khieman
10-13-2019, 12:03 AM
.
Bí ẩn của sự Giác Ngộ
http://www.well.com/~jct/bphotos/ug_1.jpg (http://www.well.com/~jct/bphotos/ug_1.jpg)
Đây là một phần bản dich quyển The Mystique of Enlightenment của UG Krishnamurti, được thu thập và ghi lại bởi Rodney Arms (www.ugkrishnamurti (http://www.ugkrishnamurti)), trong quyển sách này có những đoạn UG Krishnamurti tường thuật lại kinh nghiệm diễn biến tâm linh chứng ngộ kéo dài một thời gian 7 ngày của ông, mà ông goi đó là một vụ "bùng nổ" bên trong . Nhận thấy, kinh nghiệm chứng ngộ 7 ngày mà ông đã trải qua và kể lại là những thông tin bổ ích để tham khảo, xin chia sẻ với các bạn.Thông tin thêm Ông này là UG Krishnamurti khác với ông Jiddu Krishnamuri là ông thầy nỗi tiếng có rất nhiều sách nhiều người đã biết.
I. Sơ Lược tiểu sử U.G. Krishnamurti. Tên đầy đủ của UG là Uppalori Gopala Krishnamurti. Bạn bè và những người ngưỡng mộ ông thường gọi ông một cách thân thương là UG. Ông sanh ngày 9 tháng 7 năm 1918 trong một gia đình dòng dõi Bà la môn ở Masulipatam, một thị xã miền ven biển thuộc tỉnh Andhra Pradesh, Ấn Độ. Khi UG chỉ vừa chào đời được 7 ngày thì mẹ của UG qua đời, và UG được nuôi dưỡng, dạy dỗ bởi ông ngoại. Ngoại của UG là một luật sư danh tiếng, giàu có, và là một thành viên nổi bật của hội Thông Thiên Học. UG trưởng thành trong môi trường đặc thù của Thông Thiên Học và lại có tín ngưỡng, thực hành theo Ấn độ giáo chính thống. Thậm chí khi còn là một cậu bé, UG là một kẻ hay nổi loạn, chống đối, lỗ mãng nhưng thật thà đối với những gì anh ta đã làm.
UG hoàn tất tiểu học và trung học ở thị xã Gudivada và sau đó lấy bằng cử nhân danh dự về Tâm lý và Triết học tại Đại Học Madras. Nhưng, sự học hỏi nghiên cứu về các hệ thống triết lý đa dạng và tâm lý học tây phương chỉ gây chút ít ấn tượng đối với UG. “Cái tâm thức mà mấy cha nội này đang lý giải thì nó nằm ở đâu vậy?”, có một lần UG đã hỏi vị giáo sư Tâm Lý học của mình như thế. Có điều gì đó lạ thường nơi một sinh viên chỉ vừa mới 20 tuổi đầu, đặc biệt là học thuyết của Freud đã được xem như là thành tựu mới nhất nói về tâm thức nhân loại vào thời đó.
Khoảng thời gian từ 14 tuổi đến 21 tuổi, UG thỉnh thoảng đến học và thực hành thiền định và yoga với Swami Sivananda ở Rishikesh. UG có nhiều thể nghiệm và linh ảnh kỳ diệu khi tu tập ở đó, tuy nhiên UG đã đặt nghi vấn về tính chất thực hư của những kinh nghiệm tâm linh này, vì UG nghĩ rằng anh có thể nhận thức ra được chúng chính là nền tảng kiến thức hiểu biết mà UG đã có trước đó rồi.
Năm 1939, khi được 21 tuổi, UG đến gặp gỡ vị đạo sư Sri Ramana Maharshi và hỏi ông, “ông có thể trao cho cho tôi cái gọi là “giải thoát” không?” Ramana đáp, “tôi có thể trao cho anh cái-đó, nhưng anh có khả năng nắm bắt cái-đó được không?” Câu trả lời của Ramana gây chấn động UG như “tiếng sét” và khiến cho UG quyết định bắt đầu cuộc hành trình tìm kiếm chân lý không mệt mỏi, không nản lòng, và cuối cùng không ngờ UG đã đạt được quả vị chứng ngộ giải thoát hoàn toàn vào năm UG 49 tuổi (năm 1967).Sau khi rời đại học, UG gia nhập hội Thông Thiên Học với vai trò diễn giả và ông đi vòng quanh Ấn độ để thuyết giảng về Huyền bí học. Ngay cả sau khi lập gia đình với bà Kusuma Kumari vào năm 1943, ông vẩn còn tiếp tục làm việc cho hội Thông Thiên Học và đã có nhiều buổi thuyết giảng ở các quốc gia Châu Âu. Mãi đến năm 1953 ông nhận thức ra được rằng những chuyện ông đang làm là sai lầm đối với việc tìm kiếm chân ngã, nên ông đã phẫn nộ rời bỏ chức vụ. Sau đó ông gặp Jiddu Krishnamuri, là bậc đạo sư tâm linh khét tiếng về việc truyền bá tư tưởng phủ nhận mọi truyền thống giáo điều, tôn sùng thần tượng, và tập tục quy ước xã hội vào lúc bấy giờ. Trong vòng 2 năm, UG thường hay có những cuộc hội thoại với J. Krishnamurti, và hai người đã có nhiều cuộc tranh luận dữ dội về những vấn đề tâm linh. Sau cùng UG đã từ chối đường lối của J. Krishnamurti, và gọi đó là “một chuyến hải trình hư ảo..”
Trong suốt khoảng thời gian này, UG cũng có trải qua một thể nghiệm biến đổi thân tâm thần kỳ, mà ông gọi đó là “kinh nghiệm về Cái Chết”. Nhưng ông xem nhẹ kinh nghiệm đó và “quét sạch nó sang một bên”, và tiếp tục thăm dò, tra xét, kiểm nghiệm, hoài nghi mỗi một kinh nghiệm tâm linh cho đến khi nào ông đạt được giác ngộ thực sự.
Thời gian trước năm 1967 ( năm ông đạt được giác ngộ giải thoát) ông có rất nhiều kinh nghiệm tâm linh, ông có năng lực có thể nhìn thấy tiền kiếp, hiện tại và tương lai của người khác. Ông nói: “Cái khoảnh khắc mà tôi gặp một người, tôi có thể thấy được toàn bộ quá khứ, hiện tại, và vị lai của người đó. Nhưng tôi không sử dụng năng lực này. Tôi tự hỏi, ‘tại sao tôi lại có năng lực này?’. Thỉnh thoảng tôi nói những điều nào đó, và chúng xảy ra đúng như vậy. Tôi vẫn chưa thể thể hiểu rõ và nghĩ ra được căn nguyên hoạt động của năng lực đó? Tôi cũng không có hứng thú với nó. Làm thế nào mà tôi nói điều gì đó, và nó luôn xảy ra y như vậy? Tuy nhiên, nó đã mang lại vài hậu quả không vui lòng, và gây nên sự buồn phiền cho một ít người.”
Năm 1955, UG đưa gia đình sang Hoa Kỳ để chữa bệnh cho con trai của ông. Khi nguồn tài chánh của ông cạn kiệt, ông để gia đình vợ con trở về Ấn Độ, còn ông thì ở lại tiếp tục hành trình tâm linh. Không tiền không bạc, ông sống lang thang, trôi nổi từ nơi này đến nơi khác, London, Paris... Sau cùng tình cờ ông quen biết với cô Valentine de Kerven, và tạm trú thân ở nhà cô Valentine ở Saanen, Thụy Sĩ. Vào khoảng thời gian trú ngụ tại nhà cô Valentine, những kinh nghiệm tâm linh lạ thường đã xảy đến cho ông, nó là sự khai mào cho “cái chết – thoát thai hoán cốt” vào ngày sinh nhật ông đúng 49 tuổi (1967), và là sự bắt đầu khó thể tin được về những thể nghiệm thay đổi chuyển hóa bên trong cơ thể ông đã khiến ông “nhảy một bước vào cái Tâm Thái (mảnh đất Như Lai – nói theo thiền tông), cái Tâm Thái mà cho đến nay vẫn còn khó hiểu trong khuôn khổ hiểu biết về truyền thống huyền bí và khai ngộ của chúng ta. Liên tục trong 7 ngày, sau bảy lần thay đổi xảy ra, ông đạt được trạng thái mà ông gọi là “Tánh Tự Nhiên” (Natural State). Nó là một sự biến đổi tế bào trong cơ thể, một con người được chuyển hóa, tái sinh, mới mẻ toàn diện.
UG rời khỏi thế giới này vào lúc 2:30 PM, ngày 22 tháng 3 năm 2007 tại Vallecrosia, nước Ý. Ông hưởng thọ 88 tuổi. Bạn bè và nhiều người ngưỡng mộ ông khắp nơi trên thế giới đã gởi lời bày tỏ thương tiếc sự ra đi của ông.II. Cơ duyên đưa UG đến giác ngộ rốt ráo (July 1967): Lời kể lại của U.G. Krishnamurti khi ông trú ngụ tại nhà cô Valentine.
Suốt trong khoảng thời gian đó (tôi gọi nó là thời kỳ thai nghén), đủ mọi thứ loại thể nghiệm tâm linh xảy đến bên trong cơ thể tôi – nhức đầu, những cơn đau đầu liên tục không ngừng nghỉ, những cơn đau khủng khiếp bên trong não bộ. Tôi đã nuốt hàng ngàn viên thuốc Aspirin, nhưng thuốc men không giúp ích cho tôi bớt đau chút nào cả. Đó không phải là chứng “đau nhức nửa đầu” (migraine) hoặc những triệu chứng đau đầu mà y học đã biết, nhưng là những cơn nhức đầu như búa bổ. Trong thời gian bị cơn đau đầu hành hạ, ngày nào tôi cũng đều uống nhiều viên Aspirin và từ 15 cho đến 20 tách cà phê để mong giảm bớt cơn đau phần nào! Có một ngày Valentine than phiền “Anh làm cái gì vậy! Ngày nào anh cũng uống tới 15 tách cà phê. Anh có biết nó cũng là tiền bạc không? Từ 300 cho đến 400 francs mỗi tháng đó.” Dù thế nào đi nữa, nó cũng là một điều dễ sợ cho tôi.
Có nhiều chuyện buồn cười xảy đến cho tôi. Tôi còn nhớ là khi tôi chà sát trên thân thể tôi, thì có đốm sáng lóe lên giống như chất lân tinh phát sáng lên vậy. Valentine đã từng có lần chạy ra khỏi phòng ngủ của cô để xem xét – vì cô cứ nghĩ là có chiếc xe nào đó chạy đến con đường trước nhà vào giữa đêm. Hể mỗi lần tổi trở mình lăn trên gường thì có ánh sáng lấp lánh phát ra, (UG cười ) thật ngộ nghĩnh – “Cái gì đây vậy?” Nó là điện – đó là tại sao tôi lại bảo nó là từ trường điện. Tôi cứ tưởng nguyên nhân do bởi chất ni-lon của áo quần tôi mặc có tích chứa tĩnh điện gây ra, rồi tôi tạm dừng sử dụng đồ vật có chất ni-lon. Tôi là người thuộc chủ nghĩa hoài nghi cực đoan, “từ đầu tới chân”, tôi không bao giờ tin tưởng bất cứ điều gì cả; thậm chí nếu tôi thấy phép lạ xảy xảy ra trước mặt tôi, tôi cũng không vội chấp nhận – chẳng hạn như sự cấu tạo, bản chất của tôi đây. Sự kiện trên hoặc điều nào tương tự như thế chưa bao giờ được tạo ra và xảy đến cho tôi trước đây...
Những sự thể rất lạ lùng xảy đến với tôi, nhưng tôi chưa bao giờ cho là chúng có liên quan đến những điều gọi là tự-do tự-tại hoặc giải thoát, bởi vì vào thời gian đó toàn thể mọi sự biến mất khỏi cơ thể tôi. Tôi đã vươn tới cái điểm mà tôi tự nhủ “Tất cả các bậc minh sư và cứu thế đều là vớ vẩn – vì vậy tôi không còn thích thú điều gì tương tự như vậy nữa,” vì thế nó biến mất khỏi bản thân tôi hoàn toàn. Những điều kỳ dị khác thường vẫn tiếp tục diễn biến, nhưng tôi không bao tự nhủ là “Ô, (UG cười ) tôi đang đi đến nơi ĐÓ, tôi gần tới Đó.” Cái ĐÓ không có xa hay gần, cũng không có cận kề hay sát bên chỗ Đó. Không có ai tiến gần tới nơi Đó được, bởi vì anh ta chuẩn bị, nên anh ta khác biệt với Nó. Không thể có sự sẵn sàng để đạt được cái Đó. Nó chỉ hích trúng vào bạn, giáng mạnh vào bạn như là sức nặng một tấn gạch vậy.Vào tháng 4 năm 1967, tôi tình cờ đến Paris trong khi Jiddu Krishnamurti cũng ngẫu nhiên có mặt ở đó. Một vài người bạn của tôi gợi ý “Tại sao tôi không đi lắng nghe bạn cũ (J.K) của tôi giảng thuyết? Anh ta có một buổi hội thảo ở Paris.” Tôi nói, “Được thôi, tôi đã không nghe anh ấy nói chuyện nhiều năm rồi – gần như đã 20 năm – để tôi đến đó nghe thử.”
Khi tôi đến hội trường, họ yêu cầu tôi trả hai đồng francs (tiền Pháp) để vào cửa. Tôi nói “Tôi không bằng lòng trả hai đồng francs để nghe J. Krishnamutri giảng thuyết. Không, thôi chúng ta hãy đi nơi khác và làm chuyện gì vớ vẩn chơi. Hãy đến sòng bạc xem vũ thoát y. Đi nào, chúng ta chỉ mất hai mươi đồng francs để đến đó.” Vì vậy, chúng tôi đến sòng bạc “Casino de Paris” xem chương trình khiêu vũ. Tôi có được một kinh nghiệm rất lạ lùng vào thời gian đó: Tôi không biết được rõ tôi chính là người vũ công hay là có một người vũ công nào khác đang khiêu vũ trên sàn nhảy. Một kinh nghiệm rất là kỳ quặc đến với tôi: có một loại chuyển động kỳ dị như thế nào đó bên trong người tôi. (Sự chuyển động kỳ dị này bây giờ đã trở thành quen thuộc tự nhiên đối với tôi rồi.) Không có sự phân cách lúc đó: không có người quan sát đang nhìn ngắm người vũ công. Vấn đề là tôi không biết có phải tôi chính là người vũ công trên sàn nhảy hay là một người vũ công nào khác trên sàn nhảy đã khiến tôi suy nghĩ nhức óc, làm phiền phức tôi lúc đó – sau đó chúng tôi rời khỏi sòng bạc...
Câu hỏi “Cái trạng thái đó là gì?” đã tạo nên một cường độ mãnh liệt trong tôi – không phải cường độ về cảm xúc – tôi càng cố gắng tìm câu trả lời cho câu hỏi thì tôi càng thất bại, và cường độ của câu hỏi lại càng tăng lên mạnh mẽ thêm. Nó cũng giống như là (tôi luôn luôn dùng sự so sánh như vầy) vỏ hạt gạo (trấu): Nếu có một đống trấu bắt lửa, nó tiếp tục cháy ngầm âm ỉ bên trong; bạn không nhìn thấy lửa cháy ra phía ngoài, nhưng khi bạn chạm vào, dĩ nhiên, nó sẽ làm bạn bị phỏng. Giống y cách thức như thế, câu hỏi vẫn cứ tiếp tục diễn tiến: “Cái trạng thái đó là gì? Tôi muốn hiểu, đạt được nó. Chỉ thế thôi. J. Krishnamurti có lần nói rằng ‘Không có đường lối hay phương pháp nào để tôi có thể đạt đến được’, nhưng tôi vẫn cứ muốn biết cái trạng thái đó nó như thế nào, cái Tâm Thái mà Phật Thích Ca, Sankara, và các vị đạo sư khác đã hội nhập vào trong nó.”
Sau đó, một giai đoạn khác xảy ra vào tháng 7 năm 1967. Jiddu Krishnamurti lại đến Saneen thuyết giảng. Các bạn của tôi lôi kéo tôi đến đó và nói “buổi nói chuyện của J. Krishnamurti lần này miễn phí, tại sao tôi không đi nghe thử xem sao?” Tôi nói “Cũng được, tôi sẽ đi nghe J.Krishnamurti giảng thuyết.” Khi tôi lắng nghe J. Krishnamurti nói, thì có cái gì đó là lạ, khôi hài xảy đến cho tôi – cái cảm giác kỳ lạ mà J. Krishnamurti đang diễn tả là trạng thái của tôi, chứ không phải của J. Krishnamurti. Tại sao tôi lại muốn biết tâm thái của J. Krishnamurti chứ? Anh ta đang diễn tả một trạng thái gì đó, vừa vận hành, vừa tỉnh thức, vừa tịch lặng – “Trong trạng thái tịch lặng đó, không có tâm ý; chỉ có hành-động mà thôi” – tất cả mọi thứ đại loại như vậy. Vậy là “Tôi hiện đang ở trong tâm thái đó. Thật là quái quỉ gì đâu, tại sao tôi lại phải tiêu phí hết ba bốn mươi năm để đi nghe những người khác thuyết giảng, và cố gắng cứ muốn đi tìm hiểu cái tâm thái của J. Krishnamurti hay là của một ai khác, như Phật Thích Ca, Chúa Giê-su? Tôi ở trong tâm thái, cảnh giới đó mà. Bây giờ tôi đang an trú trong tâm thái đó.” Thế nên, tôi bước ra khỏi hội trường và không bao giờ trở lại nữa.
Kế đến – rất lạ kỳ là – câu hỏi “Cái tâm thái đó là gì?” tự chuyển biến thành câu hỏi khác: “Làm thế nào để tôi biết được là mình đang an trú trong tâm thái đó, cái tâm thái của Phật, cái tâm thái mà tôi rất muốn biết và mong cầu từ mọi người? Nhưng mà làm thế nào tôi biết được là tôi hiện ở trong tâm thái đó đây? ”...Ngày kế tiếp (ngày sinh nhật năm 49 tuổi của UG - ngày 9 tháng 7 năm 1967 ) tôi đang ngồi trên một chiếc ghế dài dưới một cội cây ngắm nhìn một trong những địa điểm thắng cảnh tuyệt đẹp của thế giới, “bảy ngọn đồi và bảy thung lũng” của miền đất Saanen. Tôi đang ngồi yên vị nơi đó. Câu hỏi không còn trong trí nữa, mà toàn thể thân xác và tâm trí tôi chính là câu hỏi đó:
“Làm thế nào tôi biết được rằng tôi ở trong Tâm thái đó?"
Có một sự phân chia thật lạ kỳ bên trong bản thể tôi: có một kẻ nào đó biết được rằng hắn ta đang ở trong tâm thái đó. Kiến thức về tâm thái – cái mà tôi đã đọc qua sách vở, qua kinh nghiệm, qua việc nghe thiên hạ nói về nó – chính kiến thức này đang quan sát cái tâm-thái đó, vì vậy tâm-thái đó chỉ là sự phóng chiếu (vọng tưởng) từ kiến thức này ra mà thôi.”
Nhận nhức được như thế tôi mới tự nhủ: “Nhìn đây ông thần, sau bốn mươi năm ông chẳng có tiến thêm được một bước nào hết; ông chỉ dậm chân tại chỗ thôi. Khi ông đặt câu hỏi trên, thì cái kiến thức này phác họa và phóng tưởng lên tâm trí ông (kiến thức tạo ra cái tâm thái và kẻ đang quan sát hay đang ở trong tâm thái đó). Tương tự như thế, ông ở trong cái tình cảnh mà kiến thức tự nó đặt câu hỏi đối với chính nó, ‘Làm thế nào tôi biết (tâm thái chứng ngộ)?’ bởi vì nó chính là kiến thức này mà, là sự diễn tả của mọi người về cái tâm-thái đó như thế nào đó đã tạo ra tâm-thái này bên trong ông. Ông đang đùa cợt với chính mình. Ông đúng là một kẻ ngu xuẩn.” Thế thì chẳng còn gì cả, mất sạch hết rồi. Tuy nhiên, vẫn còn có một loại cảm giác kỳ dị bên trong tôi, cái cảm giác lạ lùng là cái tâm-thái này...
Câu hỏi kế tiếp là “Làm thế nào tôi biết cái cảm giác kỳ lạ chính là tâm-thái này?” – Tôi không có bất cứ câu trả lời nào cho câu hỏi đó cả -- câu hỏi giống như là rơi vào trong vùng nước xoáy, câu hỏi đó lại hiện lên và xoáy nước cuốn mất, và tình trạng cứ diễn tiến tiếp tục lặp đi lặp lại như vậy .v.v…
Kế đến, thình lình câu hỏi biến mất hoàn toàn. Không có gì xảy ra cả; câu hỏi chỉ đơn thuần biến mất hẳn thôi. Tôi cũng không tự bảo “Ồ, trời ơi! Bây giờ tôi đã tìm được câu trả lời rồi.” Thậm chí tâm-thái đó cũng biến mất luôn – tâm-thái mà tôi nghĩ là tôi đang ngộ nhập trong nó, cái Tâm Thái của Phật, Chúa Giê-su – nó cũng biến mất. Câu hỏi đã biến mất, toàn thể mọi sự vong bặt hoàn toàn trong tôi. Tất cả là như vậy, bạn thấy đó.
Kể từ lúc đó trở đi, tôi không bao giờ tự nói với chính mình “Bây giờ ta đã tìm được giải đáp cho mọi vấn đề rồi.” Tâm-thái mà tôi đã từng nói “Chính là Tâm thái này đây” – tâm thái đó cũng biến mất luôn. Câu hỏi biến mất. Mọi sự vắng bặt. Cái còn lại, nó không phải là hư-không, không phải là trống-rỗng, cũng không phải là khoảng-không, nó không phải là những thứ vừa kể trên. Câu hỏi bất thình lình biến mất hoàn toàn, chỉ thế thôi.....
( UG nói: Câu hỏi nền tảng biến mất, tôi phát hiện ra rằng nó không có câu trả lời, là một hiện tượng sinh học. Tiếp theo là “một sự bùng nổ” bất thình lình xảy ra bên trong tôi, dường như chấn động vang dội đến mỗi tế bào, mỗi sợi thần kinh, và mỗi tuyến trong thân thể.” Cùng với sự “bùng nổ” đó đó, ảo tưởng có sự liên tục của tư tưởng, có một trung tâm mà cái “Tôi” liên kết với tư tưởng, không còn hiện hữu nữa.)
Sau sự bùng nổ, tư tưởng không thể liên kết được. Tình trạng liên kết bị bẻ gẫy, và một khi nó bị gẫy vỡ, thì sự liên kết này chấm dứt. Thế nhưng không phải là sự liên kết tư tưởng tương tục đó bùng vỡ một lần mà thôi đâu; mỗi lần có một ý tưởng, ý nghĩ, hay ý niệm nổi lên, là nó tự nổ tan ra. Kết cuộc là sự liên tục của tư tưởng đi đến chỗ chấm dứt, và tư tưởng bắt đầu vận hành theo “nhịp điệu tự nhiên” của nó.
Kể từ đó tôi không có bất cứ câu hỏi hay vấn đề nào hết, vì những câu hỏi không thể lưu lại trong tình trạng đó nữa. Những câu hỏi hiện tại mà tôi có rất đơn giản (thí dụ như: “Làm thế nào tôi có thể đi tới Hyderabad?” – Hyderabad là một thành phố trung tâm ở miền nam Ấn Độ) để có thể sinh hoạt ở thế giới này. Còn đối với những loại câu hỏi vấn đề tâm linh (tâm thái giác ngộ) thì không có ai có thể trả lời được – vì vậy chúng không còn nữa.
Mọi thứ trong đầu óc tôi bị nén chặt lại – không còn khoảng trống cho cho bất cứ điều gì len lỏi vào trong bộ não tôi được cả. Lần đầu tiên tôi ý thức được là mọi thứ, mọi điều trong đầu óc tôi bị “siết chặt” lại. Vì vậy, những ấn tượng (ý nghĩ, cảm giác .v.v…) trong quá khứ hoặc bất cứ gì bạn có thể gọi tên về chúng – thỉnh thoảng chúng cố gắng ngoi lên để chứng tỏ sự hiện diện quan trọng của chúng – nhưng những tế bào não bị “ép chặt” đến nỗi chúng không có cơ may nào giỡ trò vớ vẩn trong đó nữa. Sự phân chia không thể tồn tại trong trí não nữa – về mặt cơ thể, điều nàu khó thể nào xảy ra được. Bạn không cần phải làm một điều gì với nó, bạn thấy đó, nó chỉ xảy ra thôi. Đó là lý do tôi nói khi sự “bùng nổ” này xảy ra (Tôi dùng chữ “bùng nổ” (explosion) bởi vì nó giống như là một vụ nổ bom nguyên tử) nó để lại những phản ứng hạt nhân nổ dây chuyền tiếp theo sau đó. Mỗi tế bào trong cơ thể bạn, những tế bào ở ngay chính bên trong tủy xương của bạn, phải chịu đựng, trải qua sự “thay đổi” này – tôi không muốn sử dụng từ ngữ “thay đổi” – nó là một sự thay đổi bắt buộc phải xảy ra, không thể đảo ngược lại được. Không có cái chuyện bạn muốn trở lại tình trạng trước đây được nữa; cũng không có cái vấn đề bị “tiêu tùng” đối với người chân chính trải qua tình trạng này. Và không thể đảo ngược lại được: một hợp chất đã được chế luyện từ một vài loại kim loại nào đó.
Nó giống như một vụ nổ phản ứng hạt nhân nguyên tử, bạn thấy đó – nó tàn phá, đảo lộn toàn bộ cơ thể. Nó không phải là một điều dễ chịu thoải mái gì đâu; nó là sự chấm dứt sau cùng của kẻ chân chính (người tìm chân lý) – một sự càn quét mãnh liệt như vậy, nó đánh phá từng tế bào, từng dây thần kinh trong cơ thể bạn. Cơ thể tôi đã trải qua sự đau đớn oằn oại khủng khiếp vào khoảng thời gian đó. Không phải là bạn kinh nghiệm sự “bùng nổ” đó, bạn không thể nào kinh nghiệm sự “bùng nổ” được – mà là hậu-quả, “chất phóng xạ nguyên tử” của nó thay đổi toàn bộ cơ cấu hóa học trong cơ thể bạn..
Người hỏi:
- Thưa ngài, ắt hẳn ngài đã có kinh nghiệm, tôi mạn phép dùng từ ngữ: những “giai tầng” cao hơn…
UG. Krishnamurti:
- Bạn nói về “giai tầng”? Không có giai tầng hay là đẳng cấp gì cả. Bạn nên hiểu là có một sự kiện rất kỳ lạ xảy đến như là hệ quả của vụ “bùng nổ”, hoặc bạn muốn gọi nó là gì cũng được: không có một sát na (kẻ hở) nào mà tư tưởng có thể trổi lên trong tâm thức này cho là tôi khác với bạn. Không bao giờ. Sau vụ bùng vỡ đó, tư tưởng không còn hiện lên trong ý thức tôi và bảo rằng bạn khác biệt với tôi, hoặc tôi khác nhau với bạn, bởi vì không có bất cứ “điểm” nào hiện hữu ở đây, không còn có “trung tâm” (tự ngã, cái Tôi) ở trong đây nữa. Chỉ có sự liên hệ đến “trung tâm” này, bạn mới tạo tác nên những điểm, những vấn đề khác.
Hỏi:
- Ở một vài khía cạnh nào đó, nhất định ngài hẳn phải khác với mọi người.
UG:
- Về mặt hoạt động trong thân thể, có lẽ thế.
Hỏi:
- Ngài nói rằng những sự biến đổi dữ dội đã xảy ra trong bản thân ngài. Làm thế nào ngài biết được điều này? Có ai đã khám sát, kiểm tra tình trạng này của ngài chưa, hoặc đây chỉ là sự suy luận mà thôi?
UG:
- Những tác động, ảnh hưởng từ hậu quả vụ “bùng nổ” đó, cái cách thức những giác quan đang hoạt động (độc lập) hiện giờ thì không còn cần đến bất cứ một trung tâm hay tác nhân nào để kết hợp nữa – đó là tất cả những gì tôi có thể cho bạn biết. Thêm một điều khác: cơ cấu hóa học đã biến đổi – tôi có thể quả quyết rằng trừ phi có sự hoán chuyển hay thay đổi toàn thể cấu trúc hóa học xảy ra, nếu không thì không có cách nào để các cơ quan thân thể giải thoát khỏi được sự điều khiển của tư tưởng, sự tương tục của tư tưởng. Cho nên, vì sự liên tục của tư tưởng không còn nữa, bạn có thể dễ dàng nhận thấy rằng một điều gì đó mới lạ xuất sinh, nhưng cái-gì thật sự đã xuất sinh đây? Tôi không có phương cách nào để thể nghiệm truyền đạt nó cả.
Hỏi:
- Rất có thể là cái tâm trí đang giở trò vẽ vời rằng “tôi chỉ cần nghĩ tôi là “một kẻ bùng-nổ”? (tưởng tượng lâu dần thì sự bùng nổ này sẽ xảy ra)
UG:
- Tôi không cố ý làm cái việc thương mại buôn bán, đổi chác bất cứ cái gì ở đây. Bạn không thể nào bắt chước sự bùng vỡ này được. Sự thể mà nó xảy ra thì nằm vượt ngoài lĩnh vực, phạm vi mà tôi trông chờ, mơ ước, và mong muốn thay đổi trước đây. Vì vậy, tôi không gọi nó là một sự “thay đổi”; tôi thực sự không biết cái gì đã xảy đến cho tôi. Điều mà tôi có thể nói với bạn là cái cách thức mà tôi đang “hoạt động” (hành động và đáp ứng). Dường như có đôi chút khác biệt về cách thức bạn hoạt động và cách thức tôi hoạt động, nhưng căn bản thì không có khác nhau chi cả. Làm thế nào lại có bất cứ sự khác nhau giữa bạn và tôi? Không thể nào. Nhưng mà từ cái cách thức, đường lối chúng ta cố gắng diễn đạt, bày tỏ một điều gì, dường như là có sự khác biệt. Tôi cảm nhận là có một ít khác biệt nào đó, và cái gì mà sự khác biệt đó hàm chứa thì tôi đang cố gắng hiểu biết. Vì thế, đây là cách thức tôi “hoạt động.” UG để ý rằng những thay đổi căn nguyên, nền tảng của chức năng các giác quan diễn ra tuần tự trong suốt một tuần lễ tiếp theo sau ngay vụ “bùng nổ”. Vào ngày cuối cùng, ngày thứ 7, thân thể ông đã trải qua “một tiến trình của cái Chết về thể xác – Nirvikalpa samadhi” (thiền tông có câu: Đại Tử Nhất Phiên – Một Phen Chết Lớn), và sau đó những sự thay đổi hay chuyển hóa này của cơ thể đã trở nên thường tồn vĩnh viễn.
Những biến đổi trong 7 ngày tiếp theo ngay sau sự “bùng nổ” UG kể: Những thay đổi bắt đầu. Kể từ ngày sau vụ bùng nổ trở đi, trong 7 ngày – mỗi ngày có một thay đổi diễn ra. Đầu tiên tôi phát hiện ra nét mềm mại của làn da trên toàn cơ thể; hiện tượng chớp (nháy) mắt dừng lại, chấm dứt hẳn; và sau đó là những thay đổi về vị giác, khứu giác, thính giác – tôi nhận biết được năm sự biến đổi này. Có thể, thậm chí chúng đã biến đổi trước đó rồi, và tôi chỉ vừa nhận ra lần đầu tiên...
NGÀY THỨ 1:
Tôi để ý thấy là làn da của tôi mềm như tơ lụa và phát ra ánh sáng kỳ dị, ánh sáng màu vàng kim. Trong khi tôi cạo râu, cứ mỗi lần tôi cố gắng cạo thì lưỡi dao cạo bị trơn trợt đi. Tôi thay đổi lưỡi dao cạo râu khác, nhưng nó cũng vô dụng. Khi tôi chạm vào mặt tôi, xúc giác tôi đã khác biệt so với trước đây, bạn thấy đó, cách thức tôi cầm giữ dao để cạo râu cũng vậy. Đặc biệt là làn da của tôi – nó mềm như nhung lụa và phát ra ánh sáng màu vàng kim. Tôi chẳng có liên kết sự thay đổi này với bất cứ điều gì khác chút nào cả; tôi chỉ quán sát nó thôi.
NGÀY THỨ 2:
Lần đầu tiên tôi nhận thức được tâm trí ở trong tình trạng mà tôi gọi là “buông xả” thả lỏng hoàn toàn. Tôi đang ở trong nhà bếp của tầng lầu trên, và Valentine đang làm món xúp cà tô-mát. Tôi nhìn món xúp và không biết nó là món gì. Cô ấy bảo đó là món xúp cà tô-mát. Tôi nếm thử món xúp và mới nhận biết được “À, mùi vị của món xúp cà tô-mát là như thế này đây.”
Kế đến tôi nuốt món xúp, và sau đó tôi lại quay trở về cái khung tâm trí kỳ oặc – dùng chữ “khung tâm trí” cũng không đúng, mà phải nói rằng nó một cái “khung không có tâm trí (vô niệm)” – nên tôi lại quên khuấy mất đi tên món xúp. Tôi lại hỏi Valentine “Đó là món gì vậy?” Cô ta lặp lại, “đó là món xúp cà tô-mát.” Tôi nếm lại món xúp, rồi tôi nuốt nó và sau đó lại quên mất đi tên món xúp. Tôi đã chơi đùa với tình trạng này một lát. Nó đúng là một việc khôi hài với tôi khi đó, cái “trạng thái buông xả”.
Bây giờ trạng thái này đã trở nên bình thường rồi. Tôi hiện giờ không còn tiêu phí thời gian cho việc mơ màng mộng tưởng, lo lắng, quan niệm hóa và những suy nghĩ khác mà hầu hết mọi người làm khi họ cô độc. Tâm trí tôi giờ đây chỉ đáp ứng khi nó được cần đến, thí dụ khi bạn đặt câu hỏi, hoặc khi tôi phải sửa chữa hay lắp gắn cái máy thâu băng, hoặc một điều gì tương tự như thế.
Thời gian còn lại thì tâm trí tôi ở trong tình trạng “buông xả”. Dĩ nhiên hiện giờ ký ức tôi hồi phục trở lại – đầu tiên tôi bị mất nó, nhưng bây giờ tôi đã có nó trở lại – nhưng trí nhớ hay ký ức tôi thì nằm trong “nền, chỗ” của riêng nó và chỉ hiển hiện hoạt động khi nó được cần đến, một cách tự động. Khi nó không được cần đến, thì không có tâm trí hiển hiện, không có tư tưởng (vô niệm), chỉ có cái Sống mà thôi...
NGÀY THỨ 3:
Một vài người bạn muốn hỏi ý muốn đến dùng buổi ăn tối với chúng tôi, và tôi nói “Được mà, tôi sẽ nấu một vài món.” Nhưng, vì một lý do nào đó, tôi đã không thể nêm nếm thức ăn một cách đúng mức, thích hợp được.
Tôi đã dần dần nhận thấy là vị giác và khứu giác đã được chuyển hóa rồi. Mỗi lần có mùi gì đó đi vào trong lỗ mũi tôi, nó gây kích thích khó chịu đến tận trung tâm khứu giác, trong cùng một tình trạng giống nhau – dù cho cái mùi đó là mùi hương thơm đắt tiền nhất hoặc là phân bò, sự gây kích thích đó cũng giống y nhau, không khác. Và khi đó, mỗi khi tôi nếm một món gì, tôi chỉ nếm được cái gia vị nào trội nhất mà thôi – và những thành phần gia vị khác của món đó thì từ từ kế tiếp đó tôi mới cảm nhận.
Kể từ lúc đó, mùi hương nước hoa không còn nghĩa lý gì với tôi, và thức ăn nêm nếm gia vị thơm ngon cũng không còn hấp dẫn tôi nữa. Tôi có thể nếm đúng được thành phần gia vị trội nhất, ớt hay bất cứ gia vị nào đó.
NGÀY THỨ 4:
Có cái gì đó đã chuyển biến nơi đôi mắt. Chúng tôi đang ngồi trong nhà hàng “Rialto”, và tôi bắt đầu nhận thức được tầm nhìn to lớn kỳ lạ của đôi mắt, phóng nhìn cảnh vật từ xa theo một lối thu hẹp giống như nhìn qua ống kính có bề mặt gương lõm vậy. Cảnh vật di chuyển đến về phía tôi, đi vào bên trong tôi, và sau đó hình ảnh sự vật đi ra khỏi bản thân tôi, dường như nó xuất phát ra từ bên trong tôi. Hiện trạng cách nhìn của mắt thay đổi quả thật là một vấn đề nan giải cho tôi khi đó – mắt của tôi dường như giống một cái máy thu hình khổng lồ, nó tự thay đổi tiêu điểm hay tụ điểm mà tôi không cần phải làm gì cả.
Bây giờ thì tôi quen với cách nhìn này của đôi mắt rồi và đó cũng là cách thức mà tôi nhìn xem mọi sự mọi vật. Khi bạn lái xe Mini Van đưa tôi đi dạo, tôi giống như là một thợ nhiếp ảnh, quay phim đang vác máy ảnh (đôi mắt) đi cùng chiếc xe. Những chiếc xe chạy từ hướng khác hay ngược chiều đi thẳng vào trong bản thân tôi, và khi những xe đó vượt qua xe chúng ta, thì chúng di chuyển ra từ trong bản thân tôi.
Mỗi khi mắt tôi nhìn cố định lên một cảnh vật gì, thì nó nhìn dính chặt vào sự vật đó với sự chú tâm trọn vẹn, giống như là chiếc máy ảnh vậy. Một sự kiện khác nữa về đôi mắt của tôi: khi chúng tôi rời nhà hàng trở về đến nhà, tôi nhìn vào trong gương để xem có điều gì kỳ lạ về đôi mắt tôi, và xem nó đã được biến đổi, “lắp đặt, ổn định” ra sao. Tôi nhìn vào trong gương một thời gian dài, và sau đó nhận thấy là mi mắt không còn chớp, nháy nữa. Tôi nhìn vào trong gương trong khoảng thời gian từ 30 phút đến 45 phút – đôi mắt vẫn bất động không chớp nháy gì cả. Bản năng chớp nháy của mi mắt đã biến mất, không còn tồn tại nữa, và bây giờ cũng vậy...
NGÀY THỨ 5:
Tôi nhận biết được sự thay đổi về thính giác. Khi tôi nghe tiếng chó sủa, âm thanh đó bắt nguồn phát ra từ bên trong tôi. Và cũng giống như vậy khi tôi nghe tiếng rống của con bò, tiếng kèn xe lửa – bất thình lình, tất cả những âm thanh đó xuất phát ra từ bên trong nội tâm mình, bắt nguồn từ nội giới chứ không phải ngoại giới – hiện giờ tình trạng vẫn như thế.
NGÀY THỨ 6:
Năm giác quan đã thay đổi trong 5 ngày, và ngày thứ 6 trong khi tôi đang nằm trên ghế xôfa – Valentine đang ở trong nhà bếp – và … bất chợt, thân thể tôi biến mất. Thể xác đã không còn hiện hữu. Tôi nhìn vào tay tôi (Chuyện vớ vẩn điên khùng phải không – bạn có thể muốn nhốt tôi vào nhà thương tâm thần lắm), tôi đã quan sát nó – “đây là tay tôi sao?” Tôi không có đặt câu hỏi vào lúc đó, nhưng toàn thể tình cảnh thì tương tự như thế -- đó là tất cả mọi sự việc tôi hiện đang diễn tả lại cho bạn nghe.
Vì vậy, tôi đã thử chạm vào cơ thể tôi – không có gì hết – tôi cảm giác không có bất cứ cái gì thuộc thân thể hiện hữu khi đó ngoại trừ sự va chạm, điểm tiếp xúc mà thôi. Kế đến, tôi gọi Valentine và hỏi:
“Cô có thấy thể xác tôi đang nằm trên ghế xôfa hay không? Không có tín hiệu nào trong nội tâm cho biết rằng đây là thân thể tôi cả.”
Cô ấy đến và chạm vào thân thể tôi:
“Đây là thân thể của anh.”
Tuy nhiên sự xác định của Valentine không khiến tôi thoải mái và thỏa mãn – “Cái gì mà khôi hài kỳ khôi như thế này đây? Thể xác tôi đang vắng mất.” Thân thể tôi đã ra đi rồi và không bao giờ trở lại. Chỉ có những điểm va chạm tiếp xúc mà tôi cảm giác được là còn tồn tại mà tôi – ngoài ra thì không có gì khác nữa – bởi vì sự nhìn, xem thì độc lập, không lệ thuộc vào xúc giác. Vì vậy, thậm chí muốn tạo ra bức ảnh thân thể tôi, tôi không thể nào làm được, vì nơi đâu mà không có xúc giác (điểm va chạm), thì trong ý thức tôi không có những điểm tiếp xúc đó.
NGÀY THỨ 7:
Tôi đang nằm cùng trên chiếc ghế xôfa như hôm qua, thư giãn và tận hưởng trạng thái “buông xả”. Valentine bước đến gần, tôi nhận ra được cô là Valentine; rồi cô đi ra khỏi phòng – vong bặt, trống rỗng, không có Valentine hiện hữu – “Đây là cái gì vậy? Thậm chí tôi không thể tưởng tượng ra được Valentine trông có vẻ như thế nào. Tôi lắng nghe được những âm thanh xuất phát ra từ bên trong nội tâm.” Nhưng, tôi không thể liên hợp nối kết được mọi sự việc lại. Tôi phát hiện là tất cả các giác quan hoạt động mà không cần sự phối hợp của bất cứ tác nhân nào bên trong nội giới cả: tác nhân liên kết, phối hợp đã vắng bặt.
Tôi cảm giác tình trạng gì đó đang xảy ra bên trong bản thân mình: sinh lực từ khắp các phần khác nhau của cơ thể đang bị thu rút hội tụ về một tâm điểm nào đó. Tôi tự nói với chính mình “Bây giờ nhà ngươi đang tiến gần đến sự kết liễu mạng sống rồi. Ngươi sẽ chết.” Thế nên tôi gọi Valentine và nói “Valentine, tôi sắp chết đến nơi rồi, cô sẽ phải làm gì đó với thể xác này. Chuyển thể xác này đến cho các bác sĩ, có thể họ sẽ có chỗ nào dùng đến nó. Tôi không tin ba cái chuyện hỏa táng hay chôn cất gì cả, hoặc gì gì tương tự vây. Để tốt cho cô, cô phải vứt bỏ cái thể xác này đi – qua vài ngày nó sẽ bốc mùi – vì vậy, sao lại không liệng bỏ nó đi chứ? ” Cô nói “Anh là người ngoại quốc. Chính phủ Thụy Sĩ sẽ không tiếp nhận thể xác của anh đâu. Bỏ qua chuyện này đi,” rồi cô bỏ đi.
Và tiếp theo đó, toàn bộ lực lượng kinh khiếp này trong cơ thể di chuyển về một điểm, có thể nói là như vậy. Tôi đang nằm trên xôfa. Chiếc gường của Valentine thì trống, vì vậy tôi đi qua nằm trên gường đó và nằm duỗi thẳng mình ra, sẵn sàng chờ cái chết đến. Valentine bỏ mặc tôi nằm đó và đi ra. Cô nói:
“Một hôm anh nói là cái này đã biến đổi, ngày kế đến cái kia thay đổi, ngày thứ ba thì cái nọ đã thay đổi. Toàn bộ sự thể là gì vậy chứ?”
Valentine thì chẳng thích thú đến những điều đó – cô không bao giờ quan tâm đến những vấn đề tâm linh hay tôn giáo – cô chưa bao giờ nghe biết được những điều đó.
Cô nói tiếp:
“Anh nói là anh sắp chết đến nơi rồi. Anh sẽ không chết. Anh không sao cả, anh vẫn khỏe mạnh và tráng kiện kia mà.”
Nói xong, cô bỏ đi.
Sau đó, tôi nới giãn cơ thể, duỗi mình nằm yên vị … Toàn bộ năng lực trong thân thể đang di chuyển quy về một tụ điểm nào đó – tụ điểm này nằm ở đâu thì tôi không biết được. Kế tiếp, điểm này tiến đến nơi chỗ – diễn tiến sự việc xảy ra cũng giống như là lỗ (cửa, nắp) ống kính máy ảnh đang tự đóng lại chính nó. (Đây là sự so sánh duy nhất mà tôi có thể dùng để diễn tả. Sự diễn tả này thì khác xa với sự kiện đã xảy ra vào thời gian đó, bởi vì vào lúc đó thì không có chủ thể để suy nghĩ những lời lẽ như vậy. Toàn bộ sự kiện này là một phần trong kinh nghiệm của tôi, nếu không tôi sẽ không có thể nào nói được về nó.) Trong khi cửa ống kính máy ảnh đang cố gắng tự đóng kín lại chính nó, thì có một tác nhân nào khác ở tại đó đang cố kềm giữ duy trì cánh cửa mở ra (điểm sáng). Một lúc sau, không còn ý chí nào để làm bất kỳ gì nữa hết, thậm chí cũng không còn ý muốn ngăn cản cái cửa đang tự đóng lại chính nó… Và bất thình lình, có thể cho là như thế, nó đóng sập lại. Tôi không biết được điều gì đã xảy ra sau đó.
Tiến trình này kéo dài 45 phút – tiến trình của cái Chết. Nó là sự chết về cơ thể, bạn thấy đó. Thậm chí hiện tại nó cũng hay xảy đến với tôi: bàn tay, bàn chân trở nên rất lạnh, thân thể trở nên cứng, nhịp tim đập chậm lại, hơi thở chậm xuống dần dần, và từ từ chỉ còn hớp được một hơi thở sau cùng. Vươn tới một điểm đích, bạn hít một hơi thở sau cùng của bạn, có thể nói như thế, và tiếp đến bạn chấm dứt cuộc sống mình. Điều gì xảy ra sau đó, không có ai biết được.
Khi tôi tỉnh lại, ai đó nói rằng có người gọi điện thoại cho tôi. Tôi rời khỏi gường và đi xuống thang lầu để trả lời điện thoại. Tôi vẫn còn ở trong tình cảnh mê mê màng màng. Tôi không biết điều gì đã xảy ra. Nó là cái Chết của cơ thể. Cái gì đã mang tôi trở về cuộc sống. Tôi không biết. Tiến trình cái Chết đã kéo dài bao lâu, tôi cũng không biết. Tôi không thể nói được gì về tiến trình sự chết trong lúc đó, bởi vì kẻ kinh nghiệm đã vong bặt, đã chết: không có kẻ nào hiện hữu để kinh nghiệm sự Chết cả… Vì vậy, đó là sự chấm dứt, tận cùng của cái Chết.
Và tôi đã phục sinh!.....
(còn tiếp)
.
Bí ẩn của sự Giác Ngộ
http://www.well.com/~jct/bphotos/ug_1.jpg (http://www.well.com/~jct/bphotos/ug_1.jpg)
Đây là một phần bản dich quyển The Mystique of Enlightenment của UG Krishnamurti, được thu thập và ghi lại bởi Rodney Arms (www.ugkrishnamurti (http://www.ugkrishnamurti)), trong quyển sách này có những đoạn UG Krishnamurti tường thuật lại kinh nghiệm diễn biến tâm linh chứng ngộ kéo dài một thời gian 7 ngày của ông, mà ông goi đó là một vụ "bùng nổ" bên trong . Nhận thấy, kinh nghiệm chứng ngộ 7 ngày mà ông đã trải qua và kể lại là những thông tin bổ ích để tham khảo, xin chia sẻ với các bạn.Thông tin thêm Ông này là UG Krishnamurti khác với ông Jiddu Krishnamuri là ông thầy nỗi tiếng có rất nhiều sách nhiều người đã biết.
I. Sơ Lược tiểu sử U.G. Krishnamurti. Tên đầy đủ của UG là Uppalori Gopala Krishnamurti. Bạn bè và những người ngưỡng mộ ông thường gọi ông một cách thân thương là UG. Ông sanh ngày 9 tháng 7 năm 1918 trong một gia đình dòng dõi Bà la môn ở Masulipatam, một thị xã miền ven biển thuộc tỉnh Andhra Pradesh, Ấn Độ. Khi UG chỉ vừa chào đời được 7 ngày thì mẹ của UG qua đời, và UG được nuôi dưỡng, dạy dỗ bởi ông ngoại. Ngoại của UG là một luật sư danh tiếng, giàu có, và là một thành viên nổi bật của hội Thông Thiên Học. UG trưởng thành trong môi trường đặc thù của Thông Thiên Học và lại có tín ngưỡng, thực hành theo Ấn độ giáo chính thống. Thậm chí khi còn là một cậu bé, UG là một kẻ hay nổi loạn, chống đối, lỗ mãng nhưng thật thà đối với những gì anh ta đã làm.
UG hoàn tất tiểu học và trung học ở thị xã Gudivada và sau đó lấy bằng cử nhân danh dự về Tâm lý và Triết học tại Đại Học Madras. Nhưng, sự học hỏi nghiên cứu về các hệ thống triết lý đa dạng và tâm lý học tây phương chỉ gây chút ít ấn tượng đối với UG. “Cái tâm thức mà mấy cha nội này đang lý giải thì nó nằm ở đâu vậy?”, có một lần UG đã hỏi vị giáo sư Tâm Lý học của mình như thế. Có điều gì đó lạ thường nơi một sinh viên chỉ vừa mới 20 tuổi đầu, đặc biệt là học thuyết của Freud đã được xem như là thành tựu mới nhất nói về tâm thức nhân loại vào thời đó.
Khoảng thời gian từ 14 tuổi đến 21 tuổi, UG thỉnh thoảng đến học và thực hành thiền định và yoga với Swami Sivananda ở Rishikesh. UG có nhiều thể nghiệm và linh ảnh kỳ diệu khi tu tập ở đó, tuy nhiên UG đã đặt nghi vấn về tính chất thực hư của những kinh nghiệm tâm linh này, vì UG nghĩ rằng anh có thể nhận thức ra được chúng chính là nền tảng kiến thức hiểu biết mà UG đã có trước đó rồi.
Năm 1939, khi được 21 tuổi, UG đến gặp gỡ vị đạo sư Sri Ramana Maharshi và hỏi ông, “ông có thể trao cho cho tôi cái gọi là “giải thoát” không?” Ramana đáp, “tôi có thể trao cho anh cái-đó, nhưng anh có khả năng nắm bắt cái-đó được không?” Câu trả lời của Ramana gây chấn động UG như “tiếng sét” và khiến cho UG quyết định bắt đầu cuộc hành trình tìm kiếm chân lý không mệt mỏi, không nản lòng, và cuối cùng không ngờ UG đã đạt được quả vị chứng ngộ giải thoát hoàn toàn vào năm UG 49 tuổi (năm 1967).Sau khi rời đại học, UG gia nhập hội Thông Thiên Học với vai trò diễn giả và ông đi vòng quanh Ấn độ để thuyết giảng về Huyền bí học. Ngay cả sau khi lập gia đình với bà Kusuma Kumari vào năm 1943, ông vẩn còn tiếp tục làm việc cho hội Thông Thiên Học và đã có nhiều buổi thuyết giảng ở các quốc gia Châu Âu. Mãi đến năm 1953 ông nhận thức ra được rằng những chuyện ông đang làm là sai lầm đối với việc tìm kiếm chân ngã, nên ông đã phẫn nộ rời bỏ chức vụ. Sau đó ông gặp Jiddu Krishnamuri, là bậc đạo sư tâm linh khét tiếng về việc truyền bá tư tưởng phủ nhận mọi truyền thống giáo điều, tôn sùng thần tượng, và tập tục quy ước xã hội vào lúc bấy giờ. Trong vòng 2 năm, UG thường hay có những cuộc hội thoại với J. Krishnamurti, và hai người đã có nhiều cuộc tranh luận dữ dội về những vấn đề tâm linh. Sau cùng UG đã từ chối đường lối của J. Krishnamurti, và gọi đó là “một chuyến hải trình hư ảo..”
Trong suốt khoảng thời gian này, UG cũng có trải qua một thể nghiệm biến đổi thân tâm thần kỳ, mà ông gọi đó là “kinh nghiệm về Cái Chết”. Nhưng ông xem nhẹ kinh nghiệm đó và “quét sạch nó sang một bên”, và tiếp tục thăm dò, tra xét, kiểm nghiệm, hoài nghi mỗi một kinh nghiệm tâm linh cho đến khi nào ông đạt được giác ngộ thực sự.
Thời gian trước năm 1967 ( năm ông đạt được giác ngộ giải thoát) ông có rất nhiều kinh nghiệm tâm linh, ông có năng lực có thể nhìn thấy tiền kiếp, hiện tại và tương lai của người khác. Ông nói: “Cái khoảnh khắc mà tôi gặp một người, tôi có thể thấy được toàn bộ quá khứ, hiện tại, và vị lai của người đó. Nhưng tôi không sử dụng năng lực này. Tôi tự hỏi, ‘tại sao tôi lại có năng lực này?’. Thỉnh thoảng tôi nói những điều nào đó, và chúng xảy ra đúng như vậy. Tôi vẫn chưa thể thể hiểu rõ và nghĩ ra được căn nguyên hoạt động của năng lực đó? Tôi cũng không có hứng thú với nó. Làm thế nào mà tôi nói điều gì đó, và nó luôn xảy ra y như vậy? Tuy nhiên, nó đã mang lại vài hậu quả không vui lòng, và gây nên sự buồn phiền cho một ít người.”
Năm 1955, UG đưa gia đình sang Hoa Kỳ để chữa bệnh cho con trai của ông. Khi nguồn tài chánh của ông cạn kiệt, ông để gia đình vợ con trở về Ấn Độ, còn ông thì ở lại tiếp tục hành trình tâm linh. Không tiền không bạc, ông sống lang thang, trôi nổi từ nơi này đến nơi khác, London, Paris... Sau cùng tình cờ ông quen biết với cô Valentine de Kerven, và tạm trú thân ở nhà cô Valentine ở Saanen, Thụy Sĩ. Vào khoảng thời gian trú ngụ tại nhà cô Valentine, những kinh nghiệm tâm linh lạ thường đã xảy đến cho ông, nó là sự khai mào cho “cái chết – thoát thai hoán cốt” vào ngày sinh nhật ông đúng 49 tuổi (1967), và là sự bắt đầu khó thể tin được về những thể nghiệm thay đổi chuyển hóa bên trong cơ thể ông đã khiến ông “nhảy một bước vào cái Tâm Thái (mảnh đất Như Lai – nói theo thiền tông), cái Tâm Thái mà cho đến nay vẫn còn khó hiểu trong khuôn khổ hiểu biết về truyền thống huyền bí và khai ngộ của chúng ta. Liên tục trong 7 ngày, sau bảy lần thay đổi xảy ra, ông đạt được trạng thái mà ông gọi là “Tánh Tự Nhiên” (Natural State). Nó là một sự biến đổi tế bào trong cơ thể, một con người được chuyển hóa, tái sinh, mới mẻ toàn diện.
UG rời khỏi thế giới này vào lúc 2:30 PM, ngày 22 tháng 3 năm 2007 tại Vallecrosia, nước Ý. Ông hưởng thọ 88 tuổi. Bạn bè và nhiều người ngưỡng mộ ông khắp nơi trên thế giới đã gởi lời bày tỏ thương tiếc sự ra đi của ông.II. Cơ duyên đưa UG đến giác ngộ rốt ráo (July 1967): Lời kể lại của U.G. Krishnamurti khi ông trú ngụ tại nhà cô Valentine.
Suốt trong khoảng thời gian đó (tôi gọi nó là thời kỳ thai nghén), đủ mọi thứ loại thể nghiệm tâm linh xảy đến bên trong cơ thể tôi – nhức đầu, những cơn đau đầu liên tục không ngừng nghỉ, những cơn đau khủng khiếp bên trong não bộ. Tôi đã nuốt hàng ngàn viên thuốc Aspirin, nhưng thuốc men không giúp ích cho tôi bớt đau chút nào cả. Đó không phải là chứng “đau nhức nửa đầu” (migraine) hoặc những triệu chứng đau đầu mà y học đã biết, nhưng là những cơn nhức đầu như búa bổ. Trong thời gian bị cơn đau đầu hành hạ, ngày nào tôi cũng đều uống nhiều viên Aspirin và từ 15 cho đến 20 tách cà phê để mong giảm bớt cơn đau phần nào! Có một ngày Valentine than phiền “Anh làm cái gì vậy! Ngày nào anh cũng uống tới 15 tách cà phê. Anh có biết nó cũng là tiền bạc không? Từ 300 cho đến 400 francs mỗi tháng đó.” Dù thế nào đi nữa, nó cũng là một điều dễ sợ cho tôi.
Có nhiều chuyện buồn cười xảy đến cho tôi. Tôi còn nhớ là khi tôi chà sát trên thân thể tôi, thì có đốm sáng lóe lên giống như chất lân tinh phát sáng lên vậy. Valentine đã từng có lần chạy ra khỏi phòng ngủ của cô để xem xét – vì cô cứ nghĩ là có chiếc xe nào đó chạy đến con đường trước nhà vào giữa đêm. Hể mỗi lần tổi trở mình lăn trên gường thì có ánh sáng lấp lánh phát ra, (UG cười ) thật ngộ nghĩnh – “Cái gì đây vậy?” Nó là điện – đó là tại sao tôi lại bảo nó là từ trường điện. Tôi cứ tưởng nguyên nhân do bởi chất ni-lon của áo quần tôi mặc có tích chứa tĩnh điện gây ra, rồi tôi tạm dừng sử dụng đồ vật có chất ni-lon. Tôi là người thuộc chủ nghĩa hoài nghi cực đoan, “từ đầu tới chân”, tôi không bao giờ tin tưởng bất cứ điều gì cả; thậm chí nếu tôi thấy phép lạ xảy xảy ra trước mặt tôi, tôi cũng không vội chấp nhận – chẳng hạn như sự cấu tạo, bản chất của tôi đây. Sự kiện trên hoặc điều nào tương tự như thế chưa bao giờ được tạo ra và xảy đến cho tôi trước đây...
Những sự thể rất lạ lùng xảy đến với tôi, nhưng tôi chưa bao giờ cho là chúng có liên quan đến những điều gọi là tự-do tự-tại hoặc giải thoát, bởi vì vào thời gian đó toàn thể mọi sự biến mất khỏi cơ thể tôi. Tôi đã vươn tới cái điểm mà tôi tự nhủ “Tất cả các bậc minh sư và cứu thế đều là vớ vẩn – vì vậy tôi không còn thích thú điều gì tương tự như vậy nữa,” vì thế nó biến mất khỏi bản thân tôi hoàn toàn. Những điều kỳ dị khác thường vẫn tiếp tục diễn biến, nhưng tôi không bao tự nhủ là “Ô, (UG cười ) tôi đang đi đến nơi ĐÓ, tôi gần tới Đó.” Cái ĐÓ không có xa hay gần, cũng không có cận kề hay sát bên chỗ Đó. Không có ai tiến gần tới nơi Đó được, bởi vì anh ta chuẩn bị, nên anh ta khác biệt với Nó. Không thể có sự sẵn sàng để đạt được cái Đó. Nó chỉ hích trúng vào bạn, giáng mạnh vào bạn như là sức nặng một tấn gạch vậy.Vào tháng 4 năm 1967, tôi tình cờ đến Paris trong khi Jiddu Krishnamurti cũng ngẫu nhiên có mặt ở đó. Một vài người bạn của tôi gợi ý “Tại sao tôi không đi lắng nghe bạn cũ (J.K) của tôi giảng thuyết? Anh ta có một buổi hội thảo ở Paris.” Tôi nói, “Được thôi, tôi đã không nghe anh ấy nói chuyện nhiều năm rồi – gần như đã 20 năm – để tôi đến đó nghe thử.”
Khi tôi đến hội trường, họ yêu cầu tôi trả hai đồng francs (tiền Pháp) để vào cửa. Tôi nói “Tôi không bằng lòng trả hai đồng francs để nghe J. Krishnamutri giảng thuyết. Không, thôi chúng ta hãy đi nơi khác và làm chuyện gì vớ vẩn chơi. Hãy đến sòng bạc xem vũ thoát y. Đi nào, chúng ta chỉ mất hai mươi đồng francs để đến đó.” Vì vậy, chúng tôi đến sòng bạc “Casino de Paris” xem chương trình khiêu vũ. Tôi có được một kinh nghiệm rất lạ lùng vào thời gian đó: Tôi không biết được rõ tôi chính là người vũ công hay là có một người vũ công nào khác đang khiêu vũ trên sàn nhảy. Một kinh nghiệm rất là kỳ quặc đến với tôi: có một loại chuyển động kỳ dị như thế nào đó bên trong người tôi. (Sự chuyển động kỳ dị này bây giờ đã trở thành quen thuộc tự nhiên đối với tôi rồi.) Không có sự phân cách lúc đó: không có người quan sát đang nhìn ngắm người vũ công. Vấn đề là tôi không biết có phải tôi chính là người vũ công trên sàn nhảy hay là một người vũ công nào khác trên sàn nhảy đã khiến tôi suy nghĩ nhức óc, làm phiền phức tôi lúc đó – sau đó chúng tôi rời khỏi sòng bạc...
Câu hỏi “Cái trạng thái đó là gì?” đã tạo nên một cường độ mãnh liệt trong tôi – không phải cường độ về cảm xúc – tôi càng cố gắng tìm câu trả lời cho câu hỏi thì tôi càng thất bại, và cường độ của câu hỏi lại càng tăng lên mạnh mẽ thêm. Nó cũng giống như là (tôi luôn luôn dùng sự so sánh như vầy) vỏ hạt gạo (trấu): Nếu có một đống trấu bắt lửa, nó tiếp tục cháy ngầm âm ỉ bên trong; bạn không nhìn thấy lửa cháy ra phía ngoài, nhưng khi bạn chạm vào, dĩ nhiên, nó sẽ làm bạn bị phỏng. Giống y cách thức như thế, câu hỏi vẫn cứ tiếp tục diễn tiến: “Cái trạng thái đó là gì? Tôi muốn hiểu, đạt được nó. Chỉ thế thôi. J. Krishnamurti có lần nói rằng ‘Không có đường lối hay phương pháp nào để tôi có thể đạt đến được’, nhưng tôi vẫn cứ muốn biết cái trạng thái đó nó như thế nào, cái Tâm Thái mà Phật Thích Ca, Sankara, và các vị đạo sư khác đã hội nhập vào trong nó.”
Sau đó, một giai đoạn khác xảy ra vào tháng 7 năm 1967. Jiddu Krishnamurti lại đến Saneen thuyết giảng. Các bạn của tôi lôi kéo tôi đến đó và nói “buổi nói chuyện của J. Krishnamurti lần này miễn phí, tại sao tôi không đi nghe thử xem sao?” Tôi nói “Cũng được, tôi sẽ đi nghe J.Krishnamurti giảng thuyết.” Khi tôi lắng nghe J. Krishnamurti nói, thì có cái gì đó là lạ, khôi hài xảy đến cho tôi – cái cảm giác kỳ lạ mà J. Krishnamurti đang diễn tả là trạng thái của tôi, chứ không phải của J. Krishnamurti. Tại sao tôi lại muốn biết tâm thái của J. Krishnamurti chứ? Anh ta đang diễn tả một trạng thái gì đó, vừa vận hành, vừa tỉnh thức, vừa tịch lặng – “Trong trạng thái tịch lặng đó, không có tâm ý; chỉ có hành-động mà thôi” – tất cả mọi thứ đại loại như vậy. Vậy là “Tôi hiện đang ở trong tâm thái đó. Thật là quái quỉ gì đâu, tại sao tôi lại phải tiêu phí hết ba bốn mươi năm để đi nghe những người khác thuyết giảng, và cố gắng cứ muốn đi tìm hiểu cái tâm thái của J. Krishnamurti hay là của một ai khác, như Phật Thích Ca, Chúa Giê-su? Tôi ở trong tâm thái, cảnh giới đó mà. Bây giờ tôi đang an trú trong tâm thái đó.” Thế nên, tôi bước ra khỏi hội trường và không bao giờ trở lại nữa.
Kế đến – rất lạ kỳ là – câu hỏi “Cái tâm thái đó là gì?” tự chuyển biến thành câu hỏi khác: “Làm thế nào để tôi biết được là mình đang an trú trong tâm thái đó, cái tâm thái của Phật, cái tâm thái mà tôi rất muốn biết và mong cầu từ mọi người? Nhưng mà làm thế nào tôi biết được là tôi hiện ở trong tâm thái đó đây? ”...Ngày kế tiếp (ngày sinh nhật năm 49 tuổi của UG - ngày 9 tháng 7 năm 1967 ) tôi đang ngồi trên một chiếc ghế dài dưới một cội cây ngắm nhìn một trong những địa điểm thắng cảnh tuyệt đẹp của thế giới, “bảy ngọn đồi và bảy thung lũng” của miền đất Saanen. Tôi đang ngồi yên vị nơi đó. Câu hỏi không còn trong trí nữa, mà toàn thể thân xác và tâm trí tôi chính là câu hỏi đó:
“Làm thế nào tôi biết được rằng tôi ở trong Tâm thái đó?"
Có một sự phân chia thật lạ kỳ bên trong bản thể tôi: có một kẻ nào đó biết được rằng hắn ta đang ở trong tâm thái đó. Kiến thức về tâm thái – cái mà tôi đã đọc qua sách vở, qua kinh nghiệm, qua việc nghe thiên hạ nói về nó – chính kiến thức này đang quan sát cái tâm-thái đó, vì vậy tâm-thái đó chỉ là sự phóng chiếu (vọng tưởng) từ kiến thức này ra mà thôi.”
Nhận nhức được như thế tôi mới tự nhủ: “Nhìn đây ông thần, sau bốn mươi năm ông chẳng có tiến thêm được một bước nào hết; ông chỉ dậm chân tại chỗ thôi. Khi ông đặt câu hỏi trên, thì cái kiến thức này phác họa và phóng tưởng lên tâm trí ông (kiến thức tạo ra cái tâm thái và kẻ đang quan sát hay đang ở trong tâm thái đó). Tương tự như thế, ông ở trong cái tình cảnh mà kiến thức tự nó đặt câu hỏi đối với chính nó, ‘Làm thế nào tôi biết (tâm thái chứng ngộ)?’ bởi vì nó chính là kiến thức này mà, là sự diễn tả của mọi người về cái tâm-thái đó như thế nào đó đã tạo ra tâm-thái này bên trong ông. Ông đang đùa cợt với chính mình. Ông đúng là một kẻ ngu xuẩn.” Thế thì chẳng còn gì cả, mất sạch hết rồi. Tuy nhiên, vẫn còn có một loại cảm giác kỳ dị bên trong tôi, cái cảm giác lạ lùng là cái tâm-thái này...
Câu hỏi kế tiếp là “Làm thế nào tôi biết cái cảm giác kỳ lạ chính là tâm-thái này?” – Tôi không có bất cứ câu trả lời nào cho câu hỏi đó cả -- câu hỏi giống như là rơi vào trong vùng nước xoáy, câu hỏi đó lại hiện lên và xoáy nước cuốn mất, và tình trạng cứ diễn tiến tiếp tục lặp đi lặp lại như vậy .v.v…
Kế đến, thình lình câu hỏi biến mất hoàn toàn. Không có gì xảy ra cả; câu hỏi chỉ đơn thuần biến mất hẳn thôi. Tôi cũng không tự bảo “Ồ, trời ơi! Bây giờ tôi đã tìm được câu trả lời rồi.” Thậm chí tâm-thái đó cũng biến mất luôn – tâm-thái mà tôi nghĩ là tôi đang ngộ nhập trong nó, cái Tâm Thái của Phật, Chúa Giê-su – nó cũng biến mất. Câu hỏi đã biến mất, toàn thể mọi sự vong bặt hoàn toàn trong tôi. Tất cả là như vậy, bạn thấy đó.
Kể từ lúc đó trở đi, tôi không bao giờ tự nói với chính mình “Bây giờ ta đã tìm được giải đáp cho mọi vấn đề rồi.” Tâm-thái mà tôi đã từng nói “Chính là Tâm thái này đây” – tâm thái đó cũng biến mất luôn. Câu hỏi biến mất. Mọi sự vắng bặt. Cái còn lại, nó không phải là hư-không, không phải là trống-rỗng, cũng không phải là khoảng-không, nó không phải là những thứ vừa kể trên. Câu hỏi bất thình lình biến mất hoàn toàn, chỉ thế thôi.....
( UG nói: Câu hỏi nền tảng biến mất, tôi phát hiện ra rằng nó không có câu trả lời, là một hiện tượng sinh học. Tiếp theo là “một sự bùng nổ” bất thình lình xảy ra bên trong tôi, dường như chấn động vang dội đến mỗi tế bào, mỗi sợi thần kinh, và mỗi tuyến trong thân thể.” Cùng với sự “bùng nổ” đó đó, ảo tưởng có sự liên tục của tư tưởng, có một trung tâm mà cái “Tôi” liên kết với tư tưởng, không còn hiện hữu nữa.)
Sau sự bùng nổ, tư tưởng không thể liên kết được. Tình trạng liên kết bị bẻ gẫy, và một khi nó bị gẫy vỡ, thì sự liên kết này chấm dứt. Thế nhưng không phải là sự liên kết tư tưởng tương tục đó bùng vỡ một lần mà thôi đâu; mỗi lần có một ý tưởng, ý nghĩ, hay ý niệm nổi lên, là nó tự nổ tan ra. Kết cuộc là sự liên tục của tư tưởng đi đến chỗ chấm dứt, và tư tưởng bắt đầu vận hành theo “nhịp điệu tự nhiên” của nó.
Kể từ đó tôi không có bất cứ câu hỏi hay vấn đề nào hết, vì những câu hỏi không thể lưu lại trong tình trạng đó nữa. Những câu hỏi hiện tại mà tôi có rất đơn giản (thí dụ như: “Làm thế nào tôi có thể đi tới Hyderabad?” – Hyderabad là một thành phố trung tâm ở miền nam Ấn Độ) để có thể sinh hoạt ở thế giới này. Còn đối với những loại câu hỏi vấn đề tâm linh (tâm thái giác ngộ) thì không có ai có thể trả lời được – vì vậy chúng không còn nữa.
Mọi thứ trong đầu óc tôi bị nén chặt lại – không còn khoảng trống cho cho bất cứ điều gì len lỏi vào trong bộ não tôi được cả. Lần đầu tiên tôi ý thức được là mọi thứ, mọi điều trong đầu óc tôi bị “siết chặt” lại. Vì vậy, những ấn tượng (ý nghĩ, cảm giác .v.v…) trong quá khứ hoặc bất cứ gì bạn có thể gọi tên về chúng – thỉnh thoảng chúng cố gắng ngoi lên để chứng tỏ sự hiện diện quan trọng của chúng – nhưng những tế bào não bị “ép chặt” đến nỗi chúng không có cơ may nào giỡ trò vớ vẩn trong đó nữa. Sự phân chia không thể tồn tại trong trí não nữa – về mặt cơ thể, điều nàu khó thể nào xảy ra được. Bạn không cần phải làm một điều gì với nó, bạn thấy đó, nó chỉ xảy ra thôi. Đó là lý do tôi nói khi sự “bùng nổ” này xảy ra (Tôi dùng chữ “bùng nổ” (explosion) bởi vì nó giống như là một vụ nổ bom nguyên tử) nó để lại những phản ứng hạt nhân nổ dây chuyền tiếp theo sau đó. Mỗi tế bào trong cơ thể bạn, những tế bào ở ngay chính bên trong tủy xương của bạn, phải chịu đựng, trải qua sự “thay đổi” này – tôi không muốn sử dụng từ ngữ “thay đổi” – nó là một sự thay đổi bắt buộc phải xảy ra, không thể đảo ngược lại được. Không có cái chuyện bạn muốn trở lại tình trạng trước đây được nữa; cũng không có cái vấn đề bị “tiêu tùng” đối với người chân chính trải qua tình trạng này. Và không thể đảo ngược lại được: một hợp chất đã được chế luyện từ một vài loại kim loại nào đó.
Nó giống như một vụ nổ phản ứng hạt nhân nguyên tử, bạn thấy đó – nó tàn phá, đảo lộn toàn bộ cơ thể. Nó không phải là một điều dễ chịu thoải mái gì đâu; nó là sự chấm dứt sau cùng của kẻ chân chính (người tìm chân lý) – một sự càn quét mãnh liệt như vậy, nó đánh phá từng tế bào, từng dây thần kinh trong cơ thể bạn. Cơ thể tôi đã trải qua sự đau đớn oằn oại khủng khiếp vào khoảng thời gian đó. Không phải là bạn kinh nghiệm sự “bùng nổ” đó, bạn không thể nào kinh nghiệm sự “bùng nổ” được – mà là hậu-quả, “chất phóng xạ nguyên tử” của nó thay đổi toàn bộ cơ cấu hóa học trong cơ thể bạn..
Người hỏi:
- Thưa ngài, ắt hẳn ngài đã có kinh nghiệm, tôi mạn phép dùng từ ngữ: những “giai tầng” cao hơn…
UG. Krishnamurti:
- Bạn nói về “giai tầng”? Không có giai tầng hay là đẳng cấp gì cả. Bạn nên hiểu là có một sự kiện rất kỳ lạ xảy đến như là hệ quả của vụ “bùng nổ”, hoặc bạn muốn gọi nó là gì cũng được: không có một sát na (kẻ hở) nào mà tư tưởng có thể trổi lên trong tâm thức này cho là tôi khác với bạn. Không bao giờ. Sau vụ bùng vỡ đó, tư tưởng không còn hiện lên trong ý thức tôi và bảo rằng bạn khác biệt với tôi, hoặc tôi khác nhau với bạn, bởi vì không có bất cứ “điểm” nào hiện hữu ở đây, không còn có “trung tâm” (tự ngã, cái Tôi) ở trong đây nữa. Chỉ có sự liên hệ đến “trung tâm” này, bạn mới tạo tác nên những điểm, những vấn đề khác.
Hỏi:
- Ở một vài khía cạnh nào đó, nhất định ngài hẳn phải khác với mọi người.
UG:
- Về mặt hoạt động trong thân thể, có lẽ thế.
Hỏi:
- Ngài nói rằng những sự biến đổi dữ dội đã xảy ra trong bản thân ngài. Làm thế nào ngài biết được điều này? Có ai đã khám sát, kiểm tra tình trạng này của ngài chưa, hoặc đây chỉ là sự suy luận mà thôi?
UG:
- Những tác động, ảnh hưởng từ hậu quả vụ “bùng nổ” đó, cái cách thức những giác quan đang hoạt động (độc lập) hiện giờ thì không còn cần đến bất cứ một trung tâm hay tác nhân nào để kết hợp nữa – đó là tất cả những gì tôi có thể cho bạn biết. Thêm một điều khác: cơ cấu hóa học đã biến đổi – tôi có thể quả quyết rằng trừ phi có sự hoán chuyển hay thay đổi toàn thể cấu trúc hóa học xảy ra, nếu không thì không có cách nào để các cơ quan thân thể giải thoát khỏi được sự điều khiển của tư tưởng, sự tương tục của tư tưởng. Cho nên, vì sự liên tục của tư tưởng không còn nữa, bạn có thể dễ dàng nhận thấy rằng một điều gì đó mới lạ xuất sinh, nhưng cái-gì thật sự đã xuất sinh đây? Tôi không có phương cách nào để thể nghiệm truyền đạt nó cả.
Hỏi:
- Rất có thể là cái tâm trí đang giở trò vẽ vời rằng “tôi chỉ cần nghĩ tôi là “một kẻ bùng-nổ”? (tưởng tượng lâu dần thì sự bùng nổ này sẽ xảy ra)
UG:
- Tôi không cố ý làm cái việc thương mại buôn bán, đổi chác bất cứ cái gì ở đây. Bạn không thể nào bắt chước sự bùng vỡ này được. Sự thể mà nó xảy ra thì nằm vượt ngoài lĩnh vực, phạm vi mà tôi trông chờ, mơ ước, và mong muốn thay đổi trước đây. Vì vậy, tôi không gọi nó là một sự “thay đổi”; tôi thực sự không biết cái gì đã xảy đến cho tôi. Điều mà tôi có thể nói với bạn là cái cách thức mà tôi đang “hoạt động” (hành động và đáp ứng). Dường như có đôi chút khác biệt về cách thức bạn hoạt động và cách thức tôi hoạt động, nhưng căn bản thì không có khác nhau chi cả. Làm thế nào lại có bất cứ sự khác nhau giữa bạn và tôi? Không thể nào. Nhưng mà từ cái cách thức, đường lối chúng ta cố gắng diễn đạt, bày tỏ một điều gì, dường như là có sự khác biệt. Tôi cảm nhận là có một ít khác biệt nào đó, và cái gì mà sự khác biệt đó hàm chứa thì tôi đang cố gắng hiểu biết. Vì thế, đây là cách thức tôi “hoạt động.” UG để ý rằng những thay đổi căn nguyên, nền tảng của chức năng các giác quan diễn ra tuần tự trong suốt một tuần lễ tiếp theo sau ngay vụ “bùng nổ”. Vào ngày cuối cùng, ngày thứ 7, thân thể ông đã trải qua “một tiến trình của cái Chết về thể xác – Nirvikalpa samadhi” (thiền tông có câu: Đại Tử Nhất Phiên – Một Phen Chết Lớn), và sau đó những sự thay đổi hay chuyển hóa này của cơ thể đã trở nên thường tồn vĩnh viễn.
Những biến đổi trong 7 ngày tiếp theo ngay sau sự “bùng nổ” UG kể: Những thay đổi bắt đầu. Kể từ ngày sau vụ bùng nổ trở đi, trong 7 ngày – mỗi ngày có một thay đổi diễn ra. Đầu tiên tôi phát hiện ra nét mềm mại của làn da trên toàn cơ thể; hiện tượng chớp (nháy) mắt dừng lại, chấm dứt hẳn; và sau đó là những thay đổi về vị giác, khứu giác, thính giác – tôi nhận biết được năm sự biến đổi này. Có thể, thậm chí chúng đã biến đổi trước đó rồi, và tôi chỉ vừa nhận ra lần đầu tiên...
NGÀY THỨ 1:
Tôi để ý thấy là làn da của tôi mềm như tơ lụa và phát ra ánh sáng kỳ dị, ánh sáng màu vàng kim. Trong khi tôi cạo râu, cứ mỗi lần tôi cố gắng cạo thì lưỡi dao cạo bị trơn trợt đi. Tôi thay đổi lưỡi dao cạo râu khác, nhưng nó cũng vô dụng. Khi tôi chạm vào mặt tôi, xúc giác tôi đã khác biệt so với trước đây, bạn thấy đó, cách thức tôi cầm giữ dao để cạo râu cũng vậy. Đặc biệt là làn da của tôi – nó mềm như nhung lụa và phát ra ánh sáng màu vàng kim. Tôi chẳng có liên kết sự thay đổi này với bất cứ điều gì khác chút nào cả; tôi chỉ quán sát nó thôi.
NGÀY THỨ 2:
Lần đầu tiên tôi nhận thức được tâm trí ở trong tình trạng mà tôi gọi là “buông xả” thả lỏng hoàn toàn. Tôi đang ở trong nhà bếp của tầng lầu trên, và Valentine đang làm món xúp cà tô-mát. Tôi nhìn món xúp và không biết nó là món gì. Cô ấy bảo đó là món xúp cà tô-mát. Tôi nếm thử món xúp và mới nhận biết được “À, mùi vị của món xúp cà tô-mát là như thế này đây.”
Kế đến tôi nuốt món xúp, và sau đó tôi lại quay trở về cái khung tâm trí kỳ oặc – dùng chữ “khung tâm trí” cũng không đúng, mà phải nói rằng nó một cái “khung không có tâm trí (vô niệm)” – nên tôi lại quên khuấy mất đi tên món xúp. Tôi lại hỏi Valentine “Đó là món gì vậy?” Cô ta lặp lại, “đó là món xúp cà tô-mát.” Tôi nếm lại món xúp, rồi tôi nuốt nó và sau đó lại quên mất đi tên món xúp. Tôi đã chơi đùa với tình trạng này một lát. Nó đúng là một việc khôi hài với tôi khi đó, cái “trạng thái buông xả”.
Bây giờ trạng thái này đã trở nên bình thường rồi. Tôi hiện giờ không còn tiêu phí thời gian cho việc mơ màng mộng tưởng, lo lắng, quan niệm hóa và những suy nghĩ khác mà hầu hết mọi người làm khi họ cô độc. Tâm trí tôi giờ đây chỉ đáp ứng khi nó được cần đến, thí dụ khi bạn đặt câu hỏi, hoặc khi tôi phải sửa chữa hay lắp gắn cái máy thâu băng, hoặc một điều gì tương tự như thế.
Thời gian còn lại thì tâm trí tôi ở trong tình trạng “buông xả”. Dĩ nhiên hiện giờ ký ức tôi hồi phục trở lại – đầu tiên tôi bị mất nó, nhưng bây giờ tôi đã có nó trở lại – nhưng trí nhớ hay ký ức tôi thì nằm trong “nền, chỗ” của riêng nó và chỉ hiển hiện hoạt động khi nó được cần đến, một cách tự động. Khi nó không được cần đến, thì không có tâm trí hiển hiện, không có tư tưởng (vô niệm), chỉ có cái Sống mà thôi...
NGÀY THỨ 3:
Một vài người bạn muốn hỏi ý muốn đến dùng buổi ăn tối với chúng tôi, và tôi nói “Được mà, tôi sẽ nấu một vài món.” Nhưng, vì một lý do nào đó, tôi đã không thể nêm nếm thức ăn một cách đúng mức, thích hợp được.
Tôi đã dần dần nhận thấy là vị giác và khứu giác đã được chuyển hóa rồi. Mỗi lần có mùi gì đó đi vào trong lỗ mũi tôi, nó gây kích thích khó chịu đến tận trung tâm khứu giác, trong cùng một tình trạng giống nhau – dù cho cái mùi đó là mùi hương thơm đắt tiền nhất hoặc là phân bò, sự gây kích thích đó cũng giống y nhau, không khác. Và khi đó, mỗi khi tôi nếm một món gì, tôi chỉ nếm được cái gia vị nào trội nhất mà thôi – và những thành phần gia vị khác của món đó thì từ từ kế tiếp đó tôi mới cảm nhận.
Kể từ lúc đó, mùi hương nước hoa không còn nghĩa lý gì với tôi, và thức ăn nêm nếm gia vị thơm ngon cũng không còn hấp dẫn tôi nữa. Tôi có thể nếm đúng được thành phần gia vị trội nhất, ớt hay bất cứ gia vị nào đó.
NGÀY THỨ 4:
Có cái gì đó đã chuyển biến nơi đôi mắt. Chúng tôi đang ngồi trong nhà hàng “Rialto”, và tôi bắt đầu nhận thức được tầm nhìn to lớn kỳ lạ của đôi mắt, phóng nhìn cảnh vật từ xa theo một lối thu hẹp giống như nhìn qua ống kính có bề mặt gương lõm vậy. Cảnh vật di chuyển đến về phía tôi, đi vào bên trong tôi, và sau đó hình ảnh sự vật đi ra khỏi bản thân tôi, dường như nó xuất phát ra từ bên trong tôi. Hiện trạng cách nhìn của mắt thay đổi quả thật là một vấn đề nan giải cho tôi khi đó – mắt của tôi dường như giống một cái máy thu hình khổng lồ, nó tự thay đổi tiêu điểm hay tụ điểm mà tôi không cần phải làm gì cả.
Bây giờ thì tôi quen với cách nhìn này của đôi mắt rồi và đó cũng là cách thức mà tôi nhìn xem mọi sự mọi vật. Khi bạn lái xe Mini Van đưa tôi đi dạo, tôi giống như là một thợ nhiếp ảnh, quay phim đang vác máy ảnh (đôi mắt) đi cùng chiếc xe. Những chiếc xe chạy từ hướng khác hay ngược chiều đi thẳng vào trong bản thân tôi, và khi những xe đó vượt qua xe chúng ta, thì chúng di chuyển ra từ trong bản thân tôi.
Mỗi khi mắt tôi nhìn cố định lên một cảnh vật gì, thì nó nhìn dính chặt vào sự vật đó với sự chú tâm trọn vẹn, giống như là chiếc máy ảnh vậy. Một sự kiện khác nữa về đôi mắt của tôi: khi chúng tôi rời nhà hàng trở về đến nhà, tôi nhìn vào trong gương để xem có điều gì kỳ lạ về đôi mắt tôi, và xem nó đã được biến đổi, “lắp đặt, ổn định” ra sao. Tôi nhìn vào trong gương một thời gian dài, và sau đó nhận thấy là mi mắt không còn chớp, nháy nữa. Tôi nhìn vào trong gương trong khoảng thời gian từ 30 phút đến 45 phút – đôi mắt vẫn bất động không chớp nháy gì cả. Bản năng chớp nháy của mi mắt đã biến mất, không còn tồn tại nữa, và bây giờ cũng vậy...
NGÀY THỨ 5:
Tôi nhận biết được sự thay đổi về thính giác. Khi tôi nghe tiếng chó sủa, âm thanh đó bắt nguồn phát ra từ bên trong tôi. Và cũng giống như vậy khi tôi nghe tiếng rống của con bò, tiếng kèn xe lửa – bất thình lình, tất cả những âm thanh đó xuất phát ra từ bên trong nội tâm mình, bắt nguồn từ nội giới chứ không phải ngoại giới – hiện giờ tình trạng vẫn như thế.
NGÀY THỨ 6:
Năm giác quan đã thay đổi trong 5 ngày, và ngày thứ 6 trong khi tôi đang nằm trên ghế xôfa – Valentine đang ở trong nhà bếp – và … bất chợt, thân thể tôi biến mất. Thể xác đã không còn hiện hữu. Tôi nhìn vào tay tôi (Chuyện vớ vẩn điên khùng phải không – bạn có thể muốn nhốt tôi vào nhà thương tâm thần lắm), tôi đã quan sát nó – “đây là tay tôi sao?” Tôi không có đặt câu hỏi vào lúc đó, nhưng toàn thể tình cảnh thì tương tự như thế -- đó là tất cả mọi sự việc tôi hiện đang diễn tả lại cho bạn nghe.
Vì vậy, tôi đã thử chạm vào cơ thể tôi – không có gì hết – tôi cảm giác không có bất cứ cái gì thuộc thân thể hiện hữu khi đó ngoại trừ sự va chạm, điểm tiếp xúc mà thôi. Kế đến, tôi gọi Valentine và hỏi:
“Cô có thấy thể xác tôi đang nằm trên ghế xôfa hay không? Không có tín hiệu nào trong nội tâm cho biết rằng đây là thân thể tôi cả.”
Cô ấy đến và chạm vào thân thể tôi:
“Đây là thân thể của anh.”
Tuy nhiên sự xác định của Valentine không khiến tôi thoải mái và thỏa mãn – “Cái gì mà khôi hài kỳ khôi như thế này đây? Thể xác tôi đang vắng mất.” Thân thể tôi đã ra đi rồi và không bao giờ trở lại. Chỉ có những điểm va chạm tiếp xúc mà tôi cảm giác được là còn tồn tại mà tôi – ngoài ra thì không có gì khác nữa – bởi vì sự nhìn, xem thì độc lập, không lệ thuộc vào xúc giác. Vì vậy, thậm chí muốn tạo ra bức ảnh thân thể tôi, tôi không thể nào làm được, vì nơi đâu mà không có xúc giác (điểm va chạm), thì trong ý thức tôi không có những điểm tiếp xúc đó.
NGÀY THỨ 7:
Tôi đang nằm cùng trên chiếc ghế xôfa như hôm qua, thư giãn và tận hưởng trạng thái “buông xả”. Valentine bước đến gần, tôi nhận ra được cô là Valentine; rồi cô đi ra khỏi phòng – vong bặt, trống rỗng, không có Valentine hiện hữu – “Đây là cái gì vậy? Thậm chí tôi không thể tưởng tượng ra được Valentine trông có vẻ như thế nào. Tôi lắng nghe được những âm thanh xuất phát ra từ bên trong nội tâm.” Nhưng, tôi không thể liên hợp nối kết được mọi sự việc lại. Tôi phát hiện là tất cả các giác quan hoạt động mà không cần sự phối hợp của bất cứ tác nhân nào bên trong nội giới cả: tác nhân liên kết, phối hợp đã vắng bặt.
Tôi cảm giác tình trạng gì đó đang xảy ra bên trong bản thân mình: sinh lực từ khắp các phần khác nhau của cơ thể đang bị thu rút hội tụ về một tâm điểm nào đó. Tôi tự nói với chính mình “Bây giờ nhà ngươi đang tiến gần đến sự kết liễu mạng sống rồi. Ngươi sẽ chết.” Thế nên tôi gọi Valentine và nói “Valentine, tôi sắp chết đến nơi rồi, cô sẽ phải làm gì đó với thể xác này. Chuyển thể xác này đến cho các bác sĩ, có thể họ sẽ có chỗ nào dùng đến nó. Tôi không tin ba cái chuyện hỏa táng hay chôn cất gì cả, hoặc gì gì tương tự vây. Để tốt cho cô, cô phải vứt bỏ cái thể xác này đi – qua vài ngày nó sẽ bốc mùi – vì vậy, sao lại không liệng bỏ nó đi chứ? ” Cô nói “Anh là người ngoại quốc. Chính phủ Thụy Sĩ sẽ không tiếp nhận thể xác của anh đâu. Bỏ qua chuyện này đi,” rồi cô bỏ đi.
Và tiếp theo đó, toàn bộ lực lượng kinh khiếp này trong cơ thể di chuyển về một điểm, có thể nói là như vậy. Tôi đang nằm trên xôfa. Chiếc gường của Valentine thì trống, vì vậy tôi đi qua nằm trên gường đó và nằm duỗi thẳng mình ra, sẵn sàng chờ cái chết đến. Valentine bỏ mặc tôi nằm đó và đi ra. Cô nói:
“Một hôm anh nói là cái này đã biến đổi, ngày kế đến cái kia thay đổi, ngày thứ ba thì cái nọ đã thay đổi. Toàn bộ sự thể là gì vậy chứ?”
Valentine thì chẳng thích thú đến những điều đó – cô không bao giờ quan tâm đến những vấn đề tâm linh hay tôn giáo – cô chưa bao giờ nghe biết được những điều đó.
Cô nói tiếp:
“Anh nói là anh sắp chết đến nơi rồi. Anh sẽ không chết. Anh không sao cả, anh vẫn khỏe mạnh và tráng kiện kia mà.”
Nói xong, cô bỏ đi.
Sau đó, tôi nới giãn cơ thể, duỗi mình nằm yên vị … Toàn bộ năng lực trong thân thể đang di chuyển quy về một tụ điểm nào đó – tụ điểm này nằm ở đâu thì tôi không biết được. Kế tiếp, điểm này tiến đến nơi chỗ – diễn tiến sự việc xảy ra cũng giống như là lỗ (cửa, nắp) ống kính máy ảnh đang tự đóng lại chính nó. (Đây là sự so sánh duy nhất mà tôi có thể dùng để diễn tả. Sự diễn tả này thì khác xa với sự kiện đã xảy ra vào thời gian đó, bởi vì vào lúc đó thì không có chủ thể để suy nghĩ những lời lẽ như vậy. Toàn bộ sự kiện này là một phần trong kinh nghiệm của tôi, nếu không tôi sẽ không có thể nào nói được về nó.) Trong khi cửa ống kính máy ảnh đang cố gắng tự đóng kín lại chính nó, thì có một tác nhân nào khác ở tại đó đang cố kềm giữ duy trì cánh cửa mở ra (điểm sáng). Một lúc sau, không còn ý chí nào để làm bất kỳ gì nữa hết, thậm chí cũng không còn ý muốn ngăn cản cái cửa đang tự đóng lại chính nó… Và bất thình lình, có thể cho là như thế, nó đóng sập lại. Tôi không biết được điều gì đã xảy ra sau đó.
Tiến trình này kéo dài 45 phút – tiến trình của cái Chết. Nó là sự chết về cơ thể, bạn thấy đó. Thậm chí hiện tại nó cũng hay xảy đến với tôi: bàn tay, bàn chân trở nên rất lạnh, thân thể trở nên cứng, nhịp tim đập chậm lại, hơi thở chậm xuống dần dần, và từ từ chỉ còn hớp được một hơi thở sau cùng. Vươn tới một điểm đích, bạn hít một hơi thở sau cùng của bạn, có thể nói như thế, và tiếp đến bạn chấm dứt cuộc sống mình. Điều gì xảy ra sau đó, không có ai biết được.
Khi tôi tỉnh lại, ai đó nói rằng có người gọi điện thoại cho tôi. Tôi rời khỏi gường và đi xuống thang lầu để trả lời điện thoại. Tôi vẫn còn ở trong tình cảnh mê mê màng màng. Tôi không biết điều gì đã xảy ra. Nó là cái Chết của cơ thể. Cái gì đã mang tôi trở về cuộc sống. Tôi không biết. Tiến trình cái Chết đã kéo dài bao lâu, tôi cũng không biết. Tôi không thể nói được gì về tiến trình sự chết trong lúc đó, bởi vì kẻ kinh nghiệm đã vong bặt, đã chết: không có kẻ nào hiện hữu để kinh nghiệm sự Chết cả… Vì vậy, đó là sự chấm dứt, tận cùng của cái Chết.
Và tôi đã phục sinh!.....
(còn tiếp)
.