PDA

View Full Version : Phan Văn Trị và Tôn Thọ Tường



giavui
10-19-2014, 06:00 PM
24 bài thơ xướng họa của
Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị

LýTrầnLêNguyễn / Paris sưu tầm





http://sachhiem.net/images/nha.jpg (http://sachhiem.net/index.php)
08 tháng 1, 2011


Mừng Dương Lịch 2011
Nhóm LýTrầnLêNguyễn / Paris sưu tầm và kính chuyển đến quý liệt vị cùng thưởng thức 24 bài thơ xướng họa của Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị. Đồng thời cũng là dịp đọc lại trang sử Việt Nam Cận Đại lúc Thực dân Pháp xâm chiếm Tổ Quốc chúng ta với sự hổ trợ cuồng nhiệt của Cường Lực Quốc Tế.
24 bài thơ đường luật xướng họa, thể hiện một cuộc bút chiến giữa hai phe. Kính mời Quý Liệt Vị Trưởng Thượng nhận xét và phẩm bình.



Một bên là :
Tân tòng Da Tô giáo, tay sai Thực dân Pháp thực hiện nền Thống trị trên quê hương VN

Bài xướng : Tôn Thọ Tường


Một bên là :
Sĩ phu Văn Thân chống Pháp và Cường quyền quyết dành lại Độc lập cho quê hương VN

Bài họa : Phan Văn Trị



10 bài thơ liên hoàn " Giang san ba tỉnh"


Giang san ba tỉnh hảy còn đây,
Trời đất xui chi đến nỗi này ?
Chớp nhoáng thẳng bom dây thép kéo,
Mây tuôn đen kịt khói tàu bay.
Xăn văn thầm tính, thương đòi chổ,
Khấp khởi riêng lo, biết những ngày.
Miệng cọp hàm rồng, chưa dễ chọc,
Khuyên đàn con trẻ chớ thày lay !


1
Hơn thua chưa biết đó cùng đây,
Chẳng đã, nên ta mới thế này
Bến Nghé quản bao cơn lửa cháy,
Cồn Rồng dầu mặc bụi tro bay.
Nuôi muông giết thỏ còn chờ thủa,
Bủa lưới săn nai cũng có ngày.
Đừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ,
Lòng ta sắt đá há lung lay !



Thày lay lại chuốc lấy danh nhơ,
Ai mượn mình lo chuyện bá vơ ?
Trẻ dại, giếng sâu, lòng chẳng nỡ,
Đường xa, ngày tối, tuổi không chờ.
Áo xiêm chán thấy xăn tay thợ,
Xe ngựa nào toan gỡ nước cờ.
Rủi rủi may may đâu đã chắc ,
Miệng lằn lưỡi mối hãy tai ngơ !


2
Lung lay lòng sắt đã mang nhơ,
Chẳng xét phận mình khéo nói vơ !
Người trí mảng lo danh chẳng chói,
Đứa ngu mới sợ tuổi không chờ.
Bài hòađã sẳn trong tay thợ,
Việc đánh chưa thua giống cuộc cờ.
Chưa trả thù nhà đền nợ nước,
Dám đâu mắt lấp lại tai ngơ !



Tai ngơ mắt lấp buổi tan tành, ,
Nghĩ việc đời thêm hổ việc mình.
Nghi ngút tro tàn nhà đạo nghĩa,
Lờ mờ bụi đóng cửa trâm anh
Hai bên vai gánh ba giềng nặng,
Trăm tạ chuông treo một sợi mành.
Trâu ngựa dầu kêu, kêu cũng chịu,
Thân còn chẳng kể, kể chi danh !


3
Tai ngơ sao được lúc tan tành
Luống biết trách người chẳng trách mình.
Đến thế còn khoe danh đạo nghĩa,
Như vầy cũng gọi cửa trâm anh.
Khe sâu vụng tính dung thuyền nhỏ,
Chuông nặng to gan buộc chỉ mành.
Thân có, ắt danh tua phải có,
Khuyên người ái trọng cái thân danh.



Kể chi danh phận lúc tan hoang,
Biển rộng trời cao nghĩ lại càng.
Lên núi bắt hùm chưa dể láo,
Vào sông đánh cá, há rằng oan.
Người giương mắt ngạo đôi tròng bạc,
Kẻ ứa gan trung bảy lá vàng.
Chiu chít thương bầy gà mất mẹ,
Cũng là gắng gỏi, dám khoe khoang !


4
Thân danh chẳng kể, thiệt thằng hoang!
Đốt sáp nên tro lụy chẳng càn ...
Hai cửa trâm anh xô sấp ngữa,
Một nhà danh giáo xáo tan hoang.
Con buôn khấp khởi chưa từng ngọc,
Người khó xăn văn mới gặp vàng.
Thương kẻ đồng văn nên phải nhắc,
Dễ ta đâu dám tiếng khoe khoang.



Khoe khoang sức giỏi cậy tài khôn.
Múa mép khua môi cũng một phồn.
Tơ vấn cánh ruồi kinh trí nhện,
Gió đưa hơi cọp khiếp oai chồn.
Siêng lo há đợi cơm kề miệng,
Chậm tính nào ngờ nước đến trôn.
Hay dở chuyện đời còn lắm lối,
Múa men xin hãy chớ bôn chôn.


5
Khoe khoang việc phải mới rằng khôn.
Kẻ vạy người ngay há một phồn !
Hồng dẫu hư lông đâu sợ sẻ,
Hùm như thất thế dễ thua chồn.
Ngươi Nhan sá ngại dao kề lưỡi,
Họ Khuất nào lo nước đến trôn.
Tháy máy gặp thời ta sẽ động,
Muốn nên việc lớn chớ bôn chôn.



Hảy chớ bôn chôn việc cửa nhà,
Sau này còn ngại nỗi đàng xa.
Ma duồng cơn ngặt lung hai trẻ,
Trời mỏn lòng thương xót một già.
Lái đã vững vàng cơn sóng lượn,
Thoi toan đan dệt lúc mưa sa.
Ở đời há dễ quên đời được,
Tình thiệt so hơn cũng gọi là ...


6
Bôn chôn cũng bởi bận vì nhà,
Dám trách người xưa chửa tính xa?
Hăm hở hãy đang hăng sức trẻ,
Chìu lòn e cũng mỏn hơi già.
Mồi thơm cá quý câu không nhạy,
Cung yếu chim cao bắn chẳng sa.
Đáy giếng trông trời giương mắt ếch,
Làm người như vậy cũng rằng là ...



Cũng gọi là người ắt phải lo,
Có hay chịu khó mới nên trò.
Bạc mông mênh biển cầu toan bắc,
Xanh mịt mù trời thước rắp đo.
Nước ngược chống lên thuyền một mái,
Gác cao bó lại sách trăm pho.
Lòng này dầu hỏi mà không hổ,
Lặng xét thầm soi cũng biết cho

7
Rằng là người trí cũng xa lo,
Nhuần nhã kinh luân mới phải trò.
Ngay vạy nảy ra cho biết mực,
Thấp cao trông thấy há rằng đo.
Xe Châu nào đợi kinh năm bộ,
Níp Tống vừa đầy sách nửa pho.
Chuốc miệng khen người nên cắc cớ:
Đạo trời ghét vạy há soi cho !



Đã biết cho chưa, hỡi những người,
Xin đừng tiếc hận, chớ chê cười !
Ví dầu, vật ấy còn roi dấu,
Bao quản thân này chịu dể ngươi.
Trăng giữa ba thu mây cũng tỏ,
Hoa trong chín hạ nắng càng tươi.
Khó lòng mình biết lòng mình khó.
Lòn lỏi công trình kể mấy mươi.


8
Soi cho cũng biết ấy là người.
Chẳng tiếc thân danh, luống sợ cười;
Ba cõi may dầu in lại cũ,
Đôi tròng trông đã thấy không ngươi.
Ngọc lành nhiều vết coi sao lịch,
Thợ vụng ít màu nhuộm chẳng tươi.
Đứa dại trót đời, già cũng dại,
Lựa là tuổi mới một đôi mươi.



Kể mấy mươi năm nước lễ văn,
Rắn dài, beo lớn, thế khôn ngăn;
Bốn đời, chung đội ơn nuôi dạy, ,
Ba tỉnh, riêng lo việc ở ăn.
Hết sức người theo trời chẳng kịp,
Hoài công chim lấp biển không bằng.
Phải sao chịu vậy thôi thì chớ,
Nhắm mắt đưa chân lỗi đạo hằng.


9
Một đôi mươi uổng tính xăn văn,
Đất lở ai mà dễ dám ngăn ?
Nong nả dốc vun nền đạo nghĩa
Xốn xang nào tưởng việc làm ăn.
Thương người vì nước ngồi không vững,
Trách kẻ cầm cân kéo chẳng bằng.
Gió mạnh mới hay cây cỏ cứng,
Dõi theo người trước giữ năm hằng.



Đạo hằng chi trước thảo cùng ngay,
Lỗi đạo sao cho đáng mặt thầy.
Đất quét đã đành bia lỗ miệng,
Chén tràn e nỗi trở bàn tay.
Nghĩa đen dạy trẻ tranh còn lấp,
Mặt trắng xem trời cánh khó bay.
Chí muốn ngày nào cho được toại ?
Giang san ba tỉnh hãy còn đây !


10
Năm hằng vốn thiệt thảo cùng ngay,
Cuộc ấy ai xui khéo bận thầy.
Gặp lúc chẳng may nên ngậm miệng,
Chờ khi tháy máy sẽ ra tay.
Nổi chìm mặt thế tình dày mỏng,
Cao thấp dầu ta sức nhảy bay.
Một trận gió đưa xiêu ngã cỏ,
Hơn thua chưa quyết đó cùng đây.



Tôn Phu Nhân quy Thục


Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng,
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông!
Lìa Ngô, bịn rịn chòm mây bạc,
Về Hán, trau tria mảnh má hồng
Son phấn thà cam dày gió bụi,
Đá vàng chi để thẹn núi sông .
Ai về nhắn với Châu Công Cẩn :
Thà mất lòng anh, đặng bụng chồng.


Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng,
Mặt ngã trời chiều biệt cõi Đông.
Ngút tỏa đồi Ngô ùn sắc trắng,*
Duyên về đất Thục đượm màu hồng.
Hai vai tơ tóc bền trời đất,
Một gánh cang thường nâng núi sông
Anh hởi ! Tôn Quyền : anh có biết ?
Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng.

* có sách viết :
Khói tỏa trời Ngô chen thức bạc,




Từ Thứ quy Tào


Thảo đâu dám sánh kẻ cày voi,*
Muối xát lòng ai, nấy mặn mòi.
Ở Hán hãy còn nhiều cột cả,
Về Tào chi sá một cây còi !
Bâng khuâng nhớ mẹ khôn nâng chén,
Bịn rịn trông vua biếng giở roi.
Chẳng đặng khôn Lưu đành dại Ngụy,
Thân này xin gác ngoại vòng thoi!
* Vua Thuấn đi cày bằng voi


Quá bị trên đầu nhát búa voi,
Kinh luân đâu nữa để khoe mòi.
Xăn văn ruổi Ngụy mây ùn đám,
Dáo dác xa Lưu, gió thổi còi.
Đất Hứa nhớ thân sa giọt tủi,**
Thành Tương mến chúa nhẹ tay roi!
Về Tào miệng ngậm như bình kín,
Trân trọng lời vàng đáng mấy thoi ?
** Đất Hứa : tỉnh Hứa Xương








Trang Văn Học