khieman
11-25-2016, 05:13 PM
.
Nhà Báo Như Phong Lê Văn Tiến
Từ Mai Trần Huy Bích
https://2.bp.blogspot.com/-2Hmvm6UtPrs/V7BL3XK7DyI/AAAAAAAAur0/2Xjv-lXFlOIA-9Cxzj61RSDxW2xZUI28wCLcB/s400/Nh%25C6%25B0%2BPhong%2B1-2.jpg (https://2.bp.blogspot.com/-2Hmvm6UtPrs/V7BL3XK7DyI/AAAAAAAAur0/2Xjv-lXFlOIA-9Cxzj61RSDxW2xZUI28wCLcB/s400/Nh%25C6%25B0%2BPhong%2B1-2.jpg)
Như Phong Lê Văn Tiến
Trần Huy Bích là một trong những người “bạn trẻ” tới liên lạc, kết nên tình thân với nhà báo Như Phong từ 1955, năm thứ hai của nhật báo Tự Do (cùng với Nguyễn Thượng Hiệp, Dương Đình Hợp, Phạm Công Bạch, Hà Vĩnh Thọ, Trần Như Tráng, sau thêm Tạ Văn Tài). Tình thân ấy được tiếp nối sau khi ông Như Phong ra khỏi nhà giam CS, tới đất Mỹ năm 1994 cho đến khi ông qua đời.
VÀI CHI TIẾT CÁ NHÂN
Nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến tên thật là Nguyễn Tân Tiến. Trên giấy tờ, nhân vật mang danh hiệu Lê Văn Tiến sinh 1 tháng 2 năm 1923 tại Nam Định. Đây không phải là ngày sinh và nơi sinh thật của ông. Theo ông Nguyễn Ngọc Ấn, người em ít tuổi nhất trong gia đình, song thân các ông chưa sống ở Nam Định bao giờ: nhà báo Như Phong và tất cả các em sinh ra ở Hà Nội. Ông sinh cuối năm 1922, theo âm lịch là năm Nhâm Tuất.
Ông quê ở Từ Châu, gần thị xã Đồng Quan, tỉnh Hà Đông, nhưng gia đình lên sống ở Hà Nội từ những năm đầu của thập niên 1920, trước khi ông ra đời.
GIA ĐÌNH
Ông là con thứ tư trong một gia đình gồm 7 anh em trai. Ba người anh trước ông bị Cộng sản sát hại trong những năm sôi động 1945-1946:
1. Anh trưởng Nguyễn Công Chỉnh: chuyên viên hóa học, trí thức Công giáo, bị Cộng sản hạ sát khi họ tấn công vào nhà thờ Từ Châu năm 1945.
2. Anh thứ hai Nguyễn Huy Tuyết: cựu sinh viên trường Cao đẳng Mỹ thuật, hoạt động trong phong trào Truyền bá Quốc ngữ. Ông là một trong những họa sĩ đầu tiên vẽ tranh Công giáo với sắc thái Việt Nam (Đức Mẹ Maria mặc áo tứ thân ...). Ông cũng là sáng lập viên và cây viết chủ lực của tờ báo Hồn Công giáo. Khi chiến tranh Việt Pháp bùng nổ cuối năm 1946, ông bị Cộng sản bắt giữ và thủ tiêu.
3. Anh thứ ba Nguyễn Quỳnh Giao: tham dự trường lục quân Yên Bái, bị Cộng sản phục kích và hạ sát trên đường di tản sang Trung Hoa cuối năm 1946.
4. Nguyễn Tân Tiến, tức nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến.
Sau khi sinh ra ông không bao lâu, thân mẫu ông qua đời. Ít năm sau, thân phụ ông tục huyền và ông có thêm ba người em khác mẹ:
1. Nguyễn Tấn Bình, sinh năm 1929, kém nhà báo Như Phong 7 tuổi, đã qua đời.
2. Nguyễn Tân An, sinh năm 1932.
3. Nguyễn Ngọc Ấn, sinh năm 1934.
NHỮNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TIÊN (1943-1954)
Chưa rõ ông bắt đầu dùng danh hiệu Lê Văn Tiến từ thời điểm nào. Trong không khí chính trị sôi động ở Việt Nam trong thập niên 1940, sự kiện một thanh niên quan tâm đến đất nước không xuất hiện dưới tên thật mà dùng một lý lịch khác là một chuyện khá thông thường, nhất là với trường hợp một người có ba anh ruột bị Cộng sản sát hại như trường hợp của ông.
Danh hiệu “Tiến” đã đưa tới bút hiệu “Như Phong” do một câu trong binh thư: “Tiến như phong, chỉ như sơn” (tiến tới tựa như gió, dừng lại tựa như núi). Nhiều người quen biết ông đã nêu nhận xét: vừa năng động vừa thanh thoát, phóng khoáng, ông quả có đặc tính “như gió.” Nhưng với niềm tự tin mạnh mẽ và thái độ ung dung, tự tại, ông cũng có cốt cách “như núi” nữa.
Ông bắt đầu tham gia các hoạt động mang tính cách thông tin, văn hóa từ tháng 9 năm 1943 khi ông 21 tuổi, làm việc cho cơ sở xuất bản Đời Nay do Tự Lực Văn Đoàn thành lập. Sau đó:
-- Tháng 4 năm 1945: ông làm phóng viên cho tuần báo Ngày Nay (bộ mới) do Bác sĩ Nguyễn Tường Bách làm chủ nhiệm và nhà văn Khái Hưng làm chủ bút;
-- Tháng 6 năm 1945: ông làm phóng viên chính cho nhật báo Việt Nam Thời Báo do ông Nguyễn Trọng Trạc làm chủ nhiệm và nhà văn Khái Hưng làm chủ bút.
Theo nhiều người biết ông từ lâu, trong các nhân vật của Tự Lực Văn Đoàn, ông chịu ảnh hưởng của nhà văn Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long sâu đậm hơn cả. Ông từng được coi như một thư ký riêng, một người em tinh thần của nhà văn kiêm nhà lập thuyết này.
Tháng 12 năm 1945, ông bị nhà cầm quyền Việt Minh bắt, giam tại Nha Công an ở Hà Nội. Cùng bị bắt với ông có con trai nhà văn Hoàng Đạo là ông Nguyễn Tường Ánh, khi ấy mới 11 tuổi. Bị bắt sau nhưng bị giam cùng phòng với ông có ông Nguyễn Ngọc Linh, sau là Tổng Giám đốc Thông tin miền Nam Việt Nam, khi ấy mới được 15 tuổi. Những ngày bị giam chung này đã để lại nơi ông Nguyễn Ngọc Linh nhiều ấn tượng thật tốt đẹp về ông Như Phong (xin xem bài của ông Linh trong Tuyển tập này) .
Theo nhiều thân hữu biết ông từ lâu, chứng kiến những tàn sát, tương tranh giữa các đảng phái, nhất là giữa hai phe quốc gia – cộng sản trong những năm 1945-1946, ông quyết định sẽ không hoạt động chính trị, nhất là chính trị mang tính cách đảng phái. Ông chuyên tâm vào thông tin, báo chí để giúp người dân hiểu rõ hơn về đất nước và thế giới, nhằm mục đích nâng cao dân trí trong một thời đại nhiều biến cố đang xảy ra ở khắp nơi. Với tôn chỉ “thông tin phải trung thực,” ông chủ trương loan báo sự thật, và cho rằng việc nhìn thấy sự thật sẽ khiến mỗi cá nhân, đoàn thể ... cũng như cả quốc gia, xã hội có thể thay đổi để trở nên tốt đẹp hơn.
Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh Việt Pháp (1947-1949), ông tản cư về Phát Diệm, giúp tổ chức tờ báo Tiếng Kêu của giáo khu Phát Diệm, do Linh mục Đoàn Độc Thư làm chủ nhiệm. Từ năm 1950, ông lên Hà nội, làm Trưởng ban Biên tập của Sở Thông tin Bắc Việt, do ông Nguyễn Trọng Trạc làm Giám đốc. Sau khi đất nước chia đôi năm 1954 ông vào Nam. Nhiệm vụ đầu tiên là Biên tập viên, làm việc cho Việt Nam Thông tấn xã ở Sàigòn.
SÀIGÒN, GIAI ĐOẠN 1954-1963
A. Nhật báo Tự Do
Tháng 11 năm 1954, cùng một số văn nghệ sĩ di cư tên tuổi, ông đứng tên khai sinh nhật báo Tự Do ở Sàigòn. Theo nhà văn Mặc Đỗ trong một cuộc phỏng vấn tại Austin, Texas tháng 10 năm 2012, sau khi di cư vào Nam, ông cùng một số bạn văn (các ông Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng …) đã muốn dựng nên một tờ nhật báo nhằm mục đích giúp chính quyền miền Nam xây dựng một xã hội tự do, dân chủ, không chấp nhận chủ thuyết cùng chế độ Cộng sản. Để xây dựng một xã hội dân chủ, các ông chủ trương “cộng tác, nhưng độc lập đối với chính quyền.” Để có phương tiện lập nên tờ báo, các ông nói chuyện với một người bạn ngoại quốc là Joseph Buttinger (quen biết từ Hà Nội, trước khi di cư), khi ông này đang ở Sàigòn trong tư cách Phó Giám đốc của cơ quan thiện nguyện IRC (International Rescue Committee), nhằm mục đích nghiên cứu việc yểm trợ cuộc định cư của gần một triệu người Việt lìa miền Bắc vào Nam lánh chế độ Cộng sản (Bản thân Joseph Buttinger cũng là một trí thức tị nạn khi nước Áo của ông bị Đức Quốc xã xâm lăng năm 1938. Tổ chức IRC mà ông góp công thành lập và phát triển đã giúp những người dân Âu châu trong những năm loạn lạc của Đệ Nhị thế chiến và ngay sau đó rất nhiều).
Theo đề nghị của Joseph Buttinger, tổ chức IRC quyết định trợ giúp nhóm trí thức di cư (do các ông Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan làm đại diện) một ngân khoản bốn triệu đồng bạc Việt Nam, nhưng chỉ trao ngay một nửa năm 1954, để thành lập một nhật báo lấy tên là Tự Do, nhằm mục đích làm “tiếng nói của người Việt đi tìm tự do,” và cũng để làm phương tiện sinh sống cho một số trí thức, nghệ sĩ, nhà văn, nhà báo … vào Nam lánh Cộng sản năm 1954. Với một ngân khoản lớn như thế, IRC không thể trao trực tiếp cho một nhóm tư nhân mà phải qua chính phủ Việt Nam. Theo nhà văn Mặc Đỗ trong buổi phỏng vấn ấy, số tiền hai triệu đồng được IRC trao cho chính phủ Nam Việt Nam (do Thủ tướng Ngô Đình Diệm lãnh đạo), và được đưa vào một trương mục đặc biệt dành cho nhật báo Tự Do.
Trong giai đoạn đầu, mối liên lạc giữa IRC, chính phủ Việt Nam, và nhóm trí thức xây dựng tờ nhật báo Tự Do tiến triển một cách tốt đẹp. Nhà văn Mặc Đỗ lúc ấy làm Đổng lý Văn phòng Bộ Thông tin, rất tương đắc với vị Bộ trưởng, Bác sĩ Bùi Kiến Tín. Bác sĩ Tín rất được sự tín nhiệm của Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Kế hoạch thành lập báo Tự Do với ngân khoản đầu tiên từ IRC chuyển qua chính phủ Việt Nam tới nhóm khởi xướng được đồng thuận một cách nhanh chóng và dễ dàng. Giấy phép xuất bản báo Tự Do do Đổng lý Văn phòng Mặc Đỗ soạn thảo, được Bộ trưởng Bùi Kiến Tín ký một cách mau lẹ.
Vì đang là công chức của chính phủ, các ông Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng không tiện đứng tên làm Chủ nhiệm. Các vị tìm được một nhà văn độc lập vừa di cư tới Sàigòn: cây viết phóng sự Tam Lang Vũ Đình Chí. Tờ báo cần một Thư ký Tòa soạn và một Quản lý làm việc tại tòa báo toàn thời gian. Hai lựa chọn thích hợp nhất là các ông Như Phong trong chức vụ Thư ký Tòa soạn và Mặc Thu (Lưu Đức Sinh) trong chức vụ Quản lý (nhà báo Như Phong xin từ nhiệm tại Việt Nam Thông tấn xã để nhận nhiệm vụ mới này). Tờ báo cần sự cộng tác của một văn/thi sĩ được nhiều người biết tới và đang sáng tác mạnh. Các vị tìm được nhà thơ Đinh Hùng. Vì thế trên trang nhất, dưới tên báo Tự Do, không ghi danh hiệu của Chủ nhiệm, Chủ bút như các báo khác. Dưới hàng chữ “Tiếng nói của người Việt tự do” là danh hiệu năm người trong nhóm chủ trương: Tam Lang, Mặc Đỗ, Đinh Hùng, Như Phong, Mặc Thu.
https://4.bp.blogspot.com/-f17jKB4vYjA/V7BMjoGHWQI/AAAAAAAAusA/A0V-auHI6PsfabN6nBriA8N2NnzmgRmewCLcB/s400/image003.jpg (https://4.bp.blogspot.com/-f17jKB4vYjA/V7BMjoGHWQI/AAAAAAAAusA/A0V-auHI6PsfabN6nBriA8N2NnzmgRmewCLcB/s400/image003.jpg)
Theo nhà văn Mặc Đỗ, hầu hết các bài xã luận của Tự Do trong giai đoạn đầu (mục “Lập trường”) đã do ông hay các ông Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng thay nhau viết (chỉ ký: Tự Do). Đôi khi nhà văn lão thành Tam Lang đóng góp một vài bài. Là một tờ báo nhằm mục đích phục vụ những người di cư từ miền Bắc, Tự Do có một mục đặc biệt, “Sinh hoạt của đồng bào tị nạn,” với những tin canh tác, định cư… Có mục “Tin Miền Bắc,” cung cấp tin từ thế giới Cộng sản, do nhà báo Như Phong phụ trách dưới bút hiệu Cô Thần. Để giúp dân di cư làm quen với miền đất mới, trên Tự Do có mục “Sàigòn muôn mặt” do nhà văn Tam Lang phụ trách, và mục “Sàigòn cũ và mới,” phóng sự điều tra, khảo cứu do nhà văn Văn Quang phụ trách. Nhà thơ Đinh Hùng giúp tờ báo phong phú và khởi sắc với mục thơ hài hước “Đàn ngang cung” (giai đoạn đầu) dưới bút hiệu Thần Đăng, và những truyện dài lịch sử “Người đao phủ thành Đại La,” “Kỳ nữ gò Ôn khâu” dưới bút hiệu Hoài Điệp Thứ Lang. Các nhà văn Đỗ Thúc Vịnh , Tchya Đái Đức Tuấn (dưới bút hiệu Mai Nguyệt), và Hiếu Chân (bút hiệu của Nguyễn Hoạt) phụ trách mục “Nói hay đừng,” được rất nhiều người theo dõi. Trên Tự Do những năm đầu còn có những truyện dài “Luyện máu” của Hi Di (bút hiệu của nhà văn Bùi Xuân Uyên), “Tình sơn nữ” của TchyA, “Vực thẳm” của Tạ Quang Khôi.
Sang giai đoạn sau, nhà thơ Đinh Hùng phải dành thêm thời giờ cho các chương trình văn nghệ tại Đài phát thanh Sàigòn, người phụ trách “Đàn ngang cung” và thỉnh thoảng tiếp tay trong mục “Nói hay đừng” là nhà thơ Hà Thượng Nhân. Một độc giả mến chuộng Tự Do gửi bài đóng góp cho “Đàn ngang cung” một cách khá thường xuyên là nhà giáo Bùi Văn Bảo (dưới bút hiệu Bảo Vân).
Tự Do có ảnh hưởng rất đáng kể trong sinh hoạt báo chí của miền Nam trong giai đoạn 1954-1963. Theo giáo sư Đoàn Viết Hoạt, ngay từ khi ông còn ở Trung học, cả gia đình ông đã là độc giả trung thành của nhật báo Tự Do. Nhà báo, nhà kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa nêu nhận xét: “Như Phong đã thổi vào làng báo miền Nam một không khí mới lạ ... Cùng với TchyA Đái Đức Tuấn, Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Hà Thượng Nhân Phạm Xuân Ninh, Đỗ Thúc Vịnh ..., Như Phong Lê Văn Tiến đã tạo ra một phong thái làm báo đầy trí tuệ và nhiệt tình.”
Tuy chung mục đích xây dựng một miền Nam ổn định và thịnh vượng để chuẩn bị đối phó với những đe dọa từ chế độ Cộng sản miền Bắc, mối liên hệ giữa nhóm chủ trương Tự Do với chính quyền càng ngày càng khó khăn, nhất là sau khi Bác sĩ Bùi Kiến Tín không còn là Bộ trưởng Thông Tin và nhà văn Mặc Đỗ không còn là Đổng lý Văn phòng của bộ ấy (năm 1955). Trong khi Tự Do muốn xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó những công dân có tinh thần trách nhiệm có quyền phê bình những sai trái của chính phủ nhằm mục đích giúp chính thể trở nên tốt đẹp hơn, thì chính quyền muốn giới hạn tự do của báo chí: các báo phải được kiểm duyệt chặt chẽ. Nhiều bài xã luận hoặc “Nói hay đừng,” “Đàn ngang cung,” cùng nhiều bức hí họa trên Tự Do đã khiến nhiều vị trong chính quyền, kể cả một nữ nhân vật trong đại gia đình của vị nguyên thủ quốc gia phật ý nặng nề. Nhiều sự kiện đưa ra làm chứng cớ để phê phán một số hành động lạm dụng quyền thế (cả trong giới tu sĩ Công giáo) bị kiểm duyệt cắt bỏ.
Dự liệu trường hợp nhật báo Tự Do có thể bị thu hồi giấy phép, giữa năm 1955, nhóm chủ trương xin xuất bản thêm tuần báo Văn Nghệ Tự Do. Nhà văn Mặc Thu Lưu Đức Sinh đứng tên Chủ nhiệm và nhà văn Hiếu Chân Nguyễn Hoạt đứng tên Tổng Thư ký tòa soạn cho tờ tuần báo này (số đầu phát hành ngày 6 tháng 7 năm 1955).
https://1.bp.blogspot.com/-BUMIKiUTJ7k/V7BMqHTnnTI/AAAAAAAAusI/c5sauoqzO90vudv8grlvdi0I9c18rizSQCLcB/s400/image005.jpg (https://1.bp.blogspot.com/-BUMIKiUTJ7k/V7BMqHTnnTI/AAAAAAAAusI/c5sauoqzO90vudv8grlvdi0I9c18rizSQCLcB/s400/image005.jpg)
Hai tờ báo phát hành song song được hơn 3 tháng thì một sự kiện xảy ra khiến cả Tự Do lẫn Văn Nghệ Tự Do đều bị tịch thu và rút giấy phép. Ba nhân vật quan trọng của nhóm (hai nhà văn Hiếu Chân, Mặc Thu và họa sĩ Phạm Tăng) bị bắt giam và truy tố ra tòa.
Nhân cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến của miền Nam Việt Nam năm 1956, cả nhật báo Tự Do lẫn tuần báo Văn Nghệ Tự Do đều đăng nhiều bài về trách nhiệm các đại diện dân cử, chẳng hạn bài “Đắc cử chưa chắc đã là Nghị” trên Văn Nghệ Tự Do số 11. Bài này, cùng một số bài nêu lên những thắc mắc của người dân trước những điểm thiếu công bằng và hợp lý trong giai đoạn tranh cử, cùng những điểm mờ ám trong một vài trường hợp đắc cử, khiến nhà cầm quyền trút tất cả thịnh nộ lên nhóm Tự Do.
2 giờ khuya ngày Thứ bảy, 28 tháng 4 năm 1956, Bộ Thông Tin dùng điện thoại ra lệnh cho nhà phát hành Thống Nhất đình chỉ phát hành tất cả các tờ Văn Nghệ Tự Dosố 13, đã nạp bản và đem tới nhà phát hành trước đó. Ít hôm sau, ông Trần Văn Lắm, Chủ tịch Quốc hội Lập hiến Việt Nam Cộng Hòa, ông Lê Khải Trạch, Đổng lý Văn phòng Bộ Thông Tin, và ông Tỉnh trưởng Gia định, với danh nghĩa Chủ tịch Tố Cộng toàn quốc, cùng đứng tên khởi tố nhóm Tự Do với hai tội danh trầm trọng:
1) Bình luận xuyên tạc, có lợi cho những hành động phản quốc gia,
2) Phá rối cuộc trị an.
Nhà văn Mặc Thu (trong cương vị Chủ nhiệm Văn Nghệ Tự Do), nhà văn Hiếu Chân (trong cương vị Tổng Thư ký) và họa sĩ Phạm Tăng bị bắt, giam ở khám Catinat (thuộc cơ quan An ninh Bộ Nội vụ), chờ ngày ra tòa. Nhà báo Như Phong là nhân vật duy nhất trong nhóm chủ chốt chưa bị bắt trong cơn bão tố này. Ông vừa lo theo dõi tin các thân hữu bị giam hầu tiếp tay với gia đình họ trong việc thăm nuôi, vừa vận động dư luận để chống lại những lời cáo buộc.
https://1.bp.blogspot.com/-89Cc2Ap8BSE/V7HfXmcMCEI/AAAAAAAAuss/hra7elJOqPAJ8BhvG2kAblDPHx8NE9HhwCLcB/s400/image005.jpg (https://1.bp.blogspot.com/-89Cc2Ap8BSE/V7HfXmcMCEI/AAAAAAAAuss/hra7elJOqPAJ8BhvG2kAblDPHx8NE9HhwCLcB/s400/image005.jpg)
Hai nhà văn Hiếu Chân, Mặc Thu và họa sĩ Phạm Tăng
bị đưa từ khám Catinat ra Viện Giảo hình
để đo mặt, lấy dấu tay trước khi bị tống giam
(hình do nhà báo Như Phong chụp, họa sĩ Phạm Tăng cung cấp)
Sự kiện Tự Do, tờ báo được coi như tiếng nói của một số trí thức miền Bắc không chấp nhận chế độ Cộng sản nên đã di cư vào Nam để tiếp tay xây dựng một thể chế dân chủ, bị chính quyền ghép vào tội “có những hành động phản quốc gia” khiến dư luận chấn động. Trong số 667, ra ngày Chủ nhật 1 và Thứ hai 2 tháng 7 năm 1956, báo Dân Chủ của ông Vũ Ngọc Các đưa tin trên trang nhất với hàng tựa chạy suốt trang báo (xin xem phóng ảnh phía sau).
https://3.bp.blogspot.com/-xi0Ha_tJBpQ/V7HfkCEkMhI/AAAAAAAAusw/8HAr-5llIdQinPOJaybRkctADzSGBF0YACLcB/s400/image007.jpg (https://3.bp.blogspot.com/-xi0Ha_tJBpQ/V7HfkCEkMhI/AAAAAAAAusw/8HAr-5llIdQinPOJaybRkctADzSGBF0YACLcB/s400/image007.jpg)
https://1.bp.blogspot.com/-cgDaTQt9tHQ/V7HfkfysQQI/AAAAAAAAus0/XweDoev3zP0B0qJ6GM-oiwEBGYNT7KnoQCLcB/s400/image009.jpg (https://1.bp.blogspot.com/-cgDaTQt9tHQ/V7HfkfysQQI/AAAAAAAAus0/XweDoev3zP0B0qJ6GM-oiwEBGYNT7KnoQCLcB/s400/image009.jpg)
Không tán thành thái độ đàn áp một cách quá đáng của chính quyền, ba luật gia danh tiếng của miền Nam lúc ấy, các luật sư Vũ Văn Hiền, Vũ Văn Huyền và Đỗ Mạnh Quát cùng nhận lời bào chữa cho Tự Do không lấy lệ phí. Dựa vào nhiều khiếm khuyết trong thủ tục tố tụng cũng như một số mâu thuẫn trong bản cáo trạng, luật sư Vũ Văn Huyền xin cho các “can phạm” được “tại ngoại hậu cứu” (tạm trả tự do). Ông Chánh án Nguyễn Huy Đẩu, một trí thức và luật gia có uy tín, cũng dành nhiều thiện cảm cho Tự Do. Nhờ thế, sau phiên xử ngày 2 tháng 7 năm 1956, trước các tội danh “bình luận xuyên tạc” và “phản quốc gia,” Tự Do được trắng án. Các ông Mặc Thu, Hiếu Chân, Phạm Tăng không phải trở lại nhà giam. Tuy thế, dưới áp lực của chính quyền, nhóm Tự Do vẫn bị ghép vào tội “bình luận có hại tới việc trị an.”
Theo họa sĩ Phạm Tăng, các nhà lãnh đạo miền Nam năm 1956 cũng biết rằng Tự Dođược nhiều thiện cảm của dư luận, và ý thức được rằng nếu đóng cửa hẳn Tự Do, uy tín của chính phủ sẽ bị tổn hại. Bác sĩ Trần Kim Tuyến, Giám đốc sở Nghiên cứu Chính trị Phủ Tổng thống, đứng ra dàn xếp. Tuần báo Văn Nghệ Tự Do bị rút hẳn giấy phép nhưng nhật báo Tự Do được tái xuất bản với điều kiện phải để nhà giáo Phạm Việt Tuyền, một Tham vụ chuyên môn tại Phủ Tổng thống, có liên hệ thân với bác sĩ Tuyến, đứng tên Chủ nhiệm. Vai trò Quản lý cũng phải giao lại cho ông Kiều Văn Lân, lúc ấy là một sĩ quan an ninh tại sở Nghiên cứu Chính trị Phủ Tổng thống. Nhà báo Như Phong tiếp tục giữ vai trò Tổng Thư ký toà soạn.
https://4.bp.blogspot.com/-sBz1ohAJEtQ/V7BMv3yQ3QI/AAAAAAAAusM/gdCVPk5gt2s74jnUGYqKVlGEzjY1uwiPgCLcB/s400/image009.jpg (https://4.bp.blogspot.com/-sBz1ohAJEtQ/V7BMv3yQ3QI/AAAAAAAAusM/gdCVPk5gt2s74jnUGYqKVlGEzjY1uwiPgCLcB/s400/image009.jpg)
Theo nhiều độc giả, sau khi tái xuất bản, Tự Do không còn được sinh động như trước. Tuy vậy, tờ báo vẫn rất được chú ý nhờ một số truyện dài đăng từng kỳ có giá trị: “Tỵ Bái” của Nguyễn Hoạt và “Khói sóng” của Lý Thắng (bút hiệu chỉ dành cho truyện này của nhà báo Như Phong). Tự Do cũng được nhiều người tìm đọc vì loạt bài phóng sự “Thăm dân cho biết sự tình” của ký giả miền Nam Vũ Bình.
Theo nhà thơ Hà Thượng Nhân, đầu năm 1959, bác sĩ Trần Kim Tuyến mời nhóm lãnh đạo Tự Do tới ăn cơm tại nhà riêng. Trước khi vào bữa ăn, Tổng Thư ký Như Phong hỏi vị đại diện chính quyền: “Chúng ta ủng hộ ông Ngô Đình Diệm vì nước Việt Nam hay vô điều kiện?” Sau khi được trả lời, “Vì nước Việt Nam,” nhà báo Như Phong nói ngay: “Như thế chúng tôi NÊN và CẦN công kích chính phủ để mong chính phủ ngày một khá hơn, phục vụ đất nước ngày một hiệu quả hơn.” Sau đó, nhiều lần trong bữa ăn, ông vạch ra những điểm mà ông cho rằng chính phủ sai lầm. Theo nhà thơ Hà Thượng Nhân, bác sĩ Tuyến “ngồi gật gù, trầm ngâm không nói.”
Cũng theo nhà thơ Hà Thượng Nhân, “Linh hồn của Tự Do là Như Phong. Anh là người trẻ nhất, năng nổ nhất, làm việc có kế hoạch nhất.” Chính Tổng Thư ký Như Phong đã khám phá ra và đào luyện nên ký giả Vũ Bình. Nhà văn Bùi Bảo Trúc cũng cho biết ông bắt đầu sự nghiệp cầm bút từ những “Lá thư Tân Tây Lan” viết theo sự gợi ý và hướng dẫn của nhà báo Như Phong. “Và chính Như Phong đã đón bài của tôi gửi về, sửa chữa và cho đăng hàng tuần trong số Chủ nhật của báo Tự Do.” Gần 40 năm sau, tháng 12 năm 2001, nhà văn Bùi Bảo Trúc còn viết: “Mỗi ngày, mở máy computer ra để viết, bao giờ tôi cũng nhớ đến người bạn vong niên này.”
B. Các hoạt động khác
1.Cơ sở xuất bản Tự Do
Năm 1959, nhà báo Như Phong cùng các thân hữu khai sinh thêm Cơ sở Xuất bản Tự Do. Không nhiều vốn và không nhằm mục đích thương mại, cơ sở Tự Do không xuất bản nhiều sách (gần 30 nhan sách trong hơn 4 năm hoạt động [1959-1963], hay trung bình 7 nhan sách mỗi năm). Tuy nhiên, những tác phẩm chọn in đều là những tác phẩm có giá trị, chẳng hạn Phương Đình dư địa chí của Nguyễn Văn Siêu qua bản dịch của Cử nhân Hán học Ngô Mạnh Nghinh, Hoàng Lê nhất thống chí (của Ngô gia văn phái, nhưng trong bản do Tự Do xuất bản chỉ ghi danh hiệu Ngô Thời Chí) qua bản dịch của Ngô Tất Tố, Sàigòn năm xưa của Vương Hồng Sển ... Cơ sở Tự Do cũng tái bản ba tác phẩm quan trọng của nhà văn Hoàng Đạo: Bùn lầy nước đọng, Mười điều tâm niệm, Trước vành móng ngựa. Tự Do cũng xuất bản nhằm mục đích giới thiệu nhiều tác phẩm giá trị của những nhà văn có tài nhưng vẫn còn được coi là “mới” cho tới lúc đó: Mưa đêm cuối năm của Võ Phiến (1958), Chị em Hải của Nguyễn Đình Toàn (1961), Thử lửa của Thảo Trường (1962)... Tự Do cũng giới thiệu hai tác phẩm quan trọng của một nhà văn trong nhóm: Dì Mơ (1959) và Mùa ảo ảnh (1962) của Đỗ Thúc Vịnh, và một bản dịch mới cho bộ Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, bản dịch của Nguyễn Hoạt (1959).
2.Văn Bút Việt Nam
Năm 1957, Văn Bút Việt Nam được thành lập như một phân bộ của Văn Bút
Quốc tế (PEN Club International). Nhà báo Như Phong đã tích cực đóng góp trong cuộc vận động tiến tới sự thành lập này, trở nên một “sáng lập hội viên,” và được bầu làm Tổng Thư ký đầu tiên của Văn Bút Việt Nam (Chủ tịch đầu tiên là văn hào Nhất Linh Nguyễn Tường Tam). Nhờ sự hoạt động tích cực của Tổng Thư ký Như Phong, Văn Bút Việt Nam kịp hoàn tất những thủ tục cần thiết và ngay năm ấy, cử đại diện tham dự Đại hội Văn Bút Quốc tế tại Tokyo. Đây là lần đầu tiên văn giới Việt Nam góp mặt cùng văn hữu thế giới.
3. Liên hệ với học giới và báo giới các nước
Song song với các hoạt động văn hóa, thông tin trong nước, nhà báo Như Phong còn duy trì mối liên hệ mật thiết với nhiều chuyên gia về Việt Nam của học giới và báo giới quốc tế. Ông có giao tình thân với học giả lỗi lạc Sir Patrick J. Honey của Anh quốc, tác giả uyên bác Robert Shaplen, và nhà báo xuất sắc Sol Sanders cùng của Hoa kỳ. Theo nhà biên khảo Trần Đông Phong, người có liên hệ thân với Bác sĩ Phan Huy Quát và ông Như Phong từ giữa thập niên 1960, rất nhiều chi tiết trong cuốn The Lost Revolution của Robert Shaplen (New York : Harper & Row, 1965) đã do ông Như Phong cung cấp. Ông cũng viết một số tài liệu biên khảo có giá trị bằng Anh ngữ, điển hình là một bài tường thuật và phân tích tình trạng trí thức, văn nghệ sĩ miền Bắc từ 1954 cho đến vụ Nhân văn, Giai phẩm cuối thập niên 1950 (“Intellectuals, writers and artists”). Bài này đã được đăng trên chuyên san nghiên cứu The China Quarterly năm 1962, và về sau in lại với đôi chút sửa chữa trong cuốn North Vietnam Today do học giả Patrick J. Honey làm chủ biên (New York : Praeger, 1962).
Mâu thuẫn giữa chính quyền và Tự Do nặng thêm trong biến cố Phật giáo mùa Hè năm 1963, nhất là sau khi Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu và văn hào Nhất Linh Nguyễn Tường Tam uống thuốc độc tự tử. Tháng 8 năm 1963 Tự Do bị đóng cửa và truy tố. Tổng Thư ký Như Phong bị bắt, tòa soạn bị niêm phong.
Từ tháng 8 tới tháng 11 năm 1963, nhà báo Như Phong bị giam tại Nha An ninh Quân đội, rồi Phòng Nhì Biệt khu Thủ đô, sau cùng là Tổng nha Cảnh sát. Chỉ tới sáng ngày 2 tháng 11-1963, ông mới được trả tự do.
SÀIGÒN, GIAI ĐOẠN 1963-1975
1) Liên hệ với giới tướng lãnh và các chính khách
Sau cuộc đảo chánh 1 tháng 11-1963, nhà báo Như Phong được mời tham dự Hội Đồng Nhân Sĩ, một tập hợp gồm khoảng 60 nhân sĩ, trí thức, chính khách của miền Nam Việt Nam, được triệu tập để giúp ý kiến cho chính phủ. Trong các tranh chấp giữa các tướng lãnh với những đảo chánh, phản đảo chánh, chỉnh lý ... trong suốt năm 1964, uy tín ông tăng thêm. Do kiến thức vững chắc về những vấn đề liên quan tới Cộng sản Việt Nam cũng như do mối giao tiếp rộng rãi trong chính giới dân sự của ông, hầu hết các tướng lãnh tranh quyền đều muốn kéo ông đứng bên phía họ.
Khi bác sĩ Phan Huy Quát được đề cử lập Nội các đầu năm 1965, với khả năng và tình thân sẵn có, ông có thể tham chánh dễ dàng. Tuy nhiên ông vẫn đứng ngoài, chỉ giúp ý kiến khi cần thiết. Ông Nguyễn Ngọc Linh cho biết ông được Thủ tướng Phan Huy Quát mời làm Giám đốc Việt Tấn xã do sự đề nghị của ông Như Phong.
Khi Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát không thể tiếp tục cộng tác với nhau và quyết định trao quyền lại cho quân đội tháng 6 năm 1965, tư thế của nhà báo Như Phong nổi rõ thêm. Theo ông Nguyễn Ngọc Linh và một số thân hữu khác, ông Như Phong vốn quen thân từ lâu với Luật sư Đinh Trịnh Chính và Đại tá Phạm Văn Liễu, hai người cùng theo học Lục quân Yên bái với người anh thứ ba của ông là ông Nguyễn Quỳnh Giao trước kia. Qua ông Chính và Đại tá Liễu, ông có thiện cảm với tướng Nguyễn Chánh Thi. Tuy nhiên, sau khi tướng Thi không dám nhận trọng trách lập chính phủ và tướng Nguyễn Cao Kỳ được quân đội giao cho nhiệm vụ ấy, ông sẵn sàng hỗ trợ tướng Kỳ.
Ông Nguyễn Ngọc Linh cho biết: sau khi được cử làm “Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương,” tướng Kỳ chưa có ý niệm rõ về việc lập chính phủ cũng như về chính sách, lại cũng chưa có ai làm cố vấn trong lãnh vực chính trị, nên đã tới nhà ông Đinh Trịnh Chính, nguyên Bộ trưởng Thông tin trong chính phủ Phan Huy Quát để gặp ông Chính và ông Như Phong, yêu cầu được giúp.
Trong “Nội các chiến tranh” của tướng Kỳ, nhiều Bộ trưởng được mời do đề nghị của nhà báo Như Phong. Theo lời tường thuật của ông Linh, “Khi ông Kỳ muốn trong chính phủ có một số người miền Nam thì ông Tiến đưa danh tính của những người tuy không hề quen nhưng được biết là có khả năng. Sau đó gọi điện thoại và đưa xe đi đón, ai đến gặp ông Kỳ là người đó được mời làm Bộ trưởng.” Ông Linh cũng cho biết: theo nhiều nguồn tin, tướng Kỳ muốn ông Như Phong giữ nhiệm vụ “Phụ tá Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương,” tương đương với Bộ trưởng Phủ Thủ tướng, nhưng ông Như Phong từ chối.
Theo nhiều thân hữu khác, ông Như Phong đưa lý do “chỉ là nhà báo, không phải chính trị gia” để tránh việc tham chánh. Ông cũng cho biết ông “muốn được việc” chứ “không thích làm quan.” Nhà báo Sol Sanders cũng viết: ông Như Phong đã từ chối những đề nghị cầm đầu một bộ, thích ở trong hậu trường làm người cố vấn và phân tích (“he refused offers of a ministry, preferring to remain always in the background as an advisor, an analyst ...”). Nhà báo Đỗ Quý Toàn nêu nhận xét:
“Ông chỉ góp ý kiến ... về một danh sách chính phủ với điều kiện chính ông không tham dự để bảo đảm việc đề cử của ông là cốt vì công ích, không phải vì tình riêng.”
Tuy nhiên ông nhận lời, và đã thảo hộ các tướng lãnh bản “Hiến Ước Tạm Thời,” tức Hiến pháp tạm thời của miền Nam Việt Nam trong giai đoạn 1965-1967, phác họa cơ cấu tổ chức nhà nước với Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia và Ủy ban Hành pháp Trung ương). Giáo sư Tạ Văn Tài cho biết trong một lần cùng giáo sư Trần Như Tráng đến thăm ông Như Phong tại căn nhà đường Công Lý mùa hè năm 1965, các ông thấy vị “Tham vấn viên của Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia” đang cởi trần, vừa soạn thảo, vừa tự tay đánh máy bản “Hiến Ước Tạm Thời” này. Theo nhà thơ Hà Thượng Nhân, ông Như Phong cũng đã soạn hộ tướng Kỳ bài diễn văn trình diện Nội các, gồm 6 phần, đưa ra một chương trình 19 điểm.
Trong cuốn sách Buddha’s Child : My Fight to Save Vietnam (có thể tạm dịch: Con cầu tự : cuộc chiến đấu để bảo vệ Việt Nam của tôi -- New York : St. Martin Press, 2002), tướng Nguyễn Cao Kỳ viết rằng ông bổ nhiệm ông Như Phong làm Bộ trưởng Bộ Bình định (Pacification). Chi tiết này không chính xác. Theo tất cả các sử liệu, trong giai đoạn từ 19 tháng 6-1965 tới 9 tháng 11-1967, khi tướng Kỳ giữ nhiệm vụ “Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương” (Thủ tướng), miền Nam Việt Nam chỉ có hai nhân vật phụ trách Bộ Bình định và Xây dựng Nông thôn. Người thứ nhất là ông Nguyễn Tất Ứng. Sau khi ông Ứng tử nạn máy bay ngày 16 tháng 9-1965, người được cử lên thay là tướng Nguyễn Đức Thắng. Từ trước tới sau, ông Như Phong chỉ giúp ý tướng Kỳ trong việc lập Nội các, chứ không nhận cho mình bất cứ một chức vụ nào.
Theo nhiều thân hữu, ông Như Phong có một dự án chính trị, và đã không thành công trong dự án này. Trong cuộc bầu cử Thượng viện năm 1967, ông vận dụng những liên hệ có sẵn với các đảng cách mạng, các khuynh hướng tôn giáo và giới chuyên viên trẻ ở miền Nam để lập nên ba liên danh ứng cử cùng lấy danh hiệu “Cây Dừa” (các liên danh “Một Cây Dừa,” “Hai Cây Dừa,” “Ba Cây Dừa”). Theo giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, “Đây là một liên minh chính trị lớn mà chỉ Như Phong ráp lại được vì ông là người thân của mọi phe phái, được các phe phái mến, tin tưởng, và họ biết là ông chỉ nghĩ đến quyền lợi dân tộc chứ không thủ lợi cho chính mình” (tuy vận động lập nên ba liên danh, ông đứng ngoài chứ không tham dự các liên danh ấy).
Mỗi liên danh đều có sự góp mặt của giới chuyên viên trẻ (được tín nhiệm ở Sàigòn), Việt Nam Quốc Dân Đảng (ảnh hưởng mạnh ở miền Trung), Cao Đài và Phật Giáo Hòa Hảo (mạnh ở nhiều tỉnh miền Nam). Nếu cùng đắc cử, ông hi vọng ba liên danh này sẽ tạo nổi đa số trong Thượng viện, ủng hộ tướng Kỳ thực hiện những thay đổi đáng kể trong chính trường miền Nam Việt Nam trong trường hợp ông Kỳ đắc cử Tổng thống và tiếp tục là một tướng lãnh “sạch.” Nhưng sau khi tướng Kỳ nhường tướng Nguyễn Văn Thiệu làm ứng cử viên Tổng thống trong liên danh duy nhất của quân đội và bằng lòng làm Phó cho tướng Thiệu, cả ba liên danh “Cây Dừa” đều bị loại, hết trông cậy vào sự yểm trợ của quân đội nay đã thuộc tướng Thiệu. Theo ông Nguyễn Ngọc Linh, nhà báo Như Phong coi đây là thất bại chính trị nặng nhất đối với ông.
2) Liên hệ với học giới và ngành truyền thông quốc tế
Cùng với việc quân đội Hoa kỳ sang tham chiến từ giữa năm 1965 trở đi, các báo, các hãng tin ngoại quốc gửi nhiều ký giả tới Việt Nam. Tình trạng chính trị miền Nam sau khi Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ vô cùng phức tạp. Theo nhận xét của ký giả Phan Lạc Phúc, “đảng phái mọc ra như nấm ... không biết chính, tà, thật, giả ra sao. Người trong nước cũng không biết đằng nào mà lần, huống chi các nhà báo, các hãng tin ngoại quốc.” Trong tình trạng ấy, người thường được các hãng tin, các nhà báo nước ngoài tìm tới để tham vấn là nhà báo Như Phong. Cũng theo ký giả Phan Lạc Phúc, “những đóng góp của Như Phong đối với giới truyền thông nước ngoài đã được coi là nguồn tin đáng tin cậy nhất.”
Theo một số thân hữu có liên hệ gần với nhà báo Như Phong, sau cuộc đảo chính 1-11-1963, rất nhiều lần ông tìm cách tái xuất bản nhật báo Tự Do nhưng không thành công. Tuy vẫn thuận hảo đối với ông, các chính quyền quân nhân từ 1963 về sau không muốn ông điều khiển báo Tự Do trở lại.
Với nhiều lý do khác nhau, các đơn ông gửi để xin tái xuất bản báo đã bị từ khước một cách khéo léo. Từ 1969 trở đi, ông cũng có thêm một mối bận: ông được mời làm giảng viên về các vấn đề Bắc Việt tại trường Cao đẳng Quốc phòng. Theo nhiều thân hữu, trong đó có ông Nguyễn Ngọc Linh, ông Như Phong dùng rất nhiều thời giờ trong những năm đầu của thập niên 1970 để hoàn tất bộ trường thiên “Khói sóng.”
Đầu năm 1972, ông dành nhiều thời giờ giúp một trí thức Hoa kỳ sang nghiên cứu về sinh hoạt chính trị tại Việt Nam. Tiến sĩ John C. Donnell, giáo sư Chính trị học tại Temple University, Philadelphia, người từng viết nhiều bài nghiên cứu về Việt Nam, được Asia Society tại New York tài trợ để sang Việt Nam nghiên cứu về mối liên lạc giữa trung ương và địa phương của các tổ chức chính trị không Cộng sản. Ông Như Phong đã giới thiệu giáo sư Donnell với nhiều nhân sĩ, trí thức, lãnh tụ các đoàn thể chính trị hầu thực hiện các cuộc phỏng vấn. Khi về nước, giáo sư Donnell chủ biên một cuốn sách về sinh hoạt chính trị liên quan tới bầu cử tại Nam Việt Nam: Electoral Politics in South Vietnam (Lexington, Mass. : Lexington Books, 1974). Cuốn này có sự đóng góp bài vở của các giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, Tạ Văn Tài, Douglas Pike, Stephen B. Young... Giáo sư Donnell viết một chương quan trọng về những triển vọng cho sự kết hợp chặt chẽ về phương diện chính trị với việc tranh cử (“Prospects for political cohesion and electoral competition”).
3) Những ngày cuối của miền Nam
Theo nhạc sĩ Từ Công Phụng, giữa năm 1974 bà Hoàng Đạo đau nặng vì chứng ung thư tái phát. Theo bác sĩ Trần Ngọc Ninh, vị bác sĩ điều trị trong thời gian này, bà bị một loại bướu thịt ác tính (myosarcoma) ở tay trái. Mỗi lần vào nhà thương trị liệu là một lần cánh tay bị cắt thêm vì ung thư lan. Khi cánh tay bà mất hẳn vào tháng 2-1975, tình hình miền Nam đã trở nên tồi tệ. Nhạc sĩ Phụng nhận thấy “những nét lo lắng hằn lên khuôn mặt của cậu Tiến.”
Đầu tháng 4-1975, khi tình hình miền Nam trở nên hết sức trầm trọng, ông Như Phong khuyên nhạc sĩ Phụng nên tìm cách đưa vợ con ra đi. Trước câu hỏi, “Cậu có dự tính ra đi không?” ông trả lời: “Tôi không đi vì nhiều lý do. Trước mắt là Me đang đau nặng, cần người chăm sóc. Thứ hai là đời sống ở nước ngoài không thích hợp với tôi.” Trước nỗi lo lắng của nhạc sĩ Phụng, “Cậu ở lại thì rất nguy hiểm,” ông thản nhiên mỉm cười: “Không sao. Tôi biết họ (Cộng sản), tôi biết họ rõ lắm nên tôi có thể tìm được một lối sống.”
Nhà thơ Hà Thượng Nhân cho biết:
“Những ngày miền Nam sắp mất, Như Phong thường nhịn ăn, gọi là ‘vào thất’.” Khi được hỏi, “Vào thất’ có lợi gì?” ông trả lời: “Tôi chuẩn bị để đi tù.”
Bà Đỗ Thúc Vịnh và ông Hà Thượng Nhân cùng cho biết: Tuy không đi, ông Như Phong giục mọi người tìm cách ra đi vì “không thể sống với Cộng sản được đâu!”
Ngày 7 tháng 7 năm 1975, một người bạn ngoại quốc của nhà báo Như Phong, học giả Patrick J. Honey, viết thư than thở với một người bạn Việt ở Mỹ: “I could never get him to leave his beloved Vietnam” (Tôi đã không làm sao kéo được ông ta rời khỏi nước Việt Nam yêu dấu của ông ta). Theo nhà báo, nhà kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa: Tháng 4 năm 1975, nhà báo Như Phong quyết định ở lại Việt Nam “dù có hai vé máy bay để đi Anh và Mỹ.” Ký giả Nguyễn Huỳnh Mai cũng cho biết: “Trước những ngày tháng Tư năm 1975, chú Như Phong đã có nơi hứa hẹn cho chú việc làm và vé máy bay sẵn để qua Anh hoặc Mỹ, nhưng chú đã viết thư cám ơn và từ chối cả hai.”
SAU KHI MIỀN NAM RƠI VÀO TAY CỘNG SẢN
Tính từ 30 tháng 4-1975 đến 11 tháng 4-1994, ngày nhà báo Như Phong rời đất nước Việt Nam để sang Mỹ, ông đã sống dưới quyền những người Cộng sản gần 19 năm. Trong chưa đầy 19 năm ấy, trên 13 năm ông bị giữ trong các nhà tù. Ông bị họ bắt giam hai lần: lần đầu gần 12 năm, từ ngày 4 tháng 4-1976 đến ngày 8 tháng 2-1988, lần thứ hai gần 15 tháng, từ 20 tháng 12-1990 đến ngày 7 tháng 3-1992. Trong lần bị giam nào ông cũng biểu lộ một thái độ ung dung, bất khuất.
Trước hết, ông được sống yên ổn gần một năm. Theo nhạc sĩ Từ Công Phụng, hai tháng sau khi Sàigòn thất thủ, bệnh bà Hoàng Đạo trở nên trầm trọng hơn.
“Bà rên la suốt ngày đêm. Cứ khoảng hai tiếng đồng hồ sau khi morphine hết hiệu nghiệm thì bà lại đau. Lúc này thì không còn cơ may chữa trị được nữa.”
Bốn tháng sau đó, tức nửa năm sau khi miền Nam sụp đổ, bà từ trần. Cũng theo nhạc sĩ Từ Công Phụng, sau tang lễ, cảnh nhà vô cùng bần bách.
“Thỉnh thoảng cậu Tiến hay vắng nhà vài hôm. Dường như cậu đi xuống miền Tây lo việc gì đó mà tôi không rõ.”
(còn tiếp)
Nhà Báo Như Phong Lê Văn Tiến
Từ Mai Trần Huy Bích
https://2.bp.blogspot.com/-2Hmvm6UtPrs/V7BL3XK7DyI/AAAAAAAAur0/2Xjv-lXFlOIA-9Cxzj61RSDxW2xZUI28wCLcB/s400/Nh%25C6%25B0%2BPhong%2B1-2.jpg (https://2.bp.blogspot.com/-2Hmvm6UtPrs/V7BL3XK7DyI/AAAAAAAAur0/2Xjv-lXFlOIA-9Cxzj61RSDxW2xZUI28wCLcB/s400/Nh%25C6%25B0%2BPhong%2B1-2.jpg)
Như Phong Lê Văn Tiến
Trần Huy Bích là một trong những người “bạn trẻ” tới liên lạc, kết nên tình thân với nhà báo Như Phong từ 1955, năm thứ hai của nhật báo Tự Do (cùng với Nguyễn Thượng Hiệp, Dương Đình Hợp, Phạm Công Bạch, Hà Vĩnh Thọ, Trần Như Tráng, sau thêm Tạ Văn Tài). Tình thân ấy được tiếp nối sau khi ông Như Phong ra khỏi nhà giam CS, tới đất Mỹ năm 1994 cho đến khi ông qua đời.
VÀI CHI TIẾT CÁ NHÂN
Nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến tên thật là Nguyễn Tân Tiến. Trên giấy tờ, nhân vật mang danh hiệu Lê Văn Tiến sinh 1 tháng 2 năm 1923 tại Nam Định. Đây không phải là ngày sinh và nơi sinh thật của ông. Theo ông Nguyễn Ngọc Ấn, người em ít tuổi nhất trong gia đình, song thân các ông chưa sống ở Nam Định bao giờ: nhà báo Như Phong và tất cả các em sinh ra ở Hà Nội. Ông sinh cuối năm 1922, theo âm lịch là năm Nhâm Tuất.
Ông quê ở Từ Châu, gần thị xã Đồng Quan, tỉnh Hà Đông, nhưng gia đình lên sống ở Hà Nội từ những năm đầu của thập niên 1920, trước khi ông ra đời.
GIA ĐÌNH
Ông là con thứ tư trong một gia đình gồm 7 anh em trai. Ba người anh trước ông bị Cộng sản sát hại trong những năm sôi động 1945-1946:
1. Anh trưởng Nguyễn Công Chỉnh: chuyên viên hóa học, trí thức Công giáo, bị Cộng sản hạ sát khi họ tấn công vào nhà thờ Từ Châu năm 1945.
2. Anh thứ hai Nguyễn Huy Tuyết: cựu sinh viên trường Cao đẳng Mỹ thuật, hoạt động trong phong trào Truyền bá Quốc ngữ. Ông là một trong những họa sĩ đầu tiên vẽ tranh Công giáo với sắc thái Việt Nam (Đức Mẹ Maria mặc áo tứ thân ...). Ông cũng là sáng lập viên và cây viết chủ lực của tờ báo Hồn Công giáo. Khi chiến tranh Việt Pháp bùng nổ cuối năm 1946, ông bị Cộng sản bắt giữ và thủ tiêu.
3. Anh thứ ba Nguyễn Quỳnh Giao: tham dự trường lục quân Yên Bái, bị Cộng sản phục kích và hạ sát trên đường di tản sang Trung Hoa cuối năm 1946.
4. Nguyễn Tân Tiến, tức nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến.
Sau khi sinh ra ông không bao lâu, thân mẫu ông qua đời. Ít năm sau, thân phụ ông tục huyền và ông có thêm ba người em khác mẹ:
1. Nguyễn Tấn Bình, sinh năm 1929, kém nhà báo Như Phong 7 tuổi, đã qua đời.
2. Nguyễn Tân An, sinh năm 1932.
3. Nguyễn Ngọc Ấn, sinh năm 1934.
NHỮNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TIÊN (1943-1954)
Chưa rõ ông bắt đầu dùng danh hiệu Lê Văn Tiến từ thời điểm nào. Trong không khí chính trị sôi động ở Việt Nam trong thập niên 1940, sự kiện một thanh niên quan tâm đến đất nước không xuất hiện dưới tên thật mà dùng một lý lịch khác là một chuyện khá thông thường, nhất là với trường hợp một người có ba anh ruột bị Cộng sản sát hại như trường hợp của ông.
Danh hiệu “Tiến” đã đưa tới bút hiệu “Như Phong” do một câu trong binh thư: “Tiến như phong, chỉ như sơn” (tiến tới tựa như gió, dừng lại tựa như núi). Nhiều người quen biết ông đã nêu nhận xét: vừa năng động vừa thanh thoát, phóng khoáng, ông quả có đặc tính “như gió.” Nhưng với niềm tự tin mạnh mẽ và thái độ ung dung, tự tại, ông cũng có cốt cách “như núi” nữa.
Ông bắt đầu tham gia các hoạt động mang tính cách thông tin, văn hóa từ tháng 9 năm 1943 khi ông 21 tuổi, làm việc cho cơ sở xuất bản Đời Nay do Tự Lực Văn Đoàn thành lập. Sau đó:
-- Tháng 4 năm 1945: ông làm phóng viên cho tuần báo Ngày Nay (bộ mới) do Bác sĩ Nguyễn Tường Bách làm chủ nhiệm và nhà văn Khái Hưng làm chủ bút;
-- Tháng 6 năm 1945: ông làm phóng viên chính cho nhật báo Việt Nam Thời Báo do ông Nguyễn Trọng Trạc làm chủ nhiệm và nhà văn Khái Hưng làm chủ bút.
Theo nhiều người biết ông từ lâu, trong các nhân vật của Tự Lực Văn Đoàn, ông chịu ảnh hưởng của nhà văn Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long sâu đậm hơn cả. Ông từng được coi như một thư ký riêng, một người em tinh thần của nhà văn kiêm nhà lập thuyết này.
Tháng 12 năm 1945, ông bị nhà cầm quyền Việt Minh bắt, giam tại Nha Công an ở Hà Nội. Cùng bị bắt với ông có con trai nhà văn Hoàng Đạo là ông Nguyễn Tường Ánh, khi ấy mới 11 tuổi. Bị bắt sau nhưng bị giam cùng phòng với ông có ông Nguyễn Ngọc Linh, sau là Tổng Giám đốc Thông tin miền Nam Việt Nam, khi ấy mới được 15 tuổi. Những ngày bị giam chung này đã để lại nơi ông Nguyễn Ngọc Linh nhiều ấn tượng thật tốt đẹp về ông Như Phong (xin xem bài của ông Linh trong Tuyển tập này) .
Theo nhiều thân hữu biết ông từ lâu, chứng kiến những tàn sát, tương tranh giữa các đảng phái, nhất là giữa hai phe quốc gia – cộng sản trong những năm 1945-1946, ông quyết định sẽ không hoạt động chính trị, nhất là chính trị mang tính cách đảng phái. Ông chuyên tâm vào thông tin, báo chí để giúp người dân hiểu rõ hơn về đất nước và thế giới, nhằm mục đích nâng cao dân trí trong một thời đại nhiều biến cố đang xảy ra ở khắp nơi. Với tôn chỉ “thông tin phải trung thực,” ông chủ trương loan báo sự thật, và cho rằng việc nhìn thấy sự thật sẽ khiến mỗi cá nhân, đoàn thể ... cũng như cả quốc gia, xã hội có thể thay đổi để trở nên tốt đẹp hơn.
Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh Việt Pháp (1947-1949), ông tản cư về Phát Diệm, giúp tổ chức tờ báo Tiếng Kêu của giáo khu Phát Diệm, do Linh mục Đoàn Độc Thư làm chủ nhiệm. Từ năm 1950, ông lên Hà nội, làm Trưởng ban Biên tập của Sở Thông tin Bắc Việt, do ông Nguyễn Trọng Trạc làm Giám đốc. Sau khi đất nước chia đôi năm 1954 ông vào Nam. Nhiệm vụ đầu tiên là Biên tập viên, làm việc cho Việt Nam Thông tấn xã ở Sàigòn.
SÀIGÒN, GIAI ĐOẠN 1954-1963
A. Nhật báo Tự Do
Tháng 11 năm 1954, cùng một số văn nghệ sĩ di cư tên tuổi, ông đứng tên khai sinh nhật báo Tự Do ở Sàigòn. Theo nhà văn Mặc Đỗ trong một cuộc phỏng vấn tại Austin, Texas tháng 10 năm 2012, sau khi di cư vào Nam, ông cùng một số bạn văn (các ông Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng …) đã muốn dựng nên một tờ nhật báo nhằm mục đích giúp chính quyền miền Nam xây dựng một xã hội tự do, dân chủ, không chấp nhận chủ thuyết cùng chế độ Cộng sản. Để xây dựng một xã hội dân chủ, các ông chủ trương “cộng tác, nhưng độc lập đối với chính quyền.” Để có phương tiện lập nên tờ báo, các ông nói chuyện với một người bạn ngoại quốc là Joseph Buttinger (quen biết từ Hà Nội, trước khi di cư), khi ông này đang ở Sàigòn trong tư cách Phó Giám đốc của cơ quan thiện nguyện IRC (International Rescue Committee), nhằm mục đích nghiên cứu việc yểm trợ cuộc định cư của gần một triệu người Việt lìa miền Bắc vào Nam lánh chế độ Cộng sản (Bản thân Joseph Buttinger cũng là một trí thức tị nạn khi nước Áo của ông bị Đức Quốc xã xâm lăng năm 1938. Tổ chức IRC mà ông góp công thành lập và phát triển đã giúp những người dân Âu châu trong những năm loạn lạc của Đệ Nhị thế chiến và ngay sau đó rất nhiều).
Theo đề nghị của Joseph Buttinger, tổ chức IRC quyết định trợ giúp nhóm trí thức di cư (do các ông Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan làm đại diện) một ngân khoản bốn triệu đồng bạc Việt Nam, nhưng chỉ trao ngay một nửa năm 1954, để thành lập một nhật báo lấy tên là Tự Do, nhằm mục đích làm “tiếng nói của người Việt đi tìm tự do,” và cũng để làm phương tiện sinh sống cho một số trí thức, nghệ sĩ, nhà văn, nhà báo … vào Nam lánh Cộng sản năm 1954. Với một ngân khoản lớn như thế, IRC không thể trao trực tiếp cho một nhóm tư nhân mà phải qua chính phủ Việt Nam. Theo nhà văn Mặc Đỗ trong buổi phỏng vấn ấy, số tiền hai triệu đồng được IRC trao cho chính phủ Nam Việt Nam (do Thủ tướng Ngô Đình Diệm lãnh đạo), và được đưa vào một trương mục đặc biệt dành cho nhật báo Tự Do.
Trong giai đoạn đầu, mối liên lạc giữa IRC, chính phủ Việt Nam, và nhóm trí thức xây dựng tờ nhật báo Tự Do tiến triển một cách tốt đẹp. Nhà văn Mặc Đỗ lúc ấy làm Đổng lý Văn phòng Bộ Thông tin, rất tương đắc với vị Bộ trưởng, Bác sĩ Bùi Kiến Tín. Bác sĩ Tín rất được sự tín nhiệm của Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Kế hoạch thành lập báo Tự Do với ngân khoản đầu tiên từ IRC chuyển qua chính phủ Việt Nam tới nhóm khởi xướng được đồng thuận một cách nhanh chóng và dễ dàng. Giấy phép xuất bản báo Tự Do do Đổng lý Văn phòng Mặc Đỗ soạn thảo, được Bộ trưởng Bùi Kiến Tín ký một cách mau lẹ.
Vì đang là công chức của chính phủ, các ông Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng không tiện đứng tên làm Chủ nhiệm. Các vị tìm được một nhà văn độc lập vừa di cư tới Sàigòn: cây viết phóng sự Tam Lang Vũ Đình Chí. Tờ báo cần một Thư ký Tòa soạn và một Quản lý làm việc tại tòa báo toàn thời gian. Hai lựa chọn thích hợp nhất là các ông Như Phong trong chức vụ Thư ký Tòa soạn và Mặc Thu (Lưu Đức Sinh) trong chức vụ Quản lý (nhà báo Như Phong xin từ nhiệm tại Việt Nam Thông tấn xã để nhận nhiệm vụ mới này). Tờ báo cần sự cộng tác của một văn/thi sĩ được nhiều người biết tới và đang sáng tác mạnh. Các vị tìm được nhà thơ Đinh Hùng. Vì thế trên trang nhất, dưới tên báo Tự Do, không ghi danh hiệu của Chủ nhiệm, Chủ bút như các báo khác. Dưới hàng chữ “Tiếng nói của người Việt tự do” là danh hiệu năm người trong nhóm chủ trương: Tam Lang, Mặc Đỗ, Đinh Hùng, Như Phong, Mặc Thu.
https://4.bp.blogspot.com/-f17jKB4vYjA/V7BMjoGHWQI/AAAAAAAAusA/A0V-auHI6PsfabN6nBriA8N2NnzmgRmewCLcB/s400/image003.jpg (https://4.bp.blogspot.com/-f17jKB4vYjA/V7BMjoGHWQI/AAAAAAAAusA/A0V-auHI6PsfabN6nBriA8N2NnzmgRmewCLcB/s400/image003.jpg)
Theo nhà văn Mặc Đỗ, hầu hết các bài xã luận của Tự Do trong giai đoạn đầu (mục “Lập trường”) đã do ông hay các ông Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng thay nhau viết (chỉ ký: Tự Do). Đôi khi nhà văn lão thành Tam Lang đóng góp một vài bài. Là một tờ báo nhằm mục đích phục vụ những người di cư từ miền Bắc, Tự Do có một mục đặc biệt, “Sinh hoạt của đồng bào tị nạn,” với những tin canh tác, định cư… Có mục “Tin Miền Bắc,” cung cấp tin từ thế giới Cộng sản, do nhà báo Như Phong phụ trách dưới bút hiệu Cô Thần. Để giúp dân di cư làm quen với miền đất mới, trên Tự Do có mục “Sàigòn muôn mặt” do nhà văn Tam Lang phụ trách, và mục “Sàigòn cũ và mới,” phóng sự điều tra, khảo cứu do nhà văn Văn Quang phụ trách. Nhà thơ Đinh Hùng giúp tờ báo phong phú và khởi sắc với mục thơ hài hước “Đàn ngang cung” (giai đoạn đầu) dưới bút hiệu Thần Đăng, và những truyện dài lịch sử “Người đao phủ thành Đại La,” “Kỳ nữ gò Ôn khâu” dưới bút hiệu Hoài Điệp Thứ Lang. Các nhà văn Đỗ Thúc Vịnh , Tchya Đái Đức Tuấn (dưới bút hiệu Mai Nguyệt), và Hiếu Chân (bút hiệu của Nguyễn Hoạt) phụ trách mục “Nói hay đừng,” được rất nhiều người theo dõi. Trên Tự Do những năm đầu còn có những truyện dài “Luyện máu” của Hi Di (bút hiệu của nhà văn Bùi Xuân Uyên), “Tình sơn nữ” của TchyA, “Vực thẳm” của Tạ Quang Khôi.
Sang giai đoạn sau, nhà thơ Đinh Hùng phải dành thêm thời giờ cho các chương trình văn nghệ tại Đài phát thanh Sàigòn, người phụ trách “Đàn ngang cung” và thỉnh thoảng tiếp tay trong mục “Nói hay đừng” là nhà thơ Hà Thượng Nhân. Một độc giả mến chuộng Tự Do gửi bài đóng góp cho “Đàn ngang cung” một cách khá thường xuyên là nhà giáo Bùi Văn Bảo (dưới bút hiệu Bảo Vân).
Tự Do có ảnh hưởng rất đáng kể trong sinh hoạt báo chí của miền Nam trong giai đoạn 1954-1963. Theo giáo sư Đoàn Viết Hoạt, ngay từ khi ông còn ở Trung học, cả gia đình ông đã là độc giả trung thành của nhật báo Tự Do. Nhà báo, nhà kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa nêu nhận xét: “Như Phong đã thổi vào làng báo miền Nam một không khí mới lạ ... Cùng với TchyA Đái Đức Tuấn, Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Hà Thượng Nhân Phạm Xuân Ninh, Đỗ Thúc Vịnh ..., Như Phong Lê Văn Tiến đã tạo ra một phong thái làm báo đầy trí tuệ và nhiệt tình.”
Tuy chung mục đích xây dựng một miền Nam ổn định và thịnh vượng để chuẩn bị đối phó với những đe dọa từ chế độ Cộng sản miền Bắc, mối liên hệ giữa nhóm chủ trương Tự Do với chính quyền càng ngày càng khó khăn, nhất là sau khi Bác sĩ Bùi Kiến Tín không còn là Bộ trưởng Thông Tin và nhà văn Mặc Đỗ không còn là Đổng lý Văn phòng của bộ ấy (năm 1955). Trong khi Tự Do muốn xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó những công dân có tinh thần trách nhiệm có quyền phê bình những sai trái của chính phủ nhằm mục đích giúp chính thể trở nên tốt đẹp hơn, thì chính quyền muốn giới hạn tự do của báo chí: các báo phải được kiểm duyệt chặt chẽ. Nhiều bài xã luận hoặc “Nói hay đừng,” “Đàn ngang cung,” cùng nhiều bức hí họa trên Tự Do đã khiến nhiều vị trong chính quyền, kể cả một nữ nhân vật trong đại gia đình của vị nguyên thủ quốc gia phật ý nặng nề. Nhiều sự kiện đưa ra làm chứng cớ để phê phán một số hành động lạm dụng quyền thế (cả trong giới tu sĩ Công giáo) bị kiểm duyệt cắt bỏ.
Dự liệu trường hợp nhật báo Tự Do có thể bị thu hồi giấy phép, giữa năm 1955, nhóm chủ trương xin xuất bản thêm tuần báo Văn Nghệ Tự Do. Nhà văn Mặc Thu Lưu Đức Sinh đứng tên Chủ nhiệm và nhà văn Hiếu Chân Nguyễn Hoạt đứng tên Tổng Thư ký tòa soạn cho tờ tuần báo này (số đầu phát hành ngày 6 tháng 7 năm 1955).
https://1.bp.blogspot.com/-BUMIKiUTJ7k/V7BMqHTnnTI/AAAAAAAAusI/c5sauoqzO90vudv8grlvdi0I9c18rizSQCLcB/s400/image005.jpg (https://1.bp.blogspot.com/-BUMIKiUTJ7k/V7BMqHTnnTI/AAAAAAAAusI/c5sauoqzO90vudv8grlvdi0I9c18rizSQCLcB/s400/image005.jpg)
Hai tờ báo phát hành song song được hơn 3 tháng thì một sự kiện xảy ra khiến cả Tự Do lẫn Văn Nghệ Tự Do đều bị tịch thu và rút giấy phép. Ba nhân vật quan trọng của nhóm (hai nhà văn Hiếu Chân, Mặc Thu và họa sĩ Phạm Tăng) bị bắt giam và truy tố ra tòa.
Nhân cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến của miền Nam Việt Nam năm 1956, cả nhật báo Tự Do lẫn tuần báo Văn Nghệ Tự Do đều đăng nhiều bài về trách nhiệm các đại diện dân cử, chẳng hạn bài “Đắc cử chưa chắc đã là Nghị” trên Văn Nghệ Tự Do số 11. Bài này, cùng một số bài nêu lên những thắc mắc của người dân trước những điểm thiếu công bằng và hợp lý trong giai đoạn tranh cử, cùng những điểm mờ ám trong một vài trường hợp đắc cử, khiến nhà cầm quyền trút tất cả thịnh nộ lên nhóm Tự Do.
2 giờ khuya ngày Thứ bảy, 28 tháng 4 năm 1956, Bộ Thông Tin dùng điện thoại ra lệnh cho nhà phát hành Thống Nhất đình chỉ phát hành tất cả các tờ Văn Nghệ Tự Dosố 13, đã nạp bản và đem tới nhà phát hành trước đó. Ít hôm sau, ông Trần Văn Lắm, Chủ tịch Quốc hội Lập hiến Việt Nam Cộng Hòa, ông Lê Khải Trạch, Đổng lý Văn phòng Bộ Thông Tin, và ông Tỉnh trưởng Gia định, với danh nghĩa Chủ tịch Tố Cộng toàn quốc, cùng đứng tên khởi tố nhóm Tự Do với hai tội danh trầm trọng:
1) Bình luận xuyên tạc, có lợi cho những hành động phản quốc gia,
2) Phá rối cuộc trị an.
Nhà văn Mặc Thu (trong cương vị Chủ nhiệm Văn Nghệ Tự Do), nhà văn Hiếu Chân (trong cương vị Tổng Thư ký) và họa sĩ Phạm Tăng bị bắt, giam ở khám Catinat (thuộc cơ quan An ninh Bộ Nội vụ), chờ ngày ra tòa. Nhà báo Như Phong là nhân vật duy nhất trong nhóm chủ chốt chưa bị bắt trong cơn bão tố này. Ông vừa lo theo dõi tin các thân hữu bị giam hầu tiếp tay với gia đình họ trong việc thăm nuôi, vừa vận động dư luận để chống lại những lời cáo buộc.
https://1.bp.blogspot.com/-89Cc2Ap8BSE/V7HfXmcMCEI/AAAAAAAAuss/hra7elJOqPAJ8BhvG2kAblDPHx8NE9HhwCLcB/s400/image005.jpg (https://1.bp.blogspot.com/-89Cc2Ap8BSE/V7HfXmcMCEI/AAAAAAAAuss/hra7elJOqPAJ8BhvG2kAblDPHx8NE9HhwCLcB/s400/image005.jpg)
Hai nhà văn Hiếu Chân, Mặc Thu và họa sĩ Phạm Tăng
bị đưa từ khám Catinat ra Viện Giảo hình
để đo mặt, lấy dấu tay trước khi bị tống giam
(hình do nhà báo Như Phong chụp, họa sĩ Phạm Tăng cung cấp)
Sự kiện Tự Do, tờ báo được coi như tiếng nói của một số trí thức miền Bắc không chấp nhận chế độ Cộng sản nên đã di cư vào Nam để tiếp tay xây dựng một thể chế dân chủ, bị chính quyền ghép vào tội “có những hành động phản quốc gia” khiến dư luận chấn động. Trong số 667, ra ngày Chủ nhật 1 và Thứ hai 2 tháng 7 năm 1956, báo Dân Chủ của ông Vũ Ngọc Các đưa tin trên trang nhất với hàng tựa chạy suốt trang báo (xin xem phóng ảnh phía sau).
https://3.bp.blogspot.com/-xi0Ha_tJBpQ/V7HfkCEkMhI/AAAAAAAAusw/8HAr-5llIdQinPOJaybRkctADzSGBF0YACLcB/s400/image007.jpg (https://3.bp.blogspot.com/-xi0Ha_tJBpQ/V7HfkCEkMhI/AAAAAAAAusw/8HAr-5llIdQinPOJaybRkctADzSGBF0YACLcB/s400/image007.jpg)
https://1.bp.blogspot.com/-cgDaTQt9tHQ/V7HfkfysQQI/AAAAAAAAus0/XweDoev3zP0B0qJ6GM-oiwEBGYNT7KnoQCLcB/s400/image009.jpg (https://1.bp.blogspot.com/-cgDaTQt9tHQ/V7HfkfysQQI/AAAAAAAAus0/XweDoev3zP0B0qJ6GM-oiwEBGYNT7KnoQCLcB/s400/image009.jpg)
Không tán thành thái độ đàn áp một cách quá đáng của chính quyền, ba luật gia danh tiếng của miền Nam lúc ấy, các luật sư Vũ Văn Hiền, Vũ Văn Huyền và Đỗ Mạnh Quát cùng nhận lời bào chữa cho Tự Do không lấy lệ phí. Dựa vào nhiều khiếm khuyết trong thủ tục tố tụng cũng như một số mâu thuẫn trong bản cáo trạng, luật sư Vũ Văn Huyền xin cho các “can phạm” được “tại ngoại hậu cứu” (tạm trả tự do). Ông Chánh án Nguyễn Huy Đẩu, một trí thức và luật gia có uy tín, cũng dành nhiều thiện cảm cho Tự Do. Nhờ thế, sau phiên xử ngày 2 tháng 7 năm 1956, trước các tội danh “bình luận xuyên tạc” và “phản quốc gia,” Tự Do được trắng án. Các ông Mặc Thu, Hiếu Chân, Phạm Tăng không phải trở lại nhà giam. Tuy thế, dưới áp lực của chính quyền, nhóm Tự Do vẫn bị ghép vào tội “bình luận có hại tới việc trị an.”
Theo họa sĩ Phạm Tăng, các nhà lãnh đạo miền Nam năm 1956 cũng biết rằng Tự Dođược nhiều thiện cảm của dư luận, và ý thức được rằng nếu đóng cửa hẳn Tự Do, uy tín của chính phủ sẽ bị tổn hại. Bác sĩ Trần Kim Tuyến, Giám đốc sở Nghiên cứu Chính trị Phủ Tổng thống, đứng ra dàn xếp. Tuần báo Văn Nghệ Tự Do bị rút hẳn giấy phép nhưng nhật báo Tự Do được tái xuất bản với điều kiện phải để nhà giáo Phạm Việt Tuyền, một Tham vụ chuyên môn tại Phủ Tổng thống, có liên hệ thân với bác sĩ Tuyến, đứng tên Chủ nhiệm. Vai trò Quản lý cũng phải giao lại cho ông Kiều Văn Lân, lúc ấy là một sĩ quan an ninh tại sở Nghiên cứu Chính trị Phủ Tổng thống. Nhà báo Như Phong tiếp tục giữ vai trò Tổng Thư ký toà soạn.
https://4.bp.blogspot.com/-sBz1ohAJEtQ/V7BMv3yQ3QI/AAAAAAAAusM/gdCVPk5gt2s74jnUGYqKVlGEzjY1uwiPgCLcB/s400/image009.jpg (https://4.bp.blogspot.com/-sBz1ohAJEtQ/V7BMv3yQ3QI/AAAAAAAAusM/gdCVPk5gt2s74jnUGYqKVlGEzjY1uwiPgCLcB/s400/image009.jpg)
Theo nhiều độc giả, sau khi tái xuất bản, Tự Do không còn được sinh động như trước. Tuy vậy, tờ báo vẫn rất được chú ý nhờ một số truyện dài đăng từng kỳ có giá trị: “Tỵ Bái” của Nguyễn Hoạt và “Khói sóng” của Lý Thắng (bút hiệu chỉ dành cho truyện này của nhà báo Như Phong). Tự Do cũng được nhiều người tìm đọc vì loạt bài phóng sự “Thăm dân cho biết sự tình” của ký giả miền Nam Vũ Bình.
Theo nhà thơ Hà Thượng Nhân, đầu năm 1959, bác sĩ Trần Kim Tuyến mời nhóm lãnh đạo Tự Do tới ăn cơm tại nhà riêng. Trước khi vào bữa ăn, Tổng Thư ký Như Phong hỏi vị đại diện chính quyền: “Chúng ta ủng hộ ông Ngô Đình Diệm vì nước Việt Nam hay vô điều kiện?” Sau khi được trả lời, “Vì nước Việt Nam,” nhà báo Như Phong nói ngay: “Như thế chúng tôi NÊN và CẦN công kích chính phủ để mong chính phủ ngày một khá hơn, phục vụ đất nước ngày một hiệu quả hơn.” Sau đó, nhiều lần trong bữa ăn, ông vạch ra những điểm mà ông cho rằng chính phủ sai lầm. Theo nhà thơ Hà Thượng Nhân, bác sĩ Tuyến “ngồi gật gù, trầm ngâm không nói.”
Cũng theo nhà thơ Hà Thượng Nhân, “Linh hồn của Tự Do là Như Phong. Anh là người trẻ nhất, năng nổ nhất, làm việc có kế hoạch nhất.” Chính Tổng Thư ký Như Phong đã khám phá ra và đào luyện nên ký giả Vũ Bình. Nhà văn Bùi Bảo Trúc cũng cho biết ông bắt đầu sự nghiệp cầm bút từ những “Lá thư Tân Tây Lan” viết theo sự gợi ý và hướng dẫn của nhà báo Như Phong. “Và chính Như Phong đã đón bài của tôi gửi về, sửa chữa và cho đăng hàng tuần trong số Chủ nhật của báo Tự Do.” Gần 40 năm sau, tháng 12 năm 2001, nhà văn Bùi Bảo Trúc còn viết: “Mỗi ngày, mở máy computer ra để viết, bao giờ tôi cũng nhớ đến người bạn vong niên này.”
B. Các hoạt động khác
1.Cơ sở xuất bản Tự Do
Năm 1959, nhà báo Như Phong cùng các thân hữu khai sinh thêm Cơ sở Xuất bản Tự Do. Không nhiều vốn và không nhằm mục đích thương mại, cơ sở Tự Do không xuất bản nhiều sách (gần 30 nhan sách trong hơn 4 năm hoạt động [1959-1963], hay trung bình 7 nhan sách mỗi năm). Tuy nhiên, những tác phẩm chọn in đều là những tác phẩm có giá trị, chẳng hạn Phương Đình dư địa chí của Nguyễn Văn Siêu qua bản dịch của Cử nhân Hán học Ngô Mạnh Nghinh, Hoàng Lê nhất thống chí (của Ngô gia văn phái, nhưng trong bản do Tự Do xuất bản chỉ ghi danh hiệu Ngô Thời Chí) qua bản dịch của Ngô Tất Tố, Sàigòn năm xưa của Vương Hồng Sển ... Cơ sở Tự Do cũng tái bản ba tác phẩm quan trọng của nhà văn Hoàng Đạo: Bùn lầy nước đọng, Mười điều tâm niệm, Trước vành móng ngựa. Tự Do cũng xuất bản nhằm mục đích giới thiệu nhiều tác phẩm giá trị của những nhà văn có tài nhưng vẫn còn được coi là “mới” cho tới lúc đó: Mưa đêm cuối năm của Võ Phiến (1958), Chị em Hải của Nguyễn Đình Toàn (1961), Thử lửa của Thảo Trường (1962)... Tự Do cũng giới thiệu hai tác phẩm quan trọng của một nhà văn trong nhóm: Dì Mơ (1959) và Mùa ảo ảnh (1962) của Đỗ Thúc Vịnh, và một bản dịch mới cho bộ Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, bản dịch của Nguyễn Hoạt (1959).
2.Văn Bút Việt Nam
Năm 1957, Văn Bút Việt Nam được thành lập như một phân bộ của Văn Bút
Quốc tế (PEN Club International). Nhà báo Như Phong đã tích cực đóng góp trong cuộc vận động tiến tới sự thành lập này, trở nên một “sáng lập hội viên,” và được bầu làm Tổng Thư ký đầu tiên của Văn Bút Việt Nam (Chủ tịch đầu tiên là văn hào Nhất Linh Nguyễn Tường Tam). Nhờ sự hoạt động tích cực của Tổng Thư ký Như Phong, Văn Bút Việt Nam kịp hoàn tất những thủ tục cần thiết và ngay năm ấy, cử đại diện tham dự Đại hội Văn Bút Quốc tế tại Tokyo. Đây là lần đầu tiên văn giới Việt Nam góp mặt cùng văn hữu thế giới.
3. Liên hệ với học giới và báo giới các nước
Song song với các hoạt động văn hóa, thông tin trong nước, nhà báo Như Phong còn duy trì mối liên hệ mật thiết với nhiều chuyên gia về Việt Nam của học giới và báo giới quốc tế. Ông có giao tình thân với học giả lỗi lạc Sir Patrick J. Honey của Anh quốc, tác giả uyên bác Robert Shaplen, và nhà báo xuất sắc Sol Sanders cùng của Hoa kỳ. Theo nhà biên khảo Trần Đông Phong, người có liên hệ thân với Bác sĩ Phan Huy Quát và ông Như Phong từ giữa thập niên 1960, rất nhiều chi tiết trong cuốn The Lost Revolution của Robert Shaplen (New York : Harper & Row, 1965) đã do ông Như Phong cung cấp. Ông cũng viết một số tài liệu biên khảo có giá trị bằng Anh ngữ, điển hình là một bài tường thuật và phân tích tình trạng trí thức, văn nghệ sĩ miền Bắc từ 1954 cho đến vụ Nhân văn, Giai phẩm cuối thập niên 1950 (“Intellectuals, writers and artists”). Bài này đã được đăng trên chuyên san nghiên cứu The China Quarterly năm 1962, và về sau in lại với đôi chút sửa chữa trong cuốn North Vietnam Today do học giả Patrick J. Honey làm chủ biên (New York : Praeger, 1962).
Mâu thuẫn giữa chính quyền và Tự Do nặng thêm trong biến cố Phật giáo mùa Hè năm 1963, nhất là sau khi Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu và văn hào Nhất Linh Nguyễn Tường Tam uống thuốc độc tự tử. Tháng 8 năm 1963 Tự Do bị đóng cửa và truy tố. Tổng Thư ký Như Phong bị bắt, tòa soạn bị niêm phong.
Từ tháng 8 tới tháng 11 năm 1963, nhà báo Như Phong bị giam tại Nha An ninh Quân đội, rồi Phòng Nhì Biệt khu Thủ đô, sau cùng là Tổng nha Cảnh sát. Chỉ tới sáng ngày 2 tháng 11-1963, ông mới được trả tự do.
SÀIGÒN, GIAI ĐOẠN 1963-1975
1) Liên hệ với giới tướng lãnh và các chính khách
Sau cuộc đảo chánh 1 tháng 11-1963, nhà báo Như Phong được mời tham dự Hội Đồng Nhân Sĩ, một tập hợp gồm khoảng 60 nhân sĩ, trí thức, chính khách của miền Nam Việt Nam, được triệu tập để giúp ý kiến cho chính phủ. Trong các tranh chấp giữa các tướng lãnh với những đảo chánh, phản đảo chánh, chỉnh lý ... trong suốt năm 1964, uy tín ông tăng thêm. Do kiến thức vững chắc về những vấn đề liên quan tới Cộng sản Việt Nam cũng như do mối giao tiếp rộng rãi trong chính giới dân sự của ông, hầu hết các tướng lãnh tranh quyền đều muốn kéo ông đứng bên phía họ.
Khi bác sĩ Phan Huy Quát được đề cử lập Nội các đầu năm 1965, với khả năng và tình thân sẵn có, ông có thể tham chánh dễ dàng. Tuy nhiên ông vẫn đứng ngoài, chỉ giúp ý kiến khi cần thiết. Ông Nguyễn Ngọc Linh cho biết ông được Thủ tướng Phan Huy Quát mời làm Giám đốc Việt Tấn xã do sự đề nghị của ông Như Phong.
Khi Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát không thể tiếp tục cộng tác với nhau và quyết định trao quyền lại cho quân đội tháng 6 năm 1965, tư thế của nhà báo Như Phong nổi rõ thêm. Theo ông Nguyễn Ngọc Linh và một số thân hữu khác, ông Như Phong vốn quen thân từ lâu với Luật sư Đinh Trịnh Chính và Đại tá Phạm Văn Liễu, hai người cùng theo học Lục quân Yên bái với người anh thứ ba của ông là ông Nguyễn Quỳnh Giao trước kia. Qua ông Chính và Đại tá Liễu, ông có thiện cảm với tướng Nguyễn Chánh Thi. Tuy nhiên, sau khi tướng Thi không dám nhận trọng trách lập chính phủ và tướng Nguyễn Cao Kỳ được quân đội giao cho nhiệm vụ ấy, ông sẵn sàng hỗ trợ tướng Kỳ.
Ông Nguyễn Ngọc Linh cho biết: sau khi được cử làm “Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương,” tướng Kỳ chưa có ý niệm rõ về việc lập chính phủ cũng như về chính sách, lại cũng chưa có ai làm cố vấn trong lãnh vực chính trị, nên đã tới nhà ông Đinh Trịnh Chính, nguyên Bộ trưởng Thông tin trong chính phủ Phan Huy Quát để gặp ông Chính và ông Như Phong, yêu cầu được giúp.
Trong “Nội các chiến tranh” của tướng Kỳ, nhiều Bộ trưởng được mời do đề nghị của nhà báo Như Phong. Theo lời tường thuật của ông Linh, “Khi ông Kỳ muốn trong chính phủ có một số người miền Nam thì ông Tiến đưa danh tính của những người tuy không hề quen nhưng được biết là có khả năng. Sau đó gọi điện thoại và đưa xe đi đón, ai đến gặp ông Kỳ là người đó được mời làm Bộ trưởng.” Ông Linh cũng cho biết: theo nhiều nguồn tin, tướng Kỳ muốn ông Như Phong giữ nhiệm vụ “Phụ tá Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương,” tương đương với Bộ trưởng Phủ Thủ tướng, nhưng ông Như Phong từ chối.
Theo nhiều thân hữu khác, ông Như Phong đưa lý do “chỉ là nhà báo, không phải chính trị gia” để tránh việc tham chánh. Ông cũng cho biết ông “muốn được việc” chứ “không thích làm quan.” Nhà báo Sol Sanders cũng viết: ông Như Phong đã từ chối những đề nghị cầm đầu một bộ, thích ở trong hậu trường làm người cố vấn và phân tích (“he refused offers of a ministry, preferring to remain always in the background as an advisor, an analyst ...”). Nhà báo Đỗ Quý Toàn nêu nhận xét:
“Ông chỉ góp ý kiến ... về một danh sách chính phủ với điều kiện chính ông không tham dự để bảo đảm việc đề cử của ông là cốt vì công ích, không phải vì tình riêng.”
Tuy nhiên ông nhận lời, và đã thảo hộ các tướng lãnh bản “Hiến Ước Tạm Thời,” tức Hiến pháp tạm thời của miền Nam Việt Nam trong giai đoạn 1965-1967, phác họa cơ cấu tổ chức nhà nước với Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia và Ủy ban Hành pháp Trung ương). Giáo sư Tạ Văn Tài cho biết trong một lần cùng giáo sư Trần Như Tráng đến thăm ông Như Phong tại căn nhà đường Công Lý mùa hè năm 1965, các ông thấy vị “Tham vấn viên của Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia” đang cởi trần, vừa soạn thảo, vừa tự tay đánh máy bản “Hiến Ước Tạm Thời” này. Theo nhà thơ Hà Thượng Nhân, ông Như Phong cũng đã soạn hộ tướng Kỳ bài diễn văn trình diện Nội các, gồm 6 phần, đưa ra một chương trình 19 điểm.
Trong cuốn sách Buddha’s Child : My Fight to Save Vietnam (có thể tạm dịch: Con cầu tự : cuộc chiến đấu để bảo vệ Việt Nam của tôi -- New York : St. Martin Press, 2002), tướng Nguyễn Cao Kỳ viết rằng ông bổ nhiệm ông Như Phong làm Bộ trưởng Bộ Bình định (Pacification). Chi tiết này không chính xác. Theo tất cả các sử liệu, trong giai đoạn từ 19 tháng 6-1965 tới 9 tháng 11-1967, khi tướng Kỳ giữ nhiệm vụ “Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương” (Thủ tướng), miền Nam Việt Nam chỉ có hai nhân vật phụ trách Bộ Bình định và Xây dựng Nông thôn. Người thứ nhất là ông Nguyễn Tất Ứng. Sau khi ông Ứng tử nạn máy bay ngày 16 tháng 9-1965, người được cử lên thay là tướng Nguyễn Đức Thắng. Từ trước tới sau, ông Như Phong chỉ giúp ý tướng Kỳ trong việc lập Nội các, chứ không nhận cho mình bất cứ một chức vụ nào.
Theo nhiều thân hữu, ông Như Phong có một dự án chính trị, và đã không thành công trong dự án này. Trong cuộc bầu cử Thượng viện năm 1967, ông vận dụng những liên hệ có sẵn với các đảng cách mạng, các khuynh hướng tôn giáo và giới chuyên viên trẻ ở miền Nam để lập nên ba liên danh ứng cử cùng lấy danh hiệu “Cây Dừa” (các liên danh “Một Cây Dừa,” “Hai Cây Dừa,” “Ba Cây Dừa”). Theo giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, “Đây là một liên minh chính trị lớn mà chỉ Như Phong ráp lại được vì ông là người thân của mọi phe phái, được các phe phái mến, tin tưởng, và họ biết là ông chỉ nghĩ đến quyền lợi dân tộc chứ không thủ lợi cho chính mình” (tuy vận động lập nên ba liên danh, ông đứng ngoài chứ không tham dự các liên danh ấy).
Mỗi liên danh đều có sự góp mặt của giới chuyên viên trẻ (được tín nhiệm ở Sàigòn), Việt Nam Quốc Dân Đảng (ảnh hưởng mạnh ở miền Trung), Cao Đài và Phật Giáo Hòa Hảo (mạnh ở nhiều tỉnh miền Nam). Nếu cùng đắc cử, ông hi vọng ba liên danh này sẽ tạo nổi đa số trong Thượng viện, ủng hộ tướng Kỳ thực hiện những thay đổi đáng kể trong chính trường miền Nam Việt Nam trong trường hợp ông Kỳ đắc cử Tổng thống và tiếp tục là một tướng lãnh “sạch.” Nhưng sau khi tướng Kỳ nhường tướng Nguyễn Văn Thiệu làm ứng cử viên Tổng thống trong liên danh duy nhất của quân đội và bằng lòng làm Phó cho tướng Thiệu, cả ba liên danh “Cây Dừa” đều bị loại, hết trông cậy vào sự yểm trợ của quân đội nay đã thuộc tướng Thiệu. Theo ông Nguyễn Ngọc Linh, nhà báo Như Phong coi đây là thất bại chính trị nặng nhất đối với ông.
2) Liên hệ với học giới và ngành truyền thông quốc tế
Cùng với việc quân đội Hoa kỳ sang tham chiến từ giữa năm 1965 trở đi, các báo, các hãng tin ngoại quốc gửi nhiều ký giả tới Việt Nam. Tình trạng chính trị miền Nam sau khi Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ vô cùng phức tạp. Theo nhận xét của ký giả Phan Lạc Phúc, “đảng phái mọc ra như nấm ... không biết chính, tà, thật, giả ra sao. Người trong nước cũng không biết đằng nào mà lần, huống chi các nhà báo, các hãng tin ngoại quốc.” Trong tình trạng ấy, người thường được các hãng tin, các nhà báo nước ngoài tìm tới để tham vấn là nhà báo Như Phong. Cũng theo ký giả Phan Lạc Phúc, “những đóng góp của Như Phong đối với giới truyền thông nước ngoài đã được coi là nguồn tin đáng tin cậy nhất.”
Theo một số thân hữu có liên hệ gần với nhà báo Như Phong, sau cuộc đảo chính 1-11-1963, rất nhiều lần ông tìm cách tái xuất bản nhật báo Tự Do nhưng không thành công. Tuy vẫn thuận hảo đối với ông, các chính quyền quân nhân từ 1963 về sau không muốn ông điều khiển báo Tự Do trở lại.
Với nhiều lý do khác nhau, các đơn ông gửi để xin tái xuất bản báo đã bị từ khước một cách khéo léo. Từ 1969 trở đi, ông cũng có thêm một mối bận: ông được mời làm giảng viên về các vấn đề Bắc Việt tại trường Cao đẳng Quốc phòng. Theo nhiều thân hữu, trong đó có ông Nguyễn Ngọc Linh, ông Như Phong dùng rất nhiều thời giờ trong những năm đầu của thập niên 1970 để hoàn tất bộ trường thiên “Khói sóng.”
Đầu năm 1972, ông dành nhiều thời giờ giúp một trí thức Hoa kỳ sang nghiên cứu về sinh hoạt chính trị tại Việt Nam. Tiến sĩ John C. Donnell, giáo sư Chính trị học tại Temple University, Philadelphia, người từng viết nhiều bài nghiên cứu về Việt Nam, được Asia Society tại New York tài trợ để sang Việt Nam nghiên cứu về mối liên lạc giữa trung ương và địa phương của các tổ chức chính trị không Cộng sản. Ông Như Phong đã giới thiệu giáo sư Donnell với nhiều nhân sĩ, trí thức, lãnh tụ các đoàn thể chính trị hầu thực hiện các cuộc phỏng vấn. Khi về nước, giáo sư Donnell chủ biên một cuốn sách về sinh hoạt chính trị liên quan tới bầu cử tại Nam Việt Nam: Electoral Politics in South Vietnam (Lexington, Mass. : Lexington Books, 1974). Cuốn này có sự đóng góp bài vở của các giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, Tạ Văn Tài, Douglas Pike, Stephen B. Young... Giáo sư Donnell viết một chương quan trọng về những triển vọng cho sự kết hợp chặt chẽ về phương diện chính trị với việc tranh cử (“Prospects for political cohesion and electoral competition”).
3) Những ngày cuối của miền Nam
Theo nhạc sĩ Từ Công Phụng, giữa năm 1974 bà Hoàng Đạo đau nặng vì chứng ung thư tái phát. Theo bác sĩ Trần Ngọc Ninh, vị bác sĩ điều trị trong thời gian này, bà bị một loại bướu thịt ác tính (myosarcoma) ở tay trái. Mỗi lần vào nhà thương trị liệu là một lần cánh tay bị cắt thêm vì ung thư lan. Khi cánh tay bà mất hẳn vào tháng 2-1975, tình hình miền Nam đã trở nên tồi tệ. Nhạc sĩ Phụng nhận thấy “những nét lo lắng hằn lên khuôn mặt của cậu Tiến.”
Đầu tháng 4-1975, khi tình hình miền Nam trở nên hết sức trầm trọng, ông Như Phong khuyên nhạc sĩ Phụng nên tìm cách đưa vợ con ra đi. Trước câu hỏi, “Cậu có dự tính ra đi không?” ông trả lời: “Tôi không đi vì nhiều lý do. Trước mắt là Me đang đau nặng, cần người chăm sóc. Thứ hai là đời sống ở nước ngoài không thích hợp với tôi.” Trước nỗi lo lắng của nhạc sĩ Phụng, “Cậu ở lại thì rất nguy hiểm,” ông thản nhiên mỉm cười: “Không sao. Tôi biết họ (Cộng sản), tôi biết họ rõ lắm nên tôi có thể tìm được một lối sống.”
Nhà thơ Hà Thượng Nhân cho biết:
“Những ngày miền Nam sắp mất, Như Phong thường nhịn ăn, gọi là ‘vào thất’.” Khi được hỏi, “Vào thất’ có lợi gì?” ông trả lời: “Tôi chuẩn bị để đi tù.”
Bà Đỗ Thúc Vịnh và ông Hà Thượng Nhân cùng cho biết: Tuy không đi, ông Như Phong giục mọi người tìm cách ra đi vì “không thể sống với Cộng sản được đâu!”
Ngày 7 tháng 7 năm 1975, một người bạn ngoại quốc của nhà báo Như Phong, học giả Patrick J. Honey, viết thư than thở với một người bạn Việt ở Mỹ: “I could never get him to leave his beloved Vietnam” (Tôi đã không làm sao kéo được ông ta rời khỏi nước Việt Nam yêu dấu của ông ta). Theo nhà báo, nhà kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa: Tháng 4 năm 1975, nhà báo Như Phong quyết định ở lại Việt Nam “dù có hai vé máy bay để đi Anh và Mỹ.” Ký giả Nguyễn Huỳnh Mai cũng cho biết: “Trước những ngày tháng Tư năm 1975, chú Như Phong đã có nơi hứa hẹn cho chú việc làm và vé máy bay sẵn để qua Anh hoặc Mỹ, nhưng chú đã viết thư cám ơn và từ chối cả hai.”
SAU KHI MIỀN NAM RƠI VÀO TAY CỘNG SẢN
Tính từ 30 tháng 4-1975 đến 11 tháng 4-1994, ngày nhà báo Như Phong rời đất nước Việt Nam để sang Mỹ, ông đã sống dưới quyền những người Cộng sản gần 19 năm. Trong chưa đầy 19 năm ấy, trên 13 năm ông bị giữ trong các nhà tù. Ông bị họ bắt giam hai lần: lần đầu gần 12 năm, từ ngày 4 tháng 4-1976 đến ngày 8 tháng 2-1988, lần thứ hai gần 15 tháng, từ 20 tháng 12-1990 đến ngày 7 tháng 3-1992. Trong lần bị giam nào ông cũng biểu lộ một thái độ ung dung, bất khuất.
Trước hết, ông được sống yên ổn gần một năm. Theo nhạc sĩ Từ Công Phụng, hai tháng sau khi Sàigòn thất thủ, bệnh bà Hoàng Đạo trở nên trầm trọng hơn.
“Bà rên la suốt ngày đêm. Cứ khoảng hai tiếng đồng hồ sau khi morphine hết hiệu nghiệm thì bà lại đau. Lúc này thì không còn cơ may chữa trị được nữa.”
Bốn tháng sau đó, tức nửa năm sau khi miền Nam sụp đổ, bà từ trần. Cũng theo nhạc sĩ Từ Công Phụng, sau tang lễ, cảnh nhà vô cùng bần bách.
“Thỉnh thoảng cậu Tiến hay vắng nhà vài hôm. Dường như cậu đi xuống miền Tây lo việc gì đó mà tôi không rõ.”
(còn tiếp)