PDA

View Full Version : 40 Gương Thành Công



anbinh
10-08-2010, 11:12 PM
40 Gương Thành Công

Dale Carnegie
Nguyễn Hiến Lê dịch


Gương 001

Somerset Maugham


Theo bạn, kịch nào có giá trị nhất từ trước? Có lần, các nhà phê bình nổi danh về kịch đã bầu kín ở Nữu Ước để lựa lấy mười kịch có giá trị nhất thì kịch Hamlet đứng đầu sổ. Kịch đó viết cách đây trên ba trăm năm. Rồi kịch thứ nhì không phải là kịch Macbeth, hoặc kịch Vua Lear, kịch Nhà buôn ở Venice, mà là kịch Mưa. Vâng, kịch Mưa, một kịch diễn sự chiến đấu dông tố giữa Tình dục và Tôn giáo, một kịch soạn theo một chuyện ngắn của Somerset Maugham.

Kịch Mưa đã đem lại cho Maugham bốn chục ngàn Anh Kim, mà ông không mất chút công nào để soạn nó.

Việc xảy ra như vầy: Ông viết môt truyện ngắn nhan đề là Sadie Thomson. Viết xong, ông chẳng nhớ gì tới nó nữa. Nhưng một đêm John Colton lại chơi nhà ông, và Colton muốn có cái gì đọc để vỗ giấc ngủ, Maugham bèn đưa cho Colton ấn cảo truyện đó.

Colton say mê đọc, kích thích lạ lùng. Ông nhẩy xuống sàn đi đi lại lại, tưởng tượng ra như thấy truyện đã diễn thành kịch, một kịch sau này sẽ bất hủ.

Sáng hôm sau, ông chạy tìm Somerset Maugham, bảo:"Truyện này viết thành một kịch hay được. Tôi đã nghĩ về nó suốt đêm hôm qua. Báo đời! Biểu cho người ta đọc cái gì để dễ ngủ, mà làm cho người ta không chợp mắt lấy được một phút!".

Nhưng Maugham vẫn thản nhiên đáp:

- Viết thành kịch ư? Một kịch bệnh hoạn thì được. Rồi đem diễn được trong sáu tuần lễ. Không đáng để ý tới. Thôi đi.

Và chính kịch mà ông không thèm để ý tới đó đã đem lại cho ông bốn chục ngàn Anh Kim.

Kịch viết xong, nhiều gánh hát từ chối. Họ tin chắc rằng sẽ thất bại. Chỉ có Sam Harris chịu nhận. Ông sở dĩ nhận là có ý cho một đào trẻ tên là Jeanne Eagels đóng. Nhưng người quản lý gánh hát không chịu, muốn lựa một đào có danh hơn.

Rốt cuộc, Jeanne Eagels cũng được đóng và nàng thành công. Kịch diễn bốn năm rưỡi một lần, lần nào cũng có nàng và lần nào rạp cũng đông nghẹt.

Somerset Maugham đã viết nhiều tiểu thuyết có danh như Of Human Bondage, The Moon and Six-pence và The Painted Veil, khoảng hai chục kịch hay. Nhưng chính kịch trứ danh nhất của ông thì, ông lại không viết.

Bây giờ nhiều người coi ông là một thiên tài, nhưng hồi mới bắt đầu viết, ông thất bại luôn mười một năm. Nhà văn đã kiếm được hai trăm ngàn Anh kim đó, trong mười một năm ấy chỉ kiếm được mỗi một Anh kim.

Nhiều lúc đói, ông muốn xin một chân trong tòa soạn một nhà báo nào đó để có một số tiền nhất định mỗi tháng, nhưng không ai nhận ông cả. Ông bảo: "Kiếm không được việc tôi đành phải tiếp tục viết như vậy". Lúc đó ông đã đậu bằng cấp y khoa bác sĩ, họ thôi thúc ông bỏ truyện ngắn, truyện dài đi mà làm thuốc ra toa cho tấm thân đỡ cơ cực. Nhưng không có gì làm ông thay đổi quyết định sắt đá của ông là lưu danh lại trên những trang Văn học sử Anh.

Bod Ripley, nổi danh về cuốn Believe it or not, có lần bảo tôi:"Một người có thể làm việc như mọi không ai biết đến, trong mười năm rồi nổi danh trong mười phút". Lời đúng với Ripley và cả với Maugham.

Lần đầu tiên Somerset Maugham được nổi danh là do một ngẫu nhiên. Một kịch nào đó thất bại và ông bầu một gánh hát kiếm một kịch bản khác để thay. Chủ ý ông chưa muốn kiếm một kịch được hoan nghênh, chỉ muốn kiếm một kịch cũ cũ nào đó diễn đỡ, đợi ngày gặp được một kịch có chân giá trị. Vậy ông tìm bậy trong tủ của ông, xem ra may được một kịch nào chăng, và rút ra một kịch của Somerset Maugham, nhan đề là Lady Frederick. Kịch đó ông nhét vào tủ đã mấy năm rồi, nhớ đã đọc qua, và biết là chẳng hay ho gì, nhưng diễn tạm được ít tuần. Ông bèn cho diễn. Và phép mầu đã hiện ra. Kịch Lady Frederick thành công rực rỡ. Khắp thành phố London, ai cũng nói tới. Từ hồi Oscar Wilde tới nay, chưa có kịch gia nào làm cho người Anh vui thích như vậy.

Tức thì hết thẩy các ông bầu hát ở Luân Đôn tranh nhau xin kịch của Somerset Maugham. Ông lục lọi các vở kịch cũ trong tủ ra, và chỉ trong vài tuần, ba kịch của ông được đem diễn trong những rạp lớn.

Tiền tác giả chảy vô như suối. Các nhà xuất bản lăn xả vô xin ký giao kèo với vị thiên tài mới xuất hiện đó. Giấy mời của các hội bay tới như mưa, và sau mười năm sống trong bóng tối, Somerset Maugham bỗng được hoan nghênh trong các phòng khách sang trọng nhất.

Ông nói với tôi rằng không khi nào ông làm việc quá một giờ trưa, vì buổi chiều, óc ông như đặc lại. Ông viết dưới một mái hiên trên từng thượng biệt thự của ông ở Nice. Luôn luôn ông hút ống điếu và đọc sách triết lý khoảng một giờ rồi mới bắt đầu viết. Khi quân Đức chiếm nước Pháp, ông qua Nam Caroline viết trong một đồn điền.

--------------------------
Nguồn: VietShare.com

anbinh
10-09-2010, 10:30 PM
Gương 002

Glenn L. Martin


Đêm rằm tháng giêng năm 1886, bà Minta Martin ở Macksbung nằm mộng thấy ngồi trên một cái máy, bay trên không trung, lượn trên châu thành bà ở, đưa tay ra vẫy vẫy bạn bè đứng dưới đường và buồn rầu vì họ không thể bay như mình được.

Việc đó xảy ra mười bảy năm trước khi hai anh em Wright bay thử lần đầu.

Gặp lúc khác thì chắc bà không để ý gì tới giấc mộng đó cả, nhưng hồi ấy bà đương có mang và đã được nghe nhiều người đoán điềm giải mộng nên bốn mươi tám giờ sau, khi sanh con trai là Glenn Martin thì bà tin rằng con bà sau này sẽ bay được trong không trung như bà.

Điều lạ lùng nhất trong truyện đó là con bà sau tập bay thật, sau hai anh em Wright một chút và là người thứ ba ở Châu Mỹ lái một máy bay tự mình sáng chế ra.

Bây giờ Martin là người đứng đầu trong kỹ nghệ hàng không mà ông đã làm cho phát triển một cách phi thường. Xưởng chế tạo của ông, tức công ty Glenn L. Martin, ở gần Baltimore xứ Maryland, là một trong ba xưởng chế tạo phi cơ lớn nhất thế giới. Ông đã đóng những chiếc Marauder cho lục quân, Mariner cho hải quân và Baltimore cho nước Anh. Ông là nhà chế tạo phi cơ danh tiếng nhất thế giới. Mà nếu thân mẫu ông không nằm mộng thấy mình bay lên trên không trung thì có lẽ ông đã không lựa nghề đó.

Bạn hỏi tôi:

- Tại sao vậy?

Là vì suốt thời thơ ấu của ông, bà cụ thường kể cho ông nghe giấc mộng ấy, gây cho ông một mục đích cao vời, một quyết tin, một tham vọng: chinh phục được thế giới của bão tố. Mà ở trên những cánh đồng cỏ miền Kansas, nơi tuổi thơ ông trôi qua, luôn luôn có những trận bão tố dữ dội cần phải chế ngự.

Trong một cuộc phỏng vấn, ông kể cho nghe rằng những trận gió ở Kansas đã đóng một vai trò chủ yếu trong thời thiếu niên của ông. Hồi sáu tuổi, ông lấy một chiếc mền cột vào chiếc xe nhỏ sơn đỏ, rồi cho gió thổi xe chạy trên đường phố như thuyền buồm chạy trên sông.

Sau ông đi giày đạp tuyết, tay cầm một chiếc buồm tự ông cắt lấy rồi để gió đẩy chạy trên băng. Ông cũng dùng cách đó để khỏi phải đạp xe máy. Ông bảo rằng thời đó hễ gặp một khu rộng nào có thể dùng buồm để di chuyển được là ông cũng mê mẩn, như bị thôi miên.

Tôi ngờ rằng cái thời xa xăm ấy, thời bà cụ Martin còn ở Kansas thì cụ chưa hề được nghe chữ tâm lý nhưng cụ đã dùng một phương pháp tâm lý mà các tâm lý gia ngày nay chắc chắn đều công nhận là hiệu quả, để nung lòng can đảm và đức tự tin của con trai. Khi con khôn lớn, làm được một việc gì thì cụ để cho cậu tự lãnh lấy mọi trách nhiệm. Một lần cậu muốn có một đôi giày trượt tuyết mà không có tiền mua, cụ bảo cậu lại tiệm thợ rèn mà mượn đồ, xin sắt, tự rèn lấy một đôi, cậu vâng lời làm liền. Muốn có một chiếc diều, cậu cũng phải làm lấy. Và đọc một tạp chí, cậu đã nảy ra ý chế ra một kiểu diều rất mới có hai tầng cánh. Cậu ráp nó trong nhà bếp và khi thấy nó bay thẳng hơn, cao hơn tất cả những diều khác ở Kansas, cậu thích thú, hăng hái vô cùng.

Cậu hãnh diện về sự thành công đó đến nỗi tự tổ chức cuộc thi diều và cậu thắng. Thế là các trẻ em trong châu thành đều năn nỉ cậu làm cho một chiếc diều như của cậu.

Cậu bé Glenn Luther Martin - mà năm chục năm sau chế tạo được chiếc phi cơ lớn nhất thế giới, chiếc Mars. Hồi đó lập một xưởng làm diều trong nhà bếp của bà cụ. Mỗi đêm cậu làm được ba chiếc diều và bán hai cắc rưỡi một chiếc: trả mặt một cắc rưỡi cho trả góp làm ba tuần, mỗi tuần năm xu.

Lòng tự tin của cậu còn tăng lên nữa khi cậu thấy mình có khiếu về máy móc và có thể làm được nhiều đồ mà các trẻ khác làm không được.

Ba chục năm sau, khi ông đã chế tạo những phi cơ đánh đắm được nhiều chiến hạm, một ký giả ở Cleveland lại phỏng vấn ông về những bước đầu trong nghề, ông đáp:

- Má tôi đã ảnh hưởng nhiều đến tôi. Người đã khuyến khích tôi làm diều trong nhà bếp. Người đã tập cho tôi đức tự tin.

Khi những chiếc xe hơi đầu tiên xuất hiện ở Kansas, Martin chỉ ước ao mỗi một điều là được lái loại xe kỳ dị chạy không cần ngựa đó. Ông xin được vào làm trong một hãng sửa xe. Sau này, khi gia đình ông dời qua Santa Ana ở California, ông mở một hãng sửa xe, xin được làm đại lý các hãng xe Ford và Maxwell. Hồi đó, ông hai chục tuổi, làm nghề bán và sửa xe ấy mà kiếm được từ ba đến bốn ngàn Mỹ kim mỗi năm.

Rồi một việc xảy ra làm cho cuộc đời ông thay đổi hẳn.

Một buổi sáng năm 1905, một tin trong báo làm ông sửng sốt rồi như bị thôi miên: hai anh em Wright ở Kitti Hawk, miền Bắc Caroline, đã bay được trong một trăm giây. Tin đó kích thích ông vô cùng, ông nhận ra rằng thứ máy bay đó đương rầm rộ mở một kỷ nguyên mới.

Vậy ra hai anh em Wright đã bay được trong một trăm giây. Ông lấy đồng hồ ra, đếm một trăm giây, rồi tự nhủ: "Có người bay được một trăm giây thì sau này sẽ có người chế tạo được những máy bay bay được một giờ, có lẽ năm giờ.... biết đâu chừng?"

Vài tháng sau ông lại bị kích thích một lần nữa: ông thấy một tạp chí kỹ thuật in hình phi cơ của hai anh em Wright. Nghiên cứu tỉ mỉ hình đó xong, ông thưa với bà cụ:

- Xét cho kỹ thì chẳng qua máy bay chỉ là một chiếc diều lớn có động cơ. Con làm diều được, thì cũng chế tạo một chiếc máy bay như vậy được, để con làm rồi lắp ráp cho má xem.

Bà cụ nhớ lại giấc mộng hồi xưa, đáp:

- Con có lý, con có lý, con tất làm được.

Hồi đó ông hai mươi tuổi, ham bay tới nỗi muốn bỏ hết thời giờ vào việc chế tạo máy bay. Nhưng không được như sở nguyện vì còn phải kiếm ăn nữa, cho nên ban ngày đành trông nom hãng xe hơi, còn ban đêm, ồ ban đêm, thì tha hồ muốn làm gì thì làm. Mới đầu ông đóng một kiểu diều lớn chở nổi một người, không có động cơ, rồi ông tập bay thử. Sau nhiều tháng tập bay như vậy, ông nóng lòng muốn chế tạo một phi cơ thực, có động cơ đàng hoàng. Nhưng phải làm ra sao bây giờ? Ông mù tịt hay gần như mù tịt về khoa khí động học, và chưa được học tập về kỹ thuật bao giờ.

Mặc dầu vậy ông cũng cố đóng một chiếc máy bay, không có bản đồ vẽ trước, mà cũng chẳng được ai giúp đỡ, chỉ bảo. Ông hăng hái lắm, lại một thư viện công cộng, đọc sách về kỹ thuật xây cầu vì ông nghĩ rằng biết cách xây cầu thì sẽ tìm được cách đóng một chiếc phi cơ nhẹ chở được một người và một động cơ.

Năm 1908 ông chế tạo xong chiếc phi cơ thứ nhất trong một nhà thờ bỏ hoang ở Santa Ana, xứ Californie mà ông phải mướn mỗi tháng mười hai Mỹ kim. Thân phụ ông mắc cỡ vì có đứa con điên điên khùng khùng bán xe hơi kiếm được rất nhiều tiền thì không chịu lại bỏ phí thì giờ chế tạo những máy để bay. Thanh niên trong tỉnh thấy ông bỏ ăn, bỏ ngủ, không biết là ngày lễ, ngày nghỉ là gì, cặm cụi hết tháng hết năm, cũng chế giễu ông nữa. Một bà già nọ lại thuyết thân mẫu ông để cụ bảo ông bỏ cái ý của ma quỷ đó đi.

- Nếu thượng đế muốn cho loài người bay được thì đã cho chúng ta cặp cánh rồi, phải không cụ?

Chỉ mỗi có một người khuyến khích ông là thân mẫu ông. Cụ nhớ lại giấc mộng của cụ. Cụ tin chắc con cụ sẽ bay được. Mỗi đêm cụ cặm cụi với con trong ngôi nhà thờ hoang, cầm chiếc đèn dầu chiếu sáng cho con làm. Kẻ tò mò ngó qua cửa sổ xem thằng khùng đó làm cái trò gì. Ông bực mình sơn các cửa kính không cho ai nhìn qua được nữa. Rồi ông khóa cửa lại. Nhưng họ vẫn tới để cười, chế ông. Ông lại phải mướn người coi cửa để ngăn họ đừng tới gần.

Luôn mười ba tháng như vậy, hai mẹ con ông làm việc đêm này qua đêm khác, cả trong đêm lễ Giáng Sinh, cả trong đêm Nguyên Đán. Nhưng xin bạn đừng phàn nàn cho họ. Công việc đó không phải là một công việc thường: nó là một sự đam mê. Không phải là một chuyện đóng một phi cơ mà là chuyện chinh phục thế giới của gió bão, cho một giấc mộng thành sự thật. Chắc chắn hồi ấy ông sống vui thích hơn một ông vua hoặc một nhà triệu phú rất nhều. Có lần ông bảo tôi rằng mười ba tháng đó là quãng đời đẹp nhất của ông.

Ông lắp một động cơ hai mã lực vào phi cơ của ông. Muốn cho nhẹ, ông thay cái vỏ gang bằng một cái vỏ đồng. Ông phải đẽo sáu chiếc chong chóng mới được một cái vừa ý.

Sau cùng phi cơ đóng xong. Phải phá một vài mảng tường của nhà thờ rồi ngày cuối tháng bảy năm 1909, vào nửa đêm, Glenn Martin và hai người phụ tá, đẩy máy bay ra ngoài, cho ngựa kéo nó lên đường cái hơn năm cây số nữa, tới một cánh đồng để sáng sớm hôm sau bay thử. Sở dĩ phải kéo ban đêm như vậy là để cho ngựa không thấy hình thù kỳ dị của nó mà hoảng hốt.

Tinh sương ngày mùng một tháng tám năm 1909, Glenn Martin leo lên phi cơ, mở máy, động cơ nổ vang trời. Ông lên số, máy ông rung chuyển mạnh, đâm xiên đâm xẹo, rồi thì, ôi phép mầu! Nó cất cánh được. Em nhỏ Glenn Martin xưa làm diều trong nhà bếp ở Kansas nay đã bay được. Phút đó là phút quan trọng nhất đời ông.

Sau ông đóng những chiếc China Clipper, tức những phi cơ đầu tiên đã vượt Thái Bình Dương và đóng rất nhiều phi cơ chiến đấu.

Đời ông là một tấm gương sáng cho ta thấy năng lực phi thường của một ý chí chuyên chú vào một mục đích độc nhất. Mới rồi ông nói với tôi:

- Nếu ông lựa một con đường và không khi nào quên mục đích của ông thì dù con đường khó khăn, lởm chởm đến đâu, rốt cuộc thế nào ông cũng tới được một nơi nào đó.

anbinh
10-10-2010, 03:06 PM
Gương 003

S. Parkes Cadman



Hồi trước, ở Nữu Ước, lúc nào rảnh, tôi thường qua sông East River để phiếm đàm vài giờ thú vị với S Parkes Cadman ở Brooklyn. Ông là một trong những người nổi danh nhất ở Mỹ. Ông giảng đạo trong nhiều năm và là một người tiền phong về phát thanh.

Nếu bạn cho rằng bạn làm không kịp thở thì xin bạn nghe tôi kể những công việc thường ngày của ông.

Bảy giờ sáng ông dậy, trả lời hai chục hoặc ba chục bức thư, viết một ngàn rưỡi chữ cho tờ báo của ông, soạn một bài thuyết giáo, hoặc viết tiếp một cuốn sách, đi thăm năm hay sáu tín đồ, trở về nhà, đọc trọn một cuốn sách mới xuất bản, vậy là xong việc trong ngày đó, và đi ngủ vào khoảng hai giờ sáng.

Theo chương trình đó trong bốn mươi tám giờ thì tôi sẽ tối tăm mặt mũi lại, vậy mà ông giữ đúng được hàng tháng, hàng năm! Bạn thử tưởng tượng xem! Có lần tôi hỏi ông làm cách nào. Ông đáp là dễ lắm, chỉ việc dự tính trước công việc.

Ông bảo không đọc thư cho thư ký đánh máy mà đọc trước một máy ghi âm, như vậy mỗi ngày tiết kiệm được một giờ. Ông lại nói chính Gladstone đã cho ông một bài học quý giá về cách làm việc. Khi điều khiển chính sự nước Anh, Gladstone kê bốn cái bàn trong phòng làm việc: một bàn cho các công việc văn học, một bàn cho thư từ, một bàn cho các việc chính trị và một bàn cho những việc nghiên cứu riêng. Gladstone nghĩ rằng thay đổi công việc thì làm việc được nhiều hơn, nên làm ở bàn này một lúc rồi qua bàn khác. Ông Cadman cũng theo đúng vậy, thay đổi công việc luôn và theo ông thì nhờ vậy óc ông được minh mẫn.

Ông thay đổi cả sách đọc. Nếu bạn tưởng rằng học giả Cadman chỉ đọc những sách về thần học, thì bạn lầm lớn. Ông cho rằng phải đổi sách đọc cũng như đổi món ăn. Vì vậy mỗi tuần ông đọc hai ba cuốn tiểu thuyết trinh thám. Ông thích Sherlock Holmes và cho truyện The hound of the Baskervilles là truyện trinh thám hay nhất từ trước tới nay.

Ngày tôi lại thăm ông, tôi thấy bốn cuốn sách trên bàn. Một cuốn giảng cách lựa thức ăn hàng ngày của bác sĩ Hay; một cuốn nhan đề là The Romance of Labrador (loại tiểu thuyết phiêu lưu), một cuốn hồi ký về triều đình vua Louis XIV, và một truyện trinh thám mới xuất bản.

Theo tôi cái điều lạ lùng nhất trong con người lạ lùng đó là ông làm phu trong mỏ than ở quê ông, ông mới mười một tuổi, và trong mười năm đằng đẳng ông tiếp tục làm dưới mỏ tám giờ mỗi ngày để nuôi một bầy em dại.

Bấy giờ ai mà chẳng nghĩ rằng ông không làm sao thành người có học được. Vậy mà sau này ông thành một người học rộng nhất châu Mỹ. Ông bảo tôi rằng bất kỳ về ngành nào trong văn học Anh, ông cũng biết được kha khá. Hồi ông làm mỏ, luôn luôn phải đợi một hoặc hai phút để người ta trút hết than trong xe ông đẩy, trong lúc đợi, ông rút trong túi ra một cuốn sách. Bạn biết rằng trong mỏ than tối tăm đến nỗi đưa bàn tay ra cũng khó thấy được, vậy mà ông ránh đọc sách nhờ ánh sáng mù mù của chiếc đèn cũ. Bạn lại nhớ mỗi lần ông được nhiều lắm là được một trăm hai mươi giây song ông vẫn mang sách theo. Ông bảo rằng thà không đem cơm theo chứ không chịu không đem sách theo.

Vì ông biết chỉ có mỗi một cách thoát được cảnh ngục trong mỏ là đọc sách. Cho nên trong mười năm làm phu mỏ, mượn hay xin được cuốn sách nào trong làng bên cạnh là ông cũng đọc, trước sau hơn một ngàn cuốn. Vậy thì sau ông thành công, có gì lạ đâu. Một người như ông thì không có sức gì làm cho phải ngừng bước mà không tiến nữa. Mười năm sau sức học của ông đã kha khá, ông thi đậu một cách vẻ vang và được học bổng vào trường đại học Richmond.

Mỗi chủ nhật ông giảng đạo cho trên năm triệu tín đồ. Ông là một nhà thuyết giáo nổi danh nhất. Khắp thế giới đều được nghe giọng ông. Một lần đề đốc Byrd đánh vô tuyến điện tín từ Litte American cho ông để tỏ nỗi vui của bọn thám hiểm khi bắt được tiếng ông ở một nơi chân trời, gần Nam Cực. Vậy mà khi Cadman mới tới châu Mỹ, ông chỉ xin được việc thuyết giáo trong một nhà thờ, cho một trăm rưỡi tín đồ ở Millbrook, tiểu bang Nữu Ước. Họ định trả ông mỗi năm một trăm hai mươi Anh kim, nhưng không đủ tiền, đành trả ông bằng heo, gà, trái bom, khoai tây. Có người tặng ông một đống rơm.

anbinh
10-13-2010, 09:45 PM
Gương 004

Đại Tướng Montgomery


Chín trăm lẻ hai chiến tranh đã xảy ra trong hai ngàn rưỡi năm nay: vậy mà đại tướng Anh là Bernard Montgomery đã lập được một kỷ lục mới trong nghệ thuật cầm quân. Trong mười lăm tuần lễ, ông và đội quân thứ tám của ông, tức "Đội quân sông Nile" đã đánh đuổi đại tướng Rommel và đội quân Phi Châu chạy dài khoảng ba ngàn cây số ra khỏi sa mạc Phi châu.

Trước khi ra quân, đại tướng Montgomery bảo sĩ tốt rằng họ sắp chiến đấu một trận quyết liệt trong lịch sử, một trận có lẽ đổi hướng cho đại chiến thứ nhì. Mà đúng vậy. Nếu đại tướng đại bại ở El Alamein thì quân Đức đã chiếm được Ai Cập, kinh Suez và có lẽ cả những mỏ dầu ở Iran và Iraq. Rồi họ có thể băng qua Ấn Độ bắt tay quân Nhật và cắt đứt những đường tiếp tế từ Nga và Trung Hoa.

Vậy mà thiếu chút nữa đại tướng đã không được cơ hội cầm quân ở El Alamein. Nguyên do là trong đại chiến thứ nhất, tại trận Meteron ông bị thương nặng ở phổi đến nỗi người ta tưởng ông đã chết và đem đi chôn. Thân mẫu ông kể lại chuyện đó như sau:

"Bernard ngã gục và người lính chạy giấy của nó bị bắn trúng tim, chết đè lên nó. Nó bất tỉnh, và được chở tới phòng cấp cứu. Bác sĩ bảo:"Người này chỉ sống được nửa giờ nữa thôi". Viên đại tá liền cho lệnh đào huyệt. Người ta đem xe cam nhông chở Bernard đi. Trên đường tới huyệt, người cầm lái thấy nó cựa cậy nhè nhẹ, bèn bảo bác sĩ: "Cái thây này chưa chết".

Vâng, nhờ trời, thây đó còn sống thật, và thây đó sau này thành một đại tướng nổi danh nhất của Anh trong đại chiến thứ nhì.

Bernard Law Montgomery đã suýt thành một nhà thuyết giáo, chứ không phải là một đại tướng. Thân phụ ông là giáo sĩ H.H. Montgomery, giám mục ở Tasmania và Bernard Montgomery muốn theo gót cha.

Nhưng năm 1899, ông mười hai tuổi, một hôm đứng trên lề đường London, nhìn đoàn quân diễn qua để sang Châu Phi đánh giặc Boer, nghe tiếng kèn, tiếng trống hùng dũng, thấy đám đông hoan hô, ông nhớ lại những chuyện phiêu lưu mà thân mẫu ông đã kể cho ông nghe hồi nhỏ rồi cuộc đời anh dũng của ông nội ông, Robert Montgomery, một vị trung tướng nổi danh trong những trận Ấn Độ. Thế là từ đó trong lòng em nhỏ mười hai tuổi ấy, dào dạt ý muốn làm một nhà cầm quân đại tài chứ không chịu làm một nhà thuyết giáo. Em cũng muốn được diễn qua thành phố London trong đám cờ bay phất phới và dân chúng hoan hô.

Thân mẫu ông kể chuyện những danh nhân Anh như Cromvell, Clive, Drake và Nelson để tiêm cho ông tinh thần mạo hiểm.

Ông được sinh trưởng trong một nhà đầy những sách bất hủ và được hấp thụ những tư tưởng cùng lý tưởng thanh cao. Một hôm thân phụ ông gọi bốn người con vào phòng sách và bảo họ rằng họ đủ trí khôn để tự lựa chọn lấy con đường đi trong đời rồi, cụ không phải dắt dẫn nữa; nhưng lựa đường nào thì lựa, họ cũng không quên được mục đích giúp nước.

Và muốn dự bị để giúp nước, Bernard Montgomery vào trường võ bị Sandhurst. Trong bốn chục năm nay ông là một quân nhân chuyên nghiệp.

Phần nhiều những thắng lợi của ông trong việc cầm quân là nhờ ông có tài dẫn đạo người. Ông tuyên bố rằng điều kiện quan trọng nhất để thắng trận là lòng người: "Không phải là xe tăng, hoặc chiến xa, chiến hạm mà thắng trận được đâu. Thắng được là nhờ con người trong những xe, những tàu đó".

Ông lại nói "Bất kỳ người nào trong bộ đội cũng phải có chí quyết chiến hiện ra ở tia sáng con mắt". Ông bảo bộ đội thứ tám của ông rằng họ là những lính thiện xạ nhất hoàn cầu, đã đầy danh vọng, chưa hề thua trận nào, và không có sức gì ngăn cản bước tiến của họ được. Ông lại tâm sự với họ, cho họ biết họ sắp phải làm những việc gì. Ông cho họ những mục tiêu rõ rệt để nhắm. Ông nói để họ vững lòng vì rằng chỉ khi nào ông có đủ khí giới, có đủ không lực để thắng thì ông mới đưa họ ra trận. Ông cho biết hai quy tắc của ông:

Quy tắc thứ nhất: đừng bao giờ để quân địch ồ ạt tấn công mình đến nỗi mình rối hàng ngũ.

Quy tắc thứ nhì: Không chắc chắn là thắng trận thì đừng bao giờ ra quân. Trong một thông điệp gửi cho quân đội, ông viết:"Nếu tôi không chắc thắng thì không khi nào tôi chiến đấu. Nếu tôi còn phải lo lắng ngại ngùng thì tôi chưa đánh vội, mà chờ cho tới khi mọi sự sẵn sàng".

(...) Kỷ luật của ông rất nghiêm. Một lần, trong một hội nghị quân sự, ông bảo: "Tôi không muốn các ông hút thuốc hoặc ho. Vậy các ông không được hút thuốc ở đây. Ngay bây giờ các ông có thể ho trong hai phút, rồi thì ngừng ho trong hai mươi phút cho tới khi tôi lại để các ông ho trong sáu mươi giây nữa".

Đối với kẻ địch, ông không có tính ghét cá nhân. Ông thường treo hình Rommel trên đầu gường ông và nói rằng muốn được gặp Rommel trước khi chiến đấu. Tại sao? Tại ông nghĩ nếu được nói chuyện với một người mình sắp tấn công, thì dễ đoán được người đó sẽ dùng chiến thuật nào.

Khi bắt sống được tướng Von Thoma, cánh tay mặt của Rommel, ông mời Von Thoma lại dùng cơm tối với ông. Ông vẽ phác chiến trường trên khăn phủ bàn và chỉ cho Von Thoma thấy tại sao Rommel không thể thắng được.

Khi ông chỉ huy quân đội thứ mười hai, trên tường phòng giấy của ông có treo một dấu hiệu ý nghĩa là: "Đã sẵn sàng trăm phần trăm chưa? Khí lực có sung không? Sáng dậy có ca hát vui vẻ không?"

Sự thật thì đại tướng Montgomery không bao giờ thức dậy mà ca hát vui vẻ, hoặc nói năng một tiếng gì hết. Người ta đánh thức ông và một giờ sau ông mới bước ra khỏi giường. Sáu giờ sáng người ta đánh thức ông, ông uống một ly cà phê rồi nằm thêm một giờ nữa để suy nghĩ, tính toán. Những chi tiết lặt vặt, ông để người khác giải quyết, ông tổ chức công việc hàng ngày để không lúc nào phải vội vàng. Ngày mai ra quân thì hôm nay ông vẫn ung dung. Kế hoạch tấn công đã định trước rồi. Ông bảo có thể thắng trận và phải thắng trận từ khi tiếng súng đầu tiên nổ, thắng bằng cách tính kỹ kế hoạch từ trước.

Khi trận đã bắt đầu khai diễn thì ông nghỉ ngơi. Ông lên giường nghỉ một giờ trước khi pháo binh của ông tấn công Rommel ở El Alamein. Bốn giờ rưỡi sau, hồi một giờ rưỡi khuya, vị phó quan của ông đánh thức ông để phúc trình tình hình mặt trận. Ông nghe, ra lệnh xong rồi tắt đèn, lại ngủ nữa. Sở dĩ ông tự tin ghê gớm như vậy là nhờ ông đã tính toán kỹ lưỡng, nắm được ưu thế trên không và sĩ tốt của ông thiện chiến mà khí giới thì đầy đủ. Đại tướng lấy lời huấn hỗ dưới đây của thân phụ ông làm phương châm: "Con sinh trong một vọng tộc. Vọng tộc không phải chỉ có nghĩa là bề ngoài sang trọng mà còn có nghĩa là tâm hồn thanh cao, nhã nhặn. Phải ghét những cái gì nhục nhã, ti tiểu và dơ bẩn".

anbinh
10-13-2010, 09:47 PM
Gương 005

John D. Rockefeller


John D. Rockefeller đã làm được ba việc hơi khác thường trong đời ông.

Việc thứ nhất là đã gây được một gia tài có lẽ lớn nhất trong lịch sử. Khi ông bước vào đời, ông phải đi đào khoai tây dưới ánh nắng gay gắt để kiếm được mỗi giờ bố xu. Hồi mà khắp Hoa Kỳ không có tới sáu nhà triệu phú thì John Rokefeller đã gây nổi một gia tài khoảng một hai tỷ Mỹ kim.

Việc thứ nhì là John D. Rockefeller giúp cho mọi cơ quan một số tiền lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Ông đã giúp sáu triệu Mỹ kim, tính ra từ khi đức Chúa Ki Tô ra đời đến nay, cứ mỗi phút ông phân phát sáu cắc rưỡi, hoặc từ khi Moise dắt dân Israel qua Hồng Hải đến nay luôn ba ngàn năm, cứ mỗi ngày ông phân phát sáu trăm Mỹ kim.

Vậy mà thiếu nữ ông mê lần đầu tiên lại chê ông. Tại sao? Tại bà mẹ cô ta bảo không khi nào chịu gả con cho một anh chàng không có tương lai.

Việc thứ ba cũng hơi đặc biệt nữa là ông sống chín mươi bảy tuổi. Ông là một trong những người bị tất cả Châu Mỹ ghét nhất. Ông nhận được hàng ngàn bức thư đe dọa ông. Suốt ngày đêm phải có lính hộ vệ ông, khí giới đầy đủ. Công việc chỉnh lý và điều khiển vô số xí nghiệp của ông làm thần kinh và cơ thể ông căng thẳng ghê gớm mà ông chịu nổi.

Harriman, nhà chuyên môn xây đường xe lửa, làm việc mệt quá, chết hồi sáu mươi mốt tuổi.

Woolworth, người sáng lập những tiệm bán hàng giá độc nhất ở khắp nước, chết hồi sáu mươi tám tuổi.

John D. Rockefeller gây được một gia tài gấp mấy lần gia tài của Harriman, Woolworth, Duke hợp lại. Mà xin bạn nhớ rằng một triệu người chỉ có ba người thọ được chín mươi bảy tuổi. Và trăm triệu người không chắc có được một người sống tới tuổi đó mà không phải dùng răng giả: John Rockefeller tới chín mươi bảy tuổi vẫn còn đủ răng!

Bí quyết sống lâu của ông ở đâu? Chắc chắn là do di truyền, nhưng cũng nhờ bản tính ông điềm tỉnh nữa. Không bao giờ người ta thấy ông nóng nảy, cũng không bao giờ ông vội vàng.

Khi ông làm Giám Đốc công ty Standard Oil, ông kê một chiếc đi-văng trong phòng giấy ở Broadway, và muốn gì thì gì, mỗi bữa trưa ông cũng đánh một giấc nửa giờ. Ông giữ thói quen mỗi ngày ngủ năm giấc ngắn cho tới khi mất.

Hồi năm hai mươi lăm tuổi ông mới đau lần đầu. Thật là một tin mừng và rất quan trọng đối với y học vì khi khỏi bệnh, ông tặng cả triệu Mỹ kim vào công việc nghiên cứu y học. Nhờ vậy mà ngày nay Viện Rockefeller mỗi tháng tiêu được khoảng một triệu Mỹ kim vào chiến dịch diệt bệnh ở khắp thế giới.

Năm 1923 tôi đương ở Trung Hoa thì bệnh thời khi hoành hành ghê gớm ở đó, và ở giữa cảnh nghèo nàn và nggu dốt của người Trung Hoa, tôi có thể lại Bắc Binh tiêm thuốc ngừa bệnh ở Viện Rockefeller. Trước ngày đó tôi không thấy được công ông giúp hạng người đau khổ ở châu Á và những nơi hẻo lánh nhất thế giới. Viện Rockefeller đã rán diệt loài sán. Hiện nay Viện đương tấn công bệnh rét rừng và các y sĩ của viện đã tìm thấy thuốc trừ một bệnh sốt rét ghê gớm, bệnh hoàng ngược.

Nhưng con người giàu nhất thế giới đó xây dựng sự nghiệp khổng lồ cách nào?

Ngay từ hồi nhỏ ông đã có tư cách tỏ rằng sau này sẽ thành công. Ông là con một y sĩ lang thang, thường đi nơi này nơi khác, để mẹ con ông ở nhà, trong một trại ruộng tại Moravia, gần hồ Owasco, giữa một xứ của dân da đỏ. Một hôm John thấy một con gà mái rừng đi tìm chỗ yên tĩnh để làm ổ. Mẹ ông bảo ông đi kiếm ổ gà đó rồi bắt con gà đem về trại nuôi. Ông mất hai ngày mà không có kết quả. Nhưng, đúng như lời một người viết tiểu sử ông chép lại chuyện đó, ông có cái "Thiên tài kiên tâm","Một sức kiên tâm tàn nhẫn, không gì lay chuyển được". Ông không chịu thua, tiếp tục rình con gà, theo dõi nó hoài và hai ngày sau, ông bắt được cả mẹ lẫn con về trại. Lần nuôi gà đó là công việc làm ăn đầu tiên của ông. Ông bán được tiền, bỏ vào một chiếc chén rạn. Để kỷ niệm bước đầu đó, sau này, trong cái trại nổi tiếng rộng bốn ngàn mẫu của ông ở Pocantico Hills, luôn luôn ông nuôi một bầy gà mái tây cho tới khi ông chết.

Đi học ông cũng siêng năng nhưng không có nhiều kết quả. Ông chỉ thích môn toán. Sau này ông bảo:

-Tôi chỉ là một người thích những con số. Ông tập tìm hiểu nghĩa của các số đi. Nó sẽ cho ông biết nhiều sự thực cay đắng mà thấy rõ được tương lai.

Ông được mười một tuổi khi thân mẫu ông ở nhà một mình, phải chống cự với cảnh cơ hàn để nuôi năm người con. Ông phải làm mướn cho một chủ trại láng giềng và ki cóp tiền công cho tới khi trong cái chén rạn của ông có được năm mươi lăm Mỹ kim. Lúc đó ông đem trọn số tiền cho chủ vay, lời bảy phân, và ông thấy rằng số vốn đó mỗi năm đem lại cho ông một số tiền bằng tiền công mười ngày làm việc mệt đừ.

Ông nói:

-Thế là tôi giải quyết được vấn đề. Tôi quyết định ngay là sẽ bắt tiền bạc làm nô lệ cho tôi, chứ không chịu làm nô lệ cho tiền bạc nữa.

Vài năm sau, John D. Rockefeller vào làm thư ký trong một tiệm bán buôn đồ tạp hoá ở Cleveland. Ông làm phụ về kế toán rồi lên làm sếp kế toán. Chủ không chịu tăng lương, ông xin thôi, cùng với hai bạn thân, ra mở tiệm. Trong công việc làm ăn này, ông chỉ trông nom sổ sách. Công việc phát triển, nhưng chàng thanh niên Rockefelle tiếp tục sống quá giản dị: Chàng để dành vốn. Kế đó, ở Clevelanl người ta ùa nhau đi kiếm dầu lửa ông cũng theo gót người ta đi kiếm dầu. Trái hẳn với điều nhiều người tưởng, không phải dầu lửa làm cho Rockefeller giàu có: Rockefeller là cái máy làm ra tiền, bất kỳ ở đâu cũng làm giàu được, dù là bán tạp hoá hay bán dầu lửa. Nhưng dầu lửa mở cho ông những thị trường rộng hơn. Chỉ trong vài năm, anh chàng bán tạp hóa tư bản đó (lúc ấy vốn của ông đã quan trọng), bỏ việc kế toán của tiệm để đảm nhiệm công việc kế toán trong nhà máy lọc dầu. Xí nghiệp phát triển, số lời tăng lên, nhưng luôn luôn ông đập lời vào vốn. Ký hiệu của Rockefeller là cục tuyết, càng lăn trên tuyết thì càng lớn lên. Lần đầu ông nuốt hết những hãng lọc dầu cạnh tranh với ông. Khi ông về Nữu Ước, ông đã tỷ phú mà ráng làm không cho ai biết mình. Những tỷ phú khác thì yến tiệc lưu liên, sắm du thuyền, lập chuồng nuôi ngựa đua, cất lâu đài ở Ecosse, còn ông thì sống như một tiểu tư sản lương thiện trong một gia đình nhũn nhặn, kiểu mẫu. Thói quen của ông sau này có thay đổi, mức sống của ông có tăng lên, như số chi tiêu bao giờ cũng ở dưới số tăng của tiền lời. Về già ông dựng một trại quá sức tưởng tượng, tức trại Pocantico Hills: mấy ngàn mẫu rừng, bãi cỏ, vườn tược, trong đó có đường cái, dòng nước và bảy mươi lăm biệt thự cho con cháu! Nhưng nếu John D. Rockefeller lập trại đó hai chục năm trước, thì ông đã không còn là John D. Rockefeller, nhà giữ kỷ lục khắp thế giới về việc gây vốn nữa. Và khi ông lập trại thì phí tổn không thấm vào đâu với số lời của ông: hiện nay mỗi tháng ông lời trên sáu triệu Mỹ kim, không có cách tiêu pha điên cuồng nào mà hết được số tiền ấy. Bây giờ thì cái xa xỉ lớn nhất của ông là không thuộc về đời tư của ông nữa, mà thuộc về những công việc từ thiện, việc xây dựng những viện khảo cứu khoa học, việc trợ cấp để bảo tồn điện Versailles, nhà thờ Reims và biết bao bảo vật khác của văn minh. Và mặc dầu tiêu pha nhiều như vậy, gia tài của John D. Rockefeller cũng vẫn tiếp tục tăng theo cái mức trên dưới một trăm Mỹ kim mỗi phút!

anbinh
10-13-2010, 09:49 PM
Gương 006

Albert Einstein


Một ngày cách đây mấy năm, tôi đi chơi trong một châu thành nhỏ tại miền Nam nước Đức, thì một ông bạn cùng đi với tôi bỗng đứng lại, chỉ một cửa sổ ở trên lầu một tiệm tạp hoá và bảo:"Anh thấy căn phòng nhỏ ở trên kia không? Einstein ra đời tại đó".

Chiều tối hôm đó tôi gặp Einstein tại nhà một ông chú của ông, và tôi không có cảm tưởng rằng ông là một bậc siêu quần. Điều đó không có gì lạ, vì ngay hồi nhỏ cũng không ai tin rằng ông có tài gì lớn. Bây giờ người ta nhận rằng ông là một tuyệt thế thông minh, một vị khổng lồ của thế hệ này, một trong những nhà tư tưởng sâu sắc nhất cổ kim, vậy mà năm chục năm trước ông là em nhỏ chậm chạp, nhút nhát, đần độn, tập nói một cách cực kỳ khó khăn. Ông tối dạ đến nỗi thầy học của ông phải bực mình và song thân ông sợ rằng ông vào hạng hạ nhân.

Ít năm trước đây một buổi sáng, ông thức dậy ngạc nhiên thấy mình thành danh nhân bực nhất thế giới, không thể tin được rằng một giáo sư toán mà lại được báo chí khắp toàn cầu in tên bằng chữ lớn lên trang đầu như vậy. Ông là một nhà khoa học chứ đâu phải là một nhà quyền thuật hạng Jack Dempsey. Ông thú rằng không thể hiểu được điều đó. Mà cũng không ai hiểu được điều đó. Vì một chuyện như vậy chưa hề xảy ra trong lịch sử loài người.

Con người của ông cũng lạ lùng như thuyết Tương đối của ông vậy. Ông khinh những cái mà phần đông loài người mơ ước như danh vọng, của cải, xa hoa. Chẳng hạn thuyền trưởng một chiếc tàu biển nọ dành cho ông dãy phòng sang trọng nhất dưới tàu, ông từ chối, bảo rằng đi hạng chót còn thích hơn là nhận bất kỳ một đặc ân gì.

Ngày ngũ tuần của ông, chính phủ Đức ban cho ông đủ các ân huệ, dựng một tượng bán thân của ông ở Potsdam, tặng ông một dinh thự và một chiếc tàu buồm, gọi là tỏ lòng quý mến và ngưỡng mộ bất tuyệt của dân tộc.

Nhưng chỉ ít năm sau, người ta lấy lại hết những cái đó và ông sợ, không dám trở về quê quán nữa. Trong mấy tuần lễ, ông trốn trong một ngôi nhà, cửa song sắt ở nước Bỉ và đêm nào cũng có một người lính canh cho ông ngủ.

Khi ông tới Nữu Ước để làm giáo sư toán ở trường đại học Princeton, ông sợ các nhà báo phỏng vấn và dân chúng hoan hô, nên các bạn thân của ông phải bí mật cho ông xuống thuyền đưa lên bờ trước khi tàu ghé bến rồi chở ông đi bằng xe hơi.

Ông nói rằng khắp thế giới chỉ có mười hai người hiểu được Thuyết tương đối của ông, mặc dầu đã có trên chín trăm cuốn sách giảng giải nó.

Chính ông giải thuyết đó bằng thí dụ dễ dàng và hóm hỉnh này: "Khi anh ngồi với một mỹ nhân, thì một giờ anh tưởng chừng chỉ bằng một phút, nhưng khi ngồi trên một lò lửa nóng thì mới một chút anh coi là một giờ".

Tương đối là vậy, chứ có gì đâu. Tôi cho nó đúng, còn nếu bạn ngờ nó sai thì bạn cứ thí nghiệm, nhưng xin bạn ngồi trên lò nóng còn để tôi ngồi với mỹ nhân nhé.

Bà Einstein nói rằng bà không hiểu thuyết tương đối là cái quái gì cả, nhưng bà hiểu một cái gì quan trọng đối với đàn bà hơn, là hiểu chồng bà.

Một đôi khi có khách khứa lại uống trà và bà lên lầu mời Giáo sư xuống chuyện trò ít lâu. Ông la bể nhà nhà lên: "Không! Không! Tôi không xuống! Không xuống! Tôi phải đi khỏi nhà này mới được. Làm việc ở đây không được. Cấm đấy, không được làm ngưng công việc của tôi như vậy được nữa đa".

Bị ông la như vậy bà cứ điềm tỉnh, để ông phát hết cơn giận của ông ra, rồi bà khéo léo ngoại giao làm sao mà ông cũng xuống nhà dưới uống trà và xả hơi một chút. Bà làm vậy chỉ vì thấy ông làm việc quá mà muốn cho ông nghỉ.

Bà bảo rằng chồng bà thích sự thứ tự trong tư tưởng mà không thích sự thứ tự trong đời sống. Ông muốn làm cái gì là làm, chẳng kể giờ giấc gì cả. Ông hành động chỉ theo hai quy tắc. Quy tắc thứ nhất là không có quy tắc nào cả. Và quy tắc thứ nhì là bất chấp dư luận.

Ông sống cực kỳ giản dị, đi đâu cũng chỉ bận áo cũ, nhàu nát, ít khi đội nón; vào phòng tắm thì ca hát, huýt còi vang lên. Xà bông để tắm thì ông dùng để cạo râu. Con người rán giải quyết những bí ẩn phức tạp nhất của vũ trụ đó, bảo rằng dùng hai thứ xà bông chỉ làm cho đời thêm phức tạp. Nhìn ông tôi có cảm tưởng rằng ông rất sung sướng. Triết lý về hạnh phúc của ông giúp cho tôi nhiều hơn thuyết tương đối của ông. Mà tôi cho rằng triết lý hạnh phúc đó rất cao đẹp. Ông bảo rằng ông sung sướng vì ông không cần một thứ gì của bất kỳ người nào. Ông không cần tiền, không cần chức tước, không cần lời khen. Ông tìm hạnh phúc cho ông trong những việc rất giản dị là làm việc, chơi vĩ cầm và thả thuyền.

Cây đờn vĩ cầm làm cho ông vui nhất. Ông bảo rằng ông thường suy nghĩ bằng âm nhạc, và mơ mộng bằng âm nhạc.

Một lần, đi xe điện ở Bá Linh, ông bảo người bán giấy đã tính lộn khi thối tiền cho ông. Người đó đếm lại thấy đúng, đưa tiền cho ông, bảo: "cái tai hại của ông là ông không biết đọc con số".

anbinh
10-16-2010, 09:14 PM
Gương 007

Upton Sinclair


Upton Sinclair đã viết bốn mươi tám cuốn sách và bán ra trên năm trăm bài châm biếm. Sách của ông đã bán được hai triệu cuốn ở Đức, ba triệu cuốn ở Nga. Nhhững truyện có tính cách cấp tiến của ông có lẽ đã giúp cho cách mạng Nga thành công. Mặc dầu ông là người Mỹ mà sách của ông được hoan nghênh ở châu Âu nhiều hơn là ở Mỹ. Có lần tôi vào một tiệm sách nhỏ ở miền Nice, thấy sách của Upton Sinclair còn nhiều hơn sách của hết thảy các tác giả Anh, Mỹ khác nhập lại. Tác phẩm của ông đã được dịch ra bốn mươi bốn thứ tiếng và có lần ông bảo tôi rằng chính ông cũng không biết hết những tiếng đó là tiếng gì và ở nước nào. Khắp thế giới, ông là nhà văn còn sống mà được nhiều người đọc nhất.

Bây giờ ông sáu mươi tám tuổi và ông đã viết trên năm chục năm, từ hồi ông mười sáu. Ông đã viết hàng tỉ chữ, hơn số chữ trong Cựu và Tân Ước hợp lại.

Vẻ mặt ông hao hao như ông Woodrow Wilson và ông hăng hái nuôi một lý tưởng. Ông muốn diệt con ma nghèo, vì kinh nghiệm đã cho ông biết nỗi cay đắng của cảnh nghèo. Ông bảo tôi rằng có lần, luôn trong sáu năm trường, gần như ngày nào ông cũng bị cái đói gậm nhắm.

Thân phụ ông là một người bán rượu Whisky và nghiện rượu, và hồi nhỏ, khi ở Baltimore, rồi sau ở Nữu Ước, cứ đêm đêm, ông thường đi kiếm cụ ông ở khắp các tửu quán, rồi đỡ cụ về nhà, khiêng vào gường, còn cụ bà thì móc túi chồng để lấy tiền giấu đi, phải vậy thì hôm sau mới có tiền đi chợ. Gia đình đó nghèo tới nỗi họ phải sống trong những nhà cho mướn rẻ tiền nhơ nhớp đầy muỗi, rệp, nghèo tới nỗi phải dời nhà hoài, vì thiếu tiền trả, bị chủ đuổi.

Upton Sinclair nhiệt liệt chủ trương sự cấm bán rượu mạnh. Ai ở vào cảnh ông mà không vậy. Rượu mạnh đã tàn phá gia đình ông và làm cho tuổi thơ của ông khô héo cằn cỗi. Ông bảo rằng rượu mạnh đã làm cho hai người bạn thân nhất của ông chết yểu, tức Jack London và Eugene V. Debs. Ông cũng không uống trà và cà phê mà cũng không hút thuốc.

Mãi tới hồi mười tuổi, ông mới được tới trường nhưng đã tự học và biết đọc, và trước khi vô trường thì ông đã ngấu nghiến hết các tác phẩm của Dickens và của Thackeray, lại đọc mấy chục cuốn sách khác và một phần lớn bộ Bách khoa tự điển. Mới vô trtường được hai năm, ông đã đủ sức theo ban đại học rồi.

Hồi vào đại học, ông không có lấy một xu mà lại phải nuôi mẹ nữa. Vì vậy, ông phải vừa học vừa viết những truyện cười ngăn ngắn cho các tạp chí rẻ tiền, để lấy tiền ăn học tại City College ở Nữu Ước và trường đại học Columbia. Mỗi đêm ông đọc cho người khác chép một truyện dài tám ngàn chữ, nghĩa là mỗi tháng ông vừa học vừa viết được một tiểu thuyết dài trung bình. Sức làm việc của ông thật kinh thiên. Cả một triệu người không được một người như ông.

Ở trường đại học ra, ông viết những truyện kiếm hiệp hấp dẫn cho các tạp chí nhi đồng và kiếm được mỗi tuần lễ mười bốn Anh kim. Số tiền đó đã lớn đối với một tác giả mới hai mươi tuổi. Nhưng ông viết không phải là để kiếm tiền. Ông viết với mục đích diệt sự nghèo bất công. Cho nên mặc dầu vợ thì đau con thì nhỏ, một mình ông phải lo nuôi gia đình, mà ông dám bỏ số tiền đó, dựng một cái liều vải ở New Jersy và bắt đầu viết những tiểu thuyết tuyên truyền, những tiểu thuyết để cải tạo thế giới. Ông bỏ ra năm năm soạn năm tiểu thuyết và năm cuốn đó đem lại cho ông có hai trăm Anh kim nghĩa là có bốn mươi Anh kim mỗi năm, bằng số tiền ông kiếm được trong ba tuần, hồi ông viết truyện cho trẻ em.

Gần như lúc nào ông cũng chịu cảnh đói. Một hôm, bà vợ, vốn khao khát một chút xa hoa vào tiệm mua về một tấm khăn trải bàn sọc đỏ giá một cắc sáu. Nhưng ông bắt bà đem lại tiệm trả và đòi tiền về, vì một cắc sáu đủ cho cả nhà ăn trong một ngày.

Tiểu thuyết thứ sáu của ông nhan đề Rừng rậm được độc giả rất hoan nghênh và đem về cho ông sáu ngàn Anh kim. Ông đem trọn số tiền đó tặng một hội ở New Jersy, một loại hợp tác xã văn nhân, họa sĩ, nhạc sĩ mục đích là giúp đỡ lẫn nhau sống một cách tiết kiệm, Sinclar Lewis sống ở đó một thời gian và giữ việc coi lò, nhưng chắc chắn Lewis làm không được việc gì, vì một đêm lửa trong lò bắt vào nhà và cháy rụi, thế là hội tan.

Upton Sinclair luôn luôn là một nhà cải cách hăng hái. Ông và Inez Mullholland cầm đầu một cuộc biểu tình đầu tiên ở châu thành Nữu Ước để đòi cho phụ nữ được quyền đầu phiếu. Ông luôn chiến đấu chống lại sự hạn chế sanh đẻ và luôn ba chục năm ông là một trong những người chỉ huy đảng xã hội ở Mỹ.

Khi ông muốn nói cái gì, ông nhất định theo cho tới kỳ cùng. Chẳng hạn một lần ông muốn học đàn vĩ cầm, ông tập mỗi ngày tám giờ, gần như không bỏ ngày nào, trong ba năm, các người hàng xóm phàn nàn về tiếng cù cưa nhức óc của ông, ông ôm đàn vào rừng kéo cho chim và sóc nghe.

Ông bảo tôi rằng ông đã bị bắt bốn lần. Một lần bị bắt và nhốt vào khám mười tám giờ ở Wilmington vì ông chơi quần vợt ngày Chủ Nhật. Lần khác ông bị giam ở Tombs tại Nữu Ước trong ba ngày vì ông lẳng lặng đi đi lại lại trước phòng giấy của John D. Rockefeller. Lần thứ ba ông bị bắt vì bán một Thánh kinh cho sở Công an ở Boston, và lần cuối cùng ông bị bắt vì rán đọc Hiến pháp Hoa Kỳ, trong khi đứng trước một tư gia, mà trong tay có giấy chủ nhà cho phép đứng tại đó.

anbinh
10-16-2010, 09:16 PM
Gương 008

Edward Bok


Một hôm một em nhỏ đói, ở trường về, ngừng trước một tiệm bánh, thèm thuồng nhìn những ổ bánh mì nóng và những bánh ngọt phết kem.

Người bán hàng thấy vậy, đi ra, hỏi:

- Sao? Em thấy có vẻ ngon lắm, phải không?

Em nhỏ Hòa Lan đó đáp:

- Nếu tấm kính không dơ thì còn có vẻ ngon hơn nữa.

Người bán hàng bảo:

- Em nói đúng. Em chùi nó được không?

Thế là em Edward Bok lãnh được việc làm đầu tiên trong đời em. Mỗi tuần người ta trả em có năm cắc, nhưng đối với em thì bấy nhiêu là cả một kho tàng rồi! Cha mẹ em nghèo tới nỗi ngày nào em cũng phải đi lượm những mảnh than vụn từ trên xe cam nhông rớt xuống đường, xuống rãnh.

Em nhỏ đó, Edward Bok, không biết một tiếng Anh nào khi đặt chân lên đất Mỹ, và nghe thầy giáo giảng bài, em không hiểu gì hết. Em chỉ học có sáu năm, vậy mà sau này làm giám đốc một tạp chí, đã thành công nhất trong nghề làm báo ở Mỹ.

Edward Bok thú rằng ông không biết chút gì về sở thích của phụ nữ, mặc dầu vậy, ông đã sáng lập một Tạp chí phụ nữ lớn nhất thế giới mà số trang và số in cứ mỗi ngày một tăng. Ngày mà ông giao công việc quản lý cho người khác để về nghỉ, thì tạp chí in hai triệu số mỗi tháng và nội tiền quảng cáo cũng đã đem cho ông một triệu Mỹ kim mỗi kỳ rồi.

Edward Bok làm chủ nhiệm tờ Ladies Home Journal trong ba chục năm. Khi ông thôi làm báo, ông viết tiểu sử ông trong cuốn The Americazination of Edward Bok.

Sau khi chùi kính cho tiệm bánh mì, ông làm đủ các nghề khác nhau, ta có thể nói là ông sưu tập mọi nghề một cách hăng hái như thanh niên sưu tập cò vậy. Sáng thứ Bảy ông bán báo. Chiều thứ Bảy và ngày Chủ Nhật ông đem nước chanh và các đồ giải khát cho những du khách du lịch ở các bến xe ngựa. Tối Chủ Nhật ông viết truyện tình cho một tờ báo trong miền. Tóm lại, ngoài giờ học, ông làm mọi việc để kiếm tiền từ sáu tới hai chục Mỹ kim mỗi tuần. Lúc đó ông mười hai tuổi và qua ở Mỹ chưa được sáu năm.

Mới mười ba tuổi mà ông đã phải thôi học, vào làm chân sai vặt trong phòng giấy ở hãng Western Union. Nhưng không lúc nào ông không học thêm, ông nhất định tự học, Ông đi bộ tới hãng cho khỏi tốn tiền xe, và nhịn bữa trưa để mua một cuốn Tự điển danh nhân Hoa Kỳ. Rồi ông làm một việc lạ lùng: ông đọc tiểu sử những danh nhân đương thời và cả gan viết thư xin họ cho biết chi tiết về tuổi thơ của họ. Ông viết cho đại tướng James A. Garfield, lúc đó ứng cử chức tổng thống, hỏi đại tướng có phải hồi nhỏ đã phải kéo tàu buồm nhỏ trên các kênh không. Ông lại viết cho đại tướng Grant hỏi về một trận nào đó. Grant vẽ một bản đồ cho coi, còn mời thằng nhãi mười bốn tuổi tới ăn cơm và nói chuyện trọn buổi với mình nữa.

Thành thử cậu bé kiếm được sáu đồng hai cắc rưỡi đó làm quen được với những người nổi danh nhất đương thời. Cậu lại thăm Emerson, Philip Brooks, Oliver Wendell Holmes, Longfellow, phu nhân Lincoln lúc đó đã góa, thăm Louia, May Alcott và tướng Sherman.

Sự quen biết các danh nhân đó ảnh hưởng quyết định đến sự biến chuyển của Edward Bok. Một người rất có thiên tư mà không được sống gần các giới chỉ huy, có khi phải đợi rất lâu mới tiếp xúc được với những người biết nhận tài năng của mình. Điều này còn tai hại hơn: có thể rằng chính người đó không biết mình có tài, không ngờ nổi mình làm việc này việc nọ, thành thử uổng sức trong những năm trẻ trung để làm những việc tầm thường, rồi về già mới được thi thố tài năng, nếu không chết sớm mà phí cả một đời. Sáng kiến của Edward Bok tỏ rằng ông không chịu đứng lâu một chỗ, khi chỗ đó không xứng với tài ông. Tức khắc ông làm quen được với những người chỉ huy thế giới, hiểu được cách họ nhìn đời, sự quen thuộc đó quý báu vô cùng đối với một ông chủ báo.

Một hôm ở ngoài đường, Edward Bok thấy một người mở một bao thuốc lá, rút tấm hình ra coi rồi liệng đi. Bok thấy là hình người, lượm lên xem, thì ra một chính khách có danh, phía sau để trắng. Ông nghỉ:

"Nếu chép ở sau tấm hình ít hàng tiểu sử của nhân vật thì có lẽ hình không bị liệng như vậy".

Ông bèn nảy ra một ý. Hôm sau ông bỏ bữa cơm trưa, đi ngay lại nhà xuất bản đã in những hình đó. Ông thuyết người chủ, giọng hăng hái và quyết tín đến nỗi người đó xiêu lòng, nhờ ông viết cho một trăm tiểu sử danh nhân, mỗi tiểu sử một trăm chữ, tiền nhuận bút là mười Mỹ kim. Chẳng bao lâu người đó cậy ông viết nhiều quá, ông phải kiếm vài người cộng tác, trả cho họ một nữa tiền, nghĩa là năm Mỹ kim mỗi tiểu sử.

Rồi ông bỏ luôn chân gác cửa, nhào vô nghề xuất bản.

Năm ông đi Philadelphie để lãnh việc nhận quản lý tạp chí Ladies Home Journal. Ông đúng hai mươi sáu tuổi. Năm ông đóng cửa phòng giấy của ông lần cuối cùng và bảo:"Thôi, từ nay không trở lại đây nữa" thì ông đúng năm mươi sáu tuổi, đương lúc tinh thần còn tráng kiện.

Trong ba chục năm đó, ông đã tự tạo được một địa vị độc nhất trong nghề làm báo ở Hoa Kỳ. Ông đã giàu lớn, nhưng không phải chỉ vì ông nhiều tiền mà gọi ông là thành công được.

Nào ta thử xét xem Edward Bok đã giúp mỗi người Hoa Kỳ được những gì.

Trước hết, thức ăn được tinh khiết hơn là nhờ những bài báo của tạp chí ông hô hào sự kiểm soát thực phẩm. Thành phố Hoa Kỳ sạch sẽ hơn, hợp vệ sinh hơn nhờ ông đã bỏ tiền ra gây một dư luận mạnh mẽ chống sự chất rác thành đống trong châu thành. Nhà cửa ngày nay xây cất và trang hoàng cũng đẹp hơn xưa nhờ những bài mạt sát kiểu nhà vừa xấu vừa đắt tiền của thế kỷ trước.

Ông thành công đến nỗi Tổng Thống Theodore Roosevelt khen rằng: Edward Bok là người độc nhất mà tôi biết đã dùng phương pháp cải thiện mà thay đổi hẳn cách ở của cả một dân tộc.

Mười năm cuối trong đời ông, sau khi về nghĩ rồi, ông lập vườn, mua hàng ngàn củ uất kim hương ở quê hương ông là Hòa Lan đem trồng hai bên đường cho vui mắt khách qua đường. Ông cho trồng hồng lên những bãi cỏ chung quanh các ga xe lửa.

Nhưng lâu đài nổi danh và lâu bền nhất của ông là ngôi tháp lạ lùng Singing Tower ở Floride. Chỗ mà hồi xưa chỉ là một khoảng cát khô khan trên một ngọn đồi cao nhất ở Floride thì bây giờ thành nơi ẩn náu của loài chim, thành một vùng xanh mướt, có hàng trăm ngàn cây lớn nhỏ. Và vượt lên rừng cây đó là một ngôi tháp có chuông cao khoảng sáu chục thước, xây bằng cẩm thạch hồng, tháp đó in bóng lên mặt hồ trong veo, mát mẻ ở dưới chân.

anbinh
10-16-2010, 09:17 PM
Gương 009

Evangeline Booth


Người đàn bà lạ lùng nhất mà tôi biết, đã từ chối lời cầu thân của hàng ngàn người, từ những danh nhân đến những bác đánh cá, từ những ông chủ đồn điền đến những anh cầu bơ cầu bất, không xu dính túi. Một ông hoàng trong một hoàng tộc lớn nhất ở Châu Âu đeo đuổi bà hàng tháng, năn nỉ bà nhận lời cầu thân của ông. Và bây giờ đây, mặc dầu bà gần đến cái tuổi cổ lai hi rồi, mà còn nhiều bức thư gởi tới xin cưới bà, nhiều đến nổi cô thư ký bà không buồn đưa bà coi nữa.

Tên bà là Evangeline Booth, và bà cầm đầu một đạo binh lớn nhất mà chưa hề tấn công một quân địch nào, tức Đạo binh Cứu khổ, một đạo binh có ba vạn sĩ tốt nuôi những kẻ đói ở sáu mươi nước xa xôi và ban bố tình yêu bằng tám chục ngôn ngữ.

Khi tôi gặp bà Evangeline Booth, tôi hơi ngạc nhiên. Tôi biết rằng bà đã già, có thể có cháu chắt được rồi, vậy mà mớ tóc của bà chỉ có vài sợi trắng. Mà cặp mắt, vẻ mặt bà linh động, hăng hái làm sao.

Người ta bảo rằng bốn chục tuổi mà còn là đương xuân ư? Nếu bạn thấy bà Evangeline Booth cưỡi một con ngựa bất kham tới nỗi phải hai người đàn ông mới ghìm nổi nó, thì bạn sẽ tin rằng bảy chục tuổi vẫn còn là đương xuân. Bà mua con ngựa đó rẻ mạt, vì chủ ngựa không dám cưỡi nó. Tên ngựa là Tìm Vàng và khi bà leo lên lưng con Tìm Vàng, la "Đi" thì nó nhẩy, nó phóng tiến tới, tiến lui, quay bên này, bên kia, giậm khắp khu đất, rồi mới chịu ngoan ngoãn theo ý bà. Mỗi buổi sáng bà cưỡi nó một giờ. Có khi một tay cầm cương, một tay cầm một bài diễn văn, bà vừa cho ngựa phi trong rừng vừa suy nghĩ về bài đó.

Một buổi hè, nếu bà ở Châu Mỹ, thì bà lại hồ Lake George để bơi lội; và năm bà sáu mươi ba tuổi, bà lội qua hồ trong bốn giờ.

Bà ngũ, luôn luôn ở đầu gường có miếng giấy cứng lót tay để viết, và thường khi, bà thức giấc, ghi ít ý nghĩ lên giấy. Một đêm bà không ngủ được, ba giờ sáng dậy sáng tác một bài nhạc, có cả lời ca. Mặc dầu bà có ba cô thư ký trong nhà mà nhiều khi bà dậy làm việc từ hai giờ sáng.

Ngồi xe hơi từ nhà bà đến sở, mất một giờ; trong thời gian đó bà đọc cho thư ký đánh máy.

Bà nói rằng kinh nghiệm kích thích nhất trong đời bà xảy ra hồi thiên hạ ùa nhau lại miền Yukon đào vàng. Chắc bạn còn nhớ, cuối thế kỷ trước, người ta kiếm được vàng ở Alaska và tin đó làm cho dân chúng sôi lên sùng sục. Từng bọn người vội vàng bồng bế nhau lên phía Bắc, và bà nghĩ rằng Đại binh Cứu khổ phải theo họ lên đó. Thế là bà dắt theo hai cô nữ khán hộ có kinh nghiệm và ba cô phụ nữa, lên miền Yukon. Khi bà tới Skagway, trứng và bơ mắc như vàng. Nhiều người đói mà người nào cũng đeo súng sáu kè kè bên mình. Và đi đâu bà cũng nghe tên Smith "Hiền". Mà y chẳng hiền chút nào cả. Y là một kẻ giết người không gớm máu ở Klondike. Y và bè đảng của y đứng đợi bọn đào vàng về, và không hỏi han, báo trước gì hết, bắn họ để cướp vàng. Chính phủ Hoa Kỳ gởi một bộ đội tới để giết y, nhưng y giết trọn đội và trốn thoát.

Skagway là một nơi khủng khiếp. Ngày bà tới, có năm người bị giết.

Đêm đó, bà họp đám đông ở bờ sông Yukon, giảng đạo cho hai mươi ngàn người đàn ông cô độc và bảo họ hát những bài mà hồi nhỏ thân mẫu của họ đã hát cho họ nghe, như bài Jesus, Lover of my soul, bài Nearer my God to Thee, bài Home sweet home.

Đêm ở miền đó lạnh cóng; trong khi bà hát, một người lấy một cái mền trắng quấn vào người bà.

Đám đông vĩ đại đó hát cho tới một giờ khuya; rồi Evangeline Booth cùng các cô khán hộ đi vô rừng, ngủ trên đất, dưới gốc thông. Họ mới bật lửa, sửa soạn nấu một chút ca cao thì thấy năm người ôm súng tiến tới. Khi họ còn cách một khoảng nói vừa đủ nghe, thì họ ngừng lại, người cầm đầu ngả mũ, nói:"Tôi là Smith "Hiền" đây, tôi lại cho cô hay, tôi nghe cô hát mà thích lắm."; rồi hắn nói thêm:"Tôi đã sai người đem lại cho cô chiếc mền trắng trong khi cô hát. Nếu cô muốn giữ nó thì cứ giữ lấy." Một cái mền bây giờ không đáng giá là bao; nhưng hồi đó, trong khi nhiều người chết vì lạnh và ẩm ướt, thì nó thực là một tặng vật quý báu.

Bà Booth hỏi hắn rằng bà ở Skagway có sợ tai nạn gì không. Hắn đáp:"Tôi còn ở đây thì cô khỏi lo. Tôi sẽ che chở cho cô".

Bà nói chuyện với hắn ba giờ, bảo hắn: "Tôi đem lại đời sống cho người ta, mà ông lại cướp đời sống của người ta. Như vậy không nên. Ông không thắng loài người đâu. Sớm muộn gì họ cũng giết ông. Bà gợi chuyện cho hắn nói về tuổi thơ và thân mẫu hắn, và hắn kể với bà rằng hồi nhỏ hắn thường cùng với bà nội đi coi các cuộc hội họp của Đội binh Cứu khổ, lần nào hắn cũng hát và vỗ tay khen. Và hắn thú rằng khi sắp mất, bà nội hắn bảo hắn hát một bài mà hai bà cháu cùng học được tại các cuộc hội họp của Đội binh Cứu khổ, và hắn hát:

Lòng tôi bây giờ trắng hơn tuyết,

Vì đức Jesus cùng ở với tôi tại đây,

Tội của tôi, tôi biết là nhiều lắm,

Nay được tha hết. Tôi bây giờ trong sạch.

Bà bảo hắn quỳ xuống và một thiếu nữ ở Đội binh Cứu khổ với một tên ăn cướp hung dữ nhất miền Bắc, cùng quỳ xuống ở bên cạnh nhau, cùng cầu nguyện, cùng khóc với nhau ở trong rừng thông. Nước mắt chảy dòng dòng, Smith "Hiền" hứa với bà sẽ không giết người nữa, và sẽ ra đầu thú, còn bà thì hứa với hắn sẽ tận lực xin chánh phủ giảm tội cho hắn.

Khoảng bốn giờ sáng hắn từ biệt bà.

Tới chín giờ, hắn cho người mang tặng bà một ổ bánh còn nóng hổi, bánh ngọt, mứt và nửa ký bơ, những món vô giá đối với nơi đó thời đó. Hắn đã bắn người để cướp bột và bơ, và một người đàn bà trong bọn của hắn xin lãnh cái hân hạnh làm bánh, mứt để tặng bà.

Hai ngày sau, có kẻ bắn chết Smith "Hiền" và Skagway dựng một đài kỷ niệm vị ân nhân ấy.

Evangeline Booth là một trong những người sung sướng nhất mà tôi đã gặp. Bà sung sướng vì bà sống cho người khác.

anbinh
10-16-2010, 09:19 PM
Gương 010

Theodore Roosevelt



Tôi không bao giờ quên được một tin xảy ra tháng giêng 1919. Lúc đó tôi ở trong một bộ đội đóng tại đồn Upton ở Long Island. Một buổi chiều, một phân đội leo lên đồi, lính đưa súng lên trời, bắn một loạt để báo tin Roosevelt đã từ trần! Theodore Roosevelt vị tổng thống đã lèo lái chính phủ Hoa Kỳ một cách đáng phục nhất từ trước tới nay. Ông vội lìa đời sớm quá!

Cái gì ở trong con người ông cũng lạ lùng, chẳng hạn ông cận thị nặng tới nỗi không đeo kính thì cách mười thước cũng không nhận ra người bạn thân nhất của ông, vậy mà ông thành một thiện xạ và đi săn sư tử ở Châu Phi.

Ông săn dã thú rất tài, vậy mà ông không hề giết một con chim hoặc câu một con cá. Hồi nhỏ ông xanh xao, ốm yếu và mắc bệnh suyễn. Gia đình ông cho ông qua miền Tây để may ra sức khỏe của ông khá lên được chút nào chăng, ở đó ông sống đời mạo hiểm của cao bồi, ngủ giữa trời và nhờ như vậy, thể chất ông mạnh tới nỗi có thể đấu quyền Anh với Mike Donavan. Ông thám hiểm những khu rừng của Nam Mỹ, leo lên đỉnh núi Junfrau và Matterhoorn và dẫn đầu một đoàn kỵ binh tấn công San Juan Hill ở Cuba, làm cho quân địch mặc dầu dùng một hỏa lực kinh khủng mà cũng không sao chống cự nổi.

Trong tập tự thuật ông kể lại rằng hồi nhỏ ông quạu quọ, nhút nhát, luôn luôn sợ làm đau cho mình. Vậy mà ông đã tự làm cho gãy cổ tay, gãy cánh tay, bể mũi, gãy xương sườn, gãy vai và không bao giờ ngừng dấn thân vào nguy hiểm. Khi ông làm cao bồi ở Dakota, một hôm ông té ngựa gãy tay, mà rồi ông lại nhảy lên lưng ngựa, tiếp tục phi để gom đàn bò lại.

Ông nói rằng trong thâm tâm ông sợ tới chết điếng đi, mà cũng ráng làm những việc ông ngại nhất, hành động như mình dũng cảm lắm, như vậy để rèn luyện đức can đảm. Rốt cuộc ông thành gan dạ đến nỗi coi thường tiếng sư tử gầm và tiếng đại bác nổ.

Trong cuộc vận động "Bull Moose" năm 1912 một kẻ cuồng nhiệt bắn một phát súng lục vào ngực ông khi ông lại dự một cuộc hội họp công chúng để diễn thuyết. Ông không cho ai hay là bị thương, cứ đi thẳng lại nơi đã định và diễn thuyết, cho đến khi ông té xỉu vì mất máu quá nhiều. Lúc đó người ta mới chở gấp ông lại nhà thương.

Trong khi ông làm tổng thống, có lần ông đấu quyền Anh với một sĩ quan. Viên sĩ quan này thoi vàp mắt bên trái của ông, làm đứt nhiều gân máu và con mắt ông vô phương chữa, nhưng ông không hề cho người đó hay.

Đích thân ông bửa tất cả số củi dùng trong trại của ông ở Oysterbay. Ông cắt cỏ, phơi cỏ với gia nhân trong trại và buộc người lãnh canh phải trả công cho ông cũng như người ở chứ không được hơn.

Không bao giờ ông hút thuốc, ông cũng không khi nào chửi thề và chỉ năm thì mười họa ông mới uống một muỗng nhỏ rượu mạnh pha vào sữa. Ông uống mà không để ý tới. Mãi đến hôm người bồi của ông thú thực đã pha vài giọt rượu ông mới hay. Vậy mà có kẻ nói xấu ông nghiện rượu làm ông phải kiện họ về cái tội phỉ báng để họ hết phao tin đó đi.

Hồi ở Bạch ốc, công việc bề bộn là vậy mà ông vẫn có thì giờ đọc hàng trăm cuốn sách. Nhiều khi ông phải tiếp khách suốt buổi chiều không lúc nào ngớt, nhưng luôn luôn có một cuốn sách ở bên cạnh để đọc ít hàng trong lúc đợi người khách sau.

Đi đâu xa ông thường đem theo tác phẩm của Shakespeare hoặc Robert Burns loại bỏ túi. Một hôm ngồi bên đống lửa coi gia súc ở Dakota, ông đọc lớn tiếng trọn kịch Hamlet của Shakespeare cho một cao bồi nghe. Trong khi du lịch qua rừng ở Ba Tây, mỗi buổi tối ông ấy đều đọc Thời suy tàn của đế quốc La Mã của Gibbon.

Ông thích âm nhạc nhưng ca không đúng giọng. Lúc nào làm việc một mình ông thường hát nhỏ bài thánh ca Hỡi thượng đế, xin cho con gần người hơn. Một hôm đi xe qua một tỉnh miền Tây, suốt dọc đường, quần chúng hoan hô ông, ông vừa ngả đầu chào bên tả bên hữu, vừa hát nho nhỏ bản thánh ca đó.

Một lần ông kêu điện thoại mời một thông tin viên có danh tiếng của một nhân vật nào đó ở Hoa Thịnh Đốn lại ngay Bạch ốc. Phóng viên đó mừng quýnh, tưởng sắp được đặc biệt phỏng vấn Tổng thống về một việc nước, đánh điện cho tòa soạn bảo dự bị sẵn để đăng một tin quan trọng nóng hổi.

Nhưng khi ông ta tới Bạch ốc thì Roosevelt không nói gì về chính trị cả, chỉ dắt ông ta lại một gốc cây già rỗng ruột ở trong vườn để chỉ cho ông ta một tổ đầy cú con mới kiếm ra được.

Một lần ngồi xe lửa qua miền Tây, trong khi chuyện trò với các ngài đại diện chính thức trong toa riêng, ông thấy một người chủ trại đứng trong ruộng lúa, cạnh đường rầy, ngả mũ chào ông. Ông nhảy ngay ra phía sau toa, cầm mũ vẫy mạnh mẽ. Ông làm vậy không phải để mua lòng dân đâu mà vì ông thành thật yêu dân.

Năm cuối cùng, sức ông suy nên mặc dầu sáu chục tuổi mà đã thấy mình già rồi. Ông viết thư cho một người bạn, "Chúng mình đã kề miệng lỗ. Bất kỳ lúc nào, chúng mình đều có thể từ giã cõi đời này".

Ông từ trần một cách êm đềm trong giấc ngủ, đêm mùng 4 tháng giêng năm 1919. Lời cuối cùng của ông là: "Làm ơn tắc đèn cho".

anbinh
10-21-2010, 04:03 PM
Gương 011

Đề Đốc C. W. Nimitz


Đề đốc Chester W. Nimitz đã là tư lệnh của hạm đội lớn nhất thế giới từ trước đêán nay, là vị tổng tư lệnh khu vực Thái Bình Dương, một khu vực lớn gần bằng hai mươi lần nước Hoa Kỳ, một đại dương rộng hơn cả Nam Mỹ, Bắc Mỹ, Âu Châu, Á Châu, Phi Châu và Úc Châu gồm lại. Ông thắng ở Midway một trận thủy chiến lớn nhất trong lịch sử, mà khi ông lãnh chức chỉ huy hạm đội Thái Bình Dương, hồi cuối năm 1941, hai mươi bốn ngày sau trận Trân Châu cảng, ông phải đương đầu với một tình hình cực kỳ thê thảm: Hoa Kỳ mới thua một trận thủy chiến tai hại nhất trong lịch sử của họ.

Ngày mùng bảy tháng chạp năm 1941, buổi sáng, lúc tám giờ thiếu năm, hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ có tám chiếc thiết giáp hạm. Hai giờ sau, năm chiếc đã nằm dưới đáy biển Trân Châu cảng vì trúng bom Nhật. Trong số đó có chiếc Arizona, hồi trước treo cờ hiệu của Đề đốc. Ba chiếc còn lại bị hư nặng, phải đem về sửa chữa ở Hoa Kỳ. Thực là một tai họa nặng nề. Người Hoa Kỳ biết vậy. Mà người Nhật cũng biết vậy.

Người Nhật biết rằng hạm đội Hoa Kỳ thiếu chiến hạm, thiếu phi cơ, thiếu đại bác phòng không, thiếu tiềm thủy đĩnh, thiếu khí giới, thiếu mọi thứ quân nhu. Nếu họ biết rằng Hoa Kỳ chỉ còn một trăm bảy mươi sáu phi cơ chiến đấu để che chở cả khu vực mênh mông là Thái Bình Dương thì họ còn ngạc nhiên hơn nữa. Mà ai cũng biết rằng quân Nhật sẽ đánh nữa, đánh mạnh và mau, trong khi Hoa Kỳ còn yếu.

Trong những điều kiện đó, Tổng thống Roosevelt biết rằng muốn thắng quân Nhật thì trước hết phải gửi tới Trân Châu cảng một vị tư lệnh có đủ tài ba. Và ông lựa Đề đốc Chester W. Nimitz.

Đề đốc đi từ Hoa Thịnh Đốn qua Trân Châu cảng phải mạo hiểm, lén lút như một nhân vật trong truyện phiêu lưu hoặc trinh thám. Ông đem theo những tài liệu bí mật của chính phủ về những tổn thất của hạm đội do quân Nhật gây ra. Chính phủ biết rằng đội do thám Nhật muốn nắm được những tài liệu đó, và nếu có thể được, giết Đề đốc Nimitz để cướp lấy. Vì vậy, muốn cho không ai nhận được ra mình. Đề đốc phải đổi tên là Wainwright, bận đồ thường, đi từ Hoa Thịnh Đốn tới California, ông chứa tài liệu bí mật bằng túi may vải bố của vợ, cho người ta khỏi để ý tới.

Tại sao Tổng thống Roosevelt đã lựa ông trong số những thủy sư khác để giao trách nhiệm lớn lao đó? Về tuổi tác, ông còn kém hai mươi tám thủy sư khác, mà ông nhảy lên chức vị trên họ, chỉ huy chẳng riêng gì hạm đội Thái Bình Dương mà luôn cả khu vực Thái Bình Dương. Ông được uy quyền mênh mông như vậy, phần lớn là nhờ ông có bốn đức hơn người.

Trước hết ông nhiều kinh nghiệm và hiểu rộng về thủy quân. Ít năm sau khi ở Hàn lâm viện Thủy quân ra, ông xin được bổ dụng trong một chiến hạm. Nhưng trái hẳn với ý muốn, ông bị đưa tới một tiềm thủy đĩnh, trong đó hơi ở máy đưa ra muốn nghẹt thở.

Mặc dầu đời sống trong tiềm thủy đĩnh cực khổ và nguy hiểm, ông cũng hăng hái yêu nghề vì ông biết rằng tiềm thủy đĩnh sau này ảnh hưởng rất sâu xa tới thuật thủy chiến. Nhờ vậy năm 1913, mới hai mươi bảy tuổi ông đã được làm tư lệnh đội tiềm thủy đĩnh Hoa Kỳ ở Đại Tây Dương và trong đại chiến thứ nhất, ông phụng sự quốc gia với chức đó. Sau này, ông xây cất và chỉ huy một căn cứ tiềm thủy quân ở Trân Châu cảng.

Rồi ông học được nhiều kinh nghiệm về mọi hoạt động của thủy quân, ai cũng trọng ông vì tài và sức hiểu biết của ông. Hồi mới vô nghề, có lần ông chỉ huy một khu trục cũ. Chiếc tàu thình lình di nước. Nước vô nhiều quá, bơm ra không kịp. Viên kỹ sư coi máy hốt hoảng hướng lên boong tàu, hỏi lớn tiếng:"Thưa, tàu muốn chìm, tôi phải làm sau đây?".

Từ trên boong tàu, ông đáp:"Lật cuốn Engineering Manual của Barton, trang 84, mà coi sẽ thấy phải làm gì trong trường hợp như vậy". Viên kỹ sư nghe theo và cứu được chiếc tàu.

Đức thứ nhì của Đề đốc Nimitz là ông hăng hái muốn biết tất cả các loại tàu. Ông nói:"Tôi thích tất cả các chức vụ của tôi, sở dĩ vậy là vì tôi muốn hiểu rõ bất kỳ một hoạt động nào?".

Đức thứ ba của Đề đốc là tài điều khiển người. Ông rộng rãi khi khen, thưởng. Trong thủy quân không ai được trọng và mến như ông.

Foster Hailey đã sống hai năm trên Thái Bình Dương, đã nói chuyện với cả ngàn sĩ quan thủy quân và đã viết một bài báo trên Times ở Nữu Ước nói rằng không hề nghe một người nào chỉ trích Nimitz.

Đức thứ tư của Nimitz là đức bình tĩnh trong những lúc nguy kịch. Coi cách ông chỉ huy ở Trân châu cảng cũng đủ biết.

Khi ông mới tới đó, các sĩ quan lục quân và thủy quân, lo lắng, vội vàng chạy lại phòng giấy của ông, và phần đông khi ở phòng giấy ra đều vui vẻ, tự tin trở lại. Có lần các nhà báo, bị kích thích quá, nóng nảy hỏi ông về những chương trình tác chiến sau này, ông đáp:"Để trả lời những câu hỏi đó, tôi nghĩ, không còn gì hơn là mượn một câu tục ngữ của dân bản xứ ở Hạ Uy Di này, câu "Hoo mana wahui" Câu đó nghĩa là: "Thời gian sẽ thu xếp mọi việc".

Thực vậy, thời gian đã thu xếp mọi việc, bạn hỏi người Nhật thì biết.

(...) Đề đốc Nimitz luôn luôn có lễ độ. Sau khi đánh tan nát hạm đội Nhật trong trận Midway, ông bay về bờ biển phía Tây Hoa Kỳ để hội nghị với Đề đốc Ernest J. King. Khi phi thuyền của ông hạ cánh, thì một tai nạn làm ông suýt chết. Một khúc gỗ lớn trôi, đâm bể bụng phi thuyền, rồi cắm vào mũi nó, làm nó lùi lại phía sau. Viên phi công phụ bị tử thương. Đề đốc bị vài vết bầm và bị trật xương. Người ta đưa những người sống sót lên bờ, trong khi ấy, ông đứng ở mũi thuyền. Ông ướt đẫm. Người chèo thuyền mới đầu vô ý không nhận ra ông, bèn la lớn, bảo ông:" Ê, chú kia, ngồi xuống!" Và viên tổng tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương vui vẻ vâng lời. Người chèo thuyền ngó lại kỹ. Mắt anh ta trố ra. Tim anh ta muốn ngưng đập. Anh ta bắt đầu xin lỗi và lắp bắp, không nên tiếng. Đề đốc mỉm cười:"Chú cứ làm phận sự của chú. Chú có lỗi gì đâu?".

Mỗi buổi sáng, ông đi bộ một giờ trước khi điểm tâm, mỗi tuần ông lội bộ hai cây số, chơi quần vợt, mỗi sáng ông tập bắn mười hai phát súng sáu để luôn luôn được thuần tay.

Ông biết cách nghỉ ngơi hoàn toàn nên mới làm được những trách nhiệm mà người thường không sao gánh nỗi. Mỗi buổi trưa, ông tắm nắng một lúc.

Đêm mà nhà hàng Breaker ở Waikiki được biến đổi thành một trung tâm tiếp các người đầu quân, người ta chụp hình Đề đốc đầu bạc khiêu vũ với một thiếu nữ má hồng. Bộ thủy quân thích tấm hình đó, muốn đưa lên báo để quảng cáo, nhưng ông già khôn ngoan nắm ngay tấm hình đầu tiên, gởi máy bay về cho bà vợ, để người khác không kịp đưa bà coi trước. Ông già đã giỏi chiến thuật mà cũng giỏi tâm lý nữa!

(...) Năm 1905, khi ông ở trường Annapolis ra, trong cuốn sổ mỗi năm của trường, ghi về ông như vầy:"Một người vui vẻ về dĩ vãng và tin tưởng ở tương lai". Theo tôi, không lời nhận xét nào đúng hơn lời đó.

anbinh
10-21-2010, 04:05 PM
Gương 012

Sinclair Lewis


Tôi gặp Sinclair Lewis lần đầu cách đây cũng hơi lâu. Hồi đó, ông ấy, tôi và năm sáu người bạn nữa thường mướn một tàu nhỏ chạy máy ở Free Post (Long Island) rồi cho mở máy chạy xình xịch tới một nơi cách xa ít cây số để câu cá thu. Tôi phục ông ta sát đất vì ông ta không bao giờ say sóng. Hễ biển động, sóng nổi là tôi phải chui xuống khoang tàu liền, còn ông vẫn thản nhiên ngồi câu, trơ trơ như một người ngư phủ trên bức họa.

Bây giờ tôi cũng phục ông sát đất nữa, nhưng không phải vì tài ngồi câu cá khi biển động (tài đó, nay tôi cũng đã tập được rồi) mà vì tài ông tuôn lên giấy những truyện rất hay, thao thao bất tuyệt. Và nếu bạn không phục ông, thì xin bạn cứ thử đi!

Sinclair Lewis đã nhắm trúng đích lần đầu vào năm 1920. Trước năm đó, ông đã viết được sáu cuốn mà không gây được tiếng vang nào trên văn đàn. Tiểu thuyết thứ bảy của ông là Main Street tung ra đời như cơn giông. Các hội phụ nữ mạt sát nó, các nhà thuyết pháp tố cáo nó, các tờ báo chỉ trích nó. Nó gây một cuộc bút chiến thực sự ở Châu Mỹ, và những tiếng vang của nó truyền ra sáu ngàn cây số.

Tiểu thuyết đó làm cho ông thành một minh tinh bậc nhất trên văn đàn.

Và nhà phê bình bảo: "Cuốn đó hay thật, nhưng anh chàng láu cá đó không viết được cuốn thứ nhì như vậy đâu". Không viết được cuốn thứ nhì nữa?

Thật sự thì anh chàng trai trẻ ở Sank Centre, xứ Minnesota đó, từ hồi ấy đã "tung" ra nữa tá tiểu thuyết vào hạng bán chạy nhất. Nhưng tôi đã nói sai, ông không "tung" tiểu thuyết ra đâu. Ông cặm cụi viết nó, sửa đi sửa lại hoài.

Ông thảo một cái đại cương là sáu vạn tiếng, tức khoảng 250 trang giấy như trang này, cho cuốn Arrowsmith của ông nghĩa là mới có cái đại cương mà tiểu thuyết đó đã dài gấp rưỡi những tiểu thuyết trung bình rồi. Có lần ông bỏ ra mười hai tháng để viết một tiểu thuyết về tư bản và lao động, viết xong ông xé hết liệng vào sọt rác.

Ông viết truyện Main Street ba lần. Ông đã mất đúng mười bảy năm mới hoàn thành nó.

Một lần ông bảo tôi rằng nếu ông không viết văn thì ông sẽ dạy tiếng Hy Lạp hay khoa triết lý ở trường đại học Oxford, hoặc vô rừng sâu sống đời một bác tiều phu.

Ông thích mỗi năm sống sáu tháng ở Nữu Ước, và sáu tháng ở một nơi cô tịch trong dãy núi Vermont. Ông có một cái trại trồng cây đường, ông trồng rau lấy để ăn. Và chỉ khi nào ông cần hớt tóc thì ông mới ra chợ.

Tôi hỏi ông: "Được nổi danh như vậy, anh thích không?". Ông đáp:"Bực lắm, anh ơi". Ông bảo nếu phải đáp hết thảy những bức thư người ta gửi tới cho ông, thì không bao giờ còn có thể viết thêm được một cuốn nào nữa, chẳng những vậy, mà không còn cả thì giờ để ngủ. Cho nên ông liệng hầu hết những thư đó vào lò lửa rồi nhìn chúng cháy.

Ông ghét những kẻ đi "săn" chữ ký, ít khi đi ăn cơm khách, và lánh cả những tiệc trà của nhóm văn nhân.

Khi tôi gợi chuyện, hỏi ông về những chiến đấu đầu tiên của ông, ông nói:"Ôi, tôi não lòng khi nghe các ông nhà văn luôn luôn nói về những chiến đấu đầu tiên của mình. Cái tai hại của phần đông các ông ấy là không có dịp chiến đấu nhiều. Họ vào nghề có khó nhọc gì hơn các ông nha sĩ, nha y, luật sư trẻ tuổi đâu mà họ lại hay nói về quãng đời khó khăn họ đã trãi qua".

Tôi bèn nhắc lại cái hồi ông dậy sớm hai giờ trước bữa điểm tâm, xuống bếp đun nước pha cà phê rồi viết ngay ở trong bếp. Tôi nhắc cho ông rằng có lần ông đã phải đi vay ba chục đồng Anh kim, phải làm bếp lấy, luôn sáu tháng viết ngày viết đêm, mà viết xong đem bán chỉ có nửa Anh kim. Nhưng ông bảo như vậy có khó nhọc gì đâu, chẳng qua ông chỉ học cái nghề của ông thôi, mà nghĩ lại, không có thời nào ông vui sướng bằng thời đó.

Tôi hỏi tác phẩm ông đã bán được bao nhiêu cuốn rồi, ông đáp không biết. Tôi xin được biết một số phỏng chừng. Ông đáp: "Thực tình, tôi không biết chút xíu gì việc đó".

Tôi hỏi cuốn Main Street đem cho ông được bao nhiêu tiền. Ông cũng chịu, không đáp được vì ông không bận tâm về vấn đề tiền bạc, nhờ một luật sư lo hết cho ông rồi, mà ông cũng chẳng cần biết kiếm được bao nhiêu tiền nữa.

Ông đã trải qua mọi cảnh ngộ. Thân phụ ông là một y sĩ ở miền quê Minnesota và khi đi mổ xẻ bệnh nhân, thường dắt ông theo để ông phụ lực, chụp thuốc mê giúp. Có lần ông làm việc trong chiếc tàu chở gia súc trên Đại Tây Dương, có lần ông xuống xứ Panama để tìm việc làm. Ông đã làm thơ cho trẻ em đọc, đã bán cốt truyện cho Jach London, đã giúp việc trong tòa soạn một tờ báo cho người điếc.

Tôi hỏi ông:

- Anh bị ba tờ báo mà anh giúp việc đầu tiên đuổi anh ra, phải không?

Ông đáp:

- Sai. Bốn tờ đã đuổi tôi ra, chứ không phải ba.

Một hôm, có người kêu điện thoại, gọi lơ lớ nhhư người Thụy Điển cho ông hay rằng ông được phần thưởng Nobel về văn chương. Ông quen nhiều người Thụy Điển ở Minnesota, và tưởng có ông bạn tác quái nào, giả giọng lơ lớ để đùa cợt ông, và ông bắt đầu nói đùa lại.

Nhưng ít phút sau, ông chưng hửng ra khi biết rằng tin đó đúng, rằng quả thực ông đã được phần thưởng lớn nhất trên văn đàn thế giới!

anbinh
10-21-2010, 04:06 PM
Gương 013

Đại Tướng George Marshall


Quân nhân số một của quân đội Hoa Kỳ trong đại chiến vừa rồi là đại tướng George C. Marshall, tổng tham mưu trưởng.

Con người quan trọng bậc nhất đó ra sao? Thưa bạn theo tướng J. Franklin Bell, cựu tham mưu trưởng, người cộng tác với ông ở Phi Luật Tân thì ông là thiên tài bậc nhất của Châu Mỹ về võ bị từ hồi Stonewall Jackson tới nay.

Được so sánh với Stonewall Jackson không phải là một vinh dự tầm thường đâu. Trong hồi nội chiến Jackson là nhân vật quan trọng được cả phương Nam sùng bái. Tổng thống Abraham Lincoln van vái Thượng đế cho ông một người chỉ huy quân đội phương Bắc có tài như Jackson. Trận mà Jackson điều khiển trong thung lũng Shenadoad ở Virginie hiện nay còn được đem ra dạy trong các trường võ bị châu Âu và được coi là một trong những thắng trận rực rỡ nhất cổ kim.

Tướng Pershing, người cầm đầu quân đội Hoa Kỳ trong đại chiến thứ nhất, tuyên bố rằng tướng Marshall là sĩ quan có giá trị nhất của Hoa Kỳ năm 1918, giao cho Marshall chỉ huy những cuộc hành quân của đại đội thứ nhất, và lãnh nhiệm vụ đó, Marshall đã giải được một cách vẻ vang một vấn đề khó khăn nhất về chiến thuật:

"Tướng Pershing muốn dời đổi trên năm trăm ngàn người, ba ngàn đại bác, bốn chục ngàn tấn quân nhu và ba mươi bốn quân y viện từ Saint Michel tới Argonne. Điều đó là phải di chuyển một cách bí mật để tụi do thám và phi cơ địch khỏi biết. Mà tướng Marshall làm được. Trong hai tuần lễ ông cho quân đội đi băng đồng ban đêm. Quân Đức không nghi ngờ gì cả cho tới khi nửa triệu quân Mỹ đục thủng mặt trận Meuse-Argonne giúp cho đồng minh chiến thắng. Thực hợp lời Abraham Lincoln đã nói trước kia:"Tất cả những hành quân đó đều nhờ thiên tài của mỗi một người".

Tướng Marshall chủ trương sự tôn trọng kỷ luật nhưng bài xích tính vênh váo tàn nhẫn của một số sĩ quan mọi thời.

Khi ông lên chức Tham mưu trưởng, ông làm một cuộc điều tra không tiền trong lịch sử quân đội Hoa Kỳ. Ông gửi đi một bản kê một trăm mười tám câu hỏi cho ba ngàn lính, bảo họ cứ thành thật đáp, mà giấu tên.

Chẳng hạn:

- Anh có yêu sĩ quan của anh không?

- Nếu có thì anh cho biết tại sao?

- Nếu không thì cũng cho biết tại sao.

- Chúng tôi phải làm cách nào cho các anh thành những binh sĩ giỏi nhất?

- Chúng tôi phải làm cách nào cho quân đội thành một quân đội giỏi nhất?

Cách đó mới mẻ quá đến nổi một số người ngạc nhiên, còn một số khác chế nhạo, khinh bỉ. Nhưng kết quả mỹ mãn. Sự huấn luyện thành ra có tính nhân đạo hơn, và người ta khuyến khích quân lính có sáng kiến hơn. Phương pháp mới đó ảnh hưởng tới khắp các mặt trận.

Tôi chưa được hân hạnh nói chuyện với đại tướng Marshall nhưng đã tiếp chuyện phu nhân. Bà bảo cứ xét bề ngoài cũng thấy ông sanh ra để làm lính, hồi nhỏ còn bận quần cụt mà ông cũng bày trận để chơi, tập cho trẻ hàng xóm diễn binh, cưỡi trên một cây gậy làm ngựa và tấn công lẫn nhau.

Ông muốn vô trường võ bị West-Point nhưng không được vì thân phụ ông là một nggười theo phe dân chủ ở phương Nam, trong một lãnh địa Cộng hòa ở Pennsylvanie. Thành thử ông đành ghi tên vào trường võ bị Virginie ở Lexinton, tại đó ông được bạn bè kính mến nhất.

Ông có tinh thần thể thao, không chịu khai tên một người bạn đã muốn ăn hiếp ông, đã suýt làm ông mất mạng trong một cuộc ẩu đả. Thanh niên đó đâm ông bằng gươm, không cố ý làm ông bị thương nặng. Ông nhất định giấu tên người đó. Tất cả bạn bè ông đều tung nón bê rê lên trời, la lớn: "Hoan hô Marshall! Thằng tướng đó can trường! Nó biết chịu đựng!".

George Marshall đá banh rất tài, làm bạn học phải phục. Trong ba năm đầu, ông cho rằng không có đủ thời giờ chơi môn đó, nhưng đến năm cuối cùng, ông chỉ nghiên cứu thuật chơi trong vài tuần mà bỏ xa các bạn khác trong đội banh của trường.


1 2
40 Gương Thành Công Nguyên Tác: Dale Carnegie


Mặc dầu ông nhẹ cân, mà ông áp đảo tất cả đối phương và được lựa vào hội tuyển của phương Nam, thật là một vinh dự lớn cho trường.

Bạn thử nghĩ như vậy có phải là một phép màu không vì mới cách đó mấy tuần, ông chưa hề đụng tới trái banh. Tôi cho rằng trọn lịch sử túc cầu, chưa ai làm được kỳ công như vậy.

Những kết quả của ông ở trường võ bị Virginie và tài chỉ huy của ông đưa ông lên chức đại úy, chức cao nhất dành cho sinh viên và cũng là danh vọng lớn nhất của trường.

Giữ chức tham mưu trưởng một đạo quân lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, đại tướng Marshall phải làm biết bao công việc, lãnh những trách nhiệm lớn lao mà hạng trung nhân tất phải qụy xuống, chứ không sao gánh nổi. Vậy mà ông không bao giờ có vẻ gấp rút lo âu. Tôi hỏi bà Marshall về bí quyết của ông. Bà kể bảy bí quyết nhờ nó ông làm việc nhiều không tưởng tượng được mà không mệt mỏi về thần kinh lẫn thể chất.

Bí quyết thứ nhất là không bao giờ đọc những bản phúc trình lôi thôi mà chỉ đọc những bản gọn gàng tóm tắt.

Bí quyết thứ nhì là ông tập đọc mau, tập trung hết tư tưởng vào một vấn đề mà quyết định mau lẹ. Khi ông ở sở ra, mà tối đó phải hội họp ông thường nằm nghỉ, đọc sách một chút rồi đứng dậy đi thay y phục chỉ trong bốn phút thôi, không hơn một phút.

Bí quyết thứ ba là khi ông đã quyết định một điều gì về quân sự rồi thì không phí thì giờ và tinh lực để đắn đo lý lẽ nữa mà chú ý vào sự thực hành quyết định đó.

Bí quyết thứ tư là ông biết rộng và sâu về những vấn đề quân sự. Vào trong phòng của ông, không bao giờ thấy những cây ghim đầu sơn màu cắm trên các bản đồ. Đại tướng thuộc lòng mỗi sư đoàn hiện ở đâu và có nhiệm vụ gì.

Bí quyết thứ năm: ông bắt đầu làm việc mỗi ngày rất sớm. Ông điểm tâm hồi bảy giờ để bảy giờ rưỡi đã có mặt ở phòng giấy. Có lần ông nói:

- Sau ba giờ chiều thì không một ai có một ý gì mới mẻ nữa.

Bí quyết thứ sáu: bữa trưa ông ngủ một giấc ngắn để lấy lại sức. Cũng như Winston Churchill, ông nằm dài ra, nghỉ ngơi trước khi mệt nhọc. Ông đi bộ về nhà ăn bữa trưa, thường dắt theo một sĩ quan vào hàng tá trở lên để vừa đi vừa bàn về chiến thuật. Ăn xong, ông lên tầng ba, nằm trên một chiếc ghế xích đu ở ngoài hành lang, ngủ năm phút rồi dậy, hoàn toàn tỉnh táo.

Sau cùng bí quyết thứ bảy: Ông làm việc có kết quả vì không bao giờ lo lắng. Bà Marshall bảo:

- Tôi sống chung với nhà tôi mười ba năm rồi, tôi đã thấy nhà tôi nhiều lần bận tâm về nhiều vấn đề, nhưng không khi nào lo lắng đến mất giấc ngủ.

Tôi hỏi bà, ông theo cách nào mà quên những nỗi lo lắng đi được thì bà đáp rằng ông có thói quen buổi tối, công việc ở sở xong là không tiếp xúc gì với sở và bạn đồng sự nữa, và không khi nào đem việc sở về nhà làm đêm.

Bà lại nói thêm rằng nhờ nhiều năm theo kỷ luật nhà binh, ông tập được tánh tự chủ. Ông biết rằng nếu lo lắng thì không làm việc được nữa, cho nên ông tự cấm ông lo lắng.

Đây là một thí dụ về đức tự chủ của ông: Xưa, ông hút mỗi ngày hai ba gói thuốc lá, bảy năm trước, thấy sức làm việc do đó giảm đi, ông quyết định thôi hút. Và ông chừa được liền, từ đó không mó tới một điếu thuốc nữa. Muốn thắng trận thì một tướng lãnh trước hết phải tự thắng mình đã.

Muốn quên lo lắng, đại tướng Marshall dùng thì giờ rảnh một cách tích cực hoặc hữu ích như bơi thuyền, cưỡi ngựa, đi coi hát bóng, nói chuyện với vợ. Ông vặn máy thâu thanh, bắt những bản nhạc êm đềm rồi nằm đọc sách ba giờ mỗi tối.

Tài xế của ông thường lại thư viện công cộng đem về mỗi lần độ hai chục cuốn mà viên quản thủ đã lựa sẵn cho ông trong loại sử ký, tiểu sử, thời sự. Ông đọc nhanh kinh hồn, một cuốn hai trăm trang nghiến ngấu trong ba giờ là hết.

Ông đọc khi nào buồn ngủ thì thôi, nửa đêm, nếu thức giấc ông vặn đèn lên đọc tiếp cho tới khi ngủ lại.

Hai danh nhân trong lịch sử đã có ảnh hưởng lớn nhất đến ông là Benjamin Franklin và Robert E. Lee. Ông đã đặc biệt nghiên cứu chiến thuật của Lee, người mà ông rất phục tư cách. Một cuốn sách nữa mà ông đọc đi đọc lại là cuốn tự thuật của Benjamin Franklin một tác phẩm cổ điển của văn học Hoa Kỳ.

anbinh
10-26-2010, 03:30 AM
Gương 014

Walt Disney


Hai chục năm trước, Walt Disney, người đ tạo ra hnh con chuột Mickey v Ba con heo nhỏ, c được biết tn tuổi g đu. By giờ ng được sắp vo hạng danh nhn trn thế giới m ng mới bốn mươi tuổi. Tự điển Who's Who c ghi tn ng.

Hai mươi mốt năm trước Walt Disney lm chật vật m khng kiếm đủ ăn. By giờ th từ những vườn tr ở Ceylan tới những lng đnh c ở miền Bắc băng gi, ai cũng biết tn v yu ng. Cả những người thổ dn ở gần Bắc cực cũng thch những phim hoạt họa về con chuột Mickey chiếu ở Juneau, ở Alaska, đến nỗi họ lập một hội, ku l hội Mickey.

Hai mươi mốt năm trước, Walt Disney ngho rớt mng tơi, by giờ ng triệu ph. ng c thể ngồi trong một chiếc xe Rolls Royce lộng lẫy nếu ng muốn, nhưng ng khng thch vậy, chỉ thch dng những xe cũ ng mua lại. Kiếm được bao nhiu, ng cho vo cng việc của ng hết bấy nhiu. ng bảo rằng lm được những phim đẹp thch hơn l cp nhặt cả triệu bạc.

Hồi trước Walt Disney ở Kansas, muốn thnh một nghệ sĩ cho nn c lần lại hng Kansas City Star xin việc. ng gim đốc đ coi những bức vẽ của ng, bảo ng khng c ti, khng thu nhận ng, lm ng thất vọng, đau đớn v cng.

Sau ng xin được việc vẽ hnh cho cc nh thờ. Tiền cng t qu, nn khng mướn được phng vẽ, phải vẽ trong nh chứa xe của cha. Hồi đ ng cho vậy l cực, nhưng by giờ ng nghĩ rằng nhờ lm việc trong khng kh hi mi dầu mỡ ở trong nh chứa xe đ m ng nảy ra một đng gi cả triệu bạc.

Việc xảy ra như vầy: Một hm một ch chuột cao hứng dạo chơi trn sn. ng ngừng vẽ, ng n, rồi v nh lấy mấy miếng bnh m vụn nui ch ta.

Dần dần quen thuộc, ch chuột dm leo ln bn vẽ của ng.

Sau đ t lu, ng m một chồng hoạt họa vẽ con thỏ Owald trn giấy dy, đem lại Hollywood để bn, nhưng chẳng c ma no mua cả, thnh thử ng lại thất nghiệp m khng đồng no dnh ti.

Một hm, ng đang kiếm để vẽ th sực nhớ đến con chuột n thường leo ln bn vẽ của ng ở Kansas.

Tức th ng vẽ ngay con chuột, v hm đ con chuột Mickey ra đời, sau thnh kp ht nổi danh nhất thế giới.

Mỗi tuần Walt Disney tới vườn Bch Th để nghin cứu cc loi vật v tiếng ku của chng v trong phim ng muốn cho những con vật đ ku.

By giờ ng khng cn vẽ cũng khng đặt lời v nhạc cho cc phim của ng. ng c một trăm ba mươi bốn người gip ng trong những chi tiết đ, để ng rảnh c tm cho phim v khi ng tm được một no, ng đem ra bn với mười hai chuyn vin về truyện phim.

Một hm, cch đy mười bốn năm, ng đề nghị vẽ một phim hoạt họa diễn một truyện trẻ em m thn mẫu ng đ kể cho ng nghe hồi nhỏ, tức chuyện Ba con heo v con ch si.

Cc cộng sự vin của ng lắc đầu, ng bn thi định, qun đ đi. Nhưng ng qun khng được lại đề nghị nhiều lần nữa, m lần no, cc cộng sự vin cũng lắc đầu.

Sau cng họ nhượng bộ, bảo "Được, để lm thử coi" chứ khng tin g thnh cng.

Phải mất chn chục ngy mới lm xong phim về chuột Mickey, nhưng phim ba con heo nhỏ th họ cho l khng đng tốn cng như vậy lm gấp chỉ trong su chục ngy l xong. Khng ai tin rằng n được hoan nghnh. Vậy m n lm vang động thế giới, thực l thnh cng kỳ dị. Từ những ruộng đồng bng vải ở Georgia, cho tới những vườn trồng to ở Devon, tới đu cũng thấy vang ln tiếng ca bi:"Ai thm sợ con Ch Si lớn, dữ, con Ch Si lớn, dữ, con Ch Si lớn, dữ?".

C rạp chiếu phim đ ng lời được su trăm ngn Anh kim nhưng Walt Disney ni chỉ lời được hai vạn rưỡi thi.

Những phim hoạt họa sống được lu. Hiện nay trong nhiều rạp cn chiếu con chuột Mickey vẽ từ mười năm trước.

Walt Disney tin rằng hễ yu cng việc mnh lm th tất thnh cng. ng bảo khng bao giờ ng chỉ nghĩ tới việc kiếm tiền. ng lm việc say m lắm.

anbinh
10-26-2010, 03:32 AM
Gương 015

Mark Twain



Hollywood đ tiu 400.000 Anh kim để quay một phim kể đời một trong những người ti giỏi nhất cổ kim của Hoa Kỳ. ng l văn ho nổi danh nhất thời ny v l một cy bt hi hước c nhiều độc giả nhất từ trước đến nay.

ng học trong một trường lng cất bằng cy cho tới 12 tuổi. Sự học của ng chỉ tới mức đ, vậy m hai trường đại học Oxford v Yale đ tặng ng những học vị danh dự v những học giả bậc nhất thế giới cầu được vo hng bạn hữu của ng. ng viết sch kiếm được hng triệu Anh kim, c lẽ hơn hết thảy những văn ho mọi thời. Mặc dầu ng đ mất ba mươi bốn năm rồi, m tiền tc giả của ng về sch, phim v pht thanh vẫn chảy như suối vo tủ sắt người thừa kế ng.

Văn ho đ tn thật l Samuel Langhorne Clemens, nhưng k bt hiệu l Mark Twain.

Đời Mark Twain l một cuộc phiu lưu. ng sống trong một thời đại ly kỳ, đẹp đẽ nhất của lịch sử Hoa Kỳ. ng sanh một trăm lẻ mười năm trước trong một lng nhỏ ở Missouri, một lng thim thiếp ngủ gần bờ sng Mississipi. Hồi đ đường xe lửa ở Mỹ mới cất xong được bảy năm, v Abraham Lincoln cn lm một anh cy ruộng, đi chn khng, đẩy một ci cy lưỡi bằng gỗ do một cặp b ko.

Mark Twain sống bảy mươi lăm năm sung sướng v mất năm 1910 ở Connecticut. ng viết hai mươi ba cuốn sch: nhiều cuốn ngy nay đ qun tn, nhưng c hai cuốn: Huckleberry Finn v Tom Swayer sẽ bất hủ v được trn tng hng thế kỷ nữa. Hễ trn đời cn thanh nin th người ta cn đọc hai cuốn đ m ng đ viết do kinh nghiệm của bản thn ng. ng viết n ư? Khng? N pht từ đy lng ng ra.

Mark Twain sanh tại một căn nh c hai phng nhỏ ở Floride, xứ Missouri. Phng ng ở tồi tn đến nỗi một chủ trại tn thời ngy nay cũng khng chịu nui b hoặc g trong đ. Tm người sống trong hai phng tối: bảy người trong gia đnh v một người tớ gi. Mới sinh ra ng rất yếu ớt. Rồi khi ng lớn ln lần lần, thn mẫu ng phải lo lắng cho ng nhiều hơn hết thảy những người khc trong gia đnh họp lại. ng rất ưa khi hi, ght học, chỉ thch ra bờ sng Mississipi nhn những c lao b mật, những b mảng từ từ tri v dng nước cuồn cuộn chảy ra biển. C khi ng ngồi trn bờ sng mơ mộng hng giờ.

ng sut chết đuối chn lần. Trong khi chơi với bạn, giả lm mọi, lm ăn cướp, trong khi v coi những ci hang, ăn trứng ra, ngồi trn mảng tri theo dng sng, ng đ thu thập được những kinh nghiệm v gi về cảnh vật v tnh tnh để sau ny trứ tc.

ng được di truyền ti hi hước của thn mẫu (...) Năm ng mười hai tuổi, thn phụ ng mất. ng hối hận v đ khng nghe lời cha, lu lổng chứ khng chịu học, rồi ng khc, tự trch mnh.

Thn mẫu ng rn an ủi ng. t hm sau ng tập sự trong một nh in để vừa kiếm tiền vừa học thm.

Hai năm sau, ng thnh một ấn cng. Một buổi chiều, đi ngoi phố ở chu thnh Hannibal, ng lượm được một trang x trong cuốn sch v bay trn đường.

Việc tầm thường đ đ thay đổi hẳn đời ng. Trang giấy đ kể chuyện Jeanne d'Arc bị qun Anh giam trong ngục ở Rouen. Đọc xong, lng ng rung động v sự tn nhẫn của qun Anh. ng khng hề biết Jeanne d'Arc l ai, chưa hề được nghe tn đ. Nhưng từ hm ấy, ng đọc bất kỳ sch bo no ni về vị nữ anh hng ấy. Trong gi nữa đời, ng nghin cứu về Jeanne d'Arc, rồi viết một cuốn nhan đề l Hồi tưởng Jeanne d'Arc. Cc nh ph bnh cho cuốn đ km xa những cuốn khc của ng, nhưng ng coi n l một tc phẩm hay nhất ng đ viết. ng biết rằng nếu k tn thật, độc giả sẽ tưởng lầm l một tc phẩm hi hước, nn ng phải k tn khc.

ng rất vụng về trong việc hn vốn lm ăn, bỏ tiền vo đu th lỗ đ, cho nn năm năm mươi tm tuổi nợ đa ra. M ng lại đương đau nữa, sức đ suy. ng c thể tuyn bố l ph sản rồi khỏi phải trả nợ, v hồi đ khắp xứ bị nạn kinh tế khủng hoảng, nhưng khng, ng nhất định trả hết nợ bằng cch viết sch v đi khắp thế giới diễn thuyết trong năm năm. Tới đu cng chng cũng hoan nghnh ng nhiệt liệt, phng diễn thuyết ng rộng tới mấy cũng khng đủ chứa hết thnh giả. Khi đ trả hết nợ, ng viết: "By giờ tinh thần ti mới được yn lại khng bị như c vật nặng đ ln n nữa. By giờ lm việc mới thch, chứ khng thấy l một cực hnh nữa".

ng cưới được một thiếu nữ m ng yu ngay từ lc mới trng thấy tấm hnh của c. Hai ng b thương nhau lắm. Sch ng viết đều do b xuất bản. Ban ngy viết được trang no th tối đến, ng đặt trn một ci kệ gần đầu giường b để b đọc trước khi đi ngủ. B sửa cho văn nh hơn v hon ton tinh xc, ng lun lun theo b.

ng rất sợ lm thất lạc bản thảo nn cấm người ở gi lau bn viết của ng. ng thường lấy phấn vạch một đường trn sn để ngăn một khu vực khng cho chị ở bước vo.

Đy l bốn hng chữ ng khắc ln mộ ch c Susy con gi ng, m nếu đem khắc ln mộ ch ng th cũng rất hợp.

Một trời ấm p ma h, chiếu du dịu ở đy nh.

Gi ấm p phương Bắc, thổi nh nhẹ ở đy nh.

Cỏ xanh phủ ln, m i ngủ đi, m i ngủ đi!

Xin chc ai an giấc, an giấc, an giấc.

anbinh
10-26-2010, 03:33 AM
Gương 016

Andrew Carnegie


Song thn ng Andrew Carnegie ngho tới nỗi khi sanh ng khng c tiền mời y sĩ hay c mụ. ng bắt đầu kiếm ăn, lnh mỗi giờ c hai xu, sau gy được một gia ti l bốn trăm triệu Mỹ kim.

Một lần ti c cơ hội lại thăm nơi chn nhau cắt rốn của ng ở Dunfermline, xứ Ecosse. Nh chỉ c hai phng: phng dưới l xưởng dệt của thn phụ ng, phng trn gc nhỏ xu, tối tăm, thấp, st mi, lm chỗ ăn ngủ cho gia đnh.

Khi gia đnh Carnegie tới Chu Mỹ, thn phụ Andrew dệt khăn trải bn v đem bn dạo từng nh. B thn ng giặt mướn tại nh v khu giy cho một người thợ giy. Andrew chỉ c mỗi một chiếc o sơ mi m b thn ng giặt rồi ủi mỗi tối, khi ng đi ngủ rồi. B cụ lm việc từ mười su đến mười tm giờ mỗi ngy, v Andrew rất yu qu cụ. Khi ng hai mươi hai tuổi ng hứa với mẹ rằng mẹ cn sống th ng khng lấy vợ. ng giữ được lời hứa đ. Ba chục năm sau khi cụ quy tin rồi, ng mới lập gia đnh. Lc đ ng đ năm mươi hai tuổi, v năm su mươi hai tuổi ng mới sanh cậu con một. Hồi nhỏ ng ni hoi với b cụ:

- M, sau ny con sẽ giu c để m c o lụa bận, c người ở để sai v c ring một chiếc xe để đi.

ng thường bảo nhờ b cụ m ng thng minh, c nhiều khả năng v lng yu mẹ đ l nguyn động lực gip ng thnh cng rực rỡ. Khi cụ mất, ng đau khổ trong nửa thng, mỗi lần nhắc đến tn cụ l ng nghẹn ngo, khng nn lời. Một lần ng trả hết nợ cho một b gi xứ Ecosse để b ny lấy lại được căn nh đ cầm cố cho người khc, chỉ v b giống b cụ thn sinh ra ng.

Ai cũng cho rằng Andrew Carnegie l ng vua thp m ng khng biết cht g về sản xuất thp. Hng trăm ngn người lm việc cho ng chắc chắn hiểu kỹ thuật đ hơn ng. Như ng biết dng người, v đức ny đ lm cho ng ha ra giu c. Ngay từ hồi nhỏ ng đ tỏ ra c thin tư xuất chng, trong nghệ thuật tổ chức v lnh đạo, lm cho người khc vui lng gip mnh.

C lần ở Ecosse, hồi cn b ng bắt được con thỏ ci. t lu sau thỏ ci sinh được một bầy con, nhưng ng khng c g để nui chng. ng nảy ra một ti tnh: ng bảo trẻ con hng xm hễ kiếm đủ rau để nui thỏ th ng lấy tn mỗi đứa đặt cho một con thỏ. Kế hoạch đ kết quả lạ lng.

Về sau, Carnegie dng thuật tm l đ trong cng việc lm ăn. Chẳng hạn ng muốn bn đường rầy cho cng ty xe lửa Pennsylvania Railroad. Hội trưởng cng ty hồi đ l J. Edgar Thomson. Andrew Carnegie cho cất ở Pittsbung một xưởng lớn dt mỏng thp m ng đặt tn l "xưởng thp J.Edgar Thomson". Tất nhin l ng Thomson khoi ch v bằng lng mua liền những đường rầy của xưởng mang tn mnh.

Hồi đầu, Andrew Carnegie lm một anh đưa điện tn ở Pittsbung. Mỗi ngy lnh được năm cắc m ng đ lấy lm mn nguyện lắm. Nhưng ng khng biết chu thnh Pittsbung v sợ mất việc nn phải học thuộc lng tn v địa chỉ của tất cả cc hng trong khu vực bun bn.

ng chỉ thm lm điện tn vin thực thụ, thm muốn chết đi, v buổi tối ng học chữ moc, sng tới sớm để tập đnh tin. Một buổi sng c tin quan trọng đặc biệt. Ở Philadelphie người ta gọi Pittsbung, gọi mấy lần m chưa c điện tn vin no tới. Andrew Carnegie chạy lại, nhận tin, chuyển tin v tức th được nhắc ln chn điện tn vin, lương gấp đi. Sau ny ng thch kể lại lần thnh cng đầu tin đ. Một bạn thn của ng tm tắt lun l trong truyện thnh một cu ngộ nghĩnh dưới đy m chng ta nn ngẫm nghĩ kỹ:

"Muốn trở nn một người ra sao th phải hnh động như đ l con người ấy".

Nghị lực khng c g thắng nổi v lng cao vọng phng tng của Andrew Carnegie lm cho nhiều người để tới ng. Cng ty Pennsylvania Railroad dựng một đường dy thp tư, Andrew Carnegie được cng ty dng lm điện tn vin rồi t lu sau lnh chức thư k ring của Gim đốc phn khu.

Một ngy nọ, một việc bất ngờ đưa ng ln con đường giu sang. Một người ngồi bn cạnh ng trong toa xe lửa đưa cho ng coi bản đồ một kiểu toa mới, c chỗ nằm m người đ mới vẽ xong. Hồi đ ghế nằm chỉ l những băng di đng vo hai bn hng toa chở hng. Bản đồ mới giống kiểu toa ngy nay. Carnegie c c sng suốt đặc biệt của người Ecosse. ng hiểu rằng sng kiến đ hứa hẹn được nhiều. ng vay tiền, hn thm một phần vốn quan trọng vo x nghiệp, được hưởng những số lời lớn v năm ng hai mươi lăm tuổi, nội việc hn vốn đ đ đem cho ng năm ngn Mỹ kim mỗi năm.

Một ln khc, một chiếc cầu cy trn đường hỏa xa chy v sự giao thng phải ngưng trệ trong nhiều ngy. Lc đ Andrew Carnegie lm gim đốc một ngnh trong cng ty. ng hiểu rằng những cầu cy sẽ bị loại v thp sẽ l vật liệu trọng dụng. ng vay tiền, lập một cng ty lm những cầu sắt, v tiền lời n n v mau qu, lm ng gần hoa cả mắt.

ng m ci g l ci đ biến thnh vng. ng ln như diều. Vận may, một vận may khng thể tưởng tượng được bm riết lấy ng. ng với vi người bạn mua một ci trại gi bốn chục ngn Mỹ kim, ở giữa một khu c mỏ dầu lửa, tại Pennsylvanie v chỉ trong một năm lời được một triệu Mỹ kim. Khi con người quỉ quyệt đ hai mươi bảy tuổi th lợi tức mỗi tuần đ được ngn Mỹ kim rồi, m mười lăm năm trước chỉ kiếm được hai cắc rưỡi mỗi ngy.

Việc dưới đy xảy ra năm 1862, Lincoln đương lm Tổng Thống. Nội chiến đương dữ dội. Sắp c nhiều sự thay đổi lớn. Bin giới mở rộng ra. Miền Ty xa xi bắt đầu được khai ph. Những đường xe lửa sẽ đặt khắp trong nước. Nhiều thnh thị lớn sẽ dựng ln. Chu Mỹ lảo đảo trước một kỷ nguyn mới m hồn.

V Andrew Carnegie, với những l nấu thp phun khi v lửa của ng, bị li cuốn trong ngọn thủy triều đương dựng đ, ng dựng được gia ti khổng lồ ngoi sức tưởng tượng.

Vậy m ng khng phải l hạng người lm chết bỏ, ng thch la c. ng bảo rằng những người cộng tc với ng biết nhiều hơn ng, v chnh những người đ kiếm tiền cho ng. Người Ecosse c tnh biển lận. ng l người Ecosse m lại khng biển lận khi chia lời. ng để cc cộng tc với ng hưởng chung, v chắc chắn ng l người đ gy cho nhiều người nhất thnh triệu ph. Trong đời ng, ng chỉ được học c bốn năm, vậy m ng viết tm cuốn sch về du k, tiểu sử, cảo luận v bin khảo kinh tế. ng tặng su chục triệu Mỹ kim cho cc thư viện cng cộng v su mươi tm triệu nữa cho cng việc cải thiện gio dục.

ng thuộc hết thảy những bi thơ của Robert Burns v c thể đọc thuộc lng trọn bộ những kịch Macbeth, Vua Lear, Romeo v Juliet, Nh bun ở Venice của Shakespeare.

ng khng theo một tn gio no cả m tặng bản ngn đn ống cho cc gio đường.

ng đ tặng tới ba trăm su mươi lăm triệu Mỹ kim. Cc nhật bo tổ chức những cuộc thi v thưởng người no chỉ được cho ng cch hữu ch nhất để tiu hết đống vng của ng, v ng đ tuyn bố rằng chết giu l chết nhục.

anbinh
10-26-2010, 03:35 AM
Gương 017

Enrico Caruso


Khi Enrico Caruso mất năm 1921, hồi bốn mươi tm tuổi, hng triệu người buồn rầu, v giọng ht của thời đại đ bặt hẳn từ ngy đ. ng đ tắt nghỉ trong tiếng vỗ tay khen ng ở khắp thế giới văng vẳng bn tai ng. ng lm việc qu sức, bị cảm hn nhẹ, nhưng ng coi thường khng thm chữa, v suốt su thng ng can đảm chống cự với thần chết, trong khi một triệu tn đồ yu ng cầu nguyện cho ng qua khỏi.

Giọng ht m hồn của Caruso khng phải l do trời cho m l phần thưởng của nhiều năm gắng sức, kin nhẫn luyện tập, giữ vững quyết định.

Mới đầu giọng ng nhỏ qu, nhẹ qu đến nỗi thầy dạy ht bảo ng:"Anh khng thể ht được. Anh khng c giọng. Anh ht như tiếng gi thổi vo cửa l sch vậy".

Trong nhiều năm giọng ng vỡ ra v một lần ng bị thnh giả hut ci. t người đ được uống cạn ly rượu thnh cng như ng, vậy m hồi danh thịnh nhất, nhớ lại ngy xưa đ thất bại, ng thường đau đớn đến sa lệ.

M ng mất khi ng mười hai tuổi v từ đ, bất kỳ đi đu, ng cũng mang theo một tấm hnh của b cụ.

B cụ sanh hai mươi mốt lần m chỉ nui được c ba người con. Vốn qu ma cụ c biết g khc ngoi sự lm ăn kh nhọc v nhẫn nhục đau khổ, vậy m cụ c linh tnh bảo rằng một người con trai của cụ c thin ti, danh tiếng sẽ vang lừng, v khng c việc no ch lợi cho con, m cụ khng lm, d phải hy sinh rất lớn. Caruso thường vừa khc vừa ni: "M ti nhịn mua giy dp, đi chn khng, để ti c tiền học ht".

Hồi ng mới mười tuổi, thn phụ ng bắt ng thi học, cho ng vo lm trong một xưởng. Mỗi tối, sau khi lm việc xong, ng học đn, nhưng mi đến năm hai mươi mốt tuổi, ng mới được vui vẻ ca ht từ gi xưởng.

Người ta cho ng ht trong một qun c ph, khng chịu trả cng ng m chỉ cho ng ăn bữa tối. ng vồ ngay lấy cơ hội ấy.

Sau cng ng được ht trong một nhạc kịch trường. Lần đ mới thực l lần may mắn đầu tin của ng. Trong lc diễn thử, ng bị kch thch qu, thnh thử giọng ng bể ra như những mảnh knh. ng thử đi thử lại mấy lần, nhưng kết quả chỉ tai hại, ng khc mướt, chạy về nh.

Lần đầu ra sn khấu, ng lảo đảo, tới nổi thnh giả hut ci phản đối. Lần đ ng chỉ đng một vai tạm để thay thế vai chnh. Một tối, vai chnh thnh lnh đau m ng khng c mặt ở rạp. Người ta bảo đi tm ng khắp đường phố. Sau cng người ta thấy ng trong một tiệm rượu, gần say khướt. Hay tin, ng chạy một mạch về rạp, tới nơi ng hết hơi, người nng bừng v rượu v v khng kh trong phng thay quần o. Rồi thnh lnh tri đất quay như chong chng. V khi Caruso bước ra sn khấu, ng ht bậy bạ như đin, cả rạp nhao nhao ln phản đối.

Sau buổi ht đ, ng bị đuổi. Hm sau ng đau lng qu, thất vọng qu, muốn tự tử.

Trong ti chỉ cn mỗi một đồng, đủ để mua một chai rượu. Ngy hm đ ng nhịn đi. V đng lc ng đương nghĩ nn tự tử cch no th một người nhạc kịch trường sai tới đẩy cửa bước vo, la:

- Caruso! Về rạp ngay đi! Thnh giả khng muốn nghe ca sĩ đ nữa. Họ hut ci đuổi hắn ra khỏi sn khấu rồi. Họ la đi anh ra. Đi anh cho kỳ được!

Caruso đp:

- Đi ti! Họ khng hở? Tại sao lại đi ti? Họ c biết tn ti l g đu m đi ti?

- Họ khng biết tn anh thật. Nn họ bảo gọi ci anh say rượu hm qua ra. Th l anh chứ cn ai nữa!

Khi Enrico Caruso mất, ng c mấy triệu bạc. Chỉ ring một việc ht để người ta thu thanh vo đĩa, ng cũng kiếm được bốn trăm ngn Anh kim rồi. Nhưng v nhớ lại cảnh ngho hồi b, nn ng mới cần kiệm ghi hết thảy những chi ph bất kỳ lớn nhỏ vo một cuốn sổ cho tới khi ng chết.

C lẽ pht vui nhất trong đời ng l lc ng được bồng đứa con gi ng lần đầu. ng ni đi ni lại hoi rằng ng chỉ cần đợi khi no con gi ng lớn một cht, chạy lăng xăng trong nh, v mở được cửa phng ng m v l ng mn nguyện rồi. V một hm, ở , ng đứng bn cạnh chiếc dương cầm, th sở nguyện của ng thực hnh được: con gi ng chạy v, ng bồng n ln, rồi nước mắt dng dng, ng ni với vợ: "Mnh cn nhớ khng, anh chỉ mong mỏi được thấy lc ny?".

Khng đầy một tuần sau ng mất.

anbinh
11-07-2010, 04:52 AM
Gương 018

Dorothy Dix


Theo bạn, k giả no c nhiều độc giả nhất? Ti th cho rằng k giả đ l một người đn b sung sướng nhất Hoa Kỳ, v đ gip cho đủ hạng người giải quyết những vấn đề tnh cảm của họ. Đ bao lu nay, b l người mẹ, l gio sĩ rửa tội cho hng triệu người đau khổ, cả đn ng lẫn đn b. Chưa c ai đ trnh cho đồng bo được nhiều vụ li dị, đ cứu vớt được nhiều gia đnh như b.

Tn b l Elizabeth Meriwether Gilmer. Bạn chưa nghe ni về b ư? C chứ! Đ nghe ni nhiều lần rồi, nghe tn Dorothy Dix nhiều lần rồi chứ! Dorothy Dix chnh l b. Hồi mới cầm viết, b lựa bt hiệu đ v b thch n, m cũng v b muốn kỷ niệm một người mọi tn l Dix đ hầu hạ gia đnh b lc b cn nhỏ.

Vậy b k tn Dorothy Dix dưới những bi đăng trong hai trăm tờ nhật bo, để cho hng triệu độc giả khắp thế giới đọc, từ Lun Đn tới Chu c, từ Nữu Ước tới Nam Mỹ v Nam Phi Chu.

Cch đy t lu, ti hn hạnh được uống tr với b ở New Orleans, b kể chuyện về tuổi thơ, về sự gio dục của b trong mười năm, sau cuộc nội chiến. Thn phụ b c một trại nui ngựa giống ở bin giới Tennessee v Kentucky. Gia đnh b l một gia đnh cổ ở phhương Nam v chiến tranh m sa st. B ni:

- Chng ti sống kỳ cục lắm, ngho khng ra ngho, sang khng ra sang. Ngi nh cũ của chng ti đẹp lắm, chung quanh c những cnh đồng cỏ mơn mởn, b v cừu mập , nhởn nhơ bn cạnh những cnh đồng trồng la v bng vải. Ăn th chn dĩa bằng bạc. Như tiền th khng c.

B bận những đồ bằng len nh, dệt ở hng xm. B thch kể rằng v nui của b l một con ngựa ci để đua, v gi v bệnh tật nn được thả ở trước nh. B ni thm:

- Ti biết cưỡi ngựa trước khi đi học. Ba ti đặt ti ln lưng ngựa, ti nu chặt bờm ngựa trong khi n ăn cỏ. Khi no n luồng qua một sợi dy thừng mắc quần o hoặc một cnh cy l ti bị hất xuống đất. Ti la ht cho tới khi c người chạy ra bồng ti ln, đặt ti trn lưng ngựa.

Một chị v da đen dạy cch ăn ni cư xử cho b v chị em b. Trong bữa cơm, chị ta đứng sau lưng b, rnh như một tn lnh gc. V phc m lu ăn hoặc bốc đồ ăn hoặc khc th, cốp! Bị c trn đầu liền.

- Ăn uống cho đng hong. Đừng lm như những thằng nhỏ mất dạy da trắng đ nữa!

Ba đứa nhỏ phải chơi một mnh, lm lấy đồ chơi m chơi. Nhưng chơi với ch v ngựa, th vị biết bao! B ni:

- Chng ti được tự do như chim trn trời vậy. Khng bị b buộc g hết. Muốn đi đu th đi, lm g th lm. Chng ti thắng yn cương rồi cho ngựa chạy phi v rừng, đằng sau l một bầy ch sủa vang trời. Chng ti biết hết cả những b mật của rừng, những chỗ chim cn ct trốn ở đu, chim ưng lm tổ ở đu, thỏ giấu con ở đu. Chng ti cũng biết chỗ no c tri l dại v ma thu tới, chỗ no c những hạt dẽ ngon nhất. Lng tự tin của chng ti tăng ln rất mau, v chng ti biết xoay sở lấy, biết biển bo khi gặp nỗi kh khăn.

Đy l một điều lạ lng nhất về b. Chnh một ng cụ gi gần như đin, đ dạy b được nhiều điều rất qu. ng cụ đ l bạn cũ của ng nội b v sống trong nh b như người thn. Khng những cụ dạy b tập đọc m cn hướng dẫn b yu những sch qu trong tủ sch nh nữa. B ni:

- Chưa đầy hai mươi tuổi, ti đ thuộc lng Shakespeare, Scott, Dickens, ti đ đọc Smollet, Fielding v Richardson. Khng c sch để trẻ em đọc, ti đnh nhai đại những sch kh tiu nhất nhưng bổ ch của người lớn. V lc no ti cũng thấy sung sướng được đọc những sch đ.

B đi học trường nh nước rất t.

Cha ti cho ti lại học trường c Alice hay c Jenny khng phải v cc c ấy dạy giỏi m chỉ v thn phụ cc c ấy đ c cng lao với xứ sở, hoặc lm đại t dưới quyền chỉ huy của tướng Beauregard, hoặc đ tử trận ở Gettysburg. Lm sao được? Đ cũng l một cch gip cc c ấy sống.

Trước khi biết bảy lần bảy l bốn mươi chn, b đ leo cy giỏi như một con sc v cưỡi ngựa ti như một ch ni. Sự thật b chỉ được học trong những sch cũ của thn phụ để lại.

Rồi năm mười tm tuổi, b về nh chồng, tnh sống cuộc đời yn ổn như mọi thiếu phụ khc trong trường hợp đ. Nhưng một bi kịch xảy ra, vi b trong một tai biến về hai phương diện gia đnh v ti chnh. Mới cưới nhau được t lu, chồng b thnh một người tn tật, một phế nhn. B phải săn sc chồng, nui chồng cho tới khi chồng chết, trong ba mươi lăm năm đằng đẳng. Lc đ b khng biết lm sao kiếm đủ nui thn mnh, đừng ni l nui chồng nữa. B lo lắng qu, ha đau, phải tới Gulf Coast ở Mississipi để dưỡng sức.

Lần đi xa nh đ đ lm thay đổi hẳn đời b. Trong khi nghỉ ngơi trn bờ biển, b viết một truyện ngắn kể một việc xảy ra trong gia đnh b hồi nội chiến. Song thn b sợ những đồ qu bằng bạc bị lnh phương Bắc cướp mất, sai một tn n lệ đem chn ở bn mộ tổ tin. Hắn chn xong cn lm php ph thủy yếm cho kẻ trộm khỏi tới gần. B bn truyện đ cho một b hng xm lm chủ nhiệm một tờ nhật bo lớn nhất miền Nam, tờ Picayune ở New Orlans. Người ta trả b ba Mỹ kim v dng b lm phng vin trong ta soạn. Như vậy b chỉ kiếm được năm Mỹ kim mỗi tuần, vừa đủ cho hai ng b sống, nhưng nhờ viết phng sự m sau ny b nổi danh khắp trong nước.

Cng việc đầu tin của b l mỗi chủ nhật viết một bi di khuyn bảo phụ nữ về đời tnh cảm của họ đối với chồng con.

Phần đng nữ sĩ viết một lối văn cầu kỳ. Họ rn dng một bt php c vẻ thng thi, độc đo để tỏ ra mnh hơn người, họ muốn tự tạo một tư cch "thượng đẳng". Dorothy Dix tri lại, viết rất giản dị, thnh thử nữ độc giả thch ngay. B khng cần tự tạo một tư cch giả tạo, chnh b đ c một tư cch chn thực, mạnh mẽ của một phụ nữ Mỹ sống giữa thin nhin v những truyền thống của một gia đnh cổ phương Nam. Một x hội cng rập theo đời sống mới nhất luật bao nhiu th lại cng trọng những người cn giữ được ci nhị, tự nhin của cổ nhn bấy nhiu. Ở thời đại ny, nhiều người nhờ b quyết đ m thnh cng trong nghề viết văn, nghề lm bo, truyền thanh, ht bng, diễn kịch...

Những bi của Dorothy Dix được hoan nghnh nhiệt liệt. William Rodolp Hearst lun lun tm những ti ba mới, tặng b những số tiền lớn để b viết cho tờ Evening Journal ở Nữu Ước. B cần tiền lắm nhưng khng bỏ chủ bo cũ, v chnh nhờ tờ Picayune m b đ học được nghề viết bo. Vả lại lc đ chủ tờ Picayune đau, cần b ở lại gip việc. V vậy b khng nhận lời William Rodolp Hearst, nhưng năm 1901, khi chủ bo cũ mất, b qua viết tờ Evening Journal. Trong hai chục năm sau chẳng những b giữ mục Tm tnh m cn viết nhiều bi phng sự lớn để đứng về phương diện nhn đạo m ph bnh những tin tức kch thch nhất, như vụ xử lớn về hnh sự. Chẳng hạn b viết phng sự vụ xử Harry K. Thaw, nh triệu ph ở Pittsburg đ giết kiến trc sư nổi danh nhất Nữu Ước l Stanford White(...) B thuật lại vụ Hall Mills, một tội đại hnh b mật nhất của thế kỷ XX.

Thnh thử một thiếu nữ rất giản dị, m hồi hai mươi tuổi cn qu ma, chưa đi xe lửa qu su lần, chưa đi coi ht hoặc ra thnh thị qu hai lần, sống trong một trại hẻo lnh ở Kentucky, nay đ thnh một k giả nổi danh nhất Nữu Ước.

Người ta thường hỏi b c phải chnh b viết những bức thư k tn độc giả rồi lại tự đp trn mục "Thư tm tnh" khng. B đp:

- Đu c vậy! Cần g phải thế? Mỗi ngy ti nhận được từ một trăm tới một ngn bức thư của độc giả m!

Những bức thư đ l những ti liệu lạ lng về lng người. Người ta khng giấu giếm g cả, cởi hết lng với b. Đọc n, b biết được hơn ai hết những thắc mắc của con người thời ny.

B được cc trường Đại học Tulane v Oglethorpe tặng nhiều vinh hm, nhưng v b khng c con, nn những vinh hm đ khng lm cho b vui bằng khi nhận được những hng chữ như vầy của thanh nin đau khổ, hoang mang: "Ti trọng b hơn m ti, ti biết rằng b hiểu ti..."

anbinh
11-07-2010, 04:53 AM
Gương 019

Zane Grey


Zane Grey đ chiến đấu với cơ hn v thất vọng để chiếm được một địa vị trong hng những tiểu thuyết gia nhiều độc giả nhất đương thời. V ng chiến đấu như vậy khi ng sống trong một ngi lng nhỏ.

Cc nh bo ngy nay trả ng vạn rưỡi Anh kim để ng viết cho một truyện, m hồi đầu th mỗi cuốn của ng bn khng được ba đồng. Cc nh xuất bản ni rằng lun ba năm nay mỗi năm trung bnh bn được trn một triệu cuốn của Zane Grey, nhưng hồi mới viết, ng thất bại phải sống trong cảnh đi rt.

Thn phụ ng chỉ muốn ng học nghề nha y m ng th cho lm nha y chẳng hơn g thợ mỏ. Nhưng lệnh cha, ng đu dm ci, cho nn ng phải học nghề nhổ răng, v mở một phng nhổ răng cho thin hạ trong nhiều năm.

Trong khi tay ng nhổ răng cấm, răng nanh th c ng chỉ nghỉ đến cng việc khc, đến việc viết truyện.

Năm thng tri qua, ng cng thấy khng chịu nổi bi kịch hng ngy của ng. ng khinh tởm nghề của ng m cứ sng sng phải đnh xe tới phng nhổ răng, như một tn n lệ bị người ta quất, bắt phải cho thuyền tới ngục tối vậy.

Sau khi quyết định lm một nh văn, ng bỏ nghề nha y, dọn về một lng nhỏ để c thể sống kiệm tiện, vừa săn bắn, cu c kiếm ăn, vừa tập viết.

ng kh nhọc hng thng, c khi trọn một năm để viết một truyện, sửa đi sửa lại, đổi tnh tiết, đổi nhn vật. Viết xong, ng đọc lớn tiếng từ đầu tới cuối, giọng hăng hi. ng thấy hay lắm, tin chắc rằng mnh sắp thnh một văn ho. Khốn nỗi, ngoi ng ra, chẳng ai tin như vậy cả. Trong khắp xứ, khng một nh xuất bản no chịu mua truyện của ng.

ng đem hết tm tr v th giờ để viết lun trong năm năm đằng đẳng, v trong năm năm ấy ng khng kiếm được lấy một xu. Chơi d cầu trong một đội nh nghề th thỉnh thoảng lại kiếm được t nhiều, cn viết tiểu thuyết th tuyệt nhin khng.

Một hm ng đương tm cch bn một tiểu thuyết th gặp đại t Buffalo. Đại t muốn kiếm một người biết viết lch đi theo qua miền Ty để chp du k. Zane Grey vồ ngay lấy cơ hội, nghĩ sắp được sống một cuộc đời phiu lưu m m mẫn cả tm thần.

Sống su thng với bọn cao bồi v cc bẫy ngựa rừng ở miền Ty, ng trở về nh, viết tiểu thuyết nhan đề The last of the Plainsmen. Lần ny ng chắc chắn c người mua bn gởi bản thảo cho nh xuất bản Harper v đợi hai tuần, khng thấy tin tức g, ng nng lng qu, chạy lại hỏi nh đ.

Người ta trả bản thảo, ni: "Chng ti n hận lắm, nhưng đọc hết cuốn m khng thấy cht g chứng tỏ rằng ng c thể viết tiểu thuyết được". Lng ng tan nt. ng chong vng. Cuốn đ l cuốn thứ năm bị từ chối. C ai cầm gậy đập mạnh vo đầu ng, cũng khng lm ng điếng người bằng. Loạng choạng xuống thang gc, ng phải bu chặt một cột đn cho khỏi t, v bản thảo kẹp ở nch, ng dựa cột nước mắt chảy dng dng.

ng về nh, đau đớn thất vọng. ng đ sống nhờ b vợ c cht của ring, nhưng sau năm năm hết nhẵn tiền rồi m nh lại thm một đứa con thơ nữa. Hai vợ chồng chn nản qu. Nhưng b vợ cũng rn khuyến khch ng thử viết thm một truyện nữa. Lc đ vo cuối đng. L sưởi nhỏ qu, khng đủ ấm, tay ng cng lại, cứ viết được năm pht lại phải mở l, đưa hai bn tay lại gần ngọn lửa để sưởi.

Suốt ma đng đ v cho tới ma h năm sau, ng cặm cụi viết tiểu thuyết đ, v khi viết xong, ng lại mang đến nh xuất bản Harper. Cuồng loạn v thất vọng, ng yu cầu ng gim đốc nh đ đem về nh v đch thn đọc gim cho ng. Hai ngy sau, Zane Grey trở lại, ng gim đốc cười, ni: "Nh ti thức gần trọn đm hm qua để đọc tiểu thuyết ng, khen l hay. Vậy chng ti xuất bản cho ng".

Nhan đề truyện đ l Heritage of the Desert. (Di sản của sa mạc). Sch ra được hoan nghnh nhiệt liệt.

Vậy sau mấy năm ngho khổ v thất bại. Zane Grey đ thnh một nh văn kiếm được nhiều tiền nhất v một tiểu thuyết gia được nhiều người đọc nhất đương thời. V từ hồi đ, ng đ xuất bản khoảng su chục truyện v độc giả đ mua của ng trn mười lăm triệu cuốn.

anbinh
11-07-2010, 04:55 AM
Gương 020

Frank Woolworth


Năm hai mươi mốt tuổi, Barbara Hutton lm một tiệc đi khch. Khng kh trong nh đầy m nhạc du dương v cc danh ca bực nhất ht ln những bi tnh tứ. Nng mới hưởng được một gia ti khoảng hai chục triệu Mỹ kim th ngại g m khng tiếp tn một cch sang trọng?

Hai chục triệu Mỹ kim đ ở đu ra? Thưa, do chứng chi tiu lặt vặt của hng triệu người Mỹ.

Nng l chu nội ng Frank Woolworth v mỗi lần một người Mỹ tiu một cắc trong một cửa hng "gi độc nhất của Woolworth" th một phần số tiền đ vo trong ti của thiếu nữ mỹ miều tc hung hung đ.

Frank Woolworth đ lm cch no để gy gia ti đồ sộ đ? Thưa bạn, l nhờ ng được một điều may từ hồi mới khởi sự lm ăn: điều may đ l ng ngho. Ngho lm cho bước đầu kh khăn. Muốn c một ti sản trung bnh th tất nhin l sinh trong một gia đnh giu lợi hơn l sinh trong một gia đnh ngho. Nhưng nếu muốn c một ti sản phi thường, một gia sản khổng lồ, th vấn đề lại khc. Cần phải c một c thực tế, một nghị lực, một lng hăng hi đặc biệt, m những đức tnh đ rất t khi thấy trong hạng người khởi sự lm ăn một cch dễ dng.

Cho nn phần đng cc nh tỷ ph đều c bước đầu gian nan. Frank Woolworth sống trong một trại ruộng gần Watertown v ngho khổ tới nỗi mỗi năm phải đi đất su thng: ma đng gi bấc lạnh như cắt m khng c tiền mua một chiếc o bnh t nữa.

Cảnh ngho gip ng được nhiều việc lớn: n gy cao vọng cho ng v lm ng nhiệt tm muốn tiến tới. ng ght đời sống trong trại ruộng, muốn đi bun. Cho nn năm hai mươi mốt tuổi, ng đng một con ngựa ci gi vo một chiếc xe chạy trn tuyết rồi tới Carthage ở tiểu bang Nữu Ước, ngừng trước mỗi cửa hng để xin việc. Nhưng khng ai muốn mướn ng hết. ng cục mịch qu, chậm chạp qu. Ai lại tc khng hớt m o th để hở ngực.

Sau cng, một nhn vin hỏa xa chịu dng ng. Nhn vin đ ngoi việc sở ra, cn trử đồ tạp ha trong một ci kho. Frank Woolworth chịu lm khng cng để học nghề.

Sau ng xin một chn trong một tiệm bn đồ trang sức. Mặc dầu đ hai mươi mốt tuổi, chủ tiệm khng tin rằng ng c đủ tư cch để tiếp khch. Người ta muốn giao cho ng việc dậy sớm đốt lửa, qut cửa hng, lau knh, v đi giao đồ. ng khng c quyền đứng bn, trừ những giờ đng khch, như buổi trưa, lại thm chủ tiệm khng muốn trả cng cho ng trong su thng đầu. ng đp rằng, trong mười năm lm mướn ở trại ruộng, ng đ dnh được năm chục Mỹ kim, tất cả gia ti của ng chỉ c bấy nhiu thi, nhưng ng bằng lng lm khng cng trong ba thng đầu v c số tiền đ đủ ăn rồi, từ thng thứ tư trở đi th ng xin được lnh mỗi ngy năm cắc. Chủ tiệm bằng lng, tới khi ng được lnh mỗi ngy năm cắc th người ta bắt ng lm việc mười lăm giờ một ngy, tnh ra mỗi giờ vo khoảng ba xu.

Sau cng ng kiếm việc trong một hng khc, tiền cng mỗi tuần mười Mỹ kim, v ng phải ngủ dưới hầm, với một khẩu sng lục ở dưới gối để coi chừng kẻ trộm. Đời ng lc đ như một cơn c mộng. Chủ tiệm hnh hạ ng, đnh đập ng, mắng ng l đồ v dụng, rt tiền cng xuống v dọa tống cổ ra cửa. Frank Woolworth hon ton thất vọng. Tin rằng khng sao thnh cng được, ng về trại ruộng, thần kinh suy loạn v suốt một năm chẳng lm được việc g cả.

Bạn thử tưởng tượng. Con người sau ny thnh nh bun lớn nhất thế giới đ, thất vọng tới nỗi bỏ định lm ăn m đi về ruộng nui g.

Rồi một hm, ng ngạc nhin v cng, một người chủ cũ sai người kiếm ng, muốn giao việc cho ng. Hm đ l một ngy thng ba, lạnh buốt, ở cuối thế kỷ trước. Mặt đất phủ tuyết dy tới non một thước. ng thn sinh ra ng chở khoai ty ra chợ bn, ng leo ln xe, ngồi trn đống khoai, ra Watertown, ng sắp bước vo một nghề n đưa ng tới cảnh giu sang, quyền thế ngoi tất cả những hy vọng ho huyền nhất của ng.

B quyết thnh cng của ng ở đu? Trước hết, ng c một , một mới mẻ. ng mượn ba trăm Mỹ kim v lập một cửa hng ở Nữu Ước tại đ khng c một mn g bn qu năm xu. Mới đầu thất bại hon ton. Mỗi ngy khng lời được trn hai Mỹ kim rưỡi. ng mở bốn tiệm th phải đng cửa ba tiệm.

Nhưng lần đầu ng thnh cng. đ hay, cch thực hnh cũng đng, bấy nhiu đủ cho ng tin chắc rằng ng sẽ thịnh vượng. Nhưng bấy nhiu chưa đủ cho ng thnh một tỷ ph, b quyết thnh tỷ ph của Woolworth cũng như b quyết thnh tỷ ph của Rockefeller, l gom gp vốn m khng phải đi vay, ni một cch khc l kiếm được lời th đập cả vo vốn.

Nhất định khng chịu mang nợ, ng cứ khuếch trương rất từ từ cng việc lm ăn, trong mười năm đầu chỉ mở mười chi nhnh thi. Rốt cuộc, ng thnh một trong những người giu nhất Hoa Kỳ.

ng cất một ngi nh cao nhất thời đ lm phng giấy. ng trả tiền mặt ngi nh đ mười bốn triệu Mỹ kim, mua một ci đn ống gi năm trăm ngn Mỹ kim, v bắt đầu sưu tầm những di vật của N Ph Lun.

Hồi ng trẻ v ngho, chịu bao nỗi thất bại đến hết tin ở ti mnh nữa, th b cụ thn sinh ra ng qung vai ng bảo:

- Cứ vững ch, con, thế no con cũng sẽ thnh cng.

anbinh
11-12-2010, 04:38 AM
Gương 021

Đề Đốc Byrd


Năm 1910 một thiếu nin ở Winchester (tiểu bang Virginia) chp nhật k. Đọc truyện đề đốc Peary hng tm gắng sức để tiến tới Bắc cực, em nhỏ mười hai tuổi đ cao hứng viết vo trong tập:

- Ti đ quyết định sẽ l người thứ nhất tới được Bắc cực.

V tức th em dự bị cho một cuộc mạo hiểm gay go đ. Em vốn sợ lạnh, để tập chịu lạnh, em mặc những quần o mỏng hơn v bỏ lun chiếc bnh t. Sau em nhỏ tới được bằng phi cơ v l người thứ nhất tới Nam cực. Tn của em như bạn đ đon được, l Richard Evelyn Byrd.

Đề đốc Byrd nghĩ rằng những khoảng băng tuyết mnh mng ở Nam cực lần lần thu lại v hằng trăm ngn mẫu đất hoang hiện nay băng phủ, một ngy kia c thể thnh một miền ph nguyn dồi do v cng. V vậy ng quyết tm cắm cờ Hoa Kỳ trn đất đ v chiếm n cho xứ sở ng. kiến của ng c thể đng. Chnh ti đ thấy những mỏ than ở cch Bắc cực su trăm cy số v phần đng cc nh địa chất học tin rằng c những mỏ than vĩ đại v c lẽ cả những mỏ dầu lửa nữa ở gần Bắc cực.

Đời Đề đốc Byrd l một tấm gương rực rỡ của một em nhỏ c lng cao vọng khng hề lay chuyển, v thắng được những trở ngại nhiều v kể để lm được những việc lớn.

N cho ta thấy r gi trị thực tế của một mục đch độc nhất. Kẻ no ngay từ nhỏ đ vạch một mục đch lớn v suốt đời khng rời bỏ quyết định chủ yếu đ th c việc g m lm khng được!.

Trước hết, Byrd du lịch để coi cc miền xa lạ. Hồi mười bốn tuổi ng đ đi vng quanh địa cầu, m đi một mnh! Rồi ng trở về nh, v trường đại học, nhưng học th t m luyện cc mn đấu quyền, vận lộn, đ banh th nhiều. ng chơi hăng qu đến nỗi gy một chn, bể xương mắt c, thnh tn tật m thủy qun cho ng l khng hợp cch nn miễn dịch ng. Bạn thử tưởng tượng: chưa đầy ba chục tuổi bị miễn dịch v khng đủ sức... biết bao người trong địa vị ng đ chn nản, tự cho l đời mnh bỏ đi rồi!

Nhưng Byrd khng chịu thua. ng tuyn bố rằng một người khng cần đứng được mới li nổi phi cơ, v d chn ng c tật, mắt c gy nt, ng vẫn c thể li phi cơ như thường. Nghĩ vậy, ng tập li phi cơ, bị ba tai nạn, c lần my bay của ng đm vo một chiếc my bay khc, nhưng rốt cuộc ng cũng lấy được bằng cấp phi cng.

Lun lun khao kht mạo hiểm, ng nng lng được bay trn những khoảng băng tuyết ở Bắc cực, nơi m từ trước chưa phi cng no dm bay tới. Nhưng ng bị người ta từ chối mấy lần.

Trước hết, ng định thm hiểm bằng một kh cầu my, chiếc Shenandoah khi bay thử, chiếc kh cầu đ đm bổ xuống đất, tan nt. Rồi ng xin chnh phủ cho php bay thử để hon thnh một phi cơ c thể vượt Đại Ty Dương. Chnh phủ từ chối v ng tn tật.

ng lại năn nỉ người ta cho php ng cầm li một chiếc trong đon phi cơ m Amundsen tnh dng để bay trn miền băng gần Bắc cực. Người ta lại từ chối nữa, lần ny v l do ng đ c gia đnh. Mấy lần thất vọng lin tiếp như vậy rồi cuối cng lại thm ci tin rằng Thủy qun miễn dịch ng lần nữa, cũng vẫn v ci chn c tật của ng.

Chắc chắn l sở Thủy qun khng thể lầm được, nhưng Byrd c quan niệm lố lăng ny, l c sng kiến, lng can đảm v tr thng minh quan trọng hơn một ci chn lnh mạnh. ng vận động, kiếm được những nhm tư nhn chịu bỏ tiền gip cng việc thm hiểm của ng v tức th ng phiu lưu, lm cả thế giới ngạc nhin. ng vượt Đại Ty Dương, ln tới Bắc cực, liệng một chiếc cờ Hoa Kỳ xuống, rồi xuống Nam cực, cắm một chiếc cờ Hoa Kỳ khc.

V khi ng trở về xứ sở th hai triệu người hoan h ng cuồng nhiệt c phần hơn dn La M hoan h Csar thắng Pompe nữa.

V rốt cuộc, chnh phủ Hoa Kỳ tặng chức Đề đốc cho con người m mười bốn năm trước bộ Hải qun đ ch l tn tật v cho miễn dịch.

anbinh
11-12-2010, 04:39 AM
Gương 022

Winston Churchill


Ti lun lun ngạc nhin về điều ny, nhiều việc xảy ra nghe chẳng c g quan trọng cả m sau lại lm thay đổi cả lịch sử. Chẳng hạn, bốn năm trước khi Nội chiến bộc pht, trong năm kinh khủng 1857, một người tn l Leonarl Jerome đầu cơ ở Wall Street m kiếm được một trăm ngn Anh kim. Việc đ trừ Leonard Jerome, c ai cho l quan trọng đu. Vậy m by giờ nhớ lại, ta thấy n ảnh hưởng rất lớn đến lịch sử hiện đại. V nếu người đ Leonard Jerome khng đầu cơ được số tiền lớn đ, th c lẽ Winston Churchill khng sinh ra đời: Leonard Jerome chnh l ng nội của Churchill.

Được số tiền một triệu hai trăm ngn Anh kim, Loenard Jerome mua một phần hn lớn trong tờ Times ở Nữu Ước, lập hai trường đua lớn ở Mỹ, du lịch khắp thế giới, giao du với hạng qu tộc Anh. V kết quả l người con gi mỹ miều, c duyn của cụ, c Jenny Jerome cưới nh qu phi Randolph Churchill. V do cuộc hn nhn đ m Churchill ra đời vo ngy 30 thng mười một năm 1874, trong một lu đi nổi danh nhất ở Anh, lu đi Benheim.

Đời của Winston Churchill mới hoạt động, kỳ dị lm sao!

Trn hon vũ ti khng thấy một người no khc m cuộc đời gồm được nhiều kch thch, nhiều mạo hiểm, nhiều nỗi vui v hứng th như đời ng. Trn một phần ba thế kỷ, ng nắm quyền hnh gh gớm trong tay, ảnh hưởng lớn v cng. Năm 1911, ng l quan văn đứng đầu Hải qun Anh. Trn một phần ba thế kỷ, ng tạo nn anh hng v thời thế.

Ngay từ hồi b, Winston Churchill đ muốn l một qun nhn, suốt ngy by trận. Sau ng tốt nghiệp trường v bị Sandhurt. Trong mấy năm ng đăng lnh, chiến đấu với kỵ binh cầm thương của Bengale (Ấn Độ), chiến đấu với Kitchener ở sa mạc Soudan, chiến đấu với qun FuzzWuzzies.

Từ năm 1900, ng đ nổi danh v liều lĩnh, can đảm, nổi danh tới nỗi mới hai mươi su tuổi đ được bầu vo nghị viện.

Việc xảy ra như vầy: Năm 1899, ng xung phong qua Nam Phi, lm thng tin vin lấy tin tức về chiến tranh Boer cho tờ Morning port, lương hai trăm rưỡi Anh kim mỗi thng. Lương đ cao, nhưng ng lnh n cũng đng, v ng l một thng tin vin nổi danh nhất trong lịch sử Anh. Khng những ng chp tin gởi về, m ng cn tạo ra tin tức nữa, nghĩa l tiến su vo khu vực của địch, trong một toa xe v trang bị tấn cng bằng đại bc, rồi bị qun Boer bắt, nhốt khm, rồi ng vượt ngục, lm cho qun Boer pht đin ln, v để một t binh trong hng qu phi Anh trốn thot.

Ra khỏi ngục, ng cn phải vượt mấy trăm cy số trn địa phận của địch c lnh Boer gc cc đường xe lửa v cầu, ng đi bộ hoặc trốn trong cc toa chở hng, ngủ trong rừng, trong đồng la hoặc mỏ than, ngụp trong đồng lầy, qua sng. ng đi qua những cnh đồng Chu Phi, trong bầy kn kn bay lượn trn đầu chỉ đợi ng mệt qu, gục xuống l chng tha hồ mổ, rỉa.

Truyện vượt ngục của ng đ l tuyệt hay rồi. M ng lại cn viết cho độc giả m nữa. Bi ng đăng trn tờ Morning post năm 1900 c tiếng vang dữ dội, người Anh no cũng hăm hở, thnh knh đọc. ng được họ coi l vị anh hng của dn tộc. C người đem truyện ng đặt thnh lời ca: hng vạn người bu lại nghe ng diễn thuyết, v ng được nhiệt liệt bầu vo Nghị viện v hoạt động v danh tiếng của ng.

Chm ngn của ng l: "Khng bao giờ chạy trốn nguy hiểm". Năm 1921, ng qua Mỹ để diễn thuyết bốn mươi lăm lần, mỗi lần được hai trăm hai mươi Anh kim. Nhưng cng ty Cng an Scotland Yard thấy c thể nguy tới tnh mệnh ng, cho ng hay c một bọn người bất mn ở nhiều nơi trong đế quốc Anh đ họp nhau ở Mỹ thnh một hội m ty Cng an gọi l Hội m St, ng tượng trưng cho cc nh cầm quyền Anh, rất c thể bị chng bắn trong khi đi khắp nơi diễn thuyết ở Mỹ. Mặc dầu được ty Cng an cho hay như vậy, ng cũng cứ đi. Khi tới một tỉnh miền Ty Hoa Kỳ, c người bo cho ng rằng vi hội vin trong Hội m St đ mua giấy vo nghe. Trưởng ty Cng an đ hoảng, ra lệnh bi bỏ cuộc diễn thuyết, nhưng người tổ chức cuộc diễn thuyết khng chịu. Churchill bảo người ny:"hnh động như ng l phải. Thấy nguy hiểm, khng bao giờ được quay lưng chạy. Nếu chạy th nguy hiểm tăng ln gấp đi, cn nếu như mạnh bạo xng lại n, th n giảm đi được một nữa. Đừng bao giờ trốn ci g. Bất kỳ ci g!"

Đ khng trốn nguy hiểm, Churchill cn thường tm n. Khi ng đứng đầu Hải qun Anh, ng c được khoảng mười hai chiếc my bay vừa lớn vừa nhỏ. Hồi đ vo năm 1911, my bay mới xuất hiện được tm năm, cho nn li phi cơ khng khc g giỡn với tử thần, vậy m Churchill cũng nhất định đi li lấy, mấy lần bị tai nạn sut chết. Chnh phủ phải ra lệnh cấm, ng khng nghe. ng thch ci nguy hiểm đ v muốn biết r về phi cơ v ng tin đon rằng phi cơ sẽ cch mệnh chiến thuật. Hải qun Anh c khng lực mạnh mẽ l nhờ cng của ng.

Một đức tnh siu phm của ng nữa l tnh quả quyết gang thp, nhờ vo gio dục của ng. Hồi trẻ ng l một sinh vin rất tầm thường. ng ght tiếng La-tinh, tiếng Hy Lạp, ght Ton học, v Php văn. ng tin chắc rằng trước hết phải thng tiếng Anh đ rồi mới học ngoại ngữ, v tất nhin l ng c l. Nhưng v ng khinh Ngoại ngữ, v ton php, nn ng ngồi gần cuối lớp trong ban dự bị vo đại học. V đy mới l điều lạ: con người ght ton sau lm gim đốc ngn khố quốc gia, giữ nền ti chnh của Anh trong bốn năm.

Ba lần thi v trường v bị Sandhurst rớt cả ba. Lần thứ tư mới đậu.

Rồi một hm, sau khi tốt nghiệp hai trường Harrow v Sandhurst - hai trường lớn nhất ở Anh, ng thấy một điều - m nhiều sinh vin tốt nghiệp ở đại học ra đ thấy - l mnh thực ra chẳng biết cht g cả. Lc đ ng hai mươi hai tuổi, lm sĩ quan trong qun đội Anh ở Ấn Độ, tức th ng quả quyết tự học, viết thư về cho thn mẫu ở Anh, xin người gởi qua những sch về tiểu sử danh nhn, lịch sử triết l v kinh tế. Trong khi cc bạn sĩ quan ngủ để trnh ci nng nung người ban trưa, th ng nghiến ngấu đọc đủ cc sch từ Platon tới Gibbon v Shakespeare. ng bỏ mấy năm luyện lối văn sng sủa v bng bẩy m ta thấy trong cc diễn văn v tc phẩm của ng, một lối văn hng hồn v du dương. Vốn ăn ni vụng về, ng đ tự luyện cho thnh một nh hng biện hạng nhất cổ kim.

Khi giữ chức thủ tướng, ng lm việc từ mười bốn tới mười bảy giờ mỗi ngy, mỗi tuần ng thường việc cả bảy ngy. Ngay by giờ ng cn lm việc hăng hi, v cc thư k của ng khng được nghỉ tay. ng lm việc được như vậy nhờ vừa lm vừa nghỉ, v nghỉ trước khi mệt. Mười giờ rưỡi sng ng mới dậy, nhưng ba giờ trước khi dậy, ng ngồi dựa lưng ở giường, miệng ngậm một điếu x g lớn, ku điện thoại, đọc thư cho thư k chp, đọc bo, cc bản phc trnh v điện tn. Rồi ng mới đứng dậy đi cạo ru bằng một con dao cạo kiểu cũ.

Một giờ trưa ng ăn cơm, ngủ một giờ, rồi lm việc. Năm giờ lại leo ln giường, ngủ nữa giờ. Ăn bữa tối xong, ng thường lm việc tới nữa đm.

Một loạt diễn văn của ng đ gom vo một cuốn nhan đề l Trong khi nước Anh ngủ. Trong mấy năm, khi m phần nhiều chnh khch Anh ngủ, hon ton qun đại chiến n sắp chm đắm thế giới, th ng cảm thấy nguy cơ Hitler. Trong su năm, từ 1933 đến 1939, gần như ngy no ng cũng la rằng Đức quốc đương ti v trang, rằng Hitler đương đng xe tăng, chế đại bc, phi cơ, dự định thả bom xuống nước Anh, đnh đắm tu Anh v chiếm thế giới. ng đ thấy trước tất cả những điều đ: nếu nước Anh nghe lời tin đon của ng m tăng binh bị để sẵn sng đương đầu với nguy cơ th đại chiến thứ nh c lẽ chỉ l một ảo mộng của một kẻ đin.

anbinh
11-12-2010, 04:40 AM
Gương 023

Henry J. Kaiser


Nh kinh doanh đ xuất đầu lộ diện mau nhất trong đại chiến vừa rồi l Henry J. Kaiser. Khng phải l qun nhn m gip cho qun đội Hoa Kỳ chiến thắng, th cng đ, t ai hơn ng. Trước chiến tranh, tn tuổi ng c mấy ai biết tới, nhưng chỉ trong vi năm, những x nghiệp mnh mng của ng pht triển lạ lng. ng c tới bảy xưởng lớn đng tu, lm việc đm ngy khng nghỉ để cung cấp cho qun đội những tu chở hng, tu dầu, khu trục hạm v hng khng mẫu hạm. ng cũng c một xưởng chế tạo my bay khu trục v nhiều bộ phận rời.

ng xy cất v điều khiển một xưởng lớn sản xuất rất nhiều ma-nh-di, thứ kim thuộc cực nhẹ, trọng yếu bực nhất trong thời chiến tranh đ.

Khi ng khng kiếm ra được số thp cần dng nữa, ng dựng ngay một xưởng nấu thp, xưởng đầu tin ở pha ty dy ni Đ, c đủ l luyện sắt v my dt kim loại. Rồi ng mua một mỏ sắt để c đủ quặng dng, lại mua nhiều mỏ than để c đủ than đốt l.

ng v cc hội vin của ng dự vo cng việc vớt cc tu Nhật đnh đắm ở Trn Chu Cảng, xy nhiều căn cứ hải qun cho phi cơ ở Wake Island, Midway v Guam, lại xy một phần đại lộ qun sự tiến về Alaska lập ở xứ ny nhiều phi trường cho nh binh, nhiều đi pht thanh, đo nhiều giếng dầu, dựng một nh my lọc dầu. Đặt su trăm cy số ống dẫn dầu ở miền cực Bắc, v xy nhiều cống ngăn trn kinh Panama.

ng c xưởng chế tạo xi măng lớn nhất thế giới. ng đ lưu lại một cng trnh lớn l xy ba ci dập quan trọng nhất thế giới: đập Boulder trn sng Calorado, đập Bonneville trn sng Columbia ở Oregon (nhiều kỹ sư cho rằng khng thể no xy đập ny được), v cũng trn sng đ, đập vĩ đại Grand-Coulee.

Henry Kaiser thnh một trong những chủ nhn ng c danh nhất Chu Mỹ. Nhưng v ng thn mật với mọi người nn người thường đều coi ci con người lớn, mập v hi đ như bạn b vậy. Người ta yu ng v ng giản dị, vui vẻ v hăng hi.

Trước chiến tranh ng chưa hề đng một chiếc tam bản no gọi l c. Vậy m chỉ trong bốn năm ng thnh một nh đng tu nhiều nhất v lớn nhất từ xưa tới nay.

ng đ cch mạng hẳn một trong những kỹ nghệ cổ nhất của loi người: kỹ nghệ đng tu. Hồi đ người ta phải mất su thng mới đng xong một chiếc tu, m xưởng Oregon của ng chỉ mười ngy l giao được một chiếc Liberty Ship. Khi cc thợ của ng ở Californie hay tin đ, họ thề với nhau phải ph kỷ lục ấy cho được. Họ can đảm bắt tay vo việc, v chiếc Robert E. Peary m lườn được lắp đng nữa đm chủ nhật, hon ton đng xong v thả xuống nước chiều thứ năm. Vậy, một cng việc hồi trước lm trong su thng, c khi trọn một năm, th by giờ chỉ lm trong bốn ngy rưỡi.

Tất nhin, lần đ chỉ l một th nghiệm, một sự ganh đua, chứ khng thể bắt thợ tuần no cũng gắng sức như vậy được, nhưng hng của ng cũng tiếp tục đng được những chiếc Liberty Ship trong một thng l xong, từ khi lắp lườn đến khi thả xuống nước.

ng thch lm tận lực như vậy, sống mnh liệt trong cơn lốc bất tận. ng rất ham bắt tay vo những việc m cc nh chuyn mn cho l thực hnh khng được.

Khi ng đề nghị đng tu theo cch dy chuyền, ng c biết cht g về cch đ đu. Từ trước ng chỉ được thăm mỗi xưởng đng tu, nhưng ng nghĩ rằng. Khng biết cht g về những kh khăn trong nghề đ c lẽ lại l ci lợi nhất cho ng. ng nhất định khng chịu theo lối cổ truyền l lắp lườn trước rồi mới lắp những bộ phận khc của tu ln ci lườn đ. Trong thời chiến tranh cần phải lm mau hơn. ng ra lệnh cho cc kỹ sư sửa soạn một xưởng lớn gấp ba những xưởng thường, đủ chỗ cho hng ngn thợ cng lm tại đ một lc, v cả ba phần của tu, tức mũi, đui v thn tu phải đng cng một lc ba chỗ khc nhau.

Khi đng mọi bộ phận rồi, một ci my cổ hạc vĩ đại lớn hơn những my dng từ trước tới nay rất nhiều, kẹp mỗi bộ phận, đem lại đặt vo chỗ của n ở trong tu. Rồi người ta hn kỹ những bộ phận đ với nhau. ng dng rất t đinh tn v cch đ chậm. Một sng kiến nữa của ng l lắp cc bộ phận của tu theo cch dy chuyền như lắp xe hơi vậy. ng v đội kỹ sư của ng lại c phng ngược nhiều bộ phận, như ci mui tu chẳng hạn, để thợ c thể lm ở dưới, đỡ mệt hơn l cứ phải đưa tay ln trời m lm việc. Đng xong th một my cổ hạc sẽ lật p n lại rồi đưa đi, đặt vo chỗ của n trong tu.

Ngay từ hồi nhỏ, Henry J. Kaiser đ c ti tưởng tượng, đức nhiệt thnh v một tham vọng bền bĩ n lm cho ng giu c v nổi danh. Tổ tin ng l người Đức, cha ng lm thợ giy, kh nhọc m khng đủ nui một gia đnh bốn con. V ng l con trai độc nhất trong nh, ng phải thi học từ hồi mười một tuổi để kiếm tiền gip cha. ng xin được một chn giao hng trong một cửa hng lớn ở Nữu Ước. Ban ngy lm cho người, nhưng ban đm th lm theo sở thch: hồi đ ng m chụp hnh. Thấy sch no ở thư viện cng cộng ng cũng đọc nghiến ngấu. Rồi ng xin được một chn gip việc cho một tiệm chụp hnh tại ngoại Lake Placid. ng khng coi cng việc ng lm l một cng việc m cho n l một tr vui, một tr chơi, một nỗi thch th. ng đem cả tấm lng hăng hi của tuổi xanh vo việc bn my ảnh, việc rửa hnh cho cc nh chơi ảnh. ng lại in cả bưu thiếp c dn hnh Lake Plaud để bn. Sau ba năm ng hon ton lm chủ cửa tiệm. Sau năm năm ng mở thm nhhững tiệm chụp hnh khc ở Palm Beach v Daytona Beach tại Floride. By giờ th ng khng c tới một ci my chụp hnh nữa.

Muốn kinh doanh những x nghiệp lớn hơn, ng bỏ nghề lun v bổ nho tới miền duyn hải ty bắc Thi Bnh Dương hồi đ mới bắt đầu khai thc. ng đi cho hng cho cng ty Hawkeye Sand and Gravel ở Spokane, rồi thnh hội vin của cng ty v hn một phần tiền lương vo cng việc lm ăn.

Một hm ng đi thăm một x nghiệp ở Chicago khởi sự nhiều cng việc quan trọng cho thnh phố Spokane. ng muốn bn một mn hng cho x nghiệp, mn hng đ l sự hợp tc của ng: x nghiệp dng ng liền.

Khi ng hai mươi chn tuổi, ng bỏ địa vị lm cng ra kinh doanh. Vốn ng chỉ vỏn vẹn vi ci xe b ệt cũ, t ci my trộn xi măng v bốn con ngựa, hết thảy đều l mua chịu. Nhưng ng cn những số vốn khc khng hiển hiện bằng, song quan trọng nhiều hơn, l tinh lực kinh nghiệm, tr phn đon, lng hăng hi v một nghị lực bất biến, lun lun muốn tiến tới. Sau hai thng, ng lnh việc lt đường, khoảng hai trăm năm chục ngn Mỹ kim. Lc ny ng bắt đầu giu c. Chỉ trong vi năm x nghiệp của ng lt cả ngn cy số đại lộ trn bờ biển Thi Bnh Dương.

Nhưng ng vẫn thường ni rằng ng khng thch tiền. Thực vậy. ng cn th giờ đu để tiu tiền? ng rất t khi rảnh để đọc sch, coi ht bng hoặc đi nghỉ mt, th giờ lm việc của ng cn thiếu kia m! V ng lm việc rất hăng, cng lm được nhiều cng thch. ng c một căn trong một khch sạn ở Hoa Thịnh Đốn, một căn trong một khch sạn khc ở Nữu Ước, ngy no ng cũng mất hằng giờ hội họp, tiếp điện thoại ở xa. Từ Đại Ty Dương tới Thi Bnh Dương, tất cả những phng giấy quan trọng của x nghiệp ng đều mắc điện thoại vo chung một mạch điện để cho những người cộng tc với ng c thể theo di v dự vo những cuộc thảo luận bn tnh của ng trong cng việc lm ăn. Ph tổn tất nhin lớn lắm, mỗi năm tới hai trăm ngn Mỹ kim tiền điện thoại. Điện tn của ng gởi tới cc cng sở tới tấp như mưa, hoặc để biện hộ cho ng, hoặc để hăm dọa chnh phủ, hoặc để xin việc ny việc khc. t khi ng ngủ suốt đm qu năm giờ. Người ta tự hỏi sống đời hoạt động cuồng nhiệt như vậy m sao ng khng chết v đau tim hoặc vi trng phong.

ng đ cất một ngi nh nghỉ mt ở bờ hồ Tahoe, trong dy ni Sierra Nevada, tại trn cao hai ngn thước. Cch thức xy cất đặc biệt l của ng. ng hấp tấp chở những xe ủi đất, những my đo đất, những my cổ hạc tới hồ Tahoe, ng bắt những kp thợ lm việc ngy đm dưới nh đn giọi, để ph rừng, vỡ đất, lắp vũng. ng cất một ngi nh lớn bằng đ, bốn biệt thự cho khch khứa v một ci ụ để tu, chỉ trong c hai mươi tm ngy, cất nng nảy, hấp tấp như l sợ nền văn minh sắp lm nguy vậy. Đ con người của ng như vậy.

Trong suốt kỳ đại chiến vừa rồi, ng chỉ sản xuất cho chnh phủ, nhiều người nghĩ rằng ng tiến ln được như vậy nhờ chiến tranh th sau chiến tranh, do sự cạnh tranh của cc x nghiệp v sự đảo lộn của cc điều kiện kinh tế, ng kh giữ được địa vị, nhưng ng vẫn hy vọng giữ được. ng đ lập một phng tm ti nghin cứu gồm nhiều kỹ sư, bc học, sng chế gia, kỹ thuật gia, chuyn mn gia, nh no cũng c c lm lớn, trng rộng, v cũng c đủ ti tưởng tượng để chế tạo những ha phẩm mới, xy dựng những kỹ nghệ mới, cho cng nhn sau chiến tranh cn được dng tới một mức cao.

ng nghĩ rằng nếu dng những vật liệu nhẹ hơn th c thể đng được những tu chạy nhanh hơn, ph tổn chở chuyn nhẹ hơn v cả ngn người chưa đi du lịch bao giờ sẽ c thể vượt biển được.

Cn về ngnh xe hơi th ng ni:"Thấy một chiếc xe nặng một ngn năm trăm k l m chỉ chở một người nặng bảy mươi lăm k l, ti ngao ngn lắm". ng tnh dng một kim thuộc cực nhẹ v những chất dễ nặn để đng những chiếc xe hơi chỉ nặng bằng một phần ba những xe hơi hiện thời, cn my th ng cho chạy bằng dầu xăng chạy my bay.

ng cũng hy vọng chế tạo được nhiều phi cơ chắc chắn cho những b gi cũng dm leo ln v cực rẻ cho cc ng gi cũng dm bỏ tiền ra mua.

Quả thật ng l người lạc quan. ng ni: Kỹ thuật tiến mnh liệt, như một ci nồi si sng sục. Khng thể ngồi đ ln nắp của n được, n sẽ văng ta ra bốn phương trời, tan tnh như pho.

anbinh
11-12-2010, 04:41 AM
Gương 024

Charles Dickens


Cch nay gần đng trăm năm, v gần đng vo ngy lễ Ging Sinh, một cuốn sch nhỏ được xuất bản ở Lun Đn, một tiểu thuyết sau ny thnh bất hủ. Nhiều người cho cuốn đ l "cuốn sch nhỏ c gi trị nhất thế giới". Khi cuốn đ pht hnh, những người Anh quen nhau m gặp nhau trn đường Strand hoặc Pall Mall đều hỏi nhau: "ng đ đọc cuốn đ chưa?". V ai cũng đp:"C, ti đọc rồi, cầu Trời ph hộ cho ng ấy".

Nội ngy đầu, sch đ bn được một ngn cuốn. Trong nữa thng, sch bn được mười lăm ngn cuốn. Rồi từ đ sch ti bản khng biết bao nhiu lần, được dịch ra gần đủ cc thứ tiếng. t năm sau, J.P. Morgan mua bản thảo bằng một gi khng tưởng tượng được; v hiện nay bản thảo ấy nằm chung với những bảo vật v gi khc, trong phng triển lm mỹ thuật của ng ở Nữu Ước m ng gọi l thư viện của ng.

Cuốn sch nổi danh khắp thế giới đ l cuốn g? L cuốn Christmas Carol (Bi ht lễ Ging Sinh) của Charles Dickens.

Charles Dickens thnh nh văn viết nhiều nhất v được độc giả thch nhất trong văn học sử Anh; vậy m khi ng bắt đầu viết, ng sợ bị người ta chế nhạo tới nỗi phải ln lt đi bỏ bản thảo đầu tin của mnh vo thng thư trong đm tối để khng ai thấy sự cả gan của mnh.

Khi truyện ng viết được xuất bản, ng hai mươi hai tuổi, ng vui sướng qu đỗi, đi lanh thang khng mục đch trong phố phường, lệ chảy ướt đầm mặt.

Người ta khng trả cho ng một xu nhỏ no về truyện đ. V tm truyện sau đem cho ng được bao nhiu tiền, bạn thử đon xem? Khng c một đồng no hết. Hon ton khng. Nhưng ng vẫn cố gắng viết, lấy sự sng tc lm lẽ sống ở đời. Sau cng khi người ta chịu trả tiền, th ng cũng chỉ được lnh một ngn phiếu l một Anh kim cho mỗi truyện. Vng, ng chỉ được lnh một Anh kim về truyện đầu; nhưng truyện cuối của ng đ đem lại cho người thừa kế ng ba Anh kim một chữ tức ci gi cao nhất từ hồi khai thin lập địa đến nay, chưa tc giả no được lnh! Ba Anh kim mỗi chữ!(1)

Phần đng nh văn, chết rồi th chỉ trong vng năm năm l khng ai biết tới, nhớ tới tn tuổi của mnh nữa.

Cn Dickens mất đ su mươi ba năm m cc nh xuất bản vẫn trả cho người kế thừa ng trn bốn vạn Anh kim về truyện Đức Cha Jesus, một cuốn sch nhỏ ng viết ring cho cc con ng đọc.

Trong khoảng trăm năm nay, tiểu thuyết của Charles Dickens bn mạnh một cch kỳ dị. Chỉ thua tc phẩm của Shakespeare v Thnh Kinh. Cả trn sn khấu lẫn trn mn ảnh, những tiểu thuyết đ lun lun được hoan nghnh.

Trong suốt đời ng, ng chỉ đi học khng đầy bốn năm, vậy m ng viết mười bảy tiểu thuyết c danh nhất bằng tiếng Anh. Song thn ng điều khiển một trường học, nhưng ng khng hề tới trường đ, v trường mở cho thiếu nữ, v treo một bảng đồng c hng chữ: "Trường của b Dickens" nhưng sự thực th trong cả thnh Lun Đn chẳng c lấy được một thiếu nữ no lại đ học.

M số nợ th mỗi ngy một cao, một tăng ln. Chủ nợ kiện, rủa, đập bn. Rốt cuộc, bất bnh qu, họ lm cho thn phụ Dickens phải vo khm.

Tuổi thơ của Dickens thực l ngho khổ v thương tm, thương tm cũng chưa đng, phải ni l bi thảm. Mới mười một tuổi đầu th cha bị nhốt khm, gia đnh tng quẫn qu, khng c g ăn; cho nn mỗi buổi sng, chng phải lại tiệm cầm đồ cầm vi đồ lặt vặt cn lại trong nh. Chng phải bn cả những cuốn sch chng nng niu, bn mười cuốn m chỉ c những cuốn đ l lm bạn với chng thi, ngoi ra khng ai chơi với chng hết. Sau ny chng ni:"Khi ti bn những cuốn đ, ti thấy muốn đứt ruột".

Sau cng b thn của Dickens dắt theo bốn người con vo khm ở với chồng. Mỗi buổi sng, khi mặt trời mọc chng vo khm ở với gia đnh suốt ngy. Đến tối chng về căn phng ảm đạm ở gc thượng, st nc nh, ngủ với hai đứa nhỏ khc. Cảnh của chng lc đ như cảnh địa ngục. Sau chng xin được việc dn nhn ln những ve thuốc nhuộm đen trong một kho đầy những chuột. Thng đầu lnh được t đồng, chng mướn một phng khc, một ci hang nhỏ tối tăm cũng ở gc thượng st nc với một đống mn gối dơ ở trong một gc; vậy m Dickens bảo rằng ci hang đ đối với chng"khng khc g cảnh thin đng".

Dickens tả nhiều cảnh linh động về đời sống hon ton hạnh phc trong gia đnh. Nhưng hn nhn của ng l một sự thất bại, một sự thất bại buồn rầu, bi thảm.

ng sống hai mươi ba năm với một người vợ m ng khng thương. B vợ sanh được mười người con. Cảnh ngho khổ cứ mỗi năm một tăng. Khắp thế giới ngưỡng mộ ng m trong nh ng, ton l cảnh đứt ruột. Sau cng, đau khổ qu lắm, khng chịu nỗi nữa, ng phải lm một việc m hồi đ coi l động trời: ng đăng ngay trn mặt bo của ng một tờ bố co ni rằng hai vợ chồng ng khng sống với nhau nữa (...)

Dickens l người được nhiều người yu, ngưỡng mộ nhất thời ng. Lần thứ nh ng qua thăm Mỹ, dn chng sắp hng, đứng run rẩy mấy giờ trong gi để đợi mua giấy v nghe ng diễn thuyết.

Ở Brooklyn, dn chng đốt pho mừng, v trải đệm trn đường ngồi suốt đm, khng sợ bị cảm phong, cảm hn, khng sợ bị sưng phổi, để đợi mua v. V khi v bn hết, hng trăm người phải về khng, bất bnh lắm, lm no động cả ln.

Văn học sử đầy những danh nhn tnh tnh tri ngược nhau, nhưng xt kỹ th Charles Dickens c lẽ l người lạ lng nhất trong giới nh văn.

anbinh
11-12-2010, 04:43 AM
Gương 025

Connie Mack


Bạn đ nghe tn Cornelius Mc. Gillicuddy? Chắc chắn c, v về mn d cầu, ng l người nổi danh nhất. Từ năm 1883, ng thnh một nh nghề, lc th chơi, lc th điều khiển. Người ta gọi ng l Connie Mack, v trong giới d cầu, ai cũng mến ng.

ng l người c cng nhất với mn d cầu. Khi ng v nghề th mn đ l một tr chơi tn nhẫn, ồn o, xấu xa. Nhờ những quy tắc v gương tốt của ng n biến thnh một mn thể thao lương thiện, c ch, một mn thể thao ton quốc của một trăm rưởi triệu người.

ng sanh năm 1862, hồi m Lincoln lm Tổng thống. Hiện nay ng cn chơi banh hay hơn nhiều thanh nin, mặc dầu ng đ chơi từ... năm no, chnh ng cũng khng nhớ nữa, chỉ biết l trn bảy chục năm rồi.

Trong một cuộc phỏng vấn, ng bảo ti rằng đời ng chỉ l một vụ nghỉ di hạn. Lun lun ng ngạc nhin tại sao người ta lại trả tiền cho bọn người lớn chơi một tr chơi rất vui, l tr d cầu kia chứ.

Năm ng hai mươi tuổi th thn phụ ng mất, ng phải v lm trong một xưởng đng giy để nui gia đnh. Mỗi tuần ng lnh được mười Mỹ kim v ng phải đi bộ năm cy số sng chiều để tiết kiệm một cắc xe đem về đưa cho mẹ.

ng ght đng giy v chỉ thch d cầu, v ng đ quyết định một cch khn l lm ci g mnh thch để kiếm ăn. Nhưng b cụ khng muốn vậy, b cụ tức giận, m khng phải v l v cả gia đnh trng cậy ở ng, m ng đng giy cn c tiền cng nhất định, chứ chơi d cầu th c ai trả cho ng xu no khng? Khng, tuyệt nhin khng. Vậy th trong nh lấy g chi tiu? Ngy nay mỗi lần nhớ lại hồi đ, ng Connie cũng tự hỏi mnh sao lại liều lĩnh như vậy.

Mới đầu nhập đội East Brookfield trong lin đon Massachusetts. Khng người no trong đội được lnh lương v đội khng kiếm được tiền đều đều. Lại coi khỏi phải trả tiền. Họ chơi trn một khu đất hoang v khi chạy họ thường đạp nhầm những vỏ hộp, mảnh sắt, yn ngựa qu rch. Chơi xong họ xin tiền khn giả nhưng họ chưa cha nn ra th đm đng đ tan như tuyết dưới nh nắng. Mỗi chiều thứ bảy, Connie cũng chia được t cắc bạc m khn giả thương tnh liệng vo nn. Chỉ được vậy thi. Khi no quĩ của đội ngho qu th đội tổ chức một hội đồng qu vo coi phải trả tiền.

...Vậy th b quyết thnh cng của Connie Mack trong việc điều khiển d cầu l ở đu? Eddie Collins người đ chơi lu năm trong đội của ng, biết r b quyết đ. Collins by giờ l ph hội trưởng v nh du dắt Lin đon Boston, bảo rằng Connie thnh cng khng nhờ sự hiểu biết rộng thuật chơi d cầu m nhờ hiểu lng người. ng biết hướng dẫn, khuyến khch bạn đồng đội. Kh m kiếm được một người trn khắp thế giới c ti gip người khc dng hết khả năng của họ như ng.

ng gốc gc ở i Nhĩ Lan, cho nn người ta c thể ngờ rằng đ l một thin tư của ng. Nhưng sự thực th ba năm đầu trong nghề, ng đ thất bại thảm hại. Đội của ng đứng hng thứ su, rồi thụt xuống hng thứ bảy, sau cng xuống hng cuối. Connie Mack khc người ở chỗ khng cho rằng thất bại l tại cc bạn chơi dở. ng tự nhận lỗi về mnh, v ng khng biết điều khiển. Sau ba năm du dắt một đội d cầu rất quan trọng ng xin thi, trở về chơi trong đội Milwaukee để c th giờ v cơ hội nghin cứu vấn đề ny: lm sao cho người trong đội chơi như muốn của ng.

Rồi ng lại vo những đội quan trọng hơn, kho du dắt v lập được những đội chơi hay nhất thời đ. Trước khi đội danh tiếng New York Yankees ra đời, th khng đội no chiếm được nhiều giải v địch trong xứ v giải v địch thế giới như của ng.

Ti lớn nhất của ng l gợi được lng hăng hi của người khc. Bạn hỏi ti bằng cch no ư? C g đu? ng bẩm sinh c lng yu người. ng rất tự nhin. Mỗi lời ng đều pht từ đy lng ra. ng ni với ti:

- Lun lun ti rn tm một lời để khen mỗi bạn.

Khng khi no ng lm cho cc bạn ng thất vọng. ng rn dng lời khuyn, như khuyến khch, chứ khng chỉ trch, rầy la, để họ chơi hay hơn. Đy l một th dụ: Khi Eddie Collins mới ở trường ra nhập đội Athletics th chưa biết g về thuật nho vo banh, Connie bảo Eddie:

- Anh đ thấy Cobb nho vo banh chưa? Hắn nho kh đấy phải khng?

Eddie đ thấy lần no đu, nhưng từ đ để nhận xt, tập tnh mỗi ngy, mỗi giờ cho được như Cobb v rốt cuộc thnh ra chơi giỏi vo hạng nhất.

Connie cũng cho biết một quy tắc rất quan trọng nữa trong việc du dắt người l khng bao giờ vạch lỗi của ai trước mặt những bạn khc hoặc người lạ. ng ni:

- Chỉ trch ai trước mặt người khc th khng gy được thiện ch m chỉ gy lng phản động.

Lại thm kinh nghiệm dạy ng rằng phải đợi t nhất l hai mươi bốn giờ rồi mới nn vạch lỗi lầm cho cc bạn đồng đội. Mới đầu ng khng hnh động như vậy, hễ trận no thua th ng chỉ trch bằng giọng chua cht ngay khi cc bạn mới chơi xong v đương thay đồ. Sau ng thấy rằng mới ở sn banh ra, ng kh giữ được miệng lắm, nn quyết định chơi xong về nh liền, đợi hm sau mới gặp cc bạn v thảo luận.

ng cũng trnh sự bắt người khc lm theo ng m để cc cầu thủ gi tự giải quyết vấn đề của họ ty họ. ng nhận thấy rằng điều tốt cho người ny khng nhất định tốt cho người khc.

Chẳng hạn năm 1913, sau khi ăn giải v địch trong xứ rồi m cn lu mới mn ma chơi, ng định cho hai cầu thủ, Plank v Benoder nghỉ ngơi trước khi dự vo cuộc tranh giải v địch thế giới. ng cho họ nghỉ mười ngy để họ tự muốn lm g th lm.

M họ lm g? Benoder vẫn luyện d cầu, ngy no cũng tới sn tập dợt hoặc dạo chơi chung quanh sn. Plank tri lại, khng m tới tri banh, về trại ruộng ở gần Gettysburg để cu c v thơ thẩn. Hai người đ l những cầu thủ lo luyện, họ biết nn lm cch no th c lợi cho họ. Nhờ vậy khi tranh giải v địch thế giới, họ rất sung sức, chơi rất hay.

Mặc dầu ng l nh du dắt vẻ vang nhất trong lịch sử d cầu, cũng đ c nhiều lần ng chịu nỗi cay đắng thất bại: trong tm năm liền, đội ng đứng hạng cht, chưa c nh du dắt no như vậy m cũng chưa c nh no trong tm năm thua tm trận.

ng c lo lắng về điều đ khng? By giờ th khng, nhưng ng th rằng hồi mới vo nghề, mỗi khi thua lin tiếp l ng mất ăn mất ngủ. Rồi một hm ng hết lo, hm đ cch đy hai mươi lăm năm. Ti t m muốn biết ng lm cch no. ng đp:

- C g đu. Ti thấy rằng lo lắng hoi như vậy sẽ c hại cho nghề du dắt của ti. Ti tin rằng nếu ti cứ tiếp tục lo lắng như hồi đ th by giờ ti đ ngoẻo rồi. Ti đ hiểu như vậy l đin, v ti rn sức tập trung tư tưởng vo việc tm cch thắng trong những cuộc đấu sau đến nỗi khng cn th giờ nghĩ ngợi về những thất bại đ qua nữa. Nhiều người tới bốn chục tuổi l sa lầy vo ao t thi quen; m Connie Mack tới tm chục tuổi cn rn trnh tật đ, đến nổi mỗi ngy ng đổi đường đi tới phng giấy, khng chịu dng quen một con đường no. ng cho rằng sở dĩ ng sống lu, khng tn tật m sung sướng l nhờ nhiều yếu tố:

ng được di truyền một thể chất mạnh mẽ.

ng lại nghỉ ngơi nhiều. Đm ngủ mười giờ m chiều vẫn ngủ thm một giấc ngắn nữa. Nếu đội banh của ng chơi trn sn nh th ng về phng giấy ring, kha cửa lại, cắt điện thoại ngủ nửa giờ.

Sau cng ng ăn uống rất điều độ, rn giữ cho đừng ốm qu hoặc mập qu. Đi khi ng cũng uống rượu. Nhưng c lần trong một cuộc hội họp gia đnh, c đng đủ người con v mười su đứa chu, ng vui vẻ uống hai ly "cốc tay"; người nh trch đa ng qu chn, ng cầm ly la ve ở trn bn, ni:

- Cc người coi ny, lo uống ly ny l ly cuối cng đy.

Năm đ l năm 1937. Từ hồi ấy ng khng hề nhấp một cht rượu no nữa.

Sanh từ hồi nội chiến(1) m by giờ Connie Mack vẫn chưa tnh chuyện nghỉ ngơi. ng bảo:

- Ti khng giu c g. Ti chưa thể nghỉ được, cn phải tiếp tục lm việc. Nhưng khi no m ti lẩn thẩn, kể lại hoi một chuyện th ti sẽ về vườn. Lc đ, ti biết rằng ti đ gi rồi.

anbinh
11-18-2010, 02:16 PM
Gương 026

Howard Thurston


Cch đy nửa thế kỷ, trong một đm lạnh, một đm đng khn giả từ trong rạp Mc.Vicker ở Chicago a ra đường. Họ vui vẻ, cười ni v đ được coi nh ảo thuật danh tiếng Alexander Herrmann lm tr.

Một em nhỏ đứng trn vỉa h, lạnh run ln, rao bn tờ Chicago Tribune. Thực tội nghiệp cho em: khng c o lạnh, khng c nh, m cũng khng c tiền để mướn một ci gường nữa. Đm đ, khi khn giả đ về hết, em lấy bo quấn vo người rồi ngủ trn một ci r l bằng sắt để hưởng nhờ một cht hơi nng của l đặt dưới hầm, trong một lối đi pha sau rạp.

Vừa đi vừa lạnh, em nằm, tự nguyện sau ny sẽ thnh một nh ảo thuật. Em mơ ước được khn giả vỗ tay khen, được mặc o lt bằng lng th v được những thiếu nữ đứng đợi em ở cửa rạp. V em thề rằng khi no đ thnh một nh ảo thuật nổi danh, em sẽ trở về diễn ở rạp đ.

Em nhỏ đ l Howard Thurston v hai chục năm sau em thực hnh được đng sở nguyện. Khi diễn xong, Thurston đi vng ra sau rạp v tm được tn mnh khắc tại đ hồi cn l một trẻ bn bo đi, khng nh khng cửa.

Lc chết, vo năm 1936, Thurston đ thnh ng vua trong nghề ảo thuật. Trong bốn chục năm cuối cng, ng mấy lần đi khắp thế giới, tới đu cũng lm khn giả say m v ti ng. Hơn su chục triệu người coi ng diễn v ng kiếm được gần 400.000 Anh kim.

Hồi ng gần mất, ti được coi ng diễn một lần. Diễn xong, ng v phng thay đồ v kể cho ti nghe hng giờ về đời sống đầy chuyện ly kỳ lạ lng khng km những ảo thuật của ng.

Lc nhỏ, c lần ng bị cha đnh đập tn nhẫn v ng cho ngựa chạy mau qu. ng tức giận, bỏ nh ra đi. Cha mẹ ng tưởng ng chết, mi năm năm sau mới được tin tức về ng.

M lạ lng l sao ng khng bị giết, v ng đi lang thang, đeo vo những xe chở hng, ăn xin, ăn cắp, ngủ trong lẫm la, trong đống cỏ kh hoặc trong những nh hoang. ng bị bắt mười hai lần, bị săn đuổi, chửi rủa, đnh đập, liệng từ trn xe xuống đất, c lần người ta nhắm ng m bắn nữa.

ng thnh một ch ni, một tn cờ bạc. Năm mười bảy tuổi, ng tri tới Nữu Ước, trong ti khng c một xu m khng quen thuộc một ai. Rồi một việc xảy tới. ng len lỏi vo một đm đng nghe một nh truyền gio giảng đạo.

ng cảm động qu, từ hồi nhỏ chưa lần no kch thch như lần đ. ng thấy những tội lỗi của ng. V ng bước lại bn thờ, nước mắt rng rng trn m, ng xin v đạo. Hai năm sau, tn du thủ du thực hồi trước đ đứng ở một gc đường tại Chinatown để giảng đạo.

Hồi đ ng sướng v cng, vừa lm việc vừa học đạo. ng mười tm tuổi. Trước kia ng chưa được đi học trn su thng; nhờ coi những chữ ghi trn cc xe chở hng, v trn đường xe lửa, rồi hỏi bạn cch đọc m lần lần biết đọc. Nhưng ng khng biết viết, khng biết ton, cũng khng biết đnh vần. Thnh thử bấy giờ, ngy th ng phải học đạo ở trường Bible School, v học tiếng Hi Lạp, học mn vạn vật, đm th phải học đọc, học viết, học ton.

Sau ng quyết định lm một nh truyền đạo chuyn về y học, v sắp v trường đại học Pennsylvania th một việc nhỏ xảy ra lm đời ng thay đổi hẳn.

Đi từ Massachusetts tới Philadelphia, ng phải đổi xe lửa ở Albany. Trong khi đợi xe, ng v một rạp ht coi Alexander Herrmann diễn tr ảo thuật. ng từ trước vẫn thch ảo thuật, nn lần đ muốn được ni chuyện với Herrmann. ng lại khch sạn, mướn một phng st phng của Herrmann, ng đặt tai vo lỗ kha nghe ngng, đi đi lại lại ở hng lang, rn thu hết can đảm để g cửa, nhưng khng dm.

Sng hm sau, ng theo nh ảo thuật ra ga, v đứng trn trn ng Herrmann, vừa kinh, vừa sợ. Herrmann đi Syracuse; ng th phải tới Nữa Ước, v đng lẽ mua giấy đi Nữu Ước, th ng lại mua lầm giấy đi Syracuse.

Sự lầm lộn đ thay đổi đời ng, lm ng đng lẽ l một nh truyền gio th thnh một nh ảo thuật.

Hồi ng đương thịnh, ng lm tr m kiếm được mỗi ngy hai trăm Anh kim (...)

ng bảo rằng nhiều người biết về ảo thuật cũng bằng ng. Vậy, ng thnh cng l nhờ ci g?

Nhớ t nhất l hai điều. Điều thứ nhất, ng c ti đem c tnh của ng ln sn khấu. ng hiểu bản tnh của con người, v ng cho rằng đức đ cũng quan trọng như sự hiểu biết về ảo thuật. Mỗi cử động của ng cả khi ng đổi giọng hoặc khi ng ngước mắt, đều được ng tnh ton kỹ lưỡng từ trước, v lm đng lc, khng sai một phần giy.

Điều thứ nh l ng yu khn giả. Trước khi ko mn, ng nhảy nht ở hậu trường sn khấu, cho thm phần hăng hi... V lun lun tự nhủ: "Ti yu khn giả, ti muốn lm họ vui. Ti sung sướng. Ti sung sướng".

ng biết rằng nếu ng khng sung sướng th khng lm cho người khc vui thch được.

anbinh
11-18-2010, 02:17 PM
Gương 027

Đại T Robert Falcon Scott


Ti chưa thấy truyện no kch thch hơn, c những nt anh hng m bi thảm hơn đời đại t Robert Falcon Scott, người thứ nh đ tới Nam cực. Ci chết của ng v hai bạn ng ở Ross cn lm cho nhn loại cảm động.

Tin ng mất tới nước Anh vo một buổi chiều nắng ro thng hai 1913. Cy ky ph lam nở đầy bng ở vườn Regent Park. Dn tộc Anh chong vng như tin Nelson mất ở Trafalgar thời trước.

Hai mươi hai năm sau, nước Anh dựng một viện kỷ niệm Scott, một viện khảo cứu lưỡng cực, viện thứ nhất về loại đ trn thế giới. Ngay trn cửa viện c một hng chữ: "Người tm những b mật của Nam Cực v Người đ tm thấy những b mật của Thượng Đế".

Scott bắt đầu cuộc thm hiểm ở Terra Nova, v từ khi tầu ng tiến vo ci băng tuyết l sự rủi ro cứ theo riết, quấy ph ng hoi.

Những ngọn sng vĩ đại đập vo tu đnh tri hết những hng ha ở trn boong xuống biển. Hng tấn nước biển o o như sấm, cuồn cuộn chảy vo hầm tu. Nước trn cả vo l lửa đốt nồi sp de. My bơm ha v dụng. V mấy ngy như vậy, chiếc tu hng dũng cứ lăn ở giữa những ln sng, trn mặt biển tung te, khng cch g cứu được.

Nhưng sự rủi ro no đ hết đu. Đ mới chỉ l những bước đầu.

ng đem theo mấy con ngựa nhỏ khỏe mạnh đ quen chịu lạnh ở miền băng tuyết xứ Sibrie; nhưng lc đ chng hấp hối, dy dụa trn băng tuyết, cẳng th gẫy v thụt xuống hố; thnh thử ng phải bắn cho chng chết.

Tới ch cũng vậy. ng dắt theo ton l giống ch mạnh khỏe ở Yukon, m chng ha ra như khờ dại, cứ nhắm mắt chạy trn bờ những lỗ nẻ trong băng.

Thnh thử Scott v bốn người bạn đồng hnh phải thay ngựa, thay ch, ko một chiếc xe lướt tuyết nặng nửa tạ, thui thủi trn đường tới Nam cực. Ngy lại ngy, họ mắm mi mắm lợi tiến trong cnh đồng băng tuyết, hổn hển đẩy hoặc ko, nghẹt thở v khng kh lạnh v long ở một nơi cao, cch mặt biển ba ngn thước.

Vậy m họ khng phn nn. V ở cuối con đường đau khổ đ, họ sẽ thấy sự thnh cng, sẽ thấy Nam cực huyền b, nằm yn lặng từ hồi khai thin lập địa tới nay. Nam cực, nơi m khng c lấy một sinh vật, cả đến bng một con hải u lạc bầy cũng khng c.

V tới ngy thứ mười bốn, họ tới được Nam cực. Nhưng họ sửng sốt v đau lng lm sao! Trước mặt họ, ở đầu một cy gậy, một miếng vải rch phất phới bay trong gi lạnh. Họ nhn kỹ th l một ngọn cờ, ngọn quốc kỳ của Na Uy, Amundsen, người Na Uy, đ tới trước họ! Thnh thử, sau mấy năm dự bị, sau mấy thng đau khổ, họ đ thất bại chỉ v trễ mất năm tuần lễ.

Chn nản, họ trở về.

Cuộc chiến đấu lm ly trn đường về đng l một khc ngm đoạn trường. Gi lạnh buốt tới xương, o họ đầy tuyết v ru họ đ băng. Họ lảo đảo t: mỗi vết thương đưa họ tới gần ci chết hơn một cht. Trước hết, sĩ quan Evans, người lực lưỡng nhất trong đon, trượt chn, t, đầu đập vo băng, chết tươi.

Rồi tới đại tOates đau. Chn ng bị lạnh qu, nứt ra. ng đi khng nổi. ng biết rằng mnh lm chậm việc hồi hương của cc bạn. Cho nn, một đm ng lm một việc chỉ thần thnh mới lm nổi. Giữa cơn dng tuyết gầm tht, ng rời bạn b, đi ra ngoi trời để chết cho cc bạn sống.

Khng lm bộ anh hng, cũng khng tỏ vẻ quan trọng, ng bnh tĩnh bảo cc bạn: "Ti ra ngoi một cht". Rồi ng đi lun. Khng ai tm thấy xc chết cng của ng. Nhưng hiện nay một đi kỷ niệm được dựng tại chỗ ng ra đi, trn đi c hng chữ: Ở khoảng ny, một vị trượng phu anh hng đ la đời.

Scott v hai bạn cn lại lảo đảo tiến. Họ khng cn ra vẻ con người nữa. Mũi, ngn tay, chn đều nứt nẻ v lạnh. V ngy mười chn thng hai năm 1912, nghĩa l mười lăm ngy sau khi họ rời Nam cực, họ cắm trại lần cuối cng. Họ cn đủ than để nấu hai chn tr, v đủ thức ăn cho hai ngy. Họ tin rằng họ sẽ thot chết v chỉ cn khoảng hai chục cy số nữa l tới một chỗ m họ đ chn thức ăn trong lc đi. Rn sức: gh gớm th tới được.

Thnh lnh tai nạn th thảm xảy ra.

Từ chn trời, một cơn dng tuyết go tht, o o thổi tới, mạnh tới nỗi cắt ngang những chỏm băng. Trn tri đất khng c sinh vật no tiến trong cơn dng tuyết đ m sống nổi. Scott v hai bạn đnh ngừng bước, nằm trong lều mười một ngy nghe dng gầm. Thức ăn đ hết. Tất chết. Họ biết rằng họ phải chết.

C một cch để chết, một cch m i. Họ mang theo nha phiến để phng những lc cần phải chết như lc ny. Nuốt một phn lượng lớn l họ nằm đ, lơ mơ mộng thch th rồi ngủ lun.

Nhưng họ khng thm dng nha phiến. Họ quyết nhn thẳng vo ci chết một cch trượng phu đặc biệt của nước Anh thời cổ.

Trong giờ cuối cng của đời ng, Scott viết một bức thư tả cảnh chết cho ng James Barrie. Thức ăn hết đ lu. Thần chết đ lởn vởn ở trong lều. Vậy m Scott viết:"Nếu ng nghe được chng ti ca vang cả lều th lng ng chắc cũng vui vui".

Tm thng sau, một ngy nọ, trong khi mặt trời Nam cực yn lặng chiếu sng cảnh băng tuyết lấp lnh, mnh mng, một đon người kiếm được thi hi của ba vị anh hng đ.

Người ta chn ba vị ở ngay chỗ ba vị la trần, chn dưới một thnh gi lm bằng hai ci pa tanh cột với nhau. V trn nấm mồ chung đ, người ta viết những vần thơ ny của Tennyson:

C tnh bnh tĩnh của những tm hồn anh hng,

Th mặc dầu thời vận, số mạng lm cho yếu nhưng ch vẫn mạnh.

Để phấn đấu, tm ti, thấy, chứ khng chịu khuất phục.

anbinh
11-18-2010, 02:26 PM
Gương 028

Al Smith


Năm mươi tm năm trước, một người li xe cam nhng chết ở Nữu Ước. ng ta qu qun ở i Nhĩ Lan, đ đau từ lu, phải bỏ nghề li xe m lm nghề gc đm. Khi ng mất, nh ngho tới nỗi bạn b phải gp nhau mỗi người một t mua cho ng cỗ quan ti. ng để lại vợ ga v hai con. B vợ mơ mộng những chuyện xa xi, quyết ch cho con đi học, tới đu hay tới đ. B xin được một việc trong một hng lm d v lm mười giờ một ngy. Mặc dầu vậy, tiền cng khng đủ ăn, b phải đem đồ ở hng về nh lm thm tới mười, mười một giờ đm. Thnh thử người mẹ đ lm quần quật mười bốn mười lăm giờ một ngy để nui con.

Đng thương tm lm sao! B khng vn được tấm mn tương lai để m thấy trước rằng một ngy kia người con nhỏ của b lm Thống Đốc tiểu bang Nữu Ước, khng phải một lần m l bốn lần, lu hơn hết thảy những Thống Đốc trước.

Đng thương tm lm sao! Người đ khng thể thấy trước rằng năm 1928, con b l ứng cử vin của đảng Dn Chủ để tranh chức Tổng thống.

Đng thương tm lm sao! B khng được biết trước rằng ngy mng 5 thng 5 năm 1944, tờ bo New York Times gọi con b l "cng dn được nhiều người mến nhất ở Nữu Ước".

V Al.Smith chnh l người con cưng của thnh phố lớn nhất chu Mỹ (...)

Một lần ti hỏi ng đi học được bao lu. ng ngập ngừng một cht rồi ni: "Để ti tnh - để ti tnh...Ti khng nhớ r lắm. Ti sanh năm 1873, ti đon rằng ti được đi học khoảng bảy hay tm năm, nhưng ti khng chứng thực được điều đ. Ti khng được bằng cấp no hết m cũng khng c tấm giấy no chứng tỏ rằng ti đ đi học".

Vng, Alfred Emmanuel Smith khng c miếng giấy no chứng tỏ rằng ng đ đi học, nhưng ng c những tờ giấy chứng tỏ rằng ng được su trường đại học lớn, trong số đ c trường Columbia v trường Harvard, tặng ng học vị danh dự v những thnh cng xuất chng của ng về chnh trị v lng hy sinh của ng cho nhn loại.

Ti hỏi ng c buồn v lẽ khng được v đại học khng. ng đp khng. ng bảo rằng người no muốn tiến ln những bực cao trong chnh giới th phải c ti đắc nhn tm, phải biết cch cư xử ở đời, m ng cảm thấy rằng c lẽ khi vc đồ ở cc chợ tại đường Fulton v khi lm thừa pht lại trong tm năm, ng đ học được về cch xử thế nhiều hơn l nếu ng học trong một trường đại học.

Hồi mười tuổi, ng ở trong nhạc đội nh thờ, ma lạnh cũng phải dậy sớm từ năm giờ để hầu lễ vo su giờ.

Năm hai mươi hai tuổi, ng bn bo ở bến tu. Lc rảnh ng chơi d cầu ở dưới gầm cầu Brooklyn Bridge... Nhưng ng thch nhất l được li xe cứu hỏa. ng chỉ mong được lm lnh cứu hỏa, nn sống chung với lnh cứu hỏa, ca ma cho họ vui. V khi c chung ku cấp cứu th ng chụp lấy bnh c ph v hộp bnh lun lun để sẵn ở cửa sổ, can đảm leo ln xe cứu hỏa khi xe bắt đầu phng trong thnh phố (...)

Năm ng mười bốn tuổi, một việc xảy ra, định hướng cho đời ng. ng thắng được một cuộc tranh biện trong trường. Sự thnh cng đ đưa ng ln sn khấu v lm tăng lng tự tin của ng. ng được mời vo hội Saint James Players, một hội ti tử diễn kịch để gip c nhi viện. ng thnh cng. Khn giả thch nụ cười v thin ti của ng.

Chẳng bao lu ng thnh ngi sao v linh hồn của hội. ng thch cuộc đời sn khấu đ qu! N đưa ng qua một thế giơi khc. Ban ngy ng lm mười hai giờ ở chợ c Fulton Street để lnh mỗi tuần trn hai Anh kim; Nhưng ban đm ng sống trong ci thế giới sn khấu rực rỡ nh đn v phấn son. Ban đm ng thnh một anh hng, một nghệ sĩ, lng nở ra khi khn giả vỗ tay khen. ng đng những vai quan trọng nhất trong cc kịch May Blossom, The Confederate Spy, the Ticketof Leaveman v The Almighty Dollar. Nhờ kinh nghiệm trn sn khấu, ng tập được ti ăn ni dễ dng v tự nhin trước thnh giả, ti chỉ huy một đm đng. t lu sau ng diễn thuyết về chnh trị, trn một chiếc xe cam nhng, giữa đm quần chng ở cc gc đường. Hồi đ, ng l một người lao động, lm chật vật trong một xưởng chế tạo my bơm ở Brookly; nhưng trong khi ng ngồi ăn bnh của b thn ng lm v gi mang theo tới hng, ng đ mơ mộng một ngy kia được bầu l nghị sĩ tiểu bang Nữu Ước. Mộng đ sau thực hiện được, nhưng ng cn phải trải qua một thời lm thừa pht lại.

Trong tm năm ng viết trt ku người ta đi hầu ta. Nhờ cng việc đ, ng tiếp xc với đủ hạng người, từ anh bn bnh, bn thịt tới cc nh l ti ở Wall Street. ng học được nhiều kinh nghiệm về bản chất con người v tập được tnh nhẫn nhục chịu sự ngược đi v hai chục phần trăm những người ng đem trt tới, tố co v nguyền rủa ng.

Thng ging năm 1904, khi ng tới Albany lnh chức nghị vin viện lập php, ng ba chục tuổi. Trong ba chục năm đ ng chưa lần no ngủ ở khch sạn. Đm ấy ng lại khch sạn, v phng v đọc một tờ bo ra buổi chiều, đăng tin một đm chy tại một khch sạn Chicago lm nhiều người chết. Trời lạnh, nhiệt kế biểu xuống tới mười su độ dưới số khng. Đọc những chi tiết rng rợn về đm chy, ng khng khỏi nghĩ tới những người m ng thấy chất củi trong l sưởi khch sạn ng ở. Một khch sạn bằng gỗ. ng ở trn từng lầu thứ bảy. Nếu chy th khng c cch no thot được. ng thống đốc tương lai của Nữu Ước khng ham ci nạn bị chết chy, nhất l trong đm đầu tin ng ở khch sạn, cho nn ng đnh thức một người bạn để chơi bi tiu khiển với ng tới năm giờ sng. Rồi hai người mới thay phin nhau ngủ, cứ mỗi người ngủ một giờ rồi dậy canh cho người kia ngủ, để khỏi bị chết chy.

Mấy năm đầu ở Albany ng đin đầu v những cng việc trong viện Lập php. ng hết sức nghin cứu cc dự n về luật m chẳng hiểu g cả, v những dự n đ di dng, rắc rối v tối tăm đối với ng, như thể viết bằng tiếng Ấn Độ. Lại thm người ta giao cho ng những trọng trch m ng chưa biết cht g, người ta bầu ng vo Ủy ban về Ngn hng m ng chưa hề tới một ngn hng no, trừ phi để giao trt ku một vi chủ ngn hng đi hầu ta. Người ta lại bầu ng vo Ủy ban về Lm sản m ng cũng chưa hề đặt chn vo một khu rừng no. Sau khi lm việc ở viện Lập php mười lăm thng ng thất vọng đến nổi muốn bỏ. Nhưng ng khng bỏ, chỉ v một lẽ l nếu chịu thua th sẽ mắc cỡ với mẹ v bạn b, sau cng ng tự nhủ: "Mnh đ thắng được trong những vấn đề khc th sẽ thắng được trong vấn đề ny".

Từ đ trở đi ng lm việc mười su giờ một ngy, nghin cứu cc dự n, cch thức thảo luật. Người ta bảo ng l người thứ nhất khng khi no chịu chấp thuận một đạo luật no m khng đọc v hiểu kỹ mỗi khoản trong đ, dầu n c đến cả ngn khoản. ng nhất định dng tiền của những người đng thuế cũng kỹ lưỡng như tiu tiền của ng. Nếu bộ no cần một người thư k th ng đi biết thư k đ vo hạng no, sẽ lm cng việc g v tại sao lại phải cần dng đến họ.

Chn năm sau khi tới Albany, ng lm chủ tịch viện Dn biểu của tiểu bang v chắc chắn biết nhiều về việc nước hơn bất cứ người no khc, nn mọi chnh khch phải khm phục ng.

Hỏa hoạn tai hại pht ở một xưởng tại Nữu Ước năm 1911, lm cho ng cũng như mọi người kinh khủng: 148 nạn nhn bị chy thnh than, phần đng l đn b v trẻ con, c nhiều người nhảy từ từng lầu thứ bảy xuống đất, chết tan xương. Từ đ Al Smith thnh lập một thập tự qun chiến đấu cho những điều kiện lm việc được hon hảo hơn; ng gip được nhiều trong việc cải thiện luật lao động của tiểu bang Nữu Ước, trừ hỏa hoạn, trừ ci tệ bắt trẻ con lm việc trong cc nh my, bắt thợ lm việc cả bảy ngy mỗi tuần, v tệ trả cng rẻ mạt, ng đặt ra những luật để giảm tai nạn, v cải thiện vệ sinh cho cng nhn. Những luật x hội đ được nhiều tiểu bang khc v nhiều nước phỏng theo.

Bốn chục năm trước, khi Tom Foley đưa Al. Smith vo viện Lập php, c khuyn Al. Smith: "Anh Al, anh đừng bao giờ hứa một điều g m anh khng giữ được, v c ni điều g th lun lun phải cho đng sự thực".

Chẳng những Al. Smith ni đng sự thực m cn chiến đấu cho sự thực bất kỳ ở trong địa vị no.

anbinh
11-18-2010, 02:27 PM
Gương 029

H. G. Wells



Gần bảy mươi lăm năm trước, một bọn trẻ em đương chơi trn đường ngoại Lun Đn, th một tai nạn xảy ra. Một trong những đứa lớn nhất nắm lấy một đứa nhỏ, tn l Bertie Wells, rồi ling ln trời nhưng khi đứa nhỏ rớt xuống, đứa lớn khng đỡ, thnh thử đứa nhỏ gẫy chn.

Trong mấy thng Bertie nằm quằn quại trn giường, với một vật nặng cột vo chn. Nhưng xương khng lnh. Phải gỡ ra b lại. Đau đớn gh gớm. Em b Bertie la hoảng, tưởng chết được.

Tai nạn đ bi thảm, nhưng Bertie sống được v nhờ n m sau thnh một nh văn nổi tiếng nhất thế giới. Bt danh của ng khng phải l Bertie m l Herbert George Wells, hoặc H. G. Wells. Chắc bạn đ đọc vi cuốn của ng? ng viết trn bảy mươi lăm cuốn: v chnh ng nhận rằng tai nạn gẫy chn đ c lẽ l điều hay nhất cho ng. Sao vậy? Tại ng phải nằm nh trọn một năm v khng lm được việc g khc nn đnh nghiến ngấu bất kỳ cuốn sch no ng kiếm được. Kết quả thnh ra ng thch đọc sch, thch văn chương. ng bị kch thch. ng cảm hứng. ng nhất định vượt ln khỏi cảnh tầm thường v vị ở chung quanh. Ci chn gẫy đ đ đổi hướng cho đời ng.

H. G. Wells l một trong những nh văn m tiền nhuận bt cao nhất. Nhờ cy bt, c lẽ ng đ kiếm được hai trăm ngn Anh kim; nhưng hồi nhỏ ng đ khốn đốn trong cảnh bần hn. Thn phụ ng l một nh nghề chơi cầu "Cricket" v mở một tiệm đồ gốm, bun bn lỗ l, cửa hng rung rinh muốn sập. H. G. Wells sanh trong một phng nhỏ tại cửa tiệm đ. Bếp ở trong một ci hầm, tối om dơ dy m nh sng chỉ lọt vo được nhờ một lỗ nhỏ c lưới sắt ở trn trần. Sau ny nhớ lại tuổi thơ ấu, ng cn thấy r ng hồi đ ngồi trong bếp tối m nghe tiếng chn người lướt trn lưới sắt trn đầu. ng tả những bước chn đ v chỉ cho ta cch nhn giy m xt người ra sao.

Sau cng tiệm đồ gốm sập. Gia đnh ng tuyệt vọng. Thn mẫu ng phải xin lm quản gia cho một điền chủ lớn ở Sussex. Tất nhin, b cụ phải sống chung với bọn đầy tớ. H. G. Wells thường thường tới thăm mẹ, v bắt đầu được biết qua đời sống của hạng thượng lưu Anh do hạng ti tớ kể lại.

Tc giả bộ Đại cương Lịch Sử Thế Giới (The Outline of History) Hồi mười ba tuổi đ bắt đầu gip việc cho một người bn nỉ. ng phải dậy từ năm giờ sng, qut dọn cửa hng, nhm lửa, lm việc như mọi người bốn giờ một ngy. Thực l vất vả, nn ng khinh ght đời đ lắm. Cuối thng, chủ tiệm tống cổ ng ra v ng đầu tc b x, quần o xốc xếch m lại hay quấy rầy.

Sau khi ng xin được việc trong một tiệm bo chế. V cũng chỉ được một thng l bị tống cổ ra nữa.

Sau cng ng vo lm một tiệm nỉ khc. ng cần phải kiếm ăn, nn lần ny rn chịu đựng được lu hơn một cht. Nhưng hễ vắng mặt người gc, l ng lẩn xuống hầm để học Herbert Spencer.

Sau hai năm, ng khng chịu được đời đ nữa, cho nn một buổi sng chủ nhật, khng đợi ăn điểm tm, bụng rỗng, ng đi hơn ba chục cy số về với b cụ. ng đin cuồng. ng năn nỉ b cụ. ng khc lc. ng thề rằng nếu phải ở lại trong tiệm đ nữa th ng sẽ tự tử.

Rồi ng viết một bức thư di, cảm động cho thầy học cũ kể lể rằng ng khốn khổ, đứt ruột, chỉ muốn chết cho rảnh.

V ng v cng ngạc nhin khi nhận được thư của thầy học cũ cho ng một chỗ dạy học.

ng cuống cuồng ln! Đời ng đ tới một khc quẹo khc.

Nhưng H. G. Wells về gi, thường kể bằng giọng trong v lớn của ng rằng những năm di đằng đẳng lm vất vả, cực khổ ở tiệm bn nỉ, thực ra l ci phước cho ng. ng bẩm sinh biếng nhc, v chủ tiệm đ tập cho ng chịu kh nhọc lm lụng.

Sau t năm dạy học, một tai nạn xảy đến thnh lnh như bom nổ. Việc xảy ra như sau. ng đương đ banh, đương hăng hi th bị x t, người ta giẫm ln người ng, ng gần chết. Một tri thận của ng nt nghiến ra v phổi bn mặt lủng. Mu xối ra, ng xanh mt. Cc bc sĩ hết hy vọng; v trong mấy thng, ng nằm m lo sợ sẽ khng sao thot chết được. Trong mười hai năm sau, mười hai năm gh gớm, ng bm lấy đời sống, thn gần như tn tật; nhưng chnh trong mười hai năm đ, ng đ luyện được một ci ti lm ng nổi danh khắp thế giới.

Năm năm trường ng viết như đin như cuồng. Sch, bi bo, tiểu thuyết ng viết ra hồi đ đều nhạt nhẽo, vụng về. V ng c đủ lương tri để nhận thấy điều đ. Cho nn viết xong, ng đốt hết.

Sau cng, mặc dầu gần như tn tật, ng xin được một chỗ dạy học khc. Trong lớp sinh vật học, c một nữ sinh xinh đẹp. Tn nng l Catherine Robbins. Nng mảnh khảnh, ốm yếu. M ng cũng ốm yếu, mảnh khảnh. Cả hai đều khng hy vọng g sống lu, đều muốn nắm lấy tức th tất cả những hạnh phc m họ c thể tm được. Thế l họ cưới nhau.

Vệc đ xảy ra cch đy khoảng năm chục năm; lạ thay, Wells đ khng chết, lại cn mạnh ln, thnh một người đầy sinh lực, v mỗi năm gọt đẽo được hai cuốn sch dầy, những cuốn sch m nh sng chiếu tỏa ln khắp thế giới cho tới khi ng mất, năm 1946.

Trong c ng bừng bừng những mới. ng thường nửa đm thức dậy chp tư tưởng của ng vo một cuốn sổ tay. V con người biếng nhc bị một chủ tiệm bn nỉ tống cổ ra v bất lực đ, đ thu thập được biết bao ti liệu trong những cuốn sổ tay, gi c dng để viết sch hoi trong một trăm rưỡi năm cũng khng hết.

ng c ti ngồi ở đu cũng viết được: trong phng viết của ng ở Lun Đn, trong toa xe lửa hay dưới bng một cy d trn bờ Địa Trung Hải m mu nước xanh m hồn.

ng mướn hai biệt thự ở Nice, một lm chỗ viết, một lm nơi tiếp khch. ng viết suốt ngy, chỉ chuyện tr với khch buổi tối, v hết thảy bạn b đều mến ng.

anbinh
11-18-2010, 02:28 PM
Gương 030

Anh Em Mayo



Nếu một cơn dng tố khng tn ph một thị trấn ở Minnesota cuối thế kỷ trước th c lẽ nhn loại khng được hưởng một pht minh vo hạng quan trọng nhất trong lịch sử y học.

Thị trấn bị tn ph đ, Rochester, ngy nay nổi danh nhờ hai anh em Mayo, hai nh giải phẫu c ti nhất ở Hoa Kỳ. Hai ng ở Rochester v pht minh của bc sĩ C. H. Mayo đ gip y học trị được vi thứ bệnh thần kinh. Hiện nay ng cn tiếp tục nghin cứu pht minh đ. ng đ tm được một thứ thuốc tim v mạch mu, lm thay sự tuần hon v do đ c được bnh tĩnh lại.

Hai anh em ng được khắp thế giới bết tn. Nhiều y sĩ từ Ba L, Lun Đn, B Linh, La M, Leningrad, Đng Kinh tới Rochester để học phương php của hai ng. Mỗi năm su ngn bịnh nhn đ v phương cứu chữa lại dưỡng đường Mayo với tấm lng tin tưởng như tn đồ hnh hương tại đất thnh.

Vậy m như ti đ ni, nếu dng tố khng tn ph miền Middle West ở cuối thế kỷ trước th thế giới c lẽ khng bao giờ được nghe tn hai anh em Mayo v cũng khng biết phhương thuốc của hai ng.

Khi bc sĩ Mayo, thn phụ của hai ng, tới lập nghiệp ở Rochester vo khoảng giữa thế kỷ trước, th nơi đ c khng đầy hai ngn dn. Ngy đầu cụ chữa bệnh cho một con b v một con ngựa. Khi dn da đỏ nổi loạn, cụ nổ sng mt để hạ chng rồi đợi khi sng tan hết, cụ đi khắp bi chiến trường chn cất những người chết v săn sc những người bị thương. Thn chủ của cụ ở rải rc trn năm chục cy số trong đồng cỏ Mimesda. Phần đng họ sống trong những nh vch trt bn. Họ ngho qu, khng c tiền trả cụ, m cụ cũng vẫn nữa đm đi thăm bệnh cho họ; c khi phải m đường trong những cơn bo tuyết m mịt tới nỗi, giữa ban ngy, đưa tay ra trước mặt cũng khng trng thấy.

Cụ c hai người con, William v Charles, tức hai anh em Mayo. Hai ng vừa gip việc cho một tiệm bo chế trong miền, cn thuốc, tn thuốc, hon thuốc, vừa theo học trường y khoa. Rồi một tai nạn xảy ra, lm tương lai của ng thay đổi hẳn. Một cơn dng tố tn ph cnh đồng Minisota, như quỉ thần giận dữ muốn phạt dn cư miền đ. Cơn dng tới đu th nh cửa, cy cối tan tnh sụp đổ tới đ. Chu thnh Rochester bị cuốn đi như một cọng rơm. Hằng trăm ngn người bị thương, hai mươi ba người chết. Lun mấy ngy, ba cha con Mayo đi băng b, mổ xẻ cc nạn nhn trn những nền nh hoang tn. B Phước nhất Alfred, ở nh tu Saint Francois thấy ba cha con Mayo tận tm như vậy, cảm động hứa sẽ cất một dưỡng đường nếu họ chịu đứng ra trng nom. Họ bằng lng v khi khnh thnh dưỡng đường Mayo năm 1889 th bc sĩ Mayo đ bảy chục tuổi m hai người con chưa lm trong nh thương no cả. Vậy m ngy nay ng William Mayo người anh cả được coi l nh chuyn mn giỏi nhất về bệnh ung thư. Cả hai anh em đều nổi tiếng về khoa giải phẫu m người no cũng khen người kia l hơn mnh. Hai ng mổ xẻ rất nhanh, tới dưỡng đường bảy giờ sng v mổ xẻ khng ngừng tay mỗi ngy bốn giờ cho từ mười lăm đến ba mươi bệnh nhn. Vậy m hai ng vẫn tiếp tục học hoi để cải thiện phương php v tuyn bố rằng cn phải học thm nhiều. Cả thnh phố Rochester sống nhờ dưỡng đường Mayo v cho dưỡng đường Mayo. Xe hơi, xe t but, mọi loại xe đều khng bp kn trong thnh phố đ.

Đ l gương hai người thường dn một tỉnh nhỏ, hai người khng nghĩ đến tiền m đ gy được một gia sản khổng lồ. Hai người khng nghĩ đến danh vọng m thnh những nh giải phẫu nổi danh nhất Hoa Kỳ.

Hai anh em ng khng cần lại Nữu Ước để lm giu, cứ rn luyện ti của mnh trong một thnh phố nhỏ m tự nhin được thần ti tới g cửa để thưởng cng.

Trong phng khch, trn bn giấy, c treo một tấm khung lồng cu ny: "Nếu ng c một vật m thế giới đi hỏi th ng c thể ở giữa rừng thẳm: lun lun người ta sẽ ph rừng xy đường vo tới cửa nh ng". Cu đ tm tắt một luật bất di bất dịch của sự thnh cng.

anbinh
11-21-2010, 07:09 PM
Gương 031

Clarence Darrow



Cch đy gần ba phần tư thế kỷ, một c gio bạt tai một em nhỏ v em đ khng chịu ngồi yn trong lớp, cựa quậy, vặn vẹo người hoi. C bạt tai em trước mặt những em khc, lm em bị nhục đến nỗi em la khc trn suốt con đường về nh. Lc đ em mới năm tuổi m đ thấy rằng c gio đối với em qu tn nhẫn v bất cng, em sinh on ght sự tn nhẫn v bất cng, sau ny chiến đấu suốt đời để diệt hai ci đ.

Tn em nhỏ đ l Clarence Darrow, nh cố vấn về hnh luật danh tiếng nhất đương thời ở chu Mỹ. Tn ng thường chiếu rực rỡ bằng chữ lớn trn hng đầu trang một của mọi tờ nhật bo trong xứ. ng l một chiến sĩ bnh vực cho những kẻ bị ức hiếp.

Cc ng gi b cả ở Ashtabula, xứ Ohio, hiện nay cn nhắc lại vụ kiện thứ nhất ng đ ci. Việc rất tầm thường, chỉ l bnh vực người lm chủ một bộ yn ngựa cũ c gi trị một Anh kim. Nhưng đối với Clarence Darrow, đ l một vấn đề nguyn tắc phải theo đng. Con rắn độc bất cng đ ngc đầu ln th ng phải tấn cng n, như tấn cng con hổ ở Ấn Độ vậy. Thn chủ ng chỉ trả ng c một Anh kim, ng bỏ thm tiền ti ra để bnh vực người đ tại bảy ta n trong bảy năm trời v thắng kiện.

Darrow ni rằng khng bao giờ ng ham tiền bạc hay danh vọng. ng tự cho mnh l một thằng tướng đại ln. Mới ra đời, ng dạy học. Một hm một việc xảy ra, thay đổi hẳn đời ng. Trong chu thnh c một người thợ rn lc no rảnh việc đng mng ngựa th học luật. Clarence Darrow nghe người đ biện hộ trong một vụ tranh chấp tại một tiệm thợ thiếc, bị lời lẽ hoạt bt v hng hồn của người nh qu đ lm cho m mẩn. ng cũng muốn tranh biện được như họ nn ng hỏi mượn những sch luật của người thợ rn v bắt đầu học luật. Mỗi sng thứ hai ng thường mang sch luật lại trường để học trong khi học tr ng học địa l v ton.

ng nhận rằng nếu khng c một chuyện kch thch ng hoạt động th suốt đời ng chỉ l một nh cố vấn php luật ở lng.

Hai vợ chồng ng tnh mua một căn nh nhỏ ở Ahstabula, xứ Ohio của một nha y. Gi tiền l bảy trăm Anh kim. ng rt hết số tiền gởi ngn hng ra, được một trăm Anh kim, trả cho chủ nh, cn bao nhiu xin gp lần lm nhiều năm. Việc thu xếp đ gần xong th vợ người nha y đ khng chịu k văn tự.

Mụ tỏ vẻ khinh bỉ, bỉu mi ni:

-Ny ch, ti tin rằng suốt đời, ch cũng khng kiếm ra được bảy trăm Anh kim đu.

Darrow nổi da, nhất định khng chịu ở một tỉnh c hạng người như vậy nữa. V ng phủi chn cho hết đất bụi ở Ashatabula, m lại Chicago.

Năm đầu ở Chicago ng kiếm được c su chục Anh kim, khng đủ trả tiền mướn phng. Nhưng năm sau ng kiếm được gấp mười số đ, su trăm Anh kim nhờ lm luật sư đặc biệt cho chu thnh.

ng ni: Khi đời ti bắt đầu thay đổi th ti thấy mọi sự may mắn tới dễ dng v nhanh chng qu. Khng bao lu ng lm ph Chưởng l cho cng ty xe lửa Chicago and North Western, v tiền v như nước. Lc đ một vụ đnh cng bng nổ. On th! Rối loạn! Đổ mu.

Cảm tnh của Darrow về pha người đnh cng. Khi Eugene Debs người cầm đầu cng ty xe lửa bị đem ra xử, Darrow bỏ việc một ci một, v đng lẻ bnh vực cng ty th ng bnh vực thợ thuyền. Đ l vụ ci si nổi nhất của Darrow m mỗi vụ ci của ng đều l trụ đ ghi con đường trong lịch sử ta n. Chẳng hạn vụ Leopold v Loed tự th đ giết em b Bobby Franks. Dư luận bất bnh v cng, gh tởm v sự tn nhẫn của kẻ st nhn đến nỗi khi Clarence Darrow đứng bnh vực hai tn đ, ng bị cng chng chửi rủa, hnh hạ gọi l thằng giết người. M tại sao ng lại lm như vậy? ng ni "D quần chng on ght ti, ti cũng lm. Ti khng muốn cho một thn chủ no của ti bị tội xử tử hnh, v nếu họ bị xử tử hnh th ti c cảm tưởng rằng ti cũng gần như chết vậy. Khng bao giờ ti c thể đọc được một tin tử hnh. Ti lun lun đi khỏi chu thnh trước ngy xử tử. Ti kịch liệt chống lại sự tử hnh".

ng ni rằng x hội sinh ra tội nhn v bất kỳ người no cũng c thể mắc tội ny hay tội khc.

Chnh ng đ từng tri, biết cảnh bị ta xử mnh rồi. C lần ng bị buộc tội l hối lộ quan ta, v ng phải đem hết ti hng biện ra tự bnh vực. Nhưng lần đ ng thấy được một tấm lng biết ơn cảm động nhất trong đời ng. Một thn chủ cũ của ng gặp ng, ni:" Khi ti mắc nạn, ng cứu cho ti khỏi bị thắt cổ, m nay ng mắc nạn, ti khng gip lại ng được g. Lm sao giết được đứa đ lm chứng gian để vu oan cho ng?"

Mấy năm trước, ng đ xuất bản một cuốn kể đời ng, v ti cn nhớ đ thức rất khuya để đọc chương trong đ ng vạch nhn sinh quan của ng. ng viết:

"Ti khng biết chắc ti đ lm được nhiều hay t. Ti đ lầm lỗi trn con đường của ti, v ti đ cướp được của định mạng bủn xỉn cng nhiều nỗi vui cng tốt. Cng việc ngy no đủ cho ngy ấy, miễn l ta khng qun hướng đi v ci đch trn đường đời. Ti khng thấy được rằng ti đ gi. Ti mới bắt đầu đi trn đường đời đy m, với tất cả thế giới v thời gian v bin ở trước mặt; m by giờ cuộc hnh trnh đ gần xong v ngy đ gần tn.

Nhưng qung đường ti đ giẫm chn ln ngắn biết bao so với qung đường v cng ti chưa bước tới".

anbinh
11-21-2010, 07:11 PM
Gương 032

Eddie Rickenbacker


Đy l truyện một người cơ hồ khng c g lm cho chết được, một người đ thch tai biến, đ đa cợt với thần chết trong một phần tư thế kỷ. ng đ chạy v v trn đường đua, với một tốc lực lm rợn tc ry, trong hơn hai trăm cuộc đua xe hơi; v trong những ngy đổ mu năm 1918, ng bắn rớt hai mươi su my bay Đức, bắn rớt ở trn khng trung, trong khi đạn vo vo nổ ở bn tai ng; vậy m khng bao giờ ng bị một vết trầy da no gọi l c.

ng tn l Eddie Rickenbacker, đ chỉ huy phi đội danh tiếng Hat-in-the-Ring, l phi cng lỗi lạc nhất của Mỹ trong đại chiến thứ nhất.

Sau chiến tranh, ng l người du dắt cho Ross Smith, phi cng nổi danh của c, người thứ nhất đ bay trn Đất Thnh (tức Jrusalem) v người thứ nhất đ bay được một nửa vng tri đất. Ti thấy Ross Smith v Eddie Rickenbacker c nhiều chỗ giống nhau, đều cực kỳ bnh tĩnh v nhũn nhặn, ăn ni ngọt ngo, khc hẳn hạng người quen ria sng giết giặc ở trn khng.

Cho tới hồi mười hai tuổi, Eddie Rickenbacker l một thanh nin rừng r, khng c kỷ luật, tnh tnh nng nảy, cầm đầu một bọn du cn lối xm, đập bng đn ngoi đường v ph phch đủ thứ. Rồi một việc buồn xảy ra.

Thn phụ ng mất v chỉ trong nửa thng ng thay đổi hẳn.

Ngy đưa đm thn phụ, ng nhận thấy mnh thnh chủ trong gia đnh. ng bn bỏ học, xin một việc trong một xưởng lm knh, được hai cắc rưỡi một giờ, v mỗi ngy ng lm mười hai giờ. ng đi bộ mười hai cy số tới xưởng mỗi buổi sng, v mười hai cy số về mỗi đm để đỡ tốn năm xu xe điện. ng nhất định tiến tới. Khng c g lm ng ngừng được. Cng việc trong xưởng khng c g thay đổi, buồn chn đến chết được. ng ght n lắm. ng muốn thnh một nghệ sĩ, muốn sng tc, xy những mộng mu sắc rực rỡ. ng học vẽ trong một lớp ban đm v xin được việc đục hnh cc thnh trn đ hoa cho một nh bn mộ ch. Chnh ng đ đục mộ ch trn mộ thn phụ ng. Nhưng người ta bảo ng cng việc đục mộ ch đ rất nguy hiểm, v phải ht những bụi đ vo phổi. ng ni:"Ti khng muốn chết yểu, nn tm một việc khc t nguy hiểm hơn".

Năm ng mười bốn tuổi, một buổi sng, ng đứng trn vỉa h nhn chiếc hơi đầu tin ng thấy trong đời ng, một ci xe kỳ cục, nổ bịch bịch, điếc cả tai, rầm cả đường phố Columbus ở Ohio. Nhưng chiếc xe đ đối với ng l chiếc xe tiền định. N thay đổi hon ton đời ng.

Cch đ t lu, ng xin được việc trong một hng sửa xe, v tập li xe ra, li xe v trong một căn nh bằng cy hồi trước dng lm chuồng ngựa. ng dựng một xưởng ở sn pha sau, chế tạo lấy đồ dng v dự bị đng lấy một chiếc xe hơi. Ngay lc đ, một xưởng đng xe hơi bắt đầu mở ở Columbus, v chủ nhật no ng cũng tới đ xin việc, nhưng chủ nhật no người ta cũng đuổi ng đi. Sau khi bị đuổi tới lần thứ mười tm, ng trở lại nữa v ni với người chủ lc đ rất ngạc nhin:"Thưa ng, d muốn hay khng ng cũng đ c một người thợ mới rồi đấy. Sng mai ti lại đy lm. ng thấy khng, sn ng dơ đy ny. Ti sẽ chi n. Ti sẽ chạy những việc vặt cho ng v mi đồ dng cho ng".

Cn tiền cng? ng khng hề thốt một lời g về tiền cng hết. ng chỉ cần c cơ hội để khởi sự v ng đ được cơ hội đ. Rồi ng xin học một lớp hm thụ về cơ giới, ng tự dự bị sẵn sng để thời cơ tới l ng tiến.

Từ hồi đ trở đi, ng tiến mau: thợ rồi ln cai, ln đốc cng, rồi đứng bn xe, rồi lm gim đốc một ngnh.

Rồi ng đm ra thm li xe nhanh, khao kht mạo hiểm. Lng ng chỉ ước mơ tiếng vỗ tay v sự kch thch trong một cuộc đua xe. ng biết rằng muốn vậy th ng phải thay đổi con người của ng đi. V ng quả quyết diệt tnh nng nảy của ng. ng tập tự chủ. ng tập mỉm cười cho tới khi ng nổi danh về mỉm cười.

Nghề đua xe hơi cần c những gn cốt gang thp. ng biết vậy. Cho nn ng bỏ ht thuốc, bỏ uống rượu, v mỗi tối cứ đng mười hai giờ l đi ngủ. Như vậy, hồi hai mươi lăm tuổi Eddie Reckenbacker thnh một trong những nh chạy đua xe hơi nổi tiếng nhất.

V đy mới l chuyện nực cười! Trong ba chục năm nay, ng li xe hơi hng trăm ngn cy số, m khng hề c một giấy php li xe, ngay by giờ cũng khng c.

ng khng tin ba. Bạn thn ng thường tặng ng cc thứ ba may, như chn thỏ, mng ngựa nhỏ xu...Nhưng một hm, ngồi xe lửa, ng liệng hết những ba đ qua cửa sổ xuống cnh đồng Kansas.

Khi chu Mỹ dự cuộc đại chiến thứ nhất, khắp giới li xe hơi ngưỡng mộ ng: ng vượt đại dương, qua Php li xe hơi cho đại tướng Pershing. Nhưng li xe cho đại tướng, đối với ng, l cng việc buồn qu. ng muốn hoạt động kia, v ng được hoạt động. Người ta cho ng li phi cơ v đưa ng một cy sng; trong mười tm thng ng đ viết tn ng ln hng đầu bảng phương danh những vị anh hng trong đại chiến, v ngực ng đầy huy chương của ba chnh phủ.

Trong một cuốn sch bn rất chạy, dy ba trăm bảy chục trang, ng kể những trận anh hng của ng. Cuốn đ nhan đề l Fighting the Flying Circus l một trong những chương rng rợn nhất của lịch sử khng qun.

anbinh
11-21-2010, 07:12 PM
Gương 033

Oliver Wendell Holmes


Ti xin kể bạn nghe chuyện một người đ ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của người Mỹ nhất l về luật php. ng l một thin ti của Hoa Kỳ.

Người đ l vị thẩm phn Olive Wendell Holmes. ng thọ chn mươi bốn tuổi v biết hầu hết những nhn vật quan trọng ở Hoa Kỳ trong một thế kỷ nay.

Khi ng cn nhỏ, thn phụ ng thường bảo cc con rằng trong bữa cơm ai ni được cu no hm hỉnh nhất sẽ được thưởng thm mứt. ng Wendell rất thch mứt nn tập ăn ni từ hồi đ (...)

Khi ng bắt đầu học luật năm 1857, cụ khng bằng lng v thời đ người ta cn khinh mn luật. Cụ năn nỉ ng:

- Con nghe ba, đừng theo nghề đ, n khng đưa tới đu cả.

Nhưng ng tin chắc rằng học luật c thể thnh một người c danh vọng. V ng nghiến ngấu sch luật như nghiến ngấu tiểu thuyết, trang no cũng thấy say m.

Năm 1861 ng sắp thi ở trường Harvard th nội chiến bng nổ. ng liệng cả sch vo tủ, đăng lnh. ng chiến đấu anh dũng, bị thương ba lần. Một vin đạn xuyn qua gần đụng tim ng, đến nỗi một qun y thấy người ta khing ng trong một chiếc cng, la ln.

- Đừng ph cng với người đ nữa. Hắn chết rồi!

Chết rồi ư? Sự thực th ng cn đương tuổi lớn. ng cn lớn thm bốn, năm phn nữa mới đủ một thước chn v cn sống để m gip cho nước được một việc quan trọng nhất l cứu cho tổng thống Lincoln thot nạn năm 1864.

Trong khi đại tướng Grant đương chỉ huy ở Richmod, một đội qun phương Nam, do Jubal Early cầm đầu, đm một mũi nhọn ln pha Bắc, tới Alexandrie ở Virginie, cch Hoa Thịnh Đốn khng đầy bốn chục cy số.

Qun phương Bắc tnh chặn họ lại ở For Stevens. Abraham Lincoln chưa ra chiến trường lần no, cũng tới đ coi hai bn giao chiến. ng đứng trn một nc nh, gần chỗ tay vịn khi sng bắt đầu nổ. Hnh th vạm vỡ của ng, m ai cũng nhận ra được, ở ngay trước họng sng địch. Một vị tướng thưa với ng:

- Thưa ngi Tổng Thống, ngi nn li lại pha sau th hơn.

Lincoln khng để đến lời đ. Cch đ hai thước, ở chỗ tay vịn, một người l đầu ra, lảo đảo rồi lăn ra chết. Lại gần hơn nữa, một người khc cũng ng gục.

Thnh lnh ở sau lưng Lincoln c tiếng la ln:

- Đồ đin, xuống đi. Kiếm chỗ np đi.

Lincoln nhảy một bước, quay lại: đại t Holmes nhn ng, giận dữ, mắt nảy lửa.

Lincoln mỉm cười, ni:

- Đại t ăn ni n tồn lắm!

Rồi ng nhn vai, nhận l phải, kiếm chỗ np.

Tin đ lan ra, nhiều người khen Wendell l anh hng, nhưng ng ngắt lời ngay, giọng hơi xẵng:

- Đừng bảo ti l anh hng, ti đ lm phận sự một người lnh, chứ c g khc thường đu.

Chiến tranh xong ng về nh, tiếp tục học như trước. ng biết rằng học luật khng kiếm được tiền: hồi đ c cu tục ngữ: "Luật sư năm đầu kiếm đủ tiền khắc bảng đồng ở cửa phng việc l may".

Olive Wendell Holmes khng được như vậy nữa m mi ba mươi tuổi ng mới c một phng việc ring cho mnh. Ti khng ni ngoa. Năm đ khi ng cưới b Fannie Dixwell, một bạn gi từ hồi nhỏ, ng khng c một xu dnh ti. Hai ng b phải ở trong một phng ở từng thứ tư, trong nh thn phụ ng, rồi phải ki cp một năm để c tiền ra ở ring. Họ mướn được hai phng tồi tn trn một tiệm bo chế v chỉ c mỗi một ci l để nấu bếp.

Đ, một thin ti m ba chục tuổi cn long đong như vậy.

Rảnh qu, v vắng khch, ng bổ tc rồi ti bản một bộ luật, bộ Ph bnh luật Mỹ. Cng việc đ vĩ đại, phải nghin cứu, ph bnh hằng ngn trường hợp v khng biết bao bản n của cc ta. Lm việc mấy năm m vẫn chưa xong, ng đ hơi lo ngại, v ng nghĩ rằng trong nghề của ng, trễ lắm l bốn chục tuổi phải c danh vọng mới được. M năm đ ng đ ba mươi chn. Một đồng hồ g mười hai tiếng, ng hỏi b:

- Mnh c tin rằng anh thnh cng khng?

B đương khu, đp:

- Chắc chắn l mnh thnh cng. Em biết vậy.

ng thnh cng thật. Bộ sch đ m ngy nay ai cũng coi l một cng trnh bất hủ về luật Mỹ, được in xong năm ngy trước khi ng đng bốn chục tuổi. Hai ng b cụng ly với nhau để ăn mừng.

Trường đại học Harvard rất thch cng trnh của ng, tặng ng một ghế gio sư luật khoa, lương bốn mươi lăm ngn Mỹ kim một năm. ng sung sướng v vinh dự đ, nhưng cn hỏi kiến bạn thn l George Shattuck đ. ng ny khuyn:

- Anh nn nắm lấy cơ hội đi, nhưng buộc họ một điều kiện l nếu anh được bổ lm thẩm phn ở ta Massachusetts th anh c quyền hủy giao ko liền.

ng cho bạn qu lo xa, nhưng cũng nghe theo.

Khng đầy ba thng sau, ng Shattuck chạy lại trường Harvard li Holmes ra khỏi lớp học, hổn hển bảo:

- C tin mừng lớn. C một chỗ trống ở Tối cao php viện Massachusetts. Chnh phủ chỉ muốn giao cho anh chỗ đ, nhưng buộc anh phải nạp hồ sơ trước mười giờ trưa. M by giờ mười một giờ rồi.

Chỉ cn một giờ nữa, Holmes lượm nn, rồi hai ng chạy lại ta Thống Đốc. Một tuần sau, ng được bổ nhiệm. ng đ qua một chương mới trong đời ng.

Ở ta n Masschusetts ng nổi tiếng l "li khai" v rất t khi ng đồng với bạn cộng sự. Chẳng hạn năm 1896 ng bnh vực bọn thợ thuyền đnh cng, mặc dầu ng khng ở trong giai cấp họ. Quyết định xong, ng ni với một người bạn thn:

- Ti mới tự cấm ti thăng chức.

Biết vậy m ng vẫn giữ vững lập trường. Tư lợi khng khi no ảnh hưởng tới sự ti phn của ng được. ng chỉ nghĩ đến sự cng bnh thi.

Lạ lng thay, vụ xử đ v nhiều vụ khc nữa đ chẳng lm hại bước đường cng danh của ng m cn đưa ng ln những chức vụ vẻ vang nữa. Tổng Thống Theodore Roosevelt lc đ muốn tấn cng cc tổng hợp sản xuất v thương mại ở Hoa Thịnh Đốn, dng tất cả uy quyền để diệt những cng ty độc quyền, khi nghe người ta ni về Holmes, la ln:

- Như vậy mới l một vị thẩm phn. Ti cần dng người đ.

V giấy tờ lm rất gấp để bổ Holmes ln chức thẩm phn Tối cao php viện Hoa Kỳ. Đ l danh dự lớn nhất trong nghề. Tổng Thống tưởng rằng Holmes sẽ nghị quyết theo mnh. ng lầm. Ngay trong vụ xử lớn đầu tin, Holmes đ chống Roosevelt. Roosevelt giận la:

- Con người g m mềm như bn vậy!

Roosevelt quạu, nhưng cng chng lại mừng, Holmes đ xử theo lng mnh, khng ty thuộc ai, đứng trn hết cc đảng phi.

Trong ba chục năm Holmes cương quyết giữ đường lối đ v thnh một vị thẩm phn được quốc gia trọng vọng nhất.

Năm ng chn mươi mốt tuổi, sức ng bắt đầu suy nhiều, phải c hai người đỡ ng bước xuống bệ. Một hm ng ni với vin lục sự:

- Ngy mai ti khng lại nữa.

V từ đ ng khng trở lại ta nữa.

Hai năm sau ng chn mươi ba tuổi. Franklin D. Roosevelt mới ln lm tổng trưởng, lại thăm ng v thấy ng đương đọc Platon, hỏi: - Thưa cụ, xin cụ cho biết tại sao cụ đọc Platon.

ng đp:

- Để tr thức được thm phong ph.

Bạn thử tưởng tượng: chn mươi ba tuổi....

Quả thực tại Hoa Kỳ chưa c người no nhn cch cao như ng, m cũng chưa ai lm cho php luật thay đổi su xa như ng. Những bản n của ng sau ny cn c ảnh hưởng lu tới cch sống của người Mỹ.

V đy, thm một chi tiết nữa m ti chắc bạn muốn biết: Khi mất, vị thẩm phn danh tiếng đ để lại tất cả gia ti khoảng hai trăm rưởi ngn Mỹ kim, cho chnh phủ. Tất cả tủ sch của ng, ng cũng tặng hết cho quốc dn.

anbinh
11-21-2010, 07:14 PM
Gương 034

Bernard Shaw


Rất t người nổi danh tới nỗi người khc khi nhắc tới, chỉ viết những chữ đầu của tn, họ, m ai cũng hiểu. Một trong những danh nhn vo bậc đ l một người i Nhĩ Lan; những chữ đầu của tn họ ng l G.B.S. ng c lẽ l nh văn tiếng tăm lừng lẫy nhất thế giới. Đời cầm bt lạ lng kh tin được của ng đ chp trong một cuốn m tn họ ng chỉ ghi l G.B.S, tức George Bernard Shaw.

Đời ng đầy những tương phản kịch liệt. Chẳng hạn ng chỉ được đi học năm năm; gio dục thiếu st như vậy, m ng thnh một văn ho bậc nhất thế giới v được một giải thưởng văn chương lớn nhất thế giới, giải Nobel. Giải thưởng l bảy ngn Anh kim nhưng ng chẳng thm nhận tiền m cũng chẳng thm nhận vinh dự. Sau người ta phải năn nỉ ng, ng mới chịu nhận số tiền đ một cch tượng trưng trong nửa giy trước khi chuyển n qua quỹ i Hữu Văn Học Anh - Thụy Điển.

Thn phụ ng sinh trong một gia đnh danh gi ở i Nhĩ Lan, nhưng thn mẫu ng khng được hưởng một gia ti lớn của một b c v b cụ ny khng chịu cho song thn ng cưới nhau. Thnh thử nh cửa ngho tng v Bernard Shaw phải kiếm ăn từ hồi mười lăm tuổi. Năm đầu, ng lm thư k, lương thng khng được một Anh kim.

Rồi từ mười su đến hai mươi tuổi, do hon cảnh, ng lnh một việc c trch nhiệm l giữ kt ngn hng, được một Anh kim rưỡi một tuần. Nhưng ng ght cng việc phng giấy; v ng đ được sinh trưởng trong một gia đnh trọng hội họa, m nhạc v văn chương. Năm ng bảy tuổi, ng đ đọc Shakespeare, Bunyan, truyện Ngn lẻ một đm v Thnh kinh. Mười hai tuổi, ng m Byron. Rồi ng đọc Dickens, Damas Shelley. Mười tm tuổi, ng đ đọc Tyndall, Stuart Mill, Herbert Spencer. Cc văn ho đ đ lm cho c tưởng tượng của ng pht triển sớm, v ng đ c nhiều mơ mộng; cho nn trong những năm đen tối, phải lm mọi cho một nh địa ốc ngn hng tư, ng buồn chn lắm, chỉ mơ tưởng tới thế giới đẹp đẽ của văn chương nghệ thuật, khoa học v tn gio.

Khi gần được hai chục tuổi G.B.S, tự nhủ:

"Mnh chỉ c một đời người để sống, khng lẽ đem phung ph n trong buồng giấy một nh bun".

V vậy năm 1876, ng bỏ hết đến Lun Đn, nơi thn mẫu ng dạy ht để sinh nhai, v bước vo nghề viết văn để sau ny nổi danh v giu c.

Nhưng ng phải viết chn năm rồi mới kiếm được đủ ăn. ng dng hết th giờ để viết, tự buộc mnh mỗi ngy phải viết năm trang, d viết chẳng ra g cũng cứ viết. M đng năm trang thi, chứ khng hơn. ng ni:"Hồi đ ti cn ci tnh của một học sinh v một thư k, cho nn viết hết năm trang m tới giữa một cu th ti cũng bỏ đ, hm sau mới viết tiếp".

ng viết năm truyện di - một truyện nhan đề l Love among the artists - gởi bản thảo cho nh xuất bản ở Anh v cả ở Mỹ. Họ đều gởi trả lại bản thảo, nhưng nh xuất bản lớn nhất ngỏ muốn được coi tc phẩm sau của ng(...)

Hồi đ ng tng bẩn qu đến nỗi khng đo đu ra tiền mua c gởi bản thảo nữa. Trong chn năm đầu, cy viết của ng chỉ đem lại cho ng được c su Anh kim.

C khi quần o rch, ng đi lang thang trong thnh phố Lun Đn, gy thủng m quần o cũng thủng ở đt. Nhưng ng khng đến nỗi đi:Thn mẫu ng lun lun mua chịu được ở một hng tạp ha v trnh cho ng được thảm cảnh đ.

Trong chn năm viết tiểu thuyết ấy, một lần ng kiếm được năm Anh kim nhờ một bi về y khoa m một luật sư khng hiểu v nguyn do g đ nhờ ng viết. Lần khc, ng kiếm được một Anh kim v đếm phiếu sau một cuộc bầu cử vo Quốc Hội.

Vậy ng lm cch no m sống? ng th nhận rằng gia đnh ng rất cần sự gip đỡ của ng, mong mỏi sự gip đỡ đ đến gần như tuyệt vọng, nhưng ng lại khng gip nh được cht g hết, cứ ăn bm vo gia đnh. Chnh ng ni:"Ti khng lao mnh vo cuộc chiến đấu để sống. Ti tủi nhục bắt thn mẫu ti lao mnh vo".

Nhưng sau ng viết những bi ph bnh cc thứ nghệ thuật v tự tc được. Thnh cng đầu tin của ng về tiền bạc, khng nhờ tiểu thuyết m nhờ kịch. V ng viết hai mươi mốt năm mới nổi danh, cưới được một b vợ giu m khng bị thin hạ ch l đo mỏ.

Thực khng thể ngờ rằng một người như ng, c gan đứng trước quần chng chỉ trch những luật về hn nhn, những cơ quan tn gio, chế độ dn chủ v hầu hết những tục lệ m loi người tn trọng, lại vốn c tnh nht nht, tự ti mặc cảm. ng đ đau khổ v tnh nht nht. Chẳng hạn hồi trẻ, ng thỉnh thoảng lại thăm bạn b trn bờ sng Thames ở Lun Đn. Đy, xin bạn nghe ng tả, trong những hon cảnh như vậy, ng hng động v cảm xc ra sao:

"Ti nht nht tới nỗi c khi đi đi lại lại trn bến tu tới hai mươi pht hoặc hơn nữa rồi mới dm g cửa nh bạn. Sự thực, như c linh tnh bảo ti rằng khng dm g cửa một người bạn th sau ny khng lm nn tr trống g ở đời hết, nhờ vậy ti mới dm vo thăm bạn, nếu khng th ti đ bỏ m chạy một mạch về nh rồi cho khỏi phải đau khổ v nht nht".(...)

Sau cng ng học được cch hay nhất, mau nhất v chắc chắn nhất để thắng tnh nht nht v sợ sệt, l tập ni trước cng chng. ng xin v một hội tranh biện. Mấy lần đầu đứng ln diễn thuyết, ng cho thnh giả cảm tưởng rằng ng bnh tĩnh lắm, nn người ta xin ng lần sau lại diễn thuyết nữa; nhưng sự thực ng bị kch thch dữ lắm, tay run ln, trong khi k tn. Hễ khng ghi chp những điều cần ni th ng qun hết, khng cn biết ni g nữa; m nếu ghi chp th qunh qu, đọc khng được. Nhưng khng thnh giả no ngờ nỗi khổ tm đ của ng, cứ vẫn nghe ng ni. Quyết tm thắng tnh nht nht của ng mạnh mẽ qu, đến nỗi c cuộc hội họp để tranh biện no ở Lun Đn, ng cũng đến dự v lun lun ng đứng dậy by tỏ kiến.

V sau ng cn nht nht nữa khng? Khi ng đ tm được một l tưởng v bnh vực chủ nghĩa x hội, th trong mười hai năm, cứ cch một đm ng lại diễn thuyết một đm ở cc gc đường hoặc trong cc chợ, cc nh thờ, tại khắp nước Anh. ng nổi tiếng l hng biện v kiếm được nhiều tiền khng phải để tiu pha ring m để phụng sự l tưởng.

Mặc dầu ng đ tm chục tuổi m ng cn tuyn bố rằng ng bận cng việc qu, khng c th giờ để nghĩ đến sự chết. ng ni:Ti thch sống v sống l vui. Đời sống đối với ti khng phải l một "mẩu đn cầy". N l một thứ đuốc lớn m ti được cầm trong một lc. V ti muốn cho đuốc đ chy hết sức rực rỡ trước khi ti chuyền n qua tay những thế hệ sau.

anbinh
11-21-2010, 07:15 PM
Gương 035

James Buchanan Duke


Doris Duke v Barbara Hutton l hai thiếu nữ Mỹ nổi danh khắp thế giới. Nhưng ta thử hỏi: tn tuổi của họ c được bo ch mọi nước nhắc nhở tới nhiều như vậy khng nếu họ khng được hưởng gia ti hằng tỉ bạc của ng, cha?

Do ci g m c gia ti kếch x n đ lm cho Doris Duke thnh một người kế thừa giu nhất thế giới? Thưa bạn, do khi ạ, do khi thuốc l. Lịch sử gia ti đ bắt đầu từ hồi nội chiến ở Hoa Kỳ. Hồi đ miền Nam trải qua những ngy ảm đạm v bị qun đội tn ph, đồng ruộng chy kh v bỏ hoang. Cảnh điu linh thực khng tưởng tượng được. Dn chng phải luộc hột cy lật v hột bng vải để thay c ph, v nấu l du ty thay tr. Nền đất nện của cc nh tranh dnh mở heo m người ta cũng lượm ln, nấu để ăn v trong mở cn cht muối. Washington Duke, ng nội của thiếu nữ giu nhất thế giới ngy nay, hồi đ chiến đấu ở Richmond, thuộc quyền chỉ huy của đại tướng Lee, sau bị nhốt trong khm Libby. Sau khi đại tướng Lee đầu hng, ng về trại ruộng ở Durham, bắc Caroline.

Chnh phủ lin bang phương Nam cho ng một cặp la đui, gi, chỉ chờ chết, v ng bn lại phiếu quốc tri năm Mỹ kim cho một người lnh theo phương Bắc, được nửa Mỹ kim.

Đ, tất cả gia ti của ng chỉ c vậy: năm cắc, một cặp la đui, vi bộ cương v hai đứa con mồi ci mẹ.

Qun đội phương Nam cũng nhưng phương Bắc đều tn ph xứ sở, trong đồng c g ăn được l những đội lnh đi lượm hết, chỉ để lại vi gốc thuốc l xanh. Cho nn ng v hai người con l "Buck" v "Ben" đnh đi hi thuốc l phơi kh đập sơ sơ thồn vo bao, chở trong một chiếc xe c mui vải, thắng cặp la đui vo xe, rồi đi chinh phục thế giới, v lạ nhất l bọn họ chinh phục được đế quốc thuốc l, một đế quốc sau ny chế ngự khắp địa cầu.

Ngồi trong chiếc xe mui vải do la ko đ, họ tiến về phương Nam, miền m thuốc l rất hiếm. Họ đổi thuốc l lấy mở heo v bng vải. Ban đm họ ngừng xe, cắm trại bn lề đường ci, chin mở heo với khoai lang, ăn xong ngủ ngay giữa trời. Như vậy thch hơn l đi hi thuốc l, cho nn họ quyết định bỏ nghề trồng thuốc l m xoay qua nghề bn thuốc ht.

Nhưng chẳng bao lu họ đụng đầu với một sự cạnh tranh tn nhẫn. Hằng trăm hng lm thuốc rời bn cho những người ht ống điếu, m những hng đ giu c, cơ sở vững vng. James Buchaman Duke, người tạo ra gia ti của họ Duke v l ng thn của c Doris Duke, hiểu rằng phải lm ci g mới v lm ngay, nếu khng th nguy, V ng nẩy ra một n đem cho ng trăm triệu Mỹ kim. ng quyết định chế thuốc vấn. By giờ chng ta cho đ khng c g đặc biệt v mỗi năm dn Mỹ ht tới một trăm hai mươi lăm tỉ điếu thuốc; nhưng năm 1881 th đ l một cch mạng. Ti vẫn biết người Nga v người Thổ đ ht thuốc vấn từ mấy đời rồi m lnh Anh đnh trận Crime về c đem theo thứ thuốc vấn đ nhưng ở chu Mỹ tới năm 1867 vẫn chưa c thuốc vấn m chu Mỹ l nơi sản xuất thuốc l cho khắp thế giới.

Khi Buck Duke khởi sự th thuốc l đều vấn tay. Sau ng chế ra một ci my lm cho năng suất tăng từ hai ngn rưỡi điếu ln tới một triệu điếu mỗi ngy. Chnh ng kiếm ra cch gi thnh hộp. Bạn no đ thấy những hộp thuốc Meccas, Zinas, Sweet Caporal hay Turkish Trophies, chắc cn nhớ kiểu hộp bằng giấy dầy c ngăn ko ra đẩy v được ấy m chnh ng đ vẽ ra. Nhờ vậy x nghiệp của ng pht triển mau, v khi chnh phủ hạ thuế thuốc l xuống th ng hạ gi bn xuống một nửa, lm thị trường ngập những bao thuốc năm xu, v cc nh cạnh tranh với ng phải nho hết.

Rồi ng đi kiếm những thế giới khc để chinh phục. Năm ng tới Nữu Ước để lập xưởng mới, ng mới hai mươi bảy tuổi. Lun lun ng tự nhủ: "Rockefeller đ thnh cng được như vậy nhờ dầu lửa, th tại sao bn thuốc l lại khng thnh cng được như ng ấy".

Nghĩ vậy, lời được bao nhiu ng đập hết vo vốn như Rockefeller. Kiếm được mỗi năm năm chục ngn Mỹ kim rồi chứ, m ng sống trong một phng hẹp, cơm th ăn tiệm. Nhưng ci con người mỗi bữa cơm khng dm tiu năm cắc ấy lại dm cho đại diện đi khắp thế giới. ng lm tối tăm mặt mũi ở hng. Sng tới sớm, tối về trễ, kiểm sot lại mọi cng việc chế tạo từ khi thuốc cn l l tới khi thuốc cho vo bao.

Khi chết, ng c trăm lẻ một triệu Mỹ kim v ng thường đnh c rằng khng c ai lm cho nhiều người thnh triệu ph bằng ng. Hồi nhỏ ng chỉ được đi học c bốn, năm năm. C lần ng ni đa rằng:"Sự học cần cho cc gio sĩ hay cc luật sư chứ c ch lợi g cho ti đu?Trong nghề kinh doanh, khng cần phải thng minh hơn người".

Đy, ng giảng nguyn do tại sao ng thnh cng ti chp đng lời ng:

"Ti thnh cng trong cng việc lm ăn khng phải v ti c khiếu hơn phần đng những người khng thnh cng, m v ti đ đem hết sức ra hăng hi lm. Ti biết nhiều người đ thất bại m chắc chắn l họ thng minh hơn ti, nhưng họ thiếu đức quyết định v kin nhẫn".

Theo ti, b quyết lớn của ng l cch ng dng số lời:ng đập vo vốn để lm ăn.

M đ cũng l b quyết của John D. Rockefeller v của tất cả những người đ xy dựng được những gia sản khổng lồ. Dng vốn của người khc để khuếch trương cng việc của mnh th khng thể no gy được một gia ti vĩ đại. Muốn gy được một gia ti như vậy th phải như Duke v Rockefeller, lm chủ x nghiệp của mnh m vốn th do mnh bỏ ra rồi mỗi ngy đập thm lời vo. Quy tắc đ khng phải chỉ p dụng vo những người lm giu lớn m thi đu:người thợ bỏ th giờ rảnh ra để học thm thnh vin Đốc cng hay vin Kỹ sư th cũng l hnh động như Rockefeller v Duke, chứ khc g: cũng l gy vốn cả.

Điều lạ nhất l Buck Duke tự nghĩ khng cần phải học nhiều m lại tặng bốn chục triệu Mỹ kim để lập một trường đại học lớn ở Durham, bắc Coroline. C Doris Duke l hội vin trong ban quản trị trường đ.

ng ght quảng co v suốt đời chỉ cho người ta phỏng vấn c mỗi một lần. Lần đ phng vin hỏi ng:

- Thưa ng, ci sự c một triệu Mỹ kim, tự n c phải l một điều th khng?

ng lắc đầu, đp:

- Khng. Số tiền đ c lm cho ti vui thch cht no đu.