PDA

View Full Version : Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma



tuedang
10-15-2010, 12:42 PM
:smile:


Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma


Phật tử trong nhà Thiền thường đề cập tới một tuyên ngôn của Sơ Tổ Thiền tông Bồ Đề Đạt Ma, được cho là “tuyên ngôn sấm sét”:

Bất lập văn tự
Giáo ngoại biệt truyền
Trực chỉ nhân tâm
Kiến Tánh thành Phật.

nghĩa là :

Không lập văn tự
Truyền ngoài giáo lý,
Chỉ thẳng tâm ngưòi
Thấy Tánh thành Phật.


Tại sao lại gọi là “Tuyên ngôn sấm sét”?

Bởi vì tuyên ngôn đó đưa ra một quan điểm hoàn toàn xa lạ đối với các nhà trí thức Phật giáo đương thời, vốn là những học giả không những học rộng hiểu nhiều về thế học, uyên bác về các nguồn tư tưởng Đông Phương, mà hiện đang say sưa thảo luận về kinh điển nhà Phật.

Vậy Bồ Đề Đạt Ma là ai mà lại có hành tung đặc biệt như thế?

Chúng ta sẽ lần dở trang Phật giáo sử để tìm hiểu câu chuyện về ngài.

Vào thời vua Hán Minh Đế nước Trung Hoa, khoảng giữa thế kỷ thứ nhất Dương lịch, Phật giáo từ Ấn Độ đã lan truyền đến Trung Quốc. Tính từ đó tới ngày ngài Bồ Đề Đạt Ma đặt chân lên nước Lương năm 520 Dương lịch, là đã được khoảng 500 năm rồi.

Sau năm trăm năm thâu thập kinh sách và tài liệu rồi phiên dịch từ tiếng Phạn ra tiếng Hán, nay đã tới lúc các học giả Phật giáo say sưa nghiên cứu, chia môn lập phái, tìm tòi nghĩa lý ẩn tàng trong ngón tay mà không để ý tới phần thực hành để đạt được mặt trăng, theo như lời căn dặn của nhà Phật:

“Kinh sách là ngón tay chỉ Chân Lý là mặt trăng, thấy mặt trăng rồi thì buông ngón tay xuống mà tu hành để đạt tới Chân Lý”.

Là những học giả của một dân tộc hâm mộ từ chương, giới trí thức Trung Hoa thời đó rất say sưa nghiên cứu phần lý thuyết có tính chất triết học của nhà Phật, đàm luận về những sự huyền diệu, thâm sâu, uyên áo, chẻ sợi tóc ra làm tư, coi Phật giáo như một triết thuyết, phí bỏ mất phần cốt tủy của đạo Phật, là phần tu chứng với mục tiêu giải thoát được kiếp người ra khỏi những phiền não ràng buộc, giác ngộ lại Bản Thể, chấm dứt mọi đau khổ triền miên trong dòng sinh tử.

Cũng vào thời gian đó, tại vương quốc miền Nam Ấn kia, có một vĩ nhân ra đời. Đó là vương tử thứ ba của quốc vương, tên là Bồ Đề Đa La. Nhân một dịp quốc vương thỉnh Tổ Thiền tông thứ 27 là Bát Nhã Đa La vào cung để cúng dường trai tăng, vương tử Bồ Đề Đa La gặp được Tổ và sau khi đàm luận về Đạo Học, vương tử bái Tổ tôn ngài lên làm thày.

Sau khi vua cha tạ thế, vương tử Bồ Đề Đa La xuống tóc đi tu. Thấy học trò tinh tường Phật pháp, Tổ Bát Nhã Đa La đổi tên vương tử là Bồ Đề Đạt Ma. Trước khi qua đời, Tổ Bát Nhã Đa La căn dặn học trò sau này phải qua Trung Hoa để giúp cho những người học Phật tại đó đi đúng con đường đức Phật dạy để đạt được kết quả của sự tu hành, tiến tới giác ngộ giải thoát.

Nhưng Tổ cũng dặn là hiện nay chưa thể đi ngay, phải chờ vài chục năm nữa mới lên đường.

Sau khi Tổ tịch rồi, ngài Bồ Đề Đạt Ma còn ở lại quê hương hoằng pháp một thời gian. Nhiều chục năm trôi qua, một hôm nhớ lời sư phụ dặn dò, ngài vào từ biệt quốc vương là cháu của ngài để lên đường sang Trung Hoa, đem ánh sáng giác ngộ chiếu vào miền đất vốn thấm nhuần tư tưởng Lão Trang, lại được giáo lý nhà Phật khai tâm, nhưng quá ham mê phần lý thuyết mà không thực hành, nay cần sự chỉ dẫn để có thể tự tu tự độ.

Quốc vương hạ lệnh sửa soạn thuyền và thủy thủ rồi tiễn ngài lên đường.

Sau ba năm lênh đênh trên sông nước, vùng đất Trung Hoa đầu tiên mà ngài đặt chân lên thuộc tỉnh Quảng Châu, đó là vào năm 520, đời nhà Lương. Quan tỉnh dâng sớ về triều tâu bày sự việc.

Vị vua đương thời là Lương Võ ế, một nhà Phật học uyên thâm, thường khoác áo cà sa ra ngoài ngự bào để giảng kinh thuyết pháp. Nhà vua cũng là một đại thí chủ đương thời.

Con trai lớn của Lương Võ ế là thái tử Chiêu Minh cũng là một học giả Phật giáo, thường cùng với pháp sư Lâu Ước, đại sĩ ạo Phó và Lương Võ ế bàn luận về "thánh đế đệ nhất" (là chân lý tuyệt đối) và "tục đế" (là chân lý quy ước).

Thái tử Chiêu Minh cũng nghiên cứu kinh Kim Cang rất sâu sắc, đã thiết lập một đài bằng đá để ghi dấu công cuộc phân chia kinh Kim Cang ra làm 32 chương của ông.

Sau này có một người Việt Nam là nhà thơ Nguyễn Du nhân đi sứ sang Tầu có đến thăm đài và làm một bài "Vịnh đài đá phân kinh của Luơng Chiêu Minh thái tử", có ý chê thái tử không hiểu phần cốt tủy thâm áo của kinh nên mới làm công việc huênh hoang hình tướng này.

Được tin có ngài Bồ ề ạt Ma tới nước mình, Lương Võ Đế sai sứ đi đón, rước vào kinh. Trong buổi tiếp kiến, nhà vua hỏi:

- Từ khi lên ngôi, trẫm đã xây chùa, chép kinh, độ tăng nhiều vô số kể, vậy có công đức gì không?

Ngài ạt Ma đáp:

- ều không có công đức.

Vua hỏi lại :

- Tại sao không có công đức?

Ngài đáp:

- Xây chùa, chép kinh, độ tăng là tạo nhân hữu lậu, chỉ được hưởng thiện quả nơi cõi Trời, cõi người, quả theo nhân như bóng theo hình, là phước đức, không phải công đức. Công đức là do tu hành, trí rỗng rang, tâm sáng suốt, từ nơi bản tánh, không do nơi công nghiệp thế gian.

Vua hỏi lại:

- Thế nào là thánh đế đệ nhất nghĩa? (ý Võ Đế muốn hỏi về chân lý tuyệt đối)

Tổ đáp:

- Quách nhiên vô thánh (ý ngài Đạt Ma muốn trả lời là người giác ngộ thì tâm trí rỗng rang, sáng suốt, vượt lên trên khái niệm về thánh, phàm)

Vua gặng thêm:

- Ai đang đối diện với trẫm?

Tổ đáp:

- Không biết !

Lương Võ ế sai người tiễn khách.

Tổ Bồ ề ạt Ma băng qua sông Giang Bắc, thẳng đường qua nước Ngụy, lên núi Tung Sơn ngồi quay mặt vào vách đá chùa Thiếu Lâm chín năm, người đương thời gọi ngài là Bích quán Bà La Môn, nghĩa là ông Bà La Môn nhìn vách.

Tương truyền, sau khi ngài Bồ ề ạt Ma ra đi, Lương Võ ế gặp hòa thượng Chí Công, bèn kể lại câu chuyện. Hòa thượng Chí Công hỏi:

- Bây giờ bệ hạ đã biết người ấy là ai chưa?

Võ ế đáp:

- Không biết.

Hòa thượng nói:

- ó là đại sĩ Quan Âm tới truyền tâm ấn Phật.

Võ ế hối tiếc, sai sứ đi thỉnh, nhưng ngài Bồ ề ạt Ma không quay trở lại.

Sau này hồi tưởng chuyện cũ, Lương Võ ế tự soạn văn bia như sau:

Hỡi ôi!
Thấy như chẳng thấy
Gặp như chẳng gặp
ối mặt như chẳng đối mặt
Xưa đâu nay đâu
Oán bấy hận bấy . . .

Tại sao mà đến nỗi vua Lương Võ ế mang hận như vậy?

ó là vì nhà vua không phân biệt được giữa phước đức hữu lậu do làm việc thiện sẽ được hưởng phước báo trong vòng nhân quả tương đối và công đức vô lậu do tu hành có công năng vượt qua được dòng sông sinh tử. Vì sự hiểu lầm này mà nhà vua coi trọng vấn đề bố thí làm phước, tưởng như thế là đã đủ trên con đường tu hành, mà không quan tâm đến vấn đề tu chứng.

Về phần ngài Bồ Đề Đạt Ma, ngài là một thiền sư đắc đạo, ngài dạy điều cốt tủy, thuộc về Phật thừa.

Ngài dạy người tu để giác ngộ thành Phật. Cho nên Lương Võ Đế không hiểu được ngài.


Tuệ Đăng


:smile: