PDA

View Full Version : “Nhà văn cần phải nói lên Sự Thật” - Nhật Tuấn



khieman
10-20-2015, 10:24 PM
.


“Nhà văn cần phải nói lên Sự Thật”
Nhật Tuấn



Còn nhớ mãi hồi năm 2003, từ trên giường bệnh, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường phát biểu với báo giới một câu nghe rất “có lý”:

“Thời đại nào cũng cần sự thật. Nhà văn càng cần phải nói lên sự thật.“.

Nhưng “trăm năm ông Phủ…Ngọc Tường ơi”, sự thật đó là sự thật nào ? Sự thật của đời sống trong dạng nguyên sơ hay sự thật ghi nhận qua đôi mắt “cán bộ” của nhà văn và được xào xáo qua “bút Trường Sơn viết mực Cửu Long” một thời vốn là văn phòng phẩm quốc doanh không thể thiếu cho bất kỳ ai muốn viết nên chữ nghĩa?

Về chuyện này, kịch tác gia Shakespeare đã phải thốt lên qua miệng một nhân vật :

” Sự thực luôn luôn giống như một con chó bị đuổi ra khỏi nhà ?” .

Bằng vào tập ký “Rất nhiều ánh lửa”, “trình diện” sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, sau đó được Giải thưởng Hội nhà văn VN, bằng vào hàng loạt những ký sự đăng trang nhất báo Văn Nghệ…thử hỏi đã có bao nhiêu “con chó” bị đuổi ra khỏi căn nhà của ông Phủ Ngọc Tường ?

Người Việt Nam ta có biệt tài “nói ngoa”, “ nói phóng “– chẳng hạn về người con gái, các cụ ta “tả” : “lỗ mũi thì…tám gánh lông”, còn “chỗ kín” thì…”rũ một cái ra cả rổ c…”. Phát huy truyền thống cha ông, các nhà văn ta cũng chẳng chịu kém “một tấc đến trời”.

Còn nhớ thời Nhân văn Giai phẩm, nhà thơ Phùng Quán viết một câu nghe rất “hình sự” :

“ Yêu cứ bảo là yêu, ghét bảo là ghét
Dù ai cầm doạ doạ giết …
Cũng không nói ghét thành yêu…”
(Lời mẹ dặn)

Thề thốt vậy, những tưởng trong "căn nhà” của Phùng Quán sẽ nuôi toàn những con chó ngao thôi, ngờ đâu “Vượt Côn đảo”,” Tuổi thơ dữ dội”….lại cũng vẫn là một thứ văn chương “phải đạo” cả.

Vậy còn các cụ “tiên chỉ” chễm chệ trên chiếu làng văn thì sao ? Đi thực tế thâm nhập cải cách ruộng đất, chẳng hiểu “ba cùng” với cán bộ hay với nông dân, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng viết “ Truyện anh Lục”, nhà văn Nguyễn Đình Thi viết “ Mẹ con đồng chí Chanh”, Nguyễn Tuân viết “Làng hoa” …. đọc lại cứ thấy như các cụ lấy “sự thật” từ… phim “ Bạch Mao nữ” , trong đó nông dân đều là các cô gái bị đàn áp, ức hiếp đến trắng cả tóc, còn địa chủ đều là tên Hoàng Chí Nhân khét tiếng độc ác chứ chẳng phải cái “sự thật” tàn khốc, nghiệt ngã của một thời cải cách ruộng đất tại các làng Vũ Đại. Ôi chao ôi, nếu hồi đó, mỗi cụ chỉ đón một “con chó nho nhỏ, xinh xinh” vào căn nhà của mình thôi , thì biết đâu, bao nhiêu người đã khỏi bị chết oan, bao nhiêu gia đình đã tránh được ly tán ?

Sang thời “xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc”, các nhà văn ta viết lách lại càng hăng hái lắm. “Xuống” nông thôn thì có Nguyễn thị Ngọc Tú với “Đất làng”, Đào Vũ với “Vụ lúa chiếm”. “Cái sân gạch”, Nguyễn Khải với “ Mùa lạc”, “Hãy đi xa hơn nữa” , Nguyễn Kiên với “Anh Keng”…vân vân và vân vân… Tiếc thay, việc “thẩm định giá trị văn học” lại rơi vào tay mấy anh phê bình gia “tát nước theo mưa” cỡ như Vương Trí Nhàn, Phan Cự Đệ, Vũ Đức Phúc….chứ không tuốt luốt những “ tác phẩm viết về “đề tài nông thôn” hồi đó cứ giao hết cho cụ…Kim Ngọc, nguyên Bí thư tỉnh uỷ Vĩnh Phú, người đi đầu trong việc xoá bỏ “bình công chấm điểm”, đề xướng “khoán sản phẩm, trả ruộng cho dân” thì các nhà văn ta sớm tỉnh ngộ ra nhiều lắm lắm.

Ở thành phố, văn học ta cũng sôi nổi chẳng kém gì . Lê Phương với “Tổ đá nhỏ ca A”,”Con chim đầu đàn”, Huy Phương với “ Khói trắng”…rồi thì vô số khác viết về than Quảng Ninh, thép Thái Nguyên, ximăng Hải Phòng…mà “sự thật” được “nói lên” trong đó chính là …”nguyên tắc quản lý xí nghiệp” với tinh thần cốt lõi của thời đại là “ Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, công đoàn động viên, thanh niên nòng cốt” thông qua các phong trào thi đua “năng suất tăng, giá thành hạ, tiết kiệm nhiều”…

Ngày nay đọc lại những “thành tựu văn học này” , ta thật sự lấy làm tiếc rằng giá như hồi đó, Hội nhà văn thay vì đưa “các cây bút trẻ” đi học “trường viết văn Nguyễn Du “thì nên cho “bổ túc” tại “Hội phổ biến kiến thức khoa học kỹ thuật” chắc chắn viết lách sẽ khá hơn nhiều.

May mắn cho các nhà văn viết về đề tài "chống Mỹ cứu nước", khỏi cần đi thực tế gặp gỡ công nhân với kỹ sư, khỏi cần biết “cờ lanh ke” là cái quỷ gì mà ở nhà máy xi măng người ta cần đến thế hoặc giả “phốt phát” là cái chi chi mà lại lấy đặt tên cho Nhà máy Lâm Thao ?

Cứ ngồi ở phố Đấu Xảo, rung đùi uống rượu tây , cụ Nguyễn Tuân cũng viết được “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi”, cứ “con một bên, vợ một bên” ở bãi Phúc Xá như Nguyễn Khải cũng viết được “ Họ sống và chiến đấu ở Cồn Cỏ”, “Đường trong mây”, cứ hết hội lại đến họp ở “đất thánh” Hà Nội, Nguyễn Đình Thi cũng viết được “Mặt trận trên cao”…mà “sự thật” chẳng ở đâu xa, cứ sáng sáng vừa uống trà tàu vừa tìm trên … báo “Nhân Dân” là…thấy khối “sự thật”.

Bởi thế nhìn lại một giai đoạn cầm bút, nhà văn Nguyễn Khải đã có lần vỗ bụng thở dài : ”Tung toé mẹ nó hết rồi…”. Ôi thôi, giá như mấy anh thợ thổi bên Viện Văn Học, báo Văn Nghệ như Vương Trí Nhàn, Ngô Thảo…nghe được câu than này thì “cảm hứng phê bình” chắc sẽ bớt đi nhiều lắm.

Hành trình đi tìm “sự thật’ và “nói lên sự thật” của các nhà văn “vượt Trường Sơn đi cứu nước” quả có gian nan, vất vả hơn nhiều lắm. Ngoại trừ một vài anh như ông nguyên Bí thư chi bộ báo Văn Nghệ Xuân Vũ, mới qua một trận “trèo rừng, lội suối” đã la lối “Xương trắng Trường Sơn”, bỏ của chạy lấy người, còn đa số các nhà văn đều “đường đi đã đến”.

Nguyên Ngọc, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Lê Khâm (Nguyễn Thi)…người thì tạt ngang sang Khu 5 Trung bộ, người vào trung ương cục ở Nam bộ… và hầu hết đều toả đi sống và sáng tác tại các “an toàn khu”, ngày ngày học chính trị, trồng rau, nuôi gà và chờ đón … “tin chiến thắng” ở khắp các chiến trường bay về để…múa bút.

May mắn nhất là ông Anh Đức, chỉ dự Đại hội mừng công ở mãi trên rú, cách “Hòn Đất” cả trăm cây số, qua vài buổi hỏi han về gương hy sinh của chị Lê thị Ràng, đã bắt tay vào viết ngay được cuốn tiểu thuyết “Hòn Đất” lẫy lừng cả nước. Mặc dù sau này khi hoà bình, vào tận nơi để nhìn “sự thật”, ông nhà văn té ngửa khi thấy cái hang Hòn mà ông cho cả tiểu đội du kích vào “trốn Mỹ” ở trong đó chỉ to ngang cái …hốc đá, con suối Lươn thơ mộng chẳng qua cũng chỉ là cái lạch nước, ông vẫn cứ tự hào về đứa con tinh thần của mình đã nói lên được “sự thật “ ở chiến trường. Cái “sự thật “ đó là “người đằng nguỵ” như Thiếu tá Sành thì ác thiệt ác, “người đằng mình” như chị Sứ thì anh hùng thiệt là anh hùng. Cái căn bệnh “giản lược hoá” con người và cái sứ mạng “phục vụ chính trị” đã làm nhà văn ta đuổi cổ biết cao “con chó của sự thật” ra khỏi tác phẩm của mình.

Rồi thì “ Người mẹ cầm súng “ của Nguyễn Thi, “Quán rượu người câm” của Nguyễn Quang Sáng, vài chương mở đầu “Ở xã Trung Nghĩa” của Nguyễn Thi …Rồi thì Lê Anh Xuân, Phan Tứ, Nguyễn văn Bổng, Hoài Vũ, Hoàng văn Bổn…Có ông bà nào dám “buông một tiếng thở dài” trước thảm cảnh máu chảy, đầu rơi , xương chất đống ? Không, không có một ai cả. Vậy thì làm sao mở được đôi cánh cửa tâm hồn mà “đón nhận” và “nói lên” sự thật ở chiến trường ?

Nói như ông Lênin “cách mạng là ngày hội của quần chúng”, chiến tranh chống Mỹ là cách mạng, là ngày hội, vậy cớ sao buồn ? Bởi thế cái ‘cảm hứng chủ đạo” xuyên suốt các trang viết là “ Ôi Tổ quốc có bao giờ đẹp thế này chăng ?” (Xuân Sách), “Đánh Mỹ là niềm vui bất tận” (Chế Lan Viên) “ Mùa xuân này ta hát khắp Trường Sơn”….đã đẩy xa “sự thật” ra khỏi các trang viết chẳng khác nào những con chó bị đánh đuổi ra khỏi nhà.


***


Hội nhà văn Việt Nam thường nhắc nhở các nhà văn cố gắng có tác phẩm xứng đáng với tầm vóc của cuộc chiến tranh “chống Mỹ cứu nước”. Than ôi, cuộc chiến đã rơi vào lịch sử cả 30 năm nay, trung bình cứ tính đổ đồng mỗi năm Nhà nước chi cho các nhà văn khoảng 30 tỷ đồng, chưa kể nuôi một bộ máy “quản lý công tác văn học” trên trăm người thì phải nói “tiền đặt cọc” móc từ túi dân khá là lớn. Tốn kém vậy mà tới nay vẫn chưa thấy xuất hiện tác phẩm văn học nào “xứng đáng với tầm vóc” của sự nghiệp “chiến tranh cách mạng vĩ đại “, mỗi khi hội họp “bàn về sáng tác “ các nhà văn vẫn vò đầu bứt tai :” chúng ta còn nợ lịch sử…”. Món nợ này xem ra khó đòi làm Bộ tài chính phải đặt vấn đề:

”Tại sao các nhà văn được Đảng và Nhà nước đầu tư bạc tỷ , khuyến khích ưu ái hết mức mà cả mấy chục năm nay vẫn cứ “mang thai” chưa thấy ông nhà văn nào “ sinh hạ “ được “quí tử” ?”

Nói cho ngay, cả một đội ngũ đông đảo các nhà văn viết về đề tài “chiến tranh chống Mỹ” cũng chịu khó “rặn đẻ” lắm chớ , mỗi tội con đàn con đống mà chẳng đứa nào vượt khỏi những “Dấu chân người lính “ của Nguyễn Minh Châu, “Hòn đất” của Anh Đức, “Người mẹ cầm súng” của Nguyễn Thi…dẫu rằng những tác phẩm này cũng chỉ là “những giá trị ảo”, nhất thời được dùng đến và sẽ phôi pha theo thời gian.

Gần 40 năm nhìn lại, “ tắc đẻ” đang trở thành vấn nạn của của các nhà văn chuyên viết về đề tài chiến tranh. Vì sao vậy ? Phải chăng sự bề bộn của nền kinh tế thị trường đã làm phân tâm các nhà văn? Nào lo “chạy ghế, chạy nhà, chạy đất”, “chạy tiền đầu tư sáng tác, chạy đi nước ngoài “, ”chạy tiền cho con du học…” … Nào lo “giao lưu” với các quý vị “ngày xưa là kẻ thù , ngày nay là chiến hữu” trong William Joiner Center để may được một xuất đi Mỹ, dịch sách…? Phải chăng “vốn sống ở chiến trường” để quá lâu trong ký ức lâu ngày cũng phai mờ ?

Thế nhưng trong các cuộc toạ đàm “viết về đề tài chiến tranh”, các nhà văn lại thường đòi hỏi “cần có độ lùi” (recul) để ngắm nghía “bức tranh của cuộc chiến” cho toàn diện. Than ôi, cái “recul” nàykhông biết còn kéo dài cả mấy kilômét “thập kỷ” nữa đây ?

Thực ra nguyên nhân của sự “tắc đẻ” chẳng ở đâu xa mà ngay trong đầu mấy ông nhà văn. Ngay từ thủa ban đầu cầm bút, các đồng chí đó (90%là đảng viên cộng sản) đã “quán triệt” câu hỏi của bác Hồ :

"Viết để làm gì? Viết cho ai? Viết thế nào?" .

Tất nhiên câu trả lời bây giờ sẽ là:

”Viết để được "trên khen”,báo chí “tung hô”. Viết cho mấy ông đọc duyệt. Viết thế nào cho khỏi …”mất điểm” thi đua…”.

Khổ nỗi 40 năm qua, rất nhiều “sự thật ở chiến trường” đã được phơi bày trước mắt các nhà văn qua tiếp xúc với chính đồng bào miền Nam, qua sách báo trước 1975. Hoá ra “người đằng nguỵ” chẳng phải ai cũng “ác thiệt ác” như thiếu tá Sành của ông Anh Đức,“ người đằng mình” không phải ai cũng “anh hùng thiệt anh hùng” như “Bà mẹ cầm súng “ của Nguyễn Thi. Hoá ra“sự thật ở chiến trường” phức tạp, phong phú, đa đoan hơn các nhà văn vẫn tưởng nhiều lắm. Lại thêm cái “cảm hứng chủ đạo” “đánh Mỹ là niềm vui bất tận“ đã không còn nữa, nó đã được thay thế bởi nỗi buồn thời thế, “cái đẹp, cái cao cả của lý tưởng đã bị dìm chết trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”.

Các nhà văn muốn viết về đề tài chiến tranh sẽ xoay xở sao đây khi phải phân đôi con người “nghĩ một đằng, viết một nẻo” ? Cái công việc đầy trái khoáy đó làm sao tránh khỏi gây “tắc đẻ” ? Tất nhiên cũng có người dám viết tới cả một “trung đoàn trưởng chiêu hồi” như Nguyễn Trọng Oánh trong “Đất trắng”, hoặc những cảnh “bộ đội cũng giết chóc tàn ác” như một vài đoạntrong “Nỗi buồn chiến tranh “của Bảo Ninh, “ Đi tìm nhân vật” củaTạ Duy Anh, nhưng vẫn chỉ là những chấm phá chứ chưa hẳn là “những sự thật cốt lõi” của cuộc chiến. Ngoài sự trật đường rầy hiếm hoi đó ra, hàng núi truyện ngắn, tiểu thuyết viết về “đề tài chiến tranh” vẫn chỉ là nối dài con đường mòn “ mùa xuân này ta hát khắpTrường Sơn” của các bậc đàn anh đi trước.

Tất nhiên các nhà văn rường cột của Nhà nước không bao giờ thừa nhận có chuyện “tắc đẻ”. Nhiều năm trước, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã trấn an báo chí rằng :

”Văn học ta không hề bế tắc . Chúng ta chẳngviệc gì phải bi quan. Chng ta từng được mùa với tiểu thuyết của Nguyễn Khắc Trường, Bảo Ninh và truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Hiện nay, chúng ta vẫn có những cuốn sách hay, như truyện ngắn Ma Văn Kháng, tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Xuân Khánh, gần đây nhất là cuốn Giàn thiêu của Võ Thị Hảo…. Đó là những dấu hiệu tốt lành để chúng ta hy vọng. Văn học ta không hề bế tắc như một số người lầm tưởng.“.

Trong những dẫn chứng của nhà thơ, chỉ thấy có “Nỗi buồn chiếntranh” của Bảo Ninh, dăm bảy truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp phần nào gói ghém được sự thực còn tươi của đời sống, nhưng đó là chuyện của cả chục năm trước, còn bây giờ cả hai quý vị xem ra cũng khó rặn được đứa con nào khôi ngô tuấn tú như đứa đầu lòng.

Các nhà văn viết về đề tài chiến tranh đã vậy, thế còn các ông “dân sự” trong gần 700 hội viên Hội nhà văn trong mấy thập kỷ qua đã “nói lên sự thật “ như thế nào?

Trong vài năm ngắn ngủi Đảng “xả xú páp”, cởi trói cho văn nghệ, các ông bà nhà văn đẻ toé loe không khác gì các quý bà, quý cô mấy năm trước tranh nhau đẻ để sinh quý tử tuổi Quý Mùi, tuy nhiên “ còn lại với thời gian” cũng chỉ đếm được trên đầu các ngón tay: Một số truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, “ Đi về nơi hoang dã” của Nhật Tuấn, “ Hồn Trương Ba da hàng thịt” (kịch) của Lưu Quang Vũ, “Thiên sứ” của Phạm Thị Hoài ( Hội viên chưa… kết nạp), “Thiên đường mù” của Dương Thu Hương ( Hội viên đã … khai trừ) và sang thời “ hậu cởi trói “ có thể kể thêm “ Nỗi buồn chiến tranh" của Bảo Ninh, Chuyện kể năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn, “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường, “Những mảnh đời đen trắng” của Nguyễn Quang Lập, “ Bến không chồng” của Dương Hướng, “Thời xa vắng “ của Lê Lựu. Những tác phẩm này phần nào đáp ứng được một cách văn chương yêu cầu của ông nhà văn Phủ Ngọc Tường: ”Nhà văn cần phải nói lên sự thật…”.

Thế còn hằng hà sa số các tác phẩm khác từng được báo chí làm rùm beng, từng được các thứ giải thưởng văn học của Nhà nước thì sao ? Nào “ Gặp gỡ cuối năm”,” Cõi nhân gian bé tí”, “ Thượng đế thì cười” của Nguyễn Khải (thật ra “độc giả thì cười” thì đúng hơn, vì cuốn này bầy tỏ lòng trung thành của tác giả với cách mạng, phân bua với văn hữu, nhưng chẳng may lại véo vào chỗ nhạy cảm nhất là “quốc hội” nên mới ăn đòn), nào “Cơ hội của chúa” của Nguyễn Việt Hà, nào “Những đứa trẻ không chịu chết già” của Nguyễn Bình Phương, nào “Đêm thánh nhân” của NguyễnĐình Chính, “ Ngược dòng lũ” của Ma văn Kháng, tiểu thuyết lịch sử củaNguyễn Xuân Khánh, Hoàng Quốc Hải vân vân và vân vân ? Xin hãy “wait and see”, xin hãy chờ ISO 9000 của lịch sử kiểm định và cấp chứng chỉ.

Tuy nhiên chẳng phải ông nhà văn nào cũng muốn “bảng vàng bia đá”, “ ISO của lịch sử”, vẫn cónhiều người cho rằng “chuối chín cây là ngon nhất”, sách ra cứ bán ào ào là được. Đại biểu xứng đáng nhất cho thứ “ văn học cóc cần hậu thế” này là nhà văn nổi tiếng một thời với cuốn sách gây chấn động “ Cù lao tràm” và vẫn đang rất nổi tiếng với hàng loạt các kịch bản phim truyền hình nhiều tập .




***


Để hiểu được “công nghệ sáng tác” của các nhà văn chính thống, những người mà thời mồ ma trang nhà Talawas, ông Nguyễn Hữu Liêm đã xếp vào loại “văn chương tào lao”, ta chỉ cần đọc vài tác phẩm của Nguyễn Mạnh Tuấn, cho dù ông đã xin ra khỏi Hội nhà văn Việt Nam. “Cù lao Tràm” viết về sự rối ren trong phong trào hợp tác hoá nông thôn Nam bộ, “Đứng trước biển” mô tả sự lộn xộn của một nhà máy cuối thời bao cấp – tuy nhiên, dù có “rối ren”, lộn xộn” mấy chăng nữa, vẫn cứ phải có một chị Năm Trà, cơm nắm cơm đùm ra miền Bắc để …học kinh nghiệm làm hợp tác hoá, vẫn có một ông Giám đốc đứng vững trước mọi cám dỗ để cứu nhà máy…

Hầu hết các tác phẩm văn học chính thống đều phải theo một quy tắc chung : muốn viết gì viết, viết đến cả “Giám đốc công an hiếp dâm, giết người “ (Nhân danh công lý), “ nông dân biểu tình” ( Đất làng), xí nghiệp sắp sập tiệm ( Tôi và chúng ta)…nhưng dứt khoát phải có một nhân vật là “người của Đảng” đứng ra dẹp loạn, duy trì trật tự "xã hội xã hội chủ nghĩa". Cái “tính công dân” trong "tác phẩm văn học" đó, hoặc hoá thân vào nhân vật, hoặc nhà văn đứng ra thủ vai, là bắt buộc, là “chuẩn tắc”, đã hằn sâu trong tâm não nhà phê bình và ngay cả độc giả, đến mức tác phẩm nào không có cái đó thì lập tức, nếu không bị coi là bốc mùi “tà khí”, thì cũng bị loại ra khỏi “tầm ngắm”.

Không một anh nhà văn nào dám đi đến cùng một sự kiện để làm bật ra cái sự thật lớn lao của đời sống là đã đến lúc một lần nữa…bác Hồ phải ra đi tìm đường cứu nước. Bởi thế yêu cầu của ông Phủ Ngọc Tường “nhà văn phải nói lên sự thật” là chuyện tào lao trong xã hội này.

“Một nửa cái bánh mì vẫn là bánh mì” nhưng sự thật dù đã được mô tả tới 90 phần trăm thì cũng vẫn chưa phải là sự thật. Trong cái kho tàng văn học xếp chất ngất của Hội nhà văn VN, thử coi đã có cuốn sách nào “nói lên sự thật” như ông Tường yêu cầu ?

Hàng loạt những cây bút nổi danh một thời “chống Mỹ” – Nguyễn Minh Châu, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Khải, Ma văn Kháng, Lê Lựu, Chu Lai, Nguyễn Mạnh Tuấn, Trần văn Tuấn….có ông nào dám tự hào rằng ta đã đưa ra “ một cái bánh mì của sự thật” chăng ?

Không, không có ai cả. Và sự thật vẫn luôn luôn là con chó bị đuổi ra khỏi nhà. Cái mà các quý vị vẫn “nói lên” trong tác phẩm chỉ là sự thật đã được nhào nặn để đảm bảo cho một trật tự xã hội : xã hội xã hội chủ nghĩa. Ngay cả cuốn truyện vừa “ Cha và con và…” ưng ý nhất của Nguyễn Khải thì nhà phê bình Vương Trí Nhàn cũng dán ngay cho một cái nhãn là “triết luận về chủ nghĩa xã hội” tất nhiên là theo chiều hướng khẳng định nó. Nếu ngày xưa, văn học chính thống đòi hỏi “tính Đảng, tính giai cấp, tính nhân dân” thì bây giờ tuy không nói rõ ra, nhưng cả ba tính đó đã hoà nhập vào một cái duy nhất : “tính công dân xã hội chủ nghĩa”.

Tất nhiên, yêu cầu đó không được đưa ra một cách thô thiển và trắng trợn như ngày xưa, nhưng những chuẩn tắc của nó đã được “quán triệt” từ khi người viết còn ngồi lớp mẫu giáo, phổ thông…cho tới khi cầm bút viết tác phẩm đầu tay. Tiếc thay, các nhà phê bình cũng vậy và cả bạn đọc cũng thế.

Văn học Sàigòn sau 1975 là một ví dụ tiêu biểu cho sự “kính nhi viễn chi” sự thật của các cây bút trẻ mà tới ngày 30 tháng 4 mới đứng vào hàng ngũ cách mạng. Vốn không phải “con đẻ” như mấy anh Bắc kỳ mới dzô, lại “khiếp vía” những giai thoại về những :”áng văn bị trừng trị” trước đó ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, nên “mấy em” chọn ngay một vị thế cho mình : tránh xa chuyện “thời thế” , cứ khoanh ngòi bút vào chuyện “phòng the”, chuyện gia đình là…chắc ăn.

Vậy là đã ra đời một dòng “văn chương xirô’ với những tên tuổi được Hội nhà văn TP Hồ Chí Minh “lăng xê “ hết mức “ : Mường Mán, Đoàn Thạch Biền, Lý Lan, Nguyễn thị Minh Ngọc, Lê thị Kim…một thời được coi như những “con gà” của thành uỷ TP Hồ Chí Minh. Trong khi đó mấy anh Bắc kỳ dẫu đã có hộ khẩu thành phố cả 30 năm nay vẫn bị coi là “ngụ cư” nên dầu có viết “thực” mấy chăng nữa, vẫn không được coi là gương mặt tiêu biểu của văn chương “Sàigòn giải phóng”. Các “em út” đã nhát sợ như vậy lại thêm các bậc “cha chú” cứ khăng khăng giữ lại các quan niệm văn chương thời bao cấp, trách gì có năm , dù muốn lắm, Uỷ ban nhân dân thành phố cũng không trao được giải thưởng cho anh nhà văn nào mà giành hết cho mấy anh…anh cải lương.

Vậy sang thời “kinh tế thị trường” các cây bút vẫn tự nhận là “thế hệ thứ tư” liệu có làm được cái việc “nói lên sự thật” như ông Phủ Ngọc Tường yêu cầu chăng ? Trả lời câu hỏi này, ta cần đi ngược thời gian về với thời các quý vị Nhân văn giai phẩm khi còn đang bị “xử lý nội bộ”.

Ngày lĩnh giải Nobel, Andre Gide có nói một câu đại ý rằng :” Trong một thời đại càng bị kìm kẹp, hiệu năng của đầu óc con người càng đạt tới mức cao nhất…”. Than ôi, ở nước ta thì ngược lại. Ở vào thời đại nhà văn bị bủa vây tương tự như Liên xô, ta không có được những tác phẩm tràn đầy sự thật của đời sống như của Pasternack, Solgiênhítxưn…cũng không có được một dòng văn học “phản kháng samizđát” (tự xuất bản).

Sợ đòn vọt, sợ cắt tem phiếu, sợ mất hộ khẩu, sợ đi chăn bò ở Mộc Châu, sợ đi đội than ở Cẩm Phả… phần lớn những nhà văn Nhân văn Giai phẩm còn cầm bút sau đó đều tự dâng tác phẩm lên “anh Năm “ đọc, tức “kính chuyển đồng chí Trường Chinh” để bày tỏ sự “an phận”, không chống đối. Khi “ cánh cửa mở vào sự thật của đời sống” đã đóng lại rồi, thì các nhà văn, nhà thơ “phát huy truyền thống của nhóm “Xuân thu nhã tập “ ( Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm), tìm tới “cuộc chơi với chữ” cho…an toàn. Những chủ soái của phong trào Nhân văn Giai phẩm như Trần Dần, Đặng Đình Hưng, Hoàng Cầm, Lê Đạt… đều đắm mình trong trò chơi lý thú này, cố tạo cho mình một gương mặt mới bằng bẻ cong , lật ngửa, xáo trộn “những con chữ” , gây hình thái mới lạ, kích thích trí tò mò của người đọc và mỗi nhà thơ đều chui vào “phòng thử nghiệm những con chữ “ của riêng mình.

Nào :
“Sáng bảnh-bành-banh
mày vẫn ngủ-ngù-ngu.”
hoặc :
“em dài man dại
em dài quên che đậy
em dài tê tái
em dài quên cân đối
em dài bối rối”
hoặc :
“ Poème – roman à accompagnement
jờ
joạcx “

của chủ soái Trần Dần, rồi thì “Ô mai” của Đặng Đình Hưng, “U gì “ của Hoàng Cầm…mở đầu cho dòng thơ “chơi với chữ”, (thơ ngó lời) khai sinh ra những Lê Huy Quang ( Em dài mua mùa may…Em dài hai bàn tay…Em dài đi vô lối), Dương Tường ( tôi thường jặt tôi như người đàn bà jặt trăng…zòm zèm cửa sổ…) và sau này là Hoàng Hưng “vụt hiện” (Háp háp háp…con gà quay, con gà quay…). Ơ đây ta chưa bàn tới “cơ sở lý luận” về thể loại thơ “chơi với chữ”, cái đó xin giành cho các quý vị trên diễn đàn Talawas, đemthu, tiền vệ, Hợp Lưu, tạp chí Thơ….ta cũng khỏi nhắc tới chuyện “ký hợp đồng với những con chữ” của nhà văn Phạm Thị Hoài… Thôi thì hàng thịt bán thịt, hàng cá bán cá, ở đây ta chỉ khoanh lại cái yêu cầu “ nói lên sự thật” của nhà văn Phủ Ngọc Tường .

Từ thủa khai sinh lập địa, Chúa đã dậy rằng :” Khởi thuỷ là lời”, và rồi cả ngàn năm sau đó , kịch tác gia William Shakepeare lại thêm rằng: “Lời mà không có tư tưởng thì bay sao được lên thiên đàng”. Đảng ta thì lại nói :” muốn bay đâu thì bay, lên thiên đàng hay xuống địa ngục mặc kệ chúng mày, miễn là “lời” đừng có tư tưởng”. Ở đây, chính là tư tưởng “phản kháng”, “xét lại” hoặc “ chống Đảng”. Vậy thì các nhà thơ “ngoài lời” cứ thoải mái mà “ chơi với chữ”, “thử nghiệm chữ ”, “bẻ cong, xáo trộn chữ”,cứ mạnh dạn ký hợp đồng với “con chữ” đi nhé, cứ “ ngó lời”, cứ “vụt hiện”…miễn sao không có “tư tưởng” hoặc nếu có thì cất kỹ dưới đáy các “con chữ” để các anh Mít nhà ta có trợn mắt lên cũng không nhận ra là OK rồi.

(còn tiếp)

khieman
10-20-2015, 10:26 PM
(tiếp theo)
“Tôi khóc những người bay không có chân trời
Lại khóc những chân trời không có người bay”
(Trần Dần)

Hai câu thơ bóng gió quá xa xôi như sao hôm sao mai về “những người mơ mộng không được phép mộng mơ” và “một xã hội đã chết hết cả những người mơ mộng ” của thi sĩ họ Trần đâu đã “thần Siêu thánh Quát” gì cho lắm mà rất nhiều “trang nhà văn học” trích dẫn và kéo lên tít tận chín tầng mây xanh .

Không phải vô cớ mà một dạo thơ văn Trần Dần được khá nhiều các web site đồng loạt bốc thơm như là một “hiện tượng bí ẩn “, “chủ soái viết tự động”,“con hùm, con hổ” trong thi ca Việt Nam.

Vì sao vậy ?

Tài năng nghệ thuật và tinh thần phản kháng của nhà thơ ?

Không hẳn vậy, chính vì “công nghệ” của thơ ông rất phù hợp với “tạng” thơ lớp trẻ bây giờ. Né xa “chính trị” và “ thoải mái ngôn từ” – theo đúng tinh thần “ muốn làm gì thì làm, miễn đừng động tới “ghế” của mấy ổng” – “công nghệ Trần Dần” đã giúp các nhà thơ trong nước rất dễ nổi tiếng mà thơ vẫn in dài dài, một số cây bút hải ngoại tha hồ đăng đàn khoát luận mà khỏi lo Nhà nước đóng trang web, và vẫn còn có cửa xin … visa về Việt Nam tiếp xúc văn nghệ sĩ, vui chơi , ăn uống “giá bèo”.

Ngày nay được hỗ trợ bởi “internet” và xả cảng “đùi vú”; “công nghệ Trần Dần” càng mở cho các cây bút thuộc “thế hệ thứ tư” một chân trời văn học rộng thênh thênh. Nếu như ngày xưa, truyện có hơi hướng phản kháng như “Hòn đá lang thang” của Lê Bầu, “ Hoang tưởng trắng” của Xuân Khánh… thơ của vài “nhà thơ chân đất” như Lê Huy Quang, Hoàng Hưng, Phan Đan…chỉ dấm dúi truyền tay nhau đọc trong bạn bè thân thiết, thì bây giờ các tác phẩm gọi là “phi chính thống” của các cây bút vẫn còn trong nước như Phan Đan, Nguyễn Quốc Chánh, Bùi Hoàng Vỵ, Trần thị Ngh., Nguyễn Thuỵ Long ….thả sức mà xuất hiện trên mạng internet hoặc in thành sách ở hải ngoại mà vẫn sống “phủ phê” khỏi lo bắt bớ. Các nhà thơ thuộc thế hệ thứ tư còn “sướng “ hơn nữa, vừa được in thả dàn trong nước, vừa được “tái bản” tức thời trên mạng với những lời “bốc thơm” mà ngay đến các đồng chí Tố Hữu, Sóng Hồng … lúc sinh thời cũng chẳng có được.

Vậy thì diện mạo thế hệ “ A còng (@)“ trong văn chương có gì mới ?

Nếu ngày xưa cha anh viết xong tác phẩm chỉ âm thầm cất ngăn kéo hoặc gửi “lai cảo” tới báo Văn Nghệ thì bây giờ các “A còng” dứt khoát không chịu nằm chờ “mở số” vậy nữa. Người mở đầu “công nghệ lobby văn chương” phải ghi cho nữ sĩ Phạm thị Hoài. Những năm mới đặt chân vào chợ chữ, nàng đã phải đôn đáo “đặt quan hệ” với khá nhiều sếp , đặc biệt là đồng chí Tống Văn Công – nguyên Tổng biên tập báo Lao Động để “ưu tiên đăng bài em Hoài" và bài “viết về em Hoài””. Các nhà văn thơ trẻ bây giờ còn tiến xa hơn các bậc đàn chị. Ngoài lobby với các “hành lang” trong nước và ngoài nước, các “A còng“ còn gây sự (vụ nhà thơ Vi Thuỳ Linh dai dẳng kiện nhạc sĩ Ngọc Đức đòi bản quyền thơ trong CD “Nhật thực” là một ví dụ tiêu biểu) , tạo scandale, đăng đàn , diễn thuyết, tranh thủ các báo cần ăn khách đưa tin và phỏng vấn… tới mức nhà thơ trẻ Nguyễn Hữu Hồng Minh cũng phải kêu lên với “Thi sĩ cùng thời” :

“Tự phong mình là kẻ trứ danh
Thêu dệt những giai thoại nhiều hơn chăm chút vào tác phẩm”

và trên hết là “tự hoạ chân dung” mọi lúc, mọi nơi . Ta hãy nghe một “ A còng” ”mác-két-tinh” mình :

“ Tôi rất thích tên Linh của mình, nó thật nhiều ý nghĩa. Thuỳ Linh tức là cánh tay thiêng. Mỗi câu thơ của tôi bay lên như sợi tầm gai, như cánh chim khắc khoải…Tôi thấy mình rất ấn tượng, vì là một người đàn bà trẻ, đầy thanh xuân và đích thực nồng nàn…Có người ví tôi như Hồ Xuân Hương, như Vệ Tuệ, cô gái Thượng Hải, hiện tượng văn học của Trung Quốc đương đại vì sự bạo liệt và nổi loạn. Và Linh đã phóng những con chữ thoát khỏi vỏ bọc vào thế giới thi ca vô tận bằng sự mất cân bằng tột cùng, với tốc độ choáng váng...".

Tự “đánh bóng” đến vậy thì các bậc đàn chị Xuân Quỳnh, Ý Nhi, Thảo Phương…đành chào thua. “Nhà thơ hiện tượng” Phan Huyền Thư còn cẩn tắc hơn, trước khi “tự bốc thơm” phải “tự bảo kê” với nhà cầm quyền cái đã. Bởi thế, thơ em thì quẩn quanh thân xác, nhưng phát ngôn lại nhảy bổ vào chính trị :

Nào :

”Thế hệ viết trẻ chúng tôi thật tự hào thật may mắn vì chúng tôi đã là công dân của một đất nước tự do”…

Nào :

“Tôi luôn hình dung ra nền văn chương của mỗi quốc gia như một con diều có ba đuôi. Cái đuôi dài nhất, đẹp nhất ở chính giữa giúp cho con diều bay lên được là văn chương chính thống. Bên cạnh đó, hai cái đuôi nhỏ hơn, ngắn hơn nhưng lại giữ vị trí cân bằng cho con diều là thứ văn chương lưu vong của những người xa tổ quốc ( hì hì…). Cái đuôi còn lại là loại văn chương đi tù.(Có thể gộp chung cả văn chương mang tính chất chống đối). Chúng tôi đương nhiên là muốn đứng trong hàng ngũ của cái đuôi chính thống, nhưng biết làm gì nếu cứ mãi không được tiếp nhận vào nền văn học chính thống của đất nước bằng cái biển đợi: "Có triển vọng" “.

Hi hi, yên tâm em nhé, thế nào cũng tới một ngày đẹp trời, Hội nhà văn Việt Nam sẽ đưa xe taxi tới rước em vào Hội và có khi còn trao tặng cả giải thưởng nữa ấy chớ. Nhưng làm gì thì làm cần nhớ phải bớt bớt chê bai cha chú đi, bởi lẽ họ còn ngồi đầy cả Ban chấp hành đó :

"Nếu những người trẻ tuổi làm thơ hôm nay có thất bại, vẫn còn đáng trân trọng hơn nhiều so với cái việc tiếp nối một dòng thơ của thế hệ đàn anh, cho dù là thành công".

Hoặc mỉa mai :

“ Chúng tôi hiểu về họ (các cụ nhà văn) cũng rất tỉ mỉ và cam đoan là không ai dám hiểu sai những gì họ viết; ít nhất chúng tôi cũng phân biệt được mỗi người trong số họ khác nhau thế nào, và tại sao lại có giọng điệu riêng như thế... Điều này vô cùng quan trọng bởi vì chúng tôi không được phép giống họ, không được phép làm những gì họ đã làm. Thực tế cho thấy thất bại ê chề của một số những cây bút lao vào viết a dua theo các cụ, các chú đều chết yểu, không mấy ai nhớ đến.”

Vi Thuỳ Linh khôn khéo hơn, trấn an mấy bác tuyên huấn bằng lời tuyên bố :

“ Tôi tôn vinh thân thể và những gì thuộc về con người đẹp đẽ như một kẻ si tình và duy mỹ chung thân. “

Vậy là Đảng yên tâm nhé, các em là “chung thân duy mỹ”, dứt khoát là không có xía dzô việc Nhà nước, mới hay “công nghệ Trần Dần” đã được thế hệ “A còng” tiếp thụ và nối dài một cách xuất sắc. Tuyên ngôn thì vậy, còn thơ thẩn ra sao ? Không dám chơi bạo kiểu :

"Đêm Hà Nội phủ váy chùng
Anh con cu ngỏng ấm cùng đít em.“

như đàn anh Đỗ Khiêm , không dám “sờ Linda”, “buồn thiu dương vật”, coi “l…voi” … như đàn chị Phạm thị Hoài ở hải ngoại, nhưng mấy em “ A còng” nội địa cũng không chịu thua “Tung hứng chiếc lưỡi …Véo von một giọng “ ( Nguyễn Hữu Hồng Minh- Gửi Phan Huyền Thư) :

“ đôi bầu vú thông minh
không cứu nổi cặp đùi dài ngu ngốc
chảy vào nhau
tình chảy vào sâu tràn trề lênh láng”
( Phan Huyền Thư)

Hoặc sau khi “bập bẹ” theo “công nghệ Trần Dần” :

“ vũ- trụ- sơ- sinh, có- phải- tôi- đấy- không, để- biết- mình- đang- sống, triệt- tiêu- nỗi- khổ “.

thấy chưa “phê”, nhà thơ Vi Thuỳ Linh còn mở toang cửa phòng the để cho bàn dân thiên hạ thấy nàng :

"Khoả thân trong chăn
Thèm chồng...
"Cứ để chăn trễ nải
Biết đâu
Một tối trở về
Chồng nằm trong đó".

Cầu được ước thấy, có chồng nằm ngay đó bằng da bằng thịt để nàng được:

"Cái lưỡi mềm của anh nơi gan bàn chân em
Làm thế giới hoá lỏng”

Và rồi cuống quýt :

"Em vén áo lên để cho anh tràn tinh khôi và mãnh liệt"

Thơ “phóng tinh” thế cũng được chứ sao, chỉ ái ngại một điều “chàng” có đủ nội lực cho mấy em hình dung vậy được chăng, khi vẫn ca cẩm “thế gian này không có đàn ông “ ? Hay chàng lại giống như thơ của mấy em, chỉ nhểu ra thành sình lầy chứ chưa trào vọt thành dòng, thành suối thơ lai láng ?

Thôi cũng được đi, “làm gì thì làm miễn sao đừng đụng tới “ghế” của mấy ổng” là OK rồi. Bởi thế mấy anh thợ “thổi” vốn thất bại trong sáng tác, quay sang viết vặt, “ăn theo” kiếm sống đã “nống” các “A còng” lên thành “sao”.
Nhà thơ , nhà nhạc Nguyễn Trọng Tạo coi “"hiện tượng" Vi Thuỳ Linh, nữ tác giả tập "Linh" vừa ra mắt gây xôn xao làng thơ VN là tín hiệu mạnh mẽ của sự khẳng định. Sự đóng góp đó không chỉ trong văn học nghệ thuật mà còn tác động đến chính sự phát triển xã hội mà họ đang sống".

Còn nhà văn, nhà nghiên cứu Nguyễn Thuỵ Kha thì phát hiện :

"Thơ Linh giàu tính giao hưởng"(!).

để rồi lại “xui trẻ ăn cứt gà” :

"Linh cứ tiếp tục đanh đá, tiếp tục lắm lời. Đừng sợ, đừng ngán gì hết trọi. Độc mã...Cứ xổ hết ra đi!"

Oi giời ôi, quả này chẳng biết mấy em phải “bo” cho hai chàng “ thợ thổi” cái gì đây cho xứng với công của chàng ?

Các nhà “tạo mẫu” ở Paris , các fan và các tờ báo “câu khách” trong nước đã thắng “quả đậm” đưa được “người mẫu” Vi Thuỳ Linh tới Pháp dự Liên hoan thơ Quốc tế Val-de-Marne 7 – lần đầu tiên Việt Nam “vinh dự” có mặt.

Đại diện thơ Việt Nam, em Linh sẽ đọc một tham luận nảy lửa với tựa đề vĩ đại :

”Sức sống và tín hiệu Việt Nam trong thơ tôi”.

Ai chà, quả thực khó chọn ai ngoài nữ thi sĩ họ Vi mang được sứ mạng nặng nề thế ? Bởi lẽ cái “khí lực” hừng hực giường chiếu của nàng chẳng đã “nói lên ” sức sống của cán bộ ta vùng đứng dậy từ 12 mét vuông/ đầu người trong các khu tập thể tới nay nào nhà mặt phố, nào đất ngoại thành, nào vợ nhỏ bồ nhí … đó sao ?

Bởi lẽ sự mở toang từ “thơ nên có thép” tới thơ “ vén áo lên cho anh phóng …” chẳng phải là một “tín hiệu đổi mới vĩ đại” của Việt Nam rồi sao ?

Từ cô bé thắt khăn đỏ, “sống , học tập theo gương bác Hồ vĩ đại” nhảy một phát sang “con người mới” với “nỗi ham muốn tột bậc” là…tụt quần, Việt Nam chẳng đã đánh đi toàn thế giới một tín hiệu mở rộng “tự do ngôn ngữ“, “tự do thân thể” hết cỡ đó sao ?

Thế mà mấy ông nghị Huê Kỳ với nghị châu Âu còn rách việc phản đối ầm ĩ mất nhân quyền ở VN. Cái “sức sống ” và cái “ tín hiệu ” Vi Thuỳ Linh phóng ra từ diễn đàn các nhà thơ do mấy chú Phú Lãng Sa bỏ tiền bầy trò, chắc chắn sẽ là những cái vả vào miệng mấy ông bà nghị thích chơi trò “ra nghị quyết”.

Bởi thế , các nhà lãnh đạo tư tưởng trong nước làm gì chẳng ngó lơ cho người ta trọng vọng tiếp rước Vi Thuỳ Linh, cho bà Thuỵ Khuê ở đài RFI tôn vinh nàng như đại biểu xuất sắc của nền thơ ca trẻ trung, hừng hực sức sống Việt Nam.

Ở Trung Quốc, chính sách ngoại giao bằng bóng bàn đã chuyển sang bằng “triển lãm nghệ thuật hiện đại”, người Việt Nam ta chơi sang hơn, “ ngoại giao bằng thi ca, tiếng nói của tâm hồn” chẳng hiệu quả gấp mấy lần anh Tàu đó sao? Rồi thì nhạc trẻ tóc mắt bôi xanh đỏ, vừa nhảy vừa la như động dại những điệu nhạc “luộc lại của nước ngoài”, rồi thì cũng “xếp đặt” (installation), cũng “ngẫu diễn” (performance) “ngồi đồng” giữa ngổn ngang mâm với đũa hoặc khoả thân trên bục trong tiếng đàn piano… với những tên tuổi trẻ như Đào Anh Khánh, Hoàng Ly, Vũ Nhật Tân … dẫu chưa “chơi bạo” bằng mấy anh tàu đưa cả “thịt sống” vào sáng tác ( mới đây, “tác phẩm” Mật của Tôn Nguyên chiếm nguyên một căn phòng hoang phế với một giường sắt uốn, trên giường là cái đầu bị cắt lìa của một ông lão và cạnh đó là thi thể một bé sơ sinh đặt trên một phiến băng ), nhưng cũng đủ mùi vị “hậu hiện đại” để mang chuông đi đấm xứ người.

Việt Nam tự do thế còn ca cẩm cái nỗi gì ?

Tuy nhiên , cần nhớ, muốn “siêu” muốn “hậu” gì cũng được, cần phải né cho xa ba “chuyện thời thế”. Lịch sử mỹ thuật Việt Nam sau này, sẽ phải ghi công cho hai sinh viên trường Đại học mỹ thuật Hà Nội năm 2000 dám cả gan mở đầu “installation Việt Nam” bằng tự bịt miệng, trói mình xung quanh lượn sóng những băng tang ở ngay Văn Miếu, đền thờ văn hoá Việt Nam.

“Ngụ ý” gì đây, bóng gió nhà cầm quyền bịt miệng, bắt người hả ? Sở văn hoá thông tin lập tức được lệnh dẹp bỏ. Từ đó tới nay, giới hoạ sĩ trẻ “hậu hiện đại” tởn tới già , tránh xa cái “chiêu” biểu tượng hai mặt ấy ra, hiểm nguy đang chờ các chú.

Không phải ngẫu nhiên những năm gần đây, “tôn vinh lớp trẻ” đã trở thành quốc sách của Nhà nước. Nào “Hội nghị những người viết trẻ”, nào thơ trẻ, nhạc trẻ, hoạ sĩ trẻ…cả doanh nghiệp trẻ cũng có luôn. Không biết có phải Đảng học theo mẹo dùng tiểu tướng Hồng Vệ binh của Mao Chủ tịch ngày xưa không, mà ở xứ ta lực lượng trẻ đang được cổ vũ tối đa theo con đường kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đây đó, lời lẽ của lớp trẻ đã nhuốm mầu “con cưng” xách mé, hung hăng muốn chọi lại lớp già:

“Chúng tôi khác thế hệ trước vì chúng tôi Trẻ. Chúng tôi Trẻ trong ham muốn tìm tòi, khám phá ngôn ngữ hình ảnh, ý tưởng biểu đạt về thế giới và con người, khi tất cả những gì đã tạo thành ở mọi lĩnh vực KHKT đã khiến nhiều người nghĩ rằng thế giới không còn gì để viết”.
( Vi Thuỳ Linh),

“Suốt cả một đoạn dài vừa qua, phải chăng, thơ quá bảo thủ và trì trệ? Nó đã đứng hẳn lại như một chiếc xe bị hỏng máy. Các nhà thơ liên tục hát giống nhau bằng một giọng chuông rè hay tiếng khàn khàn ghê sợ như của chiếc máy nổ. Sự xuất hiện của thơ trẻ là sự nổ tung của oi ngạt, của cao trào hỏng máy đó….”
( Nguyễn Hữu Hồng Minh) .

Ghê chưa , “mấy anh già” đã không “còn gì để viết”, đã “ hỏng máy”, đã “liên tục hát một giọng khàn khàn” thì xê ra chỗ khác chơi, cho LỚP TRẺ người ta làm. Trong lịch sử văn học Việt Nam, chưa thời nào con cái ngạo mạn, coi rẻ cha anh công khai trên các báo chính thống như thời này. Nếu không có sự “dung dưỡng” của nhà cầm quyền, bố thằng báo nào dám đăng công khai những ý kiến “hỗn xược” thế?

Nhân Hội nghị những người viết trẻ TP Hồ Chí Minh tháng 11-2003, ông Hội trưởng Hội văn nghệ Hà Nội, nhà văn Hồ Anh Thái cũng tranh thủ “cấp chứng chỉ” cho Vi Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư :

” Những gì tưởng như là quẩn quanh, đơn giản, bình thường của họ hàm chứa không khí một thời đại, tâm thế tâm trạng một thời đại. Thời đại họ đang sống. Biết đâu nửa thế kỷ nữa người ta sẽ đọc họ và hình dung ra thời đại ta đang sống hôm nay?”.

Úi chao ôi, nửa thế kỷ nữa, muốn “hình dung thời đại ta đang sống hôm nay” thì phải nhìn vào cái đám con gái bị bán đi Đài Loan, bị bóc lột đến xương tuỷ trong các xí nghiệp may 100% vốn nước ngoài, đám con trai thất nghiệp ngồi đầy các quán cóc vỉa hè, bán xương máu trong các hầm đào vàng…chiếm tuyệt đại đa số dân Việt chứ đâu phải đám con ông cháu cha, con anh Sáu cháu anh Ba, đám Yuppie - young (trẻ), urban (sống ở thành phố), professional (có chuyên môn) và hippie (có một chút gì đó nổi loạn) - đang manh nha hình thành trong xã hội tư sản đỏ ở Việt Nam.


Vì sao Nhà nước cưng chiều lớp trẻ đến vậy, ít ra là trong văn học ? Trước hết là vì “mấy anh già” vốn cũng đã xơi nhiều của đắng, biết quá rõ chân tướng của mấy bác cầm quyền, nên miệng thì nói “hết lòng theo Đảng” nhưng thỉnh thoảng tay lại thò sang “véo” một cái.

Nào “ Cát bụi chân ai” của Tô Hoài, “ Thượng đế thì cười” của Nguyễn Khải, “ Nhớ lại” của Đào Xuân Quý…..
Mấy anh “sồn sồn ” xem ra cũng chẳng ngoan ngoãn gì , nào “ Đi tìm nhân vật “ của Tạ Duy Anh, “ Chuyện kể năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn”,“ Đêm thánh nhân” của Nguyễn Đình Chính…

Bởi thế mỗi năm cứ lót tay cho các bác già ít tiền gọi là “tài trợ sáng tác” để “chơi với nhau” trong mái nhà chung là Hội nhà văn Việt Nam là êm rồi. Còn thế hệ A còng, trẻ nhất cũng “đầu 2”* mà già nhất cũng chỉ “ đầu 3, đít bao la” **, chẳng hề biết “ tem phiếu, sơ tán” với “ba lô con cóc, anh đeo em khóc” là cái quỷ gì, sinh ra và lớn lên đã bú sữa Diehlac, xài băng Kotex, cưỡi xe máy đi học, làm dăm ba bài thơ đầu đời, bám vào một “ông bầu” để được lobby, marketing tới tấp, nhảy một phát lên nhà văn, nhà thơ, nhà hoạ, nhà nhạc trẻ…rồi từ đó chớp ngay một cái ghế biên tập viên, phóng viên cho “chắc ăn là người Nhà nước” để tiếp tục hành nghề sáng tác.

Phan thị Vàng Anh, Nguyễn thị Thu Huệ, Nguyễn thị Châu Giang…cho tới đàn em mới ra ràng Ly Hoàng Ly, Vi Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư…đều chung một “con đường sáng tạo” như vậy. Đời sống sung túc, viết lách thoải mái, báo chí lăng xê hết cỡ, viết bài nào đăng bài đó, thỉnh thoảng lại còn được đi “ giao lưu văn hoá nước ngoài", chẳng hề bị dòm ngó, bị quản lý qua ID của PC, thẻ “bảo hiểm sáng tác” luôn đeo sau đít…Bởi thế chưa một thế hệ nào “gắn bó” với sự “ổn định chính trị, trật tự xã hội” bằng mấy em A còng bây giờ .

Vừa được cổ xuý bởi mấy anh trường phái “công nghệ Trần Dần”, sự dung dưỡng của Nhà nước, sự “tôn vinh" của báo chí trong nước và một số đài, web site hải ngoại…mấy em sốt ruột làm thiên tài như lửa đốt đít, chen lấn nhau vào chiếm lĩnh chỗ ngồi trong văn thi đàn.

Mới đây, hoạ sĩ Lê Thành Đức (tác giả của bức tranh nổi tiếng Phố hàng Thiếc - bột mầu 1954) đã lên tiếng trên báo Văn hoá-Nghệ thuật:”nhiều đại diện "lớp trẻ" xông lên sát phạt, lao theo vẫy gọi của thị trường hoặc của các "mốt" tạo hình thời thượng. Mấy năm gần đây, sáng tác xô nhau hướng vào bản năng, lấy trực cảm làm cứu cánh?”

Các em A còng trong văn thơ cũng “hướng vào bản năng, lấy trực cảm làm cứu cánh” ,vứt bỏ vai trò “lương tri dân tộc”, “kỹ sư tâm hồn”, “thư ký thời đại”, ngồi lên chuẩn mực “chân, thiện, mỹ” cha ông để lại, được giao cờ “tiên phong”, “tiền vệ”, quẩn quanh tra vấn “Talawas ? Ta là ai ?” ( chứ không phải “Mít ta là ai ?”), các A còng rồi sẽ đưa nền văn học nghệ thuật Việt Nam vào những xó xỉnh nào, khiến ta nhớ tới câu hát của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn : ”Đi về đâu hỡi em ?”

Biết đi về đâu khi “ Nhà văn bây giờ quá nhát” .

Vâng, nhà văn bây giờ quá…nhát” , chẳng phải anh Mít ngố nào nói câu này trong lúc say xỉn mà chính ông Chủ tịch Hội nhà văn TP Hồ Chí Minh, nhà văn Lê văn Thảo trả lời phóng viên báo Lao Động “đã nói như thế” và ông còn nói thêm:
”cả tôi cũng nhát…”.

Và dường như để chữa ngượng,“cả làng toét mắt, riêng mình em đâu ?”, ông bầy tỏ: ”Thế hệ nhà văn như tôi có thể khó mà khắc phục những nhược điểm của mình, khó mà nói thực được nên chỉ hy vọng vào lớp trẻ. Bởi viết nhát tay đã thành thói quen."

Vậy là theo ông Chủ tịch Hội nhà văn TP HCM, thế hệ già chết nhát đã thành máu thịt , coi như …bỏ, chỉ chờ đợi sự “dũng cảm và nói thực“ ở …thế hệ trẻ mà thôi . Vậy là ông đã đá trái banh sứ mệnh “lương tri dân tộc”, “ thư ký thời đại” sang mấy em A còng.

Trong thế hệ này, không phải em nào cũng chơi được “công nghệ Trần Dần” như Phan Huyền Thư, Vi Thuỳ Linh… Đáng tiếc là tác phẩm các cây bút avant-garde này (còn xa mới nối gót được các bậc đàn anh như Hoàng Hưng, Phan Đan, Lê Huy Quang, Chu Hoạch …) dường như chẳng tới được với mấy anh Mít nội địa bởi “món ăn tinh thần“ của mấy em khó mà chui vô dạ dầy vốn quen khoái khẩu “canh chua cá lóc”, “canh cua rau đay” của tuyệt đại đa số “phó thường dân“, đành tìm “đầu ra” tại các trang văn học trên internet, ở đó phần lớn người vào coi cũng đều là các nhà văn nhà thơ hải ngoại. Bởi thế sự nổi tiếng của thế hệ A còng trước hết là do lobby, marketing…tạo tiếng ồn do scandale và “khẩu khí nặc nô” của mấy em gây nên chứ thơ văn chẳng mấy người đọc nhớ tới. Buồn thay, trong khi đó những câu thơ “ngô, khoai, sắn” kiểu như :

“ Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng …”
( Thâm Tâm)

“ Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm…”
( Quang Dũng)

“ Hôm qua còn theo anh
đi ra đường quốc lộ
Hôm nay đã chặt cành
Đắp cho người dưới mộ…”
( Hoàng Lộc)

“ Đó là một cuộc chia ly mầu đỏ
tươi như cánh nhạn lai hồng…”
( Nguyễn Mỹ)

“ Trời thì xanh như rút ruột mà xanh
Cây thì biếc như vặn mình mà biếc…”
( Thi Hoàng)

... còn rất nhiều, rất nhiều những câu thơ của “phiên gác trước" như vậy, vẫn cứ được khắc ghi vào trong tâm tưởng của hàng triệu người đọc cho dù các nhà “tiên phong chủ nghĩa” có dè bỉu là “nôm na”, “cổ lỗ sĩ”, và tới tận bây giờ, độc giả dường như vẫn chưa nhớ nổi một câu thơ nào của các quý vị.

Tại sao vậy ?

Đã có hàng tấn giấy mực đổ ra tranh cãi nhưng “thơ hay” vẫn cứ đi vào lòng người đọc và ngược lại, “thơ ép người ta coi là hay” vẫn cứ “trôi theo dòng đời” hoặc còn lại trong ký ức “các quý vị đọc lẫn nhau và khen lẫn nhau”.

Lẽ tất nhiên, thời đại internet toàn cầu thì thơ cũng phải nhảy dù vào kỹ thuật số, khổ nỗi cái đặc trưng bản thể, cái làm nên giá trị của thơ lại là cái “âm điệu” của nó. Những câu thơ hay, ngân nga mãi trong lòng người đọc, trước hết chẳng phải do âm điệu của thơ đó chăng ? Các nhà thơ theo trường phái “công nghệ Trần Dần”, đặc biệt là thế hệ A còng cho dù hao tâm tổn sức “mổ xẻ chữ”,”lật chữ”,”ngó chữ”, “đập nát chữ”…buồn thay, vẫn chưa quý vị nào tìm ra được “một âm điệu mới cho thơ” để đưa thơ ra khỏi những “phòng thí nghiệm của chữ” đến với hàng triệu độc giả đang …khát thơ hay.

Còn như bây giờ, “thơ A còng” cũng giống như nhạc trẻ, hội hoạ trẻ, kịch trẻ… đang mọc ra như các quán karaoke trên đường Cao Thắng (Sàigòn), còn lâu mới tiếp gót được các bậc cha anh về mặt nghệ thuật , nói gì đến chuyện “ đi theo các chú là chết ngóm” như Phan Huyền Thư từng lớn lối.

Vậy rồi liệu sẽ xuất hiện “âm điệu thơ” kỹ thuật số đi được vào lòng người chăng ? Chuyện đó chỉ có “Dieu seul le sait”, trời mới biết và khi đó mới thực sự bắt đầu “phiên đổi gác” trong thơ như thi sĩ Hoàng Hưng từng hô hoán.

Thế còn những cây bút thế hệ trẻ khác ngoài mấy em A còng, những người mà nhà văn Lê văn Thảo hy vọng sẽ “can đảm viết thực“ liệu có đáp ứng lòng mong mỏi của ông Tổng thư ký Hội nhà văn TP Hồ Chí Minh ? Kỳ vọng vậy nhưng cũng chính ông Thảo mới đây lại phàn nàn rằng: "Mấy năm gần đây, không thấy xuất hiện một tác phẩm tiểu thuyết nào của các cây bút trẻ, chỉ thơ và truyện ngắn thôi”.

Thôi thì hãy để “chúng tôi nói về thế hệ mình”, trong “Hội nghị những người viết trẻ “ tháng 11-2003 tại Sàigòn, các nhà văn trẻ tham luận phần lớn “đề tài mưu sinh” tức những chuyện xoay quanh cái dạ dầy chẳng hơn gì “ kêu đói, kêu nghèo” như cụ Nam Cao ngày xưa.

Khi phóng viên VietnamNet hỏi rằng :

” Những tác phẩm văn học hôm nay không dài hơi, có nhiều tác giả viết một hai cuốn rồi lặn mất tăm. Là những người tương lai sẽ đại diện cho bộ mặt văn học của thành phố, chị có suy nghĩ như thế nào?”, nữ văn sĩ Thu Phương, rất nổi tiếng tại…Hội nhà văn TP HCM than rằng :

”Đời sống kinh tế bấp bênh, người ta tạm gác niềm đam mê sáng tác qua một bên để mưu sinh. Tuy nhiên, đến khi thoải mái thong thả rồi, muốn viết lách trở lại chưa chắc còn đủ tâm huyết, chưa chắc tài năng không mai một. Cũng như nhiều người trẻ đang còn lập thân, tôi thấy cần phải ổn định đời sống kinh tế trước, rồi mới yên tâm sáng tác. Thật khó làm tốt cả hai cùng lúc."

Còn cây bút trẻ Nguyễn Ngọc Thuần, tác giả của “Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ”, “Giăng giăng tơ nhện” - người có duyên với nhiều giải thưởng văn học gần đây cũng phụ hoạ:

”Nếu tôi có 24 giờ nguyên vẹn, thì e rằng 3/4 tôi đã dành cho kiếm sống, 1/4 cho những hoài bão. Nhưng hoài bão không phải lúc nào cũng thực hiện đúng khoảng thời gian ấy, có lúc mệt phờ vì mưu sinh, vì giận hờn ai đó, vì muốn uống cà phê một cách thư thả,… và thế là xén mất cái phần hoài bão ấy đi. Còn văn chương giống như một cái gì le lói sau một ngày….”

Than ôi, nếu văn chương chỉ là cái gì đó “le lói sau một ngày” thì thấy rõ rằng lớp trẻ khó mà “can đảm viết thực” và những con chó vẫn bị đuổi đài dài ra khỏi nhà .

Vậy thì những ai sẽ đáp ứng lòng mong mỏi của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường “ Thời đại nào cũng cần sự thật, nhà văn lại càng phải nói lên sự thực …”.

Các ông nhà văn ăn lương, ăn bổng lộc Nhà nước vẫn tụ tập quanh các cơ quan Hội nhà văn, báo chí, xuất bản …chăng ?

Khi “vết trói đã lằn trong tâm hồn”, khi đã “tự cung” thành các công công quẩn quanh triều đình thì việc “nói lên sự thực” là việc “bất khả”, xin hãy cứ để yên cho họ tiếp tục sản xuất ra thứ “văn chương tào lao” như ông Nguyễn Hữu Liêm đã viết trên trang nhà TALAWAS, xin hãy cứ để yên cho họ phản ánh một thứ “nguỵ hiện thực” mà bây giờ đến con nít cũng chẳng tin.

Thôi thì trông cậy vào các ông ngày trước đã có đôi chút “nói thật” như Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Ma văn Kháng, Nguyễn Khắc Trường…Tiếc thay trừ một vài người, phần lớn các ông đó đã tự ràng buộc vào “cái ghế” trong các cơ quan Hội nhà văn Việt Nam khiến những tác phẩm thời ‘cởi trói” chỉ còn là…những kỷ niệm một thời.

Thế còn Nguyễn Huy Thiệp, ngọn cờ đầu, cụ tiên chỉ trong làng văn Việt Nam một thời liệu có dám đón “những con chó ngao” vào ngôi nhà văn chương của mình?

Mấy năm trước, nhà văn số 1 này đã viện dẫn cả bác Hồ ra trong bài viết của mình để “ lấy điểm với chính quyền”:

” Bác Hồ khi đặt ra câu hỏi "Viết để làm gì?" là muốn lái cái dục vọng thấp hèn ở nhiều người viết sang một động cơ cao cả thiêng liêng tức là làm cách mạng, thay đổi chế độ xã hội thực dân phong kiến." ,

... rồi trên Tạp chí Ngày Nay số ra tháng 10-2003, ông còn lớn tiếng :

”Tôi cứ nghĩ rằng thời của tiểu thuyết sẽ là thời của dân chủ, thời của những tư tưởng tự do, thời của sự ổn định chính trị và kinh tế: đấy cũng là thời mà chúng ta đang sống bây giờ.“

Ối trời ôi, thời của chúng ta đang sống bây giờ mà lại là “thời của dân chủ, của tư tưởng tự do” thì “cụ tiên chỉ” còn đợi gì nữa mà không viết ngay một cuốn tiểu thuyết ca ngợi công ơn của Đảng và chính phủ.

Bằng vào khẩu khí của nhà văn nổi tiếng nhất nước, bằng vào thế hệ A còng, ta có thể thấy rằng yêu cầu của nhà văn họ Hoàng “nhà văn phải nói lên sự thực” vẫn là chuyện “trạch đẻ ngọn đa” và văn học Việt Nam vẫn còn “tắc đẻ” dài dài…

Nhật Tuấn
5 - 2014