất ức.

Thu Vân không ngạc nhiên trước quyết định bỏ nước ra đi của ông Cai trường. Ngày nay thế giới bên ngoài đã hiểu vì sao thành phần trốn Cộng sản có cả giới nông dân và thợ thuyền. Sự ra đi của họ là nhân chứng hùng hồn nhất cho các quốc gia nghèo trên thế giới còn mơước thiên đường Mác Xít.

Nàng giả vờ hỏi :

- Ông thích bỏ quê hương ra đi sao ?

- Tôi nghĩ, không có một dân tộc nào trên thế giới thích lìa quê hương của mình. Và tôi tin những người Việt Nam đang sống ở xứ người hẳn đau lòng nhớ nhà nhớ nước.

Ngừng một lúc, đôi mắt ông mơ màng nhìn phương trời xa, nói nhẹ :

- Nếu bây giờ tôi nghe trong nước có kháng chiến quân nổi dậy tôi sẽ bỏ ý định ra đi. Cô biết không, dân mình bây giờ ai cũng mong có chiến tranh trở lại. Mỗi lần nghe tiếng súng nổ, người dân xôn xao là người Mỹ trở lại. Chưa có lần nào người dân nghe tiếng súng mà mừng rỡ tưởng như cứu tinh đã đến.

Câu nói của người cai trường khiến Thu Vân rơi rơi nước mắt. Đáy lòng nàng chợt dâng lên tiếng kêu thảm thiết..

« Tội nghiệp cho dân tôi ! Đâu có dân tộc nào trên thế giới mơ ước chiến tranh ? Lẽđâu sau ba mươi năm chinh chiến dân Việt Nam lại mơ ước sống trong cảnh đạn rơi, bom nổ ?

Chẳng qua Hoà Bình người ta tặng cho dân tôi là những cái gong tròng vào cổ có kẹp lưỡi liềm và búa, thở mạnh không được, nhúc nhích sẽ bị đứt cổ, có miệng mà không thể nói, không thể kêu la, cũng không dám rên rỉ , chỉ còn đôi tai lắng nghe để mơước tiếng súng giải thoát ! ».

Bỗng dưng thấy nàng khóc, người cai trường lo lắng hỏi :

- Tôi đã nói lời gì khiến cô buồn chăng ? Xin tha lỗi cho tôi!

Thu Vân lắc đầu, chùi nước mắt, rồi mở ví lấy tiền đưa cho ông cai trường:

- Tôi có ít tiền biếu ông.

Người cai trường từ chối:

- Lần này tôi không thể chấp nhận lòng tốt của cô. Vì bây giờ chắc ai cũng nghèo đói như nhau.

- Ông nói đúng! Bây giờ tôi không còn gì nữa! Nhưng ông cứ nhận số tiền này và bán cho tôi cái giỏ.

Người cai trường nghe nàng nói muốn cái giỏ, liền vui vẻ nhận tiền và chọn giỏđẹp nhất trao cho Thu Vân.

Thu Vân chào từ giã anh em người cai trường và đón xe đi đến nghĩa trang cạnh nhà thờ tỉnh lỵ. Nào ngờ lúc tới nơi nghĩa trang không thấy, mồ mả đều bịđào xới và hiện tại người ta đang xây nhà.

Nàng vào nhà thờ tìm Cha xứ thuở trước nhưng không gặp, chỉ gặp người làm vườn. Ông ta cho biết Cha xứđã bị chính phủ Cộng sản bắt. Hiện nhà thời do một Cha khác, người của chính phủ, cai quản. Còn nghĩa trang thì chính phủ dẹp bỏ. Cán binh cộng sản đua nhau tới đập mồ mả lấy gạch đá về xây nhà họ. Họ còn moi cả xác chết để tìm kiếm nữ trang và cả răng vàng người chết.

Thu Vân nghe qua đầu óc choáng váng, tưởng như cơn nôn mửa trào lên. Nàng từ giã người làm vườn với tâm hồn xáo động. Tự nhủ:

“Mồ của mẹ nàng nơi nghĩa trang bọn Cộng sản còn đào xới vứt đi, thì mồ cha nàng ngay trong khu vườn nhà nàng chắc tên Cộng Sản chiếm nhà đã phá dẹp lâu rồi!

Thật chưa có thời đại nào bi thảm như vậy!

“Người sống phập phòng lo sợ, không biết chết lúc nào?

“Người chết hồn bay vật vờ, không biết mồ mả mình nơi đâu?

Trong lòng cực kỳ buồn bã, Thu Vân đi lang thang trên đường một lúc chợt nhớ đến vợ chồng Lý Châu, hai người bạn đã cho nàng nghỉđêm ở khách sạn Cần Thơ độ nào. Nàng còn nhớ bà chủ quán cà phê cạnh khách sạn của Châu cho biết: “sau khi khách sạn bị chính phủ tịch thu hai vợ chồng về Mỹ Tho sống với cha mẹ.”

Nàng nhớ rõ địa chỉ nhà cha mẹ Châu và cũng may từ nhà thờ đến đó không xa, nàng lội bộ một lúc đến nơi.

Nhìn vào cổng rào, Thu Vân thấy một người đàn ông trên 60 đang lom khom xới đất trong vườn. Nàng cao giọng hỏi:

- Thưa cụ! Nhà này có phải là nhà của cụ Lý, thân sinh anh Lý Châu?

Người đàn ông quay mặt nhìn nàng bằng ánh mắt buồn thiu, chẫm rãi hỏi:

- Cô tìm con tôi có việc gì?

Thu Vân mừng rỡ:

- Vậy ra bác là thân sinh anh Châu? Thưa bác, cháu là bạn học anh ấy. Cháu là con gái ông Trần Văn.

Người đàn ông nghe nàng nói vội vàng mở cửa cho nàngvào nhà. Ông chạy vào trong rửa tay và trở ra ngồi đối diện với nàng trong phòng khách, rồi hỏi:

- Gia đình cô bình an chứ?

- Chắc bác cũng biết vụ cha cháu bị xử tử tại phiên toà nhân dân của bọn Cộng sản sau ngày nước mất?

- Vâng, tôi có biết điều này. Nhưng ngoài ông Hiệu Trưởng gặp đại nạn, gia đình cô chắc thoát nạn chứ?

- Cháu chỉ có cha và thằng con. Cha chết, thằng con mất tích. Hiện cháu sống một mình.

- Thế còn chồng cô?

Thu Vân cúi mặt đáp nhỏ:

- Anh ấy cũng chết rồi!

Ông Lý nhìn Thu Vân bằng ánh mắt xót xa thương cảm. Ông ngồi lặng một lúc mới hỏi:

- Cô tìm con tôi có việc chi?

- Cháu chỉ muôn thăm anh chịấy và biếu ít trái cây.

Nàng nói vừa đứng lên trao giỏ trái cây và bó hoa cho chủ nhà và nói thêm:

- Nếu anh chịấy vắng nhà, xin bác nhận dùm.

Ông Lý không nhận các thứ nàng trao, nói gịong nghẹn ngào:

- Con tôi đã chết rồi!

Câu nói của ông Lý không khác gì tiếng sét đánh ngang tai, khiến Thu Vân bủn rủn tay chân làm giỏ cây rơi xuống đất, văng đổ tứ tung.

Chủ nhà cúi xuống nhặt các thứ bỏ vào giỏ, trong khi Thu Vân còn đứng chết lặng một chỗ. Một lúc sau nàng mới hỏi bằng giọng run run:

- Cộng sản cướp nhà rồi giết anh ấy nữa sao? Còn chịấy?

- Vợ nó cũng chết rồi!

Thu Vân kêu lên nhưđể phản đối một sự thật:

- Không! Không thể như thếđược!

- Chúng nó không bị cộng sản giết, nhưng suy cho cùng con tôi cũng vì Cộng sản mà chết.

Không để Thu Vân thắc mắc lâu hơn, ông Lý dàu dàu kể:

- Sau khi khách sạn bị nhà nước tịch thu, vợ chồng Châu vềđây sống với vợ chồng tôi. Một năm sau có người rủ hai vợ chồng nó trốn đi ngoại quốc. Chúng phải trả hai mươi lượng vàng và đi chuyến tàu từ Rạch Giá. Nghe nói vất vả lắm đoàn người mới thoát khỏi vòng lưới kiểm soát của bọn Cộng. Hôm ấy đã ba ngày, trên thuyền không còn thức ăn nước uống, bỗng có chiếc tàu từ xa chạy tới. Mọi người mừng rỡ tưởng có cứu tinh. Chẳng ngờđó là tàu cướp của Thái. Chúng tràn lên tàu lấy hết tiền bạc nữ trang của mọi người và bắt theo tất cả đàn bà và con gái. Châu thấy vợ bị bọn cướp bắt mà không cứu được nên tuyệt vọng nhảy xuống biển tự tử 1. Vợ nó thấy chồng tự tử cũng muốn chết theo chồng, nhưng bị bọn cướp giữ chặt. Lúc sau chúng đưa đàn bà con gái đến hải đảo gần đó thay phiên nhau hãm hiếp. Vợ Châu thừa lúc bọn ấy không lưu ý, đập đầu vào đá tự tử. Trong số nạn nhân bị bắt sau này được cảnh sát Thái Lan giải thoát, mới tường thuật nội vụ... Người đi cùng tàu quen biết với Châu sau khi định cưở Pháp có biên thư cho tôi kể rõ về cái chết của vợ chồng Châu. Vợ tôi phần đau tim, phần rầu rĩ khi hay tin con trai và con dâu chết thảm, nên bịnh nặng và chết ba tháng sau đó.

Thu Vân nghẹn ngào:

- Chúa ơi! Xin Chúa hãy buông tha dân tộc con! Vì sao dân nước con cứ phải chịu hoạn nạn này đến hoạn nạn khác?

Nàng ôm mặt sụt sùi khóc một lúc ngẩng mặt lên kể cho ông Lý nghe về Lan Mai:

- Cháu có người bạn thân, chồng làm cảnh sát bị Cộng sản bắt vào tù, nhà cửa tài sản đều bị tịch thu. Chịấy và hai con đến sống nhờ nơi nhà cháu. Tám tháng sau chị nghe tin chồng bị giam ở trại tù “suối máu” thuộc tỉnh Biên Hoà. Chị đến thăm nhưng không được gặp mặt chồng. Vài tháng sau hay tin chồng chết vì bị nhốt trong thùng chứa xăng dưới trời nắng quá nóng, bị ngộp thở mà chết từ từ.

- Tôi nghe nói trại tù ấy hình phạt tra tấn tù nhân dã man lắm.

- Đúng vậy! Cháu nghe kể, tù nhân mỗi ngày phải làm tờ khai tội. Người nào không khai được nhiều sẽ bị nhốt vào thùng chứa xăng. Có người quá sợ hình phạt này phải tưởng tượng ra tội lỗi của mình để khai ra mỗi ngày một tội mới. Nhưng khai tội nhiều thì bị hình phạt, không khai thi bị tra tấn. Rốt cuộc tù nhân đều bị hành hạ dã man mà chết.

Ông Lý tức giận:

- Chỉ vì muốn có cớ cướp nhà giựt của mà cưỡng chế hành hạ người buộc khai tội lỗi.

Thu Vân kể tiếp về Lan Mai:

- Chồng chết trong nhà ngục không lâu, bạn của cháu được người bạn của chồng giúp đỡ chị cùng với hai con gái lên tàu trốn đi. Đến hải phận Thái Lan tàu gặp thuyền cướp, hai con gái bị cướp bắt bán cho nhà mãi dâm ở Bangkok. Sau đó nhờ có người Mỹ làm trong Ủy Hội tị nạn quốc tế đưa cảnh sát Thai Lan đến giải cứu. Hiện nay chị bạn cháu và hai con gái định cưở Mỹ, nhưng một cô phải vào nhà thương điên vì quá hãi hùng thời gian bị cướp bắt 2.

Kể đến đó Thu Vân không khỏi thương nhớ bạn và hai cô gái Mỹ và Liên. Nước mắt nàng rơi lã tã…

Lan Mai và hai con gái sống với nàng hai năm, thương yêu như ruột thịt. Nhờ có bạn mà Thu Vân qua cơn khủng hoảng tinh thần, có nghị lực để sống mà đi tìm Vân Trường. Lan Mai đã chăm sóc nàng không khác gì người mẹ lo cho con. Hôm Lan Mai đi có rũ Thu Vân đi cùng, song nàng từ chối và quyết ở lại cho đến ngày tìm được tung tích con.

Lan Mai đành từ giã Thu Vân đi tìm chân trời tự do. Chẳng ngờ cõi tự do vẫn có những con người tàn nhẫn!

Càng nhớ đến bạn, nước mắt Thu Vân rơi rơi nhiều hơn. Ông Lý thấy Thu Vân mãi khóc, ông cũng động lòng nhớ đến cái chết của con trai và con dâu, nước mắt ông ứa ra.

Một lúc, Thu Vân cố nén cơn cảm xúc, đứng lên giã từ chủ nhà, trao giỏ trái cây và bó hoa cho chủ nhà và nói:

- Xin bác hãy nhận món quà nhỏ mọn này thay cho anh chị Châu. Cháu mang nặng ân tình với anh chịấy mà không có dịp trả, cháu thật buồn!

Ông Lý sợ nàng buồn lòng nên nhận các thứ nàng tặng. Thu Vân rời nhà của thân sinh Châu với cõi lòng nặng trĩu.

May mà nàng không có nhiều bạn bè, không giao tiếp nhiều người, nên không phải nghe hoài những thảm cảnh!

Mỹ Tho là thành phố nhỏ, từđó đến bến xe đò không xa, Thu Vân lững thững đi bộ.

Khoảng đường này cứ vài thước có một đống rác. Ruồi nhặng bay đen nghịt. Nhưng số trẻ con bươi rác đông đảo không khác gì ruồi! Chúng tranh nhau lượm những chai không, lon sữa, chai nước ngọt, bao nylon.v.v…Những thứ chúng có thể bán được để kiếm ít tiền.

Đảng và cán bộ Cộng sản nghèo có thể cướp của dân. Chớ dân nghèo thì chỉ có cách lượm rác để sống!

Ở Saigon Thu Vân đã chứng kiến cảnh này. Hai năm qua đi từ Saigon ra Hanoi, đâu đâu nàng cũng thấy trẻ con sống bám víu về nghề rác.

Có lần nàng hỏi thăm gia cảnh hai đứa bé lượm rác. Chúng kể: “Mẹ chết, cha chúng là Thiếu tá chế độ cũ bịở tù, nhà bị tịch thu, Cộng sản quăng chúng ra đường. Từđó chúng phải sống bằng nghề lượm rác và ngủ ở đầu đường xó chợ”.

Thu Vân không ngăn được cảm xúc khi nghe gia cảnh chúng. Nàng tặng cho chúng ít tiền, rồi từđó không dám nhìn cảnh khốn khổ của những đưá trẻ lượm rác.

Bữa nay trong lòng đang bi thương vì hay tin hai người bạn đã chết, đôi chân Thu Vân bước thẫn thờ trên đường như kẻ không hồn.

Mắt nàng trông thấy người và ruồi bu quanh đống rác, mà thần trí mơ mồ không biết mình còn sống hay đã chết? Và con đường nàng đang đi thuộc cõi trần gian hay địa ngục?

**

Ohio ngày…

Em thương mến,

Chiều nay một chiều cuối năm, trời vô cùng lạnh lẽo, tuyết rơi không ngưng. Trời buồn! Nhưng có lẽ tâm sự người Việt tị nạn còn buồn hơn cảnh mưa rơi tuyết đổ! Địa cầu này có ai hiểu được nỗi lòng của một dân tộc mất nước không?

Thế gìới tự do đã đưa hai tay đón nhận người Việt tị nạn, cho hưởng cuộc đời ấm no tiện nghi. Nhưng vật chất đầy đủ mà tinh thần của những kẻăn nhờ ở đậu , sống nương tựa vào tình thương của người, nào có hãnh diện gì? Làm sao có được hạnh phúc?

Cái khổ của đồng bào tị nạn hiện tại là cái khổ của đưá trẻ thất lạc mẹ cha, sống nương thân nơi gia đình giàu có, ngày ngày ngóng trông hy vọng tìm gặp cha mẹ, để được trở về sống trong mái nhà thân thuộc cũ. Dù biết rằng nhà của cha mẹ chúng nghèo, chúng cũng ao ước trở về sống trong túp lều thương yêu đó.

Em ơi! Ngày nay chị sống ở xứ người vật chất có đầy đủ, mà tinh thần vẫn khổ. Mơ ước của chị, mà cũng có lẽ mơ ước của đồng bào tị nạn là được về sống trên quê hương mình. Đương nhiên là quê hương thuở trước, không có chủ nghĩa Mác-xít, không có những bộ mặt Cộng sản tham tàn.

Nhưng mơ ước chỉ là mơ ước thôi! Làm sao có được chiếc đủa thần để biến thiên đường Cộng sản VN thành cõi tự do của quả địa cầu? Để chị cùng em và đồng bào đang sống rãi rác khắp năm châu thế giới có thể quay về giang san của chúng ta, mãnh đất mà tổ tiên ta đã gầy dựng mấy ngàn năm xưa?

Em ơi, đêm nào chị cũng nằm mơ thấy em và Vân Trường, lúc tỉnh dậy mới biết là mộng, lòng buồn thương nhớ em khôn xiết! Chị nguyện cầu cho hai mẹ con em sớm gặp nhau và luôn được Chúa che chở.

Chị và hai con vẫn mạnh. Liên nay đã rời nhà thương, bệnh thần kinh đã khỏi hẳn.

Cùng với thư này chị chuyển qua ngân hàng cho em số bạc US$300. Hy vọng em sớm nhận được. Thân ái .

Bạn của em. Lan Mai.

Thu Vân đọc xong thư của bạn lòng buồn vời vợi. Nàng ở lại với nhiều thống khổ, mà người bỏ nước ra đi cũng đâu vui vẻ gì? Đâu có dân tộc nào không có lòng hoài hương? Đâu có dân tộc nào hãnh diễn vì sống nhờ sự giúp đỡ của dân tộc khác? Đâu có dân tộc nào không đau đớn tủi nhục vì mất nước?

Nàng hiểu được tâm sự của bạn và của một triệu người tị nạn hiện sống rải rác khắp hoàn cầu. Nhưng thế giới tự do có ai hiểu được tâm sự họ không? Có lẽ ai cũng cho rằng vật chất đã đem hạnh phúc cho người tị nạn!

Thấy cuối thư bạn báo tin có chuyển tiền cho mình, Thu Vân vừa cảm động vừa đau lòng. Bạn nàng chắc phải sống cần kiệm mới có tiền gửi cho nàng. Nhưng sự thật Thu Vân nào có hưởng được bao nhiêu?

Lần đầu Lan Mai gửi cho nàng thùng quà 5kg, gồm quần aó hàng vải thuốc men v.v… Nàng ra bưu điện nhận quà phải đóng thuế cho nhà nước gần bằng giá trị thùng quà. Thu Vân không tiền đóng thuế, nhà nước tich thu luôn!

Nàng thư cho Lan Mai dặn bạn đừng gửi quà cho nàng, vì nàng không tiền đóng thuế. Lan Mai gửi qua ngân hàng 200 mỹ kim. Theo hối xuât chợđen lúc ấy là 40 ngàn tiền VN, hối xuất chính thức là 10 ngàn. Đã vậy nhà nước chỉ cho nàng lãnh 2 ngàn. Số tiền còn lại nhà nước giữ dùm đến khi nào trong nhà có đám cưới đám tang mới được lãnh. Dĩ nhiên số tiền ấy Thu Vân cũng bị mất luôn!

Tóm lại đồ đạc của người thân từ ngoại quốc gửi về, nhà nước Cộng sản đánh thuế thật cao để dân không thể lãnh được. Tiền mặc nhà nước giữ dùm. Đấy là hình thức cướp của tuyệt dịu nhất của chính quyền Cộng sản!

Vì dân miền Nam bây giờđã bị cướp sạch tài sản rồi, họ không còn gì cướp, nên chính quyền Cộng sản phải tính cách giựt của người bên ngoài 3.

Ngày nay khu chợ trời bán toàn hàng hoá từ Âu Mỹ, Canada, Úc… do đồng bào các nơi gửi về cho thân nhân họ. Đảng nhà nước dùng cách đánh thuế để đoạt phần của này bán ra. Một phần lọt vào túi riêng của cán bộ, một phần bỏ vào quỷđể cứu vãn nền kinh tế trong xứ.

Dĩ nhiên khách mua hàng chỉ cán bộ cao cấp mới có tiền mua và còn có người Nga và một vài dân của nước Cộng sản Đông Âu. Những người này rất thích sản phẩm của thế giới tự do, mà họ không mua được trong xứ họ.

Saigon bây giờ không có người Mỹ, mà đâu đâu củng có người Nga. Họ hà hiếp dân bản xứ không khác gì thuộc địa đối với dân nô lệ 4.

Hồ chí Minh gây chiến tranh với lý do chống người ngoại quốc để đem nền độc lập thật sự trong nước. Nhưng ngày nay dân chúng hai miền Nam Bắc đều thấy chính quyền Cộng Sản làm nô lệ cho Nga! Nước Việt Nam y như là thuộc địa của Nga.

Bây giờ Cộng Sản Việt Nam không còn chiến lược nào để lừa phỉnh nhân dân nữa. Chiếc mặt nạđã rớt ra, cho dù trẻ con cũng thấy được bộ mặt gian tham của chúng!

**

Đang khi Thu Vân đọc thư bạn và nghĩ ngợi vẫn vơ, bỗng nghe tiếng chó sủa thật gần.

Thường đêm, mỗi khi nghe tiếng chó sủa hay tiếng chân người bên ngoài, dân chúng kinh sợ lắm. Vì Cộng sản hay bắt dân vềđêm để hàng xóm không hay biết.

Bởi thế mà khi mặt trời vừa lặn, người dân bắt đầu sống trong lo sợ hãi hùng. Họ không có được giấc ngủ yên lành của loài người. Đối với họ, trời đêm không khác gì con thú khổng lồ có nhiều nanh vuốt, lúc nào cũng nhe răng chực sẵn để ăn thịt người xấu số!

Thu Vân tắt đèn ngồi lặng yên trên giường, tai lắng nghe những động tĩnh bên ngoài…

Bỗng nàng nghe như có tiếng chân chạy trong sân nhà nàng? Toàn thân Thu Vân run lên vì sợ, tim đập thình thịch như tiếng trống.

Thình lình có tiếng gõ cửa thật nhẹ và tiếng gọi khẽ:

- Thu Vân! Vân Trường!

Có người gọi tên nàng và gọi cả tên Vân Trường? Ai? Ai quen biết mẹ con nàng mà tới đây gọi cửa ?

Thu Vân vừa lo sợ vừa thắc mắc, tuột xuống giường, đi thật nhẹ ra cửa.

Người bên ngoài hình như trong tình trạng khẩn trương nên đập cửa dồn dập, nhưng không dám gọi lớn:

- Thu Vân! Vân Trường!

Lần này Thu Vân nghe rõ giọng nói của người bên ngoài, nàng run lên vì xúc động, hấp tấp mở cửa ra. Một người len vào khép cửa rồi khoá nhanh lại. Thu Vân kêu lên bằng giọng nghẹn ngào:

- Duy Quang !

Trong nhà không cháy đèn, song chàng cũng biết rõ trên mặt nàng ướt lệ, chàng dang hai tay đón nàng vào lòng. Cùng một giọng xúc động như nàng, chàng gọi :

- Thu Vân !

Đã ba năm rồi họ không gặp, bao nhiêu tâm sự cần phải nói với nhau. Nhưng giây phút hội ngộ quá bất chợt khiến cả hai bồi hồi cảm xúc, không nói được lời gì ngoài một lần gọi tên !

Một lúc thật lâu, chàng buông nàng ra, hỏi :

- Vân Trường đâu ?

Thu Vân chưa kịp trả lời đã nghe tiếng chân nhiều người chạy vào sân và tiếp theo là tiếng đập cửa la lớn :

- Mở cửa cho ban an ninh khám xét!

Trong bóng tối Thu Vân không trông rõ gương mặt biến sắc của Duy Quang, song nàng cũng đo lường được mức kinh

động của chàng qua giọng nói:

- Chúng đã tới nơi rồi! Chúa ơi! Con đã tuyệt lộ rồi!

Thu Vân đẩy chàng vào buồng ngủ, nói khẽ:

- Cha thay quần áo, lên giường giả vờ ngủ. Mọi việc để

giavui
01-10-2015, 08:16 PM
em lo liệu. Quần áo ngủ của Cha vẫn để trong tủ.

Cũng nhờ lúc trước Duy Quang tới nhà dạy Anh-Pháp ngữ cho Vân Trường và thỉnh thoảng nghỉđêm lại đây, nên

quần áo chàng có sẵn.

Thu Vân đi về phiá cửa, giả vờ hỏi:

- Ai gọi cửa? Có việc gì?

- Mở cửa cho ban an ninh khám xét!

- Trong nhà không có ai, ngoài…hai vợ chồng tôi…

Nàng cố ý nói cù cưa để Duy Quang kịp thay y phục. Một

tên bên ngoài bực tức chửi thề:

- ĐM. mở cửa mau! Mầy nói lằng nhằng , ông bắn bỏ mẹ!

Thu Vân không dám chậm trễ, bật đèn sáng lên và mở banh hai cánh cửa. Ba tên lính Cộng võ trang cùng với tên công an uà vào. Thu Vân nói:

- Trong nhà chỉ có chồng tôi đau nằm trong buồng. Tên công an ra lệnh cho bọn lính: -Chúng bay chia nhau lục soát trong nhà này! Ba tên lính xông xáo vào trong. Tên công an chụp tay

Thu Vân đẩy tới, hỏi:

- Chồng mầy đâu?

Nàng hướng dẫn tên nọ vào buồng ngủ và bật đèn lên.

Duy Quang mở mắt ra và lồm cồm ngồi dậy. Thu Vân hết sức mừng rỡ vì chàng đã thay đổi quần áo. Nàng giả vờ nói:

- Anh đau bệnh hãy nằm yên. Các ông đây chỉ xét nhà mình, chớ không việc gì đâu!

Duy Quang nằm trở xuống. Tên công an giật cái chăn Duy Quang đang đấp, gằn giọng hỏi:

- Mầy đang bệnh thật chứ? Mầy tên gì?

Thu Vân đáp thay:

- Chồng tôi bị bệnh mà. Tên chàng là Lê Thy.

Tên công an nạt lớn :

- Câm mồm ! Chồng mày không nói được hay sao mà mày phải nói dùm ?

Bây giờ Duy Quang mới lên tiếng, song chàng nói với Thu Vân :

- Em cứ để anh trả lời những câu hỏi của ông đây. Anh không mệt lắm đâu !

Rồi chàng đưa mắt nhìn tên công an, hỏi giọng thật bình tĩnh :

- Các ông chỉ muốn xét nhà chúng tôi, hay cần điều chi nữa không ?

Tên công an hất hàm, hỏi :

- Thẻ kiểm tra mày đâu ?

Thu Vân nhanh miệng nói :

- Anh ! Để em đi lấy thẻ kiểm tra trình ông đây. Anh bệnh không nên xuống giường.

Không chờ phản ứng của tên công an, nàng chạy tới mở các hộc tủ giả vờ tìm kiếm. Tên công an theo dõi nàng, hắn trừng mắt hỏi :

- Mày tìm không ra phải không ? Hắn không phải là chồng mày phải không ?

Thu Vân giả vờ hỏi Duy Quang :

- Anh nhớ thẻ căn cước đểởđâu không ?

- Anh đau mấy tháng nay nên không dùng thẻ căn cước nên chẳng nhớ cất ởđâu ? Em thử tìm trong phòng khách ?

Thu Vân chạy ra phòng khách. Tên công an cũng theo ra. Thật ra phòng khách hiện tại trống rỗng, Thu Vân đã bán gần hết đồ đạc bên trong, chỉ còn lại mấy cái ghế và bàn ăn.

Không thể giả vờ tìm kiếm trong gian phòng trống, Thu Vân đành chạy vào phòng của Vân Trường. Tên công an cũng theo nàng bén gót.

Phòng Vân Trường ngoài bàn viết với nhiều hộc tủ , còn có tủ quần áo và nhiều kệ sách. Hiện nay để kiếm tiền sinh sống nàng lãnh hàng từ các tiệm may đem về nhà thêu và hàng vải ấy cất trong tủ áo của Vân Trường.

Tên công an sáng mắt khi trông thấy hàng vải chất trong tủ. Hắn hỏi giọng hung hăng:

- Mầy dám chứa các thứ này à? Hành nghề thương mại không có giấy phép biết tội gì không?

Đây là hàng tôi lãnh từ các tiệm may đem về nhà thêu, rồi đem trả lại tiệm. Tôi chỉ làm công chớ không mua bán.

Tên công an giả lờ không nghe nàng giải thích. Hắn gọi thuộc cấp của hắn:

- Đưá nào vào đây tịch thu các thứ cho tao.

Một tên lính chạy vào khúm núm thưa: -Tôi chờ lệnh đồng chí ạ!

Tên công an chỉ mớ hàng vải trong tủ, bảo tên lính:

- Tịch thu các thứ trong tủđó.

- Vâng ạ!

Thu Vân thấy tên nọ gom hết mớ hàng vải của tiệm may, trong bụng hết sức lo lắng. Những xấp hàng ấy là của các mụ vợ những tên cán bộ cao cấp đưa đến tiệm, nàng lãnh về nhà thêu, nếu mất đi làm sao tìm mua lại được giống y như vậy để bồi thường? Huống chi hiện nay nàng không có nhiều tiền, thì dù ở chợ có bán, nàng cũng không có tiền mua trả lại họ.

Tuy nhiên việc quan trọng hiện tại là nàng phải cứu Duy Quang. Nên dù trong lòng lo sợ, Thu Vân vẫn lặng yên để cho tên công an nọ vơ vét đồ đạc trong tủ. Nàng hy vọng sau khi thoả mãn, hắn sẽ ra đi. Nào ngờ hắn nói với Thu Vân:

- Nếu chồng mầy không có giấy tờ trình ra, tức là kẻ tao đang truy tầm. Tao phải bắt hắn.

- Ông ơi!Chắc là có! Vui lòng chờ tôi tìm thêm lần nữa.

Tên công an không đếm xỉa đến lời van xin của Thu Vân, bỏđi qua phòng Duy Quang. Thu Vân chạy theo. Duy Quang giả vờ nhắm mắt như ngủ. Tên nọ thét lên :

- Đừng giả vờ ngủ nữa ! Mày tên gì ? Có phải mày là tu sĩ Nguyễn Duy Quang không ?

Duy Quang mở mắt ra, lắc đầu :

- Tôi có gia đình, vợ con. Tôi nào biết ông tu sĩ Nguyễn Duy Quang là ai ?

- Con mày đâu ?

Thu Vân vội đáp thay với giọng lấp bấp :

- Con chúng tôi đi…về Mỹ Tho.

Bỗng dưng nàng kêu lên :

- Anh ơi ! Em nhớ ra rồi ! Thẻ căn cước của anh bỏ trong túi áo. Thằng Vân Trường mặc aó anh nên mang theo ! Chao ơi, làm sao có giấy kiểm tra mà trình ra đây anh?

Duy Quang chưa kịp nói lời gì, tên công an hầm hầm nói :

- Mầy nói thật không ? Con này lẻo mồm lẻo mép quá !

Thu Vân chợt mở tủ lấy thẻ căn cước của nàng và hôn thú với Thy năm xưa đưa ra, nói.

- Đây, tôi trình ông thẻ căn cước của tôi và giấy hôn thú của chúng tôi. Thẻ căn cước của chồng tôi hiện không có ở nhà. Chúng tôi sẽ mang đến văn phòng ông trình sau. Ông hãy xem, hôn thú có ghi rõ chồng tôi tên Lê Thy.

Rồi nàng vụt chạy tới vuột đồng hồ trên tay Duy Quang, đưa cho tên công an vừa nói :

- Anh đau bệnh nằm một chỗ chẳng cần xài đồng hồ. Thôi hãy tặng ông đây làm kỷ niệm.

Tên công an rất vừa ý. Hắn cười tươi, nói với Duy Quang :

- Vợ mày nói phải đấy ! Mày đau đâu cần mang đồng hồ ?

Hắn đeo đồng hồ vào tay hắn, đồng lúc nói với thuộc cấp :

- Ê ! Rút lui tụi bây ! Nhanh lên ! Chúng ta mất thì giờở đây quá nhiều rồi !

Bọn lính nghe lệnh rút lui liền đi ra cửa. Một tên khệ nệ mang cái vali chứa hàng vải vừa cướp được !

Tên công an quay lưng đi, Duy Quang thở ra nhè nhẹ. Thu Vân mừng rỡ bước theo hắn. Đến cửa buồng hắn vụt đứng sựng lại vì thấy đôi giày của Duy Quang dính đầy bùn đất và cỏ may còn ướt.

Hắn cúi xuống chụp đôi giày đưa lên nhìn kỷ. Cả Duy Quang và Thuy Vân đều tái mặt. Hắn quát lên :

- Mầy đau nằm một chỗ, sao giày dính đầy bùn đất còn ướt ? Mày đúng là thằng tu sĩ Nguyễn Duy Quang chạy từ xóm Bàn Cờđến đây !

Thu vân mếu máo nói :

- Đôi giày này tôi cho người quen mượn. Họ mới đem lại trả…

- Im ! Con này lẻo mép ! Còn nói lời nào nữa, ông bắt luôn cả mầy !

Hắn nói với sắc mặt hầm hầm giận dữ, rồi quay sang thuộc cấp ra lệnh :

- Bắt thằng ấy theo ! Để xem hắn còn giả vờđau bệnh nữa không ?

Hai tên lính chạy trở lại lôi Duy Quang xuống giường, kéo đi ra cửa trong bộ áo ngủ, chân không giày.

Thu Vân chạy theo níu tên công an vừa khóc vừa nài nỉ :

- Xin ông tha cho chồng tôi!

Hắn xô nàng té nhào. Duy Quang ngoái đầu lại nói:

- Em vào nhà đi! Anh không có tội gì, chắc chắn được trả về. Đừng lo cho anh!

Chàng nói được mấy lời, bọn họđã kéo sệch chàng ra đường. Thu Vân đứng bất động nhìn theo…

Nhưng bóng đêm và màn lệđã che kín khoảng không gian trước mắt!

Nàng không trông thấy gì nữa! Nàng không thể theo dõi cuộc đời và bước chân chàng nữa!

Một cuộc tương phùng ngắn ngủi để đem vào hồn họ nỗi thương đau bất tận…

**

Duy Quang bị hai tên lính kéo đi một đỗi thật xa, đến đường Công Lý thì thấy có chiếc xe bít bùng của công an đậu tại đó. Bọn chúng đẩy chàng lên xe chỡđi. Khoảng nửa giờ sau xe dừng lại.

Đêm ấy nhằm đêm không trăng, bầu trời thật tối. Lúc Duy Quang bị kéo ra khỏi xe không nhìn rõ mọi vật. Chúng đưa chàng vào một toà biệt thự. Chàng đoán toà nhà khá lớn, vì chàng đi trên hành lang một khoảng khá dài, hai bên có nhiều phòng, trước mỗi phòng có lính gác.

Cuối cùng chúng xô chàng vào một phòng rồi khóa cửa lại. Trong phòng tối om, nhưng Duy Quang nghe hơi thở của rất nhiều người. Sợ đụng người, chàng ngồi xuống. Một lúc mắt đã quen với bóng tối, Duy Quang thấy lờ mờ gian phòng chứa đầy tù nhân nằm sắp lớp, không khác gì cá mòi.

Khí trời nóng nực, gian phòng ngang dọc chỉ độ hai thước, bốn thước. Hơi thở, mùi khai xông lên, thật ngột ngạt khó chịu.

Bấy giờ tù nhân bắt đầu rù rì hỏi Duy Quang lý do vì sao bị bắt? Duy Quang đành phải dối họ chàng tên LêThy. Chàng bị bắt vì họ lầm tưởng chàng là tu sĩ tên chi đó.

Người nằm bên phải chàng nói:

- Hổm rày chúng bắt các Cha và các Sư nhiều lắm. Họ bị giam riêng trong phòng chật hẹp, nằm không được, ngồi thẳng cũng không được, chỉ có đứng! Khốn khổ lắm! Chúng ta bị giam chung trong phòng này là ân huệ lắm.

Thời tiết bên ngoài nóng bức, mà nghe câu nói ấy Duy Quang có cảm tưởng như có luồng khí lạnh chạy từ chân lên đỉnh đầu, khiến chàng rùn mình ớn lạnh.

Ba năm qua trốn khỏi Saigon, chàng ra các tỉnh miền Trung âm thầm hoạt động cho giáo Hội. Nhưng chàng vẫn phải thay đổi chỗở luôn, vì bọn công an rình rập. Lần này chàng quyết trở về Saigon, cũng vì nóng lòng muốn biết tin tức của Thu Vân và Vân Trường.

Việc di chuyển của giới tu sĩ ngày nay thật khó khăn, vì hiện tại Cộng sản đã xem họ là những kẻ đối đầu số một của chúng.

Chùa, nhà thờ, đều có người của chúng kiểm soát. Một số đông các Cha, Sư, Mục Sư bị giam trong các nhà tù kín, mà họ gọi là “trại biệt giam”.

Duy Quang muốn trở về Saigon cũng không phải dễ dàng. Chàng phải giả dân thường, thay đổi thân thế mấy lần mới về đến Saigon.

Đáng lý chàng tới ngay nhà Thu Vân, nhưng tiện trên đường đi chàng ghé thăm một tín hữu trong xóm Bàn Cờ. Vùng này rất đông người theo Thiên Chúa Giáo, hay tin Duy Quang trở về họ rủ nhau đến thăm. Sựồn ào đến tai bọn lính mật vụ. Thế là chàng bị vây bắt. May nhờ đồng bào tín hữu giải vây cho chàng thoát khỏi vòng lưới công an. Chàng chạy qua nhiều thôn xóm đến chiều tối mới tới được nhà của Thu Vân thì bọn ấy cũng theo tới.

Có điều bọn ấy không biết mặt chàng, nên chàng bị bắt trong trường hợp nghi vấn.

Tù nhân nằm bên phải Duy Quang là Bác sĩ Hoa. Ông giới thiệu với chàng những tù nhân trong phòng: Bác sĩ Diêu, nhà văn Phong Vân, Giáo sư Hân và ông Thanh Hiền, người Cộng sản tình nghi là một đại đức Phật giáo. Vị chi, trong phòng có sáu người, tính luôn Duy Quang.

Bác sĩ Hoa còn cho chàng cho biết, nhà văn Phong Vân và ông Thanh Hiền bị tra khảo khi chiều, nên hiện tại cả hai còn trong tình trạng mê man bất tỉnh.

Duy Quang nghe nói không khỏi kinh hoàng, nghĩ đến số phận mình chẳng biết sẽ bị khủng bố hành hạ kiểu nào?

Bất thần trước mắt chàng hiện ra hình ảnh Chúa Jesus bị đội mũ gai và bịđóng đinh trên Thập tự giá trên đồi Gogotha. Chàng xúc động nghĩ thầm:

“Dù chúng có hành hạ ta thế nào, nỗi đau đớn của ta chắc không sánh bằng sựđau đớn của Chúa Jesus khi xưa.

Hình như có tiếng vọng từ tâm linh: “Can đảm lên Duy Quang! Ta sẽ không lìa bỏ con! Lúc này là lúc con có thể chứng minh lòng trung kiên của con đối với Chúa Trời ».

Sức mạnh của niềm tin dâng cao, Duy Quang buộc miệng nói :

- Cái tốt cuối cùng sẽđánh ngã cái xấu ! Kẻ hung bạo vào giờ chót cũng là kẻ chiến bại !

Câu nói của chàng khiến mọi người nuôi chút hy vọng ở sự phán xét và trừng phạt của Thượng đế đối với bọn ác ôn.

Tối đêm đó các tù nhân cùng thức trọn đêm để chuyện trò với Duy Quang. Chàng biết thêm nhà tù này là nhà tù kín, giam giữ tội phạm chính trị. Tù nhân không phải ra đồng làm việc như các nhà tù khác. Nhưng nơi này tù nhân biến thành món dồ chơi để những tên cán bộ Cộng sản hành hạ, lấy đó làm thú vui.

**

Duy Quang không thoát khỏi định luật đó. Ngày nào bọn cai ngục cũng đánh thức tù nhân lúc trời còn lờ mờ. Mọi người mang cái bô tiểu tiện (WC cá nhân) đem đổ rửa nơi nhà cầu bên ngoài. Đó là thời gian duy nhất tù nhân được ra khỏi phòng và trao đổi những lời thầm lén với nhau.

Sau đó tù nhân phải qua phòng thẩm vấn, giáp mặt với tên Quản giáo nhà tù. Nơi đây tù nhân bị chất vấn và làm tờ thú tội. Ngày nào cũng bị hỏi những câu tương tự. Nếu tù nhân trả lời không đúng như lời bữa trước đã khai, hoặc để giấy trắng, không khai tội mình, sẽ bị đưa qua phòng hình cụ. Nơi đó nào còng, nào kẹp, nào đinh, nào sắt nung đỏ…Địa ngục trần gian là nơi đó !

Tù nhân nào nhiều tưởng tượng, tìm ra tội của mình biên đầy cả giấy, mỗi ngày thêm một tội mới kê ra, sẽ không bị đưa qua phòng hình cụ. Nhưng tờ khai ấy chính là bản án chung thân ngồi tù.

Hoá ra khai nhiều cũng chết ! Khai ít hay không khai cũng chết !

Duy Quang khai mình tên Lê Thy, sinh viên du học mới về nước, chưa có nghề nghiệp, nên dù muốn phịa ra tội lỗi của mình cũng không biết tội gì để viết ra ? Thành ra ngày nào chàng cũng bị đưa qua phòng hình cụ và bị bọn ấy hành hạ. Lúc trở về phòng giam chàng gần như xác chết !

Một tháng trôi qua…30 lần Duy Quang bị tra khảo đánh đập, khủng bố tinh thần. Sức chàng đã yếu lắm, song tên quản giáo nhà tù vẫn chưa tìm ra tên thật của chàng.

Bọn công an muốn tìm nhân chứng để nhận diện Duy Quang cũng không có ! Vì phần đông các tín hữu đều trốn đi. Không tìm ra nhân chứng để xác nhận chàng là tu sĩ, tên quản giáo tức giận lắm.

Sáng hôm đó Duy Quang không phải qua phòng thẩm vấn, cũng không qua phòng hình cụ. Chàng không biết họ có mưu tính gì ? Dù sao chàng được yên thân một ngày, thể xác bớt phần đau đớn.

Đến chiều tối có hai tên lính đến phòng giam lôi chàng đi ra. Chàng ngỡ chúng lôi chàng qua « phòng địa ngục ». Nhưng không ! Chúng đưa chàng xuống hầm.

Tới lúc đó Duy Quang mới biết tòa nhà này không những có nhiều tầng mà còn có hầm rộng lớn. Dưới hầm cũng ngăn chia nhiều phòng giam tù nhân.

Đặc biệt tầng hầm chỉ một tên lính gác. Nhưng tù nhân chỉ cần thấy mặt hắn cũng ghê sợ rùng mình. Biết rằng hình dung con người đôi khi không đi đôi với tâm địa, nhưng phải nói lần đầu tiên trong đời Duy Quang mới trông thấy một người mặt mũi xấu xí như vậy.

Đôi gò má của hắn là hai cục xương nhô ra , cái mũi to ngắn xếch lên, đôi mắt thật nhỏ, cái trán gần như không thấy bởi mớ tóc lù xù như rễ cây, miệng và răng hắn giống như loài khỉ. Tuổi hắn có lẽ dưới 30, thân hình cao lớn vâm vỡ, trái với lính Cộng Sản miền Bắc thường lùn, và ốm. Trông hắn giống như người rừng. Có lẽ hắn thuộc nhóm dân tộc thiểu số ở miền thượng du Bắc Việt ?

Duy Quang bị nhốt trong phòng giam không nhỏ lắm, nền đất, vách đá. Có một khe hở độ hai tấc bề ngang, ba tấc bề dài, để cho ánh sáng và không khí bên ngoài lọt vào.

Đương nhiên là chỉ có mình chàng trong phòng. Và vì phòng nằm trong lòng đất nên khí hậu không nóng như phòng giam tầng trên. Nhưng nơi đây hơi lạnh từ ba mặt đá và khí ẩm từ nền đất xông lên, gây khí hậu lành lạnh ẩm ướt khó chịu.

Tối đêm đó Duy Quang ngồi co rúm một chỗ không ngủ được. Tờ mờ sáng hôm sau tên lính gác mở cửa cho chàng ra ngoài làm vệ sinh, lúc ấy chàng mới lưu ý dưới này hai bên cũng có nhiều phòng, chính giữa là lối đi.

Thừa dịp ra ngoài, các tù nhân trao đổi vài lời thăm hỏi. Duy Quang được biết những tù nhân dưới hầm đều bị giam khá lâu, trong số có một nhà sư nổi tiếng từng chống đối chính phủ thời trước và chàng cũng nhận ra một vị tướng thời trước cũng bị giam nơi đây.

Như vậy chúng đã liệt chàng vào số tù nhân quan trọng. Chưa biết chàng sẽ bị cực hình nào, nhưng chắc chắn không còn hy vọng ra khỏi tù !

Liên tiếp ba ngày Duy Quang không bị đưa đến « phòng địa ngục ». Các chỗđánh đập đã bớt nhức, những vết bầm đổi màu tím, mấy ngón tay bị kềm kẹp đã bớt sưng. Chàng đã quen dần với khí lạnh và ẩm của nơi này nên ngủ vùi.

Sáng hôm ấy là ngày thứ tư. Duy Quang đã hết buồn ngủ, chàng ngồi tựa lưng nơi vách cầu nguyện. Cầu nguyện xong chàng không biết phải làm gì ?

Chàng ngồi nghĩ ngợi vẫn vơ…nhớ dĩ vãng, nhớ thuở nhỏ mồ côi cha mẹ sống ở Cô Nhi Viện, nhớ thời du học ở Bỉ, nhớ 15 năm làm Linh Mục ở nhà thờ Đức mẹ Saigon, nhớ ba năm bôn ba các tỉnh miền Trung âm thầm hoạt động cho Giáo hội và hình ảnh sau cùng nhất là cuộc tao ngộ ngắn ngủi với Thu Vân trong đêm bị bắt. Giòng nước mắt cùng lời cầu xin thảm thiết của nàng với tên công an Cộng Sản : « Xin tha cho chồng tôi » như còn văng vẳng bên tai, khiến con tim chàng bồi hồi.

Chàng nhắm mắt để ngăn chặn giòng cảm xúc rơi ra…

Thình lình cửa nhà giam mở banh. Tên Quản giáo nhà tù bước vào. Sau lưng hắn có một người đàn bà đi kèm bởi hai tên lính võ trang.

Duy Quang vừa trông thấy người đàn bà ấy sắc mặt biến đổi, đứng lên.

Người ấy nhào tới sụm dưới chân chàng, nghẹn ngào gọi :

- Ch…àng ơi !

Nàng sắp sữa gọi Duy Quang bằng Cha, bỗng chợt nhớ trước mặt có bọn Cộng Sản, nên nói trớ « chàng ơi ! ». Duy Quang quỳ xuống nâng nàng lên, tha thiết gọi :

- Em ! Em yêu quí của anh ! Vợ yêu quí của anh !

- Anh ! Em yêu anh ! Em rất thương nhớ anh!

- Anh cũng rất thương nhớ em! Anh yêu em!

Họ ôm nhau, họ hôn nhau…Họđóng kịch trước mặt tên Cộng sản y như vợ chồng thật, y nhưđôi tình nhân thật! Họ đóng hay hơn nghệ sĩ trứ danh tài ba trên sân khấu và màn bạc diễn cảnh yêu đương.

Bởi vì những lời yêu đương ấy xuất phát từđáy lòng họ, những lời họ ôm ấp từ 15 năm qua không dám thố lộ cùng nhau.

Tình câm nín của 15 năm, hôm nay mới có dịp bộc phát! Cho nên từ lời nói đến âm thanh và nụ hôn…đều xuất phát bằng sự rung động chân thành của đôi tim.

Màn diễn xuất thật tài tình!

Không tìm ra sơ hở, tên Quản Giáo hầm hầm bỏđi. Hai tên lính hộ vệ hắn cũng đi theo. Cửa nhà giam khóa lại, nhốt Thu Vân bên trong với Duy Quang.

Bấy giờ cả hai mới buông ra. Duy Quang nói giọng buồn rầu:

- Vì tôi mà em phải vào chốn lao tù. Thật tội nghiệp cho em! Tha lỗi cho tôi!

Thu Vân thấy trên người chàng đầy thương tích, lòng đau đớn xót xa, nước mắt rơi rơi:

giavui
01-10-2015, 08:16 PM
- Vì sao chúng hành hạ Cha đến ngần ấy?

- Trong nhà tù này mọi người cùng hoàn cảnh như tôi, cùng bị hình phạt mà không biết mình phạm tội gì? Nhưng đây là cái nạn của riêng tôi, tôi phải gánh chịu. Tôi không thể để em bị đọa đày ởđây. Tôi sẽ nói thật tên họ tôi, rồi chúng muốn giết muốn hành hạ tôi thế nào cũng được, miễn rằng chúng trả tự do cho em.

Thu Vân nức nở:

- Không! Cha đừng làm thế! Chúng biết được Cha là tu sĩ, chúng sẽ giết chết. Cha cần sống không riêng choThu Vân, mà cho hàng ngàn tín hữu hiện nay không khác gì bầy chiên không có người canh giữ, đói khát, khốn khổ…Lúc này là lúc Cha không có quyền chết! Cha không có quyền bỏ rơi giáo hội đang cơn hoạn nạn bởi bọn vô thần.

Câu nói của Thu Vân nhắc Duy Quang nhớ lại bổn phận mình. Bổn phận của người chăn chiên che chỡ cho bầy chiên trước hiểm họa của bầy lang sói.

“ Không! Ta không thể chết! Ta phải sống để tiếp tục làm tròn bổn phận một tôi tớ của Chúa.

Chàng nhủ với lòng mình như thế. Và chàng cũng biết rằng nếu muốn ra khỏi nhà tù này thì chàng không thể nào để chúng biết tên thật Nguyễn Duy Quang. Mà như thế thì tội nghiệp cho Thu Vân phải chịu cảnh ngục tù gian khổ.

Gục đầu nghĩ ngợi một lúc, chàng ngước mặt lên hỏi:

- Bọn chúng đến nhà bắt em có hung bạo lắm không? Chúng lấy cớ gì để bắt em?

Thu Vân lắc đầu:

- Chúng không bắt em! Tên công an bắt Cha bữa trước đến nhà tìm em bảo: “nếu em muốn gặp Cha thì theo hắn“. Em hân hoan đi với hắn đến đây, vì từ khi Cha bị bắt em đi dọ dẫm tin tức khắp các trại tù ở Saigon, những nơi thuở trước em có đến tìm Vân Trường…

Duy Quang nghe Thu Vân nói đi tìm Vân Trường ở trại tù thì hoảng hốt ngắt lời nàng:

- Em nói sao? Vân Trường bị tù bao giờ? Hiện ởđâu?

- Chuyện Vân Trường còn dài, em xin kể Cha nghe sau. Em xin kể tiếp vụ này.

- Xin em kể tiếp cho tôi rõ.

- Em tới các trại tù mà không dò ra tin tức của Cha. Cũng vì trại tù này là trại biệt giam, dành nhốt những trọng tội chính trị. Em theo tên công an ngồi xe bít bùng tới đây, nên chẳng rõ địa điểm nhà tù này ởđâu? Nhưng chắc chắn trong địa phận Saigon- Chợ Lớn. Lúc xuống xe em thấy hàng rào sắt cao. Như vậy dù dân chúng có qua lại bên ngoài cũng khó biết nơi đây là nhà tù. Tòa biệt thự này có lẽ cất vào thời Pháp, nên cũ kỹ và to lớn, có vườn rộng.

- Tôi cũng đoán như những điều em biết.

- Tên công an đưa em đến gặp tên Quản Giáo lúc hắn đang ngồi trong văn phòng hắn. Thấy em hắn sững sờ một lúc

mới hỏi:

- Bà đến đây có việc chi?

- Chẳng phải ông cho phép tôi đến đây để thăm chồng tôi

đó sao?

Hắn gật đầu:

- Đúng vậy! Bà được phép thăm chồng. Hắn tên gì?

- Tên Lê Thy.

- Hắn làm nghề gì?

Em không biết nói Cha làm nghề gì, nên ngập ngừng nói:

- Anh ấy chưa tìm ra việc làm. Anh ấy …là sinh viên du

học mới về nước khi quân cách mạng vào Nam. Rồi mấy năm nay anh cũng chưa tìm ra được việc làm!

Câu nói của Thu Vân khiến Duy Quang buộc miêng kêu:

- Cám ơn Chúa!

Cũng vì chàng đã khai đúng y như thế! Không ngờ Thu Vân không biết trước mà nói rất ăn khớp. Thật là may!

Thu Vân kể tiếp:

“Tên quản giáo hỏi em: Chồng bà du học năm nào? Em đáp: Có lẽ vào năm 1956. Hắn hỏi: Vì sao không biết rõ, mà nói có lẽ? Em trả lời: Vì anh ấy du học quá lâu tôi quên ngày tháng, nhưng chắc hồ sơ còn nơi Bộ Giáo Dục. Xin ông tìm nơi đó sẽ rõ ràng hơn. Hắn hỏi tiếp: Chồng bà học ngành gì? Em nói: Khi xuất ngoại anh ấy xin học ngành y khoa, nhưng qua bên đó anh đổi ngành xã hội học. Hắn lại hỏi: Ở xứ nào?. Em đáp: Ở Thụy Sĩ.

Duy Quang mừng rỡ kêu lên:

- Thật có phép lạ!

Một tháng qua ngày chúng cũng bắt chàng khai. Duy Quang biết rõ cuộc đời của Thu Vân và Thy, chàng dựa theo đó khai ra, nên đúng những gì Thu Vân vừa nói.

Chàng không giấu được vẻ vui mừng, cười nhẹ nói:

- Chắc tên Quản Giáo cay cú lắm vì không tìm ra sơ hở của chúng ta.

- Như vậy hắn sẽ trả tự do cho Cha chứ?

- Khó mà biết được với bọn Cộng Sản. Dù sao tôi nuôi hy vọng. Chỉ lo là em bị giữởđây!

Chàng chợt nhớ ra tên Quản Giáo nhà tù này là người nhiều mưu mô thâm độc. Chắc chắn hắn rước Thu Vân vào đây là có mưu tính gì, chớ không phải để trả tự do cho chàng. Cũng có thể hắn sẽ hành hạ Thu Vân để chàng không chịu đựng được phải khai tất cả…

Thấy chàng trầm ngâm, Thu Vân nói:

- Cha đừng lo việc em bị giữởđây. Dù tên Quản Giáo không nhốt em ở lại đây, em cũng xin ở lại.

Nàng vừa nói vừa tháo cái sắc đeo trên vai đưa ra hai bộ quần áo của Duy Quang. Nàng còn mang theo y phục của mình, cùng ít vật dụng.

Duy Quang kêu lên, giọng có phần gay gắt:

- Chúa ôi! Đây là nhà tù Cộng sản chớ nào phải khách sạn mà em muốn vào đây ? Vì sao em làm thế ?

Thu Vân cúi mặt không đáp. Duy Quang biết rõ tình yêu của nàng dành cho mình, lòng càng xót xa. Chàng ngồi lặng yên với nỗi cảm xúc… Một lúc đưa mắt nhìn nàng, chàng nhỏ nhẹ hỏi :

- Vân Trường thế nào ? Xin em hãy cho tôi biết tin tức về con.

Thu Vân tường thuật tất cả những hoạn nạn của gia đình từ ba năm qua. Nàng nghẹn ngào khi kể, nhưng không khóc.

Trái lại, Duy Quang xúc động tột cùng. Chàng nắm tay nàng nói giọng bồi hồi :

- Tha lỗi cho tôi, Thu Vân ! Đã ba năm qua tôi đem sức mình lo lắng giúp đỡ an ủi tín đồ khắp nơi. Nhưng kẻđáng chăm sóc là em mà tôi lại bỏ rơi ! Chúa ơi ! Vân Trường hiện còn sống hay đã chết ?Tôi không làm tròn bổn phận người cha đỡ đầu của nó !

Chàng nói rồi gục đầu lên gối mình thổn thức từng cơn. Thu Vân an ủi :

- Cha chớ quá ân hận và oán trách mình. Cha trốn ra miền Trung bọn chúng mất dấu Cha, Cha mới không bị bắt. Chớ nếu như Cha còn ở Saigon thì đã khổ thân với chúng !

Nàng nói đến đó bỗng nghe tiếng mở cửa phòng giam. Tên lính ló mặt vào khiến Thu Vân kinh hãi thụt lùi.

Khi sáng lúc tới đây vì nàng mãi nghĩ đến cuộc hội ngộ với Duy Quang nên không lưu ý tên lính gác dưới hầm này. Giờ thấy mặt hắn cơ hồ nàng muốn ngất xỉu. Duy Quang đoán nàng sợ hãi khi nhìn thấy gương mặt xấu xí của tên lính, nên nói một câu bằng tiếng Pháp, cố ý không cho hắn nghe hiểu :

- Mặt hắn tuy xấu xí khó nhìn, song có lẽ hắn là người dễ chịu nhất trong nhà tù này. Kẻ thâm độc và tàn ác là tên Quản Giáo.

Tên lính đem vào cho Duy Quang chén cơm và ly nước lã với ít muối. Giờ này là giờăn trưa, bữa ăn của tù nhân chỉ có từng đó !

Duy Quang nhận phần ăn của mình và hỏi tên lính :

- Còn phần ăn của vợ tôi ?

Hắn không trả lời, ra dấu bảo Thu Vân theo hắn. Thu Vân lắc đầu :

- Không ! Tôi không đi ! Tôi không ăn ! Tôi ởđây với chồng tôi.

- Không ăn cũng phải đi !

Hắn nói từng tiếng, giọng cứng như người mới học nói. Rồi không cần biết Thu Vân đồng ý hay không, hắn nắm tay lôi ra ngoài. Duy Quang thấy nàng quá kinh sợ, nên nói với hắn :

- Chú cứ để vợ tôi tựđi, không cần phải lôi kéo.

Hắn buông Thu Vân ra. Duy Quang nói với nàng :

- Em nên đi theo hắn ra ngoài ăn chút ít. Nhà tù này mỗi ngày chỉ phát cơm một lần, nếu em nhịn đói không chịu đựng nổi đến trưa mai đâu !

Thu Vân từng trải qua nhà tù Cộng sản nên không ngạc nhiên khi nghe lời Duy Quang nói. Nàng theo chân tên lính bước đi. Hắn dẫn nàng lên tầng trên, nơi đó có tên lính hầu cận tên Quản giáo mà nàng biết mặt khi sáng đang chờ nàng nơi cầu thang. Tên này đưa nàng lên tầng lầu trên của toà nhà và dừng lại trước một phòng, gõ cửa. Bên trong có tiếng nói :

- Vào đi !

Tên lính mở cửa cho Thu Vân vào rồi khép cửa lại. Nàng không khỏi ngạc nhiên khi thấy tên Quản giáo ngồi trước bàn ăn bày sẵn cho hai người. Trên bàn có sẵn năm bảy món ăn còn nóng. Phòng khá rộng, bàn ăn vuông dài to lớn đủ cho 20 người ngồi. Nhưng hiện tại chỉ có mình hắn.

Hắn đứng lên kéo ghế mời nàng ngồi, cử chỉ thật lịch sự. Thu Vân ngồi xuống mà trong lòng không khỏi ghê sợ, vừa không hiểu vì sao hắn mời nàng ăn chung với hắn ?

Nhưđoán hiểu ý nghĩ thầm kín của nàng, hắn cười vang :

- Bà không là tù nhân ởđây, nên tôi phải tiếp đãi bà như khách. Xin mời.

Hắn nói cùng lúc đưa mắt nhìn nàng với cái nhìn thật tình tứ. Thu Vân trốn ánh mắt của hắn, cúi mặt nghĩ thầm :

« Ba năm qua ta mới gặp tên Cộng sản có học, lời nói và cử chỉ chứng tỏ con người đã sống trong xã hội văn minh, nhưng đôi mắt hắn bén như dao, lòng hắn chắc thâm hiểm không lường. Ta phải cẩn thận khi nói chuyện với hắn ! Tốt hơn ta không nên nói gì »

Nghĩ như thế nên Thu Vân lẳng lặng ăn. Hắn vừa ăn vừa ngắm nghía nàng, một lúc nói bâng quơ :

- Trên thế gian này đàn bà đẹp ít khi chung tình.

Thu Vân làm lờ như không nghe hắn nói gì. Hắn tiếp :

- Trong nhà tù này có biết bao nhiêu tù nhân ? Nhưng không có người đàn bà nào tới thăm chồng mà chịu ở lại trong tù với chồng. Nàng có lẽ là người đàn bà đặc biệt nhất trên thế gian. Tôi tự hỏi…

Hắn không nói tiếp và bắt đầu đổi lối xưng hô. Thu Vân đưa mắt nhìn hắn. Tia mắt hắn như hai luồng điện chiếu vào mắt nàng…

Thu Vân cúi mặt, đồng lúc hắn tiếp câu nói bỏ lững khi nãy :

- Tôi tự hỏi nàng có đúng thật là vợ tên tù nhân kia không?

Thu Vân chưa tìm ra câu nói nào khả dĩ dẹp tan nỗi nghi ngờ của hắn thì hắn đã tiếp :

- Chỉ có tín đồ mới trung thành và chịu hy sinh cho nhà tu. Hoặc giả là tình nhân mới gắn bó nhau. Nàng ở vào trường hợp nào ? Chắc là cả hai ?

Thu Vân biến sắc, nhưng trấn tĩnh được ngay, nói với hắn :

- Thật tình tôi không hiểu ông muốn nói gì ? Ông cho phép tôi đến thăm chồng tôi, rồi chính ông nhốt tôi vào phòng giam. Chớ nào phải…

Nàng không dám nói tiếp, vì nếu nàng nói nàng không muốn ở lại, nhỡ hắn cho nàng về thì sao ? Như thế không đúng với sự mong ước của nàng !

Hình như hắn đọc được ý nghĩ trong đầu nàng, hắn cười thật to, giọng cười có phần lơi lã, có phần chế riễu :

- Tôi nhốt nàng trong phòng giam, tại sao nàng không chống đối ? Ở vào địa vị người đàn bà khác, khi tới thăm chồng bị nhốt lại, có ai tỏ vẻ thoả mãn như nàng không ? Nàng với hắn đóng kịch khéo lắm, nhưng không khỏi có sơ hở.

Thu Vân ngơ ngác hỏi :

- Tôi đóng kịch gì đâu ?

- Màn yêu đương của nàng với hắn lúc nãy đẹp như trên

màn bạc.

Thu Vân không dám nhìn hắn, nói thật nhỏ :

- Tôi thật tình không hiểu ông muốn nói gì ?

Hắn cười :

- Nàng muốn đóng kịch cả với tôi chăng ? Đẹp như nàng,

diễn xuất hay, tại sao không làm nữ minh tinh màn bạc ?

Thu Vân ngừng ăn, hỏi :

- Ông mời đây tới đây ăn trưa, hay chỉ cố ý trêu ghẹo tôi ?

Hắn chợt đổi giọng lạnh như thép :

- Tôi không trêu ghẹo nàng ! Tôi biết chắc chắn nàng

không là vợ hắn. Chỉ có điều tôi chưa tìm ra bằng chứng và chứng nhân thôi. Sớm muộn rồi tôi sẽ vạch ra bộ mặt thật của hắn.

Thu Vân rưng rưng nước mắt :

- Vì sao lúc nào ông cũng nghi ngờ chồng tôi là người khác ?

Hắn thấy nàng khóc, sắc mặt dịu lại, cất tiếng nhỏ nhẹ dỗ dành :

- Nín đi ! Tôi không nói gì nữa đâu ! Thức ăn có vừa miệng không ?

Thu Vân ôm mặt khóc thút thít. Hắn rời ghếđi tới đứng sau lưng nàng, hai hai sắp sữa ôm vai nàng, nhưng hắn thập thò không dám, đứng im một lúc trở lại ngồi xuống ghế.

Ởđây hắn có quyền sanh sát tất cả tù nhân, nhưng trước người đàn bà này hắn bỗng đem lòng kính trọng, không dám có cử chỉ sổ sàng.

Phải chăng sắc đẹp của nàng có thần thánh thiên tiên ngự trị, nên mới khiến cho hắn một kẻ vô đạo không sợ Trời Đất Thánh Thần cũng phải nể trọng ?

Chính hắn cũng không hiểu vì sao mình có thái độ rụt rè như thế ? Trong đời hắn từng ôm ấp nhiều đàn bà đẹp, nhất là từ ngày chiếm được miền Nam, đàn bà con gái đẹp trong Nam hắn có quyền bắt làm vợ, có quyền giam, có quyền giết…Nhưng không hiểu sao trước mặt nàng hắn không dám làm gì, ngay cả nổi giận !

Thấy nàng cứ mãi ôm mặt khóc, hắn ngọt ngào nói :

- Nàng ăn đi ! Đừng khóc nữa ! Tôi không chịu đựng nổi khi thấy đàn bà khóc, nhất là đàn bà đẹp !

Có lẽ là lần đầu tiên trong đời hắn nói câu ấy. Bởi hắn là con người lòng dạ sắt đá, tàn nhẫn vô tâm, không mềm yếu trước nước mắt đàn bà.

Thu Vân buông hai tay ra, nói :

- Ông trả tự do cho chồng tôi, ông nhé? Chàng không làm gì nên tội, lính ông đã bắt lầm.

Giọng nói của nàng thật trong và thật êm như tiếng đàn, đôi mắt nhìn hắn khẩn cầu…

Hắn ngưng ăn, ngã người trên thành ghế, nhìn nàng chăm chăm một lúc mới nói:

- Tên ấy không là chồng, cũng không là tình nhân, lý do gì nàng theo hắn vào tù? Cuộc sống bên ngoài chẳng vui thú đó sao?

Thu Vân muốn thét vào tai hắn:

“Chỉ vì bọn Cộng sản chúng bay đã hãm hại gia đình ta, làm ta khốn khổ bơ vơ. Chàng là người thân duy nhất còn lại của ta, chúng bay cũng bắt! Ta không còn vui thú trong đời là vì bọn chúng bay”.

Nàng muốn nói những lời như thế, song ngoài miệng lại nói:

- Tôi làm sao có vui thú khi chồng tôi bị giam cầm?

- Tôi sẽ chứng hắn không phải là chồng nàng một ngày không xa. Tốt hơn nàng đừng lập đi lập lại “hắn là chồng” chỉ làm bực lòng tôi, không lợi gì cho nàng, mà chỉ có hại cho hắn.

Thu Vân cố tranh đấu lần nữa:

- Ông không có bằng chứng để chứng minh anh ấy không là chồng tôi. Xin ông hãy dẹp bỏ nghi ngờ. Tôi sẽ rất biết ơn ông.

Hắn cười nhẹ:

- Hiện tôi không có bằng chứng, song tôi sẽ tìm ra bằng chứng. Và khi ấy hắn sẽ chết! Nàng biết chứ? Hắn sẽ chết!

Thu Vân cảm nghe sợ hãi, ngồi lặng một lúc hỏi:

- Xin ông cho biết tôi phải làm gì để ông buông tha…chàng?

- Nếu nàng thú nhận nàng không là vợ hắn và chịu thuộc về tôi. Tôi sẽ trả tự do cho hắn.

- Nếu không?

- Nếu không thì tôi cũng sẽ tìm ra bằng chứng hắn không phải là chồng nàng, lúc đó hắn sẽ chết. Và nàng cũng sẽ thuộc về tôi!

- Thu Vân bừng mặt giận, quát lên:

- Không bao giờ! Tôi thà chết với chồng, quyết không làm tình nhân hay vợ ông!

Nàng nói xong câu ấy hậm hực đứng lên đi ra cửa… Hắn mỉm cười , vỗ tay ba cái. Tên lính gác bên ngoài ló mặt vào.

Hắn ra lệnh:

- Đưa bà ấy về phòng giam khi nãy.

Duy Quang thấy Thu Vân vắng mặt khá lâu chàng lấy

làm lo. Chừng thấy nàng trở lại, chàng mừng rỡ hỏi:

- Bọn ấy có làm gì em không?

- Tên Quản giáo mời em ăn với hắn chớ không hành hạ gì.

Nàng không muốn kể cho Duy Quang nghe cuộc đàm

thoại giữa nàng với tên Quản giáo, trong lòng vương vấn mãi câu nói: “Nếu nàng thuộc về tôi, tôi sẽ trả tự do cho hắn”

Thu Vân tự hỏi:

“Nàng có thể làm vợ hay nhân tình cho tên đó không? Nếu nàng chịu nhận điều kiện đó, hắn tha cho Duy Quang không?”

Cả hai câu hỏi Thu Vân đều trả lời “không!”

Nàng không thể làm vợ hay nhân tình kẻ hung tàn! Nàng càng không thể tin lời phe Cộng sản!

Chính sách Cộng sản là lừa phỉnh. Nều nàng thú nhận Duy Quang không phải là Thy, chắc chắn Duy Quang sẽ bị giết.

Thấy nàng mãi trầm ngâm nghĩ ngợi, Duy Quang vô cùng thắc mắc, song không dám hỏi.

Một tháng qua bị hành hạđánh đập, phần ăn uống thiếu thốn, phần sống trong nhà ngục tối âm u, sức khoẻ của Duy Quang suy yếu. Chàng ngồi một lúc đã mệt, nằm dài xuống đất, mắt lim dim một lúc đã ngủ mê.

Thu Vân ngồi một bên nghĩ mãi, không biết cách nào giúp chàng thoát khỏi chốn này, lòng dạ rối bời.

Buổi chiều khoảng 7 giờ, tên lính mặt khỉ ló mặt vào ngoắc nàng bảo: “đi ăn”. Thu Vân vốn sợ nhìn mặt tên này, mà cũng không muốn gặp tên Quản Giáo, nên lắc đầu nói:

- Không! Tôi không đói.

- Khôngđói cũng phải đi!

Duy Quang bảo:

- Em nên đến gặp hắn, xin hắn về nhà. Em ở lại đây chẳng giúp ích được gì cho tôi, mà chúng ta cũng không thể sống chung trong nhà ngục chật hẹp hôi hám này.

Thu Vân cũng biết những điều Duy Quang vừa nói. Nhưng nàng không muốn bỏ chàng trong hoàn cảnh khổ, nên chưa muốn xin về. Vả chăng, chưa chắc tên Quản Giáo chịu buông tha nàng.

Nàng lầm lủi theo tên lính lên tầng lầu phòng ăn.

Hắn cũng chờ nàng như khi sáng. Có điều chiều này mặt hắn lãnh đạm chớ không vui vẻđón tiếp.

Ngoài câu “mời ngồi và mời ăn” hắn không nói thêm lời gì nữa, mà cũng không nhìn nàng. Thu Vân thấy thái độ của hắn trong lòng lo lắng, không dám lên tiếng xin phép hắn cho về nhà. Nàng ăn rất ít.

Chờ hắn ăn xong, nàng đứng lên nói cám ơn. Hắn ngước mặt nhìn nàng hỏi:

- Nàng đã quyết định chưa?

- Điều gì ? Thưa ông!

- Câu nói của tôi khi sáng. Nếu nàng chưa quyết định, tôi không ép. Nàng cứ trở về phòng giam sống với hắn.

Hắn không chờ nàng mở miệng, vỗ tay ba cái, ra lệnh tên lính đưa nàng về phòng giam.

Một lúc sau tên lính mặt khỉ mở cửa quăng vào trong tấm chiếu và một cái chăn. Duy Quang thấy có chiếu có mền, nên nói:

- Tên Quản giáo đối với em quá đặc biệt. Tôi đang lo, không biết hắn đang có mưu tính gì?

Thu Vân không dám tỏ thật với Duy Quang vềđiều kiện của tên Quản giáo đưa ra. Nàng ngồi tựa lưng nơi vách đối diện với chàng, vẻ mặt trầm ngâm.

Đêm ấy trời có trăng thật tỏ. Trăng chiếu qua khe đá, không khác trong phòng có đốt ngọn đèn mờ. Phòng ngục âm u bữa trước, đêm nay vô cùng thơ mộng. Có lẽ nhờ sự hiện diện của nàng, người đàn bà đẹp?

Không phải là lần đầu tiên Duy Quang ngồi đối diện với Thu Vân. Nhưng đêm nay chàng mới thấy gương mặt thiên tiên của nàng cực kỳ quyến rũ…

Người đàn bà ở vào tuổi chín muồi, nhưđoá hoa vào thời kỳ chót, nẩy nở trọn vẹn, xinh đẹp tuyệt đỉnh, để rồi tàn!

Mà có lẽ nàng thuộc vào loại hoa không bao giờ tàn. Ấy là loại hoa trong vườn Eden của Thượng Đế.

Bỗng dưng Duy Quang mường tượng trong một gian phòng cực kỳ thoải mái… Tên Quản giáo nhà ngục ngồi ăn với Thu Vân, cả hai trò chuyện mặt đối mặt…

Chắc chắn hắn đã si tình nàng nên mới chiếu cố nàng đặc biệt như thế. Và chắc chắn hắn đã nói lời gì khiến nàng xúc động nên bây giờ nàng nghĩ ngợi trầm tư.

Trong lòng cảm thấy khó chịu Duy Quang đưa mắt nhìn Thu Vân, sẽ hỏi:

- Tôi có thể biết tên Quản giáo đã nói gì với em chứ? Hay là tôi không còn tư thế của một linh mục để nghe biết tâm sự của một tín hữu?

Giọng chàng đầy hờn mát khiến Thu Vân có hơi ngạc nhiên, nhỏ nhẹ hỏi :

- Vì sao Cha nói thế ? Vì sao…

Câu hỏi bỏ dở chừng, vì nàng kịp nhận ra đôi mắt si tình của chàng có chứa nỗi hờn ghen!

Hạnh phúc tràn ngập vào hồn, Thu Vân nhào tới… Chàng mở hai tay đón nàng vào lòng, môi đặt trên môi…

Nụ hôn lần này tuyệt cùng cảm xúc, vì nó xuất phát bởi tình yêu, chớ không phải màn kịch diễn trước mặt tên Quản Giáo lúc sáng.

Nụ hôn này làm Thu Vân nhớ lại nụ hôn của Thy hai mươi năm về trước. Hơn hai mươi năm nàng không sống cho mình, nên có cảm tưởng đời nàng không có khoảng thời gian ấy và hiện nàng đang ở vào tuổi thanh xuân, tuổi biết yêu.

Nàng thủ thỉ bên tai chàng:

- Duy Quang! Em yêu anh!

Duy Quang cũng thì thầm:

- Em yêu quí!

Chàng ngã nàng nằm xuống. Nụ hôn thứ hai không lâu

dài vì nó di động theo bàn tay chàng mở khuy áo…

Đôi mắt Thu nhắm lại, hai hàm răng cắn chặt môi, không cho thoát ra tiếng kêu cảm xúc.

Thình lình Duy Quang buông nàng ra, ngồi bật dậy như cái lò xo, hai tay ôm đầu kêu lên:

- Chúa ôi! Bây giờ tôi mới hiểu thâm ý của hắn! Hắn rước em vào đây để dụ dỗ tôi vào tội lỗi. Chúa ôi! Suýt chút nữa hai mươi năm tu nghiệp của tôi bị tiêu mất vì đêm nay.

Thu Vân ngồi dậy níu chàng, rưng rưng nước mắt:

- Anh! Chúng mình yêu nhau chớ nào phải vì hắn? Yêu đâu phải là điều tội lỗi hỡ anh?

Chàng vùng đứng dậy như chạy trốn nàng. Nhưng phòng ngục chật hẹp, chàng không trốn được đâu xa, đành ngồi phệt xuống một gốc.

Thu Vân thấy thái độ của chàng, trong lòng buồn tủi, ngẩng mắt lệ hỏi:

- Cha sợ em lắm sao? Xin Cha yên lòng. Từđây em sẽ không để xảy ra như khi nãy.

- Tha lỗi cho tôi, Thu Vân! Đừng trách tôi vô tình! Tôi yêu em, nhưng em cũng biết đời tôi đã hiến dâng cho Chúa. Tôi không thể …cho em! Mỗi người chúng ta đều có con đường riêng biệt. Xin em hãy giúp tôi đi nốt con đường của tôi đã lựa chọn và tôi cũng sẽ giúp em…

Thu Vân lắc đầu, nhỏ nhẹ ngắt lời chàng:

- Cha đừng bận tâm về đời em. Em nguyện cầu Cha thoát được nơi đây để tiếp tục cuộc đời cao trọng của mình.

Nàng đứng lên lấy chiếu trải ra và nói:

- Đất ẩm ướt, xin Cha hãy nằm trên chiếu cho đỡ lạnh. Cha dùng chiếu, em dùng chăn vậy!

Sự thật chiếu đủ chỗ cho hai người nằm, song Thu Vân không dám nói điều đó.

Duy Quang vội từ chối:

- Chăn chiếu hắn đưa vào là để em dùng. Tôi là tù nhân đâu hưởng được ân huệđó? Vả lại tôi đã quen nằm đất rồi! Em không cần phải lo cho tôi.

Thu Vân không dám nài ép. Mỗi người nằm ngủ một gốc.

Thu Vân thao thức mãi vẫn không ngủ được! Yêu là hy sinh chớ không phãi đòi hỏi. Mười mấy năm qua nàng yêu chàng và không đòi hỏi điều gì ở chàng. Giờđây nàng cũng không mong điều gì hơn là giúp chàng thoát khỏi ngục tù để tiếp tục sống đời tu sĩ.

Nàng an phận với số kiếp của mình, số kiếp của một người đàn bà đơn độc để ôm ấp một mối tình!

**

Sáng hôm sau vào giờ tù nhân ra ngoài làm vệ sinh thì cận vệ tên Quản giáo tới đón Thu Vân đưa nàng lên tầng trên.

Nàng đã quen làm theo mệnh lệnh, nên ngoan ngoản theo tên cận vệ không cần biết hắn đưa đi đâu? Thâm tâm nàng nghĩ: Có lẽ hắn đưa nàng vào phòng ăn để ăn sáng với tên Quản giáo.

Nhưng nàng đã lầm!

Hắn đưa nàng đến phòng tắm rồi rút lui.

Tòa biệt thự này của người Pháp cất, dù đã xưa nhưng tiện nghi có đủ. Phòng tắm có bồn nước và nước nóng. Và nước trong bồn đã có người làm sẵn cho nàng.

Điều mà khiến Thu Vân vui mừng hơn hết là nơi đây có để sẵn một cái aó đẹp. Chính là áo nàng đặt may nhân ngày sinh nhật thứ 18 của Vân Trường. Áo này nàng chỉ mặc một lần, ba năm qua đã xếp cất vào tủ.

Chắc tên Quản Giáo đã ra lệnh cho lính đến nhà nàng lấy đem đến đây. Ngoài ra còn có vật dụng của đàn bà, ngay cả phấn son trang điểm và nước hoa… Lại còn cả một vali chưá quần áo nàng trong đó.

Thu Vân ngâm mình trong bồn nước, nghĩ đến tên Quản Giáo…lòng thắc mắc không hiểu vì sao hắn muốn giam nàng ởđây? Rồi lại đối đãi như khách? Thật là khó hiểu!

Dù sao được tắm rửa sau một đêm nằm trong phòng ngục hôi hám ẩm ướt cũng làm cho nàng cảm khái.

Tắm xong nàng mặc chiếc áo để sẵn trên ghế và trang điểm qua loa. Khi nàng bước ra ngoài đã thấy tên cận vệ đứng chờ.

Tên cận vệ vừa thấy nàng liền tiến nhanh dẫn đường. Lần này hắn đưa nàng tới phòng ăn.

Tên Quản Giáo đón nàng với nụ cười tươi, song đôi mắt hắn nhìn nàng nửa phần chiêm ngưỡng, nửa phần chế riễu. Sau khi kéo ghế mời nàng ngồi, hắn ngồi xuống ghế đối diện nhìn nàng chăm chăm…một lúc thở ra nói:

- Có người chồng nào có người vợ đẹp như nàng, mà có thể lãnh đạm không muốn gần gủi?

Hắn vừa nói vừa rót cà phê ra tách và cắt bánh mì cho nàng. Thức ăn lót lòng cho họ là bánh mì với thịt nguội.

Thu Vân không dám nhìn hắn, hắn tiếp:

- Nàng có oán hận hắn không? Một người chồng không thích ái ân với vợ, đáng bị hình phạt, nàng đồng ý chứ?

Thỏi bánh mì trên tay Thu Vân rơi xuống đất. Hắn cúi xuống lượm lên, song trao cho nàng miếng khác. Bàn tay Thu Vân run run nhận thỏi bánh mì trên tay hắn.

Hắn nắm bàn tay run rẩy của nàng, nói giọng thật nhẹ như vỗ về:

- Nàng hãy yên lòng! Tôi sẽ trị tội hắn đã nhạt nhẽo với nàng! Đêm nay nhất định hắn sẽ yêu nàng.

Hắn gấp thịt bỏ vào đĩa cho nàng, ngọt ngào bảo:

- Ăn đi! Nàng đã mất ngủđêm qua, cần ăn để không mất sức.

Hắn càng ngọt ngào, Thu Vân càng thấy rõ lòng dạ thâm độc của hắn. Té ra hắn dùng nàng làm cái bẫy để bắt Duy Quang!

Đêm qua có lẽ hắn đã cho người rình trước phòng giam. Nhất nhất cử động của nàng với Duy Quang chúng đều rình

thấy.

Thu Vân muốn thét vào tai hắn:

- Mi là một tên Cộng Sản gian hiểm thâm độc!

Đương nhiên nàng không dám mở miệng nói lời đó.

Nước mắt nàng rơi xuống từng giọt từng giọt…

Hắn nhăn mặt hỏi:

- Vì sao nàng khóc? Thức ăn không vừa miệng chăng?

Nếu thế tôi sẽ cho nhà bếp dọn món khác.

Thu Vân lắc đầu:

- Không !

- Hay là tại tôi tiếp đãi nàng không chu đáo?

Thu Vân lại lắc đầu. Hắn cau mày:

- Nếu thế tại sao nàng khóc? Vì hắn chăng?

- Không! Tôi không khóc nữa!

Nói câu ấy nàng lấy tay quẹt nước mắt, trên môi gượng nụ cười. Hắn sung sướng nói:

- Được giai nhân bầu bạn trong bữa ăn, tôi ăn thật ngon miệng. Nhưng nếu giai nhân khóc thì tôi không còn thú vị để ăn nữa! Cám ơn nàng! Từ khi có nàng, tôi chỉ mong đến giờ ăn để được nhìn nàng, đểđược ăn ngon miệng.

Có lẽđó là lời thú chân thật của hắn. Nếu không thật tình thì cũng là lời nịnh đầm rất hay, mà người đàn bà nào nghe chắc phải cảm động.

Nhưng Thu Vân nghe câu nói ấy lửa hận trong lòng bừng bừng lên. Tự nhủ:

“ Mi dùng ta làm cái bẫy bắt chàng, mi còn dùng ta để mua vui cho mi! Ta hận mi! Ta hận mi đến chết!

Từ lòng thù hận đó, sắc mặt nàng rắn lại. Nàng quyết định sẽ không khóc trước mặt hắn.

Khi tên cận vệ đưa Thu Vân trở lại phòng giam, Duy Quang không có bên trong. Thu Vân ngồi chờ xốn xang lo âu…

Một lúc sau cửa phòng giam mở ra. Hai tên lính khiêng Du Quang quăng vào như một xác chết. Toàn thân chàng đầy vết roi ngang dọc. Chàng bất tĩnh mê man không hay biết gì. Thu Vân kéo chàng đặt nằm trên chiếu và lấy chăn đấp cho chàng, rồi ngồi một bên không biết phải làm gì, ngoài việc cầu xin ơn trên cứu giúp.

giavui
01-10-2015, 08:17 PM
Đến trưa tên lính mặt khỉ mang cơm nước cho Duy Quang, chàng vẫn chưa tỉnh. Thu Vân xin hắn để lại phần ăn đó chờ khi chàng tỉnh dậy sẽăn. Mới đầu hắn không chịu, nhưng khi thấy mặt nàng buồn thiu, hắn chịu.

Cho hay, đàn ông dù mặt mũi thế nào, dù lòng dạ hung hiểm thế nào, trước đàn bà đẹp cũng trở nên mềm yếu!

Trưa hôm ấy vừa bước vào phòng ăn, vừa giáp mặt tên Quản Giáo, Thu Vân hầm hầm nổi giận, hỏi ngay:

- Vì sao ông hành hạ chồng tôi như thế? Ông đánh đập người vui thú lắm sao?

Hắn thấy nàng nổi giận trong lòng thích thú cười vang, nói:

- Ấy là tôi trừng trị hắn đã lãnh đạm với nàng. Tôi tưởng nàng phải vừa lòng, cớ sao còn trách tôi?

Thu Vân thấy hắn cười, khí tức càng tăng, quát lên:

- Ông.. ông không phải là con người! Ông là ..quỷ Satan! Ông là…

Nàng quá giận, lấp bấp nói không ra câu, toàn thân run rẩy, ánh mắt câm hờn.

Hắn đã không nổi giận lời những lời sĩ mạ của nàng, lại còn tỏ vẻ thích thú cười to, nói với nàng :

- Tôi đọc truyện cổ tích nước Tàu kể về người đẹp Bao Tự « lúc cười, lúc khóc tuyệt đẹp, mà lúc nổi giận càng đẹp hơn », tôi không tin ! Giờđây thấy nàng nổi giận, tôi đã hình dung được cái đẹp của nàng Bao Tự thuở xưa.

- Ông im đi ! Ông đừng tán tỉnh tôi vô ích ! Tôi ghét ông ! Tôi thù ông !

- Được đản bà đẹp ghét là điều vinh hạnh. Huống chi ghét là trạng thái của tình cảm. Từ chỗ ghét đi đến yêu dễ dàng lắm !

Thu Vân không muốn nói dây dưa với hắn, lẳng lặng ngồi ăn. Lúc nàng trở về phòng giam Duy Quang đã hồi tỉnh, song chàng vẫn nằm một chỗ rên nho nhỏ.

Nàng đút cơm cho chàng ăn và giúp chàng uống nước. Chàng thều thào nói :

- Tôi làm em cực khổ quá ! Tha lỗi cho tôi !

Thu Vân gục đầu trên mình chàng khóc :

- Tại vì em mà hắn hành hạ Cha như thế.

Nàng nghĩ : « tên Quản Giáo đã si tình mình mới hành hạ Duy Quang để trả thù nàng không thích hắn ».

Duy Quang nói :

- Trong nhà ngục này ai ai cũng khổ vì hắn. Dù không có em ởđây, hắn cũng muốn giết tôi.

Thấy vết roi trên người chàng nứt da rướm máu, nàng muốn có pommade và dụng cụ băng bó, nên đập cửa gọi tên mặt khỉ nhờ hắn mua dùm thuốc trị thương. Thế nhưng hắn lắc đầu từ chối, nói :

- Tôi không ra ngoài được !

Thu Vân biết hắn nói thật, vì ngày đêm nàng thấy hắn túc trực dưới tầng hầm này.

Buổi chiều từ phòng ăn đi ra nàng đưa tiền cho tên cận vệ nhờ mua dùm thuốc. Hắn cũng từ chối như tên mặt khỉ :

- Tôi không được phép !

Tối đêm đó Duy Quang mê man ngủ vùi. Thu Vân nằm một bên suy tính cách tìm ra thuốc để trị thương cho chàng.

Sáng hôm sau từ phòng tắm đi ra, nàng đập bể một lọ nước hoa, lấy miểng rạch một đường dài nơi cánh tay mình. Quá đau nàng suýt ngất, nhưng gắng nhịn đau ôm cánh tay máu chạy ra.

Tên cận vệ thấy nàng ôm tay máu, hắn la hoảng. Tên Quản Giáo từ phòng ăn nghe tiếng xôn xao chạy ra, thấy cánh tay nàng đẫm máu, hắn kinh hãi dìu nàng vào phòng, la hối bọn cận vệ lấy băng và thuốc cầm máu. Rồi tự tay hắn băng bó cho nàng.

Thu Vân kể nàng bị té, cánh tay đập lên lọ nước hoa. Hắn tin lời nàng ngay.

Thưà dịp hắn không lưu ý, nàng giấu ống pommade trị thương trong sắc tay của mình.

Đến trưa gặp hắn trong giờăn, Thu Vân ăn rất ít, nói cánh tay bịđau nhức. Hắn lấy thuốc cho nàng uống. Thu Vân giả vờ cho thuốc vào miệng, nhưng sự thật lén lấy bỏ vào ví.

Tối đêm đó nhờ có thuốc trị thương Duy Quang bớt rên rĩ.

Sáng hôm sau lúc nàng trở về phòng giam sau buổi ăn sáng Duy Quang không có bên trong. Một lúc sau hai tên lính khiêng Duy Quang quăng vào cũng bất tỉnh mê man như lần trước. Các vết thương cũ chưa kịp lành, đã lãnh thêm vết thương mới !

Nàng không thể làm gì hơn là ấy pommade trị thương và giả vờ kêu đau nhức ở cánh tay để lấy thuốc đem về cho chàng uống.

Cứ hai ngày Duy Quang bị hành hạ một lần. Đêm nào, một mặt nàng chăm sóc vết thương cho Duy Quang, một mặt tháo băng nơi cánh tay mình, phá cho vết thương không lành để có cớ xin thuốc.

Hơn một tuần nghe nàng vẫn còn kêu đau, tên Quản Giáo mở băng xem vết thương, thấy không lành thì lấy làm kỳ. Hắn vốn là con người thông minh, nghĩ ra mưu mô của nàng.

Lúc đó hắn mới biết nàng tự làm mình bị thương, chớ không phải tai nạn. Cơn thịnh nộ nổi lên, hắn đập bàn thét lớn :

- À, thì ra nàng lường gạt tôi ! Khiến tôi lo lắng cho nàng ! Tôi sẽ hành hạ thằng đó nặng hơn để trừng phạt nàng.

- Xin ông hãy trừng phạt tôi ! Hãy hành hạ tôi ! Chàng không có tội gì, xin hãy buông tha !

Nghe nàng xin tha tội cho Duy Quang, cơn ghen tức của hắn càng tăng, hắn giật phăng vải băng trên tay nàng quăng tuốt qua cửa sổ cùng các lọ thuốc, miệng quát tháo ầm ĩ.

Thu Vân thấy hắn giận dữ, lòng kinh động ngất đi. Một phần vì đêm nào nàng cũng lo cho Duy Quang, ngủ rất ít ; một phần vết thương nơi cánh tay đã bắt đầu làm độc. Bây giờ nàng đau nhức thật, chớ không phải giả vờ nữa !

Hắn thấy nàng ngã xịu thì hoảng kinh, ôm nàng bồng đặt trên ghế bành trong phòng, rồi quỳ một bên băng lại vết thương cho nàng.

Bấy giờ hắn nhận ra gương mặt nàng xanh xao gầy sút. Hắn cau mày nghĩ ngợi…một lúc bừng bừng giận đi tới đi lui…

Khi Thu Vân lấy lại tri giác mở mắt ra, hắn đứng trước mặt nàng nói :

- Nàng yêu hắn đến độ gây thương thế cho mình để cứu hắn ? Nhưng hắn không yêu nàng, hắn lãnh đạm với nàng, nàng không nhận biết sao ?

- Ông đánh đập chồng tôi thếấy thì dù chàng có muốn yêu…

Hắn quát lên lấn át lời nàng :

- Tôi cấm nàng không được gọi thằng đó là chồng.

- Ông cấm tôi, ông giết tôi chăng nữa, chàng vẫn là chồng tôi. Sự thật như vậy.

Hắn nổi sung thiên, sốc nàng đứng lên…

Đôi mắt dịu hiền và gương mặt thiên thần của nàng như có quyền lực vô hình đánh ngã cơn hung bạo của hắn. Hắn cảm nghe sợ hãi, vội vàng đặt nàng ngồi xuống ghế, luống cuống nói :

- Xin lỗi ! Tôi quên nàng đang mệt !

Rồi không hiểu nghĩ sao, hắn nói tiếp :

- Được rồi ! Nếu nàng quá yêu hắn, tôi cho hắn con đường sống. Trong vòng ba tháng nếu nàng và hắn có con với nhau, tôi sẽ trả tự do cho hai người. Bằng ngược lại, tôi sẽ giết hắn và lúc ấy dù nàng có thuận tình hay không, nàng cũng thuộc về tôi. Tôi sẽ làm cho nàng có con để nàng phải sống với tôi.

Điều kiện của hắn mới nghe qua như một ân huệ. Nhưng sự thật hắn chỉ cố ý mua chuộc lòng nàng, trước khi thủ tiêu Duy Quang.

Bởi vì dù không bằng cớ, hắn vẫn đoán biết Duy Quang là một tu sĩ. Hắn biết chàng sẽ không vì sự sống mà làm cho nàng có con.

Ví như kết quả có trái ngược, có nghĩa là Duy Quang và Thu Vân có con với nhau, thì dù hắn thua không chiếm được Thu Vân, nhưng hắn vẫn thắng về mặt chính trị, tức là tiêu diệt đời tu sĩ của Duy Quang.

Chính sách của Cộng Sản là tiêu diệt tôn giáo. Cho nên đưa một tu sĩ trở về cuộc đời bình thường cũng là mục đích của họ.

Xem thế, cả hai trường hợp hắn vẫn là kẻ thắng !

Riêng Thu Vân rất hiểu con người của Duy Quang. Nàng biềt chàng yêu mình, nhưng chàng không thể bỏ cuộc đời tu sĩ. Chàng càng không vì sự sống mà làm cho nàng có con.

Cho nên Thu Vân cũng biết trước là nàng sẽ thua, nhưng nàng không thể chọn lựa ! Dù sao tạm thời nàng chấp nhận điều kiện này. Biết đâu trong vòng ba tháng có phép lạ từ trời, khiến hắn tự nhiên buông tha cho hai người ?

Nàng giả vờ nói :

- Tôi làm sao tin lời nói của ông được ? Giả như lúc ấy chúng tôi có con mà ông vẫn nhốt lại trong nhà tù này, chỉ làm khổ thêm cho đưá trẻ. Bởi thế mà chúng tôi…cố tránh việc yêu nhau trong hoàn cảnh lao tù, mới khiến ông nghi ngờ chúng tôi không phải là vợ chồng.

Hắn chỉ « hứ » một tiếng chớ không nói gì, lẳng lặng lấy giấy và viết, ngúy ngoái viết, ký tên, rồi trao cho Thu Vân, nói :

- Đây này, lời tôi nói có ghi trên giấy, có chữ ký hẳn hòi, đủ bảo đảm chưa ?

Thu Vân đọc giấy, thấy ghi như vầy :

«Tôi, tiến sĩ Phan Huy Phong, Quản Giáo trại Biệt giam M34, hứa trả tự do cho ông Lê Thy và bà Thu Vân Trần, với điều kiện trong vòng ba tháng hai người có con với nhau để chứng minh cả hai là vợ chồng thật sự. Ngược lại, cả hai sẽ bị trừng trị về tội khai gian.

Ngày… Ký tên : Phan Huy Phong.

Tới hôm đó Thu Vân mới biết tên họ của hắn. Thu Vân lấy giấy cất vào ví, bỗng chợt nhớ ra điều gì, buộc miệng nói:

- Tờ giấy này cũng không thể bảo đảm. Bởi vì đối với quốc tế mà các ông còn không tôn trọng chữ ký, thì sá gì với một người thường dân như tôi?

Hắn tái mặt sau câu nói của nàng. Thu Vân biết nàng nói quá lời. Dù biết đó là sự thật chăng nữa, ở hoàn cảnh của nàng không nên chọc giận hắn. Nàng vội vàng chữa lời:

- Xin lỗi! Tôi không phải nói ông, mà nói người khác. Ông là một người trí thức, một người đứng đắn. Tôi tin lời hứa của ông lắm, ông Huy Phong!

Giọng nàng nghe thật êm tai. Nàng lại gọi cái tên hắn vô cùng thân thiết, khiến hắn cảm động nói:

- Nếu nàng vẫn chưa tin lời hứa của tôi, tôi thề trước vong linh của Bác Hồ, tôi sẽ không làm trái điều giao ước. Nàng bằng lòng rồi chứ?

Thu Vân biết, đối với bọn Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh là thần thánh. Tên này đã thề trước vong linh của Bác Hồ hắn, chắc hắn sẽ không làm trái lời.

Nàng mừng rỡ cười thật xinh. Hắn nắm tay nàng dìu tới ngồi nơi ghế và nói:

- Từđây trước mặt tôi nàng phải vui tươi xinh đẹp và không được xin xỏ gì nữa!

- Tôi muốn xin ông một điều cuối cùng.

Nàng muốn xin hắn không tra khảo hành hạ Duy Quang, nhưng hắn không cho nàng mở miệng, khoác tay nói:

- Tôi đã ban cho nàng nhiều đặc ân quá rồi, không được xin xỏ gì nữa!

Thu Vân biết hắn nói đúng. Vì từ ba năm qua, cán bộ Cộng sản các cấp đều có quyền giết dân, cướp nhà, đoạt của, giựt vợ người v.v…Tên này muốn giết Duy Quang không cần tìm nhân chứng, mà hắn muốn bắt nàng làm vợ cũng không cần điều kiện gì với nàng. Nhưng hắn đã không làm thế vì muốn mua chuộc trái tim nàng. Hắn muốn nàng yêu hắn, lấy hắn không vì cưỡng ép.

Sáng hôm ấy sau bữa ăn, hắn lấy thuốc đích thân bỏ vào miệng nàng cho nàng uống. Mặt hắn tươi vui hớn hỡ, y như kẻ vừa dò vé số thấy trúng độc đắc, chờ ngày ra ngân hàng lãnh tiền.

Thu Vân thì trái lại, trong lòng lo âu bi thảm cùng cực!

Trở về phòng giam nàng không thấy Duy Quang thì biết chàng đang bị hành hạ nơi phòng hình cụ. Nàng chờ không lâu thì chàng trở lại, song lần này có lẽ hình phạt nhẹ, nên bọn lính không phải khiêng về.

Thu Vân nghĩ, có lẽ tên Quản Giáo đang vui, nên tù nhân được gia giảm hình phạt.

Duy Quang trở về phòng lần này không bất tỉnh mê man, song chàng không trò chuyện với Thu Vân, mà ngồi nhắm mắt cầu nguyện.

Cầu nguyện xong, chàng vừa đặt lưng xuống đất chưa kịp ngủ, bỗng nghe tiếng mở cửa. Hai tên lính chạy vào nắm Duy Quang lôi ra.

Một lúc sau chúng quăng Duy Quang trở vào tình trạng hôn mê, thương thế còn nặng hơn những lần trước.

Sở dĩ Duy Quang bị đại nạn như vậy vì sau khi ra điều kiện với Thu Vân, tên Quản Giáo chợt nghĩ: “Có thể vì sự sống còn, Duy Quang và Thu vân sẽ có con. Như vậy hoá ra hắn đã xây dựng hạnh phúc cho hai người. Cho nên chỉ còn cách hành hạ Duy Quang đến độ ngất ngư, bất tỉnh triền miên, thì hắn mới không sợ bi thua.

Thu Vân cũng đoán biết thâm ý tên Quản Giáo. Trọn đêm đó nàng nằm thao thức suy tính: “Nếu muốn thoát khỏi tên hung thần này nàng phải có thai, không cần là con của Duy Quang, miễn nàng có thai là dối gạt được hắn.

Nhưng trong nhà lao này nàng không gặp được ai ngoài những tên lính của hắn. Và dười tầng hầm này…

Thu Vân không dám nghĩ tiếp thêm nữa, toàn thân toát mồ hôi lạnh khi trong đầu thoáng ý nghĩ hiến thân cho tên lính mặt khỉ.

Chỉ nhìn mặt hắn nàng đã sợ muốn ngất, huống hồ thân thể hắn chạm vào người nàng có lẽ nàng sẽ chết vì kinh khiếp.

“Không! Ta không thể chịu đựng được điều này!

Nằm một chỗ lăn lộn một hồi Thu Vân lại nghĩ: “Vân Trường chắc đã chết, gia đình ta không còn ai, ta dâu còn niềm vui để sống? Ta sống để làm gì?

Ta yêu chàng, vậy ta tiếc gì thân ta mà không hy sinh cứu chàng khỏi chốn lao tù? Khi chàng được trả tự do, chàng trở về với tín hữu của chàng, lúc ấy ta sẽ hủy mình. Như thế cái chết của ta ích lợi cho chàng và hàng ngàn con chiên đang chờ người chăn giữ.

Phải lắm! Ta nên hiến thân cho tên lính mặt khỉ. Hắn còn trẻ, sự thụ thai sẽ dễ dàng hơn.

Tìm được giải pháp cho Duy Quang thoát khỏi nhà ngục, Thu Vân nhẹ nỗi lo nghĩ, nhưng nước mắt tuôn ra, toàn thân run lên, y như đứng trước cảnh hãi hùng.

Trọn đêm đó nàng không ngủ. Đến giờăn sáng nàng gặp tên Quản Giáo với đôi mắt đỏ au. Hắn mời nàng ăn món chi, nàng cũng không ăn. Hắn nói:

- Nếu nàng không ăn, tôi mất vui, trong người bực bội, rất có hại cho tù nhân, nhất là đối với hắn.

Thu Vân thét lên trong nước mắt ràn rụa:

- Ông giết chàng và giết tôi ngay đi!

- Không được! Tội hắn không thể chết ngay được!

Bỗng dưng hắn đổi giọng ngọt dịu, nói:

- Tôi đã hứa với nàng là cho hắn con đường sống mà. Tôi sẽ giữ lời hứa đó.

- Ông bảo chúng tôi phải có con, mà ông đánh đập hành hạ chồng tôi như thế. Làm sao chàng…

Nàng ngượng nghịu không dám nói hết điều muốn nói. Hắn cười lả chả:

- Đàn ông dù liệt nhược đến đâu, khi muốn yêu đàn bà cũng sung sức như thường. Nhưng thôi! Để tôi dặn bọn hình sự nhẹ tay một chút. Nàng vừa lòng chứ?

Chiều đó, sau bữa ăn trở về phòng giam, Thu Vân lảm nhảm tính ngày kinh kỳ của mình… Nàng bỗng thấy rằng bắt đầu từ ngày này và trong mười ngày liên tiếp, là những ngày nàng có thể thụ thai theo phương pháp Ogino.

Nàng hồi họp ngồi đến khuya mới đập cửa gọi tên mặt khỉ. Duy Quang sau trận đòn chí tửđã ngủ vùi, không hay biết gì!

Tên mặt khỉ bưng đèn đến, mở cửa ló mặt vào. Thu Vân lách mình bước ra.

Ởđây nàng không là tù nhân, lại được ưu đãi của tên Quản Giáo, nên bọn lính không làm khó dễ. Thu Vân bước ra ngoài thấy khoảng hành lang tối om không người, liền cỡi phăng áo quần nằm dài dưới đất, mắt nhắm lại.

Tên mặt khỉ không tưởng tượng nổi sự việc xảy ra, đứng trân trân nhìn tấm thân kiều mị của nàng… Một lúc như hiểu ý nàng, hắn đặt đèn xuống đất, hai tay lýnh quýnh mở khuy quần, rồi phóng lên mình nàng như con dã thú!

Thu Vân quá kinh sợ ngất đi… Khi lấy lại tri giác mới biết mình đang nằm trong phòng giam bên cạnh Duy Quang, thân thể còn lõa lồ. Nàng ngồi dậy mò mẫm tìm ra y phục mặc vào, rồi kéo chăn trùm kín từ đầu đến chân mà trong lòng còn lạnh run như người lên cơn rét.

Tám đêm liên tiếp, cứ mỗi đêm Thu Vân đập cửa, tên lính mặt khỉđã biết ý, chạy ngay lại. Và cái màn tình ái cấp tốc diễn ra… Thu Vân cũng trở về phòng giam trong tình trạng bất tỉnh.

Đêm thứ chín… Không hiểu sao nàng không bất tỉnh? Khi hắn nhào lên mình nàng , nàng có cảm tưởng như quỷ quái chốn âm ty hành hạ, cùng cực đau đớn, nước mắt chảy ra.

Mặc dù chính nàng đã tự hiến, chớ không bị hiếp dâm, nhưng người đàn bà chỉ có thể tìm thấy sung sướng trong tình ân ái với kẻ mình yêu. Sự xúc động của hai thể xác phải cùng lúc với sự rung động của hai tâm hồn. Nếu không có đủ điều kiện ấy thì sự va chạm của hai thể xác không gây thú vị gì, mà còn làm đau đớn cho người đàn bà.

Tên mặt khỉ cúi xuống lòn tay bồng nàng. Thu Vân xô hắn ra, chạy vào phòng ôm Duy Quang khóc thật thảm thiết.

Có đau khổ nào bằng, người tình nằm đây mà phải hiến thân cho một kẻ xa lạ đầy gớm ghiếc? Giây phút này Thu Vân mới thấy thương thân tủi phận.

Có tiếng rên rỉ than van từđáy lòng nàng:

“Duy Quang ơi, vì yêu anh mà em để cho người ta hành hạ thân xác mình. Vì yêu anh mà em tự hủy hoại đời mình! Phải chi cuộc tình ấy do anh, thì em đã hưởng được hạnh phúc tuyệt vời! Em đã không có may trong tình yêu, lại càng không may trong tình ái! Anh có tội nghiệp cho em không anh?

Nàng nấc từng tiếng khóc thật bi thiết. Duy Quang trong tình trạng nửa tỉnh nửa mê, mơ hồ nghe tiếng nàng khóc, nhưng không mở mắt ra được. Thu Vân gục đầu trên mình chàng thiếp đi.

Đêm hôm sau Thu Vân quyết định đình chỉ việc hiến thân cho tên mặt khỉ. Nàng nghĩ, chín lần qua nếu nàng có thể có thai thì phải có kết quả.

Đến khuya tên mặt khỉ chờ hoài không nghe nàng làm hiệu, hắn nóng ruột chạy tới phòng giam mở cửa sổ rọi đèn nhìn vào… Thu Vân chưa ngủ, nghe tiếng hắn lục đục bên ngoài, sợ hãi, nằm sát vào người Duy Quang, không dám động đậy.

Hắn đứng chờ một lúc mới bỏđi. Sáng hôm sau khi mở cửa cho nàng đi ra, hắn hẹn hò:

- Tối nay nhé?

Thu Vân lắc đầu. Hắn xịu mặt. Đến giờ mang cơm nước cho Duy Quang, phần ăn chỉ còn phân nửa.

Hắn cố ý như thế để nàng cầu cạnh hắn. Thu Vân tức đến ưá nước mắt. Tự nhủ: “Một kẻ hèn hạ như mi cũng muốn bắt nạt ta? Bọn Cộng sản chúng bay hạng nào cũng là phường đê tiện.

Bỗng nhiên nàng nghĩ được một phương cách không phải cầu cạnh tên này là: “mỗi lần đi ăn lén cắp một ít thức ăn đem về cho Duy Quang.”

Tên Quản Giáo thường hay bận rộn trong giờăn, ít khi ngồi một yên một chỗ. Lúc hắn không có nơi đó, nàng giấu thức ăn vào sắc không khó.

Thu Vân thực hiện ngay hôm đó bằng cách lấy những thức ăn khô như: trứng, khoai, bánh ngọt…Việc nan giải là làm sao có nước uống?

Nàng bỗng nghĩ : Tên mặt khỉ bắt nạt ta, tại sao ta không hâm dọa hắn?

Khi trở về phòng lấy thức ăn cho Duy Quang ăn xong, Thu Vân đập cửa gọi tên mặt khỉ. Hắn chạy tới, nàng bảo:

- Mỗi ngày ngươi đem cho ta ba lần nước.

Hắn lắc đầu, nàng nói:

- Nếu ngươi không làm theo ý ta, ta sẽ méc thượng cấp ngươi những gì xảy ra trong đêm trước.

Tên nọ nghe nàng hâm dọa, hắn tức giận hầm hầm, song không dám trái ý, chạy đi lấy nước mang lại.

Thu Vân bắt bí được hắn, càng lên mặt:

- Lần sau ngươi phải mang một ly nước đầy. Nước phải trong, ly phải sạch. Nếu ta uống vào nghe mùi hôi tanh ta sẽ méc thượng cấp ngươi việc kia…

Lần đầu tiên trong đời nàng nói lời bất chính, lương tâm có phần hổ thẹn, song tự nhủ:

“Với bọn tham tàn gian ác ta không cần làm người chính trực”

Duy Quang được ăn một bữa ăn ngon và đầy đủ, sinh lực phục hồi chút ít. Nghe nàng hâm dọa tên mặt khỉ với lời úp mở, chàng không hiểu nên hỏi:

- Hắn đã làm gì em vào mấy đêm trước?

- Hắn…Hắn…

Nàng không quen nói dối, ấp úng một lúc vẫn không tìm ra lời. Duy Quang thấy thái độ kỳ lạ của nàng, lo lắng hỏi:

- Hắn đã làm điều gì xúc phạm đến em chăng ?

- Hắn …hổn láo với em!

- Tốt hơn em đừng nói chuyện với hắn nữa!

- Vâng! Em biết!

Sau câu nói nàng cúi mặt giấu vẻ sầu bi.

**

Mười lăm ngày trôi qua, đã quá ngày kinh nguyệt, Thu Vân vẫn chưa có, trong lòng hồi hộp lạ thường. Tâm trạng của nàng bây giờ không khác gì những người đàn bà kết hôn lâu năm mà chưa có con, trễ một ngày kinh kỳ, lòng rộn ràng hy vọng…

Từ khi nàng lén lấy thức ăn mang về cho Duy Quang mỗi ngày ba lần, sau này còn tìm được bao nylon bỏ thịt cá mang về, Duy Quang được nuôi dưỡng đầy đủ, sức lực không suy nhược như ngày trước. Chàng đủ sức chịu đòn.

Tên Quản Giáo lưu ý thấy sức khỏe của chàng mỗi ngày không kém đi, mà lại còn có vẻ sung mãn, không bất tỉnh sau trận đòn, hắn ngạc nhiên lắm, mà không hiểu vì sao?

Hắn không tưởng tượng nổi Thu Vân lén giấu thức ăn đem về nuôi Duy Quang, nên cho rằng Duy Quang đã quen chịu đường roi. Hắn đổi phương pháp tra khảo mới, bằng cách lấy sắt nung đỏ nướng lòng bàn chân của chàng.

Duy Quang quá đau, ngất đi. Bọn hình sự lấy nước cứu tỉnh cho về phòng giam, chớ chúng không khiêng về. Mỗi bước đi Duy Quang đau đớn như bước trên đinh nhọn. Chàng không đi được, phải bò về.

Trước tình trạng đó ThuVân chỉ biết khóc và cầu nguyện!

Tối hôm đó Duy Quang bịđau nhức, không ngừng rên xiết. Thu Vân ngồi một bên rầu rĩ, bỗng sực nhớđã hai lần nàng không có kinh kỳ. Nàng mừng rỡ kêu lên:

- Chúa ơi, Chúa đã cứu con rồi!

Duy Quang đang cắn răng đè nén cơn đau, nghe tiếng kêu mừng rỡ của Thu Vân, chàng mở miệng hỏi, mà hai hàm răng run lập cập:

- Có điều gì khiến em vui mừng?

- Cha ơi! Chúa cứu chúng ta rồi ! Em chỉ xin Cha, trước mặt tên Quản Giáo nếu em có nói điều gì xảy ra giữa chúng mình, Cha đừng lên tiếng cải chính nhé.

- Mà điều gì chứ ?

- Nếu như em nói, em đã…

Đang lúc quá mừng rỡ vì nghi ngờ mình có thai, sẽ cứu Duy Quang khỏi nhà ngục, nàng quên mất đưá con là của tên mặt khỉ.

Chừng nghe chàng hỏi, nàng tưởng tượng trong bụng có chứa một hài nhi nửa người nửa thú, lòng kinh hãi tột cùng, ngã ngay xuống đất. Duy Quang không hiểu việc gì xảy ra, cố gắng kêu gọi Thu Vân tỉnh lại.

Nàng lấy lại tri giác, nhưng không hiểu sao trong lòng có chút hờn giận, nên nhắm mắt nằm yên, mà miệng muốn nói :

« -Phải chi đưá con trong bụng là của anh thì em là kẻ đang sung sướng, chớđâu đau khổ như vầy ? »

**

Nửa tháng liên tiếp Duy Quang không những chịu đòn bằng roi, mà còn bị đốt chân , đau đớn chịu không thấu ! Thu Vân phải đút cho chàng từng món ăn, từng hớp nước. Nàng nghĩ : « Có lẽ tên Quản Giáo muốn hành hạ chàng chết trước thời hạn giao ước với mình.»

Hôm ấy sau khi ăn sáng trở về không thấy Duy Quang trong phòng giam, Thu Vân biết chàng đang bị hành hạ trong phòng hình cụ, nên bỏ chạy trở ra.

Tên lính mặt khỉ chụp cánh tay nàng giữ lại. Thu Vân bừng mặt giận nói :

- Buông ta ra ! Ngươi không buông ta sẽ kể với thượng cấp ngươi lúc trước ngươi cưỡng dâm ta. Ta có bằng chứng.

Tên nọ nghe nàng nói tráo trở, hoảng sợ buông nàng ra.

Thu Vân chạy lên tầng lầu, nương theo tiếng la hét của tù nhân thì đến phòng hình cụ. Nàng tông cửa xông vào…thấy vô số tù nhân đang bị hành hạ. Kẻ bị treo lên cho bọn hình sự lấy roi quất, kẻ bị căng tay chân, nằm trên bàn cho bọn kia lấy sắt nung đỏ đốt v.v…

Thật là một cảnh địa ngục của trần gian ! Tiếng la thét của tù nhân vang lên nghe thật khủng khiếp. Đầu óc Thu Vân quay cuồng muốn ngất.

Tên Quản Giáo tay chấp sau đít, đang nhìn bọn thuộc cấp hành hạ tù nhân với sắc mặt lạnh như tiền. Bất thần thấy Thu Vân chạy vào, mặt hắn nhăn lại, hỏi giọng hơi quạu :

- Nàng vào đây làm gì ?

Thu Vân nói một hơi :

- Ông đừng hành hạ chồng tôi nữa ! Tôi đã có thai hơn hai tháng rồi. Xin ông cho bác sĩ khám thai tôi. Nếu không đúng, ông có thể giết chồng tôi ngày hôm nay, không cần phải chờ đến thời hạn.

Duy Quang bị trói tay chân, đang nằm trên bàn, nghe Thu Vân nói những lời ấy với tên Quản Giáo rất lấy 1àm ngạc nhiên. Song chàng nhớ, nàng có dặn chàng chàng đừng cải chính phản đối những gì nàng nói, nên chàng lặng yên nghe hai bên nói chuyện.

Tên Quản Giáo nghe nàng nói, hắn mím môi cười. Có lẽ hắn nghĩ nàng phịa chuyện gạt hắn để Duy Quang tránh đòn. Hắn nói :

- Việc này nàng có thể chờ đến giờăn trưa nói với tôi. Cần gì nàng phải gấp rút như vậy ? Chỗ này nàng đâu được phép bước vô.

Thu Vân lớn tiếng :

- Chờ đến trưa nhỡ ông hành hạ chồng tôi chết thì sao ?

Hắn cười to :

- Thằng ấy giỏi sức chịu đựng lắm, không chết đâu !

Thu Vân tức giận :

- Ông hành hạ người đau đớn thế kia mà ông còn cười

được sao ? Ông có tim không ? Nếu ông không có tim, làm sao biết yêu tôi mà buộc tôi làm vợ ông ?

Hắn mơn trớn :

- Đối với nàng tim tôi mềm nhũn. Đối với tù nhân tim tôi chai cứng.

- Ông nên cho bác sĩ khám thai tôi ngay bây giờ và đình chỉ việc hành hạ chồng tôi tức khắc !

- Không gấp ! Để lúc khác !

- Nếu ông không làm theo lời tôi, tôi tự tử chết ngay tại đây.

Nàng nói vừa chạy nhào vào lò lửa đang cháy phừng phừng… Hắn nắm tay kéo nàng giữ lại, nói :

- Được ! Tôi sẽ làm theo ý nàng.

Vì hắn chắc chắn nàng không thể nào có con với Duy Quang trong tình trạng hằng ngày bịđánh đập nhừ tử, nên mới chịu đưa nàng đi gặp bác sĩ.

Nhà tù này có nhiều phòng và nhiều tầng. Và tầng trên cùng là phòng y tế, có phòng chưá thuốc men.

Khi tên Quản Giáo đưa Thu Vân đến nơi đó, Thu Vân thấy trong phòng có hai người đàn bà. Một người mặc áo y tá, một bà mặc y phục thường và một người đàn ông mặc áo trắng, có lẽ là bác sĩ.

Người đàn bà mặc y phục thường thì Thu Vân vô cùng quen mặt. Chính là nữ bác sĩ Dương Kim Huê. Bà vốn là một nữ bác sĩ khá nổi tiếng ở Saigon hơn 20 năm về trước, cũng là bác sĩđỡ đẻ cho nàng khi sinh Vân Trường.

Khi ấy bà còn trẻ đẹp, con của một gia đình giàu có miền Nam, du học ở Pháp về. Trong thời gian du học bà có nhân tình là đảng viên cao cấp của Đảng Cộng Sản trong nhóm «Mặt trận giải phóng miền Nam» 5.

Tháng 4/1975 Saigon thất thủ, cuộc chiến thắng phần lớn là nhờ nhóm này. Nhưng HàNội gian xảo, tước quyền của họ bằng cách đặt họ vào những chức vị không có quyền hành và lần lượt loại trừ họ, hoặc thủ tiêu. Hiện nay

Cho nên sau một thời gian mở phòng mạch ở Saigon, bà trốn theo nhân tình đi vào chiến khu hoạt động cho Cộng Sản Hà Nội. Hiện tại duờng như bà giữ một chức vụ trong chính quyền Cộng sản.

Thu Vân nhận ra bà, song có lẽ bà không nhận ra nàng ? Dù vậy nàng cũng vui mừng lắm vì bà trong nhóm trí thức miền Nam yêu nước, bị Hồ Chí Minh lừa phỉnh như trường hợp của Thy. Ngày nay nhóm này ở vào cái thế phải theo họ, vì sợ bị họ thủ tiêu. Cho nên bà không thuộc bọn Cộng Sản tham tàn gian ác.

Tên Quản Giáo bất chợt thấy bà hắn hết sức ngạc nhiên, chào một cách trịnh trọng. Có lẽ bà viếng trại tù bất chợt, hắn không biết trước.

Bà không nói chuyện với hắn, mắt chăm chú nhìn Thu Vân một lúc mới hỏi :

- Có phải bà là bà Thu Vân không ?

Thu Vân mừng ưá nước mắt :

- Vâng ! Chính tôi ! Tôi nhận ra bác sĩ ngay ! Tôi không ngờ bác sĩ cũng nhận ra tôi !

Bà mỉm cười nói :

nhóm người này ở vào thế phải theo, mặc dù đã biết rõ mình bị lưà phỉnh. Họ cũng như Thy, mơ ước thiên đường của Hồ Chí Minh để rồi dù còn sống hay đã chết cũng ôm nỗi câm hờn.

- Thật lạ lùng ! Hai mươi năm gặp lại bà, thấy bà không thay đổi nhiều. Con bà chắc nay đã lớn lắm rồi ?

- Thưa, nếu nó còn sống nay đã 21 tuổi.

(1) Để có thể đưa quân xâm chiếm miền Nam gây chiến tranh, Hồ Chí Minh thành lập một tổ chức gọi là « Mặt trận giải phóng miền Nam », giao cho thành phần Cộng Sản người miền Nam lãnh đạo. Mục đích của HCM là lừa phỉnh thế giới, nói rằng : « đó là nhóm nổi dậy trong Nam chống chính phủ Saigon và người Mỹ ». Sự thật tổ chức này do HCM thành lập và làm theo chỉ thị HàNội. Thành phần nhóm này có một số không là đảng viên Đảng Cộng sản, nhưng vì bất mãn với chính phủ Saigon, bị HCM dụ dỗ : « Ngày nào lật đổ được chính phủ Saigon sẽ giao cho họ quyền cai trị miền Nam ».

Tháng 4/1975 Saigon thất thủ, cuộc chiến thắng phần lớn là nhờ nhóm này. Nhưng HàNội gian xảo, tước quyền của họ bằng cách đặt họ vào những chức vị không có quyền hành và lần lượt loại trừ họ, hoặc thủ tiêu. Hiện nay nhóm người này ở vào thế phải theo, mặc dù đã biết rõ mình bị lưà phỉnh. Họ cũng như Thy, mơ ước thiên đường của Hồ Chí Minh để rồi dù còn sống hay đã chết cũng ôm nỗi câm hờn.

Bà nhíu mày :

- Sao ? Nó đã chết ? Bao giờ ?

- Tôi không rõ bao giờ ! Từ ngày quân cách mạng giải phóng miền Nam, mẹ con tôi thất lạc. Tôi nghĩ rằng nó đã chết.

Câu trả lời của nàng khiến bà ta thở ra, không nói gì.

Tên Quản Giáo thấy hai người đàn bà quen biết, mặt hắn thoáng vẻ lo âu. Hắn vội lên tiếng :

- Kính mời đồng chí Thứ Trưởng vào văn phòng tôi.

Bà sắp sữa bước đi, chợt hỏi Thu Vân : -Bà làm gỉởđây ?

- Tôi bị giam ởđây.

- Sao ? Trong trại giam đàn ông? Vì lý do gì?

Câu hỏi của bà khiến tên Quản Giáo tái mặt. Thu Vân thừa dịp nói một hơi:

- Chồng tôi bị bắt vào đây mà không có tội gì. Sau đó tôi cũng bị giam chung với chồng đã hơn ba tháng rồi. Ông Quản Giáo buộc vợ chồng tôi phải có con mới được trả tự do, nếu không có con thì…

Tên Quản Giáo sợ Thu Vân nói toẹt chuyện hắn buộc nàng làm vợ, nên vội chận lời:

- Kính trình đồng chí Thứ Trưởng. Tội nhân khai là chồng bà này là một tu sĩ phản động. Sự thật hai người không phải là vợ chồng. Tôi có trách nhiệm nặng nề với thành phần phản động.

Câu nói sau cùng hắn muốn nhắn nhủ nữ bác sĩ Dương Kim Huê quyền lực của hắn ở nhà tù này.

Bà Dương Kim Huê cũng biết rõ bà không có quyền hành gì trong các trại tù. Bà thở dài, toan bước đi. Thu Vân sợ bỏ dịp may, hoảng hốt nắm tay bà khẩn cầu:

- Xin Bà tin lời tôi nói thật. Chắc bà còn nhớ khi xưa tôi có nói với bà, chồng tôi du học ở Thuỵ Sĩ?

Bác sĩ Huê gật đầu. Thu Vân nói tiếp:

- Chàng về nước được ít tháng thì Saigon bị…giải phóng. Thằng con tôi lúc đó đi thăm ông ngoại ở Mỹ Tho rồi biệt tích luôn. Chồng tôi phải đi khắp nơi tìm con, đã ba năm qua vẫn chưa có tin tức. Cách đây ba tháng, chàng vừa về tới nhà, vào lúc bọn lính của ông này đang rượt bắt một tu sĩ nào đó. Họ thấy chồng tôi thì bắt ngay và giam vào đây. Sau đó tôi cũng bị giam vào đây. Ông Quản Giáo giao hẹn…

Tên Quản Giáo nghe nàng nói đến đó, vội vàng xen vào nói lời giải thích với bác sĩ Huê:

- Tù nhân ấy không có giấy tờ chứng minh là chồng bà này. Lại từ bên ngoài chạy vào nhà nhằm lúc quân lính đang bao vây rượt bắt tên tu sĩ phản động.

Thu Vân phân minh:

- Chồng tôi bị mất thẻ kiểm tra nên không thể trình ra.

- Nếu thế tại sao trong sổ gia đình cũng không có tên hắn?

- Vì chàng mới về nước chưa kịp báo với quận làng. Còn ba năm qua mãi đi tìm con nên không thể khai vào sổ gia đình.

giavui
01-10-2015, 08:18 PM
Câu giải thích của nàng không mấy ổn, nhưng bác sĩ Huê dường như muốn giúp Thu Vân, nên hỏi tên Quản Giáo:

- Vậy đồng chí có bằng chứng : Tội nhân không là chồng bà này, mà là tu sĩ không?

Hắn cười lạt:

- Việc đó có khó gì? Tôi cho bà này vào ở chung trong phòng giam là muốn xem họ đối xử với nhau thế nào? Nếu là vợ chồng thật thì dễ biết lắm. Và quảđúng như sự nghi ngờ của tôi! Gần ba tháng qua hắn không dám đụng tới người đàn bà mà hắn khai là vợ.

Thu Vân cãi lại:

- Ông lầm rồi! Nếu chàng không đụng tới tôi, làm sao tôi

có thai được?

Rồi quay sang bác sĩ Huê, Thu Vân nói:

- Xin bà hãy khám thai tôi, sẽ thấy những gì tôi nói là sự thật. Hơn nữa ông Quản Giáo có hứa: “trong vòng ba tháng nếu tôi có con, chúng tôi sẽ được trả tự do”. Tôi nghĩ, nay tôi đã có thai hai tháng rồi.

Bác sĩ Huê hỏi tên Quản Giáo:

- Đồng Chí đã hứa điều đó với bà ấy chứ?

Đương nhiên hắn không dám chối, vì Thu Vân còn giữ

giấy cam kết của hắn. Hắn đành phải gật đầu.

Bác sĩ Huê nói:

- Nếu thế thì khám thai cho bà ba, xem sao?

Vị bác sĩ trong phòng vụt xen vào, nói:

- Ởđây chúng tôi không chuyên nghiệp về sản khoa. Có lẽ bà…

Ông ta đang nói vụt nín im, chỉ vì cô y tá trong phòng đưa mắt lườm ông ta. Cô ta nói:

- Để tôi sẽ khám thai bà ta.

Thu Vân thầm đoán vị bác sĩ trong phòng là tù nhân, được phái làm việc ởđó. Cô y tá là nữ cán bộ, nên cô ta có quyền hơn bác sĩ tù nhân.

Bác sĩ Huê hình nhưđã hiểu cuộc diện, bà đưa mắt hỏi tên Quản Giáo:

- Ý Đồng Chí thế nào? Có cần tôi giúp đồng chí việc này không?

- Thưa vâng! Nếu đồng chí có thì giờ, xin vui lòng giúp tôi.

Đương nhiên hắn là người có học. Hắn thưà biết bác sĩ Huê là bác sĩ chuyên môn về sản khoa mới có thể khám thai. Chứ như y tá của hắn y học lem nhem, chích thuốc chưa rành. Còn bác sĩ tù nhân cũng không là bác sĩ chuyên khoa cho đàn bà.

Bác sĩ Huê mỉm cười nói với hắn:

- Không lâu đâu! Đồng chí hãy về văn phòng trước, tôi khám thai cho bà này xong sẽ đến gặp đồng chí để cho biết kết quả.

Tên Quản Giáo xuôi xị bước đi.

Bác sĩ Huê hỏi thăm đường kinh nghuyệt của Thu Vân , chẩn mạch, khám tử cung…Bà cười tươi, nói:

- Đúng lắm! Bà đã có thai trên hai tháng rồi. Dù sao cần

thử nước tiểu mới chắc chắn được.

Thu Vân mừng ra mặt. Bác sĩ Huê nói với cô y tá:

- Xin cô cho bà này cái lọ nhỏ để sáng mai lấy nước tiểu.

Nếu cần, tôi sẽ cho người sáng mai đến đây lo vụ này.

Vị bác sĩ trong phòng nói với cô y tá:

- Nếu cô cho phép, tôi xin làm vụ này.

Cô y tá gật đầu. Bác sĩ Huê cười, bảo Thu Vân :

- Mọi việc gần nhưđã giải quyết. Xin bà yên lòng ! Tôi sẽ

can thiệp với ông Quản Giáo trả tự do cho vợ chồng bà.

Thu Vân cảm động nói :

- Ơn bà trọn đời tôi không quên.

Bác sĩ Huê nhìn nàng bằng ánh mắt hết sức thương hại.

Bà lẳng lặng bước đi, không nói thêm lời gì nữa.

Thu Vân trở lại phòng giam với tâm trạng đau khổ, tuy ý nguyện được thành.

**

Chiếc xe bít bùng của công an thả Thu Vân và Duy Quang giữa khoảng đường vắng teo.

Bấy giờ cả hai mới biết mình còn sống, cả hai cùng ứa nước mắt.

Những giọt lệ của họ lần này là giọt lệ mừng !

Duy Quang còn yếu lắm phải nằm bên lề đường, hai lòng bàn chân sưng to và lở lói. Chàng không thể bước đi được. Thu Vân mở vali xé áo của mình làm nhiều mãnh băng, băng vết thương nơi chân Duy Quang và nói :

- Khoảng đường này quá vắng không thể tìm ra xe. Cha nằm đây chờ em đi nơi khác tìm xe nhé.

- Em hãy đi nhanh, chớ để tôi chờ lâu.

Hơn bốn tháng bị hành hạ và khủng bố tinh thần, chàng trở thành con người nhu nhược từ tinh thần đến thể xác.

Thu Vân biết chàng lo sợ bị bọn kia bắt trở lại, nên trấn an :

- Xin Cha an lòng ! Em sẽ không vắng mặt lâu đâu !

Nàng nói xong bỏ chạy. Nàng chạy qua hai ba con đường thì tìm được một chiếc cyclo đạp. Leo được lên xe nàng phải thở một lúc mới nói được với người phu xe bảo ông ta chạy đến con đường Duy Quang đang chờ.

Bấy giờ vào khoảng trời chiều, mặt trời đã ngả phương Tây, còn để lại tia nắng cuối cùng phía chân trời một màu đỏ ói thật đẹp !

Người phu xe vóc người mảnh khảnh, gương mặt thật trí thức. Dường như ông không quen với nghề nghiệp của mình ? Chiếc xe chạy tới thật chậm chạp nặng nề.

Thu Vân phải đi bộ. Duy Quang ngồi trên xe với vali quần áo của nàng.

Khi tên Quản Giáo ký giấy trả tự do cho Duy Quang và Thu Vân hắn không quên giao trả vali quần áo của nàng. Trước giờ cả hai lên xe rời nhà tù, hắn nói với Duy Quang bằng giọng trầm trọng, gần như cảnh cáo :

- Ông đã có vợ và sắp có con. Tôi khuyên ông từđây hãy ở nhà với vợ con ông. Đừng để tôi gặp lại ông ở tòa nhà này.

Duy Quang không biết Thu Vân đã dối gạt hắn ra sao ? Song nhớ lời căn dặn của nàng, chàng phải « vâng dạ » cho qua.

Hắn không nói lời nào với Thu Vân, ngoài cái nhìn tiếc rẻ.

Hắn biết hắn không được nàng, tức hắn đã thua. Nhưng hắn có hãnh diện vì mình đã thắng về mặt chính trị. Bởi vì, tuy hắn không giết Duy Quang, nhưng hắn đã loại Duy Quang khỏi đời sống tu sĩ. Một linh mục đã có con thì không còn tín nhiệm của tín đồđược nữa! Hắn biết rõ điều đó.

Cho nên hắn thua mà trong lòng khoan khoái chớ không phải phiền muộn.

Trái lại, Thu Vân thắng trận để sữa soạn cho mình cái chết. Cho nên nàng được cuộc mà trong lòng hết sức bi thảm.

Cuộc hành trình một người ngồi trên xe, một người chạy bộ theo, nên khoảng đường gần như bất tận !

Trong khi Duy Quang nghĩ : « Chàng sẽở nán lại nhà của Thu Vân một thời gian, chờ vết thương nơi chân hết đau, khi chàng đi được, chàng sẽ lìa bỏ Saigon, xa lánh tên Quản Giáo nhà ngục, tiếp tục cuộc đời cao quí của mình »

Thu Vân suy tính : « Về đến nhà nàng sẽ bán hết đồ đạc còn lại để có tiền mua thuốc trị thương và tẩm bổ cho Duy Quang. Khi sức khoẻ chàng bình phục, nàng sẽ để chàng tự do ra đi. Sau đó nàng sẽ giải quyết đời mình bằng ống thuốc ngủ. ».

Cả hai không ngừng nghĩ ngợi…Và xe cũng đến nơi !

Thu Vân đỡ Duy Quang đứng tựa nơi cổng rào nhà mình, móc ví lấy tiền trả cho người phu xe xong, lúc ngước mắt lên nhìn vào nhà bỗng thất thanh kêu lên :

- Trong nhà có người ở! Trời ơi! Ai đang ở trong nhà tôi?

Tiếng kêu của nàng lớn quá, khiến cho chàng thiếu niên độ 14-15 tuổi đang đứng tựa lưng nơi cửa, giật mình nhìn ra…

Thấy người lạ, chàng thiếu niên chạy ra hỏi giọng càu nhàu:

- Bà muốn tìm ai mà đứng ngay nhà tôi la lối? Duy Quang không đứng vững được nữa, đã ngồi phệt

xuống đất. Thu Vân run giọng hỏi chàng trai:

- Xin lỗi, tôi muốn biết chủ nhà này là…

- Là bố tôi! Là Trưởng Bót cảnh sát quận Hai. Bà muốn

gặp không?

- Không! Không! Tôi lầm nhà!

Chàng thiếu niên chợt trông thấy Duy Quang áo quần

rách rưới dơ bẩn, mình mẩy đầy thương tích, hai bàn chân băng bó như người cùi, chàng ta nhún vai nói:

- Người này gớm ghiếc quá! Bà nên đưa ông ta đi chỗ khác cho nhanh, kẻo bố tôi trông thấy bắt bỏ vô bót đấy.

Thu Vân hoảng sợ nói:

- Vâng! Vâng, chúng tôi đi ngay.

Nàng cúi xuống đỡ Duy Quang đứng lên. Chàng cố gắng bước được vài bước thì ngã lăn xuống đất. Thu Vân xót xa nói:

- Tội nghiệp Cha quá!

Nàng nhìn quanh tìm xe. Nhưng người phu xe lúc nãy đã chạy xa rồi. Khoảng đường hiện tại vắng teo!

Chàng thanh niên vẫn còn nhìn chòng chọc hai người. Thu Vân lo âu nói:

- Cha ơi, gắng đi xa xa chỗ này, rồi Cha ngồi chờ em đi tìm xe đểđi nơi khác.

Duy Quang hỏi:

- Đi đâu?

- Đi đâu?

Thu Vân lập lại câu hỏi của Duy Quang. Chính nàng cũng không biết sẽđi đâu? Nhà nàng ởđây đã bị người ta chiếm lấy. Tài sản cuối cùng của nàng đã thuộc về Đảng!

Nàng không tiếc gian nhà bị cướp, vì nàng không cần sống nữa. Nàng chỉ hận một điều: “hiện tại nàng không có chỗ để cả hai tạm trú, để Duy Quang có chỗ trị thương”.

Nàng ngậm ngùi đáp:

- Em không biết phải đưa Cha đi đâu? Nhưng nhất định chúng ta phải xa lánh chỗ này.

Chàng choàng tay qua vai nàng nhích từng bước. Máu từ lòng chân chàng chảy ra ướt cả vải băng mà Thu Vân vừa mới băng cho chàng.

Chàng cố gắng nhịn đau, mồ hôi cùng nước mắt ứa ra cùng một lượt, nhưng kết quả chỉđi độ mười bước. Duy Quang tuyệt vọng nói:

- Em ơi, tôi không thể nào tiến thêm đuợc nữa! Xin em hãy bỏ tôi nằm chết ởđây.

Chàng nói vừa ngồi phệt xuống lề cỏ. Nàng quỳ sụm trước mặt chàng, nghẹn ngào nói:

- Cha không thể chết ởđây! Cha khải sống! Cha còn nhiệm vụ với tín đồ, còn cuộc đời cao quí của Cha…

- Sức tôi đã kiệt lắm rồi! Chắc tôi phải bỏ cuộc đời đêm nay. Thu Vân em! Trước khi chết tôi muốn cám ơn em đã nhọc lòng lo cho tôi mấy tháng qua và tôi cũng muốn biết rõ sự thật về việc tên Quản Giáo trả tự do cho chúng ta.

Thu Vân lặng im không nói. Duy Quang hỏi:

- Có phải em đã nói với hắn, em đã có con với tôi? Đó cũng là điều kiện hắn buộc em?

Thu Vân gật đầu. Duy Quang hỏi tiếp:

- Một con người như hắn lẽđâu dễ dàng tin lời nói của em mà không có chứng minh? Vậy em đã làm gì?

Thu Vân không dám nhìn chàng, cúi mặt giấu đôi hàng lệ. Duy Quang thấy nàng không muốn tỏ thật, nên nghiêm giọng nói:

- Tôi lấy danh vị của một linh mục yêu cầu em cho tôi biết tất cả những gì em đã làm và đã nói với hắn, không được giấu diếm, nếu em còn tôn trọng tôi.

Thu Vân ngẩng mặt lên, nước mắt đầm đìa:

- Lúc nào em cũng yêu quí và tôn trọng Cha. Chính vì thế mà em đã làm điều kiện hắn buộc.

- Nghĩa là sao?

- Nghĩa là em thật sựđã có thai.

- Không thểđược! Tôi…

Giọng chàng vô cùng kinh hãi, không nói hết câu. Thu Vân lắc đầu:

- Dĩ nhiên là em không thể có con với Cha. Nhưng em đã nhờ tên lính gác dưới hầm…

Nàng tường thuật những gì xảy ra trong ba tháng ở nhà tù và cho biết đã dọn sẵn cho mình cái chết sau khi cứu chàng khỏi nhà lao. Nàng nói:

- Em đã làm thế vì muốn Cha sống còn. Vậy xin Cha hãy can đảm chống lại cơn đau của thể xác hiện tại, để có thể tiếp tục sống cho cuộc đời lý tưởng cao trọng của Cha.

Duy Quang không tưởng tượng nổi những gì Thu Vân đã làm cho mình. Chàng đo lường được nỗi thống khổ của nàng khi hiến thân cho tên mặt khỉ, sựđau đớn khi nàng tự gây thương thế cho mình để tìm thuốc trị thương cho chàng...

Càng nghĩ, Duy Quang càng hổ thẹn, tự nghĩ: “ Bấy lâu ta tưởng mình khoác áo tu sĩ là trở thành con người cao quí thánh thiện. Nhưng sự thật ta chỉ có cái bề ngoài tu sĩ, mà không có tấm lòng cao quí như nàng. Ta không có sự hy sinh vô lượng vô biên của nàng!

Căn bản của tình yêu là sự hy sinh. Không có sự hy sinh tình yêu không còn giá trị của nó.

Khi xưa Chúa Jesus yêu nhân loại đến đổi hy sinh chịu chết trên thập tự giá để chuộc tội cho nhân loại. Cái chết ấy chứng minh tình yêu vô lượng vô biên của Ngài.

Mười mấy năm qua ta yêu nàng, nhưng ta không dám hy sinh cuộc đời ta cho nàng, trong khi nàng dám hy sinh mạng sống của nàng cho ta!

Có tiếng sĩ vả từđáy lòng chàng vang lên:

“-Duy Quang ơi, ngươi là một thằng đàn ông vừa ích kỷ, vừa hèn nhát. Trong nhà ngục ngươi không dám khai thật mình là tu sĩ để không bị giết, mặc kệ cho nàng phải vào sống trong ngục tù vì ngươi. Rồi ngươi sợ lương tâm mình cắn rứt, nên tự cho cái sống của mình quan trọng hơn người khác. Lúc nào trước mặt nàng ngươi cũng cho mình ở vào cái thế cao trọng hơn. Thật là buồn cười cho ngươi!“

Xấu hổ cùng cực, Duy Quang bật khóc, nói:

- Tha tội cho tôi, Thu Vân! Tha tội cho tôi! Mười năm tu học, 18 năm làm Linh Mục, nhưng tôi chưa thấu triệt bài học của Chúa, bài học: “Tình yêu và sự hy sinh“. Khi xưa Chúa Jesus nào có mặc áo tu như các thầy tế lễ Do Thái? Chúa hiện thân là một người thường, nhưng bởi tấm lòng cao quí của Ngài chuộng sự công bình, yêu người nghèo khổ, che chỡ kẻ yếu thế, nâng đở kẻ bị khinh khi…và sự hy sinh tột cùng của Ngài cho nhân loại, đã đưa Ngài lên ngôi vị chí tôn cao cả của loài người. Xem thế, tu là có tấm lòng cao quí đối với người, hy sinh cho người. Điều này chính em đã làm cho tôi. Em thật cao trọng hơn tôi! Tôi…

Thu Vân toan ngắt lời chàng, song chàng vội vàng tiếp:

- Xin em cho tôi được thú tội với em. Tôi có tội to lớn là yêu em mà để em bơ vơ cô độc mười mấy năm dài. Những Mục Sư Tin Lành đều có vợ con, nhưng cuộc đời họ cũng hiến dâng cho đạo. Bấy lâu nay tôi không dám sống cho em, không phải vì đạo, mà vì tôi. Tôi nghĩ rằng : “Khoác lên mình chiếc áo nhà tu tôi được người người trọng vọng. Lo việc đạo, khi chết tôi được vinh dự ngồi bên cạnh Chúa trong nước Thiên Đường“. Ấy là lòng ham muốn cái tốt cho mình, chính là lòng ích kỷ, chớ không phải lòng tu! Cho nên không những tôi không xứng đáng mặc áo tu nữa, lại càng không xứng đáng nhận lãnh tâm tình của em, mà tôi cũng không thể chết được! Tôi phải sống để chuộc tội với em. Em có bằng lòng cho tôi cái cơ hội chuộc tội không?

Thu Vân nghẹn ngào:

- Em yêu anh, Duy Quang! Em yêu anh! Anh không có tội gì đối với em cả!

Duy Quang hỏi:

- Em thật sự không oán trách anh? Em bằng lòng cho anh cơ hội chuộc tội?

- Phải!

- Nghĩa là em cho tôi được phép yêu em và làm chồng em?

Thu Vân gật đầu. Duy Quang cảm động nói:

- Cám ơn em!

Thu Vân nhủi vào lòng chàng. Chàng mở hai tay ôm nàng . Môi họ tìm nhau…

Nụ hôn này trọn vẹn hạnh phúc. Nụ hôn ấy giúp họ quên đi những khốn khổ của 120 ngày chốn tù đày. Nụ hôn này khiến cả hai tìm được sinh lực để sống.

Chàng tha thiết nói :

- Em yêu quí! Từđây anh sẽ sống cho em, cho tình yêu của chúng mình.

- Và cho Chúa nữa!

- Phải! Có người vợ với tấm lòng cao quí như em, anh có thể làm tất cả việc lợi ích cho đời cho đạo cho quốc gia.

Tình yêu và ý sống bừng dậy trong người, Duy Quang nghe cơn đau của thể xác như không còn nữa! Chàng vịn nàng đứng lên, nói:

- Đi em! Chúng ta tìm một chỗ nghỉ tạm đêm nay. Ngày mai mua được thuốc, vết thương anh bớt hành hạ, chúng mình sẽ rời bỏ thành phố này. Anh tin với tình yêu và ý chí của chúng ta sẽ hợp thành sức mạnh, giúp ta chống nổi mọi áp lực của bọn hung bạo vô thần.

Chàng choàng tay ôm vai nàng, cả hai sóng bước.

Ngày tàn!

Cuộc sống lứa đôi của họ bắt đầu…


(Câu chuyện này không có đoạn cuối. Nhân vật trong truyện còn sống trong thiên đường này, hoạn nạn còn có thể xảy ra trong đời họ.)

Huỳnh Dung 1988


Độc giả muốn biết Vân Trường còn sống hay đã chết sau ngày Cộng Sản chiếm miền Nam : Xin đọc : LL12 Nữ điệp viên và Song điệp LL12 Và VT001 của Huỳnh Dung đã phát hành.
--------------------------------
1 Chuyện có thật và gây nhiều xúc động trong cộng đồng VN.
2 Theo thống kê, kể từ 1976 đến 1986 có trên 6000 đàn bà con gái VN bị cướp Thái bắt bán cho nhà mãi dâm ở Bangkok. Mặc dù Ủy Ban cứu trợ tị nạn quốc tế và các cơ quan từ thiện tìm cách giải cứu, vẫn chưa tìm ra.
3 Theo tài liệu của một ký giả Canada: vào thời này, hàng năm Cộng Sản VN thu được trên 500 triệu Mỹ Kim trong vụ chuyển tiền của người tị nạn ở các nơi gửi về cho thân nhân.
4 Người bình dân VN vì không phân biệt được các giống dân da trắng, nên tất cả người da trắng họ đều gọi là người Mỹ. Và để phân biệt người Nga hiện tại với người Mỹ lúc trước, họ gọi Nga là Mỹ no money (Mỹ không tiền). Cũng vì người Nga nghèo lắm, hay đi xe quỵt, ăn quỵt, lại ỷ thế cường quốc hung hăng với dân.
5 Để có thể đưa quân xâm chiếm miền Nam gây chiến tranh, Hồ Chí Minh thành lập một tổ chức gọi là «Mặt trận giải phóng miền Nam», giao cho thành phần Cộng Sản người miền Nam lãnh đạo. Mục đích của HCM là lừa phỉnh thế giới, nói rằng : «đó là nhóm nổi dậy trong Nam chống chính phủ Saigon và người Mỹ». Sự thật tổ chức này do HCM thành lập và làm theo chỉ thị HàNội. Thành phần nhóm này có một số không là đảng viên Đảng Cộng sản, nhưng vì bất mãn với chính phủ Saigon, bị HCM dụ dỗ: «Ngày nào lật đổ được chính phủ Saigon sẽ giao cho họ quyền cai trị miền Nam».


Hết