PDA

View Full Version : Cây Bàng Không Rụng Lá



giavui
06-04-2016, 07:12 PM
Cây Bàng Không Rụng Lá


Tác giả : Phong Thu

http://4.bp.blogspot.com/-83VHjTPwvuc/VtjWP4wOyeI/AAAAAAAABto/_LXfLOS2Yhs/s1600/full_e40199d3b94a2b16e5a52279614eb87a.jpg


MỤC LỤC [−]

Đi tìm việc tốt
Một lời giao ước
Chín điểm
Thăm cô giáo ốm
Bếp lửa
Choai và Vá
Bồ nông có hiếu
Cây cột mốc và con ngựa
Cái cúc màu xanh
Trò chơi của bố
Cái kẹo và con cánh cam
Con cóc
Ai giống mẹ
Chú bé và ông già nhặt đá
Tiếng mưa
Đôi bàn tay mẹ
Cây ổi Bo
Hoa mướp vàng
Quà gửi bố Chú và cháu
Cô bé tóc bím
Cái hầm trú ẩn
Xạ thủ số 2
Bức tường có nhiều phép lạ
Cây bàng không rụng lá
Chiếc máy kỳ lạ
Cháu trai ông đánh giậm
Những hạt bỏng ngô
Bữa khoai trưa
Cu chim
Vườn ông vườn xuân
Mẹ tôi
Người học trò lễ phép
Nhớ bà
Chiến công đầu tiên của người đội viên mới
Đối thủ
Cánh buồm trên sông
Ụ súng xanh

Đi tìm việc tốt

Vừa mới thức giấc, Hùng đã bổ choáng bổ choàng từ trên giường lăn xuống đất. Việc đầu tiên là Hùng đi tìm cái chổi. Mắt nhắm mắt mở, chân lùa guốc, tay bíu thành giường, Hùng vội vội vàng vàng như đang có việc gì to tát lắm. Thực đấy. Hùng sắp sửa làm một việc tốt trong ngày chủ nhật đây: quét nhà đỡ mẹ. Nhưng, tìm thấy chổi rồi Hùng mới nhận ra nhà đã sạch bong. Thật chán quá. Chị Hà đã quét tự bao giờ. Hùng cầm chổi đứng ngẩn ra một lúc. Ai bảo Hùng không dặn trước chị Hà nào? Nhớ mãi mới được bốn việc tốt, bây giờ hỏng mất một rồi còn đâu! Hùng lo quá. Cô giáo đã dặn cả lớp: "Các em có thể quét nhà giúp mẹ, trông em, hoặc ra đường thấy em bé nào ngã thì đỡ dậy, thấy cụ già nào đi ngang đường thì giúp cụ tránh xe". Hùng cứ phải nhẩm đi, nhẩm lại như một bài học thuộc lòng. Thế mà, chưa gì đã mất một. Thôi, đành phải làm sang việc thứ hai vậy. Hùng không có em bé nào. Anh, chị thì Hùng có nhiều lắm. Trông em bé của bạn khác có được không nhỉ? Được lắm chứ! Chỉ cần sao em bé đó bé hơn Hùng, độ lên một lên hai là được thôi mà. Nếu thế thì khối. Quanh đây nhiều trẻ con lắm. Nghĩ vậy, Hùng hớn hở hẳn lên.

Hùng vừa bước ra khỏi cửa thì gặp bác Cảnh trai, người ở cùng dãy nhà trong khu tập thể. May quá, bác Cảnh có em bé. Hùng sang thử bên ấy xem sao. Thằng cu con nó quen Hùng lắm nhớ, chả là thỉnh thoảng Hùng vẫn sang chơi với nó mà. Hùng đẩy cửa bước vào nhà bác Cảnh. Thấy Hùng đến, bác Cảnh gái tươi cười:

- Anh Hùng kìa! Anh sang chơi với em đấy à?

Hùng bẽn lẽn chào bác Cảnh gái rồi ngồi xuống bên cạnh thằng cu con. Nom nó y như củ khoai ấy. Thằng bé ngoan thật. Nó cứ choai choai, choai choai bò khắp giường. Chốc chốc, nó lại u ơ như bảo Hùng cái gì đấy và toét miệng ra cười. Song, cũng thực là không may cho Hùng. Hùng ngồi chơi bên nhà bác Cảnh đã lâu lâu mà nó chẳng khóc cho mà dỗ. Hùng vừa bày trò chơi, vừa đợi nó khóc. Hùng có khối trò chơi. Lúc thì Hùng giả làm tiếng gà trống gáy, lúc thì Hùng giả làm con ếch vừa nhảy vừa kêu ộp ộp. Thằng cu con cứ xoắn lấy Hùng. Nó có vẻ yêu anh Hùng lắm.

Đợi thêm một lúc nữa, thằng cu con cũng chẳng khóc cho mà dỗ. Hùng sốt ruột quá. Đã thế, bác Cảnh lại còn nhờ Hùng trông em hộ một lúc để bác đi mua mớ rau. Hùng "lạy giời" nó khóc cho vài tiếng, vậy mà nó cứ im thin thít mới chán chứ! Mãi cho đến lúc bác Cảnh về rồi, Hùng vẫn chưa làm được một việc tốt nào. Hùng đành phải đứng lên, chào bác Cảnh, tạm biệt chú bé rất ngoan kia để đi tìm một việc khác vậy.

Hùng bước ra phố và định bụng cứ đứng đợi ở một chỗ nào đấy xem có em bé nào vấp ngã, Hùng sẽ chạy tới và nâng em lên. Hùng cứ đứng như thế cho đến lúc đã chồn cả chân mà chẳng có ai ngã hết. Chợt Hùng thấy một ông cụ già từ trong ngõ bên cạnh bước ra đường. Hay quá, khéo mà cụ sắp sang đường cũng nên. Cụ đã đi gần ra tới mép đường. Hùng vội vàng rời cái cột đèn đi rảo tới. Nhưng cụ già không sang đường. Cụ đến bên thùng rác công cộng và vứt vào đó mẩu thuốc lá hút đã gần hết và một vê giấy lớn. Xong xuôi, cụ đi thêm một quãng nữa và đứng đợi tàu điện ở đó. Hùng khe khẽ thở dài. Chán quá. Lại hụt mất rồi.

Hùng lững thững bước về nhà. Không biết em sẽ làm việc tốt gì để ngày mai đến lớp báo cáo với cô giáo và đội nhi đông đây? Lúc về gần đến nhà chả hiểu nghĩ thế nào, Hùng lại cố đứng lại một lúc nữa. Biết đâu, nhỡ có việc tốt nào đến thì sao? Mới đầu nghe cô giáo nói, Hùng tưởng đi tìm việc tốt cũng dễ thôi. Thế mà cũng hơi khó đấy chứ! Nội trong ngày hôm nay, Hùng phải cố làm lấy một việc tốt, nếu không thì xoàng quá. Đang nghĩ ngợi như thế, Hùng trông thấy một bác nông dân - vì bác mặc quần áo nâu nên Hùng đoán đúng là bác nông dân. Hình như bác mới ra Hà Nội thì phải: bác đang đi tìm số nhà. Bác cứ quanh đi rồi quanh lại. Chắc là bác lạ phố. Hùng liền bước tới gần bác và chào:

- Cháu chào bác. Bác tìm số nhà bao nhiêu ạ?

Bác nông dân nhìn Hùng, trả lời:

- Chào cháu. Bác tìm số nhà 80B.

À, số nhà 80B. số 80B ở đằng kia chứ sao lại ở đây? Đây mới là số 60 mà. Hùng nhanh nhảu nói luôn:

- Số nhà 80B ở đằng kia cơ bác ạ.

Bác nông dân lắc đầu:

- Bác đến rồi, nhưng không thấy có số nhà nào là số 80B cả.

Không đợi bác nông dân nói hết, Hùng liền chạy về dãy nhà có mang số 80. Đúng là không có số 80B thật. Hùng đứng thừ người. Thế là thế nào nhỉ? Nhìn dãy tường vôi mới quét trắng tinh, Hùng sực nhớ ra. Thảo nào.

Nhà mới quét vôi, chắc là ai đấy đã cất biển số đi rồi, chưa mang ra treo lại. Hùng gõ cửa và hỏi thăm. Đúng là cái nhà có mang số 80B thật. Hùng hớn hở chạy về chỗ bác nông dân đứng đợi và dẫn bác đến. Bác nông dân cứ khen cậu bé ngoan quá. Hùng thèn thẹn, vội chào bác và chạy biến đi. Được người khác khen, Hùng thấy làm sao ấy.

Trở lại chỗ đứng lúc nãy, Hùng không yên tâm. Suốt từ sáng đến giờ, chưa làm được việc nào tốt như cô giáo dặn cả. Chả lẽ lại cứ dựa cột đèn mãi hay sao. Ngày mai biết báo cáo với cô giáo, với đội thế nào đây? Có lẽ phải nói thật thôi. Hùng sẽ báo cáo là có đi tìm việc tốt mà mãi không thấy. Để cho mọi người tin, nếu cần thiết thì Hùng sẽ nói thật kỹ là hồi mấy giờ Hùng ở đâu, đến chỗ nào và làm gì. Hùng không nói dối ai bao giờ.

Đứng như thế một lúc nữa, Hùng thấy khát nước quá trở về, sờ ấm nước thấy nguội tanh. Hùng nhớ đến bố. Bố hay uống nước nóng lắm. Mà bố đi lao động ở công viên Thủ Lệ sắp về rồi. Hùng phải đun cho bố một ấm mới được. Hôm nay chủ nhật, cả nhà đi vắng hết, chỉ có mỗi mình Hùng nên ấm nước mới nguội thế này đây mà. Bố đi lao động. Mẹ phải thường trực ở bệnh xá, chị Hà họp ban văn nghệ của lớp để duyệt các bài hát. Chốc nữa mọi người về cả, nước không có, chắc là chị Hà hay mẹ lại phải đun thôi. Hùng đun nước cho cả nhà uống được không nhỉ? Được chứ. Thế là Hùng vội vàng đi nhóm bếp để đun. Loay hoay mãi mới nhóm được bếp. Hùng vùa đun vừa giụi mắt. Khói quá. Bàn tay nhọ nhem của Hùng đã bôi liền mấy cái râu lên mép rồi. Nom Hùng buồn cười lắm. Nước mắt nước mũi thi nhau ứa ra.

Một lúc sau, ấm nước bắt đầu reo lên ù ù thì Hùng nghe thấy có tiếng người từ phía cửa sổ trên nhà gọi vọng xuống:

- Có ai ở trong nhà không ạ?

Hùng giật cả mình. Tiếng ai như tiếng cô giáo. Hùng biết thưa với cô thế nào đây? Hùng chưa làm được việc tốt nào cả. Cô đã đến nhà rồi, phải lên mở cửa đón cô thôi. Hùng vội vã lên mở cửa cho cô. Thấy Hùng, cô giáo không nhịn được cười:

- Em làm gì mà nhọ cả mặt thế?

Hùng luống cuống đưa tay lên quệt. Càng quệt, càng nhọ. Cô giáo liền dắt tay Hùng:

- Phải lấy nước mà rửa chứ, em!

Và cô hỏi:

- Từ sáng đến giờ Hùng làm được bao nhiêu việc tốt rồi?

Hùng xịu mặt, nói lúng búng:

- Thưa cô... thưa cô em... em chưa ạ!

Cô giáo hơi ngạc nhiên. Cô hỏi thêm:

- Thế em đang nghịch cái gì ở dưới bếp ấy?

- Thưa cô... không ạ. Em đun nước nóng cho bố em uống.

Cô giáo gật đầu và dịu dàng:

- Từ sáng đến giờ, em đã làm gì nói cho cô nghe nào.

Hùng thong thả kể lại tất cả mọi việc đã xảy ra hồi sáng. Bắt đầu từ lúc sang nhà bác Cảnh rồi gặp bác nông dân ra sao, Hùng không dám giấu cô một điều gì.

- Cô ạ, em hết cả việc tốt rồi. Cô bảo em làm với...

Giọng Hùng run run như sắp khóc. Nghe xong, cô giáo khẽ vuốt tóc Hùng:

- Ồ, em làm được nhiều việc tốt rồi đấy. Việc gì cô phải bảo em nữa, em ngoan lắm.

Hùng lạ lùng ngước mắt nhìn cô. Cô nói thật hay là cô nói đùa?

Thấy Hùng có vẻ ngơ ngác, cô giáo cười và giải thích:

- Này nhé, Hùng đã trông em cho bác Cảnh đi chợ, thế là một việc tốt. Hùng tìm số nhà giúp bác nông dân, thế là hai việc tốt. Hùng lại biết đun nước cho bố nữa, thế là ba. Từ sáng đến giờ, Hùng không chạy nắng như chủ nhật trước, thế là bốn. Chưa hết một buổi sáng mà Hùng đã có bốn việc tốt, em đáng khen lắm!

Ôi, sung sướng quá. Hùng đã làm được bốn việc tốt rồi cơ à! Việc tốt là như vậy à? Ồ, thế thì Hùng có thể làm được nhiều việc tốt nữa đi ấy chứ. Vậy mà Hùng cứ đi tìm mãi...

Hùng bẽn lẽn ngửng lên nhìn cô giáo. Em muốn nói thêm một điều gì nữa rất vui mà chưa nói được. Hùng sực nhớ đến ấm nước. Em chạy vội xuống bếp. Cô giáo nhìn theo em tủm tỉm cười.

5-1964


Một lời giao ước

Hồi còn học lớp vỡ lòng, đôi bạn nhỏ này chưa quen nhau. Nhưng từ ngày lên lớp một đến giờ, Trang và Thắng trở thành đôi bạn thân tự lúc nào không biết nữa. Hôm đầu tiên mới đến trường, hai đứa lớ ngớ thế nào, cùng được vào lớp Một A mới hay chứ. Thoạt đầu, Thắng nhìn Trang, Trang nhìn Thắng như thể hai chú mèo con làm quen với nhau vậy. Thế rồi, Thắng thấy cái mũi của Trang tẹt, nom buồn cười quá, hóa ra cười thật. Thấy Thắng cười, Trang cũng cười: "Ơ, cậu này răng cũng sún như mình!"

Buổi học đầu tiên trôi qua rất nhanh. Đôi bạn chưa kịp tìm ra được chuyện gì để nói với nhau.

Sáng hôm sau, Thắng mang đi một chai nước tướng. Gặp Trang, Thắng khoe luôn:

- Tớ đem nước đây, cậu uống không?

Trang trố mắt ra nhìn. Chai nước hồng hồng, nom thích quá.

- "Xi-lô" hả? Cậu mang "xi-lô" à?

Thắng lắc đầu, giơ cái chai lên, lắc một cái.

- "Xi-rô" chứ! "Xi-lô" là cái quái gì. Không phải "xi-rô" đâu. Nước trà đấy. Nhưng mà loãng thôi, nước đặc, bố tớ mới uống được. Bố tớ bảo trẻ con uống đặc cồn ruột lắm. Cậu có biết cồn ruột là thế nào không? Ghê lắm nhớ, tớ đã có lần cồn rồi!

Trang bụm môi, cau mày ra vẻ nghĩ ngợi:

- Cồn... ruột à? Không, tớ chả biết. Tớ chỉ biết đau bụng thôi. Cậu bị đau bụng bao giờ chưa? Ghê lắm nhớ.

Tưởng cái gì chứ đau bụng thì Thắng biết quá đi rồi. Cồn ruột mới lạ chứ.

- Tớ biết rồ...ồ...i..., nhưng mà từ năm ngoái kia. Cậu muốn khỏi bị đau bụng thì phải đem nước đun sôi mà uống như tớ đây này.

Nói rồi, Thắng múa cái chai lên. Trang nhìn cái chai, thắc mắc:

- Cậu tu à?

- Ừ, tu.

- Thế thì mất vệ sinh chết.

Ừ nhỉ. Thắng ngớ người. Đúng là mất vệ sinh thật.

Hai đứa liền bàn với nhau thế này: kể từ ngày mai, mỗi đứa mang nước một hôm; đứa nào không phải mang nước thì mang chén, như vậy sẽ rất vệ sinh.

Từ ngày ấy đôi bạn càng trở nên thân thiết.

°

Lên học lớp một kể cũng hay thật. Không như ở lớp vỡ lòng đâu nhé. Bài học dài hơn này, sách giáo khoa có những bốn năm quyển này. Sách ngần nào, vở ngần ấy. Lại còn cả bảng con và mấy viên phấn kèm theo. Sáng ra đi học mà vội vội vàng vàng, thế nào cũng để quên. Trước khi đến lớp, Thắng phải mở cặp ra để xem còn thiếu cái gì không... Đủ rồi, thế là yên trí phóng thẳng đến trường.

Ngồi trong lớp, không được nói chuyện. Cô giáo đã dặn thế. Vậy mà chả hiểu làm sao Thắng lại cứ quên. Nhiều lần, cô giáo bắt gặp Thắng và Trang đang gân cổ, đỏ mặt lên như cãi nhau về một chuyện gì đấy. Hôm thì Thắng thắc mắc về cái chuyện tại sao Trang bằng tuổi Thắng mà Trang lại lùn hơn? Trang bảo là tại đêm nằm co nên lùn. Thắng không chịu. Thắng nằm co sao Thắng lại cao? Hôm thì Trang cãi với Thắng là con ngựa chỉ có ba chân. Thắng không chịu. Thế nhưng bức vẽ con ngựa treo trên tường lớp lại không đủ bốn chân. Thắng thật không muốn nói chuyện trong lớp một tí nào mà vẫn cứ phải nói.

Không nói, nó tức lên cơ. Lúc bị cô giáo phê bình, Thắng xấu hổ lắm. Phải tìm cách thôi đi mới được.

Vào một buổi học khác, Thắng đã định hỏi Trang: tại sao mở mắt thì trông rõ, nhắm vào thì mù tịt, nhưng Thắng nhớ ra là không được nói chuyện ở trong lớp. Thắng liền bảo Trang:

- Này, từ nay tớ với cậu không nói chuyện trong lớp nữa nhá!

Trang gật đầu. Thực ra, mọi chuyện đều do Thắng khởi đầu. Cô giáo thấy hai đứa thì thào, cô gọi Thắng đứng lên. Cô hỏi:

- Sao em lại nói chuyện?

Thắng trả lời:

- Thưa cô, em không nói chuyện ạ.

- Thế thì em nói gì?

- Thưa cô, em nói với bạn Trang là từ nay giở đi hai đứa không nói chuyện trong lớp nữa đấy ạ.

Cô giáo cười và cho Thắng ngồi xuống.

Bắt đầu từ hôm sau, để thực hiện lời giao ước ấy, Thắng ngồi rất nghiêm. Một bài, hai bài, rồi ba bài học đã trôi qua, Thắng thấy nó thế nào ấy. Có một lúc, Thắng nhìn ra sân, thấy một con gà què, Thắng định bảo Trang. Song, nhớ là không được nói chuyện, Thắng thôi vậy.

Ở trong lớp có lắm cái lạ lùng và buồn cười thật cơ. Chẳng hạn như cái đinh đóng trên tường để treo tranh đã chúc hẳn xuống rồi mà vẫn chưa chịu rơi. Mỗi lần gió lùa vào lớp, bức tranh khẽ đung đa đung đưa. Thắng đoán thế nào nó cũng rơi mà nó không rơi cho. Mải nhìn cái đinh, Thắng quên cả nghe bài. Thắng cứ thắc mắc mãi về chỗ tại sao nó lại không rơi? Mà, khi nó rơi rồi, cái đinh sẽ bắn đi đâu? Chẳng may, đang lúc nghĩ lung tung như thế thì cô giáo gọi Thắng. Thắng giật mình không biết trả lời cô giáo ra sao nữa. Thật là khuyết điểm. Thắng đỏ nhừ cả mặt, hai chân cứ thay nhau di di trên nên gạch. Thắng xấu hổ quá và tức cái đinh vô cùng. Ai bảo nó không rơi? Nó mà rơi thì có phải là Thắng không nhìn nó nữa không nào?

Đến giờ ra chơi, Thắng đi nhặt ngay một cục gạch vỡ đem vào lớp, kê ghế sát vào tường, trèo lên đóng lại cái đinh. Có như vậy, chốc nữa mới khỏi nghĩ về nó.

°

Trong lớp, Thắng học vào loại khá nhất. Trang thì hơi kém về môn tập đọc một tí. Song Trang hơn Thắng chỗ Trang không hay nghịch. Thắng rất muốn cho Trang đọc cũng thạo như mình. Hằng ngày, lúc mới đến lớp, đôi bạn rủ nhau học ôn, đọc lại bài cũ. Thoạt đầu, hai đứa cùng đọc. Sau đó, đọc từng đứa một. Thắng giả làm cô giáo gọi Trang đọc bài. Trang cũng thưa y như thực và đứng lên hẳn hoi. Kiểu vừa học lại vừa chơi này thế mà thú. Chỗ nào Trang đọc chưa đúng, Thắng dõng dạc đọc mẫu ra dáng lắm. Việc làm ấy của Thắng và Trang ai ngờ cô giáo biết. Cô liền khen Thắng trước lớp là có tinh thần giúp đỡ bạn. Thắng đâm ra lúng túng mới lạ chứ! Hôm sau, Thắng bảo Trang:

- Cô đã khen tớ với cậu rồi, ngày nào chúng mình cũng phải ôn, đồng ý không?

Trang im lặng một lúc, rồi nói:

- Nhưng tớ không đồng ý cậu nói chuyện với tớ trong lớp đâu. Cậu phải nghe bài và không được nghịch cơ.

- Ừ, tớ không thế nữa...

Sang tuần sau, cả lớp họp để bầu lớp trưởng, nhiều bạn đề nghị bầu bạn Thắng. Thắng cuống cả lên. Thắng có làm lớp trưởng bao giờ đâu. Thắng đứng ngay dậy:

- Thưa cô, cô đừng bầu em ạ. Em sợ lắm ạ.

Cô giáo khẽ lắc đầu:

- Sao em lại sợ?

- Thưa cô em... chỉ muốn làm lớp... lớp... viên thôi ạ.

Cô giáo bật cười:

- Các bạn bầu em chứ cô có bầu em đâu. Không sợ Thắng ạ, rồi cô sẽ bảo em.

Thắng quay sang Trang:

- Tớ cấm cậu đấy!

- Cấm gì?

- Cấm bầu tớ.

Trang không nghe:

- Kệ. Tớ cứ bầu...

Và, thế là Thắng được bầu làm lớp trưởng.

Từ khi làm lớp trưởng đến giờ, Thắng và Trang vẫn thân thiết với nhau. Đôi bạn ngày ngày vẫn cùng uống chung một chai nước, ngồi chung một bàn. Có một chuyện rất đặc biệt là đã nửa năm học nay, Thắng không để cô giáo phải gọi đứng dậy vì nói chuyện trong lớp nữa.

9-1963

giavui
06-04-2016, 07:13 PM
Cây Bàng Không Rụng Lá



Chín điểm

Tại sao cậu Quỳnh cậu ấy lại cứ thuộc bài nhiều hơn mình? Mỗi lần nghĩ đến chuyện đó, Sinh ức lắm. Không phải ức cậu Quỳnh, mà ức cho cái lúc thầy giáo gọi lên đọc bài lại phải đứng... ngây như phỗng kia!

Càng học lên lớp trên, càng có nhiều bài phải đọc thuộc mà không được nhìn vào sách. Nhìn sách hay không nhìn sách thì cũng vẫn là cái bài ấy thôi chứ gì? Nếu Sinh là thầy giáo, Sinh sẽ cho tất cả học trò, đứa nào cũng được nhìn vào sách mà đọc. Như vậy, hết ngay những đứa không thuộc bài.

Nghĩ vậy cho nó đỡ phân ê mặt đấy thôi, chứ Sinh thừa hiểu rằng: đi học mà bài nào cũng nhìn vào sách như thế thì còn gọi là học bài thế nào được.

Thực ra, đọc bài như kiểu cậu Quỳnh, thích thật. Lần nào cậu ấy cũng được tám điểm trở lên. Nom Quỳnh đứng đọc bài sao mà Sinh thèm thế. Cậu ta cừ thật đấy. Lúc đọc, hai mắt Quỳnh nhìn hơi chếch về phía bảng đen, hai tay buông tự nhiên như các chú bộ đội đứng ở tư thế nghỉ, nom rất chững chạc. Hễ gặp phải chỗ nào hơi quên, Quỳnh liền chớp mắt lia lịa. Chớp đến đâu, cậu ta nhớ ra đến đấy mới lạ chứ. Thật là chả bù cho Sinh. Lúc lên đọc bài, có hai cái tay, Sinh cũng không biết bỏ vào đâu. Một bận Sinh thọc tay vào túi quần, thầy giáo bắt bỏ ra. Chính vì cái tay ấy mà hôm đó Sinh không thuộc bài. Mặt mũi Sinh lúc ấy có gì là lạ đâu mà các bạn nhìn kỹ thế không biết. Đã vậy, các cậu ấy còn thì thà thì thào với nhau cái gì, làm Sinh càng thêm luống cuống.

Vừa thẹn, vừa bực mình, Sinh đâm ra hăng hái. Sinh quyết tâm phải làm được như bạn Quỳnh. Bạn ấy học lớp một, mình cũng là học sinh lớp một, tại sao mình lại thua. Sinh thầm mong thầy giáo gọi Quỳnh đọc bài luôn để Sinh làm theo. Sinh còn để ý bắt chước Quỳnh rất nhiều thứ. Thấy Quỳnh mặc áo sơ-mi lúc nào cũng cho vào trong quần, Sinh cũng nhét áo vào quần. Thấy vở Quỳnh bọc giấy báo, Sinh cũng bắt chước. Hình như tất cả những việc làm ấy đều giúp cho Sinh học dễ thuộc bài và đọc giỏi chăng? Sinh cho rằng có thể như thế. Chỉ có cái này là Sinh không làm theo: Quỳnh hay khịt mũi và hay cáu gắt với bạn. Khịt mũi có gì là hay đâu. Mình không có bệnh thì việc quái gì phải khịt mũi cho nó khổ? Còn như cáu gắt với bạn thì sai quá là sai rồi, có hay ho gì mà bắt chước!

°

Về nhà, Sinh đóng kín tất cả cửa lại để tập đọc bài như Quỳnh đọc. Sinh giả làm thầy giáo, gọi:

- "Em Sinh! Lên đọc bài".

Sinh liền thưa:

- "Dạ!" - y như thật rồi mang vở lên. Sinh đứng một lúc, làm đủ các động tác như Quỳnh làm. Tất cả mọi cái, Sinh theo đúng hết. Chỉ nguyên mỗi một điều này là Sinh chưa thực hiện được: hễ buông quyển sách giáo khoa ra là Sinh không thể nào đọc thêm được một câu nào. Sinh đành phải vùa nhìn sách, vừa đọc. Đọc như thế, mắt phải nhìn xuống chứ không nhìn lên như Quỳnh. Sinh chịu không thể nào học và đọc bài giống y như Quỳnh được. Cuối cùng, Sinh đành ngồi yên một chỗ, học đi học lại cho thật nhớ, thật thuộc. Có lẽ vì Sinh giả vờ đóng thầy giáo, rồi lại giả vờ đọc bài nên không thuộc chăng? Nếu thế thì cứ học thật là hơn. Tội quái gì mà giả vờ nữa nhỉ. Và, Sinh học thật, đọc to:

"Lũy tre xanh xanh

Làng tôi, làng anh

Cùng giống nhau nhỉ..."

Sinh đọc đi, đọc lại; đọc lại rồi đọc đi mãi. Tự nhiên Sinh nhớ dần, nhớ dần từng câu, cuối cùng thuộc hết cả bài mới lạ chứ. Bây giờ, chả cần phải giả vờ nữa. Sinh đặt quyển sách xuống bàn rồi đứng y như Quỳnh, đọc chẳng khác gì Quỳnh.

A ha! Thế là thuộc rồi. Thuộc y như cậu Quỳnh ấy. Khoái quá.

°

Sáng hôm sau, khác hẳn với mọi lần, Sinh dậy sớm. Chưa đến sáu giờ, Sinh đã cắp sách đi học. Chiếc bánh sắn của mẹ cho, Sinh chưa kịp ăn. Sinh chạy thẳng đến nhà Hảo. Hảo còn đương lúi húi xếp sách vở, Sinh đã giục toáng lên:

- Nhanh lên chứ cậu. Nhanh lên, tớ bảo cái này.

Tuy chưa hiểu là cái gì, nhưng thấy Sinh có vẻ hí hửng, Hảo cũng vội vã chạy theo.

Khi đã cùng nhau đi sóng đôi trên đường đến lớp, Sinh vung tay, hếch mũi về phía Hảo:

- Hôm nay, tớ sẽ đọc bài cho cậu xem. Đọc y như cậu Quỳnh ấy.

Hảo chưa hiểu là Sinh muốn nói gì, nên cứ mở tròn đôi mắt một mí ra, hỏi lại:

- Cậu đọc bài í à?

- Ừ.

- Như cậu Quỳnh à?

- Ừ... Ừ!

- Sao lại như cậu Quỳnh?

- À, đọc theo kiểu của cậu ấy mà!

Nói rồi, Sinh đứng sững ngay lại, giúi cái cặp vào tay Hảo:

- Cầm lấy, tớ đọc cho mà xem.

Chẳng cần phải đợi Hảo có đồng ý hay không, Sinh đứng sang một bên đường, hai tay buông thõng, nắm chặt thành hai quả đấm, mắt ngước lên trời và "mở máy" luôn:

"Lũy tre xanh.

Lũy tre xanh xanh

Làng tôi, làng anh..."

Hảo ôm chặt lấy cả hai cái cặp, đứng nghe.

Đọc xong, Sinh hất hàm hỏi Hảo:

- Cậu xem, tớ có giống cậu Quỳnh không? Thuộc không?

Hảo gật lia lịa:

- Giống! Thuộc!

Mồm nói thì nói, song Hảo vẫn chưa hiểu Sinh làm cái trò ấy để làm gì. Sinh phải nói rõ ý định của mình cho Hảo nghe. Bấy giờ Hảo mới toét miệng cười:

- Hớ hớ!... Cậu tài nhỉ!

Đến giờ vào lớp, Sinh chờ bài học thuộc lòng. Sinh thấp thỏm đợi thầy giáo gọi đến tên mình mà mãi vẫn chưa thấy thầy giáo gọi. Một bạn, hai bạn... sắp sửa ba bạn rồi. Bây giờ, thầy mà chuyển sang bài mới là hết đọc. Sinh sốt ruột quá. Hảo ngồi cạnh Sinh, khẽ hích tay, bảo:

- Xung phong! Xung phong đi cậu!

Ờ, có như thế mới được đọc đấy. Bạn thứ hai đọc xong, thầy giáo cho bảy điểm. Sinh cuống cả lên. Lại bị Hảo hích cho một cái nữa, Sinh đứng bật dậy:

- Em... em ạ!

Thầy giáo ngửng lên:

- Em nào?... À Sinh, Sinh muốn đọc bài à?

Sinh nói líu cả lưỡi:

- Vâng... thưa thầy... Vâng, em ạ!

Thầy giáo cho Sinh đọc. Sinh vớ ngay quyển Học tính. Thầy giáo khẽ nhắc:

- Sinh cầm nhầm sách rồi. Mang vở lên chứ em.

Sinh thẹn đỏ cả tai. Lúc đứng quay mặt về phía các bạn, tim Sinh đập thình thình. Sinh thọc luôn tay vào túi quần, sờ phải cái bánh sắn, Sinh vội rút tay ra. Không được cho tay vào túi cơ mà! Sinh toát cả mồ hôi, đứng ngay như phỗng. Thầy giáo lại khẽ nhắc:

- Em Sinh bắt đầu đọc bài.

Thế là Sinh đọc ngay. Đọc một hơi rất thuộc. Vừa đọc Sinh vừa nhìn Hảo. Cậu ta đưa tay lên mặt bàn vỗ hờ hờ ra vẻ hoan hô. Sinh phấn khởi, đọc càng dõng dạc.

Thầy giáo cho Sinh chín điểm. Sinh sướng quá! Tí nữa thì Sinh nhảy cẫng lên. Có thế chứ!

Đến giờ ra chơi, Sinh kéo tuột Hảo ra một chỗ, hỏi:

- Tớ có giống... không cậu?

Hảo lắc đầu, cười hì hì:

- Chả giống. Hí hí... Nom cậu buồn cười lắm.

Sinh đứng đực cả mặt ra.

- Sao? Không giống thật à?

- Ừ. Cậu vừa đọc vừa nghiêng bên này, nghiêng bên kia như các chị văn công đang hát ấy. Hí hí! Hay lắm cơ!

Hảo cười, Sinh cũng cười theo. Mình đọc không giống cậu ấy mà cũng thuộc, lại được chín điểm nhỉ. Có lẽ cứ học thuộc bài đi, lúc ấy đứng kiểu nào cũng cứ là đọc một hơi không vấp chỗ nào. Sinh nghĩ bụng thế và thọc cả hai tay vào túi quần. Sinh ngạc nhiên lôi ra từ chiếc túi phía bên trái một cái cúc áo. Thì ra trong lúc đọc bài, Sinh đã rứt đứt cái cúc áo này lúc nào không biết. Tay kia, Sinh lôi cái bánh sắn ra. Chà, đói thật. Sinh bẻ cái bánh làm đôi, đưa cho Hảo một nửa:

- Chén đi! Tớ quên. Hì hì... thế là tớ thuộc bài rồi!

Chín điểm!

5-1964


Thăm cô giáo ốm

Hôm nay cô giáo ốm. Thế là cả lớp phải nghỉ học. Cô giáo cũng ốm ư? Hương chưa nghĩ đến chuyện ấy bao giờ. Hương cứ tưởng chỉ có trẻ con mới ốm thôi. Hương và mấy bạn nữa, về nhà xin phép mẹ đi thăm cô giáo.

Vừa đi đường, Hương vừa nghĩ về việc cô giáo ốm. Từ trước đến nay, Hương chỉ thấy cô đến thăm học sinh ốm, cô thăm cả Hương. Còn, đi thăm cô như thế này là lần đầu tiên. Em còn nhớ lúc em bị sốt, mẹ cứ phải ở bên em suốt ngày, suốt đêm. Cô giáo bây giờ, chắc cũng vậy.

Thế mà không. Khi Hương và các bạn đến chơi, em mới biết là cô ở nhà có một mình. Cô đang ngủ. Các em học sinh thấy thế, đứng cả bên ngoài hiên, yên lặng, nhìn nhau. Hương mạnh dạn, rón rén bước tới bên cô, đứng ngay cạnh giường. Nhớ lúc mẹ áp tay lên trán em, Hương nhẹ nhàng đặt bàn tay nhỏ nhắn của mình lên trán cô. Cô giáo mở bừng mắt, cười mệt mỏi:

- Em Hương đấy à?

Hương chào cô và nói:

- Cô sốt nóng đấy, cô ạ. Cô không được ra gió đâu.

Cô giáo gật đầu.

Cô ốm thật rồi. Hương quay ra bảo các bạn:

- Cô đang ốm. Khe khẽ cho cô ngủ. Các cậu về đi.

Còn lại một mình Hương, em không biết làm gì nữa, chỉ đứng nhìn cô. Cô giáo bảo em về. Em ngần ngừ mãi rồi mới chào cô, quay ra cửa. Sực nhớ tới những điều mẹ hay dặn em, và cả lúc cô giáo đến thăm em nữa, em quay trở vào, ngập ngừng:

- Cô... cô chịu khó nằm yên cho chóng khỏi để...

Em bỗng lúng túng. Với em thì là để đi học, đi chơi. Với cô giáo thì sao? Hương cúi đầu:

- Để... để hết ốm cô ạ.

Cô giáo bật cười, nói thêm:

- Để đến lớp với các em...

Hương nhoẻn cười. Có vậy mà em chẳng nghĩ ra.

Trên đường về nhà, Hương cứ băn khoăn mãi. Ai nấu cháo cho cô ăn? Ai bóp trán cho cô khỏi nhức đầu? Ai nâng cô dậy? Ai cho cô uống thuốc?... Bước chân em cứ chậm dần, chậm dần lại. Rồi, em bỗng bước nhanh hơn. Em về xin phép mẹ đến trông nom cô giáo. Em sẽ dỗ cô uống thuốc. Em bóp trán cho cô. Em còn kể chuyện "Cây khế" cho cô nghe nữa cơ, cô sẽ rất là... chóng khỏi...

giavui
06-04-2016, 07:14 PM
Cây Bàng Không Rụng Lá




Bếp lửa

Gà gáy lần thứ nhất.

Nhấp nháy những ông sao.

Gà gáy lần thứ hai.

Tàu cau im phăng phắc. Mặt ao phẳng lặng và ngọn tre cao vút mãi lên. Cả làng xóm vẫn còn yên giấc. Cô vạc ăn đêm bỗng thảng thốt giật mình nhảy vọt, vẫy đôi cánh nhẹ tênh.

Gà chưa gáy lần thứ ba, bếp lửa đã bập bùng. Bầy gà liếp nhiếp. Lợn mẹ cọ ổ rơm. Tiếng bú chồm chộp của lũ lợn con nghe đến là ngon. Ngoài kia, tất cả vẫn còn chìm trong bóng tối.. Bà em đã dậy từ lúc nào. Bà đang ngồi bên bếp lửa. Lửa rơm thơm thơm. Nồi cơm sôi lọc bọc. Siêu nước reo ù ù.

Gà gáy lần thứ ba.

Con cá chuối ngoài ao đớp mồi đánh "bũm". Giấc ngủ em bé đang say.

- Cù... cúc... cu... cù... cu... u... u...

Phành phạch đôi cánh vỗ, con gà trống đòi mở cửa.

Bà em nhai một miếng trầu. Mẹ gỡ tóc, chải đầu bên gốc mít, rồi mẹ xắn ống quần sửa soạn quang gánh đến sân kho.

Chỉ riêng em vẫn ngủ, giấc mơ yên lành.

Em ú ớ trở mình vì tiếng gà gióng giả. Ở phía mặt trời mọc, ửng lên một vừng hồng rực rõ.

Con liếu tiếu ngó nghiêng. Bà vẫn ngồi bên bếp. Nồi cám đã ùng ục. Con lợn sề hực hực đòi ăn. Mấy chú ốc bươu giật mình bởi gáo nước của mẹ múc, lừng lững chìm xuống đáy bể. Cái lá cây nom đã rõ hơn.

Em còn ngủ ngon...

Gà gáy lần thứ tư. Bà khẽ đẩy cánh cửa bước vào nhà. Bà đi không cần nhìn, mà cũng chưa nhìn thấy gì được. Bà gọi:

- Dậy đi học, con ơi!

Bà gọi cháu bà là con. Hai mươi năm trước bà đã gọi bố em như thế. Bây giờ, đến lượt em.

°

Cho đến tận bây giờ, chưa có đêm nào em được trông thấy con ốc bươu uống sương đêm. Chưa một lần em nghe tiếng vạc bay và ngắm bầu trời tinh mơ có những ông sao nhấp nháy. Chỉ biết khi em vừa thức giấc, nhà đã sạch, cơm đã chín và chị lợn sề đang ủn ỉn giữa đàn con no tròn như những cái trống cơm...

°

Hôm nay bà ốm.

Em hơ lá khoai môn đắp trán cho bà. Bà quài tay đấm lưng. Bà đau lưng nữa đấy.

Hôm sau.

Gà gáy lần thứ nhất.

Nhấp nháy những ông sao.

Gà gáy lần thứ hai.

Tàu cau im phăng phắc. Mặt ao lặng lẽ. Mẹ đã trở dậy. Gà chưa gáy lần thứ ba, bếp lửa đã bập bùng... Mẹ ngồi ngay chỗ bà vẫn ngồi mọi sớm.

Tự nhiên hôm ấy, em nghe thấy tiếng gà:

- Cù... cúc... cu... cù... cu... u... u...

Em liền tỉnh giấc. Con liếu tiếu véo von. Con gà trống lục tục đòi mở cửa chuồng. Mẹ em đã ra đồng. Bà em chưa khỏi. Chắc là bà vẫn đau lưng.

Em trở dậy, mới rõ nhà chưa quét. Nồi cám lợn đầy nguyên. Con lợn sề hực hực. Đàn gà con liếp nhiếp.

Em lúi húi làm dần từng việc: quét nhà, rửa mặt, thả gà, cho lợn ăn... thì vừa lúc mặt trời lên chói lọi.

Cứ như bà em không ốm, thì ngay từ lúc em còn ngủ, mọi việc đã xong xuôi.

Bà ơi! Bà dậy sớm biết bao nhiêu ngày như thế? Em hỏi bà, bà bảo bà không sao nhớ được.

Chắc cái bếp lửa nó biết. Nhưng bếp lửa này hễ vắng người là nó nguội tanh nguội ngắt. Bà em ốm, mẹ em mà không nhóm nó lên, sẽ chẳng bao giờ có được ánh lửa rơm thơm thơm thơm thơm...


Choai và Vá

Cùng sống với đàn gà, vịt, ngan, ngỗng trong sân nhà, có chú gà Choai và cậu chó con Vá. Vá chẳng được nhận cái tên Cún hay Mực, vì cậu ta có bộ lông do nhiều mảng màu sắc khác nhau chắp lại. Mặc dù đã có cả râu lẫn ria, Vá ta vẫn chỉ là cậu chó con. Cứ nghe cái tiếng ư ử và giọng sủa nhanh nhách thì biết. Vá đã nhớn nhao gì đâu? Còn, chú gà Choai kia, dẫu đã biết xù lông cổ, nhướn lên nhướn xuống, tròn mắt, dỏng mào, phẩy cánh phành phạch, nhưng rồi cũng chỉ gáy lên được một hồi "kéc-kè-ke" đứt quãng. Vậy thì làm sao nhận được ta đây gà trống? Oai lắm cũng vẫn còn phải đèo thêm cái tiếng: choai - trống choai.

Chả hiểu tại sao, Vá cứ hay trêu Choai. Nhìn cái điệu bộ khuỳnh khuỳnh và nghe tiếng gáy của Choai, Vá thấy ngứa ngáy, muốn đùa. Giọng Choai nghe như tiếng hát của một cu cậu đã khàn lại còn hay làm điệu.

Một lần, Choai vừa đi qua mũi Vá, Vá tợp luôn. Choai hốt hoảng nhảy đại lên, giật bắn cả người. Vá đã rứt đứt của Choai hai cái lông đuôi. Choai chúi đầu chúi mỏ chạy biệt vào trong vườn. Vá tinh quái nhằn nhằn túm lông đuôi của Choai rồi thè lưỡi, liếm mép, ngồi ật cổ ra. Cái thằng vậy mà nhát. Vá nghĩ thế. Lát sau, Vá đã chán nhằn lông đuôi Choai. Vui chẳng ra vui. Buồn cũng không buồn. Vá ngủng nghỉnh một mình. Đùa một tí mà nó cũng mất vía thế, chán thật.

Chả cứ gì Choai. Vịt, Mèo, Ngan... đứa nào cũng bị Vá đùa cho một keo như thế. Thành thử bây giờ, Vá ta đành thẩn thơ, thơ thẩn một mình.

Thấy cái chày giã bèo đứng dựa gốc mít, nom hay hay, Vá ngoáy tít đuôi xông tới. Thoạt tiên, Vá nhảy nhót, ướm:

- Đằng ấy đấy hả?

Chày im lặng.

Vá nhăn nhỏ nhe răng:

- Khinh người thế?

Chày chẳng nói chẳng rằng. Vá bực mình xông ngay vào. Cái chày đứng không yên, mới phang cho Vá một đòn tưởng gãy lưng. Vá đau quá, vừa kêu vừa lết vào xó hè nằm rên ư ử...

Còn Choai, từ lúc bị Vá đùa nhả, mãi mới trở về sân. Choai lững thững bước ngay tới chỗ Vá nằm. Thoạt nghe tiếng Vá rên rẩm, Choai hốt quá. Nhỡ nó lại tợp cho mình một miếng nữa thì nguy, đến trụi đuôi. Choai liền đứng choãi chân theo kiểu dễ đi giật lùi nhất, nhướn cổ ra, phập phồng cái họng. "Á à, đằng ấy định xỏ tớ như lúc nãy chứ gì? Đừng hòng". Đoạn, Choai co chân giật lùi, khẽ "ắc - ắc". Nhưng kìa, sao đằng ấy lại nằm rũ ra thế? Hai con mắt mới chán chứ, lờ đà lờ đờ. Lại còn thè lưỡi, nhỏ dãi ra. Choai nghiêng ngó. Khéo mà cậu ta bị ốm. Choai hỏi thầm: "Ốm hả?". Sao ốm nhanh vậy? Choai nhướn mỏ, ngó ngó. Đằng ấy ốm thật rồi cũng nên. Choai bước tới gần hơn, thân mật:

- Đằng ấy có đói không?

Vá chớp mắt. Choai gật gật, tóc tóc theo kiểu gà mẹ gọi gà con rồi vội vã chạy đi.

Nằm tại chỗ, Vá lo lắng. Không khéo thằng Choai này nó sẽ đánh để trả thù mình đớp nó. Kìa, Choai đã tốc tới. Thoáng thấy mấy hạt thóc rơi ở gần chỗ Vá nằm, Choai chúi mỏ chạy tới. Vá giật thót người, nhắm mắt nghĩ: "Ừ, bây giờ thì mày cứ việc mổ tao đi". Vá chờ một lúc, một lúc nữa, chẳng thấy gì. Vá he hé nhìn. Ơ, thằng Choai nó đang "tục tục" bập bập hạt thóc. Ra, nó bảo Vá chén đi đấy. Ôi, cái thằng cu Choai này. Vá nhắm nghiền mắt lại. Từ khóe mắt Vá lăn ra hai giọt nước trong vắt. Choai ngẩn ngơ, đánh rơi hạt thóc.

- Ơ!.... Ơ, cái cậu này...

Bồ nông có hiếu

Thế là chỉ còn có hai mẹ con bồ nông ở lại nơi nắng bỏng cát rang này. Từ thuở xa xưa, họ hàng nhà bồ nông không chịu nổi giá rét và nóng nực. Rét còn tạm, chứ nắng quá, bồ nông ngại lắm.

Phải năm trời hạn, mưa xuân chưa tan, gió nồm đã tới. Rồi cứ như bị đổ nghiêng, cả một vòm xanh ngắt rớt mãi ánh nắng chói chang xuống, khiến cho mọi nhà bồ nông hốt hoảng gọi nhau rời phương Nam lên phương Bắc. Có hai mẹ con chú bồ nông kia chẳng may bị nạn. Trên đường đi, bồ nông mẹ bị nắng chiếu quáng mắt, lao phải cành gai tre, suýt nữa gãy cánh. Bồ nông con dìu mẹ ẩn vào trong một hốc cây, chờ cho mẹ khỏi mới đi tiếp. Thấy vậy, các bác bồ nông khác cùng đi cũng đứng lại giúp đỡ một tay.

Một ngày, rồi hai ngày, bồ nông mẹ vẫn chưa nhấc cánh lên được. Mà, ngoài kia, trời cứ hầm hập như nung. Như thế này, không thể đuổi theo đàn được nữa. Bác bồ nông hàng xóm cần phải đuổi theo bầy con thơ dại, bác gọi chú bồ nông bé bỏng nọ lại gần, dặn dò mọi việc cần thiết trong khi săn sóc mẹ. Bồ nông con vâng dạ, ghi lòng. Từ buổi ấy, bồ nông con hết dắt mẹ tìm nơi mát mẻ, lại mò mẫm đi kiếm mồi. Đêm đêm, khi gió gợn hiu hiu, chú bồ nông nhỏ bé một thân một mình ra đồng xúc tép, xúc cá. Đôi chân khẳng khiu của chú vốn đã dài, giờ càng như dài thêm ra vì lặn lội.

Trên đồng nẻ, dưới ao khô, cua cá chết gần hết. Mặt sông chỉ còn sâm sấp, xơ xác rong bèo. Bắt được con mồi nào, chú bồ nông cũng ngậm vào miệng để phần mẹ.

Hun hút đêm sâu, mênh mông ruộng vắng, chỉ nghe tiếng khua chạm cỏ khô dưới chân mình, chú bồ nông vừa sợ, vừa lo. Có đêm đi tới canh một, canh hai, vẫn chẳng xúc được gì. Đã định quay về, nhưng cứ nghĩ đến mẹ đang ốm đau, chú ta lại gắng gượng mò thêm.

Dạo anh em nhà bồ nông còn bé, mẹ còm cõm lặn lội nuôi cả đàn con đến rạc người. Mỗi bận trở về nhà, mẹ há mỏ ra cho các con ăn no, mà bụng mẹ vẫn cứ cồn lên. Các con càng lớn, mẹ càng vất vả. Bữa bữa nuôi con, mẹ chỉ lo con đói. Giờ đây, khi đã biết nghĩ, chú bồ nông mới hiểu rằng trong những bữa ăn ấy, đàn con của mẹ chỉ thấy ngon lành. Còn mẹ, có khác nào mẹ đã rút cả ruột gan ra để nuôi con. Cứ nghĩ tới điều đó, bồ nông lại thấy mình mạnh dạn, khỏe khoắn hơn lên. Và, không một lần nào đi kiếm mồi mà bồ nông chịu trở về không.

Ngày này tiếp ngày nọ, đêm nay rồi đêm nữa, chú bồ nông cứ dùng miệng làm cái túi đựng thức ăn nuôi mẹ qua trọn mùa hè, sang mùa thu.

Tới mùa đông, đàn bồ nông từ phương Bắc trở về, ai nom thấy chú bồ nông nuôi mẹ ốm cũng phải kêu lên. Chú ta gầy quá. Cái mỏ xưa vốn gọn ghẽ, nay chảy sệ xuống hệt cái túi.

Lòng hiếu thảo của chú bồ nông đã làm cho các chú bồ nông khác cảm phục và noi theo.

Ngày nay, như chúng ta đã biết đấy, chú bồ nông nào cũng có cái túi ở miệng. Cái túi được dùng vào nhiều việc khác nhau. Nó vừa là chiếc lưới, cái giậm, cái nơm đi đánh cá; vừa là kỷ niệm hiếu thảo của một đứa con ngoan...

giavui
06-04-2016, 07:15 PM
Cây cột mốc và con ngựa

Giữa trưa, đường vắng. Nghe xa xa có tiếng vó ngựa khua giòn. Kìa, một chiếc xe chở hàng chạy tênh tênh trên đường nhựa. Chiếc xe lắp bánh ô-tô lăn êm ru. Thế lại càng làm cho tiếng móng sắt gõ vang trưa vắng. Nắng tinh quái cưỡi lên lưng chú Ngựa mà đốt. Nóng râm ran, toát cả mồ hôi. Chú Ngựa ngửng đầu nhìn con đường dài hun hút...

- Pập pập pập! Pập pập pập!

Sao mà thèm, mà mong được chạy trên con đường cát mịn quá. Lần nào cũng thế, chú Ngựa lúc đi, chỉ mong chóng hết chặng đường đá. Khi về, chú ta ước ao cho đoạn đường cát mịn dài ra...

Chú Ngựa gật gật cái đầu mỗi lúc một nhanh, chẳng còn mấy nữa sẽ tới ngã ba, nơi rẽ sang vệt đường mịn cát. Chú ta sẽ được nghỉ, cho đỡ rát móng. Chặng nghỉ này không lâu nhưng thú vị.

- Phì!

Chú Ngựa hào hứng nghĩ: "Mình lại tiếp tục cho cái anh chàng Cột Mốc đứng ở chỗ nghỉ chân kia một mẻ mới được. Lần trước, nói chưa xong câu chuyện thì đã phải lên đường rồi".

- Pập pập pập! Pập pập pập!

Ngã ba kia rồi! Chú Ngựa nghển cổ, tung vó lao nhanh hơn. Rẽ, rẽ này! Ôi, khoái quá. Chỉ một thôi nữa là được nghỉ.

Xe dừng ngay bên cạnh cây Cột Mốc. Bác đánh xe thong thả quấn vài vòng dây cương vào gốc cây bàng ba tầng lá cho Ngựa đứng. Mát quá!

Nhá xong lưng bị ngô, Ngựa mới bắt đầu vào chuyện.

Bao giờ cũng vậy, với ai cũng thế, Cột Mốc luôn luôn là một người hiền lành, ít nói. Ngựa vẫy tai, khiêu khích:

- Từ hôm nọ đến hôm nay, đằng ấy đi được những đâu rồi?

Cột Mốc không trả lời.

Ngựa có vẻ khoái vì đối thủ im tiếng:

- Ừ, đằng ấy biết điều mà chịu thôi đi, thế là phải. Làm sao mà đằng ấy hiểu được sự đời bằng tớ cơ chứ. Một đằng, có những bốn chân, đã từng đi khắp chốn khắp nơi, trên rừng, dưới biển, thành phố, nông thôn... đâu đâu cũng có mặt. Một đằng, cẳng một chiếc, suốt tháng quanh năm cắm chặt tại chỗ... Đằng ấy chịu thua tớ rồi chứ?

Cột Mốc vẫn chưa nói gì. Ngay từ lúc nghe thấy tiếng vó khua từ xa, Cột Mốc đã biết mình sắp sửa phải giáp mặt với cái anh chàng Ngựa háu đá ấy rồi. Thằng cha đi khỏe, chạy tài thật. Nhờ vậy Ngựa biết được rất nhiều chuyện lạ, điều hay. Cột Mốc cũng muốn được như Ngựa lắm. Nhưng, công việc của Cột Mốc là ở chỗ này, làm cột tiêu báo cho mọi người, mọi xe chạy qua khỏi bị tai nạn.

Ai có việc của người nấy chứ.

Đợi cho Ngựa nói xong, Cột Mốc mới thủng thẳng:

- Tớ có nhận là tớ giỏi giang hơn cậu bao giờ đâu. Cậu được đi xa nên biết rộng, hiểu nhiều. Còn tớ, tớ phải đứng im một chỗ, tớ cũng có điều hiểu biết mà cậu không thể có được.

Ngựa nghe mà khó tin:

- Điều gì, cậu nói thử xem nào?

- Chẳng hạn như thế này: trước cậu, ai đã đi qua đây? Khi cậu đi rồi, ai sẽ tới? Ngày mai, lúc cậu chưa quay trở lại, cậu có biết chuyện gì sẽ xảy ra quanh nơi tớ đứng không?

Ngựa ta bí quá, nói liều:

- À, điều đó thì tớ không thèm biết!

Cột Mốc cười:

- Ấy, cậu đừng cáu. Nếu cậu muốn biết, tớ sẽ kể cho cậu nghe. Với tớ, cũng như thế đấy. Tớ chỉ có thể hỏi cậu, tớ mới rõ được những miền xa mà tớ không được đi.

Ngựa vùng vằng:

- Tớ không thèm hỏi và cũng không thèm kể cho cậu nghe.

Cột Mốc vẫn ôn tồn:

- Cậu lại nhầm rồi. Mình và cậu, đứa nọ vẫn cứ phải nhờ vào đứa kia thì mới có thêm được cho mình những điều hay, điều tốt.

Ngựa văng liều:

- Tớ không thèm!

Và ức quá, Ngựa chỉ muốn đá cho Cột Mốc một cái. Được, đã thế thì... Ngựa chờ lúc bác đánh xe ra hiệu tiếp tục lên đường, Ngựa cố ý bước chệnh choạng, kéo sát thành xe kích vào Cột Mốc. Cột Mốc ngã lăn chiêng và chỉ kịp nói:

- Cậu ấy lại nhầm nữa rồi!

°

Hai hôm sau, chú Ngựa kéo xe trở về đúng ngay phải buổi xấu trời. Xe đang bon trên đường cát mịn thì gặp cơn giông. Mà trời lại bắt đầu tối. Gió thổi, cát bay mù mịt. Cả bác đánh xe lẫn chú Ngựa đều không ngửng đầu lên được. Họ vừa đi vừa cúi gục xuống, cố nhìn cây cối mọc hai bên đường cho khỏi chệch xe. Tới quãng hết cây cối, họ phải trông vào những cây Cột Mốc đứng chỉ đường. Chú Ngựa dò dẫm, bước từng bước dè dặt. Gió, cát vẫn thốc lên. Bỗng, chiếc xe thụt hẫng xuống một cái, chổng ngược càng. Ngựa giật mình hí vang. Bác đánh xe nhảy phắt xuống, kêu:

- Thôi! Sa xuống bãi cát rồi!

Vừa nói, bác vừa cố sức bắt bánh xe. Nhưng, không được. Chiếc xe bị trượt, đã quay ngang, càng lún xuống sâu hơn. Bác đánh xe đi quanh một vòng rồi lẩm bẩm:

- Quái, đứa nào lại nhổ cái Cột Mốc ở đây đem đi đâu thế?

Chú Ngựa giật mình nhớ ra và nín thinh.

Đành phải dỡ hàng trên xe xuống cho nhẹ rồi mới bắt bánh lên được. Trong lúc loay hoay khuân vác, bác đánh xe đá phải cây Cột Mốc. Bác nhấc cây Cột Mốc lên, cắm trả vào chỗ cũ. Tới lúc cả người lẫn xe ra được mặt đường thì Ngựa đã sùi cả bọt mép.

Thấy Ngựa lử khử bước qua, Cột Mốc đã định nói cho một câu. Song, khi nghe tiếng thở hồng hộc của Ngựa, Cột Mốc thương tình không nói nữa.

Cái cúc màu xanh

U! Mà tại sao thế nhỉ?" Bé Thu Hương lạ quá đi thôi. Bạn Hà ở lớp hát hay. Bạn Nga học giỏi nhất. Bạn Quỳnh làm tổ trưởng tổ 3. Bạn Lễ thì múa dẻo. Chị Trang của em đã học tới lớp 10. Chỉ có Thu Hương là Thu Hương thôi, chán quá!

Bé phụng phịu với mẹ:

- Mẹ ơi, mẹ gọi con là Hà, là Lễ đi!

Mẹ lạ quá. Lạ không kém gì Hương.

- Tên là Hương, đẹp con ạ.

- Con chả thích đẹp.

Mẹ ngạc nhiên:

- Thế con thích gì nào?

- Con thích được cô giáo khen như cái Hà. Con thích học giỏi, cái Nga nó nhất lớp đấy. Mẹ chẳng gọi con là Nga.

Giờ thì mẹ hiểu rồi, nhưng biết làm thế nào bây giờ? Mẹ chỉ bảo:

- Thì con cứ học chăm và cứ ngoan đi.

- Không. Con không thích tên là Hương nữa đâu!

Mẹ chịu. Mẹ chịu thật. May quá, có bà. Bà vẫy em lại:

- Ra bà cho cái này.

Hương ngoẹo đầu:

- Cháu chả thích cái này!

Bà thủ thỉ như kể chuyện cổ tích:

- Cái này tài lắm cơ. Bà bảo thật đấy. Nó sẽ cho con được khen, được nhất lớp và như chị Trang kia.

Bà vừa nói xong, Hương sán ngay đến. Bà nhấc thúng khâu, lục tìm trong túi đựng cúc, lấy ra một chiếc xinh xinh. A! Cái cúc nhựa màu xanh long la long lanh.

- Bà khâu cho con cái cúc này vào hàng khuy. Ai trông thấy cũng phải khen, phải thích.

Thu Hương tươi như hoa.

Sáng hôm sau, khi tới lớp, bạn nào trông thấy cái cúc của Thu Hương cũng xuýt xoa là đẹp. Buổi học ấy, bạn Hằng thuộc bài nhất, bạn Lan sạch sẽ nhất.

Hương về bắt đền bà:

- Cháu chán cái cúc màu xanh lắm.

Bà nhặt mấy vụn rơm trên tóc cháu, thì thầm:

- Đừng. Tại cháu cứ hay chạy đấy - chạy lắm, bị ngã, cái cúc xinh nó xấu đi, làm cháu không được khen.

Bé Hương không chạy nữa. Không chạy thì không ngã, không bẩn quần áo, không lấm tay. Mười ngón tay xinh xinh cứ đỏ hồng hồng, cô giáo khen hai bàn tay Thu Hương sạch, đẹp nhất.

Hương vui lắm, giục bà:

- Bà ơi! Bà bảo cái cúc cho cháu nhất lớp đi.

Bà xoa xoa cái cúc trên áo cháu:

- Cái cúc nó bảo cháu đừng quay đi quay lại, đừng nói chuyện trong khi cô giáo giảng bài, đừng đánh dây mực ra vở...

Bé Hương làm theo mà vẫn chưa được nhất lớp:

- Bà ơi! Lâu quá bà ạ!

Bà nhìn áo bé:

- Tại cháu mặc cái áo không có cúc xanh đấy!

À, thảo nào. Chiếc áo ấy giặt, chưa khô. Bà lại tìm trong thúng khâu, lấy thêm mấy chiếc cúc nữa, khâu vào tất cả mọi chiếc áo của em, mỗi cái một chiếc cúc màu xanh. Bà dặn thêm:

- Cái cúc nó bảo cháu đừng có nhăn mặt với bạn, đừng "mày tao", cãi nhau chí chóe, thì mới là học sinh ngoan...

Cái cúc xanh nó tài ghê cơ. Bé Thu Hương làm gì nó cũng biết. Nó bảo cái gì cũng đúng. Đến là yêu...

Một hôm, là hôm rất lâu sau nhiều ngày có cái cúc xanh trên áo, bé Thu Hương đi học về, reo ầm lên từ ngoài cổng:

- Bà ơi! Bà ơi!...

Bà vội vàng bước ra.

- Bà ơi! Cháu cứ tên là Hương cơ, bà ạ!

Bà ôm choàng lấy bé:

- Sao? Sao? Cháu kể bà nghe!

Thu Hương vừa nói, vừa thở:

- Bà ạ, cô giáo cháu bảo em Thu Hương dạo này ngoan... em Thu Hương thuộc bài nhất... em Thu Hương sạch sẽ nhiều... em Thu Hương...

Mắt cháu long lanh, mắt bà chớp chớp. Bà nựng:

- Ừ! Ừ... cái cúc ngoan ngoan của bà...

Bé cười chúm chím:

- Cái cúc ngoan ngoan của cháu chứ!

- Ừ... cái cúc ngoan ngoan...

Trò chơi của bố

Bố sắp bắt đầu rồi đấy! Bố luôn luôn có những ngạc nhiên dành cho con gái bố. Vào lúc không bận bịu gì, hai bố con ngồi chơi với nhau như đôi bận cùng tuổi.

- Mời "bác" xơi! - Hường đưa cái chén nhựa to bằng đầu ngón tay giữa của bố, cho bố.

Bố đỡ lấy và đỡ bằng hai tay hẳn hoi, nói như thật:

- Xin "bác" - Mời "bác" xơi.

- "Bác" xơi nữa không ạ? - Hường tiếp.

- Cảm ơn "bác", "tôi" đủ rồi... - Bố nói.

Đoạn hai bố con cùng phá lên cười.

Mẹ tủm tỉm nguýt bố:

- Cứ như trẻ con ấy.

Bố ôm lấy Hường, nhấc bổng em lên:

- Bố con ta "bánh đa bánh đúc" con nhỉ!

Hường rúc rích chúi vào ngực bố. Yêu bố ghê...

Bố có rất nhiều việc phải làm, mà hình như bố không lẫn, không quên, kể cả những trò chơi...

Như hôm nay, hai bố con lại chơi "ăn cỗ".

- "Bác" ăn gì nào? - Hường hỏi.

Bố dịu dàng:

- "Bác" phải hỏi "tôi" là "tôi" xơi gì chứ?

- Vâng ạ. "Bác" xơi gì ạ?

- Dạ, "bác" cho tôi bát bún mì!

Hường dừng tay lau "bát đĩa".

- Không có món nào như thế đâu ạ.

- À! Vâng "tôi" nhâm, cảm ơn "bác"...

Lát sau, hai bố con đổi cho nhau.

Bố hỏi:

- "Bác" xơi gì ạ?

- Dạ, xin "bác" bát mì bún.

- Món ấy không có đâu ạ.

- "Bác" cho miến vậy.

- Mời "bác".

Hường đưa tay ra cầm lấy cái chén nhựa.

- Ấy "bác" phải đỡ bằng hai tay. "Tôi" đưa cho "bác" bằng hai tay cơ mà...

Mẹ nhìn hai bố con, lần này mẹ không nguýt bố và cũng không tủm tỉm.

Năm nay, bố đi xa, bé ở nhà với mẹ.

Đến bữa cơm, mẹ để bé xới cơm cho mẹ. Cứ nhìn hai bàn tay của Hường lễ phép bưng bát cơm lên, mẹ lại nhớ đến hai bố con chơi với nhau. Bé Hường chẳng biết được đâu. Cũng như bé làm sao đoán biết được ngay trong trò chơi ấy, bố đã dạy con một nết ngoan.

Và mẹ viết thư cho bố, kể: "Em đã biết chơi với con như anh".

Buồn cười thật, thế mà mẹ cũng khoe!

giavui
06-04-2016, 07:16 PM
Cái kẹo và con cánh cam

Bài văn của lớp một chỉ là nhiều câu trả lời nối liền nhau. Chẳng hạn như "bài" này: "Khi đi học em mang theo những gì?".

Trung xoay xoay cái quản bút rồi trở ngược, gõ gõ xuống mặt bàn. Một giọt mực bắn ra. May quá, nó lại rơi xuống tay.

Đi học, mang theo túi, sách, vở, bút, mực, thước kẻ, phấn, bảng tay, giẻ lau... chứ gì? Nhưng, Trung còn mang theo hôm thì cái kẹo, hôm thì cái bánh quy và con cánh cam nữa cơ? Cô giáo không biết đâu. Em cũng chẳng cho ai nhìn thấy hết. Thế có "cho" kẹo và cánh cam "vào" câu hỏi không? À, câu trả lời chứ?

Chú bé tì tay vào má, nhìn vơ vẩn, tưởng không làm gì mà hóa ra đang nghĩ đấy.

Không, phải viết chứ. Không viết là nói dối. Mình đã mang theo cái gì thì viết tất. Trung thêm câu này: "Em còn mang kẹo và con cánh cam nữa ạ". Có cần "ạ" không nhỉ? Mình tự trả lời cơ mà. Thôi, bỏ "ạ" đi.

Lúc trả bài, Trung được hẳn 8 điểm, nhất lớp. Cô giáo khen: "Bài em Trung có ý mới. Nhưng kẹo thì nên ăn ở ngoài sân và con cánh cam thì để ở nhà".

Lần sau, Trung để con cánh cam ở nhà thật, nhưng bài văn mới lại không cần nói đến con cánh cam nữa. Bài văn này, chắc chắn vẫn hay.

Con cóc

Con cóc ấy, chỉ là con cóc thôi, nhưng mà da nó vàng, ông nội bảo, đấy là con cóc vàng chứ không phải con cóc đen.

Bé Lê theo bà lên ở với ông nội được mấy hôm thì trông thấy con cóc ấy.

Buổi sáng, bé dậy đánh răng rửa mặt chưa xong, con cóc đã từ đâu không biết, nhảy bồm bộp qua sân, vào nhà.

Buổi tối, bé còn đang múc nước trong vại để rửa mặt mũi chân tay, con cóc lại từ trong nhà nhảy ra. "Nhà" của cóc ở tận dưới gầm giường cơ. Lạ lắm. Bé Lê mới hỏi ông:

- Ông ơi! Con cóc nó đi đâu về thế?

Ông bảo:

- Nó đi làm việc về đấy cháu ạ.

- Việc gì hở ông?

- Việc bắt lũ sâu bọ làm hại cây cối.

Khi con cóc nhảy ra, bé hỏi:

- Ông ơi! Tối rồi, con cóc nó còn đi đâu thế?

- Nó đi làm việc đấy cháu ạ.

- Việc gì hở ông? À, cháu nhớ rồi. Thế bao giờ nó mới về ạ?

- Đến sớm mai.

Vậy thì con cóc nó không được ngủ. Thương con cóc quá. Thế mà nó chẳng nói cho ai biết.

Sáng hôm sau, con cóc nhảy về, bé đứng tránh cho con cóc đi.

Con cóc ấy, là con cóc thôi, nhưng mà nó hiền lành, chăm chỉ và có ích.

Ai giống mẹ

Tất cả các cô bé hiện đang sống trên trái đất này, ai nấy đều có mẹ.

Và, tất cả các bà mẹ đều yêu thương con mình. Con rét thì mẹ lạnh. Con ngã thì mẹ đau. Con đói, ruột gan mẹ cồn cào. Con ngoan, mặt mẹ nở hoa. Con hư, lòng mẹ rầu rĩ...

Chả thế mà ngay cả con chim non cũng biết nghe, biết nhận ra tiếng kêu của chim mẹ để bay theo.

Sung sướng biết bao nhiêu nếu mình giống mẹ.

Có ba cô bé ở cạnh nhà nhau, khoe nhau, đố nhau, đứa nào giống mẹ nhất.

Cô bé thứ nhất kể:

- Mắt mình này, miệng mình này, rồi chân tay, cả tóc mình nữa, giống mợ mình nhất.

- Tớ cũng thế, nhưng tớ còn hơn cậu cơ. Áo tớ có hoa y như áo của mẹ tớ là một. Tớ cũng có vòng đeo ở tai như mẹ tớ là hai. Mẹ tớ còn bảo sẽ uốn tóc tớ y như mẹ tớ là ba... ấy.

Cô bé thứ ba má bụ mắt tròn suốt từ nãy đến giờ chỉ đứng nghe các bạn nói. Em cũng muốn khoe lắm, nhưng chẳng thế nào hơn những điều mà các bạn ấy đã kể đâu. Vì rằng thỉnh thoảng mẹ em lại cứ khen em giống bố cơ. Thế là chịu thua hai bạn ấy.

Sau lúc gặp nhau, ba cô bạn ai lại về nhà nấy. Cô thứ nhất nhớ ngay là bụng mình đang đói. Cô thứ hai chỉ mong mẹ chóng về để còn đi uốn tóc. Cô thứ ba thấy đôi dép của em bé vương dưới gầm giường bố. Em bỗng ngần ngừ. Không, dép của em bé, mẹ để ở góc nhà cho em cơ. Cô bé liền đặt lại đôi dép y như mẹ vẫn làm. Rồi, em nghển cổ nhìn ra dây phơi xem quần áo khô chưa, có cái nào bị rơi không. Mẹ hay "thế" lắm.

Chợt thấy bóng mình trong gương. Em đưa tay lên vuốt tóc, y như mẹ lúc soi gương... Cô bé trong gương ấy đang cười. Mặt gương long lanh như muốn nói:

- Cô bé ơi! Chính cô là cô bé giống mẹ nhất!

Chú bé và ông già nhặt đá

Ngôi nhà ấy xây xong từ bao giờ - ngày nào, tuần nào của tháng nào năm ngoái - không mấy ai biết rõ hay nhớ rõ. Lớp vôi quét chưa khô, đã có người đến ở. Ai biết căn hộ nấy. Vì rằng, kiểu "lắp ghép" mới này rất tiện. Đun, nấu, tắm, giặt, ăn uống, ngủ, làm việc, không cần phải mở cửa ra đến hiên. Nhà lại những năm tầng. Thế cho nên, cứ ô cửa nào có ánh đèn vào ban đêm, có dây phơi hay xe đạp dựa ngoài hiên lúc ban ngày, là căn hộ ấy đã được "chiếm lĩnh". Tụi trẻ con gọi vui như thế.

Khu tập thể này mới quá. Mới đến nỗi ai ở bên cạnh nhà mình, nhiều người vẫn chưa biết. Có khi chưa cần biết vội. Chỉ có lũ trẻ là không chịu thế. Chúng tìm nhau rất nhanh. Càng bé càng nhanh. Bé quá mới chịu.

Hôm nay, ngôi nhà số 1 ấy không còn trống một buồng nào và nó đã có một cái tên thật hấp dẫn: "Chiến hạm số 1". Rất tiếc là cái nhóm thủy thủ tí hon ấy mới còn ở quân số của một A (tiểu đội). Dù sao, chiến hạm cũng đã ra đời và cái nhóm thủy thủ ấy ngày nào cũng gặp nhau. Chú bé có vẻ là người chỉ huy, tên là Ngọc, là con nhà ai, cũng chỉ bọn trẻ con mới biết.

Nơi quần tụ của chúng là bãi đất trước căn nhà. Lổn nhổn, lõng bõng, lép nhép, gọi là mặt bằng. Băng qua cái bãi ấy, sẽ tới một hồ nước. Hồ khá rộng. Trời nắng, không có chuyện gì xảy ra; trời mưa, khối người ngã. Ai bảo ra hồ! Cái chuyện vặt ấy, có gì là lạ.

Một hôm, có hai đứa bé cãi nhau, rồi choảng nhau. Thoạt đầu là cú đấm. Sau, là cục đá nhặt ngay dưới chân.

Một hôm nữa, có chú bé con lên ba, nhà bỏ sểnh, chạy ra chơi, vấp ngã, trán lồi ra một cục to gần bằng cục đá vấp phải.

Chuyện, trẻ con thì biết đâu mà lo!

Rồi, một hôm, chú bé Ngọc phát hiện ra một chuyện ngồ ngộ. Ấy là một ông già nào đó, không biết ở căn hộ nào, cứ lúc chú ta đi học, thì ngồi lọm cọm nhặt đá vào cái chậu men thủng rồi bê đổ vào một chỗ. Giá một vài lần, chú ta cũng quên, cũng chẳng để ý. Đằng này, có đến cả tháng trời như thế. Chú ta thấy hay hay. Ông già tóc bạc phơ ấy định trồng rau? Các cụ già hay thế lắm. Nhưng nội quy ở đây không cho ai trồng rau ở sân. Vả lại, ô-tô của công trường còn chạy đi chạy lại luôn xoành xoạch. Vì tò mò, chú bé để ý, theo dõi và biết đấy là ông già về hưu của một trường học. Ông không phải là giáo viên - vì ông làm hiệu phó. Thế đấy, các ông già về nghỉ, chắc là buồn, nên đi nhặt đá... chơi cho nó đỡ buồn!

Lập tức, Ngọc ta tặng luôn cho ông già ấy cái tên "ông già nhặt đá".

Kỳ lạ, ông già còn nhặt những hòn đẹp, chôn xuống đất, vạch thành một vệt như đường kẻ ở sân đá bóng, cách bờ hồ nước chừng năm mét. Ngọc nghĩ: "Chắc ông già định đánh dấu để sau này trồng cỏ".

Chừng như khám phá hết bí mật cái công việc lọm cọm của ông già, chú bé liền quên đi.

Mùa nắng qua...

Mùa mưa tới...

Rét, và rét...

Bãi đá củ đậu của ông già đã cao ùn. Ông cũng thôi làm việc ấy đã lâu...

Bỗng đì đoành pháo nổ quanh ngôi nhà "chiến hạm".

Vào một buổi chiều cuối năm, có một cô còn trẻ, mặc chiếc áo vét rất đẹp, tóc phi-dê, dắt chiếc xe đạp cũng đẹp đến đón ông già đi ăn Tết ở đâu không rõ. Bọn Ngọc phát hiện ra điều đó vào ngày hôm sau, hai mươi sáu tháng Chạp. Chả là các chú bé đã quen với cái sân bây giờ hết lổn nhổn. Các chú còn đá bóng. Và, cái vạch đá của ông già đã biến thành đường biên rất tiện.

Ông già đi đâu? Tự nhiên cậu bé Ngọc thấy trống trải, nhớ nhớ một cái gì nhè nhẹ và thân thân...

Ra, ông già cũng hay đi đây đi đó. Với lại bọn trẻ còn bận học.

Các bà mẹ có con nhỏ dẫn em đi chơi, đã quen dặn con:

- Đừng cho em ra quá cái vạch đá đấy!

Ra đó còn là một giới hạn.

Chiều ba mươi Tết, có một toán các cô các chú cán bộ đến tìm nhà ai, cứ ngơ ngơ ngác ngác. Hỏi, mới biết là họ tìm "Ông già nhặt đá". Lại chính Ngọc ta gặp toán người ấy.

- Ông ở nhà đây đi về quê ăn Tết rồi các cô các chú ạ.

Một cô vẻ mặt buồn thiu:

- Đã bảo các cậu mà, thầy có thể về quê với đàn cháu từ sớm...

Tự nhiên chú bé Ngọc thấy nôn nao trong người. Chú bé sực nhớ là mình chưa rủ bạn đi thăm các thầy cô giáo nhân dịp Tết. Và, chú bé thấy nhớ ông già một cách lạ lùng. Tại sao, chú không biết, nhưng chú bé thấy thương ông già vào cái lúc ông còng lưng xuống mà bưng chậu đá...

giavui
06-04-2016, 07:17 PM
Tiếng mưa

Em không mong trời, mưa. Nhưng, em lại thích nghe tiếng mưa rơi. Từng chuỗi hạt mưa theo nhau rắc lên tàu chuối rào rào như môt bài đồng ca, nghe sao mà vui lạ. Mỗi lần gió tạt, tàu cau trên nóc nhà lại để rụng từng chùm hạt nước to tướng, vỗ mạnh xuống mái rạ. Em nghe rõ cả tiếng lóc bóc như trẻ con tập đếm của giọt gianh lúc mới ngừng mưa. Mà rồi, dù trời đã tối, em vẫn cứ như nhìn thấy rất rõ cái rãnh nước chảy vội chảy vàng như một dòng sông nhỏ đang mùa lũ. Em đã từng thả những "hạm đội" thuyền giấy có buồm và có mui trên "dòng sông" cuồn cuộn nước mưa kia...

Chẳng hiểu tại sao em thích mưa đêm hơn mưa ngày. Mưa đêm có lẽ dễ ngủ ngon và nghe tiếng mưa cũng hay hơn. Em còn có thể đoán ra từng ý muốn của mưa. Đã mưa rào là y như sau đó có lúc đột ngột ngừng tạnh, để rồi lại sầm sập tuôn mưa. Nếu mưa lai rai, sợi nước dài như sợi miến, lưa thưa, ấy là lúc mưa chơi trò "thổi bong bóng". Từng đám bong bóng nổi bềnh lên, thốt vỡ tan, thốt lại hiện ra tưởng không bao giờ thôi. Sân nhà em là sân đất, hễ có mưa bong bóng là biết ngay.

Ví như đêm nay đây, trời đổ mưa rào. Em nằm nghe mưa, rồi ngủ biến đi từ lúc nào không biết nữa. Chợt, có một tiếng gì đấy, nổ to lắm, đang tan ra trong tiếng mưa rơi, làm em tỉnh giấc. Trời vẫn còn khuya...

Một ánh chớp lóe lên. Em thốt giật mình. Mẹ em đâu? Chiếc chăn mỏng trên mình em đây, hẳn mẹ vìla mới đắp cho? (Vì lúc ngủ em kê chăn để gối đầu).

Lại một ánh chớp nữa, và gió lạnh lùa qua cửa sổ. Cùng lúc ấy, mẹ em nhẹ bước, đẩy cửa, vào nhà.

Tưởng em ngủ say, mẹ vén màn cúi xuống "thơm em". Em quàng tay qua cổ mẹ, thì thầm:

- Mẹ đi đâu thế?

Má mẹ lạnh quá. Mẹ áp má mẹ vào má em:

- Ngủ đi con. Mẹ xuống bếp che mưa cho mẹ con đàn gà mới nở.

Trong mưa, em nghe thấy tiếng nhiếp nhiếp của lũ gà con. Một lát sau, cái tiếng chiêm chiếp líu ríu ấy không kêu lên nữa. Hẳn con gà mẹ đã ủ kín lũ gà con...

Trong cánh tay ấm áp của mẹ, em lại ngủ thiếp đi. Mưa vẫn rơi rơi...

25-10-1969


Đôi bàn tay mẹ

Mẹ ơi! Mẹ có mỏi tay không?

Mẹ đã bế anh em chúng con trên đôi tay lúc nào cũng mềm mại ấy. Trong tay mẹ, chúng con thấy êm ấm hơn nằm trong nôi.

Trời nóng, gió từ tay mẹ đưa con vào giấc ngủ. Trời rét, mẹ là chiếc ấm giành, còn chúng con là cái tích con.

Bàn tay mẹ niêng niêng đỡ con tập đứng, tập đi.

Không có manh áo nào đẹp như tấm áo mẹ may. Dù trời không nắng, áo quần của con vẫn khô. Bàn tay mẹ đã thay cả năng, gió, làm cho tã, lót chúng con không bao giờ ướt. Cơm con ăn, tay mẹ nấu, nước con uống, tay mẹ xách, đun. Thế mà mẹ chỉ có đôi tay. Thử hỏi mọi vật, mọi việc ở trong nhà này, có cái gì là không mang dấu tay mẹ:

- Mẹ ơi! Mẹ có mỏi tay không?

Các bạn của tôi ơi! Đã có khi nào bạn quên hỏi câu ấy. Đã có lúc nào bạn ngồi đếm thử xem, trong một ngày, đôi bàn tay của mẹ đã làm xong bao nhiêu việc? Thế mà mẹ chỉ có hai bàn tay thôi.

Bạn đã làm gì giúp mẹ?

11-10-1969

Cây ổi Bo

Ong tôi năm nay đã già hơn bố tôi nhiều lắm. Tóc ông bạc phơ và ông không thể ăn mía như tôi được. Tuy vậy, chưa có hôm nào tôi thấy ông không làm một công việc gì đó. Nếu không cuốc vườn thì ông đọc sách. Nếu không tưới cây thì ông cho gà, cho chim câu ăn. Ông tôi trồng cây rất giỏi. Hình như những cái cây con ấy, chúng chỉ thích để cho ông tôi chăm sóc. Hễ thấy tôi nhảy nhót trong vườn là y như ông lại khẽ khàng:

- Cẩn thận, cháu! Kẻo gãy cây.

Tôi rất quý ông tôi, nên tôi yêu luôn cả cái vườn cây do ông tôi trồng. Một phần ông tôi đã bỏ biết bao công sức vào cái vườn ấy. Phần nữa, cũng còn vì những khóm cây kia - trừ loại chỉ ra hoa - chúng đã cho tôi ăn quả. Trong tất cả các thứ cây hiện có trong vườn ông tôi đây, chỉ còn có mỗi một cây là tôi chưa được... "nếm" trái. Đấy là cây ổi. Giống ổi Bo ông tôi mang tận tỉnh Thái Bình về trồng. Nhìn cây ổi thon thả vươn cao những lá xanh lục, thơm thơm mùi... ổi xanh, tôi loáng thoáng nhớ hình như đã được ăn thứ ổi đó rồi. Ổi Bo quả to, cùi dày, ngọt, mát như lê và ruột rất ít hột. Vào lúc chỉ có hai ông cháu trong vườn, thế nào tôi cũng tha thẩn hỏi:

- Ông ơi! Cây ổi này rồi nó có ra nhiều quả không?

Ông tôi trả lời:

- Nhiều lắm cháu ạ.

- Nó có to không ông?

- To lắm.

Tôi tưởng tượng ngay ra một cây ổi to, xanh tươi cành lá, chiu chít trĩu nặng quả. Ôi những quả ổi "kềnh" bằng cái bát múc canh nhỡ ăn mới ngon lành làm sao! Tôi thấm nuốt nước bọt:

- Chắc ngon lắm ông nhỉ?

Ông gật đầu:

- Ngon, cháu ạ.

Nói rồi, ông tôi nhìn tôi, móm mém cười. Thấy ông cười, tôi mới giật mình, băn khoăn:

- Ông... thế ông có ăn được ổi không?

Tôi biết chắc là ông tôi không nhai được ổi nữa. Song, vì lòng thương ông, nên tôi không giữ được câu hỏi ấy ở trong đầu.

Hỏi xong, tôi cứ sợ ông tôi buồn. Vậy mà không, ông vẫn vui:

- Ông không ăn được thì đã có cháu ông ăn...

Tôi ngả đầu vào lòng ông tôi.

Ông ơi! Cháu nhớ ra rồi! Khi cây có quả, bao giờ ông cũng cho cháu ăn. Còn ông, thì ông chỉ ngồi cười, vui vẻ nhìn đàn cháu ríu rít quanh ông.

Ông ơi! Hôm nay cây ổi Bo chưa đậu quả. Nhưng rồi cây sẽ bói trái ngon. Nếu lúc ấy, nhìn trái cây trĩu nặng trên cành, cháu ại nhớ tới ông, người trồng cây.

Ông tôi năm nay đã già lắm. Vậy mà không một ngày nào ông quên ra vườn. Tôi vẫn thường tha thẩn theo ông. Khi thì đỡ ông xới gốc, khi thì tưới nước giúp ông; lòng những mong sao cho ông tôi đừng già hơn nữa...

22-10-1969

Hoa mướp vàng

Chuyển chỗ ở về thôn Kim được ít hôm, hai chú cháu bé Trang trồng một cây mướp nhỏ. Bà bảo đó là giống mướp hương.

Cây mướp hương bắt đầu lớn, nó ngoan ngoãn xòe hai cái lá ra như hai bàn tay đang với lên. Bé Trang ngắm cây mướp một lúc rồi chạy vào gọi chú:

- Chú Thắng ơi! Cây mướp cũng có râu!

Thắng nhìn cái râu mướp như râu con cá mực rồi cười:

- Tay của cây mướp đấy. Phải cắm que cho nó trèo lên!

Hai chú cháu tìm mãi mới được cái que vừa ý cho mướp leo. Mướp mau lớn thật. Chỉ một tuần, cây mướp đã thò tay ra ngoài đòi leo cao hơn nữa. Lá mướp xòe quanh, rung rinh như tập múa; Thắng phải kiễng chân mới với được cái lá cao nhất.

Thấy vậy, bà bảo Trang và Thắng đi lấy mấy khúc tre làm cột và ít tay tre để bà dựng giàn mướp cho. Ba bà cháu hì hụi chặt chặt, đào đào... mất gần một buổi chiều thì dựng xong cái giàn mướp. Trang dặn cây mướp:

- Mướp ơi! Có leo thì leo vào giàn, đừng leo lung tung nhé!

Chiều chiều, Trang tưới cho cây ba gáo nước. Mỗi lần có gió to, Trang lại lo giàn mướp đổ. Nhưng không, cây mướp đã lớn lên. Hết ngọn này đến ngọn khác, hết cái râu này đến cái râu kia, ngọn mướp và râu mướp vươn đây giàn, bám khắp mọi chỗ. Lá mướp ken kín giàn như một mái nhà xanh... Hễ có con bọ xít nào là chú cháu bé Trang lại bắt cho gà ăn, kẻo bọ xít cắn đau cây.

Cây mướp hương chưa ra quả mà đã thấy thơm. Lá mướp xanh um tỏa hương nhè nhẹ. Nhũng buổi trưa hè, hai chú cháu kê chõng nằm chơi dưới giàn mướp. Cây mướp như vì mải lắng nghe chú cháu bé Trang kể chuyện nấu canh cua với mướp cho bà xơi, nên đã xúm lá xúm cành che gần hết ánh mặt trời gay gắt, chỉ để lọt vài tia nho nhỏ tròn như hoa nắng...

Trang mong mướp ra hoa. Thắng đón ngày đậu quả. Hai chú cháu nằm ngủ cũng mơ thấy cái giàn mướp của mình.

- Chú Thắng ơi! Hoa mướp màu gì hả chú?

- Màu vàng, Trang ạ.

Ôi, thế thì thích quá.

- Hoa mướp giống hoa gì hả chú?

Thắng cố nghĩ xem hoa mướp giống hoa gì. Có lẽ là hoa bí xanh.

- Bí xanh, cháu ạ.

Song, Trang đã biết cây bí là như thế nào đâu. Đành phải đợi mướp ra hoa. Trang đếm từng ngày một...

Cây mướp thật là tốt. Chắc nó biết chú cháu Trang mong nên đã nảy nụ. Trang sướng quá, reo lên:

- Mướp có quả rồi, chú Thắng ơi!

Thắng chạy ra xem. Lạ thật, đã có hoa đâu mà có quả. Thì ra Trang đã gọi những cái nụ tròn ấy là quả. Thắng bảo:

- Nụ đấy chứ! Nụ sẽ nở ra hoa.

Chỉ vài hôm sau, vào một buổi sáng đẹp trời, Trang ngước mắt nhìn lên giàn mướp xanh, thấy có một đàn bướm vàng đang đậu. Trang chớp mắt. Không, đó là những bông hoa. Hoa mướp vàng rực rỡ. Từ buổi ấy, mỗi lần chú cháu bé Trang cắp sách đi học, tưởng như có cả đàn hoa mướp bay theo... Và, khi quả mướp đầu tiên vừa đậu, cũng là lúc chú cháu bé Trang nhận được một tin mới: bố mẹ nhắn về là hai chú cháu phải chuyển chỗ ở, sơ tán đến nơi khác. Thắng và Trang ngẩn cả người. Thế còn cây mướp? Làm sao chuyển cả được cái giàn mướp ấy đi?

Thắng đứng tần ngần dưới gốc cây, Trang ngước nhìn mãi đám hoa vàng.

Chợt, đôi mắt Thắng sáng hẳn lên:

- Được rồi, Trang ạ.

Trang mở to cặp mắt long lanh nhìn chú.

- Cứ để cây mướp ở đây. Khi quả đã to, sẽ có người ra hái.

- Ai hái hở chú?

- Những bạn đến đây ở nhà này... Cũng như cái cây đu đủ kia kìa, mình có trồng đâu mà cũng được ăn quả.

Trang chưa hiểu ngay, cần phải nghĩ một tí. Cây đu đủ kia, ai trồng, Trang chẳng biết. Nhưng khi đến đây, Trang thấy nó đã có quả rồi. Bây giờ, cây mướp này cũng thế thôi. Chú cháu Trang đi, cây mướp sẽ cho quả người đến đây ở như cây đu đủ kia cho Thắng và Trang quả vậy. Nghĩ xong, Trang nhoẻn miệng cười:

- Vâng, chú ạ!

Sớm hôm sau, hai chú cháu bé Trang rời gian nhà tập thể của cơ quan dựng tại xóm Kim để đi nơi khác. Ra đến đường cái rồi, khi ngoảnh lại, hai chú cháu vẫn thấy cả giàn hoa mướp vàng như đàn bướm đẹp vẫy theo...

Mùa thu 1967

giavui
06-04-2016, 07:18 PM
Quà gửi bố

Tôi, cái Thủy, cái Lan và thằng Hân đều có bố đi xa. Bốn đứa chúng tôi chơi với nhau rất thân. Đứa nào cũng lên bảy, học lớp một và ở cùng xóm. Tất cả mấy đứa chúng tôi đều muốn có một thứ quà gì đấy gửi cho bố. Thằng Hân tính đến chuyện gửi thuốc lào; cái Thủy thì hẹn là còn phải tập thêu để thêu khăn rồi gửi đi; cái Lan có con gà mái đang đẻ trứng; còn tôi, tôi nghĩ mãi vẫn chưa biết gửi cái gì đi cho tiện. Tôi bàn với chúng nó thế này: thuốc lào dễ mốc là một; cái Thủy bây giờ mới tập thêu thì lâu quá là hai; gà của cái Lan thì bỏ vào phong bì sao vừa là ba... không được. Cuối cùng, chỉ có một món quà rất hay mà bố mẹ đứa nào cũng thích ấy là điểm mười trong bài học và bài làm của chúng tôi. Tôi nói về món quà đó, lập tức các bạn tôi đồng ý ngay.

Tưởng cái gì chứ điểm mười thì không khó lắm, mà lại dễ gửi, tha hồ gửi! Chỉ cần mỗi đứa chúng tôi cố gắng lên một tí thôi. Chúng tôi giao hẹn với nhau: trong tuần tới, mỗi đứa phải có ít nhất là một điểm mười để làm quà gửi bố.

Ba hôm sau, cái Thủy được điểm mười môn toán. Tới ngày thứ tư, tôi được điểm mười chính tả. Thằng Hân cố mãi, chỉ được điểm bảy khi đọc bài học thuộc lòng. Còn cái Lan, chưa có bài nào được quá sáu điểm cả, thế mới rắc rối.

Đến ngày hẹn, cái Thủy và tôi coi như có quà gửi bố rồi. Thằng Hân lụng bụng:

- Tao chả chơi trò này nữa, chán lắm.

Cái Lan thì phụng phịu:

- Chúng mày khôn. Chúng mày học giỏi thì làm gì chả được mười. Tao cũng không chơi như thế nữa.

Tôi nhìn cái Thủy, cái Thủy cũng nhìn tôi. Thế có buồn không! Lúc mới bàn xong, cả bốn đứa đều hăm hở là thế; đến bây giờ, chỉ còn lại tôi và cái Thủy thôi ư? Bốn đứa chúng tôi chơi với nhau rất thân, chả lẽ lại để cho thằng Hân và cái Lan không có quà gửi bố! Sợ cái Lan giận, cái Thủy vội gật đầu:

- Ừ, hay là thôi nhớ!

Cái Lan tươi tỉnh bằng lòng ngay. Thằng Hân cười khì. Chỉ có tôi là tôi thấy thế nào ấy. Ừ, đúng là tôi và cái Thủy học có khá hơn cái Lan, thằng Hân. Song, sao tôi và cái Thủy lại không thể giúp đỡ cho chúng nó được điểm mười? Tôi cố nói thêm để chúng nó khỏi bàn ra:

- Tớ không đồng ý. Bây giờ làm thế này: tớ giúp đỡ cậu Hân, cậu Thủy giúp đỡ cậu Lan để đứa nào cũng có điểm mười, được không?

Ba đứa chúng nó nhìn nhau. Tôi nhìn chúng nó. Xem chừng chúng nó vẫn còn ngần ngừ, tôi phải nói thêm:

- Giúp đỡ nhau học tập luôn mà.

Thằng Hân chần chừ một tí rồi mới trả lời:

- Được, tao đồng ý.

Cái Lan, cái Thủy cũng bằng lòng. Tôi giao hẹn:

- Gia hạn ba ngày nữa. Cả bốn đứa phải có điểm mười tất!

Ngày thứ nhất trôi qua, chưa đứa nào được điểm mười. Ngày thứ hai đã đến, thằng Hân bị ngay bốn về bài toán tập. Tôi sốt ruột quá, giục nó:

- Cậu phải cố gắng lên chứ lị!

Thằng Hân gân cổ:

- Thì mày không thấy tao đang cố gắng đấy à?

Tôi hơi bực mình:

- Cố gắng mà lại "bốn"!

- Bốn! Thầy giáo cho tao "bốn" chứ tao có thích "bốn" đâu!

Chỉ cần găng một tí nữa là hai đứa cãi nhau. Tôi đành phải dịu lại:

- Thôi, ngày mai cậu phải cố lên.

Sáng sớm ngày thứ ba, để giúp đỡ thằng Hân, tôi hỏi nó:

- Cậu thuộc bài chưa?

- Thuộc rồi.

- Được, cậu thử đọc cho tớ nghe xem nào.

Thằng Hân đọc một hơi hết bài học thuộc lòng. Tôi sung sướng quá:

- Ừ, cậu thuộc ghê thật đấy.

Vào lớp học, tôi thấp thỏm chờ thằng Hân đọc bài. Chắc nó cũng hồi hộp không kém. Nó cứ ngọ nguậy luôn.

Giờ học thuộc lòng đã qua, thằng Hân không được gọi đọc bài. Giờ học tính đã đến. Tôi thầm "cầu" cho nó: "Cô giáo gọi thằng Hân này!...". Thế mà cô không gọi. Tôi chán quá mà không biết làm thế nào nữa. Tới bài viết tập, tôi nhắc khẽ:

- Bài cuối cùng rồi đấy, Hân ạ.

Thằng Hân không nói gì.

Giờ viết tập sắp qua... Cô giáo bắt đầu chấm bài. Thằng Hân được năm điểm. Tôi chán nó quá. Đến lúc ra chơi, tôi bảo:

- Tớ không chơi với cậu nữa.

Chẳng hiểu vì tủi thân hay vì làm sao, thằng Hân tu lên khóc. Cô giáo thấy vậy, liền hỏi:

- Sao em khóc?

Thằng Hân cứ "hức, hức..." không nói nên lời. Cô giáo liền hỏi tôi:

- Em Tú! Làm sao thế?

Tôi thưa:

- Thưa cô... bạn ấy khóc đấy ạ!

Cô giáo nhẹ nhàng hỏi Hân:

- Tại sao thế, em Hân?

Thằng Hân càng khóc to.

- Cô hỏi kìa, em nói đi chứ!

Thằng Hân vừa nói, vừa hức:

- Hức... thưa cô... hức... bạn, bạn... hức... bạn Tú bạn ấy, hức... không... không chơi... hức, với em...

Cô giáo hỏi tôi:

- Em Tú, tại sao?

Cái Thủy lúc đó cũng đứng gần đấy, nó thưa luôn:

- Thưa cô tại bạn ấy không được điểm mười đấy ạ!

Chán cho cái Thủy quá, ai khiến nó nói. Tôi giơ nắm tay dọa, nó nhe răng ra cười. Cô giáo biết là giữa mấy chúng tôi hẳn có chuyện gì đấy. Cô bảo Hân đừng khóc nữa và cô dặn tôi đến cuối giờ học ở lại cho cô hỏi. Mới đầu, tôi định rằng sẽ giấu chuyện gửi quà cho bố, không nói gì hết. Song, như thế là nói dối mất rồi.

Đến lúc gặp cô giáo, không hiểu tại sao tôi cứ tuồn tuột kể hết từ đầu đến cuối, không thiếu một việc nào, kể cả việc mấy đứa bàn nhau viết thư ở trên. Cô giáo đã hỏi thì không nên giấu cô, có như thế mới thật thà. Tôi yên trí rằng thế nào cô cũng mắng tôi, đứa đầu têu ra việc làm cho thằng Hân phải khóc. Nhưng, tôi đã nghĩ nhầm. Cô giáo nghe tôi nói rất chăm chú. Thỉnh thoảng cô lại hơi cười. Chính vì vậy mà tôi kể rất kỹ. Nghe tôi kể xong, cô nói:

- Các em định có điểm mười để làm quà gửi bố như thế là rất tốt. Cô chỉ bàn thêm với các em một chút thôi. Em và Thủy học khá rồi, không nói làm gì. Hân và Lan học hơi kém... mà lại giao hẹn trong ba hôm thì hai em đó có ngay điểm mười thế nào được. Em cứ nghĩ mà xem...

Cô giáo bảo tôi thế và tôi bắt đầu nghĩ. Tôi nghĩ đi nghĩ lại vẫn không hiểu vì sao chỉ có một điểm mười mà cái Lan và thằng Hân cũng không có ngay được.

- Em và Thủy giúp đỡ Hân và Lan như thế nào? - Cô giáo chợt hỏi thêm.

Tôi lúng túng không biết nói ra sao nữa. Tôi đã bảo thằng Hân cố lên, đã hỏi nó có thuộc bài không và bảo nó đọc cho tôi nghe rồi cơ mà. Giúp đỡ như thế chưa được hay sao? Tôi nói lại y như vậy. Cô giáo mỉm cười:

- Giúp đỡ bạn như thế thì làm sao có điểm mười được hở em? Đáng lẽ, các em phải...

Cô nói cho tôi biết những việc cần phải làm khi giúp bạn học tập. Chẳng hạn như: nói lại những bài học mà bạn chưa hiểu; cùng bạn học bài; hỏi xem bạn có biết cách giải bài toán tập hay không... Hoặc thấy bạn chưa thuộc bài thì nhắc bạn học; bạn viết còn xấu thì hướng dẫn bạn tập chép; bạn đọc kém thì cùng bạn đọc đi đọc lại bài học nhiều lần cho quen cho thạo...

Thật là tiếc quá. Giá những điều đó tôi biết ngay từ trước có phải hay biết bao nhiêu. Cô giáo giảng giải kỹ thế, tôi hiểu ngay.

- Thưa cô, vậy thì em biết rồi ạ.

Tôi định hỏi thêm cô giáo là chúng tôi có nên tiếp tục giúp nhau được điểm mười để làm quà gửi bố nữa hay thôi, thì cô đã nói:

- Các em về bàn với nhau cho kỹ nữa đi, cả bốn em cố gắng có nhiều điểm mười hơn nữa để làm quà gửi bố cho vui vẻ... Song, đừng giao hẹn ngắn ngày quá. Em hiểu chứ.

Nghe cô nói đến đây, tôi càng hiểu rõ hơn. Đúng rồi, đáng lẽ phải giao hẹn lâu hơn để cho thằng Hân và cái Lan nó học khá dần lên chứ!

Tuy gặp phải chuyện hơi rắc rối một tí như thế, tuy thằng Hân "nhè" mất một lúc vậy, ít lâu sau, tất cả bốn đúa chúng tôi đứa nào cũng có điểm mười bỏ vào phong bì gửi cho bố rồi.

Tiếc quá, đáng lẽ chúng tôi có thể có được những điểm mười ấy sớm hơn kia!

6-1967

giavui
06-04-2016, 07:18 PM
Chú và cháu

Chú Chương ở bên cạnh nhà Bình tên thật là chú Chương. Nhưng Bình thấy mọi người trong xóm đều quen gọi chú là chú thương binh. Bình quý chú Chương lắm. Nhưng Bình vẫn chưa hiểu vì sao chú lại là chú thương binh được chứ?

Để xem chú Chương có đúng là chú thương binh thật không, Bình cần phải đi tìm chú, nhìn kỹ chú một tí nữa xem thế nào. Nghĩ thế xong, Bình đi thật.

Chú Chương đây rồi. Chú đang ngồi chữa mấy cái cào cỏ cải tiến ở sân kho hợp tác xã. Bình liền ngồi ngay trước mặt chú để ngắm chú cho rõ. Chú cười. Bình thấy chẳng có gì lạ. Bình dịch sang bên cạnh nhìn thêm, vẫn là chú Chương. Bình đứng lên, vòng ra đằng sau, cũng không thấy có gì lạ. Cuối cùng, Bình ngồi sát hẳn vào chú, chờ lúc chú nghỉ tay mới hỏi:

- Chú là chú thương binh thật hả chú?

Chú Chương cười hà hà:

- Cháu thấy chú không giống chú thương binh à?

Bình lắc đầu:

- Không ạ.

Chú Chương làm ra vẻ lạ lùng lắm:

- Thế à! Sao vậy?

Bình nói rất rõ ràng:

- Chú chẳng làm sao hết cả. Chân tay còn nguyên.

Thấy vậy chú Chương liền ôm Bình vào lòng và đưa tay vuốt tóc đứa cháu kháu khỉnh của chú rồi khen:

- Cháu khá lắm. Cháu xem đây nhé!

Vừa nói, chú vừa từ từ vén một bên vạt áo cho Bình xem. Bình giật mình đứng vội lên, bước ra khỏi lòng chú. Trước mắt Bình, chú Chương lúc này không phải là chú Chương lúc nãy nữa. Bình không dám nhìn lâu vào vết thương sâu hoắm ngay phía dưới ngực chú. Bình nhẹ nhàng kéo vạt áo của chú xuống, kẻo chú đau. Thôi chú Chương đúng là chú thương binh thật rồi. Bình không cần phải xem nũa.

Từ hôm ấy, gặp chú Chương ở đâu, Bình cũng cảm thấy hình như chú đang đau. Thấy chú cào cỏ ở dưới ruộng, Bình gọi:

- Chú ơi! Chú đẩy khẽ thôi không có đau, chú ạ!

Chú Chương ngửng lên nhìn Bình và vén tay áo, để lộ hai bắp tay to và chắc:

- Cháu yên trí, chú còn khỏe lắm!

Bấy giờ, Bình mới đỡ lo.

Thỉnh thoảng sang nhà chú, Bình đun đỡ chú ấm nước. Gặp lúc chú ngồi nghỉ, Bình cầm quạt, quạt cho chú:

- Chú có mát không? - Bình hỏi.

Chú Chương nhấc bổng Bình lên:

- Mát lắm cháu ạ.

- Chú có đau không? - Bình hỏi thêm.

- Đau ít thôi.

- Thế bao giờ thì chú khỏi?

Chú Chương chớp mắt mấy cái như để nghĩ ngợi rồi trả lời:

- Bao giờ cháu được lên lớp hai thì chú khỏi.

Vì muốn cho chú Chương chóng khỏi, Bình luôn luôn học thuộc bài, làm bài đầy đủ và đúng, đến cuối năm Bình được lên lớp. Bình thích cho mình thì ít, nhưng vui cho chú Chương thì nhiều. Bình hổn hở đi tìm chú. Chú Chương đây rồi! Bình hỏi ngay:

- Chú khỏi đau chưa chú? Cháu được lên lớp rồi!

Chú Chương đăm đăm nhìn Bình:

- Sắp khỏi rồi cháu ạ...

Bình nhìn chú không chớp mắt. Vết thương của chú nặng quá đấy. Làm thế nào cho chú khỏi thật, khỏi nhanh lên bây giờ? Bình khẽ hỏi thêm:

- Thế đến bao giờ chú mới khỏi hẳn?

- Bao giờ đuổi hết bọn giặc Mỹ ra khỏi miền Nam, Mỹ thua không bắn phá miền Bắc được nữa thì chú khỏi hẳn.

Bình khe khẽ thở ra và nắm lấy tay chú, nói liền một mạch:

- Chú để cháu đánh bọn giặc Mỹ cho. Hễ cháu lớn một cái, cháu đi bộ đội ngay! Chú khỏi chứ chú?

Chú Chương nhìn Bình và gật đầu tin tưởng lắm. Bình sung sướng ôm choàng lấy chú Chương...

Hè 1967

giavui
06-04-2016, 07:18 PM
Cô bé tóc bím

Hôm ấy, lớp 2B đang chăm chú nghe cô giáo giảng bài thì bỗng nhiên có người vào lớp. Cô giáo ngừng lời, cả lớp đứng lên. Đó là một bà cụ mặc bộ quần áo cũ, đầu chít khăn vuông nâu, tay chống gậy trúc. Một mớ tóc bạc trắng lòa xòa bên má cụ. Không đợi cô giáo hỏi, cụ đã nói thêu thào:

- Thưa với cô giáo, đây là lớp mấy ạ?

Cô giáo kính cẩn đỡ cụ và mời cụ ngồi vào chiếc ghế của cô:

- Con mời cụ ngồi nghỉ. Thưa cụ, đây là lớp 2B!

Bà cụ vừa ngồi xuống ghế, vừa chớp chớp đôi mắt đã mờ đục:

- Tôi... có việc muốn thưa với cô...

Nói rồi cụ đặt cây gậy trúc vào bên ghế, một tay nhấc vạt áo ngoài, một tay móc vào túi trong tìm kiếm một vật gì đấy. Các em học sinh sau khi được cô giáo cho phép ngồi, cứ im thin thít. Cô giáo cũng hồi hộp đợi chờ. Cụ già ngửng lên nhìn khắp lớp. Hình như cụ không thấy rõ từng em.

- Tôi... tôi cảm ơn cô giáo, cảm ơn các cháu học trò...

Đoạn, cụ lấy từ trong túi ra một gói nhỏ, cẩn thận để lên bàn. Cả lớp cũng nghen cổ và suýt nữa thì kêu lên: Một phong bánh đậu xanh!

- Cô giáo cho tôi gửi... tôi gửi phong bánh này cho cháu nào ấy... cháu có hai bím tóc đuôi sam. Tôi già quá, chẳng nhìn thấy gì nữa.

Cụ già nói xong, ai nấy đều hướng cả về phía cô giáo. Bốn chục đôi mắt mở tròn như cùng muốn hỏi: "Thưa cô, chuyện gì đấy ạ?".

Cô giáo cũng rất băn khoăn. Cô chưa biết trả lời cụ già ra sao đây. "Phong bánh đậu và em gái có đôi tóc bím... hai việc đó liên quan gì đến nhau?". Mà, ở lớp 2B này, dễ có đến hơn mười em có đôi tóc đuôi sam ấy. Chắc hẳn, cụ già già quá nên lẫn rồi chăng? Cô giáo nhẹ nhàng đến bên cụ:

- Thưa cụ; cụ mang bánh cho em nào ạ? Lớp cháu có nhiều em gái tết tóc đuôi sam lắm.

Cụ già đứng hẳn lên, một tay vịn vào vai cô giáo, bước từng bước chậm chạp và run run:

- Cái... cái cháu nó có hai bím tóc đuôi sam... Ôi, con bé cháu mới ngoan làm sao... Cô để già cố nhớ lại xem nào. Ờ, cháu nó có cái túi xách bằng vải nhựa, có vòng đeo tay và đi đôi guốc còn mới ấy. Già nghe tiếng guốc cháu đi giòn lắm...

Cô giáo nhìn các em gái thân yêu trong lớp của mình. Cô biết thưa với cụ là em nào bây giờ? Cứ như lời cụ kể, thì nhiều em cũng đeo vòng tay và không một em nào đi đất hết cả. Chỉ có vài em là đi dép thôi. Song, điều mà cô còn lo lắng hơn, là câu chuyện "phong bánh" kia. Cô ân cần hỏi tiếp cụ:

- Thưa cụ, em đó làm sao ạ?

Cụ già chưa trả lời vào câu cô giáo hỏi. Cụ cúi nhìn một em gái ngồi ngay ở bàn đầu, tay cụ xoa xoa mái tóc em:

- Có phải cháu đấy không?

Em gái bé đó ngoan ngoãn đứng dậy thưa:

- Thưa cụ, không phải cháu ạ.

Bàn tay run run của cụ vuốt xuôi xuống:

- Ờ, cháu cũng có tóc đuôi sam.

Cụ lại quay sang nhìn một em bé khác ngồi bên:

- Cháu này nữa... không phải là cháu à?... Cháu cũng có tóc đuôi sam.

Biết là không thể tìm thấy được đứa cháu gái quý báu ấy ở trong lớp học nữa, cụ đành nói với cô giáo:

- Vậy thì cô giáo hỏi hộ già xem cháu nào là cháu đã dắt già đi qua đường cái, đưa già về tận nhà và để lại cho già phong bánh đậu này...?

Biết rõ đầu đuôi câu chuyện rồi, cô giáo trìu mến ngoảnh nhìn các em học sinh chăm ngoan của cô. Em nào đã làm việc tốt đó? Em Bình, em Thủy, em Ngát, em Nga...? Mỗi cái tên đẹp ấy đều có một đôi tóc bím và cặp mắt thông minh ngời sáng. Mỗi em là một đội viên nhi đồng ngoan ngoãn, là một học sinh chăm chỉ...

- Cô giáo hỏi giúp già đi. Cháu gái ấy mới đáng yêu đáng quý làm sao...

Cô giáo lên tiếng hỏi cả lớp. Nhưng, không có một em nào đứng lên nhận cả. Bởi vì, em nào cũng đã có lần giúp đỡ người già, nhưng không phải là cụ già đang đứng ở trong lớp. Cô giáo chỉ còn biết thưa lại với cụ:

- Thưa cụ, các cháu gái ở đây, cháu nào cũng giống như cụ vùa kể. Vậy cụ có nhớ tên cháu ấy là gì không ạ?

Cụ già chớp chớp đôi mắt:

- Khổ, già lại quên không hỏi chứ.

- Hay là em đó ở bên lớp 1B?

- Không, già sang lớp ấy rồi. Cũng như lớp này thôi. Cô giáo ở lớp bên ấy cũng nói với già như cô. Thôi, - Cụ già đứng dậy - già về đây. Cảm ơn cô giáo và các cháu... Cái cháu gái ấy, nó mới ngoan làm sao...

Lớp 2B đứng lên chào cụ. Cô giáo đỡ cụ ra tận ngoài sân. Lúc trở vào cô tươi cười hỏi cả lớp:

- Em nào đã làm việc tốt đó, cho cô biết?

Nhưng, không có ai giơ tay. Thế thì, không ai làm việc đó ư? Có, có đấy! Câu hỏi này chỉ có em Trang là trả lời được. Song, em không nói. Trang xấu hổ ư? Không, việc gì mà xấu hổ. Trang ngại không thích báo cáo ư? Không, có gì đâu mà ngại. Vậy thì tại sao Trang cứ ngồi yên? Đúng, chính Trang đã đưa cụ già đi qua đường và dẫn cụ về đến tận nhà. Phong bánh đậu ấy đúng là của Trang đã để lại biếu cụ. Nếu Trang nhận, thì cụ già sẽ trả lại Trang phong bánh đậu mất. Đấy, chỉ có thế thôi mà Trang cứ ngồi yên, làm như mình không biết gì về chuyện ấy. Trang đã biếu cụ phong bánh rồi, chả nhẽ còn nhận lại. Còn về cái bánh thì như thế này: Lúc đưa cụ về nhà, Trang thấy cụ thều thào, nhọc mệt. Cả hai hàm răng của cụ đã gãy gần hết. Như vậy, cụ ăn uống chắc khó khăn lắm. Sực nhớ ở trong túi xách của mình còn một chiếc bánh đậu xanh bố mới cho hồi sáng, Trang liền giúi cái bánh vào tay cụ:

- Cháu biếu cụ đấy ạ.

Nói xong, Trang chào cụ và tới lớp luôn. Câu chuyện về "cô bé tóc bím" đầu đuôi là như thế.

Tháng 2-1966

giavui
06-04-2016, 07:18 PM
Cái hầm trú ẩn

Đây là cái hầm của lớp 2C. Hầm có hai cửa dùng làm lối ra vào. Nơi đất đào hầm hiện nay, nguyên là một khu vườn quả. Để tránh máy bay Mỹ, lớp học đã chuyển vào đây. Trường cũ xây bằng gạch hắn hoi, phải bỏ trống. Vườn cây phải làm chỗ đào hầm. Thuơng các em học sinh lớp 2 còn nhỏ, các anh chị học sinh lớp 7 đã đến đào hầm giúp. Cẩn thận hơn, các anh các chị ấy còn làm nắp và gơ dây khoai trên nóc hầm.

Những lúc không có báo động, không mấy ai xuống hầm. Vậy mà chẳng hiểu tại sao cậu Cường ở lớp 2C lại hay xuống hầm thế? Chắc là có điều gì lạ lắm đây.

Từ khi đám dây khoai đã xanh lắm rồi, Cường càng chăm xuống hầm hơn. Quy cho rằng khoai có củ rồi. Không khéo củ khoai nhiều quá đã đâm tuột vào trong hầm nên Cường mới chăm vào hầm để lấy khoai đây. Cái cậu Cường này "khôn" thật, thế mà không nói gì với ai hết. Quy liền theo dõi, hễ thấy Cường vào hầm là sẽ vào ngay.

Không cần phải chờ đợi lâu, Quy "bắt" được Cường đây rồi. Cậu ta đang mở nắp hầm. Quy rón rén mở nhẹ cái nắp cửa phía bên kia, định bụng sẽ "òa" cho cậu ta một cái. Bỗng có tiếng gọi giật giọng:

- Quy đấy à?

Quy giật cả mình. À, Cường.

- Đừng vào đằng ấy, nguy hiểm!

Quy vội vàng buông cái nắp, nhảy lùi ra đang sau. Cường vẫy tay, ra hiệu:

- Lại đằng này với tớ.

Ừ, có thế mà cũng dọa người ta. Quy không nghe:

- Tớ thích xuống bằng lối này cơ.

Cường nhăn mặt:

- Cậu tưởng tớ nói đùa à? Nhỡ có rắn thì sao?

Nghe nói đến rắn, Quy chun lại. Cường giải thích:

- Cậu mở cửa hầm bên ấy ra, rồi lại đằng này xuống với tớ. Hai đứa ập vào hai cửa như thế, nhỡ có rắn, nó không có lối chạy ra, sẽ quay lại cắn mình đấy.

Quy làm theo lời Cường và định bước xuống trước. Cường túm ngay lấy vai áo Quy:

- Thong thả đã nào.

Cái cậu này mới lôi thôi chứ! Đúng là cậu ta sợ mình xuống trước lấy mất khoai của cậu ta đây mà. Quy gạt tay Cường ra:

- Tớ xuống trước.

- Được, nhưng mà cậu cầm lấy cái này đã.

Cường đưa cho Quy một bó lá tre. Quy không hiểu cậu ta còn định làm cái trò gì nữa đây.

- Tớ không cần.

Cường tròn xoe mắt:

- Không cần à? Cậu phải cầm bó lá tre này, vừa đi vừa khua. Nếu có rắn, thấy động, nó sẽ chạy ra đằng kia, hiểu chưa!

Một lần nữa, Quy lại phải nghe theo lời Cường. Cái cậu Cường này hay thật đấy, "khôn" ghê.

Hai đứa theo nhau xuống hầm. Quy vừa khua lá tre vừa để ý xem ở nóc hầm có củ khoai nào thò xuống không. Chẳng có quái gì hết. Mà, Cường thì đang làm gì ấy, cậu ta ngồi xuống. Quy cũng ngồi theo, Cường đứng lên, Quy cũng đứng lên, nhưng chẳng hiểu cậu ta làm thế để làm gì nữa. Quy cảm thấy có mùi gì hăng hăng như mùi tỏi.

- Cậu giồng tỏi ở dưới này đấy à?

Cường bật cười:

- Ai lại giồng thế! Tớ rắc tỏi ra đấy.

- Rắc làm gì?

- Để trị rắn và sát trùng cho hầm.

Quy chưa tin lắm. Cái cậu Cường này, lại định giấu người ta chứ gì! Quy lùi lại, thử sò tay lên nóc hầm xem có gì không thì đã thấy Cường ra khỏi hầm rồi. Quy vội vàng chạy theo:

- Cường ơi! Cường!

Có tiếng Cường đáp lại ở phía hầm bên cạnh.

- Tớ đây!

Quy tức quá. Cậu ấy "khôn" ghê. Quy lại vào theo Cường... Cứ như thế cho đến lúc Cường chuẩn bị ra về, Quy mới ngẩn ngơ hỏi:

- Này... thế... không có à?

Cường cũng ngẩn ngơ theo:

- Có gì? Rắn ấy à?

- Không, khoai cơ!

Cường càng lạ hơn:

- Khoai gì?

Nói xong, Cường mới chợt hiểu ra và cười giòn giã:

- Hớ hớ! Kho..o..oa..oai... khoai à! Làm quái gì có kho..o..oa..oai! Tớ đi xua rắn đấy chứ!

À ra thế. Cái cậu Cường này khôn thật!

6-1967

giavui
06-04-2016, 07:19 PM
Xạ thủ số 2

Bọn máy bay Mỹ ác quá, chúng bắn cả trẻ con. Hôm ấy Thỉu đang chăn bò thì có máy bay giặc đến. Thỉu chưa kịp ngẩng lên thì đã nghe thấy tiếng bom nổ. Thỉu chạy ríu cả chân. Một chú bộ đội thấy Thỉu đang chạy trên bãi cát liền bế Thỉu xuống hầm. Mỗi lần máy bay giặc chúi xuống, chú bộ đội lại lấy tay lấy ngực che gọn Thỉu vào lòng.

- Ngồi yên cháu nhé, đừng sợ.

Thỉu nép vào người chú. Súng của chú đâu? Sao chú lại đeo cả ba lô? Chắc là chú vừa đi đâu về. Chú bộ đội ngước mắt như muốn tìm ai. Một lát sau, Thỉu thấy một chú bộ đội khác đến, đưa cho chú bộ đội đang ở bên Thỉu một cây súng và gọi tên chú là chú Ngọc (chú Ngọc đi nghỉ phép về qua đây thì gặp máy bay và gặp luôn cả Thỉu).

Thấy chú Ngọc cho đạn vào súng để bắn máy bay Mỹ, Thỉu hơi nhích xa chú ra một tí và ngồi xuống, bịt tai lại. Súng nổ to thật. Tiếng nó đi qua tay, vào tận trong lỗ tai.

- Đoàng!

- Tằng tằng!

Thỉu thấy vai chú Ngọc giật giật. Thỉu nghiêng mặt nhìn chú. "Chú có làm sao không?" Không, chú còn quay lại cười với Thỉu:

- Đừng sợ. Cháu xem chú bắn đây này.

- Vâng.

- Khăn của cháu đâu?

Thỉu móc túi lấy cái khăn, giũ giũ. Đây là khăn của chú Ngọc đưa Thỉu lúc nãy. Chú dặn khi nào chú bảo bịt mồm lại thì bịt. Nhưng, chú chưa bảo.

Thỉu nhìn ngón tay trỏ của chú ấn cò súng. Bấm vào đấy là nó nổ ngay! Thỉu nhích lại gần chỗ chú Ngọc, hai tay bịt tai buông ra từ lúc nào không biết nữa. Chú bắn nhanh quá. Bắn nhanh đến nỗi chú lắp đạn không kịp. Thì ra bắn súng phải lắp đạn. Mỗi lần hết đạn, chú lại qườ tay vào chiếc mũ lấy ra một băng. Thỉu rụt rè động vào cái mũ đựng đạn rồi cầm lấy một băng đạn. Nó lành lạnh, nằng nặng. Thỉu nhấc luôn một băng ra ngoài, hai tay nắm thật nhẹ. Thỉu sợ bóp mạnh nó nổ! Thỉu từ từ cạy khẽ một viên. Thế là được một viên. Bỗng Thỉu thấy chú Ngọc qườ tay lấy đạn, Thỉu giúi luôn viên đạn vào tay chú. Chú Ngọc cười:

- Đưa chú cả băng.

Thỉu đưa cả băng.

Giờ thì Thỉu nghe rõ tiếng nổ ở cây súng của chú Ngọc rồi. Nó kêu "Đoàng!". Thỉu ngồi gần vào chú Ngọc hơn nữa, mắt nhìn lên nòng súng. Thỉu đếm: "Một, hai, ba... viên", nhiều viên quá, thành ra lại nhầm!

Thỉu cầm sẵn băng đạn thứ hai, chờ chú Ngọc. Cứ mỗi lần hết đạn, chú Ngọc nói: "Tiếp đạn!" thì Thỉu lại giúi đạn vào tay chú. Chú nhìn Thỉu:

- Xem chú bắn máy bay của thằng Giôn-xơn này!

Thỉu cũng cười theo chú:

- Chú à, chú bắn rơi chúng nó xuống cho cháu xem!

Chú Ngọc gật đầu, Thỉu nhấc băng đạn thứ ba...

Cứ như thế, Thỉu đã tiếp đạn cho chú Ngọc được sáu băng, cho đến lúc lũ máy bay giặc phải cút chạy.

Các chú bộ đội biết chuyện này, gọi Thỉu là "Xạ thủ số 2".

1965

giavui
06-04-2016, 07:19 PM
Bức tường có nhiều phép lạ

Quy lại chống tay, tì má, nhìn lên bức tường trước mặt. Màu vôi xanh mát hiện ra như tấm màn ảnh rộng. Ngoài kia, nắng cuối xuân đã gay gắt. Quy phanh cúc áo, đọc nhẩm đề bài tập làm văn: "Em hãy tả lại quang cảnh một trận mưa rào...". Trời thì nắng mà bài văn lại... mưa. Quy lật đi lật lại tờ giấy nháp một cách vất vả. Cái bút trong tay cứ chìa ngòi lên trần nhà. Tờ giấy nháp này mà cứ để trắng mãi thì...

Quy khe khẽ thở dài và nhớ đến bố. Bố em là một người viết văn. Bố tài thật đấy. Mỗi lần ngồi vào bàn, là y như bố viết được ngay. Rất nhanh, rất nhiều. Cũng có khi, ngồi xuống ghế xong, bố tì cằm lên bàn tay trái, nhìn thẳng vào bức tường trước mặt. Cứ thế bố nhìn. Nhìn một lúc, lúc nữa... khoảng độ hai ba lúc gì đấy, rồi bố cầm ngay lấy bút, viết lia lịa, viết quên cả ăn cơm! Hình như bố đã nhìn thấy ở bức tường ấy nhiều điều cần viết. Hoặc, chính cái bức tường đã bảo cho bố viết. Thế thì cái bức tường này nó có thứ phép lạ gì đây, chỉ cần ngồi ngắm một vài lúc là... văn ra ngay!

Quy chớp mắt. Cái bức tường là cái bức tường có màu xanh dìu dịu... Quy lại chớp mắt. Ơ, con nhện! Con nhện đang chăng lưới. Cứ để cho nó chăng tơ mà xem, bẩn nhà ngay. Thế là Quy đứng lên tìm chổi lông gà khua con nhện. Con nhện không còn làm bẩn trần nhà được nữa. Nhưng, bức tường vẫn chưa bảo Quy cách làm bài tập làm văn.

Em lại căng mắt quan sát bức tường. Lẽ ra thì tường phải thật nhẵn kia đấy. Vậy mà cũng có những vết lồi lõm nhỏ tí nổi lên. Hẳn là vôi quét tường bị sạn, hoặc vữa miết chưa mịn... Tường rộng thế mà bố chẳng treo ảnh. Hay là bố sợ treo ảnh thì ảnh nó che mất các phép lạ? Quy loay hoay mãi với tờ giấy nháp và cái bức tường, thèm thuồng biết viết giỏi, viết nhanh như bố...

"Em hãy tả lại quang cảnh một trận mưa rào..." Có tiếng động ở ngoài cửa. Bố về! Ôi, thật là đúng lúc quá!

°

Quy chạy lại giật tay bố:

- Bố ơi, con nhìn mãi vào cái tường như bố nhìn ấy, mà chẳng thấy trận mưa rào đâu cả...

Người cha tủm tỉm nhìn đứa con láu lỉnh và hiểu ngay là Quy định hỏi gì.

- Con không thấy à?

- Không ạ.

- Thật chứ?

Quy chợt nhớ ra:

- À... có ạ. Một con nhện, nhưng con đã bắt nó rồi.

- Chỉ có thế thôi?

- Còn ạ. Những cái nốt nhỏ li ti...

Người cha hiền từ xoa đầu đứa con trai:

- Bố thì bố thấy nhiều thứ lắm...

Đôi mắt Quy ngước lên, chờ đợi.

- Bố thấy những trận mưa rào hồi năm ngoái, năm kia, năm kìa... cả cái dạo con chạy ra mưa nghịch nước, bị ướt hết rồi mẹ con mắng ấy...

Quy nhoẻn cười:

- Vâng.

- Bố còn gặp lại trận mưa bão mãi tận năm xửa năm xưa khi bố còn bé tí. Bà nội đi cấy về, rét quá, không nói được... Trận mưa thật tai ác. Sấm, chớp liên hồi... Bà về mà chẳng còn hạt gạo nào để nấu ăn cả...

Quy chớp chớp đôi mi mắt dài và cong:

- Bố có thấy cái thuyền giấy con thả ở rãnh nước không?

- Có chứ.

Quy nghĩ ngợi:

- Cả các chú bộ đội ngồi bên ụ pháo nữa chứ ạ?

Bô gật đầu.

- Cả những chiếc ô-tô chạy trong mưa?...

- Tất cả. Cả đoàn người tay cuốc, tay mai lên mặt đê chống lụt...

Đôi mắt Quy chớp chớp:

- Bố ạ, hồi mưa to năm ngoái ấy, chúng con cũng đun nước đem lên đê cho các anh chị thanh niên xung phong uống đấy. Hôm ấy, trời đang nắng thì mưa...

Người bố lại tủm tỉm:

- Thế mà con bảo là con chẳng thấy gì.

Quy ngơ ngác:

- Thật đấy, bố ạ...

- Ừ. Bây giờ, con thử ngồi lại vào bàn xem. Mắt con nhìn về phía cái tường, nhưng con hãy nghĩ đến những trận mưa mà con đã biết...

Quy nghe lời bố, ngồi vào bàn.

Một lúc, một lúc nữa, Quy chạy lại, bố đã đi đâu rồi ấy...

Quy nhìn lên bức tường và thấy chiếc thuyền giấy của em đang trôi bềnh bồng giữa sân. Những chiếc mũ sắt lấp lánh nước mưa của các chú bộ đội. Những vai áo ướt sũng nước mưa của người đi cày... Những hạt mưa đan nhau rơi xuống rào rào...

Quy cầm lấy bút, cắm cúi viết, quên cả việc ngẩng lên nhìn bức tường có nhiều phép lạ...

Bức tường vôi xanh mát vẫn chờ Quy. Đến bài tập làm văn sau, và cả những bài toán khó nhất, bức tường vẫn có thể giúp Quy làm được.

Đã thành thói quen, mỗi khi gặp chỗ bí, em nhìn lên bức tường vôi xanh, nhưng trong óc thì suy nghĩ, thế là ý bật ra, hết cả bí.

giavui
06-04-2016, 07:19 PM
Cây bàng không rụng lá

Phố tôi tên thật không phải là phố "Cây Bàng". Nhưng bọn trẻ con chúng tôi lại cứ thích đặt tên phố theo nhận xét của mình. Chẳng hiểu những đứa khác đã nghĩ thế nào; riêng tôi, tôi gọi thế là bởi phố tôi có một cây bàng.

Ai đã trồng cây bàng ấy, tôi không rõ. Chỉ biết rằng bây giờ cây đã to lắm rồi. Đến mùa quả chín, một mùi thơm ngòn ngọt lờ lợ tỏa ra, lên mãi tận gác ba, gác tư.

Nhưng cây bàng này thật chẳng có gì là đặc biệt. Vỏ nó xù xì, lá nó hung hung và dày như cái bánh đa nướng. Tán bàng xòa ra giống mấy cái ô nối tiếp nhau ba, bốn tầng. Cây bàng hiền lành như một người ít nói. Dưới gốc, người ta hay dựa xe đạp và có khi đứng tránh mưa nhỏ. Tôi cũng không để ý đến cây bàng lắm. Chắc là tại nó mọc ở mặt hè, còn tôi, tôi ở mãi trên gác. Song, đến một ngày nọ (là ngày bao nhiêu, tôi quên mất rồi) khi tôi đã biết suy nghĩ, tôi mới nhận ra được một điều rất lạ: "Cây bàng này không rụng lá".

Thế thì tài thật. Đã có lần, tôi đứng chờ ở dưới gốc khá lâu mà chẳng thấy có cái lá nào rụng xuống cả. Tôi nhớ rằng, cách đây ít lâu, cây bàng trụi thùi lụi, cành đâm dọc đâm ngang, có bói cả ngày cũng không ra một cái lá nào. Vậy thì bấy nhiêu lá đã biến đi đâu?

Lạ xiết bao khi một lần tôi thoáng trông thấy một chiếc lá bàng vừa rời cành, chao xuống gốc. Tôi vội vàng chạy hết bốn mươi tư bậc thang xuống đến nơi, thì chẳng thấy chiếc lá nào trên mặt đường hết cả...

Sực nhớ tới câu chuyện "Quả táo vàng" mà tôi đã đọc trong sách, tôi ngờ rằng có lẽ phải dùng gậy vàng, giả bạc để chọc và hứng mới lấy được cái lá bàng ấy chăng? Hẳn khi lìa cành, lúc chạm phải mặt đất là chiếc lá biến ngay đi?

Tuy rất ham đọc truyện cổ tích, nhưng tôi chưa có thể tin ngay rằng chiếc lá bàng kia đã chui vào trong lòng đất.

Vậy thì cái lá ấy nó có rụng không?

Tôi đem chuyện đó hỏi bố tôi. Bố tôi là một thầy giáo, hẳn bố tôi biết rõ hơn tôi nhiều điều.

Nghe tôi kể xong, bố tôi hơi nhíu đôi lông mày, từ từ đứng dậy.

- Nào, con ra đây.

Hai bố con tôi cùng đứng ngoài hành lang, nhìn xuống đường phố. Cây bàng như ngủ yên dưới bầu trời thoang thoảng ánh trăng non...

- Lúc này là tám giờ, con ạ...

Tôi không hiểu bố tôi nói "tám giờ" để làm cái gì. Chỉ biết rằng, độ vài chục phút nữa là tôi đi ngủ. Hôm nay có thể vì câu chuyện cây bàng này mà tôi sẽ thức lâu hơn.

Bố tôi nói tiếp:

- Con có thể thức đến mười rưỡi được không?

- Được ạ.

Tôi chưa kịp nghĩ gì thêm thì bố tôi lại chậc lưỡi:

- Thôi, con cứ ngủ đi rồi bố gọi.

Thấy vậy, tôi càng lạ về chuyện tại sao bố tôi đã bảo tôi thức, rồi lại bảo tôi ngủ. Tôi định bụng cứ thức để chờ. Nhưng rồi, tôi buồn ngủ và định là... ngủ tạm thôi. Trong nhà, lúc này chỉ còn có một mình bố tôi ngồi chấm bài. Tôi đoán mãi không ra những điều bí mật gì đây mà bố tôi chưa cho tôi biết...

Thế rồi, tôi ngủ thật.

Tôi đã ngủ như thế nào, chỉ có hai hàng mi của tôi rõ mà thôi. Lúc bố gọi tôi dậy, thì trời vừa mưa xong. Mưa mùa hè, thường là hay đột ngột vậy.

Bố tôi bảo tôi mặc quần dài vào rồi đi xuống gác.

Trời đã khuya khuya, quãng gần mười một giờ rồi thì phải.

Xuống tới mặt đường, tôi đứng sững lại. Trước mặt tôi, những chiếc lá bàng nằm la liệt trên đường phố như những cái quạt mo lung linh ánh điện. Thật là lạ, lá rơi nhiều thế này mà đến sáng mai, tuyệt không còn một cái! Xa xa... đâu tận cuối phố, tôi nghe thấy tiếng chổi tre khua loạt soạt. Từ nãy, bố tôi chỉ đứng yên. Tôi ngước nhìn, dò hỏi. Bố tôi nói khẽ:

- Con có nghe thấy gì không?

- Có ạ. Tiếng chổi tre.

- Đó, những chiếc lá sẽ đi theo cái chổi tre ấy đấy...

Cùng lúc, tôi nhìn thấy hai bác công nhân mặc áo khoác xanh, miệng đeo khẩu trang trắng, đang vừa đi vừa quét đường phố và cúi nhặt những chiếc lá rơi bỏ vào thùng rác có bánh xe...

Tôi vụt hiểu tất cả: vì sao cây bàng không rụng lá.

°

Sớm hôm sau, tôi đi học. Khi qua những cây bàng, tôi thấy đường phố vẫn sạch trơn.

Khác với mọi lần, buổi nay tới lớp, tôi bước chầm chậm để nhìn được kỹ những cây bàng. Cây bàng có rụng lá. Những cái lá ấy không chui vào trong lòng đất mà được các bác công nhân của thành phố quét sạch, mang đi. Thế ra, khi tôi ngủ rồi, vẫn có người làm việc. Nếu không, nếu không có người làm việc trong đêm, quét những cái lá rụng ấy đi, thì thành phố sẽ ngập lá bàng...

Từ trên cây, một chiếc lá nhẹ nhàng chao xuống. Chiếc lá vừa chạm đất, tôi vội nhặt ngay lên bỏ vào thùng rác. Tôi vụt nhớ ra cái lần tôi chạy hết bốn mươi tư bậc thang để đuổi theo chiếc lá mà không thấy.

Cầm chiếc lá trong tay, tôi hiểu rằng tôi không phải là đứa trẻ đầu tiên đã nhặt lá rơi cho sạch sẽ đường phố. Và, chắc chắn rằng, tôi cũng không phải là đứa cuối cùng.

Tôi không có chổi tre để quét đường phố. Nhưng tôi rất sẵn sàng làm công việc đó để quét hết những chiếc lá rơi cho thành phố của tôi đẹp đẽ. Và, còn để cho những đứa trẻ nào đấy, cũng bằng tuổi tôi, ngỡ rằng cây bàng không rụng lá...

giavui
06-04-2016, 07:20 PM
Chiếc máy kỳ lạ

Khi tôi viết lại câu chuyện này, thì những người bạn thời niên thiếu của tôi đã trở thành người cao tuổi. Các bạn của tôi làm nhiều nghề khác nhau. Kẻ trước, người sau, lần lượt nghỉ hưu. Thực lòng, chúng tôi không muốn thế. Bởi vì rằng trên đời này, không có gì đáng sợ hơn là khi thấy mình không còn đóng góp được gì nữa cho đời sống, xã hội. Vì thế, nên khi một nhà khoa học lão thành, nhân buổi bạn bè gặp nhau đã nêu lên một việc thế này:

- Bọn mình thử làm một cái máy điện tử đặc biệt để tặng tuổi thơ của chúng mình đi!

Nghe thế, ai nấy đều vui vẻ bằng lòng. Một nhà báo gật gù:

- Nhưng đó là thứ máy gì và để làm gì chứ?

Nhà khoa học tủm tỉm:

- Máy-tìm-hộ. Đại khái đấy là cái máy giúp các cô bé, chú bé nào đó tìm lại những thứ mà mình đã bỏ quên hoặc đã đánh rơi mất ấy!

Hay lắm! Ý nghĩa lắm!

Gọi là máy cho... oai, chứ thực ra nhà khoa học của chúng tôi chỉ sắp đặt lại một vài chi tiết quan trọng của chiếc "ca-sét" đời mới rồi bỏ nó vào trong cái "hộp đen" có mắc loa ra ngoài. Thế thôi. Song, các bạn đừng vội nghi ngờ. Cái máy này có thể tự thu, tự phát cả tiếng lẫn hình và biết trả lời nhờ một chiếc máy khác tối tân hơn được đặt trong gian "vi-tính" hiện đại nhất. Công trình ấy được làm xong thì trong số chúng tôi đã về cõi mất mấy người. Tôi là người trẻ nhất, được phân công ghi chép lại những câu chuyện về chiếc máy đó. Quả là một công việc quá sức của tôi.

Chiếc máy gần như phải làm việc suốt ngày. Vì khi nghe tin ở chỗ chúng tôi có chiếc máy hay hay như thế, nên có rất nhiều người đến dùng nhờ. Nhờ tìm hộ một thứ gì đấy, một điều gì đấy.

Một cô bé đánh rơi mất con búp bê nhồi bông rất đẹp đã tới và mếu máo:

- Máy tìm hộ cháu con búp bê ấy đi!

Máy trả lời:

- Em hãy về nhà tìm ở trong chiếc chăn hoa.

Cô bé về nhà và rũ chiếc chăn hoa sau khi nằm chưa gấp ở cuối giường, thì thấy con búp bê thật. Máy giỏi quá!

Một chú bé đến nhờ tìm hộ hòn bi "ve". Máy trả lời:

- Hòn bi nằm ở độ sâu một mét rưỡi so với mặt đường ở phố Hàng Địa, ngách cống 34 thuộc hệ thống cống số 5 theo ký hiệu của Công ty thoát nước.

Nhiều bạn nhỏ, nhiều người lớn, nhờ "Máy tìm hộ" của chúng tôi mà đã tìm thấy vô số đồ vật quý giá, có người còn tìm thấy đứa con bị lạc.

Tiếng đồn về chiếc máy kỳ lạ đã bay đi khắp nơi. Tại một tỉnh kia, có một người vốn quê ở Hà Nội, khi ra đi, người ấy đang học dở lớp 8. Lúc này, đã... sắp già... như tôi. Người ấy tới hỏi nhờ máy:

- Tôi chỉ xin hỏi một câu thôi. Hết bao nhiêu tiền tôi xin trả.

Chúng tôi mời ông cứ tự nhiên, tha hồ hỏi, không phải trả tiền. Người ấy vào phòng máy một lúc rồi trở ra, mặt buồn rười rượi. Vẻ thất vọng hiện rõ trên đôi mắt ông. Chúng tôi nhìn nhau. Máy hỏng rồi chăng? Chưa một ai khi vào đây, lúc trở ra lại như thế. Tôi vội hỏi:

- Sao thế bác? Máy hỏng à?

- Không. Máy rất tốt.

- Vậy thì sao nom bác buồn thế?

- Câu hỏi của tôi, máy không trả lời được.

- Bác hỏi về điều gì ạ.

- Tôi nhờ máy tìm hộ tuổi thơ của tôi. Vì lúc bé, tôi chẳng để ý gì đến hồi ấy hết cả.

- Máy đã trả lời bác thế nào?

- Máy nói rằng: Ai đã đánh mất tuổi thơ thì người ấy phải chịu, không thể nào tìm lại được.

Nghe người ấy nói - người sẽ là bạn già của chúng tôi, ai nấy đều khẽ thở dài. Là vì rằng, chúng tôi, kẻ ít, người nhiều ai cũng có một điều gì đó, lẽ ra không nên có, không nên như thế. Đó chính là điều mất mát trong thời niên thiếu, một phần tuổi thơ của mình, nay không thể nào tìm lại để làm lại được nữa...

giavui
06-04-2016, 07:20 PM
Cháu trai ông đánh giậm

Mưa cuối mùa bao giờ cũng rả rích. Cứ tưởng mưa bắc cầu sang tận cuối thu. Vậy mà không. Nắng hanh vàng đã đẩy bổng mây lên, để lộ hẳn mênh mông khoảng trời xanh thẳm. Đồng quê dạt dào...

"Làng tôi xanh bóng tre..."

Không hiểu tại sao, cứ đến mùa thu thì tôi lại nhớ và thì thầm bài hát có câu hát ấy.

Làng... cái tên gọi nghe đã xa xa, xa xưa... khi ai cũng quen nói: xã, xóm.

Làng... nhắc nhở đến rặng cây và vòm xanh bao quanh những ngôi nhà thấp lè tè, sập sè trong khóm lá. Và nhẹ vẫy trên thinh không trắng lóa những cánh cò. Chỉ cần nhớ lại tới chừng ấy, đã thấy lòng êm dịu, bâng khuâng.

Chóng thế đấy. Cứ thoảng nhanh như tiếng hót của bầy chim. Mới hôm nào bọn choai choai chúng tôi còn là một lũ "chíp hôi", cứ tanh tách tựa đám cào cào, vậy mà bây giờ... Có đứa đã vỡ tiếng, vừa nảy ra ria mép. Một nửa số lộc ngộc trong bọn tôi, gồm những đứa hăng hái, hăm hở nhất, được chi đoàn chọn làm lớp đối tượng Đoàn. Lần đầu tiên, chúng tôi phải làm lý lịch, cần thiết phải kể đủ ba đời: Đời ông, đời cha rồi đến đời mình. Nghiêm túc đấy. Chẳng biết những đứa khác thế nào, chứ tôi thì cứ như con tàu đang chạy bị hãm đột ngột. Mà, các toa dồn nhau là những trò trẻ con và những ý nghĩ cóc nhảy. Mọi sự nhí nhố và bắng nhắng phải dừng lại nhường chỗ cho cái lúc nghĩ ngợi cần thiết. Đây là mục "Hoàn cảnh gia đình". Bố... nghề nghiệp. Mẹ... nghề nghiệp... ông... nghề nghiệp. Hóa ra, đâu chỉ mình tôi. Tất cả đều ngớ ra và hỏi lẫn nhau. Tất nhiên, đứa nào cũng phải hỏi bố mẹ.

Cậu Thắng "thoắng" bạn rất thân của tôi có vẻ hớn hở một cách... trẻ con.

- Cậu có biết ông tớ làm nghề gì không?

Tôi chịu.

- Phó... cối nhớ!

"Phó cối" là gì? Thấy tôi ngơ ngác, cậu ta cười hì hì:

- Là người chuyên đóng cối xay thóc ấy mà!

Thú thực, tôi chưa trông thấy cái cối ấy bao giờ. Để biết được, sau đó tôi và Thắng phải lên "Nhà Bảo tàng Cách mạng" của huyện, mới nhìn thấy... Cậu ta lại hỏi:

- Thế... ông cậu làm nghề gì?

- Nghề... đánh giậm!

Thắng trợn cả mắt:

- Đánh... giậm à? Thật không?

Chỉ hai tiếng: "đánh giậm" thôi, nhưng đó là cả một câu chuyện dài có từ lâu lắm. Khi tôi hỏi bố tôi rằng: "Ông nội con làm nghề gì ạ?" Bố tôi đã bảo vậy. Muốn rõ đầu đuôi, tôi đã phải ngồi nghe bố tôi kể. Kể tới tận cái ngày xưa hầu như người dân tỉnh Thái Bình của tôi phần lớn là người nghèo. Nghèo đến nỗi phải bỏ quê hương đi kiếm ăn ở khắp nơi. Vào tận trong Nam, xuống biển, lên rừng, đâu đâu cũng thấy dân Thái Bình và được tặng cho cái tên: "Dân bị gậy" - tức là đi ăn mày - Không phải chỉ đi ăn xin, xin ăn, mà ăn mày cả trời đất, sông biển vì nghèo, ông nội tôi đi đánh giậm thật. Ruộng đất không có. Nhà cửa thì chỉ túp lều lợp rạ, tường và cửa cũng là rạ đan thành phên quây quanh. Không có tiền mua lưới để đánh cá, đánh tôm, thì đan giậm để đánh giậm vậy. Ngày ấy từ cái nồi, cái chậu đến cái bát ăn cơm, đều bằng đất - đất nung. Ngày bố tôi còn bé, nào có biết dép lê, dép nhựa "săm bô" săm piếc gì đâu. Bố tôi còn bảo: Suýt nữa thì bố chết đói vào cái đợt đói tháng ba năm 1945 ấy. Đói quá, vặt cả cỏ mà ăn. Đến nỗi trâu bò không có cỏ, đói theo lăn ra chết cùng với người... Dạo đó, bố tôi mới lên hai. May, bà tôi đem gửi bố tôi lên nhà cụ tôi ăn nhờ các ông bà là em ông nội tôi, bố tôi mới còn sống. Thật quá sức tưởng tượng của tôi.

Tôi không hiểu. Bố tôi lại kể:

- Vào lúc đói ấy thì có người của Việt Minh về hô hào dân làng đi phá kho thóc của Nhật, của bọn quan huyện, quan tỉnh để cứu dân rồi làm Cách mạng Tháng Tám.

Thật là cả một bài lịch sử. Nhưng cứ như chuyện cổ tích thôi khi tôi được biết thêm đời ông tôi, ông mù chữ, mãi khi đã gần ba mươi tuổi, ông mới bắt đầu học "i-tờ". Đến đời bố tôi thì khác. Giờ đến tôi...

"Quê hương là chùm khế ngọt..."

Ấy là khi bố tôi không phải đánh giậm mà nuôi tôi. Đến tôi, thì cả cái giậm, tôi vẫn chưa biết hình thù nó ra sao. Phải sang tận xã bên cạnh, tôi mới nhìn thấy cái giậm của một gia đình sống ở bãi sông làm nghề đánh cá.

"Quê hương... nếu ai không nhớ..."

Tôi luôn nhớ. Nhưng nỗi nhớ ấy sẽ không đầy đủ, không làm sao hình dung ra được rằng: mãi từ ngày xưa có người đánh giậm...

Người ấy là ông tôi...

Con trai người đánh giậm là bố tôi...

Và tôi là cháu ông đánh giậm...

Nhưng bố tôi không phải nuôi tôi bằng giậm. Đi bộ đội về, bố tôi cầm cày, cày ruộng, trồng lúa cùng mẹ tôi thay cho ông bà tôi đã già. Nhưng tôi thì lại được đi học. Tôi không phải đánh giậm, chưa cầm nổi cái cày... thế mà còn sung sướng hơn ông tôi nhiều quá. Mãi năm gần bốn chục tuổi, ông tôi mới biết xem phim là như thế nào...

"Làng tôi xanh bóng tre..."

Tôi cứ nhắm mắt, nhắm mắt để cố hình dung ra cảnh sau lũy tre xanh ấy, có mái tranh lụp xụp, có ông đánh giậm... chỉ sống lại, sống thật với vợ con kể từ hôm có lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên ngọn tre, trên nền trời mùa thu xanh thẳm ấy...

Bản lý lịch tôi đã viết xong. Giá ông tôi còn sống, thấy tôi đã bắt đầu lớn, chắc ông tôi vui lắm...

giavui
06-04-2016, 07:20 PM
Những hạt bỏng ngô

Bạn đã từng nhá bỏng ngô bao giờ chưa? Ngon lắm! Hạt ngô bé thế mà lúc rang nó nở ra, tròn như những quả táo trắng và xốp. Thứ quà này dễ mua vì không cần phải có nhiều tiền. Chỉ cần nói xin tiền để mua bỏng ngô thôi, thế nào bố mẹ cũng cho. Bỏng ngô không thể ăn no, nhưng ăn mãi vẫn không thấy chán. Hẳn một túi bỏng, chỉ đánh vèo đã hết. Hết rồi, còn thèm, còn thơm mãi trong miệng. Nhiều khi chỉ ăn dè, dè mà cũng cứ veo veo. Hôm nào trời mưa, không đi đâu được, có nắm bỏng ngô, vừa nhai vừa kể chuyện cổ tích, thật tuyệt. Ấy là cái thú của bỏng ngô. Còn câu chuyện về những hạt bỏng ngô của tôi, không biết có giống với bạn nào không? Tôi xin kể:

Nhà tôi ở giữa phố. Cái phố mang tên một nhà thơ, nếu cụ còn sống, thì cũng đến hơn sáu trăm tuổi. Thơ của cụ chỉ người lớn mới hiểu được. Chắc ngày ấy chưa có nhà thơ viết cho trẻ con đọc. Bây giờ, thơ cụ in mãi tận sách giáo khoa lớp 10, lớp 11 kia. Còn lâu tôi và các bạn mới học đến. Thơ rất hay, toàn nói về điều thương người.

Phố nhà tôi từ mấy năm rồi, hàng quán đông quá lắm, chật cả vỉa hè. Toàn người lớn là người lớn ra mua, vì trẻ con không uống bia, không hút thuốc lá, không ăn cơm "bình dân", không "trà lá", thì ngồi vào đấy làm gì. Một ngày kia, ngày nào thì tôi không xem lịch, bên cổng một nhà số chẵn, có bà cụ ra ngồi cùng một chiếc thúng to tướng, bên trong đặt bọc ni-lông trong suốt, nhìn rõ những hạt gì to to, tròn tròn căng mọng lên ở trong đó. Thấy hay hay, tôi bước tới ngó xem thì... trời ơi! "Bỏng! Bỏng ngô!". Cùng lúc có đứa đứng ở đàng sau tôi reo lên như đang xem đá bóng: "Bỏng ngô! Chúng mày ơi!" Thấy vậy, bà cụ cười:

- Mua đi! Mua mở hàng cho bà đi nào!

Chẳng đứa nào có tiền hết cả. Có đứa cười trừ. Có đứa nghệt mặt ra. Tôi cũng lúng túng, thú thật:

- Cháu không có tiền ạ!

Tưởng bà cụ sẽ hất tay: "Thế thì đi chỗ khác!" như mọi người lớn vẫn hay nói với chúng tôi thế, thì bà cụ lại cười cười:

- Vậy thì bà đãi các cô các cậu mỗi cháu vài hạt. Lúc nào có tiền thì ra đây bà bán cho!

Tôi là đứa nhận nắm hạt bỏng sau cùng. Bà vừa đưa cho tôi, vừa khen:

- Anh này lớn, biết nhường các em nhỉ!

Tôi vừa sung sướng vừa nóng cả mặt. Bà cụ yêu con trẻ quá. Đứa nào là cháu của bà ở nhà, chắc tha hồ mà ăn bỏng, tha hồ mà sướng. Tôi cảm ơn, nói lời xin bà cụ và tự nhiên thấy lòng rưng rưng buồn. Tôi không có bà. Vì bà tôi mất đã lâu.

Là người cùng phố, nhưng mãi hôm ấy tôi mới được biết. Biết bà với cái tên chúng tôi gọi y như thấy bà khi ấy: "Bà bỏng ngô".

Bà bán rất rẻ, lần nào, sau khi đong đầy cái bát bằng gỗ dùng để đong bỏng, đổ vào túi hay mũ cho chúng tôi, bà cũng nhón thêm cho vài hạt. Ấy thế mà có người lớn, lúc mua, bà đã thêm cho rồi, mà vẫn còn cố thọc tay vào bọc đòi thêm vài hạt nữa. Tham quá!

Bà cụ bán bỏng mà bọn trẻ chúng tôi rất thích như tôi đã kể, còn có một sự thân thiết nữa chỉ chúng tôi mới cảm thấy. Bà hiền lành và luôn luôn khuyên chúng tôi những điều giá như ở nhà thì đã bị mắng. Ví dụ như lúc bọn trẻ nói tục, cãi nhau, có đứa đánh nhau, thì bà lại can:

- Đừng thế các cháu ơi! Bà xin. Bà cho mấy hạt mà nhai này!...

Có đứa trèo cây, bẻ cành, bà cũng gọi xuống nhắc nhở và dúm cho vài hạt. Nhiều hôm đi học về, không có việc gì, không biết chơi gì, tôi lại tha thẩn ra cái cổng có bà ngồi mà nhìn phố xá. Bà đã quen, nên thỉnh thoảng bà lại gọi cho tôi một nắm. Tôi đã đủ trí khôn để nói:

- Thế này thì bà hết vốn mất!

Bà cười:

- Hết làm sao được. Hết bà lại mua...

Ngừng một thoáng, bà tiếp:

- Có thứ không thể mua được cháu ạ...

Bà nói với bà hay nói cho tôi, lúc đó tôi chưa hiểu. Nhưng rồi bỗng một ngày...

Bà bỏng ngô không ra cổng ngồi...

Hôm sau, hôm sau nữa, vẫn vắng bà...

Tôi dè dặt hỏi thăm mới biết là bà cụ đã về trong quê ở với con cháu. Căn hộ đã để lại cho gia đình khác. Tôi ngẩn ngơ cả người, thờ thẫn mãi.

Từ buổi ấy, phố nhà tôi vẫn đông, lại có thêm hàng quán mới, nhưng sao tôi chẳng thấy vui hơn. Sung sướng quá cho cậu nào đang được ở với bà, có bà...

Ấy là tình thương. Tình thương là thứ không thể mua được.

giavui
06-04-2016, 07:20 PM
Bữa khoai trưa

Tên nó là Sinh. Con nhà nghèo mà nó lớn nhanh như thổi. Đến lớp 8, mới 14 tuổi mà nó đã cao vổng lên, giọng vỡ ồm ồm, quần áo mặc tháng trước, tháng sau đã ngắn. Tuổi nó, đã gần chục đứa được kết nạp Đoàn, mà nó thì chưa. Lần nào chi đoàn họp, đưa ra nhận xét, các bạn nó đều nhận xét: "Bạn ấy... làm sao ấy!". Chê không chê, bảo là xấu thì không xấu. Chỉ là làm sao thôi?

Làm sao là làm sao? Chắc tại nó học không giỏi, lại không có gì là... đặc biệt. Nhiều hôm sắp đến giờ vào lớp rồi, nó mới hớt hơ hớt hải chạy đến trường. Trống tan học một cái, nó vù ra cổng ngay. Chỉ hôm nào trực nhật, quét lớp, lau bảng nó mới đến sớm và ra về sau cùng. Nó đợi các bạn về hết rồi săm soi, nhìn kỹ từng ngăn bàn một, xem có ai để quên cái gì không. Bạn nào ngồi đâu, nó nhớ hết. Có đứa bút hết mực, chắc là vứt đi, bỏ vào ngăn bàn, nhưng nom đẹp quá, nó cầm về, hôm sau đem trả. Đứa bạn ấy xì một cái: "Tao vứt đi đấy mà!". Sinh hơi nhíu lông mày: "Thế thì bỏ vào thùng rác chứ!" Và nó cầm cái bút ra quẳng vào thùng rác. Thế có "hâm" không chứ! Mấy cậu tếu táo đã chế sau lưng nó là "Sinh hâm". Chế sau lưng thôi, vì một lần cậu Dũng gọi "Sinh hâm", Sinh đã nhìn thẳng vào mặt Dũng mà hỏi:

- Tại sao cậu gọi tớ là Sinh hâm? Tớ là Sinh hâm thì cậu là Dũng gì?

Nhìn vẻ mặt không đùa của Sinh, chàng Dũng ta vội lảng:

- À... Thế thì tớ xin lỗi! Đùa một tí mà...

- Không đùa kiểu ấy!

Nói xong, Sinh thôi.

Nhà Sinh nghèo, nghèo thật. Nhưng bố mẹ nó quyết chí cho nó đi học, ít nhất cũng phải học hơn bố mẹ nó. Một lần trong bữa ăn, bố nó bảo:

- Đời bố mẹ chỉ được học ít. Các con phải học thay cho bố mẹ. Không có học, khổ lắm con ạ!

Sinh đã đủ trí khôn thưa lại:

- Nhưng nhà mình nghèo. Con học, bố mẹ khổ.

Mẹ nó nhìn nó, ánh mắt dịu dàng:

- Bố mẹ lo cho con được. Càng nghèo, càng phải học.

Những hôm phải ở lại trường, nó mang theo khi thì mấy củ khoai luộc, khi hai ba bắp ngô nướng, không thì nó nhịn. Thường là khoai. Khoai luộc càng nguội càng ngon. Ở lớp, chỉ mình nó thế. Cho nên, khi những đứa khác, cả con trai lẫn con gái rủ nhau ra ngoài mua bánh mì, ăn cơm, ăn phở, thì Sinh ngồi lại ở trong lớp hoặc ra gốc cây vắng ngồi ăn một mình. Nó tự biết, chỉ có nó mới ăn trưa như thế thôi. Một lần, cái Hà bắt gặp nó ăn khoai, đã ngạc nhiên:

- Cậu ăn khoai à?

- Ừ, khoai.

- Sao không mua bánh mì mà ăn? Khoai, chán chết!

Sinh cười. Chả nhẽ bảo là không có tiền! Nên nói:

- Tớ thích ăn khoai!

Thực ra, ăn bánh mì ba-tê, bơ, xúc xích nữa, ngon chứ! Chả mấy khi Sinh được ăn. Ăn có bố, có mẹ, có anh chị em, mới đành lòng. Ăn một mình, nhà đã nghèo, nuốt sao được? Ấy là Sinh tự bảo mình thế. Cái Hà, nhà nó sang lắm, làm sao nó hiểu. Nó ngạc nhiên là phải. Ở nhà, Sinh phải làm rất nhiều việc.

Và trưa nay, Sinh lại mang khoai đi ăn trưa. Đến chiều, cả lớp lao động ở trường. Sinh có ý chờ các bạn đã ra cổng hoặc đã ngồi túm tụm cùng ăn, mới ra gốc cây bàng ngồi giở gói khoai ra. Nó nhác thấy cậu Dũng chạy vào lớp một lúc rồi chạy ra, đi vơ vẩn ngoài sân. Mọi lần, Dũng ăn trưa hăng hái lắm, gọi bạn bè và có khi còn mời cả đám con gái, mời Sinh nữa kia. Dũng luôn luôn có tiền. Bữa nay, Dũng có vẻ tránh tránh thế nào ấy. Bất chợt, khi Sinh nhìn Dũng, thì Dũng cũng nhìn Sinh. Sinh gọi luôn:

- Cậu ăn trưa chưa?

Dũng lắc đầu, toan bước đi. Sinh gọi với:

- Lại đây chén với tớ!

Dũng ngần ngừ, rồi cũng bước tới chỗ Sinh ngồi. Sinh mở rộng gói khoai, cười ân cần:

- Khoai thôi! Nhưng mà ngọt lắm!

Sinh bóc một củ đưa cho Dũng. Dũng ngồi xuống ăn ngon lành.

- Cậu quên mang bữa trưa à? - Sinh khẽ hỏi.

- Không. Chơi "tá lả" với chúng nó, thua hết rồi!

Ra thế. Sinh bóc tiếp củ nữa, đưa Dũng, nói:

- Chơi cái thứ ấy làm gì!

Dũng lẳng lặng ăn hết veo hai củ khoai, thích thú:

- Ngon quá, cậu ạ!

Khoai ngon hay còn có gì hơn thế, chẳng biết. Nhận thêm nửa củ khoai, Dũng hỏi:

- Cậu mua khoai ở đâu thế?

Sinh vừa nhai vừa nói:

- Nhà tớ trồng đấy. Ăn tha hồ...

Và Sinh hồn nhiên cười như không phải đang ăn khoai. Dũng nhìn Sinh, thấy cậu ta lúc này mới đúng là cậu ấy chứ không phải là cậu Sinh mà Dũng và những đứa khác đã nghĩ và nhận xét, chế giễu cậu ấy. Dũng chợt nhớ và hỏi:

- Cậu đi bộ đến trường à?

- Ừ, đi bộ. Xe đâu mà đi?

Nhớ có lần thấy Sinh hớt hơ hớt hải chạy vào lớp, mồ hôi mồ kê bết cả tóc mà lòng Dũng nôn nao, vừa thương, vừa phục cậu ấy. Chắc cậu ấy phải làm việc nhà nhiều lắm, chứ đâu có được như bọn Dũng.

Bữa khoai trưa hôm nay mang vị ngọt lạ lùng...

giavui
06-04-2016, 07:21 PM
Cu chim

Chẳng biết là từ hôm nào, và bắt đầu từ ai, Cu Chim bị gọi là... Cu Chim. Tên bố mẹ đặt cho và ghi trong giấy khai sinh ấy, nó là Nguyễn văn Quý kia. Thằng Quý. Bạn nó, đứa nào cũng gọi nó thế. Thế mà bây giờ, nó hóa ra là thằng Cu Chim. Năm mười tuổi, học lớp 4 rồi, Cu Chim chưa bị gọi là Cu Chim, nó loắt choắt, còi cọc như con chim sẻ. Mùa hè, cởi trần, mặc quân đùi, mẹ nó cười:

- Nom kìa, cái rốn to hơn người!

Nó xấu hổ, kéo vội quần lên. Chả là rốn nó bị lồi. Tức thế. Những lúc sực nhớ ra, nó lấy ngón tay cái ấn vào. Đến tuổi lên 10 thì đã đỡ. Học lên đến lớp 6, nó đã ý tứ không phơi rốn ra nữa, thì lại phải mang cái tên là Cu Chim. Mới nghe, cu Quý tức lắm. Vừa tức, vừa thẹn. Song, đầu đuôi đều tại nó hết.

Sự thể thằng Quý mang tên Cu Chim bắt đầu từ cái ngày nó ham đi bẫy chim. Bẫy chim sẻ trong sân, bắt chim sẻ đồng ở ngoài đồng và lấy nhựa mít nhử cả chim chích trong vườn. Không có tiền mua lồng ngoài chợ, nó đan lấy. Đan kiểu cái rọ đựng trứng gà ấy, đan mắt nhỏ hơn là được. Mỗi lồng có thể nhốt từ một đến ba con chim. Mới đầu, nó bẫy chim sẻ bằng cách rắc vài hạt thóc, úp kênh cái rá lên bằng que tre dòng dây ra xa, hễ chim vào ăn là giật. Bắt chim ra mới khó. Loay hoay mãi có lần chim bay mất. Sau, nó lấy cái áo cũ chùm ra ngoài cái rá, lừa cho con sẻ chạy vướng lùng bùng, bấy giờ mới tóm lấy. Chỉ hai ba hôm đầu, nó đã bẫy được hơn chục con, lồng chim treo la liệt từ trong nhà ra ngoài sân. Bố mẹ nó bắt đem ra ngoài, không có bẩn lắm. Để ở ngoài cứ bị con mèo móc, nó nảy sáng kiến đem treo lên cành bưởi, cành chanh, cây có gai, mèo chịu. Hằng ngày, cứ đi học về là nó lo bắt mồi để nuôi chim. Mẹ nó không cho lấy thóc, bảo: "Thóc ăn chứ thóc đâu mà nuôi chim?" Bắt trong sân chán, nó bẫy ngoài ruộng. Chẳng bao lâu nó đã có được hơn hai chục cái lồng chim treo đầy vườn. Bố nó lấy làm lạ:

- Cái thằng, tự nhiên lại mê chim. Lạ thật.

Mẹ nó thì nói:

- Cho nó chơi chim còn hơn đi chạy rông, nghịch bậy.

Nhưng tại sao tự nhiên thằng Quý lại mê chim đến thế chứ? Điều này thằng Quý không nói ra. Chim bắt được nó không bán. Có lần bố nó nửa đùa nửa thật bảo nó làm thịt chục con cho bố uống rượu, nuôi làm gì mà nuôi lắm thế. Tưởng thật, thằng Quý rơm rớm nước mắt, bố nó cười:

- Bố nói đùa đấy!

Vào hè, sau vụ gặt, chim sẻ về rất đông. Ấy là lúc những người đi bắt chim xuất hiện. Họ không bẫy mà đánh bằng lưới, môi mẻ hàng mấy chục con. Hàng trăm, hàng nghìn con bị nhốt vào lồng chật cứng, đèo trên xe đạp, chở lên thành phố bán. Tại các quán bia, chim sẻ quay đặt đầy một bàn. Đi học về, nhìn thấy người uống bia, nhai chim sẻ rau ráu, có người mỗi con chỉ một miếng, thằng Quý nhắm cả mắt cả mũi lại mà bước. Ghê hơn là khi nó nom thấy hàng xâu, hàng xốc con chim bé như quả cau bị vặt trụi lông, cái mỏ há ra, cái đầu hêu hếu mà thương, mà kinh quá. Thế này thì lấy đâu ra chim nữa cho họ bắt, họ ăn? Chim bay xung quanh, chim làm tổ ngay trên mái nhà, ngoài vườn đấy, nhưng mà chưa bao giờ thằng Quý bắt chim, ăn thịt chim. Nó chỉ chơi với chim, ngắm con chim lích tích, rí ráu vào những khi ở nhà một mình. Buổi trưa nhà phơi thóc, phải ngồi trông, nó chỉ đuổi gà chứ không đuổi chim. Nó còn đùa với đàn sẻ đồng, xua cho bay rợp cả mắt. Con sáo đậu trên lưng, đậu cả trên sừng trâu, nom mới thích chứ.

Họ ăn, họ bắt chim như thế kia thì hết mất chim chứ còn gì nữa. Chính vì nghĩ như vậy mà thằng Quý đã nảy ý định bẫy chim về nuôi. Do nuôi chim, nó biết được khối điều hay về loài chim. Chẳng hạn: chim sẻ, chim chào mào không thích sống một mình. Phải có hai ba con một lồng nó mới không buồn. Cào cào ngon thật đấy, nhưng chim chích không thích ăn. Chim sẻ không khoái giun... Bạn bè đến chơi bảo thằng Quý bán bớt đi, chim cuối mùa được giá lắm. Một nghìn ba con, một nghìn một đôi cũng có người mua. Quý chỉ lắc đầu:

- Tớ không bán.

Nhưng rồi đến lúc thằng Quý không thể làm thêm lồng, nuôi thêm chim được nữa. Vả lại; chim đã vãn. Trong sân nhà nó cũng chẳng còn mấy con chim. Cho nên, bẫy được con mới, nó lại thả con cũ ra. Mẹ nó nom thấy, bật cười:

- Bắt vào, thả ra, thế thì bắt làm gì hở con?

Thằng Quý nhìn mẹ định nói gì đấy, rồi lại thôi. Mẹ nó tủm tỉm nói ngọt:

- Hôm nay có các bác trên tỉnh về chơi, con đãi bố với các bác một bữa...

Cu Quý vẫn không nói gì. Ấy cũng là khi cu Quý đã được nhận cái tên mới là Cu Chim. Chắc lũ bạn nó đặt cho.

Mấy hôm sau, thằng Quý nghe bố nó nói đến chủ nhật thì nhà có khách. Nó giật mình nhìn mẹ. Suốt cả ngày hôm ấy nó ra vẩn vào vơ, bần thần với đám lồng chim, quanh quẩn ở nhà, hết cho chim ăn, nhấc lồng mang ra ao cho chim uống nước, rồi lại vào nhà ngồi. May mà nghỉ hè rồi, chứ không thì nó không còn bụng dạ đâu mà học bài. Đến tối hôm ấy, thằng Quý thầm quyết định một việc quan trọng. Nó đi ngủ sớm và sáng hôm sau nó dậy rất sớm ra vườn lần lượt mở hêt nắp lồng chim. Mở xong, nó đi thẳng ra ngõ như để chạy trốn ai ấy...

Nắng lên. Nghe tiếng chim ríu ran nháo nhác bay tới tấp trong vườn, mẹ nó nhìn nhìn, kêu lên:

- Quý ơi! Chim xổng hết rồi kìa!

Không thấy nó đâu, mẹ nó chạy vào vườn, đứng sững.

- Khổ. Thằng bé sợ nhà ăn thịt chim của nó đây mà...

Song, thằng Quý đã nghĩ khác. Bọn người đánh chim đã đi hết rồi. Đã đến lúc thả bầy chim ra cho nó sinh sôi, nảy nở, đẻ trứng, ấp con...

giavui
06-04-2016, 07:21 PM
Vườn ông vườn xuân

Mẹ tôi sinh tôi ở thành phố, lúc tôi được bố mẹ cho về quê thì ông nội tôi đã mất rồi. Ông không có ảnh để lại. Bà bảo bố tôi rất giống ông. Nhưng tôi lại thấy bố tôi giống bà, nhất là cái mũi và khi bà cười. Bố tôi cười y như thế. Bà dẫn tôi ra vườn, đến cạnh cái bể đựng nước, chỉ vào cây mít:

- Ông mất từ ngày nó chưa ra quả.

Tới giữa vườn, bà trỏ cây nhãn:

- Lúc ông đi, nó mới cao bằng cháu.

Ra bờ ao, có cây sung cành lá rùm ròa, thân cây ngả ngả, nhoài là là, xỏa lá cành xuống gần mặt nước, bà kể:

- Cây này ông trồng, rồi ông uốn nó xuống để cho cá ăn sung. Bố cháu ngày bé cứ cưỡi lên thân cây như cưỡi ngựa ấy. Có bận lăn tòm xuống ao, ướt như chuột.

Tôi ngơ ngác:

- Thế mà bố cháu không việc gì ạ?

Bà cười:

- Ao nông, bố cháu lại biết bơi.

Nhìn sang bên kia, viền quanh bờ ao là cả một bờ tre bao kín.

- Tre ông trồng đấy - Bà bùi ngùi - ông định làm lại cái bếp. Tre chưa kịp đảnh cây thì ông ra đồng nằm.

Mộ ông kề bên mảnh ruộng hai sào của nhà giữa cánh đồng. Vi vu gió là gió. Lui vào phía trong bờ ao vài bước chân, là cây táo ngọt, quả nhon nhon bằng đầu ngón tay giữa của trẻ con, ăn ngọt đến no thì thôi. Bà bảo:

- Táo có gai, nhưng quả nó lành. Muốn ăn phải chọc cho rơi xuống, không trèo được, không lo trẻ bị ngã. Vì thế ông trồng cho vui vườn.

Vườn của ông theo lời chỉ dẫn của bà tôi, có nhiều thứ cây. Chuối um tùm sau nhà. Trước sân là năm cây cau cao vút. Dưới gốc cây cau thứ nhất đứng ở thềm nhìn ra, là bể nước. Một bẹ cau được buộc từ lưng gốc vào bể lấy nước mưa giữa trời. Giữa quãng cách của những cây cau là cây dành dành và hoa mẫu đơn. Lá mẫu đơn hái đun nước uống vị hay hay như nước chè hâm. Quả dành dành giã nát, cho chút muối đắp mắt khi bị đau mắt đỏ. Nước quả dành dành màu vàng như nghệ, dùng nhuộm vải được. Hoa mẫu đơn dùng để cúng. Cúng xong, rút cái nhị hoa ở từng cọng hoa ra mút, nghe ngòn ngọt như đường. Nhai cả hoa cũng được. Bà kể thêm:

- Tất cả đều do ông trồng từ trước. Lụi cây nào, bà bảo các chú trồng lại cây ấy, đúng như khi ông còn sống.

Tôi ngẩn ngơ hỏi:

- Sao ông lại trồng cây mít ở đây?

Bà nhìn bể nước:

- Bể nước cần mát. Lá mít không độc, lại tỏa bóng râm. Rụng vào bể lá nào, lá ấy vẫn còn tươi nguyên, mấy hôm sau vớt ra chưa bị ủng.

Mảnh vườn nhỏ lúc tôi đã đủ trí khôn để nhớ, thấy có cả cam, mận, chanh, bưởi nữa. Riêng cây xoan, cây khế thì mọc tít ở rìa vườn và ngoài ngõ, gần cổng. Bởi lá khế chua, lá xoan đắng, cành vươn ra đến đâu, trụi đất đến đấy, không thứ cây ăn được nào sống nổi dưới gốc. Mà trong vườn thì còn có lá lốt, lá mơ, ngải cứu, khoai sọ, nhọ nồi, thài lài... mọc dưới những cây cao. Rau má, rau sam bò lan... toàn là thứ rau khi cần thì dùng để ăn và để làm thuốc. Ví như ngải cứu, nhọ nồi, đánh gió, giải cảm, dùng cho bà đẻ ăn, thật là lạ lùng đối với tôi khi ấy.

Vào vườn, tôi nhớ đến ông và tự hình dung ra ông đã trồng cây, cặm cụi vun xới ra sao. Dù chỉ hoàn toàn là tưởng tượng, nhưng bóng hình ông không thể nhạt nhòa khi cây vườn còn mãi mãi xanh tươi, cảnh trí và sự sắp đặt các loại cây, từng loại cây đều là có chủ định và có khoa học.

Tết đến, hoa mận nở trắng. Đầy vườn lá xanh non. Sang xuân, thì hoa bưởi, hoa chanh, hoa nhãn. Mẫu đơn thì đơm bông cả bốn mùa. Các Tết được sống ở quê, đêm giao thừa nào bà tôi cũng đặt một mâm cúng lên mặt bể nước để vái vọng trời đất và mời ông trở về vui với con cháu cho cây vườn đỡ nhớ, cho cửa nhà yên vui...

Đến tận bây giờ tôi không sao quên được. Mảnh vườn ấy là Vườn ông - Vườn xuân...

Xuân 1995

giavui
06-04-2016, 07:21 PM
Mẹ tôi

Tôi có người bạn nhỏ, tên cậu ấy là Lâm. Nhà Lâm đông anh em, nên mọi thứ so với bạn bè không thể nào bằng được. Bạn khác mất chiếc bút máy, thì lập tức bố mẹ đã mua cho chiếc mới ngay. Với Lâm thì không. Cái bút bi mà cậu ấy đang viết từ mấy tháng nay, chỉ thay ruột, còn cái vỏ vẫn tốt. Lâm còn biết chữa khi bút bị tắc mực. Tôi có hỏi sao cậu ấy cẩn thận, tiết kiệm thế? Lâm trả lời:

- Nhà tớ nghèo, mà mẹ tớ lại không được khỏe.

Tôi nghe, vừa quý vừa thương cậu ấy.

Hồi đầu năm học, tôi có cho Lâm vay hơn chục nghìn để mua sách giáo khoa. Vì trong buổi nộp tiền, Lâm không có đủ, tôi đã đưa cho Lâm số tiền mua sách hãy còn thừa. Về nhà, tôi nói lại cho mẹ tôi biết. Mẹ mắng:

- Ngày mai, phải đi đòi về. Hay là tiêu bậy rồi?

Tôi biết đến mai, Lâm chưa thể trả và cũng không muốn mẹ tôi hiểu lầm về tôi và Lâm. Miệng thì "vâng", nhưng trong lòng, tôi lo lắm.

Hôm sau, mẹ tôi hỏi, tôi thưa là Lâm chưa có. Mẹ tôi không vui, và tôi cũng băn khoăn, không biết làm thế nào. May sao, ba ngày sau, Lâm mang tiền đến trả đúng vào lúc mẹ tôi đang có nhà. Cậu ấy hai tay cầm tiền, thưa với mẹ tôi:

- Thưa bác, hôm nọ cháu thiếu tiền mua sách nên...

Mẹ tôi mỉm cười nhìn Lâm đăm đăm rồi bất chợt hỏi:

- Ai vá áo cho cháu đấy?

Lâm có vẻ ngượng. Tận lúc ấy tôi mới nhìn thấy miếng vá ở vai áo bạn tôi. Màu vải của mụn vá khác với màu vải của áo. Lâm khẽ thưa:

- Cháu... vá lấy đấy ạ!

Mẹ tôi âu yếm bảo Lâm:

- Cháu cởi áo ra - Và quay về phía tôi - Con lấy áo của con cho bạn mặc tạm kẻo lạnh...

Nói rồi mẹ tôi đứng lên mở ngăn kéo đựng đồ khâu, lấy kim chỉ và chọn mụn vải giống với màu vải áo của Lâm, vá lại áo cho nó. Vá xong, mẹ vừa cắn chỉ vừa nhìn Lâm:

- Chắc mẹ cháu bận lắm, hay mẹ cháu ở xa?

Lâm hơi cúi đầu:

- Vâng. Mẹ cháu bận lắm, mà các em cháu thì còn nhỏ ạ!

- Cháu là lớn nhất?

- Vâng ạ!

Lúc Lâm đã ra về, mẹ tôi mới bảo tôi:

- Bạn con là một đứa con biết thương mẹ và ngoan. Hôm nọ mẹ mà biết, mẹ đã không mắng con.

Tôi liền thưa rõ ý định của tôi:

- Con đã định để dành tiền rồi trả lại tiền của mẹ thay cho bạn ấy, nhưng cậu ấy không chịu. Cậu ấy bảo: "Đã vay thì phải trả. Nếu không cậu sẽ bị mẹ cậu mắng".

Mẹ tôi im lặng. Một lát, người bảo:

- Thỉnh thoảng, con rủ bạn ấy sang nhà ta chơi và học bài với nhau cho vui...

Tôi ôm lấy mẹ, nóng cả mắt. Nước mắt chỉ chực trào ra vì sung sướng.

giavui
06-04-2016, 07:22 PM
Người học trò lễ phép

Đợt heo may cuối năm đã thổi trống cả sân trường, khiến cho các chú bé hay nhảy nhót trong giờ ra chơi cũng tìm nơi có nắng mà túm tụm. Mấy thầy giáo cao tuổi đã húng hăng ho. Từng mảng trời xanh hanh hao chập chờn đợi cơn gió mùa Đông bắc tràn tới. Rét rồi...

Giữa cái cảnh nhộn nhạo áo len và mũ bông ấy, từ phía cổng trường bỗng hiện ra một chú bộ đội quân hàm đỏ sáng trên vai bước vào cổng trường. Tới sân, chú đứng sững bên gốc cây bàng mọc ở đó đã lâu năm lắm rồi, đưa mắt nhìn quanh rồi bước đến một lớp học cổ treo biển "Lớp 6B" và gọi khẽ:

- Dũng!

Chú bé vừa ở trong lớp đi ra, kêu lên:

- Bố!

Chú bộ đội hỏi:

- Thầy giáo đâu, con?

- Dạ. Thầy con ở trong lớp. Hôm nay thầy mệt.

Chú bộ đội bước lên hành lang và gõ cửa. Có tiếng nói vọng ra:

- Xin mời vào!

Dũng mở tròn mắt. Nó thấy bố đứng nghiêm bên cánh cửa lớp đã mở rộng, đưa tay lên mũ chào thầy. Vừa lúc thầy bước ra và hỏi:

- Đồng chí?...

Bố buông tay chào, nhấc chiếc mũ bộ đội ra, ôm vào ngực, cúi đầu:

- Em đây ạ!

Thầy giáo nhấc kính, chớp mắt. Dũng đứng bên cạnh vội thưa:

- Thưa thầy, bố em đấy ạ!

- À...

Thầy vừa "à" vừa đưa tay ra để bắt tay. Bố vội kẹp chiếc mũ vào nách rồi chụp cả hai bàn tay to, khỏe của mình ôm lấy bàn tay có những ngón thon thả, gầy gò của thầy và thưa khẽ:

- Em là đứa học trò bị thầy phạt năm nào về tội nhảy qua cửa sổ đây ạ!

Thầy giáo bật cười to:

- À hà!... Khánh! Khánh phải không?

- Vâng ạ!

- Anh còn nhớ thế cơ à?

Chú bộ đội cúi đầu:

- Thưa thầy, em quên làm sao được cơ ạ!

Thầy nhìn cả hai bố con Dũng:

- Nhưng mà... hôm ấy, tôi nhớ là tôi có phạt anh đâu nhỉ?

Chú bộ đội trẻ băn khoăn:

- Thưa thầy, xin thầy cứ gọi em là em ạ. Vâng, hôm ấy thầy không phạt em, nhưng thầy đã rất buồn. Em suốt đời không sao quên được lời thầy bảo em hôm ấy...

Thầy khẽ gật đầu. Chú bộ đội nói tiếp:

- Hôm đó thầy bảo: "Thôi, em về chỗ rồi về nhà nghĩ tiếp. Em tưởng tôi và bố mẹ em sẽ sung sướng về việc em đã làm trong giờ học như thế phải không? Trước khi định làm một việc gì, phải nghĩ chứ! Là việc xấu, thì đừng làm. Lần này, tôi không phạt em đâu..."

Dũng ngẩng nhìn mái tóc đã bạc của thầy đang hơi xõa xuống trán thầy. Thầy mỉm cười:

- Ờ... em nhớ lâu thật, cảm ơn em. Em về khi nào và bao giờ thì đi?

Bố Dũng thưa:

- Thưa thầy, em đi ngay bây giờ.

- Trên đường hành quân hả?

- Thưa thầy không ạ. Em có việc đi qua. Năm học này em biết tin cháu Dũng, con em, được học thầy, em mừng quá, phải vào thăm thầy ngay và sắp đến ngày 20 tháng 11 nữa ạ!

Thầy giáo nhìn Dũng:

- Dũng này. Bố của em ấy, lúc học thầy, đã không để mắc lại lỗi sai trái tới lần thứ hai đâu...

Một cơn gió lùa thốc vào lớp. Thầy khẽ rùng mình nhắc chú bộ đội:

- Kìa! Em đội mũ vào kẻo lạnh...

Dũng thấy bố em vẫn cầm mũ trên tay và thưa:

- Vâng. Em xin phép thầy...

Giờ ra chơi đã hết. Thầy giáo lại bắt tay chú bộ đội. Trước lúc rời lớp học của Dũng, nó thấy bố nhấc mũ ra, cúi chào thầy... Lòng Dũng nôn nao quá. Dũng nhìn theo bố đi ra phía cổng trường rồi nhìn ô cửa sổ lớp học ở bên cạnh. Cái khung cửa sổ nhắc nó nhớ lại câu nói của bố hồi nãy. Hồi nào ở tuổi như Dũng bây giờ, bố đã có lần trèo qua cửa sổ để vào lớp. Thầy chỉ nói như thế thôi, thầy không mắng, thầy không phạt, nhưng bố đã nhớ mãi, tự nhận đó là một hình phạt để không bao giờ lại mắc phải một lỗi nào như thế hay giống như thế nữa.

Đến tận lúc này và mãi mãi về sau, bố vẫn là người học trò của thầy, người học trò biết vâng lời thầy. Đứng trước thầy, bố không dám đội mũ. Dù bố là... chú bộ đội, nhưng là chú bộ đội lễ phép với thầy giáo cũ, thầy giáo của cả hai bố con...

giavui
06-04-2016, 07:22 PM
Nhớ bà

Sân nhà tôi vui nhất vào những hôm có trăng. Trăng mùa rét tôi ít gặp nên chỉ nhớ mang máng (như cái lúc buồn ngủ) còn trăng mùa hè thì trong vẻo trong veo, sáng lừng lựng. Bà tôi trải chiếu ngay giữa sân rồi quạt cho tôi ngủ. Ngả trong lòng bà, mắt thao láo nhìn trăng, tôi vòi bà kể chuyện. Bà là kho truyện cổ tích đấy. Bà không kể như cô giáo đâu. Nghe thì hay nhưng khó bắt chước lắm. Cái câu quen thuộc "Ngày xửa ngày xưa..." mở đầu cho tất cả mọi câu chuyện, bao giờ cũng báo hiệu trước những điều thú vị, những con người đáng yêu, đáng thương hoặc đáng tức, đáng ghét... (sẽ xuất hiện). Bà vừa kể, vừa quạt cho tôi. Chiếc quạt mo trong tay bà thật lắm gió mát. Tôi cứ thế nằm trong ánh trăng mà thiếp đi cùng với câu chuyện kể thì thầm của bà tôi.

Một lần, đang thiu thiu chập chờn sắp ngủ, bỗng bà ngừng quạt, vỗ nhẹ vào mông tôi một cái:

- Cứ y như thằng bố mày. Lớn lên rồi lại bỏ bà mà đi...

Ơ! Cháu chẳng thế đâu, bà ơi!... Tôi chưa nghĩ được hết điều thì đã ngủ biến.

Sáng hôm sau, lúc trở dậy, tôi đã thấy bà đổ thóc ra phơi. Con chào mào đã ngật ngưởng trên ngọn xoan. Đàn chim sẻ đang sập sè trên mái nhà, chỉ chực sà xuống ăn thóc. Nắng vừa gọi tới sân nhà. Tôi hấp háy mắt bước ra. Bà bảo:

- Hôm nay trời bổng lắm.

Tôi ngỡ bà sẽ hát: "Con cò bay bổng bay cao" cơ. Nhưng bà chỉ nói thế. Thế tức là nắng to.

Vậy là từ lúc tối đến cho tới khi sáng ra, bà tôi lúc nào cũng ở trên sân. Một bữa, bà cho tôi đi theo thăm mấy nhà người quen trong xóm (tới nhà nào, tôi cũng được mút hoa đơn) khi ra về, tôi cứ nghĩ mãi về một điều mà tôi cho là lạ: Bà tôi cũng có bạn. Bạn của bà, là bà của những đứa bạn tôi.

Bà tôi thuộc nhiều bài hát lắm. Toàn là những bài tù ngày xửa ngày xưa, chỉ cần nghe một lần là đã thuộc. Dù cho có thuộc rồi, không hiểu tại sao tôi vẫn cứ thích nghe. Nghe đi, nghe lại bao nhiêu lần cũng được.

Mỗi câu hát của bà thường đưa tôi tới những câu chuyện ngày xưa, dần dà, trở về chuyện ngày nay. Trời mưa, có bài mưa. Trời nắng, có bài nắng. Nào con tôm cất vó, nào cái bống thổi cơm, nào con cò đi chợ, con mèo trèo cau... Sao con tôm chịu khó thế? Sao cái bống bé tí ti mà ngoan? Sao con cò lại vất vả? Sao con mèo thích trèo cau... Hình như bà yêu cái bống nhất, bà thương con cò nhất!

"Cái bống là cái bống bình

Thổi cơm nấu nước một mình bống ơi!..."

Lạ lắm. Bà hát khẽ mà nghe xa vời vợi. Cây tre rung rinh, cái võng kẽo kẹt đệm theo lời bà hát. Mà, chỉ khi nào có hai bà cháu với nhau, bà mới hát thôi. Đó cũng còn là lời bà ru bố tôi lúc còn bé nữa. Dạo còn bé tí teo, bà vừa ru vài câu, tôi đã ngủ biến. Bây giờ thì tôi nghe và hỏi:

- Bà ơi! Sao cái bống nó lại phải nấu cơm một mình?

- Mẹ nó còn mải đi làm, cháu ạ!

Tôi lại hỏi:

- Thế bà nó đâu?

- Bà nó đi chợ.

- Đi chợ mua bánh xốp hở bà?

- Không. Mua bánh đúc bánh đa.

- Vâng, cháu thích bánh đa kê lắm.

- Ừ, thôi, để bà ru cho mà ngủ.

Tôi chưa buồn ngủ. Tôi nghĩ tới cái bống.

- Cái bống nó bằng nào hở bà?

- Nó bằng cháu ấy.

- Thế nó là con trai hay con gái?

Nghe tôi hỏi vậy bà cười, bà chửi yêu. Rồi, để dỗ dành tôi, bà bảo cái bống là con trai. Tôi thích lắm.

- Thế thì cháu là cái bống.

- Ừ, ngủ đi cho chóng lớn, mai nấu cơm bà ăn.

Đến mai, bà vẫn phải nấu cơm vì tôi chưa biết làm gì cả. Ngoài sân trời sùi sụt mưa. Bà bế tôi lên võng:

"Cái cò lặn lội bờ sông"...

Tôi hiểu "cái cò" đây là con cò mẹ. Một con cò trắng toát như bông. Dưới trời mưa kia, nó đang co ro bên bờ ruộng, nơi ven sông để nhặt tép về nuôi đàn con nhỏ. Lũ con thơ vắng mẹ, đang nỉ non khóc ở nhà. Thương con cò quá.

- Bà ơi! Sao con cò nó lại phải lặn lội bờ sông thế?

- Nó mà ở nhà thì con nó đói.

- Con nó là cái bống hở bà?

- Không. Con nó là con cò con chứ!

Chiều hôm ấy, mẹ tôi đi làm cỏ ruộng về, áo quần ướt hết. Mảnh vải nhựa dính chặt vào người mẹ. Bà tôi kêu lên:

- Mẹ thằng Bính thay ngay áo quần đi rồi vào bếp ngồi, kẻo ốm thì khổ đấy.

Tự nhiên tôi nhớ đến lời ru. Lời ru của bà làm cho tôi thương mẹ tôi quá.

"Con cò lặn lội bờ sông"

Bà hay kể về bố tôi:

- Bố con ấy, lên ba hãy còn bú bà, thế mà lên bảy đã biết chăn trâu...

Tôi năm nay cũng bảy tuổi rồi mà chưa biết làm gì. Bà lại kể:

- Bố con ấy, lớn như cái cột nhà, cột đình, lúc ngủ bà vẫn phải mắc màn cho, không thì muỗi nó khênh đi.

Tôi lạ quá.

- Sao thế hả bà?

- Mải ngủ. Nằm đâu ngủ đấy chứ sao?

Vậy thì bố tôi ngày ấy cũng giống tôi bây giờ. Tôi toàn ngủ trước khi bà mắc màn.

Tôi đem chuyện đó khoe với cái Dậu và mấy đứa bạn cùng xóm. Nghe xong, cái Dậu ngẩng đầu:

- Đẹp lắm đấy mà còn khoe!

Ơ! Người ta khoe thì đã làm sao? Cái Dậu ở ngay cạnh nhà tôi. Nó cũng có bà. Bà nó vẫn hay sang chơi với bà tôi. Bị nó nói như mắng, tôi đứng ngây ra, tắc cả họng. Được thể, cái Dậu bôi thêm:

- Khéo vòi, còn khoe!

À! Như thế đấy. Nó chế tôi chỉ biết làm nũng bà thôi đấy. Cái Dậu bằng tuổi tôi mà nó đã biết bế em, quét sân, quét nhà đỡ bà, đỡ mẹ. Còn tôi, tôi chưa có em, cả nhà có mỗi cái chổi rơm thì bà tôi đã quét mất rồi. Làm sao tôi bế em, quét nhà, quét sân như cái Dậu được? Ức quá, tôi chạy về, ôm lấy bà phụng phịu:

- Tại bà đây.

Bà tôi vuốt tóc tôi:

- Tại làm sao? Cháu bà làm sao?

Tôi kể lại việc cái Dậu chế. Bà cúi xuống thơm tôi:

- Ừ, mai bà để chổi cho mà quét.

Đến mai, tôi lại quên. Nhà với sân vẫn do bà tôi quét. Tôi phụng phịu bắt đền. Bà kể cho một chuyện:

"Ngày xưa ngày xưa, có một chàng Hoàng tử - Hoàng tử tức là con trai nhà vua ấy cháu ạ, được vua cha yêu quý lắm. Cả ngày, Hoàng tử chỉ có mấy việc phải làm là: ăn, học và chơi. Còn thì mọi thứ đều có người hầu. Màn không phải mắc, áo quần không phải giặt, đi đâu thì có ngựa có xe, cần cái gì cứ ngồi một chỗ mà gọi là được. Vì thế, lúc lớn lên, vị Hoàng tử ấy chẳng biết làm lụng gì cả.

Một ngày kia, Hoàng tử cưỡi ngựa đi chơi và gặp cô công chúa con vua láng giêng. Công chúa mới hỏi:

- Hoàng tử ơi! Hoàng tử là Hoàng tử chăm hay Hoàng tử lười đấy?

Hoàng tử trả lời:

- Tôi là Hoàng tử chăm.

- Thế Hoàng tử có biết xâu kim không?

Vị Hoàng tử ngơ ngác:

- Xâu kim là cái gì cơ?

Công chúa bật cười chế nhạo:

- Xâu kim như xâu táo ấy, Hoàng tử ạ!

Hoàng tử thẹn quá, liền quay ngựa về nhà hỏi mẹ. Mẹ bảo hỏi bà. Bà kể rằng: ‘Ngày xưa có chàng Hoàng tử được vua cha chiều chuộng lắm, không biết làm gì cả, chỉ biết ăn. Ai làm gì cũng kệ. Ai bảo gì cũng không nghe, nên lúc lớn lên, cứ ngẩn ngẩn ngơ ngơ như người từ trên cung trăng rơi xuống’. Nghe xong câu chuyện vị Hoàng tử nọ đã hiểu ra, từ đấy mới chịu khó tập thành làm lụng cho quen..."

Tôi lại đem chuyện này kể cho cái Dậu nghe. Nó cười tít cả mắt:

- Thế đằng ấy có biết xâu kim không?

- Xâu... kim ấy à? - Tôi hỏi lại nó.

- Ừ.

- Chả ai bảo tớ xâu hết cả.

Cái Dậu cười nữa:

- Thế thì đằng ấy là Hoàng tử đấy!

Tôi tức quá. Tức đến phát khóc lên được. Tôi chạy ngay về nhà, mách:

- Bà ơi! Cái Dậu nó bảo con là Hoàng tử không biết xâu kim đấy!

Bà xoa đầu tôi:

- Ừ, để bà dạy cháu.

Tôi không nghe, cố nằn nì:

- Bà dạy cháu ngay bây giờ cơ!

- Thì để bà còn lấy kim chỉ ra đã chứ!

Phải mất một lúc, tôi mới xâu được một lần kim. Thế là cái Dậu không còn chế tôi là Hoàng tử được nữa.

Đến chiều, tôi tập quét sân. Tôi bắt chước bà, một tay chống gối, một tay lia chổi. Quét xong, lưng không đau, tôi cũng vòng tay ra phía sau đấm đấm mấy cái. Bà thấy thế, bà cười tủm tỉm.

Kể chuyện về bà thì cứ muốn kể mãi, kể mãi chả bao giờ hết chuyện. Nếu chẳng may bạn không còn bà nữa, bà vẫn cứ sống trong trí nhớ của bạn, trong điều ăn, nết ở của bạn.

giavui
06-04-2016, 07:22 PM
Chiến công đầu tiên của người đội viên mới

Thế là Vũ đã trở thành đội viên của Đội thiếu niên tiền phong mang tên Bác Hồ muôn vàn kính yêu. Ngay sau buổi lễ kết nạp đội viên vào Đội, Vũ đi thẳng một mạch về nhà. Cũng trên quãng đường mọi lần Vũ đi, cũng là hàng phi lao có những thân cây gân guốc, cành lá kim xanh rì gan góc hứng gió, chịu mưa ấy thôi... mà sao hôm nay cảnh vật có cái gì mạnh mẽ, tươi tắn hơn?... Ờ, phải rồi, khúc ca người đội viên cho đến tận lúc đó vẫn còn vang lên hùng tráng, náo nức trong em.

"Cùng nhau ta đi lên..."

Ôi cái cậu Lan, chi đội trưởng. Thế mà Vũ cứ tưởng cậu ta ghét mình, cậu ta sẽ phản đối việc mình được vào Đội cơ đấy. Chả là Vũ đã mấy lần trêu các cậu ấy sợ phát khóc lên được. Cái "tội" cầm con rắn nước quẳng vào chân bạn ấy, mỗi lần nhớ lại, Vũ cứ hối hận mãi. Đùa cái kiểu đâu mà quá quắt quá. Lan sợ rắn vô cùng. Lần ấy, Lan sợ phát ốm. Thế mà...

Vũ đi chậm hẳn lại để tự nhớ tới mình. Thế mà lúc đứng lên giới thiệu Vũ, đọc tên Vũ được kết nạp vào Đội, đôi mắt Lan tươi sáng quá, xinh quá và tốt quá. Bạn thế mới là bạn chứ. Đội viên thế mới là đội viên chứ.

"... Tiến lên đoàn viên em ước ao bao ngày"...

Khi quàng khăn đỏ cho Vũ, chị phụ trách dịu dàng và trang nghiêm nhìn Vũ: "... Hãy xứng đáng là người đội viên, quyết phấn đấu để trở thành người đoàn viên..."

Vũ thấy lòng rưng rưng, rạo rực, em chỉ muốn nói ngay: "Thưa chị, em xin hứa... với chị và với các bạn trong Đội của em như thế". Nhưng, Vũ chỉ khẽ thầm "Vâng ạ..." Từ lúc ấy, lời hứa đã cùng đi với em, luôn luôn ở bên em trên đường về và mãi mãi về sau.

Tới nhà, Vũ cẩn thận cởi khăn, vuốt cho thẳng, định treo lên. Sực nhớ, Vũ lại quàng khăn vào, soi gương, sửa nút thật đẹp, tự nói: "Cần phải giữ nguyên tư thế đội viên để mẹ về, mẹ trông thấy chứ! À, còn viết thư cho bố nữa..."

Căn nhà nhỏ bỗng rộng thênh, ấm áp thêm. Ngược lại, cái sân trước cửa như hẹp lại và con chim khuyên nào đậu trên cây khế góc vườn kia hót hay thế! A! Nó chào một buổi chiều nắng hạ vừa sang. Hẳn nó biết Vũ vừa được vào Đội đúng đợt 15/5 kỷ niệm 40 năm Đội ta! Vũ muốn chạy đi một lúc, muốn nhảy nhót cho vui. Giá là mọi hôm, Vũ phóng đi rồi đấy. Song, hôm nay, Vũ muốn mình chẳng giống hôm qua, cần khác hơn hôm qua. Ừ, mà khác thế nào nhỉ? "Thằng Vũ vẫn cứ là thằng Vũ và em gái nó vẫn là cái Dung..." Vũ tự chế mình và mỉm cười một mình.

Chú ý! Việc quan trọng đầu tiên là đi... vo gạo cái đã. Nấu cơm, dọn dẹp, quét sân rồi đi đón bé Dung ở nhà Mẩu giáo. Thôi, mau lên!

Vũ vén tay áo, gấp ống quần, nhảy chân sáo xuống bếp. "Hơ, ai bảo con trai là nhởn? Không, con trai khéo lắm chứ! Nấu cơm, vo gạo, cắt cỏ, băm bèo không kém chi ai. À, ai bảo con trai đoảng nhỉ?..." Tự nhiên Vũ nhớ lại một bài tấu vui. Đang lúi húi nhóm bếp, Vũ bỗng nghe thấy tiếng khóc ở bên nhà bác Mạnh. Cái Hảo rồi. Nhưng sao lại: "Ối con ơi!..." Đứa nào ở bên ấy làm sao? Hay thằng Phương? Thằng Phương thế nào mà cả mẹ và em nó cũng khóc thế? Cái thằng chúa nghịch, hay bắt nạt trẻ con. Học kém Vũ một lớp, nhưng thằng Phương không chơi được với Vũ. Ở cạnh nhà nhau đấy, nhưng mà hai đứa có thân nhau đâu. Mới chiều hôm qua, nó vừa đánh em Dung, vì em Dung cãi nhau với em Hảo nhà nó. Vũ giận quá. Chả nhẽ lại đánh nhau với nó thì thật là... con nít!

Tiếng khóc của mẹ Phương lại vọng sang thất thanh:

- Phương ơi! Phương ơi!...

Thôi, đúng thằng Phương làm sao rồi: Ở nhà, chắc chỉ có mẹ nó và em nó nên mới phải khóc thế. Hay là nó... Vũ gạt phắt cái ý nghĩ đáng sợ là thằng Phương có thể... Nghĩ tới đấy, Vũ nhảy qua bậu cửa, lao xuống sân, chạy băng sang nhà thằng Phương.

Nguy quá rồi. Vũ vừa vào đến cổng đã nom thấy thằng Phương nằm sõng sượt ở vỉa hè, mẹ nó và cái Hảo vừa khóc vừa gọi nó. Vũ bước tới, hỏi:

- Sao thế hở bác?

Mẹ Phương vừa khóc vừa nói:

- Em nó trèo cây...

Thế là Vũ hiểu. Không thể chần chừ được nữa:

- Bác phải cho Phương ra trạm xá ngay. Đi, bác! Để cháu cõng Phương.

Vũ ngồi thụp xuống, đưa lưng ra, giục bác Mạnh gái đặt Phương lên lưng mình:

- Nhanh lên, bác. Bác đỡ đằng sau cho cháu.

Nói thì chậm, chứ mọi việc lúc ấy xảy ra rất nhanh. Mang Phương trên lưng, Vũ chạy thốc ra ngõ. Không biết sức khỏe từ đâu tới đã giúp Vũ chạy nhanh đến nỗi bác Mạnh gái phải vừa thở vừa bước dốn mới theo kịp Vũ: Còn cái Hảo thì rớt lại mãi tận phía sau...

Trong lúc cõng Phương, Vũ quên hết mọi chuyện. Vũ thì thầm với mình, với đứa bạn đang nằm lả trên lưng mình: "Phương ơi! Chịu khó nhé. Mày đừng có làm sao nhé. Tao không giận mày nữa đâu. Nhưng mà sao mày lại thế, đi trèo cây khế..."

Vũ đưa bạn rất đúng lúc, Phương bị choáng nặng vì quá sợ hơn là bị chấn thương. Mũi tiêm cấp cứu của cô Hiền y sĩ đã làm cho Phương dần tỉnh lại. Song còn phải theo dõi chỗ bị chấn thương xem có nguy hiểm không...

Sực nhớ tới việc nhà, Vũ còn phải đi đón em bé ở nhà trẻ. Vũ nói với mẹ Phương:

- Bác ạ. Cháu phải đi đón em cháu. Chốc nữa, cháu lại ra đây thăm Phương...

Bác Mạnh gái cảm ơn Vũ mãi và nhắn Vũ đôi câu về cho bác Mạnh trai, Vũ nhớ kỹ rồi quày quả theo con đường ruộng chạy về đón em...

Nắng chiều hôm nay lạ quá. Dịu dàng hơn và mát mẻ hơn. cảnh vật dường như cũng sáng tươi hơn để đón người đội viên mới lập một chiến công đẹp đẽ - chiến công đầu tiên ngay hôm vừa mới được kết nạp Đội..

giavui
06-04-2016, 07:23 PM
Đối thủ

Thế là cậu ấy đi rồi. Biết đến bao giờ chúng tôi mới gặp lại nhau? Một nỗi nhớ nhung, một nỗi buồn man mác mà lần đầu tiên trong tuổi thiếu niên tôi được biết, đã tràn ngập lòng tôi: xa bạn.

Giá như đây là một bạn rất thân, từng chia bùi xẻ ngọt, từng trải qua những trận ẩu đả, những lần cãi nhau chí chóe để rồi càng ngày càng thương mến nhau hơn, thì đã đi một lẽ. Đằng này, cậu ấy là địch thủ của tôi. Một địch thủ đáng gờm trên sân bóng. Chính điều ấy, mới thật day dứt, mới thật nôn nao, vương vất trong tôi chưa biết đến bao giờ nguôi được...

°

Trường tôi có bảy lớp bảy. Cậu ấy ở bên 7E mà tôi thì học lớp 7B. Ngay từ hồi mới là những lớp 5, cả bảy lớp này đều có đội bóng đá và năm nào cũng diễn ra những trận đấu... nảy lửa giữa lớp E và lớp B ở vòng chung kết vô địch của khối. Năm ngoái, khối 6 chúng tôi đã phải xếp đội 6E và đội 6B ngang nhau vì đã đá đến hiệp thứ 4 vẫn không bên nào được bên nào. Năm nay, 7E và 7B có cơ diễn lại tình hình như thế.

Trong các trận đấu vòng tròn, 7B chúng tôi thắng các lớp khác tơi bời, khí thế dũng mãnh như chẻ tre, trận nào cũng 2 - 0, 3 - 0... cùng lắm thì 2 - 1, 4 - 1... Nhưng khi đụng đến lớp 7E, cả hai cùng va vào nhau và bật trở lại như húc phải tường gạch.

Hai đội bóng này, nổi tiếng có lối đá thiên về tấn công. Chúng tôi áp dụng các chiến thuật mới nhất, có hiệu quả nhất của các đội người lớn mà chúng tôi được xem trên sân Hàng Đẩy. Đội nào cũng có những cầu thủ xuất sắc và ngôi sao nổi bật nhưng vẫn có những chỗ yếu không dễ gì sửa ngay được.

Đội bóng lớp tôi có hàng tiền đạo khá vào cỡ trung bình, nhưng hậu vệ thì không thể chê được. Đặc biệt là thủ thành. Tất cả các cậu ở bên đội bạn, cậu nào sút thủng lưới 7B, lập tức được nhận danh hiệu "cây" làm bàn khá nhất ở đội ấy. Đội tôi ít nhiều thắng chính là nhờ ở thủ thành giỏi. Trớ trêu thay, cậu thủ thành nổi tiếng của khối 7 này, lại là... tôi.

Dạo còn là lớp 5, đội 5B đã từng đoạt chức vô địch của khối. Tôi chỉ chịu để lọt lưới có hai quả phạt đến trực tiếp sáu mét, còn thì bắt được hết, suốt cả sáu trận đấu vòng tròn.

Lên lớp 6, lớp 6E tự nhiên có thêm một cậu mới chuyển trường tới. Tên cậu ta là Hòa. Sức học thường thôi, nhưng là một trung phong lợi hại. Với con mắt "thể dục thể thao" thành thạo, chỉ nhìn thoáng động tác tranh bóng của Hòa, tôi biết ngay đây là địch thủ đáng gờm - một chân làm bàn nguy hiểm đối với khung thành của tôi.

Trận đầu tiên gặp nhau (chỉ mới là giao hữu). Hòa sút tung lưới tôi hai lần và chúng tôi chỉ gỡ lại được có một. Với các đội khác, Hòa đã sút là thắng. Riêng đội tôi, cậu ta phải trả với cái giá cao: bảy lần sút, ăn hai, trong đó có một quả phạt đền. Sau đó cậu ta trịnh trọng tuyên bố:

- Tớ mới gặp phải thằng Nguyễn (tức là tôi) là một. Nó bắt bóng dính lắm.

Hòa học kém về môn toán. Nó lý luận "Đá bóng cần quái gì giỏi toán. Tớ vẫn sút ăn như thường". Song, cô giáo chủ nhiệm bên 7E đã giao hẹn: Nếu sang học kỳ II, Hòa không đạt điểm trung bình về toán cậu sẽ bị treo giò.

Đội bóng của lớp không thể để cho học sinh kém tham gia, dù người ấy đá giỏi đến đâu. Mệnh lệnh của cô giáo chủ nhiệm 7E khiến cho đội trưởng đội địch thủ của tội lo sốt vó, và bọn tôi, tất nhiên mừng thầm. Tự nhiên, tôi nảy ra cái ý nghĩ này: "Giá sau trận chung kết, Hòa mới được trở lại đội bóng nhỉ?" Song, tôi chỉ giữ cái ý ấy ở trong đầu.

Các cậu bên 7E đã xúm vào "vực" môn toán cho Hòa. Mới đầu, Hòa tự ái, nói là không "thèm" đá bóng nữa. Nó thà chịu treo giò để khỏi phải vượt qua cái mốc "èng èng" của môn toán. Nó ngại học toán không thể tưởng được.

Mùa bóng đá đang đến gần. Các lớp rục rịch chuẩn bị và bắt đầu có những trận đá "thử" để thăm dò lẫn nhau. Trên sân cỏ, vẫn vắng bóng Hòa. Tôi khấp khởi mừng thầm. Chắc tụi bên 7E "oán" cô giáo chủ nhiệm lắm.

Đùng một cái, đúng vào trận đấu loại đầu tiên giữa 7E và 7B, Hòa xuất hiện. Tôi choáng người. Hay là tụi 7E nó bịa ra chuyện ấy để "xỏ" bọn tôi?

Không. Quả là đã hai tháng, Hòa bị "treo giò" thật. Cậu ta chỉ được đá tập chứ không được dự các trận đấu, dù đấu giao hữu. Chúng tôi càng ngạc nhiên hơn, khi biết tin chính cô giáo chủ nhiệm đã dạy thêm môn toán cho Hòa trong suốt hai tháng trời, mỗi ngày một tiếng đồng hồ.

Mới đầu Hòa miễn cưỡng đi học. Nó học không một chút hứng thú và tất nhiên không thể có kết quả tốt.

Trong một buổi học, thấy nó uể oải quá rồi, cô giáo chủ nhiệm mới hỏi:

- Em có biết vì sao tất cả các bạn em và cô nữa rất lo cho môn toán của em không?

Hòa suy nghĩ một lúc, rồi trả lời rất thành thật:

- Thưa cô, cô và các bạn của em sợ ở lớp mình còn có học sinh kém toán, thì mất điểm thi đua...

Cô giáo mỉm cười, lắc đầu:

- Không hoàn toàn thế. Cái chính là cô và các bạn em rất mong em góp phần giành thắng lợi cho đội bóng của 7E, vì danh dự của lớp ta và cũng vì khả năng và hứng thú đá bóng của em. Chả lẽ cô lại muốn cho đội bóng của 7E kém hay sao? Nhưng em không thể chỉ đá bóng giỏi mà lại học kém được.

Hòa đã vâng lời cô giáo. Và, chỉ khi đã có điểm mười đầu tiên về môn toán, cậu ta mới chịu trở lại sân bóng, trong trận đấu chính thức. Thật là đẹp, cậu ta xuất hiện đúng vào mùa bóng...

Lần này, 7B và 7E hòa.

Hòa đã hết sức tấn công mà không nổi, bởi vì tôi và các bạn đã bảo vệ kín khung thành. Hàng tiền đạo của chúng tôi yếu hơn, nên thủ thành bên 7E dù không giỏi vẫn bẻ gãy được những cú sút trung bình. Rõ ràng, tôi càng ngày càng nổi tiếng là thủ thành cừ khôi vì đã bắt được mọi cú sút bóng hiểm hóc của Hòa. Ngược lại, Hòa cũng lừng lẫy toàn khối 7 vì chỉ chịu bó... chân có một thủ thành là... tôi.

Bất chợt, cuối học kỳ I năm nay, gia đình Hòa chuyển đến một tỉnh xa ở phía Nam - vì bố mẹ cậu ấy nhận công tác mới - nên Hòa phải đi ngay, cả 7E xôn xao và lo lắng. Trận chung kết sắp tới rồi.

Bên 7B kín đáo thở nhẹ...

Riêng tôi, khi được tin ấy, tôi chực bật reo lên:

- Phen này thì chức vô địch nhất định về 7B!

May mà tôi đã nén được.

Trong bọn lớp tôi, chỉ có cậu Thanh - là lớp trưởng và là đội trưởng đội bóng là tỏ ý buồn rầu, tiếc cho 7E và cũng không hào hứng khi bàn về cái lợi thế của 7B trong cơ hội. Tôi lấy làm lạ và đã hỏi Thanh. Thanh nói:

- Mình tiếc cho Hòa. Không riêng gì trường mình, tìm khắp cả tỉnh, dễ đâu kiếm ra một chân trung phong như nó.

Ngừng một lát, Thanh tiếp:

- Cậu ấy có nghị lực, biết tôn trọng tập thể. Chúng mình rất ân hận là chưa kịp đề nghị chi đoàn thanh niên xét duyệt kết nạp... Mà, cũng phải đến hè này, câu ấy mới đủ tuổi.

Tôi nói sang giải bóng đá năm nay. Thanh chép miệng:

- Đá thắng một đội không cân sức, không có địch thủ, mình cũng cảm thấy không hào hứng lắm...

Rồi Thanh đột ngột hỏi:

- Cậu ngại gặp những đấu thủ xuất sắc như Hòa à? Nếu là tớ, thà tớ bắt một quả bóng hiểm hóc do Hòa sút, còn sướng hơn bắt mười quả do các cậu xoàng xoàng khác sút...

Tôi cứng lưỡi, không thể trả lời ngay được. Cậu ấy nói đúng. Trên sân cỏ, không gì chán hơn là không có đối thủ cân xứng.

Chính điều đó đã khiến tôi nghĩ mãi về Hòa và nhớ cậu ta vô cùng.

Biết đến bao giờ, tôi và cậu ta lại gặp nhau trên sân bóng?

giavui
06-04-2016, 07:23 PM
Cánh buồm trên sông

Đâu có dòng sông, thì đấy có những cánh buồm đi tới... Đã là bạn, thì dù đi xa mấy, vẫn nhớ nhau...

°

Nhà Thủy ở ngay dưới thuyền. Thuyền lại nổi trên mặt sông. Con sông thân yêu, nơi có "nhà" của Thủy ấy, là sông Hồng. Sông Hồng là một trong những con sông rộng và dài nhất nước ta. Lòng sông mở mênh mông, quãng chảy qua Hà Nội càng mênh mông hơn. Mỗi cánh buồm nổi trên dòng sông, nom cứ như là một con bướm nhỏ. Mặt sông không lúc nào chịu đứng yên. Khi thì sóng dội, khi nước xoáy, khi lừng lững trôi xuôi như người đi thẳng không nhìn ai. Những ngày mưa bão, lòng sông xao động, gầm thét và đen kịt lại. Lúc nắng ửng mây hồng, nước sông nhấp nháy như sao bay. Vào buổi tối không trăng, sao đậu kín trời, sao rơi đầy cả mặt sông như vãi tấm. Con sông Hồng tuy không biết nói, nhưng thật là nhiều chuyện. Thỉnh thoảng, từng đoàn tàu của ta và của nước ngoài tu tu cặp bến Phà Đen. Con sông Hồng rộng thế mà lại có những người bạn nhỏ. Ví dụ như Thủy đây...

Nhà Thủy ở ngay dưới thuyền. Phố phường của Thủy là vạn chài trôi nổi trên sông. Đêm đêm, khi mọi nhà lên đèn, cả khúc sông cùng thấp tha thấp thoáng nhũng đốm lửa và nhộn nhịp tiếng gọi, tiếng thưa, cả tiếng cười nữa, cũng râm ran trên mặt nước. Lúc ấy, ngồi ở dưới thuyền mà nhìn lên thành phố, hay lắm. Thành phố, nhà cửa, đèn điện cũng bồng bềnh, chao đi chao lại. Thủy đã quen cái cảnh nhìn ngắm Hà Nội từ trên mui thuyền và mong dịp được lên thành phố chơi.

Thủy cho rằng mọi nhà trên thành phố cũng đỗ gần nhau, sin sít như mạn thuyền áp mạn. Thế mà không phải như vậy. Đường đi lối lại trên thành phố nhiều lắm. Mỗi phố mang một cái tên riêng, không sao nhớ ngay một lúc được. Người đi, xe chạy như dệt cửi chứ chẳng xuôi một chiều như luồng nước. Các ngã ba, ngã tư, ô-tô lượn đi lượn lại như xoáy nước. Ai chưa thuộc đường phố Hà Nội, dễ lạc lắm. Tuy vậy, Thủy vẫn cứ thích được lên thành phố chơi.

Hôm ấy, Thủy lên bờ mua thuốc lá cho bố. Chả hiểu đi đứng loanh quanh thế nào, Thủy quên béng mất lối về. Có lẽ tại cái xe ô-tô có treo biển "xiếc", vừa đi vừa gõ trống và giới thiệu các tiết mục biểu diễn. Thủy cứ đi theo cái ô-tô ấy cho tới khi nhớ ra là phải quay về thì lỡ mất rồi. Thủy càng đi, càng lạc; càng rẽ, càng thấy xa lạ. Giữa lúc đó, Thủy thấy có một đứa bé, khéo chỉ bé bằng Thủy thôi, đang đi theo mình. Thủy ngại quá, bước thật nhanh. Đi được một quãng, Thủy quay lại, lại trông thấy thằng bé ấy. Hai đứa cứ thế đi theo nhau đến Bờ Hồ thì Thủy đứng lại. Thằng bé ấy liền bước tới:

- Cậu đi đâu? Lạc lối hả?

Thủy nhìn đứa bạn mới, mỉm cười. Cái thằng dễ thương gớm. Nó tinh thật. Sao mà nó lại biết được là Thủy lạc lối chứ? Nghĩ thế, Thủy gật đầu:

- Ừ, tớ bị lạc.

Người bạn nhỏ ấy nhìn Thủy suốt từ đầu xuống chân:

- Cậu định về đâu?

Thủy thật thà đáp:

- Phà Đen.

- Phà... Đen à? Ở đằng kia cơ mà! Cậu đi thế thì... đến "Tết" mới về tới nhà. Đi, tớ chỉ cho.

Nói xong, thằng bé ấy xăm xăm bước tới dắt tay Thủy:

- Nào, đi. Tớ tên là Tâm. Cậu tên là gì?

Thủy nói gọn lỏn:

- Thủy.

- Thủy à? Tên con gái à? Thôi, cũng được. Tớ thấy cậu lớ ngớ, đi lung tung, tớ biết ngay... Kìa, rẽ lối này chứ. Tớ biết ngay là cậu bị lạc...

Thủy đi theo Tâm thấy vui vui. Ừ, cái cậu này thế mà tốt. Tên cậu ta cũng... con gái như mình, mà cậu ấy lại còn bảo mình! Hai đứa đi tới một cái nhà ba tầng thì Tâm dừng lại:

- Vào nhà tớ, đi.

- Vào làm gì?

- Làm gì à? Tớ phải xin phép mẹ tớ đã chứ. Nhỡ mẹ tớ tưởng tớ đi chơi lung tung thì sao?

Thủy lo ở "nhà" đợi nên chỉ đứng chờ ở ngoài đường:

- Thôi, cậu vào đi. Để lúc khác.

Tâm chạy lên nhà một thoáng rồi ra ngay:

- Đi, mẹ tớ bằng lòng cho tớ dẫn cậu về nhà rồi!

Khi được biết "nhà" Thủy là một cái thuyền. Tâm thích quá:

- Thế thì cậu sướng thật. Đi đâu cũng có thuyền.

Ngược lại, Thủy lại cho là Tâm sướng. Muốn đi phố, có tàu điện, muốn đi đâu thì đi, không sợ bị lạc.

Thủy rủ Tâm về "nhà" mình, Tâm đồng ý ngay.

Lúc xuống thuyền, Tâm run quá, nó chòng chành thế nào ấy. Thủy cười:

- Không sợ. Cứ bước bạo vào.

Tâm ngồi thụp xuống khoang thuyền:

- Cậu biết bơi chứ?

- Biết.

- Bơi qua sông?

- Qua chứ! Sông Hồng ấy mà, tớ bơi luôn.

Tâm tỏ vẻ khâm phục ngước nhìn Thủy. Lúc Thủy cởi áo ngoài ra, trên mình chỉ còn chiếc áo lót cụt tay, Tâm thấy Thủy chắc nình nịch như cái nắm cơm. Tâm định đứng lên bước theo Thủy, thì thuyền khẽ chòng chành, Tâm lại ngồi thụp xuống. Thủy cười hì hì:

- Cậu chưa đi thuyền bao giờ hả?

- Chưa.

Thủy cười to hơn:

- Giống tớ. Tớ chưa đi chơi phố một mình bao giờ. Cậu có muốn ra ngoài sông không?

- Có. Bố, mẹ cậu đâu?

Thủy vớ lấy chiếc bơi chèo:

- Đi đánh cá với hợp tác rồi. Tớ coi nhà.

Thủy nắm chắc mái chèo, khua nhẹ một cái, thuyền quay mũi. Mãi đến lúc này Tâm mới để ý tới "nhà" Thủy một cách kỹ càng hơn.

- "Nhà" cậu đây à? Bé thế?

Thủy lắc đầu:

- Không. Đây là thuyền nhỏ dùng để đi lại. Thuyền to, bố mẹ tớ để ở "vạn" kia.

- "Vạn" là cái gì?

- Là "làng nổi" của những người có thuyền sống trên sông...

Con thuyền nhẹ nhàng rời bến, hướng mũi ra giữa sông. Nước chảy mạnh, gió lùa vào khoang. Đã hơi quen quen, Tâm men theo mạn thuyền ra ngồi ở phía mũi. Chả hiểu lóng ngóng thế nào, Tâm đánh rơi cái mũ xuống nước và thét lên:

- Mũ!... Chết rồi, Thủy ơi!

Thủy ghếch mái chèo, cười hì hì, nhảy ùm xuống sông vớt mũ lên cho Tâm rồi trèo vào thuyền lấy sào neo thuyền lại.

- Cậu làm gì thế? - Tâm hỏi.

- Gỡ cá.

- Cá à?

- Ừ, tớ thả câu mà...

Thủy lao tõm xuống nước. Một lát sau, Thủy nhoi lên, nhảy thoắt vào thuyền, lôi theo sợi dây câu. Tâm ngồi xem Thủy gỡ cá. Những con cá bống, cá ngạnh, béo tròn trùng trục lần lượt bị Tâm gỡ ra khỏi lưỡi câu, giãy đành đạch, nghiến ken két, ken két. Thủy xâu có đến chục con cá vào sợi lạt, đưa cho Tâm.

- Cho cậu.

Tâm lắc đầu:

- Không. Bố mẹ cậu mắng đấy.

Thủy cười tít cả mắt:

- Cá tớ câu được. Bố mẹ tớ không mắng đâu. Tớ cho cậu cơ mà...

Tâm nhìn Thủy, nhìn lòng sông rộng mênh mông mà ngỡ mình nằm mơ. Thì ra, cũng có những đứa bé coi sông nước như cái phố của mình ở trên cạn. Hà Nội của mình ở cả trên bờ lẫn dưới sông. Tâm ngước mắt nhìn lên cao, Hà Nội của mình còn ở trên kia nữa...

Một khoảng trời xanh bao la...

Sau buổi gặp gỡ ấy, đôi bạn đã thân nhau và thỉnh thoảng vẫn đến thăm nhau...

°

Cho đến nay, Thủy đã thuộc dần đường phố Thủ đô và Tâm cũng làm quen với con thuyền, cánh buồm trên sông hơn trước.

Một bữa kia, Thủy đến nhà Tâm, không thấy Tâm ở nhà. Thủy lững thững đếm từng bước chân, xách xâu cá quay trở lại. Chắc là Tâm đi sơ tán rồi. Nay mai, Thủy cũng cùng vạn chài rời bến, đi xa...

Vào một buổi khác, Tâm ra bên Phà Đen tìm chiếc thuyền quen thuộc thì chỉ thấy mênh mông dòng nước đỏ. Hẳn Thủy đã đi sơ tán. Tâm thẫn thờ đi qua từng gốc cây, mang mấy cuốn sách mới trở về... Tâm sắp cùng các bạn trong phố tạm xa Thủ đô...

Thủy đi đâu? Chắc con sông có biết. Nhưng, con sông Hồng không biết nói. Chỉ có cánh buồm là có cách báo tin cho người ở trên bờ rõ thôi. Thủy cứ băn khoăn mãi về chuyện không nói cho Tâm biết đặc điểm của cánh buồm trên thuyền Thủy. Phải, chỉ cần nom thấy cánh buồm thân yêu thấp thoáng từ xa là Thủy nhận ra "nhà" của mình ngay...

Song, Thủy không thể ngờ trước được.

Sau một chuyến đi lưới, thuyền của "nhà" Thủy giong buồm về bến Bát Tràng. Lúc cặp bờ, Thủy chưa kịp nhảy lên thì đã nghe tiếng gọi:

- Thủy ơi! Thủy!

Thủy biết ngay đó là tiếng Tâm. Tâm thật! Tâm chạy xô tới, hai đứa ôm choàng lấy nhau, líu ríu:

- Tớ nhận ra thuyền cậu mà! Đúng quá. Tớ nhớ mãi cái hình đầu sư tử ở cánh buồm nhà cậu ấy, càng ở xa, càng nom rõ...

Hai mắt Thủy sáng lên. Cái cậu Tâm này cừ thật, thế mà cậu ấy cũng nhớ được đặc điểm của cánh buồm.

Đôi bạn cứ thế nắm tay nhau một lúc lâu. Dòng sông mênh mông lùa từng đợt gió dồn dập, ì oạp vỗ vào mạn thuyền nghe mới vui sao...

Ra đi đánh Mỹ và ra đi bảo vệ mình, những người bạn nhỏ của Thủ đô vẫn gặp nhau.

Đâu có dòng sông, thì đấy có những cánh buồm đi tới!... Đã là bạn, thì dù đi xa mấy vẫn nhớ nhau...

Mùa xuân 1968

giavui
06-04-2016, 07:23 PM
Ụ súng xanh

ĐTổ trung liên chúng tôi đặt súng ở trên một sân gác thượng. Đáng lẽ, chúng tôi phải mang theo mấy bì cát để làm ụ súng. Song, ở đây đã có sẵn một vồng khoai lang đến lạ. Đó là một cái bồ rách, trong đựng phù sa sông Hồng. Đám dây khoai mọc xanh um, vấn vít lấy nhau như một cái đầu uốn tóc nom rất vui mắt. Chúng tôi đặt súng lên đó và đoán rằng chủ nhân của vồng khoai này nhất định là một chú bé. Bởi vì, tôi đã từng thấy những con gà, khóm chuối được nuôi, được trông ở giữa lưng chừng giời như thế này. Đó là một trong nhiều việc tốt mà các em thiếu niên Thủ đô đã làm theo năm điều Bác Hồ dạy.

Quả nhiên, chỉ chừng mươi hôm sau, vào một buổi sáng chủ nhật, chú bé ấy đã tới "thăm" chúng tôi. Đó là một em bé khoảng 12, 13 tuổi, có cặp mắt tròn, to, hóm hỉnh và cái miệng hay cười. Thấy khẩu súng đặt trên ụ khoai, chú bé đứng sững lại, nhìn chúng tôi, chú biết là mình đã đặt chân tới một tổ chiến đấu của tự vệ khu phố.

Đồng chí tổ trưởng vẫy chú bé:

- Lại đây, em!

Chú bé ngần ngừ nhưng rồi cũng bước tới.

- Ụ khoai này của em phải không?

Chú bé khẽ gật đầu:

- Vâng ạ.

- Cho các anh "mượn" nhé! Các anh sẽ thay em trông nom cho.

Chú bé nhoẻn cười - một nụ cười thật đáng yêu - rồi ngồi xuống đặt tay lên khẩu trung liên:

- Các chú đặt súng ở đây à?

Và, không cần biết là chúng tôi có bằng lòng hay không, chú bé nhoài luôn người ra, áp má vào báng súng, nheo mắt:

- Thích quá các chú ạ!

Tiếng chú bé lảnh lót như tiếng chim. Tự nhiên, cả ba chúng tôi cùng nhìn chú, mỉm cười. Từ hôm lên chiếm lĩnh trận địa, hôm nay chúng tôi mới có một vị khách tới thăm.

- Thế nào? Em đồng ý chứ? Cho các anh "mượn", khi khoai có củ, anh sẽ gửi cho.

Chú bé bật cười, ngửng đầu lên. Tiếng cười thật hồn nhiên, khoái chí lạ lùng:

- Ôi, chú biết cháu ở đâu mà gửi?

Nói rồi, chú bé đứng lên phủi quần:

- Các chú thích thật. Tha hồ mà bắn tàu bay Mỹ. Chỉ có chúng cháu là phải đi sơ tán.

Vẻ mặt chú bé thoáng có nét buồn buồn. Nhưng, một nụ cười khác đã tươi rói:

- Hễ các chú bắn được tàu bay giặc, các chú cho cháu một miếng "mi-ca" nhé! Để cháu làm kính đèn chiếu.

Hình như, phải đứng yên là một điều khó chịu, thành thử chú bé cứ xoắn lấy khẩu súng. Lúc ngó cái nòng, lúc rứt mấy ngọn khoai. Cuối cùng, chú ngồi xuống bên cạnh tôi, mắt háo hức nhìn khắp bầu trời xanh thăm thẳm.

- Hôm nay em về thăm nhà hả?

Đồng chí tổ trưởng hỏi chú bé.

- Không ạ. Cậu mợ cháu cũng đi sơ tán cả rồi. Cháu về nhà thăm cái góc học tập và lấy một ít dụng cụ cho tổ mộc lớp cháu. À, các chú có cái thông nòng súng nào chưa? Nếu chưa, chốc cháu cho các chú một cái nhé. Úi giời... ở chỗ cháu lắm chuột thế cơ chứ. Chuyến này, cháu phải đem mấy cái thuôn ở nhà đi mới được. Thịt chuột đồng ăn ngon phải biết! Như thịt gà ấy. Nhưng... phải làm cẩn thận. Lắm sán lắm.

- Em được ăn thịt chuột đồng rồi à?

- Vâng. Mới ăn nếm thôi. Nhưng mà ngon thật. Loại chuột ấy nó toàn ăn ngô với lúa. Hại lắm...

Tuy mới về nông thôn sơ tán, nhưng qua lời nói và vẻ mặt của chú bé, chúng tôi cũng thấy là chú đã bắt đầu hiểu giá trị mồ hôi, nước mắt của người lao động đã bỏ ra để có được hạt thóc, bắp ngô. Tự nhiên, tôi thấy yêu cái chú bé hay nói chuyện này quá. Tôi liền hỏi:

- Tuần nào em cũng về thăm góc học tập của em à?

Chú bé nhìn tôi:

- Thỉnh thoảng cháu mới về, mà là về có việc. (Chú nhấn mạnh tiếng "việc" một cách nghiêm chỉnh). Chúng cháu bận lắm. Học này, công tác đội này, tập lao động này... Tổ mộc của chúng cháu bắt đầu đóng xe cút kít cải tiến rồi nhớ! Nhưng mà thiếu đồ dùng. Cháu phải về lấy mấy mảnh gỗ làm chốt, làm ván chắn; lấy miếng lưỡi cưa gãy đem đi cưa tạm. Còn, góc học tập thì ở đâu phải có ngay ở đó chứ chú? Cháu tiếc cái góc ở nhà đây quá. Cháu kẻ mãi đấy. Khó nhất là huy hiệu Đội...

Đồng chí tổ trưởng từ nãy ngồi nghe chú bé nói, bỗng hỏi chen vào:

- Thế các em có được nghỉ hè không?

- Có chứ ạ. Nhưng ít thôi. Mấy lại, chúng cháu cũng chả thích nghỉ nhiều. - Chú bé bứt một cái lá khoai - Khoai của chúng cháu gần trùm kín luống rồi. Nhiều lắm. Tha hồ ăn... Nếu vồng khoai này có củ các chú cứ luộc hay nướng mà ăn. Chưa chắc cháu đã về đâu... Cháu bận lắm...

Tôi suýt bật cười về cái tiếng "bận" của chú bé. Mà thật vậy, các em có biết bao công việc cần phải làm. Nhũng công việc không thể định rõ tên tuổi như người lớn được.

Chú bé vòng tay ôm gọn hai đầu gối, cằm tì lên tay:

- Chú này, chủ nhật vừa rồi các chú ở đâu?

- Chủ nhật nào?

- Hôm Bác kêu gọi đánh Mỹ ấy!

- À, các anh ở đây. Bên ụ khoai này!

Chú bé nói khẽ:

- Tiếc quá. Ở chỗ cháu không có đài, thành thử mãi hôm sau cháu mới được xem báo. Có lệnh sơ tán triệt để rồi, phải không chú?

- Ừ. Có rồi.

- Thế thì cháu không về nữa...

Giọng nói của chú bé thật dứt khoát. Chú bé đứng dậy, khoát tay một cái:

- Hà Nội sau này sẽ đẹp hơn phải không chú? Bác Hồ bảo thế mà... Học xong lớp 10, cháu sẽ đi học ngành kiến trúc, làm nhà. Cháu sẽ thiết kế một kiểu nhà có thể nuôi cả sáo, trồng cây trên sân thượng. Ví dụ như một giàn mướp. Tha hồ mát... Chú nhỉ! Cái nhà thật là cao, cao hơn thế này...

Đôi mắt chú bé sáng hẳn lên. Tôi nhìn chú bé mà lòng thấy náo nức lạ thường. Ừ, em nói phải. Chúng ta sẽ làm lại tất cả.

"Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn Độc Lập, Tự Do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!..." Lời nói của Bác như đang sang sảng bên tai tôi. Chú bé chắc cũng đang nhớ đến quyết tâm cùng cha anh đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Chú bé lại đứng lên, bước tới bên khẩu súng và ngồi gọn xuống, nheo mắt:

- Chúng nó có giỏi cứ đến đây chú nhỉ! Ta không sợ. Cháu cũng không sợ. Nếu trường học của chúng cháu có bị đổ, chỉ cần mỗi chú bớt một ngày chủ nhật, đi lao động xã hội chủ nghĩa là chúng cháu có trường mới thôi... Năm nay cháu mười hai rồi, chỉ sáu năm nữa là cháu đủ tuổi đi bộ đội, chú nhỉ!... À, để cháu cho các chú cái này, cháu có rồi.

Nói xong, chú bé chạy vụt xuống thang gác. Lúc trở lên, chú xách một cái mũ rơm. Cái mũ đẹp thật. Chú vừa nói, vừa thở:

- Cháu... cháu biết bện cái mũ này rồi... Ở chỗ cháu sơ tán, nhiều rơm lắm. Các chú cũng phải có mũ rơm chứ!

Tôi cầm chiếc mũ từ trong tay chú bé, lòng thấy ấm áp vô cùng. Tuy rời Thủ đô, nhưng chú bé vẫn mang theo tinh thần quyết chiến quyết thắng của người Hà Nội. Tuy xa Hà Nội, nhưng lúc nào chú bé cũng luôn nghĩ đến những người ở lại để bảo vệ Thủ đô yêu quý!

Bên ụ khoai xanh, bốn chúng tôi - kể cả chú bé - cùng nhìn theo hướng nòng súng. Một ngày mới đang rực lên dưới tia nắng mặt trời. Chú bé chào chúng tôi:

- Cháu về các chú ạ! Chúc các chú bắn rơi nhiều tàu bay Mỹ để bảo vệ Thủ đô yêu quý của chúng ta!

Tôi xúc động nắm tay em. Em bắt tay tôi rất chặt.

Lúc này, ụ khoai đang bắt đầu xanh. Dưới chân khẩu súng, những cái ngọn non sớt đang vươn lên, đỏ hồng hồng...

°

Từ buổi ấy, mỗi lần lên gác thượng trực chiến, tôi lại nhớ đến chú bé. Khi thành phố lên đèn tôi tưởng như chú đang cùng các bạn vui chơi dưới những cây cột đèn sáng trưng. Và, khẩu trung liên hàng ngày nghếch nòng lên ụ khoai, sẵn sàng nhả đạn nếu lũ cướp trời mò đến. Tôi cứ nhớ tới chú bé. Chắc chú đã làm một cái góc học tập khác, không kém cái góc học tập chú đã để lại. Bọn giặc thật điên rồ, hàng trăm tấn bom đạn của chúng, hàng chục năm sa lầy tận cổ ở đất nước này, chúng không dọa nổi một em bé. Hỏi rằng, chúng làm sao thắng nổi cả một dân tộc anh hùng đã nuôi dưỡng những mầm non như thế?

Cái ụ khoai của chú bé mọc nhanh quá. Tôi cứ phải bấm ngọn luôn. Ở trong cái bồ này, đã bắt đầu có những rễ cái lớn phình lên đậu thành củ. Và, đám ngọn non sớt, đỏ hồng hồng vẫn đua nhau nảy những chiếc lá xanh tươi vấn vít lên nhau kết thành một ụ súng xanh...

7-1966


Hết