giavui
12-22-2020, 12:59 AM
Covid-19 : Ngành xa xỉ phẩm cũng bị chao đảo
https://s.rfi.fr/media/display/0f7fe4c8-4393-11eb-b209-005056bfd1d9/w:980/p:16x9/000_1SI018.webp
Cửa hàng thời trang Burberry trên phố Regent, Luân Đôn, Anh Quốc, thời đại dịch Covid-19. Ảnh chụp ngày 29/05/2020. AFP - TOLGA AKME
Dịch Covid-19 lại thêm nạn nhân kinh tế. Sau hơn 70 năm hoạt động, cửa hàng nổi tiếng "La Maroquinerie Parisienne" chuyên bán đồ da và các phụ kiện thời trang cao cấp ở Paris quận 9, sẽ đóng cửa luôn vào cuối năm 2020. Trong khi đó, thương hiệu Burberry lâu đời của Anh cũng thông báo đóng 38 cửa hiệu trong số 300 địa điểm kinh doanh trên thế giới.
Trong làng thời trang hạng sang, các thương hiệu "xa xỉ phẩm" cũng đang bị tác hại nặng nề : doanh thu tuột dốc, nhân viên bị cắt giảm. Cuộc khủng hoảng do dịch Covid-19 gây ra, đã làm suy yếu nhiều doanh nghiệp chuyên sản xuất và phân phối các sản phẩm thời trang cao cấp, và càng làm nổi bật nhược điểm của các công ty đã không thực hiện được kịp thời tiến trình chuyển đổi sang công nghệ số cũng như phát triển các dịch vụ kinh doanh trên mạng.
Nhiều thương hiệu lâu đời bị phá sản
Đó là trường hợp của cửa hàng "La Maroquinerie Parisienne", được thành lập vào năm 1947. Tuy có khá nhiều uy tín và mặt bằng (hơn 900 m2) nằm ở một địa điểm kinh doanh thuận lợi, nhưng cửa hàng này do phụ thuộc nhiều vào lượng khách hàng nước ngoài đã không cầm cự nổi sau hai đợt phong tỏa. Hẳn chắc đây không phải là nạn nhân nổi tiếng đầu tiên của virus corona. Trong thời gian qua, tập đoàn Printemps đã thông báo đóng một phần tư các cửa hàng. Còn tập đoàn Mỹ Neiman Marcus thành lập vào năm 1907, cũng đành phải tuyên bố phá sản.
Theo ông Serge Carreira, giảng viên tại trường cao đẳng Sciences Po Paris, dịch Covid-19 đã làm lộ rõ những khuyết điểm của mô hình kinh doanh truyền thống. Các thương hiệu lớn phụ thuộc nhiều vào hệ thống các cửa hàng buôn bán, nhưng các mặt bằng kinh doanh đòi hỏi một chi phí cố định khá cao, cụ thể là giá thuê, tiền bảo hiểm cũng như các chi phí vận hành. Vấn đề ở đây, theo ông Serge Carreira, là các tên tuổi lớn trong ngành sản xuất và phân phối đã hứng chịu nhiều cuộc khủng hoảng dồn dập : phong trào áo vàng, đợt biểu tình đình công và kế đến nữa là dịch Covid-19 trong năm 2020 đã giáng đòn "chí tử" lên các doanh nghiệp hay công ty vốn đã bị suy yếu : nguồn khách du lịch nước ngoài bị cạn kiệt, trong khi các dịch vụ kinh doanh trên mạng chưa đủ phát triển để đáp ứng lượng khách hàng nội địa, trong thời kỳ có phong tỏa.
Làn sóng chấn động kinh tế nghiêm trọng đến mức ngay cả những tập đoàn thời trang hùng mạnh nhất cũng bị chao đảo, lung lay .Theo ông Arnaud Cadart, giám đốc điều hành công ty tư vấn đầu tư Flornoy & Associés, chưa bao giờ có một cú sốc dữ dội đến như vậy, hầu hết các tập đoàn hàng đầu của Pháp như LVMH, Kering hay Hermès đều chứng kiến mức doanh thu giảm mạnh trong quý hai, còn tình hình trong quý ba lạc quan hơn, doanh thu được duy trì nhờ vào sự năng động của thị trường châu Á, nơi đà lây lan của dịch bệnh có vẻ được kiểm soát tốt hơn.
Doanh thu các tập đoàn giảm gần một nửa
Tập đoàn Pháp LVMH, công ty hàng đầu thế giới chuyên về xa xỉ phẩm đã mất khoảng một phần ba doanh thu toàn cầu. Tập đoàn này tập hợp khoảng 70 thương hiệu (Louis Vuitton, Fendi, Dior, Givenchy, Guerlain, Moët Hennessy hay Sephora), nhưng đà phục hồi tương đối của thị trường châu Á vẫn chưa đủ để bù đắp thất thu khổng lồ của các thị trường châu Âu, Bắc Mỹ, Brazil hay Trung Đông. Nhiều cửa hàng và địa điểm kinh doanh trên thế giới buộc phải đóng cửa do lệnh phong tỏa, đã khiến cho tập đoàn này mất hàng tỷ euro doanh thu.
Các tập đoàn khác cũng bị sốc tương tự. Mức doanh thu của Kering (-43%) và Richemont (-47%) đều đã giảm mạnh trong 6 tháng đầu năm, trong khi doanh thu của tập đoàn Hermès cũng đã giảm gần một nửa (-45%). Các hiệu thời trang cao cấp của Ý cũng không khá gì hơn : doanh thu của Salvatore Ferragamo giảm 51%, còn hiệu Prada giảm hơn 40%. Tại Vương quốc Anh, các địa điểm mua sắm ở Luân Đôn có tiếng chuyên thu hút thành phần du khách giàu có, cũng mất rất nhiều doanh thu so với năm 2019. Thương hiệu Burberry có từ năm 1856 ngoài việc đóng 38 cửa hàng còn phải sa thải trước mắt từ 500 đến 1000 nhân viên. Các cửa hàng lớn tại Luân Đôn Selfridges hay Harrods, do hoạt động sút giảm, đành phải cắt giảm từ 450 đến 750 việc làm. Tại Hoa Kỳ, dịch Covid-19 đã buộc tập đoàn Neiman Marcus phải tuyên bố phá sản. Hơn 110 năm sau ngày ra đời, cửa hàng dây chuyền này phải tổ chức lại toàn bộ cơ cấu, tìm nguồn vốn tài trợ khác, nếu không muốn bị đóng cửa vĩnh viễn và sa thải hơn 14.000 nhân viên.
Theo cô Audrey Depraeter-Montacel, chuyên gia ngành xa xỉ phẩm tại công ty tư vấn Accenture, trong mùa dịch Covid-19, các công ty có thể cầm cự được lâu chính là những doanh nghiệp có nguồn vốn dự trữ và đã bắt đầu chuyển đổi sang công nghệ số. Trước đại dịch, các dịch vụ bán hàng trực tuyến chỉ chiếm một phần nhỏ trong doanh thu của các thương hiệu cao cấp. Rất nhiều doanh nghiệp đã chần chừ bởi vì công nghệ số đòi hỏi nhiều chi phí đầu tư nhưng các khoản lợi nhuận lại khá thấp, ít ra là trong thời gian đầu. Trong một thập niên qua, chỉ có các tập đoàn lớn mới làm được chuyện này, trong khi các công ty cỡ trung bình và nhỏ lại không có đủ tiền mặt để đầu tư vào khâu dịch vụ trực tuyến.
Thị trường châu Âu giảm mạnh đến 36%
Trước khi có đại dịch, dịch vụ kinh doanh trên mạng đối với các công ty thời trang chỉ tương đương với 12% doanh thu. Trong thời kỳ phong tỏa, mức doanh thu nhờ các dịch vụ trực tuyến đã nhân lên gấp ba, gấp bốn lần tức khoảng 35% đến 45%. Các doanh nghiệp đã chuyển đổi số kịp thời đã được trang bị tốt hơn để ứng phó với tình huống mới, nhờ vào doanh số bán hàng trực tuyến mà bù đắp thất thu.
Dịch Covid-19 chẳng những đã thay đổi cung cách kinh doanh, mà hẳn chắc sẽ cho thay đổi cục diện của ngành phân phối thời trang cao cấp. Tập đoàn Thụy Sĩ Richemont và mạng thời trang Farfetch chuẩn bị được sáp nhập, liên kết với nhau để có thêm khả năng vượt qua giông bão. Theo giảng viên Serge Carreira, diện mạo của ngành sản xuất và phân phối thời trang cao cấp đang được vẽ lại.
Theo khảo sát gần đây của công ty thăm dò thị trường Bain and Company, thị trường xa xỉ phẩm trên toàn cầu đã giảm một phần tư trong năm 2020, mức độ thiệt hại còn tùy theo từng châu lục.
Tại châu Âu, mức giảm lên tới mức cao nhất là 36%, thị trường Bắc Mỹ giảm 27%, Nhật Bản mất 24%, phần còn lại của châu Á (ngoài Trung Quốc) giảm 35%.
Tình hình vẫn còn nhiều rủi ro trong thời gain tới và giới chuyên gia trong ngành hy vọng châu Á sớm phục hồi để kích thích trở lại toàn chuỗi cung ứng, do các nước châu Á tương đương với 30% doanh thu toàn cầu của ngành xa xỉ phẩm. Tuy nhiên theo công ty Bain and Company, ngành này tìm lại mức doanh thu của năm 2019 sớm lắm là vào cuối năm 2022, đầu năm 2023. Từ đây cho tới đó, các ngành sản xuất bị tác động dài lâu nhất vẫn là đồ da, trang sức, đồng hồ, phụ kiện thời trang, mỹ phẩm và nước hoa.
RFI
https://s.rfi.fr/media/display/0f7fe4c8-4393-11eb-b209-005056bfd1d9/w:980/p:16x9/000_1SI018.webp
Cửa hàng thời trang Burberry trên phố Regent, Luân Đôn, Anh Quốc, thời đại dịch Covid-19. Ảnh chụp ngày 29/05/2020. AFP - TOLGA AKME
Dịch Covid-19 lại thêm nạn nhân kinh tế. Sau hơn 70 năm hoạt động, cửa hàng nổi tiếng "La Maroquinerie Parisienne" chuyên bán đồ da và các phụ kiện thời trang cao cấp ở Paris quận 9, sẽ đóng cửa luôn vào cuối năm 2020. Trong khi đó, thương hiệu Burberry lâu đời của Anh cũng thông báo đóng 38 cửa hiệu trong số 300 địa điểm kinh doanh trên thế giới.
Trong làng thời trang hạng sang, các thương hiệu "xa xỉ phẩm" cũng đang bị tác hại nặng nề : doanh thu tuột dốc, nhân viên bị cắt giảm. Cuộc khủng hoảng do dịch Covid-19 gây ra, đã làm suy yếu nhiều doanh nghiệp chuyên sản xuất và phân phối các sản phẩm thời trang cao cấp, và càng làm nổi bật nhược điểm của các công ty đã không thực hiện được kịp thời tiến trình chuyển đổi sang công nghệ số cũng như phát triển các dịch vụ kinh doanh trên mạng.
Nhiều thương hiệu lâu đời bị phá sản
Đó là trường hợp của cửa hàng "La Maroquinerie Parisienne", được thành lập vào năm 1947. Tuy có khá nhiều uy tín và mặt bằng (hơn 900 m2) nằm ở một địa điểm kinh doanh thuận lợi, nhưng cửa hàng này do phụ thuộc nhiều vào lượng khách hàng nước ngoài đã không cầm cự nổi sau hai đợt phong tỏa. Hẳn chắc đây không phải là nạn nhân nổi tiếng đầu tiên của virus corona. Trong thời gian qua, tập đoàn Printemps đã thông báo đóng một phần tư các cửa hàng. Còn tập đoàn Mỹ Neiman Marcus thành lập vào năm 1907, cũng đành phải tuyên bố phá sản.
Theo ông Serge Carreira, giảng viên tại trường cao đẳng Sciences Po Paris, dịch Covid-19 đã làm lộ rõ những khuyết điểm của mô hình kinh doanh truyền thống. Các thương hiệu lớn phụ thuộc nhiều vào hệ thống các cửa hàng buôn bán, nhưng các mặt bằng kinh doanh đòi hỏi một chi phí cố định khá cao, cụ thể là giá thuê, tiền bảo hiểm cũng như các chi phí vận hành. Vấn đề ở đây, theo ông Serge Carreira, là các tên tuổi lớn trong ngành sản xuất và phân phối đã hứng chịu nhiều cuộc khủng hoảng dồn dập : phong trào áo vàng, đợt biểu tình đình công và kế đến nữa là dịch Covid-19 trong năm 2020 đã giáng đòn "chí tử" lên các doanh nghiệp hay công ty vốn đã bị suy yếu : nguồn khách du lịch nước ngoài bị cạn kiệt, trong khi các dịch vụ kinh doanh trên mạng chưa đủ phát triển để đáp ứng lượng khách hàng nội địa, trong thời kỳ có phong tỏa.
Làn sóng chấn động kinh tế nghiêm trọng đến mức ngay cả những tập đoàn thời trang hùng mạnh nhất cũng bị chao đảo, lung lay .Theo ông Arnaud Cadart, giám đốc điều hành công ty tư vấn đầu tư Flornoy & Associés, chưa bao giờ có một cú sốc dữ dội đến như vậy, hầu hết các tập đoàn hàng đầu của Pháp như LVMH, Kering hay Hermès đều chứng kiến mức doanh thu giảm mạnh trong quý hai, còn tình hình trong quý ba lạc quan hơn, doanh thu được duy trì nhờ vào sự năng động của thị trường châu Á, nơi đà lây lan của dịch bệnh có vẻ được kiểm soát tốt hơn.
Doanh thu các tập đoàn giảm gần một nửa
Tập đoàn Pháp LVMH, công ty hàng đầu thế giới chuyên về xa xỉ phẩm đã mất khoảng một phần ba doanh thu toàn cầu. Tập đoàn này tập hợp khoảng 70 thương hiệu (Louis Vuitton, Fendi, Dior, Givenchy, Guerlain, Moët Hennessy hay Sephora), nhưng đà phục hồi tương đối của thị trường châu Á vẫn chưa đủ để bù đắp thất thu khổng lồ của các thị trường châu Âu, Bắc Mỹ, Brazil hay Trung Đông. Nhiều cửa hàng và địa điểm kinh doanh trên thế giới buộc phải đóng cửa do lệnh phong tỏa, đã khiến cho tập đoàn này mất hàng tỷ euro doanh thu.
Các tập đoàn khác cũng bị sốc tương tự. Mức doanh thu của Kering (-43%) và Richemont (-47%) đều đã giảm mạnh trong 6 tháng đầu năm, trong khi doanh thu của tập đoàn Hermès cũng đã giảm gần một nửa (-45%). Các hiệu thời trang cao cấp của Ý cũng không khá gì hơn : doanh thu của Salvatore Ferragamo giảm 51%, còn hiệu Prada giảm hơn 40%. Tại Vương quốc Anh, các địa điểm mua sắm ở Luân Đôn có tiếng chuyên thu hút thành phần du khách giàu có, cũng mất rất nhiều doanh thu so với năm 2019. Thương hiệu Burberry có từ năm 1856 ngoài việc đóng 38 cửa hàng còn phải sa thải trước mắt từ 500 đến 1000 nhân viên. Các cửa hàng lớn tại Luân Đôn Selfridges hay Harrods, do hoạt động sút giảm, đành phải cắt giảm từ 450 đến 750 việc làm. Tại Hoa Kỳ, dịch Covid-19 đã buộc tập đoàn Neiman Marcus phải tuyên bố phá sản. Hơn 110 năm sau ngày ra đời, cửa hàng dây chuyền này phải tổ chức lại toàn bộ cơ cấu, tìm nguồn vốn tài trợ khác, nếu không muốn bị đóng cửa vĩnh viễn và sa thải hơn 14.000 nhân viên.
Theo cô Audrey Depraeter-Montacel, chuyên gia ngành xa xỉ phẩm tại công ty tư vấn Accenture, trong mùa dịch Covid-19, các công ty có thể cầm cự được lâu chính là những doanh nghiệp có nguồn vốn dự trữ và đã bắt đầu chuyển đổi sang công nghệ số. Trước đại dịch, các dịch vụ bán hàng trực tuyến chỉ chiếm một phần nhỏ trong doanh thu của các thương hiệu cao cấp. Rất nhiều doanh nghiệp đã chần chừ bởi vì công nghệ số đòi hỏi nhiều chi phí đầu tư nhưng các khoản lợi nhuận lại khá thấp, ít ra là trong thời gian đầu. Trong một thập niên qua, chỉ có các tập đoàn lớn mới làm được chuyện này, trong khi các công ty cỡ trung bình và nhỏ lại không có đủ tiền mặt để đầu tư vào khâu dịch vụ trực tuyến.
Thị trường châu Âu giảm mạnh đến 36%
Trước khi có đại dịch, dịch vụ kinh doanh trên mạng đối với các công ty thời trang chỉ tương đương với 12% doanh thu. Trong thời kỳ phong tỏa, mức doanh thu nhờ các dịch vụ trực tuyến đã nhân lên gấp ba, gấp bốn lần tức khoảng 35% đến 45%. Các doanh nghiệp đã chuyển đổi số kịp thời đã được trang bị tốt hơn để ứng phó với tình huống mới, nhờ vào doanh số bán hàng trực tuyến mà bù đắp thất thu.
Dịch Covid-19 chẳng những đã thay đổi cung cách kinh doanh, mà hẳn chắc sẽ cho thay đổi cục diện của ngành phân phối thời trang cao cấp. Tập đoàn Thụy Sĩ Richemont và mạng thời trang Farfetch chuẩn bị được sáp nhập, liên kết với nhau để có thêm khả năng vượt qua giông bão. Theo giảng viên Serge Carreira, diện mạo của ngành sản xuất và phân phối thời trang cao cấp đang được vẽ lại.
Theo khảo sát gần đây của công ty thăm dò thị trường Bain and Company, thị trường xa xỉ phẩm trên toàn cầu đã giảm một phần tư trong năm 2020, mức độ thiệt hại còn tùy theo từng châu lục.
Tại châu Âu, mức giảm lên tới mức cao nhất là 36%, thị trường Bắc Mỹ giảm 27%, Nhật Bản mất 24%, phần còn lại của châu Á (ngoài Trung Quốc) giảm 35%.
Tình hình vẫn còn nhiều rủi ro trong thời gain tới và giới chuyên gia trong ngành hy vọng châu Á sớm phục hồi để kích thích trở lại toàn chuỗi cung ứng, do các nước châu Á tương đương với 30% doanh thu toàn cầu của ngành xa xỉ phẩm. Tuy nhiên theo công ty Bain and Company, ngành này tìm lại mức doanh thu của năm 2019 sớm lắm là vào cuối năm 2022, đầu năm 2023. Từ đây cho tới đó, các ngành sản xuất bị tác động dài lâu nhất vẫn là đồ da, trang sức, đồng hồ, phụ kiện thời trang, mỹ phẩm và nước hoa.
RFI