Mẫu Tính Trong Văn Hóa Việt
http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/thanhoc/mucluc.htm
Mẫu Tính Trong Văn Hóa Việt
The Metaphysical Principle of Maternity in Vietnamese Culture
Giáo Sư Trần Văn oàn, ại Học Quốc Gia ài Loan
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Dâng Về Hiền Mẫu!
Dulcis Mater mea!
Bản Tóm Lược
Luận văn sau đây nhằm tìm hiểu lối suy tư Việt dựa trên nguyên lý mẫu tính. Lối suy tư mẫu tính tức lối tư duy theo một quy luật xây trên tầm quan trọng của các yếu tố sinh, dưỡng, dục, và lạc (lạc thú).
Bài này phân thành ba phần chính. Phần thứ nhất đặt lại vấn đề của bản sắc văn hóa Việt. Có phải nền văn hóa này là một nền văn hóa mẫu hệ, nông nghiệp, hay âm tính? Hay đó là một nền văn hóa với một lối tư duy cá biệt mà chúng tôi gọi là lối tư duy theo nguyên lý mẫu tính? ể làm rõ vấn đề, phần thứ hai phân tích các văn bản, dữ kiện hay hiện tượng liên quan tới lối suy tư chung của người Việt về phụ nữ, và về lối suy tư của phụ nữ Việt. Phần thứ ba cố gắng hệ thống hóa kết quả những phân tích trên để tìm ra một nguyên lý chung trong lối suy tư Việt. Nguyên lý này được chúng tôi gọi là nguyên lý mẫu tính trong Việt triết.
Abstract
This paper proposes to understand the Viet-way of thinking as a kind of logic based on the metaphysical principle of maternity. Maternal principle is constructed from practical values and based on the existential order of fundamental factors like life-giving, life-raising, life-forming (educating) and pleasure-generating.
The work consists of three parts: The first part clarifies the still controversial issue of whether Vietnamese culture is matriarchal, agricultural and feminine, or whether it is a culture of a particular essence based on the metaphysical principle of maternity. To argue for the latter, the second part is an exploration of the diverse ways of thinking about the role of woman hidden in popular literature, and in the works of female writers. The last part attempts to discover from these diverse thinkings a common matrix which determines the Viet-way of thinking. This common matrix is identified by us as the metaphysical principle of maternity.
1. Dẫn Nhập: Mẫu Tính, Âm Tính và Nữ Tính
a số những nhà nghiên cứu Việt học đều nhận ra được một đặc tính tất yếu của nền văn hóa Việt, đó là ảnh hưởng tối quan trọng của người phụ nữ trong xã hội Việt. Nhiều giả thuyết đã được đề ra. Giả thuyết thường thấy hơn cả, đó là xã hội Việt cổ đại vốn là một xã hội mẫu hệ. Chỉ từ khi bị văn hóa Nho giáo khống trị, nên mới đổi thành phụ hệ. Tuy bị ảnh hưởng của văn hóa Bắc, nhưng trên căn bản, xã hội Việt vẫn là một xã hội nông nghiệp, nên tầm quan trọng của vai trò của phụ nữ vẫn không phai nhạt bao nhiêu. ể bảo vệ luận đề trên, các nhà nghiên cứu nêu ra chứng tích của những anh hùng dân tộc như hai bà Trưng, bà Triệu, vân vân. Họ cũng chứng minh qua ngữ học, cho thấy là ngôn ngữ Việt vốn xây dựng trên âm tính. Hoặc họ dựa vào thần thoại hay nhân thoại, hay những trang dã sử. Và lẽ dĩ nhiên, họ dựa trên văn bản dân gian như ca dao tục ngữ thường đề cao vai trò của người phụ nữ, hay chế nhạo những bậc nhi quân anh hùng sợ vợ. Những giả thuyết trên, một phần nào đó, hẳn có cơ sở. Tuy vậy, chúng vẫn chưa đủ để chứng minh: (1) xã hội Việt khác với các xã hội khác, bởi lẽ tuyệt đại đa số các xã hội đều theo mẫu hệ vào thuở sơ khai, và tuyệt đại đa số ngôn ngữ đều lấy âm tính để diễn tả sự, vật, người... mang tính chất mềm mỏng, êm đẹp, dịu dàng, vân vân. (2) Tương tự, những giả thuyết trên càng không thể chứng minh được vai trò đặc biệt của phụ nữ trong xã hội Việt. Bởi lẽ một vài người phụ nữ chưa phải, và càng không thể đại biểu cho tất cả giới phụ nữ. Chúng ta không được phép chỉ lấy một vài nhân vật đại biểu để rồi phổ quát thành tất cả. Một lối suy tư như thế không những sai nguyên tắc khoa học, mà còn tạo ra cái nguy hại bóp méo lịch sử. Người ta sẽ đặt nghi vấn về sự chính đáng trong việc chọn lựa một vài phụ nữ đẹp đẽ, tài ba làm đại diện. Tại sao ta không thể lấy một vài người phụ nữ (tai tiếng hay xấu xí) như mụ Tú Bà, Chung Vô Diệm, và coi họ như là đại biểu nữ giới? Tại sao chúng ta không được phép đưa bà Trần Lệ Xuân hay bà Nguyễn Thị Minh Khai ra làm đại biểu cho tất cả nữ giới tại miền Nam hay miền Bắc? Nếu không thể làm như vậy được, thì ta cũng đâu có lý do chỉ chọn một vài phụ nữ anh hùng (như hai bà Trưng, bà Triệu), thông minh tài cán (như oàn Thị iểm, Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương) để đại diện tất cả nữ giới Việt. Chúng ta chỉ có thể nói, hai bà Trưng, bà Triệu là những người góp sức tạo ra (chứ không phải tạo lên) lịch sử Việt. Tuy nhiên, ba Bà, giống như hai cô Giang, Bắc, chỉ là những cá nhân đơn độc, không thể đồng hóa họ với toàn thể nữ giới Việt. Vả lại, nếu cho ba bà là tất cả lịch sử, hay đại diện cho tất cả nữ giới Việt, thì lịch sử của các nền văn hóa khác cũng có thể yêu sách y hệt như thế. Họ cũng có một số phụ nữ tương tự. Các nữ thần Hy lạp như Sophia, Athina, Venus, Hermes, Siren..., thánh Jeanne dArc của Pháp, nữ hoàng Maria-Theresia của Áo, rồi các tiền nhân như bà Nữ Oa, nữ thần Mộc, hay nữ hoàng Võ Tắc Thiên, thái hậu Từ Hi của Trung Hoa đã ảnh hưởng tới lịch sử các nền văn hóa của những nước trên rất nhiều. Nhưng đâu có thể vì thế, mà chúng ta dám cả quyết là các dân tộc trên theo mẫu hệ, hay lối suy tư của họ mang âm tính hay nữ tính. Và nếu quả thật chúng ta có thể coi các kiệt nữ này đại biểu lịch sử của họ, thì lịch sử Việt đâu có khác các lịch sử khác là bao. (3) Thêm vào khó khăn trên, chúng ta còn thấy rằng, lối nhìn dân gian về vai trò của phụ nữ vốn đa chiều, nhiều khi rất mâu thuẫn. Người Việt không nhất thiết chỉ đề cao phụ nữ mà thôi, nhưng cũng thường châm biếm họ. Thí dụ, nếu người Việt có câu "Nhất vợ nhì Trời ba mới tới ta" thì họ cũng có những câu nói khác ngược hẳn lại như:
"àn ông sâu sắc trong đời,
àn bà cạn xợt như khôi cát lồi."
Hay:
"Cô khoe ăn hiếp được chồng,
ến khi chồng bỏ chổng mông mà gào."
Ý thức được những khó khăn như đã trình bày ở trên, chúng tôi đi theo một lối tiếp cận khác. Thay vì đặt trọng tâm vào vai trò của người phụ nữ, hay về nữ tính hoặc âm tính, chúng tôi đặt lại câu hỏi về lối suy tư của người Việt: người Việt suy tư như thế nào về thế giới của họ, về con người của họ, về cách sống của họ? Có phải họ suy tư theo lối suy tư của nữ giới, theo âm tính, theo nữ tính? Hay là họ suy tư một cách đặc biệt, theo nguyên lý sinh, nguyên lý dưỡng, nguyên lý dục, nguyên lý lạc? Chúng tôi nghiêng về lối suy tư sau. Lối suy tư này đã từng được chúng tôi khai quật phần nào trong Việt Triết Luận Tập và trong các bài viết gần đây. ó chính là lối suy tư mà chúng tôi gọi là lối suy tư mẫu tính. Trong bài viết sau đây, tác giả xin đi sâu hơn vào lối suy tư mẫu tính này. Người viết chủ trương rằng, chính mẫu tính chứ không phải là âm tính (hay nữ tính) mới là bản chất căn bản của Việt tính. ể tránh ngộ nhận, chúng tôi cần minh định nơi đây, đó là mẫu tính đều thấy trong hai tính, cả nam lẫn nữ. Tuy vậy, như chúng tôi sẽ chứng minh, nữ tính, hơn nam tính, càng gần với mẫu tính hơn, bởi lẽ nữ tính có đủ các đặc tính sinh, dưỡng, dục, lạc, vân vân, trong khi nam tính không có trực tiếp sinh, nhưng chỉ có cộng sinh tức tham dự vào sinh mà thôi. Thế nên chỉ khi nhận ra được mẫu tính, chúng ta mới có thể hiểu được lối suy tư Việt, và từ đó, nhận ra được vai trò tối quan trọng của nữ tính trong nền văn hóa Việt, bởi lẽ người phụ nữ Việt càng gần gũi hơn với lối suy tư này. Như vậy, để trả lời câu hỏi về vai trò của người phụ nữ Việt, chúng ta trước hết phải có một cái nhìn về lối suy tư mẫu tính của người Việt.
Bàn về mẫu tính trong văn hóa Việt không phải là một câu chuyện tiếu lâm trong lúc trà dư tửu hậu, song là một luận thuyết rất quan trọng. Chúng tôi ý thức rằng, nếu có thể chứng minh được nền văn hóa Việt xây dựng trên mẫu tính, chúng ta không những có thể hiểu được sự khác biệt (hay xung đột) giữa Việt và ngoại Việt, thí dụ Việt và Hán, Việt và Hoa, Việt và Tây phương, vân vân, mà còn có thể hiểu được cơ cấu, cách thức sống, cũng như thế giới cảm quan của họ. Và như vậy, lối suy tư mẫu tính đòi buộc ta phải phản tỉnh lại tất cả hệ thống, tổ chức, trật tự của xã hội hiện hành, những tổ chức dựa trên phụ tính, tức dựa trên sức mạnh, duy lý, duy trí, và quyền lực. Sự xung khắc giữa mẫu tính và phụ tính có lẽ là nguyên do chính giải thích sự xung đột giữa người phương Nam và người phương Bắc (các huyền thoại Lạc Long Quân - Âu Cơ, Sơn Tinh - Thủy Tinh, Trọng Thủy - Mỵ Châu), giữa yếu tính "cứng" và yếu tính "mềm," "đặc" và "rỗng" như thấy trong trống đồng ông Sơn. Trong bài này, chúng tôi tiếp tục khai thác và phê bình luận đề của triết gia linh mục Kim ịnh (1914-1997) về nguyên lý mẹ và phát triển mẫu tính thành một nguyên lý, giúp ta hiểu bản sắc của nền văn hóa Việt. Theo Kim ịnh, chính cái nguyên lý mẹ này mới xứng đáng mang tên minh triết bởi lẽ nó có đủ khả năng "nối kết hai thái cực lại với nhau."
còn tiếp .. eheheheh