PDA

View Full Version : Người con gái 27 năm với đời sống thực vật



khieman
11-05-2014, 04:27 AM
.


Người con gái
27 năm với đời sống thực vật
Bài của Văn Quang


Rời Sài Gòn trên chuyến xe đò cuối cùng vào 5 giờ chiều một ngày đầu mùa mưa cuối tháng 4-2000, chúng tôi đến thị trấn An Lộc vào lúc gần 8 giờ tốị Thành phố nhỏ, heo hút ánh đèn vàng, hai bên đường trùng điệp những vườn tiêu, vườn cây ngút ngàn nhấp nhô trên những sườn đồi dưới ánh trăng mười sáu mờ đục Chiếc xe đò thả hai chúng tôi xuống trước trụ sở của Hạt Kiểm Lâm An Lộc. Nhà chị Thụy Vũ ở bên kia con dốc, sát bên Quốc lộ 13. (Tôi xin phép được nhắc sơ qua về nhà văn Thuỵ Vũ: - Nguyễn Thị Thụy Vũ, sinh năm1937. Tên thật Nguyễn Thị Băng Lĩnh. Tác giả nhiều tác phẩm nổi tiếng ở miền Nam VN trước những năm 1975. Tác phẩm: Mèo Đêm (tập truyện ngắn đầu tay); Nhang tàn thắp khuya; Chiều xuống êm đềm; Khung rêu (giải thưởng văn học toàn quốc); Thú hoang; Lao vào lửa và một số tác phẩm đã đăng trên các báo nhưng chưa xuất bản. Công tác với các báo Dân Chủ Mới, Bút Thép) Nghe tiếng xe dừng giữa đường, chắc Thụy Vũ đã đoán ra nhà mình có khách đường xa tới thăm. Chị đứng chờ sẵn ngoài hiên, khom mình dưới tấm rèm cũ, nheo mắt nhìn hai chúng tôi bước vào sân và chị nhận ngay ra chúng tôị Nét vui mừng hiện rất rõ trên khuôn mặt gầy guộc của chị:

- Trời ơi, ông định làm tôi vỡ tim chắc? Bất ngờ quá.

Rồi chị nắm áo Ngân:

- Sáng nay điện thoại sao không nói gì?

Ngân chỉ tôi:

- Tại cái nhà ông này, bốc đồng lên rủ người ta đi, chứ tui thăm bà làm cái gì khi chưa có tiền.

Tôi hiểu là hai người đàn bà này thân với nhau lắm, thân hơn chị em ruột. Khi còn ngồi ở nhà tôi, điện thoại cho Thụy Vũ xong, Ngân bỗng nói:

“Em phải đi thăm con nhỏ này, nhớ nó quá rồi, chịu hết nổi”. Thế là hai chúng tôi ra xe.

Thụy Vũ đưa chúng tôi vào căn phòng khách nhỏ đã dăng sẵn cái mùng trên tấm nệm mút mỏng dính. Có lẽ ở những nơi xa xôi như thế này người ta có thói quen đi ngủ sớm. Chị đãi chúng tôi bữa cháo. Đang cơn đói, không cần đợi chị mời, tôi ăn uống ngon lành. Bỗng tai tôi chói lên vì một tiếng hú. Tiếng hú của một con thú nào đó từ rừng hoang vọng lại nhưng rất gần, sát bên chỗ chúng tôi đang ngồi. Tôi ngơ ngác, nhưng mọi người thì vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra. Chị Thụy Vũ lặng lẽ đứng dậy, Ngân thấy tôi nhìn qua khung cửa sổ bèn mỉm cười nói ngay:

- Nó khóc đấy!

Tôi vẫn ngớ mặt:

- Nó là cái gì? Con khỉ hay con heo rừng hay con chó sóỉ

- Con Thụy, con gái chị Thụy Vũ đấy, anh không biết sao?

- Chỉ nghe nói chị Vũ có một người con bị bệnh bại liệt thôi.

- Không phải bại liệt mà cháu sống như cây cỏ từ 27 năm nay rồi. Cháu nằm đó mà không hề hay biết gì hết. Năm nay cháu 29 tuổi. Em đã từng chăm sóc cháu ngay từ khi cháu còn nhỏ. Lúc đó thì còn có thể bồng bế cháu dễ dàng, đưa lên xe lăn, đẩy cho cháu ra ngoài chơi. Nhưng bây giờ thì cháu lớn quá rồi, không ai trong nhà này bế nổi cháu lên xe nữa, đành chịu vậy thôi. Mỗi lần đi đâu, em nhớ và thương nó không thể xa nó lâu được.

Tôi hiểu rằng câu Ngân nói khi còn ở Sài Gòn là nhớ con bé con chị Thụy Vũ chứ không phải nhớ chị. Tôi nhìn Ngân và hỏi lảng:

- Vậy ra cơ thể cháu phát triển bình thường?

- Vâng, cháu phát triển như những người con gái khác, chỉ có đôi chân không di chuyển được nên cứ teo tóp lại. Người cháu rất nặng.

Tôi hỏi đến nguyên nhân có phải là thứ bệnh bẩm sinh không. Ngân lắc đầu:

- Hồi nhỏ, cháu rất xinh đẹp. Đến năm 2 tuổi, cháu đã biết đòi nghe nhạc, rất duyên dáng. Có lẽ là do một chị người làm trông nom đã làm cháu ngã, đầu va vào góc thành giường nên từ đó cháu nằm liệt luôn và không biết gì nữa. Chị Vũ nuôi cháu trong một hoàn cảnh rất cơ cực. Sau năm 1975, còn sống ở làng Báo Chí Thủ Đức, không có cả bo bo mà ăn. Chúng em đã buôn thúng bán bưng đủ các thứ nghề để nuôi cháu. Chị Vũ làm lơ xe buýt đường Sài Gòn - Thủ Đức, suốt ngày chỉ đứng có một chân trên 10 chuyến xe như thế cho đến tối mịt mới về đến nhà. Mệt quá lăn ra ngủ, bữa đói bữa no. Con cái nhốt lại cho đứa lớn coi đứa nhỏ. Sau một thời gian chịu không nổi, chẳng biết sống bằng gì, chị Vũ đưa ba đứa con về đây sống với mẹ. Căn nhà này là của bà mẹ chị để lại, bà cụ mới mất cách đây vài năm. Anh thấy nhà cửa coi bộ khang trang nhưng chỉ có cái xác nhà chứ bản thân chị Vũ thì chẳng bao giờ có đồng xu dính túi.

Tôi nhìn căn nhà, gọi là khang trang chứ thật ra chẳng có gì đáng kể. Chỉ có phía trước mới được sửa sang lại tí đỉnh cho đám cưới đứa con gái út của chị cách đây vài tháng, còn phía sau, nơi chúng tôi ngồi ăn thì vẫn lợp tôn tuyềnh toàng. 25 năm trôi qua, người khác đã có thể vượt qua cơn khốn quẫn, ít ra có bát ăn bát để, nhưng chị dường như vẫn vậy. Vẫn sống bữa nay chưa biết bữa mai. Ngân kể tiếp:

- Thằng con lớn của chị đã có vợ, nhưng chị cũng chẳng nuôi nổi. Cháu phải đưa vợ vào tuốt trong rừng làm cái lán ở, trông nom miếng đất trồng trọt cho người ta lấy công. Một nơi không có điện, không có nước, sống như người rừng. Đứa con gái út mới lấy chồng. Nhà chỉ còn lại mình chị với đứa con nhỏ bệnh tật. Chị có miếng đất bỏ hoang phía sau nhà, mấy người bạn thương hại, đầu tư cho chị chút vốn trồng vài trăm gốc tiêu, ít cây ăn trái. Nhưng mới chỉ là ban đầu. Một mình chị đóng cọc, làm cỏ, tưới cây, chăm bón và khi nghe tiếng con hú lại tất tả chạy về. Nguồn thu lợi chính của chị là dạy học thêm cho chừng hơn 10 đứa học trò nhỏ, tháng được vài trăm ngàn, không đủ tiền ăn cho hai mẹ con chứ đừng nói đến tiền thuốc thang cho cháu. Chị cũng chẳng thể làm gì hơn trong hoàn cảnh như thế này và ở một nơi chốn như thế này.

Sáng hôm sau, khi Thụy Vũ mải làm cỏ cho đám cây mới lớn ngoài vườn, tôi nhờ Ngân đưa vào thăm cháu Khôi Thụy. Trong căn phòng nhỏ hẹp, trên chiếc giường lạt tre thưa thớt, một thân hình con gái trắng nhễ nhại với chiếc quần cụt, chiếc áo thung ngắn tay nằm ngay đơ trên chiếu chỉ trải có nửa giường. Bởi nơi đó là nơi cháu vừa ăn ở, vừa đi vệ sinh, vừa làm chỗ tắm. Cháu không thể nằm nệm vì chẳng có thứ nệm nào chịu cho nổi. Phải nằm nửa giường lạch tre thưa để tiện cho mọi công việc ăn uống, tắm rửa. Hơi thở thoi thóp, cái thân hình con gái căng đầy, cặp chân nhỏ xíu chẳng cân xứng chút nào với thân hình. Cháu không hề biết mình sống hay chết, không biết đói no, không biết gì hết ngoài hơi thở là của con người. Cho ăn thì ăn, ăn bất cứ thứ gì được mẹ hay các cô dì, bạn của mẹ đưa vào miệng. Không cho ăn, cháu cũng chẳng đòi. Thỉnh thoảng cháu hú lên không phải vì đói mà vì một lẽ gì đó không ai biết. Tiếng hú như tiếng kêu của một oan hồn hơn là một con thú hoang. Nghe tiếng hú, tay tôi cầm chiếc máy hình run lên, nước mắt tôi bỗng trào ra, nhòe nhoẹt ống ngắm. Tôi chẳng nhìn thấy gì ngoài cái tiếng kêu ấy. Biết đâu cháu chẳng có một chút tri thức nhỏ nhoi nào đó còn sót lại trong cái đời sống thực vật kia. Biết đâu chẳng phải là tiếng nói nghẹn lại trong nỗi ẩn ức vô cùng không thể diễn tả thành lời. Cứ nghĩ như thế tôi lùi dần ra ngoài cánh cửa gỗ mùi hôi nồng tanh tưởi còn đọng lại mặc dù căn phòng được lau rửa hàng ngày. Những người quanh cháu đã quen với cái thứ mùi này rồi nên không để ý, nhưng người mới tới lần đầu là thấy ngay. Ngân phải cầm máy hình, chụp giúp tôi vài tấm. Thú thật là ngay lúc đó tôi chưa biết phải làm gì với mấy tấm hình đó. Tôi chỉ cảm thấy cần phải có vài tấm hình của cháu mà thôi. Ngân chỉ chiếc xe lăn bên cạnh phòng:

- Có vài chiếc xe lăn của mấy người bạn chị Vũ ở nước ngoài gửi về cho cháu như anh Triển cùng chị Triều Giang, chị Trùng Dương. Nhưng đã bán hết, nay chỉ còn lại một chiếc còn để đó, chẳng ai trong nhà này bế cháu lên nổi xe lăn nữa. Suốt ngày hôm đó, cái hình ảnh cháu Khôi Thụy ám ảnh tôi không rời. Buổi trưa tôi ngồi với Ngân ngay trên sàn gạch nhà ngoài. Tôi nghe phòng bên văng vẳng tiếng cười rúc rích của Thụy Vũ, tiếng chị nựng nịu, tiếng nước chảy ào ào rửa nhà và tiếng hát ru của chị vẳng lên giữa núi rừng. Tôi có cảm tưởng như chị sống rất hồn nhiên, vui vẻ bên đứa con thơ hai ba tuổị Càng nghe chị cười, chị thủ thỉ với con, tôi càng thấy nghẹn ngào. Đôi mắt Ngân chớp mau, cô nói như để che lấp nỗi lòng mình:

- Anh thấy không, đó là nét đặc biệt nhất của Thụy Vũ.

Chị luôn coi đứa con chị như khi còn hai tuổi và chị cứ hình dung cháu không hề bị bệnh, chị vẫn nựng nịu cháu, cười đùa hồn nhiên với cháu. Có miếng gì ngon chị cũng để phần cho cháu, dù chị biết rõ hơn ai hết rằng nó không hề phân biệt được cái gì là thức ăn chứ đừng nói đến ngon dở.

Nhưng đó là tấm lòng bao la của người mẹ

- Phải nói rằng một người mẹ tuyệt vời và một tấm lòng can đảm vô bờ bến.

Ngân tiếp:

- Suốt bao nhiêu năm sống bên cạnh chị Vũ, em chưa hề nghe chị phàn nàn một tiếng nào trong việc phải cực khổ trông nom nuôi nấng đứa con bệnh tật đau khổ này.

Tôi buột miệng hỏi:

- Còn cha nó? Có thăm nom gì không?

- Cha nó ở bên Mỹ, nhưng từ ngày ra đi, ông quên mẹ con chị Vũ rồi. Mặc dù bạn bè ai cũng biết, mấy mẹ con chị sống khổ cực cay đắng đến như thế nào. 25 năm qua, cho đến bây giờ đời sống vẫn vậy. Không đủ tiền cho con ăn, lấy tiền đâu uống thuốc? Sống hôm nay biết hôm nay, ngày mai nói chuyện sau. Tính chị Vũ vẫn vậy.

Hôm sau tôi hỏi lại chị Vũ về việc này cho rõ ràng. Chị chỉ gật đầu:

- Đúng thế. Tôi không hề biết địa chỉ của anh ấy. Thỉnh thoảng mấy đứa con anh ấy về chơi, chúng rất có cảm tình với tôi. Có lẽ vì thấy ....

Chị bỏ lửng câu nói ở đấy rồi bắt sang chuyện khác. Tôi cúi đầu, một nỗi đau tràn đầy, niềm tủi buồn dâng ngập.

Và đêm đó tôi lại nghe tiếng hú của cháu vang lên trong đêm dài giữa núi rừng An Lộc lộng gió. Cái bóng âm thầm của chị Thụy Vũ vọt dậy, lặng lẽ đến với đứa con, tiếng hát ru nhè nhẹ của chị sợ làm kinh động giấc ngủ của khách và nhà hàng xóm. Tôi làm sao mà ngủ lại được! Ngày hôm sau, chị Vũ đưa hai chúng tôi ra trước cửa trụ sở của Hạt Kiểm Lâm đứng đón xe đò trở về Sài Gòn. Chiếc xe chuyển bánh, người đàn bà gầy gò đứng chơ vơ trên sườn đồi đất đỏ. Chị cúi đầu trở lại với công việc làm cỏ khu vườn tiêu và với đứa con bệnh tật cùng với cuộc sống vô cùng thiếu thốn cô đơn của chị. Cái hình ảnh ấy khiến tôi ngồi dại đi. Ngân cũng chẳng hơn gì tôi, mặc dầu với tôi đây là lần đầu tiên tôi đến thăm Thụy Vũ, nhưng với Ngân đây là lần tạm chia tay với mẹ con Thụy Vũ không biết là lần thứ bao nhiêu rồi. Tôi biết rằng tôi phải làm một cái gì đó. Một lát sau, tôi nói với Ngân:

- Anh phải viết một bài về chị Thụy Vũ và cháu Khôi Thụy. Nhưng không biết có chạm đến lòng tự ái của chị Thụy Vũ hay không. Bởi chị là người không hề than thở với ai điều gì bao giờ, chị luôn luôn tìm tiếng cười trong cuộc đời vô cùng bất hạnh của chính mình.

Ngân suy nghĩ một chút rồi nói:

- Nếu anh hỏi ý kiến thì chị Vũ có thể sẽ từ chối đấy. Nhưng anh hãy làm cái gì mà anh thấy cần làm. Em sẽ nói với chị ấy sau. Anh tin vào tình thân của em với chị Vũ thì cứ làm.

Tôi nói với Ngân:

- Bạn bè anh ở nước ngoài đã có một số biết về tình cảnh của chị Thụy Vũ và đã có “yểm trợ”. Nhưng còn một số anh chị em khác vẫn chưa biết.

- Em hiểu, thỉnh thoảng chị Thụy Vũ cũng có được những ngày vui, đầy đủ với con cái. Nhưng chỉ ít ngày sau là lại túng thiếu. Vì thế vấn đề bây giờ là phải làm sao cho chị ấy có vốn để buôn bán hoặc trồng trọt, tính đến cuộc sống lâu dài, chị ấy cũng 63 tuổi rồi chứ ít sao. Chị ấy thường lo rằng nếu chị ấy chết trước thì cháu Khôi Thụy sẽ khổ hơn nữa. Anh em nó cũng chẳng ai đủ sức lo cho nó được. Chị thường nói: Nếu hai mẹ con chết cùng một lượt thì vui biết mấy.

Nghe câu “vui biết mấy” mà tôi muốn dựng tóc gáy. Đó cũng là tính cách đặc biệt của Thụy Vũ. Đau buốt ruột mà vẫn dỡn đấy, dỡn đấy mà là dỡn thiệt chứ không phải mỉa mai. Tôi đã đề nghị chị viết lại một tập hồi ký về đời mình. Chị lắc đầu:

- Thèm viết lắm, nhưng làm gì còn thì giờ, còn tâm trí đâu mà viết nữa. Vả lại bỏ nghề lâu rồi chẳng biết mình viết nữa thì sẽ ra sao.

Tôi hiểu rằng chính cái thiếu thốn trăm bề khiến chị không còn thì giờ đâu mà ngồi vào bàn viết. Tôi phải bàn với Ngân tìm tạm một cơ hội nào đó cho chị rảnh rang chân tay để cho có được một tác phẩm chắc chắn là sẽ rất hay. Ngân đồng ý là sẽ hết sức cố gắng làm công việc này. Thuyết phục mãi, chị Thụy Vũ hứa là sẽ tiếp tục việc viết lách. Và tôi rất hy vọng sẽ có một tác phẩm mới của Thụy Vũ vào một ngày không xa. Chính vì vậy, tôi nghĩ đến việc thông tin cho các bạn tôi ở nước ngoài. Nhưng như tôi đã nói với Ngân:

- Các bạn tôi ở nước ngoài cũng là những người chẳng dư giả gì, có ông còn đói dài. Nhưng họ vẫn gửi về giúp đỡ anh em mỗi khi cần đến. Vì sự nhún nhường thường có của các anh chị em, tôi không tiện kể tên ra đây. Tuy nhiên nếu tôi lên tiếng đề nghị thì chắc chắn sẽ lại có anh em tiếp tay ngay. Nhưng ở đây, tôi xin gửi đến tất cả độc giả thông tin này để nếu có thể tiếp tay cùng anh chị em chúng tôi lo cho đời sống của mẹ con chị Thụy Vũ một cuộc sống vững vàng hơn. Và nếu như có một cơ quan từ thiện nào sẵn lòng giúp đỡ cho cháu Khôi Thụy được đi chữa bệnh thì vấn đề sẽ được giải quyết tốt đẹp hơn rất nhiều. Sau cùng, tôi xin lỗi chị Thụy Vũ vì đã viết bài này mà chưa hề biết ý kiến của chị. Tôi chỉ làm một công việc mà tôi thấy cần phải làm. Tôi đã hoỉ ý kiến của bạn bè thân ở Sài Gòn và ở nước ngoài, hầu hết anh em thân thuộc đều cho phép tôi được viết bài này. Tôi hy vọng sẽ có rất nhiều bạn đọc có tấm lòng sẵn sàng giúp đỡ và để khỏi phải qua một trung gian nào, xin liên lạc thẳng với chị Thụy Vũ theo địa chỉ sau:

Nguyễn Thị Băng Lĩnh,
Hộp Thư 08 - Bưu điện Lộc Ninh -
Tỉnh Bình Phước.

LTS: Bài viết này được chuyển qua e-mail từ nhà văn Tưởng Năng Tiến - Xin liên lạc nếu có câu hỏi liên hệ)

Feb 15, 2004
http://forum.phunuviet.org/yaf_postst61_Nguyen-Thi-Thuy-Vu.aspx

khieman
11-05-2014, 06:56 AM
.



Nguyễn Thị Thụy Vũ,
giữa dòng đời nghiệt ngã
Vương Trùng Dương




http://img.photobucket.com/albums/v624/phunuviet/thuyvu1.jpg (http://img.photobucket.com/albums/v624/phunuviet/thuyvu1.jpg)


Vào thập niên 60 những khuôn mặt nữ lưu xuất hiện với Túy Hồng, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Trùng Dương, Nguyễn Thị Thụy Vũ... đã tạo được thế đứng trên văn đàn Việt Nam.

“Nguyễn Thị Thụy Vũ, nhà văn phái nữ, hiện diện giữa khung trời văn nghệ với sắc thái đặc thù. Những ý nghĩ bỏng cháy và rẫy rụa về thân xác trong mỗi tác phẩm, đôi khi vượt qua ý nghĩ của nhiều người”
(Tạ Tỵ - Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay, Sài Gòn 1973).

Ngọn bút của Nguyễn Thị Thụy Vũ có tính cách táo bạo, sống, sinh động vì vậy đã gây sự xôn xao trong dư luận trước quan niệm phê phán về tính cách sống sượng, khiêu dâm và quan niệm đồng tình vì thể hiện thực trạng, lối sống, tâm lý con người trong cuộc sống. Uyên Thao nhận định:

“Nguyễn Thị Thụy Vũ là một cây bút khá sắc bén và tinh tế, nhưng vẫn những sơ hở nặng nề của một tinh thần tùy hứng” (Các Nhà Văn Nữ Việt Nam 1900 - 1970, Sài Gòn 1973).

Nguyễn Thị Thụy Vũ sôi động trên văn chương chữ nghĩa nhưng trong cuộc sống mang bao điều trăn trở, bất hạnh trải dài với thời gian. Và, nhìn lại những nhà văn nữ cùng thời thuở đó, ở quê nhà Nguyễn Thị Hoàng và Nguyễn Thị Thụy Vũ qua một phần tư thế kỷ, giã từ nghiệp dĩ, sống lặng lẽ với bóng tối cuộc đời.



http://i3.photobucket.com/albums/y99/gactro/NguyenthiThuyVu.jpg (http://i3.photobucket.com/albums/y99/gactro/NguyenthiThuyVu.jpg)

Chân Dung

Nguyễn Thị Thụy Vũ tên thật là Nguyễn Thị Băng Lĩnh, sinh năm 1937 tại Vĩnh Long. Nhà văn sống giữa hai lằn ranh Quốc - Cộng trong gia đình. Vì sống giữa lằn ranh đó, NTTV đã gánh chịu bao điều ngộ nhận về khuynh hướng chính trị, khi con người rơi vào trường hợp thương tâm, chấp nhận bao hệ lụy đưa đẫy thì bỏ mặc thế nhân tiếng chì tiếng bấc.

Sinh trưởng trong gia đình văn nghệ, thân phụ là nhà thơ Mặc Khải, tác giả Phấn Nội Hương Đồng. Mặc Khải nằm vùng, hoạt động cho Cộng Sản, thân phụ Mặc Khải từng là tri huyện ở Mỹ Tho, cụ ông có nhiều vợ, trong đó có nữ sĩ Song Thu, uyên thâm về nho học, nhân vật tên tuổi cùng với Đào Vân Khanh, Băng Tâm trong hội Khuyến Học. Cụ Song Thu tên là Phạm Xuân Chi, cháu nội cụ Phạm Phú Thứ, cô của Phạm Phú Quốc, dòng dõi nho sĩ ở Quảng Nam. Mặc Khải là anh cùng cha khác mẹ với hai chị em Phương Đài (Nguyễn Thị Thu Hường) và Xuân Hoàng. Nhà thơ Phương Đài, tác giả Đất Mẹ và Hiếu Lễ Mùa Thơ, có mối quan hệ mật thiết với Vũ Hạnh, Lưu Nghi, Tường Linh, Kiên Giang, Chinh Văn... và số văn nghệ sĩ thân tả thời đó. Năm 1971 bị bắt vì tình nghi hoạt động cho Cộng Sản được Linh mục Thanh Lãng và Trần Văn Ân can thiệp nên được thả, sau đó tham gia vào Văn Bút Việt Nam. Sau tháng 4-75 Phương Đài có chân trong hội Văn Nghệ Giải Phóng, được thời gian rồi bị thất sủng.

Xuân Hoàng (Oanh) lập gia đình với ký giả Trần Quân, chủ trương tuần báo Minh Tinh, Tổng thư ký nhật báo Tiếng Vang. Trần Quân còn có nhiều bút hiệu như Sức Voi, Thanh Quang, Hoàng Ái Phương, Bút Nguyên Tử. Trong thời kỳ kháng chiến vào giữa thập niên 40, Trần Quân tham gia vào đoàn thanh niên cứu quốc của mặt trận Việt Minh, bị nghi ngờ tình báo Cộng Sản cài vào hoạt động ở Sài Gòn nhưng nhà báo thích ánh đèn mầu, mê cá ngựa của nếp sống đô thị cũng bị bắt cùng lúc với Phương Đài, và được thả sớm. Sau năm 1975 Trần Quân còn được ưu đãi vài năm nhưng rồi vào trại tù, tin đồn với hai lý do: tội bỏ hàng ngủ, tội hoạt động cho tình báo Mỹ. Ông trải qua bảy năm trong lao tù Cộng Sản, chết năm 1992.

Nguyễn Thị Thụy Vũ chung sống với Tô Thùy Yên, phục vụ ở phòng Văn Nghệ, cục Tâm Lý Chiến. Em ruột Nguyễn Thị Thụy Vũ là Hồ Trường An (Nguyễn Viết Quang), khóa 26 Thủ Đức, phục vụ ở ban Thông Tin Báo Chí, khối Chiến Tranh Chính Trị, Quân đoàn III. Ngoài bút hiệu quen thuộc là Hồ Trường An, còn có nhiều bút hiệu khác như Đinh Xuân Thu, Người Sông Tiền, Nguyễn Thị Cỏ May, Đặng Thị Thanh Nguyệt. Sau tháng 4-75, Hồ Trường An oán trách chế độ, tình cha con bị sứt mẻ, Hồ Trường An thuộc diện gia đình có công “cách mạng” nên không bị lao tù như tất cả sĩ quan QLVNCH, hai chị em “được ghi tên” khóa học Bồi Dưỡng Chính Trị, Hồ Trường An được làm việc ở Thư viện Quốc Gia, cuối năm 1977 Hồ Trường An sang định cư tại Pháp theo diện bảo lãnh.

Đổi đời, Nguyễn Thị Thụy Vũ cũng như hầu hết vợ sĩ quan chế độ cũ lâm vào cảnh khốn cùng, bương chải ngược xuôi để nuôi đàn con dại, trong đó có đứa con gái mới hai tuổi, bại liệt đôi chân, nằm liệt trên giường “Không hề biết mình sống hay chết, không biết đói no, không biết gì hết ngoài hơi thở của con người”. Không thể chịu đựng nổi khổ cực, về cư ngụ ở ngôi nhà cha mẹ tại Lộc Ninh, nơi chốn được xem như địa bàn giao liên của ông bà Mặc Khải nhưng rồi Cộng Sản làm khó dễ vì vậy NTTV phải làm giấy tờ với mẫu đơn thật buồn cười “Đơn xin tạm trú trong căn nhà của tôi”. Có nơi tá túc nhưng chân yếu tay mềm không làm rẫy được nên NTTV trở lại Sài Gòn, không được “ân sủng” cầm bút trở lại mà cọn bị gán ghép nhà văn đồi trụy, dâm ô vì vậy NTTV rơi vào nghịch cảnh trong gia đình.

Về hình ảnh Nguyễn Thị Thụy Vũ, trong ký sự văn học Giai Thoại Hồng của Hồ Trường An ấn hành ở Hoa Kỳ năm 1989 viết về những cây bút nữ giới, trong đó có hai người thân trong gia đình là Phương Đài và NTTV.

“Hồi còn nhỏ, Nguyễn Thị Thụy Vũ chỉ được màu da trắng mát như cánh hoa ngọc lan. Trán chị hơi vồ, mũi chị hơi tẹt, răng có cái lòi xỉ. Chị bắt chước tôi ăn mặc theo lối con trai... nhìn chị ai cũng tưởng đó là một chú kim đồng thông minh dĩnh ngộ.

Càng lớn lên, chị đằm thắm lại, tuy có nghịch nhưng nghịch ngầm, cười nói lúc nào cũng kín đáo, nhỏ nhẹ. Trán chị bớt vồ, hai chiếc răng lòi xỉ được cưa để làm hai chiếc răng giả thật khéo... Cái ưu điểm của Thụy Vũ là chiếc miệng đẹp với đôi môi thanh tú, thường nở một nụ cười đằm thắm hồn nhiên. Hơn nữa, chị không làm dáng, không điệu hạnh, uốn éo gì hết trơn. Nhưng đôi mắt chị sáng quá, một thứ sáng kỳ dị như muốn thôi miên người đối diện” .

“Từ tuổi mười lăm, chị tôi sống lêu bêu. Vì bệnh hoạn lại không tự ái, nên chị tôi lười học. Tôi không hiểu chị tôi thích gì. Chị đọc tiểu thuyết tình của Ngọc Sơn, Thanh Thủy, Dương Hà, Nguyễn Ngọc Mẫn... thơ của Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu, T.T. Kh... Nguyễn Thị Thụy Vũ cứ sống cà ngơ cà ngất như vậy cho tới lúc đi dạy học”.

“Thi rớt bằng trung học đệ nhất cấp, chị tôi thi vào ngành giảng tập viên, cam phận làm cô giáo làng suốt năm năm. Sau đó tôi đốc xuối chị bỏ quê quán ở Vĩnh Long lên Sài Gòn học tiếng Pháp ở Trung Tâm Văn Hóa Pháp, học tiếng Anh ở London School và Hội Việt Mỹ”.

“Tại Sài Gòn trong các năm 1962-1963. Chị tôi bắt đầu viết nhật ký... Chính tập truyện đầu tay của Túy Hồng thúc dục Thụy Vũ lao vào văn đàn đã có Nguyễn Thị Vinh, Linh Bảo thắp đuốc tiền phong” (HTA -GTH).

Hồ Trường An kể lại câu chuyện thật lý thú về người chị dùng ngải “thứ ngải thoa vào môi nói gì ai cũng nghe theo” để gặp văn nhân như Thanh Nam hầu chọn đăng truyện ngắn nhưng tiếc rằng ngải không hiệu nghiệm. Vì vậy, sau nầy truyện ngắn Chiếc Giường trong tập Lao Vào Lửa, NTTV viết về hình ảnh cô gái bán bar dùng bùa ngải để mê hoặc khách làng chơi thật sinh động.

“Gặp ông Võ Phiến, tôi nói ngay ý định của chị tôi, nhờ ông đỡ đầu cho chị trong bước đầu viết lách... chị tôi chìa bản thảo mà chị đã chép lại một đoạn trong quyển nhật ký của mình... Một Buổi Chiều là cái chìa khóa để một cô giáo làng mở một cánh cửa bước vào văn đàn"(HTA - GTH).

Băng Lĩnh yêu con đường văn nghệ và vì tự mình lập thân với “ngón nghề” ngộ nghĩnh và vớ vẫn qua bùa ngải. Không dùng nó để mồi chài tình yêu, lường gạt tiền bạc, vật chất người khác mà xử dụng để cho văn nhân chọn ngọn bút của mình trên trang báo. Và, ngòi bút của Băng Lĩnh không lọt vào đôi mắt của Võ Phiến, Chủ bút tạp chí Bách Khoa, chủ trương nhà xuất bản Thời Mới, bằng chiêu thức đó. “Chai ngải của chị tôi bị tôi lỡ tay làm đở. Tôi mua chai xá xị khác thế vào mà không cho chị biết. Vào hôm đi yết kiến ông Võ Phiến, chị đem nước xá xị thoa lên môi, đợi môi khô chị mới thoa một lượt son màu hường tươi... Khi nghĩ tới phải hội kiến một nhà văn lớn,chị tôi đâm ra khớp. Cái trâng tráo, nghịch ngợm cố hữu của chị tôi bay đâu mất. Mặt chị xanh như đàn bà sảo thai, lời nói khó khăn, đứt quãng như sản phụ đẻ ngược” (HTA - GTH).

Nhà văn Võ Phiến viết về NTTV với những dòng đầu trong bài: "Đầu thập kỷ 60 - tôi không nhớ rõ năm nào - tòa soạn Bách Khoa bắt đầu nhận, thỉnh thoảng một thiên truyện ngắn của một người viết mới, thuộc phái nữ, ký tên Nguyễn Băng Lĩnh. Lúc bấy giờ các cây bút nữ giới hãy còn hiếm. Tòa soạn có ý tò mò...

... Người ấy về sau mang bút danh Nguyễn Thị Thụy Vũ, là tác giả cuốn sách có tên là Mèo Đêm, Lao Vào Lửa, Cho Trận Gió Kinh Thiên... Tức là thứ sách mà các thế hệ phụ nữ nước ta trước đó không mấy kẻ dám đọc, đừng nói đến chuyện viết!” (Võ Phiến - Văn Học Miền Nam, Hoa Kỳ 1999).

Tập truyện Mèo Đêm của NTTV xuất hiện cùng thời điểm với sự xuất hiện các cây bút nữ giới vào năm 1966. Và, “Cuốn tập truyện Mèo Đêm đã làm cho Thụy Vũ bớt rụt rè đối với văn giới. Chị dám đặt chân tới tòa soạn Bách Khoa. Trước đó chị viết bài xong, đưa cho ông Võ Phiến xem trước, và khi xem xong ông Võ Phiến đưa cho ông Lê Ngộ Châu, Tổng thư ký tòa soạn tập san Bách Khoa. khi bài vở được đăng, chính tôi đến tòa soạn nhận lãnh tiền nhuận bút dùm chị” (HTA - GTH).

Từ đó, NTTV bước vào văn đàn với nhiều tác phẩm, thành lập nhà xuất bản Kim Anh với Nguyễn Thị Nhiên, Hồng Đức, Kẻ Sĩ với Tô Thùy Yên. Là một trong những tác giả thuộc phái nữ có nhiều tác phẩm đang ăn khách ở Việt Nam vào giữa thập niên 60-70 cho đến ngày đen tối trong cuộc đời cầm bút sau 30-4 - 75.

Tác Phẩm

Từ cô giáo tỉnh lẻ, trình độ học vấn chẳng bao nhiêu, yêu văn chương chữ nghĩa, khởi đi từ những trang nhật ký, trong vòng mười năm (65-75), NTTV đã đi vào Văn học Việt Nam với nhiều tác phẩm:

Tập truyện Mèo Đêm, Lao Vào Lửa, Chiều Mênh Mông

Truyện dài Thú Hoang, Ngọn Pháo Bông, Khung Rêu, Như Thiên Đường Lạnh, Chiều Xuống Êm Đềm, Nhan Tàn Thắp Khuya, Cho Trận Gió Kinh Thiên... còn nhiều truyện viết feuilleton đăng trên báo chưa xuất bản.

Tập truyện Mèo Đêm gồm bảy truyện ngắn: Mãnh, Đợi Chuyến Đi Xa, Một Buổi Chiều, Mèo Đêm, Nắng Chiều, Bóng Mát Trên Đường, Miền Ngoại Ô Tỉnh Lẻ.

Tập truyện Lao Vào Lửa gồm ba truyện ngắn: Chiếc Giường, Đêm Nổi Lửa, Lao Vào Lửa.

Tập truyện Chiều Mênh Mông gồm sáu truyện ngắn: Trôi Sông, Đêm Tối Bao La, Tiếng Hát, Lìa Sông, Chiều Mênh Mông, Cây Độc Không Trái.

Trong mười sáu truyện ngắn xuất bản năm 1966 và 1968 “đã gây ồn ào trong dư luận giới đọc sách” vì tính cách táo bạo, ngôn ngữ tả chân khi làm tình, khi tán tỉnh, không khí snack bar với rượu chè trai gái. Nếu viết về nỗi cô đơn của cô gái mang nhiều mặc cảm như Đợi Chuyến Đi Xa, nỗi buồn chán chường của người đàn bà ở Ngoại Ô Tỉnh Lẻ, tâm trạng cô gái trong chuyện chồng con qua Lìa Sông... chẳng có gì gây tác động sự xuất hiện ngòi bút nữ giới với giới thưởng ngoạn. NTTV viết về hình ảnh ăn chơi, đàng điếm, mồi chài, thác loạn của giới bán bar trong giai đoạn quân đội Mỹ tràn ngập ở Việt Nam. Nếu viết thực, sống động phải là người từng lăn lộn, đầy dẫy kinh nghiệm, trải qua tháng ngày trong khung cảnh đó. Ở đây lại là cô giáo tỉnh lẻ, giữ mình cuộc sống mô phạm phần nào nhưng đã chọn cho mình cái nhìn độc đáo để sáng tạo. NTTV nhờ dạy kèm tiếng Anh cho giới bán bar, giới làm sở Mỹ nên có cơ hội giao tiếp, tìm hiểu mặt trái của cuộc sống làm chất liệu cho ngòi bút.

Hình ảnh Loan trong Mèo Đêm, cuộc đời bán bar của Loan như loại mèo đêm “ăn sương” với lính Mỹ. Cuộc đời cô gái vô học bước vào lầu xanh với cái tên ngoại quốc Mi-Sen, qua bao năm trong nghề với những mánh khóe điêu luyện để lột tiền lính Mỹ ăn chơi. Trong Chiếc Giường, cô gái giang hồ về chiều ế khách dùng bùa mê để có được nhiều mối ăn nằm trên thân xác nhuầy nhụa. Lao Vào Lửa là chân dung cô nữ sinh nghèo túng, đi tìm việc trong hộp đêm, Tina chưa rành rọt với “Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề” nên bị chê, và cô gái giang hồ chẳng mấy chốc trở thành tay nghề.

“Một tên Mỹ cao lớn, râu ria cạo nhẵn thín, nhưng vết sẹo trên râu quai nón vẫn làm tối sầm khuôn mặt hắn. Hắn nhe răng cười mơn trớn hỏi:

- Em tên gì”

Tôi trả lời cộc lốc:

- Tina

Hắn lôi tôi vào lòng rồi đặt lên bắp đùi hắn. Bàn tay hắn sờ soạng trên trên ngực và eo của tôi. Chị Năm thường nói với tôi là tụi đàn ông Âu Mỹ lông lá như con dã nhơn, mỗi ngày cạo râu hai lần thì hành sự rừng rú chịu không nổi. Tôi sợ sệt nhìn cánh tay hắn. Hắn buông thõng tay tôi tiếp tục:

- Ngủ với tôi đi.

Tôi đưa tay lên làm hiệu:

- Mười nghìn nghe.

Hắn lắc đầu:

- Mắc lắm, cưng ơi! Nếu mười nghìn thì em phải trả tiền phòng và tiền ticket”.

Trong Tiếng Hát và Chiều Mênh Mông mô tả hình ảnh người con gái lăn vào cuộc tình với nhục dục mạnh bạo làm khoái cảm thân xác. Vì vậy có sự phê phán về hiện tượng dồn nén gây ẩn ức sinh lý, gặp môi trường tác động làm chất liệu để bày tỏ.

Sau ba tập truyện ngắn, NTTV cho ra đời ba truyện dài Ngọn Pháo Bông năm 1968, Thú Hoang, 1968 và Khung Rêu 1969.
Ngọn Pháo Bông mô tả cuộc đời vũ vữ sống dưới ánh đèn màu, theo thời gian, gái làng chơi hành nghề cho Tây rồi Mỹ trải dài qua hai thập niên. Cuộc đời gái điếm lão luyện đó được kết thúc bởi tên ma cao lưu manh bắng lưỡi dao oan nghiệt.
Năm 1970 Khung Rêu được giải nhì Văn chương toàn quốc, tên tuổi NTTV được nhiều cây bút đề cập, trong đó có ba tác phẩm đáng kể như Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Trịnh Công Sơn, Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Đình Toàn, Nhật Tiến, Thế Uyên, Thế Phong, Bùi Giáng, Võ Hồng) của Tạ Tỵ. Các Nhà Văn Nữ Việt Nam 1900 - 1970 (Song An, Mộng Sơn, Nguyễn Thị Vinh, Linh Bảo, Nhã Ca, Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Trùng Dương) của Uyên Thao và Những Truyện Ngắn Hay Nhất Của Quê Hương Chúng Ta gồm 45 cây bút từ 1974 đến 1973 do Nguyễn Đông Ngạc, chủ trương nhà xuất bản Sóng, thực hiện vào năm 1974 đưa tên tuổi NTTV sáng giá. Truyện ngắn Lòng Trần cùng với hình ảnh NTTV qua ống kính của Trần Cao Lĩnh hiện diện trong tuyển tập nầy.

Khung Rêu ghi lại hình ảnh nơi quê mà trong phần tựa, NTTV viết:

“Từ hồi nhỏ, tôi phải chịu đựng mốt ám ảnh thường xuyên: sự suy sụp bệ rạc của một gia đình thịnh mãn ở miền Nam. Nguyên nhân chính của sự suy sụp bệ rạc nầy thì ai cũng biết: chiến tranh... Khi khởi công viết quyển truyện nầy, tôi đặt trước cho mình một chủ định: ghi lại cái ám ảnh từ thuở nhỏ dại đó của tôi, trong ước vọng, một lần nữa, giải tỏa nó cho xong”.

Bối cảnh câu chuyện xoay quanh gia đình ông Phủ, điền chủ, quan lại, giai đoạn về hưu. Nhìn bề ngoài gia đình giàu sang nhưng bên trong từ ông Phủ đến con cái chẳng ra gì, con trai có đứa thì chơi bời trụy lạc, đứa thì dốt nát, con gái có đứa thì lăng loàng, đứa thì thất tình hóa điên, đứa thì ái nam ái nữ. Ông Phủ lắm vợ nhưng đầu óc đầy nhục dục, hãm hiếp người làm trong nhà tuổi bằng con cái... tạo ra thảm kịch, băng hoại của gia đình đến thời suy sụp.

Cho Trận Gió Kinh Thiên đề cập đến bi kịch trong đời sống vợ chồng, ông ăn chả thì bà ăn nem, mà khi nàng lao mình vào cuộc tình mới để trả thù chồng, bỏ quê về sống nơi đô hội như lao mình vào cơn gió bụi bên cạnh hình ảnh cờ bạc, đĩ điếm.
NTTV dám viết với ngôn từ, suy nghĩ của giới giang hồ, hình ảnh, động tác lẫn cảm giác của trai gái khi “lâm trận” mà trước đó chưa có nhà văn nữ nào đề cập. Túy Hồng, khuôn mặt đất thần kinh, tiếp nhận ngòi bút của Francoise Sagan trong nếp sống hiện sinh, tác động xác thịt rung động được mô tả đã ảnh hưởng vào cái nhìn của Thụy Vũ. Và, khi kề cận với giới sống gần gủi mấy chàng G.I, khai thác được nhiều khía cạnh mà cây bút nữ khác không có chất liệu để sáng tác. NTTV biết táo bạo động tác ái ân như: “làm đùng đùng như cù dậy”, “làm đùng đùng như con cá sấu đập đuôi bánh lái ghe chài”, hay chủi bới nhau bằng ngôn ngữ thô tục như: “Tam đại tứ đại, cao tằng cố tổ con đĩ mụ nội nó”, “Mầy là con đĩ ăn cám uống hèm nên ngu si đần độn”... (Cho Trận Gió Kinh Thiên) nên bị phê phán như ngòi bút khiêu dâm.

Quan niệm về sáng tác theo NTTV: “Tôi thích truyện ngắn không có cốt truyện mà đầy nhiều chi tiết soi sáng thái độ lẫn quan niệm của tác giả đối với văn chương và cuộc đời. Trong ba tập truyện: Mèo Đêm, Lao Vào Lửa, Chiều Mênh Mông, hầu hết các truyện ngắn đều có cốt truyện hẳn hoi, nên tôi không được vừa ý lắm. Bởi vậy, đã từ lâu, tôi không viết truyện ngắn nào nữa, mà chỉ cắt xén vài đoạn trong truyện dài để làm truyện ngắn đăng báo mà thôi” (NĐN - NTNHNCQHCT).
Nhận định về truyện ngắn, theo Tạ Tỵ: “Thụy vũ viết truyện ngắn với nhiều thể tài, mỗi thể tài được hàm chứa sự cuồng nhiệt của tuổi trẻ trong vấn đề tình yêu, cũng như nỗinhức mỏi về thân phận, thân phận người con gái với những ước mơ táo bạo về dục tình” (TT - MKMVNHN).

Dòng Đời

Nhà văn Văn Quang, tác giả nhiều tác phẩm xuất hiện vào thập niên 50 - 70 như Thùy Dương Trang, Nghìn Năm Mây Bay, Nguyệt Áo Đỏ, Chân Trời Tím, Đời Chưa Trang Điểm, Nét Môi Cuồng Vọng, Người Yêu Của Lính, Vì Sao Cô Độc, Tiếng Hát Học Trò... và gần đây với truyện dài Một Người Đàn Bà, Nhiều Người Đàn Ông trên nhật báo Người Việt vào đầu năm 2000, vừa gởi ra hải ngoại bài viết về con gái của bạn văn. Câu chuyện về con gái của nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ: Người Con Gái 27 Năm Sống Với Đời Sống Thực Vật của Văn Quang đã gây xúc động nhiều người.

Hai mươi lăm năm, tên tuổi NTTV đã phôi pha theo thời gian, hình như tác phẩm của Thụy Vũ chưa được xuất hiện ở hải ngoại. Con người sống giữa lằn ranh Quốc - Cộng đó không còn cầm bút để bày tỏ, đôi khi chấp nhận sự ngộ nhận như oan khiên của cuộc đời.

Vào đầu thập niên 90, đọc ký sự Giai Thoại Hồng của Hồ Trường An, tôi nhớ lại kỷ niệm xưa khi đề cập đến ngôi nhà người thân trong gia đình anh.

“Vào năm 1961, gia đình của cô Phương Đài tôi còn ở trong căn một căn nhỏ hẹp ở dãy đông lang của Thánh thất Từ Vân, Phú Nhuận. Thánh thất thuộc bổn đạo Cao Đài ở gần chùa Quán Thế Âm, chùa do cố Hòa thượng Thích Quảng Đức trụ trì (còn gọi là chùa Mạch Lô) tọa lạc trên đường Nguyễn Huệ. Dãy đông lang nầy vách ván, mái lợp ngói âm dương... Cảnh trí nơi đây rất thơ mộng. Trước dãy đông lang có trồng ba cây điệp ta, những khóm dạ lan, những bụi bông trang dệt gấm đỏ, hường, vàng”.

Vài năm sau, vợ chồng Phương Đài cất ngôi nhà khá xinh phía sau dãy đông lang đó, ở chung với thân mẫu. Trong dãy đông lang đó, vợ chồng Trần Quân - Xuân Hoàng ở một căn, căn bên cạnh, bạn tôi được thuê với giá rẻ để ăn học. Thuở đó sinh viên vào Sài Gòn, đồng hương với cụ Song Thu và Phương Đài, được người quen giới thiệu, có chổ ở rất tốt cho việc học hành, muốn dạy kèm được cụ gởi gắm. Có thời gian về ở chung với người bạn nên có dip gần gủi gia đình Phương Đài. Cư xử với nhau rất tình nghĩa và tử tế, chưa bao giờ nghe luận điệu tuyên truyền nào cả. Có lần nhà thơ nầy gợi ý với tôi, Thùy Dương Tử cần bài khảo cứu cho tờ An Lạc số cuối năm, có tính cách quê hương, tôi viết bài Thực Trạng Xã Hội Trong Thi Ca Trần Tế Xương. Cuối năm 1966 tôi vào quân ngũ, quên chuyện bài vở, sau đó bạn tôi lên Thủ Đức thăm với chút quà và tiền nhuận bút hai nghìn, tương đương với ba tháng tiền nhà ở đó, hai đứa cưa đôi. Tôi không ngờ chuyện nhờ bài vở, tôi trả lễ, khi đi xa, giữ được chữ tín...

Vào đầu thập niên 70, khi ở đơn vị, nghe tin khoảng mười người trong giới văn nghệ lần lượt bị bắt, trong đó có Tường Linh, Phương Đài... vài người quen nữa mà trước kia thấy họ thường lui tới thăm hỏi với nhau. Đâu ngờ vài khuôn mặt đồng hương đã quý mến lại nằm vùng hoạt động cho địch! Thảo nào lúc đó Vũ Hạnh thường lui tới, tập thơ Đất Mẹ của Phương Đài ra đời năm 1967, Vũ Hạnh đề tựa. Giai đoạn Lữ Phương, Nguyễn Ngọc Lương, Vũ Hạnh ra đời tờ Tin Văn tạo môi trường giao thiệp cho những người trong cuộc nằm vùng có cơ hội sinh hoạt, giao tiếp. Khuôn mặt nầy tôi đã đề cập trong bài Vũ Hạnh, Kẻ Hoạt Đầu Văn Hóa trên Saigon Times và Thời Mới vào cuối tháng 12 -1991.

Giữa lằn ranh Quốc - Cộng trong gia đình NTTV thuở đó:

“Bà Song Thu, ba tôi, cô Phương Đài, dượng Trần Quân đều ngả theo phe tả... Tô Thùy Yên thuở đó chống Cộng có lập trường. Còn Thụy Vũ và tôi cứ lửng lơ con cá vàng giữa hai chủ nghĩa”
(HTA - GTH).

Sau năm 1975 Mặc Khải chẳng có chỗ đứng nào trong sinh hoạt văn nghệ, chết năm 1981. Khi chiêu bài đã lộ hình, nhìn lại để suy nghiệm bài học trong văn giới.

Trong tác phẩm Cõi Ký Ức Trăng Xanh, Hồ Trường An có đề cập đến tình duyên lận đận của NTTV với chàng Hải quân khi ở Vĩnh Long. Năm 1964, NTTV gặp Tô Thùy Yên trong bữa tiệc ăn mừng của Thanh Tâm Tuyền nhân dịp đoạt giải thưởng Văn Chương toàn quốc. Tô Thùy Yên đã có gia đình, NTTV cuộc tình tan vỡ, có đứa con riêng.

“Thế là từ đó Tô Thùy Yên không rời Thụy Vũ nữa. Khi chung sống với nhau, Tô Thùy Yên nhận thấy Thụy Vũ quê quê, vulgaire thế nào, anh muốn biến chị tôi thành người đàn bà phong nhã, lịch lãm”
(HTA - GTH).

Căn gác của đôi tình nhân nhà thơ, nhà thơ qua bài viết Lịch Sử Văn Học Qua Ống Kính của Trần Công Nhung khi thực hiện chân dung văn nhà văn bằng hình ảnh:

“Tôi nhớ mang máng thì dạo đó nhà của Tô - Thụy cũng không xa nhà cụ Vũ Hoàng Chương, đâu lối Bàn Cờ, bởi cũng vào hẽm quanh co. Lúc nhận ra số nhà, tôi thấy ngay người đàn bà đang ẵm một cháu bé trạc 2 tuổi đang đứng nơi bậc cửa... Khuôn mặt chị luôn luôn tươi, nước da không trắng lắm nhưng đẹp và phảng phất nét cổ điển... Căn nhà tối quá, con hẽm thì hẹp... Bởi chu vi căn nhà không rộng nên cái cầu thang cũng quá hẹp. Đi phải nghiêng người mới vừa. Tôi chậm chạp từng bước vừa cúi nhìn chân sợ lỡ trượt một cái là hỏng hết. Vừa ló đầu qua khỏi cửa thang gác thì một cảnh tượng bất ngờ đập vào mắt, khiến tôi vừa mắc cở, vừa buồn cười. Căn gác trống trơn, ở góc bên trái có cái rương gỗ cũ bằng chiếc bàn con. Ngang tầm mắt, căng hai sợi giây kẽm phơi đầy những thứ riêng tư của nữ giới... Tôi nghe như có tiếng cười khe khẽ sau lưng. Làm như không hay biết gì tôi ngồi quì xuống sàn gác, đặt xách máy lên chiếc rương gỗ giả vờ sửa soạn đồ lề để chị có thời giờ thu dọn chiến trường. Chừng một lúc, tôi đứng lên thì tất cả cờ quạt đã dồn về một phía. Chiếc cửa sổ duy nhất được mở ra, căn phòng sáng hơn... ánh sáng bán âm bán dương rất hợp với khuôn mặt của chị. Chưa đầy năm phút là xong, tôi xin cáo lui”.

Trong căn gác nghèo nàn đó NTTV đã cho ra đời nhiều tác phẩm được hình thành trên cái rương gỗ làm bàn. Giữa năm 1972 khi làng Báo Chí Thủ Đức được hoàn thành, NTTV là một trong chín người đầu tiên có nơi chốn khang trang giữa nơi qui tụ văn nghệ sĩ.

Tháng 6 - 1975 Tô Thùy Yên trình diện trong số 24 nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhạc sĩ quân đội, và trải qua nhiều năm trong lao tù.

“Sau ngày 30 - 4 - 75, chị tôi đem lũ con lên Lộc Ninh để làm rẫy. Nhưng vì tôi kỳ kèo nên chị phải về Sàigòn để học khóa Bồi Dưỡng Chính Trị vào năm 1976 do bọn cán bộ văn nghệ cộng sản tổ chức... Qua màn tự phê tự kiểm, Thụy Vũ mệt lả người, trong khi đó chị Nguyễn Thị Vinh, chị Trần Thị Tuệ Mai vây chung quanh chị, mắt chị nào cũng nhòa lệ; cái thân phận làm kẻ bại trận thật nhục nhã, ê chề”
(HTA - GTH).

Là nữ lưu nhưng NTTV không cúi mình kể lể, lấy công như vài "văn nhân" khác để được chỗ đứng, khoan hồng.

An phận thủ thường, nuôi bốn đứa con thơ, trong đó có bé Khôi Thụy bị thương tật nằm liệt trên giường, theo chuyện kể của BBH, bạn văn với NTTV, lúc đó bác sĩ bảo rằng Khôi Thụy khó sống trong hoàn cảnh nầy, giải quyết cho cháu yên nghỉ nhưng tình mẫu tử của NTTV không thể chấp nhận, sống chết bên nhau cho dù đắm chìm trong nghiệt ngã. Theo hồ sơ bệnh lý của bệnh viện Chợ Rẫy và Hội đồng Y Khoa năm 1982: “Khôi Thụy chậm phát triển và tâm thần mức độ nặng”, trên thực tế thì tình trạng còn nguy kịch hơn nhiều.

Qua một phần tư thế kỷ NTTV sống lặng lẽ với bao nỗi đau thương trong cuộc đời nơi góc chốn ở quê nhà. Hai mươi lăm năm người mẹ gắn bó bên đứa con tật nguyền qua chứng nhân của người bạn văn:

"Trong căn phòng nhỏ hẹp, trên chiếc giường lạt tre thưa thớt, một thân hình con gái trắng nhễ nhại với chiếc quần cụt, chiếc áo thun ngắn tay nằm ngay đơ trên chiếc chiếu chỉ trải có nửa giường. Bởi đó là nơi cháu vừa ăn ở, vừa đi vệ sinh, vừa làm chỗ tắm... Cháu không hề biết mình sống hay chết, không biết đói no, không biết gì hết ngoài hơi thở của con người”
(Văn Quang).

Hình ảnh thương tâm của cháu Khôi Thụy làm bằng hữu phương xa nghĩ lại thân phận nhà văn NTTV ở quê hương. Văn Quang cho tôi biết Thái Thủy và Phan Ngọc Diên sắp cho tái bản hai tác phẩm Mèo Đêm và Khung Rêu của NTTV.
Trong truyện ngắn Đêm Tối Bao La, NTTV viết về hình ảnh người đàn bà:

“Sau vài cuộc tình phất phơ, bây giờ tôi mệt mỏi thật sự. Tôi bất chấp dư luận để sống mà rồi vẫn cô đơn... Chàng nhạt nhẽo quá. Tôi lại mơ cao để rồi số tuổi càng ngày chồng chất theo nỗi chán chường”.

Cầm bút, đôi khi cảm nhận điều gì đó đến với mình qua từng nhân vật có khi rơi vào trường hợp bản thân đến tuổi cuối đời.


Vương Trùng Dương
Nguồn: quangio.com