PDA

View Full Version : CỘNG SẢN VÀ PHÁT XÍT là một



duyanh
05-05-2015, 12:57 PM
CỘNG SẢN VÀ PHÁT XÍT, TUY 2 MÀ NHƯ 1



Xét cho đến cùng, có nhiều yếu tố khiến nhiều người ngỡ ngàng khi nhận ra phát xít và cộng sản tuy là 2 nhưng bản chất lại là một. Trải qua nhiều cuộc chiến, những hành động của 2 bên cho thấy sự khác biệt không đáng kể. Cứ thử nghĩ về những năm của thế chiến II, có bao nhiêu điều mờ ám chưa được giải đáp về mối quan hệ đồng minh giữa Cộng sản và Phát xít.


http://intermati.com/micro1405/5.15/52.1.jpg (http://intermati.com/micro1405/5.15/52.1.jpg)

Trong kho văn liệu khổng lồ về Stalin và Hitler trong suốt thời Thế chiến II, có rất ít điều được nói về mối quan hệ đồng minh của họ trong 22 tháng. Đó không chỉ là một chương lạ thường trong lịch sử cuộc chiến, mà ý nghĩa của nó xứng đáng nhận được nhiều sự chú ý hơn lâu nay.

Có hai yếu tố liên quan đến sự thờ ơ này. Một là sau khi Hitler quyết định xâm chiếm Nga mà thực hiện không thành, Stalin nổi lên như một trong những kẻ chiến thắng uy quyền của Thế chiến II. Yếu tố còn lại là việc các Thế lực phương Tây không mấy lưu tâm đến Đông Âu. Tuy vậy cuộc chiến nổ ra vào năm 1939 lại là do Đông Âu, kết quả của quyết định của người Anh (và Pháp) trong việc chống lại việc Đức chinh phục Ba Lan. Cơn địa chấn chính trị của Hiệp ước Xô-Đức vào ngày 23 tháng 8 năm 1939, chín ngày trước khi nổ ra cuộc chiến vào ngày 1 tháng 9, đã không ngăn được Anh và Pháp tuyên bố chiến tranh chống lại Đức vì đã xâm lược Ba Lan. Đây là một trong số ít – rất ít – những quyết định có ích cho họ vào thời điểm đó. Việc họ miễn cưỡng không muốn tiến hành nghiêm túc cuộc chiến chống Đức trong nhiều tháng tiếp theo lại là một câu chuyện khác.

Ba phần tư thế kỷ đã trôi qua kể từ năm 1939. Khá nhiều điều được viết về Hiệp ước Xô-Đức kể từ lúc ấy, phần lớn là của các cây bút và sử gia Đông Âu. The Devil’s Alliance (Liên minh của quỷ) là bản tường trình tốt của sử gia người Anh Roger Moorhouse về việc hiệp ước có ý nghĩa gì đối với Hitler và Stalin – và tệ hơn là đối với nạn nhân của hiệp ước đó. Có lẽ phần giá trị nhất của cuốn sách là phần nói về những hậu quả tức thời của hiệp ước năm 1939. Trước đó, Chủ nghĩa Quốc xã và Chủ nghĩa cộng sản đã là kẻ thù công khai của nhau một cách hiển nhiên và dữ dội. Từ những ngày thăng tiến chính trị đầu tiên của mình, Hitler đã mô tả Do Thái giáo và Chủ nghĩa cộng sản là hai kẻ thủ chính yếu của mình. Vào thời điểm đó, Stalin không hẳn là một kẻ theo ý thức hệ. Cũng như Hitler, Stalin là một người theo chủ nghĩa dân tộc; ông gần như không lưu tâm đến chủ nghĩa cộng sản quốc tế.


http://intermati.com/micro1405/5.15/52.2.jpg (http://intermati.com/micro1405/5.15/52.2.jpg)
Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô Vyacheslav Molotov ký Hiệp ước Xô-Đức, với Bộ trưởng Ngoại giao Đức Joachim von Ribbentrop ngay đằng sau, kế bên Stalin, ngày 23 tháng 8 năm 1939

Tháng 5 năm 1939, Hitler nhận ra rằng trong cuộc chiến của người Đức với phương Tây, Nga có thể đứng trung lập. Nhưng việc thực hiện điều đó không đơn giản; Nga phải có gì đó đổi lại. Trong suốt mùa hè năm đó, nhóm đại biểu Anh-Pháp đã tìm kiếm một dạng thoả thuận quân sự với Nga và chuyện không đi được tới đâu. Có một số viên chức và nhà ngoại giao cao cấp của Đức, đứng đầu trong số đó là Bộ trưởng Ngoại giao Joachim von Ribbentrop của Hitler, có khuynh hướng thiên hẳn về thỏa thuận Đức-Nga. Trong lúc đó, tại Moskva, Stalin đã bắt đầu có động thái: đầu tháng 5, ông sa thải Bộ trưởng Ngoại giao người Do Thái của mình, Maxim Litvinov, và thay thế bằng Vyacheslav Molotov (người giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong suốt cuộc chiến và một thời gian dài sau đó). Hitler hiểu điều đó có nghĩa là gì. Vào tháng 8, Ribbentrop bay đến Moskva để ký Hiệp ước Bất tương xâm giữa Liên Xô và Đức; bức ảnh Ribbentrop với cây bút trong tay cho thấy ở hậu cảnh Stalin mãn nguyện thấy rõ. Hitler hi vọng sự kiện gần như tuyệt diệu này có thể ngăn người Anh và người Pháp can dự vào cuộc chiến giành Ba Lan với ông. Điều đó đã không xảy ra, mặc dù Stalin không thất vọng vì điều đó.

Nghị định thư Bí mật phân chia Đông Âu giữa Đức và Liên Xô
Điều quan trọng hơn Hiệp ước Bất tương xâm là phần phụ lục của hiệp ước, một Nghị định thư Bí mật, vốn yêu cầu không gì khác hơn là phân chia Đông Âu, đặc biệt là Ba Lan, với một phần nước này sẽ bị Liên Xô thâu tóm. Ngoài ra, Đức công nhận “khu vực lợi ích” (“sphere of interest”) của Nga tại Estonia, Latvia, Phần Lan, một phần Litva và tỉnh Bessarabia ở Romania. Moskva phủ nhận chính sự tồn tại của Nghị định thư Bí mật này trong suốt thời gian dài, ngay cả khi Thế chiến II kết thúc đã lâu. Nhưng sự kiện đó vẫn tồn tại trong văn khố của Đức; và vào năm 1939 nó đã trở thành một hiện thực u ám và dễ sợ. Tận đến năm 1986, Molotov già nua (lúc đó đã hơn 90) vẫn phủ nhận chính sự tồn tại của sự kiện này trước một phóng viên Nga. Trên thực tế, nhiều hoàn cảnh của sự kiện này vẫn tiếp tục tồn tại xuyên qua cuộc thế chiến và cả những xung đột tiếp sau đó cho đến năm 1989.

Quân đội và nhân dân Ba Lan đã chiến đấu can trường chống lại người Đức trong suốt một tháng vào năm 1939 (gần lâu bằng Pháp với đội quân đáng kể của họ vào năm 1940). Nhưng 17 ngày sau khi Đức xâm lược, quân đội của Stalin đã xâm lăng Ba Lan từ phía đông. Vài ngày sau tại Brest, một điểm gặp gỡ lúc ấy nằm ngay trên phần do Liên Xô kiểm soát tại Ba Lan, có một cuộc duyệt binh chung nho nhỏ của binh lính và quân xa của Đức và Liên Xô. Chỉ hơn hai tháng sau, tức chưa đầy ba tháng sau khi Thế chiến II nổ ra, trận đánh duy nhất trên đất liền tại châu Âu là giữa Nga và Phần Lan, vốn là dân tộc không chấp nhận sự kiểm soát của Nga đối với đất nước họ. Người Anh thất kinh. Họ (và người Pháp) thậm chí suy xét, trong thoáng chốc, về việc can thiệp, nhưng việc này đã không xảy đến. Quân đội Hitler sớm xâm chiếm Đan Mạch, Na Uy, Hà Lan, Bỉ – và sau đó là Pháp. Churchill và Anh quốc đã đứng một mình, trong suốt hơn một năm sau đó.

Cuối tháng 9 năm 1939, Ribbentrop bay tới Moskva lần nữa để thu xếp một số thoả thuận về đường biên giới, từ đó sẽ tiến hành Nghị định thư Bí mật kia. Xuyên suốt cuộc chiến, trong số những viên chức cấp cao của Đức, Ribbentrop là người mong muốn tìm kiếm và duy trì những thoả thuận Đức – Nga nhất. (Người đồng cấp của ông ở Liên Xô, Molotov, cũng thường có những mong muốn tương tự.) Ở khía cạnh này, chúng ta còn có thể chú ý đến những mong muốn hướng đến mối quan hệ song phương giữa Hitler và Stalin. Hitler cho rằng cần phải tiến hành những điều khoản trong mối quan hệ đồng minh với Stalin; về phần mình, Stalin thậm chí còn nhiệt tình hơn Hitler trong chuyện này. Một ví dụ là lời chúc tụng có lẽ không cần thiết của ông dành cho Hitler sau khi ký bản hiệp ước vào ngày 24 tháng 8 năm 1939: “Tôi biết dân tộc Đức yêu mến Führer (Quốc trưởng) của họ nhiều đến dường nào, do đó tôi nâng ly để chúc sức khoẻ cho ông ấy.” Đáng kể hơn đối với hồ sơ lịch sử và hệ trọng hơn đối với nhân dân Đông Âu là ý định của Liên Xô và hành vi xâm lăng của họ ngay sau khi ký Hiệp ước Xô-Đức.

Vào cái ngày diễn ra chuyến viếng thăm thứ hai của Ribbentrop đến Moskva, Nga bắt đầu gây áp lực lên các quốc gia Baltic. Nga đưa ra yêu sách đòi thay đổi những chính quyền tại Baltic, đầu tiên là tại Estonia, sau đó là những nước láng giềng Latvia và Litva. Quan trọng hơn, giờ đây Nga đã điều quân đến những nước đó, đặc biệt là đến các hải cảng của họ, làm suy giảm trầm trọng nền độc lập của những nước này. Chính quyền của những nước này chịu áp lực và đã phải tuân theo lệnh của Liên Xô, ngoại trừ Phần Lan. Hai tháng sau, Chiến tranh Mùa đông tại Phần Lan bắt đầu. Đội quân nhỏ bé của Phần Lan đã chiến đấu quật cường và dũng cảm, một thực tế mà ngay cả Stalin cũng phải thừa nhận; kết quả là xuất hiện một hiệp định trong đó Phần Lan từ bỏ một phần lãnh thổ cho Liên Xô nhưng vẫn duy trì nền độc lập cho phần lớn đất nước.

Tình hình tại Ba Lan còn xui rủi và kinh khủng hơn nhiều. Ở đó sự chiếm đóng của Liên Xô chí ít cũng tàn bạo và thảm khốc – nếu không muốn nói nhiều hơn – so với những phần đất Ba Lan bị Đức khuất phục. Nga trục xuất ít nhất một triệu người – bao gồm nhiều gia đình, mà không cho họ mang theo tài sản – tới Siberia, Kazakhstan và miền Bắc xa xôi của nước Nga, và gần như không ai có thể thăm lại quê nhà của mình lần nữa. Vào tháng 4 và tháng 5 năm 1940, khoảng 22.000 sĩ quan Ba Lan bị bắn chết gần Katyn. Hơn một triệu tù nhân và công nhân Ba Lan bị trục xuất tới Đức để chịu lao động cưỡng bức trong suốt thời chiến.

Đáng nói là nhiều việc làm thế này đã bắt đầu ngay sau khi Liên Xô chiếm được miền Đông Ba Lan vào tháng Chín năm 1939. Một số người Ba Lan, bao gồm người Do Thái, đã chào mừng binh lính Liên Xô, những tưởng rằng binh lính Liên Xô đến để giải phóng họ khỏi Đức Quốc xã. (Sau đó họ thất vọng với người Nga đến mức một số người Do Thái ở miền Đông Ba Lan đã nghĩ rằng tốt hơn là họ nên trốn sang khu vực của Đức Quốc xã, cho dù họ đã biết người Đức đối xử với dân Do Thái ra sao.) Từ năm 1939 đến 1941, có lẽ đa số dân Do Thái trên thế giới sống tại Đông Âu, hầu hết họ sống tại miền Đông Ba Lan, miền Tây Nga, Ukraina, và Belarus. Cuộc thanh trừng chung quyết của người Đức chưa được Hitler quyết định cho đến tháng 9 năm 1941 và trước tháng 1 năm 1942 vẫn chưa được thực hiện, nhưng theo nhiều cách khác nhau, số phận của họ đã được tiên đoán từ Hiệp ước Xô-Đức.

Stalin tìm cách ngăn Hitler xâm lược Liên Xô

Vào ngày 14 tháng 6 năm 1940, ngay cái ngày quân Đức diễu hành vào Paris, Moskva cuối cùng đã quyết định thi hành Nghị định thư Bí mật. Trong vòng một hai ngày, Nga tuyên bố tổng sáp nhập Estonia, Latvia và Litva vào Liên Xô. Thành viên chính phủ của những nước này hoặc bị cầm tù hoặc bị đày ải. Nhiều cựu viên chức ở đó bị xử tử, và ít nhất 25.000 người Baltic đã bị trục xuất tới Liên Xô. Hitler chở những người thuộc sắc tộc thiểu số Đức ở vùng Baltic đến Đức bằng tàu thuỷ của Đức.

Vào tháng 11 năm 1940, Molotov sang Berlin. Đây không phải là chuyến đi thành công của ông. Cung cách ngoại giao của ông cứng đờ như tính cách ông vậy. Nhìn thấy Đức chinh phục gần hết châu Âu, ông đề xuất việc gộp Bulgaria vào khu vực của Nga. Theo đó Liên Xô sẽ có sự hiện diện gần Bosphorus, với cái giá phải trả là Thổ Nhĩ Kỳ. Người Đức không đáp lại lời đề xuất này. Vào một ngày tháng 12 năm 1940, Hitler bắt đầu hoạch định một cuộc chiến chung cuộc với Nga.

Stalin phần nào chỉ trích hành vi của Molotov tại Berlin; ông cho là Bộ trưởng Ngoại giao của mình có lẽ đã quá cứng nhắc. Đây là lối cư xử điển hình của Stalin trong suốt sáu tháng tiếp theo. Ông không thể và sẽ không tin Hitler sẽ khởi sự một cuộc chiến chống lại mình trong khi Đức vẫn còn Anh quốc để xử lý.

Stalin đã thực hiện một số động thái để cải thiện tình hình của Nga. Ông thương thảo một hiệp ước giao hảo với Nam Tư, vốn chẳng được gì, vì Hitler đã xâm lược Nam Tư vào cái ngày ký hiệp ước này. Ông mời Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Matsuoka Yōsuke đến Moskva khi ông này trên đường quay trở về Nhật sau chuyến viếng thăm Berlin. Đáng ngạc nhiên là sau đó ông ký một Hiệp ước Bất tương xâm với Nhật. (Ngay sau khi Đức Quốc xã xâm lược Liên Xô vào tháng 6 năm 1941, Matsuoka khi trở về Tokyo đã đề nghị Nhật nên xâm lược Nga từ phía Đông. Giá trị của những bản Hiệp ước Bất tương xâm năm 1941 quả là nhỏ bé. Nhưng Matsuoka không được như ý, vì kẻ thù chính của Nhật lúc bấy giờ là Hoa Kỳ.)

Stalin ra lệnh phải có những cử chỉ thân thiện đối với Đức, bao gồm cả việc đẩy nhanh khâu vận chuyển các sản phẩm Liên Xô đến đó. Ông không một chút mảy may phản ứng lại lời cảnh báo của Churchill về viễn cảnh Đức sẽ tấn công Liên Xô. Trong suốt mười ngày trước cuộc xâm lăng của Đức Quốc xã – mặc cho mọi loại thông tin về mối đe doạ của Đức – Stalin đã cố gắng thực hiện những điều tốt nhất, hay có lẽ là những điều tệ nhất, để xác nhận lòng tin của mình vào Hitler và nước Đức. Tôi không biết một trường hợp đơn lẻ nào có hành vi thấp hèn đến thế (vì bản chất của nó là thế) mà xuất phát từ một chính khách của một đại cường quốc.
Cuộc tấn công của Đức thoạt đầu đã làm Stalin sốc đến câm lặng.

(Những lời của Molotov sau khi Đức tuyên bố chiến tranh cũng đáng nói: “Chúng ta đáng bị điều này sao?”) Những mệnh lệnh đầu tiên của Stalin cho quân đội Liên Xô là đừng phản ứng gì cả. Phải mất nhiều giờ đồng hồ sau cuộc xâm lăng – cho đến trưa – thì ông mới ra lệnh cho quân đội phản kháng.

Việc Stalin đã run sợ ra sao trong suốt những ngày công kích đầu tiên của Đức Quốc xã vẫn còn là vấn đề tranh cãi. Cuối cùng ông đã xốc lại được tinh thần của mình. Vào ngày 3 tháng 7 năm 1941 – mười một ngày sau cuộc xâm lăng của Đức – ông gọi nhân dân Liên Xô là một tập thể ái quốc. Tới thời điểm đó, một số binh lính Đức Quốc xã đã xâm nhập miền Tây Liên Xô được hơn một trăm dặm (hơn 160 km) và đang tiến đến Moskva. Roger Moorhouse kết lại phần dẫn nhập khiêm tốn của mình: lịch sử của Hiệp ước Xô-Đức “xứng đáng được giải cứu ra khỏi những dòng cước chú (tức ít được chú ý – NBT) và khôi phục lại vị trí đúng đắn của nó… Tôi chỉ có thể hi vọng rằng cuốn sách này sẽ góp được một phần nho nhỏ cho tiến trình đó.” Quả thật nó đã làm được điều đó.

Ý đồ của Hitler và Stalin
Dĩ nhiên vẫn còn đó những nghi vấn dành cho các sử gia. Một vấn đề là nhiều văn khố Liên Xô vẫn còn đóng cửa, và văn bản của họ thường là không đáng tin cậy trong mọi trường hợp. Một nghi vấn sâu xa hơn vẫn chưa giải quyết được nằm ở chỗ mục đích chính của Hitler vào năm 1941 là gì. Trước nhân dân và đồng minh của mình, ông đã có những giải thích rõ ràng và đơn giản. Ông chưa bao giờ thoải mái trong việc liên kết với Liên Xô. Ông kinh tởm chủ nghĩa cộng sản. Nhưng còn có một yếu tố khác, có lẽ mang tính quyết định, trong tâm trí của ông. Ở đâu đó ông đã buông lời nhận xét về điều này trước một số tướng lĩnh của mình. Những lời đó liên quan đến Anh quốc – và đằng sau đó là Hoa Kỳ. Một khi đã chinh phục Nga, buộc Stalin quy hàng hay phải rút đi những gì còn lại của quyền lực Liên Xô đằng sau vùng Ural để chạy sang Siberia, thì khi đó Churchill (và Roosevelt) có thể làm được gì? Họ phải đối diện với một kẻ khổng lồ Nazi-Á-Âu, với đội quân Đức lớn mạnh không còn phải chiến đấu trên hai mặt trận nữa.

Vấn đề của Stalin nghiêm trọng hơn nhưng lại đơn giản hơn. Vào đầu tháng 9 năm 1941, ông viết cho Churchill rằng Liên Xô đang “chịu mối đe doạ chết người.” Chuyện đó không xảy ra; và đến năm 1942, ông nhận ra là mình sẽ nhận được nhiều thứ từ mối quan hệ đồng minh với Anh và Hoa Kỳ hơn là với Đức. Nhưng chí ít cho tới tháng 6 năm 1941, Stalin và Molotov vẫn còn chuộng Đức của Hitler hơn là phương Tây.

Ở phương diện này có một chỗ dành cho một bản tiểu sử, hay một bản phác thảo tiểu sử, của một viên chức nham hiểm của Liên Xô mang tên Vladimir Dekanozov, người thân cận với Molotov trong suốt thời gian dài, một trong những kẻ thân Đức quan trọng trong hàng ngũ viên chức cao cấp của Liên Xô (và vào năm 1941 còn là Đại sứ tại Berlin). Có chứng cứ cho rằng khoảng cuối mùa xuân năm 1943, Molotov đã điều Dekanozov đến Stockholm với mục tiêu thiết lập mối liên hệ với Đức Quốc xã. Ribbentrop đã sẵn sàng gặp Dekanozov nhưng bị Hitler cấm không cho gặp. Vào cuối năm 1953, Khruschev đã ra lệnh xử tử Dekanozov.

Hai tuyên bố lịch sử đã xuất hiện bằng văn bản sau khi cuộc chiến kết thúc được một thời gian. Vào tháng 12 năm 1941, Churchill điều Bộ trưởng Ngoại giao Anthony Eden đến Moskva. Các lực lượng tiến công của Đức chưa tới được Moskva nhưng vẫn có thể nghe thấy tiếng súng ở bên ngoài bức tường của điện Kremlin. Stalin nói với Eden: “Vấn đề của Hitler là ông ta không biết nên dừng lại chỗ nào.” Eden: “Thế có ai biết không?” Stalin: “Tôi biết.” Hai từ này không hoàn toàn xa rời sự thật. Vào tháng 11 năm 1944, Churchill đến gặp De Gaulle tại Paris. De Gaulle nghiêm trách người Mỹ vì đã để Nga chiếm toàn bộ Đông Âu. Churchill bảo, vâng, Nga giờ đây là con sói đói khát. “Nhưng sau bữa ăn là đến giai đoạn tiêu hoá.”[1] Nga sẽ không thể tiêu hoá được phần lớn Đông Âu. Và quả đúng vậy.

ST

duyanh
05-05-2015, 01:00 PM
ĐỘC TÀI CỘNG SẢN, ĐỘC TÀI PHÁT XÍT, MẶT TRÁI

MẶT PHẢI CỦA CÙNG MỘT ĐỒNG TIỀN

Lịch sử nhân loại có nhiều trang đáng khích lệ, như sự tiến bộ của khoa học, nhân quyền càng ngày càng được tôn trọng, mô hình tổ chức xã hội tự do, dân chủ càng ngày càng chiến thắng ở nhiều nơi trên thế giới ; nhưng cũng có những trang sử đau thương, nhất là vào thế kỷ 20 : đó là 2 cuộc thế chiến ; 2 chế độ độc tài, độc tài cộng sản và độc tài phát xít, mặt trái, mặt phải của một đồng tiền đã giết 6 triệu dân Do Thái với độc tài phát xít Hitler ; giết 100 triệu dân với độc tài cộng sản. Ở điểm này tôi xin nói thêm là độc tài phát xít chỉ giết dân Do Thái chứ không giết dân tộc mình như độc tài cộng sản.
Tại sao 2 chế độ độc tài này lại là mặt trái mặt phải của cùng một đồng tiền, như nhiều người đã nói ?

I ) Cuộc cướp chính quyền của Lénine do sự hỗ trợ của đế quốc Đức

Đức Đạt Lai Lạt Ma, khi được hỏi về cộng sản, đã trả lời : « Cộng sản là loài cỏ dại mọc trên hoang tàn của chiến tranh, loài trùng độc sinh xôi nẩy nở trong rác rưởi của cuộc đời ; «
Thật vậy, cộng sản là loại trùng độc sinh xôi nẩy nở trong rác rưởi cuộc đời, như chính một người đồng thời với K. Marx và đã từng bút chiến với Marx, ông J. Proudhon, khi ông này viết quyển Triết lý của sự nghèo khổ ( La Philosophie de la Misère), Marx viết trả lời lại Sự nghèo nàn của triết học ( Misère de la Philosophie). Người ta không thể nói Proudhon không hiểu lý thuyết của Marx, mà ngược lại, và ông đã không ngần ngại cho rằng lý thuyết của Marx nếu được áp dụng thì trở thành con sán lãi ( le ténïa ) của xã hội. Ở điểm này chúng ta không cần xét xâu xa, chúng ta chỉ cần nhìn tất cả những chế độ cộng sản, không những có một chính quyền bề ngoài, mà bên trong còn có một chính quyền khác, còn mạnh hơn , đó là đảng cộng sản, ăn lương và có quyền hành nhiều hơn. Và lương là do đánh thuế từ dân, do mồ hôi nước mắt của dân mà ra. Đảng cộng sản quả là một con sán lãi, hút hết máu mủ của dân. Đây là một trong những lý do làm cho xã hội cộng sản trở nên bệnh hoạn, không phát triển hay phát triển thua những nước tự do.

Cộng sản cũng còn là loài cỏ dại mọc trên hoang tàn của chiến tranh. Sự cướp chính quyền của Lénine là lợi dụng cuối Thế Chiến thứ Nhất ( 1914-1918) ; của Mao trạch Đông và Hồ chí Minh là cuối Đệ Nhị Thế Chiến ( 1939-1945).

Thế Chiến Thứ Nhất đại để gồm 2 phe : 1) Phe đế quốc Đức, đế quốc Áo Hung, đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ ; phe bên kia gồm đế quốc Pháp, đế quốc Anh và đế quốc Nga vào thời Nga hoàng Nicolas I I. Gần cuối cuộc chiến, đế quốc Đức thấy không thể nào đương đầu một lúc với 2 mặt trận : mặt trận đông bắc với Nga và mặt trận tây nam với Pháp, muốn dồn lực lượng vào mặt trận chính tây nam.Nước Nga lúc đó đang bị cai trị dưới chế độ quân chủ phong kiến Nicolas I I, đang tham chiến. Lợi dụng tình thế, Lénine lúc đó đang ở Thuỵ sĩ, tung ra khẩu hiệu : « Hòa bình bằng bất cứ giá nào. Chia đất cho dân và nhượng đất để có quyền. » Chính vì vậy mà Bộ Tham Mưu Quân sự đế quốc Đức đã tìm cách đưa Lénine về Nga và giúp đỡ cướp chính quyền. Cuộc đảo chính của Trotski đã thành công, chính quyền của đảng Thợ thuyền dân chủ xã hội Nga Kérenski đã bỏ trốn vì lúc này Nga hoàng Nicolas I I đã thóai vị. Vừa mới có chính quyền, Lénine tuyên bố ngừng chiến với Đức, cử Trotski, đặc trách về ngoại giao đi thương thuyết với Đức theo lệnh của Lénine : « Ký tất cả, ngay dù phải nhượng đất để giữ quyền. » Nga đã nhượng cho Đức 1/3 lãnh thổ, gồm những vùng như Ukhraine, Ba Lan ( vì lúc đó Balan thuộc Nga), Estonie, Lituanie v.v.. ; 1/3 vùng có kỹ nghệ và 1/3 vùng có sản xuất nông nghiệp. Nhiều người cho rằng khi đưa Lénine về cướp chính quyền, Bộ Tham Mưu Quân sự Đức đã bắn một mũi tên nhằm 2 con chim.

Thực ra là 3 : 1) Không còn bận bịu về mặt trận phía đông bắc ; 2) Được nhượng đất đai ; 3) Nhưng nhiều người quên con chim thứ 3 : đó là làm yếu Đệ Nhị Quốc tế Cộng sản, tổ chức hoạt động rất mạnh ở Đức và các nước Âu châu, đe dọa những chính quyền quân chủ phong kiến lúc bấy giờ, đặc biệt là đế quốc Đức và đế quốc Áo hung, 2 đế quốc đang tham chiến, vì Đức biết rất rõ sự chia rẽ nội bộ của Đệ Nhị Quốc tế, gồm 2 phe : 1) Phe cực đoan, chủ trương bạo động cách mạng, tổ chức một đảng độc tài để chờ thời cơ cướp chính quyền. Đó là phe Lénine ; 2) Phe ôn hòa, Kautski, mà Lénine chỉ trích nặng nề, cho là ấu trĩ trong quyển sách Chủ nghĩa Tả khuynh, bệnh ấu trĩ của chủ nghĩa Cộng sản ( Le gauchisme, la maladie infentiliste du Communisme) ; ngày hôm nay người ta thấy khuynh hướng Kautski có lý và đúng hơn Lénine ; vì ông không chủ trương bạo động lịch sử, cho rằng cách mạng của Lénine là đẻ non, sẽ đi đến hoài thai, vì đi trái với nguyên tắc của xã hội chủ nghĩa là tôn trọng tự do, dân chủ. Chính bà Rosa Luxembourg, bạn của Lénine, cùng hoạt động trong đệ Nhị, nhưng theo Kautski, trước khi chết, theo dõi những hành động của Lénine từ lúc cướp đuợc chính quyền, đã viết cho ông trong nhật ký của bà vào năm 1919 : « Cái đảng và nhà nước độc tài mà Anh gây dựng lên không những nó không phục vụ cho nông dân, thợ thuyền, như Anh nói ; mà nó còn chẳng phục vụ một ai ; vì nó đi ngược lại những nguyên tắc căn bản của xã hội chủ nghĩa là tôn trọng tự do và dân chủ. »
Quyết định đưa Lénine về cướp chính quyền của đế quốc Đức là một quyết định thâm độc, cao kiến nhằm cứu chế độ phong kiến. Tuy nhiên những chế độ phong kiến như đế quốc Áo Hung, đế quốc Đức, đế quốc Thổ nhĩ kỳ, vì đi ngược lại tiến trình của văn minh nhân loại là đi tới chế độ dân chủ, cộng hòa, nên những đế quốc đó cũng bị sụp đổ. Chế độ độc tài cộng sản cũng như chế độ độc tài phát xít, theo như nhiều người, chỉ là đống tro tàn của chủ nghĩa phong kiến. Đống tro tàn này , trước khi tắt luôn, thì bùng lên ở bên phải, đó là chế độ phát xít ; bùng lên ở bên trái, đó là chế độ cộng sản. Nếu chúng ta nghiên cứu bản chất của 2 chế độ này thì quả thật chúng ta thấy đúng. Tính chất độc tài, tôn thờ cá nhân, coi lãnh đạo như « Con Trời « , tính cha truyền con nối, như sự kiện cha truyền con nối ở bên Bắc Hàn, anh truyền em nối ở Cu Ba, cũng như ở Việt Nam, nếu chúng ta quan sát những người trong Trung Ương đảng và Bộ Chính trị, thì đều là con những ông lớn cộng sản trước đây. Bởi lẽ, những chế độ độc tài phát xít quân phiệt hữu như Miến Điện ; những chế độ độc tài tả như chế độ cộng sản Bắc Hàn, Việt Nam, Cu Ba, Trung cộng ; những chế độ này sớm muộn sẽ sụp đổ cùng đống tro tàn phong kiến.
Hồ chí Minh, được Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản, cũng lợi dụng hoang tàn của Đệ Nhị thế Chiến, được gửi về cướp chính quyền ở Việt nam. (1)
Mao trạch Đông thì thẳng thắn tuyên bố, khi tiếp tướng Mountbatten, Tổng Tư lệnh quân đội Đồng Minh ở Đông Nam Á vào thế chiến thứ Hai : « Chúng tôi có được quyền là nhờ Đại Chiến thứ Hai và nhờ Chiến tranh Trung-Nhật. »

Những chế độ cộng sản ở Đông Âu là dựng lên dưới gót giầy xâm chiếm của Hồng quân Liên sô hồi cuối Thế Chiến thứ Hai.
Những chế độ cộng sản quả là loài cỏ dại mọc trên hoang tàn của chiến tranh, như Đức Dạt Lai Lạt Ma nói.

I I ) Sự ra đời của 2 anh em sinh đôi độc tài phát xít Mussolini và độc tài cộng sản Gramsci

Chủ nghĩa độc tài cộng sản và độc tài phát xít Ý cũng là loài cỏ dại mọc trên hoang tàn của Đệ Nhất Thế Chiến. Thực vậy, trước Thế Chiến, nước Ý do đảng Xã hội nắm quyền, mà Gramsci, phe cực tả, Đặc trách về Tổ chức hạ tầng ; Mussolini, phe cực hữu, Đặc trách về Tuyên truyền, nắm tờ báo của Đảng. Khi Thế Chiến bùng nổ, nước Ý cứ chần chờ không tham chiến, phe Anh Pháp đã dùng mọi lời hứa để dụ. Chính vì vậy mà Anh Pháp Ý đã ký một Hiệp ước mật ngày 26/4/1915, ở Luân Đôn, từ đó Ý tham chiến bên cạnh Anh, Pháp. Nhưng sau thế chiến, Anh Pháp đã nuốt lời hứa, ở Hội Nghị Versailles 1919, Anh Pháp 2 nước thắng trận không coi Ý ra gì cả. Dân Ý phẩn uất. Đảng Xã hội Ý bị chia làn 3 phe : cực tả của Gramsci, tách ra, bỏ Đệ Nhị, theo Đệ Tam, thành lập ra Đảng Cộng sản ; phe cực hữu của Mussolini, cũng tách ra, thành lập Đảng Phát xít Ý. Phe còn lại là đảng Xã Hội cho tới ngày hôm nay.

I I I ) Sự ra đời của độc tài phát xít Hitler với sự hỗ trợ của của chế độ cộng sản Staline.

Người ta có thể nói sự ra đời của chủ nghĩa phát xít Hitler một phần lớn là do hậu quả của Đệ Nhất Thế Chiến. Nước Đức bị thua trận, bị gánh quá nặng chi phí bồi thường chiến tranh do 2 cường quốc thắng trận Pháp và Anh, nhất là Pháp, làm cho kinh tế Đức kiệt quệ, tiếp theo đó lại là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1930, làm cho dân Đức bất mãn, tinh thần bài ngoại, nhất là bài Do Thái nổi lên. Lợi dụng tình thế, Hitler chủ trương đường lối chính trị quốc gia cực đoan, bài ngoại, nhất là bài Do Thái, khiến ông đã nắm được ưu thế trong đảng Đức Quốc Xã. Cuộc khủng hoảng kinh tế 1930 đã làm cho cả triệu công nhân thất nghiệp, cả triệu tiểu thương, nông dân sạt nghiệp, đẩy họ đi theo những đảng cực đoan tả cũng như hữu, như đảng cực đoan hữu Hitler và cực đoan tả cộng sản. Trong cuộc bầu cử quốc hội Đức 1930, đảng Hitler chiếm được 107 ghế trong quốc hội. Ngày hôm nay qua những tài liệu lịch sử, người đã rõ chính trong thành phố Berlin, Staline đã ra lệnh bỏ phiếu cho đảng Quốc xã.

IV ) Sự giống nhau của 2 chế độ độc tài cộng sản và phát xít.

Bất cứ một chế độ độc tài nào từ cổ chí kim đều dựa trên hai cột trụ chính : 1) Bộ máy thông tin, tuyên truyền bôi bác và dấu diếm sự thật, dùng những lời hứa, những viễn ảnh không tưởng để lừa dối dân ; 2) Bộ máy khủng bố, đàn áp và dọa nạt. Nhưng với độc tài cộng sản và độc tài phát xít, thì kỹ thuật tuyên truyền và khủng bố đã trở nên tinh vi, khoa học vì rút tỉa được những kinh nghiệm cũ và đã biết xử dụng khoa học hiện đại để phục vụ cho ý đồ độc tài ; như theo nhà văn Georges Orwells, trong quyển truyện « 1984 », thì kẻ độc tài đã biết dùng trực thăng nhìn qua cửa sổ của dân để biết đời tư của họ.

Về thông tin tuyên truyền thì độc tài cộng sản bắt chước độc tài phát xít Hitler . Theo Goebel, Bộ trưởng tuyên truyền của Hitler : « Một lời nói, dù không phải là sự thật ; nhưng chúng ta cứ nhắc đi nhắc lại nhiều lần : những lần đầu, thì dân còn nghi ngờ ; nhưng sau đó cả chục, cả trăm lần, thì dân hoàn toàn tin là sự thật. » Ngày hôm nay, cộng sản Việt Nam, với 700 tờ báo, với 200 đài phát thanh cùng những cái loa đặt ở mọi phố xá, góc đường, chỉ nhai nhải nhắc lại chỉ thị của đảng, cái gì đảng cho phép ; đó là bắt chước Goebel.
Về khủng bố cũng vậy, ngoài cái súng cái còng, độc tài phát xít và độc tài cộng sản còn dùng khủng bố tinh thần, tâm lý ; dùng thiểu số, một đám gian manh, du côn để dọa nạt đám đông yên phận, sợ hãi ; sau đó ngược lại, dùng đám đông như biểu tính rầm rộ, cờ xí, súng ống rợp trời để dọa nạt thiểu số. Ở điểm này, độc tài cộng sản và độc tài phát xít giống nhau.
Tuy nhiên sự thật vẫn là sự thật ; « sự thật nặng hơn quả địa cầu « , như câu châm ngôn Nga đã nói. Việt Nam chúng ta có câu : « Sự thật như cái kim, cái dùi ; dù nhỏ chăng nữa ; nhưng chúng ta cứ dấu nó trong túi, thì lâu ngày nó cũng lòi ra ; nếu không lòi ra, thì nó sẽ đâm vào người muốn dấu nó. » Chẳng hạn như cộng sản muốn dấu diếm sự kiện dâng đất, nhượng biển cho Trung Cộng ; nhưng ngày nay dân Việt đã nhìn ra. Câu chuyện anh hùng Lê văn Tám, tẩm săng vào người, bật quẹt tự đốt, rồi chạy vào phá hủy cây săng của địch, đã lật mặt kẻ phịa đặt ra câu chuyện vô lý này, vì khi tự đốt, thì làm sao có thể chạy cả trăm mét để tới cậy săng của địch ; người đặt ra sự dối trá này không ai hơn là Trần huy Liệu, phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng bộ tuyên truyền, Chủ nhiệm Ủy ban Nghiên cứu khoa học xã hội và lịch sử cộng sản Việt Nam, cảm thấy lương tâm cắn rứt, « cái kim sự thật » nó đâm vào chính ông ta về cuối đời, trước khi chết, ông ta đã tiết lộ cho người thân là « Anh hùng Lê văn Tám » là không có thật.
Về sự sợ hãi do khủng bố gây ra, thì dân dần dần hết sợ (1). Chính vì ý thức rất rõ sự khủng bố, gây ra sự sợ hãi là một trong những cột trụ chính của độc tài cộng sản, nên Đức giáo hoàng Jean Paul I I, khi thăm viếng Ba Lan năm 1978, Ngài đã kêu gọi dân Ba Lan : « Đừng sợ hãi ! Hãy hy vọng « Và Ngài không ngần ngại tuyên bố : « Nếu Hồng quân Liên Sô xâm chiếm Ba Lan, thì tôi sẽ từ bỏ chức Giáo hoàng, về làm kháng chiến, tranh đấu cùng dân Ba Lan . »
Lời tuyên bố của Đức giáo hoàng và câu châm ngôn Nga, vừa kể, đã là 2 trong những nguyên nhân chính đưa đến sự sụp đổ của độc tài cộng sản Liên Sô và Đông Âu.

Dân Việt hãy noi gương dân tộc Ba Lan, Liên sô, can đảm đứng lên đấu tranh, can đảm nói lên sự thật. Một khi sự thật được phơi bày ; một khi sự sợ hãi đổi chiều, thì bất cứ một chế độ độc tài nào cũng sụp đổ.

Paris ngày 06/03/2008

Chu chi Nam