duyanh
04-28-2025, 01:19 PM
Giới công nhân và người lao động Việt Nam qua 50 năm dưới sự cai trị của đảng cộng sản
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz7.jpg (http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz7.jpg)
Dân oan biểu tình đòi công lý.
Những ngày này, trên phạm vi cả nước, đảng cộng sản việt nam đang tổ chức rầm rộ kỷ niệm 50 năm ngày “giải phóng” Miền Nam, thống nhất đất nước
Thực chất, đây là cuộc nội chiến tương tàn giữa hai anh em Bắc- Nam cùng một Nước vì ý thức hệ cộng sản và dân chủ.
Lẽ ra, sau khi đã “thống nhất”, “bên thắng cuộc” phải chủ động trong việc “hòa giải, hòa hợp” dân tộc để tái thiết và phát triẻn Đất Nước. Nhưng, 50 năm qua, hận thù vẫn luôn được nhà cầm quyền cộng sản nuôi dưỡng và khích lệ dưới mọi hình thức.
Trong cuộc nội chiến tương tàn 50 năm trước, giới công nhân và người lao động tại miền Bắc là lực lương tiên phong mà đảng cộng sản tận dụng để chiến đấu chống lại Việt Nam Cộng Hòa và giữ vững “hậu phương” miền Bắc.
Thế nhưng, sau 50 năm “thống nhất, giới công nhân và người lao động Việt Nam vẫn tiêp tục là đối tượng bị bóc lột và đối xử tàn tệ.
Cũng những ngày này, hàng chục ngàn thanh niên trai tráng ớ nhiều tỉnh trong cả nước, thay vì “ hồ hởi, hân hoan đón mừng” ngày “giải phóng” lại chen chúc nhau tại các trung tâm tuyển dụng đi lao động xuất khẩu đến Hàn quốc, Nhật bản; hàng ngàn thanh niên vẫn tìm mọi cách sang các nước Âu châu để đổi đời.
Xin được điểm lại những nét chính về những gì giới công nhân và người lao động được “thừa hưởng “ trong 50 năm qua.
Giới công nhân và người lao động Việt Nam
qua 50 năm dưới sự cai trị của đảng cộng sản và sự phản kháng của người dân đối với chính sách của nhà cầm quyền
Việt Nam là một nhà nước độc tài cộng sản. Đảng cộng sản Việt Nam, nắm giữ quyền lực trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội tại Miền Bắc Việt Nam từ năm 1945 và trên cả nước Việt Nam từ năm 1975 đến nay, sau khi dung vũ lực cưỡng chiếm Việt nam Cộng Hòa.[
Tất cả các tổ chức xã hội đều do đảng cộng sản lập ra và lãnh đạo, nằm trong “ Mặt Trận tổ quốc Việt nam” do một Ủy Viên Bộ chính trị đảng cộng sản đứng đầu.
50 năm qua, giới công nhân và người lao động Việt nam chỉ là phương tiễn, là nguồn lực để đảng cộng sản cướp chính quyền và duy trì quyền lực.
Giới công nhân và người lao động cũng là đối tượng để đảng cộng sản bóc lột và trấn áp. Giới công nhân và người lao động không có bất cứ quyền gì, cuộc sống và sinh hoạt đều nằm trong sự kiềm tỏa gắt gao của nhà cầm quyền cộng sản.
Cuộc sống của giới công nhân và người lao động Việt nam trong 50 năm qua có thể chia thành hai gia đoạn:
Giai đoạn 1:
từ năm 1975 đến năm 1990, khi còn tồn tại khối cộng sản Đông Âu và Liên Xô.
Giai đoạn 2: từ năm 1990, khi khối cộng sản Đông Âu và Liên Xô sụp đổ đến nay.
Giai đoạn 1.
Sau khi cưỡng chiếm Việt nam Cộng Hòa, nhà cầm quyền cộng sản Bắc Việt đã dùng chính sách sai lầm và tàn bạo đối với người dân Miền nam, đã biến họ thành công dân hạng 3 trong xã hội.
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz1-1.jpg (http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz1-1.jpg)
Hình ảnh đưa dân đi “Vùng kinh tế mới.
Chính quyền cộng sản Việt Nam đã áp đặt thể chế cộng sản nguyên thủy với thể chế độc đảng, toàn trị, và nền kinh tế trung ương hoạch định trên toàn đất nước. Về tổ chức, để xây dựng thể chế, nhà cầm quyền tịch thu nhà cửa, đất đai, đánh tư sản, cưỡng bức người dân dân đi kinh tế mới, quốc hữu hóa, v.v…. Kết quả là đã đưa nền kinh tế Miền Nam từ chỗ phát triển vượt trội so với các nước trong khối đông nam Á trở nên nghèo đói như Miền Bắc (Tham khảo thêm:1, 2).
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz2-1.jpg (http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz2-1.jpg)
Đỗ Mười, người chỉ đạo thực hiện “chiến dịch” đánh tư sản Miền Nam
Về quản lý kinh tế, nhà cầm quyền áp dụng phương thức quản lý và phát triển kinh tế Miền Nam giống như Miền Bắc: vào hợp tác xã, chế độ tem phiểu, quản lý chặt chẽ mọi mặt hàng thiết yếu.
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz3.jpg (http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz3.jpg)
Cảnh mua hàng tại Hà Nội những năm 1980.
Từ một vựa lúa ở Đông Nam Á, phần lớn người dân 2 miền được phân phối sắn, khoai và hạt bo bo như là thực phẩm chính, là thứ các nước cộng sản Đông Âu và Liên xô dùng để nuôi súc vật. Chế độ tem phiếu được áp dụng (Tham khảo thêm: 7, 8,9)
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz4.jpg (http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz4.jpg)
Phiếu thực phẩm.
Công nhân, viên chức nhà nước mỗi năm được phát 4 mét phiếu vải, phiếu 13 cân lương thực, phiếu 500 gam thịt để mua, còn người nông dân phải tự túc không có bất kỳ quyền lợi nào.
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz5.jpg (http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz5.jpg)
Phiếu mua vải.
Thời gian này, nhà nước Việt nam tồn tại chủ yếu nhờ vào sự viện trợ tất cả các mặt của khối cộng sản Đông Âu, Liên xô và Trung quốc. Nền công nghiệp Miền nam bị tàn phá, nền công nghiệp Miền Bắc cũng rất lạc hậu.
Công nhân là một lực lượng nhỏ bé, chủ yếu gia công và sửa chữa trong các xí nghiệp do nhà nước quản lý, sản xuất theo các chỉ tiêu đã được vạch sẵn không cần chú ý đến chất lượng và hiệu quả kinh tế, mức lương gần như cố định trong nhiều năm (Tham khảo: 7, 8,9)
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz6-1024x621.jpg (http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz6-1024x621.jpg)
Hình ảnh công nhân Miền Bắc VN những năm 1980.
Số lượng công nhân và nhân viên nhà nước xấp xỉ 3 triệu người làm việc ở các mỏ than, nhà máy dệt, các cảng biển, nhà máy sửa chữa xe lửa. Chính sách kế hoạch hóa quan liêu bao cấp theo chủ thuyết cộng sản đã làm cho nền kinh tế và xã hội kiệt quệ. Năng suất lao động không có, toàn xã hội sống trong cảnh nghèo đói, thiếu thốn từ cái kim, sợi chỉ.
Nhưng, giới cầm quyền và gia đình họ có chế độ đặc biệt. Có những nông trường như nông trường Ba Vì chuyên chăn nuôi gia súc cung cấp thịt hay có những cánh đồng ở Thái Bình chuyên trồng lúa đặc sản cung cấp cho giới cầm quyền. Ngoài giới cao cấp được hưởng thụ theo nhu cầu, tem phiếu cũng được phân loại ABCDE cho các loại cán bộ từ trên xuống. Phiếu E là loại thấp nhất dành cho tầng lớp công nhân và nhân viên nhà nước.
Vì nền kinh tế lạc hậu, các cơ sở công nghiệp tồi tàn làm ăn không bao giờ có lãi, nhà nước luôn phải xin tiền viện trợ từ các nước cộng sản để bù vào ngân sách. Hàng năm, phó thủ tướng Lê Thanh Nghị luôn dẫ đầu đoàn đại biểu đảng và chính phủ đi xin viện trợ từ các nước Xã Hội Chủ nghĩa “anh em”.
Với chính sách duy ý chí và “thói kiêu ngạo cộng sản”, nhà cầm quyền cho rằng họ đã đánh thắng Mỹ thì có thể làm được mọi thứ nên những ai góp ý, đưa ra sáng kiến để cải thiện, phát triển kinh tế đều bị cho là theo tư bản, là chống đảng, bị quy kết là phản động, bị bỏ tù.
Ba lần đổi tiền là những hình thức cướp đoạt tài sản người dân. Chính sách Giá-Lương- Tiền do Phó thủ tướng- Nhà thơ Tố Hữu chỉ đạo đã đẩy cuộc sống của người dân cả nước xuống vực thẳm.[
Tuy bị hệ thống đảng trị, công an trị theo dõi và kiểm soat gắt gao, nhưng do cuộc sống quá khốn khổ, trong xã hội xuất hiện nhiều “tiếu lâm” chính trị và các bài vè phê phán và nhạo báng chế độ (…)
Vì lực lượng lao động dư thừa quá lớn, nên sản suất từ công nghiệp đến nông nghiệp đều thua lỗ. Từ năm 1980 nhà cầm quyền Việt nam bắt đầu xuất khẩu lao động đến các nước cộng sản Đông Âu và Liên Xô để lấy tiền duy trì chế độ; chủ yếu là các nước Đông Đức, Tiệp khắc, Bungary và Liên Xô. Ngoài ra, nhà cầm quyền còn xuất khẩu lao động đến các nước hồi giáo như Irak, Iran, Afganistan. Bình quân mỗi năm xuất khẩu 25.000 lao động.
Đối tượng xuất khẩu cũng chỉ là con em của các cán bộ, đảng viên cộng sản, những người có công với chế độ. Tuy đồng lương ở các nước cộng sản lúc đó rất thấp so với các nước phương tây, nhưng so với mức lương ở Việt Nam thì giá trị nhiều hơn cả chục lần. Được đi xuất khẩu lao động là mơ ước của những thanh niên trẻ thời đó. Giới trí thức có trình độ trong nước cũng thất nghiệp nên nhà cầm quyền đã xuất khẩu họ qua các nước châu Phi như Angola, Angiery,…làm việc trong các bệnh viện, trường học để thu ngoại tệ. Từ năm 1980 đến năm 1990, nhà cầm quyền cộng sản xuất khẩu khoảng 300.000 lao động (Tham khảo thêm: 10,11,12).
Thời gian này, tại Việt Nam cũng cho tồn tại cại gọi là “Tổng Công đoàn Việt Nam” nằm trong hệ thống các tổ chức chính trị do đảng cộng sản lãnh đạo. Chủ tịch “Tổng Công đoàn Việt Nam” qua các thời kỳ là Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Văn Linh, Phạm Thế Duyệt đều là các Ủy viên Bộ Chính trị đảng Cộng sản. Các nhà máy, công xướng ở Miền Bắc đều do nhà nước quản lý, không có cơ sở sản xuất tư nhân. Ở Miền nam, sau 1975, nhà cầm quyền đã “quốc hữu hóa” các cơ sở công nghiệp hoặc “công tư hợp doanh” nhưng từng bước, tước đoạt tư doanh để độc quyền quản lý.
Hoạt động của “công đoàn” chỉ là phổ biến các chủ trương của đảng cộng sản và giám sát việc thực hiện, phân phát tem phiếu, tổ chức bình bầu các “danh hiệu thi đua” theo chỉ thị của đảng cộng sản.
Công nhân và nhân viên nhà nước phải đóng “công đoàn phi” hàng tháng bằng cách trừ vào lương.
Giai đoạn từ năm 1990 đến nay
Khối cộng sản Đông Âu và Liên xô sụp đổ, nhà nước cộng sản Việt Nam không còn nguồn viện trợ nào, tình hình kinh tế và xã hội ở mức tồi tệ nhất.
Để cứu nguy chế độ, chính quyền cộng sản bắt buộc phải chuyển hướng phát triển kinh tế bao cấp sang “kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa” để tạo điều kiện thuận lợi cho tư bản nước ngoài đầu tư ồ ạt vào VN.
Cũng từ đây, giai cấp công nhân Việt nam phát triển không ngừng. Từ một nước nông nghiệp với một nền công nghiệp không đáng kể, Việt nam trở thành một công xưởng rộng lớn, chủ yếu chỉ là gia công các hàng công nghiệp nhẹ cho tư bản nước ngoài như hàng may mặc, giày da và các mặt hàng điện tử, đội ngũ công nhân ngày càng tăng, thời gian đầu phần lớn tập trung tại các thành phố lớn như Hà Nội, Sài gòn, Bình Dương, Đà Nẵng, Hải phòng. Về sau, phát triển rộng rãi ở các tỉnh khác ở khu vực miền Bắc và miền Trung.
Trải qua một thời gian dài từ năm 1975, do chính sách quản lý sai lầm, phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài, nền kinh tế kiệt quệ. Khi kêu gọi các công ty tư bản nước ngoài vào đầu tư, không còn gì để “góp vốn”. Tháng 7 năm 1993, nhà cầm quyền ra luật đất đai số 24- L/CTN quy định “đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước quản lý”, người dân chỉ có quyền sử dụng (Tham khảo thêm: 13,14).
Từ đây, nhà cầm quyền bắt đầu tiến hành hàng loạt vụ cướp đất hợp pháp của người dân từ Bắc chí Nam như một hình thức “góp vốn” hạ tầng với giới chủ tư bản, gây ra hàng ngàn vụ oan sai đẩy người dân vào cảnh bần cùng, điển hình là các vụ cướp đất ở Dương Nội, Thủ Thiêm, Đồng Tâm… Hàng ngàn cuộc biểu tình, khiếu kiện, nhà cầm quyền đã cho công an thẳng tay đàn áp, bắn giết.
Những người dân ở nông thôn đời sống rất khó khăn, người đông ruộng ít, lại ngày càng bị thu hẹp do nhà nước cướp đất làm khu công nghiệp, làm khu vui chơi giải trí, buộc họ phải ra thành phố gia nhập đội ngũ công nhân.
Đa số công nhân có tay nghề thấp, vì xuất thân từ nông dân, được đào tạo trong thời gian ngắn chỉ đáp ứng trình độ gia công hay lắp ráp các linh kiện được sản xuất tại nước ngoài.
Việt Nam trở thành khu vực gia công lý tưởng cho các chủ tư bản nước ngoài vì giá lao động hết sức rẻ mạt cho lao động giản đơn.
Là một nhà nước độc tài, giữ quyền cai trị bằng mọi giá, quyền lực tập trung trong tay rất ít người, người lao động VN, môi trường và tài nguyên thiên nhiên VN chỉ là phương tiện, là công cụ để những kẻ cầm quyền, là đảng viên, làm giàu. Người công nhân VN tuy là lực lượng chính sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội nhưng lại là những người bị bóc lột nặng nề nhất. Họ phải làm việc cật lực từ 10 đến 15 tiếng một ngày trong môi trường bị ô nhiễm, nhưng chỉ được trả lương bình quân từ 60 Mỹ kim/tháng (Những năm 1990), phải sống trong những khu nhà trọ ổ chuột, bẩn thỉu. Ngoài ra, chủ còn tìm mọi cách để cúp lương, không đóng bảo hiểm xã hội cho công nhân, phạt công nhân, thậm chí còn đánh đập, chửi rủa, làm nhục.
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz8.jpg (http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz8.jpg)
Nhà trọ của công nhân.
Tổng Công đoàn Viêt Nam được đổi tên thành Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam (TLĐLĐVN) cũng chỉ là công cụ của đảng cộng sản, mục đích không thay đổi là kiềm tỏa và giám sát công nhân và người lao động. Chủ tịch Tổng liên đoàn là ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản, lãnh đạo công đoàn các cấp cũng đều là đảng viên.
Phần lớn cán bộ công đoàn cơ sở thuộc lĩnh vực tư nhân do giới chủ trả lương, nên khi có tranh chấp quyền lợi thì thường đứng về phía chủ nhân, bảo vệ quyền lợi của giới chủ. Nhà cầm quyền VN đã tạo điều kiện cho giới chủ bóc lột công nhân, chia chác lợi nhuận với giới chủ.
Những năm đầu, người công nhân chưa ý thức được quyền lợi của mình nên cam chịu,nhẫn nhục, không dám đấu tranh, giới chủ càng lợi dụng càng bóc lột nặng nề. Mâu thuẩn xẩy ra giữa công nhân với giới chủ không được giải quyết, giới chủ lại cậy thế có chỗ dựa là chính quyền nên công nhân bị đẩy vào bước đường cùng, không còn lựa chon nào khác là phải tổ chức đình công.
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz9-1024x572.jpg (http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz9-1024x572.jpg)
Công nhân công ty PouYuen đình công đòi quyền lợi.
Do đó, không có cuộc đình công nào trong gần 7.000 cuộc đình công, từ khi bộ luật lao động của VN có hiệu lực cho đến cuối tháng 12 năm 2020 trên toàn lãnh thổ được xem là hợp pháp theo rừng luật lao động VN.[
Khi các cuộc đình công đã lan rộng trong cả nước, những người quan tâm đến tình trạng
bóc lột tồi tệ của giớí chủ bắt đầu vận động để thành lập “Công đoàn độc lập”. Ngày 20 tháng 10 năm 2006, tại Việt Nam tuyên bố thành lập “Công Đoàn Độc Lập Việt Nam” (CĐĐLVN) để bênh vực và bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân. CĐĐLVN đã làm các thủ tục đăng ký pháp lý với nhà nước Việt Nam.
Sự ra đời của CĐĐLVN đã được công nhân hoan nghênh và hưởng ứng mạnh mẽ.
Đúng một tuần sau, từ ngày 27 đến ngày 30 tháng 10 năm 2006, một cuộc hội nghi quốc tế gồm trên 70 đại biểu từ nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Canada, Úc châu, Pháp, Anh, Đức, Bỉ, Tiệp, Hà lan, Nga tại Warszawa, thủ đô nước Cộng Hòa Balan. Hội nghị mang tên “ Cơm Áo và Quyền lao động” được sự giúp đỡ của “Công Đoàn Đoàn Kết”, Ba lan, “Hiệp Hội Tự Do Ngôn Luận Ba lan”. Hội Nghị nhằm mục đích ủng hộ về mọi mặt cho “ Công đoàn Độc lập Việt Nam”.
Các đại biểu hội nghị được các bộ trưởng, chánh văn phòng Tổng Thống Balan, văn phòng Thủ tướng chào đón. Các đại biểu cũng đến chào Chủ tịch Công đoàn đoàn kết, thăm viện bảo tàng “ Công đoàn đoàn kết tại Gdansk”.
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz10-1024x683.jpg (http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz10-1024x683.jpg)
Các đại biểu tham dự Hội nghị Warszawa 10.2006 Thăm trụ sở Công Đoàn Đoàn kết tại Gdansk.
Cùng tham dự hội nghị với đại biểu Việt Nam gồm Phó chủ tịch Công Đoàn Đoàn Kết Balan Tomasz Wojcik, Chủ tịch Hiệp Hội tự do ngôn luận Balan Miroslaw Chojecki. Và một số thành viên Công Đoàn Đoàn kết Ba lan (Tham khảo thêm: 15, 16).
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz7.jpg (http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz7.jpg)
Dân oan biểu tình đòi công lý.
Những ngày này, trên phạm vi cả nước, đảng cộng sản việt nam đang tổ chức rầm rộ kỷ niệm 50 năm ngày “giải phóng” Miền Nam, thống nhất đất nước
Thực chất, đây là cuộc nội chiến tương tàn giữa hai anh em Bắc- Nam cùng một Nước vì ý thức hệ cộng sản và dân chủ.
Lẽ ra, sau khi đã “thống nhất”, “bên thắng cuộc” phải chủ động trong việc “hòa giải, hòa hợp” dân tộc để tái thiết và phát triẻn Đất Nước. Nhưng, 50 năm qua, hận thù vẫn luôn được nhà cầm quyền cộng sản nuôi dưỡng và khích lệ dưới mọi hình thức.
Trong cuộc nội chiến tương tàn 50 năm trước, giới công nhân và người lao động tại miền Bắc là lực lương tiên phong mà đảng cộng sản tận dụng để chiến đấu chống lại Việt Nam Cộng Hòa và giữ vững “hậu phương” miền Bắc.
Thế nhưng, sau 50 năm “thống nhất, giới công nhân và người lao động Việt Nam vẫn tiêp tục là đối tượng bị bóc lột và đối xử tàn tệ.
Cũng những ngày này, hàng chục ngàn thanh niên trai tráng ớ nhiều tỉnh trong cả nước, thay vì “ hồ hởi, hân hoan đón mừng” ngày “giải phóng” lại chen chúc nhau tại các trung tâm tuyển dụng đi lao động xuất khẩu đến Hàn quốc, Nhật bản; hàng ngàn thanh niên vẫn tìm mọi cách sang các nước Âu châu để đổi đời.
Xin được điểm lại những nét chính về những gì giới công nhân và người lao động được “thừa hưởng “ trong 50 năm qua.
Giới công nhân và người lao động Việt Nam
qua 50 năm dưới sự cai trị của đảng cộng sản và sự phản kháng của người dân đối với chính sách của nhà cầm quyền
Việt Nam là một nhà nước độc tài cộng sản. Đảng cộng sản Việt Nam, nắm giữ quyền lực trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội tại Miền Bắc Việt Nam từ năm 1945 và trên cả nước Việt Nam từ năm 1975 đến nay, sau khi dung vũ lực cưỡng chiếm Việt nam Cộng Hòa.[
Tất cả các tổ chức xã hội đều do đảng cộng sản lập ra và lãnh đạo, nằm trong “ Mặt Trận tổ quốc Việt nam” do một Ủy Viên Bộ chính trị đảng cộng sản đứng đầu.
50 năm qua, giới công nhân và người lao động Việt nam chỉ là phương tiễn, là nguồn lực để đảng cộng sản cướp chính quyền và duy trì quyền lực.
Giới công nhân và người lao động cũng là đối tượng để đảng cộng sản bóc lột và trấn áp. Giới công nhân và người lao động không có bất cứ quyền gì, cuộc sống và sinh hoạt đều nằm trong sự kiềm tỏa gắt gao của nhà cầm quyền cộng sản.
Cuộc sống của giới công nhân và người lao động Việt nam trong 50 năm qua có thể chia thành hai gia đoạn:
Giai đoạn 1:
từ năm 1975 đến năm 1990, khi còn tồn tại khối cộng sản Đông Âu và Liên Xô.
Giai đoạn 2: từ năm 1990, khi khối cộng sản Đông Âu và Liên Xô sụp đổ đến nay.
Giai đoạn 1.
Sau khi cưỡng chiếm Việt nam Cộng Hòa, nhà cầm quyền cộng sản Bắc Việt đã dùng chính sách sai lầm và tàn bạo đối với người dân Miền nam, đã biến họ thành công dân hạng 3 trong xã hội.
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz1-1.jpg (http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz1-1.jpg)
Hình ảnh đưa dân đi “Vùng kinh tế mới.
Chính quyền cộng sản Việt Nam đã áp đặt thể chế cộng sản nguyên thủy với thể chế độc đảng, toàn trị, và nền kinh tế trung ương hoạch định trên toàn đất nước. Về tổ chức, để xây dựng thể chế, nhà cầm quyền tịch thu nhà cửa, đất đai, đánh tư sản, cưỡng bức người dân dân đi kinh tế mới, quốc hữu hóa, v.v…. Kết quả là đã đưa nền kinh tế Miền Nam từ chỗ phát triển vượt trội so với các nước trong khối đông nam Á trở nên nghèo đói như Miền Bắc (Tham khảo thêm:1, 2).
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz2-1.jpg (http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz2-1.jpg)
Đỗ Mười, người chỉ đạo thực hiện “chiến dịch” đánh tư sản Miền Nam
Về quản lý kinh tế, nhà cầm quyền áp dụng phương thức quản lý và phát triển kinh tế Miền Nam giống như Miền Bắc: vào hợp tác xã, chế độ tem phiểu, quản lý chặt chẽ mọi mặt hàng thiết yếu.
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz3.jpg (http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz3.jpg)
Cảnh mua hàng tại Hà Nội những năm 1980.
Từ một vựa lúa ở Đông Nam Á, phần lớn người dân 2 miền được phân phối sắn, khoai và hạt bo bo như là thực phẩm chính, là thứ các nước cộng sản Đông Âu và Liên xô dùng để nuôi súc vật. Chế độ tem phiếu được áp dụng (Tham khảo thêm: 7, 8,9)
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz4.jpg (http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz4.jpg)
Phiếu thực phẩm.
Công nhân, viên chức nhà nước mỗi năm được phát 4 mét phiếu vải, phiếu 13 cân lương thực, phiếu 500 gam thịt để mua, còn người nông dân phải tự túc không có bất kỳ quyền lợi nào.
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz5.jpg (http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz5.jpg)
Phiếu mua vải.
Thời gian này, nhà nước Việt nam tồn tại chủ yếu nhờ vào sự viện trợ tất cả các mặt của khối cộng sản Đông Âu, Liên xô và Trung quốc. Nền công nghiệp Miền nam bị tàn phá, nền công nghiệp Miền Bắc cũng rất lạc hậu.
Công nhân là một lực lượng nhỏ bé, chủ yếu gia công và sửa chữa trong các xí nghiệp do nhà nước quản lý, sản xuất theo các chỉ tiêu đã được vạch sẵn không cần chú ý đến chất lượng và hiệu quả kinh tế, mức lương gần như cố định trong nhiều năm (Tham khảo: 7, 8,9)
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz6-1024x621.jpg (http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz6-1024x621.jpg)
Hình ảnh công nhân Miền Bắc VN những năm 1980.
Số lượng công nhân và nhân viên nhà nước xấp xỉ 3 triệu người làm việc ở các mỏ than, nhà máy dệt, các cảng biển, nhà máy sửa chữa xe lửa. Chính sách kế hoạch hóa quan liêu bao cấp theo chủ thuyết cộng sản đã làm cho nền kinh tế và xã hội kiệt quệ. Năng suất lao động không có, toàn xã hội sống trong cảnh nghèo đói, thiếu thốn từ cái kim, sợi chỉ.
Nhưng, giới cầm quyền và gia đình họ có chế độ đặc biệt. Có những nông trường như nông trường Ba Vì chuyên chăn nuôi gia súc cung cấp thịt hay có những cánh đồng ở Thái Bình chuyên trồng lúa đặc sản cung cấp cho giới cầm quyền. Ngoài giới cao cấp được hưởng thụ theo nhu cầu, tem phiếu cũng được phân loại ABCDE cho các loại cán bộ từ trên xuống. Phiếu E là loại thấp nhất dành cho tầng lớp công nhân và nhân viên nhà nước.
Vì nền kinh tế lạc hậu, các cơ sở công nghiệp tồi tàn làm ăn không bao giờ có lãi, nhà nước luôn phải xin tiền viện trợ từ các nước cộng sản để bù vào ngân sách. Hàng năm, phó thủ tướng Lê Thanh Nghị luôn dẫ đầu đoàn đại biểu đảng và chính phủ đi xin viện trợ từ các nước Xã Hội Chủ nghĩa “anh em”.
Với chính sách duy ý chí và “thói kiêu ngạo cộng sản”, nhà cầm quyền cho rằng họ đã đánh thắng Mỹ thì có thể làm được mọi thứ nên những ai góp ý, đưa ra sáng kiến để cải thiện, phát triển kinh tế đều bị cho là theo tư bản, là chống đảng, bị quy kết là phản động, bị bỏ tù.
Ba lần đổi tiền là những hình thức cướp đoạt tài sản người dân. Chính sách Giá-Lương- Tiền do Phó thủ tướng- Nhà thơ Tố Hữu chỉ đạo đã đẩy cuộc sống của người dân cả nước xuống vực thẳm.[
Tuy bị hệ thống đảng trị, công an trị theo dõi và kiểm soat gắt gao, nhưng do cuộc sống quá khốn khổ, trong xã hội xuất hiện nhiều “tiếu lâm” chính trị và các bài vè phê phán và nhạo báng chế độ (…)
Vì lực lượng lao động dư thừa quá lớn, nên sản suất từ công nghiệp đến nông nghiệp đều thua lỗ. Từ năm 1980 nhà cầm quyền Việt nam bắt đầu xuất khẩu lao động đến các nước cộng sản Đông Âu và Liên Xô để lấy tiền duy trì chế độ; chủ yếu là các nước Đông Đức, Tiệp khắc, Bungary và Liên Xô. Ngoài ra, nhà cầm quyền còn xuất khẩu lao động đến các nước hồi giáo như Irak, Iran, Afganistan. Bình quân mỗi năm xuất khẩu 25.000 lao động.
Đối tượng xuất khẩu cũng chỉ là con em của các cán bộ, đảng viên cộng sản, những người có công với chế độ. Tuy đồng lương ở các nước cộng sản lúc đó rất thấp so với các nước phương tây, nhưng so với mức lương ở Việt Nam thì giá trị nhiều hơn cả chục lần. Được đi xuất khẩu lao động là mơ ước của những thanh niên trẻ thời đó. Giới trí thức có trình độ trong nước cũng thất nghiệp nên nhà cầm quyền đã xuất khẩu họ qua các nước châu Phi như Angola, Angiery,…làm việc trong các bệnh viện, trường học để thu ngoại tệ. Từ năm 1980 đến năm 1990, nhà cầm quyền cộng sản xuất khẩu khoảng 300.000 lao động (Tham khảo thêm: 10,11,12).
Thời gian này, tại Việt Nam cũng cho tồn tại cại gọi là “Tổng Công đoàn Việt Nam” nằm trong hệ thống các tổ chức chính trị do đảng cộng sản lãnh đạo. Chủ tịch “Tổng Công đoàn Việt Nam” qua các thời kỳ là Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Văn Linh, Phạm Thế Duyệt đều là các Ủy viên Bộ Chính trị đảng Cộng sản. Các nhà máy, công xướng ở Miền Bắc đều do nhà nước quản lý, không có cơ sở sản xuất tư nhân. Ở Miền nam, sau 1975, nhà cầm quyền đã “quốc hữu hóa” các cơ sở công nghiệp hoặc “công tư hợp doanh” nhưng từng bước, tước đoạt tư doanh để độc quyền quản lý.
Hoạt động của “công đoàn” chỉ là phổ biến các chủ trương của đảng cộng sản và giám sát việc thực hiện, phân phát tem phiếu, tổ chức bình bầu các “danh hiệu thi đua” theo chỉ thị của đảng cộng sản.
Công nhân và nhân viên nhà nước phải đóng “công đoàn phi” hàng tháng bằng cách trừ vào lương.
Giai đoạn từ năm 1990 đến nay
Khối cộng sản Đông Âu và Liên xô sụp đổ, nhà nước cộng sản Việt Nam không còn nguồn viện trợ nào, tình hình kinh tế và xã hội ở mức tồi tệ nhất.
Để cứu nguy chế độ, chính quyền cộng sản bắt buộc phải chuyển hướng phát triển kinh tế bao cấp sang “kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa” để tạo điều kiện thuận lợi cho tư bản nước ngoài đầu tư ồ ạt vào VN.
Cũng từ đây, giai cấp công nhân Việt nam phát triển không ngừng. Từ một nước nông nghiệp với một nền công nghiệp không đáng kể, Việt nam trở thành một công xưởng rộng lớn, chủ yếu chỉ là gia công các hàng công nghiệp nhẹ cho tư bản nước ngoài như hàng may mặc, giày da và các mặt hàng điện tử, đội ngũ công nhân ngày càng tăng, thời gian đầu phần lớn tập trung tại các thành phố lớn như Hà Nội, Sài gòn, Bình Dương, Đà Nẵng, Hải phòng. Về sau, phát triển rộng rãi ở các tỉnh khác ở khu vực miền Bắc và miền Trung.
Trải qua một thời gian dài từ năm 1975, do chính sách quản lý sai lầm, phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài, nền kinh tế kiệt quệ. Khi kêu gọi các công ty tư bản nước ngoài vào đầu tư, không còn gì để “góp vốn”. Tháng 7 năm 1993, nhà cầm quyền ra luật đất đai số 24- L/CTN quy định “đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước quản lý”, người dân chỉ có quyền sử dụng (Tham khảo thêm: 13,14).
Từ đây, nhà cầm quyền bắt đầu tiến hành hàng loạt vụ cướp đất hợp pháp của người dân từ Bắc chí Nam như một hình thức “góp vốn” hạ tầng với giới chủ tư bản, gây ra hàng ngàn vụ oan sai đẩy người dân vào cảnh bần cùng, điển hình là các vụ cướp đất ở Dương Nội, Thủ Thiêm, Đồng Tâm… Hàng ngàn cuộc biểu tình, khiếu kiện, nhà cầm quyền đã cho công an thẳng tay đàn áp, bắn giết.
Những người dân ở nông thôn đời sống rất khó khăn, người đông ruộng ít, lại ngày càng bị thu hẹp do nhà nước cướp đất làm khu công nghiệp, làm khu vui chơi giải trí, buộc họ phải ra thành phố gia nhập đội ngũ công nhân.
Đa số công nhân có tay nghề thấp, vì xuất thân từ nông dân, được đào tạo trong thời gian ngắn chỉ đáp ứng trình độ gia công hay lắp ráp các linh kiện được sản xuất tại nước ngoài.
Việt Nam trở thành khu vực gia công lý tưởng cho các chủ tư bản nước ngoài vì giá lao động hết sức rẻ mạt cho lao động giản đơn.
Là một nhà nước độc tài, giữ quyền cai trị bằng mọi giá, quyền lực tập trung trong tay rất ít người, người lao động VN, môi trường và tài nguyên thiên nhiên VN chỉ là phương tiện, là công cụ để những kẻ cầm quyền, là đảng viên, làm giàu. Người công nhân VN tuy là lực lượng chính sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội nhưng lại là những người bị bóc lột nặng nề nhất. Họ phải làm việc cật lực từ 10 đến 15 tiếng một ngày trong môi trường bị ô nhiễm, nhưng chỉ được trả lương bình quân từ 60 Mỹ kim/tháng (Những năm 1990), phải sống trong những khu nhà trọ ổ chuột, bẩn thỉu. Ngoài ra, chủ còn tìm mọi cách để cúp lương, không đóng bảo hiểm xã hội cho công nhân, phạt công nhân, thậm chí còn đánh đập, chửi rủa, làm nhục.
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz8.jpg (http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz8.jpg)
Nhà trọ của công nhân.
Tổng Công đoàn Viêt Nam được đổi tên thành Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam (TLĐLĐVN) cũng chỉ là công cụ của đảng cộng sản, mục đích không thay đổi là kiềm tỏa và giám sát công nhân và người lao động. Chủ tịch Tổng liên đoàn là ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản, lãnh đạo công đoàn các cấp cũng đều là đảng viên.
Phần lớn cán bộ công đoàn cơ sở thuộc lĩnh vực tư nhân do giới chủ trả lương, nên khi có tranh chấp quyền lợi thì thường đứng về phía chủ nhân, bảo vệ quyền lợi của giới chủ. Nhà cầm quyền VN đã tạo điều kiện cho giới chủ bóc lột công nhân, chia chác lợi nhuận với giới chủ.
Những năm đầu, người công nhân chưa ý thức được quyền lợi của mình nên cam chịu,nhẫn nhục, không dám đấu tranh, giới chủ càng lợi dụng càng bóc lột nặng nề. Mâu thuẩn xẩy ra giữa công nhân với giới chủ không được giải quyết, giới chủ lại cậy thế có chỗ dựa là chính quyền nên công nhân bị đẩy vào bước đường cùng, không còn lựa chon nào khác là phải tổ chức đình công.
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz9-1024x572.jpg (http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz9-1024x572.jpg)
Công nhân công ty PouYuen đình công đòi quyền lợi.
Do đó, không có cuộc đình công nào trong gần 7.000 cuộc đình công, từ khi bộ luật lao động của VN có hiệu lực cho đến cuối tháng 12 năm 2020 trên toàn lãnh thổ được xem là hợp pháp theo rừng luật lao động VN.[
Khi các cuộc đình công đã lan rộng trong cả nước, những người quan tâm đến tình trạng
bóc lột tồi tệ của giớí chủ bắt đầu vận động để thành lập “Công đoàn độc lập”. Ngày 20 tháng 10 năm 2006, tại Việt Nam tuyên bố thành lập “Công Đoàn Độc Lập Việt Nam” (CĐĐLVN) để bênh vực và bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân. CĐĐLVN đã làm các thủ tục đăng ký pháp lý với nhà nước Việt Nam.
Sự ra đời của CĐĐLVN đã được công nhân hoan nghênh và hưởng ứng mạnh mẽ.
Đúng một tuần sau, từ ngày 27 đến ngày 30 tháng 10 năm 2006, một cuộc hội nghi quốc tế gồm trên 70 đại biểu từ nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Canada, Úc châu, Pháp, Anh, Đức, Bỉ, Tiệp, Hà lan, Nga tại Warszawa, thủ đô nước Cộng Hòa Balan. Hội nghị mang tên “ Cơm Áo và Quyền lao động” được sự giúp đỡ của “Công Đoàn Đoàn Kết”, Ba lan, “Hiệp Hội Tự Do Ngôn Luận Ba lan”. Hội Nghị nhằm mục đích ủng hộ về mọi mặt cho “ Công đoàn Độc lập Việt Nam”.
Các đại biểu hội nghị được các bộ trưởng, chánh văn phòng Tổng Thống Balan, văn phòng Thủ tướng chào đón. Các đại biểu cũng đến chào Chủ tịch Công đoàn đoàn kết, thăm viện bảo tàng “ Công đoàn đoàn kết tại Gdansk”.
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz10-1024x683.jpg (http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2025/04/Obraz10-1024x683.jpg)
Các đại biểu tham dự Hội nghị Warszawa 10.2006 Thăm trụ sở Công Đoàn Đoàn kết tại Gdansk.
Cùng tham dự hội nghị với đại biểu Việt Nam gồm Phó chủ tịch Công Đoàn Đoàn Kết Balan Tomasz Wojcik, Chủ tịch Hiệp Hội tự do ngôn luận Balan Miroslaw Chojecki. Và một số thành viên Công Đoàn Đoàn kết Ba lan (Tham khảo thêm: 15, 16).