Chữ , nghĩa , văn chương và cuộc đời
(Phát biểu trong Đêm Hội Ngộ Văn Nghệ Sĩ Boston, 10/10/2010)
(Nhà văn Trần Doãn Nho tại Đêm Hội Ngộ VNS Boston, ảnh NguoiVietBoston)
Người ta nói bây giờ là thời kỳ bùng nổ thông tin, thời kỳ của truyền thông, của Internet, báo chí…
Nhưng có một yếu tố cấu thành rất quan trọng mà ít khi người nhắc đến: chữ. Không có thông tin, không có Internet, không có media nếu không có chữ. Ở đâu cũng cần đến chữ.
Hàng ngày, chúng ta sống với chữ. Mọi chuyện trên đời đến với ta đều phải băng qua ngưỡng chữ. Chữ vây hãm chúng ta. Tới trường, học chữ. Tới sở, đọc chữ. Ra phố, nhìn chữ. Vặn máy thu thanh, nghe chữ. Gặp bạn, nói chữ. Tỏ tình, chữ. Chia tay, chữ. Xin việc, chữ. Suy gẫm chuyện đời, chữ. Sáng tác, tìm chữ. Viết tiểu luận, nghĩ chữ. Lên mạng, chạm ngay từng rừng chữ. Trùng trùng điệp điệp chữ, mênh mông chữ!
Nhớ lại lúc người Việt chưa có chữ, phải muợn chữ Hán. Nói thì nói tiếng Việt nhưng viết thì viết chữ Hán. Vô cùng bất tiện. Do đó, có chữ Nôm. Chữ Nôm, tuy có thể ghi lại ngôn ngữ gốc tiếng Việt, nhưng chưa hoàn chỉnh. May mắn thay, những tình cờ lịch sử đã mang lại cho người Việt một thứ chữ viết thuận tiện, nhờ công của mấy nhà truyền giáo.
Chữ phát triển, củng cố và đi đến ổn định bằng một hệ thống ngữ âm, ngữ pháp.
Chữ và lời có liên hệ mật thiết với nhau. Trước ta nói: viết ra chữ, nói ra tiếng. Bây giờ có thể nói: nói ra chữ. Truyền hình Mỹ, trước thì có caption (phụ đề). Bây giờ thì chuyển thành chữ ngay sau khi phát biểu. Điện thoại mới Iphone: nói ra chữ
***
Chữ thì đi liền với nghĩa. Người ta thường nói chữ nghĩa. Muốn hiểu nghĩa, chỉ có việc tra tự điển: mèo, chó, nhà, học, đi, chơi,…Mỗi chữ thường có một nghĩa. Nhưng khi ghép chữ thành câu, thì nghĩa biến đổi. Từng chữ có thể mất đi nghĩa thường có của nó để cấu tạo thành một nghĩa khác, nghĩa mới. Từ một nghĩa đi đến hai, ba nghĩa và nhiều nghĩa hơn. Tự điển đã ghi lại những nghĩa khác nhau đó để ta tùy nghi sử dụng. Nhờ chuyên chở nghĩa, chữ sớm trở thành một quyền lực. Cũng như đồng tiền vậy, chỉ là một mảnh giấy, nhưng một tờ giấy đầy quyền lực. Người Mỹ nói: Money talks. Bằng chữ, người ta có thể sai khiến, cầu xin, tỏ tình, lừa dối…Nghĩa là có thể làm biến đổi cuộc đời.
Như thế, càng đi sâu vào thế giới chữ, ta thấy chữ không chỉ dính với một nghĩa nhất định nào đó, mà có thể chuyển nghĩa. Khiến cho đôi khi, ta có cảm tưởng chữ một đàng mà nghĩa một nẻo. Vài ví dụ:
Cửa, một khoảng không gian giữa nhà và bên ngoài: cửa nhà. Từ đó, ta có cửa miệng, cửa động, cửa sông và xa hơn cửa quan, cửa quyền…
Miệng, một bộ phận của thân thể dùng để ăn. Nhưng rồi ta có: miệng giếng, miệng chén, miệng mồm và xa hơn thế, miệng thế gian, miệng tiếng, độc mồm độc miệng…Miệng mà như không phải miệng. Nó chuyển nghĩa.
Chó, một gia súc. Như khi nói chó má, thì nghĩa đã khác. Còn: “Chó đâu chó sủa lỗ không/Chẳng thằng ăn trộm thì ông ăn mày” thì chữ “chó” mang một ý nghĩa hoàn toàn mới.
Ăn, một động tác bỏ thực phẩm vào miệng. Nhưng rồi ta lại có: ăn tiền, ăn vóc học hay, ăn mặc, ăn trên ngồi trốc, ăn quỵt, ăn cướp, ăn nắng, ăn ảnh. Vẫn là “ăn”, nhưng chẳng dính dáng gì đến chuyện “ăn” cả. Theo một cuốn tự điển mới xuất bản, chữ ăn hiện nay có đến 12 nghĩa.
Chữ “đưa” cũng thế. “Đưa” là lấy tay cầm một vật gì chuyền cho một người khác: đưa cái chén, đưa cuốn sách…Thế nhưng: đưa em về dưới mưa, tôi đưa em sang sông, đưa em đi học chẳng hạn, chữ “đưa” chuyển hẳn nghĩa. Đưa là đi cùng với sự bằng lòng (nếu đi cùng nhau mà em không bằng lòng cũng không thể gọi là đưa).
Chẳng thế mà, chữ Cộng Sản dùng khác, có khi hoàn toàn khác chữ của người Quốc Gia dùng. Khi Cộng Sản chiếm miền Nam, người dân miền Nam ai cũng cảm thấy lạ lẫm với những từ hay cụm từ như : khẩn trương, lính thủy đánh bộ, giải phóng, giáo án, hộ khẩu, bao cấp, truy chụp, bức xúc, làm việc, tranh thủ, ổn định chỗ ngồi, sự cố…Lạ, không phải vì họ có chữ mới, mà họ dùng chữ theo một cách khác, khiến cho ý nghĩa khác hẳn đi.
Và những giòng chữ như thế này: Nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lộng quyền.. Đây là một đoạn ngắn trích từ bản “cương lĩnh” của đảng Cộng Sản. Nghe thì rất kêu, nhưng so với thực tế của người dân sống với Cộng Sản, chúng không những không chứa đựng một ý nghĩa thực sự nào, nếu không muốn nói là vô nghĩa.