giahamdzui
08-26-2025, 12:31 AM
Tôn giáo và dân tộc: con đường hòa giải
https://tse4.mm.bing.net/th/id/OIP.Ua0d7HnBLQtLYFeE65FpEQHaEo?r=0&cb=thfvnext&rs=1&pid=ImgDetMain&o=7&rm=3
“Par la haine. C’ est la haine qui est au coeur du mal, toujours. Haine raciale, ethnique, politique, religieuse. En son nom, tout semble permis. Pour ceux qui la glorifient, comme le font les terroristes, la fin justifie tous les moyens, fussent-ils les plus méprisables.”
ELIE WIESEL, giải thưởng Nobel Hòa Bình 1986)
SUY TƯ TỪ MỘT THÂN PHẬN MỘT NGƯỜI “DÌU DÂN”
Con đường từ Đời tới Đạo là con đường trần thế. Phải đi qua trần thế. Phải làm người lữ hành trong suốt hành trình nhân thế. Nhưng đó thường là Con Đường gian nan và khổ lụy. Con đường mà hồi xưa trong thời dựng đạo Ki tô giáo gọi là con đường Em-Mau.
Tôi gọi là con đường Em – Mau với những tiếng thở dài.
Thở dài vì những gian nan với tương lai mù mịt không lối ra. Con đường đó cũng tượng trưng cho cuộc đời một người đi theo đạo. Làm một người theo đạo Ki tô giáo nào có dễ. Trước đã vậy. Nay cũng vậy.
Khó thời xưa là bị bách hại, khó thời nay là bị bôi nhọ.
Chỉ mong rằng, đến một lúc nào đó, chúng ta phải nhìn lại cho nhau, đừng trói mà hãy cởi, bỏ được những thiên kiến lịch sử, quá khứ để vượt lên trên nó, để nhìn nhận nhau ngay cả trong những cá biệt và sai trái. Thật cũng không dễ.
Đất nước này còn bao nhiêu truyện khổ, truyện nghèo, truyện đáng thương, truyện cười ra nước mắt, truyện nói chẳng đặng đừng, truyện đáng chửi thề, truyện đáng đ. mï, đ. cha cho đỡ tức, cho hả nỗi phiền, hà cớ gì còn thêm cái truyện tôn giáo ? Truyện của người Hải ngoại?
A.NĂM THẾ KỶ MÁU VÀ TỦI HẬN.
Và cứ như thế, tôi hồi tưởng lại đạo Chúa đã có mặt trên đất nước này đã năm thế kỷ. Năm thế kỷ so với hàng mấy ngàn năm người Việt đã có trước nó và sau nó. Trong đó có một ngàn năm đô hộ của Tàu-1000 năm này hầu như mọi người quên lãng, quên cả oán hận người Tàu.
Nhưng 500 năm đó thì khác hẳn, như một khúc ruột dư của lịch sử dân Việt lúc nào cũng nhức nhốâi. Nhiều người không muốn quên. Một khúc thừa mà người ta muốn cắt phứt đi cho rồi. Nhưng muốn cắt, muốn vứt bỏ đi cũng không dễ.
Khúc ruột dư đó, dù là ruột dư vẫn là cả khúc ruột nằm trong số phận dân tộc, đất nước.
Nó bắt buộc mọi người phải chia xẻ số phận đất nước như những người đồng hành hay người trong cuộc. 7 triệu người Kitô giáo, dù muốn dù không, dù có ghét bỏ, dù có khai trừ, tẩy chay, dù muốn vứt đi cũng không được.
Họ đã là thành phần của dân tộc, đã chia xẻ, đã gánh chịu số phận lịch sử đất nước, dân tộc.
Và có thể đã chịu đến hai tầng địa ngục chứ không phải một tầng. Lịch sữ đó đã đi qua rồi, đã sang trang. Vậy mà nhiều người vẫn lôi nó ra để một lần nữa làm sống lại cả một thời kỳ đen tối của đất nước. Để làm gì thì đi hỏi họ.
Cái lịch sử đó như những khối u ung thư, mỗi ngày mỗi lớn. Nguời Việt mình muốn hòa, muốn ngồi lại với nhau, cần phải cắt không biết bao nhiêu là những khối u đó. Khối u tôn giáo, khối u chính trị, khối u miền này miền kia. Cắt đến bao giờ cho hết?
Cắt xong lại phải uống thuốc miễn nhiễm, nếu cần đừng đọc tất cả sách sử, tất cả những bài viết nào có virus gây mầm mống ung thư đó. Lắm lúc nghĩ quẩn thà đừng đọc.
Khúc ruột dư ấy với tất cả hệ lụy thân phận của người Việt Nam da vàng nói chung, cộng thêm cái khốn khổ mang nhãn hiệu một kẻ có đạo. Nông nỗi đó của một thiểu số nào ai thấy hết được?
Và mượn lời của Nguyễn Huy Thiệp trong Tuổi Hai Mươi Yêu dấu, tôi viết như thế này:” Cái thời đó là thời chó má. Tin tôi đi, một trăm phần trăm là như thế đấy”.
Cái thời mà người ta hận oán nhau, chém giết nhau, xua đuổi nhau như không phải cùng giống người, cùng một dân tộc.
Tin tôi đi, một trăm phần trăm là như thế đấy.
Chẳng ai cần biết đến những thân phận của những con người, sống chui nhủi như loài chuột với những góc đời phiền muộn trong vùng tối của thế kỷ vừa qua.
Nhưng chính ở những nơi tăm tối đó, ở những góc đời bị bỏ quên, những thân phận lưu đầy trên chính quê hương mình mà nó cứ lớn dần lên mãi. 7 triệu rồi đấy. Nó vẫn có mặt đến là đáng nguyền rủa. Chỉ còn mỗi một con đường như lẽ sống còn là cùng chung sống.
100 NĂM DƯỚI THỜI NHÀ NGUYỄN
Đây là thời kỳ đen tối nhất của lịch sử đạo Ki tô giáo. Đen tối vì những cuộc truy lùng, bắt bớ, bách hại, muốn truy diệt hẳn là có. Hình phạt voi giầy, ngựa séo, tùng xẻo, vạc dầu, cắt da xả thịt, giam hãm, tù đầy, gông cùm, xiềng xích, đốt nhà, đốt cửa, hãm hiếp, tịch biên tài sản, bỏ nhà đi tha phương cầu thực cũng hẳn là có.
Nó mang dấu vết của một hình thức bạo động, khủng bố của thời đại bây giờ, nhưng đã được hợp pháp hóa và lý tính hóa.
Nếu ở thời đại bây giờ mà có những cuộc tàn sát, chém giết truy lùng như thế thì thế giới sẽ nghĩ gì về Việt Nam? Đạo dụ, sắc lệnh đủ thứ cũng không thiếu.
Vậy mà hình như tất cả những hình phạt trên đối với nhiều người cũng chỉ là truyện tự nhiên và bình thường. Hãy suy nghĩ tra vấn mình, nếu thấy là truyện bình thường, lúc đó cần tự hỏi lương tâm mình có an không, có điều chi còn khuất tất, có ác tính quá không? Hỏi lương tâm, đừng hỏi sách vở, đừng tìm nguyên do, đừng tìm cách biện hộ thì may ra mới hiểu được mình đã tàn ác với anh em đồng loại.
Bài học lịch sử ở đây là tra vấn lại cái tâm để đừng chấp nhất nữa, để bỏ qua, để đừng lên án nữa.
Hãy bắt đầu làm một chút so sánh xem sao. Dụ số 10 của Bảo Đại, mặc dầu nhiều người chẳng biết nội dung nếp tẻ ra sao, cũng đã làm chúng ta cảm thấy nỗi bất công vô lý như thế nào? Vậy thì các đạo dụ cấm đạo như chiếc máy chém lê đi khắp nơi thì khủng khiếp đến là bao?
Thi cử thời nhà Nguyễn
Thời nhà Nguyễn có hơn 5000 cử nhân tiến sĩ thi đậu. Chỉ có 2 người Kitô giáo trong số đó. Điều đó có bình thường không? Có đáng để ta suy nghĩ không? Họ như những công dân bậc hai trong chính đất nước của họ. Đó là những “Dĩu Dân”.
Mãi đến đời Duy Tân, theo sách Quốc Triều Hương Khoa Lục của cụ Cao Xuân Dục, nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, 1993, trang 532 cho biết có ông Vũ Luyện, người làng Quần Phương, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định là người Kitô giáo đầu tiên đã thi đậu cử nhân. Cũng làng này, làng thuần Công giáo, vào năm 1900, có một người thứ hai thi đậu nữa trên tổng số 5232 người thi đậu trong suốt trăm năm triều Nguyễn. Con số hai người đó nói lên điều gì?
Nhưng mọi người thản nhiên cho là truyện đương nhiên. Hình phạt nào cũng xứng đáng cho bọn bán nước theo giặc. Nhiều lúc tôi tự hỏi, đã có lúc nào 7 triệu người đó được sống an lành trên quê hương mình? Đã có lúc nào sống làm người Việt bình thường và tử tế không? Mà không bị nguyền rủa? Mà không bị khinh khi? Mà tôi đã làm gì? Mà sinh ra đã mang nhãn hiệu ấy? Nào tôi có chọn… Nào tôi có muốn… Những người dân phần lớn vô học, chữ nghĩa thu gọn lại không bằng cái lá đa, phần lớn nghèo túng lấy gì để bán được nước? Phải có quyền thế, phải có chức vị, phải nắm trong tay trách nhiệm toàn dân mới bán được nước. Ai là người bán nước? Ai cho họ cái thẩm quyền tinh thần và pháp lý để có thể bán được nước? Chẳng lẽ không thể tìm ra trong số vua chúa và 5230 người trong hàng quan lại lấy một người thôi chìa vai gánh chung cái trách nhiệm tầy trời đó sao?
Cuộc sống lưu đầy
Ngày nay, nhìn lại đạo Chúa từ những ngày đầu như một cánh đồng lúa vừa mới được cầy vỡ. Qua mỗi vết luống cầy đã hằn lên những vết thương tủi nhục, bất công hòa lẫn máu và nước mắt. Bao nhiêu người đã chết? Bao nhiêu mồ hôi, bao nhiêu tủi nhục? Bao nhiêu trốn chạy xất bất xang bang, kéo cả gia đình họ tộc đi đường bộ sang Thái Lan, nay thành bản làng bên xứ người vẫn nói tiếng Việt. {Có hai loại người Việt tị nạn sang Thái Lan. Loại người theo Gia Long sang tị nạn. Và loại người Ki tô giáo trong thời kỳ cấm đạo thời Minh Mạng, Thiệu Trị, nhất là thời kỳ Tự Đức}. Hoặc dùng thuyền, bất chấp phong ba bão táp nhủi vào bãi đất miền Nam. Bãi đất của miền đất hứa với những sắc dân Tầu đến trước như những những người Tổng Binh trấn đất Quảng Tây Dương Ngạn Địch.
Hay như Trần Thượng Xuyên, không thuần phục nhà Thanh đã trốn sang nước ta với 3000 quân và 50 thuyền. Và cuối cùng là Mạc Cửu ở đất Hà Tiên. Chưa kể bọn thảo khấu trốn sâu lậu thuế, hay những kẻ đầu đường xó chợ. Và cuối cùng là những dân làng Vạn trôi nổi trên sông nước (population flottante) đã ở sẵn ở đó.
Những người Ki tô giáo trốn khỏi miền Trung đã phải sống hòa nhập vào đám dân hỗn tạp đó để sau này tạo thành cái xứ Nam Kỳ. Bao nhiêu hy sinh để tồn tại trước lời thị phi? Lời khen thì ít, nhưng tiếng chê thì không thể không nhiều.
Người viết nhìn lại con đường Em-Mau với những tiếng thở dài đó. Và phải tìm ra được những căn cớ làm nên cớ sự đau buồn như vậy, đồng thời tìm ra giải đáp cho tương lai.
Trong bài viết này, người viết nghĩ rằng, có nhiều vấn đề lịch sử về sự có mặt của đạo Ki tô giáo ở Việt Nam (VN) cần được nhìn và đánh giá lại. Kinh nghiệm cho thấy rằng, có nhiều sự kiện lịch sử tưởng chừng như xác thực đến không còn có gì để tồn nghi nữa lại để lộ ra rất nhiều khe hở đến nghi ngại.
Bài viết tiếp theo của tôi sau đây là không dùng lối tiếp cận lịch sử để hiểu lịch sử mà dùng lối tiếp cận gián tiếp mà tôi gọi là “văn hoá nuôi thù”, lệ thuộc vào tâm sinh lý để nhìn lại lịch sử và cắt nghĩa sử. Tiếp cận gián tiếp này may ra giúp chúng ta có cái nhìn thông thoáng hơn, cởi mở hơn, hiểu biết hơn, chấp nhận nhau hơn, thông cảm hơn. Dùng lối tiếp cận này để thấy một cách rất đơn giản, tương đối dễ hiểu là thói đời là vậy, con người là vậy để sửa đổi và chấp nhận nhau hơn.
2. LỐI TIẾP CẬN LỊCH SỬ THÔNG QUA TỪ MỘT NỀN “VĂN HÓA NUÔI THÙ”
Văn hoá nuôi thù nơi người Việt Nam
Có một lối tiếp cận khác, không căn cứ vào các sự kiện lịch sử để nhìn ra được ý nghĩa tiềm ẩn sâu xa giữa các sự kiện lịch sử. Nghĩa là tìm hiểu sự kiện lịch sử Việt Nam bằng cách đi tìm hiểu thứ văn hoá nuôi thù. Nhờ đó ta cảm nghiệm trực tiếp tại sao con người đã hành xử như thế, đã suy nghĩ như thế và đã có một thái độ như thế.
Tìm hiểu cái văn hoá nuôi thù sẽ giải lý được tại sao có sự tranh chấp, đố kỵ, kỳ thị tôn giáo. Tại sao lối diễn đạt, lối suy nghĩ của bên này bên kia đều cố chấp thành kiến và gần như mù quáng? Tôi đã có một kinh nghiệm và một cảm thức sâu xa và cay đắng đến tột cùng là chẳng bao giờ nên tranh luận về các vấn đề tôn giáo và chính trị với bất cứ ai.
Kinh nghiệm thù hận tôn giáo là có thực.
Tôi đã sống nó và tôi đã giáp mặt nó nhiều lần. Hãy thành thật và đừng dối lòng thì sẽ nhận ra nó. Vâng bất cứ ai. Cái kết quả đạt được chỉ là sự đối đầu gia tăng đi đến nguyền rủa, tức tối vô tích sự.
Cả bài viết này, tôi đã tránh dùng thứ ngôn ngữ biếm nhã với bất cứ ai và tránh tất cả những khiêu khích cũng như đối dầu không cần thiết, nói chi đến truyện dám kết án, truy chụp người khác.
Tôi cũng mong được đối xử ngược lại như vậy.
Cùng lắm nó chỉ là một tiếng than, một tiếng thở dài!
Đừng ai nói hay là mình khách quan, mình chỉ nói sự thật?
Sự thật đang giết chết chúng ta. Sự thật là cái vỏ, bên trong là hận oán, thành kiến, đố kỵ, ghen ghét.
Phải có lòng khiêm tốn lắm, phải biết soi dõi lắm cái lương tâm dã cáu bẩn của mình. Bao lâu chưa gạt bỏ được lòng hận oán tiềm ẩn, bấy lâu không có cơ hy vọng hiểu nhau.
Vì thế, trình bày tranh cãi đôi khi là vô ích.
Có lẽ cái tốt nhất vẫn là sự im lăng, nhẫn nhục và chịu đựng. Nhưng nếu truy cho bằng được cái nguyên nhân nuôi thù thì gần như đã cất đi được một gánh nặng lịch sử đè chĩu lên vai ta? Một thứ lịch sử với vết tích của hận oán và oan nghiệt, bất công gia trọng? Hãy tìm cách cất gánh nặng lịch sử bằng cách quên đi, bỏ vào trong ngoặc, hay dùng thuốc sát trùng những sự kiện lịch sử mà ta coi là sự thật. Cuộc đời sẽ nhẹ, sẽ dễ nhìn nhận ra nhau.
Niềm mơ ước một thứ sử trong đó không có những lời nguyền rủa, oán hận phãi chăng là ước mơ của những người Việt bình thường?
Hãy trông gương giới trẻ bây giờ, hãy học giới trẻ bây giờ, hãy nên giống như tâm can giới trẻ bây giờ, chúng nó có cái nhìn biện biệt, thù oán như những cha chú của chúng không? Chúng có cần hỏi một người khi chúng quen là anh là ai? tôn giáo nào? ở miền nào?
Hãy sống như thể hồn nhiên, hãy giải thoát mình ra khỏi những ràng buộc quá khứ.
Quá khứ là mây mù u ám, đầy ám chướng chẳng đáng cho ta gìn giữ làm gì. Hãy trả lại cho những kẻ viết ra nó. Họ viết lịch sử bằng cách đem máu lên trang nhất (mettre du sang à la une) và chẳng đem lại cho chúng ta bất cứ thứ bài học gì? Trừ bài học nuôi thù. Ai muốn nuôi hận thì cứ tiếp tục đọc và đã hẳn cứ tiếp tục viết. Viết bơi móc, kể lể điều xấu là dễ nhất, nhưng chẵng đem lại điều ích lợi gì. Có bao giờ, viết bơi móc, viết chửi, viết bôi nhọ mà có giá trị sự thật lịch sử, giá trị văn học, giá trị nhân bản?
Chưa ai chỉ trích, chửi mà thành người được.
Trở lại cái văn hóa nuôi thù, thời xưa người đời đã có câu “Hôn nhân, điền thổ, vạn cố chi thù” tức là hôn nhân và đất đai là hai cái thứ làm cho người ta thù oán nhau lâu nhất. Giữa đám dân làng, làm ăn lao đao vất vả, vậy mà có những mối thù truyền kiếp, hết đời này sang đời kia, chẳng bao giờ xóa được.
Nuôi thù và thù dai.
Kẻ chết, tay đã bắt chuồn chuồn, còn cố dồn mấy hơi thở cuối cùng dặn thằng con nối nghiệp trả thù giữa họ tộc. Và cứ thế, cứ thế nghe lời trăn trối bố dặn. Ranh giới thù nhỏ như sợi tóc cứ thế mà dai, mà cứng lên cắt đứt mọi công đoạn liên hệ người-người. Con người trong cái đơn vị làng xã lao đao khốn khổ, chảy vẩy lo miếng ăn đã đành, nay còn phải đối phó với những manh động thù oán.
Nuôi thù gắn liền với một quá khứ và trở thành một thứ đạo lý để sống.
Đã làm người trong một họ tộc, trong một làng là phải có kẻ thù. Đó là những mối thù truyền kiếp truyền từ đời nọ sang đời kia. Thù bao giờ cũng từ một quá khứ chuyển giao thế hệ như một chúc thư. Tôn giáo ghét nhau, thù oán nhau chỉ vì những tích lũy quá khứ, dồn lại, nén vào, kết thành bó, từ những truyện nhỏ, mưng lên thành truyện lớn. Còn gì là phải trái. Phải tiếp tục nuôi thù như một lẽ sống.
Không biết nuôi thù được coi như con người bất nhân, bất hiếu.
Lòng phải biết hận oán mới là người có nhân cách. Biết biện biệt, biết truy lùng cái xấu, cái độc ác của kẻ khác. Tội ác, hận oán rồi cứ thế được khuôn mẫu (stéréotyper), được tổng quát hóa (généraliser), được xếp loại (catégories) thành biểu tượng (symboles) thành nhãn hiệu (étiquettes). Đời sống con người được giản lược vào những mẫu mã, những nhãn hiệu đủ loại và qua đó người khác nhìn nhận ra chúng ta, đánh giá và phê phán theo nhãn hiệu đó.
Ta không còn là con người, một tên gọi mà là những mẫu hàng X, những nhãn hiệu Y đeo dính vào đời sống mỗi người. Đó là những gông cùm, những thập giá ta đeo vào trong suốt đời sống nhân thế.
Thật bất hạnh cho con người Việt Nam với vô số khổ đau, tủi nhục cộng thêm cái tủi nhục bị xếp loại, bị đeo gông cùm nhãn hiệu.
https://tse4.mm.bing.net/th/id/OIP.Ua0d7HnBLQtLYFeE65FpEQHaEo?r=0&cb=thfvnext&rs=1&pid=ImgDetMain&o=7&rm=3
“Par la haine. C’ est la haine qui est au coeur du mal, toujours. Haine raciale, ethnique, politique, religieuse. En son nom, tout semble permis. Pour ceux qui la glorifient, comme le font les terroristes, la fin justifie tous les moyens, fussent-ils les plus méprisables.”
ELIE WIESEL, giải thưởng Nobel Hòa Bình 1986)
SUY TƯ TỪ MỘT THÂN PHẬN MỘT NGƯỜI “DÌU DÂN”
Con đường từ Đời tới Đạo là con đường trần thế. Phải đi qua trần thế. Phải làm người lữ hành trong suốt hành trình nhân thế. Nhưng đó thường là Con Đường gian nan và khổ lụy. Con đường mà hồi xưa trong thời dựng đạo Ki tô giáo gọi là con đường Em-Mau.
Tôi gọi là con đường Em – Mau với những tiếng thở dài.
Thở dài vì những gian nan với tương lai mù mịt không lối ra. Con đường đó cũng tượng trưng cho cuộc đời một người đi theo đạo. Làm một người theo đạo Ki tô giáo nào có dễ. Trước đã vậy. Nay cũng vậy.
Khó thời xưa là bị bách hại, khó thời nay là bị bôi nhọ.
Chỉ mong rằng, đến một lúc nào đó, chúng ta phải nhìn lại cho nhau, đừng trói mà hãy cởi, bỏ được những thiên kiến lịch sử, quá khứ để vượt lên trên nó, để nhìn nhận nhau ngay cả trong những cá biệt và sai trái. Thật cũng không dễ.
Đất nước này còn bao nhiêu truyện khổ, truyện nghèo, truyện đáng thương, truyện cười ra nước mắt, truyện nói chẳng đặng đừng, truyện đáng chửi thề, truyện đáng đ. mï, đ. cha cho đỡ tức, cho hả nỗi phiền, hà cớ gì còn thêm cái truyện tôn giáo ? Truyện của người Hải ngoại?
A.NĂM THẾ KỶ MÁU VÀ TỦI HẬN.
Và cứ như thế, tôi hồi tưởng lại đạo Chúa đã có mặt trên đất nước này đã năm thế kỷ. Năm thế kỷ so với hàng mấy ngàn năm người Việt đã có trước nó và sau nó. Trong đó có một ngàn năm đô hộ của Tàu-1000 năm này hầu như mọi người quên lãng, quên cả oán hận người Tàu.
Nhưng 500 năm đó thì khác hẳn, như một khúc ruột dư của lịch sử dân Việt lúc nào cũng nhức nhốâi. Nhiều người không muốn quên. Một khúc thừa mà người ta muốn cắt phứt đi cho rồi. Nhưng muốn cắt, muốn vứt bỏ đi cũng không dễ.
Khúc ruột dư đó, dù là ruột dư vẫn là cả khúc ruột nằm trong số phận dân tộc, đất nước.
Nó bắt buộc mọi người phải chia xẻ số phận đất nước như những người đồng hành hay người trong cuộc. 7 triệu người Kitô giáo, dù muốn dù không, dù có ghét bỏ, dù có khai trừ, tẩy chay, dù muốn vứt đi cũng không được.
Họ đã là thành phần của dân tộc, đã chia xẻ, đã gánh chịu số phận lịch sử đất nước, dân tộc.
Và có thể đã chịu đến hai tầng địa ngục chứ không phải một tầng. Lịch sữ đó đã đi qua rồi, đã sang trang. Vậy mà nhiều người vẫn lôi nó ra để một lần nữa làm sống lại cả một thời kỳ đen tối của đất nước. Để làm gì thì đi hỏi họ.
Cái lịch sử đó như những khối u ung thư, mỗi ngày mỗi lớn. Nguời Việt mình muốn hòa, muốn ngồi lại với nhau, cần phải cắt không biết bao nhiêu là những khối u đó. Khối u tôn giáo, khối u chính trị, khối u miền này miền kia. Cắt đến bao giờ cho hết?
Cắt xong lại phải uống thuốc miễn nhiễm, nếu cần đừng đọc tất cả sách sử, tất cả những bài viết nào có virus gây mầm mống ung thư đó. Lắm lúc nghĩ quẩn thà đừng đọc.
Khúc ruột dư ấy với tất cả hệ lụy thân phận của người Việt Nam da vàng nói chung, cộng thêm cái khốn khổ mang nhãn hiệu một kẻ có đạo. Nông nỗi đó của một thiểu số nào ai thấy hết được?
Và mượn lời của Nguyễn Huy Thiệp trong Tuổi Hai Mươi Yêu dấu, tôi viết như thế này:” Cái thời đó là thời chó má. Tin tôi đi, một trăm phần trăm là như thế đấy”.
Cái thời mà người ta hận oán nhau, chém giết nhau, xua đuổi nhau như không phải cùng giống người, cùng một dân tộc.
Tin tôi đi, một trăm phần trăm là như thế đấy.
Chẳng ai cần biết đến những thân phận của những con người, sống chui nhủi như loài chuột với những góc đời phiền muộn trong vùng tối của thế kỷ vừa qua.
Nhưng chính ở những nơi tăm tối đó, ở những góc đời bị bỏ quên, những thân phận lưu đầy trên chính quê hương mình mà nó cứ lớn dần lên mãi. 7 triệu rồi đấy. Nó vẫn có mặt đến là đáng nguyền rủa. Chỉ còn mỗi một con đường như lẽ sống còn là cùng chung sống.
100 NĂM DƯỚI THỜI NHÀ NGUYỄN
Đây là thời kỳ đen tối nhất của lịch sử đạo Ki tô giáo. Đen tối vì những cuộc truy lùng, bắt bớ, bách hại, muốn truy diệt hẳn là có. Hình phạt voi giầy, ngựa séo, tùng xẻo, vạc dầu, cắt da xả thịt, giam hãm, tù đầy, gông cùm, xiềng xích, đốt nhà, đốt cửa, hãm hiếp, tịch biên tài sản, bỏ nhà đi tha phương cầu thực cũng hẳn là có.
Nó mang dấu vết của một hình thức bạo động, khủng bố của thời đại bây giờ, nhưng đã được hợp pháp hóa và lý tính hóa.
Nếu ở thời đại bây giờ mà có những cuộc tàn sát, chém giết truy lùng như thế thì thế giới sẽ nghĩ gì về Việt Nam? Đạo dụ, sắc lệnh đủ thứ cũng không thiếu.
Vậy mà hình như tất cả những hình phạt trên đối với nhiều người cũng chỉ là truyện tự nhiên và bình thường. Hãy suy nghĩ tra vấn mình, nếu thấy là truyện bình thường, lúc đó cần tự hỏi lương tâm mình có an không, có điều chi còn khuất tất, có ác tính quá không? Hỏi lương tâm, đừng hỏi sách vở, đừng tìm nguyên do, đừng tìm cách biện hộ thì may ra mới hiểu được mình đã tàn ác với anh em đồng loại.
Bài học lịch sử ở đây là tra vấn lại cái tâm để đừng chấp nhất nữa, để bỏ qua, để đừng lên án nữa.
Hãy bắt đầu làm một chút so sánh xem sao. Dụ số 10 của Bảo Đại, mặc dầu nhiều người chẳng biết nội dung nếp tẻ ra sao, cũng đã làm chúng ta cảm thấy nỗi bất công vô lý như thế nào? Vậy thì các đạo dụ cấm đạo như chiếc máy chém lê đi khắp nơi thì khủng khiếp đến là bao?
Thi cử thời nhà Nguyễn
Thời nhà Nguyễn có hơn 5000 cử nhân tiến sĩ thi đậu. Chỉ có 2 người Kitô giáo trong số đó. Điều đó có bình thường không? Có đáng để ta suy nghĩ không? Họ như những công dân bậc hai trong chính đất nước của họ. Đó là những “Dĩu Dân”.
Mãi đến đời Duy Tân, theo sách Quốc Triều Hương Khoa Lục của cụ Cao Xuân Dục, nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, 1993, trang 532 cho biết có ông Vũ Luyện, người làng Quần Phương, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định là người Kitô giáo đầu tiên đã thi đậu cử nhân. Cũng làng này, làng thuần Công giáo, vào năm 1900, có một người thứ hai thi đậu nữa trên tổng số 5232 người thi đậu trong suốt trăm năm triều Nguyễn. Con số hai người đó nói lên điều gì?
Nhưng mọi người thản nhiên cho là truyện đương nhiên. Hình phạt nào cũng xứng đáng cho bọn bán nước theo giặc. Nhiều lúc tôi tự hỏi, đã có lúc nào 7 triệu người đó được sống an lành trên quê hương mình? Đã có lúc nào sống làm người Việt bình thường và tử tế không? Mà không bị nguyền rủa? Mà không bị khinh khi? Mà tôi đã làm gì? Mà sinh ra đã mang nhãn hiệu ấy? Nào tôi có chọn… Nào tôi có muốn… Những người dân phần lớn vô học, chữ nghĩa thu gọn lại không bằng cái lá đa, phần lớn nghèo túng lấy gì để bán được nước? Phải có quyền thế, phải có chức vị, phải nắm trong tay trách nhiệm toàn dân mới bán được nước. Ai là người bán nước? Ai cho họ cái thẩm quyền tinh thần và pháp lý để có thể bán được nước? Chẳng lẽ không thể tìm ra trong số vua chúa và 5230 người trong hàng quan lại lấy một người thôi chìa vai gánh chung cái trách nhiệm tầy trời đó sao?
Cuộc sống lưu đầy
Ngày nay, nhìn lại đạo Chúa từ những ngày đầu như một cánh đồng lúa vừa mới được cầy vỡ. Qua mỗi vết luống cầy đã hằn lên những vết thương tủi nhục, bất công hòa lẫn máu và nước mắt. Bao nhiêu người đã chết? Bao nhiêu mồ hôi, bao nhiêu tủi nhục? Bao nhiêu trốn chạy xất bất xang bang, kéo cả gia đình họ tộc đi đường bộ sang Thái Lan, nay thành bản làng bên xứ người vẫn nói tiếng Việt. {Có hai loại người Việt tị nạn sang Thái Lan. Loại người theo Gia Long sang tị nạn. Và loại người Ki tô giáo trong thời kỳ cấm đạo thời Minh Mạng, Thiệu Trị, nhất là thời kỳ Tự Đức}. Hoặc dùng thuyền, bất chấp phong ba bão táp nhủi vào bãi đất miền Nam. Bãi đất của miền đất hứa với những sắc dân Tầu đến trước như những những người Tổng Binh trấn đất Quảng Tây Dương Ngạn Địch.
Hay như Trần Thượng Xuyên, không thuần phục nhà Thanh đã trốn sang nước ta với 3000 quân và 50 thuyền. Và cuối cùng là Mạc Cửu ở đất Hà Tiên. Chưa kể bọn thảo khấu trốn sâu lậu thuế, hay những kẻ đầu đường xó chợ. Và cuối cùng là những dân làng Vạn trôi nổi trên sông nước (population flottante) đã ở sẵn ở đó.
Những người Ki tô giáo trốn khỏi miền Trung đã phải sống hòa nhập vào đám dân hỗn tạp đó để sau này tạo thành cái xứ Nam Kỳ. Bao nhiêu hy sinh để tồn tại trước lời thị phi? Lời khen thì ít, nhưng tiếng chê thì không thể không nhiều.
Người viết nhìn lại con đường Em-Mau với những tiếng thở dài đó. Và phải tìm ra được những căn cớ làm nên cớ sự đau buồn như vậy, đồng thời tìm ra giải đáp cho tương lai.
Trong bài viết này, người viết nghĩ rằng, có nhiều vấn đề lịch sử về sự có mặt của đạo Ki tô giáo ở Việt Nam (VN) cần được nhìn và đánh giá lại. Kinh nghiệm cho thấy rằng, có nhiều sự kiện lịch sử tưởng chừng như xác thực đến không còn có gì để tồn nghi nữa lại để lộ ra rất nhiều khe hở đến nghi ngại.
Bài viết tiếp theo của tôi sau đây là không dùng lối tiếp cận lịch sử để hiểu lịch sử mà dùng lối tiếp cận gián tiếp mà tôi gọi là “văn hoá nuôi thù”, lệ thuộc vào tâm sinh lý để nhìn lại lịch sử và cắt nghĩa sử. Tiếp cận gián tiếp này may ra giúp chúng ta có cái nhìn thông thoáng hơn, cởi mở hơn, hiểu biết hơn, chấp nhận nhau hơn, thông cảm hơn. Dùng lối tiếp cận này để thấy một cách rất đơn giản, tương đối dễ hiểu là thói đời là vậy, con người là vậy để sửa đổi và chấp nhận nhau hơn.
2. LỐI TIẾP CẬN LỊCH SỬ THÔNG QUA TỪ MỘT NỀN “VĂN HÓA NUÔI THÙ”
Văn hoá nuôi thù nơi người Việt Nam
Có một lối tiếp cận khác, không căn cứ vào các sự kiện lịch sử để nhìn ra được ý nghĩa tiềm ẩn sâu xa giữa các sự kiện lịch sử. Nghĩa là tìm hiểu sự kiện lịch sử Việt Nam bằng cách đi tìm hiểu thứ văn hoá nuôi thù. Nhờ đó ta cảm nghiệm trực tiếp tại sao con người đã hành xử như thế, đã suy nghĩ như thế và đã có một thái độ như thế.
Tìm hiểu cái văn hoá nuôi thù sẽ giải lý được tại sao có sự tranh chấp, đố kỵ, kỳ thị tôn giáo. Tại sao lối diễn đạt, lối suy nghĩ của bên này bên kia đều cố chấp thành kiến và gần như mù quáng? Tôi đã có một kinh nghiệm và một cảm thức sâu xa và cay đắng đến tột cùng là chẳng bao giờ nên tranh luận về các vấn đề tôn giáo và chính trị với bất cứ ai.
Kinh nghiệm thù hận tôn giáo là có thực.
Tôi đã sống nó và tôi đã giáp mặt nó nhiều lần. Hãy thành thật và đừng dối lòng thì sẽ nhận ra nó. Vâng bất cứ ai. Cái kết quả đạt được chỉ là sự đối đầu gia tăng đi đến nguyền rủa, tức tối vô tích sự.
Cả bài viết này, tôi đã tránh dùng thứ ngôn ngữ biếm nhã với bất cứ ai và tránh tất cả những khiêu khích cũng như đối dầu không cần thiết, nói chi đến truyện dám kết án, truy chụp người khác.
Tôi cũng mong được đối xử ngược lại như vậy.
Cùng lắm nó chỉ là một tiếng than, một tiếng thở dài!
Đừng ai nói hay là mình khách quan, mình chỉ nói sự thật?
Sự thật đang giết chết chúng ta. Sự thật là cái vỏ, bên trong là hận oán, thành kiến, đố kỵ, ghen ghét.
Phải có lòng khiêm tốn lắm, phải biết soi dõi lắm cái lương tâm dã cáu bẩn của mình. Bao lâu chưa gạt bỏ được lòng hận oán tiềm ẩn, bấy lâu không có cơ hy vọng hiểu nhau.
Vì thế, trình bày tranh cãi đôi khi là vô ích.
Có lẽ cái tốt nhất vẫn là sự im lăng, nhẫn nhục và chịu đựng. Nhưng nếu truy cho bằng được cái nguyên nhân nuôi thù thì gần như đã cất đi được một gánh nặng lịch sử đè chĩu lên vai ta? Một thứ lịch sử với vết tích của hận oán và oan nghiệt, bất công gia trọng? Hãy tìm cách cất gánh nặng lịch sử bằng cách quên đi, bỏ vào trong ngoặc, hay dùng thuốc sát trùng những sự kiện lịch sử mà ta coi là sự thật. Cuộc đời sẽ nhẹ, sẽ dễ nhìn nhận ra nhau.
Niềm mơ ước một thứ sử trong đó không có những lời nguyền rủa, oán hận phãi chăng là ước mơ của những người Việt bình thường?
Hãy trông gương giới trẻ bây giờ, hãy học giới trẻ bây giờ, hãy nên giống như tâm can giới trẻ bây giờ, chúng nó có cái nhìn biện biệt, thù oán như những cha chú của chúng không? Chúng có cần hỏi một người khi chúng quen là anh là ai? tôn giáo nào? ở miền nào?
Hãy sống như thể hồn nhiên, hãy giải thoát mình ra khỏi những ràng buộc quá khứ.
Quá khứ là mây mù u ám, đầy ám chướng chẳng đáng cho ta gìn giữ làm gì. Hãy trả lại cho những kẻ viết ra nó. Họ viết lịch sử bằng cách đem máu lên trang nhất (mettre du sang à la une) và chẳng đem lại cho chúng ta bất cứ thứ bài học gì? Trừ bài học nuôi thù. Ai muốn nuôi hận thì cứ tiếp tục đọc và đã hẳn cứ tiếp tục viết. Viết bơi móc, kể lể điều xấu là dễ nhất, nhưng chẵng đem lại điều ích lợi gì. Có bao giờ, viết bơi móc, viết chửi, viết bôi nhọ mà có giá trị sự thật lịch sử, giá trị văn học, giá trị nhân bản?
Chưa ai chỉ trích, chửi mà thành người được.
Trở lại cái văn hóa nuôi thù, thời xưa người đời đã có câu “Hôn nhân, điền thổ, vạn cố chi thù” tức là hôn nhân và đất đai là hai cái thứ làm cho người ta thù oán nhau lâu nhất. Giữa đám dân làng, làm ăn lao đao vất vả, vậy mà có những mối thù truyền kiếp, hết đời này sang đời kia, chẳng bao giờ xóa được.
Nuôi thù và thù dai.
Kẻ chết, tay đã bắt chuồn chuồn, còn cố dồn mấy hơi thở cuối cùng dặn thằng con nối nghiệp trả thù giữa họ tộc. Và cứ thế, cứ thế nghe lời trăn trối bố dặn. Ranh giới thù nhỏ như sợi tóc cứ thế mà dai, mà cứng lên cắt đứt mọi công đoạn liên hệ người-người. Con người trong cái đơn vị làng xã lao đao khốn khổ, chảy vẩy lo miếng ăn đã đành, nay còn phải đối phó với những manh động thù oán.
Nuôi thù gắn liền với một quá khứ và trở thành một thứ đạo lý để sống.
Đã làm người trong một họ tộc, trong một làng là phải có kẻ thù. Đó là những mối thù truyền kiếp truyền từ đời nọ sang đời kia. Thù bao giờ cũng từ một quá khứ chuyển giao thế hệ như một chúc thư. Tôn giáo ghét nhau, thù oán nhau chỉ vì những tích lũy quá khứ, dồn lại, nén vào, kết thành bó, từ những truyện nhỏ, mưng lên thành truyện lớn. Còn gì là phải trái. Phải tiếp tục nuôi thù như một lẽ sống.
Không biết nuôi thù được coi như con người bất nhân, bất hiếu.
Lòng phải biết hận oán mới là người có nhân cách. Biết biện biệt, biết truy lùng cái xấu, cái độc ác của kẻ khác. Tội ác, hận oán rồi cứ thế được khuôn mẫu (stéréotyper), được tổng quát hóa (généraliser), được xếp loại (catégories) thành biểu tượng (symboles) thành nhãn hiệu (étiquettes). Đời sống con người được giản lược vào những mẫu mã, những nhãn hiệu đủ loại và qua đó người khác nhìn nhận ra chúng ta, đánh giá và phê phán theo nhãn hiệu đó.
Ta không còn là con người, một tên gọi mà là những mẫu hàng X, những nhãn hiệu Y đeo dính vào đời sống mỗi người. Đó là những gông cùm, những thập giá ta đeo vào trong suốt đời sống nhân thế.
Thật bất hạnh cho con người Việt Nam với vô số khổ đau, tủi nhục cộng thêm cái tủi nhục bị xếp loại, bị đeo gông cùm nhãn hiệu.