PDA

View Full Version : Chân Dung hay "Chân Tướng" Nhà Văn ?



khieman
04-01-2014, 02:14 AM
.


Chân Dung hay "Chân Tướng" Nhà Văn ?
Nhật Tuấn
Kỳ 1




http://2.bp.blogspot.com/-XmrMSVuNsHk/TtSvCCss_2I/AAAAAAAAAOg/YGNIrYSyuao/s640/Xuan+Sach.jpg (http://2.bp.blogspot.com/-XmrMSVuNsHk/TtSvCCss_2I/AAAAAAAAAOg/YGNIrYSyuao/s640/Xuan+Sach.jpg)



Năm 1992 một sự kiện ầm ĩ nổ ra trong giới xuất bản. Chuyện bắt đầu từ tập thơ “Lên chùa” của nhà thơ Xuân Sách vốn được sáng tác lai rai từ 30 năm trước. Vào một dịp thăm Xuân Sách ở Vũng Tàu, tướng Trần Độ ghi âm Xuân Sách đọc gần 100 bài thơ này. Cuối năm 1992, nhà văn Hoàng Lại Giang lúc đó là Trưởng Chi nhánh NXB Văn Học tại TPHCM được nghe cuốn băng này và đề nghị Xuân Sách cho xuất bản với tên “ CHÂN DUNG NHÀ VĂN”.

Mặc dầu NXB Văn học đã phải rào trước đón sau trong lời nói đầu :

“ Chúng tôi chỉ coi đây là những nét tự trào của giới cầm bút Việt Nam. Cười đấy nhưng cũng tự nhận ra những xót xa, hạn hẹp của chính mình, những gì chưa vượt qua được trên chặng đường quanh co của lịch sử và thời đại. Tự soi mình hoặc hiểu mình thêm qua cái nhìn của người cùng hội, cùng thuyền lắm khi cũng hữu ích. Cái cười trong truyền thống dân gian vốn là vũ khí. Ngày nay còn có thể là sức mạnh thúc đẩy đi tới phía trước.Với ý nghĩ ấy, chúng tôi mong bạn đọc và các nhà văn thông cảm cho những gì bất cập hoặc chưa lột tả được thần thái của từng chân dung.Dù sao đây cũng là 100 bức tranh nhỏ về những người có công trong văn học, những người nổi tiếng trong làng văn, trong bạn đọc, bằng chính những tác phẩm có giá trị của mình. Bạn đọc và thời gian đã là người đánh giá chính thức và công bằng nhất đối với họ. Rất mong độc giả và các nhà văn nhận ra mối chân tình trong cuộc vui của làng văn, và lượng thứ cho những khiếm khuyết. “

Nhưng khi sách in xong, chưa kịp phát hành, nhà văn Hoàng Lại Giang cho biết :

” Phản ứng của nhà văn rất lớn, và đấy là điều tôi không ngờ đến.Những nhà văn lớn có bản lĩnh, họ chịu đựng nổi, im lặng. Nhưng những nhà văn tầm tầm, lồng lộn, rất gay gắt yêu cầu Bộ Văn hóa kiểm điểm và thu hồi.”

Một cuộc họp của Bộ Văn hóa diễn ra, với năm đại diện: Ba thứ trưởng (Phan Hiền, Huy Cận, và Nông Quốc Chấn), đại diện Hội Nhà văn Vũ Tú Nam, cùng Giám đốc NXB Văn học Lữ Huy Nguyên quyết định không thu hồi nhưng niêm phong số bản in 3000 cuốn. 20 năm sau, cho tới tận bây giờ, số sách này vẫn bị chôn dưới hầm cầu thang chi nhánh NXB Văn Học tại 290/20 Nam kỳ Khới nghĩa Q3 TP HCM, chắc đã làm mồi cho mối.

Trước hết, hãy nghe nhà thơ Xuân Sách tâm sự về cái “cảm hứng chủ đạo” khi viết tập thơ “Lên chùa” sau đổi thành “Chân dung nhà văn “ :

“Trước đây khi còn là lính ở địa phương, cái xã hội nhà văn đối với tôi đầy thiêng liêng bí ẩn. Đây là những con người dị biệt rất đáng ngưỡng mộ, rất đáng yêu mến, dường như họ là một siêu tầng lớp trong xã hội. Mỗi cử chỉ, mỗi hành động, lời nói của họ có thể trở thành giai thoại, và cả tật xấu nữa dường như cũng đứng ngoài vòng nhận xét thông thường... Tóm lại đó là thế gìới đầy sức hấp dẫn đối với người say mê văn học và tấp tểnh nuôi mộng viết văn như tôi. “
Nhưng rồi khi tiếp cận với họ, ông cảm thấy “vỡ mộng “:

“ Khi tôi được về Hà Nội vào cơ quan văn nghệ dù là ở quân đội (hoàn cảnh nước ta quân đội có vị trí đặc biệt trong xã hội kể cả lĩnh vực văn chương), tôi bắt đầu đi vào cái thế giới mà trước kia tôi mơ ước.

Điều tôi nhận ra là, ngoài cái phần tôi hiểu trước đây, thì thế giới nhà văn còn có những chuyện khác. Đó là cái mặt đời thường, cái mặt rất chúng sinh, và chúng cũng góp phần quan trọng làm nên các tác phẩm và tính cách nhà văn…Khi tôi đã tìm hiểu được những ứng xử, những tính cách của những nhà văn, ngoài những tác phẩm mà tôi thường ngưỡng mộ, tôi cứ băn khoăn tự hỏi: ''Sao thế nhỉ, với bề dầy tác phẩm như thế, với vị trí trong xã hội như thế, trong lòng người đọc như thế, sao họ còn ham muốn những thứ phù phiếm đến thế... Một chức vụ, một quyền lực, một chuyến đi nước ngoài... Mà đã ham muốn thì phải mưu mẹo, phải dối trá và nhất là phải sợ hãi'' . Vì vậy chân dung của họ không thể bỏ qua. Hơn nữa, nếu ''Vẽ'' được chính xác những chân dung đó, thì bộ mặt xã hôi thời đại mà họ đang sống cũng qua đó mà hiện lên.”

Và thế là Xuân Sách đặt bút viết tập thơ “Lên chùa” hàm ý gặp 100 pho tượng tức 100 chân dung ở đó. Nhà thơ Xuân Sách kể lại :

“Hồi đó Hồ Phương đã là tác giả in nhiều tác phẩm đã được giải thưởng các cuộc thi sáng tác văn học. Tôi dùng tên các tập truyện ngắn của anh ''Trên biển lớn''; ''Xóm mới''; ''Cỏ non'' và tên cái truyện đầu tay được nhắc đến: ''Thư Nhà''. Tôi viết bài thơ ra mẩu giấy :


“Trên Biển lớn lênh đênh sóng vỗ
Ngó trông về xóm mới khuất xa
Cỏ non nay chắc đã già
Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem.


Tôi đưa bài thơ cho Nguyễn Khải. Anh đọc xong trên mặt có thoáng chút ngạc nhiên và nghiêm nghị chứ không cười như tôi chờ đợi. Anh bỏ bài thơ vào túi chứ không chuyển cho người khác. Đến giờ giải lao chúng tôi ra ngồi cạnh gốc cây sấu già, Nguyễn Khải mới đưa bài thơ cho Hồ Phương. Mặt Hồ Phương hơi tái và cặp môi mỏng của anh hơi run, Nguyễn Khải nói như cách sỗ sàng của anh :

- Thằng này (chỉ tôi) ghê quá, không phải trò đùa nữa rồi !

Tôi hơi hoảng, nghĩ rằng đó chỉ là trò chơi chữ thông thường. Sau rồi tôi hiểu ngoài cái nghĩa thông thường, bài thơ còn chạm vào tích cách và đánh giá nhà văn. Mà đánh giá nhà văn có gì quan trọng hơn tính cách, và tác phẩm. Bài thơ ngụ ý, Hồ Phương có viết nhiều chăng nữa cũng không vượt được tác phẩm đầu tay và vẫn cứ ''Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem''!

Bài thơ về Hồ Phương đã trở thành bài đầu tiên mở đường cho vệt thơ “Lên Chùa” trong suốt 30 năm của Xuân Sách.
Mùa xuân năm Nhâm Thân (1992) ,vào dịp lần đầu tiên xuất bản tập thơ ông phát biểu :

“ Nói về đồng nghiệp cũng là nói về mình. Cái hay cái dở của một người cũng là của một thời. Câu thơ “Từ thủa tóc xanh đi vỡ đất. Đến bạc đầu sỏi đá chưa thành cơm” đâu chỉ là số phận của một nhà thơ. Hơn ai hết, tôi nghĩ, nhà văn là đại diện của một thời, là lương tri của thời đại. Đã đành là khó ai vượt được thời đại mình đang sống, không dễ nói hết, nói công khai những điều suy nghĩ. Nhưng cũng thật đau lòng và xấu hổ khi những nhà văn bán rẻ lương tâm, còng lưng quỳ gối trước quyền uy, mê muội vì danh lợi. Có lẽ đó là động cơ thúc đẩy tôi viết, nếu có nói quá cũng dễ hiểu. Cái con quỷ ám nếu có thì cũng là ảnh hưởng những cảm xúc ấy, nỗi đau chung ấy. Nhiều nghịch lý vốn tồn tại trong cuộc đời cũng như nghệ thuật. Tiếng cười nhiều khi xuất phát từ nỗi đau ! Những bài thơ chân dung đã có cuộc sống riêng của nó. Không phải kỳ lạ nhưng cũng độc đáo. Nó được lan truyền đến nay đã 30 năm. Đã có nhiều bài ''khảo dị'', nhiều bài ‘’ngoài luồng’’ cũng được gán cho tác giả, bây giờ in ra cũng coi như một sự đính chính. Nó cũng là ''một cái gì đó'', như có người đã nói nên mới tồn tại được, nếu có ích thì tác giả lấy làm mãn nguyện.”

Và chính với “cảm hứng chủ đạo” có phần thất vọng về phẩm chất nhà văn, tuy Xuân Sách gọi là viết “chân dung” mà thực ra ông đã vạch trần “chân tướng “ nhà văn vậy.

Ông tên thật là Ngô Xuân Sách, sinh ngày 4-7-1932 tại Trường Giang, Nông Cống, Thanh Hoá. Năm 1960, ông bắt đầu công tác tại tạp chí Văn Nghệ Quân Đội. Từ năm 1981 đến năm 1986, ông làm Phó Giám đốc Nhà xuất bản Hà Nội. Năm 1987, ông chuyển vào làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Bà Rịa – Vũng Tàu đến năm 1997. Đầu năm 2008, nhà thơ Xuân Sách chuyển ra Hà Nội sống với con gái để có điều kiện chữa bệnh suy gan và suy thận. Thế nhưng, do tuổi cao sức yếu, sau mấy ngày nằm ở bệnh viện, khuya ngày 2-6 nhà thơ Xuân Sách đã lặng lẽ từ biệt cõi đời .

Đọc Xuân Sách trước tiên ta cảm phục lòng dũng cảm của ông. Văn học Việt Nam vào những năm “trời đất nổi cơn gió bụi”, những năm thập kỷ 1970, xã hội còn chìm đắm trong nền kinh tế bao cấp, văn hoá văn nghệ bị “quản lý” đến nghẹt thở vậy mà Xuân Sách cả gan vạch trần chân tướng của tất cả những văn thi sĩ đang cúc cung tận tuỵ hiến dâng tài năng và tâm huyết cho …Đảng, cho chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa”.

Đầu sổ là nhà thơ Tố Hữu, chủ soái của văn hoá nghệ thuật của Đảng, Xuân Sách vẫn không sợ , vẫn xỏ xiên :

“Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng
Mắt trông về tám hướng phía trời xa
Chân dép lốp bay vào vũ trụ
Khi trở về ta lại là ta

Từ ấy tim tôi ngừng tiếng hát
Trông về Việt Bắc tít mù mây
Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt
Máu ở chiến trường, hoa ở đây…”

Với nhà thơ Chế Lan Viên, thi sĩ “nghĩ trong những điều Đảng nghĩ”, Xuân Sách thằng tay ra đòn :

“ Điêu tàn ư ? Chả phải điêu tàn đâu
Anh đã tính “Vàng Sao” từ độ ấy
Chim báo bão gió chiều nào che chiều nấy
Lựa ánh sáng trên đầu mà đổi sắc phù sa

Trưước 1945, nhà phê bình Hoài Thanh nổi tiếng với cuộc tranh luận “ nghệ thuật vị nghệ thuật , nghệ thuật vị nhân sinh ?”, từ sau cách mạng chỉ còn là một anh hề đồng “ca ngợi cấp trên”, bởi thế Xuân Sách hạ bút :

“ Vị nghệ thuật nửa đời người
Nửa đời sau lại vị người cấp trên
Thi nhân còn một chút duyên
Lại vò cho nát lại lèn cho đau
Bình thơ tới thủa bạc đầu
Vẫn chưa thể tất nổi câu nhân tình
Tàn canh tỉnh rượu bóng mình cũng tan”

Nhà văn Nguyễn Tuân trước cách mạng nổi đình đám với “ Vang bóng một thời”, nhưng từ sau cách mạng ông tự tước bỏ gai góc, xù xì để trở thành một nhà văn chỉ “ngợi ca chế độ” :

“ Vang bóng một thời đâu dễ quên
Sông Đà cũng muốn đẩy thuyền lên
Chén rượu tình rừng cay đắng lắm
Tờ hoa lại chút lệ ưu phiền”

Nhà thơ Lưu Trọng Lư, “con nai vàng “ đã thành “vờ ngơ ngác” để leo lên tới chức Vụ trưởng Vụ văn nghệ :

“ Em không nghe mùa thu
Mùa thu chỉ có lá
Em không nghe rừng thu
Rừng mưa to gió cả
Em thích nghe mùa Xuân
Con nai vờ ngơ ngác
Nó ca bài cải lương…”

Nhà thơ Huy Cận ngày xưa với “Lửa thiêng", từ sau khi đi theo cách mạng, thơ ông cũng “nói dối” :

“ Các vị La hán chùa Tây Phương
Các vị gầy quá còn tôi thì béo
Năm xưa tôi hát vũ trụ ca
Bây giờ tôi hát đất nở hoa
Tôi hát chiến trường như trảy hội
Đừng nên xấu hổ khi nói dối
Việc gì mặt ủ với mày chau
Trời mỗi ngày lại sáng có sao đâu ?”

Nhà thơ Xuân Diệu ngày xưa có "Thơ thơ", nay thì :

"Hai đợt sóng dâng, Một khối hồng
Không làm trôi được chút Phấn thông
Chao ơi Ngói mới, nhà không mới
Riêng còn chẳng có, có gì Chung"

Nhà văn Nguyễn Đình Thi tuy làm quan cách mạng nhưng vẫn viết “con nai đen” ngụ ý xỏ xiên :

“Xung kích tràn lên nước vỡ bờ
Đã vào lửa đỏ hãy còn mơ
Bay chi mặt trận trên cao ấy
Quên chú nai đen vẫn đứng chờ…”

Nhà văn Tô Hoài chỉ được “con dế mèn” từ thời trước cách mạng, sau đó “tàn phai” trong những tác phẩm viết phục vụ cách mạng :

“ Dế mèn lưu lạc mười năm
Để o chuột phải ôm cầm thuyền ai
Miền Tây sen đã tàn phai
Trăng thề một mảnh lạnh ngoài đảo hoang”

Nhà văn Nguyên Hồng nổi tiếng với Bỉ vỏ , đi với cách mạng viết khá nhiều tiểu thuyết “đồ sộ’ về số trang nhưng chẳng mấy giá trị :

“ Bỉ vỏ một thời oanh liệt nhỉ
Sóng Gầm sông Lấp mấy ai hay
Cơn bão đã đến dộng rừng Yên Thế
Con hổ già uống rươụ giả vờ say…”

Nhà văn Nguyễn Công Hoan ngày xưa với Kép Tư Bền từ sau cách mạng thì …hết lộc trời, còn lại chỉ viết truyện lăng nhăng :

“ Bác Kép Tư Bền rõ đến vui
Bởi còn tranh tối bác nhầm thôi
Bới trong đống rác nên trời phạt
Trời phạt chưa xong bác đã cười..”

Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh ngày xưa nổi tiếng làm thơ bí hiểm với câu thơ “nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm”. Than ôi từ ngày đi theo cách mạng, ông “làm công tác Hội” nhiều hơn làm thơ :

“ Xưa thơ anh viết không người hiểu
“Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà”
Nay anh chưa viết người đã hiểu
Sắp sáng thì nghe có tiếng gà…”

Nhà văn Ngô Tất Tố sau cách mạng thời gian cầm bút ngắn ngủi cũng chưa làm nên dấu mốc nào sau “Tắt đèn” :

“ tại ba thằng mõ cỡ chuyên viên
Chia xôi chia thịt lại chia quyền
Việc làng việc nước là như vậy
Lộn xộn cho nên phải tắt đèn..”

Cứ như vậy, không chừa một ai, từ những cây đại thụ trong rừng văn chương cách mạng cho tới những thế hệ sau, chỉ bằng một khổ thơ ngắn, bằng những cái tựa sách, Xuân Sách đã tạc nên bức chân dung chân thực hơn bất cứ một luận đề tâng bốc nào của mấy anh phê bình văn học “ăn theo nói leo”.

(còn tiếp)

khieman
04-03-2014, 04:42 AM
(tiếp theo)





Kỳ 2


http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/thumb/2/28/Nguyen_Binh.jpg/240px-Nguyen_Binh.jpg (http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/thumb/2/28/Nguyen_Binh.jpg/240px-Nguyen_Binh.jpg)

Nguyễn Bính


Nhà thơ Nguyễn Bính, tham gia cách mạng từ 1947, về Hà nội năm 1954, làm báo tư nhân Trăm hoa từ năm 1956. Thời đó, báo của Nguyễn Bính là cái gai đối với các nhà lãnh đạo văn nghệ. Ông “cả gan” chê thơ Tố Hữu và Xuân Diệu: ”Vì những sai lầm nghiêm trọng, cần phải xét lại toàn bộ giải thưởng văn học 1954-1955; đề nghị đưa tập thơ Việt Bắc xuống giải nhì. Loại tập thơ Ngôi sao và một số quyển không xứng đáng.”. Táo tợn hơn nữa, Trăm Hoa còn “đề nghị bỏ lệ khai báo trong chính sách quản lý hộ khẩu”. Tất nhiên chỉ ra được vài số Trăm Hoa “chết yểu” .Tuy không xơi đòn nặng như Nhân Văn Giai phẩm nhưng Nguyễn Bính cũng phải rời Hà Nội về Nam định làm anh nhân viên ngoài biên chế dưới sự “quản lý chặt chẽ ” của Trưởng ty văn hóa, nhà văn Chu Văn. Trong thơ chân dung về nhà thơ tình số 1 VN này , Xuân Sách điểm có hai tác phẩm tiêu biểu Lỡ Bước Sang Ngang (1940), Giếng Thơi (1957) nhưng vẫn không quên “sự kiện báo Trăm Hoa” với tình cảm xót xa :

“Hai lần “lỡ bước sang ngang “
Thương con bướm đậu trên dàn mồng tơi
Trăm hoa thân rã cánh rời
Thôi đành lấy đáy “giếng thơi” làm mồ.

Nhà thơ Tú Mỡ trước cách mạng đã từng “ngang ngạnh” trong “dòng nước ngược” :

“Trong đình quan khách cỗ bàn.
Vòng ngoài dân đói hàng ngàn xúm đông
Há mồm lố mắt đứng trông
Chúc thầm các cụ các ông muôn đời”

Vậy nhưng từ ngày theo kháng chiến thì “Tú mỡ” đã thành “Tú tóp” :

“ Một nắm xương khô cũng gọi mỡ
Quanh năm múa bút để mua vui
Tưởng cụ vẫn bơi dòng nước ngược
Nào ngờ trở gió lại trôi xuôi.”

Nhà thơ Quang Dũng tác giả “Tây tiến”- một trong số ít bài thơ hay nhất thế kỷ, năm 1957 phải đi chỉnh huấn trong vụ Nhân Văn Giai phẩm , từ đó ông sống rất nghèo ,lặng lẽ trong cương vị biên tập báo Văn Nghệ và sau là NXB Văn Học. Năm 1978, tôi cùng ăn cơm với ông tại nhà ăn tập thể NXB Văn học, Quang Dũng cao to nên ăn rất khỏe lâu lâu lại thấy ông đứng lên đi xin thêm cơm. Bà Gái cấp dưỡng lúc đầu còn cho thêm cơm, sau chỉ cho … miếng cháy. Xuân Sách viết chân dung ông với lời lẽ xót thương và mến phục:

“Sông Mã xa rồi tây tiến ơi...”
Về làm xiếc khỉ với đời thôi
Nhà đồi một nóc chênh vênh lắm
Sống tạm cho qua một kiếp người.
“Áo sờn thay chiếu anh về đất”
Mây đầu ô trắng, Ba Vì xanh
Gửi hồn theo mộng về tây tiến
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Nữ thi sĩ Anh Thơ (1921), được giải thưởng của Tự Lực Văn đoàn năm 1939 khi mới 18 tuổi, tác giả tập “Bức tranh quê” (1941) . Đi cách mạng năm 1945 trở thành cán bộ phụ nữ và làm thơ cách mạng, đại loại như:
CON ĐÃ VỀ NƠI BÁC Ở NGÀY XƯA

Bác về, mời cụ “Các Mác’’ về, trên núi đá
Trong cả lòng hang, Bác tạc tượng người.
Như tạc niềm tin cho con cháu đời đời
Từ thẳm rừng sâu ngời lên chủ nghĩa.

Bởi thế, Xuân Sách có vẻ tiếc cho bà :

“Ấy bức tranh quê đẹp một thời
Má hồng đến quá nửa pha phôi
Bên sông vải chín mùa tu hú
Khắc khoải kêu chi suốt một đời.

Nhà văn Vũ Trọng Phụng, tiểu thuyết gia vào loại hàng đầu ở ViệtNam nhưng số phận tác phẩm của ông thật bi thảm. Năm 1957, ông Trương Tửu và Trần Thiếu Bảo (nhà in Minh Đức) tổ chức giỗ Vũ Trọng Phụng và tái bản “Số đỏ”. Có kẻ ỏn thót với Ủy viên Bộ chính trị Hoàng Văn Hoan là Vũ Trọng Phụng viết bài nói xấu ông ký ga , không may bố ông “lãnh đạo cao cấp” này lại cũng làm nghề đó. Thế là một chiến dịch triệt hạ Vũ Trọng Phụng được phát động. Ông bị quy là đệ tử của Freud, rồi ai đó moi trong thư viện ra bài báo của ông “Nhân sự chia rẽ giữa đệ tứ và đệ tam quốc tế, ta thử ngó lại cuộc cách mệnh cộng sản ở Nga từ lúc khỏi thủy cho đến ngày nay" in trên Đông Dương tạp chí số ra ngày 25/9/ 1937, ông bị quy là phần tử Trotskít. Từ đó Vũ Trọng Phụng coi như bị “khai trừ” khỏi văn đàn.

Sau này khi tôi về NXB Văn Học, nhà phê bình văn học , Giám đốc Như Phong rỉ tai tôi :” Trong cuộc họp phê phán Vũ Trọng Phụng ở Thái Hà ấp toàn những nhà văn hàng đầu mà không một thằng nào dám mở mồm bênh Vũ Trọng Phụng lấy một câu…”. Mãi tới thời kỳ đổi mới, ông Lý Hải Châu, GĐ NXB Văn Học mới lần lượt tái bản tác phẩm của Vú Trọng Phụng. Khắc họa chân dung ông, Xuân Sách đầy lòng cảm phục:

“Đã đi qua một thời Giông tố,
Qua một thời “cơm thầy cơm cô”
Còn để lại những thằng “Xuân tóc đỏ”
Vẫn nghênh ngang cho đến tận bây giờ”

Nhà văn Nam Cao , cha đẻ của Thị Nở, Chí Phèo, cán bộ cách mạng, từng phụ trách báo Cứu Quốc, hy sinh năm 1951 trên đường công tác thuế nông nghiệp ở khu III. Giả dụ ông còn sống như các nhà văn cùng thời khác , không hiểu có còn đứng vững trên lập trường cách mạng trong cơn “tai biến” “ Nhân Văn Giai Phẩm” như Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài…không ? Xuân Sách viết về ông đầy ưu ái :

“Em còn đôi mắt ngây thơ
Sống mòn mà vẫn đợi chờ tương lai
Thương cho thị Nở ngày nay
Kiếm không đủ rượu làm say Chí Phèo!”

Nhà thơ, kịch tác gia Thế Lữ , tác giả của “Mấy vần thơ” (1935) trong có những bài nổi tiếng : Nhớ rừng, Tiếng trúc tuyệt vời, Tiếng sáo Thiên Thai, Vẻ đẹp thoáng qua, Bên sông đưa khách, Cây đàn muôn điệu và Giây phút chạnh lòng. Năm 1936, hoạt động kịch với Ban kịch Tinh Hoa, ban kịch Thế Lữ . Sau năm 1947, ông tham gia kháng chiến, năm 1957 được bầu làm Chủ tịch Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam, hầu như không viết gì .

Xuân Sách tiếc cho ông đã quá sớm “về vườn bách thú”:

“ Với tiếng sáo Thiên Thai dìu dặt
Mở ra dòng thơ mới cho đời
Bỏ rừng già về vườn bách thú
Con hổ buồn lặng lẽ trút tàn hơi “

Nhà văn Bùi Hiển, nổi tiếng với truyện ngắn “Nằm vạ “ (1940), nhưng sau đó tham gia cách mạng quá sớm, không viết được gì nhiều, nổi bật là tập “Trong gió cát”. Năm 1958, ông viết truyện ngắn “Ngày công đầu tiên của cu Tí” để cổ vũ cho phong trào hợp tác xã. Truyện ngắn này được sử dụng trong giáo trình văn học phổ thông tại miền Bắc và cả nước Việt Nam trong nhiều năm. Những năm 1945-1960 ông là Chủ tịch Hội văn nghệ Nghệ An, sau đó suốt trong nhiều năm , ông công tác trong Hội nhà văn VN.Xuân Sách giễu cợt :

“ Sinh ra “ trong gió cát”
Đất Nghệ An khô cằn
Bao nhiêu năm “nằm vạ”
Trước cửa hội Nhà văn”

Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng tham gia cách mạng từ năm 1930, đại biểu quốc hội khóa 1, người sống mãi với…Hội nhà văn, sau cách mạng viết tiểu thuyết “Truyện anh Lục”,“Bốn năm sau”, “Sống mãi với Thủ đô” , vở kịch “ Lũy Hoa”…Xuân Sách khắc họa chân dung ông :

“ Anh chẳng còn “sống mãi
Với Thủ đô” Lũy hoa
Để Những người ở lại
Bốn năm sau khóc òa…”

Trong các nhà văn “tiền chiến” đi theo cách mạng, người bị Xuân Sách “giễu cợt sâu cay" nhất có lẽ là nhà văn Kim Lân. Trước cách mạng, từ năm 1941, Kim Lân đã nổi tiếng về truyện ngắn “vợ nhặt”. Ông viết không nhiều, sau cách mạng ông viết “Làng” về nông thôn Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp, tuy nhiên, hai truyện “Ông lão hàng xóm” (1955) và “Con chó xấu xí” (1962) bị phê phán phi hiện thực xã hội chủ nghĩa .

“Nên danh nên giá ở làng
Chết vì ông lão bên hàng xóm kia
Làm thân con chó xá gì
Phận đành xấu xí cũng vì miếng ăn.”

(còn nữa)

khieman
04-05-2014, 12:15 AM
(tiếp theo)


KỲ 3




http://newvietart.com/images/tandanguyenkhachieu.jpg (http://newvietart.com/images/tandanguyenkhachieu.jpg)


Tản Đà Nguyễn KhắcHiếu

Trong100 chân dung của Xuân Sách, có một trường hợp đặc biệt, đó là nhà thơ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, đã mất từ 1939, quá xa trước cách mạng. Trong "Thi nhân Việt Nam" Hoài Thanh và Hoài Chân đã cung kính đặt Tản Đà lên ngồi ghế "chủ suý" của hội tao đàn, một người mở lối cho thi ca Việt Nam bước vào giai đoạn mới. Nhà văn Nguyễn Tuân cũng ca ngợi :

”Trong chốn Tao Đàn, Tản Đà xứng đáng ngôi chủ suý, trong Hội tài tình, Tản Đà xứng đáng ngôi hội chủ mà làng văn làng báo xứ này, ai dám ngồi chung một chiếu với Tản Đà?”

Và Xuân Sách cung kính viết về cụ :

“Văn chương thuở ấy như bèo
Thương cụ gồng gánh trèo leo tận trời
Giấc mộng lớn đã bốc hơi
Giấc mộng con suốt một đời bơ vơ
Ước chi cụ sống tới giờ
Chợ trời nhan nhản tha hồ bán văn…”

Nhà văn Bùi Huy Phồn tức Đồ Phồn thuộc lớp tiền chiến, năm 1941 đã viết tiểu thuyết trào phúng “Một chuỗi cười”, năm 1946 cũng tiểu thuyết trào phúng “Khao”, năm 1961 ông viết tiểu thuyết “phất” hưởng ứng phong trào cải tạo tư doanh ở Hànội . Ông thuộc hàng quan chức văn hóa văn nghệ , từng làm Giám đốc nhà xuất bản Văn học (1958-1962), ủy viên Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam khóa II (1962-1972), đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội các khóa 4, 5 và 6, ủy viên thường trực Hội văn học nghệ thuật Hà Nội. Trong vụ Nhân Văn Giai phẩm ông viết bài “đánh” Trương Tửu rất nặng . Xuân Sách viết chân dung ông không lấy gì làm ưu ái khi gọi trệch “đồ phồn” thành “đồ phấn”, “đồ vôi” :

“ Phất rồi ông mới ăn khao
Thơ ngang chạy dọc bán rao một thời
Ông đồ phấn, ông đồ vôi
Bao giờ xé xác cho tôi ăn mừng …"

Trong thế hệ kháng chiến chống Pháp , nhà văn Nguyễn Khải là người có khối lượng tác phẩm đồ sộ nhất. Suốt thời trai tráng, hầu như không năm nào Nguyễn Khải không ra tiểu thuyết , tập truyện ngắn mới. Ở Sàigòn, có lần nhà thơ Hoài Vũ bảo tôi :

”Văn viết có duyên tớ thấy có Nguyễn Khải và cậu…”.

Tôi thì không nói, nhưng quả thực Nguyễn Khải viết gì thì viết , người đọc vẫn luôn luôn bị cuốn hút, hấp dẫn. Chính vì vậy tác động tuyên truyền, động viên của tác phẩm Nguyễn Khải rất mạnh , chỉ tiếc,vì chú trọng bám sát chủ trương đường lối của Đảng nên khi chủ trương thay đổi, tác phẩm của ông trở nên xa với hiện thực. Năm 1978-79, NXB Văn Học thực hiện biên soạn Bộ tuyển văn học cách mạng 3 thời kỳ : chống Pháp, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống Mỹ. Tôi được giao gặp từng nhà văn để hỏi tác giả muốn chọn những tác phẩm nào. Một buổi sáng tôi tới nhà Nguyễn Khải ở bãi Phúc Xá. Lúc đó ông đang ngồi ở bàn viết, trước mặt là tranh vẽ bìa cuốn “Cha và con và…” sắp ra lò. Nguyễn Khải chọn đi chọn lại trong kho chữ của mình rồi bất chợt ông kêu lên :

"Tung tóe mẹ nó hết rồi Tuấn ơi…”.

Ông nhìn tôi thất thần rồi cười khảy :

” Nhưng không sao, tao sẽ vót nhọn gươm đâm một cú cuối cùng”.

Cái cú đó chắc là tập “ Đi tìm cái tôi đã mất” trước khi ông mất . Xuân Sách chắc cũng hiểu được tâm sự Nguyễn Khải nên ông hạ bút :

“ Cha và con và…họ hàng và…
Hết bay mùa thóc lẫn mùa lạc
Cho nên chiến sĩ thiếu lương ăn
Họ sống chiến đấu càng khó khăn
Tháng Ba ở Tây nguyên đỏ lửa
Tháng Tư lại đi xa hơn nữa
Đường đi ra đảo đường trong mây
Những người trở về mấy ai hay
Xung đột mỗi ngày thêm gay gắt
Muốn làm cách mạng nhưng lại dát”

Về cái “dát” của Nguyễn Khải thì Xuân Sách nói đúng. Chính Nguyễn Khải từng tâm sự :

” Tớ theo “triết lý con lươn” cứ ngửi thấy mùi hiểm nguy là tớ tiết chất nhờn lủi mất…”

Nhà văn Nguyễn Thành Long chuyên viết truyện ngắn và ký. Ông rất kỹ lưỡng và thận trọng trong viết lách như ông từng tâm sự :

“Nhưng có lẽ là giời đầy tôi, tôi cứ phải lo nhận xét, ghi chép, và đắn đo ở từng chữ như vậy”.

Kỹ lưỡng , đắn đó vậy nhưng rồi cũng không tránh được “vạ bút” hồi năm 1957 với “ Trò chơi nguy hiểm” vào sau này với “Cái gốc” in trên báo Văn Nghệ. Tác phẩm của ông còn lại có “Lặng lẽ Sapa” và “Giữa trong xanh” . Xuân Sách đã khắc họa chân dung ông :

“ Thao thức năm canh nghĩ chẳng ra
Trò chơi nguy hiểm đấy thôi mà
Lửng lơ giữa khoảng trong xanh ấy
Để mối đùn lên cái gốc già…”


Nhà văn Đào Vũ cũng thuộc thế hệ chống Pháp. Vào thời kỳ hợp tác hóa nông nghiệp ở miền Bắc, ông hưởng ứng phong trào bằng cả loạt tác phẩm “ Vụ lúa chiêm”, “Cái sân gạch” rất được báo chí hồi đó tung hô.Xuân Sách đã chỉ ra cái cốt cách văn chương của Đào Vũ :

“ Trời thí cho ông vụ lúa chiêm
Ông xây sân gạch với xây thềm
Con đường mòn ấy ông đi mãi
Lưu lạc lâu rồi mất cả tên…”


Khi viết chân dung nhà văn Nguyên Ngọc, Xuân Sách chưa được thấy vai trò của ông trong đòi hỏi dân chủ khi ông tham gia biểu tình ở Hà Nội, viết bài trên trang mạng bauxite…Bởi vậy Xuân Sách chỉ nhắc tới “Đất nước đứng lên” tác phẩm nổi tiếng của Nguyên Ngọc và “Mạch nước ngầm” , truyện dài bị nhắc nhở khi Nguyên Ngọc viết ở Quảng Ninh mất cả điểm hai cuốn rất cách mạng “Đất Quảng” và “Rừng Xà nu” :

“ Mấy lần đất nước đứng lên
Đứng lâu cũng mỏi cho nên phải nằm
Hại thay một mạch nước ngầm
Cuốn trôi đất Quảng lẫn rừng Xà nu…”

Nhà văn thuộc thế hệ chống Pháp bị “tai nạn nghề nghiệp” nặng nhất có lẽ là Hà Minh Tuân. Ông tham gia hoạt động bí mật ở Hànội từ năm 1943 , chính ủy trung đoàn năm 1950, Giám đốc NXB Văn Học năm 1958. Không may ông viết tiểu thuyết “Vào đời” nêu nỗi khổ của những thanh niên “vào đời” phải đi lao động trên công trường, “cái đòn gánh như con rắn quẫy nặng trên vai “ và thế là ông ăn đòn hội chợ của đồng nghiệp , ngay cả báo chí cũng phát động quần chúng nhảy vào đánh đấm . Rốt cuộc ông mất chức Giám đốc NXB Văn học về công tác ở “Vụ cá nước lợ” thuộc Tổng cục hải sản, vài năm sau về làm trợ lý cho ông Như Phong GĐ NXB Văn học .

Xuân Sách khắc họa chân dung ông :

“Bốn mươi tuổi mới vào đời
Ăn đòn hội chợ tơi bời xác xơ
Giữa hai trận tuyến ngu ngơ
Trong lòng Hà nội bây giờ ở đâu?”

Trong những nhà thơ kháng chiến chống Pháp, có những người chỉ có một bài mà được lưu truyền mãi. Đó là nhà thơ Minh Huệ , sinh năm 1927, từng là chủ tịch Hội văn nghệ Nghệ - Tĩnh. Ông làm thơ từ hồi kháng chiến chống Pháp.Đề tài sáng tác chủ yếu của ông là Bác Hồ và cách mạng. Ông làm bài thơ "Đêm nay Bác không ngủ" sau khi được nghe kể lại câu chuyện gặp gỡ giữa Bác và một anh đội viên trong rừng giữa đêm mùa đông năm 1950.

Xuân Sách viết về ông :

“Vỡ lòng câu thơ viết
Mời bác ngủ bác ơi
Đêm nay bác không ngủ
Nhà thơ ngủ lâu rồi”

Nhà thơ Hữu Loan là trường hợp khá đặc biệt trong những nhà thơ chống Pháp. Ông tham gia cách mạng từ rất sớm, năm 1936 trong phong trào Mặt trận Bình dân , năm 1943 giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn, sau đó phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính trong kháng chiến chống Pháp. Năm 1957 tham gia nhóm Nhân Văn Giai phẩm qua các bài viết lên những tiêu cực của các cán bộ tham nhũng, triệt hạ nhau để leo ghế. Sau khi hết thời gian cải tạo, Hữu Loan nhất quyết bỏ Đảng, bỏ cơ quan về quê kiếm sống không muốn dính dáng gì tới Hội nhà văn. Xuân Sách rất mến phục nhân cách của Hữu Loan :

“ Ôi màu tím hoa sim
Nhuộm tím cuộc đời dài đến thế
Cho đến khi tóc bạc da mồi
Chưa làm được nhà
Còn bận làm người
Ngoảnh lại ba mươi năm
Tím mấy nghìn
Chiều hoang
Biền biệt”


(còn nữa)

khieman
04-05-2014, 05:01 AM
.



http://2.bp.blogspot.com/-psdJUqNbskI/T3HK76VQUKI/AAAAAAAAAcg/UOi9xXI2kcs/s400/To+Hoai+23.jpg (http://2.bp.blogspot.com/-psdJUqNbskI/T3HK76VQUKI/AAAAAAAAAcg/UOi9xXI2kcs/s400/To+Hoai+23.jpg)


NHÀ VĂN TÔ HOÀI


Mới đây, một anh bạn nhà văn khá nổi tiếng sau khi đọc loạt “ Chân dung hay chân tướng nhà văn” gọi điện khuyên tôi không nên viết các nhà văn quá cố, bởi người chết không còn cãi được mà chỉ nên viết người đang sống, còn “phản biện” được.

Chiều lòng anh bạn, kỳ này xin nói tới một nhà văn cao tuổi : lão nhà văn Tô Hoài.

Sinh thời, ông trùm văn hoá mác xít Việt Nam, nhà phê bình văn học Như Phong “khái quát “ về nhà văn Tô Hoài vẻn vẹn có mỗi một câu :

“thằng ngoại ô láu cá, văn chương đẽo gọt”.

Văn chương khoan nói , nhưng về cái sự khôn lỏi, láu cá đầy phong cách “ngoại ô” thì Hội nhà văn phải lấy “ông này tiên sư”.

Thời bao cấp, đi nước ngoài “tham quan, hội thảo, gặp gỡ” ( hồi đó chưa có từ “giao lưu”) còn là một mơ ước xa vời với các bác có chân trong Hội nhà văn Việt Nam.

Từ khâu đầu tiên được Ban đối ngoại Hội dự kiến, Ban thường vụ Hội duyệt rồi qua Bộ Nội vụ, Bộ Văn hoá, Bộ Ngoại giao rồi tới Vụ Văn Nghệ, Ban tuyên giáo trung ương , Ban bí thư…là cả một “con đường sấm sét” muôn vàn trắc trở. Cử ai đi chứ cái thằng cha X. này phải coi lại . Nghe nói tư tưởng “có vấn đề ”. Nghe nói phát ngôn lung tung. Nghe nói viết lách không rõ ràng…Bằng ngần ấy ông “gác cửa”, chỉ cần một ông “phán cho một câu” là rớt đài…đợi chuyến sau.

Ấy vậy mà lọt qua được bằng ấy cửa tử rồi, vẫn cứ phải chờ “anh Lành “ ( tức đồng chí Tố Hữu ) gật cho một phát mới gọi là tạm yên tâm và bắt đầu hồi hộp chờ nhận comlê, cavát , hộ chiếu, vé máy bay đợi ngày xuất ngoại.

Hội nhà văn Việt Nam hồi đó có hơn 150 Hội viên mà hàng năm chỉ có dăm bảy suất , bởi vậy đó là cuộc đấu tranh sinh tử, giành giật âm thầm và quyết liệt chẳng thua gì vũ đài quyền Anh.

Nhà văn nổi tiếng và có nhiều tác phẩm giá trị như Nguyễn Thế Phương, tác giả tiểu thuyết “Đi bước nữa”, Đàochèo”… mà đến tận cuối đời mới được đi Trung Quốc ngắn ngày, còn nhà thơ Quang Dũng, từ “ Đôi mắt người Sơn Tây” tới “Nhà Đồi” , viết lách cả ngàn trang văn học cách mạng mà …chưa ra khỏi biên giới lần nào.

Ấy thế mà riêng Tô Hoài, tổng kết lại trong thời bao cấp ông đã xuất ngoại hơn trăm lượt, đủ các nước Á, Âu, Mỹ , Úc, Phi đến mức dân gian có câu :

“Đảng đoàn là đảng đoàn Thông,
Ở đâu có rượu là ông tới liền
Đảng đoàn là đảng đoàn Hoài,
Hễ đi nước ngoài là có ông ngay…”

Hồi đó ông nhà thơ Hoàng Trung Thông và ông nhà văn Tô Hoài đều có chân trong Đảng đoàn Hội nhà văn Việt Nam .Các bác Hội viên “ cả đời chưa một lần đặt đít lên ghế tàu bay” phải ca cẩm:

” cái thằng ranh ma thế , có mỗi con dế mèn mà bay khắp thế gian” .

Xem vậy đủ hiểu bác Tô Hoài luồn lách, chen lấn, cỡ cao thủ võ lâm mới lập kỳ tích số lần đi nước ngoài đáng đưa vào Guiness Hội nhà văn Việt Nam.

Vậy nhưng cái tính “ngoại ô láu cá” ấy của bác Tô Hoài chẳng phải do cách mạng hun đúc mà ngay từ hồi mồ ma phong kiến đế quốc bác đã có nó rồi. Ngày nay đọc lại “Dế mèn phiêu lưu ký” mới thấy “anh Sen làng Nghĩa Đô” (tên thật của Tô Hoài) đã ranh ma từ độ ấy, mới giật mình, sao chú dế oắt “ngoại thành” này “khôn lỏi” thế ? Lo toan cho cái thân mình thế ? Mới nứt mắt chú đã:

“Ngày nào cũng vậy, suốt buổi, tôi chui vào trong cùng hang, hì hục đào đất để khoét một cái ổ lớn làm thành cái giường ngủ sang trọng. Rồi cũng lo xa như các cụ già trong họ dế, tôi đào hang sâu sang hai ngả làm những con đường tắt, những cửa sau, những ngách thượng, phòng khi gặp việc nguy hiểm, có thể thoát thân ra lối khác được…Bởi ăn uống điều độ, làm việc có chừng mực nên tôi chóng lớn lắm…”

Từ thủa ấu thơ đã “phòng thân” kỹ lưỡng vậy trách gì khi trưởng thành chẳng rút ngay bài học “chui tọt ” vào hang sau khi lớn giọng trêu chị Cốc “ vặt lông cái Cốc cho tao, tao nấu tao nướng, tao xào tao ăn” để mặc thằng Dế Choắt bị chị Cốc “giận cá chém thớt” mổ cho đến chết, trong lúc đó Dế Mèn ta “ lên giường nằm khểnh, vắt chân chữ ngũ”, thây kệ thằng Dế Choắt ăn đòn thay mình.

Sau này, trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm, dù chàng Dế Mèn chẳng dám chọc tức đảng câu nào, nhưng cũng “tự đấm ngực nhận lỗi” trên báo Nhân Dân số ra ngày 12 tháng 3 năm 1958:

“Tư tưởng xấu của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm đã tiếp tục len vào cơ quan của Hội nhà Văn, trên báo Văn, gây nhiều tác hại. Quan niệm mơ hồ của tôi, khách quan đã tạo điều kiện cho khuynh hướng tư tưởng nhóm ấy lợi dụng diễn đàn báo Văn và một số cơ quan khác của Hội Nhà Văn như nhà xuất bản,câu lạc bộ, đã gieo rắc quan điểm chính trị và nghệ thuật nguy hại. Sự yên tâm vô lý của tôi trước tình hình đó là do tôi đã hầu như không để ý rằng miền Nam còn nằm trong lưới đế quốc Mỹ. Bộ máy chiến tranh tâm lý của Mỹ Diệm ngày đêm tìm mọi cách gieo rắc tư tưởng thù địch để phá hoại sự nghiệp xây dựng miền Bắc của chúng ta. Trong văn học hiện nay không thể quên mỗi tư tưởng đều hoặc có lợi cho ta hoặc có lợi cho địch.“

Rồi thì thây kệ“chị Cốc”cứ “mổ”la liệt các“ chàng Dế Choắt” : Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán… đuổi đi đào đất, vác than, chàng Dế Mèn chui tọt ngay vào cái hang “ đề tài miền núi” viết toàn chuyện “quan thống lý Pá Tra” đàn áp , bóc lột “vợ chồng A Phủ” tức “người Mèo ta khi chưa có Đảng”, tránh xa mọi chuyện hiểm nguy nơi phố thị, tha hồ cho“chị Cốc” hoành hành, chàng cứ ung dung “toạ hưởng kỳ thành”, vắt chân chữ ngũ lâu lâu lại “cưỡi con dế mền ” bay đi tham quan nước bạn.

Thành công đó là nhờ Tô Hoài đã rút “kinh nghiệm” của chú Dế Mèn ngày xưa :

“Ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ, sớm muộn gì cũng mang vạ vào thân”.

Cái đám Nhân văn Giai Phẩm kia đúng là “hung hăng bậy bạ”, “có óc mà không biết nghĩ” , “Ôi thôi, chú mày ơi. Chú mày có lớn mà chẳng có khôn” (lời Dế Mèn dậy Dế Choắt) thì bị đảng cho ăn đòn còn oan nỗi gì ? Phải khôn ranh, láu cá thì mới giữ được thân, hưởng lộc dài dài, chẳng thế mà hiền lành như nhà văn Bùi Hiển cũng phải than :

” Tôi lại có cảm giác là anh ( Tô Hoài) có khuynh hướng hơi e ngại, hơi dè chừng…”.

Giống như chú Dế Mèn trong suốt cuộc phiêu lưu, chẳng thấy “hành hiệp giang hồ”, đánh kẻ mạnh cứu kẻ yếu, toàn đi “chọi “ với Cào Cào , Châu Chấu …mà cứ hễ thua là bỏ chạy. Tô Hoài cũng vậy, suốt cả mấy thập kỷ ngồi ghế “lãnh đạo văn nghệ” (hết Hội nhà văn Trung ương lại tới Hội nhà văn Hà Nội), bao nhiêu nhà văn Hà Nội bị “Cốc mổ” như Nguyễn XuânKhánh, Châu Diên, Vũ Bão, Lê Bầu…mà chưa lần nào thấy ông Dế Mèn lên tiếng bênh vực đàn em, chưa kể có khi còn xúi “chị Cốc” mổ thêm cho chết.

Hoá ra “ triết lý con lươn” của Nguyễn Khải – cứ gặp rắc rối là tiết chất nhờn lủi mất, còn thua xa bí kíp “chui tọt xuống hang” của bác Dế Mèn. Cứ chữ “thọ” đeo sau lưng, Nhân văn –Giai Phẩm lủi lên Tây Bắc, Mỹ đánh bom Hà Nội , chuồn lên rừng… cứ thế làm gì bác chẳng lập kỷ lục Guiness “hễ đi nước ngoài là có ông ngay”.

Vậy nhưng “cứ tọt xuống hang” vậy rồi sự nghiệp văn chương chữ nghĩa của bác rồi sẽ đi về đâu ?

(còntiếp)

khieman
04-05-2014, 04:06 PM
(tiếp theo)


Nhìn vào bản liệt kê tác phẩm của Tô Hoài, ta phải ngả mũ bái phục về khối lượng đồ sộ của “lão nhà văn” tuổi ngoài tám mươi vẫn viết không ngưng, không nghỉ :

“Lão đồng chí, Núi cứu quốc, Ngược sông Thai, Đại đội Thăng Bình, Xuống làng, Truyện Tây Bắc , Khác trước, Vỡ tỉnh, Người ven thành, Mười năm, Miền Tây,Tuổi trẻ Hoàng văn Thụ, Những ngõ phố, Người đường phố, Thành phố Lêningrat, Trái đất tên người, Kim Đồng, Vừ A Dính, Ông Gióng, Con mèo lười, Trâu húc, Đảo hoang, Sự tích Thăng Long, Nhả chữ vân vân…” và nhất là hồi ký “ Cát bụi chân ai”.

Trong“ Chân dung nhà văn”, nhà thơ Xuân Sách chọn mấy cuốn mà ông coi là tiêu biểu : “ Dế mèn phiêu lưu ký”, “Mười năm “, “O chuột”, “Miền tây”,”Giăng thề”, “Đảo hoang”

“Dế mèn phiêu lưu ký”, “O chuột” ,“Giăng thề” viết trước cách mạng 1945 , còn lại vài ngàn trang viết sau đó, Xuân Sách chọn có “Mười năm”, “Miền tây” và “Đảo hoang”.

“ Mười năm” , tiểu thuyết dầy 400 trang viết về làng Hạ gần Hà Nội vào 1936-1945, thời kỳ Mặt trận Bình Dân tới Cách mạng tháng Tám. Cái làng nghề dệt lụa này đang vào thời kỳ suy sụp, khung cửi xếp xó, xóm làng xác xơ gây nên thảm trạng “con đánh bố”, “trai gái sắp chết đói vẫn đòi ngủ với nhau”…

” Có áp bức là có đấu tranh”, thế là đám thanh niên trong làng như Lê, Lạp, Trung quên cả đói “chơi trò” trốn thuế, diễn kịch, lập hội Ái hữu, rải truyền đơn…và sau “Mười năm” trui rèn trong lửa cách mạng, Lạp và Trung đã trở thành “đảng viên cộng sản lãnh đạo quần chúng cướp chính quyền ở xã và phủ”, còn chị Hai Tâm, goá chồng, dâm đãng, bị một thằng đểu nó lừa…sau này cũng trở thành đảng viên cộng sản, có chân trong Đội Danh dự làm “công tác đặc biệt”.

Vậy là mọi ngả đường của phần lớn các nhân vật đều đi tới …vào Đảng cộng sản cả. Ca ngợi cách mạng đến mức đó mà “Mười năm” vừa mới ra lò đã bị Như Phong, nhà phê bình mác xít “choang cho một búa “ :

” Phong trào cách mạng của ta trong thời kỳ ấy, nếu ai muốn tìm hiểu nó trong cuốn “Mười năm” thì sẽ luôn luôn gặp những hình ảnh rất lạ lùng, lờ mờ, nguệch ngoạc và có khi méo mó đến làm ta sửng sốt được…”.

Nhà nghiên cứu văn học Phan Cự Đệ thì răn đe :

” Nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa không chấp nhận lối viết hồn nhiên, tự phát, kinh nghiệm…mà đòi hỏi một sự nhận thức sâu sắc về những quy luật xã hội, một trình độ tổng hợp và khái quát ngày càng cao…”.

Ôi thôi, thế mới biết đi theo đường lối văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa của Đảng đâu có dễ. Nào nhận thức quy luật, nào tổng hợp, nào khái quát, các nhà văn đi theo cách mạng đừng tưởng bở dễ ăn theo được Gorki, Sôlôkhốp, Fađêép …những nhà văn cộng sản lẫy lừng thời đó.

Vậy là “Mười năm” đã bị “khai đao” ngay lúc mới sinh và cho tới bây giờ đọc lại thấy vẫn “đầu Ngô mình Sở”, may ra còn được vài trang tả cảnh “ những phiên chợ lụa, những chái nhà sâu dặt dìu tiếng khung cửi, những mảnh sân vào những đêm trăng cuối thu thoang thoảng mùi hoa thiên lý , hoa cau, hoa ngọc lan, hoa móng rồng”.

Viết truyện “ngoại ô” xem ra khó xơi, Tô Hoài “láu cá” (chữ của Như Phong) phóng tuốt lên rừng viết truyện “ Miền Tây” giàu chất phóng sự, báo chí hơn là tiểu thuyết.

Nếu như trước cách mạng, Tô Hoài thường đi sâu miêu tả cá nhân trong thân phận mỗi người, sang “thời đại mới”, ông sốt sắng đi theo con đường hiện thực XHCN theo cách hiểu của ông, chuyển hướng sang “phản ánh” cả một phong trào, một thời kỳ cách mạng.

Bởi thế cái đích ngắm của Tô Hoài trong “Miền Tây” là “phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp gay go và phức tạp ở các vùng cao những năm 1954-1957 giữa một bên là “bọn phản động” Đèo văn Long, Mùa Sống Cổ…”xưng vua” và một bên là nhân dân và chính quyền cách mạng.

Tiếc thay, “phe phản động” chẳng thấy đâu, hoặc chỉ là những bóng ma lẩn khuất trong rừng đâu có dễ dàng lộ diện cho nhà văn tiếp xúc để mà “ nhận thức quy luật”, “khái quát” để mà “phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp gay go”, bởi thế Tô Hoài phải dùng lại cái “chiêu” cũ : mô tả cái đói cái cơ cực trước cách mạng và cái “đổi dời” khi cách mạng về của đồng bào miền núi.

Tuy nhiên, gọi là “bám rễ” vùng cao, Tô Hoài cũng chỉ quẩn quanh trụ sở Uỷ Ban, Đảng uỷ…gặp gỡ các “nòng cốt” của Đảng chứ đâu có “ba cùng” được với bà con trong bản. Bởi thế nhân vật trong “Miền Tây”, dù cho có là nhân dân lao động đi chăng nữa cũng được sản xuất theo một công thức : cơ cực khi chưa có Đảng, đổi đời khi cách mạng về.

“ Vừ Soá Toả, suốt ba đời đi ở đúc lưỡi cày cho thống lý, bây giờ trở thành Chủ tịch xã…” “ Thào Khay , con bà Giàng Súa đã trở thành y sĩ, thành người cán bộ của Đảng, có chân trong châu uỷ Châu Mộc…” vân vân và vân vân.

“ Nhân vật” trong tiểu thuyết Miền Tây đã hiếm hoi lại được đúc ra từ một khuôn kiểu vậy, bù lại, lấp cho đầy những trang giấy, Tô Hoài đi sâu vào “tả cảnh”.

“ Những đêm đầu mùa hè mây dày từng mớ, từng lớp vàng đẫm ánh trăng ủ trên những cánh rừng tít tắp chân mây , những thung lũng làng mạc xa lạ…”

”Bóng tối trĩu nặng từng quãng nhanh và dữ dội , gió chồm lên rồi chết đứng từng đợt ngay giữa các triền núi , những dòng suối chảy ra lưng trời, chảy ngang người ngang ngựa…”.

Tuy nhiên, những đoạn văn có “mùi Nguyễn Tuân” như thế rất hiếm hoi, còn thường là Tô Hoài dùng “thủ pháp đen trắng”, so sánh “ngày ấy, bây giờ” :

” Trước kia mỗi phiên chợ Phiềng Sa, người đói muối đông nghìn nghịt chen chúc nhau, chồng đống lên nhau như đá đè, tiếng chửi rủa kêu khóc vang cả một góc núi. Bây giờ những ngày phiên chợ giáp Tết là những ngày hội tưng bừng của các dân tộc vùng cao. Sự thật kỳ diệu nhất sau ngày giải phóng là sự thay đổi vận mệnh của những con người, những người nô lệ bây giờ đứng lên làm chủ đất nước…”.

Chẳng hiểu có cái gì làm ông nhà văn bốc đồng đến thế, quên ngay mình đang viết tiểu thuyết mà nhảy phắt sang viết…xã luận báo Nhân Dân.

Khởi nghiệp bằng truyện con nít, “Dế mèn phiêu lưu ký” đã đưa ông đi khắp thế gian, Tô Hoài không quên xuất xứ, nên trong sự nghiệp văn chương của ông có tới trên 40 dầu sách viết cho thiếu nhi.

Thế nhưng chất nhân văn của chú Dế mèn và cô Chuột ( O chuột) dường như ngày càng lấn át bởi chất “chính trị “như trong “Vừ A Dính”, “ Tuổi trẻ Hoàng văn Thụ”, “ Kim Đồng” , những truyện kể con vật như “Chú mèo lười”, “Trâu húc”,” Người đi săn và con nai”, “ Voi biết bay”, “Hổ và Gấu đi cấy”…còn lâu mới tới tầm chú Dế mèn và cô Chuột.
“Đảo hoang” là “tiểu thuyết thiếu nhi” được viết theo truyền thuyết An Tiêm nhưng thua xa “Quả dưa đỏ” của Nguyễn Trọng Luật ngày xưa. Trong “Đảo hoang”, Tô Hoài đã tuỳ tiện “sáng tác “ thêm hai nhân vật là Mơn và và Gái – con trai, con gái của An Tiêm. Rồi trên hoang đảo lại có thêm chàng trai tên Mali từ đâu dạt tới để sau này cùng với cô Gái sánh duyên đi xây dựng…miền đất mới.

Cái “cảm hứng” xây dựng miền đất mới , cuộc sống mới, con người mới, xã hội mới làm cho những “tiểu thuyết thiếu nhi” của Tô Hoài nặng về giáo dục làm mệt đầu con nít vốn đã bị nhà trường nhồi nhét đủ thứ “mới” ở trên đời. Bởi thế chúng nó bỏ anh Dế Mèn chạy tới với những Đôrêmôn, Harry Potter, cùng lắm Nguyễn Nhật Ánh dẫn tới nguy cơ “mặt hàng giành cho thiếu nhi” của nhà văn Tô Hoài không khéo bị lưu kho. Âu đó cũng là…quy luật tất yếu của cuộc sống.

(còn tiếp)

khieman
04-06-2014, 04:23 AM
(tiếp theo)


Vào dịp kỷ niệm 45 năm chiến thắng Điện Biên, báo Văn Nghệ Trẻ số ra ngày 23-4-04 có bài phỏng vấn Giáo sư Phong Lê về “Văn học những năm kháng chống thực dân Pháp – bây giờ nhìn lại ” .

Nhà nghiên cứu văn học này phát biểu :

” Đến Giải thưởng 1954-1955 với “ Việt bắc” của Tố Hữu, “Đất nước đứng lên “ của Nguyên Ngọc, “Truyện Tây Bắc” (giải nhất) của Tô Hoài thì bức tranh kháng chiến mới thực sự được mở rộng trong một cảnh quan vừa có chuyện vừa có người, có quê hương và đất nước, có gắn nối giữa chất trữ tình và sử thi, có hài hoà giữa chủ thể và khách thể…”.

Vậy là trong “thơ chân dung” nhà văn Tô Hoài , nhà thơ Xuân Sách đã quên tác phẩm mang tầm vóc dấu mốc của văn học chống Pháp – “ Truyện Tây Bắc”.

Vậy nhưng tác phẩm này có tương xứng với lời tâng bốc của ông Giáo sư ?

Đó là một tập truyện ngắn Tô Hoài viết vào những năm 1953-1955 tiếp tục đề tài miền núi trong những tập “ Núi cứu quốc” (1948), “Xuống làng” (1949) trước đó. Tuy nhiên, như Giáo sư Phan Cự Đệ khẳng định:

” Đến “Truyện Tây Bắc” mới là tác phẩm cắm mốc , khẳng định vị trí của Tô Hoài trong nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa”.

Tại sao một tập truyện ngắn đường rừng rất xa trung tâm của cuộc kháng chiến - những vùng chiến sự ác liệt nơi đồng bằng, trung du…lại được tôn vinh “cắm mốc” ?

Đó là do “…thông qua hành động thực tiễn, đường lối giai cấp và đường lối dân tộc của Đảng , tác phẩm đã nói lên một cách đau xót nỗi thống khổ bao đời của các dân tộc anh em ở vùng cao dưới ách chiếm đóng của thực dân Pháp và bè lũ tay sai là bọn quan bang, quan châu, phìa tạo, thống lý …” như GS Phan Cự Đệ nhận xét.

Vậy là khác với những truyện đường rừng ngày xưa của Lan Khai, “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài có”giá trị cao” là vì “thấm nhuần đường lối của Đảng”. Thảo nào trong hai truyện được coi là xuất sắc nhất trong cả tập là “Cứu đất cứu mường” và “Vợ chồng A Phủ” hễ cứ là “phong kiến” thì cực kỳ tàn bạo, gian manh, còn nhân dân lao động thì tốt thật tốt.

Trong “Cứu đất cứu Mường”, có “Cô Áng ngày xưa đã một thời đẹp nức tiếng đất Mường Cơi”, thế rồi bông hoa rừng ấy lọt vào tay quan tri châu Né “tối ngày ngồi một xó nha, rót nước, nướng thịt, bưng xôi, đun nước tắm …con mắt mờ mịt…”.

Lạ thật , cái ông quan tri châu này chẳng hiểu có thực ở trên đời không mà bao kẻ hầu người hạ đâu hết lại bắt “mỹ nhân” làm chuyện tay chân đó ?

Cái ”tình huống ban đầu” đã nặng mùi giả dối, ấy thế rồi sau 10 năm đầy đoạ,“bông hoa rừng” được thả về làng mang theo hai con nhỏ ( con quan chẳng hiểu vì sao bị đuổi khỏi nhà ) vẫn còn…trẻ, đẹp để mỗi lần các quan đi săn ghé qua vẫn bị lôi đi hầu quan.

Thế rồi nàng Ảng khổ quá phải cho đi một đứa con trai tên Nhấn , còn đứa con gái lại phải làm tôi tớ cho thằng con chồng là Cầm Vàng, sau này dẫn lính về cướp bản, nó chỉ mặt Ảng chửi : ”Con già Mường này rồ thật” rồi vung roi lên đánh.

Chẳng hiểu sao “quan bố“ “quan con” lại xấu đến thế ? Riêng thằng Nhấn- đứa con đã cho đi của nàng Ảng, lớn lên được anh cán bộ tên Sơn giác ngộ cách mạng trở thành du kích và bộ đội cụ Hồ. Thế còn cô em gái phải làm tôi mọi cho quan? Không thấy tác giả nói tới và thằng anh ruột đi bộ đội cũng…quên cô luôn (có lẽ do cô đã thuộc thành phần…nhà quan).

Trong “Vợ chồng A Phủ” cũng có một nhân vật na ná như nàng Ảng nhưng có phần may mắn hơn. Cô Mỵ cũng là một “bông hoa rừng”, cũng bị bắt về lấy con quan thống lý là A Sử. Lạ một điều là cưới được “mỹ nhân” mà thằng chồng vẫn hành hạ, ngược đãi cô vợ trẻ đẹp coi cô như trâu như ngựa khiến cô hái nắm lá ngón dắt trong người, mấy lần tính ăn để tự tử cho thoát kiếp tôi đòi.

Thế rồi đến ngày Tết, A Sử đi chơi xa vài ngày, đã không cho vợ đi theo hắn còn trói nàng lại ở cột nhà ,” xách cả một thùng sợi đay ra trói đứng, tóc Mỵ xoã xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mỵ không cúi, không nghiêng được đầu nữa…” .

Trói vậy, không ăn không uống liền mấy ngày, chắc chắn khi A Sử đi chơi xa trở về, cô vợ xinh đẹp đã thành cái xác không hồn. Người ta chẳng hiểu vì sao chỉ cốt cô Mỵ không đi theo mà A Sử lại hành động như một kẻ giết vợ như thế?

Thôi đành chỉ tự hiểu đã là con quan thì thằng A Sử phải tàn ác, phải coi người như trâu chó, kể cả vợ mình. Vậy mới là “thấm nhuần quan điểm đấu tranh giai cấp”.

May cho nàng Mỵ, thằng chồng chỉ đi một ngày một đêm đã trở về không phải vì lo nàng chết mà chính vì lúc chơi trong hội tết nó bị một thanh niên trong bản đánh vỡ đầu. Mãi lúc đó, nàng Mỵ mới được nhà quan phát hiện đang bị trói và được cởi để đi hái thuốc chữa trị cho chồng.

Còn anh thanh niên kia, tên A Phủ, bị ông ”quan bố” Pá Tra trói gô “sọc ngang cái gậy, khiêng về ném giữa nhà “.

Thế là từ đó, A Phủ phải ở lại nhà thống lý Pá Tra làm trâu làm ngựa đề đền tội đả thương con quan. Một năm kia, đàn ngựa A Sử được giao chăn dắt bị hổ vồ mất một con. Thế là luôn trong mấy ngày, A Phủ bị trừng phạt trói đứng trong góc nhà nhịn ăn nhịn uống. Trong lúc đó, đêm đêm nàng Mỵ ngồi bên bếp lửa suy nghĩ :

” Chúng nó thật độc ác . Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói , chết rét, phải chết…Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi. Người kia việc gì mà phải chết thế …A Phủ…”.

Thế rồi nàng Mỵ rút con dao cắt dây trói cho A Phủ trốn và bất ngờ cô chạy theo :

” A Phủ cho tôi đi…Ở đây thì chết mất…”.

A Phủ chợt hiểu. Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình. Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi. Họ trở thành vợ chồng ngay trên đường trốn chạy và một tháng sau họ đã thoát được sang vùng tự do.

Truyện ngắn lẽ ra kết thúc ở đây trang thứ 20 – nhưng không, Tô Hoài còn kéo dài thêm 20 trang nữa kể chuyện “vợ chồng A Phủ đổi đời trong cách mạng” vậy mới đúng phương pháp hiện thực XHCH.

Sau vài năm xây “tổ ấm”, vợ chồng A Phủ đã có mái nhà,có khung cửi, có lợn trong chuồng. Ấy thế rồi một hôm quan Tây dắt lính nguỵ tới cướp bản, dắt đi hai con lợn lại còn bắt A Phủ đi theo để khiêng lợn xuống đồn. Từ đó trong anh nung nấu lòng căm thù quân Pháp xâm lược, may thay một hôm có A Châu, cán bộ cách mạng tìm tới giác ngộ:

” Bao giờ nhân dân ta lấy được độc lập thì vợ chồng A Phủ về quê tôi chơi. Bấy giờ tha hồ đi, đâu cũng được ở yên ,làm ruộng làm nương, làm buôn làm bán, đâu đâu cũng sung sướng như nhau…” .

Và ta cũng có thể đoán ngay được phần kết của “truyện ngắn kéo dài” “Vợ chồng A Phủ”. Bản làng trở thành khu du kích, cuộc sống vừa sản xuất vừa chiến đấu thật là vui vẻ, tươi sáng và tất nhiên A Phủ trở thành một chiến sĩ du kích xuất sắc.

“ Truyện Tây Bắc” – đỉnh cao nhất trong sự nghiệp văn học cách mạng của Tô Hoài, tác phẩm đánh dấu mốc mở ra thời kỳ văn học hiện thực XHCN Việt Nam là như vậy. Văn chương dễ dãi, chẳng “đẽo gọt” như nhà phê bình Như Phong nhận xét, nội dung sơ lược, mang nặng mục đích tuyên truyền chính sách dân tộc miền núi của Đảng, bỏ qua tính chân thực vốn là cốt lõi của văn chương, viết theo lối viết “địch - ta” rạch ròi, vạch một ranh giới tuyệt đối giữa các nhân vật và chỉ chấp nhận họ hoặc ở phe này hoặc phe kia.

Rút cuộc, “đỉnh cao sự nghiệp Tô Hoài “ vốn ra đời theo yêu cầu nhất thời của cách mạng đã bị thời gian đào thải, ngày nay, ngoại trừ những học sinh và sinh viên phải làm bài, khó có ai đủ kiên nhẫn để thưởng thức nó.

(còn tiếp)

khieman
04-07-2014, 05:01 AM
(tiếp theo)


Năm 1988, cố Tổng Bí thư Nguyễn văn Linh “cởi trói” cho văn nghệ sĩ .Mặc dầu mới chỉ có một “hớp không khí dân chủ cũng đủ làm văn nghệ sĩ ho sặc sụa” ( nói theo một nhà văn Liên xô) gây nên hội chứng “phản tỉnh” không chỉ các nhà văn trẻ, một số cây đa cây đề cũng bị nhiễm “con virus” này, viết bài “tự chỉ trích” hoặc “phân bua” với thiên hạ mình cũng suy nghĩ độc lập lắm đây. Chế Lan Viên có “ Bánh vẽ”, Nguyễn Minh Châu có “ Đọc lời ai điếu cho một nền văn học minh hoạ” ,Đào Xuân Quý có “ Nhớ lại”, sau này Nguyễn Khải có “Đi tìm cái tôi đã mất”, Nguyễn Đình Thi có bài thơ gửi lại trước khi đi vào cõi vĩnh hằng.

Trong không khí “tái nhận thức” đó, Tô Hoài cũng viết một cuốn hồi ký dầy cộp – “ Cát bụi chân ai”, tuy không nặng mùi “ phản tỉnh”, nhưng cũng nói rõ vài chuyện xoay quanh Nhân văn Giai phẩm, “dựng lại chân dung” một số nhà văn “cây đa cây đề” nhưng khác Xuân Sách ở chỗ không đi vào văn chương, tư tưởng mà chỉ xoay quanh chuyện “đời tư” , sinh hoạt, ăn uống ,bạn bè.

Nhân vật được Tô Hoài nhắc nhiều nhất là Nguyễn Tuân từ trước 45 cho tới khi mất. Qua đó người ta thấy một số nhà văn “con cưng” được Đảng o bế, cho đi nước này nước nọ, dẫu không đặc quyền đặc lợi như quan chức cao cấp nhưng hơn hẳn so với dân đen .

Nguyễn Tuân rất kỹ tính khi uống rượu :

“Tạng Nguyễn Tuân với cách thức hương hoa ấy hợp với các thứ uống hảo hạng Chianti của Ý, Rôm Giamaich hay Uýtky và Mao Đài. Mùa hè, làm cốc-tay thêm lát chanh với miếng đá, nhấm nháp cả ngày. Không đụng đến rượu ngọt, dù nặng. Cái xa kê ngòn ngọt của Nhật thì vứt đi. Có lần, đạo diễn Đình Quang ở Nhật về biếu ông bình rượu xa kê to tổ bố. Ông cho chúng tôi uống cả. Những năm ấy, chuốc đâu ra những của quý như thế mà vẫn kiểu cách của ông.”

Nguyên Hồng, ngược lại :

“Nguyên Hồng uống tạp, rượu nhắm ổi xanh, hành sống, cà pháo muối xổi... Buổi tối, Nguyên Hồng ngủ lại ở cái gác xép sân sau cơ quan. Chẳng biết cao hứng sao đi tìm tôi rồi ra chợ chiều cạnh bến xe Kim Liên mua miếng thịt bò, mấy nhánh cần tây và mớ rau húng. Thịt xào không mỡ với muối, rau húng chỉ cởi lạt, ngắt ăn cả nhánh. Hàng rau người ta rửa rồi mới đem ra chợ bán chứ ăn cả đất đâu mà lo. Khéo vẽ vệ sinh lôi thôi…”

Xuân Diệu có vẻ phàm ăn :

“Không phải Xuân Diệu ăn, mà một người nào khoẻ lắm gắp hộ, nhai hộ, biến Xuân Diệu thành con ma ăn, trông đến thương. Một chuyến chúng tôi cùng nhau thăm nước Lào, ở khách sạn Apôlô. Mỗi sáng Xuân Diệu nhắc: cậu không ăn sữa thì để riêng đấy cho mình, không ăn hết bánh cuốn thì lấy đĩa sẻ ra cho vệ sinh để mình ăn nốt. Cố lên, ăn phất phơ thế không được. Nhà bàn bưng ra nhiều món, Xuân Diệu cứ thong thả vừa nhai vừa ngắm từng miếng và ăn đến hết. Đêm ấy đau bụng phải đi cấp cứu.”

Qua “Cát bụi chân ai” thấy chân dung của phần lớn nhà văn cùng thế hệ tác giả như Trần Đức Thảo, Nguyễn Bính, Phan Khôi…kể cả những văn thi sĩ ở “phía bên kia” như Vũ Hoàng Chương, Doãn Quốc Sĩ, Phan Nhật Nam…tất nhiên với giọng văn không lấy gì làm ưu ái.

Về Nhân Văn Giai phẩm, trước khi đưa ra một số tình tiết “phản kháng” của văn nghệ sĩ, Tô Hoài “thủ” trước một lập trường chính trị vững vàng theo Đảng :

” Nhưng mà những hoạt động gây sự không phải chỉ ở vài bài báo trên Nhân Văn, mà cái chính là ý đồ chính trị rộng ra nữa của một số giới không phải là những người làm báo Nhân Văn trong tình hình nhạy cảm ở các đô thị lúc ấy….không ai lưu tâm những người bỏ tiền cho vốn in báo và những hoạt động chính trị đòi thay đổi và chia quyền lãnh đạo đã âm thầm dấy lên, trong giới tư sản đương bối rối, trong một số trí thức ở vùng mới giải phóng và ở đảng Dân Chủ. Báo Nhân Văn chỉ là một phần bề ngoài và là một thủ thuật chính trị dựa vào “trăm hoa đua nở”. “

Vậy rõ ràng vụ Nhân văn Giai Phẩm, Tô Hoài trước sau vẫn vững “lập trường cách mạng”, không có “phản tỉnh”, “phản mê” gì hết. Tuy nhiên ông cũng đưa ra một vài hồi ức cho thấy không phải nhà văn nào cũng “vững vàng” như ông.
Trong “ Nhìn lại một số sai lầm trong bài báo và công tác “ báo Nhân Dân ngày 12 tháng ba năm 1958 , Tô Hoài sát phạt anh em :

”Càng thấy rõ những tư tưởng nguy hại của một số người, từ báo Nhân Văn, không phải ngẫu nhiên tồn tại và có cơ phát triển đối kháng, chống lại Đảng, chống lại chủ nghĩa xã hội trong khi giai đoạn cách mạng đương chuyển nhanh, chuyển mạnh.” và tự kiểm thảo :”Tôi đã đánh giá thấp những hoạt động của tư tưởng chính trị và nghệ thuật kiểu báo Nhân Văn vẫn sống sót, lại nhặt nhạnh dần thêm những rơi rớt lạc hậu của từng người hoặc một phần nào trong tư tưởng mỗi người, vào lúc giai đoạn cách mạng đương chuyển, nó dẫy giụa chống lại bước tiến mới của cách mạng và đã tác hại không nhỏ.”

Tô Hoài nhớ lại , ngay sau khi đọc bài báo :

“Nguyên Hồng buông tờ báo xuống. Rồi Nguyên Hồng xua xua tay, nói như hét vào mặt tôi:

- Tiên sư mày, làm thằng Câu Tiễn ông thì không, Nguyên Hồng thì không!

Nguyên Hồng quỳ xuống trước tôi, rồi cứ phủ phục thế, khóc thút thít.

- Tao về Nhã Nam.

- Về Nhã Nam?

- Ừ, Nhã Nam. Đủ, đủ lắm rồi. Ông đéo chơi với chúng mày nữa. Ông về Nhã Nam.”

Phải chăng mượn lời Nguyên Hồng , 42 năm sau, Tô Hoài đã “chữa khéo” hành động của mình trong vụ Nhân Văn hồi đó là “ Câu Tiễn” ?

Trong những năm tháng “ khó khăn “ đó, Tô Hoài kể lại:

“ Hai hoạ sĩ Nguyễn Tư Nghiêm và Dương Bích Liên, tuy chỉ làm có cái bìa sách cho nhà xuất bản nọ nhưng chắc là không khí sát phạt ở các buổi họp khiến các anh ngại, đã xin ra Đảng”;

Dương Bích Liên đã vẽ “một tranh sơn dầu hai đứa trẻ gái gầy guộc xanh lét cả tóc” có tên là “Hào” bị loại khi mang ra triển lãm;

Nguyễn Sáng vẽ ký hoạ trên báo Nhân Văn một đầu người ở cổ có vết khía, như cái lá. Người ta bảo đấy là chân dung Trần Dần và cái sẹo còn lại khi anh định tự vẫn.

Nguyễn Sáng không được xét huân chương kháng chiến ;

Nguyễn Huy Tưởng thì “mấy đêm không chợp mắt được. … Nguyễn Huy Tưởng nói:”Nước Hungari trong phe xã hội chủ nghĩa, nhưng trước nhất nước Hungari là nước Hungari đã ông thấy thế nào? Các ông thấy thế nào? Tôi không hiểu, tôi không thể hiểu.”…Nguyễn Huy Tưởng băn khoăn. Nguyễn Huy Tưởng có những ý kiến khác những lời bình trên các báo.Tôi đùa:” Ông là thằng cộng sản dân tộc”. Nguyễn Huy Tưởng cười hiền lành.:” Cậu bảo tớ bắt chước Ti tô? Không phải, Nguyễn Huy Tưởng là cộng sản Việt Nam. Nhưng mà nguy hiểm đấy. Chẳng nên đùa nhau thế.”.Nguyễn Huy Tưởng nói nho nhỏ, cặp mày rậm nên con mắt hồn nhiên nhíu lại, buồn hẳn. Chúng tôi không bao giờ đùa cợt và nhắc lại như vừa rồi nữa.”;

Trần Dần, Lê Đạt , Hoàng Cầm, Phùng Quán bị tước hội tịch trong 5 năm nhưng “Nhưng đằng đẵng ba mươi năm không hội văn học nghệ thuật nào lôi ra xem xét lại. Sợ sệt, phấp phỏng không phải chỉ ở tâm trạng mấy ông “Nhân Văn cả nước”, mà tràn lan đến những “Nhân Văn phố, Nhân Văn xóm”, chẳng bị kỷ luật gì, nhiều người không phải vì bài văn câu thơ, mà bởi lời nói bông lông, bốc trời chẳng hạn, cũng bị quy chụp luôn.”;

Khi học giả Phan Khôi mất “ đi sau xe tang, chỉ có bác gái và các con với một mình chị Hằng Phương - cháu gọi bằng cậu”.

Nhớ lại Phùng Cung, tác giả “Con ngựa già của chúa Trịnh”, 11 năm tù biệt giam, Tô Hoài ngậm ngùi : “ Phùng Cung công tác chạy hiệu ở văn phòng cơ quan hội Văn Nghệ từ trên Tuyên Quang. ở rừng, những việc tủn mủn không tên, giấy tờ công văn, giữ sách thư viện, làm sách mới, đi chặt củi, vác gạo, khiêng người ốm ra trạm xá, thui chó liên hoan..Đọc truyện ngắn Con ngựa già của chúa Trịnh Phùng Cung đăng trên báo Nhân Văn tôi cũng gật gù. “ Thằng này viết được. Nhưng còn hộc máu ra mới nên cơm nên cháo đấy, con ạ.”.Tôi không thể tưởng tượng ra được một Phùng Cung thế nào mà bị bắt. Lại hơn mười năm sau. Chặp tối, một người bước vào cửa. Dáng ủ rũ, mặt tái ngoét, không phải Phùng Cung mà là cái bóng Phùng Cung trên tờ giấy tẩy chì mờ mờ.”

Cũng trong cái thời nhà văn bị theo dõi tới từng câu từng chữ ấy, Tô Hoài nhớ lại :

“Có một thời, những người “theo dõi” báo chí, xuất bản và phát hành sách báo được phong làm lính gác. Lính gác thì phải có việc của lính gác, chẳng lẽ ăn lương để đứng không. Nhưng thật ra người ta chỉ đọc a dua rồi đánh đòn hội chợ. Cấp trên hô người ấy, bài ấy có vấn đề. Tự nhiên cảm thấy hình như có vấn đề thật và người ta dò tìm từng câu từng chữ. Thế nào chẳng ra vấn đề! Bỗng khó chịu cả cách diễn đạt khác nhau của mỗi ngòi bút, thế là làm sao. .. Khốn thay, người ta viết văn thất bại nhưng vẫn làm cán bộ theo dõi được. Cái nhìn sự sáng tạo cứ lên xuống theo thời tiết. Nguyễn Tuân cáu kỉnh nhẹ nhàng và chua chát:

- Có khi mày bảo chúng nó viết đi, để ông với mày đi chơi, thế là bớt được thằng công tác theo dõi!

Nói vậy, Nguyễn Tuân vẫn là Nguyễn Tuân , không có gì khác.

- Này, chúng nó đồn ầm lên ông mới nói, nếu ông còn trẻ thì ông cũng bỏ đất này ông đi.

Nguyễn Tuân thong thả nói, như cho mình nghe:

- Biết đuổi theo đứa nào mà cải chính bây giờ, tao mà chết, nhớ chôn theo với tao một thằng phê bình…”

Những trang viết thực như vậy quả là những tư liệu đáng quý trong lịch sử văn học Việt Nam, tuy nhiên, cuốn “ Cát bụi chân ai” của Tô Hoài lại gây xôn xao bạn đọc ở phần “bật mí” những khía cánh riêng tư của các ngôi sao văn học. Nhiều năm nay, thiên hạ đồn thổi về cái sự “tình trai” của Xuân Diệu, trong “Cát bụi chân ai”, Tô Hoài đã huỵch toẹt ra chuyện đó :

“Dịu dàng, âu yếm, Xuân Diệu cầm cổ tay tôi, nắm chặt rồi vuốt lên vuốt xuống. Bốn mắt nhìn nhau đắm đuối…Hai bàn tay mềm mại xoa lên mặt lên cổ rồi xuống dần, xuống dần khắp mình trần truồng trong mảnh chăn dạ… Chẳng còn biết đương ở đâu, mình là ai, ta là ai, hai cơ thể con người quằn quại, quấn quít cánh tay, cặp đùi thừng chão trói nhau lại, thít lại, giằng ra. Niềm hoan lạc trong tôi vỡ ra, lên cơn dữ dội, dằn ngửa cái xác thịt kia. Rồi như chiêm bao, tôi rời rã, thống khoái, im lặng. Giữa lúc ấy, hai bàn tay mềm như lụa lại vuốt lên mặt. Làn môi và hơi thở nóng như than bò vào mắt, xuống vú, xuống rốn, xuống bẹn... Cơn sướng lại cơn lên cho đến lúc ngã cả ra, rúc vào nhau. …

Thực là một trang đặc tả mà ngay đến các cây bút “hậu hiện đại” cũng chưa chắc viết nổi. Còn chàng Hoàng Cát , một “tình trai “ của Xuân Diệu, khi lên đường vào B được Xuân Diệu tặng thơ với lời yêu đương thống thiết :

“ Ôi Cát! Hôm vừa tiễn ở ga
Chưa chi ta đã phải chia xa!
Nhưng bóng em đi đã khuất rồi
Đứt lìa khúc ruột của anh thôi!
Tình ta như mối dây muôn dặm
Buộc mãi đôi thân, dẫu cách vời…”

Ấy thế mà khi Cát trở về Hà Nội viết “ Cây táo ông Lành” đăng báo Văn Nghệ bị đòn hội chợ, Xuân Diệu đã làm mặt ngó lơ.

Nhưng thê thảm nhất là kỷ niệm về Nguyễn Bính. Nguyên thời làm báo Trăm Hoa, nhà thơ được một cô gái trẻ đem lòng yêu, và sinh ra một bé gái tên Hiền. Khi cháu mới bập bẹ, cô gái trả con lại cho Nguyễn Bính để đi bước nữa. Thế rồi một đêm mưa, Nguyễn Bính bế con ra dốc hàng Kèn và trao cho một người đàn ông qua đường nào đó. Ôn lại chuyện cũ . Tô Hoài xót xa :

“Bấm đốt ngón tay, đã trên ba mươi năm rồi. Ai là người đã đi qua ngã sáu oan nghiệt tối hôm ấy - nếu trời để cho được sống, ông ấy cũng phải đến trong ngoài sáu bảy mươi rồi, nếu vẫn nhớ có người đưa cho một đứa trẻ, thế thì tên cháu là Hiền nhé…” Vâng tên cháu là Hiền, nhưng lẽ ra cần nói rõ, cháu là con gái của nhà thơ dân tộc : Nguyễn Bính.

“ Cát bụi chân ai” dù thế nào, vẫn biểu lộ lòng nhân hậu và sự trung thực trí thức của Tô Hoài. Chỉ tiếc nó được viết sau khi ông nhà văn đã rời bỏ cái ghế Chủ tịch Hội văn Nghệ Hà Nội, nơi ông đã ăn dầm nằm dề cả gần hai mươi năm nay. Giá như ông chịu treo ấn từ quan sớm, chắc sự nghiệp của ông không chỉ còn lại với thời gian một “chú dế mèn”



Nửa thế kỷ đã qua, vết thương cuộc cách mạng “long trời lở đất” – công cuộc cải cách ruộng đất vẫn chưa phai mờ trong ký ức dân tộc.Trong ”Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam”, sự kiện đẫm máu và nước mắt này được ghi lại một dòng vô cảm :

"Tuy nhiên, trong quá trình tiến hành cải cách ruộng đất, bên cạnh những thành công kể trên, Đảng ta đã phạm phải một số sai lầm nghiêm trọng trong chỉ đạo thực hiện, nhưng sau một thời gian mới phát hiện được”.

Ngoài ra , trong cuốn “ Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000”, Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản có ghi :

”Đợt cải cách được thực hiện tại 3.563 xã với 10 triệu dân và tỷ lệ địa chủ được qui định trước là 5,68% ”,

Như vậy, theo con số này, các đội cải cách ruộng đất phải xét xử trên 500.000 người chứ không phải 172.008 ngươi như chính Viện này đưa ra. Ngay Tố Hữu ,Trưởng ban tuyên huấn thời đó sau này cũng thừa nhận :

“Không thể tả hết được những cảnh tượng bi thảm mà những người bị quy oan là địa chủ, ác bá (mà trong thực tế là trung nông) phải chịu đựng ở những nơi được phát động.”

Một thảm kịch có quy mô dân tộc vậy mà (http://nhattuan2011.blogspot.com/2012/04/chan-dung-hay-chan-tuong-nha-van-ky-26.html) thời đó giới trí thức chỉ có Luật sư Nguyễn Mạnh Tường lên tiếng được một bài “ Qua những sai lầm trong cải cách ruộng đất và Xây dựng quan điểm lãnh đạo” còn giới nhà văn chẳng những không lên tiếng phê phán mà còn ca ngợi như Nguyễn Đình Thi trong “Mẹ con đồng chí Chanh”, Nguyễn Tuân trong “Làng hoa” , Nguyễn Công Hoan trong “Nông dân với địa chủ”…Một số rất ít nhà văn viết trung thực về cải cách (http://nhattuan2011.blogspot.com/2012/04/chan-dung-hay-chan-tuong-nha-van-ky-26.html) ruộng đất (http://nhattuan2011.blogspot.com/2012/04/chan-dung-hay-chan-tuong-nha-van-ky-26.html) lập tức bị xử lý ngay như : “ Sắp cưới” của Vũ Bão, “ Cơm mới” kịch của Hoàng Tích Linh, “Chuyến tàu xuôi” kịch của Nguyễn Khắc Dực…

Phải chờ tới năm đảng “cởi trói”, đề tài cải cách ruộng đất mới lại được đề cập tới :” Thiên đường mù” của Dương Thu Hương, “Ac mộng” của Ngô Ngọc Bội, “ Chuyện làng ngày ấy” của Võ văn Trực…

Sau hai năm “cởi trói “ ngắn ngủi, đề tài “cải cách ruộng đất” lại bị “cất vào kho”, văn chương chính thống lại “phải đạo” hơn là thời kỳ Nguyễn Minh Châu chưa đọc lời ai điếu cho nó.

Mãi vài năm sau này , đề tài huý kỵ này lại thấy lấp ló trong một vài cuốn tiểu thuyết như “ Ổ Rơm” của Trần Quốc Tiến, “ Dòng sông Mía” của Đào Thắng và sang năm 2006, thật vô cùng kinh ngạc, đề tài cải cách ruộng đất lại được đề cập tới một cách trực diện, cận cảnh và toàn cục trong tiểu thuyết “ Ba người khác” NXB Đà Nẵng và ngạc nhiên hơn nó được viết bởi Tô Hoài, văn sĩ “lão trượng”, tuổi ngoại bát tuần, vốn nổi tiếng “tránh né”

Liệu có phải như Đà Linh đã viết trong lời nói đầu :”

“Chính những giày vò, trăn trở, khổ tâm từ những thảm trạng kinh hồn của cải cách ruộng đất thuở nào, vẫn âm ỉ, dền réo ngày một nặng hơn qua chặng đường dài - là dưỡng chất tạo nên tác phẩm này…”.

Quả thực, đọc “ Ba người khác” , người ta như được sống lại cả một thời kỳ bi thảm của lịch sử, hiểu rõ những “quái thai” của một thời : cán bộ đội, rễ, chuỗi, cốt cán, đoàn uỷ….

Trước hết , “ cán bộ đội” là gì ?

Theo quan điểm chính thống của Ban tuyên huấn trung ương , “ cán bộ đội là những người được Đảng chọn lọc, tuyển lựa, có đạo đức cách mạng sáng ngời, có lập trường tư tưởng vững chắc (http://nhattuan2011.blogspot.com/2012/04/chan-dung-hay-chan-tuong-nha-van-ky-26.html), nắm vũng đường lối chính sách của Đảng, thương yêu giai cấp, luôn luôn “ba cùng” với người nghèo.”

Còn theo nhân dân lao động thì “nhất đội, nhì trời”, Đội là những người (http://nhattuan2011.blogspot.com/2012/04/chan-dung-hay-chan-tuong-nha-van-ky-26.html) quyền lực vô biên, trên cả đảng, trên cả chính quyền.

Trong “ Ba người khác”, Tô Hoài đưa ra hình ảnh cán bộ Đội vô cùng chuẩn xác và sinh động . Trước hết “cán bộ đội “ là những người “cực kỳ quan trọng” mang sứ mệnh lịch sử :

” Vẻ mặt người nào cũng ra chiều đăm chiêu , quan trọng. Chúng tôi đương làm thay đổi cái làng này, cái xã này . cả nước đã đứng lên. Các tổ chức sẽ bị đánh đổ , bao nhiêu địa chủ và bọn bóc lột phải đạp xuống đất đen, chúng tôi phóng tay đưa bần cố nông lên vị trí và địa vị người chủ thực sự của đồng ruộng …”

Nhưng có thực thế không ? “ Cán bộ đội” có phải đang thực thi sứ mệnh cao quý đó không ? Tô Hoài huỵch toẹt :

“ Chúng tôi như một bọn lén lút cờ gian bạc lận, kéo nhau ra đây đánh xóc đĩa lột nhau giữa nơi hoang phế đồng không mông quạnh. Hoặc như ngày xưa, cánh cướp tụ bạ một chỗ đợi đêm tới bật hồng lên xông vào làng…”

Đúng như thế, toàn bộ nhân vật “cán bộ đội” được Tô Hoài mô tả trong truyện thực ra cũng là một đám “cờ gian , bạc lận”, “đám kẻ cướp bật hồng xông vào làng tàn phá…”.

Trước hết là nhân vật Đội trưởng Cự. Hắn nguyên là bộ đội khu 5, tập kết ra Bắc với đủ thói hư tật xấu của một tên lưu manh đầu đường xó chợ. Trình độ văn hoá của Cự chưa vượt lớp 3 nên hắn khăng khăng không nhận người có bằng tú tài hoặc đi học Liên xô về, hắn chỉ cần “người chữ nghĩa èng èng “, trình độ văn hoá kém hắn , tức…dưới lớp 3. Đi “ba cùng” với bần cố nông, hắn mang lén “bánh đúc ngô” để ăn vụng. Vừa xuống xã, Đội trưởng Cự đã xin lệnh bắt Bí thư chi bộ và 6 địa chủ, luôn miệng quát tháo :

” Phải ra tay mới phá được thế bị khống chế , bởi địch đã có tổ chức phá hoại , gây rối loạn.Ong lão loà (http://nhattuan2011.blogspot.com/2012/04/chan-dung-hay-chan-tuong-nha-van-ky-26.html) ở xóm lội xuống ao trẫm mình hay là bị địch dìm chết ? ..Tăng cường tố khổ, mở rộng tố khổ để tìm ra đứa giết người , đứa đốt nhà…”.

Càng ngày hắn càng lộ mặt “ác ôn” chỉ thích bắt, tra khảo và bắn giết. Từ ngày đội xuống xã, “đường làng vắng hẳn, người nào bần cùng (http://nhattuan2011.blogspot.com/2012/04/chan-dung-hay-chan-tuong-nha-van-ky-26.html) lắm mới ra đường , đi len lét, không ai dám đến nhà ai. Gặp anh đội, người già lùi vào bờ rào ngoảnh ra cúi đầu chắp tay vái…”.

Ối các ông ‘đầy tớ của dân” ơi, vì sao dân lại đến cái nông nỗi ấy ?

Lợi dụng quyền lực Đội trưởng, Cự đi đâu cũng gạ gẫm các cô “rễ, chuỗi” tức những người hắn chọn sau này làm cán bộ. Về xã này Cự cũng ép được cô Đơm và cô Duyên ngủ với hắn. Hai cô này đều là cốt cán của đội, được hắn đền bù lại bằng cách cho làm du kích và cho nhận “quả thực” nhiều hơn người khác. Tận dụng quyền lực, Cự đưa (http://nhattuan2011.blogspot.com/2012/04/chan-dung-hay-chan-tuong-nha-van-ky-26.html) cả vợ tới Đội để kết nạp (http://nhattuan2011.blogspot.com/2012/04/chan-dung-hay-chan-tuong-nha-van-ky-26.html) cô ta vào Đảng. Không may vợ Cự vừa tới dự cuộc họp kết nạp của Chi bộ thì bị hai cô Đơm và Duyên xúm vào đánh ghen một trận tơi bời tan cả cuộc họp , làm mặt mũi đội trưởng cải cách càng thêm lem nhem.

Thế còn ông Đội phó tên Bối, nhân vật xưng “tôi” trong truyện. Ong vốn xuất thân gác cổng cho một hiệu thịt bò ở Hà Nội, chiến tranh bỏ đi “làm Việt Minh” , tới (http://nhattuan2011.blogspot.com/2012/04/chan-dung-hay-chan-tuong-nha-van-ky-26.html) hoà bình quay về Hà Nội đã thành cán bộ và được phái đi cải cách ruộng đất. Ngay trên đường đạp (http://nhattuan2011.blogspot.com/2012/04/chan-dung-hay-chan-tuong-nha-van-ky-26.html) xe xuống cớ sở, ông Đội phó đã ‘ăn cắp” …bánh đúc ngô của ông Đội trưởng dấu trong ba lô, xuống tới địa bàn, ông bắt rễ với một nhà có cô con gái hơ hớ và chỉ hôm trước hôm sau ông “cán bộ đội “ thò tay bóp vú nó :

“ Em có cái túi hay nhỉ ? – Tôi thò theo lách vào ngực Đơm. Đơm đẩy tay tôi ra . “ Rõ cái anh này” “ Anh xem cái chỗ để tiền .” “ Ngoài này kia mà , sao lại đi sờ vào trong..””Anh nhầm”. Tôi lại thọc tay vào ngực Đơm như vừa rồi. Lần này Đơm đứng tây ngây, mặt đỏ lịm, để yên tay cho tôi vân vê…”

Chỉ một đoạn đối thoại rất ngắn, bộ mặt đạo đức giả, đểu cáng của tên Đội phó đã bị lột trần.

Đảng chủ trương cán bộ đi cải cách ruộng đất phải “ba cùng” với nông dân tức “cùng ăn, cùng ở, cùng làm”, tuy nhiên cái anh Đội phó tên Bối này lại sợ cầm cày lội ruộng. Bởi vậy anh ta phải “diễn”, tức phải vờ vịt làm ra vẻ ta hăng say lao động lắm đây mặc thây thiên hạ biết tỏng anh đang lừa đảo :

“….Tôi cầm một cái cào cỏ. Tôi vác cào lên, một bên đeo túi dết. Cả xóm biết anh đội đóng bộ đi làm đồng đấy. Ai chả biết anh đội làm trò, tôi mặc họ và thản nhiên. Tôi xắn quần, đi từ xứ đồng cao trong chân tre ra con ngòi sâu rồi lại lội qua mấy khoảnh ruộng trũng. Đương khi nông nhàn, đồng áng lơ thơ xa xa mấy người lúi húi cào cỏ. Thấy người lội đồng mũ, quần xoè trên gối, người ta ngẩng lên rồi lại cúi xuống quờ tay gốc lúa. Anh đội, anh đội thăm đồng đấy mà….Tôi có thăm hỏi đồng áng gì đâu….”

Và nhà văn Tô Hoài hạ một câu nhận xét chung về “cán bộ đội” :

“ Đi guốc vào bụng những anh đội mắt trố như mắt chó giấy, cái gì cũng lạ lại làm ra vẻ ta đã thạo. Nhưng tôi còn láu cá hơn những người có thể biết tôi vờ vẫn. Tôi cốt vác cào cỏ, sục mấy cái cho răng cào dính bùn và hai ống quần thì lâm tâm cỏ may. Tôi ra cửa đền ngoài chân đê hội ý đội. Làm bộ như tôi vừa đi làm đồng về chưa kịp rửa ráy, vác cả cào cỏ đến thẳng chỗ họp.”

Chẳng riêng gì Đội phó đóng kịch “lao động sản xuất” mà tất cả cán bộ đội tên nào cũng vờ vịt như thế. Đến nỗi lúc họp đội cải cách “ người nào cũng khoe ngầm ta vừa chân ướt chân ráo ở nơi bán lưng cho trời, bán mặt cho đất về đây. Người thì cái giỏ đeo đít, người cái cuốc trên vai hạ xuống, có người quang gánh lõng thõng để ngoài thềm, cái thừng và chiếc nõ xỏ mũi trâu lăn lóc trong đám cỏ làm như đương đi đuổi trâu. Nhưng ai đấy có khôn mà chẳng ngoan. Sợi thừng gác bếp còn rơi ra cả tảng bồ hóng. Biết tẩy nhau cả. Mọi người nhìn nhau chỉ nhớn nhác một cái và lặng lẽ quay mặt đi.”

Những con người giả dối, vô liêm sỉ như vậy mà lại xúm vào bắt tay làm cuộc cách mạng long trời lở đất là tiêu diệt giai cấp địa chủ và đưa nông dân lên địa vị chủ nhân ông ở nông thôn thì khác nào dắt cướp về làng tàn phá và giết chóc.

(còn tiếp)

khieman
04-07-2014, 05:20 AM
(tiếp theo)




http://1.bp.blogspot.com/-1lKd2jpYq9E/T4rcUbdUiUI/AAAAAAAAAec/UJfcxDPF0Mo/s400/To-Hoai27.jpg



Theo quy trình “phóng tay phát động quần chúng”, khi cán bộ đội về làng bước (http://www.blogger.com/post-create.g?blogID=8329870599366475328) đầu tiên thăm nghèo, hỏi khổ, tìm cho ra người nghèo khổ nhất làng để bắt “rễ” tức là vác ba lô (http://www.blogger.com/post-create.g?blogID=8329870599366475328) tới “ba cùng”, ôn nghèo , nhớ khổ từ đó tìm ra người nghèo khác gọi là “chuỗi (http://www.blogger.com/post-create.g?blogID=8329870599366475328)” hợp thành đám cốt cán của đội, sau này sẽ chia nhau nắm giữ các chức vụ quan trọng ở trong làng.

Lý thuyết vậy, nhưng ông Đội phó Bối xuống xóm lại chọn ngay nhà lão Diệc cắm chốt vì lão có đứa con gái hơ hớ. Đã chót bóp vú con gái người ta rồi ông Đội phó đành chọn bố cô gái, tức lão Diệc làm “rễ”. Trớ trêu, lão Diệc lại có bố vợ là Phó Thìn vốn có ngót mẫu ruộng, có bát ăn bát để , có nguy cơ bị kích lên thành địa chủ.

Lão Diệc mồ côi từ nhỏ, lớn lên làm công cho nhà lão Thìn, lão này có đứa con gái Ut bị “xi cà que” tên là Khoèo, chẳng gả được cho ai, tốt nhất là gán cho thằng Diệc. Thế là được (http://www.blogger.com/post-create.g?blogID=8329870599366475328) bố vợ cho một dẻo đất làm nhà, thằng Diệc cõng cô Khoèo về chung sống đẻ ra cô Thơm. Ong Đội phó Bối bắt rễ vào lão Diệc, lại cả ngày cứ cặp kè với cô con gái nên mãi vẫn chưa tìm ra ai là địa chủ khiến tên Đội trường Cự phải mắng :

“Đồng chí đã biết “ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”, tố khổ cả tháng mà không tìm ra địa chủ, cái thằng rễ không mở mồm vạch thằng bố vợ gian ác một câu thì còn ai dám nói. Thằng Diệc được bồi dưỡng thế nào mà vẫn là cái đụn rạ, họp thôn không ấp úng (http://www.blogger.com/post-create.g?blogID=8329870599366475328) nói đủ được câu “thưa toàn thể đồng bào”, người ta xỏ lá phản ánh lên là cốt cán ăn nói khinh nông dân. Tôi biết hết, chẳng cần báo cáo của đồng chí đâu. Việc xóm nào không qua được mắt này.“

Thế là lấy cớ tăng cường cho Đội phó, gã Đội trưởng Cự dọn ngay về nhà lão Diệc và ‘chớp” ngay cô Thơm, nẫng tay trên của (http://www.blogger.com/post-create.g?blogID=8329870599366475328) ông Đội phó. Do lão Đội trưởng Cự làm mạnh tay, cụ Phó Thìn “một lão già tám mươi tuổi heo hắt như cái dây khoai, mắt thong manh mù dở, khoèo chân không duỗi ra được” bị quy thành địa chủ, bị bắt giam và bị đưa ra pháp trường đấu tố :

“Sớm hôm sau, bốn người đeo súng trường vào chỗ giam địa chủ Thìn. Người nào cũng hăng hái, sững sờ khác thường như vừa có chén rượu. Tôi đứng giữa nhà, nhìn bao quát. Hai người mở chốt cũi. Đũng quần lão già đầy kẹp cứt, cả gian âm u ẩm ướt thối không chịu được. Mấy người nhà xúm lại khóc rưng rức, đỡ lão Thìn.

Tôi hét:

- Cút ra đằng kia!

Một dân quân vào bếp lấy ra cái đòn ống. Trưởng thôn Cối ở đâu xồng xộc chạy vào, cúi xuống, lột cái áo vét đã đen địa chủ Thìn đương mặc, ngẩng lên cười hê hê:

“Để cho mày khỏi vướng …”

Rồi xỏ tay vào mặc áo luôn…”

Cảnh đấu tố sau đây là tiêu biểu và phổ biến tại khắp làng thôn miền Bắc vào thời kỳ đen tối của lịch sử đó :

“Bãi mít tinh đông nghịt người. Giữa đám, những tàu dừa kết thành hàng rào xanh trang trí sau bàn toà án.Cuộc đấu nổ liên tiếp, khi địa chủ Thìn vừa được đặt xuống ngồi tựa vào cái cọc. Người chạy lên chạy xuống, tới tấp.

- Mày có biết tao là ai không?

Thế nào mà tiếng lão già sắp chết này vẫn nói sang sảng:

- Thưa bà nông dân… tôi không biết…

- Tao đi ở cho cháu mày.

- Thế thì tôi không biết thật ạ.

- Mày lấy roi cặc bò đánh tao. Đả đảo địa chủ!

Rồi hớt hải chạy xuống giữa tiếng đả đảo cuồn cuộn trong đám người…Lão Thìn lả người, lăn quay ra giữa bãi đống văn tự, giấy tờ, sổ sách chữ Tây chữ ta trong nhà lão khuân ra đốt, khói urn lên, tàn than lả tả bay như đàn bướm đen. Những tiếng quát rộ lên: Không cho nó nằm! Nó nằm sập gụ cả đời rồi! Bắt nó đứng! Bắt nó… Địa chủ Thìn bị xốc lên, trói hẳn vào cái cọc đã chôn sẵn. Đầu lão ngật đi. Chốc chốc lại ỉa tháo ra cái quần đã tụt võng hẳn xuống hai đốt chân bằng cái ống nứa…”

Nhưng kinh khủng nhất là cảnh con rể lên tố khổ bố vợ, cháu gái vác súng chuẩn bị bắn ông ngoại :

“…Giữa những tiếng láo nháo hô đả đảo, bác Diệc run run bước lên. Mặt tái ngoét như con gà cắt tiết. Tổ dân quân mấy xóm dàn hàng ngang. Đơm khoác súng đứng hàng đầu…Bác Diệc chỉ tay vào địa chủ Thìn:

- Tao thù mày ! Tao thù…

Rồi khóc rống lên, chạy xuống. Đội trưởng Cự xô ngay ra trước loa, quát to:

Hôm nay là ngày thắng lợi của giai cấp nông dân chúng ta, cấm không ai được khóc.”

Cái ngày “đại thắng của nông dân” đó cũng là ngày không biết bao nhiêu người đã ngã xuống chết tức tưởi, chết trong la hét, chửi rủa của đám đông bị kích động một cách mù quáng :

“Cả nghìn con người lại im như tờ. Khi một loạt tiếng súng toả khói xanh um lên, đám đông ở dưới đẩy nhau chạy. Ai cũng khiếp tiếng nổ. Người hãi máu, bịt mắt lại. Người nhốn nháo ra các ngả. Tiếng trống cà rùng của đội thiếu nhi nổi lên khua rầm rầm, vang vang (http://www.blogger.com/post-create.g?blogID=8329870599366475328). Thế là địa chủ Thìn chết...”

Cụ Thìn chết oan uổng , chết nhục nhã khi cả con rể, cả cháu ngoại đều đứng trong hàng ngũ những kẻ hành hạ cụ. Duy nhất chỉ có cô con gái – bà Khoèo, vợ thằng “rễ” Diệc và mẹ cô “chuỗi” Thơm vì quá thương xót bố và căm thù bọn tội phạm đã lao đầu vào cối đá tự tử.

“Người thứ ba” – hay “cán bộ đội “ thứ ba tên Đình, lại cũng chẳng tử tế gì. Theo đánh giá của chính Đội phó cải cách :

“ Mà cái thằng Đình cũng ác ôn ra trò, phét lác một tấc đến trời, lại tỏ vẻ lý sự, đạo đức, phải phết nó một đòn bịt mồm.”

Cũng giống như ông Đội phó, cán bộ Đình vừa xuống xóm đã gạ ngay được cô cốt cán tên Duyên để rồi cô này sang tay Đội phó và sau cùng cả cô Thơm lẫn cô Duyên đều lọt vào tay Đội trưởng cải cách.

“ Ba người khác” của Tô Hoài đưa ra một bức tranh khá toàn cảnh công cuộc cải cách ruộng đất, đặc biệt đi sâu khắc hoạ chân dung những cán bộ Đảng thực thi cuộc “cách mạng ruộng đất” ấy . Do cách lựa chọn trung thành với Đảng, đứng vững trên lập trường Mác Lênin nên những kẻ được chọn đều là bọn lưu manh, trộm cướp , thất học. Đó là tình trạng phổ biến được nhà văn Tô Hoài khắc hoạ một cách chân thực và sinh động. Và đó cũng là đóng góp lớn nhất của tiểu thuyết “Ba người khác” cho đề tài cải cách ruộng đất – đề tài mà văn học và nghệ thuật chắc chắn còn đề cập tới trong những tác phẩm ngày càng sâu sắc hơn, dũng cảm hơn, phơi bày toàn bộ thực chất cuộc vận động “người cày có ruộng”, minh oan cho hàng trăm ngàn oan hồn hiện vẫn còn vất vưởng, chưa được siêu thoát vì những tên tội đồ vẫn chưa bị trừng phạt.

Mặc dầu bấm bụng cho phép xuất bản cuốn “ Ba người khác” của Tô Hoài, nhưng “trên” vẫn chỉ đạo ngầm báo chí , nhất là báo Đảng không được tuyên truyền rùm beng, tốt nhất là tảng lờ, báo nào viết bài về cuốn sách này thì nhất thiết phải…chê.

Nghiêm chỉnh vâng theo chỉ thị đó, báo Sàigòn giải phóng số ra ngày số ra ngày 28-1-2007 đăng bài “Đọc tác phẩm “Ba người khác” của nhà văn lão thành Tô Hoài “ của Trúc Anh, chê bai kịch liệt với ý là nhà văn Tô Hoài chơi trò ‘chạy tội” khi chính ông đã từng là Chánh án Toà án nhân dân, là Đội phó Đội cải cách vậy mà bây giờ chưa có lời sám hối nào với nạn nhân trong cải cách ruộng đất, mà còn đổ hết tội cho anh Đội trưởng, còn mình chỉ là anh Đội phó hám gái, chỉ thừa hành lệnh cấp trên.

(còn tiếp)

khieman
04-07-2014, 05:33 AM
(tiếp theo)




http://2.bp.blogspot.com/-RRVsr6XXIu4/T47kRMuPL-I/AAAAAAAAAes/uwax628l8BA/s400/To-Hoai28a.jpg (http://2.bp.blogspot.com/-RRVsr6XXIu4/T47kRMuPL-I/AAAAAAAAAes/uwax628l8BA/s400/To-Hoai28a.jpg)


Trước hết, ông Trúc Anh cho rằng “ bi kịch về những sai lầm trong cải cách ruộng đất ở Ba người khác, với những người quan tâm hoặc hiểu biết về nó, đều đã quen thuộc. Có lẽ cũng biết điều này, để tránh sự “quen thuộc”, nhà văn Tô Hoài đã chọn cách viết tác phẩm từ lời kể của tên tội phạm, khác với những tác giả trước đây, viết với tư thế là nạn nhân, pháp quan, thầy đời v.v… “

Cách lựa chọn “khôn ngoan” của Tô Hoài bị Trúc Anh riễu cợt :

“Và sự lựa chọn này đã khiến Ba người khác ngay lập tức được các nhà phê bình, nhà văn “tài cao, đức trọng”, tôn vinh nhiệt liệt như đón chào ngôi sao rực sáng trên bầu trời văn chương ViệtNam…”

Từ đó, Trúc Anh “lật tẩy” thái độ của Tô Hoài với cải cách ruộng đất :

” bằng thứ giọng bình thường hoá tội ác, toàn bộ lời kể của Đội Bối, trong Ba người khác, không chỗ nào tỏ ra đau khổ hay sám hối.“

và quy trách nhiệm cho Đội Bối mà thực chất là Tô Hoài :

“Không biết khi kể chuyện, Bối đã hết chất lưu manh, dối trá hay chưa, nhưng ở cái xã và các xã đang “thổ cải” thời kỳ ấy, những nơi mà mầm mống nhân tính đã bị chính những người như họ tiêu diệt thì chắc chắn không thể có một ông Đội Bối vô can, và bây giờ lại uốn éo thanh minh rằng mình cũng chỉ là nạn nhân….”

Trúc Anh kết tội Tô Hoài chỉ chăm chăm vào chuyện dâm dục :

“ Trong Ba người khác, chuyện tình dục tội lỗi được kể bằng thứ ngôn ngữ chính xác, khoái cảm hả hê, tâm đắc. Chỉ với 250 trang sách mỏng, những cảnh hoang dâm, quần dâm diễn ra thường xuyên, mọi lúc mọi nơi: Ba anh Đội: Cự, Bối, Đình thay nhau, nhường nhau làm tình các nữ dân quân, bần cố nông “rễ, chuỗi”: Đơm, Duyên… bất kể ban đêm, ban ngày, trước, sau lúc hội họp, lúc đấu tố; làm tình ngay bụi cây bên đường làng, bên đống rạ trong sân; làm tình cô Đơm trước người mẹ tàn tật, làm tình cô Duyên bên ông bố điếc; Đội Bối quần dâm với nhiều nữ dân quân trong một đêm ở lán gác…”

Nhưng có thực trong những ngày “ long trời lở đất”, tức những ngày nông thôn chìm đắm trong không khí khủng bố, đàn áp thời cải cách; chuyện sex, tức chuyện “dâm dục” có nổi lên tràn lan vậy, hay chỉ là cái cách nhà văn Tô Hoài phóng đại để làm lu mờ những chuyện khác ?

“Trong Ba người khác, Đội thấy gái và gái thấy Đội, bất cứ hoàn cảnh nào, cũng như lũ cuồng dâm vồ nhau làm tình, không hề từ tình cảm mà chỉ từ động dục, đổi chác, lợi dụng nhau... giữa làng xã tiêu điều, đói khát, oan khốc, đấu tố tuỳ tiện. Viết về tình dục và dâm đãng để tạo ra sự rùng rợn về một loài kinh tởm hơn cầm thú và man di mọi rợ chưa từng có trong xã hội loài người, thì Ba người khác quả là “ép phê”.

Tác giả bài báo đặt câu hỏi nghi ngờ anh “Đội Tô Hoài “ tố điêu:

“Nhưng người đọc buộc phải ngờ anh Đội Bối “tố điêu”, vì chắc chắn cái hiện thực hoang dâm hủ bại ngập ngụa trên, chỉ có trong trí tưởng tượng ác độc, vô luân của bọn tố điêu, chứ không thể có ở làng quê Việt Nam bất cứ thời kỳ nào. Cái giỏi của nhà văn lớn Tô Hoài chính là ở chỗ này: Vừa làm cho Ba người khác trở thành tác phẩm ăn khách mà vẫn tiếp tục lột trần Đội Bối, cà cuống chết đến đít còn cay, đã thất bại thảm hại, rơi xuống dưới đáy xã hội mà vẫn nguyên vẹn bản chất dối trá, lưu manh của anh Đội Bối ngày xưa”.

Và dẫu anh Đội phó Bối có chìm ngập trong những chuyện dâm dục , đổ hết tội cho Đội trưởng Cự, nhưng cái chức Chánh án của anh ( cũng là của Tô Hoài) đã tự tố cáo anh:

“Trong Ba người khác, đội phó Bối, kiêm chánh án, không chỉ dùng “nghệ thuật” hoang dâm (vì ngày nay, hoang dâm đang được nhìn nhận là “đổi mới tư duy”) để bình thường hoá tội ác, mà còn trút hết mọi tội ác diễn ra ở xã thời cải cách, lên đầu đội trưởng Cự, một kẻ theo địch, đã chết, chẳng bao giờ có cơ hội viết tự truyện để bào chữa cho mình, đổ tội sang người khác, và nói thêm: Hàng nghìn vụ xử án, kết án oan “kẻ thù giai cấp” hồi đó đều không thể thiếu chữ ký của chánh án Bối.“

Tác giả bài viết cho rằng Tô Hoài muốn chạy tội cho mình trong cuốn “tự truyện” này, đổ hết lỗi cho người khác cho dù thời cải cách ruộng đất ông đã làm tới chức…Chánh án Toà án nhân dân :

“ Song đỉnh điểm cao thâm của nhà văn lớn Tô Hoài trong Ba người khác lại ở chỗ, vừa rút hết vốn sống của người trong cuộc, viết ra loại sự thật đáp ứng được khẩu vị và sự hiếu kỳ, khiến người đọc, nhất là các nhà phê bình đang muốn nổi của nền văn học Việt Nam, phải trầm trồ tâm phục khẩu phục, ông đồng thời vẫn tách bạch được sự thanh cao, thánh thiện bằng giọng văn dưng dửng, biếm biếm, như mình hoàn toàn là người ngoài cuộc, nên cùng lúc, ông cũng được ca ngợi là khách quan, dũng cảm khi dám mổ xẻ, phanh phui đến tận cùng một đề tài nhạy cảm.”

Và chính vì lối “chạy tội” đó, Tô Hoài đã không dám chỉ đích danh thủ phạm gây nên thảm trạng cải cách ruộng đất chính là Đảng và Nhà nước mà là do người của…địch cài vào :

“Bi kịch cải cách ruộng đất ở xã nọ kết thúc có hậu, kèm theo lời giải đáp “đúng hướng” về nguyên nhân đẻ ra sự xáo trộn làng quê kinh hoàng: Đội Cự có vẻ như do địch cài vào, Đội Bối là đảng viên giả mạo, còn Đội Đình, đảng viên thật sự, chỉ có mỗi tội lãng mạn không tưởng.”

Vậy là đảng viên Tô Hoài và Đảng cộng sản của ông là…vô can, lỗi là ở “kẻ xấu” chui vào hàng ngũ ta. Để thực hiện được “ý đồ chạy tội “ đó, Trúc Anh đã tố cáo Tô Hoài dùng mẹo “ve sầu thoát xác” :

“Nhiều người bảo Ba người khác đã mở ra diện mạo mới cho văn chương Việt Nam. Nói như thế là chưa thấy hết tầm cỡ của Tô Hoài, chưa hiểu thế nào là thuật kim thiền thoát xác. Đọc xong Ba người khác, không nhìn ra người thứ tư, một anh Đội Bối B, sau cải cách, sau sửa sai, vẫn tiếp tục được thăng quan tiến chức, hưởng ngập mặt những bổng lộc, quyền lợi, nhờ cải cách ruộng đất, và đến tận cuối đời, chứng khôn ranh vẫn nguyên vẹn, vẫn thu hút được quanh mình đủ loại “chuỗi, rễ” đời mới, là chưa hiểu hết cái sâu xa, cái vô cùng của tác phẩm …”

Anh Đội Bối B chẳng phải ai khác, chính là nhà văn Tô Hoài, sau cải cách vẫn thăng quan trong Hội nhà văn, vẫn “ lập kỷ lục quốc gia” về …số lần đi nước ngoài .


***

Bài “Đọc tác phẩm “Ba người khác” của nhà văn lão thành Tô Hoài “ của Trúc Anh rõ ràng lên án nhà văn Tô Hoài với lời lẽ thật quyết liệt, sâu cay, vậy mà chắc do “trình độ có hạn”, hoặc đầu óc lú lẫn vì đấu đá nội bộ, ông NTK Vụ trưởng Vụ báo chí “hồi ấy” đọc xong lại “nhầm tưởng” là …bài báo quá khen “ Ba người khác “ của Tô Hoài, trái với chỉ đạo của Ban tư tưởng là không được khen, chỉ có…chê. Lập tức ông nổi giận đùng đùng, tại cuộc giao ban báo chí ngày 6-2-2007, ông lên giọng “lãnh đạo” :

“Nếu ý của tác giả là phê phán cuốn sách thì tự bài viết đã bộc lộ sự non tay, né tránh và sơ hở, nhiều đoạn trong đó vô hình chung ca ngợi tác phẩm một cách quá lời. Nhìn toàn cục, bài viết nhập nhằng giữa khen và chê, chê qua loa nhưng khen thì quá rõ…”

Và rồi ông Vụ trưởng Vụ báo chí kết cho tác giả Trúc Anh và báo Sàigòn giải phóng cái tội “chết người” :

“ …thiếu tính định hướng…”

Trong làng báo Việt Nam, đây là tội nặng nhất, báo chí có thể đưa tin sai lệch, thiếu chính xác, nhưng “thiếu định hướng” tức là cãi bướng, không tuân theo sự chỉ đạo của Ban tư tưởng” là…chết.

Mặc dầu thừa biết là thủ trưởng “phán láo”, kết tội oan uổng nhưng mấy ông Tổng biên tập vẫn ngồi im thin thít, không ông nào dám cãi lại. Bởi lẽ im lặng là vàng , anh nào dám ho he cãi lại cấp trên thì coi chừng, mất ghế có ngày. Biên bản cuộc họp giao ban này chắc được giấu biến để khỏi tới tay lão nhà văn Tô Hoài tránh cho ông nổi giận rất có hại cho sức khoẻ người già.

Dẫu sao, dù Tô Hoài có “chạy tội” hay không, “Ba người khác” vẫn là một dấu son trong sự nghiệp , vẫn là cuốn tiểu thuyết phản ánh chân thực, lên án mạnh mẽ cuộc cải cách ruộng đất do Đảng phát động, mà hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, nay vẫn còn là vùng đất cấm đối với các nhà văn ăn bổng lộc của Đảng.

Ngày xưa ở Hànội hồi trước 1954, hàng năm vẫn tổ chức đua xe đạp quanh bờ hồ. Trong các cua-rơ – vận động viên đua xe – nổi lên một người được gọi đầy thiện cảm là “cua-rơ Bát Già”. Xấp xỉ tuổi 70, sức đã yếu so với đàn em trẻ, nhưng cua-rơ Bát Già vẫn bền bỉ bám đường đua, nhất định không bỏ cuộc, vẫn cán đích trong tiếng vỗ tay râm ran của hàng ngàn người hâm mộ cho dù cuộc đua đã kết thúc. Hình ảnh lão nhà văn Tô Hoài ngoài 90 tuổi vẫn miệt mài cầm bút gợi nhớ tới cua-rơ Bát Già ngày xưa. Kính chúc bác Tô Hoài sống lâu trăm tuổi để còn viết nhiều và viết hay hơn nữa.


18-4-2012

khieman
04-07-2014, 11:26 PM
(tiếp theo)





http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/2/28/Nguyen_Cong_Hoan.jpg (http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/2/28/Nguyen_Cong_Hoan.jpg)

NGUYỄN CÔNG HOAN


Trước cách mạng, tác phẩm của Nguyễn Công Hoa khá đồ sộ, tiêu biểu là : Kiếp hồng nhan (truyện ngắn, 1923) , Hai thằng khốn nạn (truyện ngắn, 1930) , Người ngựa, ngựa người (truyện ngắn, 1931) , Thế là mợ nó đi tây (truyện ngắn, 1932), Tắt lửa lòng (truyện dài, 1933) , Lá ngọc cành vàng (tiểu thuyết, 1934), Kép Tư Bền (tập truyện ngắn, 1935) và tiêu biểu là Bước đường cùng (tiểu thuyết, 1938)…

Sau cách mạng Nguyễn Công Hoan được Tô Hoài thổi lớn :

”Truyện ngắn , truyện dài Nguyễn Công Hoan sừng sững tạo thành một thế Tam Đảo Ba Vì hùng vĩ, vượt qua hai thời kỳ kháng chiến , tiến vào cách mạng tháng Tám…”.

Ái chà chà, “trái núi biết đi” này tiến vào cách mạng liệu có từ Tam Đảo , Ba Vì biến thành Everest ?

Trả lời được câu hỏi này không gì bằng những tác phẩm của ông viết sau cách mạng. Tiếc thay, “bệ đỡ văn hoá” lại là cái nền móng cho nhà văn xây nên ngôi nhà của mình. Nguyễn Công Hoan tốt nghiệp Sơ học yếu lược (cấp 1 bây giờ), sau đó vào trường sư phạm ra dậy tiểu học tại hầu hết các tỉnh lẻ : Hải Dương, Lào Kai, Nam Định rồi đảo Trà Cổ ( Mống Cái) …vừa dậy học vừa hoạt động cách mạng khó mà có thời gian, điều kiện nghiên cứu, tự học. Sau năm 1946, ông cũng lên rừng như các văn nghệ sĩ khác , học tập chủ nghĩa Mác và đường lối văn nghệ Diên An , về Hà Nội sau năm 54 cũng vậy, cũng miệt mài vào chủ trương chính sách của Đảng , còn các trào lưu tư tưởng và nghệ thuật hiện đại chỉ là vầng ánh sáng mờ nơi bên kia đại dương. Văn chương Nguyễn Công Hoan bởi thế trở nên “phú quý giật lùi” so với thời ông viết những “Bước đường cùng”, “Cô giáo Minh”, “Kép Tư Bền”,” Lá ngọc cành vàng” …và hàng trăm truyện ngắn ghi lại được phần nào bộ mặt xã hội thời đó.

Từ sau 1945 ( Nguyễn Công Hoan mới 42 tuổi), “tiến vào cách mạng tháng Tám” rồi “vượt qua hai thời kỳ kháng chiến” đánh Pháp và đánh Mỹ, ngòi bút Nguyễn Công Hoan cứ cạn mực dần . “ Mở hàng” cho cách mạng, năm 1946, NCH viết tiểu thuyết “Đồng chí Tơ”, kể một anh tù hình sự, trong nhà giam được giác ngộ trở thành người cách mạng, viết dở tới mức chỉ in 20 kỳ trên báo Sao Vàng rồi biến mất tiêu, không tái bản, cũng không ai nhắc tới.

Sang năm 1947, NCH viết tiểu thuyết “Xổng cũi” thuộc tủ sách Vệ Quốc Đoàn, cũng không để lại dấu vết gì trên chặng đường sáng tạo. Rồi mãi tới năm 1952, NCH mới lại cho ra lò tiểu thuyết “ bà Năm di cư”, năm 1955 tập truyện ngắn “ Nông dân và địa chủ” mà chỉ nội hai cái tựa cũng đủ biết nó chết yểu.

Năm 1963, NCH xuất bản “ Đống rác cũ tập1 “ viết về mặt trái của quan lại phong kiến, sách ra lập tức bị thu hồi, không phải vì “nghĩ ra ngoài những điều Đảng nghĩ” mà chính vì dơ dáy, “tự nghiên chủ nghĩa” quá. Sau này, 1988, cả hai cuốn “Đống rác cũ 1 và 2 “ đều được xuất bản và cũng chẳng gây được tiếng vang nào vì …dở. Bản kê “sáng tác phẩm” của Nguyễn Công Hoan sau nửa đời đi theo cách mạng chỉ có bấy nhiêu còn lại toàn những “sổ tay văn học”,” kinh nghiệm sáng tác”, “nghĩ gì viết nấy”…

Sau năm 1975, Nguyễn Công Hoan có viết “di bút” :” Hiện nay , truyện ngắn viết dài mà truyện dài cũng viết dài. Rõ ràng cái viết dài này có dụng ý là khoe vốn sống. Kiếm được bao nhiêu vốn , khi cầm bút thì lôi tiệt ra. Hàng tràng- hàng tràng. Vốn bị vét đến tận đáy . Thứ vốn sống …sượng cũng bị lôi ra tuốt…”

Than ôi, những truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan viết sau chuyến đi thăm “miền nam hoàn toàn giải phóng “ lại rất tiêu biểu cho “thứ vốn sống…sượng” mà ông vừa cao giọng lên án.

“ Trên chuyến xe lam” (truyện ngắn 9-1975) đang bon bon về Sàigòn có “đại tá Đôn trong nguỵ quân của tên đại Việt gian Nguyễn văn Thiệu”. Ông Đôn đang lo “đi trình diện sẽ bị bắt, ngồi tù và sẽ phải “tẩy não” vì thế ông nhất quyết trốn và tập hợp chiến hữu âm mưu lật đổ cách mạng.

“May thay” chiếc xe lam ghé lại bến đón khách …một anh bộ đội. Thế rồi trên đường , anh này kể chuyện “ xung phong đi đánh Mỹ chứ không phải bị bắt lính” rồi anh lại đọc cả …. tiểu thuyết Pháp nữa làm một bà mẹ trên xe nắc nỏm :” Cụ Hồ khéo dạy người thật. Tôi thấy anh bộ đội ngoài ấy cũng như quân giải phóng trong này, anh nào cũng hiền lành tử tế”.

Sự việc chỉ có nhiêu đó đập vào mắt ông đại tá làm ông “tỉnh ngộ”, thức tỉnh chính nghĩa cách mạng đến mức sáng hôm sau ông đi trình diện sớm, dứt khoát từ bỏ ý định trốn cải tạo làm phản loạn. Truyện ngắn này nếu che đi tên tác giả, người đọc sẽ tưởng là một cây bút “thông tin văn hoá phường” chứ chẳng ai ngờ người viết nó lại là một nhà văn lớn như “ Tản Viên- Ba Vì”.

Sang truyện ngắn “ Nỗi day dứt của một đại tá tỉnh trưởng nguỵ quyền”, vốn sống của nhà văn NCH lại càng…kinh dị hơn. Ông đại tá này ở lớp cải tạo “học đến bài thứ bảy, anh ta càng thấy sỉ nhục về cái tội làm tay sai cho đế quốc Mỹ xâm lược”. Nỗi xấu hổ này làm ông “ mất ngủ, ít nói, ít cười…vắt tay lên trán, thở dài thườn thượt…”Thế rồi không chịu nổi nỗi ăn năn, ông ta phải gặp cán bộ để thổ lộ “ Tôi biết là bọn Mỹ-Nguỵ đã đào tạo khiến chúng tôi không còn là người , nhưng cách mạng giáo dục để chúng tôi trở lại thành người . Tôi vô cùng cảm ơn cách mạng…” Tiến lên ta quyết tiến lên làm người …cách mạng, ông đại tá lại thú nhận :” Hồi tôi làm tỉnh trưởng tỉnh XX, thì trong những ngày cách mạng đến giải phóng thị xã, tôi và anh Xiêm cũng học lớp cải huấn này …đã lấy hết công quỹ gồm 13 triệu đồng”. Nay xin “ lập công chuộc tội ” với cách mạng, ông đại tá đề nghị :” Lấy uy thế tỉnh trưởng, tôi chỉ chia cho Xiêm 5 triệu, tôi giữ 8 triệu. Tám triệu không nuôi sống đời tôi nhưng giữ nó , tôi bị day dứt suốt đời. Tôi cần rũ sạch vết nhơ , vết ô nhục ấy …tôi xin phép được hiến cho chính phủ số tiền 8 triệu đồng …”

Cán bộ còn đang tuyên dương tinh thần “giác ngộ cách mạng qua học tập” thì chợt nghe tiếng gõ cửa cạch cạch . Ai thế ? Tưởng ai hoá ra anh Xiêm, đồng sự với ông đại tá, cũng tìm tới cán bộ để xin nộp lại 5 triệu kẻo nó thành vết nhơ ở trong lòng.

Than ôi, to như trái núi Tam Đảo Ba Vì mà sao đẻ ra hai con chuột nhắt bé xíu thế ? Riêng cái truyện “ông đại tá…” chẳng phải vốn sống đang còn …sượng, bởi lẽ NCH đã bao giờ đặt chân tới trại tập trung cải tạo mà biết mặt mũi, tâm trạng mấy ông “đại tá tỉnh trưởng” ra sao, chẳng qua ông tưởng tượng vậy thôi. Mà trí tưởng tượng của ông lại bắt nguồn từ một hiểu biết quá nghèo nàn.

Sau gần nửa thế kỷ “hành trình tư tưởng”, lẽ ra ông nhà văn phải khôn ra rất nhiều để thấy cái thứ văn chương ‘tuyên truyền” trắng trợn đó là một thứ giả nghệ thuật, mà với nhà văn không gì dị ứng cho bằng sự giả dối. Vậy thì trí khôn của bác ở đâu mà đến nỗi “nhận thức” về “kẻ thù” ngớ ngẩn vậy?

Ông tiến sĩ văn học Niculin ( Liên xô cũ) ca ngợi nhà văn Nguyễn Công Hoan : ”Thời buổi này, phải có lòng dũng cảm không nhỏ, niềm tin lớn lao mới dám bước lên con đường của Ông (Nguyễn Công Hoan).

Ông đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng khen ngợi : ”Nguyễn Công Hoan là người không viết theo chiều gió, mà viết theo lý tưởng của mình, có nghị lực, có lòng dũng cảm…”.

“ Có lòng dũng cảm” mà lại viết lách ngu ngơ đến thế ư ?

Thì ra trí khôn bác nhà văn nằm ở …cái gan. Chỉ tiếc cái gan của bác hơi bị bé nên sự nghiệp văn chương theo cách mạng của bác cũng chẳng có gì là…lớn.


(còn tiếp)

khieman
04-07-2014, 11:45 PM
(tiếp theo)




http://www.moingay1cuonsach.com.vn/images/stories/2012/thang9/1dochu.jpg (http://www.moingay1cuonsach.com.vn/images/stories/2012/thang9/1dochu.jpg)

ĐỖ CHU

Mở đầu thập kỷ 1960, thập kỷ của “sóng Duyên Hải, gió Đại Phong, trống Bắc Lý , cờ Ba Nhất” , thập kỷ “hồ hởi”,”phấn khởi”, sắn tay xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn miền Bắc, ông trùm thơ cách mạng Tố Hữu khoái trá hạ bút:

Chào 61! Đỉnh cao muôn trượng
Ta đứng đây, mắt nhìn bốn hướng
……
Đời trẻ lại. Tất cả đều cách mạng!
Rũ sạch cô đơn, riêng lẻ, bần cùng”

Thi sĩ Chế Lan Viên cũng cao giọng hùa theo :

Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm!
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
….
Mặt trời đến mỗi ngày như khách lạ,
Gặp mỗi mặt người đều muốn ghé môi hôn…

“ Lạc quan cách mạng” đến thế là hết cỡ . Các văn sĩ tất nhiên không chịu kém cũng múa bút , căng ngực, hít hơi thổi cho những con chữ bay bổng chín tầng mây.

Trong dàn kèn đồng khí thế “nuốt Ngưu đẩu” đó, bỗng xuất hiện một tiếng sáo véo von góp vào dàn tụng ca. Đó là nhà văn Đỗ Chu , xuất hiện năm 1962 với những truyện ngắn “Ao làng”, “Thung lũng cò”, “Hương cỏ mật”, “Mùa cá bột” … khác lối viết của các bậc đàn anh Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu…bằng sự tươi tắn, mới lạ trong những chi tiết gần gũi đời sống như “mùi bùn”, “mùi đất”,”mùi cỏ” quê anh và lập tức được báo chí tôn vinh là một tiếng nói tươi tắn, mới lạ kể lại những ước ao, khát vọng, cách sống của thế hệ mình!

Thử đọc lại trích đoạn “Hương cỏ mật” mở đầu sự nghiệp Đỗ Chu :

“Sau làng em có trái núi Voi, núi Voi đối với tụi nhỏ chúng em như người bạn lớn tuổi hiền từ. Voi cho chúng em bao nhiêu thứ: những cụm cỏ mật khô thơm ngào ngạt, những viên đá cuội trắng nõn, tối tối mang đập vào nhau, lửa toé (http://www.blogger.com/post-edit.g?blogID=8329870599366475328&postID=3970112676238007435) ra, một thứ lửa có mùi thơm như mùi mật ong cháy. “Vòi Voi” là một bãi cỏ tươi tốt quanh năm, đất ở đây mềm như đất ruộng màu, ngày xưa có chỗ chân trâu ngập móng. Chúng em thường lên đó chăn trâu. Trong các bạn cùng xóm, em thân nhất với Phương. Chính cái Phương đã bảo em cách làm cho cỏ mật còn xanh hết mùi hắc. Chỉ cần buộc túm những cụm cỏ xanh ấy lại, đem phơi nắng rồi hong gió, cỏ héo vàng đi, toả (http://www.blogger.com/post-edit.g?blogID=8329870599366475328&postID=3970112676238007435) hương thơm dìu dịu (...) “

“Hương cỏ mật” được tôn vinh là áng văn chương đẹp, mê hoặc người đọc nhiều thế hệ. Tuy nhiên, các 8x,9x ngày nay mà viết lách dễ dãi thế thì khó lòng lọt được vào mắt bạn đọc, nói gì tới chuyện trở thành mẫu mực văn chương. Mới đây nhà thơ Trần Mạnh Hảo viết trên Dân Luận ngày 8-9-2011 :

“Đỗ Chu mê “Bông hồng vàng”, “Lẵng quả thông” của Pautopxki (do Vũ Thư Hiên dịch đầu những năm sáu mươi của thế kỷ trước). Giọng văn đầy chất thơ, lãng mạn và tươi mát như suối nguồn, như ánh trăng của nhà văn Nga này mê hoặc Đỗ Chu và các nhà văn trẻ thời đó. Đỗ Chu đã viết các truyện đầu tay như “Phù sa”, “Hương cỏ mật”, “Thung lũng cò” …khá hấp dẫn như một ông Pautopxki con con…Nay cái thời ấy xa rồi, thưở ban đầu ấy xa rồi, lối viết lãng mạn kiểu Pautopxki qua rồi, nhường hiện thực dữ dội cho những cây bút dữ dội. …”

Mặc dầu vậy tác phẩm của Đỗ Chu vẫn xuất hiện và vẫn được ca ngợi , khen thưởng đều đều. Năm 1963 giải thưởng cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ quân đội ,2001 giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật , 2002 giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam,2004 Giải thưởng ASEAN , 2011được đề cử Giải thưởng Hồ Chí Minh . Chẳng những “ cha thiên hạ “ về giải thưởng, Đỗ Chu còn là một thứ…” già làng ” ở Hội nhà văn.

Nguyên ở Hội nhà văn có một nơi gọi là “vạn đại dung thân” cho các cán bộ viết văn ( từ của Nguyễn Khải) – đó chính là…”Tổ sáng tác”. Một nhà văn khi được chọn về đây thì coi như được Đảng nuôi cả đời, bao cấp cả đời, kể cả bao cấp tư tưởng, khỏi lo bon chen, đấu đá , khỏi lo giành giật tem phiếu, con cá lá rau như người ngoài đời. Từ rất sớm (http://www.blogger.com/post-edit.g?blogID=8329870599366475328&postID=3970112676238007435) Đỗ Chu được chọn về “tổ sáng tác”, 35 năm liền cho tới khi hưu như một nhà báo đã viết :

” Thế là ông về Hội Nhà văn, không làm gì khác, ngoài ăn rồi cứ ngồi viết văn.Và thế rồi đã 35 năm qua người ta quen có một Đỗ Chu ở Hội, quen đến mức thật khó hình dung ở cơ quan Hội lại không có Đỗ Chu ra ra vào vào, không nắm một chức vụ cụ thể, nhưng thật quan trọng. Quan trọng đến mức, có người đã nói, không có Đỗ Chu thì cơ quan Hội Nhà văn sẽ giông giống một Bộ, một Tổng cục nào đó.”

Tuy không giữ chức vụ gì nhưng quan chức trong các cơ quan cấp 1, cấp 2 cũng đều nể sợ “già làng”, có chân giò, xỏ lợn, mâm xôi gì chia chác bất kỳ lớn nhỏ cũng không được quên . Thời mồ ma nhà văn Trần Hoài Dương, có lần anh kể với tôi :

”Danh sách BCH Hội nhà văn Khoá (http://www.blogger.com/post-edit.g?blogID=8329870599366475328&postID=3970112676238007435) 6 lẽ ra không có tên nhà thơ Y Phương . Thế rồi Ban trù bị đại hội đang họp thì Đỗ Chu ở đâu bổ tới lớn tiếng :” Các anh đã nghe ý kiến đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh vừa gọi tới chưa ? Đồng chí hỏi Ban chấp hành Hội nhà văn khoá (http://www.blogger.com/post-edit.g?blogID=8329870599366475328&postID=3970112676238007435) này có đại biểu dân tộc không ?” Mọi người xanh mắt, Hữu Thỉnh lập tức bổ sung (http://www.blogger.com/post-edit.g?blogID=8329870599366475328&postID=3970112676238007435) ngay Y Phương vào Ban chấp hành”.

Chuyện thực hư chẳng biết sao nhưng qua đó thấy cái uy “già làng” của Đỗ Chu đối với quan chức Hội Nhà văn là có thực.

Được Đảng nuôi suốt đời , trách gì Đỗ Chu chẳng hết lòng với Đảng, có lần ông nửa đùa nửa thật với bạn bè :

“ Tớ là một nhà văn nên tớ rất thích câu thơ Việt Phương: “Cuộc đời yêu như vợ của ta ơi”. Cuộc đời thì rộng lớn lắm. Cuộc đời thì trong đó có đảng. Nên tớ yêu đảng như yêu vợ. …Tớ coi đảng là vợ. Đảng bẩn thì tớ mua xà phòng cho đảng tắm. Mua nước hoa cho đảng thơm. Đảng nói thì không được cãi. Đảng bảo ăn là ăn. Đảng bảo uống là uống. Đảng bảo nằm là nằm. Đảng bảo lên giường là lên giường. Đảng bảo ra đường là ra đường. Đừng có mà léng phéng. ….Cho nên tớ cũng không thể rời hội nhà Văn được. Tớ thề sẽ sống mãi với hội nhà Văn để tận tâm tận lực viết văn ca ngợi vợ. “Cuộc đời yêu như vợ của ta ơi”. Việt Phương vẫn làm thơ chung chung quá. Cứ như tớ, tớ sẽ viết thế này: “Đảng thương yêu ấy vợ của ta ơi”.

Tuy nhiên chứng kiến các đàn anh như Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khải…trước khi nhắm mắt cũng có đôi lời “phản tỉnh”, Đỗ Chu khi về hưu cũng có “tâm sự” với Văn Chinh :

“ Không biết nên phải hiểu từ lúc nào mà chúng ta đã bước từ chủ nghĩa dân tộc vào CNXH, rồi từ lúc nào từ Dân chủ Cộng hoà thành XHCN? Vì đâu mà có rất nhiều khái niệm hết sức hệ trọng bỗng nhiên bị đánh tráo. Bên dưới lòng yêu nước liệu còn có những gì đang nhân danh nó và đang được nó nguỵ (http://www.blogger.com/post-edit.g?blogID=8329870599366475328&postID=3970112676238007435) trang?

Nhìn lại, không biết tại làm sao khi chúng ta học những cái tồi tệ của thiên hạ thì dễ thế, mà đến khi cần học những cái tốt đẹp thì khó quá. Rồi lại không biết bởi đâu mà khi người ta không ra gì, khi người ta mù mịt đảo điên thì người ta sẵn sàng kết anh em với mình, còn tới khi người ta tỉnh táo ra một chút là y như rằng người ta có ý khinh rẻ mình thì phải…”

Tất nhiên lời tâm sự của Đỗ Chu cũng chỉ là xa xôi , bóng gió, nhưng liệu có phải sau khi về hưu ông đã bắt đầu nghĩ…khác như “thời thượng” hiện nay.

Nhà thơ Xuân Sách dường như cũng không mấy “ngưỡng mộ” Đỗ Chu nên làm thơ chân dung có ý mỉa mai:

Đám cháy ở sau lưng
Đám cháy ở trước mặt
Than ôi mày chạy đâu
Dưới vòm trời quen thuộc
Đốt bao nhiêu cỏ mật
Không bay mùi thơm tho
Càng hun càng đỏ mắt
Quay về thung lũng cò

(còn tiếp)

khieman
04-09-2014, 05:48 AM
.



(http://www.google.com/imgres?imgurl=http://3.bp.blogspot.com/-PJvNbZHD-Ok/TwAsqBBPHdI/AAAAAAAAASw/TakZWdAC-hI/s400/NguyenQuangSang.jpg&imgrefurl=http://nhattuan2011.blogspot.com/2012/01/chan-dung-hay-chan-tuong-nha-van-ky10.html&h=300&w=400&tbnid=hHnRw9Q4GjaatM:&zoom=1&docid=GisuVb_TfTD3nM&ei=yNpEU6TnA6XiyAHWgoCYBA&tbm=isch&ved=0CKgBEIQcMDU4kAM)https://encrypted-tbn1.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcTS-hcTpnomoNgkq4wV87hZJosi4pO9r2n-G5-dbdlPukk305URQQ (https://encrypted-tbn1.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcTS-hcTpnomoNgkq4wV87hZJosi4pO9r2n-G5-dbdlPukk305URQQ)

NGUYỄN QUANG SÁNG



Khoảng năm 1982 nhà thơ Dương Tường vào TP Hồ Chí Minh trọ khách sạn Bông Sen đường Đồng Khởi, sang trọng bậc nhất Sàigòn. Trước khi ra Hànội, ông đã kịp giới thiệu tôi làm quen cô tiếp tân . Từ đó sáng nào tôi cũng trốn cơ quan, lẻn tới khách sạn, đứng sát bên cô để "phụ việc " sau quầy. Cô là người Sàigon cũ, xinh đẹp, tiếng Anh làu làu, thỉnh thoảng lại dúi cho tôi bia Sàigòn, thuốc lá Du Lịch đầu lọc lúc đó là của hiếm.

Một sáng trò chuyện đang tíu tít , bất chợt từ ngoài cửa bước vào một khách nam và một khách nữ. Nhận ra hai người, tôi vội ngồi thụp xuống chân cô tiếp tân, im thít. Lát sau, cô vỗ vỗ lên đầu tôi :

“ Khách lên phòng rồi…anh đứng dậy đi !”

Tôi cứ nấn ná chờ “máy bay địch đã bay xa” mới đứng lên làm cô tiếp tân phì cười :

“ Sếp anh sao anh sợ vậy ?”

“Sếp đâu ? Nhưng anh không muốn ổng nhìn thấy bất lợi cho em …”

Cô gái lắc đầu :

“ Hổng sao, ông Nguyễn Quang Sáng đó …nghe nói ổng là nhà văn cách mạng …”

Tôi phì cười :

“ Nhà văn cách mạng thì sao ?”

“ Kính nhi viễn chi thôi…”

Tôi ưỡn ngực :

“ Anh cũng nhà văn cách mạng nè, sao em không kính nhi viễn chi ?”

Cô gái bĩu môi :

“ Anh mà cách mạng gì ? Du đãng thì có…”

Tôi rối rít khen em gái có con mắt tinh đời nhận ra "anh hùng" giữa trần ai. Rồi cô kể chuyện giám đốc khách sạn là ông Tám Muộn, thân với nhà văn Nguyễn Quang Sáng và nhạc sĩ Trịnh Công Sơn lắm nên đặc cách cho mỗi người một phòng miễn phí thường xuyên. Tôi xuýt xoa :

“ Mấy cha sướng thiệt…tha hồ trốn vợ dẫn bồ bịch tới …”

Cô gái lắc quày quạy :

“ Chuyện đó em hổng biết đâu nha. Đó là chuyện riêng của mấy ổng.”

Người Sàigòn xưa là vậy, không tò mò chuyện người khác nên cũng không hỏi chị phụ nữ kia là ai ? Nhưng tôi biết, đó là nữ văn sĩ quân đội nổi tiếng hồi đó. Đừng ai "suy diễn bậy bạ" nha. Chắc hai nhà văn lớn đưa nhau lên phòng riêng để bàn luận văn chương thôi. Tuy vậy có làm thêm chuyện gì khác thì với nhà văn cũng chẳng là gì, văn chương mới là quan trọng. Mà với Nguyễn Quang Sáng thì văn chương thuộc loại chiếu nhất làng văn Nam bộ kháng chiến rồi.

Mấy năm sau, tôi bỏ cô tiếp tân lấy vợ, chịu cảnh “chó nằm gầm trạn” ở phố Trần Khánh Dư, TP HCM. Một hôm nhà làm cơm mời nhà văn Nguyễn Quang Sáng và nhà văn Nguyên Ngọc mới Hànội vào. Ông nguyên bố vợ vốn dân cách mạng Bến Tre, gặp Nguyễn Quang Sáng tay bắt mặt mừng , hồ hởi :

“ Anh quan tâm dìu dắt thằng rể nhà tôi với…”

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng giãy nảy :

“ Í…thằng này là thày tôi đó…”

Chẳng hiểu ông nhà văn nói thày “văn chương” hay thày …”em út”.


***
Năm 1946, Nam Bộ chống Pháp ác liệt. 14 tuổi, Nguyễn Quang Sáng đã vào bộ đội, làm liên lạc . Năm 16 tuổi học bổ túc văn hoá trường trung học kháng chiến Nguyễn Văn Tố. Năm 18 tuổi làm cán bộ nghiên cứu tôn giáo tại Bộ Tư lệnh phân khu miền Tây . Năm 1955 tập kết ra Bắc, làm ở phòng văn nghệ Đài Tiếng nói Việt Nam. Năm 1966, trở lại chiến trường miền Nam, làm cán bộ sáng tác Hội Văn nghệ Giải phóng, năm 1972, trở ra Hà Nội, làm tại Hội Nhà văn . Năm 1975 trở lại TP HCM , giữ chức Tổng thư ký Hội Nhà văn thành phố khóa l, khóa 2 và khóa 3, ông còn là ủy viên ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khoá 2, khoá 3 và là Phó tổng thư ký Hội Nhà văn khoá 4.

Suốt đời quan chức vậy đủ thấy văn chương Nguyễn Quang Sáng luôn sáng ngời tinh thần cách mạng, bám sát chủ trương đường lối của Đảng, dứt khoát không chịu ảnh hưởng của những biến động trong giới cầm bút như phong trào Nhân văn-Giai phẩm, sự kiện xét lại…Chỉ có điều , cả đời bận rộn làm cách mạng vậy, không hiểu ông nhà văn sau khi học bổ túc văn hóa trung học còn thời gian đâu học hành quy củ ? Nhưng mà chuyện đó chẳng là gì ? Văn nghệ quần chúng, phục vụ công nông binh cần gì văn hóa cao ?

Nguyễn Quang Sáng viết khá nhiều : Từ những truyện vừa, tiểu thuyết như Đất lửa, Nhật ký người ở lại (1962), Cái áo thằng hình rơm, Mùa gió chướng (1975), Dòng sông thơ ấu (1985)…; từ những truyện ngắn Con chim vàng (1957), Chiếc lược ngà (1968), Bông cẩm thạch (1969),Người con đi xa (1977), Bàn thờ tổ của một cô đào (1985), 25 truyện ngắn (1985) đến những kịch bản phim…tất cả đều mang tính sử thi, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và vạch trần những mặt tàn ác, xấu xa của kẻ địch.

Cùng với nhà văn Anh Đức, hai ông đã trở thành một “cặp đôi hoàn hảo”, không tì vết, luôn đứng vững trên lập trường chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa , làm rạng danh cho văn học cách mạng Nam Bộ.

Thành tích Nguyễn Quang Sáng lớn vậy nên ông cũng được Đảng và Nhà nước tưởng thưởng đích đáng như :

Ông Năm Hạng - giải thưởng cuộc thi truyện ngắn báo Thống Nhất (1959)

Tư Quắn - giải thưởng cuộc thi truyện ngắn (1959) Tạp chí Văn Nghệ Quân đội

Dòng sông thơ ấu - giải thưởng Hội đồng văn học thiếu nhi Hội Nhà văn (1985)

Con mèo của Fujita - tập truyện ngắn, giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam[/COLOR] 1994

Cánh đồng hoang (kịch bản phim) Huy chương vàng liên hoan phim toàn quốc (1980), Huy chương vàng liên hoan phim ở Moskva (1981)

Mùa gió chướng (kịch bản phim) Huy chương bạc liên hoan phim toàn quốc (Hà Nội 1980)

Đặc biệt Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt II năm .

Sự nghiệp văn chương Nguyễn Quang Sáng như vậy cũng đã hiển hách. Tuy nhiên, nhà thơ Xuân Sách còn muốn ông sáng tác sao đó cao hơn nữa chứ không chỉ dừng ở “thằng nộm hình rơm”, bởi vậy đã làm thơ chân dung Nguyễn Quang Sáng :

“Ông Năm Hạng trở về đất lửa
Với chiếc lược ngà vượt Trường sơn
Bỗng mùa gió chướng vừa nổi dậy
Ông biến thành thằng nộm hình rơm”.

Chẳng biết nhà thơ Xuân Sách còn muốn điều gì ở nhà văn Nguyễn Quang Sáng ngoài “thằng nộm hình rơm” nữa đây ?


(còn tiếp)

khieman
04-09-2014, 07:40 PM
(tiếp theo)




http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/articlefiles/170173-HoangCam-400.jpg (http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/articlefiles/170173-HoangCam-400.jpg)




HOÀNG CẦM


Ngày đó tôi ở phố Ấu Triệu (Hànội), nhà thơ Hoàng Cầm phố Lý Quốc Sư, cách nhau nửa con phố ngắn nhưng ít khi tôi mò sang quán rượu số 43 của ông. Gọi là quán cho sang, ngang dọc lối chừng 5-6 mét, mấy chiếc ghế gỗ, bàn nhỏ. Một lần nhà thơ Lê Xuân Đố cùng ca sĩ Trần Khánh ghé tôi rủ sang quán rượu Hoàng Cầm. Quán chỉ có hai người “phục vụ” : chị Yến , phu nhân Hoàng Cầm làm đồ nhậu lạc rang, thịt bò khô…nhà thơ “phụ trách “ rót rượu. Ngồi nhấm nháp chốc lát rồi cả bọn kéo nhau lên gác xép. Lê Xuân Đố bảo anh Hoàng Cầm đọc thơ. “ Em ơi buồn làm chi ? Anh đưa em về bên kia sông Đuống…”, nhà thơ đọc chưa hết nửa bài nước mắt đã ròng ròng. Chợt bên tai vang lên hồi chuông nhà thờ Lớn gọi con chiên lễ chiều. Trong này nỗi buồn sông Đuống , ngoài kia nô nức vây quanh tượng Đức mẹ Hòa Bình giữa sân nhà thờ Lớn. Tôi cũng không biết nên buồn hay vui ?

Năm 1980 trước khi chuyển vào Sàigòn tôi ghé chào nhà thơ. Ông chép tặng tôi bài “U gì ?”. Rất tiếc tôi không còn giữ bản chép tay, đành trích theo Hoàng Hưng :

“Lỗ chỗ chín chậu nắng tóe mắt võng rách tụt cân đai yên ngựa què kéo đen ngòm cỗ xe bánh vuông (không thấy mui) sa lầy bãi sông thu bùn lũ ngược vẫy sen tàn (đi hoang ư) ngậm miệng nghỉm gió thốc lốc cung rê-ma-giơ quắt nhức ba cạnh nhung gai lì ái ân gì dài thon mười búp lóa kim cương trắng sữa đầu vú núi cao ngất lùm cỏ ngọt ước ao...”

Bài này đã vượt khỏi âm hưởng “kinh Bắc”, đậm chất avant-garde như “ Ô mai” của Đặng Đình Hưng, “Ngàn lẻ một mùi hương “ của Dương Tường, “ Gốc gió”, “Con ngựa vào thành phố “ của Hoàng Hưng..

Năm 1982, một Việt kiều tên “Hùng Canada” ( sau nghe nói là nhà văn Nam Dao) về nước tính mang tập thơ “Về kinh Bắc “ ra hải ngoại , từ đó đẻ ra vụ án Về Kinh Bắc “lưu truyền văn hóa phẩm phản động”.

Tháng 8-1982 nhà thơ Hoàng Cầm bị bắt, 16 tháng sau mới được tha. Trong vụ này nhà thơ vốn nhát sẵn lại thêm nàng tiên nâu hối thúc nên đã khai tuốt luốt , nhanh chóng nhận tội nói xấu chế độ và tỏ lòng ăn năn hối lỗi.

Sau khi ra tù được ít lâu, trên báo Tuổi Trẻ có đăng bài thơ của Hoàng Cầm với lời đề :” Kính tặng anh Phạm Hùng”, ông này lúc đó là Bộ trưởng Bộ nội vụ tức Bộ công an sau này.

Tôi không tin vào mắt mình, lập tức gọi điện cho nhà thơ Dương Tường :

“ Sao Hoàng Cầm lại tặng thơ cho kẻ đã ký lệnh bắt mình ?”

Dương Tường rền rĩ :

“ Thôi Tuấn ơi…cậu phải thông cảm với Hoàng Cầm…”

Thực ra người đọc cũng đã thông cảm với Hoàng Cầm từ hồi đại hội văn nghệ tháng 8/1950 tại Việt Bắc, Đảng chủ trương đề cao kịch nói và loại trừ Tuồng, Chèo, Cải lương, Kịch thơ . Hưởng ứng chủ trương này, Hoàng Cầm đã đứng dậy, trịnh trọng bưng ghế ra đặt ở giữa hội trường, lấy ở trong túi ra sợi dây dài buộc tập kịch thơ, xong leo lên ghế đẩu, giơ tập thơ vừa mới bị trói chặt lên thật cao, tuyên bố:

- "Tôi xin treo cổ Kịch Thơ. Bắt đầu từ ngày hôm nay" (...)

Tất nhiên không phải ai cũng “thành khẩn” như Hoàng Cầm , nhiều văn nghệ sĩ khác đã bỏ của chạy lấy người , âm thầm bái biệt cách mạng, "dinh tê" về Hànội như Phạm Duy, Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Võ Phiến... sau này đều là cây bút trụ cột của miền Nam.

“Thông cảm với Hoàng Cầm” - tất nhiên là tôi hết sức “thông cảm” nhưng chắc thơ của ông thì…không, nó mang theo những dấu vết đó.

Năm 2005, tôi gặp nhà thơ Hoàng Cầm tại Đại hội nhà văn 7 ở Hội trường Ba Đình. Giờ nghỉ tôi đứng ngoài hành lang , chợt nhà thơ Hoàng Cầm ghé tới xin lửa. Sau này tôi cứ ân hận vì không tay bắt mặt mừng với ông.

Năm 2007 Hoàng Cầm nhận giải thưởng Nhà nước với tác phẩm :“ Bên kia sông Đuống (thơ 1993), Lá diêu bông (thơ 1993), 99 tình khúc (thơ 1995) với lời phát biểu :

”Tôi cảm ơn Nhà nước vì về cuối đời được nhận giải thưởng xứng đáng của mình. Tôi chỉ thấy tiếc cho những anh đã qua đời như Trần Dần, Phùng Quán. Chỉ có gia đình các anh được nhận chứ bản thân các anh không được nhìn thấy.Giải thưởng đánh dấu một giai đoạn phát triển của văn nghệ, và đáng vui mừng, dù chậm. Tôi nghiệm rằng trong văn nghệ cái gì có giá trị thì có thể trong một thời gian bị vùi lấp hoặc bị hiểu nhầm nhưng rồi sự thật vẫn là sự thật….được Nhà nước trao giải tôi thấy yên tâm, không có gì phải ân hận với cuộc đời.”

Thực ra trong vụ Nhân Văn Giai phẩm ít ai bị “hiểu nhầm” , trao giải thưởng trước hết là ghi nhận sự trở về với Đảng của những đứa con sau những "bước đường lầm lạc" (sic) . Lại cũng phải “thông cảm” với Hoàng Cầm, tuy vậy, không biết có phải vì thế vụ này ông nhà thơ mất khá nhiều phiếu của một cộng đồng không nhỏ các fan hâm mộ ông.

Ca ngợi Hoàng Cầm có nhiều người, Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội, trong tọa đàm ngày 22-4 tại Hà Nội về nhà thơ Hoàng Cầm nhân ngày giỗ đầu của ông (6-5-2010) bốc thơm :

”Lê Đạt ra đi, Hoàng Cầm đã mất… nhưng vẫn còn lại đây con mắt thời gian nhìn xuyên lịch sử”

Xin hỏi ông Phạm Xuân Nguyên ,” con mắt thời gian nhìn xuyên lịch sử “ liệu có thấu những thảm cảnh trong cải cách ruộng đất, hợp tác hóa nông nghiệp, tết Mậu Thân ở Huế …?

Một thời có người suy diễn “ lá diêu bông” là tự do sáng tác Đảng hứa hẹn cho văn nghệ sĩ mà tìm hoài không thấy. Thực ra Hoàng Cầm làm bài thơ này năm 1959 chỉ là nhớ về một chị Vinh ngày xưa ở quê nhà. Cái mẹo “vẽ rắn thêm chân” này không ngờ về sau được nhiều nhà phê bình sử dụng bình thơ Hoàng Cầm.

Trong “Hồ sơ Nhân Văn Giai Phẩm” lưu tại RFI, nhà phê bình văn học Thụy Khuê đã bỏ ra rất nhiều công phu viết về Hoàng Cầm. Mặc dầu bà thừa nhận “ Kiều Loan, là vở kịch thơ hay nhất của Hoàng Cầm, của thời tiền chiến. Khởi thảo cuối xuân 1942 đến giữa năm 1943, đã tạm xong…”, nhưng khi phân tích tập thơ “Về kinh Bắc “ bà lại sử dụng nó như tác phẩm sáng tác sau thời Nhân Văn Giai phẩm.

Kiều Loan là kịch thơ viết về con gái một cựu thần Tây Sơn, đi tìm chồng là Vũ Văn Giỏi vốn theo Nguyễn Ánh, tàn bạo càn quét những người chống lại nhà Nguyễn. Kiều Loan giả điên đến Phú Xuân, bị giam trong ngục rồi uống thuốc độc tự vẫn,trước khi chết, nàng chém người chồng phản bội….”

Có thể nói năm 1942, viết vở này Hoàng Cầm không mảy may “tiên tri” chuyện sau này để Thụy Khuê có thể liên hệ nó với thời cải cách ruộng đất :

“Thà giết oan trăm mạng lương dân
Hơn để thoát một tên phản nghịch

Hoặc với phong trào Nhân Văn Giai Phẩm:

“Mà trước mắt, cuộc xoay vần thời thế
Gạt ra ngoài hầu hết bậc tài danh”

Cũng như vậy, không thể căn cứ căn cứ vào Kiều Loan để kết luận :

“Về Kinh Bắc là bản hùng ca bi tráng, vào đêm. Đêm của người thất trận, nhưng không thoái gót. Về Kinh Bắc là về đất mẹ Luy Lâu (Kinh Bắc), kinh đô văn hoá đầu tiên của nước Việt, để dâng sớ kể tội "triều đình" đàn áp tư tưởng, càn quét nhân tài. Nội dung ấy được giấu trong những câu thơ kín đáo, rồi lại đảo lộn thứ tự như sấm Trạng Trình. Đọc qua không thể hiểu. Hoàng Cầm trả lời mọi thanh trừng bức bách. Nhưng kẻ ra lệnh bắt Hoàng Cầm đã hiểu.”
hoặc :

“Về Kinh Bắc lần này, là khúc tráng ca, xuyên sa mạc, của một hồn cọp dữ, gào thét những vấn nạn buổi đổi đời, "rực lửa Phong Châu", "Diêm Vương mở hội". Cọp về hỏi lại Luy Lâu đất tổ, hỏi Ba Vì, hỏi gái Cầu Lim, hỏi trai Yên Thế.Bởi Hoàng Cầm, người, có thể ngã ngựa, có thể van xin đảng tha tội. Nhưng Hoàng Cầm, thơ, chưa bao giờ khuất phục….”

hoặc :

“Về đây là cáo ấn từ quan, về ẩn dật. Về đây còn là về mách mẹ, về khấn tổ tiên, về báo cáo với thánh hiền những lăng loàn của chuyên quyền hiện tại. Về Kinh Bắc…”

“Vẽ” thêm chất “bi tráng,”, “hồn cọp dữ , “gào thét những vấn nạn buổi đổi đời”, “trả lời mọi thanh trừng bức bách””dâng sớ kể tội "triều đình" đàn áp tư tưởng, càn quét nhân tài…” . Chắc lúc còn sống thi sĩ Hoàng Cầm đọc những nhận định này cũng phải toát mồ hôi hột sợ đến tai…an ninh văn hóa.

Thực ra thơ Hoàng Cầm thiên về "thơ huê tình" hơn là "thơ phản kháng", thiên về tính “âm”, tính “nữ”, tính ôn hòa hơn là hừng hực ngọn lửa phản kháng đến mức trở thành “tráng ca”.

Trong “Chân dung tự thú năm 1994”, ông viết :

“Gọi chiều xưa trở lại
Đẩy chiều nay về xa
Thường trò chuyện với ma
Như với người đang sống.”

Nhà thơ Hoàng Hưng vốn biết rất rõ Hoàng Cầm đã nhận xét rất hay về “Về kinh Bắc:’

“.. Kinh Bắc huê tình non tơ (Chũm cau căng nứt mạch tằm/ Yếm may ba ngày mẹ vá lại… Gió ra hồng da trinh nữ… ong bay vai áo tiểu thon mình), Kinh Bắc bi tráng (Chợt mê thét giữa sân/ Nét mác chữ thiên toạc lưng trâu mộng), Kinh Bắc ma mị (Châu chấu ma vờn cổ yếm xây…Trò chuyện gì ai đâu/, mồ tháng giêng mưa ướt sũng…), Kinh Bắc của những sinh hoạt văn hóa dân gian giàu bản sắc ( Gió mất chồi xuân đay nghiến luỹ tre dầy… Đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu…)... Có thể nói Về Kinh Bắc... là kết tinh vùng văn hóa nghìn năm Kinh Bắc, là thi sĩ của đất quan họ, chẳng khác thi sĩ Tây Ban Nha Federico Garcia Lorca với quê hương Andalusia qua những khúc cante hondo (trầm ca) và romance….”

(HH- Bài giới thiệu tập thơ Mưa Thuận Thành, báo Lao Động 1991)

Đúng vậy, nhà thơ Hoàng Cầm từng tự giới thiệu :

“Có lẽ khi được sinh ra trên cõi dương gian, tôi đã được Mẹ Kinh Bắc cho tôi ăn những giọt sữa tinh khôi chắt chiu từ những câu hát quan họ ngọt say như mật, nên từ nhỏ tôi đã chọn thủ pháp khai thác triệt để tính nhạc của ngôn ngữ và đặc biệt là chất say của thơ. ”

Bởi thế thơ Hoàng Cầm là kết tinh của văn hóa vùng miền Kinh Bắc, như F.G. Lorka với quê hương Andalusia, và cũng có thể ví như Nguyễn Ngọc Tư với quê hương Cà Mâu….Khác với những nhà thơ cùng thời không đậm chất “vùng, miền” , họ có được sự đồng cảm rộng rãi từ dân quê miệt vườn cho tới thị dân đô thị như Thanh Tâm Tuyền, như Trần Dần…

Sau cùng , trả lời nhà báo Thu Hồng (báo Thanh niên) , nhà thơ Hoàng Cầm cho biết :

“Hầu hết những bài thơ của tôi được độc giả ưa thích bao giờ cũng bắt đầu một cách vi diệu từ thế giới xa xăm, vô hình nào đó. …”

“ Lá diêu bông là bài thơ duy nhất tôi viết trong trạng thái vô thức. Đó là mùa rét năm 1959, đêm nào khi lên giường, tôi cũng cầm sẵn một tập giấy trắng bên tay trái và cây bút chì bên tay phải, phòng khi không ngủ được thì làm thơ. Chợt vẳng bên tai một giọng nữ nhỏ nhẹ độc chậm rãi, có tiết điệu, nghe như từ thuở xa xưa nào vọng đến: "Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng...". Sáng hôm sau, tôi phải mất nửa giờ mới tách được ra các câu thơ theo thứ tự mà người phụ nữ kỳ diệu nào đó đã đọc cho tôi. Tôi gọi những giây phút vô thức ấy là "xuất thần", đó là phần tinh tuý của tinh thần bật ra.”

Thực ra vô thức theo Sigmun Freud ví như phần chìm của tảng băng tâm linh, là vùng chứa những ẩn ức bị dồn nén từ xa xưa, bị ngăn chặn , chỉ vượt được lên tầng ý thức phần nào trong giấc mơ và phần lớn trong các chứng loạn thần kinh (névroses). Các bác sĩ phân tâm học phải thôi miên bệnh nhân họ mới nói ra được những ẩn ức chìm trong vô thức, nhà thơ Apollinaire cũng đã từng ngồi đồng để làm thơ “inconscience”…Vậy cái chuyện Hoàng Cầm nói về “vô thức” có thể chỉ là trong cơn say với nàng tiên nâu hoặc với hoàn cảnh nào đó. Chính vì vậy ông tiếp tục trả lời nhà báo :

“ Thủ pháp quan trọng nhất là phải khéo sử dụng âm thanh và nhịp điệu theo chủ đề của bài thơ. “

Thao tác đó phải thực hiện trong ý thức chứ không phải trong những giây phút “vô thức xuất thần” hoặc “một cách vi diệu từ thế giới xa xăm, vô hình” như nhà thơ nói.

Điều này cũng chứng tỏ trong thời “bao cấp tư tưởng” những kiến thức phương Tây hiện đại là khá xa lạ với các nhà văn, nhà thơ miền Bắc.

Dẫu thế nào, thơ và kịch thơ Hoàng Cầm về nỗi bất hạnh - hạnh phúc xa xôi của kiếp người cũng đã lay động con tim hàng triệu người Việt.

Nhà thơ Xuân Sách dựng chân dung Hoàng Cầm với lời lẽ chua chát :

“Em ơi buồn làm chi
Em không buồn sao được
Quan họ đã vào hợp tác
Đông hồ gà lợn nuôi chung
Bên kia sông Đuống em trông
Tìm đâu thấy lá diêu bông hỡi chàng.”

(còn tiếp)

khieman
04-10-2014, 01:36 AM
(tiếp theo)



http://tapchisonghuong.com.vn/uploads/news/size500/news12/10/ngkhoadiem-11991.jpg (http://tapchisonghuong.com.vn/uploads/news/size500/news12/10/ngkhoadiem-11991.jpg)




NGUYỄN KHOA ĐIỀM


Vào những ngày Đại hội nhà văn VN lần thứ 7, tháng 4 năm 2005 tại Hà Nội, trong các cuộc nhậu có nhà thơ , nhà văn Trần Ninh Hồ, Nguyễn Hồ, Mường Mán…thường “buôn chuyện” về nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm khi đó đang là Trưởng ban tư tưởng văn hóa trung ương.

Chuyện “buôn” rằng đồng chí Nguyễn Khoa Điềm thông minh dĩnh ngộ từ nhỏ. Hồi năm 7 tuổi, trong bếp có “trách” * cá nục kho. Bé Điềm thèm quá, đành ăn vụng, sau sợ bị mắng nên rắc vài mẩu cá từ chỗ để cái “trách” tới gầm trạn để vu cho…con mèo ăn vụng cá. Dựng “ hiện trường giả” từ tuổi nhi đồng vậy, quả nhiên sau này làm nên nghiệp lớn.

Chuyện “buôn rằng” hồi chiến tranh chống Mỹ ở trên rẫy A Sầu, A Lưới mọi thứ đều thiếu thốn, cán bộ đói lắm , nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thường cùng nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đốt rẫy bắt con “rít” ( rết) nướng ăn , ngon không thua gì ..tôm nướng. Một hôm hai đồng chí phát hiện ra cái…hang chuột. Eureka…một bữa chuột nướng tuyệt vời . Thế là nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tương quạt lửa hun khói một đầu hang, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lăm lăm cầm con rựa ( dao) đứng chờ cuối hang, chuột chạy ra là…chém. Hai nhà bác cứ chờ, chờ mãi chẳng thấy con chuột nào chạy ra. Sau cùng một ông già Vân Kiều đi qua vỗ vai Nguyễn Khoa Điềm :

“ Họ đi rồi…họ còn ở đó thì không tìm được nhà của “họ” đâu…”

Ý cụ muốn nói chuột đã chạy rồi, đi chỗ khác chơi thôi, không bắt được nó đâu. Chuyện này có lẽ ám vào đồng chí Nguyễn Khoa Điềm khiến suốt cả thời kỳ giữ chức Trưởng ban văn hóa tư tưởng đồng chí chẳng chém được con “chuột” nào, chúng nó lẩn hết đâu mất.

Thời nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm làm trùm tư tưởng văn hóa, không khí sáng tác không được “hồ hởi, phấn khởi” lắm, khiến ngay trong Đại Hội Nhà Văn Việt Nam lần thứ VII , tại Hội Trường Ba Đình - Hà Nội chiều ngày 23-4-2005, nhà thơ Trần Mạnh Hảo nhảy lên diễn đàn than thở :

“ Vâng, tự do sáng tác là khi ngồi trước trang giấy, nhà nghệ sĩ là Chúa Trời sáng thế. Anh tuyệt nhiên không được phép để một ám ảnh sợ hãi nào quấy nhiễu mình. Ví như anh còn phải day dứt viết thế này, viết thế nọ mới được duyệt in; rằng đang có bao nhiêu đôi mắt soi mói vô hình kiểm duyệt anh từ xa ví như viết xong một câu văn là cứ phải mắc bệnh tương tư, nhớ đến anh Khổng Minh Dụ ( thiếu tướng công an- Cục trưởng Cục Bảo vệ tư tưởng văn hoá ( A 25 Bộ Công An), Đỗ Kim Cuông ( Vụ trưởng Vụ Văn Nghệ Ban tư tưởng văn hoá Trung Ương), Trịnh Đình Khôi ( chuyên viên cao cấp Ban Tư tưởng Văn Hoá Trung Ương phụ trách theo dõi Hội Nhà Văn VN), Nguyễn Đình Nhã ( Cục trưởng Cục xuất bản – Bộ Văn hoá Thông tin), Vũ Duy Thông ( Cục trưởng Cục báo chí Ban Tư Tưởng Văn hoá Trung Ương) , nhớ mấy anh canh cửa phê bình, nhớ anh giám đốc duyệt bài, anh biên tập viên cầm hai tay hai cái kéo, nhớ anh duyệt lưu chiểu hồi này với máy dò câu chữ nghe đồn còn kỹ hơn máy dò hành lý hải quan; thì than ôi, bằng ấy cơ chế kiểm duyệt đè nặng lên tâm lý sáng tạo của anh, nên “vừa viết vừa run” như thế; nghĩa là anh vừa viết vừa tự thiến đứa con tinh thầm của mình, cho khi ra đời nó không được có cơ hội cuồng lên vì phát dục, xóa hết bản năng sinh tồn bùng sôi của nó đi, đẽo gọt chân nó sao cho vừa với đôi giày “chính trị” đi, thì nhà văn ơi, tự do sáng tác ơi, ta chào mi, vì mi quá nhiêu khê, quá rách việc, quá nhiều cơ quan và nhiều cá nhân quyết định việc sống còn của ngòi bút mi theo kiểu nhiều cha con khó lấy chồng. Quá nhiều người gác cửa, có thể bất cứ lúc nào vui thì cho anh qua, buồn thì giữ anh lại khám xét, lục vấn, xử lý cấm cản tuỳ tiện vô nguyên tắc như từng thô bạo xử lý bao nhiêu nhà văn, bao nhiêu tác phẩm chết oan vì vừa ra đời đã bị bóp mũi.”

Một tổng kết về “tự do sáng tác” như vậy hẳn rát mặt ngài trưởng ban tư tưởng văn hóa. Vào khoảng năm 1994 , tôi cùng ông anh định cư tại Mỹ, nhà văn Nhật Tiến, ra chung tập truyện ngắn “Quê nhà, quê người” – Nhật Tiến viết phần “Quê người”, tôi viết “Quê nhà”. Bản thảo gửi NXB Văn Học, trầy trật mãi không xin được giấy phép. Nghe nói có ông lãnh đạo chửi “ Mẹ nó, thằng Việt kiều ( ý nói Nhật Tiến) thì viết y như Việt cộng, còn thằng Việt cộng ( ám chỉ tôi) thì lại viết như…Việt kiều (!)".

Cuốn sách tưởng bế tắc, không xuất bản được. Sau nghe nói đồng chí Nguyễn Khoa Điềm có ý kiến sao đó, cuốn sách lại có giấy phép tuy nhiên kèm theo yêu cầu là sách được xuất bản nhưng cấm không được tuyên truyền trên các báo. Báo hại phóng viên một số tờ báo sửa soạn phỏng vấn nhà văn Nhật Tiến đều phải rụt lại hết.

Thế rồi sang năm 2000, khi Nguyễn Khoa Điềm trúng cử Ủy viên Bộ chính trị , Trưởng ban tư tưởng văn hóa thì liền sau đó cuốn “Chuyện kể năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn bị cấm, phải xay thành giấy vụn.

Cùng lúc với “Chuyện kể năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn, một cuốn sách khác cũng bị dìm chết tức tưởi khi mới xuất xưởng in mà dư luận dường như không hề biết tới : cuốn “Những người con của đất” – NXB Văn học của Đỗ Bàn.

Cuốn sách viết về thời kỳ đổi mới những năm tám chín mươi ở một tỉnh miền núi nghèo đói. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã gây nên tình trạng đấu đá tranh giành quyền lực trong Đảng. Ông Duy đại diện cho phái tân tiến, có học, cần phải đổi mới gấp, chịu làm, năng động muốn phá vỡ cơ chế hiện tại. Ông Bí thư Tỉnh phái ôn hoà, làm hay không làm cũng chưa chết ai, cứ đợi đấy. Ông Trịnh Giám đốc công an Tỉnh ở phái bảo thủ cơ hội, chờ thời tiêu diệt những người coi thường mình.

“Tao vô học nhưng tao phải là tao, chúng mày thích “tự cởi trói cho mình trước khi trời trói”, thì hãy đợi đấy !

Một xã hội lùng nhùng, một nền kinh tế lùng nhùng, chỉ có thằng nói không có thằng dám làm ? Nghị quyết, chỉ thị, nghị định, quy chế… chỉ là những văn bản cho bọn cơ hội bóp chết người trung thực dám làm và dám chịu trách nhiệm. Văn bản chỉ thị của Tỉnh thay đổi xoành xoạch : bắt dân phá rau, hoa, chè, cà phê trồng khoai lang, cao lương… khi thất bại đành bán rừng đổi gạo cứu đói và một loạt sai phạm đó lại dội vào đầu những người thực hiện.

Trong một thời gian ngắn, Giám đốc công an Trịnh đã bắt ngót trăm giám đốc của các đơn vị kinh tế trong tỉnh, từ ngành chè, cà phê, lâm nghiệp, thương nghiệp…có người đáng bậc cha chú, đàn anh của mình, có người đồng chí trong những ngày Trịnh truy quét Fulrô… bắt và bắt làm cho cả tỉnh rúm ró lại. Những người như ông Duy chỉ còn biết thở dài ngao ngán, còn ông bí thư thì như bù nhìn “rằm cũng ừ mười tư cũng gật”. Một xã hội công an trị đến ngộp thở, bị bưng bít tới cùng đường thì còn gì là cuộc sống.

“Những người con của đất “ là tiếng nói cảnh tỉnh của những con người trung thực thẳng thắn, sống hết mình vì nhân dân, đã bị hào quang của đảng qua những kẻ dối trá làm mờ mắt mà hy sinh tính mạng một cách vô ích. Nhưng đất vẫn là đất, ai cũng phải sống rồi chết trên mảnh đất này, những kẻ độc ác, cơ hội, tham lam rồi sẽ bị đất huỷ hoại không thương tiếc.

Khi cuốn sách được phát hành cùng thời với cuốn “ Chuyện kể năm 2000” của nhà văn Bùi Ngọc Tấn,Giám đốc Trịnh đã tìm mọi cách cấm phát hành, làm việc với các ngành pháp luật của tỉnh để truy tố người viết… Lúc đó tôi là Trưởng Chi nhánh phía Nam Nhà xuất bản Văn Học, đành phải im lặng tiến hành thủ tục “thu hồi sách”. Sách bị giam cầm, người viết như tù giam lỏng trong thời ông Nguyễn Khoa Điềm ngồi chót vót trong ngành văn hóa tư tưởng.

Sang năm 2003 lại một vụ “cấm sách” nữa dưới triều ông Nguyễn Khoa Điềm. Lần này động trời hơn vì tác giả bị cấm lại là ông nhà văn nổi tiếng ca ngợi cách mạng : nhà văn Nguyễn Khải, lúc đó là Phó Chủ tịch Hội nhà văn VN, đại biểu quốc hội khóa 8. Hơn thế nữa, cuốn sách đã được đăng nhiều kỳ trên tạp chí Nhà văn, nhưng đến khi in thành sách thì lại bị…cấm phát hành. Thực ra cuốn “Thượng đế thì cười” chẳng chửi đảng hay bôi xấu cách mạng gì ghê gớm, nó chỉ có mỗi tội kể chuyện đại biểu quốc hội …ngủ gật”

Chương 22 cuôn sách, Nguyễn Khải huỵch toẹt chuyện hậu trường quốc hội :

“Trong suốt một nhiệm kỳ Quốc hội khoá 8 hắn chỉ phát biểu có một lần về những điều bổ sung cho Luật Báo chí. Hắn đề nghị Quốc hội xem xét cho ra báo tư nhân và nhà xuất bản tư nhân để đảm bảo quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản của một xã hội văn minh. Hắn vừa ngồi xuống thì bà T. cũng là đại biểu của thành phố Hồ Chí Minh, nguyên là một nữ luật sư danh tiếng của Sài Gòn trước đây, một thượng nghị sĩ trong phe đối lập với chính quyền Thiệu, đứng lên phản đối liền. Bà nói, đại ý, rằng hắn chưa từng sống trong xã hội tư bản nên mới ngộ nhận là ở đó có tự do báo chí! Không có đâu! Danh nghĩa là báo của tư nhân nhưng nguồn tài trợ thường xuyên để nuôi sống nó luôn luôn là của các tổ chức chính trị, tôn giáo, nghề nghiệp đầy quyền lực. … Bà vừa dứt lời tiếng vỗ tay đã vỡ ra vang dội và kéo dài khắp hội trường. Ông chủ quyền lực bắt đầu ghét hắn từ ngày ấy, đã muốn đuổi hắn ra khỏi cơ quan quyền lực từ ngày ấy. Rồi hắn lại ngủ gật nữa. Trong những phiên họp tranh cãi sôi nổi về một từ, một câu trong những điều luật bổ sung của Bộ luật Hình sự, thì hắn ngủ gục, đầu vẫn ngay, lưng vẫn thẳng nhưng đầu óc đã trống rỗng, mờ mịt, người ngồi cạnh phải hích nhẹ hắn mới bừng tỉnh. Một ông nghị gật như các báo vẫn chế giễu các ông nghị bản xứ thời Pháp thuộc. …”

Sách in xong bị cấm phát hành nhưng cũng còn may không bị đốt thành tro như “Chuyện kể năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn, sau một năm nằm kho, cấp trên mới ra điều kiện cho Nguyễn Khải muốn “giải tỏa” cuốn sách thì phải cắt bỏ cái đoạn “đại biếu quốc hội ngủ gật” đó.

Nguyễn Khải tâm sự :

“Tôi thấy đoạn kể chuyện ngủ gật ở Quốc hội cũng chỉ là chuyện nói vui, còn nhiều chuyện khác có ý nghĩa hơn, chỉ vì đoạn này mà cuốn sách không thể tới được tay bạn đọc thì cũng tiếc nên tôi đồng ý cắt một trang. Anh em bảo thế là không hay, cái ông Khải này lúc nào cũng nhân nhượng. Thật sự tôi thấy điều ấy cũng không phải là quan trọng nhất, cắt bỏ đi cũng chả ảnh hưởng gì đến quyển sách.”

Trong mấy ngày giáp tết Ất Dậu, ông Nguyễn Khoa Điềm làm một việc xưa nay một ông Trưởng ban văn hoá tư tưởng của Đảng chưa bao giờ làm là tới tận nhà riêng chúc tết một số… nhà báo. Và cũng trong một cuộc Hội thảo về công tác phê bình lý luận , tháng 11 năm 2004 tại Hà Nội ông Nguyễn Khoa Điềm có những phát biểu mới mẻ xưa nay các ông Trưởng ban văn hoá tư tưởng của Đảng chưa từng dám nói bao giờ.

Nói thế nào thì nói, dẫu sao qua những hành động đó người ta thấy một sự cải thiện hình ảnh ông trùm văn hoá văn nghệ Việt Nam xưa nay vốn vẫn bị coi là một “ông kẹ” luôn luôn cầm roi uốn nắn tư tưởng cho khắp bàn dân thiên hạ.

Ấy vậy rồi xảy ra một việc động trời cũng chưa bao giờ thấy “trên mặt trận văn hoá và tư tưởng “, một nhà “phê bình lý luận “ nổi tiếng Mao-ít ở TP Hồ Chí Minh là Giáo sư Trần Thanh Đạm, trên tạp chí “Văn” số Tết Ất Dậu của Hội nhà văn TP Hồ Chí Minh đã viết một bài nảy lửa đả phá một số quan điểm mới mẻ của ông Nguyễn Khoa Điềm làm người đọc bật ngửa về sự mạo phạm cấp trên, cả gan vuốt râu hùm, công khai phê phán lãnh đạo Đảng ngay trong dịp kỷ niệm 75 năm ngày thành lập Đảng.

Ngay trong phần mở đầu dài dòng đầy những nguyên tắc mácxít cứng nhắc , ông Trần Thanh Đạm đã khen xỏ đồng chí Trưởng ban văn hoá tư tưởng :

”Diễn giả (tức NKĐ) không chỉ nói lên các ý kiến của mình với tư cách một nhà thơ, một người nghệ sĩ, ngoài các tư tưởng có tính cách chỉ đạo , còn có những ý tưởng riêng có tính cách cá nhân…làm bài phát biểu bớt đi tính áp đặt mà tăng thêm tính gợi mở , khuyến khích suy nghĩ và thảo luận…”

Như vậy có nghĩa rằng phàm đã là lãnh đạo Đảng trên bất cứ trận địa nào, khi phát biểu trước quần chúng lúc nào cũng phải mang tính cách huấn thị và chỉ được nói những quan điểm của Đảng mà thôi, sao “đồng chí” dám phá lệ gài “ý kiến cá nhân” vào đó ? Thật là một câu phê bình chết người đối với lãnh tụ Đảng và chính vì lo cho Đảng, vì “bảo vệ Đảng” nên một quần chúng cách mạng như Giáo sư Trần Thanh Đạm phải “thí mạng cùi” nhảy ra vạch trần “ những ý kiến cá nhân sai trái” của đồng chí Trưởng ban tư tưởng văn hoá để bảo vệ đường lối mác xít của Đảng. Tinh thần của Giáo sư Trần Thanh Đạm thật dũng cảm ghê gớm chưa ?

Trong bài phát biểu của mình, ông Nguyễn Khoa Điềm thẳng thắn thừa nhận :

“ Đúng là lý luận văn học của ta còn nhiều bất cập và thiếu hụt . Do hệ thống lý luận văn học này được sản sinh trong môi trường của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây…”

Trần Thanh Đạm cãi lại thủ trưởng :

“ Đúng là lý luận văn học của chúng ta trước đây chịu ảnh hưởng của các thành tựu lý luận văn học từ các nước xã hội chủ nghĩa ( trước hết là Liên xô)…song nói rằng lý luận văn học của ta sản sinh ra trong môi trường đó thì chỉ đúng có một phần…”

Rồi ộng ta cho rằng :

“ Nền lý luận văn học của ta…sản sinh ra từ đường lối lý luận và thực tiễn của cách mạng dân tộc , dân chủ và xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam từ 1930 và sớm hơn, từ đầu thế kỷ 20, thể hiện trong các văn kiện của Đảng : Trường Chinh , Lê Duẩn,, Phạm văn Đồng, Tố Hữu qua các đại hội văn nghệ và đại hội nhà văn , các tác phẩm lý luận của các nhà văn, nhà thơ lớn của chúng ta trong thế kỷ 20 như : Hải Triều, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Đặng Thai Mai, Hoài Thanh…và các nhà lý luận ưu tú khác …”

Trưng ra các cây đa cây đề trong “ nền phê bình lý luận cách mạng” theo cái lối mang ngoáo ộp ra doạ con nít , Trần Thanh Đạm có ý hạch tội rằng nói như Nguyễn Khoa Điềm thì còn đâu là tính sáng tạo và tính độc lập tự chủ của đảng ta xưa nay vẫn được tuyên truyền rầm rĩ ra cả thế giới nữa . Sau khi trưng ra ý kiến phát biểu của Nguyễn Khoa Điềm về lý luận văn học :

“ Hệ thống lý luận văn học của ta do phải tập trung cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội mà phần nào bỏ quên hoặc tránh đi những đặc trưng văn học, những vấn đề rộng lớn của văn chương và của con người …”

Ông Trần Thanh Đạm dám lên giọng “xách mé” :

“ Có lẽ khó quan niệm một chủ nghĩa xã hội gì mà văn học lại bỏ quên hoặc tránh né các vấn đề rộng lớn của văn chương và con người ?… Một chủ nghĩa xã hội như vậy còn xứng đáng được gọi là chủ nghĩa xã hội được hay không ?…Thực tế nước ta mới quá độ lên chủ nghĩa xã hội, còn phải “ tập trung cho giải phóng dân tộc, đánh thắng đế quốc xâm lược “ không thể phát triển và xây dựng một nền văn học như trong hoà bình”…thế nhưng nói rằng chúng ta né tránh hoặc bỏ quên các vấn đề đó thì không đúng…”

táo tợn hơn, Trần Thanh Đạm phê phán sếp lớn :

“ Tôi cho rằng lý giải các yếu kém thiếu hụt của lý luận văn học chúng ta như diễn giả đã làm là có phần hời hợt , sơ lược, chủ quan , không trên cơ sở một nhận thức lịch sử thật chu đáo , thận trọng…”

rồi cả doạ nạt :

“ Kết cục của diễn biến hoà bình trong lĩnh vực tư tưởng văn hoá là bạo loạn lật đổ trên lĩnh vực chính trị xã hội. Những người cầm cờ , cầm lái không thể mơ hồ trong nhận thức của mình…”

Quả thực xưa nay , chưa ai dám công khai dạy dỗ “lãnh đạo đảng “ trên phương tiện báo chí của đảng nặng nề thế này. Trong bài phát biểu của Nguyễn Khoa Điềm có một luận điểm khá mạnh dạn, mới mẻ :

“ Lâu nay trong quan hệ giữa nội dung và hình thức chúng ta chỉ chú trọng những mặt nội dung mà xem nhẹ yếu tố hình thức , như vậy là chúng ta mới đề cập mặt xã hội của văn chương mà chưa thấy yếu tính của văn học là ngôn ngữ nghệ thuật …”

Sự thực, đây là một sự thừa nhận rất đáng biểu dương đối với một nhà lãnh đạo văn hoá văn nghệ cộng sản . Tuy nhiên đối với các lý luận gia “mao ít" hơn cả "mao nhiều” như Trần Thanh Đạm thì sự thừa nhận đó là đi chệch đường lối văn hoá văn nghệ của Đảng cần kéo còi báo động :

“ Diễn giả đã “vơ đũa cả nắm” khi dùng đại từ “chúng ta “ ở đây, nếu nói “một số người trong chúng ta “ thì còn nghe được. Đó là những kẻ cơ hội, giáo điều , thậm chí ngu dốt trong văn học nghệ thuật …”

Ô hô, nói vậy khác nào chửi sếp lớn là cơ hội, giáo điều, ngu dốt ?

* trách : một loại niêu đất .

(còn tiếp)

khieman
04-10-2014, 05:13 AM
(tiếp theo)


Hẳn ai cũng biết, những cây bút “quốc doanh” đặc biệt lý luận phê bình cả đời chỉ quyết làm cháu ngoan bác Mao, sống chết với tinh thần văn nghệ Diên An chẳng mấy thiện cảm với nhà văn Nguyễn Huy Thiệp - người cứ thích nói ngược những gì thiên hạ nói xuôi. Trong con mắt các lý luận gia mác xít hơn cả cộng sản như Mai Quốc Liên, Trần Trọng Đăng Đàn, Trần Thanh Đạm…, Nguyễn Huy Thiệp như một kẻ có tội, một con chiên ghẻ cần phải rút phép thông công, một kẻ “ngoại tình” cần phải ném đá, một tên “ăn cơm cộng sản thờ ma Việt kiều”…

Vì sao Thiệp trở thành “phần tử nổi cộm”, cái gai trong con mắt giới lý luận bảo thủ cực đoan như vậy ?

Thưa rằng xưa nay Thiệp vốn “ăn lộc” tối đa của Nhà nước, suốt một thời đổi mới cho đến nhiều năm sau, cả một bộ máy tuyên truyền của Đảng và Nhà nước “bốc thơm” Nguyễn Huy Thiệp lên mây xanh, đã trao ‘cây bút vàng” cho Thiệp trên khắp các mặt báo chí, sách, điện ảnh, truyền hình làm lu mờ cả những giá trị văn chương “cây đa cây đề “ . Ăn “lộc Đảng” nhiều vậy mà xem ra Thiệp không chịu ca ngợi Đảng lấy một câu gọi là ghi nhận mình cũng từ cái nôi văn hoá xã hội chủ nghĩa ra.

Đã không “trả nghĩa” cho Đảng thì chớ, Thiệp ngày càng ngoa ngoắt xỏ xiên . Bỏ qua những lỗi bôi bác lịch sử hoặc bôi đen xã hội như chuyện con dâu ông tướng hưu nhét cả thai nhi nấu cho chó ăn, trong vở kịch “ Suối nguồn êm dịu” vốn được bà Thuỵ Khuê ở đài RFI “tôn vinh” là “nhà thạch học”, tức sử gia không viết lên giấy mà khắc vào đá, Thiệp đã chơi lại cái mẹo “biểu tượng hai mặt’ của Nhân Văn ngày trước, bôi bác nhân vật lãnh tụ trong một xã hội “toàn trị” và bóng gió đề cao “Ông 2000” dễ thấy là biểu tượng của “ông” “Hiến chương năm 2000” mấy năm trước được phát động rầm rộ ở Paris đòi dân chủ, đa nguyên .

Không kể chuyện “đánh võ mồm” như trả lời phỏng vấn ở Pháp “ói mửa vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, trong truyện vừa “Tuổi 20 yêu dấu” , ông Thiệp chửi tuốt luốt cả từ nhà trường tới quốc hội, và trong “Chuyện trò với hoa thuỷ tiên” , Thiệp gọi đám nhà văn trong nước là bọn “giặc già” vừa bất tài, vừa tham lam vừa thất học…

Bị chửi ông chửi cha vậy mà Hội nhà văn Việt Nam vẫn im thin thít, ngay cả ông Tổng thư ký Hội Hữu Thỉnh vào những dịp đăng đàn diễn thuyết cũng…”ngó lơ”. Tình trạng nuông chiều , e nể Nguyễn Huy Thiệp làm các phê bình lý luận gia "mao ít" ngồi đầy trong các Viện nghiên cứu và các trường Đại học tức lộn ruột chỉ mong một ngày “hoàng đạo” nào đó sẽ tay dao tay thước xúm vào đánh đòn hội chợ. Nào ngờ, ngày ấy chưa đến, đã thấy Nguyễn Huy Thiệp chơi luôn một tiểu phẩm “ Mổ xẻ nhà văn” xỏ xiên các nhà phê bình chỉ muốn tiến thân bằng xác các nhà văn. Hành động đổ dầu vào lửa của Nguyễn Huy Thiệp càng nung nấu thêm “lòng căm thù” của giới lý luận “mác xít tới bến” chỉ chờ cấp trên gật đầu là xúm vào “bề hội đồng ”.

Vậy mà có ai ngờ, đồng chí Trưởng ban văn hoá tư tưởng Nguyễn Khoa Điềm chẳng những không phát lệnh “giết chết thằng Thiệp” lại còn khen ngợi Thiệp thì còn trời đất nào nữa hở …trung ương Đảng ?

Lẽ ra là người cầm cân nảy mực giữ gìn, bảo vệ tư tưởng của Đảng, ông Nguyễn Khoa Điềm phải nghiêm khắc “lên án” và vạch ra những tội lỗi của Thiệp, đằng này ngược lại đưa ra những luận điểm khá mới mẻ so với cái vốn có của Đảng khi khen ngợi và có ý “tha bổng” cho Thiệp :

” Có người đã nói anh Thiệp đã viết những điều trước nay chưa ai viết . Tôi thấy điều ấy không quan trọng lắm. Về mặt nội dung, có những điều anh Thiệp sai nhưng về mặt đổi mới ngôn ngữ nghệ thuật thì anh Thiệp lại có nhiều đóng góp…Ở vào thời điểm mang tính chuyển đổi thì nhiều lúc hình thức lại mang tính cách mạng của nó…”

Vậy là những điều Nguyễn Huy Thiệp viết dù xưa nay chưa ai dám viết cũng chẳng là cái gì phải làm ầm ĩ lên, cái chính là Thiệp đổi mới ngôn ngữ nghệ thuật. Ông trùm văn hoá đã nói vậy tức là đã “tha bổng” Nguyễn Huy Thiệp. Lập tức Trần Thanh Đạm dám xổ toẹt quan điểm của đồng chí Trưởng ban tư tưởng :

“ Không cần phải là nhà lý luận uyên thâm gì cũng có thể thấy nhận định của tác giả về Nguyễn Huy Thiệp là không chính xác, là tách rời nội dung với hình thức, tách rời ngôn ngữ nghệ thuật với tư tưởng nghệ thuật…”

Và to gan lớn tiếng mắng mỏ ông Ủy viên Bộ chính trị dốt lý luận :

“ Có lẽ do chưa nhận thức rõ về mặt lý luận cũng như thực tiễn nên diễn giả đã tiếp cận các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp một cách siêu hình , tách rời máy móc nội dung và hình thức…”

Rôi bằng một giọng đay nghiến, khinh khỉnh hoàn toàn ngược với giọng giữa cấp dưới với cấp trên, Trần Thanh Đạm tuôn ra liên hồi những lời lẽ đả phá mạnh mẽ ý kiến của Nguyễn Khoa Điềm :

“ Há rằng “ phi anh hùng hoá “ một ông tướng về hưu , “ phi thần tượng hoá một anh hùng dân tộc vv…chỉ là đổi mới và đóng góp cho ngôn ngữ nghệ thuật hay sao ? “

Táo tợn hơn , đây là lần đầu tiên trong lịch sử Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, một ông Trưởng ban văn hoá tư tưởng bị kết tội công khai trên báo :

“ Trong khi một số nhà văn, nhà phê bình lên án những ngôn luận xằng bậy của anh Thiệp đối với các văn hữu trong Hội nhà văn thông qua các bài như : Hoa thuỷ tiên, Mổ nhà văn, Tuổi 20 yêu dấu v…v…thậm chí xúc phạm đến cuộc kháng chiến dân tộc thì đồng chí Nguyễn Khoa Điềm hình như có ý muốn che chắn cho Nguyễn Huy Thiệp …”

Hơn thế nữa ông Nguyễn Khoa Điềm còn có một bước tiến đổi mới khá xa so với những người tiền nhiệm khi ông phát biểu :

“ Người nghệ sĩ có tư chất và thẩm quyền của họ , không nên buộc họ lệ thuộc quá nhiều vào thực tại…”

Nghĩa là không nên ép uổng nhà văn viết “người thực việc thực”,”người tốt việc tốt”, không nên bắt buộc nhà văn phải “đi thực tế” để dựng nên “bức tranh hào hùng về cuộc sống sản xuất và chiến đấu của nhân dân ta “ . Vậy là lần đầu tiên Đảng đã “cởi trói’ cái nghĩa vụ “phi sáng tạo “ cho nhà văn, đồng thời còn thừa nhận cái “thẩm quyền” của người cầm bút.
Vớ được câu này, Trần Thanh Đạm mừng rỡ chẳng khác hải quan khám ra hàng lậu. Lẽ ra mang danh là nhà nghiên cứu, Trần Thanh Đạm phải nhiệt liệt ủng hộ những tín hiệu đổi mới của ông Nguyễn Khoa Điềm, ngược lại còn đưa ra những lời phản đối cũ rích :

“ Người nghệ sĩ không phải lệ thuộc quá nhiều vào thực tại , song tôi nghĩ người nghệ sĩ chân chính nào cũng quan tâm đến con người và cuộc sống, có trách nhiệm với thực tại chứ không chỉ biết có tư chất và thẩm quyền của mình…”

nghĩa là Trần Thanh Đạm vẫn đề cao cái “nghĩa vụ xã hội” , cái trách nhiệm “tổ chức quần chúng của Đảng” vốn là tôn chỉ của Hội nhà văn Việt nam. Nguy hiểm cho ông Nguyễn Khoa Điềm hơn nữa khi ông nói :

“ cần tránh khuynh hướng cực đoan khi xem xét văn học chỉ như một sáng tạo nghệ thuật thuần tuý và văn học chỉ như một vũ khí chính trị …”

ngay lập tức, Trần Thanh Đạm mang cả “lời Bác dậy” ra để dằn mặt :

“ Văn hoá nghệ thuật không ở ngoài mà ở trong kinh tế và chính trị”.

Vậy đừng có tơ lơ mơ, chính trị bao giờ cũng là ‘thống soái” và Trần Thanh Đạm lớn tiếng mắng mỏ Nguyễn Khoa Điềm:

“ chưa bao giờ văn học và chính trị rời xa nhau nửa bước, chỉ những kẻ tự lừa dối mình hoặc lừa dối người khác mới không trông thấy hoặc giả vờ không trông thấy …”

Rồi đao to búa lớn, Trần Thanh Đạm khẳng định lại cái “vòng kim cô” vẫn úp trên đầu các nhà văn :

“Khẩu hiệu của Hội nhà văn Việt Nam và của báo Văn Nghệ là :” Vì Tổ quốc , vì Chủ nghĩa xã hội” là một cam kết chính trị trung thực , thẳng thắn và đẹp đẽ. Theo tôi đó là ngọn cờ chính trị và chính nghĩa của văn học Việt Nam hiện đại…”

Và sau hết Trần Thanh Đạm nổi còi báo động :

“ Mưu mô “diễn biến hoà bình “ khởi đầu từ trận địa văn hoá tư tưởng trong đó có văn học nghệ thuật , truyền bá và thẩm thấu các các quan niệm sai trái về nghệ thuật , nhân danh cái đẹp mơ hồ , trừu tượng để nguỵ trang sự lừa dối , cái ác , cái xấu , nhằm làm hủ bại đạo đức tư tưởng của chúng ta và con cái chúng ta…”

Suốt bài viết của Trần Thanh Đạm không hề nhắc tới chức vụ Uy viên Bộ chính trị, Trưởng ban tư tưởng văn hoá của Đảng của ông Nguyễn Khoa Điềm làm người ta không thể không đặt câu hỏi :

” Ai đang đứng sau Trần Thanh Đạm và tạp chí Văn của Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh , nhất trong hình hình cuộc đấu đá ngày càng gay cấn khi Đại hội Đảng đang tới gần ?”

Tất nhiên nếu đồng chí Trưởng ban tư tưởng văn hóa Nguyễn Khoa Điềm vẫn ngồi vững trên ghế ngay cả khóa sau thì Trần Thanh Đạm có uống cả ký “mật gấu” cũng không dám “mó dái ngựa” . Cả cái tạp chí “Văn” của Hội nhà văn TP Hồ Chí Minh cũng vậy, nếu không đánh hơi thấy sếp cũ sắp đi, sếp mới sắp về thì dù có lệnh của tuyên huấn thành ủy cũng không dám “cãi cấp trên” vốn là điều tối kỵ trong “sổ tay phóng viên”.

Vì sao đồng chí Trưởng ban tư tưởng văn hóa Nguyễn Khoa Điềm lại “đốc chứng” vậy ngay khi còn tại vị ? Ngày nay trong kinh tế người ta hay nói tới thuật ngữ “tái cấu trúc” tức là sắp xếp, tổ chức lại để xí xóa mọi chuyện tham ô, tham nhũng. Các nhà văn, nhà lý luận văn học vào cuối đời cũng có một” “tái nhận thức “ kiểu như Chế Lan Viên với “ Bánh vẽ”, Nguyễn Khải với “ Đi tìm cái tôi đã mất”, Nguyễn Đình Thi với “bài thơ gửi lại “…có tính cách “phản tỉnh”, “nghĩ lại những điều đã nghĩ”.

Khác với họ, Nguyễn Khoa Điềm sớm “tái nhận thức” vào cuối nhiệm kỳ và chắc cũng đã biết ngày trở về cố đô Huế cũng sắp tới.

Qua trường hợp Nguyễn Khoa Điềm, người ta thấy được cái khó của các “nhà lãnh đạo tư tưởng “ Việt Nam . Giữa một biển cán bộ mênh mông, ý thức hệ còn sặc mùi ''mao-ít'', ông Nguyễn Khoa Điềm có muốn đổi mới, rũ bỏ những cái cũ kỹ và lỗi thời, thực sự ông phải đương đầu với cơn bão bảo thủ ghê gớm cả trong Đảng lẫn ngoài xã hội, đòi hỏi ở ông một lòng dũng cảm và một tâm huyết thật sự vì dân vì nước là cái chưa thấy ở ông .

Từ dạo quay về làm dân ở Huế, tuy nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm - sống rất lặng lẽ và kín tiếng. “Bây giờ tôi chỉ còn chường cái mặt tôi ra trong thơ”, nhưng ông vẫn tiếp tục “tái nhận thức”. Tháng 6 -2011, trả lời phóng viên báo Lao Động, ông nói những câu khối anh phải giật mình :

“ Bài trừ tất cả các loại văn hoá liên quan tới phong kiến, thực dân... chúng ta đã cắt đứt quá khứ, cắt đứt sâu chừng nào thì được cho là có quan điểm lập trường tốt chừng đó. Đó là một thái độ rất nguy hại.”

“ Thơ thì phải nói thật lòng mình, không thể giấu mình, không thể nói dối... Việt Nam chúng ta lại quan niệm văn học là đạo lý, trách nhiệm... nên gò bó sự sáng tạo cũng như hạn chế sự thổ lộ. Trong khi văn chương phải thể hiện cái đẹp nội tâm của con người

“Vì vậy tôi đã nghỉ hưu, nhưng nhiều người lãnh đạo mong tôi phải thế này thế kia, phải làm thơ ngợi ca, phải hô hào tiến lên... Vừa rồi khi tôi công bố một số bài thơ trên báo sau khi về Huế, có rất nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí có người chê trách tôi “đổi giọng”, nhưng tôi không quan tâm...''...

Tuy nhà thơ không quan tâm nhưng chắc độc giả thì chờ đợi ông tiếp tục “đổi giọng” như thế. Nhà thơ Xuân Sách dường như chưa nhận ra quá trình “tái nhận thức” của Nguyễn Khoa Điềm nên viết chân dung khá đơn giản :

Một mặt đường khát vọng
Cuộc chiến tranh đi qua
Rồi trở lại ngôi nhà
Đốt lên ngọn lửa ấm
Ngủ ngoan A kai ơi
Ngủ ngoan A kai ời...

8-2-2012
Nhật Tuấn

khieman
04-10-2014, 08:44 PM
(tiếp theo)




http://4.bp.blogspot.com/-RsZpN291lmQ/Tw8YSV2sHcI/AAAAAAAAAT8/lt7AIkhswVM/s400/HPNT.jpg (http://4.bp.blogspot.com/-RsZpN291lmQ/Tw8YSV2sHcI/AAAAAAAAAT8/lt7AIkhswVM/s400/HPNT.jpg)




Hồi năm 1978, ông bạn họa sĩ Trịnh Tú, lúc đó là thư ký bác sĩ Tôn Thất Tùng, GĐ bệnh viện Phủ Doãn Hànội, một hôm rủ tôi :

“ Tới thăm vợ chồng Hoàng Phủ Ngọc Tường đi !”

Tôi ngần ngại :

“ Có việc gì cần không ? Nếu không thì ngồi quán bà Dậu làm chén rượu chẳng hơn à ?’

Hồi đó tôi ở phố Ấu Triệu sát ngay bệnh viện Phủ Doãn nên Trịnh Tú thưởng lẻn sang rủ tôi uống rượu ở quán bà Dậu ngay đầu phố . Nguyên là ông bạn vàng này mới nhờ tôi đưa bồ hắn từ Sàigòn ra đi thăm nuôi chồng vốn là sĩ quan quân đội cộng hòa đang cải tạo mãi tại vùng rừng núi heo hút Thanh Hóa. Vì không phải thân nhân nên tôi không được vào trại, lại thêm mấy ông cai tù xua đuổi, đành ngủ rừng một đêm muỗi cắn gần chết, sởn tới già. Sợ ông bạn lại “sai” việc nữa , tôi giao hẹn trước :

“ Tới chơi thôi, còn có việc thì thôi nhé !”

Trinh Tú cười cười :

“ Tới giúp bà Mỹ Dạ, vợ ông Tường đi khám bệnh…”

Tôi gật gật:

“ Vậy thì được…”

Tôi tưởng vợ chồng nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường phải ở một căn hộ nào đó ở khu hồ Tây hoặc khu nghỉ dưỡng Quảng Bá, không ngờ Trịnh Tú đưa tôi lên đường đê La Thành vào trường viết văn Nguyễn Du tới một căn buồng mái tranh, vách đất, trống huếch trống hoác, giữa nhà trải chiếc chiếu, một người đàn ông gày guộc, ngồi xệp, hai đầu gối qúa tai.

Chắc đã hẹn trước, nhà văn vồn vã mời ngồi, còn chị vợ - nhà thơ Lâm thị Mỹ Dạ thì xin phép vào bếp rang…lạc đãi khách. Trịnh Tú vội xua tay :

“ Thôi thôi…tôi tới coi sức khỏe chị sao ? Liệu có giúp được gì rồi phải về ngay…”

Trong lúc Trịnh Tú hỏi chuyện chị vợ thì tôi ngắm nhà văn. Ôi chao ôi , người đàn ông gày gò, ốm đói kìa lại là người viết ra bút ký “ Rất nhiều ánh lửa “đăng trang nhất báo Văn Nghệ ư ? Điều kiện sống tối tăm và ẩm thấp thế này ông lấy đâu ra lửa ?

Trên đường về tôi la oai oái. Thật không thể tưởng tượng được, một “nhà văn viết bút ký hay nhất của văn học ta hiện nay” ( Nguyên Ngọc) , hồi Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 ở Huế là tổng thư ký Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hoà bình Thành phố Huế , soạn “Lời hiệu triệu” kêu gọi quần chúng nổi dậy, thu băng phát đi khắp các nẻo đường, phố phường Huế Tết Mậu Thân , có thành tich lớn trong phong trào “diệt ác, trừ gian”, theo đồn đại đã từng ngồi ghế Chủ tọa Tòa án Nhân dân tại trường Gia Hội . Năm 1972 được điều ra làm Trưởng Ty Văn hoá tỉnh Quảng Trị ở Đông Hà (vùng mới giải phóng của Mặt trận Giải phóng), 17 năm kiên trì làm “đối tượng Đảng” rồi được kết nạp…

Một người đã bỏ đô thị “lên xanh” theo cách mạng với thành tích lớn thế sao ra Bắc lại bị “đãi ngộ” nghèo nàn đến vậy.
Ra khỏi nhà Hoàng phủ Ngọc tường, tôi lo lắng hỏi bệnh tật chị Mỹ Dạ, Trịnh Tú gạt đi :

“Bệnh tật gì đâu…bệnh thiếu…protide ấy mà…ăn uống thiếu thốn, kham khổ nên sinh bệnh thế thôi.”

Tôi nổi cáu :

“ Một cặp nhà văn –nhà thơ có nhiều đóng góp cho cách mạng thế sao giờ lại đối xử vậy ?”

Trinh Tú cười hề hề :

“ Cậu đi hỏi mấy ông trên, sao hỏi tớ ? Thôi, ghé quán bà Dậu làm chén “cuốc lủi” , mặc mẹ sự đời .”

Sau này vợ chồng Hoàng Phủ Ngọc Tường rời Hà Nội trở về Huế và nghe nói được “đãi ngộ” khá hơn. Ở Đại hội Nhà văn lần thứ V (1995), văn phòng Tổng Bí thư Đỗ Mười đưa xe đến mời nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường tới gặp riêng Tổng bí thư. Dịp tết Ất Dậu, ông Đinh La Thăng, giờ là Bộ trưởng Bộ Giao Thông Vận Tải nổi tiếng vụ “trảm tướng” sân bay Đà Nẵng, đòi đánh thuế cả xe máy dân nghèo, lúc đó là Phó bí thư thường trực Tỉnh ủy đến tận nhà, tặng vợ chồng nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường một dàn máy tính xịn.

Năm 1980-1981, được Giải thưởng Văn học Hội Nhà văn Việt Nam với tập “Rất nhiều ánh lửa” (1979).

Năm 2007, được Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, cùng đợt với vợ là nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.

Ông từng làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương và Tạp chí Cửa Việt.

Tháng 7-1997, Hoàng Phủ Ngọc Tường sang thăm Paris. Khi được bà Thụy Khuê (RFI) hỏi :

“Nhìn từ phía những dữ kiện lịch sử mà anh nắm bắt được, diễn biến Mậu Thân đã xẩy ra trong một trình tự như thế nào"

Ông đã trả lời :

“ Điều quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng…”

Phải chăng vì những oan hồn đó, sau này trên giường bệnh, ông làm những câu thơ đậm chất “tâm linh” :

Những chiều Bến Ngự dâng mưa
Chừng như ai đó mơ hồ gọi tôi
Tôi ra mở cửa đón người
Chỉ nghe tiếng gió thổi ngoài hành lang.

Hoặc :

“Nợ người một khối u sầu
Tìm người tôi trả ngày sau luân hồi ……”



http://farm8.staticflickr.com/7031/6774965091_aaeba33004_z.jpg (http://farm8.staticflickr.com/7031/6774965091_aaeba33004_z.jpg)



Cũng trên giường bệnh, trả lời nhà báo, Hoàng Phủ Ngọc Tường thành thực :

“ Nhà văn phải nói lên sự thật…”

Qúa đúng, với ông , có lẽ trước hết là sự thật về cuộc Tổng tiến công nổi dậy năm Mậu Thân ở Huế.

Nhà thơ Xuân Sách có lẽ hiểu khá thấu đáo Hoàng Phủ Ngọc Tường nên đã hạ bút :

“Trăm năm ông phủ... Ngọc Tường ơi
Cái nợ lên xanh giũ sạch rồi
Cửa Việt tung hoành con sóng vỗ
Sông Hương lặng lẽ chiếc thuyền trôi
Sử thi thành cổ buồn nao dạ
Chuyện mới Đông hà tái nhợt môi
Từ biệt chốn xưa nhiều ánh lửa
Trăm năm ông phủ... Ngọc Tường ơi!”

N.T.

khieman
04-11-2014, 04:16 AM
(tiếp theo)




http://antgct.cand.com.vn/Uploaded_ANTGCT/HoaBT/8_nhatho150.jpg (http://antgct.cand.com.vn/Uploaded_ANTGCT/HoaBT/8_nhatho150.jpg)

PHẠM TIẾN DUẬT


Vào những năm 1973-74, cuộc chiến tranh chống Mỹ đã kéo quá dài, khó khăn kinh tế ngày càng trầm trọng, tâm lý chán nản, “hòa bình chủ nghĩa” đã xuất hiện trong một bộ phận quân đội và nhân dân .

Vào đầu năm 1974, tại một đỉnh dốc Trường Sơn ngang đoạn bốt Đỏ Mỹ , gần sông A Vương, tôi cùng nhóm trinh sát công binh đang ngồi nghỉ, bất chợt một chiếc xe quân dụng bịt bạt từ Bắc vào, qua chỗ chúng tôi ngồi, xe dừng lại, anh lái nhảy từ trên xe xuống chửi toáng :

“ Mẹ kiếp…thằng miền Bắc làm thằng miền Bắc ăn, thằng miền Nam làm thằng miền Nam, đánh nhau làm đ….gì cho khổ chúng ông…”

Tôi trợn tròn cả mắt. Í chết chết…câu nói này mà đến tai chính trị viên thì thằng cha này ra Tòa án binh là cái chắc. Vậy mà cả đám ngồi đó chẳng ai nói gì, còn cười hô hố .

Tâm lý “mệt mỏi vì chiến tranh kéo dài” đó không thể không ảnh hưởng tới văn học. Hồi còn Hà nội, nhà thơ Định Nguyễn tức Bá, biên tập Tạp chí Thanh Niên vẫn hay tới nhà tôi nhậu nhẹt, đưa tôi coi bài thơ “ Vòng trắng” của Phạm Tiến Duật :

Khói bom lên trời thành một cái vòng đen
Trên mặt đất lại sinh bao vòng trắng
Tôi với bạn tôi đi trong im lặng
Cái im lặng bình thường đêm sau chiến tranh.
Có mất mát nào lớn bằng cái chết
Khăn tang vòng tròn như một số không
Nhưng bạn ơi, ở bên trong vòng trắng
Là cái đầu bốc lửa ở bên trong.

Í chết, thơ sặc mùi “phản chiến”, bi quan, “hòa bình chủ nghĩa” thế này sao mà đăng. Không ngờ sang tháng 1-1974, Định Nguyễn uống thuốc liều sao đó, cả gan cho đăng trên Tạp chí Thanh niên và lập tức ăn đòn hội chợ. Cũng may anh là học sinh miền Nam nên cũng đỡ không thì đi đập đá là cái chắc.

Sau “Vòng trắng “ của Phạm Tiến Duật đến lượt “Sẹo đất” của Ngô văn Phú bị “lên đĩa” :

Cái hố bom nằm trên vạt ruộng
Dẫu san bằng vẫn cứ nhận ra
Đến mùa bừa chân bước nhấp nhô
Lúa cấy kín, vệt tròn còn đấy
Tưởng trên da thịt mình mới sẹo
Ai ngờ đất cũng sẹo như người

Trong chiến tranh đạn cắm tay tôi
Trong chiến tranh hố bom dầy đất
Hết chiến tranh, tôi về hợp tác
Đất chuyển vần, vụ lúa vụ khoai

Ái chà, cả nước đang nêu cao khí thế anh hùng cách mạng, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, thơ thẩn gì bi quan, than vãn như thế ? Lập tức ông trùm văn nghệ Tố Hữu kéo còi báo động :

"Tà khí đang bốc lên ...",

Nhà thơ chính thống Chế Lan Viên phải đẻ ra một từ mới : "bọn bàng thống" , để chỉ những cây bút "chân đất" đang khởi màu phản kháng, và nhà thơ Dương Tường khi được hỏi về "đặc điểm của thời đại chúng ta", đã buông một tiếng thở dài:
"L'angoisse" - sự lo âu.

Vâng, những năm đó bầu trời Hà Nội lúc nào cũng ong ong một màu tai ương, mỗi sáng anh em cầm bút thường hỏi nhau, hôm nay, báo Văn Nghệ làm thịt thằng nào đây, danh sách "cấm bút" có thêm thằng nào.

Tâm trạng bất an thường trực trong những cây bút "bàng thống" khiến chẳng còn lòng dạ đâu nghe một bản giao hưởng, coi một tranh tĩnh vật. Tháng Tư năm 1975, nếu không có sự kiện ngày 30, cái tâm trạng bất an đó còn trĩu nặng biết chừng nào, bởi lẽ, mừng rỡ về "đại thắng mùa Xuân", Đảng đã "tha" hết, bỏ qua những bắt bẻ, những suy diễn, giảm thiểu đi rất nhiều cái tâm lý bất an thường trực kia.

May mắn thay, trong suốt thời gian đó, Phạm Tiến Duật lại đang “chiến đấu” trong Trường Sơn, sáng tác những bài rung động cả nước “ Tiểu đội xe không kính”, “Vầng trăng quầng lửa”,” Gửi em cô thanh niên xung phong”, “ Trường Sơn đông, Trường Sơn tây”…Nhiều bài đã trở thành “tiếng đàn muôn thủa” mà không phải ai cũng “tri âm”. Có trải qua những năm tháng Trường Sơn mới “thấm “ hết thế nào là “ Muỗi bay rừng già cho dài tay áo”,”Nước khe cạn bướm bay lèn đá”,” Hết rau rồi em có lấy măng không?”…

Cứ mỗi lần đọc lại thơ Duật, tôi thấy nghèn nghẹn trong lòng, dội lại cả một thời đã qua. Quả thực , “ Lửa đèn” như nhạc cổ điển vậy, lâu lâu nghe lại vẫn thấy bồi hồi.

Khoảng tháng 3 năm 1975, tôi gặp nhà thơ – nhạc sĩ Nguyễn Thuỵ Kha ở sông A Vương (Quảng Đà) trên đường anh vào B. Tay bắt mặt mừng. Kha hỏi tôi có gặp Duật không ? Tôi bảo tuy cùng lính “ Năm năm chán” (559) nhưng Duật ở Cục chính trị mãi ngoài Vĩnh Mốc, còn tôi ở tiểu đoàn trinh sát tít trong này sao mà gặp ?

Mãi tháng 9 -1975 tôi mới ngồi xe commăngca , mặc đồ lính chạy vào Sàigon ở chơi ít ngày nhà ông anh là nhà văn Nhật Tiến tại Tòa soạn báo Thiếu Nhi phố Thiệu Trị.

Một buổi sáng có một cô gái xinh đẹp tới xin gặp . Áo dài trắng, người mình rây, tóc ngang vai…thoạt nom biết ngay là nữ sinh Sàigon.

Cô hỏi tôi có quay ra Hà Nội không ? Tôi bảo chắc chắn sẽ quay ra. Cô rụt rè :

“ Vậy thì anh chuyển giúp em cuốn sách này cho…nhà thơ Phạm Tiến Duật…”.

Tôi giật mình, hóa ra ông bạn vàng đã lẻn vào Sàigon trước tôi và sau này nghe nói Duật phải kiểm điểm về tội bỏ đơn vị quá lâu .

Cô gái có vẻ buồn và ngơ ngác. Hóa ra cô nhờ tôi chuyển cho Duật cuốn “Con chim trốn Tuyết…” , truyện của Gallico viết về Rhayader, một hoạ sĩ tật nguyền, phải tìm nơi ẩn dật ở một hải đăng hoang phế ven biển và chết bên dưới vòng cánh lượn đầy tình nghĩa của "con chim trốn tuyết".

Nội dung cuốn truyện chẳng dính dáng gì tới Duật mà sao cô gái cứ khẩn khoản tôi chuyển cho anh. Bất ngờ, bằng những kinh nghiệm tình trường, tôi chợt nghĩ ra :

“ Phải tên cô là Tuyết không ?”

Cô gái gật đầu e thẹn :

“ Dạ vâng, em tên Tuyết…”

Tôi bật cười :

“ Con chim của Gallico thì trốn tuyết, còn Duật thì trốn…cô à ?”

Cô gái đỏ bừng mặt nhưng sự im lặng đã là câu trả lời. Ít lâu sau ra Hànội tôi nhắn Duật tới “nhận quà Sàigon”. Hồi đó dân gian có câu “ miền Bắc nhận hàng, miền Nam nhận họ”. Tất nhiên Duật không rơi vào trường hợp đó nên cứ thắc mắc không biết ai gửi quà cho anh ? Tôi đưa ra cuốn “con chim trốn Tuyết “ :

“ Sao ? Đã nhận ra ai gửi chưa ?”

Nhìn cái tựa sách, dường như Duật đã hiểu ra, mặt đỏ bừng, buồn buồn. Tôi nhắc :

“ Thế nào…định trốn …Tuyết à ?’

Duật khó khăn :

“ Cái gì đã qua thì thôi cho qua luôn…”

Hồi đó Duật vẫn đang ở với chị Vân, tôi giằng cuốn sách lại :

“ Thôi đừng cầm về…bà Vân biết thì rắc rối…”

Duật lắc đầu :

“ Không sao…không sao đâu…”

Anh vẫn cầm cuốn sách về , thẫn thờ như người mất hồn và không nói gì thêm. Nhiều năm sau gặp lại Duật ở phòng làm việc của Tùng Điển, Phó chủ tịch Hội liên hiệp VHNT. Thì ra Duật đã về tạp chí của Hội,lương bổng bằng cái “móng tay” so với quan chức Hội nhà văn. Chẳng hiểu sao Duật cứ buồn buồn, tất nhiên không phải vì chuyện “con chim trốn Tuyết” – nghe nói cô gái đã định cư ở Mỹ. Thời gian này chắc để kiếm thêm do thu nhập eo hẹp Duật đang làm MC trong tiết mục “Cây cao bóng cả” trên tivi.

Nhìn vẻ mặt buồn và khắc khổ, tôi nhói lên thương anh. Bằng vào sự nghiệp thơ, lẽ ra Phạm Tiến Duật phải được cấp villa ven hồ Tây, phải được dựng tượng ở nghĩa trang Trường Sơn và đặt tên cho một phố lớn Hànoi.. Nhưng mà nghĩ lại , những cái đó để làm gì ?

“Anh cùng em sang bên kia cầu
Nơi có những miền quê yên ả
Nơi có những ngọn đèn thắp trong kẽ lá
Quả cây chín đỏ hoe
Trái nhót như ngọn đèn tín hiệu
Trỏ lối sang mùa hè…”

Đọc lại dưng dưng muốn khóc. “Lửa đèn”, “ Gửi em cô thanh niên xung phong…”, đó mới là “tượng đài” Phạm Tiến Duật.

khieman
04-13-2014, 03:11 PM
(tiếp theo)





http://nhavantphcm.com.vn/userfiles/image/Bang%20Viet.jpg (http://nhavantphcm.com.vn/userfiles/image/Bang%20Viet.jpg)


BẰNG VIỆT


Tôi không quen ông Bằng Việt, cũng chưa một lần “diện kiến”, bởi lẽ tôi và ông là hai giai tầng khác nhau.

Ông là con gia đình cách mạng, từ Huế sau khi ra Bắc, cụ thân sinh thoát ly lên Việt Bắc tham gia kháng chiến, mẹ tham gia hội phụ nữ, bởi vậy sau ngày Đảng, chính phủ về Hà nội, ông được đi Liên xô học luật. Còn tôi là học sinh “Hànội tạm chiếm”, những năm 60 khó vào đại học, phải đi lao động Tây Bắc. phấn đấu thành “thanh niên tích cực lao động XHCN” . Nếu ông là công dân hạng nhất thì tôi hạng ba, bởi vậy khó gặp nhau.

Tuy nhiên cũng có lần tôi vinh dự được ông nói tới. Đó là vào năm 1979, nhà thơ Nông Quốc Chấn về làm GĐ NXB Văn học thay nhà phê bình Như Phong.

Sếp cũ vừa đi, sếp mới chưa về tôi đã “vạ miệng” làm sếp mới nổi trận lôi đình ký quyết định chuyển tôi lên Cao Bằng công tác. Vì tính chất “trù úm” quá rõ, tôi cương quyết chống lệnh không nhận quyết định.

Lúc đó nhà văn Nguyên Ngọc mới về làm Bí thư Đảng đoàn Hội nhà văn lóc cóc đạp xe lên Vụ tổ chức Bộ văn hóa xin chuyển tôi về tổ sáng tác, nhà văn Đào Vũ cũng xin tôi về báo Văn Nghệ…Thật hiếm khi nào Hội nhà văn “bệnh vực” hội viên mình tích cực như vậy. Tuy nhiên mọi can thiệp đó chỉ làm sếp mới nổi giận đùng đùng :” Vận động…anh Nhật Tuấn vận động, lôi kéo Hội nhà văn…” và khăng khăng không rút lại quyết định.

Những ngày đó chuyện này thành cửa miệng tại các cơ quan xuất bản, báo chi. Tại NXB Tác phẩm mới, vào một buổi sáng nhà văn Nguyễn Khải kể chuyện này, nghe xong nhà thơ Bằng Việt buông một câu lạnh tanh:

” Đi Cao Bằng thì có gì phải làm rối chuyện lên thế ?”.

Lập tức Nguyễn Khải trỏ mặt Bằng Việt mắng :

” Vậy mai anh đi nhá ! “.

Tất nhiên nhà thơ cười hề hề.

Nhà thơ Bằng Việt hồi trẻ rất đẹp trai, nho nhã như nhà giáo, nói chuyện nhỏ nhẹ , có duyên làm nhiều cô chết mệt nên “tình sử” cũng phong phú có khi còn hơn Vũ Quần Phương. Tuy nhiên, chuyện đó cứ để trong dân gian, chưa nói tới.

Thường thường, bác sĩ bỏ nghề y sang làm thơ thì chỉ được lộc thơ, riêng Bằng Việt bỏ nghề luật vẫn ăn lộc cả “lộc thơ” lẫn “lộc quan” là thứ “nghề luật” góp phần. Ông đã từng giữ chức Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân TP Hà Nội, một chức to ở cái thành phố oai nhất nước. Nghe nói khi hay tin nhà thơ làm Phó Chủ tịch HĐND TP, dân oan kéo đến xin gặp ông nhiều lắm khiến tan sở ông phải “chuồn” cửa sau. Chuyện đó thời nay là chuyện thường ngày ở cửa quan, ngày xưa cha ông nói “quan thấy kiện như kiến thấy mỡ”, chắc nay phải đổi thành “quan thấy …dân kiện như lươn thấy rắn”. Câu này chỉ có nghĩa quan giống như lươn tiết chất nhờn lủi mất mỗi khi gặp dân oan chứ tuyệt nhiên không dám ví dân là…rắn.

Ngoài chức bên chính quyền, nhà thơ Bằng Việt còn làm Chủ tịch Hội đồng thơ Hội nhà văn VN .Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội , Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam.

Cùng với nhà thơ Hữu Thỉnh, ông là một trong hai hạt giống đỏ của Đảng trên mặt trận quản lý và lãnh đạo giới nhà văn, nhà thơ vốn là thành phần phức tạp nhất trong giới trí thức. Chẳng thế mà bất kỳ cuộc hội thảo thơ nào ở xứ ta, hai ông đều tới cầm càng hội nghị.

Mang trọng trách Đảng tin cậy vậy, Bằng Việt phải “mẫu mực” cho giới cầm bút noi theo, nghĩa là suốt từ thủa cho ra lò “Bếp lửa”, ông đã làm không biết bao nhiêu thơ :

Những gương mặt - Những khoảng trời (Some faces and pieces of sky; 1973) - Đất sau mưa (1977)- Khoảng cách giữa lời (1984) - Cát sáng (1985) –Bếp lửa - Khoảng trời (Tập thơ) (1986) - Phía nửa mặt trăng chìm (1995) -Ném câu thơ vào gió (Tập thơ; Flying a verse with the wind; 2001)- Thơ trữ tình (2002) - Thơ Bằng Việt (Tập thơ), (2003)…

Làm nhiều vậy nhưng thơ ông tuyệt nhiên không một chút “tà khí” tức “bàng thống”, “phi chính thống” như nhà văn Huy Phương đã tổng kết :” tuyệt nhiên không nghe một tiếng thở dài”. Ngược lại, đôi khi thơ ông còn quá đà “mácxit hơn cả Đảng”.

Trong bài thơ “ Rượu của Nguyễn Cao Kỳ “ có một chai rượu ông này gửi tới. Tất cả mọi người đều uống kể cả một ông tướng công an, trừ một anh lính phòng không :

“Đám đông ồn ào của chúng tôi cứ uống
Anh bạn chỉ ngồi im, cũng chẳng nói thêm gì,
Và bữa rượu bỗng dưng thành đắng đót”

Khơi ra chuyện này, người ta thấy nhà thơ có thông cảm với anh lính “ thù Mỹ ngụy muôn đời muôn kiếp không tan” , cứng ngắc hơn cả chủ trương hòa hợp dân tộc của Đảng.

Chính vì “phò chính thống” , nhà thơ phải”tỉnh táo” như Y Nguyên phỏng vấn Bằng Việt trên báo Thanh Niên .
“Thường thì người sáng tác ít khi “tỉnh” để có thể phân tích một cách rành rẽ về quá trình sáng tạo của mình, nhưng ông thì ngược lại, tỉnh táo, thận trọng, khôn ngoan...”

Kết luận vậy thì đau cho nhà thơ biết bao. Tuy nhiên chính vậy nên ông nhận được khá nhiều giải thưởng :

“Giải nhất về thơ của Hội Văn học nghệ thuật Hà Nội (1968)
“Giải thưởng dịch thuật văn học quốc tế và giao lưu văn hóa quốc tế do Quỹ Hòa bình Liên Xô (http://vi.wikipedia.org/wiki/Li%C3%AAn_X%C3%B4) trao tặng năm 1982.”
“Giải thưởng Nhà nước (http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i_th%C6%B0%E1%BB%9Fng_Nh%C3%A0_n%C6%B0% E1%BB%9Bc_%28Vi%E1%BB%87t_Nam%29) về văn học (do Chủ tịch nước (http://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%A7_t%E1%BB%8Bch_n%C6%B0%E1%BB%9Bc_Vi%E1%B B%87t_Nam)Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (http://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a_X%C3%A3_h%E1%BB%99i_Ch%E1%BB %A7_ngh%C4%A9a_Vi%E1%BB%87t_Nam) trao tặng, 2001)”
“Giải thưởng thơ của Hội nhà văn Việt Nam (2002)
“Giải thưởng văn học ASEAN (http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Gi%E1%BA%A3i_th%C6%B0%E1%BB%9Fng_v %C4%83n_h%E1%BB%8Dc_ASEAN&action=edit&redlink=1) 2003 cho tập thơ "Ném câu thơ vào gió"
"Giải thành tựu trọn đời" của Hội Nhà văn Hà Nội (2005) cho Thơ trữ tình thế giới thế kỷ XX”

Tuy làm “ thơ cung đình” nhưng không phải Bằng Việt không có thơ hay. Từ “Bếp lửa” còn tỏa nóng đến tận bây giờ tới những bài thơ tình lãng mạn một thời được chép trong sổ tay nhiều cô cậu sinh viên tổng hợp và sư phạm văn, được sử dụng nhuần nhuyễn các kỹ thuật điệp ngữ, ẩn dụ và nhân cách hóa :

“Sương nơi ấy như triền mây trắng đặc
anh vẫn chờ em trắng một bến sương.
(Nơi Một Thủa Mùa Xuân Còn Ở Ðó)

”Anh vẫn đợi một buổi em về thay áo,
đợi một niềm vui sắc nhọn như mũi kim.”
(Tình Em Ðẹp Mãi Một Bài Thơ)

Nói anh nghe cuộc tình nào đã lỡ.
con đường nào nức nở tiếng mưa rơi!
(Nét Buồn Mang Dấu Vết Thời Gian)

Tuy nhiên tính lãng mạn “kiểu Pautopski” nhạt dần theo tuổi tác, thơ Bằng Việt ngày càng đậm tính “suy tưởng triết học” , có thể do con người “luật học” trong ông đã lên tiếng.

“Ngày sống vội, tuần sống vội, năm sống vội
Tuổi hoa niên, trung niên, kế tiếp tuổi già
Chong chóng quay, rút cuộc được gì?
Được chuyển động – làm bù nhìn của gió…”
(Nhớ Trịnh)

Các nhà văn ta,về cuối đời như Nguyễn Khải, Nguyễn Đăng Mạnh…hoặc cuối chức như Nguyễn Khoa Điềm…thường “tái nhận thức” tức “nhận thức lại” để xí xóa đi phần nào “tính Đảng” quá đà trước đây. Trong Hội thảo thơ ở Hải Phòng, Bằng Việt nhắc các nhà thơ không thể thoát lý xã hội :

“ Tôi nghĩ, đã là một thành viên, đồng cam cộng khổ với cộng đồng loài người, thì nhà thơ không thể thoát ra khỏi xã hội, vì vậy, khó có thể tuyệt đối hóa thiên chức của thơ mà chỉ nói đến thiên nhiên thôi sao?”

Tuy nhiên cái yếu tố “xã hội” trong thơ ông không mang những trăn trở, vấn nạn lớn của dân tộc mà lại lại giống như Y Nguyên đã phỏng vấn :

” Người ta vẫn nghĩ thi sĩ thường lãng đãng, vẩn vơ trên mây trên gió, nhưng ông lại rất cập nhật thời sự. Cập nhật đến độ có thể biến những cái tưởng như không thơ thành thơ, như chuyện ô nhiễm môi trường khu du lịch sinh thái, chuyện xây cầu vượt, chuyện cấm đăng ký xe máy, chuyện làm phim kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long...?”

Mới đây hồi tháng 8- 2011, ông phát biểu trên mạng một câu động trời :

“Nếu không tha bổng cho Cù Huy Hà Vũ thì đấy là một sự ngu xuẩn (http://nhathonguyentrongtao.wordpress.com/2011/07/30/t%e1%ba%a1i-sao-toi-ky-ki%e1%ba%bfn-ngh%e1%bb%8b-tr%e1%ba%a3-t%e1%bb%b1-do-cho-cong-dan-cu-huy-ha-vu/)”

Tất nhiên nếu cán bộ thường nói ở bàn nhậu thì chẳng sao, nhưng đây hẳn một ông “quan văn” cỡ bự. Nghe nói sau đó cán bộ an ninh đã gặp ông. Tất nhiên nhà thơ sẽ giải thích cho nhà an ninh vì sao phát biểu vậy. Chắc đồng chí an ninh đã quán triệt tình thế của nhà thơ đứng giữa Đảng và dân không thể không thông cảm với lời phát biểu của ông Chủ tịch Hội LH VHNT Hà nội . Có thể thấy Bằng Việt cũng như thơ ông luôn bị kéo co giữa một bên là nàng thơ và một bên là đồng chí chính trị viên.

Trên blog của mình, nhà thơ Thủy Hướng Dương có kể lại cuộc nhậu sau ngày bầu Bằng Việt làm Chủ tịch Hội LHVHNT Hànội, nhà thơ có ứng tác :

“Anh biết anh là người đến muộn
Bia uống vừa xong, bưởi vẫn còn thèm
Em đừng nghĩ là anh thất bại
Bia anh còn liếm được nữa là em!”

Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến có mặt lúc đó đề nghị đổi chữ” bia” thành chữ “thơ” :

“Thơ anh còn liếm được nữa là em…”

Vậy là “thơ anh” quá…sạch…, sạch đến nỗi có thể …liếm được. Tới đây chợt nhớ bài “ Mùa sạch” của thi sĩ Trân Dần:

“Anh vẫn tìm em qua phòng triển lãm sạch
Qua khu sứ quán sạch
Qua sớm mai trường Đảng sạch
Qua Bộ Công nghiệp nặng sạch…”

Nay thì xin thêm :” thơ sạch”.

Nhà thơ Xuân Sách đã dựng chân dung Bằng Việt :

“Nhen lên một bếp lửa
Mong soi gương mặt người
Bỗng cơn giông nổi đến
Mây che một khung trời
Đất sau mưa sụt lở
Mầu mỡ trôi đi đâu
Còn trơ chiếc guốc vàng
Trăng mài mòn canh thâu.”
(còn tiếp)

khieman
04-13-2014, 11:10 PM
(tiếp theo)




http://sohanews2.vcmedia.vn/zoom/420_265/2014/vuquanphuong-214c6-crop1391765334246p.jpg (http://soha.vn/xa-hoi/nam-2013-nhieu-tu-lenh-nganh-da-nhan-ra-vet-nho-tren-mat-20140102145419763.htm)


VŨ QUẦN PHƯƠNG

Ở ta có hai ông bác sĩ bỏ nghề chuyển sang nghiệp văn chương. Một là bác sĩ Trần Quán Anh tác giả vở kịch “ Tiền tuyến gọi”, khuấy động sân khấu Hà Nội một thời, dân gian đổi tên vở diễn thành…“ Tiền gọi”. Hai là bác sĩ Vũ Quần Phương , trong giới gọi chệch là Vũ Quần…Phăng – tức quần nữ cắt theo lối quần tây.

Hồi đó, nữ sĩ Xuân Quỳnh đang sống với chồng là nhạc công “Tuấn violon”, thế rồi một ngày đẹp trời gặp chàng thi sĩ đang có vợ, nổ ra tiếng sét ái tình. Đôi thi nhân chỉ non thề biển, hẹn nhau cùng rũ bỏ gia đình, lấy lại tự do xây dựng trăm năm hạnh phúc.

Y hẹn, nữ sĩ Xuân Quỳnh ly dị chồng và chờ chàng thi sĩ bỏ vợ thực hiện mộng ước “có nhau”. Than ôi, năm này qua năm khác, nữ sĩ cứ nhóng cổ chờ hoài, chờ hoài chẳng thấy chàng nhúc nhích , ngày đi làm, tối về vẫn hú hí vợ con. Chờ mãi , chờ mãi, nữ sĩ nổi cáu :

” Tôi không thèm cái mặt anh nữa. Tôi sẽ lấy một “thằng nhóc”, tài năng hơn anh, trẻ hơn anh…”.

Quả nhiên ít lâu sau, Xuân Quỳnh trở thành vợ nhà viết kịch Lưu Quang Vũ. Còn chàng thi sĩ “vợ đẹp, con khôn, vui thú điền viên tới tới tuổi xế chiều trong ngôi biệt thự sang trọng, rộng rãi, nội thất hiện đại” làm sao bỏ được vợ theo người tình làm thơ ? Chàng thi sĩ đó là ai xin hỏi nhà thơ Vũ Quần Phương . Ông có lần trả lời báo chí :

“Ngày tôi học cấp hai tôi may mắn được học thầy Nguyễn Xuân Huy là một giáo viên dạy văn rất hay. Có thể nói, thầy là người đầu tiên truyền cảm hứng văn thơ vào tôi. Đó là những ngày mà tôi không thể nào quên, cho đến năm tôi lên cấp ba thì có thầy Nguyễn Tường Phượng, Đình Phong, Đoàn Nồng và thầy Đoái Xuân Minh, Bạch Năng Thi. Có thể nói các thầy đã là cầu nối để tôi đến với thơ ca. Vì từ những bài giảng của thầy mà tôi học được cái mạch lạc khi viết văn, làm thơ sau này”.

Các thày trên đều dạy học Hà Nội trước 1954, bởi vậy Vũ Quần Phương thấm nhuần văn hóa phương Tây nên thơ khác hẳn các bác xuất thân bổ túc văn hóa công nông. Chẳng thế mà đọc khổ thơ đầu trong bài thơ “Đợi” rất nổi tiếng của Vũ Quần Phương :

“Anh đứng trên cầu đợi em
Dưới chân cầu nước chảy ngày đêm
Ngày xưa đã chảy, sau còn chảy
Nước chảy bên lòng, anh đợi em…”

người ta nhớ tới khổ cuối trong bài thơ Cầu Mirabeau ( Le pont Mirabeau ) của thi sĩ Pháp Apollinaire :

“Sous le pont Mirabeau coule la Seine
Vienne la nuit sonne l'heure
Les jours s'en vont je demeure”

dịch nghĩa :

“ Dưới cầu Mirabeau sông Seine chảy
Đêm đến giờ đã điểm
Ngày qua ngày anh vẫn đứng đây…”

Không ai nói Vũ Quần Phương “cóp” thơ Apollinaire nhưng ảnh hưởng thì khá rõ. Suốt mấy chục năm , ông không chỉ làm thơ , còn làm “cán bộ” : Chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội, Chủ tịch Hội đồng thơ Hà Nội, Ủy viên Hội đồng thơ Hội nhà vănVN 20 năm liền, nguyên Chủ tịch Hội đồng thơ khóa VII, chuyên gia thơ của Hội Nhà văn VN, …Chức tước lớn và lâu năm vậy tất nhiên ông phải…”phò chính thống” theo cách nói nhà văn Phạm Thị Hoài trên tạp chí Cánh Én năm 2000..

Ông như “cây kiểng” quý của Hội nhà văn, khi cần mang trưng . Mấy năm trước , ông tham dự Hội nghị các nhà văn trẻ toàn quốc lần thứ VIII tổ chức tại Tuyên Quang (9/2011) với tư cách khách mời, rồi ngày 2-2-2012 , Liên hoan Thơ Châu Á - Thái Bình Dương tại Hạ Long (Quảng Ninh) với 71 nhà thơ thuộc 24 quốc gia, đoàn nhà thơ Việt Nam có những tên tuổi lớn như Hữu Thỉnh, Nguyễn Quang Thiều, Giang Nam, Bằng Việt và tất nhiên có Vũ Quần Phương.

Ngoài làm thơ ông còn …nói thơ. Mấy năm gần đây ông hay đi Mỹ thăm con , cứ chân ướt chân ráo về nước ông lại lên tivi nói chuyện thơ. Tất nhiên ông phải nói theo ý đảng chứ đâu có “trật đường rày” bao giờ. Được nhà đài tin tưởng 30 năm qua số lần ông nói chuyện thơ đã lên đến con số hơn …2.000 - đáng đưa vào kỷ lục Guiness Việt Nam, vượt xa nhà văn Chu Lai vốn cũng thường đăng đàn nói..”văn”.

Thoát từ bác sĩ làm thơ,Vũ Quần Phương đôi khi có vẻ “nhớ nghề”:

“Tôi được thấy tim tôi, các buồng tim đang co bóp
Mình khảo sát tim mình... kể cũng hơi hoang mang
Nó vất vả thế ư? Suốt một đời người. Ghê thật!
Cái luồng huyết cuộn dòng xuôi xuống, trườn lên ...
Ta nhìn nó nhỏ nhoi mà đời bao nhiêu nỗi
Nó là mình mà mình biết gì đâu.”

Là “cán bộ thơ” nên đi Mỹ có vào thư viện đại học Princetone Vũ Quần Phương cũng chỉ tìm sách của những Lê Lựu, Nguyễn Khải, Ma văn Kháng…và Tết đến đóng cửa không “hội nhập” , không ra ngoài”giao lưu “ với cánh nhà thơ hải ngoại , và bầy tỏ lòng …yêu nước :

“Trong căn nhà này là nước Việt
Là đèn nhang, con cháu, giao thừa
Ngoài căn nhà này là nước Mỹ
Ngày giữa tuần, phố đã vào trưa.
Thiên hạ đi làm yên tĩnh quá
Nhà ta đón Tết với riêng mình.”

Định vị trong tư cách cán bộ khiến thơ Vũ Quần Phương cũng mực thước, chỉn chu, “lề phải” chưa bao giờ “trật đường rầy” sang..lề trái. Thơ ông thường nói “lý”, các nhà phê bình nói cho sang là “thơ trí tuệ”:

“Em ơi em ! Biển sâu rộng nhường kia
Ai biết được tự nơi nào biển mặn
Ôi hạt muối mang cho đời vị đặm
Tự bao giờ biển đã biết thương ta “
(Trước biển)

Tóc xanh, tóc bạc không xanh lại
thì hồn cứ căng với gió mây
cứ đỏ màu sông, xanh sắc núi
cứ thâm u như cánh rừng dày”
(Hành trình)

Như vậy đó, toàn biển sâu, sông đỏ, núi xanh , cánh rừng …những nỗi niềm dân tộc, những nỗi đau thời thế…không mong tìm thấy trong thơ Vũ Quần Phương.

Nhà thơ Xuân Sách đã dựng chân dung Vũ Quần Phương :

“Anh đứng thành tro… em có biết
Hôm qua lại gặp chuyến xe bò
Vẫn anh đi trong vầng trăng cũ
Áo đỏ bên cầu đợi ngẩn ngơ.”

N.T.
(còn tiếp)

khieman
04-14-2014, 01:02 AM
(tiếp theo)



http://daotao.vtv.vn/wp-content/uploads/2013/10/NguyenKhai1.jpg (http://daotao.vtv.vn/wp-content/uploads/2013/10/NguyenKhai1.jpg)

Nguyễn Khải


Tôi có cơ may gặp nhà văn Nguyễn Khải từ thời lý tưởng cộng sản còn mê hoặc lòng người đến mức tôi đang là học sinh tốt nghiệp lớp 10 , họcsinh cá biệt, hạnh kiểm 3 vì nói năng nhăng nhít, cấm cửa đại học phải lên rừng núi Tây Bắc lao động dài hạn, ấy vậy mà chỉ hai năm sau, tôi đã trở thành“chiến sĩ thi đua toàn quốc”, được bác Hồ tặng bằng khen, được cử đi dự Đại hội liên hoan chiến sĩ thi đua toàn quốc lần 3 ở Hànội, và ở đây tôi vinh dự được gặp nhà văn Nguyễn Khải.

Hồi đó tôi ngồi hàng ghế gần Chủ tịch đoàn, ngồi hàng ghế sát tôi là hai ông trạc 30, trắng trẻo, đẹp trai, đang ghé tai nhau thì thào chuyện gì đó. Sau mới biết đó là nhà thơ Việt Phương, thư ký Thủ tướng Phạm Văn Đồng đang nhờ nhà văn Nguyễn Khải góp ý bản nháp “Thư gửi đồng bào miền Nam” của đại hội.

Họp xong, tôi lại lên Tây Bắc làm thằng thợ rừng còn Nguyễn Khải vẫn ở Hà nội trong hào quang nhà văn quân đội danh nổi như cồn.

Trong đoàn “lực sĩ” chạy marathon trên “đường cách mệnh” nhằm tới cái đích xa vời là chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa : Vũ Tú Nam, Hồ Phương, Nguyễn văn Bổng, Nguyễn Trọng Oánh, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu, Anh Đức …có một “đại kiện tướng” vừa bền bỉ không mệt mỏi vừa khôn ngoan luồn lách qua mọi chướng ngại vật, vừa “nhát sợ” phòng thân để về đích lĩnh ân sủng của Đảng : Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật – đó là nhà văn Nguyễn Khải .

Ông sinh năm1930, ở Hà Nội , cha là tri huyện, mẹ là vợ bé, thủa nhỏ sống nhiều với mẹ ở quê ngoại Hưng Yên . 17 tuổi làm y tá cho một đơn vị bộ đội địa phương. 19 tuổi làm phóng viên báo tỉnh Hưng Yên. 21 tuổi làm báo “chiến sĩ” Quân khu 3. Sau hoà bình, 26 tuổi về công tác ở tạp chí Văn Nghệ Quân đội. Nhiều năm là Uỷ viên chấp hành Hội nhà văn.
Cứ xem quá trình ‘công tác” đủ thấy suốt đời ông là một thư lại, lính văn phòng, đeo chữ thọ sau lưng , chưa một ngày đặt chân vào chiến trường khiến ông trở nên nổi tiếng trong hai câu thơ dân gian khi ông viết “Bút kýHoà Vang” lấy tài liệu từ các bản thành tích thi đua từ trong Nam gửi ra :

“ Hoà Vang nào ở đâu xa
Hoà Vang là ở ngay nhà đó em..”

Truyện ngắn đầu tay của Nguyễn Khải là “ Ra ngoài”, “Xây dựng” chẳng có giá trị gì. Năm 1956 viết tiểu thuyết “ Người con gái quang vinh” nữ anh hùng Mạc thị Bưởi chìm nghỉm ngay khi mới xuất bản. Chỉ đến tiểu thuyết “Xung đột “ – phần 1 năm 1956 và phần 2 năm 1960, danh tiếng Nguyễn Khải mới nổi lên rầm rĩ trên bầu trời văn học cách mạng vốn còn rất thưa thớt sao.

Sau “Xung đột” , Nguyễn Khải viết chừng hơn 20 đầu sách khác nữa, nhưng nhắc tới ông người ta vẫn chỉ nhắc tới “Xung đột” như là một trong những đỉnh cao trong sự nghiệp được nhà phê bình chính thống “gạo cội”, Giáo sư Phan Cự Đệ tâng bốc :

” Từ nhiều năm nay , với tư cách là một nhà văn quân đội, Nguyễn Khải luôn luôn có mặt ở những vị trí hàng đầu của cuộc sống. Tác phẩm của anh phản ánh những mảng hiện thực mang tính thời sự nóng bỏng, đồng thời vẫn nêu lên được những vấn đề triết học, đạo đức có tầm khái quát cao. Tài năng và phong cách Nguyễn Khải bắt đầu hình thành và khẳng định từ khi Xung đột – tập I được giới thiệu lần đầu tiên trên tạp chí Văn Nghệ Quân đội năm 1957…”

“ Xung đột” – tập 1 viết về cải cách ruộng đất và sửa sai tại một làng công giáo toàn tòng – thôn Hỗ thuộc Giáo phận Bùi Chu. Xưa nay viết về đề tài cải cách ruộng đất, thông thường các nhà văn miền Bắc có hai chọn lựa :

- Hoặc diễn tả nó như là cuộc đấu tranh giai cấp với mâu thuẫn đối kháng, địch ta : một bên là nông dân, một bên là địa chủ, cường hào đại gian đại ác. Cuộc đấu tranh này là “một mất một còn” , ranh giới địch – ta rõ ràng và tuyệt đối. Viết theo lối này các nhà văn được đeo chữ thọ sau lưng, rất an toàn và được “bảo hiểm” bởi lẽ họ thả sức bôi xấu phe địch – tức địa chủ và thoải mái ca ngợi phe ta – tức nông dân được Đảng phóng tay phát động. Tuyệt đại đa số các nhà văn cây đa cây đề đều theo lối viết này :
“ Nông dân với địa chủ” của Nguyễn Công Hoan,
“Con trâu” của Nguyễn Văn Bổng,
“Mẹ con đồng chí Chanh” của Nguyễn Đình Thi.

Mặc dù được báo chí của Đảng khen “kịp thời, kịp thời” nhưng tất cả đều đi vào bến lú sông quên chỉ vài tháng sau khi xuất bản.

- Hoặc diễn tả nó như là một cuộc đấu tranh “nội bộ nhân dân” –tức đi sâu vào chuyện “nhất đội nhì trời”, chuyện “con tố cha, vợ tố chồng”, chuyện “án oan biết oán ai” ….Viết theo lối này nhất định dễ “ăn đòn” bởi tội “nói xấu cách mạng”, chê Đảng lúc nào cũng tự nhận sáng suốt mà sai be sai bét.. Đi theo con đường dễ vỡ nồi cơm này có rất ít người và thường là “thân tàn ma dại” như Vũ Bão với “Sắp cưới” , Hoàng Tích Linh với “Cơm mới”, Nguyễn Khắc Dực với “Chuyến tàu xuôi”. Gần đây có cởi mở hơn,viết về cải cách ruộng đất theo kiểu “mâu thuẫn nội bộ” như “ Dòng sông mía” của Đào Thắng còn được tặng thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 2005.

Tất nhiên khôn lõi đời như Nguyễn Khải chẳng dại gì chọn kiểu viết thứ hai – tức diễn tả cải cách ruộng đất như là cuộc đấu tranh “nội bộ”nhân dân – tức mâu thuẫn để đi tới thốngnhất – dễ bị quy chụp, dễ bị ăn đòn là thứ Nguyễn Khải tránh cho thật xa.

Vậy thì tốt nhất chọn lối viết thứ nhất tức diễn tả mâu thuẫn đối kháng, có tao không có mày, ta nhất định thắng, địch nhất định thua, và để an toàn hơn thế nữa, Nguyễn Khải không chọn chiến tuyến đối lập địa chủ với nông dân như các nhà văn cây đa cây đề mà chọn tuyến đối lập có tính đối kháng : một bên là bọn phản động đội lốt tôn giáo với bên kia là những nông dân nòng cốt cách mạng, trung kiên, một lòng theo Đảng.

Bởi thế tiểu thuyết Xung đột – Tập 1 của Nguyễn Khải thực ra là chuyện đấu tranh “địch ta” kiểu “câu chuyện cảnh giác“ được vẽ vời công phu bằng văn chương câu khách.

Xung đột – Tập I xảy ra vào năm 1956, cuộc cải cách ruộng đất vừa hoàn thành với bao sai lầm và làng thôn bắt đầu sửa sai theo hướng dẫn của cấp trên. Tuy nhiên cái sai lầm cải cách ruộng đất ở đây không phải do Đảng nhắm mắt học theo kinh nghiệm Trung Quốc, quy định tỷ lệ địa chủ để cố ép tìm ra cho đủ số – viết như vậy dễ “vỡ nồi cơm”, Nguyễn Khải lái thủ phạm gây nên bao sai lầm trong cải cách sang các …cha cố.

Ông lu loa rằng khi Đội cải cách về làng , cha xứ đã ngầm gài người cho đội “bắt rễ” và trở thành chỗ dựa cho Đội, từ đó tố oan cho những cán bộ cốt cán của Đảng để đến nỗi họ bị xử trí như Môn, xã đội trưởng, Thuỵ, cán bộ xã…có người còn bị xử tử như Rỹ , Bí thư Chi bộ… Bao nhiêu tội lỗi đều do…nhà thờ gây ra cả, cách mạng chỉ có…mất cảnh giác chút thôi.

Thực chất trong Xung đột – tập I Nguyễn Khải đã bẻ queo sự thực lịch sử, chạy tội cho Đảng trong việc bắn giết cả những đồng chí của mình, trút tội giết người đó sang… âm mưu thâm độc của Nhà thờ chứ không phải do sự ngu dốt sai lầm trong đường lối cải cách ruộng đất .

Trên cái “bệ đỡ an toàn” đó, Nguyễn Khải tha hồ phóng bút trách gì nhà phê bình Phan Cự Đệ chẳng tấm tắc khen :

” Người đọc như bị hút vào những sự kiện nóng bỏng trong những năm khôi phục và cải tạo kinh tế : cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh trong nội bộ nhân dân diễn ra căng thẳng , ác liệt và vô cùng phức tạp vào khoảng cuối năm 1956 ở một số vùng đạo gốc tỉnh Nam Định, khi Đảng ta tiến hành sửa chữa những sai lầm trong cải cách ruộng đất và bắt đầu cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp”.

Chơi trò lập lờ đánh lận con đen, xuý xoá sai lầm của Đảng trong cải cách ruộng đất, trách gì Xung đột – tập I chẳng được cả một hệ thống tuyên truyền của Đảng kéo lên mây xanh ngay trong thời gian Đảng đàn áp văn nghệ sĩ, khét lẹt nhất qua vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Trong khi những tác phẩm phản ánh được chút ít hiện thực khách quan như những truyện ngắn và thơ trong nhóm Nhân văn Giai phẩm , tiểu thuyết “Vào đời” của Hà Minh Tuân, “ Phá Vây” của Phù Thăng, kịch của Hoàng Tích Linh, Nguyễn Khắc Dực… bị đòn vọt thì hàng loạt tác phẩm của Nguyễn Khải cứ nối đuôi nhau ra đời trong sự reo mừng, tâng bốc của cả một bộ máy các nhà phê bình văn học của Đảng.

Mở đầu “Xung đột” – Tập1, Nguyễn Khải chơi trò “giật gân” miêu tả một “sự kiện động trời” ngay khi làng xã mới bước vào đợt “sửa sai” sau cải cách ruộng đất. Đó là “ Đại hội công giáo tám xứ toàn miền” vớiđủ các gương mặt của “phe đối nghịch”tức toàn bộ các gương mặt “phản động” của nhà thờ cũng các con chiên bị dụ dỗ và mê hoặc họp thành một mặt trận, một chiến tuyến chống lại chính quyền cách mạng. Đánh vào trí tò mò của độc giả vậy, trách gì cuốn sách không hấp dẫn ?

Bộ chỉ huy của lựclượng chống đối này gồm toàn những người khoác áo choàng thâm. Trước hết là tu sĩ Thịnh , “hoạt động phần đời nhiều hơn là phần đạo…Thầy không phải là người tu tầm thường mà là một người hoạt động chính trị xuất sắc. Năm nay thầy mới hai mươi tám mà năm hai mươi bốn đã làm tới trưởng khu Cao Mại, một tay xây dựng hai mươi bảy ban xã uỷ, lãnh tụ liên tôn diệt cộng toàn khu…”.

Rồi đến cha Vinh là người đã “mang quân từ Phát Diệm về đốt trụi xóm, lấy thóc của nhà xứ, thóc của dân đổ đầy hàng trăm chiếc thuyền đậu kín như lá tre ở cống Cả, đã quay điện con ông Thiềm bây giờ nửa sống nửa chết,đã ngủ với cô Mến có thai ba tháng, thuốc độc chết ông trùm Thuý…Rồi thì cha Thịnh dẫu được “ đi Hà Nội họp, ăn một ngày bảy tám cân *, được gặp cả Hồ Chủ tịch” ấy vậy mà khi trở về giáo xứ lại dấu mặt tổ chức đại hội công giáo, xui con chiên :

” Bây giờ các nơi công giáo đều nổi dậy cả rồi, chúng ta phải đòi công giáo tự trị…chiến tranh tàn khốc, chế độ đổi thay , chỉ có đạo Chúa là không gì diệt nổi…”.

Tóm lại các tu sĩ đều là loại núp áo choàng thâm làm việc xấu xa, bỉ ổi, gây hoạ cho dân cả. Chẳng hiểu khi bôi bác nhà thờ như vậy, Nguyễn Khải có khi nào nghĩ một thời mình cũng từ đó mà ra ?


(còn tiếp)

khieman
04-14-2014, 11:22 PM
(tiếp theo)




http://3.bp.blogspot.com/-72lmZr_a-To/T5Qst-xt6OI/AAAAAAAAAfc/sRC91cQHVXU/s400/NguyenKhai2.jpg (http://3.bp.blogspot.com/-72lmZr_a-To/T5Qst-xt6OI/AAAAAAAAAfc/sRC91cQHVXU/s400/NguyenKhai2.jpg)


Trong đám tay chân đắc lực của các cha phải kể đến cô Lý, đẹp nhất nhì trong làng, nhưng lại “làm ruộng không biết, đi buôn không vốn, hoạt động đoàn thể cũng không nốt, nào ai biết cô ả làm gì, chỉ thấy đi suốt ngày đi cả đêm. Thời tạm chiếm Lý là tay đưa tin đắc lực của đại đội cha Báu, từ ngày cha Vinh về thì lại là tay chân thân cận của ông Vinh…đặc biết có cảm tình với tu sĩ Thịnh…”.

Tay chân đắc lực cho các cha còn có anh Quảng, con trai phó trương xứ “mười bảy tuổi đã sung vào đội quân của cha Báu, mười tám tuổi chuyển qua đội quân com-măng-đô, ít lâu sau được cử làm người hộ thân cho viên quan năm chỉ huy quân sự miền hạ Nghĩa Hưng…”Khi bàn đến việc đánh cán bộ, Quảng hăng hái :

” Nó có dao sắc mình cũng có dùi bén. Một trăm người không đánh nổi vài đứa à ? Có cần tử vì đạo tôi cũng xin dâng mình…”.

Tóm lại, phe “phản cách mạng” nhân danh Chúa đều gồm những con người ghê gớm, dạn dầy kinh nghiệm chống nhà nước cộng sản.

Bên phía cách mạng có Thuỵ là đội trưởng du kích, mặc dù bị truy ép tàn khốc trong cải cách ruộng đất vẫn khăng khăng:

” Làm việc vì Đảng, đừng làm cho người ta khen. Những kẻ có ác ý không biết nhưng Đảng tối cao, thiêng liêng sẽ biết, sẽ dành phần thưởng sau này…”.

Có Môn, xã đội phó, là một trong bốn người bị giáo Thịnh bố trí “kích” lên thành đầu sỏ Quốc dân đảng ở xã. Sau khi hai trong bốn người đó, một bị xử bắn, một tự tử, Thuỵ và Môn mới được tha bổng và phục chức cũ. Chính quyền xã lúc này đang “non yếu”, dân quân du kích phần lớn là giáo dân tin theo nhà thờ, xã đội trưởng thì mải đi buôn, Chủ tịch xã là chị Nhàn thì lại hay bận đi…họp huyện. Thế là sau vài ngày họp trù bị, bầu không khí thù ghét cải cách ruộng đất, thù ghét Đảng và Nhà nước trong đại hội công giáo đã dâng tới mức các giáo dân hô khẩu hiệu chống cộng :

“ Đả đảo đội cải cách ruộng đất “
“ Đả đảo”
“ Đả đảo chính sách của Đảng Lao Động…”
“ Đả đảo”…

Tới lúc đó cha Thuyết mới chính thức ra mặt chủ trì “đại hội công giáo toàn miền” đòi lôi cổ những người đã tố cha Vinh ra đại hội để hỏi tội.Nực cười thay, đứng giữa đại hội, anh nông dân tên Hạ đã không thanh minh cho cha Vinh thì chớ , ngược lại còn tố cáo cha :

“ ngưỡng cửa buồng cha lẽ ra phải rất trong sạch , đàn bà bước qua phải thay ngay ngưỡng cửa ấy, tại sao có người ngày nào cũng bước qua mà ông Vinh vẫn không thay…tại sao ông Vinh lại đeo lon quan ba dẫn quân bốt Thạch đi càn quét…”

Người thứ hai được bố trí lên “minh oan” cho cha Vinh cũng “phản cung” như Hạ, thế là “màn kịch” của “phe nhà thờ” dầy công dựng lên bị đổ bể ngay từ đầu.

Người ta phải đặt câu hỏi với nhà văn Nguyễn Khải tại sao “nhà thờ” vốn được ông mô tả vô cùng gian ngoan, xảo quyệt, mưu sâu, đòn độc vậy sao lại dựng lên một màn kịch vụng về vậy ? Phải chăng họ ngờ nghệch đến thế ? Chắc vì nhà văn đã nhiễm sâu trong máu nguyên tắc “ta là thiện, là tốt đẹp, giỏi giang” – “địch là ác, là xấu xa, ngu dốt” nên mấy ông cha cố mới bị bôi bác ngờ nghệch đến thế.

Sau thất bại “minh oan “ cho cha Vinh , đại hội cử ngay ra một đoàn đi bắt “hai con quỷ dữ” là Môn và Thuỵ – cốt cán của cách mạng- tới đại hội để giáo dân hỏi tội. Hai ông này thân cô thế cô nên đành phải mài sắc hai con dao chờ sẵn ở nhà. Mặc dầu nhà Thuỵ có một tiểu đội bộ đội đóng quân nhưng không dám can thiệp cứ đứng nhìn “người của đại hội” tới bắt Thuỵ và Môn. Đến khi Lý và Quảng hai người tích cực nhất xông vào đánh Thuỵ, tiểu đội trưởng bộ đội mới xông vào can ngăn. Chỉ chờ có thế, Quảng va chạm vào người anh bộ đội rồi “tự thọc ngón tay cào rách màng lỗ mũi,máu rỉ ra một dòng nhỏ , hai tay hắn đưa lên quẹt khắp mặt , mặt lem nhem máu ” rồi lăn ra giả vờ chết. Thế là “tin dữ” bộ đội giết dân loang ra khắp làng khắp xóm :

“Chuông bắt đầu đánh chính thức loan báo “tin nổi dậy” cho toàn xứ, cho các xứ khác. Trống thôi thúc từng nhịp. Người từ các dong xóm vì tò mò lặng lẽ kéo đến mỗi lúc mỗi đông…”

Anh bộ đội tên Nẫm bị giáo dân lôi ra đánh đập, hành hạ với những lời chửi bới :” thằng bộ đội khốn nạn đánh cả dân , ai đóng thuế nông nghiệp nuôi cho nó ăn béo, ai dệt vải cho nó mặc để nó vô ơn bạc nghĩa đi bênh mấy thằng quỷ ở xứ này. Có người đòi phải lấy đanh đóng vào tay chân nó phơi mưa…”

Cha xứ bấy lâu nay vẫn dấu mặt đến lúc này thấy cần phải chường ra để “chăn dắt con chiên”, bởi vậy cha Thuyết thân chinh đi tới chỗ quàn “cái xác” Quảng “lật chiếu nhìn mặt Quảng. Ôi có lẽ nó đã qua đời rồi, nó không còn thở nữa. Cha mở hộp dầu thơm nức dúng tay làm dấu vào trán Quảng , vào hai lòng bàn tay, hai gan bàn chân , vừa nguyện bằng tiếng la tinh. Tiếng đọc kinh nổi lên rền rĩ :

“ Lạy Chúa Ki-ri-xi-tô thương xót chúng tôi, xin Chúa thương xót chúng tôi…”

Tiếng chuông đánh nhịp hai tiếng một điểm hồi dài, báo tin một linh hồn kẻ lành được lên nước thiên đàng hưởng phúc thanh nhàn đời đời. Xác Quảng được liệm bằng chăn khiêng vào trong nhà để chính gian giữa…”

Vậy là nhà thờ đã tạo ra cái cớ “bộ đội giết dân” để kêu gọi giáo dân toàn miền vùng dậy lật đổ nhà cầm quyền cộng sản. Tiếc thay, cái quả bom nổ chậm ấy, cái căn nguyên để khởi nghịch đó lại vỏn vẹn chỉ là cái chết giả vờ của một anh chàng ngờ nghệch chỉ có mỗi cái máu “chống cộng” hăng tiết vịt . Liệu các cha Thiên chúa giáo của cả một giáo xứ có ngây thơ , ngớ ngẩn như vậy chăng, hay nhà văn Nguyễn Khải vẽ vời vậy ?

Quả nhiên cái vụ Quảng giả chết để vu vạ cho bộ đội lập tức bị lật tẩy một cách dễ dàng khi chị Nhàn – Phó Chủ tịch xã đi họp huyện về yêu cầu “ phải khám nghiệm tử thi làm biên bản rồi cho chôn luôn”.

Vợ “người chết” sợ quá ôm chặt lấy ‘xác chồng” không cho động tới và ngay tối đó “hai mẹ con Quảng đem võng đến cáng hắn về. Khiêng qua cầu sang xóm bên kia, đường vắng lặng, Quảng thò cổ ra nhìn quanh không có ai, y nhỏm dậy nhảy ngay xuống đất rồi chạy vụt vào một cái ngõ sâu thẳm…”.

Vậy là “âm mưu” của nhà thờ vu cáo bộ đội giết dân để làm ngòi nổ cho cả phong trào “giáo dân nổi dậy” chống chính quyền bị phá vỡ một cách quá dễ dàng và…lãng xẹt. Cuộc XUNG ĐỘT giữa nhà thờ và chính quyền cộng sản tưởng là ghê gớm lắm, rút cuộc chỉ một chị Phó Chủ tịch xã ra một cái lệnh là “âm mưu của nhà thờ” bị tiêu tan.

Tất nhiên vụ “Đại hội giáo dân” kích động dân làm loạn tuy có qua đi nhưng xung đột giữa “nhà thờ” và “cách mạng” vẫn còn đó. Nó len lỏi vào các gia đình gây nên những ‘bi kịch” mà gia đình anh bộ đội Tường là một thí dụ tiêu biểu. Sau mấy năm xa nhà, nhân dịp tết được nghỉ phép, Tường tưởng sẽ được hưởng không khí gia đình đầm ấm sau những năm tháng xa nhà, ngờ đâu vừa đặt chân về nhà anh đã va ngay phải cuộc xung đột giữa “nhà thờ” và “cách mạng”.

Trước hết là cái Khoai, đứa con gái của Tường “ nó không vồ vập, không cười, đứng né sang một bên cho bố nó dắt xe đạp vào, mắt ngước lên lấm lét như nhìn người lạ luồn ngay ra đằng sau lủi chạy mất”..

Con đã xa cách thế, đến bố cũng vậy :

” Bố thấy con trai lần đầu về ăn tết với gia đình từ ngày đi bộ đội cũng không vui, cũng có vẻ hậm hực …”.

Tại sao vậy nhỉ ? Hoá ra vẫn là “xung đột” giữa “nhà thờ” và “cách mạng”. Bố anh trách :

“ Dạo đầu năm vợ mày lên thăm, mày định giật ảnh tượng của vợ mày, bảo những cái ấy là vô tích sự phải không?.. . Dù mày có là bộ đội nhưng trước hết vẫn là bầy tôi của Chúa, vẫn là con tao. Mày không được ăn nói bậy, nghe không?”

Rồi mặc cho anh con trai thanh minh, ông vẫn kể tội :

“ Hôm ấy vợ mày nói với mày xin đánh tượng vàng đeo , mày bảo :” Chẳng đạo gì bằng đạo ăn, để tiền mà đong thóc với lại “ có người lạc hậu mới tin đạo..Tao nghe chuyện ấy đã định viết thư lên bảo thẳng với các cấp chỉ huy của mày là không biết dậy con tao để con tao thành kẻ vô loài, rồi tao sẽ từ mày, hiểu chưa ?”.

Cứ như thế những ngày Tường về phép ở nhà là những ngày “chiến tranh ý thức hệ” – tình cảm thiên nhiên của vợ chồng, của cha con dường như đã bị vót nhọn trơ lại có mỗi “xung đột” giữa “chúa và bộ đội”. Ngày Tết họ hàng tới thăm nhau , trò chuyện cũng toàn mùi “chính trị”.

Quảng , cháu của Tường vừa gặp lại chú đã lên giọng khiêu kích :

“ Độ này chú tiến bộ làm đến cấp gì rồi ? Gớm , các ông bộ đội chính trị bỏ mẹ…À…à…bốn túi đây mà , đại đội hay tiểu đoàn ? Áo vải chắc là đại đội …chú đi bộ đội lâu thế vẫn là đại đội thôi à ?”

Rồi Quảng xoay sang chuyện chính trị thật :

“ Chú đi xa không rõ. Ở nhà vừa rắc rối lắm. Bộ đội đánh dân nhưng uỷ ban lật lọng thế nào lại hoá ra nhân dân đánh bộ đội… Mấy thằng phản Chúa hại dân lại ra làm việc rồi. …Chú xem , chúng nó ra nhận việc hôm trước hôm sau hạ lệnh bắt người ngay, không hiểu đem đi buộc đá bỏ biển hay tù đày mãi đâu chẳng thấy tin về. Cứ như tình hình này có lẽ chính phủ muốn tiêu diệt công giáo chắc…”

Thế rồi khi hết phép, vào lúc chia tay, Tường thưa chuyện cùng bố mẹ lại cũng là chuyện…chính trị :

“ Cách mạng nổi lên hai anh em con mới ra khỏi nhà mụ Bao, từ bấy đến nay con ăn cơm bộ đội, mặc áo bộ đội, được bộ đội dậy dỗ thì sống chết với bộ đội. Còn bố mẹ sợ luỵ vì con , không muốn nhận con nữa thì cứ việc làm giấy lên uỷ ban mà từ. Con xin chịu…”

Cứ như vậy, ông con trai bộ đội về phép chẳng bàn bạc gì được chuyện làm ăn kinh tế sao cho bố mẹ, vợ con ăn sung mặc sướng lại sa đà vào toàn chuyện “chúa” với “cách mạng”. Sự thực quan hệ gia đình, họ hàng khi đứa con phương xa trở về trong những ngày tết thiêng liêng có đến nỗi rặt một mầu chính trị như thế không. Hay là từ cái tựa “xung đột” của tiểu thuyết và bài học nằm lòng của chủ nghĩa Mác đã ăn sâu vào tác giả : ”tiến hoá là sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập” khiến ông nhà văn nhìn vào đâu chỉ cũng chỉ thấy có xung đột chính trị.


(còn tiếp)

khieman
04-15-2014, 11:41 PM
(tiếp theo)


Ngay cả trong gia đình Nhàn, Phó Chủ tịch xã, chỉ có hai mẹ con mà xem ra trò chuyện hàng ngày giống như “hai phe” đối lập nhau. Hồi cải cách, cha Vinh bị mang ra đấu. Bà mẹ bênh cha :

“ Đấu cha là đấu Chúa đấy…Mày phải biết đỗ được đến chức cụ là trải qua trăm nghìn khó khăn thử thách đấy . Nếu người không có nhân đức thì ngay khi chịu phép cắt tóc không hộc máu cũng phát ung nhọt , bệnh tật rồi..”

Cô con gái cãi lại :

“ Mẹ còn nhớ nhân dân bên Thạch Bi xứ cũ của ông ấy, cơm nắm cơm gói đến chầu chực ở đây hàng tuần chỉ xin được lột da ông ấy căng mặt trống không ? Chính phủ không xử bắn là may chứ còn tiếng tốt gì ?”

Bà mẹ lại kể lể :

“ Nếu mày không nghe lời tao, tao không dậy được mày thì cả nhà này sẽ mắc vạ tuyệt thông , bị khai trừ ra khỏi hội thánh . Nếu thế thì mẹ chết mất…Con ơi, mẹ run sợ lắm. Mẹ già rồi, ngày linh hồn lìa khỏi phần xác cũng chẳng bao xa…lúc đó hai con khiêng được mẹ ra đồng hay sao, hay là buộc rợ vào chân mẹ cho trâu kéo hở con…con nghĩ lại cho mẹ nhờ …”

Ngày này qua ngày khác, bất kể ngày hay đêm, cứ hai mẹ con ngồi với nhau là y như rằng nổ ra “xung đột” như thế. Ông nhà văn liệu có nói quá đi không ?

Trong gia đình, họ hàng nhà Thuỵ – đội trưởng du kích, “xung đột” và chia thành hai phe ‘cách mạng” và “phản cách mạng” còn dữ dội hơn. Chú ruột của Thuỵ là cha Thuyết, bố đẻ của Thuỵ là ông trùm Nhạc. Ngày nọ cha cho gọi các cháu trong nhà gồm có Thuỵ, Toán và Quyên tới để cha cho tiền làm nhà. Trước khi đưa tiền, cha lại nói chuyện “chính trị” :

“Nói đến cải cách tao lại nhớ hồi ấy du kích chúng nó làm bùi nhùi cụ Ngô rồi đâm chém hò hét. Thật trò hề. Cụ Ngô là người rất sùng đạo. Cụ là em đức Cha Ngô Đình Thuc đấy. Nghe nói sáng nào cụ cũng đánh ô tô đến nhà thờ xem lễ rồi mới về làm việc. Trong Nam người ta yêu quý cụ lắm…”

Nghe ông chú tuyên truyền “phản động”, dẫu ông là cha đạo đi chăng nữa, Thuỵ cũng chặn họng ngay :

“ Thưa cha…cha cho gọi chúng con lên để nói chuyện trong nhà hay chuyện chính trị ?”

Cứ như thế, chú cháu bốp chát nhau, sau cùng cha Thuyết chỉ cho tiền Toán và Quyên , còn Thuỵ nhất định không nhận. Bởi thế ông Nhạc, bố của Thuỵ chì chiết con :

“ Khí khái rởm. Tiền đưa tận tay mà không thèm cầm. Bốn năm chục vạn chứ có ít đâu, mày thử xem đến bao giờ mới dành dụm được chục vạn mà dựng nhà ? Mày cứ bảo cha không tốt, không tốt thì cũng là cha linh hồn, cũng là em tao, chú mày. Mày đừng đâm bị thóc chọc bị gạo để anh em tao lủng củng với nhau. Không tin người ruột thịt thì tin ai ? Mày không thèm lấy tiền của cha thì tao sẽ xin cha, ăn mày cha chẳng ai cười …”

Thế là quan hệ cha con của Thuỵ – đội trưởng du kích cũng căng thẳng chẳng thua gì quan hệ mẹ con của cô Nhàn – Phó Chủ tịch xã.

Liệu trong những người ruột thịt với nhau chỉ toàn là “xung đột” chính trị không ?

Trong một số không nhiều các nhà văn miền Bắc viết về Thiên Chúa giáo như Nguyễn Thế Phương với tiểu thuyết Nắng , Chu Văn với tiểu thuyết Bão biển…có thể nói Nguyễn Khải là nhà văn bám sát nhất quan điểm Mác Lênin “tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ quần chúng”. Chẳng hiểu ông có xác tín điều đó không hay chỉ vờ làm vui lòng đồng chí Tố Hữu ; song trên các trang viết của ông nhan nhản những tình tiết, những nhân vật được ông mô tả chỉ nhằm bỡn cợt Chúa.

Đám rước kiệu “tượng Đức Giê-su vác câu rút “ trong ngày lễ Phục sinh được mô tả với giọng dè bỉu :

” Thỉnh thoảng xé lên lanh lảnh một vài tiếng kèn đồng te té te té…chói tai , lạc lõng, chìm nghỉm ngay trong cái hỗn độn của tiếng trống, tiếng trắc gỗ , tiếng đọc kinh ngắm đàng thánh giá , tiếng gọi nhau í ơi…”.

Đám người tổ chức rước toàn là quân phản động. Đánh nhịp cho đội trống là Quảng và Liêu. Quảng là “ con trai phó trương xứ , mười bảy tuổi đã sung vào đội quân của cha Báu, mười tám tuổi chuyển qua đội quân com-măng-đô, ít lâu sau được cử làm người hộ thân cho viên quan năm chỉ huy quân sự miền hạ Nghĩa Hưng ”, mới đây lại gỉa chết để vu vạ cho bộ đội giết dân. Còn Liêu bị “tình nghi ở trong đảng phái phản động, truy bức vợ chồng hắn về võ khí trong nhà xứ. Từ ngày ấy hắn quan niệm về phần đời , phần đạo hoàn toàn khác. Thày Thịnh mời hắn ra đứng trong ban thành lập hội trống nhà xứ”. Khi hội trống đã được thành lập với ba mươi cái trống và bốn mươi bạn hữu, Liêu lộ mặt phản động “Lý tưởng của người ta không phải là xã hội chủ nghĩa mà chính là hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng…: “.
Sau đội trống thì đến nghĩa binh nam và nữ. Nhà văn mượn một con bé con để diễn tả sự thờ ở của con chiên với “nỗi đau của Chúa”.

Nó “còn bé lắm chừng như mới chịu lễ lần đầu , hai đầu mào trắng chấm xuống gần khoeo chân…”. Nó mếu máo đọc kinh :” Kính mừng Ma-ri-a đầy ơn phúc…bà có phúc lạ hơn người nữ…và Giê-su con bà…”, nhưng mắt nó lại nhìn “một con chuồn chuồn mình đỏ đậu rún rẩy trên bụi rơi gai ở vệ sông. Ôi con chuồn chuồn đẹp quá, đậu ngờ nghệch quá…”.

Trong khi đầu óc con bé chẳng nghĩ gì tới Chúa thì ngay bà quản giáo trong đám rước cũng vậy . “bà không đọc kinh, bà còn mải trông hơn sáu mươi em nữ nghĩa binh, học trò của bà, nếu rời mắt là chúng nó lại xô đẩy nhau, cấu véo nhau…” và bà quản giáo được mô tả đầy ác cảm “trên khuôn mặt bà không có lấy một nét nào hiền dịu, tha thứ, cởi mở của người mẹ; nó ảm đạm như người có nỗi buồn sâu kín; nó khắc khổ vì bà là người tu hành ; khi bà đánh trẻ con thì rõ là người khó tính khắc nghiệt …”

Sau đó các con chiên lần lượt vào nhà thờ nghe đọc đoạn đóng đanh tưởng nhớ đến những sự thương khó Chúa Guê-su đã chịu trên cây thánh giá. Chẳng hiểu sao cha xứ lại …khó kiếm ra được một người đọc đoạn kinh đó.

“” Ông Đông phó trương xứ chữ quốc ngữ không biết, chữ nho cũng không nốt nên sự hiểu biết đạo lý kinh sách chẳng hơn gì người bổn đạo. Còn ông trùm Hoà , trùm đạo thôn Hỗ lại càng…dốt hơn.” .

Có thực trong các ông trùm đạo nhiều người mù chữ đến như thế chăng ?

Và nỗi đau của một bà già thương xót chúa Giê-su được mô tả “hài hước”:

“ Bà Nhàn ngồi vào một góc, cái mào đen rủ xuống hai bên má che gần hết khuôn mặt ảm đạm của bà. Bà cố bày ra trong trí khôn như xem thấy chúa Giê-su bị quân dữ đóng đanh trên cây thánh giá thật. Những cái đanh sắt mà đóng xiên qua bàn tay Chúa mình như thế thì đau đớn biết chừng nào, chỉ vì tội mình và tội tổ tông truyền. Ôi, cái mạo gai, có những bảy mươi hai cái gai lọt vào óc Chúa tôi, buốt nhức biết bao nhiêu , máu chảy đầy mặt ròng ròng. Bà cứ tự vật vã với mình , trách móc mình sao đã vội vã quên đi sự thương khó mà Chúa đã phải chịu…”

Thật đúng “tôn giáo là thuốc phiện “ . Nó làm một bà già trở thành mê mụ, mù quáng đến dở hơi :

“ Chúa lấy hai cây gỗ cứng thay giường nằm, lấy mạo gai nhọn thay gối còn bà thì giường cao, chiếu sạch, chăn đắp , màn che , bà còn phàn nàn gì nữa, kêu xin gì nữa. Bà không bao giờ ao ước được sướng hơn mà chỉ muốn mình sẽ khổ đi, chịu đựng thêm vì con đường lên thiên đàng là con đường hẹp…”

Lực lượng “nhà thờ” đông đảo vậy nhưng chẳng là gì với chính quyền cách mạng tiêu biểu nhất là Môn – Chủ tịch xã.
” Một trong những địch thủ nguy hiểm nhất của nhà xứ là Môn, xã đội trưởng ngày trước và nay là chủ tịch xã …”
Trong cải cách, do “âm mưu của nhà thờ” , Môn đang là xã đội trưởng bị kích lên “thành phần phản động” suýt nữa bị bắn như Rỹ. Lúc sửa sai, Môn được phục chức và trở thành một đảng viên trung kiên , lập trường còn vững hơn cả cấp trên. Môn thường xuyên theo dõi các hoạt động trong nhà thơ và bắt ne bắt nẹt .

“ Một hôm trên toà giảng, cha Vinh cao hứng nên có giảng chệch ra ngoài kinh sách E-van đôi chút :” Vinh đây dẫu đầu rơi máu chảy cũng không chịu lui đâu. Nó có vả ta má bên hữu ta còn giơ má bên tả cho nó vả nữa kia. Ai chịu bắt bớ vì sự công chính thì có phúc thật vì nước trên lời là của kẻ ấy…”

Lập tức có kẻ mật báo, ngay sau buổi giảng, “Môn nhân danh chính quyền mời cha Vinh đến trụ sở nói chuyện”. Khi cha tới, “cha đưa tay ra nhưng không ai bắt nên lại rụt tay về”, Môn trấn áp ngay :

“ Linh mục làm phản động , chính phủ bắt giữ để tự hối cải lại còn nói không lùi bước. Ý chừng linh mục muốn chống đối với chúng tôi mãi chăng ? Muốn làm phản động lần nữa hay sao ? Nếu vậy chúng tôi sẽ có cách…”

Tất nhiên cha sợ vãi mồ hôi, lần sau cạch đến già có giảng kinh thì cũng phải “uốn lưỡi bảy lần “ . Khi “duyệt” cho nhà xứ thành lập đội kèn, ông Chủ tịch Môn còn đặt điều kiện :

“ Người trong hội kèn chỉ biết có thổi kèn thôi, ngoài ra không được làm những việc gì khác, nói rõ ra là không được làm chính trị. Nếu có thế nào thì ban chánh trương phải chịu trách nhiệm. Còn nếu bằng lòng đặt dưới sự lãnh đạo của Uỷ ban thì cụ thể phải nằm trong khối văn xã…”

Ban chánh trương cùng các trùm họ mở tiệc mổ trâu để bầu Quý là địa chủ vào Ban chánh trương xứ. Tất nhiên Môn được mật báo và tuy không được mời cũng lừng lững đi vào bữa tiệc như chỗ không người rồi lên giọng chủ tịch xã :

” Muốn đạo gì thì đạo , đã là công dân thì phải theo đúng pháp luật của Nhà nước . Nếu ai làm trái thì dù bố mẹ đẻ ra cũng không bênh được …”

Rồi ông Chủ tịch xã can thiệp vào việc bầu bán của nhà thờ :

” Tôi lấy một ví dụ : đã là địa chủ thì nhất thiết phải tước hết quyền công dân, không được tham gia bất cứ một tổ chức nào cả. Thấy ban chánh trương cũ bất lực cần bầu lại thì cứ bầu, giáo dân chúng tôi hoan nghênh mà uỷ ban cũng hoan nghênh, nhưng bầu địa chủ là sai, địa chủ lãnh đạo nông dân là chuyện ngược đời, là trái chính sách , trái cả lẽ đạo…”

Và chỉ vài ngày sau khi chánh trương xứ Quý đi Hà Nội về, “ Môn cho hai du kích đến áp giải Quý lại trụ sở bắt ngồi xuống đất . Môn hỏi :

“ Quý ! Mày hãy nhắc lại tám điều quy định cho địa chủ sau cải cách ruộng đất để uỷ ban nghe !”

Lâu lắm ông chánh trương xứ mới lại bị nghe một người khác nói đến tên mình một cách láo xược vậy. Nhưng người đó lại là …đại diện chính quyền . Bởi vậy “Môn bảo sao hắn cũng vâng dạ ngoan ngoãn lắm như người bị mê muội từ lâu nay mới có dịp thức tỉnh. Môn kết luận :

“ Mày đi Hà Nội không xin phép ai , đáng lý phải trị thẳng tay làm gương cho đứa khác nhưng Uỷ ban tha thứ lần đầu. Còn mày làm những gì thì trong này đã có hồ sơ cả . Đời mày do mày định đoạt lấy. Muốn ăn cơm nóng , ở nhà với mẹ với vợ cũng được mà muốn ăn cơm mắm, ngồi xà lim cũng được …”

Ngày nay đọc lại đoạn văn này vẫn thấy “sởn gai ốc” .


(còn tiếp)

khieman
04-15-2014, 11:58 PM
(tiếp theo)



http://1.bp.blogspot.com/-1VGrEEYDQsk/T5uCtHyZRGI/AAAAAAAAAgs/cwWaQ-1cmKA/s400/NguyenKhai3.jpg (http://1.bp.blogspot.com/-1VGrEEYDQsk/T5uCtHyZRGI/AAAAAAAAAgs/cwWaQ-1cmKA/s400/NguyenKhai3.jpg)


Chủ tịch xã Môn là người “đạo gốc”, một “con chiên” của Chúa, nhưng nay đã trở thành “ con sói” giữa bày cừu , “ một trong những địch thủ nguy hiểm nhất của nhà xứ “, “không thích làm những việc vụn vặt , tầm thường , bao giờ cũng đảm đương những nhiệm vụ khó nhất, phức tạp nhất người khác không làm nổi “, là một người “ốm cũng không dám nằm thật, bị cảm đã mấy hôm vẫn ra trụ sở , hay “ngồi nhà nhưng vẫn giải quyết công việc …vui lòng hy sinh đời mình cho công tác” .

Người thay mặt chính quyền “ mácxít hơn cả những người cộng sản” vậy tất nhiên cán cân phải lệch về phía cách mạng trong cuộc đấu tranh “quyết liệt” “ai thắng ai” .

Thực ra “ai thắng” quá rõ rồi, và đó không phải ”đấu tranh một mất một còn” giữa hai bên, mà chính là cuộc trấn áp tất cả những gì gây nguy hại tới quyền lực của Đảng. Bởi thế người ta thấy mối quan tâm của ông Chủ tịch xã Môn chẳng nhằm phát triển sản xuất nâng cao mức sống cho dân mà chỉ nhăm nhăm để ý coi nhà thờ có biểu hiện gì xâm phạm tới “đường lối của Đảng và Chính phủ”.

Từ việc nhỏ như xứ đạo mổ trâu ăn mừng Ban chánh trương mới ra mắt phải xin phép tới thành lập hội kèn phục vụ lễ rước cũng thành chuyện “trong đại” phải xem xét bên trong có âm mưu chống phá gì không ? Khi “duyệt” cho nhà xứ thành lập đội kèn, ông Chủ tịch Môn còn đặt điều kiện :

“ Người trong hội kèn chỉ biết có thổi kèn thôi, ngoài ra không được làm những việc gì khác, nói rõ ra là không được làm chính trị. Nếu có thế nào thì ban chánh trương phải chịu trách nhiệm. Còn nếu bằng lòng đặt dưới sự lãnh đạo của Uỷ ban thì cụ thể phải nằm trong khối văn xã…”

Ôi thôi, thế thì Đảng cho người thay cha “quản lý” việc đạo cho rồi.

Cán bộ Đảng được Nguyễn Khải ca ngợi một tấc lên trời, ngược lại, các cha đạo không “hám gái” cũng “hám tiền”.

Ở xứ đạo có một bà goá mới ngoài 40, “nhưng còn tươi tắn khoẻ mạnh lắm, khi ông bõ ở nhà xứ chết thì ban chánh trương cắt cử bà vào thay.” Bà goá này “ngày hai bữa cơm dâng cha và các chú ăn, giặt giũ quần áo , chăn lợn, làm vườn , dần dần cai quản cả thóc lúa và việc chi tiêu trong nhà xứ. Đêm bà cũng không về nhà cứ ngủ trong cái buồng kho.”

Có người đàn bà phây phây bên cạnh, làm sao cha không động lòng trần tục. “Khi thì bà lên buồng cha Vinh bưng cơm rót nước, khi cha Vinh xuống buồng bà hỏi han công việc. Có một buổi trưa cha đang ngủ bà sai cháu lên buồng cha gọi :” Cha ơi cha, bà con bảo cha cởi áo cho bà con vá…”

Ngoài chuyện “gái gủng” ra, các cha còn tìm mọi cách moi tiền của giáo dân .. Ông Bính, một con chiên ngoan đạo nhận xét :

“ Các cha xứ từ trước đã ăn mười phần thì nay nên thương con chiên mà ăn năm thôi. Các cha tải của về quê có nhiều chứ ăn là mấy . Làm thầy nuôi vợ, làm thợ nuôi miệng, các cha không có vợ thì cho bố mẹ, anh em, bà con…”

Còn cha Thuyết thì thu tiền của giáo dân theo giá “cắt” cổ :

“ Ông kể lại một hôm ngồi hầu cơm cha Thuyết, được nửa bữa có người đến hỏi :
“Lễ sáng nay làm cho linh hồn vừa mới qua đời hết bao nhiêu ?”
Cha vừa ăn vừa trả lời :
“ Hai vạn”
Người kia móc tiền để vào đĩa, bốn tờ giấy năm nghìn còn mới . Bữa cơm chưa xong đã có tốp đến mười bà dòng vào cũng để tiền vào đĩa dâng lên. Cha ngưng đũa hỏi :
“ Tiền gì?”
“ Trình cha tiền tứ kỳ” *
“ Mấy vạn”
“ Trình cha ba vạn mốt…”
Cha lại cuộn tiền cho vào túi. Cha ăn chưa hết bát cơm mà được món bổng những hơn năm vạn, mình vai vác cầy, tay dong trâu, làm hang đá, dựng đèn đại khó nhọc hàng tháng chẳng được xu nào…”

Các cha đạo có “ăn tiền” như cán bộ ngày nay ăn phong bì không ? Hay ông nhà văn “bôi bác”, “vơ đũa cả nắm” ?

Hình như đã “ấn định” viết tiểu thuyết với chủ đề ‘xung đột” nên chẳng riêng gì các cán bộ cốt cán như Môn, Nhàn, Thuy… mà ngay chính nhà văn Nguyễn Khải nhìn đâu cũng thấy “xung đột”, nhìn cái gì cũng thấy “địch phá hoại”.

“Năm ấy thôn Hỗ được mùa, “no ăn cho nên thanh niên đua nhau chơi diều sáo….Thanh niên chơi, cán bộ chơi, cả cụ già cũng thả diều…Ong trùm Hoà nói chuyện với Môn, với Nhàn, với các cán bộ của xã :” Đấy, nhờ sự lãnh đạo của Uỷ ban, năm nay thôn nhà vui vẻ quá, đàn sáo suốt đêm…”

Chơi diều ở nông thôn là chuyện bình thường, nhưng tác giả cũng cố gài cho nó một ẩn ý “chính trị” :

“ Thôn xóm đương sầm uất vì việc đạo , vui vẻ phần đời thì vợ Liêu ngồi bán hàng ở chợ Hỗ rỗi mồm kháo chuyện :” bây giờ ở dưới đất các ông cán bộ tranh hết phần nói nên dân lại phải làm mồm ở trên giời…”

Thế là lập tức nhiều người phụ hoạ :

”Đấy, nghe kỹ mà xem, cái sáo nó cứ kêu : cha ơi…cha ơi…cha ơi….”.

Thế rồi một số người xì xào to nhỏ với nhau :

“ Bây giờ hoạ cộng sản dâng lên như nước thuỷ triều, không thể đối địch với chúng được , càng cựa càng bị giây pháp luật thít chặt đành phải nhờ tiếng sáo nó kêu khắp bốn phương may ra có thấu đến Chúa , đến đức Mẹ , đến các cha ở miền Nam không ?”

Vậy là giống đội cải cách “phóng tay phát động quần chúng” nhìn đâu cũng ra địa chủ, qua tiếng sáo diều ông nhà văn cũng nghe thấy tiếng nói cuả bọn “phản động”.

Sau vụ “sáo diều” đến vụ làm “nhà nguyện”.

“Cũng nhân dịp năm nay làm ăn xởi lởi nên một vài xóm rục rịch dựng nhà nguyện để sớm tối giáo hữu đến đọc kinh , đỡ phải lên mãi nhà thờ xứ…”.

Thông thường, chuyện dựng nhà nguyện có gì ghê gớm, nhưng ông nhà văn cũng lồng vào đó “âm mưu phá hoại của nhà thờ”.

Thế là nhân dịp Chú tịch xã Môn đi vắng nửa tháng, ông trùm Hoà xin phép bà Phó Chủ tịch Nhàn dựng nhà nguyện. Bà này lý luận :

“ Đứng về phía chính quyền mà xét thì việc dựng thêm nhà thờ họ lẻ rất phù hợp với chính sách bảo vệ tín ngưỡng của chính phủ, đứng về mặt đạo thì lại càng nên khuyến khích hơn , nước Chúa có được mở rộng thì mới có thêm nhiều linh hồn được cứu chuộc…”

Thế là bà Phó Chủ tịch Uỷ ban cho phép luôn.

“Uỷ ban đồng ý buổi sáng thì buổi chiều họ xóm trại khởi công xây dựng nhà thờ ngay….Văn phòng của ông chánh đốc công xây nhà thờ họ chật ních người đến làm việc phúc đức. Giá thóc chợ Hồ xuống hẳn vì xóm trại đem thóc đi bán nhiều quá…:”.

Như vậy nhà thờ phải làm vội làm vàng để qua mặt ông Chủ tịch xã. Nhưng rủi cho mấy ông, khi nhà nguyện cất xong, sửa soạn làm lễ khánh thành thì ông Chủ tịch xã đi công tác về.

Ngôi nhà nguyện đã xây xong, ông Chủ tịch xã không ngăn cản được nữa, trong cuộc họp Uỷ ban, ông thẳng thừng phê bình bà Phó Chủ tịch Nhàn “hữu khuynh” cho phép dân xây nhà nguyện :

“Tôi thử hỏi các đồng chí chỉ riêng có một xóm trại xin làm nhà thờ hay là cả miền này , cả tỉnh này đang rục rịch yêu cầu thế ? Có phải chỉ sau khi ông Lân nhân danh đức Cha đi kinh lý các xứ mới sinh ra cái chuyện này không ? Tại sao các xóm phàn nàn là hồi này gọi đi họp rất khó. Bây giờ chưa khó lắm đâu, nay mai mà để mỗi xóm lẻ mọc lên một cái nhà thờ hoặc một cái nhà nguyện thì tối đến chỉ đánh chuông đến boong một tiếng là cán bộ ngồi trơ một mình khai hội với bức vách. Đồng chí Nhàn bảo tôi tả, nhưng tôi lại nhận xét đồng chí giải quyết các việc thuộc về tôn giáo rát khờ dại. Cứ giải quyết theo hướng đó thì có ngày uỷ ban đem vợ con lên núi ở…”

Và ông gây sự bằng cách không cho tổ chức ăn mừng khánh thành và bắt mấy ông trùm đạo mang hết sổ sách lên để ông…kiểm tra và chỉ đạo :

“ ..vôi nhà xứ đã có sẵn mười tạ , nay mua thêm hai mươi tạ nữa là vừa đủ, xây hai cổng , xây tường hoa , quét vôi trong nhà thờ. Nhà thương phía sau nhà cô mụ quá dột nát thì sẽ vận động các xóm góp rạ , góp tre lợp độ dăm buổi . Ghế gãy đóng lại, nếu còn thiếu thì đóng thêm. Không nên mua chiếu ngoài rất tốn, chỉ cần mua ít đay, ít cói rồi triệu tập thanh nữ, bà già lại đánh đay, đem bàn dệt vào dệt…”

Vậy là ông Chủ tịch xã muốn làm cha thiên hạ, cai quản luôn cả việc đời lẫn “sự đạo”. Ông “thò tay chỉ việc” cho nhà thờ sát sạt vậy chứng tỏ Đảng “quan tâm” “ưu ái” tôn giáo lắm, thể hiện “chính sách tự do tín ngưỡng” sáng ngời còn kêu ca nỗi gì ?

Cũng may, hồi đó nếu tiểu thuyết “Xung đột” của nhà văn Nguyễn Khải mà lọt vào tay một chuyên viên phân tích của Toà Thánh thì còn gì là những “lời hay ý đẹp” về tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước ta ?

***
*tiền dùng để cầu nguyện cho linh hồn người đã qua đời

(còn tiếp)

khieman
04-16-2014, 05:22 PM
(tiếp theo)



http://4.bp.blogspot.com/-atsgF2-1ack/T59ykHIx6NI/AAAAAAAAAhE/DHADLgAfEDw/s400/xom+dao+2.jpg (http://4.bp.blogspot.com/-atsgF2-1ack/T59ykHIx6NI/AAAAAAAAAhE/DHADLgAfEDw/s400/xom+dao+2.jpg)


Chị Phó Chủ tịch Nhàn cho dân ‘xây nhà nguyện”, “ăn mừng khai trương ”, cứ ngỡ đứng về phía giáo dân, ngờ đâu khi nghe ông trùm phát biểu “ý kiến” theo kiểu “ tư cách công dân “ trong một đất nước có luật pháp :

“ Nói thẳng ra, cứ thế này mãi thì khó ai tin được lời chị nói, khó ai tin được cái uỷ ban này nữa. Dân bầu lên thì dân cũng có quyền truất đi. Không dễ mỗi lúc bỏ tù nhau…”

Chị ta cũng nhảy nhổm lên vì quyền lực bị động chạm :

“ Bây giờ ông định bàn với tôi về làm nhà thờ họ hay muốn phê bình uỷ ban ?”

Ong trùm họ tưởng mình còn có cái gọi là “quyền công dân” vẫn gan lì :

“ Chúng tôi là dân, chúng tôi không biết đâu đến sự làm việc của uỷ ban mà phê bình, uỷ ban làm đúng hay sai thì tự xét lấy…”

Lập tức chị Phó Chủ tịch trở mặt, nổi xung :

“ Từ nay nếu ông bàn với tôi về việc làm nhà thờ họ thì tôi vẫn hết sức nghe ông, nhưng ông lại nói lếu láo, bậy bạ về uỷ ban, gây dư luận không tốt trong nhân dân thì uỷ ban sẽ chiếu theo pháp luật mà giữ ông lại. Ngày xưa cũng thế, bây giờ cũng vẫn thế , đã làm bậy thì dù là cha cụ, là chánh trương, trùm trưởng hay con chiên thường cũng đều phải chịu xét xử như nhau , chẳng nể mặt một ai. Toà Giám mục cũng không can thiệp được vào công việc của chúng tôi, toà thánh La mã cũng không dúng vào được công việc của Uỷ ban. Ông đừng có doạ, tôi phụ trách về tư pháp tôi biết hơn rõ ông ….”

Ghê gớm chưa, “thằng dân” vừa mới mở miệng “phê bình chính quyền” bà Phó Chủ tịch xã đã tới tấp ra đòn đánh dập đầu , đánh “tiêu diệt”, mang cả Toà Thánh La mã ra đe nẹt khiến cho ”mặt ông trùm đờ ra , môi nhợt trắng như người phạm lỗi bị bắt quả tang…”.

Rồi tỏ vẻ “do dân, vì dân” bà Phó Chủ tịch thổn thức :

“ Tôi theo Chúa, tôi theo Chính phủ, tôi theo cả hai mà không được sao ? Ôi, lạy chúa. Con cho họ miếng bánh nhưng họ đã ném đá trả lại, con đến với họ với tấm lòng nhân từ của mẹ, nhưng họ lại đối đãi với con như kẻ thù…”

Kìm kẹp, thắt buộc người dân thế mà dám bảo “ cho họ miếng bánh” với cả “ đến với họ với tấm lòng nhân từ của mẹ” , còn thằng dân mới chỉ “ em xin phê bình cán bộ” vậy mà đã la làng lên “họ ném đá trả lại” , Giê-su-ma lạy Chuá tôi, trên đời còn có ai xảo ngôn đến thế chăng ?

Nếu như “Xung đột” phần 1 ( viết năm 1956) khép lại những “xung đột” giữa chính quyền và giáo hội thì “ Xung đột” phần 2 ( viết năm 1961) mở ra những “xung đột” giữa con người với “lợi ích vật chất”.

Trước hết là cha Thuyết, cha linh hồn của cả giáo phận, được Nhà nước “quan tâm” cho đi mổ lấy sỏi mật, bỗng dưng biến thành một người ca ngợi “miếng ăn, miếng uống” sặc mùi “ơn Đảng, ơn cụ Hồ”.

Ta hãy nghe đấng chăn chiên “hồ hởi phấn khởi” bốc thơm bệnh viện Nhà nước :

“ Ôi chao, quý hoá quá sức mình , cao trọng quá đỗi. Cái nhà thương rộng dễ đến một xóm của ta , cao ngân ngất như đền thánh đức Mẹ ở Phú Nhai vậy …”

Rồi cha khoe được “ưu tiên” hơn cả cán bộ xã :

“ Này, thằng Thuỵ, con Nhàn có ốm cũng chưa dễ đã được vào chỗ tôi nằm đâu. Lúc đầu tao cũng chẳng tin gì vào cái khoa mổ xẻ , còn chần chừ lắm. Nhưng chính phủ đã bỏ công, bỏ tiền xây dựng một toà nhà to như vậy, nuôi hàng trăm ông bác sĩ thì tao chắc họ làm phải giỏi…”

Mổ bụng vậy mà cha …không được đánh thuốc mê hay sao mà cha một tấc đến trời :

“ Lưỡi dao họ lách vào đến đâu tai tao nghe rõ đến đó , nhưng chẳng đau đớn gì sốt. Để tôi lấy bà lão xem cái vật quý này – Cha chạy vào mở tráp cầm ra một cái gạc bông . Bà đã thấy chưa , lúc họ mới đưa tôi để làm kỷ niệm nó to bằng ngón tay cái sờ rắn như đá sỏi. Nó nằm trong bầu mật dễ đã hàng chục năm nay, cái cơn đau vừa rồi mà ở nhà quê chắc là chết….”

Rồi cha bầy tỏ tình cảm của mình với cái nhà thương mà Nhà nước đã cho cha nằm :

“ Một tháng ở đấy thanh nhàn vui sướng chẳng nói được, toại lòng phỉ chí đến không muốn ra về nữa…”

Đến cái cách cha ca ngợi “miếng ăn hàng ngày” mới thật thảm hại :

“ Cha cười ầm ầm :

“ Min ăn suốt ngày, thật như con trẻ, bốn bữa, năm bữa, mỗi bữa ăn một vực cơm đầy. Bây giờ thì min có thể sống thêm được vài chục năm nữa…”

Được chút “bổng lộc” Nhà nước, cha trở giọng chửi bới cha Lân Toà Giám mục vốn là người đang bị chính quyền nghi ngờ kích động giáo dân :

“ Tao cứ trông thấy thằng Lân ở đâu là chỉ muốn lánh mặt. Nó chỉ đem phiền muộn đến cho mình. Muốn an nhàn một chút cũng chẳng được. Cái thứ ấy chẳng liên quan gì tới tao, tao là đấng chăn chiên thì chỉ biết vâng theo lệnh bề trên thôi…”

Ngay với đức bề trên trực tiếp là cha Tuệ, giám quản địa phận Bái, cha cũng giở giọng bóng gió với ông Thường trực Uỷ ban xã :

“Tao thấy ở đời này lắm người có đạo mà lại hay bỏ vạ cáo gian , đức hạnh nết na chả có, lòng đầy rẫy những sự ghen tuông, hờn giận , oán thù. Mặc áo thầy tu mà trong lòng thì dữ tợn quá con quỷ…”

Sau khi đặt vào miệng cha những lời bôi xấu cha bề trên , ông nhà văn lại biến cha thành kẻ “chỉ điểm”:

“Ong Tuệ có ý mời các cha trong địa phận về Bái họp, áng chừng muốn dùng số đông khiếu nại lên chính phủ…”

Và cha bầy tỏ lòng quy thuận :

“ Nhưng bây giờ thì tao mặc, tao cũng có nói với lão Lân rằng : ở Toà Giám đã có đức giám quản sáng suốt khôn cùng, đã có cha chánh xứ, cha cố vấn, hội đồng tư vấn gồm toàn những con người khôn ngoan rất mực thì còn cần gì đến những thằng già lẩm cẩm chỉ biết giảng kinh , giải tội cho con chiên, chỉ biết chú mục làm việc Chúa cho danh Cha cả sáng…”

Rồi cha nộp cho nhà cầm quyền thư của cha Giám quản gửi cho cha :

“ Trong cuộc giao tranh thiêng liêng để chiếm nước thiên đàng, đạo binh hùng dũng nhất là đạo binh cầm tràng hạt Mân Côi chứ không phải là khí giới cầm tay…”

Than ôi, chẳng lẽ mới chỉ được bố thí chút lộc chữa bệnh mà cha đã bán linh hồn ca ngợi kẻ cầm quyền và tố cáo người trong giáo hội sao ?

Quả thực, vạch trần “chân tướng” linh mục, giải “cây bút vàng” phải giành cho Nguyễn Khải trong Xung đột 2. Thế rồi cha mồi chài, làm sa đọa đến cả “đồng chí” Thuỵ, thường trực Uỷ ban :

“ Rồi cha móc túi lấy ra một cuộn bạc chẳng cần đếm là bao nhiêu đưa cho Thuỵ. Từ đấy Thuỵ là người cai quản hết thảy mọi việc…qua mỗi việc Thuỵ lại lên trình bẩm với cha và lần nào về cũng đưa cho vợ hàng gói bạc…”
“ Đáng lý chỉ cần một trăm thì cha lại vứt ra một trăm rưởi . Cái con số lẻ ấy mới đầu như chênh vênh nhưng dần dần nó đã tìm được chỗ đứng vững chắc…”.

Thế là từ đó mâm cơm nhà Thụy không chỉ là “rau muống luộc chấm nước cáy” nữa, “vợ Thuỵ đã phải lăn xuống bếp, hôm giết con gà, hôm đánh bát tiết canh vịt, rồi nào lòng xào, lòng nấu miến, khúc cá rán, khúc nẩu riêu, rau muống cũng phải xào đẫm mỡ…”

Đồng chí thường trực uỷ ban thay đổi hẳn, “ toàn một giọng hỉ hả, đài các, toàn những chuyện may sắm , lựa chọn cái này cái nọ, tính toán giá gỗ đóng giường, giá vải hoa làm màn che, cái phích đựng nước nóng, bộ ấm pha trà…”

Ôi lậy Chúa, cán bộ hư hỏng ? Đó là lỗi tự nhà thờ.



http://4.bp.blogspot.com/-wyx6rWgNSLU/T6YCtfdnbXI/AAAAAAAAAh0/gQgCB7Gqx7c/s400/Chandung+34.jpg (http://4.bp.blogspot.com/-wyx6rWgNSLU/T6YCtfdnbXI/AAAAAAAAAh0/gQgCB7Gqx7c/s400/Chandung+34.jpg)


Hoá ra từ thời đó đã hiển hiện loại người mới xuất hiện sau cách mạng :“ cán bộ” . Tham lam vật chất, khăng khăng giữ ghế, sẵn sàng hạ độc thủ bất kỳ ai động chạm tới ghế của mình . Hình ảnh ông Thường trực uỷ ban xã đúng là chân dung tiền bối của quan chức các cấp thời bây giờ. Có điều , ông nhà văn chỉ dám dựng nhân vật đó như trường hợp cá biệt, “con sâu làm rầu nồi canh”, còn tuyệt đại đa số cán bộ ta vẫn chí công vô tư, hết lòng vì nước vì dân.Và tin tưởng sắt đá loại “cán bộ tiêu cực” như Thuỵ nhất định sẽ bị đào thải :

“ Hơn nửa năm nay …Thuỵ không còn được đảng viên trong chi bộ tín nhiệm nữa. Kỳ bầu ban chi uỷ vừa qua, Thuỵ chỉ được vỏn vẹn có hai phiếu, một lá của Môn và một nữa chắc do Thuỵ viết…”

Nhà văn tuyệt nhiên không dám thừa nhận loại cán bộ như Thuỵ mới chính là “nhân vật thời đại” . Nó như ký sinh trùng ngày càng sinh sôi nảy nở, hằng hà sa số, sống bám trên cơ thể dân tộc, đục khoét, ăn cắp từ tiền bạc, địa vị xã hội tới tài nguyên, môi trường, phá hoại những di sản quá khứ và làm băng hoại những giá trị tinh thần và đạo đức xã hội.

Sau khi cải cách ruộng đất phá tan đạo lý cổ truyền làng quê Việt Nam, vài năm sau Đảng lại rầm rộ phát động hợp tác hoá nông nghiệp chỉ hơn 20 năm sau đã phá huỷ gần hết năng lực canh tác trên ruộng đồng .

Tuy nhiên mãi tới năm 1986, tính chất phá hoại đã rõ rành rành, cái chết nó gây ra đã tới sau lưng, Đảng mới ngấm ngầm xoá bỏ nó bằng việc trả lại ruộng đất cho dân và giải tán các hợp tác xã nông nghiệp.

Sự sụp đổ của công cuộc hợp tác hoá nông nghiệp kéo theo cái chết hàng loạt tác phẩm lừng lẫy một thời : Cái sân gạch, Vụ lúa chiêm của Đào Vũ, Đất làng của Nguyễn thị Ngọc Túvà cả Xung đột ( tập 2) của Nguyễn Khải…. Bao nhiêu thành tích, bao nhiêu tính ưu việt , bao nhiêu đổi thay tích cực của bộ mặt nông thôn, bao nhiêu đổi đời sung sướng của người nông dân được các nhà văn tô vẽ, tâng bốc lên mây xanh bỗng chốc tan tành sương khói bới cái nghị quyết “ khoán sản phẩm” của Đảng - thực chất là sự cáo chung cho “ lề lối làm ăn tập thể”, cho “hợp tác xã nông nghiệp” mà suốt mấy chục năm các nhà văn của Đảng ra sức tô vẽ.

Trong Xung đột – phần II, “vào ngày lễ mở đầu tháng đức Mẹ cũng là ngày thứ ba của cuộc “vận động hợp tác hoá” sôi nổi, rầm rộ suốt tám xóm trong xã. Mỗi xóm thành lập một ban vận động gồm những người trong ban quản trị hợp tác xã cũ, đội trưởng đội sản xuất và một vài người mới nữa. Tiếng trống , tiếng loa nổi lên từ lúc chuông nhất và chỉ tắt đi vào khoảng gần nửa đêm…”

Chống đối lại cuộc vận động đó, theo ông nhà văn, tất nhiên chỉ có…nhà thờ :

“Tiếng loa của đức chúa Trời và lời giảng hùng hồn của cha Lân “ đối lập với “tiếng trống của người thế gian và lời lẽ vận động đầy sức thuyết phục của cán bộ xã “ làm cho “cuộc sống ở thôn Hỗ cứ náo động suốt đêm ngày. Không có tiếng súng nổ nhưng tâm trạng con người thì giống hệt như trong một trận chiến đấu. Cũng có những người kiên quyết và những kẻ dao động, tin tưởng và bi quan, phẫn nộ và bình tĩnh…”

Đó là cuộc chiến tranh được ông nhà văn “tô vẽ” giữa “nhà thờ” và chính quyền cộng sản đại diện là mấy ông cán bộ xã . “ Tiếng loa của đức chúa trời “ chẳng thấy đâu nhưng lời giảng được cho là của cha :

“ Hiện nay ma quỷ đang dùng thóc gạo làm chước độc để mê hoặc linh hồn các con. Song các con hãy nhớ lời Chúa đã từng phán tỏ tường rằng : bay lo ngày mai mà làm chi, đến ngày mai sẽ hay , bởi chưng sự khốn khó ngày nào đã đủ cho ngày ấy…”

không những chẳng lọt được vào tai giáo dân :

“ không nói đâu xa xem như vợ chống thằng Quảng kìa, chồng vay hợp tác xã được mấy chục cân thóc gánh về, vợ đã mặc áo ra nhà thờ thấy thóc cởi cả áo ra, chồng xay vợ sàng hì hụi từ chập tối đến nửa đêm, vừa làm vừa đùa bỡn nhau dễ còn vui hơn cả lễ Phục Sinh…”

mà còn bị bôi bác :

“Ấy vậy mà cha mới nói là ma quỷ dùng thóc gạo cám dỗ nên người thế gian mới bỏ cả đức tin, bỏ cả Chúa…”

Vậy là “cha” thua một cách dễ dàng, nông dân ào ào nộp đơn vào hợp tác xã . Ông nhà văn diễn tả một ông bố sai con viết đơn với nhiệt tình và lòng thành kính như viết đơn cho Chúa Giê xu xin lên …thiên đàng :

“ Vui, này lấy giấy bút ra đây tao muốn nhờ mày một việc…”

Cô con gái lấy tờ giấy mực lem luốc , lập tức bị ông bố mắng :

“ Mày coi khinh bố mày thế hả con , không nỡ cho bố một tờ giấy đẹp đẽ ư ? Đã dùng vào việc cao trọng thì chớ lấy những thứ dơ dáy. .”

Rồi ông quay sang vợ :

“ Cả đời chỉ có một lần. Bà hiểu cái việc tôi nói là việc gì rồi chứ ?”

và lệnh cho con :

“ Lấy vạt áo lau sạch cái ngòi bút đi thì nét nó mới thanh được. Bắt đầu như thế nào nhỉ ? ViệtNam dân chủ cộng hoà… năm thứ mười lắm…”

Trong thực tế, lùa được nông dân vào hợp tác xã là một việc phải thúc ép, cưỡng chế vậy mà ông nhà văn “tâng” lên thành một thứ ý nguyện thiết tha của dân làng . Ông còn “mượn mồm” một bà nhà quê để ca ngợi cái ưu việt của lề lối “ làm ăn tập thể” :

“ Như nhà tôi chỉ riêng khoán cày khoán bừa hai mẫu cũng mất đứt hai chục thóc rồi.Cái trò đem trâu cày ruộng nhà người đến mùa lấy thóc thì làm kỹ sao được…Còn vụ vừa rồi ai cày ai bừa mặc ai, chị em chúng tôi cứ ra công cấy, làm chung ăn chung, anh làm dối thì cái cót thóc của anh cũng ít…”

Ca ngợi “ làm chung ăn chung” như vậy, ông nhà văn đâu có biết cái kiểu “tập thể hoá “ đó khác gì “ cha chung không ai khóc” khiến đồng ruộng bỏ hoang, mùa màng thất bát khiến Đảng lại phải giải tán “làm chung” trả ruộng đất về cho ai nấy làm. Ngày đó chắc ông Nguyễn Khải chưa nhận ra hoặc nhận ra mà vẫn giả ngu, vẫn nhiệt tình ca ngợi cái lợi của hợp tác xã qua mắt bà nông dân :

“ Tôi chẳng gì cũng nhiều tuổi hơn các chị, cái khổ cái sướng đã trải qua, trước khi vào hợp tác xã tôi cũng tính toán chán, nếu không có lợi thì tôi vào đầu làm gì…Lạy Chúa, từ ngày biết làm ngươiø tới giò, chỉ có mỗi vụ chiêm vừa rồi vào hợp tác tôi mới nhàn nhàn cái thân chút ít…”

Tất nhiên vào hợp tác xã không chỉ đánh trống ghi tên, khối người lừng khừng , đắn đo để rồi :

“ Không vào cũng chẳng được, họ vác trống vác loa đến tận đầu nhà kể lể, than vãn nghe nẫu cả ruột chứ dễ được yên ư ? Hết tốp cán bộ này ra, lại đến tốp khác nối chân vào. Ngồi tiếp chuyện các ông ấy thì mất ngày mất buổi , lánh mặt lại sợ họ bảo mình có ý tứ gì…”

Vậy là cả làng cả tổng đều ‘tiến bộ”, đều thành xã viên hợp tác xã chỉ trừ ra có mỗi …ông linh mục, khiến bà con phàn nàn :

“ Ông Tam ạ, tôi xem ra các cha mà tiến bộ được như mình thật là khó. Mình theo chế độ mới nào có mất gì, chỉ được thôi, còn các ông ấy mà theo ta thì túi tiền vơi đi quá nửa…”

Thế rồi ông nhà văn lấy ‘dạ tiểu nhân đo lòng quân tử”, lấy cái “tâm lúc nào cũng lo ăn” để phân tích các cha tinh thần :

“ Tôi tính cho các ông các bà nghe nhá. Trước kia ở tổng này có ba chục thằng địa chủ , đứa nào hàng năm chẳng có mấy ngày giỗ kỵ cha mẹ , tổ tiên , lại sửa một mâm chén , tiền lễ đưa cha để cha cầu nguyện cho. Vậy là một món. Nhà nào có cha già mẹ héo cũng phải cố thu xếp mời bằng được cha đến làm phúc , cơm ăn rồi còn tiền đưa tận tay cho cha cầm về. Một năm một lần làm lễ kỳ hồn cho cả xứ, gia đình nào cũng phải đưa tiền , neo túng thì hai ba đồng , sang trọng thì từ một trăm trở lên. Ba món nhé !...Chả trách người ta đồn vàng ở Toà thánh còn nhiều hơn cả thế gian gộp lại…”

Nhìn nhận về thiên chúa giáo như vậy, quả thực ông nhà văn Nguyễn Khải xứng đáng là người…”duy vật”. Chỉ có điều tới ngày nay nếu có dịp đọc lại tác phẩm của mình, hẳn ông nhà văn phải cay đắng thừa nhận rằng cái “hợp tác xã nông nghiệp” mà ông hết lòng ca ngợi đã sụp đổ từ tám đời, nay chỉ còn là cái “bia miệng” cho thiên hạ chê cười , còn cái nhà thờ mà ông ra sức bôi bácvẫn cứ lừng lững mà xem ra mỗi ngày cái “sự đạo” lại thêm tưng bừng náo nhiệt.

Tuy thế đọc kỹ Xung đột cũng có thể lọc ra ít nhiều dấu ấn của cái thời đại “ hợp tác hoá nông nghiệp” kinh hoàng đó.
Vợ chồng nhà Lận trong làng có con trâu sẽ phải đưa vào hợp tác xã nhưng được hoá giá quá rẻ nên tự mổ thịt bán cho bà con trong xóm. Đó là tội ác tày đình, chỉ tiến hành lén lút ngoài bờ đê trong lúc Chủ tịch xã đi vắng. Trong số những người chạy ra đám mổ trâu mua về xâu thịt có ông Phó Chủ nhiệm Tam mà vì “đến mấy tháng nay mâm cơm không có được miếng thịt “ nên “đụng vài cân cho trẻ nó xởi lởi”.

Thịt trâu ăn vào bụng cả nhà rồi chẳng ngờ ông Môn, Chủ tịch xã đi họp về biết chuyện, mắng xa xả :

“ Con trâu khoẻ mạnh thế mà nỡ giật ngửa ra ở rìa đê mổ thịt. Thàng Minh gộc pha thịt, thằng Long chọc tiết. Phen này ông cho cả lũ đi tù, chúng nó định làm loạn à ?”

Ghê gớm chưa ? Người dân ăn có miếng thịt trâu của chính mình mà ông Chủ tịch xã đã doạ “cho cả lũ đi tù” thì hoá ra ở cái xã hội ưu việt này, con người ta lúc nào cũng sẵn sàng…đi tù. Riêng ông Phó Chủ nhiệm Tam, trót dại vì thương con cái thèm thịt mua về một xâu, ông vừa lo bị Chủ tịch xã dằn vặt, vừa lo “mất uy tín” “ hàng trăm cặp mắt chế giễu, căm giận, hàng nghìn lời nói đay nghiến, chì chiết sẽ bao vây lấy anh, tấn công anh và kẻ bị hành hình đã đành không thể sống nổi cũng không chết ngay được …”.

Ôi chao ôi, xã hội gì kỳ quặc, ăn có miếng thịt trâu mua bằng chính đồng tiền của mình mà ông Phó Chủ nhiệm Tam phải điêu đứng thế đến nỗi ông phải than trời :

” Ôi, tủi nhục quá, cay chua quá và dại dột không biết chừng nào…Đằng nào thì trong ngày hôm nay địa vị của anh cũng sẽ thay đổi . Anh sẽ được nghe những tiếng hò reo gian ác, khoái trá của Đoàn và đồng bọn :” Tưởng gì, hoá ra cũng là một anh đạo đức giả. “

Và Tam quay mặt đi khóc nức nở…”

Muốn khóc gì thì khóc, trót ăn miếng thịt trâu rồi, ông Phó Chủ nhiệm sẽ bị đưa ra đại hội xã viên xem xét và bị Chủ tịch xã Môn chửi xơi xơi vào mặt :

“ Anh không xứng đáng, anh phụ lòng tin cậy của tôi , của cả chi bộ . Thằng địch có đâm tôi một nhát dao vào giữa ngực cũng không đau đớn bằng cướp đi của tôi một người bạn.Thế là anh đã chết rồi, phải coi như là anh đã chết rồi. Biết vậy mà không sao cứu được nữa…”

Oi chao ôi, từ cổ chí kim, trên khắp mặt địa cầu này, có lẽ chẳng ở đâu chỉ vì bỏ tiền túi ra mua một miếng thịt trâu bỏ miệng mà bị rủa xả nhục nhã, coi như đã chết rồi đến như vậy. Chỉ nguyên cái chuyện “thịt trâu mổ lậu” , Nguyễn Khải đã “vô tình” lột trần tính phi nhân trong quan hệ đồng chí . Bởi vậy không phải “thân yêu nhau chúng ta gọi đồng chí”, mà chính là trong hội nghị sắp sửa sát phạt nhau , hai chữ “đồng chí” mới được dùng để đưa nhau lên thớt .

(còn tiếp)

khieman
04-16-2014, 10:38 PM
(tiếp theo)



http://4.bp.blogspot.com/-qNCGYjpY_WU/T6o8DRsRMMI/AAAAAAAAAiM/wi01PrSOx1Y/s400/NguyenKhai5.jpg (http://4.bp.blogspot.com/-qNCGYjpY_WU/T6o8DRsRMMI/AAAAAAAAAiM/wi01PrSOx1Y/s400/NguyenKhai5.jpg)


Phó Chủ nhiệm ăn thịt trâu bị xử nặng thế, tất nhiên vợ chồng Lận , thủ phạm chính giết trâu của mình, tội còn lớn gấp bội.Từ sáng sớm còn nhọ mặt người, ông Chủ tịch xã Môn đã cho đánh trống họp ban quản trị và kế toán trưởng hợp tác xử vụ giết trâu. Vợ chồng Lận được kêu đến. Người đàn bà khốn khổ không dám đứng chỉ “lom khom nhìn ngó xung quanh rồi lại thụp xuống ngay” rồi thưa gửi :

“Thưa với chư ông trong nhà túng bấn quá nên tôi cũng có chót bán đi lấy ít tiền để trang trải công nợ ạ….”

“ Bà bán trâu, tậu nghé, mưu mẹo lắm …”

Và cuộc hỏi cung diễn ra với những câu hỏi như quan toà với tội phạm : ”bán cho nhà ai ? ở đâu ? Trong việc bán trâu này ông bà có bàn tính với nhau không …?”

Hỏi xong vợ rồi hỏi đến chồng. Anh chồng bí quá đổ thừa cho vợ tự ý bán trâu làm bà vợ ông Chủ tịch xã phải nói chen :

“ Thế ra quyền bà ấy lại to hơn cả ông à ?”

Vậy là vợ ông Chủ tịch xã không chỉ “dắt mũi” chồng khi ở nhà mà còn ra cả “công đường” phụ với chồng xử tội người khác. Sau cùng ông Chủ tịch xã luận tội “bán trâu” :

“ Việc bán con trâu nhà ông , dù có vợ bán hay chồng bán cũng mặc, dứt khoát là phạm pháp. Tư pháp sẽ có trách nhiệm xét xử việc này…”

Và chẳng cần chờ “tư pháp” xét xử, ông Chủ tịch xã quyết định luôn :

“ Còn con nghé hiện nay ông mới mua uỷ ban sẽ quản lý…”

Gọi là “quản lý” nhưng thực chất Uỷ ban cướp trắng tài sản của dân đen khiến nó phẫn uất :

“Cứ việc. Chính quyền có tịch thu tôi cũng không dám kêu ca gì . Xưa nay bị cướp bóc đã nhiều chứ chẳng phải mới có lần này…Đ…mẹ cả đứa mua lẫn đứa bán đều là dại cả. Xin chào chư ông thôi ạ . Thế bao giờ ông Chủ tịch cho người sang dắt nghé tôi đây ?”

Một phiên “xử án” tịch thu tài sản của đương sự còn tệ hại hơn lý trưởng, chánh tổng ngày xưa trong đó “ phu nhân của quan lớn” cũng nhảy bổ vào kết án thằng dân.

Vậy là trong một xã mọi quyền sinh sát, mọi việc lớn nhỏ từ miếng ăn cho tới việc làm, mọi số phận người dân đều nằm trong tay duy nhất một người : ông Chủ tịch xã. Để thực thi cái trách nhiệm nặng nề ảnh hưởng trực tiếp tới số phận cả mấy ngàn con người , ông Chủ Chủ tịch xã Môn là người thế nào ?

Thật đáng lo ngại, ngoài lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, nắm thật vững và thi hành mù quáng mọi chủ trương đường lối Nhà nước, ông Chủ tịch xã mù tịt kiến thức phổ thông khiến có lúc ông hỏi thật ẩm ương khi nghe nói về tên lửa Liên Xô phóng lên trời:

“ Tôi còn thắc mắc một điều là ví như cái tên lửa nếu nó bay được cao nữa thì có chạm phải nền trời không ?”

Khi được giải thích cặn kẽ, ông vẫn còn chưa thông :

“ Vậy cái tên lửa nó bay mãi như thế mà không vướng núi ư ? Đến một đoạn nào đó tất cũng phải rơi xuống chứ ?”

Nghe giải thích :” trái đất mình ở nó tròn như quả cam, quả bưởi lơ lơ lửng lửng giữa không gian chứ có bám víu vào đâu đâu. Còn tên lửa là bay vòng bên ngoài kia…”

Ông Chủ tịch xã vẫn chưa hiểu :

“ Rắc rối nhỉ. Mỗi tuổi mỗi nghe thêm nhiều chuyện lạ. Kể cũng hay…”

Hoá ra trình độ hiểu biết của ông Chủ tịch xã vẫn thuộc vào thời…ông Copernic phải lên giàn hoả vì dám nói “trái đất nó quay”. Trình độ như vậy các ông cán bộ cách mạng có thể quản lý và bóp nghẹt mọi hoạt động tâm linh của nhà thờ, có thể cướp ruộng, cướp nghé của người dân vô tội, có thể đưa ra Toà kết án kẻ làm thịt trâu của chính mình. Những việc đó họ làm thật xuất sắc vì chẳng cần dùng gì tới kiến thức phổ thông của nhân loại.

Tuy nhiên họ không thể làm cho cánh đồng tăng năng suất lúa, đàn gia súc tăng trưởng nhanh bởi lẽ họ mù tịt về khoa học kỹ thuật tiên tiến và hiện đại. Trong lúc thế giới đang phát triển như vũ bão về phát minh, phát kiến, về cuộc cách mạng xanh, thay vì mở toang cửa đón nhận mọi thành tựu nhằm nâng cao phúc lợi, cải thiện đời sống người dân, họ lại đóng cửa xua mọi người vào cuộc tranh giành, đấu tranh giai cấp gây nên những tổn hại không sao kể xiết. Sau khi giành chính quyền , họ giỏi chia chác “cái bánh” trong đó người cầm cày nhận phần tối thiểu khỏi chết đói chứ tuyệt nhiên họ không đủ đầu óc và nhiệt tình động viên tất cả mọi người làm cho miếng bánh ấy lớn thêm để phần bánh của mỗi người được to ra. Đó quả thực là thông điệp toát ra một cách khách quan, ngoài ý muốn của nhà văn Nguyễn Khải qua tiểu thuyết Xung đột.

Với bà con xã viên , chính quyền còn thắt buộc thế, vậy đối với “ nhà thờ”, tất nhiên phải coi như…kẻ thù dân tộc, luôn âm mưu phá hoại chính quyền. Ông Chủ tịch xã Môn, coi cha xứ Thuyết là “ tinh khôn quá kẻ cướp” và huỵch toẹt :

“ Tôi biết thừa mấy tay linh mục chỉ hay mè nheo với cấp tỉnh vì các ông ấy phải giữ đúng chính sách mà, còn ở xã ấy à, một phép…”

Ông Chủ tịch xã vô tình đã lật tẩy cái “tự do tín ngưỡng “ của Nhà nước – chỉ cần tỏ vẻ “tôn trọng” tôn giáo ở cấp tỉnh thôi, còn dưới cấp xã tha hồ chèn ép. Chính vì thế gã mới khoe khoang :

“ Ngay như tay Vinh tự xưng là thánh Tô-ma thời nay vậy mà mỗi lần gọi ra uỷ ban mặt cắt không còn hột máu …”

Chính phủ trung ương chỉ đạo chính quyền cấp xã thế nào mà các linh mục mỗi lần bị gọi ra Uỷ ban đều phải run sợ thế ? Một tay chót bét trong bộ máy chính quyền cũng có thể mắng sa sả vào mặt các nhà tu hành về chuyện chủng viện đào tạo thầy dòng :

“ Tôi có lần đã nói thẳng với ông Thuyết ở đây : các ông đừng có lập lờ, chỉ bịp được các con chiên ngu dốt chứ cán bộ chúng tôi thì nhìn thấy tận cuống ruột các ông , chủng viện gì, trường đào tạo gián điệp đấy thôi…”

Tất nhiên cấp trên phải gỉ tai thế nào gã cán bộ cấp xã mới dám “công xúc tu sĩ” ngay giữa công đường :

“ Trường gián điệp ( tức chủng viện) ngay giữa miền Bắc này , chẳng những không ai dám đả động đến nó mà còn phải cấp cả gạo ăn, than đốt , giấy bút học, thỉnh thoảng lại còn văn công, xi nê để giải trí nữa…”

Nếu ‘chủng viện” đúng vậy thì chắc chắn đó là “trường quốc doanh đào tạo cán bộ tôn giáo vận” đội lốt chủng viện. Chắc ông Chủ tịch xã “ ngây thơ” không hiểu được điều cơ mật đó, nên cứ ra rả mắng mỏ học sinh chủng viện :

“ Mấy đứa người xã này đi học ở Bái tôi biết., khi đi chúng nó nết na, hiền lành thế , học được một hai năm về thăm nhà mặt mũi đã nhâng nháo như kẻ cướp , ăn nói hỗn xược, toàn xui gia đình phá chính sách, có đứa mang cả tài liệu chống cộng về phân phát trong xóm…”

Sự thực trong lòng xã hội miền Bắc những năm 1960 không khí khủng bố khét lẹt, làm gì có chuyện mấy đứa học sinh dám mang “tài liệu chống cộng về phân phát trong xóm”. Trong thời kỳ này, một anh cán bộ Đài Tiếng nói Việt Nam , nhà thơ Tuân Nguyễn chỉ đùa hai câu thơ vui :

“Tiến lên ta quyết tiến lên
Tiến lên ta gọi cấp trên bằng…thằng”

Chỉ mới “đùa chút ” thôi đã phải đi cải tạo , huống hồ “phân phát tài liệu chống cộng trong xóm” thì tội đáng…lăng trì, xử trảm, ai dám to gan thế ? Xem vậy đủ biết Chủ tịch xã Môn vu cáo nhà thờ trắng trợn đến đâu. Gã còn quy kết :

“ Mình là hàng cha chú chúng nó, có đến chơi thì giương mắt đứng nhìn, hằn thù cán bộ còn hơn cả quân Pháp ngày xưa. Mới mười bốn mười lăm tuổi đã thành phản động con cả , nữa là để chúng nó dạy dỗ nhau năm mười năm nữa…”

Một ông cán bộ mặt trận tỉnh tên Mẫn được phái về tăng cường cho xã lẽ ra phải uốn nắn Chủ tịch xã thái độ ứng phó với nhà thờ sao cho kín đáo uyển chuyển hơn , đằng này lại phụ hoạ , hung hăng không kém trong thù ghét nhà thờ . Ông cán bộ tỉnh nhận xét các linh mục thật coi người bằng nửa con mắt :

“ Bọn ấy tuy chẳng tài ba gì, trước sau vẫn một ngón võ nấp sau lưng con chiên thôi, nhưng đừng tưởng họ ít thủ đoạn đâu nhé. Đức Giám quản vừa cho cánh mình một vố khá ngọt đây…”

Tưởng “vố” gì ghê gớm, hoá ra chỉ là lời đùa bỡn của linh mục Tuệ với cán bộ Mẫn :

“ Tôi sinh đúng vào năm cách mạng tháng Mười , đến cách mạng tháng Tám thì được truyền chức linh mục , hoà bình lập lại làm Giám quản địa phận. Đời tôi thế là dính liền với cách mạng đấy nhé…”

Cán bộ rủa xả, nhục mạ linh mục thì không sao, ngược lại linh mục chỉ nói giỡn vài câu với cán bộ đã bị coi là … khiêu khích cách mạng.

Thực ra cái số cán bộ thù ghét nhà thờ “ghi xương khắc cốt” kiểu như Chủ tịch xã Môn với cán bộ Mặt trận Mẫn là không nhiều ; bởi lẽ chính họ cũng từ giáo dân mà ra, vợ con, bố mẹ họ vẫn là những con chiên ngoan đạo, hà cớ gì họ phải “báng bổ” nhà thờ đến vậy ? Trong khi đó họ vẫn được Đảng và Nhà nước nhắc nhở về “tôn giáo vận”, vẫn được dặn dò cần phải có sách lược mềm dẻo, linh hoạt “tỏ rõ” chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng chính phủ kia mà ?

Ông nhà văn Nguyễn Khải “vẽ rắn thêm chân”, phóng đại lòng “căm ghét nhà thờ” trong giới cán bộ xã và tỉnh liệu có phải để chính ông bày tỏ sự dứt khoát từ bỏ gốc gác thầy dòng của ông, từ bỏ theo kiểu chặt cầu và không khoan nhượng để được Đảng tin cậy. Quả thực có lớn tiếng mượn mồm người khác mạt sát nhà thờ, ông nhà văn mới tỏ rõ được lập trường giác ngộ giai cấp, giác ngộ Đảng quyết liệt, từ trong tim, trong máu chứ không phải chỉ là ở đầu môi chót lưỡi.

Lập trường này càng củng cố khi sau 1975 Nguyễn Khải gặp lại gia đình đã di cư vào Nam, ông vẫn quyết liệt lên án họ trong “ Gặp gỡ cuối năm” làm yên lòng Đảng . Bởi vậy trong thời kỳ văn nghệ sĩ miền Bắc bị khủng bố gắt gao nhất , Nguyễn Khải vẫn luôn luôn là đứa con cưng được Đảng bao bọc và ấp ủ trong vòng tay của “văn nghệ quân đội”.

Công lớn của Nguyên Khải trong “Xung đột” không chỉ hạ uy tín nhà thờ mà còn tô vẽ hợp tác xã thành bộ mặt thật tốt đẹp chứng minh chủ trương tập thể hoá nông nghiệp của Đảng là cực kỳ ưu việt và sáng suốt. Cái sự “tô vẽ” ấy đôi khi quá đà khi ông “bịa” lời một anh nông dân tên Điệp bênh che cho việc Nhà nước cướp ruộng, cướp trâu của nông dân :

“ Sống ở xã này mỗi năm một thấy khác. Có hai bác tôi xin nói thật, nhân dân ở đây họ có tin ở chính phủ lắm mới trao ruộng, trao trâu cho hợp tác xã, cơ nghiệp hàng mấy đời người chứ đâu phải chuyện bỡn…”

Rồi cũng chính anh nông dân này “ca ngợi” Nhà nước đã ‘cướp thóc của dân” :

“ Cứ lấy việc thu thóc nghĩa thương vụ mùa năm ngoái mà suy thì ai cũng phải phục cái sáng suốt của huyện của tỉnh. Ngày ấy không kiên quyết thu thì bây giờ lấy đâu ra thóc cứu đói…”

Hoá ra “thuế nghĩa thương” là thuế thóc dự trữ để khi nào có thiên tai đói kém thì Nhà nước khỏi phải lấy quỹ thóc quốc gia ra cứu . Thật là một sắc thuế độc nhất vô nhị trên thế giới . Mượn mồm anh nông dân, ông nhà văn tiếp tục ‘tô vẽ” :

“ Năm Ất Dậu ngoài chợ Hỗ thóc bán có năm đồng một thùng mà người chết đầy đường, năm nay thóc bán tám chín đồng, mười đồng cũng là , vậy mà không nhà nào đến nỗi phải nhịn cơm hai bữa…”

So sánh giá thóc năm 1945 theo tiền Đông Dương với giá thóc năm 1960 ông nhà văn quên bẵng mất là lúc này cách mạng đã có Ngân hàng Nhà nước làm gì ra tiền Đông Dương như hồi Pháp thuộc ? Và rồi ông xuýt xoa :

“(thóc cao vậy mà…) vẫn họp hành , vẫn sản xuất , con gà con vịt , buồng chối lá rau tịnh không một ai lấm lét , tơ hào. Thời Nghiêu Thuấn cũng đến vậy chứ gì ?”

Ôi trời ôi, cái thời “ mỗi người làm việc bằng hai, để cho chủ nhiệm mua đài mua xe” mà ông nhà văn coi là ‘thời Nghiêu Thuấn” thì nghề “bốc thơm”, “bồi bút” phải lấy ông này …tiên sư..




http://3.bp.blogspot.com/-_RU9R0THR0Q/T60Uk8r878I/AAAAAAAAAik/r1k5NGgXUuA/s400/NguyenKhai6.jpg (http://3.bp.blogspot.com/-_RU9R0THR0Q/T60Uk8r878I/AAAAAAAAAik/r1k5NGgXUuA/s400/NguyenKhai6.jpg)


Chẳng riêng nông dân, bản tính con người là “tư hữu” . Tiến hành hợp tác hoá nông nghiệp, thu gom ruộng đất, trâu bò, nông cụ vào hợp tác xã thực chất là cưỡng chế . Người nông dân vì áp lực chính trị, đành phải ngậm đắng nuốt cay giao sản nghiệp cho hợp tác xã .

Đó là sự thực hiển nhiên không ai không biết.

Ấy thế mà ông nhà văn Nguyễn Khải tô vẽ cho sự giao nộp ấy như một tự nguyện “cao đẹp”, như ý nguyện thiêng liêng của người nông dân đối với cuộc vận động của Đảng .

Ông Điệp được vào hợp tác xã, làm ngay một mâm cơm gà, cá kho mời bằng được cán bộ xã tới ăn mừng :

“ Hôm qua chúng tôi vừa tổ chức liên hoan vào hợp tác xã, hôm nay làm bữa cơm nhạt mời hai bác sang uống chén rượu gọi là mừng cho anh em chúng tôi đi theo con đường xã hội chủ nghĩa…”

Không hiểu ngày nay, đọc lại câu “đi theo con đường xã hội chủ nghĩa” đã ấn vào mồm anh nhà quê, ông nhà văn Nguyễn Khải có thấy “hài hước” chăng ? Hẳn ngày nay ông đã nhận ra “con đường xã hội chủ nghĩa “ ấy càng đi càng mù mịt , càng phá tanh bành cái hợp tác xã mà Đảng và Nhà nước tốn công xây dựng.

Mặc dầu Đảng và Nhà nước đã dùng cả một bộ máy toàn trị để bao vây, cưỡng bách nhưng công cuộc hợp tác hoá nông nghiệp không phải là không vấp phải sự chống đối của nông dân. Những phản ứng của nông dân như giết trâu bò, phá huỷ nông cụ, chây lì không chịu ký đơn…chắc chắn phải nổ ra. Tuy nhiên tất cả những chuyện đó bị bịt đi , ngược lại việc cưỡng chế nông dân vào hợp tác xã được cả một bộ máy tuyên truyền báo chí của Đảng tô vẽ như một cuộc đổi đời tự nguyện của người nông dân.

Nguyễn Khải cũng không đứng ngoài được “sự nghiệp tuyên truyền vận động hợp tác hoá” đó. Chẳng những ông không dám đi sâu vào khai thác và phản ánh cuộc đấu tranh ngấm ngầm cũng như ra mặt của nông dân chống lại việc cưỡng bức vào hợp tác, ngược lại ông còn tô vẽ nó đúng như một cán bộ tuyên truyền. Chính vì thế cái phần “xung đột” giữa Đảng và nông dân trong tiểu thuyết “Xung đột” rất mờ nhạt. Chỉ có mỗi vụ Quảng “giả chết” ở đầu truyện để vu vạ cán bộ xem ra còn có vẻ gay gắt còn sau đó chỉ thấy toàn thấy nông dân “ơn Đảng, ơn chính phủ” được vào hợp tác hoá để đổi đời. Phản ánh hiện thực nông thôn thời kỳ này, Nguyễn Khải đã thực hiện đúng theo lý luận kinh điển của Đảng :” mâu thuẫn trong nhân dân “ là mâu thuẫn “nội bộ ”, mâu thuẫn “thống nhất”, mâu thuẫn để ..cùng đi lên.

Trong lúc cố xoá mờ , giảm nhẹ xung đột giữa dân và Đảng, Nguyễn Khải lại tô đậm mối xung đột giữa “nhà thờ ” với chính quyền vừa dễ viết cho sinh động vừa đúng đường lối của Đảng coi đó là mâu thuẫn đối kháng, mâu thuẫn “địch - ta”. Bởi thế, phần lớn “Xung đột” phần II xoay quanh chuyện Nhà nước o ép nhà thờ. “Gậy ông lại đập lưng ông”, ngày nay chính những điều Nguyễn Khải mô tả trong tiểu thuyết vô tình đã lột trần cái “tự do tín ngưỡng” , cái “tốt đạo đẹp đời” xưa nay vẫn tuyên truyền.

Một trong những mẹo chống nhà thờ của nhà văn Nguyễn Khải là bịa ra những bi kịch cá nhân do nhà thờ gây ra. Cô Huệ, con gái ông Bốn sau 10 năm đi tu đã tố cáo tội ác của nhà thờ với bố đẻ :

“ Bố ơi, khi con ở nhà đức tin con mạnh, con vào ở đây đức tin con chẳng còn nữa , tất cả mọi người lừa dối con. Bà Nhất thì cay nghiệt hơn dì ghẻ, đuối tay đuối sức một chút là bị phạt rồi. Mỗi lần con nằm chực ở ngưỡng cửa cho bạn bè bước qua , cúi mặt xuống hôn đất để tạ lỗi, con lại nhớ đến ngày ở nhà được bố mẹ nuông chiều. Sao con lại tự đưa mình vào chốn khổ , khổ mà chẳng được ơn ích gì . Họ mặc áo bà dòng khấn khứa từ sáng đến tối mà vẫn tằng tịu với người khác giới, có người uống thuốc thôi thai, có người đi đẻ giấu , có người còn đang tay bóp chết con nhỏ. Mẹ Nhất cũng có nhân tình. Con chẳng tin vào ai cả Con chẳng tin có cái gì khác ngoài những điều mắt con trông thấy, đời con thế là hết rồi…”

Chỉ một năm sau gặp bố, nữ tu Huệ chết trong một cơn “giãy giụa đau đớn”. Một nơi địa ngục trần gian, đầy xấu xa và tội lỗi như vậy mà lại là một nhà nữ tu thì quả thực liệu người ta có thể tin vào sự trung thực của ông Nguyễn Khải chăng ?

Điều đó hoàn toàn có thể kiểm chứng được bởi lẽ nơi cô nữ tu bị đầy đoạ trong suốt hơn mười năm trời là một địa chỉ cụ thể, theo như tác giả là thôn Bái thuộc Bùi Chu. Nếu cuộc điều tra chính thức được mở ra , ông nhà văn rất có thể ra Toà về tội vu cáo.

Sau nữ tu, đến lượt các đấng chăn chiên bị ‘bôi bác”. Trước hết ông nhà văn giễu Toà thánh :

“ Người ở thôn Hỗ vẫn coi cái địa phương xa lắc ấy còn ruột thịt hơn cả quê hương mình, còn thiêng liêng hơn chính linh hồn mình và ràng buộc mình bằng trăm ngàn sợi dây bền chắc”

Thậm chí ông nhà văn còn giở giọng xỏ xiên :

“ Hầu như đức Giám ở Bái kêu khát , con chiên ở Hỗ đã thấy cổ mình se lại; đức Giám mục đi vấp, con chiên ở đây đã thấy đầu ngón chân mình rớm máu; đức Giám mục se mình người ta đã đồn đại nhau với nét mặt lo âu.Ngay đến những quyết định hệ trọng nhất của đời người như nên sống thế nào, nên đi theo đường nào , họ cũng tuỳ thuộc vào cái đầu đội mũ hàm ếch lắc hoặc gật.Hình như cái gậy vàng của Giám mục đối với xứ Hỗ còn có hiệu lực sai khiến hơn cả chính con chiên ở Bái. “

Và rồi “chân dung biếm hoạ” của Đức Giám mục được ông nhà văn vẽ vời :

“Người xứ Hỗ chỉ được nom dung nhan đức Giám khi người xuất hiện ở bàn độc, trịnh trọng trong bộ áo lễ rực rỡ, chỉ được nghe lời nói dịu ngọt và đầy sức quyến rũ của người qua những bức thư luân lưu, còn ở Bái thì người ta lại kháo nhau về những tính tình quá trần tục của từng cha một . Rằng cha giám quản thích ăn trứng trụng xôi, mỗi sáng có thể mút hàng chục quả với muối. Rằng không những đức Cha chỉ biết đưa bàn tay cao quý cho kẻ khác hôn vào mặt nhẫn, mà cũng những ngón tay nuột nà ấy còn biết xấp nước bọt đếm tiền nhanh như nhân viên ngân hàng…”

Quả thực thật khó hiểu vì sao nhà văn Nguyễn Khải lại “ngậm một khối hờn căm” đối với Thiên chúa giáo đến vậy. Một nơi của nhà thờ làm ông nhà văn “ngứa mắt” không thua gì Toà Giám mục chính là chủng viện :

“ Ở cái trường đạo nổi tiếng ấy anh sẽ được thăm những dẫy nhà ăn hôi mốc, tanh tưởi như mùi chiếc đũa tre lâu ngày không rửa, những đứa bé đứng ngồi, ăn húp, cười đùa gõ bát gõ đũa như những kẻ mất dậy…”

Than ôi, chủng viện là nơi nhà thờ đào tạo tu sĩ đâu đến nỗi như trại tạm giam trẻ móc túi ở Chí Hoà vậy? Và đây là nhà ngủ của các học sinh chủng viện :

“ Những dẫy nhà ngủ chiếu cuộn lại từng đống trên giường, dưới đất, hoặc nửa ở trên giường, nửa ở dưới đất, những cái gối gỗ bong sơn , những chiếc thập giá nằm dài ở đầu giường mệt mỏi…”

Giường chiếu đã thế, sách vở còn tệ hơn :

“… những kinh sách do chính toà giám biên soạn truyền bá đạo lý của nhà Chúa và những sự vô luân của quân cộng sản, những truyện trinh thám, kiếm hiệp, ái tình từ cái đời thủa nào vẫn được lưu lại…:”

Đi sâu vào chủng viện còn kinh hãi hơn :

“ Sau những dãy nhà lắm ngách lắm cửa tối hun hút và bí hiểm kia, còn những lớp nhà phía sau nữa , những lớp nhà dài dằng dặc và trống rỗng đặc biệt vẫn có cái mùi hôi mốc quen thuộc, thứ mùi của sự ngưng trệ, lười biếng. Ở tận một xó, một xó bị bỏ quên trong vùng tối bùng nhùng ngay giữa cả lúc trời nắng vang lên những tiếng cười lạc lõng : hai ông bõ già đang ngồi ăn cơm , một người to béo mặt mùi sần sùi vừa câm vừa điếc lúc nào cũng nhìn người khác với nụ cười khó hiểu và một người tay bưng bát cơm cứ run rẩy như trong cơn sốt , vừa ăn vừa ho vung vãi…”

Người của chủng viện đã tật nguyền và tâm thần vậy, đến con chó của chủng viện cũng không ra hồn…con chó :

“ Dưới chân họ một con chó đen đã gần trụi hết lông, trơ ra những đám thịt héo hon đen tím , mắt đầy nhử , quanh ra quanh vào chậm chạp, thấy người lạ nó cũng chỉ đưa được đôi mắt kèm nhèm như van vỉ nhìn lên một thoáng rồi lại cúi xuống tha thẩn như cũ, đụng đầu vào cột, vào bậu cửa như một người đã lẫn cẫn…”

Con chó chủng viện đã như chó hoang vậy, tu sĩ trong chủng viện cũng chẳng hơn gì những kẻ tâm thần :

“ Nhưng đêm đến , cái xác chết tưởng như sắp thối rữa kia khi đã ngửi thấy mùi ẩm ướt của bóng đêm lập tức hồi sinh lại một cách nhanh chóng. Những khung cửa tối om bỗng đỏ rực lên như hàng trăm con mắt lóng lánh. Ở nhà họp công cộng trên tầng gác, bàn ghế đã được kê lại ngay ngắn, học sinh ngồi nghiêm chỉnh trên các ghế. Và cái anh tu sĩ tầm thường của ban ngày, cái anh gầy gò, nhai trầu bỏm bẻm lúc nào cũng có cái điệu bộ ngớ ngẩn , ngu dại nói lắp bắp, dưới ánh đèn của ban đêm đã thay đổi hình dạng. Anh ta nhìn từng dãy ghế xoi mói, thuật lại một cách hoạt bát những việc xảy ra trong ngày…”

Thầy đã thế còn trò cũng xấu xa không kém :

“ Quả thực cái bọn học trò đã trở thành một lũ lưu manh ấy không thích về với bố mẹ chúng thật. Bây giờ học làm thầy chúng cũng không thích, học văn hoá lại càng đáng chán hơn. Phải học , dù học gì cũng là gò bó, trói buộc rồi. Chúng chỉ ao ước cái thời kỳ giằng co với cộng sản sẽ kéo dài nữa. Chỉ mong được sống mãi mãi như thế này : ăn thoả thích, chơi bời thoả thích, nói năng bậy bạ, tục tĩu thoả thích và đêm đêm lại tập hợp nhau làm những chuyện ly kỳ…”

Than ôi, trường đào tạo linh mục của nhà thờ sao tăm tối, bệ rạc và chủng sinh thì lưu manh quá vậy ? Cái nhà trường của giáo xứ Nguyễn Khải mô tả “dơ dáy, xấu xa và vô tích sự” đến thế mà vẫn lo lắng nó “đào tạo gián điệp, phản động” nên Nhà nước vẫn cứ khăng khăng giải tán nó.

Trước hết “ uỷ ban triệu tập những gia đình trong xã có con đi học ở chủng viện Bái đến thảo luận và thi hành quyết định của tỉnh.” Cứ căn cứ chính sách tín ngưỡng của Đảng thì việc giáo dân cho con em đi học chủng viện là chuyện bình thường, vậy mà khi bị triệu tập, họ vẫn phải tới trong tâm trạng lo sợ.

“ Thời gian chờ đợi cũng lâu, những người đến trước không trò chuyện, đùa bỡn như ở các cuộc họp khác . Họ chỉ lặng lẽ nhìn nhau như những kẻ mất hồn, làm ra vẻ đờ đẫn, ngây dại….Người ta dò hỏi nhau bằng con mắt, nghe ngóng một cách lo âu những việc sẽ xảy ra và dành sự suy nghĩ cho những mưu mô sắp đem đối phó…”

(còn tiếp)

khieman
04-16-2014, 11:07 PM
.

Trích Ý Kiến Độc Giả


Một người đọc05:55 Ngày 09 tháng 05 năm 2012
Tôi theo dõi loạt Chân dung... này đều đặn, nhưng sự thực là tính hấp dẫn của nó không còn như ban đầu nữa, bây giờ tôi vào đọc, việc đầu tiên là kéo chuột về cuối bài xem có từ "còn nữa" hay không, nếu có thì tôi lười biếng đọc theo lối nhảy cóc.
Theo tôi, Nhà văn nên viết gọn lại, chỉ chấm phá thôi, viết ít gợi nhiều thì con chữ nó thấm vào người đọc hơn.
Mạo muội vài dòng góp ý, nếu không hợp khảu vị xin nhà văn lượng thứ.

NHẬT TUẤN]08:00 Ngày 09 tháng 05 năm 2012
Cảm ơn bạn đã góp ý. tôi hiểu yêu cầu của bạn. Tuy nhiên rất đông bạn đọc lại muốn đi sâu vào tác phẩm, qua đó muốn "sống lại" một thời đã qua, một thời mà nếu không mổ xẻ cho sáng tỏ sẽ làm nhiều người nhất là con em chúng ta hiểu sai hoặc hiểu mù mờ, không thấu đáo.Nhất là những tác phẩm thế này vẫn đang được ca ngợi hết lời trong các giáo trình văn học.

CUA RẬN06:09 Ngày 09 tháng 05 năm 2012
Cảm ơn Nhà văn Nhật Tuấn. Quả là đọc kỹ lại Xung đột mới thấy cái lố bịch của văn chương minh họa... có cái gì của phong trào ngày ấy cũng cố mà khen tốt tốt... nhưng rồi kết quả lại ngoài ý muốn của sự tung hô.
Nhiều lúc em cũng thần tượng hóa Nguyễn Khải rồi nghĩ hay là ông Nguyễn Khải ngầm đả kích... hóa ra không phải.
Cũng trào lưu ấy về sau một chút... ông Anh Đức còn xây dựng một bà Cà Xợi anh hùng vì cách mạng mà giết con đẻ (Thiếu tá Xăm) trong Hòn Đất. Đọc xong cứ ám ảnh mãi ... và kinh kinh. Nếu được, sau phần viết về ông Nguyễn Khải bác viết về ông Anh Đức cho chúng em được tham khảo.
Kính bác!

HỒ THƠM17:12 Ngày 09 tháng 05 năm 2012
Hùa vào ... khí thế của bác Cua Rận , chờ mong bác Nhật Tuấn mổ xẻ, "nội soi" ... bà Cà Xợi của ông Anh Đức để thấy được tính nhân văn , nhân bản trong văn chương thời chiến tranh .

Trần Ngọc Sơn08:29 Ngày 09 tháng 05 năm 2012
Có lẽ vì gần một đời viết các tác phẩm "tuyên huấn" như vậy mà cuối đời nhà văn đã thức tỉnh và "Đi tìm cái tôi đã mất" chứ nếu không thì... Rất cảm ơn Nhà văn Nhật Tuấn đã cho chúng cháu thế hệ phải học Mùa lạc, Vợ chồng A Phủ...được hiểu sâu hơn về tác giả và giá trị thực của các tác phẩm đó.

D.Nhật Lệ16:28 Ngày 09 tháng 05 năm 2012
Bác Nhật Tuấn viết như vậy theo tôi là hay rồi và thú vị, nhưng
khác với 'Mộtngườiđọc',tôi chỉ tiếc là bác không viết dài hơn.
Trân trọng.

Nặc danh18:17 Ngày 09 tháng 05 năm 2012
Rất hay, mong nhà văn tiếp tục dài dài. Ngày nào vào Basam, tôi cũng chờ mục này. Đọc xong lại thấy thèm. Lâu quá.

Nặc danh01:04 Ngày 10 tháng 05 năm 2012
"Mỗi người làm việc bằng 3,
Để cho chủ nhiệm xây nhà ,xây sân,
Mỗi người làm việc bàng 5,
Để cho chủ nhiệm vừa nằm vừa ăn!"
Chủ nhiệm ấy là con số nhỏ sau này người ta gọi chung là cán bộ

mộc mạc01:40 Ngày 11 tháng 05 năm 2012
Tên tuổi ông Nguyễn Khải thì nhiều người biết vì nhiều người thời cắp sách đến trường đã phải học một số tác phẩm của ông ấy theo kiểu trích giảng văn học. Thời đó dẫu muốn được đọc thêm NK hay tác phẩm văn học nào khác cũng đâu có được vì sách (cả báo Nhân dân) bán theo phân phối.
Nay bác Tuấn bỏ công ra đọc kỹ, rồi trích dẫn và phân tích cho ra CHÂN DUNG HAY CHÂN TƯỚNG NHÀ VĂN là rất bổ ích đối với bạn đọc hôm nay và rất đáng hoan nghênh bác Tuấn!

Nặc danh17:30 Ngày 11 tháng 05 năm 2012
Cám ơn Bác Nhật Tuấn

quang vinh18:17 Ngày 11 tháng 05 năm 2012
Kinh khủng thật, đúng là với con chữ, người ta có thể đổi trắng thay đen, làm những gì mình muốn. Nhưng rồi thì, sau những con chữ, sự thật vẫn là sự thật. Cám ơn nhà văn Nhật Tuấn đã xới lên cái sự thật ấy cho mọi người biết.

Nặc danh19:05 Ngày 11 tháng 05 năm 2012
Trong XUNG ĐỘT có nhân vật thằng Xuân làm xã đội trưởng với câu nói nổi tiếng: Tôi xa đảng, xa nhân dân dân thì được chứ xa chợ không xa. Nó cũng giống như trong ĐÔI MẮT nhân vật Hoàng nhận xét về thằng đồ tể nó chỉ giỏi đánh tiết canh chứ làm chủ tịch phường thế nào được. Phải chăng đó là những câu nói mang tính dự báo về những sai lầm của học thuyết giai cấp trong xây dựng đội ngũ lãnh đạo? Thực tiễn mấy chục năm qua đã trả lời cho những dự báo đó là đúng, những kẻ dốt nát vô học mà cho làm lãnh đạo thì nó chỉ phá nát xã hội ra mà thôi!

Nhã Nam
Thật tởm lợm cho những "tác phẩm" của Nguyễn Khải. Cám ơn anh Nhật Tuấn

D.Nhật Lệ03:54 Ngày 12 tháng 05 năm 2012
Tôi đọc được bài về Trại Cổng Trời ở miền Bắc của tù nhân Kiều Duy Vĩnh thì thấy trại này rất khắc nghiệt mà người ta
lưu truyển câu là ở đây vào thì có,về thì không ! Nhiều linh mục bị đày đọa đến chết ở trại này,trong đó có cha Nguyễn Văn Vinh, cha xứ nhà thờ Hà Nội. Ông Nguyễn Hữu Đang còn may mắn là vẫn về được, hình như giam không lâu bằng các linh mục.


http://nhattuan2011.blogspot.com

khieman
04-17-2014, 09:24 PM
(tiếp theo)




http://4.bp.blogspot.com/-pacKjeTFa8c/T7CCYnUm4QI/AAAAAAAAAi8/tGmU21p_89I/s400/NguyenKhai7.jpg (http://4.bp.blogspot.com/-pacKjeTFa8c/T7CCYnUm4QI/AAAAAAAAAi8/tGmU21p_89I/s400/NguyenKhai7.jpg)




Thực ra, Nguyễn Khải ngoài ý muốn đã mô tả chính xác tâm trạng người dân khi phải ghé “cửa quyền” theo giấy triệu tập. Họ lo lắng, khép nép, rúm vào nhau chứ làm gì có hồ hởi, phấn khởi vẫn tuyên truyền :

“ Môn – Chủ tịch xã mở đầu, nét mặt đã cau có :

“Chúng tôi đã cử người đi mời từ chiều hôm qua, vậy mà chỉ có – Môn ngừng lại đưa mắt đếm một lượt – hơn 10 gia đình…Sao các bà lại ngồi túm vào một góc thế ? Ghế đây !Rộng rãi bao nhiêu. Đã đi họp thì phải ngồi cho đàng hoàng thì nghe mới lọt vào tai chứ . Nào, mời các bà ngồi dịch lại đằng này…”

Vậy là giữa dân và chính quyền đã ngăn cách, một đằng cố tránh ra xa, một đằng cố kéo lại không phải vì thông cảm mà để “ làm việc” . Thấy dân tránh xa mình như tránh dịch, Chủ tịch xã càng nóng :

“ Các bà cứ đi nghe những chuyện nhảm nhí đâu đâu rồi lại thắc mắc với chính phủ, với Uỷ ban. Uỷ ban cho người đến tận nhà mời lại nói chuyện thì viện cớ từ chối. Chính quyền là công bộc của nhân dân, nhưng nhân dân cũng phải biết vâng lời chính quyền chứ. …”

Đảng vần luôn nhắc nhở cán bộ “là đầy tớ của dân”, “ vì nhân dân phục vụ”, thực chất “đầy tớ” luôn coi “ông chủ” như kẻ thù… thành thực. Bởi thế câu trước câu sau, Chủ tịch xã thò ngay bộ mặt trấn áp ra :

“ Được, những gia đình nào không cử người đến chúng tôi sẽ có cách , phải cảnh cáo. Trên không ra trên, dưới không ra dưới thì còn thành thể thống gì nữa. Dân chủ nhưng phải có kỷ luật…:”

“ Dân chủ nhưng phải có kỷ luật” – dân chủ tập trung, dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ hơn cả … Mỹ bao năm nay Đảng đã “ban”cho dân. Sau cùng, ông Mẫn , cán bộ trên huyện cử xuống cũng huỵch toẹt :

“Trong khi nhà trường chuẩn bị một chương trình dậy văn hoá đầy đủ thì phải giải tán số học sinh hiện nay. “
Và ra lệnh cho phụ huynh học sinh :

“ Vậy như ở xã ta đây, các ông các bà đã cho gọi các em dưới ấy về chưa ? Chẳng lẽ cứ để chúng nó chơi bời dông dài mãi. Về nhà học thêm được ngày nào lợi ngày ấy. “

Vậy đã rõ, khi chưa dám công khai giải tán chủng viện thì chơi trò lén lút áp lực với dân rút con em về không cho học nữa. Ông ta còn giở giọng đểu :

“ Chúa gọi thì nhiều Chúa chọn có mấy, trăm người may đỗ cụ được vài người…”

Một bà là phụ huynh của học sinh chủng viện nghe ngứa tai quá, phản ứng :

“ Thưa với chư ông, cho con đi tu cũng chẳng mong gì con đỗ cụ để làm bà cố đâu ạ. Số mệnh nó đã do Chúa định thì giao phó cho nhà Chúa. Chúng tôi là kẻ làm cha mẹ chẳng dám ân hận điều gì…”.

Tuy nhiên chuyện “giao con cho Chúa” với ông cán bộ huyện là chuyện tầm phào, bởi vậy lại đe dọa :

“ Các bà tưởng cái trường ấy chỉ có đào tạo người đi truyền giáo hẳn. Học đạo một phần, học làm kẻ thù của cách mạng chín phần… Thử hỏi những đứa do công an tóm được đi kẻ khẩu hiệu , dán truyền đơn chống cộng là ai, toàn học sinh chủng viện cả.

Đến lượt Chủ tịch xã giở giọng xuyên tạc:

“ Khi đi chúng là người tử tế lúc về hoá ra thằng ma cà bông. Các bà có muốn có con các bà đi một bước công an phải theo dõi một bước không ?”

Con giun xéo lắm cũng quằn , nghe cán bộ mạt sát con cái , một bà gầy gò, vấn khăn trắng lên tiếng :

“ Ông nói như thế chúng tôi không được đồng ý. Lúc nó ở nhà có một, đi học về lại gấp năm gấp mười, hẳn hoi , tử tế. Thực thà là không thấy nó ăn nói cấc lấc điều gì, bố mẹ cũng phải nể con chứ không nói khác…”

Nói vậy khác nào vả vào miệng cán bộ . Còn chút liêm sỉ, hẳn ông sẽ xấu hổ vì sự vu cáo của mình bị lật tẩy. Đằng này đuối lý, ông Chủ tịch giở giọng “chính quyền” với người cả gan cãi hắn :

“ Bà Đỗ có định gọi cháu nó về nhà không ? Niên học mới thì chưa đến, nhà trường chưa khai giảng vậy còn để con nó ở đấy làm gì ?”

Đứng trước cường quyền, người đàn bà vẫn không chịu khuất phục nhưng đành phải mềm dẻo :

“ Thưa với ông, cháu đã nhất quyết đi tu, không gánh vác phần đời , không màng chuyện thế gian, là tự do tín ngưỡng của nó, tôi nào nỡ gọi nó về, phải tội chết…”

Nghe mấy chữ “tự do tín ngưỡng”, ông Chủ tịch giật mình vì nó nằm trong “chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước”, vội nhẹ giọng:

“ Bà có chắc rằng cậu ấy chỉ đi tu chứ không làm việc gì khác ?”

Hắn hỏi một câu rất khôn, gạt ngay chuyện “tự do tín ngưỡng “ chuyển ngay sang chuyện “truy tìm phản động”. Hắn cười gằn, giở giọng đe doạ:

“ Bà có biết những người có trách nhiệm ở đây đã dùng con bà vào việc gì không ? làm liên lạc đưa tài liệu tin tức chống cộng đấy. Vụ hè vừa rồi con bà về mang cả một bản kinh “ cầu cho giáo hội im lặng” đút vào trong giầy ống. Nó mới mười lăm tuổi đầu, còn ngây thơ lắm. Chớ để nó đi sâu vào con đường lầm lạc rồi sau này nó oán trách bố mẹ đấy…”

Thấy chính quyền chụp cho con tội “phản động” tầy trời, bà mẹ hoảng sợ không còn dám cãi nhau tay đôi với ông Chủ tịch xã nữa, “đành chỉ thở dài uất ức rồi lại ngồi nén mình như cũ. Ông Chủ tịch ép đến tận cùng :

“ Nếu các bà không đi được thì cứ viết thư cho các cháu, uỷ ban chúng tôi sẽ cử cán bộ đi đón về…”

Đây là một “mẹo” cao cường , một khi nắm được những lá thư gọi con về của bố mẹ, Uỷ ban sẽ có cớ dẹp bỏ trường chủng viện một cách êm thấm mà không phạm chính sách “tự do tín ngưỡng “ cả Đảng. Chắc hiểu rõ dã tâm đó, người mẹ chối phắt :

“ Dạ không dám ạ, cháu nó bé còn phải mang xống áo cho cháu …thật tình không dám phiền đến Uỷ ban…sợ cháu nó không chịu về lại thêm mất thời gian ”

Vậy nhưng ông Chủ tịch vẫn dai như đỉa, giở giọng nhân nghĩa :

“ Uỷ ban chịu phiền cũng được , miễn là phục vụ được nhân dân…Mất đến nửa tháng cũng chẳng sao. Nếu bà đồng ý mai chúng tôi sẽ cho người đi…”

Nhưng người dân đời nào chịu “gửi trứng cho ác”, giao con cho uỷ ban với du kích, người mẹ bị dồn vào chân tường, sau cùng cũng đành phải chống lệnh chính quyền :

“ Thưa với các ông, tôi xin thưa thực là tôi không có quyền phép gì gọi cháu nó về. Trước đây nó là con tôi đẻ ra, nhưng bây giờ thì nó là quân lính nhà Chúa. Nếu nhà có ơn phúc thì nó cứ đàng ngay lối thẳng mà đi, nhược bằng phận mỏng đức bạc , làm chuyện bậy bạ thì chính phủ cứ việc bắt bớ bỏ tù, vợ chồng tôi không dám thắc mắc…”

Giở giọng“chính quyền” ra lệnh, vu cáo, doạ nạt không xong, ông Chủ tịch thay đổi chiến thuật, giở giọng mẹ mìn, “đồng chủng đồng bào” lay chuyển bà con :

“ Tôi với các bà tuy không cùng máu mủ, ruột thịt nhưng dù sao vẫn là người làng…Bây giờ các bà chỉ nhìn tôi là anh chủ tịch hay gây gổ , cái thằng khô đạo nhưng một ngày kia nếu tôi và các bà gặp nhau ở một nơi nào thật xa, như trong Nam chẳng hạn thì chắc là lúc ấy chẳng ai còn nghĩ đến những điều nghi kỵ bực dọc ngày hôm nay mà chỉ thấy quý mến nhau, tin cậy nhau vì là người làng, cùng quê…”

Không đầy hai chục năm sau, câu nói trên đã được “chứng nghiệm” khi những ông Chủ tịch kiểu như Môn theo chân “giải phóng miền Nam” vào làm quân quản ở những xã công giáo như huyện Thống Nhất Đồng Nai, khiến người dân “quý mến, tin cậy” đến mức phải…bỏ phiếu bằng “đôi chân”.

Ông Chủ tịch lại tiếp tục mẹ mìn :

“ Cái tình quê hương đối với con người ta thắm thiết lắm , chứ không thờ ơ được đâu .Nếu tôi không nghĩ đến quê hương thì đã sinh cơ lập nghiệp tận đẩu tận đâu chứ còn mò về cái làng này làm gì để chịu khổ sở đói khát. Nếu không nghĩ tới làng xóm thì tôi cũng đã xin rút lui công tác từ năm nọ kia chứ chẳng phải đợi ai đánh đổ. Tôi năm nay bốn mươi chín rồi. Ở đây tôi chỉ kém tuổi có bà Bân thôi, đâu cách nhau gần một giáp thì phải . Đời tôi lăn lộn nhiều , đã từng nếm đủ mùi cay đắng cơ cực, cái cao xa chẳng nói làm gì , còn cái trước mắt thì tôi không thể lầm được…Các bà hãy tin ở lời khuyên của tôi …”

Sau khi “nam mô” một hồi , ông Chủ tịch xã lại giở giọng phù thuỷ :

“ Các bà hãy tin vào lời khuyên của tôi. Đã đành chúng nó không phải là con tôi nhưng chúng là người của xã này , là người của làng tôi, làm ngơ thế nào được khi biết chúng đi vào con đường tồi tệ…Mình giác ngộ hơn nó mà không bày vẽ chỉ bảo cho chúng nó thì cái tội của nó chính là cái tội của mình, tôi sẽ có lỗi trước bà con…”

Cái khó của ông Chủ tịch là làm sao vừa kết án được chuyện “đi tu” để ông có cớ giải tán chủng viện mà lại vẫn không phạm vào chính sách “tự do tín ngưỡng của Đảng”. Ông lý luận :

“Đi tu, ừ, đã đành chính sách không cấm, quyền tự do của mỗi người . Nhưng vì lẽ gì mà phải tu, chán đời ư , không kiếm được cơm ăn áo mặc ư, thiếu gì việc. Con trai bằng lứa tuổi chúng nó người ta đeo huy hiệu Đoàn, ao ước được thành bác sĩ, kỹ sư, ao ước được bay nhảy đây đó , còn chúng nó co lại trong chiếc áo dài thâm, sáng khấn, tối khấn, có bố mẹ mà không được nuôi nấng, có quê hương không dám nghĩ đến ngày về, có thể lấy vợ đẻ con thì lại làm tội mình cho đến chết…”

Say sưa bài bác áo thầy tu đến thế này không hiểu là tâm tư của nhân vật Chủ tịch xã hay là của chính ông nhà văn ? Kết thúc bài “diễn văn” lên án đám học sinh chủng viện, ông Chủ tịch xã cao giọng :

“ Chỉ đọc kinh mà sống được ư ? Ai cho nó ăn, ai cho nó mặc, vẫn là nhân dân. Còn chúng nó thì làm gì cho nhân dân? Chẳng làm gì cả , một bọn ăn bám , cái lưng dài thườn thượt , cái chân cái tay bủng beo vì bệnh lười…”

Ông Chủ tịch xã bộc lộ một điều : Nhà nước toàn trị không muốn cho trẻ con đến tuổi cắp sách đến trường nằm ngoài sự “quản lý của Đảng”. Dẫu rằng nó vẫn ăn cơm của bố mẹ nhưng nó phải vào Đoàn, phải đi học dưới “mái trường xã hội chủ nghĩa” nếu không nó sẽ bị coi là “ăn bám” - ăn của bố mẹ thì vẫn bị coi là “của nhân dân”.


(còn tiếp)

khieman
04-17-2014, 09:35 PM
(tiếp theo)



http://2.bp.blogspot.com/-_YjnOgow1jY/T7MtbzP_umI/AAAAAAAAAjc/aciFyZNsP8g/s400/NguyenKhai9.jpg (http://2.bp.blogspot.com/-_YjnOgow1jY/T7MtbzP_umI/AAAAAAAAAjc/aciFyZNsP8g/s400/NguyenKhai9.jpg)



Sau khi dùng “lý lẽ ngoài đời” doạ nạt, lung lạc mà người mẹ vẫn không chịu gọi con về, ông Chủ tịch xã chuyển sang bài bác “lý lẽ của đạo” mong “cắt cơn nghiện của nhân dân” ( ông Mác chẳng đã nói ” tôn giáo là thuốc phiện” mà.):

“Tôi cũng là người công giáo đấy, nhưng nói thất lỗi với các bà, các ông, tôi không bao giờ tin được là có Chúa thật. Nếu bảo bất cứ việc gì đều được lên trời thì tại sao vệ tinh của Liên xô lại bay được lên trời, vậy ra Chúa ủng hộ cộng sản ư ? Chúa ủng hộ vô thần ư ? Tại sao Toà Thánh là đất Chúa ngự không phóng một vệ tinh bằng quyền phép thiêng liêng của Chúa cho thiên hạ thêm lòng tin cậy. Chẳng có gì cả đâu…”

Đúng là đầu óc chứa rặt “chủ trương chính sách của Đảng “ mới đẻ ra lý lẽ “bài bác Chúa ” ngu muội đến vậy. Và đây là sản phẩm của “chủ nghĩa duy vật thô sơ” đã được cài đặt vào đầu cán bộ :

“ Ai có trình độ khoa học cao, ai lao động giỏi thì kẻ ấy làm được việc kỳ lạ. Cha Thuyết bị sưng gan chín phần chết, một phần sống , vậy ai cứu được mạng của cha? Chính phủ ta, các bác sĩ Liên xô, toàn những người vô thần cả. Chính cha cũng đã từng nói với tôi:” Bố mẹ sinh ra lần thứ nhất, các bác sĩ Liên xô sinh ra lần thứ hai…”

“Cha tuyên uý” của chủ nghĩa Mác Lê, chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng của Đảng, tín đồ trung thành của chủ nghĩa maoít-stalinnít - Chủ tịch xã Môn cứ thế “giác ngộ” cho đám quần chúng đang bị “tôn giáo ru ngủ” :

“Ngay đến các cụ đạo ngày ngày đứng trên toà giảng vị tất các ông ấy đã tin chắc là có Chúa thật, nếu họ tin sẽ có ngày phán xét chung thì vía cũng chẳng dám làm bậy, chẳng dám nằm với người nữ , chẳng dám cầm súng bắn giết con chiên, moi tiền của kẻ khó…”

Kết thúc bài diễn văn công kích nhà thờ – ông Chủ tịch xã sổ toẹt :

“ Bịp bợm cả . Các bà tin được tôi thì tin, không thì thôi, nhưng sau này các bà sẽ thấy lời tôi nói hôm nay là đúng. Xã hội người ta cứ tiến chứ có ai chờ con các bà giác ngộ rồi người ta mới cất bước đâu…”

Than ôi, hơn nửa thế kỷ trôi qua, “xã hội người ta cứ tiến” – người ta đây có thể hiểu rộng ra là thế giới, cho đến nay các “đồng chí” Chủ tịch xã “ vẫn còn ôm ấp ba cái thuyết “ đấu tranh giai cấp” và “xây dựng chủ nghĩa xã hội” loài người đã bỏ qua.

Tất nhiên, lối “giáo dục cưỡng ép” ấy khó mà chinh phục được con tim lẫn khối óc của người dân :

“ Trong các cuộc họp người ta đến miễn cưỡng , uể oải, cái xác ngồi đấy , nhưng tâm thần để tận đâu đâu. Họ không cần nghe cán bộ giải thích , đằng nào cũng thế, thuế vẫn phải đóng, đi dân công vẫn phải đi, nghe nhiều nào có lợi ích gì. Họ cứ sống như xưa kia họ sống…”

Giáo dân với Đảng còn như vậy, linh mục với chính quyền “xung đột” được mô tả còn dữ dội hơn bằng ngón nghề quen thuộc : “vu cáo “ và “bôi xấu”.

Một lần có hẳn một phái đoàn bốn linh mục và một tu sĩ ghé thăm xứ Hỗ. Đây là dịp ông nhà văn xây dựng chân dung các nhà tu hành. Trước hết cha Thuyết, cha chủ nhà được một cha trong đoàn giới thiệu :

“Ông ấy vừa đi nằm nhà thương ở Hà Nội về. Phải mổ gan lọc mật mới sống sót đấy. Tôi thì cho rằng chỉ tại cái món thịt chó cả thôi. Ăn nhiều thịt chó dễ bị tích kén lắm. Cái giống ấy nó chẳng nhiệt quá mà…”

Vậy là một đấng chăn dắt linh hồn con chiên suýt chết vì…xơi thịt chó thường xuyên. Rồi đến một cha khách, cha Lân, khi ngồi vào mâm cơm thì mắt sáng lên :

“ Ở đây cha cũng cho thả cá rô phi à. Cái giống cá ấy sinh sôi nảy nở đến nhanh. Nhưng cá này phải hầm hoặc om kỹ mới ngon, còn rán thì xương khí rắn…Bày vẽ quá lắm, biết thế chẳng báo trước ; làm phiền cha chủ sự…”

Rồi lần lượt cha giới thiệu “tâm hồn ăn uống “ của các cha :

“Xin các cha cứ tự nhiên cho…Mỗi người một ý thích một tâm tính…Như đức cha người chỉ thích ăn trứng luộc, một lúc ăn hàng chục quả vẫn ngon lành. Tôi xin chịu. Cha Giản đi kiết thì chỉ nghiện chè bột sắn, cứ nấu một soong to, cha đủng đỉnh ăn cả ngày cũng hết. Cha Thuỵ ở trên tỉnh lại ưa món chim câu hầm, nhưng ông cụ không có răng, cứ nhấm nháp qua loa rồi nhè ra đĩa, lão bõ ở đấy chỉ ăn bã nhả ra mà béo trắng. ..Còn tôi thì được cái bình dân, toàn nghiện những món rẻ tiền như bánh đa mật chẳng hạn. “

Quả thực không biết ở cái xứ đạo nào mà ông bõ trong nhà thờ chỉ ăn bã do cha nhả ra mà…béo trắng thì thật nghề bôi xấu phải trao giải nhất cho ông nhà văn. Kinh hoàng hơn nữa là khi các cha bàn về món…tiết canh gà :

“ Xin lỗi, các cha đã được ăn tiết canh gà bao giờ chưa ?”
Cha râu dài vừa nhai nhồm nhoàm vừa nói :
“ Mới nghe lần đầu đấy. Chắc là tanh lắm hả ?”
“ Lậy cha, cha lạc hậu quá. Thật tình rất thơm ngon…Rắn sần sật mà bùi lắm. Cái dân Hà Nội họ làm món ăn thì người khó tính đến đâu cũng phải vừa lòng…”

Hết món ăn rồi đến món uống. Cha sở tại, “sau vài hớp rượu da mặt ông càng đỏ rực mãi lên một cách đáng sợ, tưởng như bật được máu tươi :
“Chính thế, nấu rượu được nếp thầu dầu thì quý hoá nhất – cha Thuyết đưa con mắt nhỏ tí, lóng lánh sáng nhìn mọi người – Vâng thưa các cha, ngon nhất đấy ạ, càng để lâu càng đượm, càng thơm mà nước rượu cứ trong vắt như nước mưa. Còn nếp bắc thì chóng nhạt rượu lắm , nước rượu cũng đục…”

Than ôi, nếu các đấng chăn chiên, các đức cha linh hồn của mấy chục vạn giáo dân Bùi Chu – Phát Diệm mà tham ăn tục uống như trên thì đúng là cha …“quốc doanh “ ; tức các cán bộ tuyên giáo được cài vào trường của nhà thờ học thành linh mục trà trộn vào hàng ngũ giáo phẩm “nắm tình hình.”

Tất nhiên năm ông linh mục này không phải “cha quốc doanh”, sau khi bàn chuyện ăn uống chán chê họ mới bàn chuyện ứng phó của giáo hội trong xã hội cộng sản. Dưới ngòi bút Nguyễn Khải, họ đích thị là những tên biệt kích, đám người phản động, đối tượng của cách mạng :

“Cha Lân ném một cái nhìn nảy lửa, đôi lông mày rậm trở nên dữ tợn, giọng ông ta đanh lại, độc ác, tàn nhẫn :
“ Trong tay chúng ta còn những gì ? Chỉ còn lại mỗi cây thánh giá. Chúng ta chỉ trông cậy được vào Chúa và các đấng thánh thần. Còn quần chúng của ta , cái lực lượng mười vạn con người của chúng ta đâu rồi, vắng lặng bốn bề như tiếng gọi giữa sa mạc. May thay chúng ta còn một vũ khí sắc bén mà không một kẻ nào tước nổi, đó là cái lưỡi của chúng ta. Chúng ta hãy còn một khu vực tranh chấp mà không một kẻ nào dám đoạt lại : đó là Toà giảng của nhà thờ. Từ đấy chúng ta sẽ tiến công ra, sẽ chiếm đoạt lại tất cả…”

Nguyễn Khải đã vạch một chiến tuyến dứt khoát giữa giáo hội và Nhà nước – cuộc đối đầu “ ai thắng ai”, “một mất một còn”. Mặc dầu xuất thân nhà dòng nhưng xem ra ông nhà văn hiểu biết về Thiên chúa giáo cũng chỉ ngang anh một cán bộ Ban tôn giáo Chính phủ .

Cuộc đối đầu “giáo hội” và “Nhà nước” diễn ra ngay khi các cha vừa dùng cơm xong, ông Chủ tịch xã Môn và ông cán bộ huyện Mẫn ập vào. Đã không xin phép được gặp, đã không báo trước sẽ tới, ông đại diện chính quyền xông vào phòng khách của Toà thánh khơi khơi như vào trụ sở Uỷ ban và lại còn hậm hực :

“Ghê thật, hội họp với nhau mà không thèm báo một lời cho uỷ ban biết. Có chứng cớ ông thử tóm cổ một lượt xem có trắng mắt ra không ?”

Ông Mẫn , cán bộ huyện nói thẳng :

“ Trước đây khi toà Giám mục xin mở trường cũng có đề ra chương trình một ngày học sáu tiếng giáo lý và hai tiếng văn hoá…Là đấng chăn chiên mà hiểu biết ít thì rao giảng cũng khó khăn…”

Cha Lân, đại diện cho Toà Giám mục phải “nói thẽ thọt” :

“ Nhưng ông rõ cho, theo luật lệ toà thánh thì nhà trường không phải phục quyền các vua chúa phần đời, không để cho nhiễm thói tục phần đời. Trường đạo chỉ chịu quyền ở Toà Giám mục. Toà Giám mục lại chịu quyền ở Toà thánh, không thể muốn thế nào cũng được…Ngay đến chương trình học từng năm kẻ làm thầy phải giảng giải những gì, đứa học trò phải đọc những sách gì đều do sự định liệu trước của Toà Thánh cả. Nói nôm na toà thánh cũng như chính phủ trung ương bên tôi ấy mà…”

Trước lý lẽ rành rẽ của linh mục , ông Chủ tịch xã trở mặt, giở ngay cái mũ “phản động” doạ nạt :

“ Tôi xin hỏi cha, vậy như trước kia các ông cụ đạo đi làm tuyên uý trong quân đội Pháp hay làm sĩ quan có phải đợi lệnh của Toà Thánh cho phép không ?”

Doạ chán rồi, ông Chủ tịch xã nổi cáu :

”Nói chuyện với bọn này cứ như người đấm bị bông, mất thì giờ mà chẳng đâu vào đâu…”.

Ông cán bộ huyện Mẫn cũng vứt bỏ những lời đường mật giở giọng đe nẹt :

“ Nếu như Toà Giám đặt mục tiêu cho cái trường ấy là nơi đào tạo những phần tử chống đối lại cộng sản thi tôi xin nói trước sẽ không bao giờ cụ giám quản đạt được ý nguyện đâu, mà có khi còn mang vạ vào thân là khác. Vì các cụ cũng biết đấy, pháp luật thì rất vô tư…nhà trường ngày nào cũng bắt các em làm bài chửi cộng sản , chửi các cơ quan nhà nước thì chúng tôi khó chịu đến đâu…”

Bị vu vạ “đào tạo phần tử chống đối cộng sản” linh mục phải xuống nước :

“ Chúng tôi biết địa vị của chúng tôi lắm chứ . Chính phủ thì có trong tay nào quân đội, nào công an, còn chúng tôi thì chỉ có tượng thánh thôi. Chỉ mong đừng ai đụng chạm đến mình là mừng chứ còn chống đối gì.”

Rồi biết rằng nếu nhún nhường sẽ bị “nhà cầm quyền” lấn tới, cha đánh bạo :

“Chúng tôi thì cho rằng bắt trường đạo phải dậy văn hoá đó là một bước lấn của ông vào quyền hành giáo hội của chúng tôi…”

Và cha vạch trần “tim đen” của nhà cầm quyền :

“Đã dậy văn hoá thì ắt phải có giáo viên chứ gì . Tu sĩ của Trường thì lại không có bằng cấp, chẳng qua kẻ lớn dậy kẻ bé. Mà cử giaó viên ngoài giờ chúng tôi lấy làm e ngại …Nếu ông giáo viên theo đạo Thích Ca chẳng hạn , ông ta sẽ quan niệm về thế giới, về vũ trụ theo cái cách của ông ta. Hay nói cho rõ ràng hơn nếu ông ta là vô thần thì lại càng rắc rối. Vì ông ta có thể nói với học trò rằng thế giới này là do bàn tay lao động làm ra chứ không phải là do một đáng sáng tạo nên… ”

Lý lẽ của cha đưa ra làm ông cán bộ huyện cứng họng. Chính bản thân anh ta cũng thấy đòi hỏi đưa giáo viên Nhà nước vào dậy trong trường của nhà thờ là vô lý . Anh ta triết lý :

“Tôn giáo và văn hoá quả thực có điều điều không thể đứng cạnh nhau. Chẳng lẽ lại giảng là trái đất vuông , qua lớp mây xanh kia là thiên đáng…Chẳng lẽ nói cây lúa mọc lên là do ý Chúa chứ không phải do phát triển biện chứng của nó. Chẳng lẽ nói con người là đất bụi hèn hạ chứ không phải là sinh vật cao quý…Một đằng dìm con người xuống, một đằng làm cho con người trở nên sáng suốt biết sống một cách có ý thức. Và có thể lấy thêm hàng nghìn thí dụ khác về sự đối lập không sao dung hoà được…”

Hiểu biết của “nhà cầm quyền” về tôn giáo mới chỉ dừng ở mức độ coi nó như một thứ “mê tín dị đoan” , là “thuốc phiện đầu độc nhân dân” đúng như ông thánh Mác-Lênin đã dậy. Chính vì vậy ông cán bộ coi linh mục như kẻ có tội :

“ Có thể nói những người ngồi quanh cái bàn này đã tượng trưng được phần nào cho cái thế giới cha cụ hết sức phức tạp của địa phận Bái. Có những tên chống đối cách mạng đến điên cuồng; có những người còn bán tin bán nghi…nhưng giữa cái đám hùm sói ấy họ cũng không dám lên tiếng, vì lòng dũng cảm của họ còn ít quá, họ còn cân nhắc quá nhiều đến cái địa vị và uy tín giả dối của mình…”

Cả 2 tập tiểu thuyết Xung đột cứ xoay quanh những “xung đột” mà ông nhà văn tưởng tượng ra thế. Nhân vật chia làm hai “phe” địch-ta rõ ràng. Một bên là các cha Thuyết, cha Lân, cha Bản…tham ăn, tục uống và nhát sợ cường quyền. Một bên là Môn, Chủ tịch xã, Nhàn , Phó Chủ tịch, Mẫn,cán bộ huyện…người nào người nấy ngùn ngụt lửa cách mạng muốn xông lên xoá nhà thờ để…xây dựng hợp tác xã. Dù là ở bên này, hay bên kia, mỗi nhân vật đều chỉ là cái loa phát thanh tư tưởng “cách mạng hơn cả ông Các Mác” của ông nhà văn. Thay vì cho nhân vật sống như một con người trong cõi nhân sinh với mọi buồn vui, hạnh phúc và bất hạnh của nó, ông lại chỉ cho nói ra đằng mồm cái tinh thần cách mạng Đảng đòi hỏi ở cán bộ.

Xung đột tập 1 và 2 của Nguyễn Khải một thời được giới phê bình trong nước kéo lên mây xanh, được nhắc tới như một thành tựu xuất sắc của văn học cách mạng, được coi như một tiểu thuyết sáng giá được đưa cả vào sách giáo khoa dậy trong trường phổ thông và đại học.

(còn tiếp)

khieman
04-19-2014, 01:52 AM
(tiếp theo)



http://4.bp.blogspot.com/-UUF_7COzgY4/T7aFk1ZZZ9I/AAAAAAAAAj0/Gb5SKmSKjvk/s400/NguyenKhai10.jpg (http://4.bp.blogspot.com/-UUF_7COzgY4/T7aFk1ZZZ9I/AAAAAAAAAj0/Gb5SKmSKjvk/s400/NguyenKhai10.jpg)






Sau “Xung đột”, Nguyễn Khải viết tiếp tiểu thuyết khác, khá nổi tiếng cũng về thời kỳ hợp tác hoá nông nghiệp : “Chủ tịch huyện”.

Mặc dầu tựa là “ Chủ tịch huyện” nhưng mở đầu ca ngợi hết lời “Chủ tịch xã”. Đó là “chủ tịch xã trẻ và tính toán giỏi nhất huyện…Con người tài giỏi đã bắt đầu nghĩ : vắng tôi mọi việc đều không ra gì …”

Vậy Chủ tịch xã đó thực sự “tài giỏi “ ra sao ? Trước hết ông ta xắn quần lội ruộng để kiểm tra và một lần bắt gặp “ hai sào ở đồng Con Cú của đội hai, cày còn dối lắm, chỉ vài xá vòng quanh”, lập tức Chủ tịch xộc ngay đến nhà ông Chủ nhiệm hợp tác xã để vạch tội. Ông Chủ nhiệm lại cho gọi thợ cầy đến. Anh này đành phải thú nhận cày dối làm mọi người phục lăn Chủ tịch xã đi sâu đi sát.

Lần khác, Chủ tịch xã sau 3 tháng nằm viện về, nghe tin mức bán thóc thuế nghĩa vụ của hợp tác xã còn thấp, lập tức cùng kế toán lặn lội tới từng hợp tác xã tính toán lại thu nhập và quả nhiên họ đều phải nâng cao mức bán thóc nghĩa vụ cho Nhà nước.

Cũng trong thời gian ông Chủ tịch xã nằm viện, ở nhà ông Phó Chủ tịch đã “ngã giá mua năm gian nhà ngói của ông Cẩm với giá bốn nghìn đồng để rỡ ra làm trường học”. Chủ tịch xã đi viện trở về nhất định không chịu và quyết định chỉ mua với giá…hai nghìn đồng mà gia chủ cũng đành phải bán.

Một lần chủ nhiệm hợp tác xã An Lạc Hạ “ lên xin uỷ ban cho phép mổ con lợn năm chục cân lấy thịt cho xã viên ăn”. Mặc dầu ông Phó Chủ tịch đã đồng ý , nhưng ông Chủ tịch xã đi công tác về khăng khăng không cho mổ vì “ mổ rồi, nuốt vào bụng rồi mà không thu được đủ phiếu thì cũng đến cười xoà với nhau…”. Vậy có nghĩa là muốn mổ lợn , ông Chủ nhiệm phải duyệt “ phương án ăn chia “cái đã.

Một lần khác , ông Trưởng phòng lương thực xuống xã đề nghị ký hợp đồng xay thóc kho. Một lần nữa ông Chủ tịch xã trẻ tuổi lại tỏ ra xuất sắc vì biết tính toán tới cả “ chín xu một cân điện, vị chi là chín hào. Lại còn tiền dầu luyn. Ba ngày phải thay một lần dây cua-roa bốn mét, mỗi mét mười hai đồng. Lời lãi đâu mà nhiều…”. Mặc dầu “tài năng tính toán “ của ông Chủ tịch xã chỉ có “nhiêu đó”, nhưng ông Chủ tịch huyện đã như mở cờ trong bụng :” Đấy !Cán bộ xã của huyện này như thế đấy !Thật là hiện đại nhé ! Mặc dù máy xay chưa về đến xã , mà hắn ta đã biết lui tới như một ông Giám đốc thực thụ vậy…”

Ngày nay coi lại chân dung ông Chủ tịch xã được coi là xuất sắc, tài giỏi người đọc phải phì cười. Hoá ra tài năng ông đứng đầu chính quyền xã chỉ là đi xét nét thợ cày, tính toán sao bóc lột dân nhiều hơn , duyệt cho hợp tác xã mổ trâu, tính toán giá công xay thóc… Nếu chỉ bằng vào những khả năng đó thì trình độ ông Chủ tịch xã “xuất sắc và tài giỏi” chỉ ngang với anh nông dân hạng bét. Người ta không thấy mảy may ý thức đứng đầu chính quyền một xã để có ý tưởng mới trong sản xuất, trong việc thực thi pháp luật mà chỉ loanh quanh việc vụn vặt, con cá lá rau bất kỳ anh nhà quê ngớ ngẩn nào cũng làm tốt.

Chân dung “chủ tịch xã” đã méo mó vậy, còn Chủ tịch huyện ra sao ? Đó mới là phần chính trong tiểu thuyết “ Chủ tịch huyện” của Nguyễn Khải.

Cái “ông Chủ tịch huyện” này chắc phải là một anh “nhà quê” đặc sệt bởi lẽ :

”Buổi sáng vừa ngủ dậy, ông Chủ tịch huyện hãy còn cầm trong tay chiếc bàn chải đánh răng đã có thể gọi phóng lên dãy nhà trên :” Các cậu ở nông lâm ơi, sáng nay An Trạch nó gieo đay thí nghiệm đấy đã cử người xuống chưa ?’

Quan đầu huyện làm việc theo kiểu “xó bếp” vậy, đủ hiểu cái công việc ở Uỷ ban ‘tẹp nhẹp “ và “tạp pí lù” chừng nào. Thời đó chưa có dự án, chưa có vốn ODA, WB, chưa có nước ngoài đầu tư …nên các cấp chính quyền trong huyện, ngay cả ông Chủ tịch cũng chẳng có gì “ăn phần trăm” , “rút ruột công trình”, cướp đất của dân chia chác …Bởi thế trụ sở Uỷ ban huyện chưa nguy nga, bề thế như hiện nay mà chỉ là cái nhà dài, tập thể , ở đó “người ta sống như trong một gia đình”. Đó là “một dãy nhà ngang thấp tối ở khuất hẳn phía trong, vẫn lợp rạ , trát vách..Gian đầu là chỗ ở của Chủ tịch huyện, gian thứ hai là chỗ ở của Chánh văn phòng Uỷ ban và anh thư ký đánh máy, gian thứ ba là của bà nấu cơm và chị phụ trách lớp mẫu giáo, vỡ lòng trong toàn huyện, còn hai gian ngoài cũng giành riêng cho gia đình bà Phó Chủ tịch huyện…”

Thật không thể tưởng tượng nổi một ông quan đầu huyện lại ăn ở kiểu “lán trại” như công nhân trên công trường :

“ Ông Chủ tịch nằm duỗi thẳng trên giường, cảm thấy rất rõ rệt các đầu xương đang rời ra vừa khoan khoái, vừa mỏi mệt. Nhạn, chánh văn phòng uỷ ban đã ngáy đều đều bên kia vách tường. Khi Nhạn thôi ngáy một lúc nào đó lại đến tiếng nghiến răng của bà nấu cơm ở buồng bên kia nữa…”

Uỷ ban huyện “ăn ở” lúi sùi và bệ rạc vậy trách gì công việc hàng ngày của ông Chủ tịch huyện chỉ toàn chuyện “bếp núc”. Trước hết ông làm việc không có giờ giấc gì hết :

“ Ở huyện người ta không thể làm việc đúng giờ giấc được, và cũng khó có thể chủ động dành một khoảng thời gian hoàn toàn cho riêng mình, kể cả khi anh ốm nhưng không đi nằm bệnh viện, anh về nhà vui chơi với vợ con hoặc ngay sau khi anh đang ngủ say sưa sau một ngày làm việc mệt .”

Vậy nhưng công việc Chủ tịch huyện gồm những gì mà phải làm việc suốt 24/ 24 vậy ? Hoá ra chẳng có gì ghê gớm, toàn những việc hành chính, lặt vặt . Trước hết một ngày ông phải “ký hàng trăm tờ công văn ( tuy chính người ký cũng không thể biết hết nội dung của nó) vì huyện có những hăm nhăm xã và hăm hai phòng, ngành, mặc dầu các phòng ngành đều ăn chung một bếp , ra vào đều chạm mặt nhau nhưng vẫn cứ phải đọc công văn của nhau”.

Công văn gì mà lắm thế, thì đại loại toàn những chuyện “gieo đay của các xã’, “tình hình đào đắp của các đội thuỷ lợi và số mét phải hoàn thành”,”tình hình dồn ấp trại về làng để khoanh vùng cơ giới”…

Ta hãy coi công việc hàng ngày của Chủ tịch huyện.Trước hết một ông chủ nhiệm hợp tác xã trồng đay đến kiện anh phụ trách chi điếm ngân hàng huyện không cho vay tiền. Anh này bị ông chủ nhiệm tố cáo nhận ba sào đất của ông chủ nhiệm khác nên cho vay dễ dàng còn ông không có gì lót tay nên bị gây khó dễ. Thế là ông Chủ tịch huyện chẳng biết nếp tẻ ra sao, chẳng “điều tra điều nghiên” gì ra ngay cái lệnh cách chức anh ngân hàng dễ dàng như ông bố trong nhà phạt con cái. Rồi đến cuối buổi có một ông lão chạy vào Uỷ ban đề nghị ông Chủ tịch huyện can thiệp để xe ô tô khách chở cho “mấy chục cân rau của hợp tác xã đưa lên cho anh em trên công trường, trên ấy hiếm rau lắm…”. Tất nhiên là ông Chủ tịch huyện tức khắc chạy ra bến xe ra lệnh cho nhà xe phải chở cả ông lão với bao tải rau của ông.

Đại khái công việc hàng ngày của ông Chủ tịch huyện toàn những việc chẳng ra ngô ra khoai như vậy, chẳng cần tới hiểu biết về khoa học quản lý cũng như những kiến thức tối thiểu về khoa học kỹ thuật . Cứ theo nội dung công việc của ông thì bất kỳ anh nhà quê thất học nào cũng làm được “chủ tịch huyện” , miễn là nắm vững đường lối chính sách của Nhà nước và tuyệt đối trung thành với Đảng.

Trong “công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa” ở miền Bắc ngày xưa, đúng với bản chất nông dân của cuộc cách mạng, ý thức lao động gân bắp được coi là “phẩm chất số một” của việc đánh giá và đề bạt cán bộ. Bởi vậy người ta không lấy làm lạ vì sao trong tiểu thuyết “Chủ tịch huyện” của Nguyễn Khải, các ông Chủ tịch xã, Chủ tịch huyện và Bí thư tỉnh uỷ ông nào ông nấy đều mở đầu việc lãnh đạo nông dân bằng…”xắn quần móng lợn đi thăm đồng ruộng”.

“Ông Quang, Bí thư tỉnh uỷ, vừa đánh xe con xuống huyện đã lôi ngay ông Chủ tịch huyện Hiệp lên xe , kéo nhau ra đồng coi tình hình sâu phá ngô ra sao ? Và ông Bí thư chỉ thị cho ông Chủ tịch huyện cái việc mà lẽ ra cấp xã cũng có thể quyết định được :

“ Nơi nào nhiều sâu quá nên bán chịu thuốc trừ sâu cho họ hoặc ứng một khoản tiền nào đó cho họ vay mua thuốc. Chú ý đấy, không thì hỏng ăn cả…:”

Liền đó ông Bí thư lại khuyến cáo ông Chủ tịch huyện nên đi thăm các cán bộ xã đội ở 25 xã trong huyện là vì “ Khi họ mổ lợn, ăn cơm liên hoan mình không đến cũng được , nhưng khi họ túng thiếu , ốm đau, gặp khó khăn thì phải tìm mọi cách chia sẻ với người ta. Dân mình có câu :” lời chào cao hơn mâm cỗ” là có ý nghĩa sâu sắc lắm. đấy…”

Trong một xã hội toàn bộ nông dân đều bị nhốt trong hợp tác xã với kỹ thuật canh tác lạc hậu “ con trâu đi trước, cái cày theo sau” từ ngàn năm trước thì đời sống con người hết sức đơn giản – không du lịch, không tài sản, không luật sư, không phương tiện di chuyển, không máy móc phục vụ sinh hoạt và giải trí, không cả hàng hoá và chợ búa, con người chỉ nhăm nhăm lo sao cho “ăn đủ no, mặc đủ ấm ” vậy thôi ; việc quản lý xã hội bởi thế mà trở nên hết sức đơn giản và dễ dàng. Nhà nước công nông thực ra chỉ lo “quản lý “ sao cho nông dân và công nhân đổ hết lao động gân bắp ra để thu thóc và sản phẩm công nghiệp. Chính vì vậy ông “quan đầu tỉnh” chẳng cần có đầu óc nảy sinh ý tưởng mới, chẳng cần có kiến thức khoa học quản lý và khoa học kỹ thuật, ông chỉ “đòi hỏi được biết cái tình hình thực , cái tình hình tự nhiên nhất, không bị tô vẽ, không bị che lấp bởi bất cứ một thứ sắp xếp giả tạo nào. “ . Cái tình hình thực đó thực ra rất đơn giản xoay quanh có mỗi chuyện “ nước, phân, cần, giống” mà bất kỳ một anh cán bộ cấp xã nào cũng có thể điều hành được chẳng cần tới một ông “quan đầu tỉnh”. Bởi vậy khi xuống huyện, ông bí thư tỉnh uỷ “sẵn sàng kiếm ngay một cái buồng riêng chui vào đó làm việc một mình như ở nhà, hoặc đọc báo hoặc ngủ một giấc nếu như đêm trước anh không được ngủ….”

Để tô vẽ cho ông “bí thư tỉnh uỷ” đi sâu đi sát quần chúng, ông nhà văn “bắt” ông xộc cả vào phòng ngủ vợ chồng người ta, làm cái việc rất kỳ cục là dậy chủ nhà … sắp xếp quần áo:

“Này, đừng có thu dọn theo cái cách ấy. Anh hãy để thứ nào vào thứ ấy, đúng với cái chỗ của nó, xem nào !”

Miệng nói , tay Quang ( bí thư tỉnh uỷ) đã giũ tung cái đống quần áo lẫn lộn cái bẩn, cái sạch, cái khô, cái ướt, rồi lượm lại từng cái một :” cái này của chị ấy thì để riêng ra, của chúng nó cũng xếp riêng ra. Cái quần này của cậu phải không ? đã giặt chưa đấy ? Thôi, chốc nữa đem giặt đi, đói cho sạch rách cho thơm…”

Ong nhà văn cứ tưởng ca ngợi tính đi sâu đi sát quần chúng của ông Bí thư tỉnh ủy. Ngờ đâu ngày nay đọc lại chỉ thấy tức cười vì …lố bịch.


(còn tiếp)

khieman
04-19-2014, 02:00 AM
(tiếp theo)


http://4.bp.blogspot.com/-iVfHUik6n34/T7up-tpeSyI/AAAAAAAAAkg/7LPVzpG8TSE/s400/NguyenKhai11.jpg (http://4.bp.blogspot.com/-iVfHUik6n34/T7up-tpeSyI/AAAAAAAAAkg/7LPVzpG8TSE/s400/NguyenKhai11.jpg)


Chưa hết, ông bí thư tỉnh uỷ còn ‘thọc sâu” vào gia đình người ta :

“ Đồng chí Bí thư tỉnh uỷ liền tính toán với ông chủ gia đình về công việc của từng đứa, buổi sáng chúng làm gì ? Trưa chiều nên giao cho chúng những việc gì ? Rồi Quang bày cách thu dọn lại nơi ăn chốn ở, từ chỗ xếp quần áo, đến sách vở, guốc dép, đồ dùng thức đựng trong gia đình…”

Chẳng rõ bà chủ nhà – tức vợ ông “bí thư xã” phản ứng sao khi chứng kiến thằng cha căng chú kiết nhảy vào nơi riêng tư trong tổ ấm của chị , “xía vô” tới cả những việc lẽ ra chỉ có vợ chồng chị biết. Ngược đời, thời đó người ta lại lấy làm “vinh dự” và cảm động vì được ‘đồng chí bí thư tỉnh uỷ” quan tâm ,săn sóc . Văn hoá ứng xử xã hội chủ nghĩa nặng mùi “ nô lệ”, “tôi tớ” vậy đó. Người ta tự tước bỏ quyền riêng tư trong gia đình khi được nhận ơn mưa móc của cấp trên . Quả nhiên sau khi ‘dậy dỗ bảo ban” gia chủ chi li cặn kẽ, ông “bí thư tỉnh uỷ” liền lệnh cho ông Chủ tịch huyện trích quỹ cho ông này vay “hai trăm mua một con nghé, chăn dắt một năm bán đi cũng được ba bốn trăm, có thêm một khoản tiền…”.

Đảng “lãnh đạo’ ở cấp tỉnh là như thế đấy, nổi hứng lên một ông bí thư tỉnh uỷ có quyền tuỳ tiện móc công quỹ ra ban phát cho kẻ này kẻ khác bất chấp luật lệ tài chính của Nhà nước. Xuống xã lần này, ông Bí thư tỉnh uỷ cũng được chứng kiến một ông Chủ tịch xã tham ô. Ông này lợi dụng chức vụ “ viết giấy giới thiệu lên huyện xin mua những…hai chục tạ phân đạm rồi bán ra ngoài theo giá tự do” rồi thì “một năm trời làm ngơ cho thằng Kim ở Đại Lâm mổ lậu mười lăm con lợn , mổ mỗi con lại mời ông chủ tịch một bữa chén, nếu không ăn thì hắn cho con đưa sang một nửa cỗ lòng.” . Rồi thì “chỉ riêng số gạo cứu đói cho Du Lâm tháng ba năm ngoái , ông Chủ tịch cũng để riêng cho gia đình mình hơn hai tạ…”.

Mua bán chênh lệch hai tấn phân đạm, ăn của đút “nửa cỗ lòng heo”, “một bữa chén”, ăn chặn hai tạ gạo…chỉ có thế thôi mà ông Chủ tịch xã vẫn phải đi tù. Đó là tình hình tham nhũng vào những năm đầu thập kỷ 1970. Hơn 40 năm sau, tốc độ ăn cắp của cán bộ Đảng ta đã gia tăng đến khủng khiếp nếu ta tính được số tiền và của cải bọn đầu sỏ VINASHIN, VINALINES và vô số các Tổng công ty khác moi móc của Nhà nước. Từ “nửa cỗ lòng heo” ngày xưa đến biệt thự, trang trại ngày nay - cán bộ Đảng ta quả thực đã nhảy vọt một bước vĩ đại, có tính cách lịch sử nâng nghề ăn cắp thành nghệ thuật, đưa tham nhũng trở thành một phần máu thịt trong cơ thể “Đảng ta”.

Ông bí thư xã nhận xét ông Chủ tịch xã tham ô “ là một cán bộ đã được rèn luyện, một con người tốt, có năng lực làm việc , sở dĩ mắc tội tham ô là vì “những sai lầm của anh ấy chúng tôi biết cả, biết ngay từ đầu.. Chỉ vì trong Đảng uỷ nể nả nhau quá, nhân nhượng nhau nhiều lần quá thành thử lỗi nhỏ thành lỗi lớn…”

Ông Bí thư tỉnh ủy giở giọng cao đạo :

“Hoặc là chúng ta phải nghĩ tới nhân dân , tới phong trào; hoặc là chúng ta chỉ lo lắng cho riêng mình…”

Ngày nay các đồng chí “bí thư tỉnh uỷ” chẳng còn nói năng theo kiểu “chống chủ nghĩa cá nhân” thời “bác Hồ” được nữa, một vì “"ngượng mồm"” , hai sợ cấp dưới nó cười cho thối ruột.

Khác với “ Xung đột” còn có “mâu thuẫn địch – ta”, còn có chuyện đấu đá giữa ‘nhà nước” và “ nhà thờ” câu chuyện còn có chút hấp dẫn , ly kỳ, trong “ Chủ tịch huyện”, chỉ có quan hệ giữa cán bộ và xã viên , tức “mâu thuẫn nội bộ” , ít “gay cấn”, đấu đá “một mất một còn” nên chuyện nhàm chán, tẻ nhạt. Để hấp dẫn độc giả, ông nhà văn tạo ra những “xung đột” tưởng ác liệt mà thực chất là hoà hợp vui vẻ.

Nguyên ở hợp tác xã Nam Hoà , “sau khi rỡ khoai mùa xong, có hai chục hộ gửi đơn thẳng lên trung ương khiếu nại về đời sống khó khăn , thu hoạch quá thấp , xin được ra ngoài làm ăn, nhưng vẫn “trung thành với Đảng, với chủ nghĩa xã hội”.

Thời nay, bà con nông dân làm đơn khiếu kiện là chuyện thường ngày , nhưng thời đó – làm đơn lên thẳng trung ương xin ra hợp tác xã là chuyện tày trời, kinh khủng, chắc do phản động xúi giục.

Bởi vậy ngay lập tức , chủ nhiệm hợp tác xã triệu tập họp Ban quản trị và các hộ đã nộp đơn xin ra khỏi hợp tác. Người đọc chờ đợi ông nhà văn qua sự kiện này vạch mặt bọn cường hào mới ở nông thôn, ăn cắp tài sản hợp tác xã , chèn ép và bóc lột sức lao động, đẩy người dân vào nghèo đói cùng cực khiến họ phải vùng dậy phản kháng, qua đó chứng minh đường lối xây dựng hợp tác xã của Đảng là sai lầm nghiêm trọng.

Lẽ ra nhà văn trung thực phải làm được chuyện đó. Tiếc thay, ông Nguyễn Khải làm ngược lại. Ông bôi xấu những người khiếu kiện, ông mô tả một trong những người đầu đơn xin ra hợp tác đó lại là một tên “ ăn mặc kỳ quái. Hắn ta khoác lên người không phải cái áo mà là những mảnh giẻ, một cái quần không ra chùng, không ra cộc vá víu hàng chục mụn, và cái thằng vô giáo dục đã không biết giữ liêm sỉ , khi cái phần đáng lẽ ra phải giấu kín thì nó lại phơi bầy ra trước mắt mọi người…”

Ông nhà văn đã dựng chân dung người phản kháng, xin ra khỏi hợp tác là một thằng lưu manh, chày cối như vậy đấy. Tệ hại hơn nữa, hắn nghèo đói nhưng không phải do hợp tác xã gây ra mà chính là do …cờ bạc. Ta hãy nghe bà chủ nhiệm kể tội hắn :

” Chúng tôi còn có khuyết điểm là đã để anh thua bạc phải gán nợ hàng tạ thóc đến nỗi vợ con anh phải đói.Lại không biết khuyên anh thôi rượu, thôi chè chén, thành thử trong lưng anh bây giờ không còn lấy được vài đồng đong gạo cứu đói…”

Nguyễn Khải coi những kẻ làm mất trật tự trong hàng ngũ đó chẳng qua là đám “giòi bọ”. Ông thừa nhận tuy có những người xin ra khỏi hợp tác xã nhưng đó là bọn cờ bạc, lưu manh ở nông thôn chứ không phải nông dân làm ăn lương thiện.
Để chứng tỏ thêm chủ trương hợp hóa nông nghiệp của Đảng là đúng đắn, sáng suốt , Nguyễn Khải “bịa” thêm một nhân vật xin ra hợp tác xã : lão Hoá – một nông dân cách mạng nòi, đã từng đào hầm cứu sống Chủ tịch huyện hồi chống Pháp. Ô hay, một hạt nhân tích cực của Đảng vậy sao xin ra hợp tác ? Người ta cứ tưởng nhà văn Nguyễn Khải phát hiện ra một “lỗ hổng” trong chính sách hợp tác hoá buộc xã viên phải nộp đơn xin ra sẽ dẫn tới nguy cơ tan vỡ hợp tác xã. Nhưng không phải vậy, ông nhà văn đã “làm động tác giả” để kích thích trí tò mò độc giả, tăng phần hấp dẫn cho cuốn sách đó thôi.

Hoá ra ông già Hoá và một số xã viên làm đơn xin ra khỏi hợp tác xã không phải vì “bất mãn chế độ” mà ngược lại, chính là để đòi cán bộ hợp tác xã thực hiện đúng ..chủ trương chính sách Nhà nước.

Nguyên vùng này có nhiều đất vườn có thể gieo trồng, chăn nuôi nhiều thứ , giá trị hơn cả ruộng khiến “ người ta có thể trao cho hợp tác xã tất cả đất ruộng của mình , nhưng cốt tử phải giữ lấy mấy sào vườn…”. Bởi vậy xã viên chỉ chăm chút vào mảnh vườn riêng lơ là ruộng chung. Rồi thì phân bón của hợp tác xã cũng chạy vào mảnh vườn riêng.

Đứng trước “mầm mống tư hữu” trỗi dậy , ông lão Hoá và một số xã viên “tiên tiến” đã đấu tranh với cán bộ đòi uốn nắn tư tưởng xã viên, yêu cầu họ phải coi trọng ruộng đất chung trong hợp tác quan trọng hơn mảnh vườn riêng . Tuy nhiên do cán bộ cũng có “mảnh vườn riêng” nên yêu cầu đó không được thực hiện , bởi vậy họ bày mưu làm đơn ra khỏi hợp tác xã để gây áp lực buộc cán bộ thực hiện đúng chủ trương của Đảng và chính phủ mà thôi.

Trong “ Chủ tịch huyện”, Nguyễn Khải đã bịa ra một loại nhân vật giả, xã viên hợp tác xã “cách mạng hơn cả Đảng”, “mác xít hơn cả người cộng sản”.

(còn tiếp)

khieman
04-20-2014, 03:44 PM
(tiếp theo)



http://1.bp.blogspot.com/-UPmIVOxWxjk/T8EMRcNUenI/AAAAAAAAAlE/TNOfXrAUGB0/s400/NguyenKhai12.jpg (http://1.bp.blogspot.com/-UPmIVOxWxjk/T8EMRcNUenI/AAAAAAAAAlE/TNOfXrAUGB0/s400/NguyenKhai12.jpg)


Thực ra tại các hợp tác xã, các địa phương cán bộ Đảng không hề bị kiểm tra, kiểm soát bởi báo chí hoặc bất kỳ cơ chế quyền lực nào khác nên chúng ra sức tự tư tự lợi, ăn chặn ăn bớt xã viên, ăn cắp công quỹ. Sự sa đoạ , xuống cấp của cán bộ đã xảy ra từ rất lâu, từ thời bắt đầu xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ở nông thôn.

Tuy nhiên trong các tiểu thuyết của Nguyễn Khải, cán bộ tỉnh, huyện, xã, thôn xóm đều là “đầy tớ tận tuỵ của dân’, lặn lội đồng ruộng giúp dân nâng cao năng suất. Như ông “bí thư tỉnh uỷ” đi sâu đi sát nhân dân, vào tận buồng riêng nhà người ta cắt đặt việc gia đình, ông Chủ tịch huyện ăn ở lẫn lộn với cán bộ, nghe tin ở đâu có hiện tượng xã viên xin ra khỏi hợp tác xã là phóng xe xuống bất kể ngày đêm. Cán bộ xã thì “từ mờ sáng tới nửa đêm : mồm nói , chân chạy, xem xét, hỏi han, tranh cãi, la hét , cáu giận , ngọt ngào , thôi thì đủ…”.

. Càng đọc “Chủ tịch huyện” người ta càng nhận rõ cảm hứng chủ đạo là “ca ngợi một chiều”, là thực hiện đúng nhiệm vụ ”tuyên truyền cho đường lối chính sách của Đảng” Bởi thế tác phẩm nhanh chóng rơi vào quên lãng. Khi nhiệm vụ chính trị qua đi, tác phẩm “phục vụ kịp thời” cũng chết theo. Đó là “số phận” của những tiểu thuyết viết về nông thôn Việt Nam của Nguyễn Khải.

Suốt cả cuốn “ Chủ tịch huyện”, cán bộ từ thôn xã lên tới huyện tỉnh, anh nào anh nấy hai bàn tay đều sạch bong , nhất mực chỉ “vì Đảng vì dân” không mảy may tơ hào công quỹ lấy một cân gạo, không nhũng nhiễu ăn tiền của dân lấy một đồng bạc. Có lẽ “tô hồng” quá đáng vậy sợ bạn đọc cười, Nguyễn Khải “liều mình” dựng lên một ông Chủ tịch xã tự tư tư lợi, lợi dụng chức quyền ăn tiền của dân .

Nguyên ở xã Hoà Trung có lái buôn tên Đào đề nghị Chủ tịch xã mua giúp cái dầm cầu xã bỏ đi để làm cột nhà giá có 200 ngàn nhưng lại đưa những 300 ngàn, coi như “biếu” Chủ tịch xã chỗ chênh lệch.

Chuyện “tham ô” của Chủ tịch xã chỉ có thế, rất may, “đồng chí Bí thư Đảng uỷ xã” đã có mặt kịp thời, phân tích cho Chủ tịch xã “nhận ra sai lầm” , trả lại tiền cho lái buôn, nhờ vậy vẫn giữ được phẩm chất cán bộ cộng sản."

Thế là một lần nữa Nguyễn Khải “làm động tác giả” khi mon men tiến gần tới cái cốt lõi của cán bộ Đảng ở nông thôn : máu tham ô, bòn rút của công. Tiếc thay, “Chủ tịch huyện” hoàn thành vào tháng 2 năm 1971 khi bộ mặt của “cán bộ mua đài mua xe” đã lộ ra gớm ghiếc, khi bất công xã hội đã trở nên sâu sắc, khi “chợ vua quan” và “chợ nhân dân anh hùng” mỗi ngày một cách biệt, vậy nhưng ông nhà văn vẫn nhắm mắt, bưng tai không dám nhìn, không dám nghe những xấu xa, đồi truỵ của đám quan lại cán bộ này, vẫn hết lời ‘bốc thơm” chúng.

Kết thúc cuốn truyện , ông nhà văn đặt vào mồm Chủ tịch xã trẻ và Chủ tịch huyện già những đối thoại “ca ngợi “ không còn biết xấu hổ .

Chủ tịch xã :

“ …khó khăn mấy rồi cũng vượt qua được cả thôi . Thế hệ cha anh đã đánh thắng bọn xâm lược Pháp , thì thế hệ chúng em sẽ đánh thắng bọn xâm lược Mỹ. Chắc chắn là như thế…”.

Chủ tịch huyện :

“Chắc chắn phải là như thế…”

Chủ tịch xã :

“ …cái khó nhất là đoàn kết được với nhau, không có gì phải ngờ nhau , phải đối phó với nhau thì việc gì cũng làm được . làm được hết…”

Chủ tịch xã nói năng như …bác Hồ kêu gọi “đoàn kết, đại đoàn kết” . Kết thúc cuốn tiểu thuyết, ông nhà văn còn cho Chủ tịch huyện phát biểu một câu thật “lãng mạn”…cách mạng :

“ Nói cho cùng, cái thử thách lớn nhất, phức tạp nhất vẫn là tự mình vượt qua mình. Ngoài ra những khó khăn khác, những thử thách khác đều không đáng sợ, có phải không, đều không có gì đáng sợ…”

Tuy nhiên, thử thách lớn nhất, phức tạp nhất với các cán bộ chẳng phải vượt qua chính mình mà là vượt qua…cái ghế của mình . Bởi thế họ phải trui rèn phẩm chất … bất nhân, gian manh và đểu cáng giẫm đạp lên nhau mà leo cao. Thực ra cái khó vượt nhất trong con người cán bộ chính là máu tham, nhu cầu hưởng thụ , vượt qua được cái “máu” đó còn khó hơn con voi mượn cánh con bướm bay qua đại dương.

Cha và con và…

Hồi tháng 2 năm 2006, nhà văn Nguyễn Khải trả lời phỏng vấn báo Tuổi Trẻ .

” Nếu người ta gọi ông là nhà văn thời sự thì ông buồn hay vui ?” và “ thời sự hình như không mấy tương đồng với sức sống lâu dài của một tác phẩm. Chủ quan mình, ông nghĩ tác phẩm nào của mình sẽ có được cái lâu dài ấy ?”

Nhà văn Nguyễn Khải sốt sắng trả lời :

“ Nhiều tác phẩm hay đã được bắt đầu từ những bức xúc rất nhỏ của một “chuyện hôm nay”, của cái “bây giờ” nhưng vẫn làm nhiều thế hệ bạn đọc xúc động…Phần mình, tôi nghĩ “ Một cõi nhân gian bé tí”, “ Cha và con và…”, “ Điều tra về một cái chết “ cùng một số truyện ngắn của tôi có được cái thân phận ấy của con người…”

Vậy là trong vài chục tác phẩm, Nguyễn Khải đã chọn “ Cha và con và…” là một trong vài tác phẩm ông cho rằng có thế để đời, còn lại mãi với thời gian. Viết xong vào tháng 8 năm 1978 , xuất bản ngay trong năm, dày vỏn vẹn chừng 200 trang và sách vừa in ra đã được “phê bình gia” Vương Trí Nhàn bốc lên mây xanh trên báo Văn Nghệ với cái tựa to tát: ”Cha và con và…triết luận về tôn giáo vàchủ nghĩa xã hội “.

Ghê gớm chưa ?

Vậy giá trị thực của cuốn truyện này ra sao ?

“ Cha và con và…” lại cũng xoay quanh chủ đề ‘bôi bác nhà thờ” như hai tập tiểu thuyết “Xung đột”. Đó là câu chuyện về một linh mục trẻ, mới ngoài ba mươi, tên Thư được Toà Giám mục cử về “nhậm chức thầy cả” ở xứ Nhất. Về địa phương, trước hết cha phải tới trình diện chính quyền xã. Cái cách đối xử của cán bộ uỷ ban làm cha không được vui, phàn nàn với ông chánh trương :

“ Cả cái uỷ ban của các ông nữa. Họ để tôi leo cả mấy bậc thềm , tự bước vào trong nhà, tự đến trước bàn giấy của bà Chủ tịch ngả mũ chào, rồi bà ta mới đứng lên chào lại. Bà ta là Chủ tịch thật nhưng còn là con chiên của Chúa. Chúa chiên đến mà con chiên dám xử sự vậy sao ?”

Tuy nhiên, đó mới chỉ là nỗi phiền lòng đầu tiên ông cha trẻ gặp phải khi tới nhậm chức ở vùng đất mới. Chờ đợi ông ta ở phía trước còn vô số những “ chọc phá”, những ‘đòn phép” bổ vào đầu ông mà đau đớn thay không phải từ phía chính quyền vốn “thù địch “ với nhà thờ , mà lại từ phía những con người thuộc phe ông – những linh mục già, chánh trương, trùm trưởng, con chiên …luôn luôn giăng bẫy trên đường đi tới của cha linh mục trẻ mới nhậm chức.

Trước tiên, cha linh mục trẻ phải tới gặp cha linh mục già để nhận “bàn giao”. Mới qua vài ba câu chuyện, cha trẻ đã nhận ra tính cách xỏ xiên của cha già :

“ Lạy Chúa ! Tại sao ông già này lại nói nhiều về sự yếu lẫn của mình. Ông già ấy định giăng cái bẫy nào đây ?” Lời nói như gan ruột , nhưng cái miệng thì bỡn cợt , con mắt thì hấp háy, biến ảo quá chừng“

Cha trẻ cúi mặt thở dài rất nhỏ, lái câu chuyện sang hướng khác…’'.

Một cha trẻ mới ngoài 30 tới nhậm chức, một cha già ngoài 80 sắp về với Chúa phải rời chức. Hai cha đối xử với nhau thật chẳng khác gì hai quan cán bộ trẻ già hằm hè nhau khi bàn giao ghế.

Hành hạ “cha trẻ” vậy nhưng “cha già” vẫn chưa chịu buông tha. Tới bữa ăn “cha già” còn “quay” một hồi nữa khiến “cha trẻ” cảm giác “bữa cơm kéo dài như một hình phạt. Chẳng phải vì một già một trẻ , một cũ một mới , một cha quản hạt và một cha mới nhậm chức, mà còn vì một cái gì khác nữa, chưa rõ rệt , rất khó dò tìm đã khiến vị linh mục trẻ mất hẳn phương hướng đối đáp trong những mẩu chuyện vặt vãnh không đầu không đuôi…”

Thoát được “cha già” , “cha trẻ” được phái về xứ Nhất nơi còn biết bao nhiêu điều phiền tạp chờ đợi cha. Trước hết, “lễ nghênh tiếp vị chủ chiên của ban hành giáo hàng xứ rất đúng phép tắc , nhưng gượng gạo, vênh váo…”.

Lẽ ra theo thông lệ, cuộc tiếp rước phải “ cờ phướn, có chè chén, tối có đánh bạc” nhưng chính quyền không cho phép. Chỉ còn lại “ những trình bẩm, ban truyền, những ân sủng, kính cáo , toàn những chữ nghĩa đã chôn đi, đã quên đi từ đời kiếp nào , nay phải móc lên cả lượt.”.

Cái cảnh ông già bà cả cung kính chào cha chăn dắt linh hồn được ông nhà văn giễu là “ ông già cúi người trước một chàng trai trẻ, xưa là thế , vì nó còn là con vua cháu chúa, còn nay mà thế tự nghĩ cũng ngược lẽ, cũng nực cười…”

(còn tiếp)

khieman
04-20-2014, 04:05 PM
(tiếp theo)



(http://3.bp.blogspot.com/-y53-yKd2lww/T8Yc9hItbOI/AAAAAAAAAlw/q7OgVWRxcco/s1600/NguyenKhai13.jpg)http://3.bp.blogspot.com/-y53-yKd2lww/T8Yc9hItbOI/AAAAAAAAAlw/q7OgVWRxcco/s400/NguyenKhai13.jpg (http://3.bp.blogspot.com/-y53-yKd2lww/T8Yc9hItbOI/AAAAAAAAAlw/q7OgVWRxcco/s400/NguyenKhai13.jpg)


Không biết nghĩ tới thời cả dân tộc phải gọi một “ông trẻ” mới ngoài 50 bằng “bác” xưng cháu, Nguyễn Khải có thấy “nực cười” như vậy chăng ?

Trong đám rước đón cha, có ông trùm họ An Cựu, “đội khăn xếp, áo thâm dài, đi giày mũi nhọn, lại cắp cả ô nữa mà trời vẫn nắng ráo” liền bị chê cười “Ông trưởng khu lên hầu cụ lớn đấy à ?”. Để biến việc đón rước cha thành một vở hí kịch, ông nhà văn cho ông trùm An Cựu đi tới trước mặt cha “ quỳ hẳn gối vái một vái , ông hổn hển đứng dậy vái thêm một vái nữa và cứ bước giật lùi” , chẳng ngờ “ gót giày lại dẫm ngay vào bàn chân bà trưởng hộị khấn…khiến bà đang véo von chúc thày cả liền kêu thét như bị ai cấu, dùng cả hai tay ấn mạnh ông trùm ra một bên, miệng nói the thé : Mắt mù hay sao mà giẫm nát cả chân tôi”

Bôi bác kiểu “hề chèo“ vậy thật thô thiển và tiểu nhân . Chưa hết, khi con chiên còn đang xúm xít đón cha Thư thì “ một tiếng gọi hết sức bất ngờ , hết sức rành rẽ :” Anh Thư”. Cả mọi người chết lặng vì tiếng gọi quá sức láo xược của một đứa nữ nào đó…”.

Gọi tên cúng cơm của cha bằng “anh” ngay giữa lễ đón tiếp, lại do giọng nữ rất âu yếm thì quả bằng trát bùn vào mặt cha giữa lúc linh thiêng, long trọng nhất. Thế là cả đám rước biến thành một đám trò :

“Trong nháy mắt , những tiếng cười bị dồn nén luồn lỏi khắp các nhóm người , đến nỗi các chức dịch hàng xứ đứng hầu cha cũng không dám ngước nhìn vị chủ chăn, e rằng chính mình cũng khó giữ được sự kính cẩn cần phải có. …”

Dùng chuyện “trai gái’ bôi bác linh mục là một trong những “sở trường” của Nguyễn Khải. Khi có tiếng người nữ gọi tên cha âu yếm như vậy, lập tức ông trùm An Cựu “làm ra vẻ bầy tôi sốt sắng “ hò hét :

“ Các người bị ma ám quỷ xui cả sao dám hỗn láo thế ? Đứa nào gọi tên cha trước ? Đứa nào ? Là con cái nhà ai để tôi thưa với cha phạt nó. Nó là đứa nào ?”

Thật chẳng ngờ đứa con gái đó lại là thị Thảo, con gái của chính ông làm “đám đông cười vỡ ra. Họ không dám cười linh mục mà chỉ cười cha con ông trùm An Cựu nên có thể cười thật thoả thuê” làm ông trùm trợn mắt :

“Chúng bay đừng có bỏ vạ cáo gian mà sa xuống hoả ngục đời đời. Nhà tao mấy đời thờ phượng Chúa…”

Lại cười , cười như thể đang xem vở tuồng, vở chèo gặp một vai đắc ý. Rồi họ nói chen vào như nói đế :

“ Đời ông chỉ biết thờ Chúa, chứ con gái ông chỉ biết thờ các cha thôi…”

Đám đông vỗ tay tán thưởng màn kịch cương, lời lẽ đã hay mà vai diễn cũng hay…”

Than ôi, ở một xứ công giáo toàn tòng như Bùi Chu, Phát Diệm liệu có cái cảnh con chiên đón tiếp đức cha linh hồn về xứ mình hỗn xược như vậy chăng ? Ông nhà văn Nguyễn Khải quả đã khéo xuyên tạc, biến lễ nghi trang trọng của người ta thành trò hề rẻ tiền

Cô Thảo, con gái ông trùm An Cựu đã cả gan gọi tên cúng cơm của cha giữa đám đón rước, về nhà còn chớt nhả với bố :

“Ông cụ mới tới nom trẻ đẹp quá, bố ạ…chúng con chỉ thích xem người chứ không xem lễ…”

Ong bố chửi :

“ Con nhà vô phúc, rồi mày kéo cả bố mẹ xuống hoả ngục với mày thôi…”

Nó toét miệng cười :

“Xin mời các cụ lên thiên đàng hầu Chúa, còn con xin đi theo cha xuống hoả ngục?”

Bịa ra con gái một ông trùm đạo cả gan mang đấng chăn chiên ra bỡn cợt ngay cả với bố mình , quả thật ông nhà văn đã tìm ra một hình ảnh quá sinh động diễn tả sự suy đồi của đạo Thiên Chúa tại một xứ toàn tòng.

Công việc đầu tiên của cha mới là xem xét “bình Mình Thánh, chén đĩa, chân đèn, ảnh tượng, khăn bàn, khăn thánh…”. Buồn cho cha, chẳng có vật gì ưng ý, “tất cả đều cũ kỹ, sứt vỡ, hôi mốc, khập khiễng như nhà vắng chủ đã lâu ngày…”. tâm sự cha trẻ lúc này thật ngao ngán “một ông linh mục quá già, một đàn chiên quá đông, thế tất việc chăm sóc phải biếng, sự giảng dậy phải nhác…Công lao vun trồng vườn nho của Chúa suốt mấy chục năm của các đấng bậc đi trước , rút lại tay không ?”.

Ôi chết chết, cứ như diễn tả của ông nhà văn thì quả Thiên Chúa giáo đã đến thời mạt đạo. Gia sản “cha già “ để lại cho “cha trẻ” quá èo uột”, cái trách nhiệm gây dựng lại việc đạo cha trẻ phải gánh vác quá nặng nề. “Gai góc lại mọc đầy như thủa ban đầu và dây leo đã sắp bịt kín cả ảnh tượng. Người kế nghiệp trẻ tuổi sẽ bắt đầu công việc khai phá từ đâu ?”

Nếu thực sự công giáo trở lại thời vua Tự Đức vậy thì không thấy ông nhà văn chỉ ra ai đã gây nên tình trạng hoang tàn vậy mà chỉ thấy ông cảnh báo linh mục :

“Nhân nhượng với đời hay hay đối mặt với đời ? Hoặc giả có việc phải đối mặt và cũng có việc phải nhân nhượng ? Là người anh em tốt mà vẫn là người chăn dắt tốt. Cười vui với tất cả mà vẫn chỉ huy được tất cả. Đã có giáo sĩ nào trong địa phận biết dung hoà lề luật của nhà Chúa với lề luật của thế tục chưa ? Chưa một ai thì phải. Người được toà giám mục hài lòng thì chính quyền căm ghét. Người được chính quyền chiều chuộng thì Tòa giám mục phải đề phòng. Hoặc là đầu này hoặc là đầu nọ, tìm được một chỗ đứng vững chắc ở quãng giữa thật khó lắm thay…”

Nguyễn Khải coi mối quan tâm lớn nhất của linh mục là làm sao dung hòa Tòa thánh và Nhà nước để giữ vững cái ghế linh mục chứ chẳng phải chăm lo phần hồn cho con chiên. Vậy khác nào “lấy dạ tiểu nhân đo lòng quân tử “, lấy Chủ tịch huyện mô tả cha xứ ?

Nhận định về mẹo xử sự giữa cha cố và chính quyền này đã được nhà phê bình quốc doanh Vương Trí Nhàn nâng lên thành “triết luận về tôn giáo và chủ nghĩa xã hội “? Phình bụng quá cỡ vậy không khéo vỡ bụng ếch mất thôi .

Ngày làm việc đầu tiên, cha Thư như bị dội thùng nước lạnh khi gặp người giúp việc thân cận nhất của mình : ông chánh trương xứ vì “ông ta già quá , ốm yếu quá , kèm nhèm và ngu tối thế nào ?”.

Và lạ chưa, câu chuyện đầu tiên giữa hai người lại là …tranh luận về cải cách ruộng đất xoay quanh chuyện cụ Thượng trong làng, bỏ tiền xây cất mấy cái nhà thờ sau bị cách mạng xử lý.

Ông linh mục nói :
“Địa phận ta còn mắc nợ với Ngài nhiều lắm…”
Ong chánh trương cãi :
“ Thưa cha ông ấy còn mắc nợ chúng con rất nhiều…”
Ong cha trẻ gườm gườm nhìn người giúp việc :
“ Ruộng đất của người ta, cơ nghiệp một đời của người ta một sớm một chiều mất sạch . Thế còn chưa đủ khổ sở ư ?”
Ông chánh trương nói nhỏ nhưng bướng bỉnh :
“ Cái khổ cả trăm gia đình chẳng ai biết đấy là đâu. Cái khổ của một nhà lại như chiều ai oán. Cũng là tôi tớ của Chúa mà…”

Người đọc không khỏi buồn cười cái nhân vật “chánh trương” này nói năng chẳng khác gì Bí thư xã. Vậy chắc ông là “chánh trương quốc doanh” Nhà nước cài vào Nhà thờ ?

Mang tiếng là “cánh tay phải”, là người giúp việc thân cận cho cha, không hiểu sao vừa mới gặp, ông chánh trương đã giở giọng khủng bố tinh thần :

“ Thưa cha , năm nay con đã bảy chục tuổi, đã hầu hạ cha già trọn bốn mươi năm…Mắt con đã nhìn nhiều sự đổi thay, người ta hợp nhau rồi người ta lại chia nhau ra . Hôm qua là cha là con , hôm sau có tao không mày . Hôm qua chén chú chén anh, hôm sau nhét rọ buông sông. Đời người biến ảo khôn lường, một sớm một chiều chưa thể biết được…”

Mới chân ướt chân ráo về giáo phận cha trẻ đã bị cha già răn đe muốn điên đầu, nay lại gặp ông chánh trương buông giọng bí hiểm, doạ nạt về cái sự khó ở đời . Những tưởng ra trường sẽ cùng người nhà Chúa xắn tay áo làm việc đạo , ai ngờ như lạc vào trận đồ bát quái, xung quanh là cả một rừng gươm giáo.

“ Cha trẻ đưa tay lên che mặt, đầu óc quay cuồng , ông rên rỉ :
“ Khó hiểu quá ! Các ông nói gì với tôi mà khó hiểu vậy ? Tôi chỉ xin các ông một điều : nếu xứ này còn cần linh mục thì tôi ở lại, dẫu khổ hạnh thế nào tôi vẫn cứ ở. Bằng không thì trả tôi về tòa Giám, đừng dùng mưu mẹo làm nhục tôi , bức hại tôi…”.

Ôi chao, đấng chăn chiên, đức cha tinh thần của cả chục ngàn giáo dân lại đau buồn, bế tắc “ mùi mẫn” như chàng trai si tình bị người yêu ruồng rẫy :

“ Và, lạy Chúa, con chỉ ước nguyện sẽ được nằm ở cái giường đơn sơ kia mà trút hơi thở cuối cùng trong vòng tay âu yếm của Chúa”…Cha xứ đã cởi áo, buông màn và nằm xuống, hai tay chắp ngang bụng, thổn thức vì những ý nghĩ thương cảm xa xôi, miệng khẽ gọi những tên cực thánh : Giêsu – Maria – Giuse…”

Liệu một đấng chăn dắt linh hồn của cả một giáo phận có dễ “tủi phận mình”, thổn thức như một anh đồng cô ẽo uột vậy chăng ?

Xây dựng nhân vật cha Thư ngây ngô, ngớ ngẩn như vậy trách gì các “sự khó” cứ ùn ùn kéo tới. Sau khi cả gan gọi tên cúng cơm cha trong buổi tiếp rước, con gái chánh trương lại xin gặp riêng cha với tư cách trưởng hội hát.. Ông cha trẻ chưa trải đời chấp thuận để cô cùng hội hát quyên góp may áo lễ mới cho cha . Mặc dầu các cô đã dặn nhau:

“ Không được nói lại với ai đấy nhá ! Cấm đấy nhá…” nhưng chỉ thời gian sau cả xã đã biết chuyện, gây ra bao tai tiếng làm ông Chủ tịch mặt trận xã phải tìm tới ông chánh trương phàn nàn :

“ Tôi nghe con mẹ Tộ vừa la vừa khóc : vậy là mày giết tao. Đứa nào xui mày ? Thằng nào con nào xui mày để tao băm vằm nó ra ?...Chúng nó chim chuột dăng dện nhau thì mặc mẹ nó chứ , hà cớ gì lại khéo dỗ mày. Mày ăn cơm hay ăn cứt mà dại dột thế ?”

Hoá ra con gái bà Tộ lấy bông tai quyên góp may áo mới cho cha làm bà ta chửi toáng :” Đã có ông linh mục nào đến xứ này mà chê tiền không ? Mà chê gái không ? Tôi cũng là người có đạo tôi không nói vu cho ai bao giờ…” Cha quản hạt thì sao ? “ – Rụng hết răng thì còn ăn gì được , giả thử còn đủ cả hai hàm chắc cũng chẳng từ…”.

Ở giữa một xứ đạo toàn tòng, liệu có một mụ đàn bà oang oang chửi cả cha trẻ lẫn cha già như mất gà mà kẻ cắp lại chính là… các cha không ? Hay nhà văn mượn mồm đàn bà bôi xấu linh mục ?

(còn tiếp)

khieman
04-22-2014, 12:13 AM
(tiếp theo)




http://3.bp.blogspot.com/-I27ROgtjaHk/T8pODNK8vGI/AAAAAAAAAms/gu_YyGX9IDA/s400/xom+dao+2.jpg (http://3.bp.blogspot.com/-I27ROgtjaHk/T8pODNK8vGI/AAAAAAAAAms/gu_YyGX9IDA/s400/xom+dao+2.jpg)



Ông chánh trương chẳng những không bênh vực , bảo vệ lại còn tố cáo cha :

“ Cái ông ấy ( tức cha Thư) đến là dại. Lại còn không biết nó ( thị Thảo) là ai mà dính vào…Lần đầu nó xin gặp cha còn nài tôi cùng ngồi. Mấy lần sau chả thấy ông ấy lý gì tới mình nữa. Không biết đâm mù con mắt xác thịt thì có ngày hỏng…”

Chủ tịch Mặt trận nhân đó giễu cha :

“ Da thịt nó như thế, môi mắt nó như thế, thánh năng ngồi gần còn có khi cháy huống hồ là cha…”

Cứ như thế kẻ tung người hứng, một bên là đại diện nhà thờ, một bên là đại diện chính quyền ra sức bôi bác cha. Tất nhiên việc mấy cô hội hát quyên góp may áo cho cha như vậy là tan , “ thị Thảo phải hoàn lại đôi hoa cho mẹ con bà Tộ. Các nhà góp tiền mua áo lễ cũng lần lượt kéo tới đòi tiền về…”.

Mọi lời đàm tiếu tất nhiên chĩa cả vào cha xứ làm “ cha Thư khi được hay mọi chuyện liền đóng cửa buồng ở lì trong đó cả tuần lấy cớ cảm cúm.”. Từ đó, mỗi lần làm việc với chánh trương , cha xứ gọi thêm người trong ban hành giáo dự ” khỏi mặt đối mặt với ông già nham hiểm quỷ quái…” .

Cái “sự khó” dường như luôn luôn đuổi theo cha Thư . Cơn ông chưa qua cơn bà đã tới. Một hôm cha Thư nhận được thông tư của Toà Giám mục chỉ thị các xứ đạo tổ chức “ bách chu niên đức cha Phước dâng địa phận Tây đàng ngoài trong tay Đức Mẹ ”. Cha Thư tìm tới cha già quản hạt bàn việc tổ chức không ngờ ông này …bàn lùi :

“ Đức cha Phước là tên gọi Việt Nam , còn tên chính của ngài là Puginier …năm ấy, đức cha lại nhận lời ông Ngạc Nhi* đi làm thông ngôn trong cuộc đàm phán giữa người Pháp với các quan giữ thành. …”

Hoá ra cha già quản hạt lại là “người yêu nước” , ông kết tội cha làm ‘thông ngôn” cho Pháp chiếm thành Hà Nội . Bởi vậy thật bất ngờ, cha già thở ra giọng “địch vận” lôi kéo cha trẻ về “tình yêu nước” :

“ Mình là người có đạo thì phải nghĩ theo cách nghĩ của hội thánh. Nhưng mình còn là người ViệtNam nữa nên khó…”
Nghe vậy, lẽ ra cha trẻ phải phản ứng, bảo vệ đức tin , không ngờ chỉ “cúi đầu, thầm nghĩ đau đớn :” Vâng, đúng thế, đúng là thế. Người có đạo là người có tội, tội truyền kiếp, tội của tổ tiên…”

Thái độ khiếp nhược của cha trẻ làm cha già dấn tới :

“ Đạo của Chúa đến cùng một lúc với giặc giã kéo đến . Các cố đứng trong đám giặc mà truyền đạo . Người theo đạo thì không thể nghĩ đến nước. Đã nghĩ đến nước thì rất khó theo được đạo…”

Nói năng sặc mùi “ khinh chúa yêu nước” vậy , ai dám tin là lời lẽ linh mục già quản hạt. Choáng váng vì những lời lẽ “báng bổ” phát ra từ miệng cha quản hạt, ông cha trẻ phải thốt lên :

“ Lậy Chúa, vậy chúng con phải làm gì ? Bất tuân toà giám cũng có tội như bất tuân chính quyền…”

Cha già quản hạt không những không động viên cha trẻ giữ lấy đức tin mà còn cả gan “chửi xéo” đức Thánh Cha :

“ Đức Thánh Cha ở chỗ cao xa , Ngài không thể biết hết được những khổ đau của người dân ở xứ này. Ngài chưa thể biết hết lịch sử truyền giáo ở xứ này …”

Những lễ nghi của nhà thờ thường được quy định chi tiết và thực hiện tôn nghiêm. Ấy thế mà ông nhà văn cũng biến chuyện đó thành…trò hề. Nguyên cha tổng quản địa phận gửi giấy về các xứ nhắc lại lễ nghi chầu phép lành quy định :” ra đền thờ bái một lần, lên trải khăn thánh, mở cửa nhà chầu bái lần nữa. …”. Cha trẻ hỏi cha già đã đọc giấy quy định chưa, cha lắc đầu bảo chưa rồi lên giọng khinh khỉnh, coi như chuyện tào lao :” Bái bốn lần hả ? Ừ thì là bốn lần . Chắc là mọi khi cũng bái đủ cả bốn lần…”

Thái độ vừa báng bổ vừa coi thường phép tắc nhà Chúa của cha già làm cha trẻ phải coi ông ta là “ Một ông già đã quá tuổi làm lễ, đã rất hay quên, đã chẳng còn hiểu mình nói gì và sẽ nói những gì…”. Tuy nhiên cha trẻ nhận ngay ra nhận xét thế là sai “ Nhưng…hình như không phải là thế, hoàn toàn không phải là như thế…”

Không phải thế thì hẳn là một lão già quỷ quyệt, nham hiểm khoác áo linh mục phá nhà thờ.Dưới ngòi bút Nguyễn Khải, hai linh mục - cha già và cha trẻ hiện ra như hai địch thủ luôn rình rập triệt nhau chứ chẳng phải cùng “con cái Chúa” hoặc cùng đấng chăn chiên. Sự thực có thế không ?

Quả đắng tiếp theo cha trẻ phải nhận là ông trùm đạo An Thuận nhân việc toà Giám mục cấp sắc cho lập xứ đạo riêng đã tổ chức quyên góp chè chén linh đình và đổ hết trách nhiệm cho cha trẻ. Rất may được ông chánh trương mật báo, ông cha trẻ đã kịp thời ngăn được việc đầy tai tiếng đó và than trời :

” Ai cũng xấu cả thì tôi biết san sẻ công việc với ai ? …Cái miệng lưỡi con người ta gian ngoan thật…”

Tuy nhiên bản lĩnh linh mục của cha trẻ thực sự bị thử thách là trong việc thay mặt nhà thờ làm chứng cho một cặp vợ chồng trẻ. Anh chồng là bộ đội ở mãi “vùng ngoại vi Saigòn. Bị thương rồi mới chuyển ra đây…”, chị vợ cũng là cán bộ. Anh bộ đội được nghỉ phép 15 ngày để lấy vợ, khi tới xin cha làm chứng thì đã qua mất 5 ngày, bởi vậy anh rất muốn cha viết giấy “làm chứng “ ngay để hôm sau tổ chức lễ cưới tại nhà thờ. Tuy nhiên, theo luật của hội thánh , cha vẫn phải hỏi :

“ Hai người đã chịu phép rửa tội tại xứ họ nào ?”
“ Gia đình con vốn ở Lạc Hải , mới về xã được có mươi năm…”
Cha Thư hắng giọng :
“ Vậy chị phải xin với cha chánh xứ ở bên đó tờ chứng đã làm phép rửa tội…Phải đã chịu đủ các phép bí tích từ khi lọt lòng tới tuổi lớn không mới có thể cho chịu phép cưới. Luật lệ của Hội Thánh đã định thế …”

Vậy vẫn còn chưa xong, sau khi đã có hai cái giấy chứng đó rồi thì còn phải dự…khảo kinh nữa. Lúc này “anh bộ đội” mới lên tiếng :

“ Xin thú thật với cha, cả hai chúng tôi đều đi công tác đã lâu, kinh bổn chắc là không còn thuộc…”
Cha xứ điềm nhiên :
“ Nên học lại , vốn đã thuộc thì học lại cũng mau chứ ?”
“ Chúng tôi chỉ còn ít ngày phép. Một trăm thứ việc đồn lại trong mấy ngày, xin cha thông cảm cho…”
Cha xứ vẫn quyết liệt :
“ Nếu không theo đúng những luật Hội Thánh đã buộc, dẫu làm phép cũng không thành…”
“ Anh bộ đội đưa cặp mắt nhọn nhìn soi mói ông cha đạo từ đầu tới chân như nhìn một giống người xa lạ, trong giọng nói đã có sự thách đố ngấm ngầm . Anh lên giọng :“ Chúng tôi đi chiến đấu không dám kể công với những người ở hậu phương, nhưng ở nơi sống chết mới biết bỏ qua những chuyện vặt vãnh…”
Cha xứ cũng giương mắt nhìn lại :
“ Đối với người có đạo thì hàng ngày xin ơn Chúa, tỏ lòng tin, cậy, mến Chúa là việc hệ trọng nhất…”
Hai người nhìn nhau gằm ghè…

Thật không ở đâu, ngày giữa nhà thờ , lại có thứ con chiên hỗn hào với cha xứ đến vậy . Hơn nữa, anh bộ đội lên giọng giễu cợt :

“ Giả thử chúng tôi đều trúng tuyển qua kỳ khảo thi của cha thì điều kiện tiếp theo có phải là bỏ quân ngũ không ?”

Vậy là anh con chiên mặc áo bộ đội đã không ngần ngại úp lên đầu cha xứ một cái nón cối tổ bố : ép tín đồ đào ngũ, bỏ bộ đội. Và sau cùng, “ anh ta vẫn không rời mắt nhìn ông thầy tu, vành môi trên hơi nhếch lên, cái nhếch môi mới kiêu hãnh làm sao :

“ Chúng tôi vẫn tự hỏi : Sự có mặt của các cha có cho thêm chúng tôi được cái gì không ? Một câu hỏi đứng đắn đấy. Cha còn trẻ, tôi tin rằng cha có đủ thời gian trả lời…”

Đúng là khiêu khích, phá hoại “chính sách tín ngưỡng của Đảng, Chính phủ” , vậy mà ông nhà văn lại hạ bút khen :” cái nhếch môi mới kiêu hãnh làm sao…”.

Tuy nhiên, mải mê bôi bác, trách móc nhà thờ, ông nhà văn quên béng một điều là bất kỳ ‘cuộc chơi” nào cũng có luật của nó. Nếu bài xích nhà thờ dữ dội vậy, thì anh bộ đội với chị cán bộ cứ ra Uỷ ban mà tổ chức đám cưới theo đời sống mới, hà cớ gì phải vào nhà thờ khẩn khoản cha cố “linh động giải quyết” và khi không được thì lập tức giở mặt buông lời riễu cợt mang đầy tính đe doạ, khi muốn nên vợ nên chồng trước mặt đức Chúa Giêsu.

(còn tiếp)

khieman
04-22-2014, 12:24 AM
(tiếp theo)



http://2.bp.blogspot.com/-PD-XzISZdz8/T82jM7tiSDI/AAAAAAAAAnE/EDL_yu5oV9k/s320/xom+dao+1.jpg (http://2.bp.blogspot.com/-PD-XzISZdz8/T82jM7tiSDI/AAAAAAAAAnE/EDL_yu5oV9k/s320/xom+dao+1.jpg)


Sau cha già , cha trẻ, Nguyễn Khải cho cha thứ ba ‘ra sân khấu”. Đó là cha Hoè người “đi làm phúc, đi thăm kẻ liệt” bằng xe máy. Một lần chẳng may cha đâm phải một bà lão, cha phải chở bà vào bệnh viện , phải trả “mười đồng năm hào” tiền thuốc tiền ăn, lại biếu cụ năm chục để cụ bồi dưỡng, ấy thế mà con gái cụ vẫn mò đến tận nhà xứ - mà theo lời cha - “cái con quỷ cái ấy nó vừa khóc lóc vòi tiền , lại vừa hăm doạ xa xôi, rút lại cha đành phải đưa thêm cho nó năm chục nữa. Vị chi là một trăm mười đồng năm hào.Ấy là chưa kể tiền xăng đi đi về về thăm nom bà lão suốt mười ngày điều trị…”

Diễn tả vậy, giống thằng chạy mánh đâm phải bà cụ rồi xuýt xoa tính toán chi li số tiền phải móc ra đền, chứ chẳng phải một cha xứ gây tai nạn sau đó săn sóc họ với tình thương bao dong.

Một hôm cha Hoè tới thăm cha Thư, dùng cơm trưa xong, “khách quý hớp một ngụm nước to, súc nhổ ầm ầm , lấy tăm gẩy giòn giã cả hai hàm răng vừa to vừa khoẻ rồi lại tiếp tục nói ào ào…”

Đúng một anh lái trâu chứ không hề là một linh mục chăm sóc phần hồn con chiên. Tuy nhiên đọc tiếp , người ta lại thấy cái ông linh mục Hoè này ngoài hình hài lái trâu , bên trong lại đúng là một ông cha cố “quốc doanh” được cài vào giáo hội khủng bố tinh thần linh mục .

Cơm nước xong, cha Hoè doạ cha Thư :
“ Chắc là cha biết chuyện Uỷ ban xã Lạc Hồng mời cụ Vịnh ( linh mục) lên chất vấn chứ ?”
Rồi cha Hoè kể tội :
“ Thật không ai dại như cụ Vịnh. Người ta vừa bế mạc hội nghị Thiên Chúa Giáo chiều thứ bảy, sáng chúa nhật là ngày lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống, cụ dám lên Toà giảng nói xưng xưng :” Chúa Thánh thần lấy hình lưỡi lửa hiện xuống, cho nên người bổn đạo phải chú ý sửa lưỡi , phải nói ngay nói thật kẻo lỗi giới răn thứ tám…”. Nói thế bằng tuyên chiến công khai với mặt trận còn gì…”
Và cha rủa cha Vịnh :
“Mà ông ta đâu đã trọn, cũng gian dối, cũng mưu mẹo còn hơn kẻ khác…”

Nghe cha Thư nói cha không làm gì cha đâu có sợ , cha Hoè lại doạ :

“ Cha không làm gì nhưng kẻ khác làm người ta vẫn cứ lôi cha vào. Một thằng áo chùng làm láo thì cả bọn áo chùng phải mang tội mang vạ. Biết để còn kịp ngăn nhau chứ …”
Rồi cha giở trò “tâm lý chiến :
“ ……chỉ những tội trọng mà cụ Vịnh đã chủ mưu , đã nhúng tay trong thời kỳ sửa sai cải cách ruộng đất cũng đủ để chính phủ họ xử bắn rồi, không phải chỉ bắn một lần mà phải bắn đủ mười lần . mấy năm nay con đi hầu cụ Vĩnh tại xứ Nhất này , nên con biết…”

Khủng bố tinh thần cha Thư chán chê, cha Hoè mới lộ ý đồ bêu xấu, báng bổ Chúa :

“ Con được cử ra coi sóc xứ đạo trước cha vài năm, con xin thưa với cha một sự thật đau đớn . Nơi nào phần đời thịnh thì giáo hữu còn làm được việc này việc khác, yên ấm nhiều bề. Nơi nào phần đạo thịnh thì cờ bạc , rượu chè, kiện cáo, đôi khi còn đánh chém nhau ngay cả trong nhà xứ. Mắt con nhìn thấy, tự con là người trong cuộc, bảo rằng không nên tin thì chỉ còn cách đâm thủng cả hai tai, chọc mù hai mắt…”

Sau khi mượn mồm giáo dân, chánh trương, trùm họ với cả cán bộ Đảng và Nhà nước bôi bác đạo chưa thoả , Nguyễn Khải chui cả vào mồm linh mục chửi cho bõ tức.

Cứ theo đúng lời cha Hoè thì giải tán nhà thờ, bỏ mọi việc đạo xã hội sẽ “yên ấm” nhiều bề, còn không sẽ biến hết thành ma quỷ, xúm vào đâm chém nhau. Vốn là linh mục mới ra trường, đức tin còn nặng, cha Thư không sao lọt tai những lời phản Chúa, ông “cười nhợt nhạt” :

“ Nếu tôi hiểu được lời cha nói thì cha đang làm lại giáo lý ?”

Đây thật là một lời kết tội nặng nề với một đấng “chăn chiên”, nhưng với cha Hoè, chẳng là cái gì , cha vẫn thở ra cái “triết lý sống” vô thần sặc mùi chính trị thực dụng :

“ nếu con làm theo ý muốn của đức Giám mục thì thân con phải ngồi tù, xứ đạo sẽ khô héo. Con làm theo cách hiểu của con thì việc đời sẽ vui vẻ mà sự đạo cũng trọn lành.”

Cái cách của cha là cam chịu trở thành cái đuôi cho chính quyền tha hồ vẫy ngược vẫy xuôi, nhà thờ và giáo hội chỉ còn là một tổ chức quần chúng của Đảng, “ kính Chúa và yêu nước tức là yêu chủ nghĩa xã hội…” – chính là cái cách Đảng đưa tôn giáo theo con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội..

Vài ngày sau, trên đường “kiệu mình Thánh” ở các xã, cha Hoè lại ghé vào thăm cha Thư. Lần này cha Thư còn kinh ngạc hơn nữa vì cha Hoè “ không mặc áo nhà tu mà vận sơ mi ngắn tay màu vàng nhạt, quần mầu sẫm, đi giày da nâu , đầu trần , lại cả kính râm nữa. Với bộ quần áo ấy nom cha trẻ đẹp hẳn , mà tự nhiên, thoải mái hết sức…”

Đúng là một gã làng chơi chứ chẳng ai ngờ đó lại là cha xứ. Đã vậy ông còn chọc tức người đồng đạo :

“ Con mang cái vỏ của thế gian nom có nghịch mắt quá không ?”
Cha Thư kêu lên :
“ Đi kiệu Mình Thánh mà mặc xống áo này ?”
Rồi cha giảng giải :
“ Tôi đi kiệu Mình Thánh phải đi từ sớm mai, túi Mình Thánh đeo trước ngực , áo phép phủ ngoài , dọc đường chỉ nghĩ tới những sự khốn khó Chúa phải chịu, ai hỏi không nói, ai gọi không thưa, mà còn hãi chưa được sùng kính…”

Cha Hoè không những phớt lờ cả luật lệ nhà thờ mà còn trâng tráo, báng bổ :

“Con thì khác. Đã hỏi là con phải thưa, phải chào. Còn nghiêm mặt đi thẳng họ lại nghĩ mình hờn giận việc gì, bực tức gì sinh hiểu nhầm nhau rồi khổ…”

Thế rồi ông cha Hoè chở cha Thư đi tham dự “tuần chầu lượt thay địa phận”. lúc xe máy chạy qua chợ, các cô bỡn cợt , “hét lanh lảnh” :

“Anh ơi…anh cho em đi cùng với…”
Cha Hoè ngồi nhún nhảy, miệng trả lời, đầu vẫn không ngoảnh lại :
“ lần sau, lần sau tôi sẽ cho ngồi cùng…”

Cái cảnh “cha và con” chim chuột, bỡn cợt nhau giữa ban ngày ban mặt ngay giữa chợ liệu có thể có ở một xứ công giáo toàn tòng như Bùi Chu- Phát Diệm ? Thời bấy giờ, cả nước đang đói, nông dân vắt mình trên đồng ruộng hợp tác mỗi công tính ra cũng chỉ được vài lạng thóc, ngày hai bữa ngô sắn, rau muối là chính, vậy mà ông nhà văn tả bữa ăn của các cha xứ thật không thua gì mấy ông Uỷ viên Bộ chính trị :

“ Thịt gà rán, miến xáo lòng, lại thêm bát riêu cá thật cay, ăn với rau ghém …”. Hai cha lại còn có cả rượu thuốc đưa cay. Cha xứ sống “sướng” như vậy, ai chẳng muốn đi tu.

Sau bữa cơm có một cặp trai gái đến xin làm phép cưới. Khác với cái lần “anh bộ đội và chị cán bộ” bị cha Thư từ chối vì không thuộc kinh; lần này cha Hoè khôn hơn, gà cho hai con chiên :

“ Thế nào, không thuộc được một câu nào hả ? Chỉ cần thuộc một câu là tôi làm tờ chứng cho ngay. Vậy kinh Tạ ơn Đức bà có thuộc không ? “ Kính mừng Maria đầy ơn phúc. Đức Chúa Lời ở cùng bà…”

Vậy là xong, “thủ tục” lễ cưới tại nhà thờ được giản hoá tới mức độ hài hước làm cha Thư thắc mắc :

“Họ làm những công việc thiêng liêng ấy một cách trần tục vậy sao ?”

Khi còn lại hai cha với nhau, cha Hoè mới “truy vấn” cha Thư , dồn cha vào cái bẫy kết tội cha “lẹo tẹo” với con chiên:

“ Con lạy cha, cha đừng diễn trò cả với con nữa. Cô ấy đã thú nhận với cả con rồi…cha đã lợi dụng lòng sùng kính thiêng liêng của những cô gái thơ ngây để mưu lợi lộc cho riêng mình….”

Cha Thư choáng váng trước đòn vu cáo trắng trợn. Cha như “ người bị bóng đè, muốn kêu cứu thật to nhưng tiếng kêu không lọt qua được kẽ răng, muốn vùng chạy ra ngoài nhưng chân tay đã bị trói chặt . Còn cái mặt quỷ thì cứ sát gần lại mãi, đã nhìn rõ cả vè mắt của nó, chóp mũi của nó, chân răng của nó. Và cả cái giọng nói của quỷ, nhẽo nhợt, tanh tưởi, cứù bò bám lần lần lên khắp da thịt…”.

Người đọc cảm giác hai linh mục giống y hai cán bộ . Họ cũng moi móc, sát phạt , nhìn nhau như quỷ dữ chẳng khác gì trong “đấu tố” . Cái lối trắng trợn lột trần nhau không phải của các nhà tu hành mà chính là của cán bộ Đảng:

“ Cha phàn nàn kêu ca rằng diềm ren áo lễ của cha rách, rằng giây thắt lưng của cha ngắn , rằng vải may áo chùng thâm vừa thô vừa dày. Cha đã kêu than thì bọn họ phải góp sức mà lo liệu…Đến khi việc vỡ lở, chính quyền can thiệp, lập tức cha nhắm mắt, sõng tay, coi như kẻ đứng ngoài . “ Nào tôi được biết gì đâu. Họ đã lợi dụng danh nghĩa tôi để làm bậy đấy chứ.!”

Cha Hòe chẳng những không còn “đức tin nơi đức chúa Giê xu” mà đối với đức cha bề trên cũng đầy tức tối :

“ Quay mặt về toà giám thì đấng bề trên chỉ một mực hò hét chống cộng, bất hợp tác với chính quyền. Ấy là ngài xui bề tôi làm, còn chính ngài lại nhỏn nhẻn, nhũn nhẽo như kẻ biết vâng phục nhất. Rủi khi mình bị tóm gáy, còng tay thì ngài mới sửng sốt kêu lên : “ ơ, cái thằng ngu thế, Chúa nào bảo nó chống lại người cầm quyền. Nó có ngồi rục xương trong tù cũng là phải…”

Cha bề trên đã vậy, đến các linh mục chăn chiên ở bên dưới cũng ma lanh không kém :

“ Nhưng, thưa cha kính mến, chúng con cũng khôn lắm , chúng con đã liếc mắt, cười duyên với nhà cầm quyền từ lâu rồi. Hẳn là họ phải tin chúng con hơn, dẫu sao chúng con cũng được lớn khôn dưới chế độ mới. Còn cha quản hạt , người coi sóc giáo lý và tu đức của chúng ta ? Ông ấy mặc kệ, ai muốn làm gì thì làm miễn là đừng có lôi ông ta vào cùng một rọ…”

Cứ thế, nhà văn tưởng tượng ra những “con ngựa thành Troie”, những cha cố phản Chúa “đi đêm với cộng sản”. Phải chăng đây là khía cạnh “triết luận “ giữa “công giáo” và “chủ nghĩa xã hội "mà phê bình gia Vương Trí Nhàn đã tâng bốc ngay khi tác phẩm Nguyễn Khải mới xuất bản ?

(còn tiếp)

khieman
04-23-2014, 01:52 AM
(tiếp theo)



(http://3.bp.blogspot.com/-uKxh6yIgt_Q/T9H-RyHX-8I/AAAAAAAAAn0/J0CJSYdl4WQ/s1600/NguyenKhai16a.jpg)http://3.bp.blogspot.com/-uKxh6yIgt_Q/T9H-RyHX-8I/AAAAAAAAAn0/J0CJSYdl4WQ/s400/NguyenKhai16a.jpg (http://3.bp.blogspot.com/-uKxh6yIgt_Q/T9H-RyHX-8I/AAAAAAAAAn0/J0CJSYdl4WQ/s400/NguyenKhai16a.jpg)



Sau vố bị cha Hoè truy vấn và mạt sát , cha Thư rút ẩn vào chính mình , “ đã hoá ra con người trầm lặng và buồn bã”. Trong số người giúp việc , cha chỉ quý mến có mỗi mình một cậu bé giúp lễ tên Tú với một tình cảm đặc biệt :

“ Cậu bé chỉ đứng nhìn ông cha trẻ bằng cặp mắt trong suốt, nghiêm nghị và miệng hơi mỉm cười là bao nhiêu bực giận đã lập tức tiêu tan , là đã muốn mỉm cười đáp lại và thăm hỏi một câu thật dịu dàng”

Tình cảm giữa ông cha trẻ và cậu bé giúp lễ được đẩy xa tới mức như tình cảm …cha con , anh em lại phảng phất mầu “đồng tính” :

“ Vả lại cậu ta còn biết cách săn sóc người chủ vừa tỉ mỉ vừa âu yếm, đem lại cái vị mặn của trần tục vào cuộc sống nhạt nhẽo thiêng liêng. Chính là cái vị muối của thế gian đã gắn bó họ lại như anh em, như cha con, và nếu họ phải xa nhau thì nỗi đau đớn chia ly cũng sẽ rất xác thịt…”

Mê mẩn cậu phụ lễ , đức cha lên giọng :

“ Người lớn hay nghi ngờ, hay cứng cỏi, còn trẻ con thì tin tưởng và phó thác. Người lớn thì kiêu ngạo, tham lam, còn trẻ nhỏ thì hiền hoà , nhường nhịn. Người lớn gian xảo, dối trá, còn trẻ nhỏ chỉ nói có nếu là có , nói không nếu là không. Người lớn là con rắn, trẻ nhỏ là bồ câu. Chúa đã từng vẫy gọi :” Hãy để trẻ thơ đến cùng ta, đừng có cản chúng. Bởi chưng nước Trời thuộc về những kẻ giống như chúng…”

Cha có thể ca ngợi trẻ con , nhưng sao lại gây cho chúng thù ghét, ngờ vực người lớn đến thế này :

“ Con ơi ! Thầy ghê sợ mọi người, trừ trẻ nhỏ. Ai ai cũng có thể hãm hại được thày , trừ những kẻ trong trắng, ngây thơ như các con. Thầy nói bằng thật vì thầy đã từng biết. Lời nói ngọt ngào nhưng lại đọng vị đắng cay ; mời chào và cởi mở là bẫy vô hình : gương mặt thánh thiện che đậy những mưu mô hiểm độc. Thầy đã bị khốn mấy lần rồi. Con nên tin lời thầy dặn…”

Xa hơn nữa, cha còn xúi bậy :

“ …phải biết ngờ vực những cảm tưởng tốt đẹp ban đầu, phải biết tránh xa những cám dỗ có tính xác thịt. Mắt thấy đẹp tức là không đẹp, tai nghe hay tức là không hay, lưỡi nếm ngon tức là không ngon…”

Linh mục là đấng chăn dắt linh hồn cho con chiên. Con chiên gần gũi linh mục ắt phải được học hỏi, trau dồi tâm hồn trong sáng và cao thượng. Vậy mà cậu bé phụ lễ gần gũi cha Thư, suốt ngày bị cha nhồi nhét tư tưởng thù hằn và mất lòng tin vào người, nhà thờ đã biến thành nơi đầu độc con người nguy hiểm như vậy, liệu có đáng tồn tại ? Phải chăng đó là “triết luận “ về đạo Thiên chúa và “chủ nghĩa xã hội” của Nguyễn Khải ?

Cậu Tú phụ lễ sống trong nhà đạo vẫn phải đi lao động công ích với thanh niên trong xóm. Ra tiếp xúc với đời, cậu lại nghe lời khích bác rủ rê :

“ Giả sử chúng tôi lại có một người con trai như cậu, nói cậu bỏ lỗi nhá, thì tôi chẳng còn ước ao cái nước thiên đàng nào khác. Cậu đưa bàn tay tôi xem, bàn tay đẹp quá, vừa mỏng vừa mềm, tay này có học nghề gì cũng mau giỏi, mau khéo…”

Ra ngoài đời được tâng bốc rủ rê, trở về nhà đạo, cậu Tú lại ngập tai những chuyện bê bối xấu xa trong các thầy dòng, các cha cố. Nào chuyện khai gian tiền chợ , nào chuyên trai gái của các cha …Cứ một đằng “đời” thì kéo, một đằng “đạo” thì đẩy như vậy, trước sau cậu Tú phụ lễ cũng phải bỏ đạo mà về với đời. Cậu phàn nàn với ca xứ :

“ Thưa thầy, ngày hôm nay con được nghe nhiều chuyện đến nhơ nhớp , chưa bao giờ con được nghe người ta nói với con, nói với nhau những chuyện lạ lùng đến thế …”

Lẽ ra cha xứ là linh hồn của nhà thờ, phải bảo vệ uy tín cho đạo, phải tìm cho ra thực hư trong “những câu chuyện nhơ nhớp” mà cậu phụ lễ “buôn chuyện’ ở đâu , đằng này cha lại phụ hoạ , bôi thêm tiếng xấu , kể tội nhà thờ mà chính cha là đại diện:

“ Một cặp kết bạn đến đưa cho đấng chăn chiên tám chục đồng, đấy là tiền biếu riêng , còn phí tổn dầu nến người ta đã chi một món khác rồi. Đấng chăn chiên đưa trả lại năm đồng, chỉ cầm có bảy mươi nhăm đồng, rồi bảo :” Cha chỉ lấy một nửa , còn cha cho con một nửa. Vậy là cha đã nâng giá lễ xin phép cưới từ tám chục lên trăm rưởi…”

Vào những năm thập kỷ 60, chuyện cha bỏ túi tiền “làm lễ cưới” là “tội lỗi xấu xa” . Cha lại tố cáo tiếp :

“ Có bảy cặp làm lễ vào tối thứ bảy . Sáng chúa nhật linh mục rao ở nhà thờ chỉ hoan hô có ba đôi sáu anh chị em đã có tinh thần ngoan đạo. Đấy là ba đôi có tiền xin lễ cưới, còn bốn cặp kia chỉ làm phép cưới suông thì coi như không có. Có tin được không ? Không thể tin được ! Không thể tin như vậy được ! Lạy Chúa…”

Cha kêu lên vì phẫn nộ, cha không còn biết chia sẻ với ai cái nỗi ghê tởm đó ngoài cậu phụ lễ .Vậy là hai người đã ngầm họp thành một khối tách khỏi sự dơ bẩn của nhà thờ. Ông nhà văn không dừng ở đó, ông còn đẩy cha cố và thầy phụ lễ đi xa hơn nữa về phía…cách mạng để trong cuộc đối đầu giữa “ton giáo “ và “chủ nghĩa xã hội”, phần thắng phải thuộc về ‘sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân”, minh hoạ cho “luận thuyết “ “ai thắng ai” một thời bao trùm lên đời sống tinh thần dân miền Bắc.

Thế rồi một ngày nọ, ông chánh trương trố mắt nhìn cha linh mục ăn mặc lạ đời :

” cha mặc chiếc quần xanh đã cũ, một cái áo cộc tay nhuộm nâu, chân đi dép cao su, đầu đội mũ lá như …một anh cán bộ”, khiến ông chánh trương phải kêu lên :

“ Lạy Chúa ! cha đi đâu sớm vậy , mà lại ăn mặc như vầy ?”

Hoá ra cha đi thăm…bà con đang lao động sản xuất, hơn thế nữa, cha muốn cùng lao động với bà con :

“Ông chánh giới thiệu tôi với ông phụ trách tổ làm màu nhá. Tôi muốn hàng ngày tới đó làm một buổi. Còn việc nhà Chúa chỉ cần làm một buổi là đủ…”

Ông nhà văn thật “to gan”, ông gán ghép cho cả cha cố “giác ngộ ý thức lao động”, coi “lao động là vinh quang” , từ bỏ vị trí “đạo cao đức trọng” để đòi “ba cùng” với nông dân không khác gì cán bộ cải cách ruộng đất. Tất nhiên ông chánh trương không đời nào để cha phá vỡ lề luật của nhà thờ như vậy . Ông nhắc nhở cha :

“ Chúa đã phân mỗi người một việc. Việc của cha trọng hơn việc chúng con, sao lại bỏ việc trọng để làm những việc khác…”

Cha chẳng những không nghe theo ông chánh trương mà còn tỏ vẻ thích thú được thoát cái vỏ làm cha :

“ Tôi ra cùng làm với bà con chứ thăm thú gì ….
Ra đến đường , cha Thư lấy kính râm đeo rồi hỏi nhỏ :
“ Nom tôi đã ra anh cán bộ chưa ?”

Ối Giêsuma lậy Chúa tôi, làm cha cố mà lại muốn..giống anh cán bộ, muốn học theo bác Hồ ‘đi sâu đi sát” , cùng lao động với nhân dân . Ông “cha cố” của Nguyễn Khải đúng là cha dở người, sắp bỏ áo choàng thâm để xin vào Đảng thật rồi. Quả nhiên ông chánh trương nghĩ thầm về cha :

” Ông này đã ra dở thật . Mặt mũi thì võ vàng , quầng mắt thì thâm đen, ăn nói lúc khôn lúc dại. Đến tội nghiệp!”
và cố khuyên giải cha :

“ Cán bộ họ không vận áo thâm chùng, thì người mặc áo thâm chùng không nên vận quần áo của cán bộ, ăn mặc phải cho nó phân minh…”

Tất nhiên, cha Thư không hề có ý định bỏ đạo, ông chỉ muốn làm một thứ “linh mục đời mới” một chân trong nhà thờ, một chân thò ra ngoài xã hội , thực hiện đúng phương châm Nhà nước đề ra cho các nhà tu hành sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa :” tốt đời đẹp đạo”. Bởi thế, cha Thư mới tuyên bố :

“ Tôi vẫn dâng trọn đời tôi để rao giảng Tin Mừng, nhưng không ở nhà tu, không mặc áo chức. Tôi sẽ sống như mọi người…”

Đó chính là cái hình mẫu “ linh mục” “tốt đời đẹp đạo” mà Đảng và Nhà nước bấy lâu nay vẫn đưa ra làm mẫu mực trong Hội những “người công giáo yêu nước”. Hóa ra cái gọi là “triết luận về thiên chúa giáo và chủ nghĩa xã hội” mà phê bình gia Vương Trí Nhàn gán cho “ Cha và con” của Nguyễn Khải chẳng có gì ghê gớm mà chỉ “minh hoạ” chủ trương “tôn giáo vận” của Đảng và Nhà nước với hình mẫu quái thai “ cha cố tốt đời đẹp đạo’ mà thôi. Cái hình mẫu “quái gở “ ấy nhất định vấp phải sự phản đối của con chiên. Bởi thế khi cha Thư xin một chân “lao động sản xuất” ở trại rau để “tự nuôi mình” lập tức bị ông Tài – con chiên, phản đối :

“ .Lạy cha, cha mà làm thế bằng trát bùn vào mặt chúng con còn gì. Xứ đạo này đâu đã đến nỗi túng thiếu ?”
Cha xứ vẫn khăng khăng đòi đi “lao động sản xuất “ :
“ Họ nghĩ sao mặc họ, miễn là mình làm không sai…”

Quả thực nhà văn viết về linh mục hay về thanh niên “tích cực lao động xã hội chủ nghĩa” đây ? Chẳng thế mà ông cho linh mục hăng máu lên, mạt sát nhà thờ :

“ Tôi không muốn sống như các linh mục khác, sống như thế nhơ nhớp lắm , mỗi người nhơ nhớp mỗi cách. Tôi còn trẻ, tôi còn đủ thời giờ để lại chút ít tiếng tốt cho xứ đạo. Bằng không làm được gì hơn thì trả lại áo chức mà về. Sống như kẻ có tội đã đau đớn, lại không được phép cứu chuộc mới thật là đau đớn hoàn toàn …”

Trải qua mấy thập kỷ, Nguyễn Khải liệu đã thấy rõ, ai là người sống nhơ nhớp ? Các linh mục trong nhà thờ hay các quan chức ngoài đời ? Bàn tay dàn xếp của ông nhà văn quá lộ liễu làm mất đi phần chân thực là cái cốt lõi, không thể thiếu cho một tác phẩm văn chương.

(còn tiếp)

khieman
04-23-2014, 01:57 AM
(tiếp theo)



(http://2.bp.blogspot.com/-EYrLIo1OQfk/T9YivUwScOI/AAAAAAAAAoM/cjgGdLf2MZE/s1600/NguyenKhai17.JPG)http://2.bp.blogspot.com/-EYrLIo1OQfk/T9YivUwScOI/AAAAAAAAAoM/cjgGdLf2MZE/s400/NguyenKhai17.JPG (http://2.bp.blogspot.com/-EYrLIo1OQfk/T9YivUwScOI/AAAAAAAAAoM/cjgGdLf2MZE/s400/NguyenKhai17.JPG)


Ban chánh trương không cho cha “tham gia lao động sản xuất” sợ mang tiếng, thì “cha đi lang thang khắp các dong xóm , vào nhiều nhà, hỏi han đủ chuyện và nếu chủ nhà giữ lại mời cơm thì cha trả lời rất nhũn nhặn :

” Tôi đã ăn rồi, tôi không ăn được nhiều, đừng có ép tôi…”.

Xưa nay, các xóm đạo được cha tới thăm là một vinh dự cả làng cả xóm, rục rịch chuẩn bị đón cha từ mấy ngày trước. Riêng cha Thư thì ngược lại ,vì cha cứ tới luôn xoành xoạch “ngồi tiếp thì mất việc mà bỏ đi làm cũng không đành, nên vừa thấy sứ giả của Chúa lò dò vào cổng là trẻ con được bảo trước đã chạy vội ra nói dối bố mẹ hay ông bà nó vắng nhà…”

Thật chưa ông linh mục nào giảm sút uy tín trong con mắt giáo dân như cha Thư cho dù đã cố gắng thực hiện phương châm “ tốt đạo đẹp đời” mà Đảng và Nhà nước cho kẻ thành khẩu hiệu dán đầy ở các xóm đạo.

Đi xuống dân bị dân tránh mặt, cha Thư đành “đóng cửa ngồi lì trong phòng riêng đọc sách từ sáng đến tối , không tiếp một ai…”. Ngồi trong buồng chán, cha Thư mang sách ra ngoài trời đọc. Hôm đó cha tìm được “một cụm tre ngay sát một cái cầu đá” , rất yên ắng và mát mẻ để ngồi đọc sách. Dân làng dường như đã quen với những hành vi khác thường của cha xứ nên khi cha vừa đi qua “ họ liền ngoái cổ nhìn theo, cái nhìn bần thần xót tiếc :” Khốn nạn ! Con người khoẻ mạnh đẹp đẽ thế mà ra dở ?”.

Cha xứ đã muốn “lìa đạo” , lại thêm ngồi đọc sách ở cái “cụm tre bên cái cầu đá” lại gặp một anh…tu xuất, bỏ đạo về đời. Anh này đã học ở “tràng lý đoán” – tức trường học ra làm cha xứ được vài năm, đã “ chịu phép cắt tóc là đã được vào sổ các thầy tư giáo”, trong Hội thánh có 7 chức thì anh ta đã “được chịu chức cầm nến” tức là chức thứ tư rồi, chỉ còn hai năm nữa là anh ta đã thành linh mục năm mới 24 tuổi. Tu sắp thành “chính quả” vậy mà ngang xương bỏ về bởi lẽ những thầy dậy anh trong hội thánh đều là bọn mà anh ta cho là “ học vấn thì tầm thường, mọi quan niệm đều lạc hậu, tư cách lại hèn kém, nói cho thật họ không được phép rao giảng những lời cao đẹp…”

Dựng nên nhân vật cha Thư chửi đạo dường như chưa thoả lòng , ông nhà văn Nguyễn Khải phải đẻ thêm chàng “tu xuất” nữa để mượn mồm chửi tiếp . Anh này đưa ra lý do bỏ tu thật ‘cao quý” :

“ Con chỉ không muốn bị dắt kéo bởi những người mù. Theo chân họ rồi có ngày bị sa hố…”

Ta hãy thử tưởng tượng một chàng thanh niên tuổi măng tơ, vào trường dòng từ nhỏ, sắp sửa tốt nghiệp thành cha, vậy mà dám chê bai những người thày của mình là hèn kém, là dốt, là mù….thì anh ta nếu không phải phường vô ơn bạc nghĩa cũng là quân đầu đường xó chợ, trốn học đi bụi đời.

Sau lần cha Thư nghe thày “tu xuất” báng bổ đạo được vài ngày thêm ông cha Hoè hăng hái bôi đen cái áo choàng thâm nữa. Ông này kể về một “ chiến sĩ đầy lòng quả cảm của Hội thánh, một nhà lãnh đạo và tổ chức hết sức khôn ngoan của địa phận “, người đó là “cha Vinh” vừa mới bị ‘đuổi khỏi hàng ngũ giáo sĩ hết sức đột ngột” vì tội …hủ hoá.

Bằng một giọng vô cùng khoái trá của kẻ tiểu nhân, cha Hoè kể lại vụ việc “ngã ngựa” của người đồng liêu. Trước hết cha mạt sát :

“Ông Vinh được chết lành thì còn ai muốn giữ mình cho nên. Một đời mưu chước hại người, nay mới bị người hại lại. Mà dơ dáy vô cùng, dẫu người thân cũng phải che mặt mà tránh…”

Chửi bới chán chê rồi cha mới đi vào tường thuật chi li bằng thứ ngôn ngữ chẳng phải của nhà tu hành chút nào :

“ Cái đứa nữ ấy cũng đã ngoài ba chục tuổi , vốn có tính huê nguyệt , người mỡ màng phốp pháp, ăn nói cũng khôn khéo, ngọt ngào… Cha đã có tuổi hay đau ốm vặt nên cái đứa kia mới có dịp bưng cơm lên dọn cơm xuống , rồi hầu nước hầu thuốc , lâu dần thành cô hầu phòng , ngày nào không thấy đến, ông già lại có ý giận, có ý ghen…”

Lẽ ra nói về ‘cái sự trượt ngã của người khác”, nhất của đức cha Tổng Giám mục , nếu là người có đôi chút tự trọng, ắt chỉ nói qua loa, vắn tắt, bóng gió, ngờ đâu, cha Hoè càng kể càng chi li, thích chí :

“ Mà chuyện cũng đã dăm sáu năm nay rồi, chứ chẳng phải mới có ngày hôm qua…Mãi đến đêm hôm vừa rồi , cái chuyện mờ ám giữa hai người mới hoàn toàn bị vỡ lở. Ai đời ngủ với nhau lại không cài then cửa bao giờ . ờ thì cái chuyện ăn vụng bị bắt quả tang tiếng là xấu nhưng thế gian cũng đã thường. Cái tâm lý con người mình có thể hiểu được …”

Rào đón kỹ càng rồi, cha mới hạ nhục đồng liêu xuống đất đen :

“ Nhưng cái ông già ấy lại quỳ sụp xuống mà xưng con xưng cháu, khóc lóc kêu van những kẻ đối địch hãy tha thứ , hãy làm ngơ , cần gì sẽ dâng hiến bằng hết thì tôi không thể nào hiểu nổi. Cái tâm lý ấy nó kỳ quái quá, làm sao mà hiểu được …”

Cái giọng bôi bác “thày cả” độc địa không chút tình cảm thông , đập một nhát cho chết, rõ là không phải giọng của linh mục “đồng liêu” mà là của …ông nhà văn ra sức bôi bác nhà thờ lấy điểm với Đảng :

“ Cấy ác thì gặp ác, dẫu là tôi tớ của Chúa cũng chẳng thể bênh . Chúa chẳngcó tội gì còn bị đẩy lên khổ giá huống hồ một kẻ tội lỗi chất chồng. Rồi còn nhục nhã hơn nữa kia, chưa hết đâu…”

Thật khó hiểu vì sao, đức cha Hoè sau khi đã thoả thuê mạt sát đức cha Vinh tội hủ hoá, lại còn lớn tiếng chửi bới suốt lượt cả giới linh mục nhà Chúa mà chính ông ta cũng là một thành viên :

“ Có nhiều cha hễ mở miệng nói rặt điều nhân đức nhưng cách sống lại rất đáng phàn nàn . Chuyện ông Vinh chỉ là một chuyện vặt được lôi ra trước công luận . Còn lắm chuyện hệ trọng hơn vẫn được nhiều đấng bậc ở toà giám giữ kín trong bóng tối, con là cái thằng hay thóc mách nên cũng biết được ít nhiều. Vì được biết ít nhiều nên con mới dám nói này nói nọ mà không sợ bị phạt vạ treo chén. Họ làm bậy còn được quyền tế lễ Chúa, huống là con…”

Thực là một lời tố cáo hết sức đanh thép “sự thối nát” của Toà Giám mục , nhất từ miệng đức cha sống ngay trong nhà Chúa thử hỏi ai còn dám nghi ngờ.

Bôi đen đạo thiên chúa là cảm hứng xuyên suốt “ Cha và con và…” cho tới tận chương cuối . Ông cha Vinh sau khi bị bắt quả tang ngủ với cô hầu phòng đã “ cướp quyền của Đức Chúa Trời , tự huỷ hoại cuộc sống của mình. Khi người nhà xứ phá cửa vào đã thấy xác treo lủng lẳng.. .”.

Thế rồi một hôm cha quản hạt cho gọi cha Thư – ông linh mục đang “chán đạo muốn về đời”, tra vấn :

“Xin cha tha lỗi cho tôi nếu tò mò muốn hỏi một câu này : cha còn điều gì chưa được hoàn toàn hài lòng về những người cộng sản ?”

Đó là một xúc phạm với cha Thư - vốn rất cảm tình với cách mạng, bởi vậy cha nghiêm mặt :

“ Thưa cha, sao cha lại hỏi con chuyện đó ?:”
Rồi cha bầy tỏ “lập trường cách mạng” :
“ Con cảm phục cuộc cách mạng nói chung , có cách mạng chúng con mới được làm người tự do, làm một giáo sĩ tự do.Nhưng con chưa thể hoàn toàn bằng lòng những cán bộ cách mạng nói riêng. Đến là mâu thuẫn. Nhưng …thưa cha, con có thể sống được lâu dài với cái mâu thuẫn ấy. Vì con biết vâng lời người cầm quyền..”

Ông nhà văn Nguyễn Khải quả rất ranh ma khi mượn lời toàn người nhà Chúa mạt sát các đấng chăn chiên.

Cuốn sách gọi là tiểu thuyết “ Cha và con và…” thực ra là một bản án hết sức nặng nề đối với Thiên Chúa Giáo tại Việt Nam mà lạ thay gần 40 năm sau khi ra đời vẫn chưa một ý kiến phản biện nào thuộc phía những người bị bôi xấu. Cuốn sách vẫn nghiễm nhiên là một “thành tựu” trong kho tàng văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

(còn tiếp)

khieman
04-23-2014, 02:03 AM
(tiếp theo)



http://3.bp.blogspot.com/-YfcNHJ63S_Q/T9jDvzLoz8I/AAAAAAAAAok/Zj18I8B4dfQ/s400/NguyenKhai18.jpg (http://3.bp.blogspot.com/-YfcNHJ63S_Q/T9jDvzLoz8I/AAAAAAAAAok/Zj18I8B4dfQ/s400/NguyenKhai18.jpg)


Chính vì cuốn sách vẫn được coi như thành tựu văn học hiện đại , vẫn được rao giảng trong nhà trường nên cần thiết phải đi cho hết nó.

Nhà văn cho ông cha trẻ nói năng “lập trường” vậy, đến ông cha già quản hạt lại còn ‘cách mạng” hơn. Cha ‘chỉnh” câu trả lời của cha Thư :

“ Vâng lời chưa đủ, còn phải hiệp tác. Có hoan hỉ thật lòng thì mới hợp tác được.”

Vậy cha quản hạt muốn cha Thư phải ngoan ngoãn vâng lời nhà cầm quyền một cách tự nguyện chứ không phải miễn cưỡng, tức phải “ hoan hỉ mà vâng lời” kia. Bởi vậy sau khi gặp cha quản hạt trở về, cha Thư vui vẻ cho phép cậu giúp lễ tham gia vào…đội gặt của hợp tác xã. Khi cậu ta đi rồi, cha càng thấy chán đạo, càng cảm thấy nhà thờ ngày càng giống như nhà tù :

“ Rồi trong cái nhà tù này chỉ còn có ta thôi, một ông cha xứ đã lẩn thẩn , và mấy người hầu việc đã quá già. Nhà tu, nhà nguyện, nhà dòng, nơi chỉ chăm lo có sự cứu rỗi thì bóng tối và cái chết là ơn ích của nó…”

Không hiểu ông nhà văn còn đòi hỏi nhà thờ những gì ngoài “chăm lo sự cứu rỗi ”, không lẽ ông muốn biến nhà thờ thành hợp tác xã thủ công sản xuất quạt nan hoặc đậu phụ thì mới xua được “bóng tối và cái chết” ? Nhìn nhận tôn giáo nông cạn thế mà ông muốn nhân danh “chủ nghĩa xã hội” để “triết luận” với thiên chúa giáo thì thật tức cười.

Cái nỗi buồn chán đạo đẩy ông cha trẻ đến chỗ muốn cởi bỏ cái áo chùng thâm :

“ Còn luyến tiếc làm gì , còn tìm cách lại gần làm gì cái thế gian của những bổn phận , những mưu trá , những khổ đau. Những…ngay trong toà nhà của ông thánh Phêrô vẫn có đầy đủ mọi tấn bi kịch đã từng xảy ra ở ngoài đời.”

Nếu “ngoài đời “ cũng đầy rẫy những thối tha như trong “nhà thờ” thì đức cha cứ ở yên trong nhà Chúa tội gì về với đời ? Tuy nhiên, ông cha trẻ còn cho rằng “nhà thờ” còn thua cả “ngoài đời” ở chỗ :

“ Ngoài đời còn có sự sống và ánh sáng , chứ còn ở đây thì chỉ có mùi ẩm mốc và cái chết…”

Thật là một câu chửi đạo thiên chúa mang đầy tính khái quát.

Cha Thư đã chất chứa trong tâm can biết bao sự phiền muộn và khinh ghét giáo hội, lại thêm khi tới thăm gia đình ông chánh trương được bà vợ ông này “tố khổ” tội lỗi của các linh mục trước kia :

“ Trình cha với cố , mấy năm Pháp nó đóng đồn ở đây, cha Hoàng Quỳnh từ Phát Diệm sang coi sóc xứ đạo này , chúng con đã tưởng tới ngày mạt thế. Cha đòi lại ruộng đất được chính phủ chia cho năm trước , rồi truy tô các chủ ruộng , thiếu một đồng cũng không được . Kẻ nào chậm chạp lập tức bị nhốt hầm ngay . Ông lão nhà con cũng bị nằm hầm cả mấy tháng. Kẻ có đạo chỉ biết kêu xin có Chúa , nhưng đấng thay mặt Chúa lại bịt chặt cả mọi đường. May mà anh em bộ đội về giải phóng sớm , chậm chút nữa không khéo các cụ ấy giết chết hết con chiên…”

Đến vợ ông chánh trương tức phu nhân của ông đứng đầu các con chiên mà còn thở ra những lời lẽ “căm thù” các đấng chăn chiên như thế, thử hỏi cái xứ đạo này có đáng “giải tán” không ? Ông cha trẻ nghe chuyện không tin, hỏi lại :

“ Trong nhà xứ có hầm nhốt người à ?’
Ông chánh trương xác nhận :
“ Thưa, nó vốn là cái hầm chứa đồ thánh, cha Quỳnh về mới cho xây rộng ra để nhốt người…Năm anh em bộ đội về đánh bốt chúng con cho xây bịt lại luôn…”

Chỉ tưởng tượng thêm chút nữa, ông nhà văn sẽ biến nhà thờ thành bốt Tây có súng lớn , có bãi mìn chống lại cách mạng. Bà vợ ông chánh trương lại tố cáo tội ác của các cha :

“ Trình cha con cứ nghĩ cái năm thằng cháu trai đậy chiếu nằm đấy mà không có tiền mua áo. Chồng chạy vào cha Hiển, vợ chạy sang ông bà Tư van vỉ khóc lóc cả buổi , rút lại vợ về tay không, chồng cũng về tay không . mà là chánh trương với cha xứ cả đấy. Vậy là phải bó cháu bằng bao tải , bằng chiếu , chồng gánh một đầu. Vợ gánh một đầu , trời lại mưa tầm tã…”

Rõ ra là một màn con chiên đấu tố “linh mục”, tự nguyện đấu tố chứ chẳng phải do Đảng “phóng tay phát động”. Bà vợ ông chánh trương khóc sụt sùi :

“ Một đời người ngoảnh đi ngoảnh lại chỉ những khổ là khổ . Kêu Chúa, Chúa cao xa quá nên nghe không thấu, đến với cha, cha xua tay bảo :” Vậy cái khó của tôi thì tôi kêu ai ? Gắng mà chịu chứ !”

Những lời “tố đạo” của con chiên làm ông linh mục trẻ như bừng tỉnh. Ông ngộ ra rằng :

” Nếu các đấng bậc ấy tin là có một Thiên Chúa thật, có hoả ngục và thiên đàng thật, có sự xét xử tối hậu thật,lẽ đâu họ dám hành động càn rỡ đến thế ? Hình như họ đã không còn tin ở những điều thiêng liêng đó nữa…”

Thế là ông linh mục xét lại “đức tin’ của các cha. Ông cho rằng ‘đức tin’ ấy là không có thực, là vờ vịt, giả vờ để các cha “hành nghề” linh mục :

“ Với họ đi tu là một nghề nghiệp , Hội Thánh là một tổ chức xã hội , danh vị và tiền bạc vẫn có sức mạnh vạn năng , mọi tội lỗi và đam mê chỉ khác đi là đã được thánh hoá…Các đấng bậc tự cho phép thoả mãn mọi dục vọng, còn giáo hữu thì è vai gánh vác mọi khó khăn thì vừa cuồng ngạo vừa ngu ngốc , bọn áo chùng chúng ta ở giáo phận này là sứ thần của quỷ chứ đâu phải của Chúa ?”

Than ôi, một khi linh mục Thư đã báng bổ đạo của chính ông như thế, đã vứt bỏ đức tin như vậy, con đường tất yếu dẫn ông tới là “bỏ đạo” về với “chính quyền”. Quả nhiên một tối cha Thư mặc ra ngoài chiếc áo chùng thâm một cái áo dài trắng – biểu tượng của sự từ chối chức linh mục và cho mời ông chủ tịch mặt trận và ông chánh trương xứ tới trịnh trọng đề nghị :

“ Thưa hai cụ, hai cụ là đại diện có thẩm quyền của giáo dân xứ nhà…tôi cúi mình cầu xin hai cụ hãy rửa tội cho tôi lần nữa.. vì từ nay tôi là tôi tớ trung thành của các người…”

Như vậy ông cha Thư không còn là “con cái Chúa “ nữa mà là tôi tớ của giáo dân trong mặt trận Tổ Quốc của Đảng, tức ‘đầy tớ của nhân dân” như cán bộ Đảng. Thế là ông Chủ tịch mặt trận làm lễ “rửa tội” cho ông linh mục theo kiểu chính quyền :

“ Ông vục nước đổ lên đầu cha xứ lần nữa, miệng đọc to :

“Tao rửa mày nhân danh Cha và Con và Giáo hữu xứ Nhất…”

Như vậy, lẽ ra “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”, ông nhà văn đã cho ông Chủ tịch mặt trận sửa “ thánh thần” thành “giáo hữu” – tức là từ nay, ông linh mục sẽ từ bỏ “thánh thần” mà trở về với “nhân dân”.

Thật là một hư cấu vừa lố bịch vừa ấu trĩ tới mức dở hơi trong “triết luận về chủ nghĩa xã hội và thiên chúa giáo” như phê bình gia “ Vương Trí Nhàn tôn vinh nhà văn Nguyễn Khải .

(còn tiếp)

khieman
04-23-2014, 09:23 PM
(tiếp theo)



(http://3.bp.blogspot.com/-sLq2txBS2Cg/T9y8WGxZgsI/AAAAAAAAApQ/eflyeIdcY3I/s1600/NguyenKhai19.jpg)http://3.bp.blogspot.com/-sLq2txBS2Cg/T9y8WGxZgsI/AAAAAAAAApQ/eflyeIdcY3I/s400/NguyenKhai19.jpg (http://3.bp.blogspot.com/-sLq2txBS2Cg/T9y8WGxZgsI/AAAAAAAAApQ/eflyeIdcY3I/s400/NguyenKhai19.jpg)


Sau tháng 4 năm 1975, Nguyễn Khải cho ra lò “Gặp gỡ cuối năm” viết về trí thức ở lại Sàigòn . Khoảng năm 1980, nhà viết kịch Hồng Phi ( anh ruột nhà văn Chu Lai) ghé tôi kể :

”Họp trao đổi về “Gặp gỡ cuối năm” tớ phát biểu : “Anh Khải ơi, thằng Nhật Tuấn nó bảo anh đánh người ngã ngựa , không quân tử”.

Tôi bảo đây là ý kiến riêng , nói ra làm gì?

Xin nhắc lại câu chuyện tôi đã viết trong phần đầu loạt bài chân dung này. Năm 1978-79, NXB Văn Học thực hiện biên soạn Tổng tập văn học Việt Nam . Tôi được giao gặp từng nhà văn để hỏi tác giả muốn chọn những tác phẩm nào. Một buổi sáng tôi tới nhà Nguyễn Khải ở bãi Phúc Xá. Lúc đó ông đang ngồi bàn viết, trước mặt là tranh vẽ bìa cuốn “Cha và con và…” sắp in. Nguyễn Khải chọn đi chọn lại trong kho chữ của mình rồi bất chợt kêu lên :

’'Tung tóe mẹ nó hết rồi Tuấn ơi…”. Ông nhìn tôi thất thần rồi cười khảy :” Nhưng không sao, tao sẽ vót nhọn gươm đâm một cú cuối cùng”.

15 năm sau , Nguyễn Khải tưởng đã quên chuyện đó. Tuy nhiên, chuyển vào định cư ở Sàigòn, tư tưởng ông dần dà đã thay đổi . Vào khoảng đầu năm 1990, vào dịp đại hội nhà văn TP Hồ Chí Minh, ngoài hành lang vào giờ nghỉ, tôi gặp Nguyễn Khải hỏi thân mật :

”Anh Khải ơi, thanh gươm của anh sao rồi ? “.

Nhà văn Nguyễn Khải cười bẽn lẽn :

” Tớ thương Đảng lắm. Tớ chưa có ý định ấy…”.

Tuy nhiên , năm 2000 trong “Nghĩ muộn” , ông đã dám viết :

“Tôi là người viết báo, chính những đối tượng mà tôi tìm hiểu để viết bài cũng băn khoăn như thế, cũng có người nói thẳng việc này việc kia đã làm mất lòng người. Nhưng tôi đâu dám viết, nói cũng không dám, thành ra nói dối, viết dối và sống cũng dối. Căn bệnh nói dối bắt đầu từ lý thuyết Cách mạng dần dần tách khỏi thực tiễn Cách mạng, nhưng chỉ có một lựa chọn, hãy bênh vực đến cùng sự đúng đắn của lý thuyết đã trở thành bảo bối hộ thân của người cầm quyền.“.

Ông đã nhận ra :

“Nhà chính trị, nhà văn, nhà khoa học, những người hoạt động trong lĩnh vực trí tuệ điều cốt tử nhất là phải giữ được sự độc lập trong quan sát, suy nghĩ, tổng kết, không bị bó trong cái vòng kim cô nào cả, không là tín đồ trung thành của một học thuyết nào cả để có thể phát huy hết tiềm lực trí tuệ của riêng mình dấn bước vào những cuộc dò tìm mới.“

Không đầy 6 năm sau, tháng 5 năm 2006, Nguyễn Khải đã viết xong tuỳ bút chính trị “Đi tìm cái tôi đã mất” như một bản tổng kết đời mình trong văn học. Và cũng không đầy 2 năm sau, bản “sám hối” này đã lan truyền khắp trên mạng trong nước và ngoài nước và nghe nói, vào dịp Ban chấp hành TƯ ĐCS VN họp Hội nghị 7, Giáo sư Chu Hảo đã chuyển bản “Đi tìm cái tôi đã mất” của Nguyễn Khải tới các quý vị trong Ban Bí thư Trung ương Đảng coi như tài liệu tham khảo cho Hội nghị dự định bàn về trí thức .

Đã muộn, vào tuổi “xưa nay hiếm”, Nguyễn Khải mới đặt bút viết :

“Năm 70 tuổi tôi bắt đầu chán viết, người rã ra, đọc sách cũng nằm, đọc được mười lăm phút chữ nghĩa đã loè nhoè, chả rõ mình đang đọc cái gì. Rồi ngủ. Ngủ như chim, một chớp mắt đã tỉnh, tiếp tục đọc nốt cái nửa trang đọc dở vẫn cứ lờ mờ vì chả còn nhớ họ viết cái gì trong cái nửa trang vừa đọc…”

Vậy là khi ở đời chẳng còn chút lạc thú gì, nhà văn mới bắt đầu…chán, chán cả công danh , sự nghiệp :

“ Cũng năm ấy tôi được trao giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 2. Mừng thì rất mừng nhưng tôi đã nhận ra ngay đây là tấm bia mộ sang trọng cắm lên một đời văn đã tới hồi phải kết thúc. Thế là lại buồn, ra vào ngẩn ngơ cả tháng. “

Giải thưởng Hồ Chí Minh là tột đỉnh vinh quang của nhà văn cách mạng mà lại coi như “tấm bia sang trọng cắm lên một đời văn” thì quả thực nỗi chết đã ám ảnh Nguyễn Khải không rời ra rồi.

Thế rồi như phản kháng chiều hướng ngưng trệ của cơ thể, Nguyễn Khải làm một cuộc xê dịch nữa ra Bắc , trở về quê, nơi nhà văn đã lớn lên và đã trưởng thành. Thế nhưng cái mảnh đất đầy kỷ niệm đó nay cũng đã trở thành một nỗi dửng dưng :

“cái mảnh đất thân thuộc đã hoá ra xa lạ. Đạp xe cả ngày chả gặp người quen nào, hoặc có gặp nhưng đã là hai ông già ở tuổi bảy mươi làm sao nhớ lại gương mặt của nhau cái thời mới mười tám đôi mươi. …Đường phố không quen, mặt người không quen, còn lại một ông bạn thân tối ngày đi họp, đủ các thứ hội hè để ông đến họp, vẫn là cái khát khao của người đã già, đã nghỉ hưu có dịp gặp lại bạn cũ, trò chuyện là chính, nhắc lại chuyện ngày xưa là chính, rồi than thở, đủ thứ than thở, chuyện nhà chuyện nước. Cũng buồn nhỉ ? Chuyện người già có vui bao giờ, người đã xong một việc có làm gì cũng không thể vui.”

Rõ ra là một cảm giác rã rời, không còn tha thiết, gắn bó , không còn bồi hồi kỷ niệm, không còn nghĩ ngợi lo toan trách nhiệm với quê nhà. Nếu như ngày xưa, trong tiểu thuyết “Chủ tịch huyện” chân dung những cán bộ xã, huyện , tỉnh được vẽ vời thành những “con người thời đại” đầy năng lượng, xốc vác, năng nổ vì dân vì nước thì bây giờ, dưới mắt nhà văn chỉ còn lại là các “quan tham” mặt mũi đầy…”thịt” :

“Vì tôi là người có gốc địa phương nên tỉnh uỷ có gặp và mời ăn một lần cho phải phép. Nhưng nhìn những gương mặt quan chức của tỉnh hôm nay mà kinh ngạc. Mặt người nào cũng đầy những múi thịt, sần sùi, nói nhiều, cười to, lời lẽ nhạt nhẽo, dung tục, và không bao giờ nhìn thẳng vào mặt mình để nói, cứ như là đang nói với một ai khác ngồi cạnh mình hoặc ngồi sau mình. “

Dường như Nguyễn Khải đã hết e dè, hết giữ gìn, hết sợ ngay cả quan đầu tỉnh ông cũng hết nể vì như ngày xưa :

“Bữa sắp về Hà Nội, bí thư tỉnh uỷ lại mời gặp, không phải là gặp chính thức mà là cùng ngồi ăn sáng với ông vì ông cũng đang bận. Buổi gặp vừa hình thức vừa khó chịu vì chỉ có người lãnh đạo của tỉnh nói, nói như người rao hàng, mắt nhìn đâu đâu, bụng nghĩ đâu đâu. Tôi chỉ còn nhớ một chuyện, có một ông tướng, là danh tướng, người địa phương, có đem một giống hoa lạ từ Hà Nội về, tự tay ông trồng ở vườn hoa của tỉnh uỷ vì phải chọn đúng ngày, đúng giờ, cả đúng hướng nữa mới đem lại thịnh vượng, hạnh phúc cho dân trong tỉnh. Thật vậy sao ? “

Khác hẳn ngày xưa, nhà văn Nguyễn Khải đi đến đâu cán bộ Đảng, chính quyền cũng xúm lại hỏi han, mừng rỡ, bây giờ hầu như chẳng mấy ai quan tâm tới nhà văn :

“Tôi về một xã, xã cho tôi ở nhà một anh bưu tá, lúc rảnh rỗi hỏi chuyện gì anh cũng bảo không biết. Ở xã ba ngày, đảng uỷ, uỷ ban không ai tiếp cả. “

Và thật bất ngờ, cái anh Chủ tịch xã có tới nhưng nom anh thật chẳng khác gì một anh lái heo :

“Có một buổi tối có một anh chàng to béo đến chơi với gia đình, cả vợ lẫn chồng nhà chủ ăn nói thưa gửi, bộ điệu khúm núm. Anh ta ngồi ưỡn người trên ghế tựa, hai chân xoạc rộng, hai bàn tay đặt lên bụng, nói hỏi trống không, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn tôi nhưng không hỏi gì, chào cũng không, mắt nhìn cứ lừ lừ, mà hắn chỉ đáng tuổi con tuổi cháu. Tôi cứ nghĩ tay này hẳn là dân buôn bán ở tỉnh có họ hàng gì với anh chủ nhà, tạt qua chốc lát rồi đi. Nhưng anh bưu tá lại bảo đó là ông chủ tịch xã. Lại một ngạc nhiên nữa ! “

Vậy là trở lại quê cũ, con người cảnh vật đã đổi thay , khác trước hoàn toàn và ông nhà văn có cái nhìn “tổng kết” :

“Trong mấy ngày xuống xã vừa vui vừa buồn. Ai cũng giàu có hơn trước, nấu cơm bằng nồi cơm điện, tối xem tivi mầu, giờ rảnh thì xem phim bộ. Mỗi xóm đều có cửa hàng cho thuê băng vidéo, có gái điếm cho ngủ chịu đến mùa trả bằng thóc, có cờ bạc, có hút thuốc phiện và chích heroin, thành phố có gì ở làng quê đều có, cả hay lẫn dở, dở nhiều hơn hay. “

Chuyến đi đó càng làm Nguyễn Khải nhận rõ gánh nặng của tuổi già đã chất lên vai ông và từ nay mọi chuyện đã khác :

“Sang tuổi 70, mọi hoạt động của con người đều chậm, đều kém, riêng cái chuyện viết lách của tôi vẫn giữ được phong độ gần như xưa, vẫn viết rất nhanh, riêng cái nhìn thì trào lộng nhiều hơn, ngậm ngùi nhiều hơn. Nó là thứ hương vị thơm ngát chắt ra từ hơn bảy mươi năm được làm người. “

Tuổi 70 như Nguyễn Khải vừa diễn tả dường như đã trở thành một cái mốc, từ đó ông có những nghĩ ngợi vượt lên trên khỏi những chuyện “xã hội” – chuyện hàng xã, hàng huyện, ông nghĩ tới những chuyện cao xa hơn. Ông nghĩ về các thứ chủ thuyết, chủ nghĩa và phải chăng những suy nghĩ sau đây là nhắm vào học thuyết Mác Lê :

“ Học thuyết là do con người làm ra, một trí tuệ sáng láng nhất vẫn cứ bị ràng buộc bởi nhiều vòng tự giác và không tự giác của thời thế, của cuộc đời. Bởi vì họ không thể là Thượng Đế để biết hết vô vàn nguyên nhân những tác động qua lại, uốn éo, bất ngờ của nó đưa đẩy mọi sự vật tới những thay đổi rất nhỏ, không mấy ai chú ý, cuối cùng là những biến thiên cực lớn. Chả có học thuyết nào dự đoán đúng những gì sẽ xảy ra trong tương lai và cũng chẳng thể dự đoán được cái kết cuộc của nhiều sự việc đang xảy ra trong hiện tại. Mọi lời tiên tri đều có tính mê sảng, đồng cốt. Dành cả một thời thanh xuân để tin vào những lời tiên tri ấy, về già nhìn lại cái tài sản tinh thần thâu góp một đời chỉ là một cái kho chứa đủ tạp nham chẳng có một chút giá trị gì.”

Có nhiều cơ sở kết luận Nguyễn Khải nhắm vào cái chủ nghĩa bắt ông đội lên đầu cái vòng kim cô suốt một đời cho tới tận lúc chết vẫn chưa được tháo ra – chủ nghĩa Mác-Lênin . Cho đến tuổi 70 ông mới nhận ra đã dành cả một thời thanh xuân để tin vào chủ thuyết đó mà thực ra nó chỉ là một cái “kho tạp nham” chẳng có chút giá trị gì. Sám hối của “con chiên” Nguyễn Khải trước các Giáo chủ về mặt tư tưởng như vậy là đã không còn nhân nhượng, không còn nể nang mà đã quyết liệt sổ toẹt đi hết.

(còn tiếp)

khieman
04-23-2014, 09:29 PM
(tiếp theo)




http://1.bp.blogspot.com/-aJrwUk0Asow/T99PMBCJhzI/AAAAAAAAApo/hQaNie-W9NE/s400/NguyenKhai20.jpg (http://1.bp.blogspot.com/-aJrwUk0Asow/T99PMBCJhzI/AAAAAAAAApo/hQaNie-W9NE/s400/NguyenKhai20.jpg)


Chắc chắn phải sinh ra, lớn lên, bú mớm “sữa” của chủ nghĩa Mác-Lênin mới có nhận xét “gan ruột” như Nguyễn Khải khi ông hạ bút :

“ Tính hài hước là cái thứ mà người cộng sản ghét nhất vì nó có thể biến mọi chuyện thiêng liêng thành trò cười.”

Bởi vậy mọi chuyện tiếu lâm, chuyện cười trước khi Đảng ra đời thì được (http://nhattuan2011.blogspot.com/2012/06/chan-dung-hay-chan-tuong-nha-van-ky-49.html) coi là “vốn quý dân tộc” còn ra đờ (http://nhattuan2011.blogspot.com/2012/06/chan-dung-hay-chan-tuong-nha-van-ky-49.html)i sau khi “đời ta có Đảng” thì bị cấm đoán, rượt đuổi có khi tù tội như nhà thơ Tuân Nguyễn với hai câu thơ :

“ Tiến lên ta quyết tiến lên
Tiến lên ta gọi cấp trên bằng…thằng”.

Để nói rõ hơn việc “biến mọi chuyện thiêng liêng thành trò cười.”, ông giải thích :

“. Học thuyết xã hội đã phải đội lốt tôn giáo để tồn tại thì mọi thứ thuộc về nó đều là thiêng liêng. Lãnh tụ thành thần thánh, lời nói bài viết của họ thành kinh bổn, cuộc sống cá nhân và xã hội của họ đầy ắp những chuyện phi thường. Hình ảnh của Lenin và Stalin, của Mao Trạch Đông và Kim Nhật Thành và lời nói của các vị ấy bao trùm lên toàn bộ cuộc sống tinh thần của các quốc gia họ cầm quyền, làm gì, nói gì, nghĩ gì đều không thoát ra khỏi cái bóng che ấy.. “

Vậy một cách không trực tiếp, Nguyễn Khải nói chủ nghĩa cộng sản chẳng qua cũng là một thứ tôn giáo vì những lãnh tụ của nó đều đã thành “thần thánh (http://nhattuan2011.blogspot.com/2012/06/chan-dung-hay-chan-tuong-nha-van-ky-49.html)” như Lênin, Staline, Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành…tất nhiên ông không dám nói tới Hồ Chí Minh. Và một khi “chủ nghĩa cộng sản” đã trở thành tôn giáo thì tội ác của nó ghê gớm hơn tôn giáo nhiều :

“Vì tôn giáo là niềm tin, là thói quen, là tập quán, là vâng phục, là ở thế giới này chỉ có một chân lý, ngờ vực nó, đặt quá nhiều câu hỏi về nó chỉ là kẻ phản đồ, phải bị trục xuất khỏi cộng đồng, phải bị cách ly, bị ngồi tù để tránh mọi sự truyền nhiễm có thể.”

Tức là dưới cái bóng của lãnh tụ, con người đã bị tan biến thành những giun dế thấp nhỏ và run sợ :

“Bài hát về lãnh tụ trang nghiêm như thánh ca, người hát có dáng điệu sùng bái như tín đồ. Cái thế giới cá nhân của các công dân đã bị đốt cháy, đã thành tro bụi và tan biến trong hương khói của đền đài…”

Trong cái đám quần chúng giun dế ấy, tội nghiệp nhất là những người (http://nhattuan2011.blogspot.com/2012/06/chan-dung-hay-chan-tuong-nha-van-ky-49.html) trí thức, họ biết trốn vào đâu trong cái biển mê cuồng và tăm tối đó :

“Trong không khí ngùn ngụt lửa cháy cùng với tiếng sóng hoan hô khi gần khi xa không lúc nào dứt, vậy những người làm việc bằng trí tuệ sẽ tìm đâu ra một khoảng trời yên tĩnh và tự do để suy nghĩ về những công trình một đời của riêng mình..”

Ngay cả khi vạch trần thân phận trí thức dưới chế độ cộng sản, nhà văn Nguyễn Khải vẫn còn len lét sợ không dám gọi trực tiếp tên “trí thức” mà phải nhái thành “ những người làm việc bằng trí tuệ” đủ biết nỗi sợ trong ông vẫn còn dai dẳng biết chừng nào. Cái yêu cầu phải “nghĩ trong những điều Đảng nghĩ” đối với ông thật nực cười khi ông dám huỵch toẹt Đảng còn lâu mới hiểu nổi trí thức :

“Người cộng sản sẽ không bao giờ hiểu được cách làm việc cá nhân, đơn độc, xa rời quần chúng, xa rời các phong trào cách mạng có tính địa phương của các nhà trí thức thấm đẫm “tư tưởng tư sản” ấy. Phải cải tạo họ bằng các chuyến đi thực tế, bằng các lớp học chính trị ngắn hoặc dài ngày, và bằng cả những lần được gặp gỡ thân mật với lãnh tụ để có thêm lòng tin vào những lý do phải tự phủ định, để khẳng định sự nghiệp vĩ đại của quần chúng. “

Chính vì không hiểu nổi hoặc cố tình không hiểu, Đảng đã đề ra những yêu cầu thật quái gở đối với trí thức :

“Phải bỏ hẳn những tư tưởng triết học và thế giới quan phù hợp với cách nghĩ, cách nhìn, cách đánh giá của riêng mình, đã được chứng minh qua những trải nghiệm của bản thân để nhập vào dòng tư tưởng chính thống, cái triết học chính thống, cách nhìn nhận và đánh giá chính thống, xét cho cùng chả liên quan bao nhiêu tới cái tâm sự đang ấp ủ, tới những điều cần phải viết, và trên hết, máu thịt hơn hết là những phát hiện độc đáo của riêng mình trong lịch sử, trong văn hoá, trong nhân sinh.”

Vậy tất cả những gì “khác biệt” với tư tưởng của Đảng đều phải bị triệt bỏ. Toàn bộ xã hội chỉ duy nhất được (http://nhattuan2011.blogspot.com/2012/06/chan-dung-hay-chan-tuong-nha-van-ky-49.html)phép có một dòng “tư tưởng chính thống, cái triết học chính thống, cách nhìn nhận và đánh giá chính thống “ mà hồi đương chức ông Bộ trưởng VHTT Lê Doãn Hợp gọi nó là “lề đường bên phải”. Vậy nhưng nếu chiều theo Đảng thì trí thức - ông nhà văn đâu còn là mình ? Nhà văn Nguyễn Khải không dám “chống lại” mà chỉ dám “than vãn” :

“ Mất những cái đó thì còn sống tiếp làm gì, còn viết tiếp làm gì nên một số đã phải đổi nghề, bỏ nghề sáng tạo sang nghề cạo giấy, làm một anh công chức hiền lành, mẫu mực, vừa có quyền vừa có lợi. Cái danh cái lợi cũng có sức quyến rũ người ta lắm, qua nhiều năm tháng nó đã trở thành ý nghĩa quan trọng nhất để sống, sống với vợ con, với bạn bè, với xóm làng, với xã hội. “

Đó là một lời than “nhói lòng” một lời cảnh báo cho an nguy dân tộc khi kẻ sĩ tự chối bỏ vai trò của mình nhưng lại là một “tiếng đàn gẩy tai trâu “ bên những ông quan văn hoá văn nghệ của Đảng vừa dốt nát lại vừa vô cảm.

Tuy nhiên không phải văn nghệ sĩ nào cũng đổi nghề thành “cán bộ cạo giấy”, còn những người không chịu buông bút vì không thể kiếm sống bằng nghề khác đành cam chịu uốn ngòi bút theo yêu cầu của Đảng và lắm khi cũng bị đòn vọt trong những vụ án văn chương vì dám “buông thả mình theo cảm xúc tự nhiên “ mà đi trệch khỏi lề đường bên phải nên bị trừng phạt khiến tài năng bị thui chột :

“ Còn một số nhỏ vì không làm nghề gì khác ngoài cái nghề văn chương nên đã đầu quân về các nhà xuất bản, tuần báo, tạp chí tiếp tục làm nghề nhưng phải viết trong khuôn phép đã quy định, cũng có đôi lúc đã tự buông thả theo những cảm xúc tự nhiên hoặc bất chợt bị mê hoặc bởi những hình tượng nghệ thuật quá đẹp đã trở thành những nạn nhân oan uổng của nhiều vụ án văn tự, nghĩ lại mà tiếc cho nhiều người, mộng mơ nhiều thì tài năng cũng nhiều đều bị thui chột ngay từ những năm còn trẻ.”

Vậy là mấy chục năm qua, mấy chục triệu con người (http://nhattuan2011.blogspot.com/2012/06/chan-dung-hay-chan-tuong-nha-van-ky-49.html) Việt Nam phải sống theo một dòng tư tưởng, đi theo một lề đường bên phải, tuân theo một cách (http://nhattuan2011.blogspot.com/2012/06/chan-dung-hay-chan-tuong-nha-van-ky-49.html) đánh giá và nhìn nhận và theo nhà văn Nguyễn Khải đó là “một tai hoạ khôn lường” :

“Trong suốt ba chục năm chiến tranh, mỗi người Việt Nam đã quên hẳn những nhu cầu vật chất và tinh thần của riêng mình để được cùng sống như mọi người, cùng cảm nghĩ như mọi người, sống cùng sống chết cùng chết. Học thuyết Mác và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản được tôn vinh đến tuyệt đối. Vì số phận cá nhân gắn liền với tập thể với dân tộc, trùng hợp khít khao với các mục tiêu chính trị của đảng cầm quyền và những tham vọng của người lãnh đạo. Nhưng cả mấy thế hệ cùng tham gia chiến tranh, sống trong một môi trường xã hội, chính trị của một đất nước đang có chiến tranh cũng là một tai hoạ khôn lường. “

Cái tai hoạ khôn (http://nhattuan2011.blogspot.com/2012/06/chan-dung-hay-chan-tuong-nha-van-ky-49.html) lường đó đã tác hại tới toàn thể dân tộc ra sao. Ta hãy coi nhà văn Nguyễn Khải phân tích về sự xoá bỏ “cá nhân” trong thời kỳ chiến tranh :

“Trong chiến tranh tập thể gạt phắt cá thể sang một bên, có thể giẫm đạp lên nó cũng chả mất mát gì, vì chiến tranh đòi hỏi sự nhất trí, cần sự ra lệnh đúng lúc của một cái đầu chứ không có thời gian bàn luận, sai đúng có sự tham gia của nhiều cái đầu. Vả lại nếu người lãnh đạo tính toán sai lập tức sẽ bị đối phương trừng phạt ngay, không sớm tỉnh ngộ thì cả sự nghiệp có thể bị đổ vỡ. “

Nhưng khi chiến tranh kết thúc rồi cái “cá nhân” vẫn bị xoá nhoà trong đám đông “quần chúng nhân dân” – tất nhiên là “ quần chúng cách mạng” của Đảng :

” Đến thời hoà bình thì chỉ còn dân chúng đối mặt với chính quyền, quyền lợi khác nhau, nguyện vọng khác nhau, có trăm ngàn thứ khác nhau trong một cộng đồng : dân tộc, tôn giáo, văn hoá, điều kiện sống… trong một thời gian dài tạm quên đi, tạm gác lại để lo việc lớn, lúc này nhất loạt trỗi dậy, đòi hỏi và mỗi cá nhân đều thấy cái mình đòi là quan trọng nhất, bức thiết nhất. Độc lập có rồi, tự do có rồi, vậy cái hạnh phúc của mỗi chúng tôi nhà nước định quên sao ?
Nhưng để đòi hỏi cái quyền sống cho cá nhân đó, toàn xã hội đã bị bịt miệng :

“Nhưng người dân phải tìm ra cơ hội nào để nói, đến chỗ nào để nói, dùng phương tiện gì để nói. Nói với tổ chức, với các đoàn thể mình là một hội viên, không ai nghe cả. Nói trên báo chí không báo nào dám đăng. Viết kế sách, thỉnh nguyện gửi lên các cấp có thẩm quyền thì chả bao giờ nhận được trả lời. Vậy phải làm gì nhỉ ? Làm loạn không dám, biểu tình đúng pháp luật cũng chưa có tiền lệ. Người đứng đắn bộc lộ sự không bằng lòng của mình tại các cuộc họp lập tức bị những kẻ cơ hội trấn áp tức thì, bị cơ quan an ninh ghi vào sổ đen, thăng chức nên lương từ nay không thể, chỉ còn đợi ngày về hưu thôi.”

Vậy thì lương tri của dân tộc sẽ được cất lên từ diễn đàn nào ?

(còn tiếp)

khieman
04-23-2014, 09:39 PM
(tiếp theo )



http://3.bp.blogspot.com/-SeudCiUuQXU/T-NN6PO6u1I/AAAAAAAAAqU/rYb9KrctTbA/s400/NguyenKhai20.jpg (http://3.bp.blogspot.com/-SeudCiUuQXU/T-NN6PO6u1I/AAAAAAAAAqU/rYb9KrctTbA/s400/NguyenKhai20.jpg)

Một khi các cơ quan truyền thông đều nằm trong tay Đảng, một khi 700 tờ báo trong cả nước chỉ có một ông Tổng biên tập – đó lại là một ông “cảnh sát văn nghệ” đầu óc vừa hũ nút , vừa ngạo mạn lúc nào cũng lăm lăm cái còi thổi (http://www.blogger.com/blogger.g?blogID=8329870599366475328) bắt cả 85 triệu con người đi vào một “lề đường” quy định là…”lề bên phải”, vậy thì tiếng nói của sự bất bình, tiếng nói của sự phản kháng trước mọi cái ác, cái bất lương, cái ngu dốt của Nhà nước này sẽ được cất lên từ "cái lề" nào ?

May thay dân tộc Việt Nam còn có truyền thống sáng tác…chuyện (http://www.blogger.com/blogger.g?blogID=8329870599366475328) tiếu lâm. Nếu như ngày xưa “chuyện (http://www.blogger.com/blogger.g?blogID=8329870599366475328) tiếu lâm” là vũ khí đánh vào cái thối nát, hủ lậu của chế độ quan lại phong kiến thì bây giờ nó nhằm vào các tầng lớp cán bộ từ sơ cấp đến trung cao cấp , và cao hơn nữa (http://www.blogger.com/blogger.g?blogID=8329870599366475328) chuyện (http://www.blogger.com/blogger.g?blogID=8329870599366475328) tiếu lâm ngày nay không chỉ nhằm vào các “thói hư tật xấu”, nó đã được dân chúng “nâng (http://www.blogger.com/blogger.g?blogID=8329870599366475328) cấp lên” thành một thứ tiếu lâm…chính trị :

“Nhưng dân chúng vẫn có cách xả nỗi bất bình của họ bằng cách sáng tạo ra nhiều chuyện tiếu lâm chính trị. Trong cả nước không đâu có nhiều chuyện tiếu lâm bằng Hà Nội vì nó là thủ đô hành chính, mọi chuyện cung đình vừa thật vừa giả tràn gập các quán cà phê mỗi ngày. Không ra được báo viết thì làm báo mồm vậy, lời nói bay đi lấy đâu làm bằng, tưởng như vô hại mà hại vô kể. Vì nó sẽ thành dư luận, không ai bắt giam được dư luận, giết được dư luận, cái dư luận hỗn tạp, vô sở cứ mở rộng mãi ra, bao trùm mọi việc mọi người trở thành mặt bằng mới để đặt ra các tiêu chuẩn sống cho một thời.”

Tiêu biểu cho cái loại “tiếu lâm chính trị” này là truyện ba đồng chí “Ba Đồng Chinh “ đi máy bay. Truyện rằng trong một chuyến bay chuyên cơ , đồng chí Ba ( tức Ba Duẩn - Lê Duẩn), đồng chí Đồng ( Phạm Văn Đồng), đồng chí Chinh ( tức Trường Chinh) bàn nhau làm sao cho dân sướng ? Đồng chí Ba nói giờ tôi có một bao tải tiền vứt xuống hẳn dân sẽ sướng lắm. Ba đồng chí còn đang bàn nhau nên vứt xuống cái gì thì anh lái máy bay quay xuống xin thưa rằng :

” Báo cáo , bây giờ tốt nhất là vứt cả ba đồng chí xuống thì là dân sướng nhất đấy ạ…”

Chính sống trong một xã hội mọi kỷ cương phép nước đều trong tay cán bộ Đảng, ngay cả hiến pháp cũng như pháp luật đều do Đảng nắm giữ, cá nhân không được phép tham dự , bàn thảo gì dẫu là đóng góp cho lợi ích xã hội nếu không nằm trong sự kiểm soát của Đảng thì cũng là…”thế lực phản động”.. Bởi vậy đã nảy sinh ra bệnh “thờ ơ”, mặc- kệ - nó phá huỷ ý thức công dân, tinh thần trách nhiệm với cộng đồng :

“Cái tiêu chuẩn mới có tên gọi là "mặc kệ nó". Nó là người khác, là nhà nước, là bất cứ ai, bất cứ việc gì không có quan hệ trực tiếp tới các lợi ích cá nhân mình. Cái cá thể sau một thời gian dài nhập vào cái tập thể đã tự tách ra khỏi nó để tìm lại mình. Nhưng cách tìm lại ấy thường thuộc về phía tiêu cực của con người, lấy lợi ích bản thân làm mục tiêu nên không tạo ra được sự thăng hoa, sự tự do chân chính, là môi trường cho mọi sáng tạo độc đáo, vừa thấm đẫm tính cá nhân vừa thấm đẫm tính thời đại ở yếu tố tiền phong của nó.”

Cái con người “mặc kệ nó” đó chính là dòng dõi chân truyền của “con người mới xã hội chủnghĩa (http://www.blogger.com/blogger.g?blogID=8329870599366475328)”, bởi lẽ chỉ có trong một xã hội không có “tính công dân” như xã hội xã hội chủ nghĩa mới sản sinh ra thứ người “mặc kệ nó” như vậy.
Mặc dầu ở Việt Nam còn chưa biết bao giờ mới có tự do nhưng quan sát sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa và sự hồi sinh sau đó, Nguyễn Khải phân biệt hai loại tự do : tự do trong các nước đã từ lâu có chế độ dân chủ và tự do tại các nước (http://www.blogger.com/blogger.g?blogID=8329870599366475328) mới thoát khỏi chế độ cộng sản :

“Ở đây tôi muốn nói thêm, tự do được nuôi dưỡng tự nhiên trong môi trường dân chủ là tự do của cống hiến, còn tự do vừa thoát ách chuyên chế thường có tính phá hoại, trả thù, để bù lại những năm tháng bị tước đoạt. Cứ so sánh về tự do của một xã hội dân chủ nhiều trăm năm như Hoa Kỳ và tự do vừa giành được của nước Nga Xô Viết là đủ rõ. Vì nó không được chuẩn bị, không được giáo dục, mọi bản năng của con người được xổng ra nhất loạt sẽ gây hỗn loạn cho cộng đồng, nhiều hơn là xây dựng. Dân chủ và tự do phải có thời gian để làm quen, để học cách sử dụng và bảo vệ, phân được ranh giới giữa cá nhân và cộng đồng. thành pháp luật, thành tập quán mới có thể đơm hoa kết trái được.”

Phải chăng cái thứ “tự do” có “tính phá hoại, trả thù, bù lại những năm tháng bị tước đoạt” phần nào đang hoành hành trong cái đám con ông cháu cha dùng tiền tham nhũng của bố ra sức ăn chơi đập phá, mặc sức hưởng thụ , bất chấp đạo lý xã hội .

Nguyễn Khải phê phán cách nhìn nhận xã hội tư bản theo hệ tư tưởng “chính thống của Đảng” :

“ Ở xã hội tư bản mà chúng ta vốn có thành kiến là rất xấu xa lại thường hay cho những tiếng kêu cứu, bảo vệ những giá trị truyền thống của cá nhân, vì đồng tiền đang làm mất phẩm giá của con người, phá vỡ nền tảng đạo đức, làm rối loạn các mối quan hệ xã hội. Con người được sống no đủ, trong tiện nghi mà vẫn đối địch với nó, muốn thoát ly khỏi nó vì không được thoả mãn những nhu cầu về tinh thần. Ta hay lấy những chuyện đó để làm chứng một cách hả hê cho sự tha hoá của con người sống dưới chế độ tư bản.”

Thực ra “Những cái giá trị cá nhân chỉ được nhìn nhận, được tôn vinh ở những xã hội tương đối tự do, các mối quan hệ giữa người với người tương đối tốt đẹp.” và xã hội đó không ở đâu (http://www.blogger.com/blogger.g?blogID=8329870599366475328) khác chính là xã hội tư bản.

Thế còn xã hội cộng sản thì sao ?

Đáng sợ nhất là con người lúc nào cũng bị rình rập , bị sẵn sàng kiểm điểm phê (http://www.blogger.com/blogger.g?blogID=8329870599366475328) bình, giáo dục chính trị tư tưởng :

“Vậy các công dân của chế độ xã hội chủ nghĩa thì sao?”
“Cuộc sống tập thể đã nhấn chìm cuộc sống cá nhân, cuộc sống trong chiến tranh đã xoá nhoà mọi thói quen của cuộc sống thời bình. Lúc nào cũng có kẻ thù rình rập đâu đó để tìm cớ lật đổchế độ (http://www.blogger.com/blogger.g?blogID=8329870599366475328) bằng vũ trang, hay bằng diễn biến hoà bình. Lúc nào cũng được đồng chí trong chi bộ, bàn bè cơ quan giám sát mọi tư tưởng và hành vi để ngăn chặn mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân của mỗi thành viên.”

Cái điều kinh khủng nhất là Đảng luôn luôn gieo giắc sự nghi kỵ trong toàn dân để rồi người với người luôn luôn phải dè chừng, đối phó (http://www.blogger.com/blogger.g?blogID=8329870599366475328) nhau cho dù phương châm cao nhất về quan hệ xã hội lúc nào cũng đề cao “ người với người là bạn “ (!) :

“Lúc nào cũng phải đề phòng, phải đề cao cảnh giác cách mạng, không tin cậy bất cứ ai, kể cả bạn bè.”

Ngẫm nghĩ thân phận mình, thân phận của những đồng nghiệp cầm bút, Nguyễn Khải phải kêu lên :”

“Chỉ có một điều lạ, là trong hoàn cảnh sống không có một tí tự do nào cho cá nhân mà chúng tôi vẫn sống được, lại còn viết văn làm thơ được!”

Ông nhà văn quên béng một điều : đúng là “không có tý tự do nào mà chúng tôi vẫn viết văn làm thơ được ” nhưng mà là thứ văn thơ xu thời, thứ văn thơ phục vụ chính trị, thứ văn thơ dối trá kích động con người thực hiện những mục tiêu đầy tham vọng coi rẻ tính mạng con người của Đảng, thứ văn chương “minh hoạ” mà nhà văn Nguyễn Minh Châu đã “đọc lời ai điếu cho nó”.

Mặc dầu bộ máy tuyên truyền của Đảng ra sức bôi xấu “80 năm thuộc địa của Pháp” nhưng Nguyễn Khải lại nhìn nhận đó mới chính là giai đoạn chói sáng của văn học nghệ thuật :

“Suốt 80 năm sống dưới ách đô hộ của Pháp, chúng ta vẫn đặt được những viên gạch đầu tiên cho nền văn xuôi Việt Nam. Những truyện ngắn, tiểu thuyết, phóng sự, tuỳ bút của thời ấy được in trên các tuần báo hoặc xuất bản thành sách nay đọc lại vẫn thích thú, vẫn làm ta cảm động. Nhiều truyện được đọc từ tuổi niên thiếu vẫn ám ảnh ta tới tận lúc tuổi già, và một loạt các nhà thơ, nhà phê bình văn học của cái thời gọi là thuộc địa đã trở thành những tên tuổi lớn tồn tại mãi mãi trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc. Làm thân nô lệ mà vẫn trỗi lên thành những tài năng lớn là sao? Không chỉ trong văn chương mà còn cả trong mỹ thuật, trong kịch nghệ. Không chỉ trong văn nghệ mà trong cả khoa học, giáo dục, trong kinh doanh theo kiểu tư bản và trong nhiều nghề truyền thống. Tất cả đều được bắt đầu từ những năm đầu thế kỷ, được phát sáng, được bộc lộ mạnh mẽ các tài năng cá nhân và họ đã trở thành người khai sáng, người mở đường, thành tổ nghề, không chỉ có tài lớn mà còn có đức lớn, là những nhân cách kiểu mẫu cho con cháu, cho giống nòi, đều là chuyện có thật cả, không thể bóp méo hoặc bác bỏ. »

Và ông nhà văn phải đau đớn thốt lên câu hỏi không chỉ dành riêng cho Đảng mà cho cả giới văn nghệ sĩ :

« Làm thân nô lệ ( thời pháp thuộc) mà vẫn trỗi lên thành những tài năng lớn là sao ? »

Và đến khi chuyển sang « đời ta có Đảng » thì các « tài năng lớn » đều bị thui chột. Vậy là sao ?


(còn tiếp)

khieman
04-24-2014, 09:15 PM
(tiếp theo)




http://3.bp.blogspot.com/-z3Udb0Yqzno/T-X03kXH-WI/AAAAAAAAAqs/JzWJlNbNECs/s400/NguyenKhai21.jpg



Đó chính vì khi « đời ta có Đảng » xã hội chuyển sang thời kỳ tăm tối còn hơn cả phong kiến :

« Còn thời bây giờ là một xã hội mạnh ai nấy lo, người người lấn chen nhau, tranh cướp nhau vì những tham vọng không được kìm nén, kỷ cương cũ bị xoá bỏ, kỷ cương mới chưa kịp hình thành, mọi sự đều phải làm lại từ đầu từ quốc kỳ, quốc ca, quân kỳ… Nhưng xem ra chả có mấy ai than thở về hiện trạng hỗn loại, họ cảm thấy thoải mái, bằng lòng với cuộc sống đầy bất trắc của hiện tại vì lần đầu tiên họ được lựa chọn cách sống của mình, thắng thua tự mình gánh chịu, cũng là lần đầu họ biết nhận ra cái “bản lai diện mục” của chính họ. »

Nhà văn Nguyễn Khải cả gan ca ngợi xã hội tư bản là mảnh đất ươm những tài năng :

« Cách tổ chức xã hội của giai cấp tư sản dẫu có xấu xa tới tận đâu cũng vẫn tạo được những môi trường tự do và dân chủ hơn, mở ra những cơ hội mới cho sự phát triển tài năng của mọi cá nhân và của cả cộng động. »

Còn xã hội « xã hội chủ nghĩa », chẳng hạn như Liên xô, lại là mảnh đất chết tiêu diệt tài năng vì tính chất « trại tập trung » của nó :

« Lại lấy thêm một ví dụ về nước Nga trong non một thế kỷ qua. Dưới chế độ Xô Viết, người dân Nga được nhà nước chăm lo hoàn toàn từ khi sinh đến khi chết, nhưng họ vẫn không thích, vẫn thấy ngột ngạt vì đó là cuộc sống không phải lo nghĩ của một trại tập trung, con người bị đánh số, bị xếp theo khuôn, theo hàng, chỉ nhìn thấy đám đông chứ không thể nhìn ra từng con người riêng biệt, kể cả trong triết học và văn chương. »

Đó là một bước tiến lớn trong hành trình tư tưởng của Nguyễn Khải. Ong đã nhìn ra được cái cốt lõi của chủ nghĩa cộng sản : « đánh đồng mọi giá trị « , trộn lẫn cái cao thượng với cái ti tiện, đồng mẫu số chung toàn bộ xã hội khiến cái « cá nhân » bị tiêu diệt chỉ còn lại bản mặt của đám đông.

Trong một xã hội như thế chẳng riêng gì văn chương mà các ngành nghệ thuật, khoa học khác cũng đều ngắc ngoải hoặc biến thành dị dạng . Từ đó ông công nhận những mặt sáng của chế độ thực dân :

« Chế độ thực dân tuy tàn bạo nhưng nó là sản phẩm của thời đại này nên nó vẫn có khả năng ươm cấy nhiều nhân tố tích cực, có giá trị bền vững cho những xứ sở nó đô hộ.

Những nhân tố tích cực , những « giá trị bền vững » đó chính là những thành tựu văn hoá nghệ thuật và khoa học kỹ thuật đã được « ươm cấy » trong lòng xã hội thực dân.

Tiếp tục nhận diện cái xã hội « xã hội chủ nghĩa » nơi ông lớn lên và đang sống, Nguyễn Khải vạch ra cái bản chất « toàn trị », « chuyên chế » của nó :

« Bất cứ nhà nước nào lấy học thuyết xã hội hoặc tôn giáo thay cho hiến pháp thì trước sau sẽ chuyển đổi thành nhà nước chuyên chế.«

Tại sao như vậy ? Chính là vì trong toàn xã hội không phải ai cũng đồng thuận với cái « học thuyết » đó. Và ý chí phản kháng, tất nhiên bị đàn áp – đó là bi kịch trước hết của trí thức :

« Vì trong hàng triệu công dân sẽ có nhiều nhóm người không cùng lòng tin, không cùng tín ngưỡng với nhà cầm quyền. Họ trở thành những cộng đồng đáng ngờ, sẽ bị phân biệt đối xử, trước hết là mất quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do xuất bản. Đó là nói về tầng lớp trí thức «

Thế còn thường dân ? Họ cũng bị tước đoạt « kiểu sống » của họ để nhét chung vào một rọ « cách sống kiểu mẫu chung của xã hội » :

« Còn những người làm các nghề khác, chả dính dáng gì đến sách vở cũng sẽ cảm thấy bị tước đoạt nhiều quyền tự do, như quyền tự do lựa chọn cách sống của riêng mình chẳng hạn. Đã độc quyền về tư tưởng tất nhiên sẽ độc quyền cả về cách sống, vì mỗi học thuyết đều có phần đạo lý của nó, nó cần tiêu chuẩn làm người đã được lý tưởng hoá của nó để làm khuôn mẫu cho tu sĩ và tín đồ. »

Đó là tình trạng hiện nay của xã hội Việt Nam khi « toàn Đảng toàn dân » được phát động học tập theo « gương đạo đức của bác Hồ », còn trước đây là « sống học tập theo hình mẫu con người mới xã hội chủ nghĩa ».

Trí thức và thường dân đã vậy, thế còn các nhà văn – tín đồ trung thành của Đảng , họ sống và viết ra sao trong xã hội « chuyên chế » đó :

« Lại nói về những tín đồ trung thành của chủ nghĩa Mác, những chiến sĩ theo cách mạng từ thuở mới lập nước là đám văn nghệ sĩ chúng tôi cũng “sống không dễ” trong sự viết lách. Viết đúng luật lệ thì chỉ có hai chủ đề: căm thù và hy sinh. Cũng chỉ có ba loại người được tôn vinh: công, nông, binh. Cái thế giới mênh mông, nhiều màu sắc ngày một thu hẹp và chỉ có hai màu: đỏ là quân ta, đen là quân địch.«

Cái bi kịch lớn nhất của người cầm bút là sự thắt buộc, xét nét trong sáng tác , giản lược hoá đời sống thành những sơ đồ cứng nhắc và đơn điệu :

« Văn chương cách mạng thoạt đầu cũng lạ so với văn chương thời trước nên được bạn đọc trẻ hoan nghênh. Nhưng cứ phải đọc mãi một vài đề tài quen thuộc, một vài loại người quen thuộc và những tâm trạng rất quen thuộc ngay những bạn đọc trung thành cũng phải chán. Chính chúng tôi cũng tự chán mình. Tài đã kém lại bị bó chặt từ đầu tới chân, xoay tới xoay lui cũng chỉ có một vòng quay, ú ớ một cách nói, càng viết càng nhảm cũng là phải.«

« Xoay tới xoay lui cũng chỉ một vòng quay, ú ớ một cách nói » - nhà văn khác nào nghệ sĩ múa ballet bị đẩy ra sân khấu mà lại bị buộc hai chân với nhau chỉ bằng một đoạn giây. Vậy sao mà nhảy ?

Trong giới cầm bút, chắc không ai thấm thía cho bằng Nguyễn Khải cái ê chề, nhục nhã của một nhà văn bị buộc phải viết theo « yêu cầu chính trị » :

« Một nền văn nghệ phải phục vụ chính trị (mà chính trị thì sớm nắng chiều mưa) là đã mất một nửa tự do rồi, lại phải phục chính trị theo nghĩa các chủ trương, chính sách của từng thời kỳ thì còn gì là tự do nữa. Ấy là chưa nói mỗi cấp cầm quyền lại có những yêu cầu riêng, những cách đối xử riêng, lúc nhu lúc cương, cái thằng nghệ sĩ chả còn biết lối nào mà lần.«
Tất nhiên chạy theo những yêu cầu nhất thời của chính trị, văn chương làm sao có được nhưng tác phẩm để đời. Chính vì vậy Nguyễn Khải riễu cợt các thứ giải thưởng văn chương trong chế độ cộng sản :

« Văn chương đã đến nông nỗi ấy mà vẫn có giải thưởng quốc gia, nhưng những tác phẩm được giải thưởng Lenin, Stalin liệu có còn cuốn nào được người Nga hôm nay muốn đọc lại. Tôi cũng được giải thưởng văn chương cao nhất cấp quốc gia, nhưng tôi biết chỉ mươi năm nữa, thời thế đổi thay chắc chả còn ai nhớ tới mình nữa. «

Hơn ai hết, Nguyễn Khải tự biết tác phẩm « phục vụ chính trị của ông » rồi đây sẽ « tung toé« hết và ông chỉ là nhà văn của một thời :

« Tôi là nhà văn của một thời, thời hết thì văn phải chết, tuyển tập, toàn tập thành giấy lộn cho con cháu bán cân. Buồn nhỉ? Nghĩ lại cũng chả có gì phải buồn, con người vốn sống trong những chiều kích hữu hạn lại mơ tưởng những gì do con người làm ra sẽ thuộc về vĩnh viễn, có hoạ rồ! Tất nhiên vẫn có nhiều công trình của trí tuệ thuộc về cõi bất tử nhưng là của các thiên tài. Với bộ não con sâu cái kiến, ngước nhìn những cái đầu khổng lồ ấy làm gì cho thêm buồn ra. Hãy viết những gì trong cái tầm nhìn tầm nghĩ của con sâu cái kiến vậy. Một cách nghĩ thiếu “tự hào dân tộc” nhưng chắc chắn là một cách nghĩ đúng. Đã từng có những quốc gia từng nghĩ từng viết rất tự hào, rất kiêu hãnh rằng dân tộc họ đã sải bước trước nhân loại cả trăm năm, sắp chạm tay vào cánh cửa thiên đàng rồi! Mà rồi sao nhỉ? Là như mỗi chúng ta đều đã được chứng kiến trong suốt mấy chục năm nay đấy! »

Đúng là nỗi buồn đến ê chề của một nhà văn biết rằng mình trắng tay đi sang thế giới bên kia sau cả một đời cầm bút tận tụy phục vụ Đảng.

(còn tiếp)

khieman
04-24-2014, 09:20 PM
(tiếp theo)




http://2.bp.blogspot.com/-Bys0OtdD6Fk/T-iQQyEWIZI/AAAAAAAAArE/hVMQECVaJjc/s400/NguyenKhai22.jpg (http://2.bp.blogspot.com/-Bys0OtdD6Fk/T-iQQyEWIZI/AAAAAAAAArE/hVMQECVaJjc/s400/NguyenKhai22.jpg)



Khi Nguyễn Khải viết « đã từng có những quốc gia từng nghĩ từng viết rất tự hào, rất kiêu hãnh rằng dân tộc họ đã sải bước trước nhân loại cả trăm năm, sắp chạm tay vào cánh cửa thiên đàng rồi! « thì tức là ông nhắm tới Liên xô và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa mà máu « thỏ đế » vẫn còn cho tới nhắm mắt xuôi tay nên không dám nói toạc ra.

Liên xô và phe XHCN xưa nay vẫn là mẫu mực trương lên trước mũi dân tộc như một tương lai xán lạn Đảng dẫn dắt toàn dân đạt tới, là thành trì vững chãi làm chỗ dựa cho lý thuyết xây dựng chủ nghĩa xã hội .

Than ôi, như sét đánh giữa trời quang, can qua nổi lên chỉ ngày trước ngày sau cả Liên xô lẫn thành trì phe xã hội chủ nghĩa sụp đổ tan tành. Biến cố huy hoàng và vĩ đại từ độ ấy mà mãi nhắm mắt, Nguyễn Khải mới dám nhìn nhận nó :

« Trong những năm 90 của thế kỷ 20 nhiều vị lão thành cách mạng Việt Nam lấy làm kinh ngạc và đau đớn trước sự tiêu vong quá nhanh của một siêu cường mà chân móng của nó đã ăn sâu trong mảnh đất Nga non một thế kỷ. «

Và lần đầu tiên ông nhà văn dám đặt bút lý giải sự sụp đổ có tính cách biểu tượng của chủ nghĩa cộng sản đó :

« Thật ra toà lâu đài kiểu mẫu của tương lai ấy không hề có chân móng. Nó được xây trên cát. »

Hoá ra vậy , hoá ra lâu nay « Liên xô thành trì vĩ đại » lại là công trình xây trên cát. Đó là sai lầm chết người của (http://nhattuan2011.blogspot.com/2012/06/chan-dung-hay-chan-tuong-nha-van-ky-52.html) hệ thống. Liên xô đã vậy, còn giấc mơ cộng sản của Việt nam (http://nhattuan2011.blogspot.com/2012/06/chan-dung-hay-chan-tuong-nha-van-ky-52.html) được xây trên cái gì ? Ong nhà văn tuy có gan lý giải nhưng chưa dám đi sâu vào cốt lõi :

« Mọi thay đổi lớn đều dựa vào phong trào quần chúng được hình thành, được vận động chỉ bằng có tuyên truyền chứ không từ nguồn lực tự thân. Tất cả đều phải ép buộc, đều phải dàn dựng, và phải có các diễn viên chuyên nghiệp trình diễn theo một kịch bản độc nhất. Có hai nhà văn lớn của Châu Âu đều được mời xem màn diễn về một xã hội lý tưởng do người cộng sản lãnh đạo. Ông Romain Rolland thì khen không hết lời, còn ông André Gide thì chê từ đầu đến cuối. Vì một ông chỉ nhìn có cái mặt tiền, cái tổng thể, đến đâu cũng thấy dân chúng ca hát, nhảy múa và vẫy cờ, vẫy hoa. Còn một ông lại chỉ quan sát cái sân sau của chế độ và thân phận của nhiều cá nhân ông có dịp tiếp xúc. Đám đông thường cho ta cái cảm giác sai vì họ không thể giữ được tính độc lập trong tình cảm và phán xét. Còn cá nhân thì cái thân phận riêng tư của họ bao giờ cũng thuộc về nhân loại hôm nay và mai sau. »

Ông cho rằng sai lầm của mấy ông lãnh tụ cộng sản là chỉ biết tuyên truyền, tuyên truyền chứ không phải nguồn lực tự thân. Thực ra, sức mạnh của chế độ cộng sản không chỉ là tuyên truyền , sức (http://nhattuan2011.blogspot.com/2012/06/chan-dung-hay-chan-tuong-nha-van-ky-52.html) mạnh của nó nằm trong nền « chuyên chính vô sản ». Nếu không có kìm kẹp, không có đàn áp, không có tù đầy, bắn giết thì « sự tuyên truyền » cũng chẳng có tác dụng gì nhiều . Chính cái nền chuyên chính đó đã tước đi của người công dân những quyền sống cơ bản :

« Một xã hội mà công dân không được quyền sống thật, nói thật, nhà văn cũng không được quyền bộc bạch tâm sự riêng tư của mình trên trang giấy là một xã hội không có chân móng. «

Khi Liên bang xô viết tan vỡ, người ta mới thấy sự liên kết giữa các nước trong khối liên bang là một cuộc hôn phối áp đặt chứ chẳng phải dựa trên « tình hữu nghị giữa các dân tộc » và lúc này sự tranh chấp mới nổ ra :

« Các quốc gia cùng sống với nhau trong một liên bang, gọi nhau là anh em là đồng chí, nhìn ngoài thấy họ sống cũng yên ấm vui vẻ. Vậy mà khi họ chia tay nhau cũng dửng dưng. Và ngay lập tức họ nhận ra nhiều mối lợi trên đất nước mình đã bị người anh em ruột thịt chia sẻ trong một cuộc đổi chác không công bằng. Thế là bắt đầu những cuộc tranh chấp các đường biên giới, đã có lúc phải dùng đến xe tăng, đại bác để nói chuyện. «

Rồi quan hệ giữa các nước ngày xưa trong liên bang với « phe đế quốc » xem ra lại mặn mà hơnvới (http://nhattuan2011.blogspot.com/2012/06/chan-dung-hay-chan-tuong-nha-van-ky-52.html) « các đồng chí trong liên bang cũ » :

« Khi Mỹ và NATO muốn đặt căn cứ quân sự trên đất nước họ, nhân danh chống khủng bố họ gật đầu liền đâu biết Mỹ là đối thủ của nước Nga anh em. Yêu Mỹ là tất nhiên vì Mỹ sẽ rót tiền vào những cái két rỗng của họ. Ghét Nga cũng là lẽ đương nhiên vì xưa kia anh bắt nạt tôi, lấn át tôi, xem tôi như chư hầu, như thuộc địa, bây giờ chính là lúc tôi có quyền trả thù. »

Tuy nhiên ông nhà văn Nguyễn Khải lại tỏ ra rất ngây thơ (http://nhattuan2011.blogspot.com/2012/06/chan-dung-hay-chan-tuong-nha-van-ky-52.html) và nông cạn khi nghĩ (http://nhattuan2011.blogspot.com/2012/06/chan-dung-hay-chan-tuong-nha-van-ky-52.html) rằng các nước SNG trong Liên bang xô viết cũ mặc dầu đã « chia tay hoàng hôn » nhưng vẫn (http://nhattuan2011.blogspot.com/2012/06/chan-dung-hay-chan-tuong-nha-van-ky-52.html) còn « tình đồng chí « cũ :

« Lúc giận nhau thì nghĩ nông cạn thế, còn bình tĩnh lại thì giữa các nước cộng hoà trong liên bang Xô Viết (cũ) vẫn có sự ràng buộc tự nhiên và máu thịt trong lịch sử vì họ đã là người một nhà non một thế kỷ, đã cùng nhau sống chết chống hiểm hoạ phát xít để bảo vệ sự tồn tại của Liên bang cũng như của các nước cộng hoà. Lại đã cùng nhau sinh con đẻ cái, đã pha trộn ngôn ngữ, văn hoá và kỷ niệm. Bây giờ mỗi quốc gia vừa được trở lại là chính mình, vừa có phần đóng góp thêm của các nền văn hoá lân cận, bạn bè, giàu có hơn trước, văn minh hơn trước. Rồi họ cũng sẽ sống với nhau như một cồng đồng của khu vực, nhưng lần này là tự nguyện, là do họ tự chọn một hình thức liên minh bình đẳng, dân chủ và hoàn toàn tự do. Bất cứ một thiết chế xã hội nào nhắm tới dân chủ và tự do, xây một xã hội mở, một liên minh mở sẽ có may mắn tồn tại được lâu dài với sự đồng thuận của mọi người và sự hài lòng của mỗi cá nhân ».

Nếu như ông Nguyễn Khải sống đến tận bây giờ để chứng khiến hai người anh em cũ là Nga và Gruzia mang xe tăng đại bác choảng nhau do tranh chấp vùng Nam Ossettia thì hẳn ông không còn có nhận định như trên nữa.

Nguyễn Khải cho rằng chỉ cần sống tới 90 tuổi thì sẽ « rất minh mẫn trong cách đối nhân xử thế, vẫn giữ được tính cách riêng mà không làm mất lòng một ai, từ con cháu trong nhà đến các mối quan hệ ngoài xã hội » sẽ « biết mọi bí mật của then máy tạo hoá » để « sẵn sàng tiếp nhận mọi sự khác lạ như bây giờ, kể cả sự phủ định chính mình… »

Thực ra chẳng chờ tới năm 90 tuổi, ngay từ năm 70 Nguyễn Khải đã nhận ra bao « sự khác lạ » về chủ nghĩa cộng sản, về lý tưởng của chiếc thẻ Đảng mà ông vẫn cất giữ để mà « phủ định chính mình ».

Một điều « khác lạ » mà Nguyễn Khải nhận ra là « quan hệ giữa quần chúng và lãnh tụ ». Trước hết ông « hiểu ra mọi sự rút gọn ở đời đều trái tự nhiên, đều dẫn đến thất bại » để đi đến kết luận mà vào thời Lê Duẩn, Lê Đức Thọ ắt hẳn ông đã bị bỏ tù :

« Mọi phong trào thi đua chả có ích lợi gì trong những việc cần nhiều chăm sóc nhẫn nại, bền bỉ, bắt đầu từ các cá nhân chứ không phải từ các đám đông với những khẩu hiệu, cờ quạt, kèn trống, diễn văn và đáp từ, vỗ tay và tặng hoa. Đám đông không thể đứng mãi dưới nắng để nghe lãnh tụ diễn thuyết. Họ luôn mong đợi được giải tán để về nhà. Con người ở nhà vẫn cũ kỹ nhưng là người thật chứ không phải là sự nhập đồng chốc lát khi đứng trong đám đông. Tôi thật lòng yêu mến, ngưỡng mộ Fidel, một nhà yêu nước kiên cường, một nhân vật đã thuộc về lịch sử của Cuba. Ông là một trí thức lớn, bạn tâm giao của Marquez, nghe nói trong túi lúc nào cũng có một cuốn tiểu thuyết đang đọc dở. Bởi vậy tôi mới lấy làm lạ khi ông buộc dân chúng phải đứng hàng nửa ngày dưới nắng để nghe ông cao đàm khoát luận về đủ mọi vấn đề. Lúc cách mạng mới thành công nói dài thế vì người dân còn đang háo hức với cuộc sống mới và các ngôn từ cách mạng cũng rất mới. Như một cặp tình nhân đang yêu nhau, đang cần nhau, nói với nhau đủ thứ chuyện vớ vẩn nhưng chả ai thấy thời gian là dài. Còn đã thành vợ thành chồng thì chỉ cần nói ít thôi, chỉ nói những việc cần làm thôi, chứ cần gì những thuyết lý dông dài. Mao Trạch Đông cũng thế, ông là một nhà chính trị thông kim bác cổ, quanh nơi ông làm việc và cả nơi ông nghỉ ngơi sách đang đọc xếp từng chồng, nhưng xem ra cũng chả hiểu đồng bào ông bao nhiêu.«

Dám nói lãnh tụ là chẳng hiểu gì dân chúng thì quả liều mạng.

(còn tiếp)

khieman
04-24-2014, 09:24 PM
(tiếp theo)



http://3.bp.blogspot.com/-cT_Z-VpdKcM/T-s0-VNxFuI/AAAAAAAAArc/BObMg2sVzUI/s400/NguyenKhai23.jpg


Đó là viết về lãnh tụ, thế còn « quần chúng nhân dân ».

Xã hội miền Bắc vào những thập kỷ 60 luôn luôn náo động bởi những đợt « học tập chính trị » . Nào « chỉnh huấn mùa xuân…mùa thu… » nào « tình hình nhiệm vụ mới » trong đó Đảng luôn luôn không để cho dân chúng được yên mà thông qua những đợt « vận động « đó để kiểm soát, rèn giũa tư tưởng sao cho toàn xã hội không còn le lói một tia sáng «phản loạn ». Nhận định về thời kỳ đó, Nguyễn Khải viết :

« Người dân ở đâu cũng thế, đều muốn có một cuộc sống bình yên, được tính việc cá nhân và gia đình trong một khoảng thời gian dài, một trăm năm chẳng hạn, không có những thay đổi lớn trong lối sống, trong công ăn việc làm, trong các giá trị, đặt biệt là giá trị của đồng tiền. Chứ cứ phải sống mãi từ năm này qua năm khác trong các phong trào cách mạng, lúc chống tả lúc chống hữu, những hội nghị toàn quốc và địa phương nối nhau không dứt, những hô hào la hét từ trong nhà ra ngoài đường như một lũ hoá rồ, các quan hệ xã hội và các giá trị thay đổi soành soạch thì còn biết đằng nào mà sống... »

Những « phong trào cách mạng », « những hội nghị toàn quốc », « những hô hào la hét ..như một lũ hoá rồ » …chính là những « liệu pháp » kích động cơn lên đồng tập thể của quần chúng để tập trung vào những mục tiêu mà Đảng dẫn dắt toàn xã hội phải chú ý tới. Chính vì vậy không còn « khoảng trời riêng » cho cá nhân, không còn « giây phút tĩnh lặng » để ngắm một bức tranh tĩnh vật. Dường như « âm thanh và cuồng nộ » là đặc trưng cơ bản nhất của một xã hội cộng sản nhất vào thời chiến tranh mà chiến tranh thì kéo dài liên miên khiến trong vòng nửa thế kỷ nó trở thành « vật bất ly thân » của xã hội đó.

Trong suốt cuộc đời Nguyễn Khải, dường như ông viết văn dưới sự cưỡng ép của những quan điểm văn học của Đảng, về cuối đời chưa giải thoát được nó trong sáng tác, thì ông rũ bỏ nó bằng tuyên ngôn . Trước hết ông vạch trần sai lầm của lý thuyết mác xít ảo tưởng « cải tạo con người« :

« Do không hiểu con người cá nhân, hoặc chỉ hiểu theo những phân tích máy móc, nông cạn của chủ nghĩa duy vật cơ giới của thế kỷ 19, nên các nước xã hội chủ nghĩa mới dám đặt ra những mục tiêu huênh hoang nhằm cải tạo con người trong vài thập kỷ nếu môi trường xã hội thay đổi »

Théo Nguyễn Khải, tất cả những thứ « cải tạo » đó là vô bổ, bởi lẽ :

« Về cái thế giới tinh thần của mỗi cá nhân hãy để cho mỗi cá nhân tự lo liệu lấy, nó không thích người khác can thiệp bằng bất cứ cách nào.«

Chính vì quan niệm cần và có thể cải tạo được con người , Đảng đã chất lên vai nhà văn cái danhhiệu « kỹ sư tâm hồn », coi nhà văn như nhà giáo :

« Nên mới gọi nhà văn là “kỹ sư tâm hồn”…Cái mục đích “tải đạo”, “giáo dục” của văn chương không bao giờ lộ liễu, lộ liễu là văn chương tồi.«

Nguyễn Khải cãi lại Đảng bằng những lời thật hào sảng :

« Vả lại chính người viết cũng không có ý định ấy, họ viết bằng tâm sự thành thật của mình, những trải nghiệm đau đớn của mình, họ viết cho họ trước rồi cho độc giả sau, có khi họ cũng chả nghĩ đến những người sẽ đọc họ, viết mà chơi thôi, viết để giải sầu rồi tự mình ngậm ngùi với mình, ứa lệ với riêng mình. Chả trách ai cả, chả giận ai cả, cũng chả lên án một ai. Vì không có vật cản nào nảy sinh trong ta khi đọc nên chữ nghĩa của tác phẩm cứ mặc nhiên trôi vào tận những kẽ ngách trong cái tâm sự u uẩn, những khát vọng thầm kín của riêng ta, đọng lại trong ấy, rồi cứ thẩm thấu dần dần vào cái thế giới tinh thần của ta một cách vô thức, giúp ta nhận ra một vùng sáng mới lạ nào đó, gột rửa một vài thành kiến, thay đổi một vài quan niệm, và ta vẫn nghĩ một cách khoan khoái là chính tự ta đã chủ động thay đổi, tuyệt nhiên không theo lời chỉ bảo của một ai cả, của một học thuyết nào cả, hoặc nhập vào một cách bất chợt một phong trào thời thượng nào cả. Bất cứ cái gì xa lạ với bản tính của mình, với thói quen của mình, nói một câu, với những gì làm nên lai lịch của mình, chả sớm thì muộn đều bị đào thải để mình lại được trở về với cái nguyên gốc. .. «

Than ôi, lẽ ra trong sáng tác, Nguyễn Khải « tuyệt nhiên không theo lời chỉ bảo của một ai cả, của một học thuyết nào cả, hoặc nhập vào một cách bất chợt một phong trào thời thượng nào cả » như ông đang tuyên ngôn – tiếc thay mọi việc đã diễn ra theo chiều ngược lại, ông đã tự cầm tù trong dòng « văn chương phải đạo », viết ra hàng loạt, hàng loạt những tiểu thuyết truyện ngắn mà bây giờ chế độ cộng sản tuy còn đó mà văn chương xu phụ nó đã bị quăng vào sọt rác của lịch sử. Lẽ ra bằng tài năng, ông có thể viết ra một thứ văn chương để đời :

« Văn chương do con người làm ra để trao tặng cho con người một cách tự do nhất, ít bị ép buộc nhất. Chỉ có văn chương mới tôn trọng mọi giá trị của cá nhân, tôn trọng mọi lựa chọn của cá nhân kể cả những thành kiến phi lý của họ. Họ có quyền yêu mình hoặc ghét mình , tôn vinh mình hoặc nguyền rủa mình, chả sao cả. Người viết cứ viết người ghét cứ ghét kể cả cái quyền ném sách vào lửa. «

Đó là thứ văn chương « tôn trọng mọi giá trị của cá nhân » chứ không phải thứ văn chương « phục vụ chính trị », « phục vụ kịp thời » như Nguyễn Khải đã để lại cho người đời sau. Và cuối đời nhìn lại, so sánh với các nhà văn trong « thế giới tự do », Nguyễn Khải đã thấy xót xa trong lòng :

« Năm đất nước mới thống nhất vào Sài Gòn được gặp gỡ các nhà văn nhà báo, các nghệ sĩ của chế độ cũ mà thèm. Họ sống thoải mái quá, nói năng hoạt bát, cử chỉ khoáng đạt, như chưa từng biết sợ ai. Còn mình thì đủ thứ sợ, sợ gặp người thân vì chưa rõ họ có liên quan gì với Mỹ nguỵ? Nói cũng sợ vì nói thế là đúng hay sai? Đến vẻ mặt của mình cũng phải canh chừng, vui quá sợ mất cảnh giác, khen quá có thể đã ăn phải bả của nền kinh tế tư bản. Người lúc nào cũng căng cứng, nói năng gióng một nên bị bà con trong này chê là quê, nhà văn nhà báo gì mà “quê một cục” (…). Tôi còn sợ rồi sẽ có ngày lịch sử sẽ trừng phạt mình vì cái tội muốn khôn hơn lịch sử, muốn đánh lừa lịch sử! »

Tiếc thay , lời « phản tỉnh » này được nói ra ngay tại Sàigòn vào tháng 4 năm 1975 thì sự hoà hợp giữa các nhà văn của hai miền đã thành tựu được một bước khá dài. Cái thân phận « nhà văn cách mạng » được Nguyễn Khải nhớ lại nghĩ thật là thảm :

« Trong nửa thế kỷ sống dưới sự lãnh đạo của một Đảng theo học thuyết Mác Lê, tôi luôn luôn được nhắc nhở phải tôn trọng quần chúng, sức mạnh của quần chúng có thể thay đổi dòng chảy của lịch sử và số phận của nhiều cá nhân(…). Một xã hội có hàng triệu cá nhân không được đếm xỉa, không được tôn trọng nhưng một nhúm cá nhân lại được tôn vinh hết mức và được được hoàn toàn thoả mãn trong mọi nhu cầu là cái xã hội gì đây, là xã hội kiểu mẫu cho nhân loài tương lai ư?! Nói miệng mấy chuyện kỳ cục này đã khó nghe, lại còn viết thành văn mà các nhà văn không thấy ngượng sao? Ngượng thì vẫn ngượng nhưng chả lẻ lại gác bút, gác bút thì nuôi vợ con bằng gì? Nghĩ tới miếng ăn lại phải quên hết để sự bán mình cho quyền lực được hoàn toàn.«

Nhưng « bút ký chính trị » của Nguyễn Khải còn đi xa hơn chuyện văn chương.

(còn tiếp)

khieman
04-24-2014, 09:28 PM
( tiếp theo )




http://3.bp.blogspot.com/-0Z3tTB80yy0/T-7Da3GFnjI/AAAAAAAAAtM/jxbEMyzT8bo/s400/NguyenKhai24.jpg

Nhà văn Nguyễn Khải và nhà báo Nguyễn thị Ngọc Hải

Có thể nói không ngoa Nguyễn Khải là nhà văn Việt Nam đầu tiên lôi chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam ra pháp trường lần lượt nhằm bắn vào những yếu huyệt . Một mặt cái chủ nghĩa này chủ trương « đấu tranh giữa các mặt đối lập là động cơ của tiến hoá « mặt khác trong « nội bộ Đảng » họ lại hạ xuống một cấp , không còn là « đấu tranh giữa các mặt đối lập nữa » mà chỉ còn là … »phê bình và tự phê bình ».

Nguyễn Khải thẳng thắn vạch ra cái trò « phê và tự phê » đó là giả dối, vô tích sự :

« Các đảng cộng sản đều coi phê bình và tự phê bình là cách giải quyết mâu thuẫn nội bộ hữu hiệu nhất. Sự vật vận động sẽ sinh mâu thuẫn, giải quyết được mâu thuẫn sự vật mới có cơ hội phát triển, tiến lên. Phủ định và phủ định của phủ định, nghe vừa khoa học vừa huyền bí, như câu thần chú: “Vừng ơi, mở cửa ra!”, cứ đọc to lên là cánh cửa vào tương lai sẽ mở toang.(…). Nếu tin vào câu thần chú ấy thì Mao Trạch Đông đã không bày ra tấn tuồng “cách mạng văn hoá” để tiêu diệt mọi kẻ dám can ngăn những chủ trương đầy tính phiêu lưu của ông. Ấy là nói về những người nắm quyền lực cao nhất, còn những người nắm những cơ quan quyền lực thấp hơn cũng chả bao giờ họ tin vào cái phương pháp lãng mạn đó cả. Trong các cấp uỷ họ vẫn tự phê bình và phê bình nhau một cách sốt sắng giả dối. … »

Chính vì toàn thể cán bộ đảng viên cho tới nay vẫn đồng lòng và được phép diễn cái trò dối trá này nên cái xấu không hề bị tiêu diệt và cái ác ngày càng nảy sinh :

« Và ai nấy đều tự bằng lòng hơn sau những lễ xưng tội giải tội hết sức vui vẻ này. Và mọi thói xấu, kể cả tội ác nữa, vẫn nghiễm nhiên tồn tại như trước đây, vẫn là những vùng cấm chỉ những kẻ quá chán đời mới dám đơn độc xông vào (…). Đó là một màn diễn khổng lồ, rất tốn kém, chả đem lại bất cứ kết quả nào. Vì chỉ là diễn thôi, người cũ kẻ mới đều vào vai rất thành thạo. Rút cuộc kẻ có tội vẫn ngày càng hung hãn, càng tự tin, còn người tố tội càng lúc càng dè dặt, hãi sợ. Kỳ quái nhỉ? »

Bởi lẽ định nghĩa con người là « tổng hoà các mối quan hệ xã hội » nên những người cộng sản bỏ qua cái phần sâu thẳm, cái phần mù mờ, « những tiếng thì thầm rất nhỏ mỗi đêm trong chính mình » :

« Con người có 2 mắt đều hướng ra cái thế giới vật chất bên ngoài, không có con mắt nào hướng vào trong để ngắm nghía, kiểm soát cái thế giới tinh thần của nó nên nó bị mù một nửa, cũng như nó không có cái tai bên trong nên không thể nghe được những tiếng thì thầm rất nhỏ mỗi đêm trong chính mình. Hai cái khuyết tật bẩm sinh ấy đã làm con người thiếu hoàn chỉnh, là nguyên do mọi đổ vỡ của nhiều danh nhân dũng tướng vào những năm cuối đời. Nhưng cũng có một số ít người có khả năng nhìn được sự vận động cả trong lẫn ngoài, nghe được những tiếng động rất nhỏ cả ngoài lẫn trong. Họ không có cấu tạo vật chất đặc biệt nào mà chỉ bằng cái năng lực tinh thần rất mạnh đã bù đắp được những khiếm khuyết bẩm sinh. «

Mất cái khả năng « lắng nghe chính mình » hoặc không được phép thăm dò vào những vùng cấm đó, ngay đến các lãnh tụ cộng sản khi viết hồi ký cũng chỉ toàn một màu anh hùng :

« Nhiều tập hồi ký của các danh nhân cả chính trị lẫn văn hoá đều thiếu cái phần còn nhày nhụa của họ, cái phần thú vật của con người nơi sản sinh ra những tội ác chưa hình thành, cái què quặt, cái buồn cười đã được kiềm chế đúng lúc, đã được giấu nhẹm, cái phần họ muốn quên đi và rất dễ trở thành lang sói với đồng loại nếu trong đồng chí, đồng nghiệp còn có người biết đến và nhớ tới. Cuộc chiến đấu lớn, có tính bi kịch giữa mình với mình bao giờ cũng hoành tráng, cũng đẹp, rực rỡ những màu sắc đối nghịch vì nó đã bộc lộ đầy đủ nhất cái phẩm chất LÀM NGƯỜI trong mỗi CON NGƯỜI. Không phải bất cứ ai cũng tạo ra được trận chiến thần thánh ấy, vì chiến trường ở ngay trong lòng mình, mình vừa là kẻ thách đấu vừa là kẻ dám nhận đấu, dẫu thua cũng là cái thua của thần thánh. Một công việc trang trọng đến thế, hùng tráng đến thế mà lại dám nghĩ là công việc của số đông, của những người chưa hề chuẩn bị một cái nhìn bên trong, một cái nghe bên trong cho riêng mình, cả đời họ sống trong tự mãn, trong u mê, bất thần mời gọi hãy nhìn lại mình, hãy nhìn lại người để có được những phán xét và điều chỉnh chuẩn xác! (…). »

Mất cải khả năng ‘tự vấn », mất cái khả năng « tự nhận thức », « tự tra vấn mình », các lãnh tụ cộng sản chỉ còn tìm tới những cái gây thích thú ở nơi đám đống. Đó là những cái mà Nguyễn Khải vạch ra sơ sơ đã thấy hãi hùng :

« Không có mùi vị của thuốc súng, của máu người và những tiếng la hét cuồng nộ của đám đông thì người cầm quyền biết thở bằng gì! »

Vậy chẳng hóa ra những người cầm quyền là những con thú say máu hít thở bằng tiếng « cuồng nộ của đám quần chúng » và bằng máu người. Nguyễn Khải quả thực đã rất « nhà văn » khi đi tới cùng việc vạch trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa của những người thành thạo thích kích động quần chúng để được nghe tiếng la hét cuồng nộ của đám đông.

Thoát khỏi vòng kim cô của Đảng bắt ne bắt nét nhà văn phải viết thế này phải viết thế kia, Nguyễn Khải định vị lại cho chỗ đứng và bản chất của văn chương :

»Tập thể không làm ra văn chương vì nó không có cảm nghĩ riêng, tâm sự riêng, tính cách riêng. Nó là vô danh. Một tâm sự mãn nguyện, những tiếng cười hoan lạc, một kiếp người quá đầy đủ cũng không thể có chỗ đứng trong văn chương. Vì văn chương bao giờ cũng thuộc về những tiếng kêu của con người để đòi lại những gì còn thiếu: thiếu tự do, thiếu công bằng, thiếu hạnh phúc… »

Vậy là văn chương tuyệt nhiên không thể là tiếng kèn xung trận các nhà văn thổi lên thật to để giúp Đảng đốc thúc , cưỡng ép hàng triệu, hàng triệu con người đi vào chiến tranh giành giật quyền thống trị trên cả nước . Ngược lại, văn chương phải là « những tiếng kêu than của con người ».

Thực sự, Nguyễn Khải đã điểm đúng huyệt :

« Đời người là bể khổ, những khao khát về tinh thần của con người là vô cùng nên mới cần có văn chương và nghệ thuật để bù lại. Còn mọi thứ đều được biết, đều đầy đủ, đều mãn nguyện thì tôn giáo không còn, triết học không còn, và tất nhiên văn chương cũng không thể còn. Nó sẽ chết vì bị ngạt, vì không còn những khoảng trống huyền bí để suy nghĩ, để mơ mộng và để thở. Những gì mà chủ nghĩa cộng sản hứa sẽ thành hiện thực trong tương lai thì cái hiện thực ấy sẽ giết chết cả loài người. Vì thượng đế đâu cần những con dòi béo quay lúc nhúc dưới chân Ngài. «

Khi hứa hẹn một xã hội « làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu », một xã hội « thiên đàng » thì họ đâu có biết họ đã giết chết con người .

« Cũng may đó chỉ là những lời nói dối, tự dối mình và dối người của những con người đã phải sống nhiều trăm năm trong cùng khổ, trong tuyệt vọng. Còn hướng tới thiên đàng ư ? Là thiên đàng trần gian hay thiên đàng thượng giới cũng không một ai có thể sống nổi. Sống không lo nghĩ, không mong muốn, không đấu tranh là kiếp sống con dòi rồi. Chả lẽ những con dòi cũng có thể cất cao những cái đầu múp míp của chúng để làm ra triết học và thơ ca! »

Vậy thì cái « thiên đàng vẫy gọi « kia chỉ đáng giành cho đám giòi bọ. Một sự « tỉnh thức vĩ đại » của Nguyễn Khải không chỉ bằng sách vở, tư biện mà chính là ông đã « nghiệm sinh » trong đời sống :

« Những điều viết trên đây không do tôi tưởng tượng ra mà do những trải nghiệm bản thân mà có. Những năm còn trẻ cả vợ lẫn chồng đều ăn lương quân đội, lại phải nuôi dưỡng những bốn đứa con, nhà ở ven bãi sông năm nào cũng phải chạy lụt, lại quá chật có 15 mét vuông. Ăn thì mì hai phần gạo một phần, gạo phải nhặt sạn cả buổi mới dám nấu thành cơm.

Còn thức ăn ư? Chả nói nữa ai cũng ăn như thế, ăn dưa ăn mắm suốt mấy chục năm đã hoá quen. Cả nhà chỉ có hai cái giường, một cái bàn, hai cái ghế, tiếp khách ở đấy, mời cơm khách ở đấy, con học bài cũng ở đấy, và ông bố viết văn cũng chỉ có cái bàn ấy. Đêm đêm nằm cạnh hai thằng con trai lớn đạp ngang, quẫy dọc, rắm đánh thối um, vừa quạt cho hai thằng con ngủ tôi vừa mơ mộng đến một ngày nào đó, các con đã trưởng thành, tôi có được một phòng riêng để viết và tiếp bạn, mỗi bữa cơm đều có cá hoặc thịt, có cả chút rượu nữa càng hay.

Tôi không phải lo nuôi con, không phải lo cả trăm thứ vặt vãnh để tồn tại, chỉ có đọc sách, ngẫm nghĩ, đi chơi đây đó với bạn bè và viết, ắt hẳn tôi sẽ viết được một hai cuốn sách để đời. Bây giờ tôi đã ngoài bảy chục tuổi, đã có đầy đủ những gì tôi khao khát, có thể nói còn hơn cả khao khát. Tôi đã sống đầy đủ, sang trọng nữa, hơn nhiều nhà văn tôi được biết ở các nước Đông Âu. Và tôi đã nghĩ nếu chủ nghĩa cộng sản thành công ở Việt Nam thì cũng chỉ cho được tôi đến thế. Khốn nỗi, lúc này tôi đâu còn năng lực làm việc bằng trí tuệ nữa mà cũng chả có nhu cầu nào phải đòi hỏi. Cuộc sống được vỗ béo của một kẻ ăn không ngồi rồi đã giết chết mọi tư tưởng ở trong tôi, rồi giết luôn đến đội quân chữ nghĩa, chúng đã hoá ra rỗng tuếch, vô hồn. Nhà văn mà hết chữ thì chỉ là cái xác chết. Xác chết con người với xác chết con dòi có gì là khác mà phải phân biệt ! »

Đó thực sự là những sám hối chân thực , dũng cảm và đanh thép.

(còn một kỳ cuối)

khieman
04-24-2014, 09:32 PM
(tiếp theo và hết )




http://4.bp.blogspot.com/-i8gMqOOghD0/T_BIs1GwBkI/AAAAAAAAAtk/sbClijE1ZiE/s320/NguyenKhai25.jpg (http://4.bp.blogspot.com/-i8gMqOOghD0/T_BIs1GwBkI/AAAAAAAAAtk/sbClijE1ZiE/s320/NguyenKhai25.jpg)


Sau khi sổ toẹt bằng hết những luận điểm cơ bản của Mác- Leênin , Nguyễn Khải nhìn thẳng vào nhưng vấn đề cốt lõi, những vấn nạn hàng đâu của xã hội Việt Nam. Ngòi bút của ông như lưỡi dao sắc bén mổ phanh những ung nhọt mà cả bộ máy tuyên truyền của đảng ra sức bưng bít.

Đại thắng mùa Xuân được ra rả tụng ca trong suốt 30 năm bằng những ngôn từ sáo rỗng được Nguyễn Khải đặt câu hỏi sinh tử : bằng những hy sinh mất mát của cả triệu con người , nó mang gì tới cho dân tộc . Và ông huỵch toẹt :

“Một nửa nước đã được độc lập nhưng lòng người tan nát vì tài sản một đời chắt chiu của họ đã bị nhà nước tịch thu hoặc trưng thu khiến họ trở thành những người vô sản bất đắc dĩ. “

Lòng người tan nát không chỉ vì tài sản một đời đã bị tịch thu mà còn vì những chịu đựng mất mát khác khó nói cho hết thành lời. Riêng với giới trí thức thì :

“Tầng lớp trí thức chả có tài sản gì ngoài cái đầu được tư duy tự do, thì cái đầu cũng bị nhà nước trưng thu luôn, vì từ nay họ chỉ được nghĩ được viết theo sự chỉ dẫn của một học thuyết, của một đường lối nếu họ không muốn giẫm vào vết chân của nhóm “Nhân Văn Giai Phẩm”. “

Nhìn lại tình cảnh dân tộc sau ngày thống nhất hai miền Nam Bắc, ông nhà văn thẳng thừng :

“ Một dân tộc đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ mà mặt người dân nám đen, mắt nhìn ngơ ngác, đi đứng long rom như một kẻ bại trận. Quả thật dân tộc Việt Nam đã thắng lớn trong phong trào chiến tranh giải nhưng lại thua đậm trong công cuộc xây dựng một xã hội tự do và dân chủ…”

Vì sao, vì sao dân tộc lại đâm đầu vào thảm trạng đó, Nguyễn Khải đã phải kêu lên đau đớn :

“ Thoát ách nô lệ của thực dân lại tự nguyện tròng vào cổ cái ách của một học thuyết đã mất hết sức sống. Dân mình sao lại phải chịu một số phận nghiệt ngã đến vậy!”

Tuy nhiên, vì sao “cái ách của một học thuyết đã mất hết sức sống” tròng vào cổ dân ta lâu đến như vậy, lâu cho tới tận bây giờ và chưa biết bao giờ mới chấm dứt và trách nhiệm về những ai thì Nguyễn Khải chưa trả lời được , ông chỉ nhắc nhở giới nhà văn :

“ Một xã hội tan nát, lòng người chĩu nặng những phiền muộn ưu tư, mà là những người đã hết lòng hết sức với kháng chiến bằng cách này hay cách khác. Vậy nhà văn phải viết như thế nào, phải viết cái gì để tạo được một hiện thực tràn đầy hy vọng như các nhà lãnh đạo cách mạng yêu cầu.”

Đó là một công việc bất khả, nếu nhà văn không thét lên được những âm thanh cuồng nộ thì dù có thốt lên những tụng ca trơ trẽn, vô liêm sỉ như lãnh đạo yêu cầu, thì chúng cũng bị mau chóng sổ toẹt bằng sự thờ ơ của công chúng.

Về trách nhiệm nhà văn, Nguyễn Khải đau đớn sám hối “

“ Về già tôi mới nhận ra nhà văn phải nghe theo tiếng gọi của tình cảm, của trái tim, của cái phần thiện lương trong con người mình. Nó đã bảo sai là sai, không có thứ lý luận nào chống đỡ nổi. Vả lại văn chương bao giờ cũng đồng cảm với nỗi đau của con người, những bất hạnh của con người. Chưa bao giờ vì sự mãn nguyện, sự thành công của con người mà cất lên tiếng hát ca ngợi cả. Ở các thể loại nghệ thuật ngôn từ con người phải chống chọi với mọi cảnh ngộ trái ngược chiếm gần hết các trang viết, các màn diễn, còn khi người nghèo đã thành giầu, người hèn được bước vào thế giới phú quý, trai gái phải chịu nhiều năm chia lìa tới lúc tái hợp là cuốn sách, vở diễn phải chấm hết ngay. Nó đã kết thúc cái phần nghệ thuật để bắt đầu sang phần tụng ca là cái thế giới của mãn nguyện của buồn chán, là cái phần phi nghệ thuật. “

Như vậy, văn chương chỉ có thể là tiếng nói khốn khó, uất hận trước mọi trà đạp lên con người, là những giọt nước mắt rơi trên những số phận bi thảm chứ không phải là sự reo vui, hồ hởi . Cố tình bỏ qua những đặc tính cốt lõi, những đặc điểm bản thể của văn chương, người cộng sản lại dùng nó như tiếng kèn thúc trận :

“ Nhưng người lãnh đạo lại chỉ thích cái phần không phải là nghệ thuật, tặng giải thưởng, trao huân chương cho các tác giả chỉ để tưởng thưởng cái phần nhạt nhẽo vô vị ấy mà thôi. Cái cách cảm nhận hiện thực đầy tính lãng mạn ấy đã làm lệch lạc cách xem xét, cách ứng xử của nhiều thế hệ bạn đọc, nhất là bạn đọc ở tuổi mới trưởng thành, trước những biến hoá muôn mặt của cuộc sống. Họ chỉ có mỗi khả năng làm người phê bình văn học theo đường lối chính trị chính thống, tại sao cuộc sống đẹp như thế mà nhà văn lại miêu tả nó xấu đến thế. Làm sao dám cãi, hãy để cho những trải nghiệm của chính họ qua năm tháng sẽ âm thầm biện hộ giúp mình thôi.”

Nguyễn Khải phát hiện ra một kẻ phá hoại giấu mặt trong xã hội : ngôn từ :

“Một xã hội không tự hiểu mình, mỗi cá nhân cũng không tự hiểu mình, vàng thau, phải trái, cao quí ti tiện lẫn lộn, các giá trị lẫn lộn bắt đầu từ sự không chuẩn xác của ngôn từ. Câu mở đầu kinh thánh Cựu ước “ Thoạt Tiên Là Ngôn Ngữ…” (Au conmmencement était le Verbe).

Nhưng ngôn ngữ trong xã hội ta hiện nay thật đáng kinh hoàng , nó được dùng như phương tiện để che đậy, dối trá :

“Vậy mà ngôn từ lại là cái mặt yếu nhất trong các lãnh vực thuộc thượng tầng kiến trúc ở các nước xã hội chủ nghĩa. Công dân của các nước ấy dùng ngôn từ để che đậy chứ không nhằm giao tiếp, hoặc giao tiếp bằng cách che đậy, “ nói vậy mà không phải vậy”! Nó là cái vỏ cứng để bảo vệ mọi sự bất trắc, chống lại thói quen hay xét nét lời ăn tiếng nói của công dân của mọi chính quyền chuyên chế. “

Cái bệnh “xảo ngôn”, tiếc thay lại rõ rệt nhất, nặng nề nhất ở cấp lãnh đạo :

“Cái cách tự bảo vệ ấy lại càng rõ rệt ở cấp lãnh đạo và các viên chức nhà nước làm việc ở các cơ quan quyền lực. Họ nói bằng thứ ngôn ngữ khô cứng đã mất hết sinh khí, một thứ ngôn ngữ chết, ngôn ngữ “gỗ”, nói cả buổi mà người nghe vẫn không thể nhặt ra một chút thông tin mới nào. Các buổi trả lời phỏng vấn báo chí, diễn văn tại các buổi lễ kỷ niệm, báo cáo của Đảng, của chính phủ, của quốc hội, tất cả đều dùng các từ rất mơ hồ, ít cá tính và ít trách nhiệm nhất. Người cầm quyền cấp cao nhất và cấp thấp nhất đều biết cách nói mơ hồ, càng nói mơ hồ càng được đánh giá là chín chắn. Và nói dối, nói dối hiển nhiên, không cần che đậy.”

Những kẻ nói dối không cần che đậy phần lớn lại là những kẻ dân gian đã tổng kết “ trông mặt, tắt tivi” :

“ Vẫn biết rằng nói dối như thế sẽ không thay đổi được gì vì không một ai tin nhưng vẫn cứ nói. Nói đủ thứ chuyện, nói về dân chủ và tự do, về tập trung và dân chủ, về nhân dân là người chủ của đất nước còn người cầm quyền chỉ là nô bộc của nhân dân. Rồi nói về cần, kiện liêm chính, về chí công vô tư, về lý tưởng và cả quyết tâm đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Nói dối lem lém, nói dối lì lợm, nói không biết xấu hổ, không biết run sợ vì người nghe không có thói quen hỏi lại, không có thói quen lưu giữ các lời giải thích và lời hứa để kiểm tra. “

Những kẻ nói dối biết là mình nói dối không hề thấy xấu hổi, bởi lẽ họ thừa biết :

“ Hoặc giả hỏi lại và kiểm tra là không được phép, là tối kỵ, dễ gặp tai hoạ nên không hỏi gì cũng là một phép giữ mình. Người nói nói trong cái trống không, người nghe tuy có mặt đấy nhưng cũng chỉ nghe có những tiếng vang của cái trống không. Nói để giao tiếp đã trở thành nói để không giao tiếp gì hết, nói để mà nói, chả lẽ làm người lại không nói. “

Thật ra như trong cái trò “vua cởi truồng” , cả hoàng đế và dân đen đều hiểu cả nhưng dao kề cổ nên vẫn phải “diễn” :

“ Thật ra nói thế mà vẫn hiểu nhau cả. Người cầm quyền thì biết là nhân dân đang rất bất bình về nhiều chuyện, nhân dân thì biết người cầm quyền đang nói dối, nhìn vào thực tiễn là biết ngay họ đang nói dối. Nhưng hãy mặc họ với những lời lẽ dối trá của họ, còn mình là dân chảnên hỏi lại [rằng] nói thế là thật hay không thật. Mình cứ làm theo ý mình và mình cũng sẽ nói dối, nói che đậy nếu như có dịp được người cầm quyền hỏi.”

Chính vì những nhu cầu chính trị của đảng, tài sản tinh thần của dân tộc cứ ngày càng mai một:

“ Cái thời mở nước, giữ nước chỉ còn lưu lại những cột mốc của các chiến công, còn cuộc chiến thầm lặng đã làm tan nát nhiều con người để con người được là chính mình, được là một thực thể thiêng liêng, đền đài lưu giữ muôn thuở cái tài sản tinh thần của một dân tộc, một dòng họ mãi mãi được vun xới, được phát triển tương ứng với sự phát triển của dân tộc, của thời đại thì chưa được văn thơ nói đến, triết học nói đến, các ngành khoa học nhân văn nói đến.”

Tuy nhiên, Nguyễn Khải vẫn kỳ vọng :

“ Dầu không nói đến, không được phép nói đến thì cái dòng chảy vĩnh cửu ấy vẫn được nhiều triệu người âm thầm khai thông, bồi đắp để các nhân tài Việt Nam không ngừng xuất hiện lúc ở lãnh vực này, lúc ở lãnh vực khác.”

Và ông cảnh báo :

“ Một đất nước không có những cá nhân kiệt xuất, tài ba làm chân dung đại diện trong cộng đồng nhân loại thì đó là một bất hạnh cho dân tộc, tạo ra một khoảng trống tiếp nối trong lịch sử sinh tồn của mỗi cá nhân. Rồi các thế hệ đến sau phải nối lại bằng cách nào vì vẫn phải bắt đầu từ môi trường chính trị, xã hội, từ một xã hội vừa truyền thống vừa văn minh, những mục tiêu nhắm tới vừa là phát triển cái riêng biệt, vừa là sự hòa nhập vào nền văn minh của khu vực và thế giới. “

Quả thực nhìn vào sự tiếp nối các thế hệ cầm bút, người ta không khỏi lo ngại về sự ngày càng khô kiệt những tài năng. Và Nguyễn Khải vạch mặt thủ phạm đích danh của bi kịch đó chính là : quyền lực toàn trị.

“Một nền văn minh riêng lẻ, với những mục tiêu hoang tưởng, một môi trường xã hội ngột ngạt vì cái bóng quyền lực phủ lên tất cả, quyết định tất cả thì số phận những cá nhân sẽ ra sao?

Kết thúc tùy bút chính trị “Đi tìm cái tôi đã mất”, Nguyễn Khải không đưa ra được tiên trị, dự báo nào về sự sụp đổ của quyền lực toàn trị , ông chỉ răn đe và cảnh báo :

“ Một chế độ độc tài khi phải đối mặt với những biến động lớn thường rễ bị nứt rạn, từ nứt rạn đến tiêu vong, thời gian diễn ra rất nhanh vì nó chỉ có trụ đỡ là quyền lực của một phe đảng, không có trụ đỡ về tinh thần của cả dân tộc. Một chế độ chính trị tồn tại tới non một thế kỷ hay một nửa thế kỷ cũng là lâu lắm, đã tạo ra mấy thế hệ ăn chung ở chung với nó, sinh con đẻ cái với nó mà khi nó chết không ai nhỏ được một giọt nước mắt, có người còn nhẫn tâm đạp lên cái vừa chết đó rồi mới tiếp tục bước đi, đủ biết người ta đã xem nó như vật bất tường, là quái thai, là tai hoạ, thời thế đã bất thần xoá bỏ nó một cách êm dịu, không phải tốn đến máu cũng là một may mắn phi thường. Có thể kết luận, một chế độ chính trị được xem là văn minh hay lạc hậu, là sẽ tồn tại lâu dài hay chỉ có mặt trong khoảng khắc của lịch sử là tuỳ thuộc vào cương lĩnh chính trị của Đảng cầm quyền có thật sự tôn trọng những quyền của con người hay không, các cá nhân với những khác biệt, những phản ứng, những bất tuân của nó có được đặt ở vị trí trang trọng trong hiến pháp hay không? “

Với lời Nguyễn Khải đã hẹn tôi năm 1978 “tao sẽ vót nhọn gươm đâm một cú cuối cùng”, thì quả thực Nguyễn Khải đã vung một đường gươm xuất sắc . Tiếc thay ông thực hiện vào lúc ..đã muộn. Vào năm 2006 khi ông viết xong tùy bút chính trị này, những vấn đề của chủ nghĩa Mác, những lý thuyết chủ nghĩa cộng sản đã không còn là những bức xúc xã hội nữa, ngoài một vài nhà hoạt động dân chủ còn bàn tới “ dân chủ và tập trung”, tới “ vô sản chuyên chính”, tới “đấu tranh giai cấp”, hầu như đại đa số bàn dân thiên hạ , kể cả giới trí thức chẳng còn tâm thế đâu đoái hoài tới nó. Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã sụp đổ từ lâu, chủ nghĩa cộng sản đã bị cộng đồng châu Âu đặt ra ngoài vòng pháp luật, những lý thuyết của nó hiển nhiên đã bị lãng quên. Bởi vậy khi xuất hiện, bút ký của Nguyễn khải cũng chỉ được một bộ phận trí thức tìm đọc, cũng chỉ gây nên một luồng dư luận thoáng chốc rồi tan nhanh trong những vấn đề nóng bỏng khác của dân tộc và đất nước.

Lời than vãn của Nguyễn Khải có tính cách tiên tri :” Thôi chết, tung tóe mẹ nó hết rồi Tuấn ạ…”, ngày nay những truyện ngắn, ký sự, tiểu thuyết của ông chỉ còn lại trong thư viện và trong các giáo trình của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Vậy nhưng Nguyễn Khải vẫn là nhà văn được yêu mến trong lòng bạn đọc. Bằng lương tri nhà văn, lương tâm người cầm bút, cuối đời ông đã nhận ra bi kịch của đời ông và đã viết một tác phẩm cuối cùng, chỉ tiếc nó không phải là sáng tác văn học mà là tùy bút, một tùy bút chính trị…

N.T.
6/2012

khieman
06-03-2014, 03:19 PM
.

NGUYỄN HUY TƯỞNG
KỲ 1



http://hanoimoi.com.vn/Uploads/anhthu/2013/4/2/PS-2-4-anh-Nguyen-HUy-Tuong.jpg (http://hanoimoi.com.vn/Uploads/anhthu/2013/4/2/PS-2-4-anh-Nguyen-HUy-Tuong.jpg)


NGUYỄN HUY TƯỞNG
“Sống mãi với…Hội Nhà văn”



Hoạ chân dung Nguyễn HuyTưởng , nhà thơ Xuân Sách hạ mấy câu :

“ Anh chẳng còn Sống mãi
Với Thủ đô – Luỹ hoa
Để Những người ở lại
Bốn năm sau khóc oà…”

Những tác phẩm tiêu biểu củaNguyễn Huy Tưởng viết sau cách mạng nếu kiên nhẫn đọc cho hết, tuy không “khóc oà “ thì cũng…sụt sịt.

Trên bầu trời văn học của Đảng, Nguyễn Huy Tưởng được coi là vì sao sáng, trên chiếu văn của nước Cộng hoà XHCN VN, Nguyễn Huy Tưởng ngồi dãy đầu, trên cả Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi…chỉ dưới có Trường Chinh và Tố Hữu.

Ông quê ngoại thành Hà Nội,sinh 1912, xuất thân nhà nho, 30 tuổi mới viết được Đêm hội Long Trì - tiểuthuyết “feuilleton” ( đăng báo nhiều kỳ) ( 1942-43 ), Vũ Như Tô, kịch lịch sử “feuilleton”( 1943-44), An Tư , tiểu thuyết cũng “feuilleton” ( 1944-45).

“Đêm hội Long Trì” xoay quanh tội ác Đặng Mậu Lân, em trai Đặng thị Huệ , vợ yêu của chúa TrịnhSâm. Chúa có con gái yêu là Quỳnh Hoa cũng phải ép gả cho tên dâm tặc này khiến quận chúa buồn phiền mà chết. Nguyễn Huy Tưởng “ hư cấu “ ra một viên tướng tài là Nguyễn Mại vào tận phủ giết Đặng Mậu Lân và được chúa chẳng những tha bổng mà còn khen thưởng trong tiếng hoan hô của nhân dân. “Đêm hộiLong Trì” thực ra là truyện dã sử, viết vội đăng theo kỳ báo, thiếu hẳn tầm khái quát để thành tiểu thuyết lịch sử có giá trị văn chương.

Kịch lịch sử Vũ Như Tô còn có chất tư tưởng hơn. Kiến trúc sư Vũ Như Tô bị tên hôn quân Lê Tương Dực bắt vào cung ép xây “Cửu trung đài” cho hắn cùng lũ cung nhân vui chơi. Thoạt đầu Vũ Như Tô khước từ vì không muốn mang nghệ thuật phục vụ bạo chúa. Thế rồi Vũ Như Tô gặp nàng cung nữ Đan Thiềm, nàng xui rằng:

“ Đây là lúc ông nên mượn tay vua mà thực hành mộng lớn của ông. Vua và đám cung nứ kia sẽ mất đi nhưng tác phẩm của ông sẽ còn lại đến muôn đời. Dân ta nghìn thu được hãnh diện. Hậu thế sẽ xét công cho ông và nhớ ơn ông mãi mãi…”.

Nghe lời ĐanThiềm, Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài với niềm say mê nghệ thuật không kể đến bao nhiêu đau thương chết chóc của hàng vạn con người. Rồi nhân dân nổi lên trừng trị hôn quân, đốt cháy Cửu Trùng đài đẩy Vũ Như Tô vào cơn mê hoảng:

” Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm ! Ôi Cửu trùng đài…”.

Bi kịch của Vũ Như Tô thực ra chỉ là bi kịch của một kiến trúc sư muốn mượn tay bạo chúa xây công trình nghệ thuật lưu hậu thế, lấy cứu cánh là “cái đẹp” biện minh cho phương tiện“dã man”. Bởi thế hình tượng Vũ Như Tô chỉ là một “ca đặc biệt” của người kiến trúc sư chứ chưa khái quát được thân phận người nghệ sĩ khao khát sáng tạo trong một xã hội hà khắc, tự do bị bóp nghẹt ; giá trị nghệ thuật của kịch Vũ Như Tô chính vì thế hạn chế.

Tiểu thuyết lịch sử AnTư lại mở ra một không gian rộng hơn. Đó là thời vua Trần Thiệu Bảo , quân Nguyên sang cướp nước ta. Cuốn truyện đề cập tới hầu hết các nhân vật lịch sử : Hưng đạo vương Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão, Trần Quang Khải, Trần QuốcToản …các sự kiện lịch sử như Hội nghị Diên Hồng, trận chiến trên sông Bạch Đằng…về phía quân Nguyên thì có Thoát Hoan, Toa Đô, Ô Mã Nhi…và hai nhân vật chính là công chúa An Tư và tướng Chiêu Minh Vương Trần Thông. Hai người này vốn yêu nhau và đã đính hôn nhưng Thoát Hoan mang 50 vạn sinh mạng tù binh để đánh đổi lấy An Tư. Triều đình buộc phải chấp thuận. Thế là nàng công chúa tuyệt sắc , tài hoa và giàu lòng yêu nước đành gạt nước mắt vĩnh biệt người yêu sang trại quân Nguyên làm vợ kẻ thù. Tướng Trần Thông trúng tên chết ngay trước ngày quân ta đại thắng, công chúa An Tư hổ thẹn không muốn nhìn mặt ai lẳng lặng nhảy xuống sông tự vẫn. Cuốn truyện dầy có 115 trang mà dàn trải đủ các nhân vật, các sự kiện trong một thời kỳ chống ngoại xâm hào hùng nhất của dân tộc đồng thời lại muốn đi sâu vào bi kịch cá nhân của công chúa An Tư và tướngTrần Thông, bởi thế người đọc thấy rõ sự sơ lược và tuỳ tiện trong việc đưa các tình tiết lịch sử vào truyện – dường như có cũng được mà không có cũng không sao. Cuốn sách lại vẫn dừng ở truyện dã sử hơn là một pho tiểu thuyết lịch sử như các nhà phê bình quốc doanh gán cho nó.

Vậy là sự nghiệp văn chương của Nguyễn Huy Tưởng trước cách mạng chỉ có 3 tác phẩm loại “thường thường bậc trung “ , thiếu hẳn “một cuốn để đời” như Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Công Hoan…hoặc một sự nghiệp đồ sộ như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao…

Tham gia cách mạng rất sớm, năm 1942, Nguyễn Huy Tưởng gia nhập Văn hoá cứu quốc , năm 1945 dự Đại hội TânTrào, năm 1946 kết nạp Đảng, vào quốc hội, năm 1949 vào Tiểu ban văn nghệ trung ương của Đảng…Tham gia cách mạng vậy, Nguyễn Huy Tưởng gần với nhà chính trị hơn là nhà văn.

Ấp ủ chủ đề Hà Nội khángchiến, Nguyễn Huy Tưởng viết khá nhiều nhưng thất bại. Năm 1948, ông viết kịch “ Những người ở lại ” kể gia đình bác sĩ Thành với quan hệ tình ái giữa bác sĩ Thành và Ngọc Cẩm rồi Ngọc Cẩm lại “quan hệ với” Phủ Dương…làm người đọc thấy kịch của ông chịu ảnh hưởng quá rõ kịch Lôi Vũ của Tào Ngu. Chính Nguyễn Huy Tưởng sau này cũng thừa nhận giá trị của vở kịch Những người ở lại :

” Những chuyện nhỏ gia đình , công chúng ngày nay đi xem đều thờ ơ lãnhđạm. Kịch Những người ở lại chỉ nói lên được cái băn khoăn của vài cá nhân không nói lên được những băn khoăn của quần chúng cho nên đối với công chúng bấy giờ, kịch của tôi đã đặt ra những vấn đề không quan thiết tới vận mệnh của số đông…”

Không nói được những băn khoăn của đám đông tức là gián tiếp thừa nhận thiếu sự khái quát. Chính vì căn bệnh đó mà chỉ một năm sau viết “chuyện nhỏ gia đình” trong “ Nhữngngười ở lại”, năm 1950, Nguyễn Huy Tưởng đã mở rộng đề tài sang viết về cả một vệt chiến trường. Tập “ Ký sự Cao Lạng” nhằm phản ánh “Chiến dịch Biên giới “ từ lúc chuẩn bị chiến trường, chiến dịch mở màn, các trận đánh quyết định, những ngày truy kích địch và niềm vui chiến thắng của quân và dân. Tất cả diễn ra khá gấp rút nên Nguyễn Huy Tưởng đành phải dùng lối viết “ghi chép” chứ chưa hẳn đã là “ký sự”. Chẳng hạn bức tranh về tinh thần anh dũng của quân ta:

“Những báng súng đập nhau chan chát. Lực dằng khẩu súng trong tay một thằng Đức cao lớn trên miệng hầm. Cả hai ngã lộn xuống hầm, ôm nhau, đấm nhau, cắn nhau. Lực gỡ ra được, ngồi trên ngực nó, nghiến răng bóp cổ thằng giặc nhầy nhụa mồ hôi…”

Hoặc cảnh đoàn dân công tải đạn ra chiến trường được khắc hoạ nặng về “ca ngợi tình đoàn kết giữa các dân tộc chung một quyết tâm tiêu diệt kẻ thù” :

“ Mấy chị Mán đỏ khăn áo sặc sỡ, trán cạo nhẵn, nhễ nhại mồ hôi đang còng lưng đeo sọt đi giữa đám đông. Những chị Nùng áo ngắn tay rộng. Những chị Thổ tay chẽn áo dài. Những anh Mán cao lớn để hồng mao. Số đông áo chàm. Khi tản, khi chụm, khi lố nhố dưới thung lũng, khi thoăn thoắt lên đèo cao, khi tản vào rừng cây chuyển động, khi xoá đi, hoà vào những hàng dài đá xám lởm chởm bên đường, thỉnh thoảng bật lên vải chàm trắng của người đàn bà Mán Lài áo pha mầu đất ,váy nhiều nếp xùmxoà…”
“ Các chị đi hành quân, dài và lủng củng, ngoằn ngoèo, nối rừng nọ với rừng kia, đèo này với đèo khác, ngày đêm không nghỉ…”

Cứ như thế, toàn bộ tập bút ký giống như những “ký hoạ” thiên về phục vụ chính trị chứ ít đi sâu vào tâm tư, tình cảm cá nhân để từ đó phảng phất sắc mầu "thân phận con người trong chiến tranh”.

(còn tiếp)

khieman
06-04-2014, 02:48 PM
(tiếp theo)

Kỳ 2

Tập “Ký sự Cao Lạng” dầy hơn trăm trang hoàn thành ngay trong không khí chiến thắng của chiến dịch Biên giới tháng 9 năm 1950 bởi thế nó được coi như minh chứng mẫu mực về “lý thuyết sáng tác kịp thời” của Đảng. Quả thực đi sâu vào Ký sự Cao Lạng, người ta nhận thấy “tính kịp thời” của nó. Với cảm hứng “hồ hởi” phấn khởi, Nguyễn Huy Tưởng phác hoạ toàn bộ diễn biến chiến dịch từ chuẩn bị tới kết thúc lúc quân ta thắng lớn, đánh tan hai binh đoàn thiện chiến Pháp bắt sống hai quan năm của Pháp là Charton và Lepage giải phóng cả một giải biên giới từ Cao Bằng tới Lạng Sơn.

Ký sự Cao Lạng gồm 6 phần trong đó 2 phần đầu mô tả không khí chuẩn bị nhộn nhịp của quân dân Cao Lạng “tự vắt mình để dốc hết người và của vào trận đánh”, dù hết sức khó khăn gian khổ nhưng đâu đâu cũng “ thấy hiện lên tinh thần phấn khởi, hào hứng, đâu đâu nghe những tiếng hò hẹn, động viên nhau “quyết giật giải của Hồ Chủ tịch , quyết thi đua lập công, trận này phải thắng…”.

Phần thứ ba ghi lại cuộc chiến đấu mở màn , trận tấn công đồn Thất Khê, nhiều gương anh hùng xuất hiện: Trần Cừ lấy thân mình lấp lỗ châu mai, La Văn Cầu chặt tay bị thương khỏi vướng víu xông lên đánh bộc phá. Cho tới nay chuyện anh hùng La Văn Cầu tự chặt tay mình vẫn còn được nhắc tới, riêng chuyện Trần Cừ lấy thân mình lấp lỗ châu mai thì không, có lẽ vì sự tích phi thường này phải nhường cho anh Bế Văn Đàn người dân tộc, cho phù hợp với chính sách dân tộc của Đảng trong khen thưởng thành tích chiến đấu.

Điều này cho thấy những chất liệu Nguyễn Huy Tưởng viết trong Ký sự Cao Lạng thường được lấy từ …báo cáo thành tích thi đua của các đơn vị bộ đội và vì phải phục vụ cho công tác tuyên truyền nên nó thường được thêm mắm muối và phóng đại.

Gương anh “Trần Cừ lấp lỗ châu mai” cũng tương tự như gương em bé đuốc sống Lê Văn Tám tẩm dầu vào người chạy vào đốt kho xăng Nhà Bè do nhà sử học Trần Huy Liệu “sáng tác” phục vụ công tác tuyên truyền theo sự xác nhận của Giáo sư Phan Huy Lê.

Phần 4 và 5 ghi lại cuộc vận động chiến của bộ đội đuổi theo và nghiền nát hai binh đoàn thiện chiến của Pháp tại vùng núi Khua Luông, Quý Châu.

Phần 6 ghi lại không khí chiến thắng tại vùng Cao Lạng trong đó nổi bật hình ảnh Hồ Chủ tịch đến thăm bộ đội:

“ Bác không đứng trên lễ đài. Bác đi thẳng xuống bãi cỏ. Bác không đội mũ. Mặt Bác sạm phong trần. Đầu hoa râm đã bạc nhiều. Bác mặc áo hở ngực. Quần bác nhàu, chân bác đi dép cao su trắng, đứt quai sau. Bác đến với bộ đội như cha đến với con : vui vẻ, thân mật, tạo một nguồn phấn khởi mạnh mẽ…”

Đọc tới chi tiết tác giả ca ngợi “chiếc dép cao su trắng đứt quai sau” của bác Hồ, người ta mới hiểu vì sao trong tất cả những bộ tuyển tập và toàn tập về Nguyễn Huy Tưởng và trong tất cả những bộ lịch sử văn học, bao giờ người ta cũng nhắc tới Ký sự Cao Lạng như là một thành tựu không chỉ của riêng Nguyễn Huy Tưởng mà còn là của chung nền văn học cách mạng. “Hình tượng bác Hồ” không phải hiếm hoi trong sáng tác Nguyễn Huy Tưởng. Tháng 9 năm 1950 ông hoàn thành “Ký sự Cao Lạng” thì trước đó vài tháng vào dịp “sinh nhật Bác 19 tháng 5” ông có bút ký “Hồ Chủ tịch năm nay” sau này cũng được đưa vào các bộ tuyển văn học. Bài viết kể lại nhân ngày sinh nhật Bác tác giả vinh dự được tới thăm nhà Bác trong rừng chiến khu Việt bắc:

“ Một con đường sạch và dài dẫn tôi vào. Tôi có cảm tưởng đi giữa một công viên Hà Nội với rất nhiều péc-gô-la. Sự thực hai bên tôi toàn là rau rền, rền xanh, rền tía, rền đỏ; giàn toàn thị là giàn mướp, giàn bầu. Một vài giàn mướp đã trổ hoa vàng, bướm lượn tíu tít . Máy bay không làm vẩn trước sau lễ chúc thọ. Chiều hôm nay bình tĩnh lắm. Sau một trận mưa, trời bắt đầu hửng nắng. Ánh hồng trên các thân cây…”

Sắp được vào nhà Bác, tâm sự tác giả thật phức tạp :

“ Tôi lâng lâng vui, đồng thời cũng ngài ngại, cái ngại dĩ nhiên của một người sắp đến trước một vĩ nhân. Tôi đã được gặp Cụ ở Bắc Bộ phủ , ở các cuộc mít tinh, ở mấy cuộc hội nghị, những buổi dạ hội tại Nhà hát Lớn Thủ đô. Nhưng từ ngày kháng chiến, tôi không được gặp Cụ và bị kích thích mạnh mỗi khi nghe các bạn kể lại những chuyện về Cụ :”Cụ đánh bóng vô lê. Cụ tăng gia, Cụ đi kinh lý mặt trận . Cụ đem cái vui và niềm tin đến cho bao nhiêu hội nghị . Cụ tiễn chân các cán bộ tới thăm Cụ một buổi chiều lẫn lộn cây cối và mưa gió của chiến khu …Cho nên lần này đi chúc thọ Cụ , tôi vẫn có cái náo nức của những buổi đầu tiên gặp Cụ…”

Rồi Nguyễn Huy Tưởng nhớ lại kỷ niệm một đêm ở hội nghị dân quân, các nhà văn, nhà báo xúm nhau viết chuyện anh hùng của bộ đội và nhân dân, chuyện tàn ác của giặc Pháp các đại biểu đã kể lại trong hội nghị. Mọi người hăm hở viết suốt đêm trắng, hoàn thành “năm chục truyện căm thù và anh dũng” để kịp tinh mơ sáng hôm sau đưa cho người du kích cưỡi ngựa chạy đi …dâng Bác. Sau cùng Nguyễn Huy Tưởng cũng kể tới giây phút đặt chân vào nhà Bác:

“ Vườn rền dẫn đến một khu rất đông người , nhiều cây và rất nhiều khoảng nắng. Chỗ nào cũng có thiếu nhi . Chúng nhảy tung tăng. Chỉ nhìn theo chiều mắt lóng lánh của chúng cũng biết Cụ ở chỗ nào. Và tôi gặp Cụ. Một cái bắt tay. Chụp ảnh. Những nụ cười chung quanh. Tôi trở về với gia đình…”

Khi mọi cảm giác hồi hộp đã tan biến, Nguyễn Huy Tưởng đã tưởng như ở nhà mình, ông mới tả Bác :

“ Trán Cụ chiều nay không có nét răn. Nước da hồng sáng . Bộ áo kaki cũ và mềm, phơn phớt trắng hồng càng tôn nước da và làm cho cử chỉ thoải mái, thanh niên. Có một cái gì quyến rũ trong đôi mắt thẳm sâu, phản ánh những khóc cười của dân tộc…”

Quả thực những văn thi sĩ quán quân về ca ngợi Bác như Tố Hữu “Bác ơi trán bác mênh mông thế ?” hoặc Chế Lan Viên gọi Bác là “ Người đi tìm hình của nước” …cũng chưa ai bằng được Nguyễn Huy Tưởng có một chi tiết thật "đắt", nhìn thấy “sự khóc cười của dân tộc” trong đôi mắt sâu thẳm của Bác.

Tiếp đến Nguyễn Huy Tưởng tả phòng khách của bác:

“ Bao vây Hồ Chủ tịch là cả Việt Nam thu gọn do những đại biểu muôn vẻ muôn mầu….”

Trước hết phải kể đến cán bộ cao cấp: Cụ Tôn Đức Thắng “người công nhân lão đại”, ông Trường Chinh “ nhỏ nhắn nói chuyện vui vẻ”, ông Phan Anh thấp, vững “ đang nghĩ tới một tập Kiều tặng Cụ”, ông Hoàng Quốc Việt “nhanh nhẹn như một gia trưởng”…Rồi đến đại biểu thanh, công, phụ trước hết là…thiếu nhi. “Thiếu sinh quân. Thiếu nhi nghệ thuật. Thiếu nhi địa phương. Cháu nhìn Bác không chớp mắt. Cháu bên vai bác nũng nịu. Cháu ngồi dưới chân Bác , nghểnh cổ há mồm. Cháu biếu bác một bài hát. Cháu dâng bác một cây sáo mộc…”. Rồi đến anh hùng lao động, anh hùng của vùng tạm bị giặc chiếm…”Lá cờ đỏ thêu chỉ vàng “vạn thọ vô cương” chói lọi gian phòng…”

Nguyễn Huy Tưởng tả Bác vui với thiếu nhi thì thấy Bác giản dị, gần gũi nhưng khi nói tới lá cờ “ vạn thọ vô cương” thì lại thấy Bác như một…Hoàng Đế. Không hiểu “lá cờ đỏ thêu chỉ vàng“ này có thật không hay là NHT đã…bịa ra để “nịnh khéo” Bác, có điều từ đầu đã ca ngợi Bác là “giản dị vô cùng” vậy sao còn bầy đặt ở phòng Bác một lá cờ viết chữ Hán rắc rối vậy thì quần chúng công nông hiểu làm sao ?

Rồi cụ Hồ ngồi nói chuyện với một anh chiến sĩ cụt tay trong đại đoàn 308 viết :

“ Tôi không nghe rõ câu chuyện giữa Cụ và người chiến sĩ, chỉ thấy sau lưng Cụ, cửa sổ tròn, để lọt một mảnh trời sao lấp lánh…”

Tới đây người ta thấy được cái “thủ pháp nghệ thuật” hoặc nôm na là “cái mẹo ca ngợi “ của Nguyễn Huy Tưởng. Khi vẽ chân dung bác Hồ ông thường gắn với khi thì sự khóc cười của dân tộc khi thì cả một trời sao…

Cuộc chúc thọ bác Hồ tạm lắng để nhà văn NHT có thể nhìn thấy cả một mảnh trời sao sau lưng bác, mãi đến khi “ông Trần văn Giàu đọc những điện văn của các chính phủ, đoàn thể các nước bạn chúc mừng ngày lục tuần đại khánh của Cụ, phòng họp mới trở lại cái tíu tít ban nãy”. Lúc này người ta nghe thấy “ những tên Staline, Hồ Chí Minh quyện nhau trong một tinh thần quốc tế mà cảnh sum vầy ở góc trời này , hôm nay càng làm bật ý nghĩa thâm trọng”, nghe thấy “những lời hô khẩu hiệu “,” bài hát Hồ Chí Minh muôn năm cất lên vang lừng”…

Hoá ra người vinh dự nhất được cụ Hồ bắt tay trong buổi chúc thọ lại là linh mục Phạm Bá Trực, ngày đó còn đang thay mặt quốc hội.
“Cụ bước lại bắt tay cha Trực rồi nói :
“ Tôi bắt tay Quốc hội tức là bắt tay toàn dân…”

Chỗ này mới thấy tính “mặt trận” của cụ Hồ – cụ bắt tay một linh mục làm hả dạ giáo dân nhưng cụ lại nói cụ bắt tay “quốc hội”, như vậy mấy ông “sư quốc doanh “ cũng không có gì phải ghen tị.

(còn tiếp)

khieman
06-04-2014, 07:07 PM
(tiếp theo)

Kỳ 3

Được “bác Hồ bắt tay”, cha Trực sướng quá, “hát ngay một đoạn thánh ca mừng Cụ:

“O Remus
Pro Domino notio Ho Chi Minh…
Dominus conservet eum, et
Vìvifice sum et Beetam…”

Ông nhà văn dịch :

“Hỡi các giáo hữu ta hãy nguyện chúc cho vị Chủ tịch quý mến của chúng ta Hồ Chí Minh, xin Thiên chúa hằng gìn giữ cho Người, xin Thiên chúa hãy ban cho Người hưởng trường thọ và được hạnh phúc thật trên cõi đời , xin Thiên Chúa hằng hộ vực và che chở Người cho khỏi mọi mưu chước của kẻ thù của Người (cũng là kẻ thù chung của Nhân loại).

Chẳng hiểu tiếng tây tiếng u ra sao, chỉ thấy dịch ra thành bài “lãnh tụ ca” bốc Người lên tầm cỡ thay mặt nhân loại mới ghê. Nhiệt tình ca ngợi lãnh tụ của cha Trực đã được đền đáp kịp thời, được “Cụ nắm tay rất lâu” vậy hẳn là một ân sủng lớn.

Sau cùng “ân sủng của bác ” cũng tới với nhà văn :

“ Buổi chiều tôi đang ăn cơm, Cụ đến sau lưng, đặt tay lên vai hỏi :
“ Chú ăn được mấy bát ?”.
Chúng tôi hỏi lại Cụ, Cụ nói :
” Tôi ăn được hai bát…”
Tôi se se trong lòng…”

Nhà văn ngậm ngùi thương Bác “ăn có hai bát cơm” . Rồi cụ Hồ nhắc nhở 4 điểm thi đua giữa các …báo : “ đúng chính trị – văn chương hoạt bát – ít tếu – hình thức giản đơn”

Cho tới ngày nay, hơn 60 năm sau, báo chí Việt Nam vẫn tuân theo những chuẩn tắc trên, đặc biệt là “đúng chính trị” – tức tránh né chuyện nhạy cảm, tuân thủ sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, chỉ được phép đưa tin có lợi cho Đảng, cho “ổn định chính trị” .

Sau cùng đã tới lúc nhà văn phải chia tay cụ Hồ với cảm giác :

” Nhiều tiếng nói trong tôi một lúc : Phố Lu – Bắc bộ phủ – Ba Đình - Bác – Chú – Tổng phản công – Tôi ăn được hai bát. Cụ sáu mươi. Cụ đã sáu mươi…”.

Ôi ước gì, Cụ sống lâu vài trăm tuổi. Đó là mơ ước trong sâu thẳm nhà văn .

Bài “ Hồ chủ tịch năm nay” được Nguyễn Huy Tưởng ghi ngày viết đúng vào sinh nhật lần thứ 60 của cụ Hồ : “19-5-1950”. Hoá ra ở cụ Hồ cái gì cũng vĩ đại, cũng kiệt xuất, cũng thiên tài, chỉ trừ mỗi tuổi thọ là cũng như người đời. Ông nhà văn hình như cũng cảm thấy điều đó nên kết thúc bài viết thật xót xa.

Trong sự nghiệp văn học của Nguyễn Huy Tưởng, vở kịch Bắc Sơn công diễn năm 1946 và được báo chí rối rít khen ngợi:

“ Bắc Sơn ra đời đã đặt nền móng cho một nền kịch mới …Bắc Sơn đã cảnh tỉnh cho những người còn nghi ngờ kịch cách mạng và xứng đáng là vở kịch cách mạng thành công nhất từ trước tới nay …” ( Báo Vì nước – 1946).

Kịch Bắc Sơn viết thế nào mà ca ngợi ghê gớm vậy ?

Kịch lấy cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn làm bối cảnh, thời gian vẻn vẹn có mấy tháng từ lúc khởi nghĩa nổ ra (27-9-1940) cho tới lúc du kích thất bại phải bỏ Vũ Lăng rút lên rừng ( đầu 1941). Diễn tả cuộc xung đột giữa hai phe cách mạng và phản cách mạng qua đó khẳng định cách mạng nhất định thắng, báo hiệu cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám sẽ nổ ra.

Câu chuyện kịch “Bắc Sơn” xoay quanh “ hai phe” đối nghịch trong gia đình người dân tộc Tày - ông cụ Phương , vợ, con trai, con gái và con rể. Cụ Phương và con trai là Sáng hăng hái tham gia cách mạng. Cô con gái là Thơm và mẹ thuộc phe lừng chừng đứng giữa. Chàng rể, chồng của Thơm là Ngọc thuộc phe đối lập, từ chỗ chế giễu cách mạng đến chỗ dẫn đường cho Pháp đàn áp du kích và trở thành một tên Việt gian nguy hiểm. Sáng bị Pháp bắn chết gây cho cụ Phương hiểu lầm bà vợ dắt Pháp về bắn con bèn rút súng bắn vợ. Rất may cô con gái Thơm xông vào gạt ra cứu sống mẹ. Cụ Phương sau khi bắn chết một tên Pháp cũng bị tử thương. Có hai cán bộ cách mạng là Thái, Cửu chạy vào nhà Thơm trốn Pháp được cô dấu trong buồng , chờ chồng bỏ đi, Thơm mới chỉ đường cho cán bộ chạy thoát. Sau Thơm theo cách mạng, lên căn cứ tiếp tế muối và báo tin Pháp sắp vây lùng. Vừa lúc đó Ngọc, chồng Thơm mò tới bị Thơm dõng dạc tố cáo bộ mặt Việt gian của chồng. Ngọc rút súng bắn vợ. Nhờ Thơm, quân du kích diệt được giặc Pháp….

Vở kịch “Bắc Sơn” chia đôi hai loại người rạch ròi : cách mạng và phản cách mạng – ngay cả trong quan hệ vợ chồng, người ta cũng có thể bị phân hoá thành hai phe :

Thơm ( nói với chồng) :
” Thôi, đến lúc này tôi cũng chẳng còn úp mở làm gì nữa. Vợ một thằng chó săn ( khóc). Sao tôi lại theo anh kia chứ ? Sao tôi với anh ở lại Bắc Sơn kia chứ ? ( khóc nức nở) Anh có phải là người nữa không ? Phải, tôi giúp quân du kích đấy; tôi biết tin anh dắt Tây đến đánh úp, tôi đi báo quân du kích đấy. Tôi đố anh phá nổi quân du kích. Mở mắt ra! Nó sai như con chó, nó khinh như con chó mà không biết đời à ? Các ông đồng chí đâu! Bắt lấy nó. Nó đây rồi…Nó đây rồi…đừng thương nó…”

Thế là cô vợ hô hoán lên cho du kích chạy tới bắt chồng…

Thơm ( lăn xả vào Ngọc hú lên) : Anh em ơi, nó đây rồi. Chú ơi…ông Thái ơi…”

Thế là chồng rút súng bắn vợ và liền đó bị Tây…bắn nhầm chết. Tuy nhiên, sau đó cô vợ – Thơm, không chết , cô vẫn sống để chỉ vào xác chồng mà căm thù :

“ Không biết nó đã thấy nhục chưa ? Chỉ tiếc là mình không được xử tội nó…”

Rồi quên cả đau đớn và cũng chẳng hiểu sao lúc này cô nàng lại nghĩ tới…bộ đội :

“ Tôi chết mất…Quân ta thế nào ?”

Và rồi cô nàng như mê sảng hướng ra mặt trận :

“ Cho tôi đi xem đi. Chú tôi với em Sáng đang bắn chúng nó đấy. Trường Vũ Lăng ta lại chiếm được kia. Đi mau lên các ông. Các ông cố lên nhớ. Mau lên, có phải cờ ta đấy không ? Được thật rồi…”

Than ôi, ông Nguyễn Huy Tưởng ép uổng “bông hoa rừng” giác ngộ cách mạng và bày tỏ cái sự giác ngộ ấy một cách lố bịch đến thế . Giữa đôi vợ chồng chẳng hiểu sao không mảy may chút nghĩa tình phu thê mà chỉ có “cách mạng” hoặc “phản cách mạng”. Giả dối đến thế. Kịch “Bắc Sơn” đặt “nền móng cho kịch cách mạng” như thế đấy . Nó được bốc lên mây xanh . Nguyễn Đình Thi reo hò :

“ Viết Bắc Sơn, Nguyễn Huy Tưởng muốn bày giãi lòng tin chắc của mình ( vào cách mạng). Không, nghệ thuật với cuộc sống không thể nào rời nhau, nhất là trong lúc này. ..Kịch Bắc Sơn đưa lên sân khấu những sự việc mới, những đám đông, những con người mới của cách mạng: người cán bộ, ông già nông dân khẳng khái, anh du kích, bà cụ có tấm lòng yêu nước trung thực. Đấy là điều đáng chú ý nhất và cần nhấn mạnh nhất…” .

Nhà phê bình mác xít hơn cả ông Trường Chinh là giáo sư Hà Minh Đức cũng bốc thơm :

“ Qua vở kịch Bắc Sơn, lần đầu tiên Nguyễn Huy Tưởng xây dựng thành công những con người mới xuất thân từ quần chúng lao động. Phần lớn họ là những người nghèo khổ bị áp bức, vùng lên làm chủ vận mệnh mình…”

Sự thực, đó là một bước lùi vĩ đại, trong khi kịch nói thế giới từ thời Shakespeares đã đưa lên sân khấu những nhân vật khổng lồ với tính cách phong phú và phát triển phức tạp, thì ở Việt Nam vào những năm sau đại chiến thứ hai, người ta mới bắt đầu xây dựng một thứ sân khấu mà tính cách nhân vật bị vót nhọn chỉ còn nhân vật “ta” hoặc “địch”.

Nền kịch cách mạng với “phương pháp sáng tác “ như vậy, nhất định sẽ đưa sân khấu tới…tắc tị. Quả nhiên một loạt vở kịch dẫm theo vết Nguyễn Huy Tưởng như “Chị Hoà” của Học Phi, “ Bức tranh mùa gặt” của Trần Vượng, “Tiền tuyến gọi” của Trần Quán Anh sau này …đều mau chóng vứt vào sọt rác của lịch sử.

(còn tiếp)

khieman
06-04-2014, 09:55 PM
(tiếp theo)

Kỳ 4

Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn được đảng khen luôn bám sát đời sống, nóng bỏng thời sự . Quả vậy, sau “ Ký sự Cao Lạng”, Nguyễn Huy Tưởng đi theo đoàn cải cách ruộng đất xuống ba cùng với bần cố nông và có ngay tiểu thuyết “Truyện anh Lục” viết về nông dân bị địa chủ, cường hào bóc lột tận xương tuỷ, nay nhờ đảng vùng lên đập tan giai cấp bóc lột, làm chủ cuộc đời mình. Tiểu thuyết …dở đến nỗi nhà phê bình Phan Cự Đệ chê ”tác phẩm còn lẫn lộn giữa việc tường thuật về người thật và xu hướng tiểu thuyết hoá, nhưng điều đáng quý là sự nỗ lực của Nguyễn Huy Tưởng đi vào một đề tài mới mẻ với ý thức phục vụ sát yêu cầu cách mạng…”.

Thế thôi, chỉ phục vụ cách mạng chứ đâu phải văn chuơng ? Thực ra “húc” vào đề tài cải cách ruộng đất nhà văn nào cũng phải bịt mắt, bưng tai nói theo giọng cán bộ Đội cải cách, bởi thế các tác phẩm viết ra đều “chết non” như “ Tranh tối tranh sáng ”, “Hỗn canh hỗn cư” của Nguyễn Công Hoan, “Mẹ con đồng chí Chanh” của Nguyễn Đình Thi, “Con trâu “của Nguyễn văn Bổng, “Truyện Tây Bắc “ của Tô Hoài…

Sau 1954, đảng yêu cầu các nhà văn viết về sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa trên đất Bắc, Nguyễn Huy Tưởng hưởng ứng nhiệt tình , viết ngay tiểu thuyết “Bốn năm sau” (1959). Cuốn truyện xoay quanh công cuộc xây dựng lại Điện Biên Phủ, nơi chiến trường vừa lặng im tiếng súng, vẫn còn chằng chịt giây thép gai và bom mìn để thử thách tinh thần người lính phục viên, rời tay súng, cầm tay cầy. Cuốn sách được các nhà phê bình của đảng “nâng bi” là “ Bốn năm sau mang theo cảm hứng mới phơi phới tinh thần lạc quan cách mạng của những con người làm chủ hiện tại và tương lai…”. Có lẽ vì cái cảm hứng đó mà không đầy “bốn năm sau” ra đời, tiểu thuyết “Bốn năm sau” đã chết ngóm chẳng còn ma nào muốn đọc.

Là nhà văn đi hàng đầu theo chủ trương “sáng tác ” kịp thời , Nguyễn Huy Tưởng luôn luôn được báo chí bốc thơm:

“ Chất hiện thực trong những sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng ngày càng được tăng cường qua những đợt đi thực tế , tham gia chiến dịch , những ngày lăn lộn với phong trào . Anh thấy rõ cuộc sống mới không ngừng phát triển. Đang từng ngày thay da đổi thịt. Ở đâu trong cuộc sống cũng phấp phới cái “cánh bay của một thứ lãng mạn cách mạng ngay trong những công việc hàng ngày”. Đó chính là cơ sở khách quan để nảy sinh chất lãng mạn cách mạng trong tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng…”

Tuy nhiên sự “đoản thọ” của những sáng tác kịp thời kiểu như “ Ký sự Cao Lạng”, “ Truyện anh Lục”, “ Bốn năm sau”… cũng làm Nguyễn Huy Tưởng phải nghĩ ngợi, nhất là văn chương của ông nâng bi cách mạng quá đà đến độ nhà phê bình “bảo hoàng hơn cả nhà vua” Phan Cự Đệ cũng phải than:

” Nguyễn Huy Tưởng đến với cuộc đời mới với bao cởi mở và tin cậy, không có những khoảng cách giữa nhà văn và cuộc sống qua những dằn vặt cá nhân , những ngại ngùng xa lạ …Nguyễn Huy Tưởng thích khai thác những mặt đẹp của đời sống , cái đẹp của con người mới đang sáng tạo nên những trang sử của dân tộc. Anh nhìn cuộc sống một cách xuôi chiều và có phần lý tưởng hoá. Nguyễn Huy Tưởng chưa thấu hết những mặt phức tạp của cuộc đấu tranh xã hội nên trong một số trường hợp , cách nhận thức và giải quyết vấn đề của anh hời hợt và dễ dãi…”

Tóm lại nói theo ngôn ngữ thời nay là anh viết quá…phải đạo, quá an toàn, luôn luôn đeo chữ “thọ” cho ngòi bút rồi mới tung hoành trên trang giấy. Sau “ Bốn năm sau”, Nguyễn Huy Tưởng hiểu rằng “sáng tác kịp thời” chỉ là sự xui dại của Đảng muốn nhà văn phục vụ chính trị hiệu quả hơn, tức thời hơn và chỉ đẻ ra thứ văn chương “báo tường”. Từ đó ông bỏ hẳn “những chuyến đi thực tế” nhằm cho ra những “sáng tác kịp thời”, bỏ qua những “đề tài khôi phục kinh tế” nóng hổi tính thời sự, ông trở lại đề tài quá khứ với độ lùi đủ để có thể nhìn lại một cách bao quát, tỉnh táo từ đó xây dựng nên tiểu thuyết sử thi, đồ sộ vừa đi sâu vào số phận cá nhân vừa mang tính hoành tráng bão táp cách mạng.

Và Nguyễn Huy Tưởng bắt tay vào tiểu thuyết được coi là lớn nhất trong sự nghiệp của ông :”Sống mãi với Thủ đô”.
Năm 1958 sách viết xong, 1961 sách ra mắt bạn đọc, được nhà văn Nguyễn Tuân viết lời bạt, nhà văn Nguyễn Khải viết bài khen ngợi cùng rất nhiều nhà báo, nhà phê bình khác bốc thơm.

Vậy giá trị thực của “ Sống mãi với thủ đô” của Nguyễn Huy Tưởng là thế nào ? Cuốn sách dày 450 trang mở đầu là cuộc tản cư của người Hà Nội về nông thôn tránh bom đạn giặc Pháp và kết thúc ở một đơn vị tự về đã bước vào ngày thứ hai của cuộc kháng chiến.

Trên sân ga hàng Cỏ hai tháng sau ngày Quốc khánh mồng 2 tháng 9, giữa đám đông chạy loạn người ta thấy Trần Vinh, thầy giáo đưa mẹ xuôi tàu Nam tản cư về quê. Anh gặp lại Trinh người yêu cũ đã lấy chồng giàu có. Lúc này trụ lại Hà Nội và xin vào tự vệ dường như là thước đo giá trị của thanh niên Hà Nội ; bởi vậy khi nghe Trinh hỏi mẹ :

“ Tự vệ phải đánh nhau, sao các anh ấy lại thích vào mợ nhỉ ?”

Trần Văn cau mặt. Trinh không những tỏ ra thờ ơ với thời cuộc mà còn ngu nữa. Hồi yêu Trinh, anh tưởng Trinh thông minh, có ngờ đâu lại thảm đến như thế này…”

Không phải chỉ có Trinh là thờ ơ với thời cuộc, trên sân ga, Trần Văn còn thấy “ một đám thanh niên mặc tây đi xích lô từ phía Hàng Lọng tới. Họ vội vã, hấp tấp, hốt hoảng. Họ cuống cuồng bước lên thềm , chạy vào ga lấy vé , mặt tái nhợt, hơi thở dốc ra . Trông thấy Trần Văn họ bẽn lẽn xấu hổ, người cúi mặt xuống, người ngoảnh mặt đi. Trần Văn cười trong bụng . Chắc chắn họ cũng cùng một loại với mấy anh thanh niên theo gia đình đi tản cư mà anh gặp lúc nãy ở ngoài ke, các anh chàng phải giấu mặt đi để cho đồng bào khỏi trông thấy và xỉ vả là đồ hèn nhát….”

Vậy Trần Văn dĩ nhiên là một thầy giáo giác ngộ cách mạng nên mới có cái nhìn khinh bỉ đối với đám thanh niên cầu an, tản cư khỏi Hà Nội như vậy. Anh là giáo viên sử, dạy trường tư của một “ nhà trí thức cách mạng”. “Anh đã được giảng sử nước nhà bằng tiếng Việt Nam một cách đường hoàng, không phải dè dặt quanh co. Cách mạng tháng Tám đã mở cho anh một cuộc đời mới”.

Học trò của thầy Trần Văn cũng “cách mạng” không thua gì thầy.

Trước hết là cô Quyên, nữ sinh Hà Nội .”Một chị cán bộ đã giới thiệu Quyên vào làm mật mã nhưng Quyên khóc xin thôi. Quyên cho là chị cán bộ khinh mình, vì Quyên thấy cái công tác được giao cho chẳng có gì là chiến đấu cả . Quyên nghĩ rằng đánh nhau thì phải nằm gai nếm mật, mặt trận thì phải là màn sương gối đất chứ có đâu lại đi làm một công việc chẳng có gì là khó nhọc, ro ró ở một xó nhà…” .

Thế rồi trong tường tượng, hình ảnh người chồng tương lai của cô nữ sinh này cũng phải là …một người cách mạng. “Người ấy đã phải bị đầy ra Côn Đảo , đã phải vượt tù trốn về khu giải phóng, và lúc này phải gánh vác những công việc lớn lao. Người chồng lý tưởng ấy của chị có thể không còn trẻ nữa, nhưng chị sẽ yêu với tất cả lòng yêu của chị, chị sẽ hy sinh tất cả cho anh để bù lại trăm nghìn gian khổ mà anh đã phải chịu trong bao nhiêu năm…”

Một quan niệm tình yêu “lãng mạn cách mạng” ghê gớm chưa ? Còn nam sinh của thầy như anh chàng tên Loan thì cũng bị “trí tưởng tượng đưa anh từ cuộc đời còn thơm tho mùi sách vở tới những trận chiến đấu ngổn ngang xác giặc và chính anh có thể chết dưới đống gạch ngói của phố xá điêu tàn…”.

Đứng giữa đám học sinh “mắt long lanh như sắp xông lên chiến đấu”, anh giáo Trần Văn bỗng “thèm làm một người cán bộ nắm được hết tình hình, biết mình sẽ làm gì và đi tới đâu. Anh cảm thấy con người mới phải là con người chẳng kể trường hợp nào , đều làm chủ được tình thế …”. Và rồi để “động viên tinh thần chiến đấu” cho đám học trò, anh giáo kể câu chuyện cái lỗ đạn Pháp bắn vào thành Hà Nội ngày 20-11-1873 bị một nhà nho nào đó lấp đi để “nhân dân hàng ngày khỏi trông thấy mà thêm nhục”. Mấy hôm sau, một ông nhà nho khác lại khoét cái lỗ ấy ra với lý lẽ “ phải để đấy cho mọi người luôn luôn trông thấy cái nhục mà nghĩ đến việc cứu nước…”. Hai ông cứ người lấp người phá cho đến khi Pháp biết chuyện đem rào kín cổng thành lại (!). Câu chuyện thực hư không biết sao, nhưng người Hà Nội mỗi lần đi qua phố Cửa Đông đều nhìn thấy cái lỗ đạn ấy và không hiểu Pháp đã rào nó lại bằng cách nào ?

Anh giáo Trần Văn kể xong câu chuyện , kết luận :

“ Tôi nghĩ lúc này là lúc chúng ta lấp cái nhục bằng gươm bằng súng đấy…chúng ta sẽ cho chúng nó biết rằng chúng ta không phải là một lũ hèn…”.

Ngoài đám thầy trò Trần Văn sôi sục tinh thần yêu nước, người ta còn thấy cô Nhân, bán hoa ở Ngọc Hà, thầm yêu anh giáo, chị họ cô Nhân có chồng chết trong khi Nam tiến, đứa con trai tuổi còn con nít tên Dân cứ nằng nặc xin đi…bộ đội vì nhớ bố quá, tất cả đều trong không khí sẵn sàng…đánh Pháp. Ơ vườn hoa Cửa Nam, Trần Văn gặp một người thợ nặn các tượng Quan Công, Hạng Vũ…bằng bột bán cho con nít. Khi một đoàn xe “ chở toàn Tây mũ đỏ, kèm theo mấy con nhà thổ, me tây loè loẹt” chạy qua, anh thợ nặn bột lên tiếng chửi theo kiểu rất …“trí thức” :

“ Đánh Đức thua Đức, đánh Nhật thua Nhật, đánh đâu thua đấy, bắt nạt Việt Nam. Mẹ cha mày, bố mày cũng không dám đánh đêm…”

Được nghe chửi như vậy, anh giáo càng thêm phấn chấn . Anh bĩu môi lẩm bẩm :

”Mọi bạo lực, mọi cường quyền mạnh đến như sấm như sét rồi cũng tan đi như bọt. Hạng Vũ, Attila, Nã Phá Luân , Hitle và Lơ Cléc , tất cả , trước hay sau, chóng hay muộn tất cả đều đổ sụp. Chỉ có nhân tâm là muôn thủa…:”

(còn tiếp)

khieman
06-04-2014, 10:59 PM
(tiếp theo)


Kỳ 5

“Quần chúng nhân dân” Hà Nội được Nguyễn Huy Tưởng mô tả thành những con người yêu nước, nóng bỏng lòng căm thù như vậy, còn giặc Pháp , ngược lại được mô tả như bọn thú dữ uống máu người không tanh:

“Cánh cửa mở ra , giữa tiếng kêu hãi hùng của một người đàn bà và hai đứa con luống cuống trong một gian nhà nhỏ tối mờ mờ, đồ đạc đã thu dọn cả, chỉ còn trơ một cái giường. Tên lính Pháp hỏi Việt Minh, người mẹ không biết tiếng Pháp quỳ xuống chắp tay vái lia lịa miệng van lậy :” Quan lớn làm phúc tha cho mẹ con chúng tôi…”. Tên lính hỏi dồn . Nó nắm lấy tóc người mẹ lôi dậy, gật gật đầu cười …”

Và cái cảnh sau đây, thật chỉ có trong phim…kinh dị :

“ Nhưng tên lính cười gằn , lật mặt người mẹ ngửa ra đằng sau. Cái cổ tròn căng thẳng, thoi thóp, gợn mấy đường gân xanh . Một bàn tay chới với nắm lấy cái bàn tay của đứa con trai chừng năm tuổi. Đứa con gái nhỏ mới hai tuổi giẫy đành đạch hờn với mẹ, hai tay bíu vào cái gấu quần lụa trắng :” Mợ ẵm con…mợ ẵm con…”. Tên lính tháo đôi hoa tai của người mẹ, thản nhiên đút vào túi. Mặt người đàn bà trắng như tờ giấy, thân oãi cong lên. Môi tên lính rung rung. Nó tuốt lưỡi lê, đâm gọn vào cái cổ, tay nắm tóc buông ra. Đầu người mẹ gieo mạnh xuống sàn gạch . Không một tiếng kêu. Lưỡi lê lại vung lên . Đứa con lớn đứng bên xác mẹ vừa khóc vừa đưa hai bàn tay nhỏ bé lên đỡ. Một ánh chớp loáng. Hai bàn tay vụng dại nắm chầm lấy cái lưỡi lê đâm mạnh, thọc sâu vào ngực nó…”

Cái cảnh chém giết rợn tóc gáy như trên còn kéo dài cả hai trang nữa khiến người đọc căm thù giặc Pháp đâu chưa biết chỉ thấy khiếp hãi cho ngòi bút của nhà văn dường như cũng đang chấm vào máu mà viết nên những trang …kinh dị đến mức khó tin. Sau cùng, để “tố cáo tội ác giặc xâm lược ” sâu sắc hơn nữa, ông nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã mô tả chi li một cảnh còn kinh hoàng hơn dưới địa ngục mà có lẽ trong văn chương kim cổ chưa ai dám viết :

“ Lưỡi lê đỏ máu của tên lính hung ác dứ dứ mấy cái rồi đâm phập vào cổ ằng ặc của người thanh niên. Nó xoay nghiêng cái cổ cho máu ồng ộc chảy xuống cái âu trầu. Mấy ông già run rẩy ngồi thụp xuống nhắm nghiền mắt. Một ông cụ râu tóc đều bạc xô một thằng Pháp đứng sau để chạy. Bên xác người mẹ, đứa con gái khóc bằn bặt không thành tiếng. Bỗng tên lính giết người kéo ông già râu bạc lại. Nó cầm cái âu đầy máu ngầu bọt kề vào miệng cứng đờ của ông cụ nói :” Mày húp đi. Mày húp trước đi. Rồi chúng mày thay nhau mà húp…”. Những tiếng cười của bọn giết người lại nổi lên trong cái gian nhà lênh láng máu…”

Sự thực tội ác của giặc Pháp ở phố Yên Ninh vào tháng 10 năm 1945 dã man đến đâu rồi đây các nhà sử học sẽ làm rõ, riêng nhà văn Nguyễn Huy Tưởng thật đáng mặt bậc thầy về phương pháp sáng tác tự nhiên chủ nghĩa và xứng đáng được tặng một…cây bút vấy máu.

Tất nhiên vào thời điểm đó vì “yêu cầu chính trị” phải kích động nhân dân Hà Nội căm thù giặc Pháp, những người làm công tác tuyên truyền có thể bịa đặt hoặc thổi phồng vụ tàn sát để trương biểu ngữ “ Trả thù cho 23 đồng bào bị giết ở ngõ Yên Ninh” trên ô tô chạy khắp Hà Nội, nhưng cả 15 năm đã qua đi, yêu cầu tuyên truyền bôi đen quân xâm lược không còn đặt ra nữa, nhà văn khi đặt bút viết tiểu thuyết cần phải trả lại sự thực cho các sự kiện. Tiếc thay Nguyễn Huy Tưởng không làm được điều đó, ông vẫn viết đầy hứng khởi theo kiểu…tuyên truyền y như một nhà báo của đảng đang hoạt động vào tháng 12 năm 1946 chứ không phải nhà văn viết tiểu thuyết “Sống mãi với Thủ đô” mười hai năm sau đó. Chính vì vậy những sự kiện ông đưa ra có vẻ thiếu xác thực vì người đọc đã có độ lùi 15 năm sau để nhìn nhận nó.

Chẳng hạn câu chuyện ông kể về nỗi khao khát của đồng bào miền Nam được trốn ra Bắc sau khi thực dân Pháp trở lại chiếm đóng:

”Cái hồi vỡ mặt trận Ninh Hoà, quân Pháp sắp kéo đến. Đồng bào không ai ở lại. Từng đoàn người lũ lượt tản cư, theo nhau băng rừng lội suối đi tìm miền tự do. Có một cụ già tám mươi tuổi cũng chống gậy đi. Mọi người bảo cụ :” Cụ đã già nua tuổi tác, nó dù có tàn ác đến đâu cũng không giết cụ làm gì. Cụ đừng đi cho vất vả . Đường đi nhọc nhằn, cụ sẽ chết dọc đường mất…”

Cứ tưởng bà lão tám mươi gần kề miệng lỗ, lúc này ham muốn tột bậc chỉ là được chết ở quê nhà gần gũi với ông bà, tổ tiên, nào ngờ cụ lại hăng hái :

“ Bà cụ nói: ” Cảm ơn các ông các bà tỏ lòng thương . Nhưng tôi không ham sống làm gì nữa. Chỉ muốn đến những nơi nào không có giặc Pháp , những nơi nào còn có ngọn cờ đỏ sao vàng…”

Rõ khổ, đã “không ham sống làm gì” lại còn bỏ làng bỏ xóm để đi tìm … ” cờ đỏ sao vàng” thì quả thật thế gian này..chưa hề thấy. Hư cấu quá đà vậy , ông nhà văn vừa làm khổ “bà cụ” vừa làm khổ cả người đọc. Chưa hết , ông Nguyễn Huy Tưởng vẫn chưa tha cho “bà cụ”, ông bắt :

“ Thế rồi bà cụ cứ đi. Sau mấy ngày bà cụ đi trong rừng, cụ đã kiệt sức quá. Cụ đã nằm chết ở bên cạnh đường mòn, lối lên đèo Cả. Cụ đã chết trên con đường đi tới tự do…Nhưng nét môi đã rụng hết răng như bằng lòng mình đã thở cái hơi cuối cùng ở trên một miền đất trong sạch , không có dấu chân quân Pháp…”

Than ôi một bà cụ tám mươi, cái quà tặng nhân đạo nhất ông nhà văn cần mang tới cho cụ lúc đó là một bát cháo nóng cho đỡ đói lòng chứ đâu phải thứ “tự do” ở trên trời và lá cờ đỏ sao vàng ở tận đẩu tận đâu. Mà rồi lúc thở hơi cuối cùng bà lão tám mươi sao còn nghĩ được nơi bà nằm xuống không có dấu chân quân Pháp ? Lúc đó hoặc chẳng nghĩ gì hoặc nghĩ tới ông bà cha mẹ chớ ? Ông nhà văn tính ca ngợi mà hoá ra lại thành mỉa mai bà cụ . Thế rồi để biến cụ thành “tượng đài của lịch sử”, ông nhà văn “ đắp một nấm mồ chôn cụ, cài một mảnh giấy chẳng biết bây giờ có còn không , đề mấy dòng:

” Mồ một bà cụ đã đi tìm tự do. Đèo Cả ngày 8-2-1946…”

Câu chuyện “bà cụ đi tìm tự do” chẳng biết có được mấy phần trăm sự thực, chỉ tiếc cuốn truyện của ông nhà văn chưa tới được tay mấy ông trong Viện bảo tàng cách mạng tỉnh Trị Thiên-Huế, nếu không vào cái thời buổi “rút ruột công trình này” họ đã tìm tới tận nơi thực hiện ngay một dự án đúc tượng và xây mộ bà cụ để cho tỉnh có thêm một điểm tham quan du lịch trên đèo Cả.

Để tăng thêm tính lãng mạn cách mạng cho những người tình nguyện ở lại Hà Nôi chiến đấu chống Pháp, ông tác giả đưa ra nhân vật Hiền, nữ sinh năm thứ nhất thành chung, là người yêu của Nhật Tân , một anh tự vệ thành luôn bày tỏ lòng căm thù giặc Pháp. Cô này đã đưa bố mẹ đi tản cư, ra tới bến sông, cô quăng cả xe đạp lẫn các bậc sinh thành để trốn về Hà Nội. Giữa khi phố xá hỗn loạn, xung quanh đầy hòn tên mũi đạn, cô nữ sinh này bỏ bố mẹ bơ vơ quay lại Hà Nội làm gì vậy ?

“ Đứng trên sập, Hiền đang soi vào một cái gương lớn. Hiền là một cô gái mới lớn, mặt bàu bàu hơi to so với khổ người tầm thước.. Chị mặc chiếc áo nhung đỏ , quần xa tanh là , chân đi hài con bướm vàng rung rinh. Đầu Hiền vấn một chiếc khăn nhung lam ,cổ đeo kiềng vàng trơn . Chung quanh Hiền treo lủng lẳng chiếc áo nhung lam, chiếc măng tô màu tím sẫm và các áo len hoa mùa hoa dâu, màu vàng, màu đỏ….”

Trời đất đang loạn lạc, cô Hiền trốn tản cư quay về nhà tưởng làm chuyện gì ghê gớm hoá ra để mặc … bộ đồ cưới mà nếu chiến tranh không xảy ra chỉ một tuần lễ nữa thôi cô sẽ mặc nó lên xe hoa. Vừa lúc đó anh chồng sắp cưới là Nhật Tân ghé đến. Chẳng hiểu sao một con người trí thức tiểu tư sản Hà Nội như anh mà lại hỏi vợ sắp cưới đang mặc đồ cô dâu một câu lãng xẹt :

“ Hiền nghĩ thế nào mà lại thắng bộ cưới vào thế ? Buồn hay vui ?”

Thế rồi lẽ ra trong khung cảnh đầy phập phồng của nỗi chết đang rình sẵn, trong căn nhà giưã khu phố vắng vẻ, đôi tình nhân phải ghì chặt nhau, che chở cho nhau, và đốt cháy nhau trong ngọn lửa của tình yêu trước lúc…tận thế. Đằng này không, ông nhà văn không mảy may cho hai con tim rung động và thổn thức, ngược lại ông chỉ cho hai cái miệng bàn chuyện…chính trị. Nàng thì thổn thức :

“ Không có gì quý bằng tự do anh nhỉ. Em không thể nào quên được những ngày Quốc Khánh vừa qua, bày tiệc ra đường ăn uống. Em không thể nào quên được những ngày biểu tình hồi cách mạng, đoàn nữ sinh chúng em có hàng nghìn, đều để tóc thề, mặc toàn trắngg, xinh lắm, đi đến đâu người ta hoan hô đến đấy…”

Còn chàng thì cao giọng :

“ Đúng rồi. Đồng bào miền Nam khao khát ngoài này lắm mà họ gọi là đất tự do. Anh kể cho Hiền nghe cái hồi vỡ mặt trận ở Ninh Hoà, quân Pháp kéo đến…”

Rồi cứ thế chàng thao thao bất tuyệt về tinh thần “không có gì quý hơn độc lập tự do “ của dân ta khiến cuộc gặp gỡ giữa hai kẻ đang yêu trong khung cảnh đầy bi tráng biến thành một cuộc “bày tỏ lập trường yêu nước” giữa hai con người đang căm thù giặc Pháp đến quên cả…yêu. Những trang viết thế này bộc lộ chất “tuyên huấn” đậm đặc gấp nhiều lần chất “nhà văn” mà Nguyễn Huy Tưởng được mệnh danh và trên hết, nó phơi bày một tài năng văn học không lấy gì làm xuất sắc.


( còn tiếp)

khieman
06-05-2014, 02:23 PM
(tiếp theo)

Kỳ 6

Anh chàng Nhật Tân này với “vợ sắp cưới “ còn “chính trị” huống hồ với người ngoài. Và đây là dịp anh thể hiện lòng nhiệt huyết yêu nước và căm thù giặc :

“ Trước cửa nhà hát Tố Như , một toán người kéo đi, ùn ùn, lộn xộn. Người xách vali, người đeo đẫy, người gồng gánh, phần lớn là những anh em lao động….”

Giữa lúc nước sôi lửa bỏng, thanh niên phải ở lại sống chết với thủ đô , sao kéo nhau tản cư ? Lập tức Nhật Tân hò hét:

“ Thanh niên phải sống chết với thủ đô. Các anh đi đâu ? Các anh không biết bỏ đi là hèn à ? Trở về ngay. Tôi bảo…”

Và thế là chàng tự vệ khăng khăng bắt mọi người quay lui. Trong đám đó có anh tự vệ phàn nàn :

“ Nhưng chúng tôi có được như các anh đâu . Không có cái gì vào miệng thì không ai nói cứng được . Chúng tôi không có hạt cơm nào vào bụng từ hôm qua rồi.”
…Người thanh niên mũ xanh quăng cái va li xuống đất , tay đưa mũ cho người khác :
“ Anh sẽ làm gì ? Khai trừ chúng tôi chắc ?”
Nhật Tân thét :
“ Khai trừ à ? Không, khai trừ một tự vệ không phải bằng một lời tuyên bố. Khai trừ tự vệ bằng súng đạn….”
…Anh rút khẩu súng lục giơ lên trời … “

Ghê chưa, giặc Pháp chưa thấy đâu, chưa chi chàng sĩ tự vệ đã bộc lộ tính sắt máu với đồng đội . Chẳng hiểu ngoài đời có tự vệ nào như chàng Nhật Tân này không chỉ thấy cái căn bệnh “nói quá”, khuếch đại tính cách nhân vật làm giảm nhiều tính chân thật của tác phẩm.

“Sống mãi với Thủ đô” được Nguyễn Huy Tưởng viết vào năm 1958, vào thời điểm này , căn bệnh “vót nhọn tính cách nhân vật” của các nhà văn Hà Nội – tước đi mọi suy tư, tước đi mọi vật vã cá nhân, tước đi mọi biểu hiện bản năng, mọi tính người - để tập trung duy nhất vào một tính cách :” yêu nước và căm thù giặc” mà đôi khi hoặc không có hoặc chỉ ẩn khuất trong từng mỗi người.

Trong tiểu đội tự vệ Nguyễn Huy Tưởng dụng công , có tới 8,9 con người khác nhau mọi phương diện. Tiểu đội trưởng Tu, “anh phu khuân vác ở Cột đồng hồ , một người trạc bốn mươi tuổi, hai vai rộng và chắc như lực điền , da mặt dày lên vì sự vất vả và tính thật thà..”. Chẳng hiểu anh phu khuân vác này bỏ mặc bố mẹ, vợ con ở đâu mà chẳng thấy lo lắng gì chỉ thấy nói chính trị y như cán bộ với chú bé đang đòi ở lại với tự vệ :

” Vào tự vệ là cầm bằng cái chết trong tay . Các anh lớn phải ở lại. Em còn nhỏ ở lại làm gì ? Con anh bằng tuổi em, anh cũng phải cho nó đi tản cư với mẹ nó…”..

Người thứ hai là Mộng Xuân, “ anh kép cải lương , khoảng mười bảy mười tám, người ẻo lả, mặt trắng bệu, tóc mai dài , ăn mặc chải chuốt một cách lẳng lơ…”. Tính cách có vẻ “bóng” ( bisexual) nhưng nói chính trị rất hùng hồn, mùi mẫn:

“ Xin các huynh cho đệ ghi tên đã. Lần này chúng ta ở lại là sống chết với thủ đô thật, dù phải da ngựa bọc thây , thịt nát xương tan cũng không lùi bước. Trước đây ai muốn vào thì vào, ai muốn ra thì ra . Các huynh hiểu cho, như thế là không được . Các huynh đến là mừng rồi …”

Người thứ ba là Long đen “ bộ răng vàng của anh rít chặt, cái mặt choắt đen thui, trước làm nghề nặc nô, sau làm yêu Nhà máy nước đá. Hồi cách mạng anh ta lấy cắp súng của Tàu trắng bán cho Cục Quân giới. Gần đây , anh đã báo cho công an bắt được ổ in bạc giả và làm giấy cải tà quy chính.” . Do xuất thân lưu manh, bất hảo nên Long đen tuy đã được nhận vào tự vệ nhưng chưa được tin cậy . Bởi vậy cả tiểu đội đều được phát chứng minh thư, riêng Long đen là chưa được. Anh chàng tức quá, kêu lên :

“Các anh còn đòi Long đen cái gì nữa ? Bao giờ mới hết nghi cái thằng Long đen chó má này ? Chả nhẽ tôi lại chờ để bị bắt. Không đâu, tôi không để cho ai bắt tôi như một đứa lưu manh nữa. Tôi không đến nỗi là không biết nghĩ đâu các anh ạ…”

Bàn tay Long vả vào má đôm đốp…

Lòng yêu nước trong Long đen làm anh cụt cả máu giang hồ hảo hớn tự rủa xả mình khi cách mạng chưa tin.

Người thứ tư là Sởn “trạc ngót ba mươi tuổi, mặt vuông, cằm bạnh , thớ thịt hai bên quai hàm luôn luôn đụng đậy như đang nhai phải cái gì . Anh như không biết rét , chỉ phong phanh một bộ quần áo nâu, cổ quàng một cái khăn mặt bông còn mới…” . Cũng như những người khác, Sởn không mảy may lo lắng gia đình. bản thân chỉ lo…đánh giặc.

Người thứ năm là Loan – chàng học sinh tiểu tư sản đặc sệt “trí tưởng tượng đưa anh từ cuộc đời còn thơm tho mùi sách vở tới những trận chiến đấu ngổn ngang xác giặc và chính anh có thể chết dưới đống gạch ngói của phố xá điêu tàn…”. Bây giờ Loan sống trong tiểu đội tự vệ làm chân vẽ bản đồ. “ Mơ mộng gì nữa khi bầu trời Tổ quốc không còn là bình minh của hương sắc mà đục ngầu những hình thù tối đen của mũ đỏ và thổ phỉ…Anh gắn mình vào cuộc sống chung quanh. Anh cố rập khuôn theo nguyên bản, sợ sai một tý thì ảnh hưởng đến những kế hoạch quân sự sau này…”.

Vậy là cái bước đầu tiên của một anh học sinh tiểu tư sản khi tham gia cách mạng là phải “từ bỏ mình” để hoà mình vào quần chúng :

“ Loan cảm động nhìn mọi người đang đứng sát lại. Những thân hình còn mảnh dẻ tương phản với những cái vóc nặng nề , cục mịch , những đầu bóng mượt với những mớ tóc rối. Những thư sinh mặt trắng mới từ bỏ mái trường họp với những người phu , người thợ chỉ có hai bàn tay trắng…”

“Những thư sinh mặt trắng này” rồi đây sẽ phải “rập theo khuôn của nguyên bản” là mấy anh thợ anh phu này đây. Một quá trình “tự cải tạo” không mấy dễ dàng và đầy khổ ải nhưng lại được ông nhà văn nói tới một cách vui vẻ và đầy nhiệt thành.

Người thứ sáu là Lai , “một đứa trẻ khoảng mười ba, mười bốn tuổi, mặc một cái quần cộc , một cái áo sơ mi người lớn bằng kaki vàng, lùng bùng sau cái áo sợi đan màu đỏ kệch. Một tay nó cầm con dao, một tay xách một caí hòm nhỏ. Tóc nó dài đến mái tai, ngả nghiêng như lúc bị bão.” . Chú bé từa tựa nhân vật Gavơrốt trên chiến hào Paris trong truyện “Những người khốn khổ” của Victor Hugo . Chú khăng khăng đòi ở lại để …đánh Tây :

“ Cháu đã đi tản cư với u. U cháu chẳng buôn bán gì được . Cháu nói với u cháu lại cho cháu ra Hà Nội. U cháu cho cháu một đồng bạc. Cháu đi qua chợ, mua được con dao này…”

Vậy là bao nhiêu tiền mẹ cho, chú bé Lai dốc hết cả vào việc … mua dao giết Tây. Yêu nước ghê gớm vậy đó. Rồi khi bị tiểu đội tựï vệ từ chối không cho gia nhập, chú Lai phẫn uất :

“ Ở đây cũng không nhận cháu ư ? Xin vào bộ đội , các anh ấy cũng không nhận, các anh ấy chỉ nhận con nhà giàu , chúng nó có quần áo, chúng nó biết hát. Nghèo thì Tây cũng khinh mà ta cũng khinh…”

Chú bé Lai đã nói vậy, tất nhiên tiểu đội tự vệ phải nhận chú chứ còn biết nói sao ? Người thứ bảy không được tác giả đặt tên chỉ cho nói chuyện chính trị :

“ Nó gây ra vụ Yên Ninh thì là nó chết. Bộ đội kéo về đông lắm rồi, đông hơn hôm qua, đông hơn hôm kia. Trong thành chúng nó lục đục, lính Đức nổi loạn, nó giết nhau chí choé, giải phóng Thủ đô đến nơi rồi…”

Một anh khác cũng hăng hái :

“ Cụ Hoàng Diệu thì hơi bi. Cụ chết nhưng thằng Pháp nó vẫn hạ được thành Thăng Long. Mình chết nhưng không để mất Hà Nội…”

“ Cốt nêu cái tinh thần cảm tử thôi. Lính nhà Trần thích chữ Sát Thát thì mình viết lời thề sống chết…”

Cứ như vậy dù miêu tả nhiều nhân vật với nhiều xuất thân khác nhau nhưng thực ra ông nhà văn chỉ xây dựng có một nhân vật : đó là lòng yêu nước một chiều – yêu cầu hàng đầu của Đảng đối với công việc sáng tác của các nhà văn trong vòng tay của Đảng.

(còn tiếp)

khieman
06-05-2014, 11:13 PM
(tiếp theo)

Kỳ 7

Trong cộng đồng người Hà Nội, không hiểu sao thương gia, doanh nhân giàu có luôn luôn bị các nhà văn cộng sản coi là xấu xa, tiến thân bằng lừa gạt phản trắc. Ông Cự Lâm là một thương gia như thế :

“ Một người chú họ làm ở Hồng Kông mua được nhiều hàng quý như gương , thảm, giường Hồng Kông, len, dạ, tơ lụa, đồng hồ, bút máy…hàng tháng gửi về nhờ ông giữ hộ. Cư hàng chục năm như vậy. Nhưng ông Cự Lâm đã bội tín, chiếm hẳn những của ấy làm của mình, và từ một người buôn chè nhỏ , ông cứ phất mãi lên.. . ..”

Ông Cự Lâm đã xấu vậy, bà vợ ông cũng chẳng tốt đẹp gì :

“ Bà trông bệ vệ nhưng đần độn. Bà chỉ là một cái máy đẻ. Việc kinh doanh của chồng thì bà không biết gì, việc trông nom trong nhà , từ tiêu pha trong nhà đến bếp nước giỗ chạp thì đều do bà giáo ( em chồng) mà bà ta cũng rất sợ. “

Thế hệ bố mẹ đã vậy, tất nhiên con cái phải khác, phải giác ngộ cách mạng thì mới phù hợp với chiều hướng xã hội mới - bởi vậy nhà văn cho cậu con trai tên Phúc và hai cô con gái tên Lan và Hương khăng khăng ở lại Hà Nội xin vào tự vệ. Hành động cách mạng đầu tiên của Phúc là “chơi” bố một vố choáng váng đúng vào ngày giỗ bà nội :

“ Đêm hôm qua trong lúc ông Cự Lâm đang nằm nghe bên ngoài người nhà làm cỗ, lòng ngổn ngang vì tình hình , não ruột vì khu phố thúc giục tản cư thì một tin đưa tới làm cho ông rụng rời đổ đốt : Phúc đã tự tiện đến nhà Quảng Xương Long bắt người gác phải mở cửa và cùng một số đông tự vệ xông vào kho. Người gác giữ lại thì Phúc chửi mắng thậm tệ, đành phải báo bằng dây nói cho ông biết.”

Hoá ra tự vệ cần cuốc xẻng đào hầm, ông Cự Lâm có cả một kho nhưng không ủng hộ nên con trai ông kéo tự vệ tới phá kho:

“Cửa hiệu lúc ấy như đang bị bọn kẻ cướp đánh phá. Phúc đứng ở ngoài vỉa hè hò hét giục mọi người . Cự Lâm nghe rõ tiếng Phúc oang oang :” Cần bao nhiêu cứ lấy. Càng nhiều càng tốt. Ông cụ đã muốn keo bẩn thì cho keo bẩn một thể…”

Đã dắt tự vệ phá kho của bố , thoát ly gia đình đi tự vệ , Phúc còn ngoái cổ chửi bố . Anh thổ lộ với đồng đội :

“ Các anh nên hiểu cho tôi. Tôi ngồi trên đống của thật đấy, nhưng tôi không muốn nối cái nghiệp làm giàu của cậu tôi. Cái dịp ấy bây giờ đã đến với tôi…”

Cái dịp ấy chính là “vào làm giáo viên hội truyền bá mặc dầu nhà cấm vì sợ mật thám theo dõi . Đã có lúc anh đóng cửa buồng lại, đứng trước gương tập diễn thuyết để sau này ra làm việc xã hội …”

Trong hội nghị quân sự của Liên khu 1 Hà Nội, tiểu đoàn trưởng vệ quốc quân đứng lên nói xấu người Hà Nội :

“ Thì Hà Nội là đất của tiểu tư sản , bấp bênh và quay quắt , cách mạng lên thì nó ào ào đi, cách mạng xuống thì nó quay lưng lại, Pháp cũng theo, Nhật cũng theo , tàu trắng cũng theo, Việt Minh cũng theo và nếu Mỹ vào thì cũng đi với Mỹ…”

Hội nghị quân sự Liên khu 1 Hànội vào trước đêm toàn quốc kháng chiến gồm các cán bộ quan trọng bàn về tác chiến mà lạ thay suốt hơn 30 trang diễn tả hội nghị , phần lớn các nhân vật chỉ hô khẩu hiệu suông :

“ Đồng chí Bí thư nói:

“ …Chúng ta phải làm những người tiên phong đi giải phóng dân tộc chúng ta. Trong ngày vừa qua, nhiều đảng phái đối lập công kích ta, hòng làm giảm uy tín của Đảng ta. Họ đòi chia quyền lãnh đạo , thậm chí đòi Đảng ta bỏ quyền lãnh đạo . Nhưng trong lúc Tổ Quốc lâm nguy này thì họ ở đâu ? Người đứng mũi chịu sào trung thành với dân tộc vẫn chỉ có Đảng ta. Trong cuộc kháng chiến này , một lần nữa , Đảng ta lại làm cái sứ mạng là lái con thuyền Tổ Quốc vượt qua bão táp phong ba tới bờ thắng lợi …”

Hoá ra trong lúc nước sôi lửa bỏng, đảng ta vẫn lo việc giữ độc quyền lãnh đạo và suy cho cùng, chính cuộc kháng chiến chống Pháp đã giúp đảng loại bỏ các đảng đối lập một cách dễ dàng.

“ Ông Khu phó phát biểu :

“ Nói tóm lại, nếu các đồng chí có một quyết tâm thật là sắt đá , nếu các đồng chí dựa được vào lòng yêu nước của bộ đội , của nhân dân , nếu các đồng chí biết phát huy những điều kiện thuận lợi đặc biệt của Liên khu 1 thì các đồng chí nhất định chiến đấu lâu dài trong thành phố được . Chính phủ, Hồ Chủ tịch giao cho các đồng chí một nhiệm vụ rất vinh quang. Các đồng chí cố lên. Dù có phải hy sinh thế nào cũng phải cầm cự tới cùng…”

Ông tiểu đoàn trưởng :

“ Chúng tôi, những người Vệ quốc quân, chúng tôi quyết không để cho Pháp thực hiện cái ý đồ của chúng. Nghĩa là chúng tôi sẽ hy sinh đến giọt máu cuối cùng. Chúng tôi xin thề như thế trước chân dung Hồ Chủ tịch, trước mặt đồng chí Bí thư, đồng chí Khu phó và tất cả các đồng chí…”

Ngày nay khi đã có một “độ lùi” nhất định nhìn lại các sự kiện lịch sử, người ta lấy làm lạ rằng trong những ngày đầu rơi máu chảy, biết bao nhiêu bà già con trẻ lạc lõng bơ vơ, biết bao gia đình tan nát như những tổ chim trước bão….Một xã hội đang vỡ tung trong loạn lạc, bi kịch về thân phận con người đang bị đẩy tới đỉnh điểm. Một khoảnh khắc lịch sử tràn đầy máu và nước mắt. Vậy mà thật đáng ngạc nhiên, ngòi bút của ông nhà văn không đi sâu khai thác những nỗi bất hạnh trong chiến tranh, ngược lại dùng rất nhiều trang ghi lại phát biểu “đao to búa lớn” của mấy ông cán bộ đảng khi súng sắp nổ trên toàn thành phố rồi vẫn còn cà kê ngồi khai hội.

Ông Bí thư lại nói nữa :

“ Chúng ta muốn hoà bình. Đến phút cuối cùng Hồ Chủ tịch vẫn cố gắng duy trì hoà bình. Nhưng chúng nó cố tình cướp nước ta lần nữa . Chúng đã khai chiến ở Hải Phòng , chúng đã khai chiến ở ngõ Yên Ninh rồi. Chúng ta muốn hoà bình , nhưng không phải hoà bình trong nô lệ. Chúng ta quyết đứng lên chiến đấu, bảo vệ quyền lợi cho dân tộc , đập tan sự nguy hại cho nền dân chủ và hoà bình …”

Người ta không hiểu sao phần lớn cán bộ đảng cứ thích nói dài, nói dai, nói chính trị quanh đi quẩn lại vài điều người nghe dường như đã “biết rồi, khổ lắm…”. Rất có thể trong khi nói, khoái cảm “đứng trên đầu thiên hạ” tràn trề trong người làm cán bộ khó mà dứt được.

Sau khi nhắc đến cụ Hồ rồi, ông Bí thư lại nhắc tới lãnh tụ khác :

“ Như đồng chí Trường Chinh đã nói, chúng ta sẽ làm cho giặc đói không có ăn, khát không có uống, có chân như què, có mắt như mù, có miệng như câm. Các đồng chí hãy nêu cao tinh thần dũng cảm của người cộng sản quyết chiến quyết thắng…”

Cứ như thế ông Bí thư độc chiếm diễn đàn cho tới khi cuộc họp kết thúc sau suốt một ngày một đêm “hô khẩu hiệu suông”.

Lúc này ngoài cổng trụ sở có một cô gái chờ sẵn suốt trong lúc cán bộ họp. Đó là cô Quyên, nữ sinh Hà Nội , đang muốn “nằm gai nếm mật, ở mặt trận thì phải là màn sương gối đất chứ có đâu lại đi làm một công việc văn phòng chẳng có gì là khó nhọc, ro ró ở một xó nhà…” . Cô nữ sinh ôm ấp hình ảnh người chồng tương lai phải “ đã bị đầy ra Côn Đảo , đã phải vượt tù trốn về khu giải phóng, và lúc này phải gánh vác những công việc lớn lao.” để cô có thể “ hy sinh tất cả cho anh để bù lại trăm nghìn gian khổ mà anh đã phải chịu trong bao nhiêu năm…”.

Với nhân vật Quyên , Nguyễn Huy Tưởng báo hiệu sự xuất hiện của thế hệ thứ nhất của hồng vệ binh Việt Nam theo sau những tên tuổi như Lý Tự Trọng và sau này là Võ thị Sáu.

Vậy trong suốt một ngày một đêm cô Quyên chờ ai vậy ?

Đó là “chị Oanh” , nguyên nữ sinh trường Đồng Khánh, “đã dẫn đầu các bạn học đi dự lễ kỷ niệm Gian Đa và Hai bà Trưng do trường Anbe Xarô và trường Bưởi cùng làm chung. …Thế rồi Oanh bị đuổi. Trước ngày Nhật đảo chính, Oanh tham gia cách mạng. Sau đảo chính Oanh càng hoạt động tích cực. Bị Nhật lùng bắt , Oanh phải thoát ly gia đình ra ngoại ô. Trước ngày cách mạng, Oanh là một trong những người phụ nữ cứu quốc đứng trên gác Nhà hát thành phố , diễn thuyết hô hào ủng hộ Việt Minh trước đám biểu tình ngày 17 tháng 8….”

Vậy Oanh là một nữ cán bộ to, được dự Hội nghị quân sự Liên khu 1 lại được ngồi xe ô tô về Bắc bộ Phủ. Gặp được Quyên, cô kéo Quyên tiện thể ngồi ô tô luôn. Khi xe chạy qua Trường nữ học Đồng Khánh vốn là trường cũ của Quyên, “cô bỗng vịn lên vai Oanh, kêu :

“ Chị ơi, trường Đồng Khánh của chúng ta đây này…”
Oanh nói :
“ Đừng gọi cái tên thằng vua ấy nữa . Bây giờ là Quận uỷ hội…”
“ Không hiểu sao, em nhớ trường cũ qua, chị ơi…”

Vậy là cô Quyên “lính mới” vẫn còn một chút nhớ nhung, xao xuyến về “mái trường xưa”, còn cô cán bộ Oanh, phản xạ đã sặc mùi chính trị , nghe nhắc tên trường đã giãy nảy vì nó là tên “cái thằng vua” bất chấp nó là “mái trường xưa đầy kỷ niệm”.. Có thể tiên đoán được rằng, sau này “khi cách mạng thành công” loại nữ cán bộ như Oanh sẽ trở thành những Bộ trưởng, Thứ trưởng và với cung cách suy nghĩ “lấy chính trị làm thống soái” như vậy, có thể thấy trước họ sẽ đưa đất nước đi tới đâu.
(còn tiếp)

khieman
06-06-2014, 02:39 PM
(tiếp theo)


Kỳ 8


Lần trước, chị Oanh giao cho Quyên làm nhân viên mật mã, cô không chịu , thích chiến đấu ngoài chiến trường kìa. Lần này Oanh lại giao cho Quyên nhiệm vụ khác, ‘oách” hơn nhiều :

“ Quyên này, em sẽ đóng vai thư ký cho một nhà trí thức mới ở Pháp về, một bác sĩ rất giỏi, rất có tiếng nhưng cũng khó hiểu lắm. Bề ngoài là thư ký, nhưng bề trong là theo dõi, có gì thì báo cho chị biết…”

Thế là cô nữ sinh Đồng Khánh trở thành…tình báo viên, làm thư ký moi tin tay bác sĩ nước ngoài về. Đây là hư cấu tuỳ tiện của nhà văn, chứ thực tế, vai trò điệp báo nằm vùng như nhiệm vụ Oanh giao cho Quyên phải là một nữ đảng viên trung kiên, kinh qua công tác và được đào tạo công phu chứ đâu có “ngơ ngác con nai vàng” như Quyên ; khác nào đưa gà con vào miệng cáo? vả lại Oanh đang là cán bộ phụ vận, đùng cái trở thành tổ trưởng tổ tình báo từ lúc nào nhanh thế?

Một yếu nhân cũng vừa ra khỏi cuộc họp quân sự – Quốc Vinh, Chủ tịch Liên khu 1. Vừa nãy trong hội nghị ông làm một “báo cáo thành tích” quân dân thủ đô dài dằng dặc gần hai trang in. Hoá ra mấy ông cán bộ chóp bu rất giống nhau : từ lời ăn tiếng nói cho đến suy nghĩ, cảm xúc…Nếu như cho rằng nhân vật tiểu thuyết là sự tổng hoà giữa tính cách cá lẻ với đặc tính chung của gốc gác xuất thân thì tiểu thuyết “ Sống mãi với Thủ đô” hầu như không có…nhân vật hoặc chính xác hơn chúng không có cá tính và giống nhau như đúc một khuôn. Trong con người của mỗi nhân vật chỉ thấy duy nhất cái ‘siêu ngã” đang hoạt động – tức là cái con người xã hội, con người công dân, yêu nước, căm thù giặc Pháp; ngoài ra hoàn toàn không thấy dấu vết của sự hoạt động bản năng nguồn gốc của mọi vượt trội, gây mất trật tự trong bầy đàn.

Ta thấy câu nói của mấy ông sau đây đặt vào mồm ai cũng được – ông Bí thư, ông Khu phó, ông Chủ tịch Liên khu 1, ông Tiểu đoàn trưởng bảo vệ Bắc Bộ phủ :

“ Tất cả những con người ấy , bị áp bức, bị bóc lột, bị đày đoạ về tinh thần và vật chất , dưới thời nô lệ , đã thấy rõ cách mạng đem lại quyền lợi cho mình. Từ ngày tiền khởi nghĩa đến giờ họ đã được giáo dục, được động viên, được tổ chức, nên họ có một lòng căm thù đối với giặc, một lòng tin tưởng tuyệt đối vào Chính phủ vào Hồ Chủ tịch…”

Quả thật cái đoạn thoại này giống y như xã luận báo Đảng chứ chẳng phải ngôn ngữ của nhân vật. Văn chương của cuốn tiểu thuyết nằm ở đâu ?

Từ hội nghị ra, ông Liên khu trưởng Liên khu 1 ngồi ô tô về cơ quan. Ông thấy “ đầu phố hàng Đào, phía Cầu Gỗ , sừng sững đỏ tươi , hai chữ CẢM TỬ kẻ từ bao giờ , chiếm cả cái bề dài bề rộng của bức tường vôi nham nhở của một dãy quán bán sách đã dọn đi. Hai chữ cảm tử như đôi mắt nhỏ máu lừ lừ nhìn Quốc Vinh . Dưới là một hàng chữ đen : “Chúng tôi , những thanh niên Hà Nội nguyện hy sinh đến giọt máu cuối cùng . Thề sống chết với Thủ đô!”. Phố hàng Gai , một biểu ngữ nữa kẻ bằng chữ đỏ :” Mỗi phố là một mặt trận, mỗi nhà là một pháo đài ! “

Thực ra nếu cần ca ngợi tinh thần ‘sống chết bảo vệ thủ đô” của thanh niên Hà Nội thì khỏi cần “đi sâu” vào những khẩu hiệu vốn là thứ thật khó đưa vào tiểu thuyết – một thể loại văn học cần tình tiết sống động nhiều hơn là những chính luận khô khan. Tiếc thay sau khi đã dẫn tràng giang đại hải những phát biểu đậm đặc chính trị của các cấp cán bộ Đảng, ông nhà văn vừa cho độc giả thoát ra khỏi cái nặng nề u ám của không khí cuộc họp thì lại ấn cổ người ta vào ngay thế giới của những khẩu hiệu khô khan cho dù nó nói lên tinh thần quyết tử của thanh niên Hà Nội lúc đó.

Vậy nhưng người ta thừa biết có phải tất cả bọn họ đều quyết tử cả đâu , một bộ phận không nhỏ thay vì nghĩ tới số phận của Hà Nội, của cách mạng họ lo tới bản thân và gia đình trước đã. Đó là quyền được sống, được tồn tại chính đáng của con người.Vậy nhưng cuộc đào thoát khỏi tử thần trong cái cối xay thịt Hà Nội vào những ngày mới bùng nổ chiến tranh của hàng ngàn hàng vạn người dân không được ông nhà văn nhắc tới hoặc giả có nhắc tới thì cũng với giọng khinh miệt coi họ là những kẻ đào nhiệm hèn nhát.

Rõ ràng ông nhà văn đã chọn chỗ đứng trong chiến hào chỉ để nhìn địch ta giết nhau và nhất định không chịu xê dịch đi đâu để thấy bao cảnh đời khổ ải trong cõi nhân sinh mà máu và nước mắt đã chảy thành sông thành suối.

Trở lại với anh giáo Trần Văn đưa mẹ ra ga về quê, gặp lại và coi khinh người yêu cũ khi cô hoà vào dòng người chạy loạn. Một anh giáo trường tư chưa bao giờ “tham gia cách mạng” ấy thế mà tâm tình lúc này còn rào rạt cách mạng hơn cả mấy anh cán bộ Việt Minh :

“ Anh thấy rực rực trong người cái vinh quang của một dân tộc hiền hậu mà tự cường, cần cù mà tế nhị…Một dân tộc mà lòng yêu hoà bình cũng lớn như lòng yêu các dân tộc khác nhưng luôn luôn bị chà đạp , bị khinh miệt , bị chia rẽ, bị tàn phá và khi bắt đầu được thấy loé cái ánh sáng của tương lai thì kẻ ngoài lại đến để tiếp tục vùi dập…Cách mạng Việt Minh mới ra đời trong lụt lội, trong đói khổ và trong kiệt quệ, Hà Nội chưa hồi sinh đã lại chứng kiến đạo quân Tầu phù của Tiêu Văn, Lư hán, nhiễu nhương , bòn vét, giết người và ỉa bậy….Bóng ma thanh thiên bạch nhật vừa mờ đi thì đạo quân thiết giáp kéo cờ tam tài lại xuất hiện trên các đường phố Hà Nội …”

Còn dài, còn miên man vậy nữa khiến tâm trạng anh giáo viên tiểu học Hà Nội chẳng khác gì tâm trạng chính uỷ lão luyện quanh năm chỉ lo việc Đảng việc nước. Người ta càng lấy làm lạ tại sao các nhân vật trong “ Sống mãi với thủ đô” giống nhau đến thế ? Chúng cứ như những hạt ngô trong cùng một bắp vậy. Viết lách thế này mà cũng mang danh “tác phẩm lớn” trong văn học Việt Nam thì kể cũng lạ.

Tuyệt nhiên không nghĩ tới mẹ già đang sống ra sao nơi tản cư, anh giáo Trần Văn cho đầu óc phiêu diêu tới miền tưởng tượng :

“ Trần Văn nhìn cái ụ bao cát …anh sẽ nấp ở đấy mà ném lựu đạn vào quân Pháp tiến vào…Khi xe tăng giặc đến thì mình phải nhảy ra mà ném chai ét xăng cơrếp rồi quăng lựu đạn. Dũng cảm hơn, phải lao vào xe, cầm một khúc gỗ đút vào xích xe cho nó bật ra khỏi bánh. Anh vốn chậm chạp , anh không hiểu con người phải nhanh đến như thế nào mới làm được ngần ấy việc trong nháy mắt…”

Suốt nửa cuốn toàn mô tả các nhân vật sục sôi cách mạng, ông nhà văn chợt thấy bức tranh của mình không khéo thuần mầu đỏ, ông vội đưa ra một nhân vật “phản diện” phá thế đơn điệu. Đó là Tân – bạn của Nhật Tân, anh chàng tự vệ đòi bắn thanh niên tản cư, anh chàng nói chuyện chính trị cả với vợ chưa cưới khi chia tay.

“ Nhật Tân với Tân là đôi bạn chí thiết từ nhỏ . Nhà giàu , Tân thường giúp đỡ Nhật Tân. . Sau ngày Nhật đảo chính Pháp , Nhật Tân vào Việt Minh, Tân không đồng ý nhưng vẫn giúp…”

Vào lúc gần nổ ra chiến tranh, Nhật Tân tới nhà Tân lôi kéo bạn vào tự vệ . Anh nói :

“ Có thể đêm nay nó đánh mình…”
“ Trời ơi, trời ơi, trời ơi ! Mày doạ một thằng trẻ con đấy à , Nhật Tân ?”
Rồi Tân vứt cái cốc xuống sàn vỡ tan , huỵch toẹt :
“ Tao đi với Việt Minh thì rồi cũng thế này thôi. Nghĩa là đánh xong Pháp thì đến lượt chúng tao họ làm cỏ, của cải họ đem chia . Đấy, rồi mày xem, có đúng không ?”

Thế là hai người bạn thân đứng về hai phe đối nghịch nhau, ngược nhau về quan niệm sống, về quan điểm chính trị. Hoá ra cái nhân vật “phản diện “ mà Nguyễn Huy Tưởng đưa ra, cũng chỉ là “con người chính trị” giống y nhân vật chính diện, chỉ khác dấu nhau mà thôi. Nói cách khác , dù là nhân vật cách mạng hay phản cách mạng, chúng đều được xây dựng từ những sơ đồ chính trị-xã hội theo nhãn quan cộng sản mà Đảng buộc mọi nhà văn trong xã hội đều phải tuân theo.

Để cho nhân vật phản diện có vẻ có “tính người”, Nguyễn Huy Tưởng đã cho Tân làm một việc độc đáo. Vào ngày hoà bình cuối cùng của Hà Nội, Tân ra đầu phố mời 4 người đi qua đường, cho dù không quen biết , vào nhà để dự một bữa tiệc cuối cùng.

Một trò chơi thật lãng mạn, thật độc đáo của người Hà Nội trước lúc cơn bão lửa nổ ra. Chỉ có điều 5 con người tập trung ở mâm rượu này, nếu do chủ nhà ra đầu phố chọn tuỳ hứng thì ông tác giả lại phải định hướng cho cuộc chọn lựa. Tất nhiên 5 con người đó không được gồm toàn “phản động” như Tân, hoặc những người cầu an sắp tản cư khỏi Hà Nội. Quả nhiên Nguyễn Huy Tường đã cho Tân chọn đúng ngay …anh giáo Trần Văn, một người đầu óc lúc nào cũng phiêu diêu trong giấc mơ làm liệt sĩ cách mạng. Rút cuộc lúc vào tiệc, Trần Văn đã giơ cao cốc :

“ Đúng rồi. Chúng ta nâng cốc vì Tổ Quốc, vì cụ Hồ. Vận mạng của dân tộc chúng ta quyết định trong những ngày sắp tới, có khi ngay trong đêm nay. Sống chết vì Tổ Quốc, sống chết vì cụ Hồ, linh hồn của dân tộc…”

Lẽ ra bữa tiệc 5 người này sẽ rất hay , sẽ đầy những tâm tình của người Hà Nội khi quê hương sắp chìm trong máu lửa. Tiếc thay, ông nhà văn đã “chính trị hoá” nó khiến nó trở nên giả tạo, sống sượng đến khó chịu…

(còn tiếp)

khieman
06-07-2014, 02:12 AM
(tiếp theo)


Kỳ 9


Giữa lúc Hà Nội sắp chìm trong bom đạn, dân tình nháo nhác tản cư , đời sống rất khó khăn, thiếu thốn, ông Tân chủ nhà vẫn bày tiệc rôm rả : ” nem chua, chim quay, vịt hầm, thang, thịt gà luộc , cơm trắng, tráng miệng cà phê…” và mời mọc hào phóng :

“ Tất cả những chai rượu đây là để thết các bạn. Nút đã mở sẵn. Các bạn cứ tự ý rót, hoàn toàn tự do. Uống bằng hết. Không uống hết thì ta đổ đi. Bởi vì ngày mai, và có thể ngay lúc này , không có gì là chắc cả. Các món ăn, cũng gầy còm thôi, tôi sẽ đem hết lên đây, các bạn muốn ăn gì trước, muốn ăn gì sau, tuỳ hết. Bữa tiệc cuối cùng không có gì là gò bó…”

Khách dự tiệc ngoài anh chỉ huy tự vệ Trần Văn ra còn có Vũ Minh , một học sinh phố nhà Thờ. Anh chàng này chẳng biết nói gì , chỉ thốt lên :

“ Quái dị…”

Người khách bất đắc dĩ thứ hai là nhạc sĩ Thu Phong “trong lúc buồn rầu nhớ tiệm và dàn nhạc , anh thuê xe lần xuống Bạch mai để hát cô đầu giải muộn và dối già …anh đang đói nên Tân mời là vào ngay…”

Người khách thứ ba là Ben-la, một chủ hiệu ảnh đi mua được mấy chục cuốn phim dự trữ để tính chuyện về quê làm ăn …”Vẻ mặt nhạt nhẽo , tầm thường không có cá tính. Anh đeo cái máy Kodak một bên , một bên là cái túi da đựng phim , sẵn sàng có gì là chạy…”

Tất cả bốn người đều tôn trọng đề nghị của ông chủ nhà kỳ dị, không ai tự giới thiệu với ai, không ai muốn phá cái không khí bí mật, gần như hoang đường ấy. Bởi thế Tân, chủ nhà phải khuyến khích mọi người nói :

“ Các bạn cứ hoàn toàn tự do. Ta nói chuyện đi , chuyện trời đất, chuyện trai gái , chuyện dâm dục, chuyện chính trị , tha hồ. Miễn là tiệc của năm người Hà Nội không chết …”

Người cao giọng, cà kê dê ngỗng dạy dỗ thiên hạ lại vẫn là anh cán bộ Trần Văn . Anh trách cứ thanh niên Hà Nội không có lý tưởng “thường chỉ đuổi theo cái ăn cái mặc, lao tâm khổ tứ vì cái ăn cái mặc , cả cuộc đời rút lại chỉ là cái ăn cái mặc. “. Anh trách “ cô tân thời ăn mặc sang trọng , ngồi trên xe tay nhà gọng đồng sáng loáng đi chợ Đồng Xuân “ sống làm gì ? Anh chê “ anh công tử một sơ mi hàng ngày chải đầu bóng mượt, thắng bộ quần áo bảnh bao đi diện phố , lậu vé xinê rồi buổi tối về , chờ cho mọi người đi ngủ , mới cởi áo đem giặt , phơi phóng rồi nằm ngủ cởi trần , kết thúc một ngày vô lý …”

Anh cán bộ tự vệ phàn nàn :” Tôi đã từng trông thấy những người Hà Nội suốt đời chỉ có một mục đích là cái bát phở buổi sáng , họ đem hành tây, họ đem trứng đi, đến hàng phở quen, họ đánh dấu bát để đưa chan, họ hỏi hồ tiêu , họ đòi ít ớt , họ xin ít nước béo , họ vùi đầu vào bát phở một cách thô tục , xấu xí, rồi họ ra đi một cách tự mãn …Con người mà thế thì buồn lắm….Phải khác …”

Nhân danh người Hà Nội lại mạt sát văn hoá ẩm thực của Hà Nội, ông nhà văn tưởng rằng hạ thấp cách sống của người Hà Nội sẽ tôn vinh được “văn hoá cách mạng” vốn có cốt lõi là “diệt trừ sự hưởng thụ” , ngờ đâu, khi “cơn bão táp” cách mạng đi qua, cái còn lại với thời gian lại chính là những giá trị văn hoá. Nếu còn sống đến ngày nay, không hiểu ông nhà văn Nguyễn Huy Tưởng có chịu đục bỏ những lời lẽ xúc phạm nghệ thuật ăn phở của người Hà Nội thô bạo đến thế.
Vậy ông nhà văn đòi hỏi người Hà Nội phải sống khác ra sao ? Ông nói :

“ Ngoài cái ăn cái mặc ra , còn phải suy nghĩ làm sao có thể giúp ích cho đời , phải có cái gì đó để lại , nó đánh dấu sự tồn tại của một con người , nó nâng con người lên trên cái ăn cái mặc . Đấy là lý tưởng , đấy là lý do sự có mặt của mình trên trái đất…”

Lời lẽ của anh cán bộ tự vệ lúc đã ngà ngà say thật đúng là văn…bia. Chỉ buồn một điều là cả cái thế hệ “tự vệ thủ đô” ngày ấy đã để lại được cái gì có ích cho đời ? Đưa cả dân tộc vào khói lửa 9 năm chinh chiến chống Pháp , 10 năm chống Mỹ, đói nghèo vẫn hoàn đói nghèo và chính họ lao vào cuộc đấu đá giành giật “ cái ăn cái mặc ” dẫn tới quốc nạn tham nhũng ngày nay.

Có lẽ do ngán ngẩm bài “diễn văn” sặc mùi chính trị của ông cán bộ tự vệ, ông thợ ảnh rút lui trước, còn cậu học sinh phố nhà thờ Vũ Minh bỗng dưng cũng nổi máu “yêng hùng” đứng dậy hùng hồn :

“ Rất đồng ý, nâng cốc vì Tổ Quốc, vì cụ Hồ. Tôi cũng rất phục cụ Hồ , hai tháng trước đây , tôi đã làm hàng rào danh dự đón ông Cụ ở Pháp về. Nhưng xin nói thêm : nâng cốc vì thắng lợi nữa…”

Tuy thế, trong lời lẽ của anh học trò này còn có đôi chút ”lãng mạn”:

“ Nếu có đánh nhau thì những người đã dự bữa tiệc này không ai chết…và ông chủ sẽ có thể một ngày nào đó lại cho chúng ta ăn một bữa cơm no say như thế này…:”

Ông nhạc sĩ đã qua cơn đói, cũng bắt chước ông cán bộ tự vệ, đứng dậy hùng hồn :

“ Tôi nói thật bởi vì trong cái đời giang hồ của tôi , hết bar này tới bar khác , Pháp đánh cũng có, Nhật chửi cũng có , Tàu bợp tai cũng có , trong nam ngoài bắc , cả cái đất của Thống chế họ Tưởng nữa , ở đâu cũng thế thôi , chưa bao giờ tôi được sống cái phút say sưa như thế này …”

Bữa tiệc gặp gỡ ngẫu hứng của 5 văn nghệ sĩ trí thức Hà Nội là như thế, họ toàn nói những câu nặng mùi chính trị, bày tỏ lòng căm thù giặc Pháp, lòng tôn kính cụ Hồ, bài bác tính cách hưởng thụ của người Hà Nội .

Khi tưởng tượng ra bữa tiệc đầy ý nghĩa này, ông nhà văn thiếu hẳn cái tình cảm xót xa của người Hà Nội khi Thăng Long sắp trở thành chiến địa, thiếu hẳn những phản ứng tâm lý, những hành vi rất riêng , đầy tính lãng mạn của người Hà Nội – nhất là văn nghệ sĩ trí thức – trong giờ phút hiểm nghèo này, thiếu hẳn những dự cảm tương lai của Hà Nội khi bước vào cuộc chiến đẫm máu. Nếu là một tài năng văn học thực sự, nhất định người đọc sẽ được thưởng thức một “bữa tiệc cuối cùng” của 5 người Hà Nội lãng mạn hơn , “con người” hơn là những đối thoại dài dòng, chính trị một chiều này.

Không khí chuẩn bị chiến đấu mỗi lúc khẩn trương khắp thành phố và lạ thay càng tới gần giờ G đó, người Hà Nội càng có vẻ …hăng hái giác ngộ cách mạng , thấm nhuần tư tưởng “quốc tế vô sản” mác xít- lêninnít. Anh học sinh đặc sệt tiểu tư sản tên Loan, đang ở trong tiểu đội tự vệ làm chân vẽ bản đồ khi nhìn thấy người mẹ Tàu cho quà con nít Việt Nam đang theo mẹ tản cư cũng làm ngay một thuyết lý chính trị với cô Quyên – nữ sinh tham gia cách mạng :

“ …Chị có thấy không, người mẹ Tàu chẳng khác gì mẹ Việt nam . Các bà mẹ đều là hiện thân của sự hy sinh lặng lẽ…”

Vậy là đã có sự phân biệt giữa bọn Tàu ô mang cờ thiên thanh bạch nhật sang cướp bóc nước ta với người Trung Quốc chân chính như “người mẹ Tàu “ cho quà con nít Việt Nam kia. Cô Quyên vốn được chị Oanh, cán bộ phụ nữ giao nhiệm vụ làm thư ký cho ông bác sĩ Pháp mới về để “ khám phá ra một tổ chức phá hoại”. Ai ngờ, vừa gặp , ông bác sĩ – tên Pha, đã xổ ra một tràng ‘lập trường cách mạng” làm cô Quyên cứ tròn xoe cả mắt :

“ Tôi đã sống những ngày kháng chiến Pháp ở Paris. Không có những việc đục tường , đào hố như ta. Thanh niên Pháp cũng không có những lời thề đanh thép :” Sống chết với Thủ đô” như thanh niên ta. Làm gì họ có người mẹ sắm súng cho con ở lại , chồng cho vợ về quê để vào tự vệ , em bé nằn nì xin vào bộ đội . Cả một dân tộc đứng lên. Quây chung quanh một chính phủ, thà hy sinh tất cả chứ không chịu trở về đời nô lệ., mais c’est inoui, c’est magnifique …”

Một ông bác sĩ Việt kiều vừa Pháp trở về mà ăn nói không thua gì một ông cán bộ Việt Minh trong nước. Điều này càng chứng tỏ Nguyễn Huy Tưởng tuy đưa ra nhiều loại nhân vật trong tiểu thuyết mà rốt cuộc người ta chỉ thấy có một mà thôi: người công dân yêu nước, yêu cụ Hồ , giác ngộ cách mạng và nói năng như…cán bộ.
(còn tiếp)

khieman
06-08-2014, 12:39 AM
(tiếp theo)


Kỳ 10


Tất nhiên để xây dựng nhân vật bác sĩ mới từ Paris trở về theo lời kêu gọi của cụ Hồ, ông nhà văn phải cho nhân vật nói năng có tí ti tiếng tây không thì lẫn với các cán bộ :

“ Tôi rất vui được sống ở Hà Nội những ngày tuyệt đẹp như thế này. Những cái phố rất Việt Nam, đi đâu về mới càng thấy quý, những tên phố rất nên thơ , những con người rất sympathiques, tout pour une noble cause , như cô chẳng hạn, gentile mademoiselle…C’est de quoi nous enorgueillir…”

Rồi ông bác sĩ Việt kiều còn khuyên cả mấy anh cán bộ …”làm thơ” nữa :

“ Phải làm thơ chứ . Kháng chiến Pháp buồn lắm . Paris vẫn yên như không , chẳng có gì là kháng chiến cả . Thế mà những nhà thơ của nó làm như đẹp lắm, to lắm . cả thế giới biết. Huống chi là ta …”

Tính cách ông này giống một tay bẻm mép, một gã ba hoa, nhiều hơn là một ông đốc tờ. . Ấy thế mà lời “vàng ngọc” đó lại rúng động tâm can anh tự vệ tên Loan, vốn là học sinh đặc sệt tiểu tư sản, “ từ hôm đến đây , Loan đã cho rằng chẳng bao giờ mình còn làm thơ nữa. Cuộc đời sẽ chỉ còn chém giết , là đổ nát, là căm thù , là chết chóc , chẳng có gì là đẹp“,

... anh còn cực đoan hơn nữa khi cho rằng :

” Mơ mộng gì nữa khi bầu trời Tổ quốc không còn là bình minh của hương sắc mà đục ngầu những hình thù tối đen của mũ đỏ và thổ phỉ…”.

Những tưởng anh chàng Loan này từ nay sẽ trở thành một chiến sĩ không tim , chỉ biết nhắm mắt cầm súng bắn quân thù, “may thay”, được nghe ông bác sĩ Việt kiều ‘diễn thuyết”, Loan bỗng tỉnh ngộ “ bàng hoàng như người tìm thấy một vật quý tưởng như đã mất…”.

Mặc dầu sự “giác ngộ” của Loan là đáng ngờ, nhưng ông nhà văn quên khuấy mất “phận sự” nhà văn cách mạng , bởi lẽ vai trò “đả thông tư tưởng” cho cán bộ, nhân dân là thuộc về người của đảng chứ không phải ông bác sĩ Việt kiều. Ông này mặc dầuvề nước tham gia cách mạng nhưng vẫn thuộc “phần tử đáng ngờ “, bởi thế cô cán bộ Oanh phải cử hẳn cô nữ sinh Quyên luôn đi cặp kè để giám sát coi ông bác sĩ có “ tổ chức phá hoại “ nào không ? Ở đây ông nhà văn vô tình đã phản ánh cái bản tính luôn luôn nghi kỵ của đảng, luôn luôn ngờ vực và không tin bất kỳ ai ngay cả khi họ chỉ mang tới những điều tốt đẹp cho xã hội.

Quả nhiên cô giám sát viên tên Quyên “ đưa mắt nhìn Loan như để bảo bạn không nên tin cái ông bác sĩ . Xui người ta làm thơ là để quên việc chuẩn bị đánh. Đi lang thang ngoài phố là để nghe ngóng tình tình hình. Khen mình giỏi để không ai nghi ngờ nữa…”.

Đọc tới đây người đọc phải thắc mắc không hiểu đảng giáo dục cách nào mà cô nữ sinh Hà Nội tên Quyên này có được “tính đảng” nhanh quá vậy ? Cô nhìn nhận mọi sự trên đời qua đôi mắt “cảnh giác” của công an. Người ta khuyên nên làm thơ cô lại cho rằng đó là xui dại để quên chiến đấu, người ta đi lang thang phố cô lại nghi rằng đi nghe ngóng tình hình. Cô lại còn tự hào “ giấu thế nào được Quyên. Sắp đánh nhau rồi còn đi mua táo, kháng chiến gì những người này. Lại vẫn còn nói tiếng Pháp, chỉ riêng việc này cũng chứng tỏ rằng lão này nặng tình cảm với địch. Mới ở Pháp về yêu nước làm sao được ?”.

Than ôi, với “ nữ giám sát viên” như cô nữ sinh Quyên , ông bác sĩ Pha khó sống được với cách mạng, chẳng bao lâu nữa chắc sẽ hối hận đã nghe theo cụ Hồ rủ rê về nước tham gia kháng chiến.

Rất may “ Sống mãi với Thủ đô” mãi tới năm 1960 mới xuất bản chứ nếu nó ra đời từ năm 1945 là năm cụ Hồ kêu gọi trí thức Việt Nam ở Pháp về nước đóng góp cho cách mạng thì sau khi đọc tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng chắc bà con Việt kiều “bỏ của chạy lấy người” về Pháp.

Càng gần tới giờ G, giờ nổ súng đánh Pháp, người bận rộn nhất trong hàng ngũ cách mạng phải kể tới ông Liên khu trưởng Liên khu 1 Quốc Vinh. Tất nhiên, ông phải là cộng sản gộc với đầy đủ phẩm chất cán bộ lãnh đạo đảng. Ông xuất thân thợ nhà in đi làm cách mạng.

“ Hồi bí mật , có nhiều lúc khó khăn, anh bị đói khát, bị truy nã , nhưng việc tuyên truyền , vận động quần chúng thẳng một chiều anh thấy còn dễ . Ngày bị bắt , vấn đề chỉ là cắn răng chịu đựng để không phản bội…”.

Vậy là cái cương vị Liên khu trưởng Liên khu 1, Nguyễn Huy Tưởng đã đặt một nhân vật đúng khuôn mẫu lý thuyết của cán bộ cộng sản : xuất thân công nhân, đi làm cách mạng, bị địch bắt , bị tra tấn vẫn giữ khí tiết cách mạng. Thế nhưng ở cái ghế lãnh đạo cao nhất một liên khu quan trọng nhất ở Hà Nội, cái ông xuất thân thợ in ấy, rồi xoay xở ra sao ?

“ Nhưng bây giờ thì công việc như rừng . Anh chỉ nghĩ chung chung mấy điểm , nắm vững lực lượng đồng chí, dựa vào quần chúng, bồi dưỡng tinh thần kháng chiến quyết tâm diệt địch đến cùng…”.

Vậy tức là “đồng chí” Liên khu trưởng chẳng cần tới kế hoạch tác chiến, nắm vững tình hình địch ta, chẳng cần suy nghĩ gì về chiến lược chiến thuật, chỉ cần nắm chung chung, nắm các đồng chí và dựa vào quần chúng giáo dục họ tinh thần quyết chiến là... hoàn thành nhiệm vụ. Ta hãy xem ông cán bộ lãnh đạo giải quyết sự vụ hàng ngày :

“ Đồng chí thư ký đọc từng việc ghi trong sổ :
Tuyên truyền đang bí bài hát . Đề nghị giải quyết…”
Có Diệt phát xít , Bao chiến sĩ anh hùng, còn gì nữa…”
Không đủ ạ…
Thì có cậu gì mới đến đấy, bảo làm thơ thêm vào…
Các chị đề nghị hát Suối mơ, Đàn chim Việt…
Đánh nhau mà lại Suối mơ …”

Rõ đúng tính cách cán bộ cộng sản, đang dầu sôi lửa bỏng mà vẫn không quên “lãnh đạo toàn diện” cấm đoán cả đến một bài hát. Vậy là ngay khi đảng vừa cầm quyền, những nhạc phẩm bị quy là “nhạc vàng” đã bị bỏ tù dài hạn mãi gần nửa thế kỷ sau vào thời đổi mới lần lượt mới được tha bổng.

Vào trước ngày toàn quốc kháng chiến, người ta cứ tưởng sau lời hiệu triệu của ông Hồ Chí Minh muôn người sẽ kề vai sát cánh, chung một chiến hào mà đánh giặc Pháp. Sự thực nếu đi sâu vào cơ cấu quyền lực ta sẽ thấy đó chỉ là cái vỏ ngoài, thực chất những người cộng sản nắm quyền lãnh đạo tuyệt đối, thiết lập một ranh giới “trong đảng –ngoài đảng “ trong mọi công việc. Bởi thế ông Uỷ viên quân sự Văn Việt là người ngoài Đảng nên “mù tịt” chẳng biết sẽ đánh đấm ra sao.

“ Văn Việt đẩy cửa chạy vào nét mặt hầm hầm . Cái ve áo blu-dông tím của Văn Việt đã đính cái huy hiệu Hồ Chủ tịch mà anh chỉ đeo khi có việc quan trọng hay trong ngày lễ. Văn Việt hỏi :
“ Ông Quốc Vinh, tôi muốn ông nói rõ cho tôi.”
“ Cái gì thế, tôi tưởng anh đang bố trí ở hãng Sauvage.
Quốc Vinh bắt tay Văn Việt có điều không hài lòng. Văn Việt nói :
“ Chúng ta chủ động đánh nó hay nó đánh ta ? Tối nay , mình hay là nó ? Tôi là uỷ viên quân sự, tôi phải biết chứ ?”

Ông uỷ viên quân sự nhầm lẫn ở chỗ dù có là uỷ viên trời, nhưng không phải là đảng viên cộng sản thì ông chỉ được biết những gì đảng cho phép thôi. Bởi thế nghe ông Uỷ viên quân sự cằn nhằn , ông cán bộ cộng sản vẫn điềm nhiên :

“ Tất cả những điều anh muốn biết rồi anh sẽ biết. Không có điều gì giấu anh cả. Kế hoạch sáng ngày đã bàn rồi, anh cứ làm như thế…”

Vậy là ông uỷ viên quân sự không phải đảng viên chỉ được phép biết đến đó, cứ theo đó mà làm đừng có đòi cái quyền được cung cấp thông tin như của cán bộ đảng viên khác.

“ Văn Việt cau mặt , nhún vai, tay đập mạnh vào bao súng . Lời nghẹn trong cổ:
“ Được . Các ông bảo làm gì , tôi làm cái ấy . Tôi hoàn toàn chịu quyền chỉ huy của các ông kia mà. Cái kiếp một thằng quần chúng vĩnh viễn là như thế thôi. Nó có được biết cái gì đâu ?”

Thật đúng là một ví dụ cụ thể và sinh động về việc đảng chiếm đoạt quyền lực của nhân dân từ rất sớm, từ ngay trong những ngày cần thiết phải huy động toàn dân tộc đương đầu với ngoại xâm. “ Cái kiếp một thằng quần chúng vĩnh viễn “ càng về sau càng thê thảm hơn : những giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, Bùi Huy Đáp, Lương Định Của , luật sư Trịnh Đình Thảo, Nguyễn Hữu Thọ…những trí thức “ngoài đảng” chắc sẽ thấm thía hơn ai hết khi đọc đoạn này trong tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng.

(còn tiếp)

khieman
06-08-2014, 05:39 PM
(tiếp theo)

Kỳ 11


Thế rồi cái giờ G., giờ tự vệ Hà Nội nổ súng vào quân đội Pháp cũng đã tới. Vào cái giờ phút long trọng này, ông Liên khu trưởng Quốc Vinh ngồi với chị cán bộ Oanh và nói vào máy điện thoại :

“ Pháo đài Láng chuẩn bị pháo lệnh kháng chiến…”

Trong giờ phút tối quan trọng, cần tập trung vào chỉ huy chiến đấu thì ông Liên khu trưởng lại …suy nghĩ về bác Hồ :

“Quốc Vinh cầm lấy cái ảnh Hồ Chủ tịch đặt trên bàn rồi lại để xuống. Anh chưa được gần người đồng chí già ấy bao giờ. Trừ cái ngày mồng hai tháng chín ấy. . Đứng dưới lễ đài để bảo vệ , anh ngước lên, thấy lẫn với nhiều người, lẫn với cờ và ô, nhà cách mạng lăn lộn khắp năm châu trở về , đen sạm vì nắng mưa và sốt rét , vừa ho vừa đọc bản Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà . Lúc này đây , lãnh tụ đang trông ngóng chờ anh. …”

Trong các nhà văn của Đảng, Nguyễn Huy Tưởng có lẽ quán quân về “nâng bi lãnh tụ”, chỉ sau Tố Hữu và ngang ngửa với Chế Lan Viên. Sau khi “cơn yêu lãnh tụ” đã qua , ông chỉ huy mới nhớ tới các đồng đội :

“ Trong cái vắng lặng của một cuộc đời đang thay đổi lớn , anh cảm thấy đất ở dưới chân anh chuyển động. Anh như đang trông thấy , nghe thấy đồng chí và đồng bào tiến sát tới cầu Long Biên , Cửa Đông, Cửa Bắc ; Vi Dân đã chôn bom ở Cửa Nam ; những ống hơi của của Sinh sắp nổ trong lò than của xưởng giặc trong thành ; phủ Bắc bộ đã sẵn sàng , các ô cầu Rền, ô Chợ Dừa, ô Cầu Giấy đang vít chúng nó lại , trường bay Gia Lâm sắp bốc cháy ; xa xa cầu Đuống sắp được chiếm lại, xa nữa Bắc Ninh; xa nữa Huế, Sàigòn đang hướng cả về thủ đô…”

Bỏ qua cái “lãng mạn không đúng lúc” ông chỉ huy quân sự lúc này lẽ ra phải tập trung hết tinh lực đón tin tức báo về và ứng phó kịp thời, bỏ qua tính cách vô lý đó, người đọc có thể thấy trên mặt trận toàn Hà Nội toàn tự vệ với nhân dân không thấy bóng dáng “bộ đội chính quy “ ở đâu ngoài mấy anh lính người Thượng canh gác Bắc Bộ phủ. Như vậy cho mãi tới 19 tháng 12 năm 1946, lực lượng vũ trang của đảng vẫn còn quá mỏng, bởi thế cuộc giành chính quyền tháng 8 năm 1945 chủ yếu do nhân dân đứng lên trong sự im lặng “bất can thiệp “của cả chục ngàn lính Nhật vẫn còn nguyên vũ khí. Từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội, những người cộng sản dường như đã “tiếp quản” chính quyền từ tay nhân dân mà không đổ một giọt máu và ngay lập tức họ biến nó thành của riêng và dồn hết tâm lực thiết lập chế độ độc quyền lãnh đạo, toàn trị cho tới tận ngày nay.

Kim đồng hồ vẫn nhích tới giờ G và ông chỉ huy quân sự vẫn miên man trong những suy nghĩ “trừu tượng” tận đẩu tận đâu :

“Trên con đường tiến lên đạp đổ mọi ngai vàng và xiềng xích , dẫn đến công lý và hạnh phúc , anh đã trông thấy nhiều máu phải chảy ra , nhiều đầu phải rụng xuống . Giờ đã đến mà sự chém giết sẽ dữ dội hơn nữa , đồng bào anh sẽ trải qua những tang tóc lớn lao. Nhưng cách mạng cứ phải đi và cuốn theo nó hàng vạn , hàng triệu con người trong đau thương và trong tin tưởng, đứng dậy, lớn lên…”

Vậy người cộng sản đã biết trước cái giá phải trả của dân tộc cho cuộc cách mạng mà họ tiến hành. Dẫu rằng “nhiều máu phải chảy ra, nhiều đầu phải rụng xuống” , mặc kệ, “cách mạng cứ phải đi” kéo theo hàng triệu người chết trong đau thương . Có vẻ coi “‘cái chết “ của nhân dân “ nhẹ tựa lông hồng”, mạng sống của con người như con sâu cái kiến, nên những người cộng sản tuyệt nhiên không bao giờ nghĩ rằng liệu còn có con đường nào khác không phải đổ xương đổ máu mà vẫn giành được độc lập tự do cho dân tộc ? Không, họ không bao giờ có ý nghĩ “phản loạn “ thế. Họ coi hàng triệu người nông dân rồi đây sẽ ngã xuống chẳng có mấy ý nghĩa , cái cao hơn hết thảy là sự nghiệp của đảng, là sự tận diệt các đảng phái, các nhóm đối lập chính trị để đảng khư khư độc quyền lãnh đạo – đó mới là cái đích tối cao họ nhằm tới.
Và rồi “ Phút cuối cùng . Và phút đầu tiên”.

Quốc Vinh đứng dậy nói to như để bù lại những ngày uất ức :

“ Tiêu diệt thực dân Pháp…”
“… Họ ôm choàng lấy nhau trong bóng tối; giữa những tiếng reo ngoài phố khi đèn tắt , tiếng chân chạy ngoài đường và tiếng chó sủa vang. Họ chuyền cho nhau sổ tay để ký dưới ánh sáng lay động của những ngọn nến…”

Thật không thể hiểu nổi tại sao vào giây phút thành phố bắt đầu vào cơn huỷ diệt , máu bắt đầu chảy, xác người bắt đầu chồng chất vậy mà các vị ‘cán bộ’ này lại trao sổ ký lưu niệm . Ba ông bà cộng sản có khi nào làm cái việc “ tiểu tư sản dở hơi” này đâu, nó chỉ là sản phẩm tưởng tượng của ông nhà văn để tăng thêm chất “tiểu thuyết” cho cuốn truyện vậy thôi.
Tuy nhiên từ giờ phút này, sau tiếng pháo lệnh của pháo đài Láng, tất cả những người Hà Nội , người cách này, kẻ cách khác, nhưng tất cả đều đã bước vào cuộc chiến tranh mà ít ai ngờ ràng nó kéo dài tới 9 năm nữa.

Trước tiên là Trần Văn – anh giáo trường tư , quên cả mẹ nơi tản cư mà mơ mộng :

“Khi xe tăng giặc đến thì mình phải nhảy ra mà ném chai ét xăng cơrếp rồi quăng lựu đạn. Dũng cảm hơn, phải lao vào xe, cầm một khúc gỗ đút vào xích xe cho nó bật ra khỏi bánh…”.

Ấy thế mà khi tiếng súng toàn quốc kháng chiến nổ ra, Trần Văn lại đang đi …hát cô đầu và ngủ dậy muộn. Thực ra sẽ có những trang tuyệt hay nếu ông nhà văn miêu tả cái cuộc hát cô đầu ấy vào lúc nổ ra tiếng súng toàn quốc kháng chiến. Nhưng ông đã không làm chuyện đó, ông cho Trần Văn tỉnh dậy và chạy thục mạng ra phố.

“ Vừa nhảy xuống đường hàng Khay , anh vấp ngã , nằm lên một xác người, tay anh mó vào một khúc ruột lầy nhầy. Anh giật bắn người lên, rùng mình và nghẹn cổ…”

Vậy là Trần Văn thay vì trở thành một dũng sĩ đánh bom ba càng thì lại trở thành một anh chạy trối chết trên đường phố Hà Nội để chứng kiến cuộc chiến đang diễn ra.

Theo chân nhân vật Trần Văn, tác giả diễn tả cuộc chiến đấu ác liệt của người Hà Nội chống Pháp.

“ Anh đi trên hè , phút lại lủi vào bờ, ôm lấy thân cây. Bên kia, trước cái bãi ô tô gần nhà bưu điện , lố nhố hai bóng người.Anh định thần thì thấy họ đang lúi húi mỗi người chặt một cây. Một đoàn xe Pháp chạy rầm rộ trên đường hàng Khay bắn lẹt đẹt sang….”

Cuộc chạy trốn của Trần Văn đưa anh tới Nhà máy điện – ở đây anh chứng kiến bi kịch não lòng của Trinh, người yêu cũ, bỏ anh đi lấy chồng giàu. Hình như cái sự “tham vàng phụ ngãi” gây cho tác giả mối ác cảm ghê gớm lắm nên ông đã cho gia đình Trinh tan nát đứng vào lúc cả hai vợ chồng sắp lên máy bay đi Pháp.

“ Bao – chồng Trinh đã lấy được vé máy bay để sáng mai cùng đi với vợ chồng viên Giám đốc sang Pháp. …Thế rồi nổ súng , điện tắt. . Vợ chồng Trinh và vợ chồng viên Giám đốc ở trên gác chạy xuống hầm. .Họ còn đứng trước thềm lúng túng trong bóng tối thì tên lính Pháp xồng xộc tới. Bao chỉ kịp thét Trinh ra hầm thì đã bị bắn gục ngay trên thềm….”

Vậy là tai hoạ đã giáng xuống, chỉ trong nháy mắt gia đình Trinh đã tan vỡ. Đúng lúc này, Trần Văn, người yêu cũ của Trinh đã xuất hiện như một định mệnh để giúp cô qua được những bất hạnh đang đổ ụp xuồng đầu…

Thấy Trần Văn ẵm giúp con mình , Trinh tưởng rằng “ anh nghĩ về mối tình cũ” với cô nên mới sốt sắng vậy. Nhưng cô đã nhầm ,“đối với mối tình đầu , anh gần như đã nguội lạnh và cho đấy là một thắng lợi lớn của tình cảm...”. Đã xác định tình yêu theo kiểu “ đánh trận” như vậy trách nào chàng chỉ huy tự về chẳng thấy “ trước mặt, Trinh chỉ là một người cơ nhỡ , một nạn nhân của chiến tranh . Nhìn Trinh nhỏ bé trong bóng tối, lảo đảo vì mệt mỏi, khuỵu luôn, trật giày luôn , anh thấy ngậm ngùi thương hại”.

Vậy chỉ còn thương hại thôi, tình yêu đã chết thật rồi, lòng anh chỉ còn nghĩ tới “anh em sắp gặp”, tức nghĩ tới cuộc chiến đấu thôi.

Thế rồi anh đưa Trinh và con cô tới nhà cụ Tĩnh Trai , “một tay thích chơi hoa, nhà ở giữa phố, chỉnh tề khăn xếp, cộp cộp giày ban đi ra.

“ Thế là mừng. Sau cái vụ Yên Ninh, cái vụ Đồng Xuân, tưởng là chết hết. May ra yên được. Tôi đang lo cho cái hoa quỳnh nhà tôi mười hai giờ đêm nay nở, không ai đến xem. Chè bánh sẵn cả . Mời các đồng chí chốc nữa vào chơi. Hoa quỳnh nở là hiếm., lại vào đúng đêm nay. Điềm lành mừng cụ Hồ. Tới cả cho vui nhé.Đúng giờ , chỉ mấy phút nó tàn thôi. Phải xem lúc nó đang nở mới đẹp...”

Người ta có thể đặt câu hỏi liệu giữa lúc đầu rơi máu chảy, bom đạn dày đặc như đêm mở đầu toàn quốc kháng chiến này, liệu có ai bầy tiệc để mời khách tới coi hoa quỳnh nở chăng ? Quả thực ông nhà văn đã quá đà trong mô tả cái ‘thong dong vào trận’ của người Hà Nội làm người đọc khó mà tin nổi phải đặt dấu hỏi về tính xác thực của nó.

(còn tiếp)

khieman
06-09-2014, 05:04 AM
(tiếp theo)

Kỳ 12



Ở nhà cụ Tĩnh Trai bất ngờ Trần Văn gặp lại đơn vị anh chỉ huy bị lạc sau đêm anh ...đi hát cô đầu và ngủ quên. Mọi người reo lên quây Trần Văn vào giữa . Người nào cũng có vẻ nai nịt như sắp đi đâu. Anh đứng tần ngần thấy mình như xa lạ. Hóa ra không có anh ở nhà cũng chẳng sao. Họ niềm nở, không lạnh lùng như anh tưởng…Mộng Xuân rỉ tai anh :

“ Đi đánh nhà Sauvage. Thôi, ta nói chuyện sau. Đi thôi, mười một giờ rồi. Các chị đã sửa soạn chờ liên hoan chúng ta thắng trận trở về. Lệnh phải tiêu diệt cho bằng được bọn lính Pháp ở đấy. Thu bằng được toàn bộ vũ khí…Khẩu súng và lựu đạn của anh , chú Lai giữ…”

Người ta thấy lạ khi đơn vị nhận nhiệm vụ chiến đấu, viên chỉ huy bỏ cả súng đạn ở nhà để đi hát…cô đầu, lạc mất đơn vị, thế mà vẫn không sao, lúc vô tình gặp lại đơn vị anh ta vẫn chỉ huy chiến đấu như không có chuyện gì xảy ra. Vậy kỷ luật chiến trường ở đâu, sắp chiến đấu mà đào nhiệm chắc chắn sẽ phải ra toà án binh lĩnh án tù.

“ Trần Văn thắt dây súng lục, giắt hai quả lựu đạn của anh. Anh nghĩ sẽ không oán thán gì nếu anh được chết trong trận đánh này để chuộc lại cái hành động đáng tiếc của anh…”

Và lúc này, lẽ ra phải nắm lại đơn vị để chỉ huy tác chiến, thật đáng ngạc nhiên, Trần Văn lại nhớ tới chuyện đâu đâu. Không phải cô người yêu cũ mà anh bỏ lại, cũng không phải cây hoa quỳnh của cụ Tĩnh Trai sắp nở mà là…” một câu thơ của Victor Huygo đến với anh. Những người đi chết cho Tổ Quốc được quyền có quần chúng đến bên linh cữu mình khấn vái…”

Lại một áp đặt khiên cưỡng của ông nhà văn lên nhân vật. Cũng may, phút cuối cùng Trần Văn cũng còn nhớ tới người yêu cũ mà anh đang cưu mang, anh cũng chẳng giúp gì được ngoài một câu từ biệt :

“ Tôi có nhiệm vụ phải đi ngay. Tôi sẽ nhờ ông cụ giữ nhà này để chị tạm nghỉ lại đây đêm nay. Nếu tôi được trở về tôi sẽ thu xếp sau…”

Chỉ thế thôi, chàng chỉ huy tự vệ bỏ lại cô người yêu cũ với đứa con nhỏ trên tay bơ vơ giữa rừng tên mũi đạn để đi … chiến đấu. Sáng hôm sau Trinh đành phải bế con cùng bà vú xách va li tìm về nhà chồng – nhà Cự Lâm . Khi về gần tới nơi, bà vú bị đạn bắn chết , “ Trinh gục đầu vào cái bọc của con và lịm đi, không dám nhìn xác người vú và cũng không còn thiết gì đến xung quanh…”. Sau cùng nàng cũng ôm con lết được về tới nhà . Bố mẹ chồng đã đi tản cư, còn lại một lũ em đều là dân “ lá ngọc cành vàng” từ bé chưa biết thế nào là gian khổ. Trước hết là Lan, cô em chồng của Trinh. Khi điện tắt, súng nổ“ Lan nấp vào cái khe giữa thành bể cạn và bức tường ngăn với nhà bên cạnh. Cái khe đã có từ ngày Lan còn bé nhưng chưa bao giờ Lan vào đây và cũng chẳng để ý….”

Lúc súng bắt đầu nổ, “một luồng chớp xanh lẹt. Có tiếng kêu : ” Núp xuống”. Mặt Lan vập vào thành bể và anh kia ngã dúi vào người Lan, như người đi tàu bị giật xô ngã vào nhau. Bỗng anh ta sát lại, hai cánh tay ghì chặt lấy ngực Lan, xoay mặt Lan lại, và hôn Lan. Lan ú ớ trong bóng tối, giãy ra, bất lực , sợ hãi, đê mê trong những vuốt ve điên dại mà Lan vừa muốn chống lại vừa muốn cho kéo dài. Rồi bóng người đàn ông ấy bị đẩy đi, người ta tranh nhau tìm những chỗ núp tốt nhất , chẳng hỏi gì Lan…”

Trong lúc lộn xộn mọi người tìm chỗ trú ẩn, nếu có ai đó tranh thủ ôm hôn, vuốt ve điên dại cô gái bơ vơ trong hoảng hốt thì kẻ đó chỉ là một gã lưu manh, tranh thủ gỡ gạc và không dễ gì buông tha con mồi một khi đã buông thả. Với một kẻ như vậy , cô tiểu thư con nhà giàu Cự Lâm sống trong nề nếp gia giáo dễ gì trao thân cho gã một cách quá “bản năng” như vậy ? Những tình tiết tưởng như rất tiểu thuyết hoá ra lại đáng ngờ. Em gái của Lan là Hương – xinh đẹp, có vẻ như không sợ bom đạn, tìm sang hàng xóm tập hát. Anh của Lan là Phúc – người yêu của cô cán bộ Oanh. Mặc dầu là công tử con nhà giàu nứt đố đổ vách nhưng Phúc lại là một tự vệ chiến đấu hết sức anh dũng.

Vậy là cả nhà Cự Lâm – cho dù là tư sản, từ con trai, con gái, dâu, rể đều tham gia chiến đấu hoặc ở lại với thủ đô trong giờ phút hiểm nghèo nhất. Phúc chạy về nhà gặp hai em gái là Lan và Hương , còn người yêu của anh là cô cán bộ Oanh thì bận đi chiến đấu. Một quả đạn rơi trúng nhà giết chết anh lái xe Thịnh và biến ngôi nhà thành cái địa ngục trong nỗi kinh hoàng của mọi người. Nghe tiếng cuốc đào huyệt ngay trong vườn, Trinh sợ chế tkhiếp, cứng người lại , lạnh như mình đang ở giữa một bãi tha ma…Trinh ôm lấy con nhưng tay cứ cứng đờ. Suốt mấy hôm nay, Trinh chỉ thấy những chết là chết..Lù lù những xác chết đưa những cánh tay nghều ngào vồ lấy hai mẹ con Trinh. Trinh ngất đi…

Trong lúc nhà ông Cự Lâm tràn ngập không khí chết chóc và hoảng loạn, từ ngoài đường đưa vào tiếng loa dõng dạc :

“ A lô a lô ( Thưa đồng bào yêu quý, Uỷ ban kháng chiến đã thành lập , kêu gọi toàn thể chúng ta đoàn kết, nhất trí, bình tĩnh và gan dạ, quyết tâm diệt địch, ra sức phá hoại để giữ nhà, giữ phố, chống giữ thủ đô đến cùng, xứng đáng với danh hiệu là người của đất ngàn năm lịch sử. Chúng ta hãy thực hiện đầy đủ các khẩu hiệu :” mỗi phố là một mặt trận, mỗi nhà là một pháo đài...”

Những câu hô hào như vậy cứ trút vào tai dân chúng bất chấp cái Uỷ ban kháng chiến ấy ở đâu ra, do ai bầu nên, cứ nghiễm nhiên là một tổ chức lãnh đạo toàn dân kháng chiến chẳng cần hỏi ý kiến ai. Tuy thế , bất chấp điều đó người dân vẫn xông lên dũng mãnh diệt địch . Như cụ già bố của nữ cán bộ Oanh đã nêu một gương sáng về lòng dũng cảm tới ... đáng ngờ.

Lúc đó “cả khu phố nhà Thờ sáng rực như ban ngày . Nhà Thờ Lớn sừng sững như hai cái tháp cao ngất đen xạm giữa một hào quang đỏ. Hai chiếc xe tănglồng lộn bò qua cái vườn hoa tròn trước mặt nhà thờ. Tượng đức Mẹ rung lên như trong đám rước. Mọi người lùi lại nhưng ông Lộc đã tiến gần cái xe trước, tay ném lựu đạn miệng hô xung phong. Cái điều mà ai nấy đều lo sợ đã xảy ra. Cái xe sau nhả đạn. Hai tay ôm ngực , chân loạng choạng, ông vẫn gượng đứng và thét to :

“ Đuổi bắt cái xe tăng...”

Bị đạn xe tăng bắn vào ngực không tan xác thì chớ, cụ già này còn đứng được và ra lệnh chiến đấu được thì thật...khó tin. Vậy mà còn hơn thế nữa “ông Lộc ngã khuỵu xuống , nhưng vẫn bò đuổi theo, tay phải giơ khẩu súng lục nhằm cái xe sau bắn luôn mấy phát...”.

Tới mức này người ta đành phải hỏi ông tác giả tiểu thuyết, liệu có cụ già nào bị xe tăng bắn vào ngực còn đủ sức bò theo nó để bắn ...súng lục chăng ? Vậy mà “ông vẫn cứ lết đi, để lạiđằng sau một vết máu dài”.

Đến khi có người tới đỡ ông đứng lên, “cái áo sơ miphờlanen của ông đỏ lòm máu từ ngực trở xuống”, vậy mà ông vẫn còn nói :

“ Mặc tôi, chạy đi. Không phải lo cho tôi. Nếu tôi chết thì cũng đã làm tròn nhiệm vụ của tôi đối với phố của chúng ta. Anh đi đi. Để tôi nằm ở đây. Anh có gặp con Oanh nhà tôi thì nói với nó là tôi đã đánh xe tăng như tôi đã hứa với nó. Anh cầm lấy cái súng này và bảo tôi cho nó. Tôi đã cho nó lúcchiều mà nó không nhận...”

Đây không phải lời lẽ và suy nghĩ của người sắp chết, lúc đó không biết ông già nghĩ gì, có điều chắc chắn không nghĩ về chuyện “đánh xe tăng” với “súng ống“ gửi lại con gái như vậy. Và lạ thay ông còn “lảo đảo đứng dậy, thânhình cao lớn của ông trông ngang tàng với cái ngực nở và hai vai rộng,cánh tay phải giơ lên :

“ Việt Nam độc lập muôn năm. Hồ chủ tịch...

Ông ngã xuống, một tảng gỗ cháy từ nóc nhà rơi xuống đè lên ông...”

Tội nghiệp ông già, lẽ ra ông đã chết toi mạng từ lúc xe tăng bắn nát ngực ông, vậy mà ông nhà văn Nguyễn Huy Tưởng còn bắt ông bò lê theo xe, bắn súng lục vào xe tăng, rồi trối trăng giao súng cho con gái và lại còn hô cả khẩu hiệu “Hồ Chủ tịch...” nữa. Thật là một thứ văn chương tuyên truyền khó tin đến trắng trợn.
(còn tiếp)

khieman
06-09-2014, 05:29 PM
(tiếp theo)

Kỳ 13



Trong bữa tiệc ngẫu hứng 5 người Hà Nội do Tân tổ chức chiều hôm trước ngày toàn quốc kháng chiến có nhạc sĩ Thu Phong. Trước đây anh này lưu lạc sang Tàu kéo đàn cho tiệm nhảy. Rồi thấy “ở nhà, Pháp khủng bố ở Bắc Ninh, rục rịch chiếm Hải Phòng”, chẳng hiểu sao anh lại “sốt ruột “ tìm về nước. Tác giả không nói rõ, Thu Phong “giác ngộ cách mạng” chưa mà sốt ruột “tham gia cách mạng” quá vậy ? Về nước chẳng bắt mối được với ông cách mạng nào, “Thu Phương ngao ngán , không biết rồi mình sẽ đi đến đâu.. Cuộc đời anh rồi sẽ thế nào ?”.

Chưa được cách mạng “giácngộ” chẳng hiểu sao Thu Phương đã nhớ ngay lời ...Bác dậy.

“ Anh mang máng nhớ như đã có ai cho anh biết là Hồ Chủ tịch có nói :” Nước ta là một nước nhượctiểu , phải đánh lâu dài...”.

Ghê chưa, nghệ sĩ như nhạc sĩ Thu Phương, chứng kiến bao gia đình tan nát, đầu rơi máu chảy, chẳng thấy con tim nghệ sĩ rung động chỉ thấy “ Anh nắm cái bao súng lục và một quả lựu đạn Mỹ còn nguyên vẹn. Từ đây có lẽ không bao giờ anh còn được đánh đàn nữa, mà chỉ còn dùng những thứ vũ khí này...”.

Quả thực từ cây đàn tới lựu đạn, anh nhạc sĩ đã “nhảy vọt” khiến ta phải hỏi : ”có nhẽ đâu lại thế ?”. Ông nhà văn ép uổng nhân vật chăng ? Thế rồi ngẫu nhiên, ông nhạc sĩ gặp lại ông sinh viên luật Vũ Minh, người cùng dự bữa tiệc “cuối cùng của người Hà Nội “ hôm đó.

Thế là cả hai ông dắt díu nhau vào “cái sân rộng của một cái nhà Tây. Chen chúc có hàng vài trăm người. Tiếng trẻ con khóc tru tréo. Tiếng đàn bà dỗ con, gắt gỏng. Tiếng phụ nữ léo xéo gọi mẹ gọi anh. Tiếng đại bác nổ rầm, người ta ngã lỏng chỏng như một cái toa tàu bị giật mạnh...”

Lẽ ra hai ông phải giúp dân chạy loạn, ngược lại “Thu Phong và Vũ Minh xéo bừa lên vai, lên đầu mọi người, mặc cho bà con chửi rủa. Họ trèo tường sang nhà bên cạnh.”.

Những tưởng hai chiến sĩ tự vệ sẽ lập ổ đề kháng chống Pháp, ai ngờ “lại cái tiếng huỳnh huỵch. Đúng Tây rồi. Tóc gáy hai người dựng đứng cả lên, mồ hôi toát ra đẫm cả sơ mi” khiến họ nghĩ tới chuyện ...tự sát. Thu Phong long trọng :

“ Đêm nay, đêm nổ súng đầu tiên, có hai thằng thanh niên chưa quen biết nhau bao giờ , mới gặp nhau trong một bữa tiệc mà cũng chẳng biết chủ là ai , hai thằng thanh niên ấy đã thề sống chết với thủ đô, nay nguyện cùng chết để khỏi sa vào tay giặc...”

Lạ chưa, mới nghe tiếng thằng Tây, tóc gáy đã dựng cả lên mà lại dám chết để khỏi sa vào tay giặc ? Và lại còn ngẫm nghĩ ý nghĩa của cái chết “ Anh không chết bên những gái truỵ lạc,mà bên một anh bạn sinh viên trong trắng. Từ giã cây đàn. Cái chết của hai anh tự vệ Hà Nội sẽ truyền mãi về muôn đời...”

Dựng nên vụ tự tử của hai thanh niên trí thức Hà Nội phải chăng ông nhà văn muốn truyện phong phú hơn, đặc sắc hơn, nhưng sự vô lý của nó gây phản tác dụng, người đọc mất niềm tin vào sự trung thực của ông, tác phẩm vì thế giảm hẳn giá trị.

Tất nhiên là Tây không tới và hai người sau đó lại nhận ra rằng :” Sao chúng mình lại chết. Cộng hai đứa mới được hơn bốn mươi tuổi hay hơn một tí chứ nhiều nhặn gì cho cam. Vô lý quá. Mà có gì đâu. Nếu Tây hay thổ phỉ thì nó phải làm ầm lên chứ, sao lại câm như hến thế này ? Vô lý...”.

Và họ thôi không … tự tử nữa. Đọc tới đây người đọc phải hỏi : đưa ra hai nhân vật nhạc sĩ và sinh viên luật, Nguyễn Huy Tưởng xác định tính cách sao đây ? Có lúc ca ngợi lòng dũng cảm; lại có lúc riễu cợt sự nhát gan. Tính cách không rõ ràng khiến nhân vật mờ nhạt .

Người ta còn nhớ từ mãi đầu truyện có một chú bé tên Thắng cứ khăng khăng đòi mẹ cho đi theo bộ đội. Từ lúc đó, chú “nhóc” trở thành liên lạc, xông pha đi trước cả tiểu đội.

“Buổi chiều , Thắng đi liên lạc trở về , thấy tiểu đội nhộn nhịp một cách khác thường. Các anh đang chia nhau những quả lựu đạn tốt nhất và ngồi nhìn nhau hát Tiến quân ca...”

Khác thường nữa là sau khi anh tiểu đội trưởng cho Thắng cây súng gỗ thì kéo Thắng lại , “ôm lấy Thắng và hôn lấy hôn để. Hôn xong anh quẳng Thắng cho anh khác hôn và Thắng bị quẳng như thế khắp mười mấy lượt anh trong tiểu đội. Thắng chóng cả mặt mũi, cười sặc sụa giữa những tiếng cười trêu ghẹo của các anh...”

Chưa bao giờ các anh trong tiểu đội vui với Thắng vậy. Rồi sau đó “các anh đứng dậy, giơ tay hô quyết chiến rồi phân chia nhau đi bố trí. “. Hoá ra họ biết trước đã đến giờ G., giờ nổ súng vào quân Pháp. Quả nhiên “ một lúc thì điện tắt và súng nổ đùng đùng. Thắng sợ quá, đái tung toé ra cả ngoài quần, khóc gọi anh Dân...”

Người ta không hiểu sao giữa nơi mũi tên hòn đạn, “tác giả” không trả Thắng - đứa bé lên 8 tuổi ấy về cho mẹ nó mà cứ khăng khăng đưa nó đi theo tiểu đội chiến đấu , bắt nó xông pha giữa mũi tên hòn đạn chẳng khác gì một chiến binh già giặn : “ Chợt có tiếng ríu rít trên đầu . Một viên đạn đỏ lạc vào như con đom đóm lừ lừ…”.

Lẽ ra thằng bé conphải “sợ quá , đái cả ra quần, khóc gọi anh Dân “ như lúc tắt đèn vừa mới đây thôi, vậy mà không, mới qua chốc lát, thằng bé bỗng đổi khác , dũng cảm khó ngờ. “Thắng nghĩ :” Sao nó biết mình về đây mà nó bắn ? ”. Thắng kêu :” Chạy đi, các anh ơi, lộ rồi !”. Thắng nằm sấp xuống , nhưng viên đạn đã vập vào tường…”. Lạ thay, viên đạn cắm vập vào tường rồi không hiểu sao lại vẫn “xoay rít, vờn trên người Thắng…Viên đạn xì xì , Thắng chạy tới đâu viên đạn đuổi tới đó…”.

Sao lại có viên đạn nào “thông minh” đến thế ? Anh tự vệ giải thích :

“ Đạn lửa đây mà. Nó đang đà, gặp sức cản, nó đứng lại, nhưng nó còn thuốc, nên nó quay như pháo. Có gì đâu ?”

Lạ thật, đạn gặp sức cản đứng lại rồi …lại quay như pháo chắc là đạn…ma, chỉ có trong tưởng tượng nhà văn. Thế rồi thằng bé con 8 tuổi cầm súng lục gỗ, lưng đeo hai quả lựu đạn thật, khi một anh chàng định bỏ trốn khỏi tiểu đội, nó khăng khăng không cho đi. Anh chàng kia “đút lót” gói kẹo , “Thắng đứng thẳng người , ưỡn ngực, mặt vểnh lên như muốn sinh sự, cái trống bỏi cầm tay kêu tong tong :” Anh vào ngay . Không tôi gọi các anh ấy đấy. “ . Thắng khum ngón tay cái và ngón tay trỏ như cái càng cua, đưa lên miệng, huýt một tiếng còi dài, ra ý như báo hiệu…”

Thế rồi một anh vệ quốc đoàn đọc hiệu triệu của bác ông Hồ trong “ thứ ánh sáng tôi tối của mùa đông, trong một gian phòng đóng cửa ….Họ đứng lấp kín cả bàn và bộ ghế bành. Bộ đội đều lặc lè lựu đạn, súng không nhiều, có người không có. Anh nào cũng quàng trên áo trấn thủ đường may hình quả trám những ruột tượng gạo như những con rắn trắng cuộn khúc. Họ đứng thế nghiêm , nhìn thẳng, chăm chú nghe lời kêu gọi…”.

Và rồi chẳng hiểu sao tiểu đội lại xuất hiện cả bà mẹ, con gái, cụ già, thanh niên để tạo nên “quần chúng” đầy đủ nam phụ lão ấu , nín thở nghe đọc lời kêu gọi của lãnh tụ:

“ Giờ cứu nước đã đến ! Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước. Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng cương quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về ta…”

Không một ai nghĩ tới nếu phải “hy sinh tới giọt máu cuối cùng” thì cái thắng lợi giành được đó còn có ýnghĩa gì , mang lại cho ai và để làm gì ? Tất cả còn đang thành kính lắng nghe anh vệ quốc đoàn cao giọng :

“ Kháng chiến thắng lợi muônnăm ! Ngày 20 tháng 12 năm 1946, Hồ Chí Minh…”.

“ Giọng anh khẽ xuống. Nhưng tên lãnh tụ âm vang lên. Mắt anh đưa đi đưa lại trên những dòng chữ cuối cùng như tìm kiếm một vật gì. Gian phòng im một cách lạ…”

Cái giỏi của nhà văn trongviệc “nâng bi” lãnh tụ là sau khi nghe đọc xong lời kêu gọi của ông Hồ Chí Minh đám quần chúng không sôi sùng sục máu căm thù xông lên diệt giặc , không lớn tiếng hô khẩu hiệu mà chỉ để một bà mẹ đặt câu hỏi:

“ Kháng chiến thật rồi ư, thưa đồng chí ?”

Cái tài nhà văn chỗ này đây, nghe lời “Bác kêu gọi”, một bà mẹ bình thường bỗng thấy tin yêu bác Hồ, tin yêu cách mạng đến độ muốn đứng hẳn vào hàng ngũ cách mạng, trở thành “đồng chí” . Phản ứng “quần chúng” thì vậy, còn lực lượng vũ trang tất nhiên phải nhiệt thành hơn :

“ Tiếng thét của anh tiểu đội trưởng bé nhỏ lút trong đám chiến sĩ :
“ Tiêu diệt thực dân Pháp! Hồ Chủ tịch muôn năm…”

Một anh thanh niên đeo cravate đỏ “ bỗng nhảy lên hô, thúc mọi người hô, quả đấm của anh giơ cao như đe mọi người ; mặt đen nhuốm đỏ như say rượu, mắt điên dại. Anh reo :

“ Kháng chiến rồi. Toàn quốc kháng chiến rồi. Tôi biết. Tôi biết từ lúc nổ súng kia. Sướng quá! Hồ Chủ tịch đã ra lệnh. Hôm nay tất cả Nam bộ sẽ ăn mừng. Nam bộ không phải chiến đấu một mình nữa…”

Chiến tranh là chết chóc, nhà sập, gia đình ly tán, thật hiếm có dân tộc nào lại ăn mừng khi nó nổ ra. Hiếm ai lại “sướng quá” khi súng đã nổ. Anh ta là ai vậy ? Hoá ra ông nhà văn muốn đám quần chúng lắng nghe lời Bác sao có đủ ba miền Bắc Trung Nam đã bất ngờ cho một ông miền Nam như đứt giây trên trời rơi xuống :

“ Anh thanh niên cướp lời :
“ Đúng, Nam Bộ đây. Tôi ra đây có công tác, vừa mới đến Hà Nội hôm qua. Chưa được gặp Chính phủ, chưa được gặp Hồ Chủ tịch. Nhưng được nghe lời hiệu triệu này thì cũng đã đời rồi. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm…Đúng như ở Nam Bộ. Trời ! Gặp kháng chiến ngay giữa thủ đô !”

Rồi nhà văn cho anh thanh niên bày tỏ lòng yêu nước theo cách “Nam Bộ” :

“ Tôi sẽ sống chết ở đây cùng với đồng bào miền Bắc. Tôi đã trông thấy những khẩu hiệu ở đây rồi. Đã lắm! Cho nhập bọn được không ? Không cũng được . Đơn thương độc mã cũng đánh…”

(còn tiếp)

khieman
06-10-2014, 02:42 PM
(tiếp theo)


Kỳ 14


Anh lại bắt tay mọi người. Anh ôm hôn người mẹ. Anh vẫy vẫy tờ hiệu triệu. Anh lại ấp nó vào ngực , toàn thân anh rung rung. Anh khóc rưng rức , mắt đỏ hoe:

“ Đi lấy đầu mấy thằng Tây nhá. Trời ! Trời, sao Hà Nội nhiều súng thế này ?”
Anh đến với chiến sĩ này lại đến với chiến sĩ nọ, rối rít, sốt sắng…”

Thật đúng tính cách anh Hai, yêu nước kiểu nóng sốt, bộc trực người miền Nam theo cách…tưởng tượng của tác giả. Màn hưởng ứng “hiệu triệu của bác Hồ” lúc này mới nổ ra rầm rộ. Tiểu đội trưởng tự vệ phát biểu :

“ Bây giờ thì tôi đề nghị thế này. Như Hồ Chủ tịch kêu gọi thì toàn dân, toàn quốc đều phải đứng lên kháng chiến. Tất cả chúng ta ở đây đều có nhiệm vụ bảo vệ Thủ đô đến cùng. Chúng ta phải giữ cái phố này…”

Một ông già mặc quốc phục nói với bà con :

“ Các đồng chí về đây, chúng tôi rất mừng. Chúng tôi như người được sống lại. Trông thấy các đồng chí như được trông thấy Chính phủ, thấy Cụ Hồ…”

Tuy nhiên, không phải ai cũng thích được gọi đồng chí; Tân , anh chàng thanh niên Hà Nôi tham sống sợ chết, đã mở tiệc ngẫu hứng 5 người hôm trước, khi được đồng chí cán bộ tên Dân hỏi :

“ Xin lỗi đồng chí nhé. Thế nào đồng chí ? Đồng chí sẽ kháng chiến ngay tại nhà mình. Không ngại gì cả …”

…Tân choáng váng hơn là khi nghe tiếng cây đổ ngoài đường. Tai anh trối vì hai cái tiếng mà anh vẫn chế giễu và bây giờ người ta đem ra gọi anh . Cái tiếng ấy sẽ cột cổ anh lại. Anh nói :

“ Thưa ông, có lẽ ông nhầm . Tôi, đồng chí ?”

…Dân tới trước mặt Tân, vững như một lực sĩ, khói miệng bay ra như thở khói thuốc lá :

“ Tôi chỉ muốn được gọi rất nhiều người là đồng chí . Có lẽ khi mọi người đều gọi nhau như thế thì đời đã sướng lắm…”

Quả thực, cả ông nhà văn Nguyễn Huy Tưởng lẫn nhân vật Dân đều không tưởng tượng 50 năm sau, trong những cuộc họp nội bộ Đảng lôi nhau ra sát phạt, người ta mới lớn tiếng gọi nhau bằng hai tiếng “đồng chí”.

Trong đám nhân vật của Nguyễn Huy Tưởng, người thích được gọi “đồng chí “ nhất cô nữ sinh Quyên, người được giao theo dõi ông bác sĩ Việt kiều mới về nước. Chỉ mới nghe tin “ một người về báo xe tăng đã húc đổ hàng rào sắt của dinh Chủ tịch, Quyên đã cãi lại anh ta và đuối lý, Quyên khóc. Quyên ghét cái người ấy và coi như Việt gian…”.

Yêu Hồ Chủ tịch ghê gớm chưa ? Ai mà báo tin Phủ Chủ tịch bị xe Pháp ủi sập hàng rào lập tức kẻ đó là…địch. Tuy nhiên, khả năng xuất sắc của cô nữ sinh Hà Nội này lại là dò xét, theo dõi người khác. Được giao nhiệm vụ “bám sát” ông bác sĩ Việt kiều, lúc tắt điện ông ta kêu : ” Thế này mà mình không biết mua sẵn một cái đèn dầu”.

Chỉ thế thôi, vậy mà cô báo cáo với tổ chức là “ ông ấy oán Chính phủ mình…”.

Rồi khi ông bác sĩ giục :” Une lampe, une lampe, mademoiselle*…”, cô ta tức lắm bởi lẽ “ đánh nhau rồi mà vẫn nói tiếng Pháp, có vẻ như…muốn báo hiệu cho nó…”. Tinh thần cảnh giác của cô nữ sinh cán bộ này ghê gớm chưa ? Sắn “máu cá” trong người chắc sau này cô phải làm tới chức…Phó Chủ tịch nước như bà Phó Doan thời bây giờ ...

Thật khó hiểu vì sao Nguyễn Huy Tưởng mô tả nữ sinh Hà Nội lại cứ biến thành toàn gái “cứng cỏi” đến “sắt đá” như cái cô Quyên chuyên theo dõi ông bác sĩ Việt kiều , như chị Oanh , cán bộ phụ nữ thành.

Chị Oanh là vợ sắp cưới của con trai nhà buôn Cự Lâm giàu có, là con gái của một ông già cứ khăng khăng đòi “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Trong những ngày ly loạn, các gia đình nháo nhào chạy tản cư, chị ta chẳng ngó ngàng gì tới chồng cũng như gia đình chồng chưa cưới, cũng chẳng lo toan gì cho bố đẻ, mặc kệ hết chị cứ chạy khắp Hà Nội để đi… giết giặc.

Ông bố chị ta chính là ông già Phùng Gia Lộc, người đuổi theo xe tăng “tay ném lựu đạn miệng hô xung phong. Cái xe sau nhả đạn. Hai tay ôm ngực , chân loạng choạng, ông vẫn gượng đứng và thét to :“ Đuổi bắt cái xe tăng...”. Khi hấp hối, ông vẫn còn đòi “ Anh có gặp con Oanh nhà tôi thì nói với nó tôi đã đánh xe tăng như tôi đã hứa với nó. Anh cầm lấy cây súng này và bảo tôi cho nó. Tôi đã cho nó lúc chiều mà nó không nhận...”.

Khi khẩu súng của ông bố được đưa tới tận tay, lẽ ra Oanh phải rú lên mà hỏi bố chết rồi ư, vậy mà không, chị ta vẫn tỉnh bơ :

“ Sao thế ? Chiều hôm qua tôi đã không nhận kia mà…Anh có thể đem về cho cậu tôi được không . Tôi cũng có rồi…”

Khi người báo tin : “ Cụ mất rồi. Mất trong một trận đánh xe tăng …”, chị ta mới có phản ứng :“đôi lông mày kẻ của Oanh ríu lại. Trống ngực chị đập mạnh” – chỉ thế thôi, không thấy “la hoảng “ gì thêm. Người báo tin lại nhắc ” Cụ mất rồi. Cụ xông ra đánh xe tăng và bị trúng đạn vào ngực. Trước khi mất, cụ đã hô “ Việt Nam độc lập muôn năm”. Cụ nhờ tôi giao lại chị vật kỷ niệm. “.

Vậy rõ ràng là bố đã chết, chị cán bộ Oanh cũng chỉ :” mím chặt môi, cái cằm hơi lẹm của chị như ngắn lại. Chị cầm lấy khẩu súng , tai văng vẳng lời của bố buổi chiều qua :” cầm lấy súng Oanh. Chị ngắm khẩu súng có khắc tên Phùng Gia Lộc…”

Thế rồi chắc đau thương làm chị đánh rơi khẩu súng, người khác nhặt lên, chị cũng chỉ nói : “Cám ơn Quyên”. Mặt chị trở lại tự nhiên, Oanh hỏi Thu Phong ( người đưa tin):“ Thưa anh, xác cậu tôi bây giờ ở đâu ?”. Người nhạc sĩ nói dối : “ Chúng tôi đã chôn cất cho cụ rồi…”“ Cám ơn các anh…”. Chỉ thế thôi, không hỏi bố chết thế nào, được chôn ở đâu, đánh dấu ra làm sao mà lại hỏi : ” Phố ta vẫn giữ được chứ ?” Rồi quay sang mấy cô bạn :” Ta đi, các chị đi”. “ Tay Oanh nắm chặt cái nòng súng chìa ra ngoài miệng túi. Đoàn người lặng lẽ tản đi…”

Ôi mẹ kiếp, đọc đến đây muốn văng tục quá, cái con mụ Oanh này phải chăng là mẫu người “tam vô” của cộng sản.

Thực ra ông Nguyễn Huy Tưởng muốn tả cái sự nén đau thương để biến nó thành hành động . Tiếc rằng ông đã bắt Oanh “nén chặt” nỗi đau quá khiến chị ta trở thành mụ đàn bà bất hiếu, vô tình, sắt đá, dửng dưng cả với cái chết của bố đẻ để toàn tâm toàn ý” tập trung suy nghĩ và hành động vào việc đánh Pháp.

Tiêu biểu cho tinh thần toàn tâm đánh giặc phải nói tới đơn vị bảo vệ dinh cụ Hồ :

“ Phần lớn họ là những đồng chí người Thổ, nhiều người đã tham gia cách mạng từ hồi bí mật, đã xa rừng núi từ ngày khởi nghĩa. Hơn một năm ở Hà Nội, họ chỉ quanh quẩn hoặc ở trong dinh hoặc ở bên phủ. Những người ít nói ít cười và không đòi hỏi. Hơn một chục đồng chí đã nằm xuống để không bao giờ trông thấy xứ sở xanh xanh nữa.”.

Những người lính gốc dân thiểu số khi chiến đấu cũng như lúc hy sinh ắt phải khác những người lính gốc kinh , tiếc thay ông nhà văn không diễn tả được sự khác biệt đó. Một anh thương binh người dân tộc lúc hấp hối được cấp chỉ huy hỏi han :

“ Đồng chí thế nào ?”. Anh thương binh nói, giọng nói của một người còn tỉnh , nhưng đã yếu :“ Báo cáo anh, cũng thường thôi. Ngoài ấy thế nào ?”“ Nó chuẩn bị tấn công. Tôi sẽ cho người đưa đồng chí về trong phố, có quân y.”. Cái đầu lắc lắc một cách nhọc mệt, đôi mắt như cười :“ Không nên. Làm gì còn người. Tôi ở đây. Đem về cũng vô ích. Tôi biết.”Anh ta nghĩ một lúc :“ Tôi được đánh suốt từ chập tối đến giờ , chết cũng sướng.…”

Chưa nói tới lúc sắp chết làm sao “đôi mắt như cười” được , chưa nói tới khi chết người miền núi thường nhớ về quê hương , bố mẹ, vợ con chứ đâu có còn nghĩ tới … tình hình chiến sự, chỉ riêng một điều tiếng kinh chưa sõi, sao mà lúc hấp hối, anh lính Thổ này nói được lưu loát quá vậy ?

Một anh lính dân tộc khác khi bị thương “thấy mình khong sống được nữa đã cố gượng bò lên đây để nhìn lại lần cuối cùng cái phòng khách mà Bác Hồ thường hay đi qua…”.

Có thật khi sắp về với tổ tiên, người lính Tày này đã thu hết sức tàn lực tận chỉ để nhìn cái nơi “bác Hồ qua lại” không ?
Một anh lính khác lúc sắp chết “cũng nói giọng yếu dần :

“ Tôi đi đi lính cho Pháp 3 năm. Bây giờ mới biết thế nào là vui. Hồi đảo chính, tôi ở trong thành, Pháp nó chạy như chuột.Đêm ấy buồn quá. Theo nó thì không muốn, trở về thì đồng bào hỏi tội, hàng Nhật thì nhục nữa. Chẳng biết làm gì, chẳng biết đi đâu , tôi cứ ngồi nhắm cái cột đèn trước mặt mà bắn. Lúc ấy sống mà như chết. Bây giờ sướng là được bắn thực dân , không phải bắn cột đèn.Tôi không chắc đã sống được để chiến đấu nữa. Tôi biết.Anh không phải nghĩ ngợi gì về tôi cả . Tơi không ngờ lại được nằm ở dinh Hồ Chú tịch…”

Dù có là thực hay là bịa, nhưng mô tả 3 cái chết của 3 người lính dân tộc mà giống nhau y hệt, ông nào cũng chỉ nghĩ tới bác Hồ, tới niềm vinh dự được hy sinh cho cách mạng thì đủ thấy khả năng tưởng tượng của ông nhà văn nghèo tới mức nào !

Thế rồi tới anh chính trị viên đơn vị là Gia Bảo, tuy là người kinh nhưng lúc sắp quyết tử cũng lại được mô tả “nhớ tới bác Hồ” y như mấy anh chiến sĩ người Thượng :

“ Gia Bảo cũng đưa mắt quanh căn phòng đã đổ nát, nhưng vẫn như phảng phất sự có mặt của Hồ Chủ tịch mới hôm qua còn đến đây làm việc ( thực ra cụ đã lên an toàn khu từ tám đời rồi ) …Anh nhớ những tiếng ho của ông Cụ, nhớ những ngày tàu trắng và bọn Quốc dân đảng làm găng, ông Cụ làm việc không nghỉ, nhưng ăn cơm xong vẫn đi gặp bộ đội nói chuyện…Anh sẽ không rời khỏi nơi này. Trước khi chết anh sẽ không để cho cái dinh này lọt vào tay giặc. Những lời căn dặn của đồng chí Bí thư, đồng chí Khu phó trong buổi Hội nghị hôm qua văng vẳng đưa lại…”
(còn tiếp)

khieman
06-11-2014, 02:13 AM
(tiếp theo và hết)

Kỳ 15

Như vậy đã thành một công thức trong “nghệ thuật xây dựng nhân vật tiểu thuyết” của Nguyễn Huy Tưởng : mọi chiến sĩ, dù là kinh hay thượng, dù là dân thường hay bộ đội, trước khi chết đều nhớ tới bác Hồ và Đảng. Sự thực ra sao chắc chỉ những “người trong cuộc” mới biết, chỉ tiếc họ đã ra người thiên cổ nên chẳng ai kiểm chứng được huyền thoại về những cái chết trong nỗi niềm thương nhớ Bác Đảng mà ông nhà văn đã tô vẽ.

Một điều khá đặc biệt nữa là hầu hết những người lính của Nguyễn Huy Tưởng đều có “dính dáng” tới cụ Hồ. Thí dụ như Bảo, người lính cuối cùng trong trận chiến đấu bảo vệ Bắc bộ phủ “ là một thợ tiện tập sự của Sở máy nước đá . Ngày cách mạng , Bảo xin đi biểu tình , bố mẹ cấm vì Bảo còn nhỏ.Bảo trốn đi, theo anh em vào cướp dinh và được phát hai quả lựu đạn Nhật, một con dao găm. Một hôm có tin là cụ Hồ ở chiến khu về. Bảo hỏi một người đội viên Thổ “ Hồ Chủ tịch là gì ? “Anh Thổ nói :” là đứng đầu nước, giữ độc lập cho dân…”. Buổi chiều , một ông già áo kaki, dép con hổ, đi với nhiều người vào. Thấy nhiều người hô muôn năm, Bảo cũng hô. Bảo đoán đấy là Hồ Chủ tịch vì anh em đã cho xem ảnh trước…Từ đấy , Bảo yên tâm ở bộ đội…”

Vậy đó, hình ảnh của cụ Hồ chẳng những ăn sâu trong tâm hồn những người lính của Nguyễn Huy Tưởng mà còn tràn lan trong những trang viết “Sống mãi với Thủ đô”.

Hầu như tất cả các trận đánh giữa ta và Pháp ở Hà Nội đều được tác giả “Sống mãi với thủ đô” thuật lại. Nhà máy đèn, Bưu điện, Bắc bộ Phủ, Chủ tịch phủ, chợ Đồng Xuân, Nhà thờ lớn…nơi nào cũng có chung một tính chất , hết sức phổ biến là quân dân ta cực kỳ anh dũng, quân địch cực kỳ độc ác và hèn nhát. Tính đơn điệu và một chiều trong những nhân vật tự vệ thủ đô như Trần Văn, Thu Phong, Tân, Bảo, ông già Phùng Gia Lộc…những anh bộ đội người Thượng, những cô nữ sinh Hà Nội như Oanh, Quyên, những người cộng sản như Quốc Vinh , Bí thư…là ở chỗ cho dù họ mang những danh xưng khác nhau, tên tuổi khác nhau, cho dù là nghệ sĩ, trí thức, tư sản, công nhân…nhưng họ giống nhau y hệt như những hạt đậu trong hũ. Cái mẫu số chung đã được quy đồng cho mọi nhân vật đó là sự bỏ quên cá nhân, quên gia đình, quên mọi thứ trên đời để toàn tâm toàn ý tập trung vào đánh giặc và trong lòng người nào cũng có một vị thánh sống là …”bác Hồ”.

Tuy thế, trong cái bức tranh rực một mầu hồng đó, đôi khi cũng lộ hé cái bệnh “ độc đoán”,”độc quyền lãnh đạo” của những người cộng sản đủ để cho ta thấy song song với việc đánh Pháp, Đảng cộng sản đã ráo riết thâu tóm quyền hành thiết lập chế độ độc đảng ngay từ khi còn trứng nước như thế nào.

Nguyên ông Uỷ viên quân sự Văn Việt là người ngoài Đảng, chức quan trọng vậy nhưng không được họp nội bộ Đảng, không được biết những tin tức quan trọng, bởi vậy ông Uỷ viên quân sự này vẫn ấm ức về trò lén lén lút lút qua mặt ông của các đồng chí đảng viên. Khi nổ ra cuộc chiến đấu chống Pháp, ông Uỷ viên Văn Việt đưa lực lượng tự vệ tới đánh chiếm nhà Xôva của hãng tàu thuỷ Pháp. Khí thế hăng hái lắm.

“ Trong đêm tối, bộ đội và tự vệ vây lấy cái hãng , bắn súng và ném lựu đạn. Giặc không dám bắn ra. Đánh mãi, đánh mãi, đến nửa tiếng đồng hồ. Ta trèo vào trong sân , tiến tới sát cửa , đập cửa ầm ầm. Người ta xông vào trong nhà, hô chiến thắng vang lừng . Người ở dưới nhà chạy lên gác, người trên gác chạy xuống dưới nhà , vào buồng này, sang buồng kia, gọi nhau í ới , ồn ào như vỡ chợ. Xục mãi không tìm được một tên giặc , không thu được một viên đạn….”

Sao lạ thế ? Quân Pháp đâu hết cả rồi ?

Thì ra họ đã rút từ tám đời, chi bộ Đảng biết điều đó nhưng lại không thông báo cho Văn Việt, vì anh ta là người ngoài Đảng. Bởi vậy khi có người hỏi :

“Nó rút từ lúc nào ?” Văn Việt buông cả hai tay , cay đắng :”“ Mình là quần chúng, ai cho biết mà chủ động…”

Vậy đó, dù có là Uỷ viên quân sự đi nữa, nhưng không phải đảng viên thì cũng không được biết những “tin tức nội bộ”. Thực ra ông Uỷ viên muốn “đánh một trận ra trò , tiêu diệt hoàn toàn vị trí Xôva, để cho các ông đoàn thể – tức là Đảng, biết rằng dù bị thành kiến, một thằng quần chúng khi nhận nhiệm vụ , vẫn làm đâu vào đấy, vẫn cừ. Khi biết là đã đánh vào một vị trí không người, anh choáng đi, như bị sét đánh. Anh càng giận Quốc Vinh ( cán bộ Đảng đã dấu không cho biết chuyện Pháp đã rút khỏi nhà Xôva) . Giặc không tiêu diệt được, đoàn thể thành kiến, mất uy tín , không lập được công trong đêm đầu. Anh khóc vì tức vì xấu hổ…” .

Thế rồi không chịu nổi đồng chí cấp uỷ Đảng chơi xỏ mình, ông Uỷ viên quân sự tìm tới tận trụ sở, xông lên phòng ông chính trị viên, “mặt tối sầm, giọng xẵng, lưỡi như rít lại :

“ Sao anh không cho tôi biết trước ? Anh coi tôi là người thế nào mà phải giấu tôi ? Tôi là Uỷ viên quân sự để làm vì à?”

Đồng chí cấp uỷ “ đối với quần chúng bao giờ cũng giữ được cái lễ độ và mềm mỏng cần thiết :

“ Cứ bình tĩnh, anh ạ. Tôi nghĩ rằng việc thì có cái nói trước, có cái nói sau, người thì có người nói trước, có người nói sau…”

Ông Uỷ viên quân sự ngoài Đảng tức giận :

“ Thế nghĩa là chúng tôi là những người làm thì làm trước, biết thì biết sau chứ gì ? Anh giữ bí mật thế à ?”

Không kìm nổi tức giận, ông Uỷ viên quân sự ngoài Đảng “ giáng một cái tát vào một má hóp” của ông cán bộ Đảng.

Nếu là người bình thường thì ông bị ăn tát này đã nhảy xổ ra trả đũa rồi, nhưng ông cán bộ Đảng vốn cáo già về chính trị, ông chỉ “cau trán, loáng một ánh sáng nơi đuôi mắt “ rồi trở lại bình thường ngay :

“ Bây giờ anh đang nóng. Để một dịp khác ta sẽ nói với nhau về chuyện này. Còn chuyện gì khác nữa không , anh Văn Việt ?”

Ông cán bộ Đảng mềm mỏng nhưng mà dứt khoát, ông chỉ gọi ông Uỷ viên là “anh” thôi chứ không gọi “ đồng chí” . Vậy là ông ngầm tỏ ý sẽ không tha cho cái “tát hỗn xược “ ấy đâu, nhất định sẽ có ngày ông trả mối nhục này, nhất định sẽ có dịp cho ông “nói lại chuyện này.” Lúc đó ông sẽ phân tích trong cuộc họp nội bộ Đảng rằng quần chúng mà dám giang tay tát cả Đảng thì còn gì là uy tín đoàn thể nữa, đây không chỉ xúc phạm cá nhân mà xúc phạm cả tổ chức. Cánh cửa vào Đảng dành cho ông Uỷ viên quân sự như thế là vĩnh viễn đóng lại. Không phải đảng viên thì ông Uỷ viên quân sự cũng hết hy vọng thăng tiến theo con đường quan lộ, mai mốt leo được cái chức đại đội trưởng cũng là kịch trần rồi.

Mấy trang cuối cùng của cuốn “ Sống mãi với thủ đô”, Nguyễn Huy Tưởng dành cho “chú bé Gavơrốt Việt Nam “, bé Thắng . Chú bé này mới 8 tuổi đã khăng khăng đòi mẹ theo các anh bộ đội đi đánh tây. Sau một trận đánh, lúc rút kinh nghiệm , bé Thắng cũng đòi … phê bình thủ trưởng :

“ Thắng đứng dậy, hai tay buông thẳng cứng cỏi như một chiến sĩ. Thắng nhìn thẳng vào Dân – chỉ huy, vênh mặt lên :
“ Báo cáo đồng chí . Đồng chí có một khuyết điểm . Sao đang chiến đấu , đồng chí lại đẩy tôi xuống hố…”
Thắng cau trán lườm mọi người, nét mặt nghiêm nghị , mắt quắc lên nhìn Dân bĩu môi . Một chị đẩy chén chè tới trước mặt chú bé. Thắng gạt đi giận dữ. Dân nói :
“ Tôi thấy đồng chí bò, tôi sợ nó bắn đồng chí nên phải đẩy đồng chí xuống hố. Nhưng đồng chí phê bình thì tôi chịu…”

Quả thực khó mà tin được một chú bé đang tuổi nhi đồng mà lại hăng hái, coi thường cái chết một cách hỗn xược như vậy. Tính chất “giả” , bịa đặt theo yêu cầu tuyên truyền cứ bàng bạc trong suốt cuốn tiểu thuyết cho tới tận dòng cuối cùng của cuốn sách. Năm 1961 “ Sống mãi với thủ đô” ra mắt bạn đọc, lập tức nó được các nhà văn hàng đầu của cách mạng như Nguyễn Tuân , Nguyễn Khải, Tô Hoài …“bốc “ lên mây xanh dẫu rằng nó được viết theo cảm hứng chủ đạo là ca ngợi một chiều và vì thế nó mang nặng giá trị tuyên truyền hơn là giá trị nghệ thuật.

Tổng kết về Nguyễn Huy Tưởng, nhà phê bình Phan Cự Đệ đã viết trong cuốn “ Nhà văn Việt Nam 1945-1975” :

“ Nội dung tinh thần dân tộc trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng càng ngày càng sâu sắc trên cơ sở lập trường giai cấp được củng cố vững chắc hơn. Anh đã thấy được nội dung của hạt nhân dân tộc là lực lượng đông đảo quần chúng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng…”

Sáng tác bám sát đường lối của Đảng vậy trách gì Nguyễn Huy Tưởng “Sống mãi trong lòng Hội nhà văn” chứ chẳng phải trong lòng độc giả.

**
*


Nhật Tuấn

khieman
06-14-2014, 04:57 AM
.



LƯU TRỌNG LƯ
Kỳ 1


http://newvietart.com/images/LuuTrongLu1.jpg (http://newvietart.com/images/LuuTrongLu1.jpg)


Ngay sau khi giành được chính quyền ở Sàigòn, đảng ta tổ chức “một khoá học tập gọi là khoá bồi dưỡng chính trị dành cho văn nghệ sĩ Sàigòn ”, cấp tốc đưa từ Hà Nội vào những cây đa, cây đề trong giới văn học miền Bắc như Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Bảo Định Giang...v..v...”

Dịp này nhà thơ Lưu Trọng Lư “đã kể lại con đường phục vụ "cách mạng" của mình và kêu gọi văn nghệ sĩ miền Nam hãy mạnh dạn đi theo con đường mà ông đã trải qua. “.

Thực ra chẳng phải chờ tới “khoá bồi dưỡng chính trị” này, ngay sau ngày Huế rơi vào tay “bộ đội giải phóng”, đứng trước cảnh nhà cháy, người chết, gia đình ly tán, nhà thơ Lưu Trọng Lư đã “kể lại con đường của mình” bằng những lời sảng khoái, mừng rỡ trong bài thơ “Đường ta đi thế đấy bạn lòng ơi “ :

“ Đất này không phải xứ sở của thần tiên,
Người với người thôi , sao mà đẹp vậy…
Đường ta đi thế đấy
Đường ta đi thế đấy bạn lòng ơi…”

Ba ngày sau khi tiếng súng đã tắt trên cố đô, đặt chân trên đường phố Huế, nhà thơ Lưu Trọng Lư đã bịt tai che mắt sao mà không nhìn thấy những dấu tích máu còn lại , những thảm trạng người với người giết nhau, giành giật nhau cơ hội sống trong trốn chạy, tưởng như “Thượng đế đã chết trong thành phố”, vậy mà trái tim thi nhân của nhà thơ vẫn reo vui :

“ Người với người thôi, sao mà đẹp vậy…”

Phải đặt câu thơ vào thời khắc của lịch sử , người đời sau mới thấy hết được trái tim đá của thi nhân, ngòi bút của ông ta đã chấm vào mực hay máu để mà cười vui trước nỗi đau của dân tộc ?

“Như con ngựa đường trường
Ta về đây gõ móng
Trời cao đất rộng
Mở phanh vạt áo của hồn ta…”

Tháng Tư 1975, từ cơ quan Hội nghệ sĩ sân khấu 51 Trần Hưng Đạo Hà Nội , “con ngựa đường trường “ Lưu Trọng Lư đã phi thẳng tới “ cố đô Huế “hỗn loạn để …gõ móng .

Ông gõ vào ai vậy ?

Tất nhiên không phải vào “Ban quân quản thành phố”, không phải “đoàn quân chiến thắng xạm màu súng đạn”, cũng không phải Đại Nội rợp trời cờ đỏ ?

Vậy thì nó chỉ còn gõ móng vào nỗi đau của đồng loại trong “mùa hè đỏ lửa” trên “đại lộ kinh hoàng” và liệu ông có coi những mẹ, những em, những nỗi đau “bọt bèo số phận” là “đồng loại” không ? Chắc là không ? Đồng loại của nhà thơ phải là những “mũ tai bèo đôi cánh đang bay”, những “em băng trong lửa đạn chiến hào , tóc nữ sinh cuốn theo vành mũ vải…”

Vô cảm với nỗi đau con người trong loạn lạc, Lưu Trọng Lư lại còn tự đấm ngực, bứt tóc, rên rỉ, gào rú cho thân phận của chính mình trước ngày ông có Đảng :

“ Ôi bé bỏng một tấm thân người
Một chiếc thuyền nan bồng bềnh giữa hai bờ sống chết
Có nỗi thương của Giêdu, có nước mắt của Phật

Và trên tay áo này :

Trên tay áo này
Những giọt đau !
Những giọt đau !
…Trong cõi lạnh hư vô
Một con đò, ôi một con đò…”

Viện cả đức Chúa Giêsu và đức Phật Thích ca để “phản tỉnh con người cũ” liệu có lôi kéo được ông Nguyễn Khắc Viện ( người được Lưu Trọng Lư tặng bài thơ này” ) đi theo “ Đường ta đi thế đấy…” :

“Ta một giang hồ thi sĩ
Dừng nghe tiếng gọi từ xoáy hồn ta
Hay tiếng gọi từ một bến bờ xa
Tiếng gọi từ một bến bờ xa
Tiếng gọi từ một bến bờ quang đãng
Trận gió Thu và những ngày Tháng Tám
Đắng cay sực tỉnh, mình lạnh mồ hôi…”

Đó, một “giang hồ thi sĩ” lớn như Lưu Trọng Lư còn đi theo Cách mạng Tháng Tám, huống hồ nhà viết sách “học làm người” như Nguyễn Khắc Viện còn chần chừ làm chi ? Thôi thôi hãy cùng nhà thơ lên đường :

“ Rồi với kẻ cùng đi
Với những tấm lòng theo nhau vào trận đánh
Thế thôi !mà sao vất vả rộn ràng…
Một ngày qua nhanh, tiếc ngẩn…”

Lời rủ rê này chẳng riêng gửi bác Nguyễn Khắc Viện mà cho cả trên 400 văn nghệ sĩ Sàigòn trong “khoá học chính trị “ ngày đó. Các quý vị còn chần chừ gì nữa, hãy “theo nhau vào trận đánh”, chậm một ngày tiếc ngẩn một ngày, đơn giản thế thôi mà sao cứ “vất vả” chần chừ mãi thế ?

Tiếc thay, bỏ ngoài tai lời kêu gọi của nhà thơ, chỉ vài năm sau , gần 400 văn nghệ sĩ này đã bỏ của chạy lấy người, rủ nhau vượt biển, biến sạch ra…hải ngoại.

Làm thơ chưa đã, Lưu Trọng Thư còn diễn dịch ra 80 trang văn xuôi “Đường ta đi thế đó bạn lòng ơi…” để “giác ngộ thanh niên Huế”.

“ Sau khi Huế giải phóng được vài hôm, giữa phố Paul Bert cũ , tôi đã gặp mấy thanh niên…Cũng không hiểu sao, họ đã nhận ra tôi và điều đầu tiên là họ muốn biết từ Tiếng thu những bước đi của tôi như thế nào ?”

Và nhà thơ hãnh diện trả lời :

“ Còn thế nào nữa ?
Tôi ngày nay đã là một người cộng sản. Với những người bạn trẻ ở miền Nam vừa được giải phóng, những bạn đã từ một đêm dài trở lại với ánh sáng, hôm nay tôi muốn có đôi lời gửi gắm…”

Nào các bạn thanh niên miền Nam vừa từ “đêm dài” trở lại “ánh sáng”, sắp được rời thành phố lên rừng đi kinh tế mới, sắp được khăn gói đi học tập cải tạo, sắp được bước vào công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, hợp tác hoá nông nghiệp trên toàn miền Nam, các bạn hãy lắng nghe nhà thơ “Tiếng thu” ngày xưa , “cộng sản” ngày nay gửi gắm những lời lẽ gì ?

Sau khi nhắc lại hình ảnh ông là chiếc thuyền nhỏ bé đi giữa hai bờ sống chết, nhà thơ tâm sự :

“ Câu thơ này thật ra có thể tổng kết cả một thời trai trẻ của tôi , nói lên cả một chân lý cuộc đời tôi…Thật là lênh đênh giữa hai bờ sống chết. Không phải thân thế tôi chỉ “giang hồ “ trong cuộc sống , mà tâm tư tôi còn “phiêu bạt” trong cõi đất trời mông lung mà tôi không hiểu nổi…”

Trong cả chục triệu thanh niên miền Nam trước 1975, liệu có được bao nhiêu người “lênh đênh giữa hai bờ sống chết”,” giang hồ” trong cuộc sống”, “tâm tư phiêu bạt trong trời đất” như nhà thơ ?

Khéo lắm chỉ có đám đâm thuê chém mướn, “đá cá lăn dưa” ở chợ Cầu Muối mới có cùng tâm trạng với ông, còn tuyệt đại đa số thanh niên miền Nam vốn chí thú làm ăn và coi gia đình là gốc, vậy lời “gửi gắm” của ông còn có tác dụng gì? Vậy nhưng ông vẫn kiên trì kể lể :

“ Tôi có thể nói từ thủa nhỏ, từ nhà tôi, một nhà quan cũng như từ cung vua của Thái tử đi ra tám hướng, hướng nào cũng ngập những nỗi khổ đau của con người…Tôi đi tới phương nào cũng gặp những nối khổ đau của con người. Nào tôi đã làm gì để giảm nhẹ , để xoá bỏ nỗi đau khổ của con người ?”

“ Đời là bể khổ” mà, Phật đã dậy rồi. Vậy là mang lý tưởng của Đức Như Lai, cậu bé Lưu Trọng Lư lên đường để “xoá bỏ nỗi đau khổ của con người”. Ôi cao quý thay…Vậy cậu đã làm gì ?

“ Cũng chỉ đến đổ nước mắt thôi!Chỉ có nước mắt thôi , không cứu nổi con người đâu …”

Vậy thì cái gì cứu nổi con người. Chẳng vòng vo gì nhiều, ông nhà thơ huỵch toẹt :

“Sau này khi tôi có bài thơ nói về Đảng của tôi, trong đó có câu :
“ Mẹ không cho nhiều nước mắt Như Lai…”
Là ý nghĩa như thế, Đảng trân trọng những gịọt nước mắt nhưng Đảng không khuyên con người cứ chết chìm trong nước mắt. Niệm một nghìn lần câu “ Đời là bể khổ” cũng không cứu đời ra bể khổ…”.

Vậy là đã rõ, đứng trước mọi khổ đau của kiếp người cho dù bố đi cải tạo, mẹ vất vả thăm nuôi, chị gái ra đứng đường, em gái liếm lá ngoài chợ… thì cũng không nên “ chết chìm trong nước mắt”. Vậy phải làm gì ? Ông nhà thơ đã vạch cho tuổi trẻ miền Nam một lối thoát : tin yêu vào cuộc sống .

“ Sự tin yêu cuộc sống đã cho tôi sức trẻ…Trong thơ văn tôi đã nhắc nhiều lần đến hai chữ “hồi sinh”. Trong bài thơ “Tiếng thu II” tôi có câu :
“ Những kiếp người tất tả hồi sinh”
Vậy “hồi sinh” tôi hiểu thế nào ? Là từ bỏ những gì vẩn đục , đen tối xấu xa để chuyển tới một cuộc đời trong sáng hơn, cao đẹp hơn…”

Rất chí lý, hàng triệu thanh niên miền Nam đã thực hiện y như lời gửi gắm của nhà thơ Lưu Trọng Lư, họ cũng từ bỏ những gì vẩn đục, đen tối, xấu xa để chuyển tới một cuộc đời trong sáng hơn, cao đẹp hơn, chỉ tiếc rằng họ “hồi sinh” bằng “đôi chân” chạy trốn khỏi cái xứ sở thời đó mà "đến cái cột đèn nếu có chân cũng phải bỏ đi…"...

(còn tiếp)

khieman
06-14-2014, 06:27 PM
(tiếptheo)

Kỳ 2



Tất nhiên ông nhà thơ không đời nào muốn tuổi trẻ miền Nam“hồi sinh” theo kiểu “ bỏ phiếu bằng đôi chân đó”, ông muốn các em trước hết hãy đi vào…nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lê mà ông kêu to lên như người mới phát hiện ra chân lý :

“ Ôi !Duy vật biện chứng pháp bao nhiêu ngày tháng tôi triền miên trong cái trầm hương đó toát ra từ cái cốt lõi sự vật. Và mỗi ngày tôi ngắm xung quanh tôi muôn vàn biểu hiện , vô vàn biểu hiện phong phú, rực rỡ của cái người đời gọi là vật chất, cái duy nhất có thật ở đời…”

Ôi, ở miền Bắc sau hơn 30 năm nghiên cứu học tập, chẳng còn mấy ai tin vào cái “biện chứng pháp “ ấy nữa, bởi vậy nhà thơ mới mang nó vào miền Nam, thật đúng là “củi mục bà để trong rương , hễ ai hỏi đến trầm hương của bà”…

Đặt chân rất sớm vào Sàigòn sau Tháng Tư năm 1975, từ hội trường khoá bồi dưỡng chính trị cho gần 400 văn nghệ sĩ “chế độ cũ”, nhà thơ Lưu Trọng Lư đi thẳng tới khám Chí Hoà …làm bài thơ “Tìm anh” :

“Đập cổng Chí Hoà không thấy bóng
Tay cầm hoa trắng , đi tìm anh…”

Nhà thơ tìm ai vậy ? Có phải một bạn thơ cũ ngày trước làm việc cho "Mỹ-nguỵ" hoặc họ hàng thân thuộc có dính dáng tới chính quyền cũ nay bị cách mạng bắt giam ?

“Qua cầu Công lý nhìn mây nước
Tưởng thấy hình anh giữa biếc xanh…”

Hoá ra người mà nhà thơ cất công tới tận nhà ngục tìm chính là anh…Nguyễn văn Trỗi, chưa một lần gặp mặt mà chỉ biết tới qua bút ký “ Sốngnhư anh” của Trần Đình Vân.

Trong thời điểm các nhà thơ miền Bắc mới đặt chân vào Sàigòn ngay sau ngày ông Dương văn Minh tuyên bố “bàn giao chính quyền”, cũng nên nhắc tới Huyền Kiêu, một nhà thơ lão thành miền Bắc, khi vào Sàigòn đi ra ngoại ô đã cảm thán làm bài thơ “"Người cụt tay ở cầu Bình Triệu"” với chút cảm thông người thương binh VNCH, lập tức nhà thơ bị phê phán và bị đưa về “ngồichơi xơi nước “ tại NXB Văn Học.

Suốt cả đời thơ, Lưu Trọng Lư tuyệt nhiên không va vấp, không có câu thơ nào làm mếch lòng đảng, không có bất kỳ một “tai nạn nghề nghiệp” nào như rất nhiều đồng nghiệp khác. Ngay cả mấy năm sau, năm 1979, nổ ra chiến tranh biên giới phía Bắc, được lên Cao Bằng để chứng kiến bọn bành trướng Trung Quốc giết hại các em nhỏ ở một lớp học, được giao làm thơ để tố cáo bọn bá quyền dã man, nhà thơ Lưu Trọng Lư cũng tính rằng đây chỉ là “ngọn gió quái”, sẽ qua mau, Trung Quốc vẫn “ vừa là đồng chí vừa là anh em”, nên ông làm một bài thơ giữ kẽ, rất chung chung, không dám nêu đích danh kẻ thù lúc đó là quân xâm lược Trung Quốc :

Từ chiến địa trở về
Ngủ một đêm Đèo Gió
Trăng như vừng gương nhỏ
Trên tay em gái sàn
Nước máng từng giọt tràn
Như đàn tranh tưng tửng
Hương bưởi gần thoang thoảng
Nằm nghe gió rúc xa
Dưới ánh lửa hồng cô giáo Thuỷ
Nhớ trò, nhớ lớp ngồi ngẩn ngơ.
CaoBằng 3-79

Với bọn Khơ me đỏ, Pônpốt, Iêng xary cũng vậy, dẫu sao các“đồng chí” đó vẫn là cộng sản, chửi đích danh đâu có được :

“Tới đây mắc võng Trường Sơn
Có thu trước mặt , có xuân bên mình
… Sáng nay con đến ven rừng
Thấy cành hoa đẹp vết thương trên người
Chết rồi còn đỏ làn môi
Thấy sỗ sàng thân ngọc, con nghiêng cài áo khuy…”
1981

Chỉ chung chung thế thôi, đâu dám vạch mặt chỉ tên những đứa nào đã làm nhục mẹ . Cứ “giữ kẽ “ vậy cho an toàn, biết đâu vài năm nữa các đồng chí đó lại “ bốn phương vô sản đều là anh em” thì sao ? Quả nhiên những bài văn thơ nêu tội ác đích danh bọn Trung Quốc xâm lược đều lặng lẽ biến mất khỏi sách báo, riêng có bài của Lưu Trọng Lư vẫn được in vào tuyển tập. Ca ngợi người anh hùng trong chiến tranh với Khơ me đỏ và Trung Quốc cũng vậy, chẳng bù cho ngày trước lớn tiếng vạch mặt Mỹ- nguỵ, nay không một chữ nào điểm mặt, chỉ tên quân thù :

“ Anh không ngồi đếm bao thu còn lại
Bao tuần lá đổ, vàng rơi
Khi cánh song anh khép kín cõi đời
Anh vẫn không tin : mình chết…
Khi gà mai mỗi ngày còn đập cánh
Ai tắt được lửa bình minh…”
Lẽ nào anh chết-
1981

Cứ làm thơ theo định hướng chiến lược phân biệt “bạn thù” của đảng kiểu “kẻ thù lâu năm của nhân dân ta vẫn là đế quốc Mỹ”, trái tim nhà thơ liệu có còn đập theo những buồn vui trần thế nữa chăng ?

Trong những năm chiến tranh, đời sống dân miền Bắc rất thê thảm, con nít sinh ra không đủ sữa, nhiều người phải giã đậu phọng thành nước cho con bú, triết gia Trần Đức Thảo ngày ngày đạp chiếc xe “Pơgiô” con vịt – tức xe đạp con nít Liên xô từ Khu tập thể Kim Liên tới Thư viện Khoa học xã hội, mang theo cái cạp lồng trong có hai cục bột mì luộc, trên đường ghé nhà ăn tập thể tranh thủ xin… biđông nước chè “một hào ba gói” .

Trong khi đó Lưu Trọng Lư với chức Vụ trưởng Vụ văn nghệ , tiêu chuẩn vào chợ vua quan Tôn Đản, làm sao thấu hiểu nỗi khổ dân chúng nên thơ ông tuyệt nhiên không một câu cảm thông những cảnh đời khốn khó .

Suốt cả chục năm 1975-1986, ông vẫn náu mình trong “Hoành sơn nhất đái” - ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng muôn thủa. Năm 1982, một anh bạn đi Pháp về cho coi ảnh chụp …bác Hồ ngủ trưa giữa ổ rơm ngoại thành Paris, Lưu trọng Lư liền cảm khái thành thơ :

Giữa ổ rơm :
Nằm nơi đất lạ, tình không lạ
Giấc ngủ tìm về giữa ổ rơm
Một đời gắn bó mùi rơm rạ
Mắt nhắm còn lo chuyện áo cơm…”

Thế đấy, hàng triệu người già, trẻ con trong những năm tháng đó lấy rơm làm giường sao nhà thơ không buông một tiếng thở dài ? Tiếc thay đó là điều cấm kỵ trong văn chương miền Bắc nên ông cứ ngó lơ, ngậm miệng “giữ ghế” , dân chúng có khổ sở vì “giá, lương, tiền” ông vẫn reo vui :

“Đẹp lắm! trên đời những vấn vương
Chao ôi thiên lý một con đường…
Đi trong trời đất từ duyên ấy…”

Thưa vâng, con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội “thiên lý” lắm, nhưng nếu cứ sổ cung cấp Tôn Đản thì nhà thơ cứ đi mãi được và lại còn hô hào thanh niên :

“Chút lửa hồng , em hỡi
Ngày ấy, còn đỏ trên tay
“ Nào lên đường đi ! người trai trẻ !”
…Ta đi như một hiệp sĩ hôm nào…
1986

Thày giáo dạy văn bình giảng bài này cho học sinh ắt hẳn sẽ tán“truyền thống cách mạng vẫn còn trong tay, nào lên đường noi gương các anh hùng liệt sĩ.”.

Nhưng lên đường đi đâu, chiến tranh đã qua rồi đâu còn mặt trận nữa ? Chỗ này thì nhà thơ…tắc tị, đành lờ đi chứ còn biết nói sao ? Không lẽ hô hào lên đường làm giàu, cái đó khỏi cần nhà thơ hô hào, hàng chục ngàn các cô gái nông thôn đã chẳng lên máy bay sang Đài Loan lấy Tàu rồi đó sao ?

Vậy nhưng thời thế rồi cũng đổi thay, sang kỳ kinh tế thị trường, đề tài “ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng “ xem ra mất khách, dải“ Hoành sơn nhất đái “ không còn là nơi dung thân vạn đại cho những con chim chỉ biết hót véo von trong lồng son, cóng sứ. Ngay nhà văn quân đội gạo cội Nguyễn Minh Châu cũng phải đọc “Lời ai điếu cho văn chương minh hoạ”, “theo phong trào” Lưu Trọng Lư cũng viết sách “thị trường”, năm 1989 cho ra đời cuốn hồi ký “Nửa đêm sực tỉnh”.

Ái chà, đọc cái tựa sách cũng đã thấy đậm màu “phản tỉnh” – nửa đêm chợt tỉnh giấc để suy nghĩ gì đây ? Ăn năn, sám hối về quãng đời đã qua ? Xét lại đường lối văn nghệ của Đảng đã đưa Lưu Trọng Lư đến chỗ bạt vía nàng thơ ? Không phải, để làm yên lòng tuyên huấn và gây tò mò cho độc giả bỏ tiền mua, sách có ghi rõ phụ đề “ Hồi ký – Nhớ lại những mối tình “. Chỉ là “chuyện những mối tình”thôi, không phải “chuyện thời thế” gì đâu, đảng yên tâm nhé. Vậy một mũi tên trúng cả hai đích, ổn thoả đôi đường, đảng yên tâm mà đầu nậu bỏ tiền in sách cũng yên trí.

(còntiếp)

khieman
06-16-2014, 09:43 PM
(tiếp theo)


Kỳ 3


Ấy vậy mà “cảm hứng bốc phét ” của thi sĩ chưa chịu dừng lại, ông tới luôn, “sáng tác ” câu chuyện :

“Sau khi ở cửa Ngọ môn, Bảo Đại tuyên bố thoái vị để được làm người dân của một nước tự do thì một hôm người con gái cũng ở trong hoàng tộc được gọi ra trước một toà án, trước công chúng đông đảo , trẻ trung và nàng đã dõng dạc tuyên bố :

” Người chồng chưa cưới của tôi là một người đáng quý trọng, nhưng duyên chẳng đưa, phận không đẩy, tôi bị ép một bề. Tiền dặm hỏi, tôi xin trả lại. Bây giờ cách mạng đến rồi. Tôi yêu ai tôi lấy người ấy. Đó là việc của tôi. Cách mạng đã giải phóng đất nước, lẽ nào chẳng giải phóng trái tim tôi. Xin cám ơn cách mạng đã mở ra hôm nay cho tôi được nói ra lòng tôi. Tôi chẳng có gì tội lỗi hết , phong kiến bắt tôi bỏ người tôi yêu để lấy người tôi không yêu ”. Quần chúng vỗ tay…nhìn lên các quan tòa, người nào người nấy mặt mày đều hớn hở. Mừng về báo cho tôi biết :” Mừng thắng rồi…”

Tội nghiệp bà mẹ mang nặng đẻ đau bị con gái yêu kết ngay cho cái tội “phong kiến”, một trọng tội thời bấy giờ, và từ lúc đó bà cũng biến luôn khỏi tâm trí đôi vợ chồng trẻ. Tội nghiệp vị hôn phu, cách mạng nổ ra lo giữ cái thân hoàng tộc chẳng xong, còn đâu dám kiện một “nữ chiến sĩ cách mạng” tội từ hôn. Vả chăng đôi uyên ương tiền ăn còn chẳng có lấy đâu ra trả lại “tiền dặm cưới” ?

Cuốn “Nửa đêm sực tỉnh “ của Lưu Trọng Lư không còn là “hồi ức “ nữa, nó là một thứ “truyện tưởng tượng” nịnh cách mạng thì đúng hơn. Tới đây, nhà thơ “hồi ức” toàn chuyện đó. Nào “Như một luồng gió cách mạng thổi tới, tôi được gặp anh Nguyễn Chí Thanh và anh Tố Hữu. Anh Thanh xông xáo, chân thành chân thật. …Tố Hữu mũm mĩm, tráng trẻo thư sinh…các anh là những người còn rất trẻ, rất nhanh nhẹn , linh hoạt, có nhiều tài năng – nhũng con người của mọi tình thế…”- hết mức tán dương. Nào là “chúng tôi ở chung, ăn chung với anh Lưu Quý Kỳ, anh Trần Hữu Dực …”

Thế là “ Hồi ký , nhớ lại những mối tình” của Lưu Trọng Lư đã biến thành hồi ký cách mạng. Thảo nào nó chỉ được xuất bản có một lần thời xoá bao cấp chuyển sang kinh tế thị truờng. Từ đó đến nay chẳng còn thấy ló dạng trên các quầy tầng tầng lớp lớp những sách tái bản của các nhà văn nhà thơ tiền chiến…

Vậy là trên “mặt trận” thơ và văn xuôi, dẫu có hoàn thành nhiệm vụ tuyên truyền cách mạng, nhưng cái cốt lõi làm nên văn chương là giá trị nghệ thuật của nó thì Lưu Trọng Lư chẳng tạo được bao nhiêu để ít ra cũng được báo chí Nhà nước tung hô một thời .

Trong khi đó các nhà văn, nhà thơ cùng trang lứa như Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài …lại nổi đình đám với những “Vỡ bờ”, “ Truyện Tây Bắc”, Chế Lan Viên, Xuân Diệu…tuần nào cũng có bài nghễu nghện trên báo Văn Nghệ. Thêm nữa Hội nhà văn VN là chỗ “quần hùng tụ hội”, những chiếc ghế béo bở đã bị mấy cha từ Việt Bắc trở về chiếm hết, chen chân vào đó dẫu có anh Lành bảo kê, “con nai vàng” dù có vờ ngơ ngác cũng chẳng kiếm được bao nhiêu bổng lộc.

Thôi thì “đầu gà hơn đuôi trâu” làm anh hùng nhất khoảnh ở Hội sân khấu lại chẳng hơn xuất Uỷ viên Thường vụ Hội nhà văn ư ? Thế là ông nhà thơ quyết tiến công vào một mặt trận mà chẳng mấy anh nhà văn muốn chen chân : viết kịch , nhất lại là kịch thơ.

Và thế là văn chương Lưu Trọng Lư có một mảng ít người biết nhưng nếu không nhắc tới thì việc đánh giá sự nghiệp thật oan uổng cho thi sĩ lắm. Kịch phẩm hàng đầu của Lưu thi sĩ là “ Tuổi hai mươi” – kịch thơ dài viết trong những năm 1966-1971 mà khi ra đời , thi sĩ Chế Lan Viên đã xỏ ngọt rằng :

” Các em mà anh Lư nói đó bây giờ cũng ngoại sáu mươi chứ không còn tuổi hai mươi như anh viết nữa”.

Thi sĩ Lưu Trọng Lư nóng mặt, đáp lại rằng “Đây là tôi viết cho lứa tuổi hai mươi còn lứa tuổi sáu mươi phải nhờ ông vậy…”

Vậy Lưu Trọng Lư đã viết gì cho “tuổi hai mươi” ?

Mở màn chị Trăng “giao lưu với các cây Mận, Đào, Xoan , Trúc..”. Chị than thở :

“Từ trong hoàn vũ vô biên
Ta lăn quanh bóng chị dâu hiền
Chị yêu dấu muôn vàn : Chị Đất
Oi nửa mình chị chảy đầy nước mắt
Chìm đi trong bóng tối đặc dày…”

Hoá ra “chị Trăng “ cũng mang nỗi đau…chia cắt, y hệt “cảm hứng thời đại” lúc đó đảng quy định cho văn nghệ sĩ. Nửa đêm về sáng rồi cuộc trò chuyện giữa Trăng và Cây còn rôm rả. Bất chợt ngoài cầu ao có tiếng chân khua xuống nước. Ai vậy nhỉ ? Ai mà giữa đêm hôm khuya khoắt chưa đi ngủ còn ra ngoài ao vầy nước nhỉ ? Cô Đào nói rằng chắc cô con dâu nhà mẹ Xuân, xa chồng không ngủ được nên mới ra tắm ao vậy thôi. Cô Mận mới hỏi rằng bà Xuân có những 3 cô dâu , vậy cô nào “ khó ngủ vì vắng chồng”. Lập tức bác Mít nổi giận “con Mận con Đào hay nói tào lao”, xúc phạm phụ nữ cách mạng :

“ Làng này ai không biết
Ba cô dâu đẹp nhà mẹ Xuân
Tái nhập ngũ một lần
Cả ba ông đều đi bộ đội
Cơm chung nấu một nồi
Con : chẳng con chị con tôi
Xóm dưới làng trên thảy đều mến phục…”

Ba cô vợ bộ đội mẫu mực như vậy, làm gì có chuyện nửa đêm nửa hôm còn ra cầu ao “chao chân” làm gì ? Vậy thì người đó là ai ? Cô Đào dự đoán :

“ Đúng rồi , trót thả măng ( cá măng) với trắm mè sợ măng già sục sạo đêm khuya. Cô kỹ thuật phải ra cầu ao ngồi gác..”

Các cô cãi nhau loạn cào cào, “cô dâu “ bà mẹ Xuân chẳng phải, cô kỹ thuật nuôi cá cũng không, vậy thì ai là người đó ? Cô Trúc lại đoán :

“ Chắc mẹ Đối lo cho con
Sáng nay đã lên đường
Lo cho dâu : hoa đến thì , xuân đợi
Và thương cho mình tóc đã điểm sương…”

Lo lắng trăm bề vậy chắc nửa đêm chẳng ngủ được nên mẹ ra cầu ao rửa chân ? Không phải, bà mẹ VN có con đi bộ đội thì phải hãnh diện tự hào chớ , làm gì có chuyện “lo lắng cá nhân “ vậy ? “Tính kịch” mỗi lúc một tăng cao khi cái bóng người ngoài cầu ao hiện ra là một…ông già . Mà cũng không phải ông già, chính là hồn của bố bà Xuân, tức người ông trong gia đình hiện về thăm con cháu. Lão Mít lập tức nhớ lại cảnh khổ thời phong kiến , trước khi có đảng phát động cải cách ruộng đất :

“Thuở thằng Chánh Yên …mùa vừa chín tới
Sóc trên cây chưa ngửi thấy mùi
Thằng Chánh Yên dẫn xác tới rồi
Lấy sào chọc đếm từng quả…
Quả đầu mùa màng biếu nó
Quả cuối mùa mang biếu nốt mới yên…”

Tội ác địa chủ ghê gớm chưa, nhưng lão Mít cho biết nay đã đổi đời rồi, “thằng Chánh Yên của trời trả đất, giặc Pháp cũng lui rồi..”. Lúc này , người ông mới cho biết ông cũng là dân binh đánh Tây :

“ Một đời ta trải bao nhọc nhằn gian khổ
Mắt từng quen cảnh sống chết chiến trường
Hạt gạo dân binh từng quẩy gnh
Súng trên tay từng gác núi Vụ Quang…”

Vậy là “người ông” đã một đời đánh Tây, cay đắng đủ mùi, lẽ ra chỉ mong con cháu sống thanh bình, sinh con đẻ cái, vậy mà không, ông chỉ trở lại xem con cháu có tiếp nối cha anh “lên đường đánh Tây không hay là an phận thủ thường”. Và ông mừng rỡ khi đứa cháu cũng lại “tay súng lên đường”:

“ Ai thế nhỉ ? Khăn gói lên đường
Lại trên vai khẩu súng
Chắc sắp sửa lên đường…”

Và người ông reo mừng :

“ Chà! dáng đi vẻ đứng hiên ngang
Cháu yêu ta đó!
Đúng rồi : cháu yêu ta đó…”

Ôi chao ôi, ông ơi là ông, sao chỉ thích cháu cầm súng ra chiến trường sao không mong đời cháu sung sướng, mát mặt hơn đời ông ? Quả nhiên, đúng ý ông, đứa cháu cũng sắp lên đường nhập ngũ, nó ra đây để chờ chia tay người yêu. Trong giờ phút ly biệt này, nó nghĩ gì vậy ? Nó không nghĩ vì sao nó phải dứt ruột chia tay mẹ, chia tay người yêu, nó không lo khi nó đi rồi, mẹ già có mạnh khoẻ, người yêu liệu còn trung thành với nó, mà chỉ nghĩ :

“ Thương mẹ khi tắt đèn tối lửa
Cũng thương em khi “việc đội”, “việc đoàn”
Việc chung cũng trọn, việc riêng cũng trọn…”

Vậy là nó chỉ lo người yêu không hoàn thành nhiệm vụ sản xuất chiến đấu của người “em gái hậu phương” chứ đâu có bịn rịn, lưu luyến lúc sắp chia xa . Và rồi người con gái cũng xuất hiện…súng trên vai làm “người ông “ khoái trá:

“Cô nào đấy nữa
Mặt mày coi sáng sủa
Cũng lại súng trên vai…”

Rặt những…súng là súng , đi đến chỗ hẹn người yêu chia tay đi xa, cũng không quên mang súng theo. Cô gái này thật đã làm đúng y boong lời dậy của Mao Chủ tịch :”Bất ái hồng nhan, ái…vũ trang…”.
(còn tiếp)

khieman
06-18-2014, 10:27 PM
(tiếp theo)

Kỳ 4



Người con gái chẳng cần son phấn , cứ khoác súng lên vai là…đẹp rồi. Và bác Mít trả lời “ người ông”:

“Cháu dâu bác đó, bác ơi
Và người trai kia, thật cháu bác
Người thanh niên của Tổ Quốc
Súng trên vai sắp sửa lên đường…”

Rồi sợ “người ông” chưa hiểu lên đường đánh ai, bác Mít giảng giải :

“Nhưng bác ơi! Giặc Pháp đuổi rồi
Giặc Mỹ đến liền
Hai mươi năm đường đầy lang sói
Hai mươi năm sông đỏ oán hờn…”

Rồi như sợ “người ông” chưa thấu rõ “tội ác giặc Mỹ xâm lược”, mấy cô Mận, Đào, Xoan, Trúc xúm vào kể lể :

“Con nai gầy bên suối
Cành hoá héo giữa đồi
Lúa vàng đốt dưới ruộng
Nụ cười chết trên môi…
Ruột liền cắt đoạn
Giọt máu cắn đôi…”

Kinh khủng chưa, giặc Mỹ tới thì đến…con nai cũng gầy, hoa cũng héo, lúa cũng cháy và đến nụ cười cũng…chết. Chỗ này ông nhà thơ quên phứt chủ nghĩa lạc quan cách mạng với hình tượng “nụ cười Võ thị Thắng” trước họng súng quân thù. Giặc giã độc ác vậy nên các cô Mận, Đào, Xoan , Trúc đồng thanh :

“Trai“sẵn sàng” băng miền hoả tuyến
“Gái “đảm đang” ở lại hậu phương
Vì Tổ Quốc, đi, ở, đôi đường
Tuổi thanh niên đã nguyện xem thường…”

“Người ông” còn thắc mắc nếu chiến tranh kéo dài liệu con cháu có còn tiếc rẻ tuổi thanh niên nữa không ? Ông hỏi :

“ Dẫu mười năm xa cách
Tuổi thanh niên đã nguyện coi thường ?”

Bác Mít trả lời ngay :

“Vâng, đã nguyện xem thường
Dẫu rằng giữa tuổi yêu đương
“Cốc rượu nồng bên môi mới bén
Khúc hát đêm qua vừa trao hẹn
Sáng nay hoa tiễn , vẫn tươi cười…”

Đó “người ông” cứ yên tâm, con cháu chúng ta như thế đấy. Dù chỉ mới qua một đêm tân hôn, sáng mai phải ly biệt nhưng đôi trai gái vẫn…tươi cười. Nhà thơ “mô tả tâm lý nhân vật “ như vậy thì…hết chỗ nói.

Lúc này “người mẹ” cũng đã bước ra, bởi lẽ bà đang ngủ “ nửa đêm sực tỉnh, bên cầu ao, ta nghe có tiếng chân chao, ai thế nhỉ ?”. Bà quên phứt ngay con trai mờ sáng nó sẽ dứt áo ra chiến trường, bà cứ đánh một giấc ngon lành, mãi khi nghe tiếng chân khua nước ngoài cầu ao mới tỉnh dậy ra coi sao ? Bà quanh quẩn một hồi chẳng thấy ai, sờ vào quả mít, bà mới nhớ ra con sắp đi chiến trường :

“ Mít kia chẳng mai kia sẽ chín
Cũng muốn con ăn một miếng cho vui
Nhưng việc dân, việc nước lửa bỏng nước sôi…”

Vậy thì con cứ đi cho nhanh nhé, việc nước quan trọng hơn…ăn mít. Than ôi, có bà mẹ nào sốt ruột cho con đi ngay vào nơi mũi tên hòn đạn như ngày nay giục con đi lĩnh xổ số giải độc đắc vậy ? Viết lách như thế , trách gì thể loại kịch thơ đã…chết bất đắc kỳ tử trên sân khấu Việt Nam kể từ khi nhà thơ Lưu Trọng Lư chiếm lĩnh “trận địa” này ?

“Bà mẹ” đã “cách mạng “ tới mức đó, ấy vậy mà vẫn còn bị ông nhà thơ trách móc :

“Sao không học gương mẹ già thuở trước
Cũng thức suốt đêm thâu
Nhưng để may cờ cứu nước
Kịp cho con gà gáy lên đường…”

Chẳng hiểu có “cái thuở nào“ lại có bà mẹ “quái thai” đến thế, sáng sớm hôm sau con trai đã đi vào tử địa mà đêm đó bà vẫn còn ngồi…may cờ ? Cảm hứng “ra trận” quá đà làm ông nhà thơ cứ bịa ra những chuyện trời ơi đất hỡi vậy.

Rồi cũng tới cảnh “ chinh phu, chinh phụ” thời chống Mỹ. “Người con trai” và “người con gái” ngồi xuống một tảng đá. Ôi chao, trong lúc tử biệt sinh ly, lẽ ra hai con tim phải hoà chung thống khổ, ngờ đâu cô gái mở miệng:

“Anh ra đi mẹ có dặn gì?’

Chàng trai phấn khởi :

“Mẹ cười, mẹ bảo
Việc nước con cứ đi
Việc hợp tác, việc nhà
Có tao có nó…”

Bất chấp tình cảm tự nhiên trai gái khi ly biệt, ông tác giả kịch bản bắt đôi uyên ương sắp rời cánh …ca bài sản xuất và chiến đấu. Cô gái nức nở :

“Nhớ anh em mở một đường cày
xách dăm gầu nước tưới cây anh trồng
…Em đi đón dòng “cá bột”
Mang giống về chọn lọc em ươm
Một năm anh về, hai năm anh về
Mười năm anh về, cá lớp lớp sinh sôi
Nhớ anh thế đó, anh ơi…”

Chàng trai cũng sụt sùi :

“Kẻ địch nào chẳng thắng em ơi
Khó khăn nào anh không vượt nổi ?
Nhớ lời Bác dậy ?
Nghìn sông anh cũng lội
Vạn đèo anh cũng băng…”

Tâm tình lâm ly xong rồi, tới “tiết mục tặng quà”. Cô gái tặng “gói kim chỉ” để áo rách anh tự vá, còn anh trai tặng gì ? Cô gái đoán … cuốn sách dạy trồng dâu ? Không phải . Thôi đúng hạt giống rau rồi ? Cũng không phải, cô lại đoán :

“Phải rồi , anh cho em chiếc lược
Bằng thép mỏng máy bay?”

Anh con trai nổi tự ái:

“ nếu là chiếc lược em ơi
Thì hãy đợi một ngày
Khi tự tay anh hạ lấy
“Con “thần sấm” giữa trời
Và tự tay anh chuốt thành lược…’

Ghê chưa, nếu em muốn anh tặng lược thì đợi anh bắn rơi máy bay Mỹ lấy mảnh nhôm đã. Các nhà chế tạo máy bay Mỹ cần chú ý chi tiết này, nên làm sẵn vài ngàn chiếc lược, phòng khi máy bay hạ cánh khẩn cấp trên đất Việt, còn có cơ đàm phán cẩu nguyên chiếc về kẻo máy móc bị xả thịt làm…lược. Khi cô gái chịu thua không đoán được, chàng trai mới “bật mí”. Tưởng gì quý báu, hoá ra là…chiếc gương . Đã vậy còn dặn dò :

“ Những khi cày xong một buổi
“Em ra gốc muỗm em ngồi
Em lấy gương đẹp ra soi
“Trận đấu chiều đã vãn
Em lấy gương đẹp ra soi
Em gỡ những vết bùn trên tóc…”

Vậy em nhớ nhé, gương này anh tặng chỉ dùng trong…sản xuất chiến đấu, còn sáng ngủ dậy, hoặc đình đám hội hè chớ dùng tới nó. Thật biểu hiện sinh động của một nền văn minh “đứng đầu nhân loại”. Ấy thế mà cho dù chịu thắt buộc “nội quy sử dụng gương” vậy, cô gái vẫn vuivẻ :

“ Anh ra đi mưa nắng chiến trường, sao cho tròn nhiệm vụ
Em ở nhà, một niềm chung thuỷ hai chữ “đảm đang”
Dẫu năm năm, mười năm, nhìn gương em chẳng hổ,
Đường chiến đấu , dài lâu gian khổ…”

Một cuộc chia ly màu siêu đỏ, đến “người ông “ vốn là chiến sĩ Cần Vương cũng phải ngỡ ngàng, phấnkhởi :

“ Thậm chi ( không có dấu) là khoái trá

Con trai con gái bây giờ
Tiễn đưa nhau đi đánh giặc mà cứ như là…”

… là đưa nhau tới…phòng cưới vậy. Thế là cả ông lẫn cháu đều ra sa trường, để hoàn chỉnh “ bức tranh gia đình cách mạng”, cha truyền con nối đánh giặc, tất nhiên phải có ông bố nữa, thế là ông nhà thơ cho “hồn người cha” ra sân khấu cho đủ tam đại cầm súng :

“Ta người chiến sĩ Điện Biên,
Về đây, thăm vườn cũ
Mười mấy năm cách mặt chẳng xa lòng…”

Gặp lại bố ngày xưa, cha con chưa kịp hàn huyên, người cha đã mang chiếc ba lô xưa chống Pháp, nay con sắp mang đi chống Mỹ kể lể :

“Ôi chiếc ba lô ngày cũ
Giữa chiến trường Điện Biên Phủ
Còn nguyên đây : dấu đạn giặc xuyên qua
Chiếc ba lô đã từng thấm máu hồng ta…”

Và khoe với người ông :

“Cha hãy trông đây
Chiếc ca bác Hồ gửi tặng
Còn nguyên hai chữ Điện Biên…
Con qua cháu lại
Lớp lớp tay chuyền…”

Mười mấy năm cách trở quay về, hồn “người cha” chẳng thiết nhòm ngó vợ sống ra sao, ở vậy hay đi bước nữa, con cái, nhà cửa thế nào, chỉ chăm chăm chuyện “đánh giặc” :

“ Lòng con bao xiết tự hào
Nhà ta ba đời vằng vặc trăng sao
Ông đến cháu dốc một lòng đại nghĩa…”

Cũng may vở kịch viết vào năm 1971, nếu lùi lại ngót chục năm nữa, nhất định ông nhà thơ đưa thêm‘thằng chắt” lại vác ba lô đi đánh …giặc Tàu thì lớp lang, ra vào sân khấu còn phức tạp nữa. Lúc này con chưa ra chiến trường, cháu chưa lọt lòng mẹ, bởi vậy chỉ có hai thế hệ cha ông tranh nhau kể lể thành tích chiến đấu. Người cha khoe :

“Vâng, giữa chiến trường con đã ngã
Vết đạn đã xuyên mình
Nhưng Điện Biên Phủ quang vinh
Đã ra đời một hành tinh mới…”

“Thế hệ cha” ghê gớm chưa, hy sinh thân mình làm mới bộ mặt hành tinh. Bốc phét cỡ vũ trụ thế này thật xứng tầm…ếch ngồi đáy giếng. Nghe thằng con thổi thành tích lên hết cả cỡ giành cho cha, người ông đâm bực mình :

Con ơi thuở cha đứng lên
Cũng trời nghiêng, đất ngả
Oanh oanh liệt liệt một trường
Mật nào chẳng nếm , gai nào chẳng nằm
Gươm đại nghĩa mười năm không nao núng…”

Lúc này mấy cô Mận, Đào, Xoan, Trúc đành phải nhảy vào can khéo hai cha con :

“Chị em “bầy tui” : Mận, Đào, Xoan, Trúc
Lại xin nghiêng đầu trước đầu bạc Vụ Quang
Mười năm gian khổ kiên cường…”

(và tất cả lại đến bên người chiến sĩ Điện Biên )

“ và trước người chiến sĩ Điện Biên anh dũng
Chị em ‘bầy tui” xin thân mến cúi chào:
Một trận long trời dậy sóng năm châu
Thực dân quen thói đè đầu
Việt Nam đứng dậy phất cao cờ hồng…”

Vậy là…huề, cả “ông” lẫn“cha” thành tích “ chống quân ngoại xâm “ đều tầm cỡ “long trời lở đất cả, ngang sức ngang tài anh hùng cách mạng, khỏi tranh cãi ai hơn ai. “

(còntiếp)

khieman
06-19-2014, 06:27 PM
(tiếp theo)


Kỳ 5

Người ông phấn khởi :

“ Cha chả là vui…
Nghe, để bác nghe cho hết lỗ tai
Nhìn, để bác nhìn cho suốt con mắt…”

“Người mẹ” bước vào, khán giả chờ đợi cuộc trùng phùng cảm động sau mấy chục năm âm dương cách trở giữa đôi vợ chồng “ người cha”, tiếc thay ông tác giả kịch bản dấu biến “tình huống nhạy cảm” đó để cho bà vợ “trữ tình bay bổng” trong nỗi niềm “chống Mỹ cứu nước “ :

“Con ơi, giặc trước tan
Ruộng vườn vừa cướp lại
Giặc sau đ tới…
Nhưng con ơi
Tội giặc ngập núi ngập sông
Thương hận : tràn Nam, tràn Bắc
Mẹ thương con phải giục bước lên đường…
Con ơi, ơn Đảng đi về : bao xiết công lênh…”

“Hồn chồng” gặp lại vợ chẳng mảy may da diết nghĩa phu thê lại chăm chăm vào …cái ba lô vợ khoác lên vai con trai :

“ Ơi rộng lớn hai vai con
mẹ khoác lên một niềm đại nghĩa
Vườn cũ gió bay vờn tóc mẹ
Suối ngàn, cất bước đẹp tình con…”

Và sau cùng “ người ông” bật mí kẻ khua nước dưới cầu ao giữa đêm khuya chẳng phải con gái, cháu dâu động tình mất ngủ mà chính là …ông đó :

“ Chao nước đêm khuya chính là ta đó
Ta nghe đất nước, cơn bão trước, cơn bão sau
Dức dối thân mình, bàng hoàng giấc ngủ
Nay ta về đây,
Tai đã sướng lỗ tai
Mắt đã no con mắt…”

Vâng, khán giả đã “no con mắt” cả chục nhân vật thuộc ba thế hệ ra vào sân khấu trong một hoàn cảnh rất kịch mà người xưa từng nói “ Thùng thùng trống đánh ngũ liên, bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa…”, đã “sướng lỗ tai” những những đại ngôn , vậy mà tiếc thay, người xem chỉ thấy quay đi quay lại có mỗi một nhân vật : chính là ông tác giả kịch bản . Ông đã chui vào hình hài của vợ chồng ông, cha, con người ta để làm mỗi một việc là động viên tuyên truyền “Tuổi hai mươi” lên đường chống Mỹ bằng những lời thơ lủng củng, sáo mòn, ngôn từ khẩu hiệu.

Kịch chẳng có, thơ cũng không – vở kịch thơ “ Tuổi hai mươi”, tác phẩm chính đã đưa thi sĩ Lưu Trọng Lư lên chiếc ghế Chủ tịch Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam đã nhanh chóng rơi vào thùng rác thi ca của lịch sử giống y như giấc mộng kê vàng của ông vậy.

Năm 1985, không khí sáng tác trong nước đã sặc mùi “cởi trói” tới mức các nhà văn nhà thơ cây đa cây đề cũng lăm le “phản tỉnh”. Chế Lan Viên có bài thơ “Bánh vẽ”, Nguyên Ngọc có “Đề dẫn”, Nguyễn Minh Châu “Đọc lời ai điếu cho một nền văn học minh hoạ”…Những lộn xộn tràn lan đó không thể không thôi thúc Lưu Trọng Lư “làm một cái gì đó” cho hợp “phong trào” cho dù ông vẫn âm thầm nghe ngóng theo kiểu “ cứ để yên coi sao “.

Không dám ra mặt thực hiện “ sứ mệnh thiêng liêng của người cầm bút “chống lệnh “cấp trên” viết sao cho khỏi cắn rứt “lương tâm thời đại”, ông len lén dùng miếng võ cũ rích từ thời Nhân văn Giai phẩm “mượn xưa nói nay” trong vở kịch nửa nói nửa thơ “Bình minh anh vũ” và cũng chỉ dám xẹt qua, mượn lời vai phụ “gài mìn” qua vài câu thoại bóng gió.

Truyện kịch kể rằng ở thời Trần Duệ Tôn, có ông Nguyên soái họ Nguyễn, vào một tối cao hứng, sai treo tranh “Nắng hè tuyết bay” mời tài tử văn nhân tới đề thơ. Đề tài thật trái khoáy, tuyết sao còn sống sót sang mùa hè và lại còn “bay” trong nắng? Ngụ ý gì đây ?

Mở đầu cuộc hội, “Trần Doãn, nhà thơ đứng tuổi, ra dáng một quan thơ, áo quần trau chuốt, dáng vẻ đường bệ, “ đề thơ và được một nàng “vũ nữ áo xanh” cất giọng ngâm lớn :

“ Tuyết sao có tuyết giữa hè
Có chăng tuyết cũng tan đi với chiều…
Cánh bèo chỉ đẻ cánh bèo
Là hoa thiên lý mới leo đỉnh giàn…”

khẩu khí rất “bé ngoan”, tôn trọng “cấp trên”, hợp “quy luật” làm một “nhà thơ già” đứng dậy vỗ tay khen rối rít :

“Đúng như vậy. Tuyết nào lại có tuyết giữa hè ? Như thế là trái đạo trời. Thơ này mới phải đạo, tranh kia không nên có…”.
“Bức tranh “nắng hè tuyết bay” này thật ngang trái với lẽ trời. Lẽ đời cũng vậy, có trước có sau, có ngôi có thứ, đổi ngôi, vượt phận , sang hèn lẫn lộn là điên đảo thế tình…”

Cái thói “cừu con”, “giữ trật tự”, “ổn định chính trị” này lập tức bị một “nhà thơ trẻ” phất tay áo cãi lại :

“ Thế nào là điên đảo thế tình?
Thế nào là ngửa nghiêng trời đất?
Đông mà cứ tuyết lạnh mà nói
Hè mà cứ nắng gió mà ca
Thơ văn như thế là có mùi thiu đấy…”

Than ôi, nếu nhà thơ trẻ nói đúng thì sự nghiệp văn thơ sau cách mạng của chính ông tác giả kịch bản hẳn đã nồng nặc lên rồi. Bởi thế “nhà thơ già” lên tiếng chửi lại :

“Chuyện thơ văn mà như chuyện nơi sông chợ…”

Lúc này quan Nguyên soái mới can đôi bên và mời người tiếp theo là Dư Sinh, còn trẻ, áo quần xuềnh xoàng , dáng người bình dị đề thơ và được một cô “vũ nữ áo vàng” cất tiếng ngâm :

“ Tuyết từ giá rét đêm đông
Vẫn trong áo trắng sang sông với hè
Vẫn trong nắng cháy tuyết đi
Một lòng trinh tiết chẳng hề chịu tan…”

Bài thơ có ý bóng gió văn nghệ sĩ dưới chế độ “quản lý tư tưởng” chẳng khác gì “tuyết giữa mùa hè” đi trong “nắng cháy”, mặc dầu vậy, cần giữ lấy bản chất “ nghệ sĩ” chớ có chịu “tan”. Ngay lập tức “ nhà thơ già” đập mạnh chén rượu xuống bàn quát to :

“ Bạo thiên nghịch địa, bạo thiên nghịch địa…”

Hống hách , cha bố thiên hạ chẳng khác gì mấy ông nhà văn già xúm vào đánh đòn hội chợ nhóm viết trẻ Nhân Văn Giai Phẩm và tất nhiên trong số đó phải có nhà thơ Lưu Trọng Lư dấu mặt chỉ đạo.

Tuy nhiên lúc này đã là đêm trước của ngày cố Tổng bí thư Nguyễn văn Linh “cởi trói” văn nghệ sĩ, lớp “nhà văn già” không còn độc diễn, Lưu Trọng Lư đành đưa ra sân khấu “lớp trẻ” cho hợp “thời thượng” :

“Một nhà thơ trẻ đứng lên phất cao tay áo:
” Thơ như thế là bạo thiên nghịch địa ư ? Các vị bảo : “Đạo người có trên có dưới. Khi đánh giặc thì kẻ trên dưới một lòng. Đánh xong giặc thì lại đạp cổ xuống bùn, kẻ thì “toạ hưởng kỳ thành” ấp này ấp nọ. Quý hoá thật, hay ho thật. Muốn leo đến đâu thì leo- nhưng khi đạp lên lưng những đứa nô tỳ cũng thử nhìn xuống xem : Cánh tay thằng dân đen ấy, cánh tay cha anh họ cũng còn nguyên hai chữ “Sát Thát đấy”. Ấp ruộng các ngài cò bay sải cánh, các người có nghĩ đến giun dế dưới bùn đen…”“

Lời tố cáo thật đanh thép từ thời Trần Duệ Tông vẫn còn “tươi rói” tới tận bây giờ khi giai cấp tư sản đỏ cầm quyền ngày càng cách biệt với đám dân đen đã từng cầm súng đi “chống Mỹ cứu nước “.

Hãy thử hỏi các “đồng chí “ chủ trang trại hàng trăm hécta cà phê, cao su, tiêu, điều “cò bay sải cánh”, các đồng chí “chủ vườn” hàng chục mẫu Bắc bộ xanh tươi và béo bở, có khi nào ngó xuống đám dân đen một thời “Sát Mỹ” hiện sống ra sao với thu nhập chỉ vừa đủ để không chết ?

E rằng ý kiến của “nhà thơ trẻ” đã đi quá đà, “mượn xưa” thì mượn nhưng nói năng liều mạng quá e cấp trên phật ý, bởi thế Lưu Trọng Lư vội vàng xí xoá :

Nhà thơ già (đập cốc rượu vỡ choang): “ Giọng lưỡi sông chợ, đâu phải chuyện thơ văn …”

Cái kiểu “bí cờ văng tục”, đá trái banh “chính trị” vào vườn văn thơ là thủ đoạn quen thuộc từ thời vu vạ nhóm Nhân Văn - Giai phẩm tội phản động, chống chế độ chứ không phải “ đòi tự do sáng tác”. Dẫu sao, Lưu Trọng Lư cũng đưa được lên sân khấu cuộc tranh luận nảy lửa giữa “ nghệ thuật vị cấp trên”, đại diện là ông “quan thơ” Trần Doãn với “nghệ thuật vị dân đen” người phát ngôn là chàng nho sinh họ Dư nghèo.

Tới đây lẽ ra Lưu Trọng Lư không được “náu mình” đứng giữa hai phe nữa, ông phải bày tỏ quan điểm của mình, phải chọn hoặc “quan thơ” chính thống hoặc chàng nho sinh nghèo làm thơ “ngạo ngược”. Tiếc thay nỗi sợ cố hữu thường trú trong nhà thơ cách mạng đã giữ ông lại, chỉ “tự cởi trói” được tới đó, chỉ đưa ra cuộc tranh cãi giữa đôi bên mà lờ đi không bênh vực và cũng chẳng lên án bên nào.

Từ đây kết thúc “câu chuyện thơ thẩn” để bắt đầu chuyện tình ai oán của Dư Sinh và qua nhân vật này bộc lộ khá rõ “con người thật” thi sĩ Lưu Trọng Lư.

Nguyên trong hội đề thơ, chàng Dư chẳng thèm chú ý tới cuộc tranh cãi giữa hai nhà thơ già-trẻ, chỉ…nhìn lom lom vào cô “vũ nữ áo xanh” trẻ đẹp - người ngâm bài của ông quan thơ Trần Doãn. Cô này cũng cảm thấy chàng Dư chết mệt vì mình nên trong lúc múa hát đã gửi gắm những động tác chỉ riêng chàng nhận ra. Tiệc tàn, Dư Sinh lân la hỏi dò người hầu gái mới được biết “ Nàng tên gọi Tuý Tiêu, quê ở Nam Sách. Nguyên soái nhân một ngày đi săn chim Anh Vũ gặp nàng mang về. Nàng được học múa, học ca, học chữ. Học đâu nhớ đấy, nhận một trả mười.” .

Chàng Dư nổi hứng làm sẵn một bài thơ :

“Sương bay vườn Tuý
Nặng giọt ba Tiêu
Trời mờ mịt tối
Hồn lạc tìm nhau…”

Thói hám gái của chàng Dư không lọt khỏi mắt quan Nguyên suý, ông tới gặp chàng nói thẳng :

“Ta đoán sau buổi ca vũ, ngươi có điều vương vấn. Nay ta có điều muốn nói với ngươi: trong dinh ta có mười ca vũ nữ, toàn là những người hát hay, múa giỏi. Cô nào đẹp mắt ngươi cứ nói…”

Lẽ ra là “kẻ sĩ”, chàng Dư phải thấy hổ thẹn, chân ướt chân ráo được mời tới dự tiệc nhà người ta đã tính “chôm” ngay mỹ nhân, vậy nhưng chàng Dư được lời như cởi tấm lòng, vội vàng chộp ngay cơ hội :

“ Thưa nguyên soái…người làm kẻ hậu sinh bàng hoàng chính là người vũ nữ áo xanh…”

Sống sượng vậy, rồi để chắc ăn , chàng trình ngay Nguyên soái bài thơ vừa làm còn chưa ráo mực trong có tên Tuý Tiên mà lẽ ra phải trao tặng nàng trước đã. Ông quan văn tốt bụng không ngờ, bằng lòng gả ngay cô gái cho chàng và còn vỗ vai dặn :

“ Mọi việc đều ở tay ta. Người cứ về phòng khách đánh một giấc ngon lành. Mai sớm khi bình minh qua cửa sổ, Anh Vũ hót vang. Thì ngươi hãy sửa khăn cài áo đón tin vui…”


( còn tiếp)

khieman
06-23-2014, 12:42 AM
(tiếp theo)


Kỳ 6




Chàng Dư mừng hết biết, mới gặp chặp tối, sáng sớm hôm sau đã được ôm người đẹp, một cuộc tình, một hôn nhân tốc độ còn chớp nhoáng hơn cả mấy ông Đài Loan sang Việt Nam lấy vợ thời nay. Dĩ nhiên, suốt đêm hôm đó chàng Dư sao mà “đánh một giấc ngon lành” được, cứ phấp phỏng đốt nến ngồi chờ tiếng chim Anh Vũ đón nàng. Khổ nỗi chàng cứ chờ hoài, chờ hoài chẳng thấy chim lẫn người đâu ra :

“ Ta về mái tây, không hề nhắm mắt
Mấy lần đốt nến lên, mấy lần thổi tắt
Nào hay Anh Vũ chẳng hót cho
Tin mừng chẳng có
Có phải trời đã ngủ quên
Đất không thức dậy ?”

Vậy là chưa hết đêm, bình minh chưa tới chàng Dư đã than trời trách đất, “nghi ngờ” lòng tốt ân nhân , thật chẳng “quân tử” chút nào. Thế rồi có tiếng chân động ngoài thềm, mặc dù chưa đúng “ám hiệu” , chàng cũng “ vội đứng dậy, cài áo sửa khăn bước ra” hoá ra là…gió. Lại thấp tha thấp thỏm chờ đợi. Bỗng có tiếng chim hót.Dư lại một lần nữa cài áo sửa khăn. Nhưng khi nhận ra không phải tiếng chim Anh Vũ, Dư lại một lần nữa bàng hoàng thất vọng :

“ Tiếng hót sao nghe như rối rít bàng hoàng
Mà đâu phải tiếng chim Anh Vũ…”

Mới chưa qua một đêm chờ đợi, tính cách chàng nho sinh họ Dư đã bộc lộ cái phần “kém trượng phu” trong nhân vật chính vở kịch “Bình Minh Anh Vũ” làm người coi ngờ rằng nó phản chiếu chính ông tác giả.

Thế còn nàng Tuý Tiêu ?

Xuất thân nhà nghèo nơi thôn dã, bố chết sớm năm 17 tuổi, lọt vào tay một gã thuyền chài, sau được quan Nguyên soái chuộc về dạy múa, dạy ca…theo kiểu “đào tạo” kỹ nữ làm vui trong phủ. Trong tối hội thơ, vừa nhìn thấy Dư Sinh lần đầu nàng đã ưng trong bụng , đã “nhấm nháy”, ngầm đánh “tín hiệu” đủ thấy gốc gác chẳng phải gia giáo. Tan hội, đêm về, được quan Nguyên soái báo tin gả nàng cho Dư sinh, lại được đọc bài thơ chàng làm có ghép tên mình, nàng mừng rỡ OK liền và xin vâng theo đúng kịch bản quan nguyên soái đề ra khi có tiếng chim anh vũ cất lên nàng sẽ đi “tìm cọc” ở phòng chàng Dư.

Đêm đó, cũng giống chàng thi sĩ, nàng bồn chồn, sốt ruột chẳng ngủ được, chờ hoài chẳng thấy chim chóc nào cất tiếng hót. Thế là nàng đành phớt lờ “kịch bản” :

“Băng sương vượt lối
Ta đến với người
Chân không bước mạnh
Sợ động hồn mai…”

Xăm xăm tới phòng Dư Sinh, chàng lại đang … ngủ khì, nàng đành đánh động tự giới thiệu mình là “ người áo xanh” trong tối hội và tên Tuý Tiêu trong bài thơ chàng mới làm. Những tưởng chàng sẽ mừng quớ, ai ngờ lại vô tâm, hỏi cắc cớ:

” Áo nào ? Thơ nào?”,

rồi còn nghi ngại :

“ Nguyên soái đã dặn
Khi nắng sớm trên cành
Và Anh Vũ hót inh
Thì nàng sẽ đến…”

Tới nước này, nàng Tuý Tiêu đành phải giải thích chắc là chim anh vũ…ngủ quên nên :

“Chẳng ngại sương đêm
Thiếp đến với chàng tưởng như đi trong bình minh rạng rỡ…”

Có lý do chính đáng “chim ngủ quên”, lúc này chàng Dư mới như người ngủ dậy nghe tin trúng số , vội vàng :

“ Tuý Tiêu !Tuý Tiêu !
Chuyện trong mơ, mà quả người đã đến thật…”

Thế là tình lớn gặp nhau, đồng lòng gặp gỡ khỏi chờ tiếng chim anh vũ như lời dặn quan nguyên soái, chàng nàng tranh nhau kể lể . Nàng than vãn “ 12 bến nước lênh đênh, không cội không cành, dạt đâu là phận đó, kể sao cho hết nỗi niềm” .

Còn chàng lại khoe chí khí nam nhi :

“ Lòng ta chỉ muốn được rong chơi
Ném quản bút tre vào mực đen thế sự
Giấy nhân tình nhoè đỏ
Cười khóc chuyện người…”

Í trời , giá thi sĩ Lưu Trọng Lư cũng “ném bút vào thế sự” thì nay người đọc hẳn đã được hưởng di sản thơ giàu có chứ chẳng phải trắng tay như ông để lại. Tỏ vẻ lấy bút chống trời xong , chàng dùng nó chinh phục người đẹp :

“ Nghe lời ca ai não nuột
Nhìn điệu múa ai uốn đau
Ruột này cũng quặn héo…”

Và chàng thề thốt :

“Hãy sáng lên hỡi ngọn đèn
Ta nguyện vì em làm phên che gió…”

Chàng nàng đang nỉ non tình sự, hốt nhiên Nguyên soái xuất hiện tay xách lồng chim. Người ta tưởng đòn trừng phạt tội cãi lời quan, không chịu chờ chim anh vũ lên tiếng sẽ giáng xuống đôi tình lang, may thay ông quan là người tử tế , chẳng những không bắt lỗi mà còn cho ngựa, cho kiệu để chàng rước nàng về quê lại kèm theo quà tặng cưới chiếc lồng chim anh vũ ghi lại kỷ niệm ngày quan đi săn loại chim này, chuộc nàng về.

Tuy nhiên chẳng phải ông quan nào cũng tử tế như quan nguyên soái. Cái ông quan thứ hai làm thay đổi cuộc đời Dư Sinh và Tuý Tiêu lại là một bạo quan – Thân Trụ Quốc từng khoe khoang :

“ Trong triều ngoài quận đều biết tiếng ta
Có trầm quý nào trong rừng mà ta không kiếm được
Tội nặng như núi, một chữ của ta còn xoá được nữa là…”

So với ngày nay, ông quan này có khả năng “chạy án” phải ngang cỡ….Uỷ viên Bộ chính trị. Nghe tin chùa Phổ Tế mới có ni cô xinh đẹp, ngài cũng dẹp việc quan, mò tới coi. Cô này được nho sinh ca ngợi :

“Hôm nay thỉnh chuông mới thì nhà chùa cũng thỉnh về một cô tiểu thư mới. Cứ nghe cô cất giọng kệ thì Phật có cho vào Niết Bàn cũng chẳng thiết vào nữa . Còn quan to quan nhỏ trong triều , cứ thấy mặt cô một lần , cũng không muốn rời khỏi cửa tam quan…”

Không may cho vợ chồng Dư Sinh, cũng đi vãn cảnh chùa trong tuần trăng mật đúng lúc đó. Vừa nhìn thấy Tuý Tiêu đứng bên hồ tay cầm đoá sen, tướng công đã hồn xiêu phách lạc, quên bẵng mất ni cô trong chùa. Ngài lệnh :

”Cứ cho lên kiệu về kinh ngay. Gấm vóc sẽ ban sau cho cha mẹ. Bọn lính dạ ran . Trong nháy mắt , chúng làm theo ý Thân Quốc Trụ. Tuý Tiên kêu la, chống lại nhưng chúng đã ép nàng lên kiệu khiêng đi. Mọi người chỉ biết nhìn theo. Đây đó một vài tiếng niệm :” A di đà Phật…”

Chứng kiến cảnh bắt người ngay trước cửa Phật, thiện nam tín nữ chỉ biết niệm kinh. Thế còn Dư Sinh, người chồng mất vợ, chàng thi sĩ mất người yêu ? Không chạy theo kiệu quan mà giải thoát Tuý Tiêu , không vạch mặt chỉ tên quan cướp ngày Thân tướng công, chàng chỉ ngửa mặt kêu trời :

“Xanh xanh! Xanh xanh! Trời rất xanh
Gíó như không gió vẫn đưa cành
Ta đi đi về đâu ? Lội xuống hồ sen hay vào Tây Trúc ?
Miệng ta mắc niệm Phật
Ai khóc cho ta nỗi bất bình ?”

Cái kiểu cam chịu trước cường quyền bạo ngược, chỉ biết “khóc” và hỏi “trời xanh” này, chẳng riêng nhân vật chàng Dư mà ngay ông tác giả đẻ ra nó và cả sĩ phu Bắc Hà ngày nay, hỏi ai là không có ? Bởi vậy nàng Tuý Tiên còn mong gì được giải thoát ?

Quả nhiên sống trong dinh Trụ Quốc Công, ngày đêm nàng chỉ còn biết giữ chặt “ chữ trinh” khiến quan lớn trong triều phải đặt mình ….ngoài vòng chăn gối của nàng tới đêm thứ …109 và “chiến công “ đó làm nàng thích chí.

Nhưng rồi một trăm đêm, một ngàn đêm, liệu giữ mãi được không , nàng than :

“ Thảm thương số kiếp hoa cành
Làm sao giữ mãi hương trinh hở trời ?”

Vậy là nàng chỉ còn biết trông vào trời, chứ còn cái anh chồng Dư Sinh chỉ đánh võ mồm “Ném quản bút tre vào mực đen thế sự”, chỉ “cười khóc chuyện người…” chứ còn chuyện của chính mình thì …thua, lại đành phó thác cho trời chứ biết sao ?

Quả nhiên suốt trong thời gian đó, chàng Dư mất vợ chỉ quẩn quanh xó nhà “áo để buông không thắt giải, trên đầu đội một cái mũ cỏ, dáng đi thất thểu “ và than vãn :

“ Một ngày xa vợ hết khôn
Ta đi lùng hoa dại
Vò nát giữa bàn tay
Máu trong hồn rỉ mãi…”

Rồi gặp vợ ngồi kiệu đi trên đường, chàng cũng chỉ đành trố mắt:

“Ngồi trên kiệu đúng người thương
Người vũ nữ . chính áo vàng đau chưa ?
Nhìn lên chẳng thấy mắt xưa
Ta đành cúi mặt , miệng và lệ thương…
Rõ ràng ta đó, ai kia ?
Tay nào xé rách trăng thề đó ai ?”

Hoá ra không những chàng quên phứt lời thề làm phên liếp che mưa cho cuộc đời nàng mà còn trách móc nàng “đã khác xưa”. Thói cam chịu, than vãn trời đất của chàng Dư Sinh khiến người bõ già của chàng cũng phải bực mình. Oâng mượn lời mắng chim anh vũ, nhưng chính là nhằm vào chàng :

“Lão nói cho mà biết
Làm chim thì phải bay
Có cánh thì phải đạp mây.
Ngày hai buổi tốn công lão…”

Vậy đó, làm đàn ông phải vẫy vùng trời đất, chống lại tham quan, bạo quyền, làm chồng phải bao bọc, cưu mang được vợ, tiếc thay những lời răn chí tình đó chẳng lọt lỗ tai chàng thi sĩ Dư Sinh, ngày ngày chàng cứ điên điên :

“Cơm bữa chẳng thành cơm
Gặp hoa nào cũng hái…”

Lạ thay, điên vậy mà từ miệng chàng chẳng khi nào thốt ra được một lời oán trách, chửi bới Thân tướng công – kẻ đã cướp vợ, gây cho chàng nỗi thống khổ “máu trong hồn rỉ mãi” . Hoá ra không dám vạch mặt chỉ tên những kẻ gây nên bao đau đớn khiến thế gian này ngập tràn nước mắt chính là nỗi khiếp sợ thâm căn cố đế chẳng riêng thời nào, cho tới tận bây giờ cố tật đó vẫn còn ăn sâu vào những người cầm bút.

(còn tiếp)

khieman
06-23-2014, 11:56 PM
(tiếp theo)


Kỳ 7


Trong lúc chàng Dư nửa điên nửa khùng, lầu phía đông dinh quan Thân Trụ Quốc, nàng Tuý Tiêu vẫn dựng “ thành đồng vách sắt “ cố thủ không cho quan xâm phạm “cái ngàn vàng”. Tới đêm thứ 100 nàng doạ treo cổ tự vẫn, quan mới dỗ dành :

“ Việc gì mà khinh sinh uổng mạng ?
có việc gì mà ta không làm được để chiều ý nàng ?”

Cho dù là gái có chồng bị quan bắt sống giữa ban ngày ban mặt ngay cổng chùa, nàng cũng phải nói thác :

“ Từ buổi đầu gặp Dư Sinh…vì lời thơ tiếng hát mà chăn gối mặn nồng…
“Nay lầm đường lạc lối sa vào cửa tướng công
Hoạ phúc hợp tan đều ở tay tướng công cả…”

Thân tướng công cười thâm hiểm :

“Ngỡ là chuyện gì, đêm nay ta sẽ xuống trát tìm “chàng bán thơ”, triệu về dinh này. Nàng ở mái đông, chàng ở mái tây, đông tây tha hồ… xướng hoạ…”

Nàng Tuý Tiêu được lời như cởi tấm lòng, nào trang điểm, nào thay áo mới , nào đòi tấu nhạc. Riêng cô hầu tên Thuý Bình cảnh giác :

“Chị tin rằng trát đòi “người thơ” sẽ đến ư ? Lại đoàn viên chăn gối ư ?”

Thật chẳng ngờ, được trát đòi vào dinh chàng Dư Sinh vội vàng khăn gói ra đi , chỉ có lão bộc nhận ra chân tướng quan Thân Trụ Quốc. Nhưng nỗi niềm riêng chẳng dám tỏ bày với ai, lão đành trò chuyện với con chim anh vũ :

“ Mình đổ máu đánh giặc , giữ giang sơn nhà nó, cho nó vợ đẹp con khôn, cho nó nhà cao cửa rộng. Đánh được giặc rồi, đứa nào đứa ấy phong ấp có hàng nghìn mẫu . Chú mày bay cũng xoạc cánh. Trốn đâu cũng là ấp chúng nó.
Ruộng tay người ta canh phá ra, nó cướp làm ấp của nó…”

Lời lẽ này đặt vào miệng một cụ cựu chiến binh thời bây giờ xem ra vẫn còn tươi roi rói . Ông lão bộc lại vạch ra cái mặt quan nham hiểm :

“ Lại vợ người ta nó cướp làm vợ nó không cheo không cưới.Cái giống đó đã kẹp vào tay rồi đừng có hòng. Tao hỏi chú mày , có ai đời vào tận hàm con ly con long mà đòi lại ngọc trai? Thò tay vào, nó không ngoạm cả tay đó ư ?Ấy thế mà thấy trát đòi ba chân bốn cẳng chạy ngay vào trấn…”

Lão bộc thật sáng suốt và chí lý. Chỉ có điều ông không ngờ tới là chàng Dư vào dinh quan, được khoản đãi ở lầu tây, ngày đêm có cô Thuý Hường hầu hạ, nên chẳng có đòi “ngọc trai”, cũng chẳng yêu cầu trả vợ, chẳng đòi gì hết ngoài…uống rượu say tít cung thang suốt tháng ngày. Một tối, Thân tướng công sai Thuý Hường trang điểm thật lộng lẫy, bày tiệc chờ chàng Dư . Đi uống rượu về ngà ngà say, nhìn thấy cô hầu gái xinh đẹp, cầm lòng chẳng đậu, chàng “ôm đại “làm cô ta giãy nảy :

“Em đây mà. Thuý Hường đốt nến chờ chàng từ đầu hôm. Thuý Hường chớ nào phải ai khác. Chàng quá say nên lầm lẫn đó thôi…”

Lẽ ra chàng Dư phải xấu hổ, xin lỗi rối rít, vợ đang bị giam cầm mà lại “vồ “hầu gái còn gì đểu cáng cho bằng, nào ngờ chàng giở giọng tán tỉnh :

“Cho ta được giây phút lầm lẫn…”

Đến đây mới thấy văn chương chữ nghĩa như tấm gương hiện rõ chân tướng người viết, thi sĩ Lưu Trọng Lư cố vẽ cho được một chàng nho sinh tiết nghĩa, chung thuỷ nhất mực, khổ nỗi đôi khi cứ lộ ra chất “đểu giả”. Nghe vậy, Thuý Hường ỡm ờ :

“ Hà tất chơi trò lầm lẫn…”

Hoá ra đây là âm mưu hiểm độc của Thân tướng công, dùng sắc đẹp con hầu mê hoặc làm chàng mất mặt khỏi đi tìm vợ cũ. Mang rượu cho chàng uống, Thuý Hường lại báo trước :

“nửa đêm nay sẽ có tin mừng…”

Chàng Dư giả bộ ngây thơ :

“Tin mừng gì đây ? Nào ta uống nữa! Uống nữa đi !”

Quả nhiên tới nửa đêm Thân tướng công cho người mang tới tặng chàng một cành hoa quỳnh trong chậu nhỏ phủ khăn điều làm chàng Dư mừng rối rít :

“ Xin người về trình lại Tướng công, khách mái Tây muôn vàn cảm tạ tướng công…”

Ôi chao ôi, lẽ ra đúng tính cách nho sinh, chàng phải quăng trả chậu quỳnh, lớn tiếng chửi quân cướp ngày, đòi trả lại cô vợ yêu , ngược lại, đã không phản kháng còn ‘tri ân” rối rít khác gì lãnh đạo đảng và nhà nước vẫn ca ngợi 16 chữ vàng trong khi thằng Trung Quốc bắn giết ngư dân ta trên biển Đông.

Đêm hôm đó Thuý Hường nào ca, nào đàn , nào dâng rượu cho chàng Dư ngắm hoa quỳnh nở. Đúng nửa đêm, nàng đến bên chàng suồng sã :

“ Hương quỳnh toả ngát trời
Nào chàng cùng em cạn chén …”

Rồi nàng dắt Dư Sinh “nửa tỉnh nửa say lên giường, vừa quạt màn cho chàng vừa hát ru :

Ru người tình, ấp người say
Hai tay đưa quạt đã rời cánh chim…”

Quạt mỏi tay rồi nàng xoay qua…tắt nến. Có 12 cây nàng đã tắt tới cây thứ 11 , chỉ còn một cây nữa thôi là sáng sớm mai chàng Dư chỉ còn nước khăn gói về quê, mặt mũi nào mà dám đòi vợ. May thay tới “phút 89”, nàng Thuý Hường lại nổi máu …lương tâm :

“Bốn điều Tướng công ra, ta đã làm xong ba
Duy còn một điều nữa, cuốn tóc trăm vòng
Ta xin chịu tội
Trời đất quỷ thần soi sáng lòng dạ này…”

Nói rồi nàng ra khỏi màn, gài cửa đi sang phòng khác. Vậy là nhờ lòng tốt của cô hầu gái, chàng Dư vẫn giữ được lòng “thuỷ chung son sắt “ với nàng Tuý Tiêu yêu quý chứ chẳng phải gan vàng dạ sắt gì . Rõ đẹp mặt “anh hùng”. Điều này hẳn ngoài ý định ông tác giả kịch bản, nếu không ông đã chẳng bôi bác “hình tượng nhân vật” của mình đến thế.

Gần sáng, thật bất ngờ, nàng Tuý Tiêu bên mái đông sốt ruột sốt gan, đang bệnh cũng liều mình đi tìm chồng bên mái tây. May mắn thay chắc vì “ miếng ăn đến miệng còn tuột mất”, sau lúc Thuý Hường rút khỏi màn, chàng Dư hẳn “tiếc của trời” chẳng ngủ được mới mò dậy làm thơ dán lên vách, chứ không, nàng Tuý Tiêu bước vào chứng kiến cảnh chồng mình đang ngủ với hầu gái chắc nàng tự tử thiệt chứ chẳng còn doạ.

Khá khen thay chàng nho sinh, Tuý Tiên vừa xuất hiện trong màu áo xanh, tay cầm bông sen, chàng ca ngay được bài ca thương nhớ :

“ Chết lòng trong ngóng đợi
Người vẫn đến bất ngờ
Đúng màu xanh đêm trước
Đối mặt vẫn là mơ…”

Vợ chồng gặp lại chưa kịp hàn huyên , bên ngoài đã có tiếng dặng hắng rồi hầu gái của Tuý Tiêu là Thuý Bình chạy vào báo :” Kiệu tướng công đã xịch trước cổng, xin chàng…”. Rồi cô ta nhìn Dư Sinh như cầu khẩn chàng đưa vợ trốn ngay. Lạ thay chàng cứ đứng như bụt mọc, cô hầu gái thương chủ quá khóc nấc lên. Chàng Dư vẫn trơ mắt ếch đứng nhìn; hai người đành dắt díu nhau trở về mái đông. Vợ đi rồi chàng mắm môi mắm lợi cầm bút làm thơ dán lên vách :

“ Trăng đến tận giường múa
Chưa hát trọn bài ca
Nỗi đau không câm mãi
Tức nước phải vỡ bờ…”

Ái chà chà, có áp bức là có đấu tranh đây, tinh thần quật khởi hẳn đã thức dậy, phen này chắc chàng đâm chết tên quan dâm đãng đã phá tan hạnh phúc đời chàng. Nào ngờ khi Thân tướng công bước vào, chàng lại cung kính :

“ Cũng là duyên đưa đẩy
Đêm trăng lại quá nhàn rỗi. Đang mong ân nhân đến…”

Ôi chao ôi, chàng “tri ân” con cọp dữ đã cho rượu, cho hoa quỳnh, cho gái đẹp mà quên mất thù bị cướp mất vợ sao ? Tính cách này phải chăng bộc lộ từ phẩm chất tác giả dễ dàng “hoà đồng với cái ác” miễn sao được yên thân, tiềm ẩn sâu bên trong con người thi sĩ họ Lưu ? Nó cũng chính là “chủ nghĩa cầu an” , sao cũng được miễn cứu được “bộ da” của chính mình, căn bệnh trầm kha của “trí thức Bắc Hà “.

Cái hành động phản kháng cao nhất chàng Dư có thể đạt tới là rụt rè mời ông quan :

“ Vào dinh tướng công lâu ngày
Hôm nay cũng như ngày hôm trước
Quá nhàn rỗi, có bốn câu thơ
Xin trình tướng công …”

Đọc liếc câu thơ “tức nước phải vỡ bờ” Dư Sinh “trình” lên, ông quan coi như tiếng muỗi vo ve, cười khảy :

“ Chị Hằng từ cung Quảng sa xuống để chú Cuội trơ thân Cuội một mình, nhưng chú Cuội có giận người giận mình mà chặt mất cành đa thì cũng chỉ thiệt mất cành đa thôi…”

Rồi bất chợt phát hiện ra mùi hương quen thuộc của Tuý Tiêu, vợ chàng Dư phảng phất đâu đây, lão sầm mặt, phảy tay ra lệnh :”mãn trà”. Đây là giây phút cuối cùng để chàng Dư có thể bộc lộ sự kiên cường phản kháng của mình, vậy mà không ,” Dư sinh tiến vội đến trước mặt Thân, cung kính bái biệt”. Thật đúng là một cử chỉ hèn đớn khán giả ai cũng nhận ra, chỉ riêng ông tác giả kịch bản là không thấy.

Chờ cho viên quan đi khuất , chàng Dư mới dám “cởi áo, xé thơ” theo đúng phép “thắng lợi tinh thần” của dân Mít chỉ dám xì xào sau lưng người ta, chàng cầm bút làm bốn câu thơ khác dán lên tường và ngâm lớn :

“ Đọc hết vạn kinh sách
Mà nhân nghĩa vẫn cúi đầu
Hỏi thần thánh ở đâu ?
Hay đã bị vùi dưới đất…”

Nghe thơ chàng Dư, hốt nhiên nhớ tới mấy câu thơ chân dung hoạ phê bình gia Hoài Thanh của nhà thơ Xuân Sách :

“ Bình thơ đến thủa bạc đầu
Cũng chưa thể tất nổi câu nhân tình…”

Vâng, ngày nay có biết bao sĩ phu đọc vỡ tới cả vạn cuốn sách, liệu đã có mấy ai ngẩng cao đầu đòi cho được chữ “nhân”, chữ “nghĩa’ cho đám dân đen con đỏ?

(còn tiếp)

khieman
06-25-2014, 02:39 AM
(tiếp theo)

Kỳ 8

Ngay sáng hôm sau, quan Thân Trụ Quốc lôi ngay gã “mật vụ phòng” ra đánh đòn tan xương nát thịt về tội không kịp thời báo cáo việc nàng Tuý Tiêu lẻn tới tìm chàng Dư . Quan vứt ngay bộ mặt giả nhân giả nghĩa, nói toẹt ra rằng:

“Ta đón hắn về mái Tây này chẳng phải là để chúng lén sau lưng ta. Sao trong dinh ta , việc lớn việc nhỏ lại dám để lọt khỏi tai mắt ta ? Ta cho hai đứa được gần mà chẳng được xáp mặt. Thể như con mèo trước bóng mỡ chớm mãi mà không bắt được. Hoa mắt sùi mép mà phải buông…”

Nói xong làm liền, quan bày trò dã man, đêm trước ngày Dư Sinh bị đuổi về “địa phương”, quan cho chăng một sợi dây ngay trước cửa phòng nàng Tuý Tiêu, cho phép chàng Dư tới từ biệt vợ nhưng cấm … bước qua dây và chỉ được tới khi đèn phòng thắp sáng. Thắt buộc nhau vậy khác nào “ đặt mỡ miệng mèo mà chỉ cho ngửi”. Lẽ ra đạo làm người quân tử đời nào chịu làm phận ‘con mèo”. Ấy thế mà đêm đó chàng Dư vẫn vâng lệnh quan theo chân con hầu Thuý Bình mon men tới phòng Tuý Tiêu ở “mái đông”. Vừa nhìn thấy đèn còn sáng chàng đã hí hửng :

“Đèn còn sáng, hẳn nàng có ý đợi ?”. Con hầu lắc đầu: “ Việc đường đột này tuyệt nhiên chị tôi không được báo trước. Ngày mai chàng về nơi cũ, đêm nay quan cho giáp mặt người xưa…”. Gọi là “giáp mặt” nhưng chỉ đến chỗ căng dây mà ngó lên thôi, chàng Dư đâu dám trái lệnh quan vượt qua, đành đứng bên “giới tuyến” ngước cổ than vãn :

“ Ôi người bước trước cửa buồng
mà chân đành chôn đất lạnh”

Khi vợ xuất hiện cửa sổ, chàng Dư cũng chỉ dám đứng bên dây thừng mà kêu :

“ Tuý Tiêu ! Tuý Tiêu !
Dẫu đất trời tan tác
Nàng ơi ta không thể nào quay bước
Về nhìn đôi gối đêm nay, buốt lạnh..”
Về nhìn đôi gối đêm nay, buốt lạnh..”
“Tuý Tiêu! Tuý Tiêu ! Người khuất đâu rồi ?
Khoan đừng lay động , ngọn đèn ơi…”

Vậy là chàng chỉ sợ bên trong vợ tắt đèn phải quay lui theo đúng lệnh quan mà thôi, không hề dám có ý định vượt qua “vạch dây thừng” mà lao tới với nàng. Đến khi con hầu báo tin :

“Chàng trông ! Đèn đã lụi dần
Dám xin chàng hãy kịp lui chân…”

Cũng đành, chứ biết làm sao ? Chơi cái trò “ mỡ quệt mũi mèo” này, quan Thân Trụ Công quả là cao mưu . Chàng Dư cam tâm làm “chú mèo ngoan”, đứng bên sợi dây chăng mà vuốt bụng thở dài :

“ Đau lòng thân nam tử
Chân cóng giữa vòng vây…”

Tấm thân ngọc ngà của vợ yêu chỉ trong gang tấc mà người “quân tử” ngày xưa của Lưu Trọng Lư cũng chẳng dám vượt rào đón lấy huống hồ ngày nay, các bậc hiền nhân quân tử “ chân ấm giữa tiền dự án, tiền tài trợ ” Nhà nước rót dài dài, đời nào dám “vượt dây thừng” nói chuyện đa nguyên đa Đảng ?

Quay về nhà, chàng Dư mang lòng căm thù, trút giận vào..đôi chim Anh Vũ, quà tặng cưới của quan Nguyên soái, người đã tác hợp Tuý Tiêu với chàng :

“ Chém cha cái giấc mộng
Tưởng đôi chim nhỏ chết rồi
Thế mà vẫn nguyên đó
Nhảy đi hót đi…”

Thật đúng y tính cách “trí thức lưu manh ” khi “mộng không thành” chẳng dám vạch mặt kẻ phá thối mà chửi ngay mộng tưởng đẹp đẽ của chính mình. Rồi đến đêm, nằm mơ thấy quan Nguyên soái, ân nhân ngày trước, chàng vội vàng kể lể sự tình, nhờ quan ra tay giải cứu nàng Tuý Tiêu. Thực chẳng ngờ khi nghe xong, Nguyên soái cũng chân giò lảng ra :

“ Ta chỉ biết điều tác hợp
Còn như giữ trọn lứa đôi
Là tự ở các ngươi
Quả điều ta không liệu nổi…”

Vậy là vô phương cứu…vợ, chàng Dư chẳng còn biết trông đợi vào ai, lại đành chỉ ngồi nhà kêu trời :

“ Thần thánh hết thiêng khôn
Chữ nghĩa văn chương như của thiu đốt sạch
Trăm sách muôn nghìn sách
Hỏi còn sách nào hơn ?”

Trời Phật, thánh thần, văn chương chữ nghĩa rồi cả quan Nguyên soái chẳng cứu được chàng, rốt cuộc chính những người dân đen lại ra tay nghĩa hiệp. Ông lão bộc đã tuyển mộ được hơn 20 nghĩa sĩ, móc nối với con hầu của nàng Tuý Tiêu hẹn ngày hội đốt cây bông nàng sẽ mặc đồ trắng nhường cho con hầu mặc đồ xanh, khi kiệu đi vào đám đông, thừa cơ lộn xộn sẽ cướp nàng Tuý Tiêu trả về cho chàng Dư. Kế hoạch sắp xếp xong xuôi , chàng Dư chẳng mất công mất sức gì, cứ ngồi nhà chờ nghĩa sĩ khiêng kiệu nàng Tuý Tiêu trở về :

“ Lòng ta bồn chồn
Rối rít tiếng chim Anh Vũ
Canh đà chuyển sang canh
Sao kiệu nàng chưa về tới
Hay đường đi nhiều trở ngại ?”

Rồi đang nước sôi lửa bỏng, chẳng nghĩ gì tới những người vì mình xả thân nơi đao kiếm, chàng chỉ nghĩ tới nỗi sung sướng gặp lại vợ :

“ Hót inh lên anh vũ ơi
Kiệu hoa đã đến rồi
Nến ơi bừng sáng
Đào ơi, khoe hết màu tươi…”

Thế rồi đúng ý nguyện của chàng, kiệu hoa đã đến, nàng áo xanh cũng bước xuống, chàng Dư mừng rỡ :

“ Tuý Tiêu…Tuý Tiêu…”

Nhưng hỡi ôi không phải Tuý Tiêu vợ chàng mà là con hầu mặc áo của nàng theo kiểu “Lê Lai liều mình cứu chúa”. Cô ta cho biết :

“ Chị Tuý Tiêu trong cơn xô xát hỗn loạn
Bị một nhát thương
Qua dòng nước trong
Chị gieo mình tuẫn tiết…”

Hay tin dữ, chàng Dư chưa kịp thắp cho nàng nén hương đã vội vàng khăn gói xuống đò theo chân lão bộc chạy trốn khỏi địa phương. Kết thúc vở kịch tác giả ca ngợi :

“ Tuý Tiêu! Tuý Tiêu! Ngọn đèn không tắt
Lửa hồn đốt kiếp
Trao nhau trọn xác trọn hồn…”

Còn nhân vật chính, chàng Dư Sinh, dẫu có làm cả ngàn bài thơ nghĩa khí, rút cuộc vẫn lộ ra chàng nho sinh hèn nhát và hám gái.

Rút cuộc Lưu Trọng Lư cố tô vẽ chân dung người quân tử nhưng vô tình cứ lộ ra chân tướng kẻ tiểu nhân. Mô tả người anh hùng lắm khi cứ thò ra tính cách một “ thằng đểu” thực ra chẳng phải căn bệnh của riêng thi sĩ Lưu Trọng Lư mà là cố tật chung cho mọi văn nhân thi sĩ một khi đã cam chịu viết văn chương phải đạo, răm rắp tuân thủ những yêu cầu tức thời của chính trị.

Trên trang thờ thi sĩ Lưu Trọng Lư tại nhà lưu niệm ở ngoại thành Sàigòn có treo bài thơ di cảo tự tay ông viết :

“ Đi dưới vườn nhân dạ ngẩn ngơ
Vì thương người lắm mới say thơ
Phên thưa đã có bàn tay đỡ
Đêm lạnh phăng lần những mối tơ

Đẹp lắm trên đời những vấn vương
Chao ôi thiên lý một con đường
Đi trong trời đất từ duyên ấy
Sớm tối không rời một chữ thương…”

Vậy là chẳng sám hối quyết liệt được như Chế Lan Viên trong bài thơ “Bánh vẽ”, Nguyễn Khải trong “Đi tìm cái tôi đã mất”…đến tận cuối “con đường thiên lý” thi sĩ họ Lưu vẫn thương trời, thương đất, thương người chung chung mà chẳng dám buông một tiếng thở dài , tự vấn về con đường mình đã đi.

Cũng trong nhà lưu niệm này, có treo một tấm liễn ghi bút tích Lưu Trọng Lư :

“ Tôi thà bị lừa còn hơn không tin vào con người…”

Than ôi, bằng chữ nghĩa và sự nghiệp lãnh đạo văn hoá văn nghệ của mình, chính ông đã lừa biết bao thế hệ độc giả mà ông đâu có biết . Bởi thế, nhiều năm qua, thân nhân và tỉnh uỷ Nghệ An cố dựng lên “Giải thương văn học Lưu Trọng Lư” mà chẳng mấy ai biết tới.

“ Con nai vờ ngơ ngác
Nó ca bài cải lương…”

Lưu Trọng Lư chẳng ca “cải lương” đâu ông Xuân Sách ơi, ông ấy ca bài “khôn lỏi ” đó…

Nhật Tuấn

khieman
06-25-2014, 02:39 AM
(tiếp theo)

Kỳ 8

Ngay sáng hôm sau, quan Thân Trụ Quốc lôi ngay gã “mật vụ phòng” ra đánh đòn tan xương nát thịt về tội không kịp thời báo cáo việc nàng Tuý Tiêu lẻn tới tìm chàng Dư . Quan vứt ngay bộ mặt giả nhân giả nghĩa, nói toẹt ra rằng:

“Ta đón hắn về mái Tây này chẳng phải là để chúng lén sau lưng ta. Sao trong dinh ta , việc lớn việc nhỏ lại dám để lọt khỏi tai mắt ta ? Ta cho hai đứa được gần mà chẳng được xáp mặt. Thể như con mèo trước bóng mỡ chớm mãi mà không bắt được. Hoa mắt sùi mép mà phải buông…”

Nói xong làm liền, quan bày trò dã man, đêm trước ngày Dư Sinh bị đuổi về “địa phương”, quan cho chăng một sợi dây ngay trước cửa phòng nàng Tuý Tiêu, cho phép chàng Dư tới từ biệt vợ nhưng cấm … bước qua dây và chỉ được tới khi đèn phòng thắp sáng. Thắt buộc nhau vậy khác nào “ đặt mỡ miệng mèo mà chỉ cho ngửi”. Lẽ ra đạo làm người quân tử đời nào chịu làm phận ‘con mèo”. Ấy thế mà đêm đó chàng Dư vẫn vâng lệnh quan theo chân con hầu Thuý Bình mon men tới phòng Tuý Tiêu ở “mái đông”. Vừa nhìn thấy đèn còn sáng chàng đã hí hửng :

“Đèn còn sáng, hẳn nàng có ý đợi ?”. Con hầu lắc đầu: “ Việc đường đột này tuyệt nhiên chị tôi không được báo trước. Ngày mai chàng về nơi cũ, đêm nay quan cho giáp mặt người xưa…”. Gọi là “giáp mặt” nhưng chỉ đến chỗ căng dây mà ngó lên thôi, chàng Dư đâu dám trái lệnh quan vượt qua, đành đứng bên “giới tuyến” ngước cổ than vãn :

“ Ôi người bước trước cửa buồng
mà chân đành chôn đất lạnh”

Khi vợ xuất hiện cửa sổ, chàng Dư cũng chỉ dám đứng bên dây thừng mà kêu :

“ Tuý Tiêu ! Tuý Tiêu !
Dẫu đất trời tan tác
Nàng ơi ta không thể nào quay bước
Về nhìn đôi gối đêm nay, buốt lạnh..”
Về nhìn đôi gối đêm nay, buốt lạnh..”
“Tuý Tiêu! Tuý Tiêu ! Người khuất đâu rồi ?
Khoan đừng lay động , ngọn đèn ơi…”

Vậy là chàng chỉ sợ bên trong vợ tắt đèn phải quay lui theo đúng lệnh quan mà thôi, không hề dám có ý định vượt qua “vạch dây thừng” mà lao tới với nàng. Đến khi con hầu báo tin :

“Chàng trông ! Đèn đã lụi dần
Dám xin chàng hãy kịp lui chân…”

Cũng đành, chứ biết làm sao ? Chơi cái trò “ mỡ quệt mũi mèo” này, quan Thân Trụ Công quả là cao mưu . Chàng Dư cam tâm làm “chú mèo ngoan”, đứng bên sợi dây chăng mà vuốt bụng thở dài :

“ Đau lòng thân nam tử
Chân cóng giữa vòng vây…”

Tấm thân ngọc ngà của vợ yêu chỉ trong gang tấc mà người “quân tử” ngày xưa của Lưu Trọng Lư cũng chẳng dám vượt rào đón lấy huống hồ ngày nay, các bậc hiền nhân quân tử “ chân ấm giữa tiền dự án, tiền tài trợ ” Nhà nước rót dài dài, đời nào dám “vượt dây thừng” nói chuyện đa nguyên đa Đảng ?

Quay về nhà, chàng Dư mang lòng căm thù, trút giận vào..đôi chim Anh Vũ, quà tặng cưới của quan Nguyên soái, người đã tác hợp Tuý Tiêu với chàng :

“ Chém cha cái giấc mộng
Tưởng đôi chim nhỏ chết rồi
Thế mà vẫn nguyên đó
Nhảy đi hót đi…”

Thật đúng y tính cách “trí thức lưu manh ” khi “mộng không thành” chẳng dám vạch mặt kẻ phá thối mà chửi ngay mộng tưởng đẹp đẽ của chính mình. Rồi đến đêm, nằm mơ thấy quan Nguyên soái, ân nhân ngày trước, chàng vội vàng kể lể sự tình, nhờ quan ra tay giải cứu nàng Tuý Tiêu. Thực chẳng ngờ khi nghe xong, Nguyên soái cũng chân giò lảng ra :

“ Ta chỉ biết điều tác hợp
Còn như giữ trọn lứa đôi
Là tự ở các ngươi
Quả điều ta không liệu nổi…”

Vậy là vô phương cứu…vợ, chàng Dư chẳng còn biết trông đợi vào ai, lại đành chỉ ngồi nhà kêu trời :

“ Thần thánh hết thiêng khôn
Chữ nghĩa văn chương như của thiu đốt sạch
Trăm sách muôn nghìn sách
Hỏi còn sách nào hơn ?”

Trời Phật, thánh thần, văn chương chữ nghĩa rồi cả quan Nguyên soái chẳng cứu được chàng, rốt cuộc chính những người dân đen lại ra tay nghĩa hiệp. Ông lão bộc đã tuyển mộ được hơn 20 nghĩa sĩ, móc nối với con hầu của nàng Tuý Tiêu hẹn ngày hội đốt cây bông nàng sẽ mặc đồ trắng nhường cho con hầu mặc đồ xanh, khi kiệu đi vào đám đông, thừa cơ lộn xộn sẽ cướp nàng Tuý Tiêu trả về cho chàng Dư. Kế hoạch sắp xếp xong xuôi , chàng Dư chẳng mất công mất sức gì, cứ ngồi nhà chờ nghĩa sĩ khiêng kiệu nàng Tuý Tiêu trở về :

“ Lòng ta bồn chồn
Rối rít tiếng chim Anh Vũ
Canh đà chuyển sang canh
Sao kiệu nàng chưa về tới
Hay đường đi nhiều trở ngại ?”

Rồi đang nước sôi lửa bỏng, chẳng nghĩ gì tới những người vì mình xả thân nơi đao kiếm, chàng chỉ nghĩ tới nỗi sung sướng gặp lại vợ :

“ Hót inh lên anh vũ ơi
Kiệu hoa đã đến rồi
Nến ơi bừng sáng
Đào ơi, khoe hết màu tươi…”

Thế rồi đúng ý nguyện của chàng, kiệu hoa đã đến, nàng áo xanh cũng bước xuống, chàng Dư mừng rỡ :

“ Tuý Tiêu…Tuý Tiêu…”

Nhưng hỡi ôi không phải Tuý Tiêu vợ chàng mà là con hầu mặc áo của nàng theo kiểu “Lê Lai liều mình cứu chúa”. Cô ta cho biết :

“ Chị Tuý Tiêu trong cơn xô xát hỗn loạn
Bị một nhát thương
Qua dòng nước trong
Chị gieo mình tuẫn tiết…”

Hay tin dữ, chàng Dư chưa kịp thắp cho nàng nén hương đã vội vàng khăn gói xuống đò theo chân lão bộc chạy trốn khỏi địa phương. Kết thúc vở kịch tác giả ca ngợi :

“ Tuý Tiêu! Tuý Tiêu! Ngọn đèn không tắt
Lửa hồn đốt kiếp
Trao nhau trọn xác trọn hồn…”

Còn nhân vật chính, chàng Dư Sinh, dẫu có làm cả ngàn bài thơ nghĩa khí, rút cuộc vẫn lộ ra chàng nho sinh hèn nhát và hám gái.

Rút cuộc Lưu Trọng Lư cố tô vẽ chân dung người quân tử nhưng vô tình cứ lộ ra chân tướng kẻ tiểu nhân. Mô tả người anh hùng lắm khi cứ thò ra tính cách một “ thằng đểu” thực ra chẳng phải căn bệnh của riêng thi sĩ Lưu Trọng Lư mà là cố tật chung cho mọi văn nhân thi sĩ một khi đã cam chịu viết văn chương phải đạo, răm rắp tuân thủ những yêu cầu tức thời của chính trị.

Trên trang thờ thi sĩ Lưu Trọng Lư tại nhà lưu niệm ở ngoại thành Sàigòn có treo bài thơ di cảo tự tay ông viết :

“ Đi dưới vườn nhân dạ ngẩn ngơ
Vì thương người lắm mới say thơ
Phên thưa đã có bàn tay đỡ
Đêm lạnh phăng lần những mối tơ

Đẹp lắm trên đời những vấn vương
Chao ôi thiên lý một con đường
Đi trong trời đất từ duyên ấy
Sớm tối không rời một chữ thương…”

Vậy là chẳng sám hối quyết liệt được như Chế Lan Viên trong bài thơ “Bánh vẽ”, Nguyễn Khải trong “Đi tìm cái tôi đã mất”…đến tận cuối “con đường thiên lý” thi sĩ họ Lưu vẫn thương trời, thương đất, thương người chung chung mà chẳng dám buông một tiếng thở dài , tự vấn về con đường mình đã đi.

Cũng trong nhà lưu niệm này, có treo một tấm liễn ghi bút tích Lưu Trọng Lư :

“ Tôi thà bị lừa còn hơn không tin vào con người…”

Than ôi, bằng chữ nghĩa và sự nghiệp lãnh đạo văn hoá văn nghệ của mình, chính ông đã lừa biết bao thế hệ độc giả mà ông đâu có biết . Bởi thế, nhiều năm qua, thân nhân và tỉnh uỷ Nghệ An cố dựng lên “Giải thương văn học Lưu Trọng Lư” mà chẳng mấy ai biết tới.

“ Con nai vờ ngơ ngác
Nó ca bài cải lương…”

Lưu Trọng Lư chẳng ca “cải lương” đâu ông Xuân Sách ơi, ông ấy ca bài “khôn lỏi ” đó…

Nhật Tuấn

khieman
06-25-2014, 03:33 AM
.


NHẬU VỚI TRẦN MẠNH HẢO




http://3.bp.blogspot.com/-L03kxHyHxwg/Tprnkpz-HkI/AAAAAAAAAJc/3dwOZ8-zsZU/s320/Tuan-Hao+-+Chat++23-6-2011.jpg (http://3.bp.blogspot.com/-L03kxHyHxwg/Tprnkpz-HkI/AAAAAAAAAJc/3dwOZ8-zsZU/s320/Tuan-Hao+-+Chat++23-6-2011.jpg)


Bùi Chát - Trần Mạnh Hảo - Nhật Tuấn

Con ta chẳng phải của ta…

Sáng nay được mùa …”nhà thơ”, những hai ông ghé nhậu : Đinh Kỳ Thanh và Trần Mạnh Hảo.

Nhìn hai ông mới thấy câu than của thi sĩ Nguyễn Vỹ “ nhà văn An Nam khổ như chó” đã quá lạc hậu. Cả hai ông đều có ô tô riêng, biệt thự hồ bơi, vườn hoa cây cảnh và đều không phải lo bồi bút kiếm tiền.

Vậy mới nguy, giá như Trần Mạnh Hảo hàng tháng phải lo méo mặt tiền học cho con, tiền chợ cho vợ thì viết lách đâu có “băm bổ” như bây giờ, lại không “bốc thơm” mấy anh chủ báo, nhất mấy anh đã làm lãnh đạo lại còn ti toe làm cả thơ, để dịp tết nó chia cho một xuất bốn chục triệu như ngày xưa Trần Mạnh Hảo từng khoe.

Nhớ thời bao cấp, trên mâm có đĩa thịt lợn luộc, bát mắm tôm, mắt anh nào anh nấy sáng rỡ. Bây giờ, ngay tới tôm càng nướng, mực sào vẫn không lôi được hai ông ra khỏi tranh cãi về thơ.

“ Hôm nay Nguyễn Xuân Diện tố cáo em gái “nâng bi” Trần Gia Thái, GĐ truyền hình Hànội là nữ doanh nhân tên Nhung chuyên đạo văn thơ đưa lên blog , ngay cả bài “bốc thơm” này em cũng đạo…”

“ Nâng bi GĐ truyền hình Hà Nội là cái đinh gì, các phê bình gia cây đa, cây đề “nâng bi” Tố Hữu, Trường Chinh cả nửa thế kỷ nay cũng có ai nói gì đâu. Lại còn được đề nghị tặng thưởng Hồ Chí Minh như thày Hà Minh Đức nữa kìa….”

Nghe nhắc tới Hà Minh Đức, tôi chợt nhớ hồi Đại hội 6, giờ giải lao ngồi uống nước với thày ngoài hành lang Hội trường Ba Đình. Đang vui chuyện chợt một ông to béo, lùn choằn choằn từ xa đi tới. Thày Hà Minh Đưc đang yên vị trên ghế, chợt nhảy nhổm lên :

“ Đồng chí Tố Hữu…Tố Hữu…anh Nhật Tuấn đứng dậy nhường ghế cho đồng chí Tố Hữu…”

Tôi bật cười ha hả, vái thày Đức ba vái :

“ Em lậy thày ạ…”

Lạy rồi quay đít bỏ đi , thoáng thấy thày cuống queo như muốn bế anh Lành lên ghế.

“Kỳ này cuốn nào được đề nghị tặng giải Hồ Chí Minh tớ cũng đọc lại hết..”

Nghe Trần Mạnh Hảo doạ, tôi bật cười :

“Nào…cụng ly cái đã. Thơ thẩn nói sau…”

Cụng một cái vẫn chưa ngó tới tôm với mực, lại chuyện văn thơ . Sau cùng, Trần Mạnh Hảo cũng bỏ miệng con tôm nướng. Tôi hỏi :

“ Giờ Giám đốc truyền hình Hà Nội Trần Gia Thái mời Trần Mạnh Hảo lên đài bốc thơm “Lời nguyện cầu trước lửa” mày có lên không ?”

“ Trần Mạnh Hảo không phải Hữu Thỉnh…”

“ Ái chà …hảo hớn gớm nhỉ ? Nhưng mà nhuận bút một trăm triệu thì sao ?”

“ Tao viết đâu phải vì tiền ?”

Đinh Kỳ Thanh cười cười :

“ Trần Mạnh Hảo mà trăm triệu thì Hữu Thỉnh, Vũ Quần Phương phải trăm rưởi…”

Tôi cãi :

“ Trần Mạnh Hảo bốc thơm phải cao giá hơn Hữu Thỉnh với Vũ Quần Phương chứ ?”

Trần Mạnh Hảo cười hề hề :

“ Thôi dẹp ba chuyện đó, để tớ đọc thơ tặng thằng Tuấn. “

Ấy chết, xưa nay ngồi nhậu nghe thơ đã chết rồi, giờ lại thơ tặng mình nữa khác gì vào discotheque nghe “cây sầu riêng trổ bông”. Tôi giật thót người, chưa kịp ngăn , Trần Mạnh Hảo đã ông ổng :

“ Con ta chẳng phải của ta…”

Đinh Kỳ Thanh nhìn tôi, xua xua tay :

“ Thôi thôi, nhạy cảm, nhạy cảm…”

Tôi trừng mắt :

“ Đọc tiếp đi, nhạy cảm cái chó gì?”

Trần Mạnh Hảo hắng giọng đọc tiếp :

“Tai hoạ của nó mới là của ta…”

Tôi im lặng. Đinh Kỳ Thanh lên tiếng :

“ Thơ này cóc phải của Trần Mạnh Hảo”

Hảo cười trừ :

“ Đúng rồi, làm được thơ này phải nuôi một ngàn con chó, tớ nuôi một con chẳng xong…”

“Vậy của ai ?”

Hảo thú nhận :

“Của Nguyễn Bảo Sinh, bạn Nguyễn Huy Thiệp. Tay Sinh này là chủ “khách sạn chó”. Phải là nhà “chó học” mới viết nổi hai câu thơ “nhân tình thế thái” vậy…”

Tôi nâng ly :

“ Cụng cái nữa nào ! Thôi, nói chuyện…chó đi, chuyện người mãi chán lắm…”

Trần Mạnh Hảo vẫn ngâm ngợi :

“ Con ta chẳng phải của ta…
“ Tai hoạ của nó mới là của ta…”

Đinh Kỳ Thanh càu nhàu :

“ Sao lại vô lý thế ? Trách gì Nhật Tuấn lấy tên blog là “thời đồ đểu”.

Tôi gắp cho mỗi ông một con tôm càng :

“ Con tôm này ngọt lắm. Chẳng hiểu sao lại bị chửi họ nhà tôm cứt lộn lên đầu…”

Trần Mạnh Hảo nghĩ gì đó rồi cao giọng ngâm :

“ Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé…
“Ngàn vàng khôn chuộc giống bôi vôi….”

Ba cái ly cụng nhau. Ba cái miệng cùng cười :

“ Ha ha…ha ha…ha ha…”

Nhật Tuấn

khieman
06-27-2014, 01:42 AM
.



http://www.thanhnien.com.vn/Pictures20129/THANHLUAN/nhanvat.jpg (http://www.thanhnien.com.vn/Pictures20129/THANHLUAN/nhanvat.jpg)



NGUYÊN NGỌC
Kỳ1

Đất nước đứng lên – Tây Nguyên ngày ấy…

“ Mấy lần “ Đất nước đứng lên “…
Đứng lâu phải mỏi cho nên phải nằm…”

Giới cầm bút trong nước ít ai không biết “ Đất nước đứng lên” là tiểu thuyết của nhà văn Nguyên Ngọc, còn các sinh viên khoa văn Đại học Sư phạm không ai là không biết truyện ngắn “ Trao kiếm” cũng của nhà văn này bởi lẽ nó đã được đưa vào giáo trình giảng dậy.

“ Trao kiếm” viết vào những năm đầu thập kỷ 50 vào lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang loang rộng. “ Cụ Cư, 58 tuổi, nghèo xơ xác, chân lại có tật ở một thôn đất cát…” . Vì nhà nghèo, cụ được coi là nòng cốt cách mạng, nhà cụ được chọn để du kích dùng làm nơi “thảo luận tổ” trong khoá học “ du kích gương mẫu của Tỉnh mở”. Từ lúc đó, “cụ ngồi nép một bên phản nghe anh em thảo luận”, rồi mải mê quá, lúc đầu cụ còn ngồi một góc phản, lần lần anh em thảo luận hăng quá, cụ rút một chân lên, rồi rút cả hai chân lên ngồi nghe…”. Cứ như thế, cụ tự biến thành học viên và cũng giơ tay “Tui xin có ý kiến”. Cụ kể rằng năm 1949 giặc đổ bộ lên Tam Quam, cụ nằm dưới hầm nhìn thấy “ 4,5 thằng đi qua, xí lô xí là lia bừa cả súng , giựt nhau một miếng dừa mà ăn…giành nhau trã cá…ngủ bỏ cả súng …tui xin ý kiến là giặc sở hở lắm…”.

Lính Tây mà giựt nhau cả một miếng dừa, tranh nhau ăn chả cá thì không hiểu “khẩu phần lê dương” của nước Cộng Hoà Pháp thằng nào ăn mất, các vị du kích chẳng cần đánh đấm, cứ ho một cái là địch bỏ chạy, khỏi cần tiến lên chính quy hiện đại. Từ đó cụ Cư biến thành học viên của khoá đào tạo “ du kích gương mẫu” , lên lớp cho tất cả mọi người :

” Cuộc kháng chiến của ta là toàn dân, nghèo giàu gì cũng kháng chiến cả, chỉ có số ít nhà giàu chưa giác ngộ …” làm anh em du kích cứ há cả mồm ra nghe. Nắm vững sách lược “đoàn kết toàn dân “vậy, không khéo ông cụ Cư là bác Hồ cải trang chăng ? Nhưng mà không, hàng ngày cụ vẫn đi cuốc đất, luộc khoai, bưng nước cho anh em, chỉ có buổi tối cụ mới tham gia “có ý kiến”. Thế rồi hôm kết thúc lớp học, thật bất ngờ, cụ vào buồng lấy ra một thanh kiếm trao cho một anh du kích:

” Ai ? Ai nói không có kiếm giết Tây ?…Cây kiếm này, lần trước nó vô đổ bộ Chợ Cát, sau tôi mới sắm đây. Tôi giữ rất kỹ, thường ngày lau chùi luôn, định chờ địch đổ bộ lên đây lần thứ hai, chặt đứt đầu nó…”.

Cụ Cư trao kiếm cho du kích còn căn dặn :

” Tôi nghèo chớ giàu thì mua cho anh khẩu súng. Anh cứ về, nếu địch lên anh chặt đầu nó cho tôi. Nếu thắng tôi sẽ thưởng anh, nếu đánh không được tôi cũng xuống coi tại sao anh đánh không được ?”.

Ông lão nhà quê mà ghê chưa , thật đúng là nhân dân ta rất anh hùng ? Nhà nghèo toàn ăn khoai, ngủ đất chẳng hiểu cụ già lấy tiền đâu ra mà sắm hẳn một cây kiếm để chặt đầu Tây?

Trong chuyện cổ nước ta, có một anh bốc phét rằng :” tôi nhìn thấy một con trâu khổng lồ, liếm một cái hết ba sào mạ…” làm người nghe phải kêu lên :” Không nhẽ lại có thế ?”. Đọc truyện ngắn “Trao kiếm” nghe nhà văn Nguyên Ngọc tả lính Tây, cụ lão nông bỏ tiền mua kiếm, người ta cũng phải tự hỏi :

” Có nhẽ đâu thế ?”

Trong kho tàng văn học cách mạng chống Pháp của Việt Nam, như Giáo sư Phong Lê nhìn lại, “tới “Đất nước đứng lên “ của Nguyên Ngọc thì “bức tranh kháng chiến mới thực sự được mở rộng trong một cảnh quan vừa có chuyện vừa có người, có quê hương và đất nước, có gắn nối giữa chất trữ tình và sử thi, có hài hoà giữa chủ thể và khách thể…”.

Vậy là trong văn học kháng chiến chống Pháp, tiểu thuyết “ Đất nước đứng lên” của Nguyên Ngọc đứng đầu sổ. Cuốn truyện viết về Tây Nguyên thời chống Pháp, thời đất nước đang đứng lên, còn bây giờ “đứng lâu phải mỏi cho nên phải nằm” như hồi tháng Tư năm nào hàng ngàn người Ba Na, Ê Đê…”đứng lên” đập phá trụ sở Uỷ ban xã, phường… thì hiển nhiên hoàn toàn không có ngay cả trong tưởng tượng của nhà văn Nguyên Ngọc.

Thời đó, ở làng Kông Hoa gần An Khê có anh chàng Núp cùng đám thanh niên trong buôn nghe già làng bok Sung kể chuyện. Bok kể rằng ngày trước có một ông tên là “ Tú người to lớn, râu lưa thưa, con mắt ướt mà ngó thẳng , trên khố giắt một cái gươm dài. Đất nước mình không có ai có cái gươm đó. Gươm ông Tú không phải gươm thường , đó là một cái gươm giàng , đem ra đánh Pháp, Pháp thua chạy hết. Nhưng có một bữa , trời mưa to gió lớn sấm sét…nước sông Ba lên to, chút nữa ngập hết làng. Ông Tú đem gươm ra múa, đánh mưa gió cứu dân…”

Thế rồi ông Tú cao hứng, múa gươm vung mạng, chẳng may lưỡi gươm bị văng ra rơi xuống sống, trôi tuột về xuôi, lọt vào tay người kinh. Từ đó “người Kinh giữ cái lưỡi, người Thượng giữ cái cán, hai người ở xa nhau , Pháp tới không có cái gì đánh nên phải thua…Bởi vậy muốn đánh Pháp phải đi tìm người Kinh , chắp lại cái gươm mới đánh thắng…”

Bài học về đoàn kết Kinh với Thượng như vậy kể cũng ghê, nhưng với đám thanh niên trong buôn nghe xong xem ra lại phản tác dụng vì thằng Pháp là ma là Giàng , không có gươm của Giàng đánh sao được nó ? “ Không khí nhà rông trở nên ồn ào. Người nói Pháp như hòn đá, như cái cây, nó là Giàng. Trên trời nó đi cũng được , dưới nước nó đi cũng được , đánh trúng nó , nó không chảy máu…Ngày trước bok Klăng đánh, nó đem máy bay tới bay trên làng, bok Klăng lấy ná bắn trúng máy bay, cũng không thấy chảy máu, cũng không thấy chết…” .

Mang tên mà bắn trúng máy bay thì đúng là “thần diệu” hơn cả súng trường hạ máy bay Mỹ sau này. “ Không nhẽ lại có thế ?”

Nghe chuyện anh chàng Núp tức trong bụng lắm, có thiệt thằng Pháp bắn không chảy máu không ? Phải đi “điều nghiên” coi sao. Anh bèn nói dối mẹ xuống thị trấn An Khê mua muối, nhưng chính là để “Tao đi coi mày cho kỹ, mai mốt phải đánh mày chảy máu mới được…”. Thế rồi đi mấy ngày mới tới An Khê, không thấy ông nhà văn kể Núp làm những chuyện gì, chỉ thấy anh về kể với mẹ :” Con đi coi Pháp cho biết, bữa sau đánh Pháp. Con coi nó kỹ rồi, cái súng nó, cái xe nó, cái tàu bay nó giỏi thật, nhưng con người nó cũng giống con người mình thôi, không phải ông trời. mai mốt con bắn thử xem có chảy máu không ?”

Hoá ra chàng Núp mới chỉ xuống phố …đứng coi coi súng ống ,tàu bay, tàu bò thôi, người ngợm Tây ra sao cũng chưa biết, vẫn còn phải chờ coi bắn nó có chảy máu không ? Vậy thì nhà văn bắt nhân vật lặn lội từ trên núi cao xuống mãi tận nơi “ ngó lên thấy ông trời đất rộng, núi bốn phía thấp xuống” để làm gì ? Nắm tình hình địch tơ lơ mơ như vậy mà về buôn vẫn hạ quyết tâm tiêu diệt Pháp.

Thế rồi một hôm “Buổi sáng đi rẫy, bỗng nghe tiếng súng nổ. Thôi, khổ rồi. Pháp đánh tới rồi. Súng nổ xa. Súng nổ gần. Súng nổ nhỏ, rồi súng nổ to..Không còn kịp dọn cái nhà, không kịp bắt con heo, con trâu, không kịp lấy cái áo, cái khố…”. Thế là tất cả buôn chạy dạt lên rừng. Mẹ Núp già nua, yếu đuối vẫn phải cõng em Núp trên lưng, giao cho Núp cõng gùi gạo. Ở gia đình người Thượng, gùi gạo nặng phải trên 50 kí lô, là thực phẩm sống còn, là sinh mạng của cả gia đình. Người con trai trụ cột trong nhà như Núp, khi có biến lẽ ra phải cõng em, gùi gạo, dắt mẹ chạy lên rừng. Nhưng không, anh ta mang gùi gạo…gửi hàng xóm cõng đi, làm “ mẹ ra tới đầu làng, quay lại không thấy Núp đâu , vừa kêu vừa khóc :

“ Ới Núp ơi, Núp ơi…”

Núp chạy đến :

“ Mẹ đi đi, con gởi gùi gạo cho Xíp mang vô núi trước rồi. Con không đi đâu, con ở lại đánh Pháp thử đã. Mẹ đi trước, đánh Pháp chảy máu rồi con đi theo sau…”

Than ôi, giữa cảnh nhà cháy, người chết, súng ống nổ ầm ầm, thật tội nghiệp cho bà mẹ Núp, có con trai lớn lại bỏ em nhỏ, bỏ mẹ già, bỏ cả miếng ăn của cả nhà để ở lại đánh Pháp. Người anh hùng bất hiếu hay là nhà văn cố tình quên không nhắc tới ? Có thằng con cột trụ trong nhà, lúc biến lại xử sự như thế, nhưng người mẹ vẫn không oán trách, vẫn lo cho nó :

“ “ Ố ố…một mình con đánh nó không được đâu…”

Vậy nhưng ông con vẫn bướng bỉnh vẫn như bị “ma ám “ :

“ Được mẹ ạ. Con đánh thử trước, lũ làng bắt chước sau…”

Bà mẹ nhìn Núp. Bà biết rằng “ cái miệng người già không nói được thanh niên đâu. ..”. Thế là bà đành chùi nước mắt đi theo lũ làng để con ở lại. Chẳng biết cái anh chàng Núp này căm thù giặc Pháp tới đâu, trong tay chỉ có mỗi cái ná, mà dám một mình ở lại đối chọi với cả đại đội lính Pháp có đầy đủ cả súng ống, mọoc-chi-ê…

“Có nhẽ đâu thế ?”

(còn tiếp)

khieman
06-27-2014, 03:29 AM
(tiếp theo)


Kỳ 2

Dường như đãng trí , mau quên là cố tật của mấy ông nhà văn lớn. Mới vài trang trước, Nguyên Ngọc kể Núp xuống An Khê gặp cách mạng “ Đi một ngày, ở một đêm, về một ngày….”, trang sau Nguyên Ngọc đã lại cho Núp lang thang cả ban ngày giữa phố An Khê sạch bóng quân thù : “ người nào cũng đổ về chật ních. Núp chỉ thấy toàn đầu tóc đen lố nhố và cờ đỏ . Người kinh cũng đông, người Thượng cũng đông, lần đầu tiên Núp thấy người kinh, người Thượng đi chung với nhau, nắm tay nhau , ào ào như nước sông Ba chảy qua thác, người nào cũng nói, nghe không hiểu gì cả, nhưng vui lắm, thích lắm…”

Ngày hội cách mạng trong con mắt Núp chỉ có nhiêu đó, riêng bok Hồ thì …chưa có gì .

”Núp cứ nghĩ mãi : bok Hồ là người thế nào ? Sao bok Hồ giỏi thế ?”.

Rồi ông nhà văn cho chàng Núp ví von :”

“ Bữa nay nhờ có bok Hồ mới biết đất nước mình rộng quá ( rõ khổ, chàng mới về tới phố An Khê thôi, đã đi được tới đâu) có nhiều con suối quá , nhiều con suối nhỏ, được bok Hồ khơi dòng cho, bây giờ đã chảy chung lại thành con suối lớn, càng ngày càng lớn.Pháp có như một trăm hòn đá lớn giữa dòng sông cũng cứ chảy qua hết…”.

Hình ảnh rất hay, rất đẹp, chỉ tiếc ông nhà văn quên mất rằng suối nhỏ nào rồi cũng chảy vào suối lớn rồi suối lớn nào cũng phải chảy vào sông mà chẳng cần tới…bok Hồ khơi dòng. Từ một anh dân tộc Ba Na đầu óc hoang sơ, lo lắng ngớ ngẩn” sợ bắn thằng Pháp không chảy máu” bỗng chốc chỉ sau một đêm gặp cách mạng, trí tuệ đã được khai sáng có ngay khả năng trừu tượng hoá, ví von “trước kia làng Núp chống Pháp như dòng suối chảy giữa rừng, nay nhờ bok Hồ khơi dòng…” thì quả thực “ có nhẽ đâu lại thế?”.

Vậy “ bok Hồ là người thế nào? Sao bok Hồ giỏi thế ?

Anh chàng Núp nghĩ mãi không ra, sau rồi nhớ tới câu chuyện già làng kể chuyện ông Tú , anh đắc ý :

” Chắc bok Hồ cũng như ông Tú vậy …”. Ông Tú theo già làng là người “to lớn, râu lưa thưa…” thì đúng là bok Hồ rồi. “Khi giặc Pháp tới, ông Tú đem gươm ra đánh Pháp, Pháp thua chạy hết cả…” thì lại càng giống bok Hồ. Nhưng khi mưa gió sấm sét, ông Tú lại mang gươm ra múa, “múa mạnh quá, rớt mất cái lưỡi gươm xuống sông Ba, trong tay chỉ còn cái cán, còn cái lưỡi trôi về dưới xuôi, người Kinh lấy được…” thì lại không được phép giống bok Hồ.

Bởi lẽ bok Hồ bao giờ cũng sáng suốt, cẩn thận không khi nào bốc đồng múa gươm mạnh đến văng cả lưỡi xuống sông. Mà nếu có lỡ tay, nhất định bok Hồ sẽ đi tìm bằng được lưỡi gươm trả về cho người Ba Na chứ chẳng bao giờ chịu để lọt vào tay người kinh. Ấy là chưa kể không biết lưỡi gươm nặng vầy có trôi được theo sông vượt cả trăm kilômét thác ghềnh để về tới tận dưới xuôi không, hay là vẫn còn mắc dưới đáy sông trên núi. Tuy nhiên đó không phải lỗi của anh chàng Núp, chẳng qua tại nhà văn quên mất tinh thần trách nhiệm cao cả của bok Hồ cũng như quên mất thanh gươm bằng sắt chứ không phải bằng gỗ để có thể nổi lềnh bềnh trên sông đó thôi.

Sau cùng chàng Núp và dân làng Kông Hoa cũng được gặp bok Hồ, nhưng không phải…” người thiệt , chỉ thấy người trên tờ giấy…”. Đó là vật thể vật chất duy nhất mà cách mạng mang tới cho người dân Ba Na. Vậy mà ông nhà văn cũng để cho lũ làng “tưng bừng chào đón như chào đón mặt trời…”.

Cái chỗ này cũng là lỗi của ông nhà văn, bởi lẽ dân Ba Na đang đói gạo, đói muối đến thế, cách mạng tiếc gì không gửi kèm vài chục ký lô theo ảnh bok Hồ làm quà cho dân hồ hởi phấn khởi mà cứ để cán bộ tay không trèo lên bản như thế? Đã không cho dân được ký lúa, lại hứa lèo “bộ đội bok Hồ sắp lên” làm dân mỏi mắt “đợi mãi, đợi ,mãi vẫn không thấy bộ đội đâu cả. Đê cán bộ cũng không thấy nữa”.

Thế rồi cũng tới lúc bộ đội về làng thật , nhưng không phải đoàn quân chiến thắng mang quả thực về cho lũ làng mà là toán người “có khiêng người trúng đạn …Gặp lúc lúa chưa chín không có chi ăn cả. Núp đem cho bộ đội một rổ bắp. Lũ làng bắt chước đem cho rất nhiều. Bộ đội không ai biết nói tiếng Ba Na. Chỉ chào rồi đi ngay…”.

Chưa giúp được dân cái gì mà đã nhiễu dân đang túng đói thế này, bác Hồ mà biết tất các chú bộ đội phải kỷ luật. Buồn cười nhất là ông nhà văn tả tình quân dân “ có bộ đội bị trúng đạn phải khiêng. Người đó không nói được, nhưng không khóc.Chỉ có các bà mẹ Kông Hoa khóc, sợ người đó đau…”. Hi hi, chồng chả phải, con trai thì không, thấy người lạ hoắc , lần đầu tiên khiêng qua làng mà các mẹ lại…khóc được mới tài.

Pháp chiếm An Khê và các vùng xung quanh. Cán bộ cũng trốn mất hút luôn. Dân Kông Hoa lại “chờ hết một mùa lúa nữa mới có đê cán bộ của bok Hồ lên”. Anh cán bộ người kinh tên Cầm này cũng tay không lên bản và…kể chuyện bok Hồ :

” Bok Hồ chống Pháp từ khi còn nhỏ, cũng bị Pháp bỏ tù. Sau trốn ra được , đi khắp đất nước bày đất nước đứng lên chống Pháp, chống Nhật…”.

Í trời, chỗ này ông nhà văn quên cả tiểu sử Hồ Chủ tịch. Chẳng lẽ hồi đó Pháp bỏ tù bác ở…ngõ Compoint, thủ đô Paris bắt làm nghề thợ ảnh ? Rồi lại từ đó trốn ra bày cho dân “chống Pháp, chống Nhật”. “Đất nước đứng lên” là tiểu thuyết lớn nhất thời chống Pháp, lầm lẫn lớn thế mà bao năm Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng không phát hiện ra để cải chính thì thật đúng là “cơm chúa múa tối ngày”.

Từ ngày có cán bộ Cầm ở bản, tinh thần chống Pháp của lũ làng lên cao hẳn, cao nhất phải kể đến…bà mẹ của Núp. Một hôm Núp dẫn bộ đội đi đánh đồn Pháp, chạy về khoe mẹ :

“Mẹ ơi, Pháp chết mười lăm đứa…”

Thế là Mẹ Núp, giận luôn trong hai ngày ? Vì sao thế ? Nghe tin Pháp chết phải vui mừng chớ sao lại giận Núp ? Sau này Mẹ mới giải thích :

“Mày thương Pháp lắm sao? Mẹ có hỏi mày Pháp chết mấy đâu . Chết mấy đứa kệ Pháp, nó chết hết cũng được…Sao bộ đội chết mấy người mày không nói, mày thương Pháp hơn bộ đội rồi…”

Oái trời, Mẹ thương bộ đội thì Mẹ chỉ cần hỏi :” Thế ta chết mấy người ?” là…xong. Ép uổng Mẹ giận con những…hai ngày liền làm gì cho rắc rối cuộc đời ? Chắc ông nhà văn muốn xây dựng tính cách nhân vật cho “phong phú và đa dạng” đây mà. Chỉ tiếc, cảm hứng ca ngợi người dân tộc quá đà gây nên những cái “lỗi chính tả” như thế nhan nhản trong truyện làm người đọc cứ ngờ ngợ : ” có nhẽ đâu thế?” .

Anh cán bộ Cầm và bộ đội ở bản ít ngày rồi lại rút đi, để Kông Hoa lại rơi vào thảm cảnh.

“Nắng như cầm lửa đổ xuống. Dưới suối nước trốn gần hết, dân phải dỡ từng hòn đá ra mới tìm được nước. Rẫy muốn cháy. Cây lúa thấp lè tè, hột cứng ít, lép nhiều…”.

Kinh hoàng hơn cả là cái đói ….muối.

“ Con nít khóc kêu mẹ :” Mẹ ơi, mẹ ơi, cho con cái mặn…”. Nước da người nào cũng tái lét , bủng rẹt. Hai ông già không có muối ăn, thở không nổi, rồi chết…”

Trong cơn hoạn nạn, ông Chủ tịch Pok Pa và chỉ huy Núp muốn cứu dân thì chỉ việc cho phép lũ làng xuống phố An Khê làm thuê lấy tiền mua muối, đong gạo là vượt qua được mọi chuyện. Nhưng không, Núp khăng khăng ngăn không cho về :

” Không được đâu.. Về càng chết…Thà chết thôi..”.

Ấy đấy, mới nho nhoe lên làm lãnh đạo, anh hùng Núp đã coi mạng người như cỏ rác ? Viết tới đây chắc ông nhà văn cũng cảm thấy cái lý do “ không cho dân xuống phố An Khê mua muối” là không được…chính đáng lắm, ông bèn cho mấy người trốn xuống núi và vài hôm sau họ trở về khóc to :

“ Pháp lấy dao cắt lỗ mũi, cắt lỗ tai, chặt tay, chết hết bốn người rồi, ba người sợ quá trốn về đây…”

Ôi chao ôi, Pháp nào mà ngu quá, bỏ công bỏ sức ra vận động người Thượng về với mình ; khi dân trở về lẽ ra phải mở rộng cửa mà đón vào, tặng gạo muối chớ ai lại đi cắt tai, xẻo mũi , chặt chân … thì thực là chuyện chỉ có trong…tưởng tượng của ông nhà văn.

Bịa ra cái lý do “ đầy thuyết phục “ ấy rồi, từ nay tác giả tha hồ “nhốt “ dân Ba Na trên làng Kông Hoa để “xây căn cứ địa” chống Pháp bất chấp nạn đói đủ thứ. Tuy nhiên, sức chịu đựng của con người xem ra cũng còn có giới hạn, khi chỉ huy Núp kêu gọi mọi người bỏ làng lên núi cao lập làng mới để chống Pháp cho chắc ăn bị bà con phản đối :

“Không có muối ăn làm sao ? Chân Núp thanh niên khoẻ, Núp leo núi được. Chân tôi không có muối, không biết leo núi đâu.. Ở đây không đi đâu cả. Đấy con nít đấy, đem nó lên núi, chết trên đó, chôn trên đó à…”.

Phản đối thì phản đối, nhưng Núp nhớ lời anh Cầm dậy :” Mình phải đứng dậy cầm giáo mác, cung tên đánh lại Pháp mới lấy lại đất nước được…”. Bởi vậy dân đói cơm đói muối, con nít chết…mặc kệ, cứ phải là “lấy lại đất nước cái đã”, Núp quyết định cứ chuyển hết làng lên núi bất chấp “ bốn phía tiếng con nít đòi muối khóc ồn ào, tiếng bà già ông già chửi người xui bậy , tiếng thanh niên phản đối Núp nói to. Giải tán hết. Mỗi người đi một ngả…”

Lúc này mới thấy cái bản tính sắt đá, kiên quyết mục tiêu cách mạng dẫu hy sinh tính mạng của dân cũng cứ mặc kệ mà đê cán bộ Cầm gieo vào tâm hồn anh thanh niên người Thượng nay đã sớm đơm hoa kết trái, bám chắc vào cái đầu vốn nguyên sơ trong trẻo như nước suối đầu nguồn của anh ta. Thế là anh quyết không chịu nhân nhượng dân làng mà đi từng nhà vận động :

“ An tro tranh thay muối khổ lắm. Tôi cũng biết khổ. Nhưng ăn tro tranh khổ một đời mình thôi. Còn ăn muối của Pháp khổ hết đời mình, đời con mình khổ nữa , đời cháu mình khổ nữa…”

Kỳ lạ thay , cái triết lý “ sống cho tương lai”, “sống là để sửa soạn sống cho mai sau ” – cốt lõi của nhân sinh quan cộng sản chẳng hiểu đã thấm sâu vào anh thanh niên Thượng này từ bao giờ mà anh “vận dụng” xuất sắc đến như vậy ?


(còn nữa)

khieman
06-27-2014, 03:38 AM
(tiếp theo)


Kỳ 3 và hết



Ngay khi cán bộ còn chưa mang “ cái ánh sáng của Đảng “ tới cho lũ làng, chẳng hiểu sao, anh chàng Núp đã đứng lên kêu gọi vanh vách :

”Đánh đến khi hơn Pháp, hết Pháp ở đất nước mình mới thôi. Đánh đời mình chưa xong, thì đánh đến đời con, đời cháu mình nữa…”.

Ôi chao, cán bộ cao cấp cỡ Uỷ viên Trung ương Đảng ra lời kêu gọi toàn dân trường kỳ kháng chiến chắc cũng chỉ hùng hồn bằng anh thanh niên người Thượng này. Với tinh thần đó, quyết không chịu sống trong vùng tạm chiếm, Núp kéo luôn cả bản Kông Hoa chạy tuốt lên núi cao lập làng “tự do” thiếu gạo, ăn tro thay muối, khoác vỏ cây thay quần áo, thiếu cả rìu dựa bằng sắt phải thay bằng đá để chặt cây, phá rừng dựng nhà làm rẫy.

Có ai chặt được cây lớn bằng đá không ? Có đấy, ông nhà văn kể :

” Đêm nay Núp phải ngả cho được cây này . Núp lại ôm hòn đá, lấy sức bửa vào gốc cây, hai cái, ba cái …làm mãi, làm mãi không nghỉ . Cho đến khi con gà thức giấc kêu ò ó o. Núp leo lên ngọn cây , cột một sợi dây rừng rồi ra sức kéo. Cây gẫy răng rắc, đổ ào xuống…”.

Ngày nay nếu trở lại Tây Nguyên, ông Nguyên Ngọc thử treo giải thưởng trăm triệu đồng cho anh thanh niên nào khoẻ nhất làng dùng hòn đá trong có một đêm mà chặt được cây lớn “gẫy răng rắc” thì mới thật là không…bốc phét.
Suốt ba năm 90 con người làng Kông Hoa sống trong khổ cực vậy để làm gì ?

Xin thưa rằng chỉ là để…”…chờ bộ đội Bok Hồ, chờ anh Cầm, dài không biết bao nhiêu. Hòn đá dưới suối Đất Hoa trước kia nhọn, bây giờ nước đã mài tròn cả đầu nó rồi. Chín mươi người vẫn lầm lì đi theo Núp”.

Sống cả ngàn ngày như trong thời đại đồ đá vậy mà không mong ăn no, không cầu mặc ấm mà lại chỉ “mong mãi lưỡi gươm ông Tú, mong mãi người Kinh, người của Bok Hồ lên” thì lũ làng Kông Hoa quả thực là mắc bệnh tâm thần cả rồi.
Ấy thế nhưng chờ đợi trong khổ cực, mỏi mòn vậy mà cách mạng cũng vẫn chưa chịu lên cho, sau cùng anh chàng Núp đành phải tự mình đi tới rừng Ba Lang tìm gặp cán bộ chứ còn biết chờ tới bao giờ ?

Không thấy tác giả kể cuộc gặp gỡ ấy ra sao, chỉ thấy Núp “đi gặp người Kinh “ về khoe với cả làng :

” Ô…người kinh này tốt lắm. Con mắt hiền lành đen lắm. Ít nói…Cái áo màu đen, thường thôi, không đẹp đâu. Đi dép làm bằng bánh xe lấy được của Pháp…”.

Cũng giống như lần trước đi gặp cách mạng về, Núp chẳng mang được nắm gạo, hạt muối nào về, lại vẫn chỉ những câu chuyện về bok Hồ.

“Thế bok Hồ ở đâu ?”- lũ làng hỏi.
Núp nhìn quanh , suy nghĩ, rồi đứng dậy đi ra cửa quay về phía ông sao giống cái bánh lái của người Kinh , đưa tay chỉ vào đêm tối mờ mịt:
“ Bok Hồ ở phía này…”
Tất cả đều ra cửa nhìn. Ong sao bảy cái nhấp nhánh và rất sáng.
“ Bok Hồ ở phía này”
“ Phía này có một ông sao quanh năm không bao giờ thay đổi chỗ ở. Sáu ông sao lớn chạy quanh ông sao đó…”

Ông sao đó chính là bok Hồ “ không bao giờ lặn nữa trong lòng đồng bào Kông Hoa.” Ghê chưa, một phát hiện thiên văn học vĩ đại, “ông sao 7 cái “ thì đúng là “đại hùng tinh rồi”, nhưng tìm đâu ra “một ông sao quanh năm không đổi chỗ” và lại có những “sáu ông sao lớn chạy quanh” để tượng trưng cho bok Hồ ?

Lỗi kiến thức này không thuộc anh thanh niên người Thượng mà chính do tác giả đã nhét vào đầu anh ta. Vả lại, hình ảnh “ngôi sao dẫn đường” chỉ dành nói về đảng thôi , còn nói về bác thì phải dùng hình ảnh “cha già dân tộc” kìa, vậy mới đúng là kiểu nói chính thống.

Nói chuyện bok Hồ xong rồi, tất nhiên phải nói tới chuyện…đảng. Chuyện này “trừu tượng” chứ không cụ thể như chuyện bok Hồ, làm sao nhét được vào đầu anh thanh niên “bán khai” đây ? Cái sự “giác ngộ về Đảng “ cho người dân tộc này xem ra khó quá, nên tác giả đành lờ đi cái quá trình mà chỉ trình bầy cái kết quả.

Anh cán bộ Thế nói :
“ Người mình đánh Pháp cứ thua mãi, thua mãi. Cho đến khi có Đảng chỉ huy mới thắng được tới bây giờ. Đánh Pháp ngày nay là do Đảng chỉ cho đấy…”
“ Ô…thế Đảng là Bok Hồ phải không ?”
“ Bok Hồ cũng là người Đảng đấy. Nhưng còn nhiều người Đảng khác…Ai người nghèo khổ , căm thù Pháp, căm thù người bóc lột , làm ăn tốt…người đó là người Đảng…”

Chỉ có thế thôi, anh chàng Núp đã “giác ngộ Đảng “ rồi .

“ Suốt đêm đó Núp không ngủ. Chung quanh thấy toàn sao là sao…”.

Vậy là “mặt trời chân lý” đã “chói qua tim” anh người Thượng, thức trắng đêm là phải rồi, thật chẳng bù cho mấy anh trí thức, học đi học lại mãi mấy kỳ chỉnh huấn mà vẫn tơ lơ mơ chưa hiểu Đảng là gì.

Thế rồi sau “ gần bốn năm sương mặn của núi Chư Lây đã làm đen sạm hết chín mươi khuôn mặt lũ làng. Gần bốn năm nay , chưa một ngày nào chín mươi người đó được ăn đủ no, đủ mặn. Thịt trong người teo lại. Má hóp xuống…”, sau cùng anh Thế, người của Đảng cũng đã trèo lên bản mang theo…9 cái rìu rựa để tặng lũ làng. Oi chao ôi, quà của bok Hồ chỉ có bấy nhiêu thôi, mà già làng đã “ múa tay, trợn tròn hai con mắt” :

“ Bok Hồ gửi anh Thế mang lên cho bốn cái rựa, năm cái rìu …ô cái nào cũng mới tinh cả, sáng như là ông trăng, như thế cũng bằng cho người Kông Hoa…mấy cái ?Hai cái à…cũng chưa phải đâu…ba bốn năm sáu bảy…một trăm cái tay đấy…hà hà hà…”

Anh chàng Núp cũng cầm cả 9 cái rìu rựa đưa lên cao mà rằng :

“ Bây giờ có anh Thế mang rìu rựa của người kinh, của bok Hồ gửi cho mình đây, mình càng làm rẫy giỏi nữa , ăn no nữa, nhất định thằng Pháp phải chết trước mình…”

Chỉ mất có 4 con dao và 5 cái rìu mà đã lôi kéo được cả làng người Thượng đi theo cách mạng, đánh Pháp đến cùng thì “công tác vận đồng quần chúng trong các dân tộc ít người” quả thực là quá…dễ . Viết như thế, người Pháp đọc được chắc phải tiếc hùi hụi vì đã bỏ ra biết bao tiền của cho các sắc tộc Tây Nguyên mà vẫn bị họ căm thù, đánh cho tơi tả thì là sao ? Ở đây ông nhà văn không muốn vạch ra cái “bí kíp” của cách mạng đó, chắc là sợ người Pháp học được dùng nó lôi kéo lại người Thượng thì rầy rà hay là trong thực tế chuyện giác ngộ đảng cho anh thanh niên dân tộc không diễn ra xuôi xẻ như ông nhà văn tưởng tượng khiến ông phải làm qua loa chiếu lệ vậy thôi.

Cảm hứng ca ngợi quá đà tình cảm “Kinh-Thượng” cũng đã đưa ngòi bút Nguyên Ngọc diễn tả một thằng bé người Thượng lưu luyến anh cán bộ người Kinh chỉ về huyện họp có dăm ngày đến mức…lố bịch :

“Bữa nay anh Thế về huyện. Nó ngồi trông mãi . Tay nó cầm sợi dây có cột nhiều gút. Anh Thế hẹn đi về huyện năm ngày thì trở lên. Mỗi ngày thằng Ngứt thắt một gút trên sợi dây . Sáng nay ngủ dậy , nó đem ra đếm , thấy đã đủ năm gút, nó ra ngồi chờ mãi, sao anh Thế không thấy lên ? Nó ngồi trên ngưỡng cửa , ai hỏi gì cũng không nói, chị Liêu đi ra rẫy cũng không đi theo, con mắt cứ ngó chăm chăm phía suối Đất Hoa…”

Ôi chao, cái thứ nhớ nhung “bổi hổi bồi hồi, như đứng đống lửa như ngồi đống rơm “ thế này là thứ tình cảm trai gái đang yêu, ông nhà văn nỡ lòng nào nhồi nhét cho một thằng con nít người Thượng đang tuổi ham chơi ?

Cứ phải chịu đựng một thứ cảm hứng “ca ngợi quá đà” như thế, người đọc kiên nhẫn lắm mới theo được Nguyên Ngọc dẫn dắt câu chuyện anh chàng Núp đi vận động các làng xung quanh : Đê ta, Đê ô, Đê mô, Đê lanh, Kông giàng…đi theo cái làng Kông hoa của anh đứng dậy đánh Pháp. Rồi Núp vào đảng, Núp thành cán bộ xã, cán bộ huyện, thành Chiến sĩ thi đua, thành Anh hùng Quân đội…và đi ra Bắc tập kết để tiếp tục đánh Mỹ- Diệm và được gặp bok Hồ.

Anh chàng Núp và mọi nhân vật trong “ Đất nước đứng lên” được vẽ bằng toàn một mầu hồng đỏ chói không mảy may gợn một chút bụi trần của con người phàm tục. Đó toàn là những con người “ nghe theo người Kinh” cam chịu đóng đanh trên cây thập giá của chiến tranh với nỗi ham muốn tột bực chỉ là đánh Pháp . Nguyên Ngọc đã nhào nặn tuốt luốt những con người Thượng nhỏ bé, đầu óc giản đơn , chất phác , sống hoà hợp với thiên nhiên thành những kẻ say máu, chém giết bằng những vũ khí dã man như tên độc, chông đất, chông trời…và đưa họ vào bảng phong thần thành những thánh nhân của cách mạng.

Tại sao vậy ? Đó là vì :

“Tháng 8-1955, tôi được triệu tập về trại sáng tác về Anh hùng Quân đội , ở đây tôi được phân công viết về đồng chí Núp. Tôi viết “Đất nước đứng lên “trong dịp ấy, trong sách đó , tôi gửi tất cả những mong ước ca ngợi những người anh hùng Tây Nguyên mà từ trước đến nay tôi chưa thực hiện được qua mấy lần thất bại…”

( Nguyên Ngọc – Thư gửi ngày 9-11-1960 cho Tổ văn học hiện đại Trường đại học Tổng hợp Hà Nội)

Vậy là đã rõ, “Đất nước đứng lên” được viết trong “trại sáng tác về anh hùng quân đội, chỉ nhằm ca ngợi những người anh hùng chứ không nhằm phản ánh hiện thực các sắc tộc Tây Nguyên trong những năm chiến tranh của thập kỷ 1950. Và bởi mục tiêu rõ ràng và rành mạch như vậy nên bức tranh mà Nguyên Ngọc dựng lên trong suốt hơn 200 trang giấy còn lâu lắm mới tiếp cận tới những sự thực dữ dội của đời sống người Thượng trên cao nguyên.

Và như vậy, suy cho cùng, “Đất nước đứng lên “ cũng chỉ thuộc loại sách “Người tốt việc tốt” dùng để giáo dục chính trị tư tưởng trong một thời kỳ lịch sử đã qua.

NT