>>Suy Ngẫm: “ * Người ta chỉ tạo nên hạnh phúc của mình do việc săn sóc đến hạnh phúc của người khác.
Bernardin De Saint Pierre
„
-
(tiếp theo)
10
Đò… cùng một chuyến !
Quá độ là qua đò !
Thời kỳ quá độ là thời kỳ đang qua đò, do đó phải chấp nhận gian khổ, chớ vội vã đòi hưởng thụ. Nếu hiểu là như thế, thì chuyến đò chúng tôi đang đi đã chất lên đủ mọi hạng người, bất kể thuộc chế độ cũ hay chế độ mới, tàn dư phản động hay cách mạng tiên tiến…..Cái sự qua đò này có phân biệt đối xử với ai đâu ?
Cho nên khi nhìn thấy mấy cô cán bộ lui cui lục tìm cái ấm đun nước, cái quạt để bàn hay cái bàn ủi ở chợ cóc ven đường, hoặc thấy mấy anh bộ đội lếch thếch vác cái khung xe đạp, tay còn đèo thêm vài ổ bánh mì hay con búp bê nhựa, lòng tôi rất ngậm ngùi. Thân phận của họ cũng đâu có hơn gì mọi người trong này. Có khi còn tệ mạt hơn vì tôi đã được nghe kể lại nhiều chuyện khó tin mà có thật trong đời sống của dân chúng miền Bắc, lại ở ngay thủ đô Hà Nội chứ không phải xa xôi gì. Ở đó đã có thời con người sống quá chen chúc chật chội đến nỗi công viên về đêm trở thành nơi hú hí của nhiều đôi nam nữ. Chuyện đó thật ra là bình thường và nó chỉ trở thành bất bình thường khi một cặp đang làm tình bị công an bắt về đồn, lúc khai ra thì họ là hai vợ chồng vì nhà cửa quá chật chội đành phải lấy công viên làm ngôi nhà hạnh phúc.
Những chuyện như thế, dân chúng miền Nam không bao giờ có thể tưởng tượng nổi. Cũng như nhiều người có dịp ra Hà Nội vào những năm cuối thập niên 70 đã không thể tưởng tượng được rằng, khi vào một tiệm cà phê, các chiếc muỗng để khuấy đều có móc xích gắn vào rìa bàn và bất cứ cái muỗng nào cũng đều bị đục cho thủng lỗ. Hỏi ra mới biết đó là cung cách nhà hàng đề phòng thực khách múc một lần quá nhiều đường hay thậm chí còn thủ cái muỗng cho vào túi áo, đem về xài. Như vậy, tôi như giảm thiểu được nhiều nỗi bực dọc trong lòng mỗi khi thiếu thốn. Thôi, tất cả thì cũng đồng hội, đồng thuyền như nhau cả.
Có lần tôi đem những ý nghĩ ấy ra trao đổi với vài bạn đồng nghiệp, người thì cho là cứ dễ tính như thế lại hóa hay, còn hơn là cứ hậm hực, kèn cựa với kẻ có chút lợi lộc hơn mình, vừa không ăn cái giải gì lại có khi mua vạ vào thân. Nhưng một anh bạn đồng nghiệp khác, khá thân thiết của tôi thì lại sâu độc hơn. Anh ta nghe xong thì cười nhếch mép đầy vẻ dè bỉu rồi phán :
- Đúng là lối suy nghĩ của kẻ thấp cơ ! Đã thua thiệt lại còn sĩ diện, muốn quơ lấy lẽ phải để che giấu sự yếu kém của mình.
Tôi cãi :
- Phải trái nỗi gì ! Đó chẳng qua chỉ là chấp nhận một sự thực.
Anh bạn hỏi lại :
- Vậy thì cái sự thực ấy của ông hình thù nó ra làm sao ?
- Thì quá độ là qua đò đó ! Mới đang qua đò thì đời sống còn khó khăn, vất vả. Ai chẳng vậy. Mai mốt sang sông rồi hẳn sẽ khá hơn.
Thế là anh bạn đồng nghiệp của tôi lại ré lên cười. Cười đã, anh ấy mới nói tiếp :
- Ông mà cũng tin cái thứ đò nát sang sông ấy à ? Ái chà chà…thế thì quả thật những cái bánh vẽ kiểu này hãy còn có khối người tin. Mà nói cho ngay, ai cứng đầu không tin thì cứ dí súng vào lưng là cũng xong hết.
Tôi cãi lại:
- Lời hứa hẹn nào chả có tính cách của bánh vẽ. Nhưng hình ảnh “qua đò sang sông” nghe cũng hợp tình, hợp lý đấy chớ ! Đất nước vừa hết chiến tranh, đòi có ngay nhà máy với nông trường sao được.
- Đồng ý hoàn toàn ! Nhưng đánh Tư sản, tịch thu hết nhà cửa, cơ xưởng của người ta rồi bắt đi Kinh tế mới thì sẽ đẻ ra được nhà máy à ? Rồi chủ trương ngăn sông cấm chợ thì đẻ ra được các nông trường sao ? Ông ơi, ông nhá bo bo nhiều quá nên lú lẫn hết rồi !
Tôi ngẫm nghĩ câu nói của anh bạn rồi chợt mỉm cười :
- Cậu đúng, nhưng cũng sai một phần !
Anh bạn ngớ người hỏi :
- Sai ? Sai chỗ nào, chỉ ra coi !
Tôi nói thủng thẳng :
- Đánh Tư sản là đường lối của Lê Duẩn, Lê Đức Thọ. Ngăn sông cấm chợ là lệnh của Đỗ Mười. Mấy ổng đâu có nhá bo bo !
Thế là chúng tôi cùng cười xòa, xí xóa, cảm thông chuyện tranh luận rồi quay qua bàn tán chuyện “ngăn sông cấm chợ”.
Vào hồi đó, để tiêu diệt mầm mống tư sản, lệnh ban ra là nhà nông không được tự ý đem bán sản phẩm của mình như thóc gạo, gà vịt, rau trái..v..v…mà phải để cho Nhà Nước thu mua, tất nhiên là với giá rẻ hơn rất nhiều so với giá cả ở ngoài thị trường. Dân thấy thiệt thòi nên phải lén lút chuyên chở ít gạo, ít thóc, vài kí thịt, dăm chục trứng hay con gà con vịt ra tỉnh bán.
Thế là hàng rào “ngăn sông, cấm chợ” gồm toàn những trạm kiểm soát được dựng lên, nhất là ở những vùng giáp ranh nông thôn với thành thị. Tại các trạm này, Du kích xã, nhân viên thuế vụ tha hồ hống hách, biểu lộ uy quyền. Nhiều bà, nhiều cô bị tốc cả áo, tụt cả quần để khám thịt lậu bó trên người. Bị khám oan cũng có mà bị bắt quả tang cũng nhiều. Lắm bà, lắm cô nom bụng chửa vượt mặt nhưng đè xuống, moi ra cũng chỉ thấy là những tảng thịt độn quanh người. Rồi khi bị phát giác, tịch thu, các bà lăn cả ra đường khóc than thảm thiết, tưởng như bị xẩy thai thứ thiệt thì cũng thảm thê đến thế là cùng.
Trên các sông rạch ở miền Hậu Giang, việc chặn bắt các ghe thuyền chở lúa, gạo lậu cũng hết sức gay gắt, đến nỗi các hộ dân chung nhau chở vài chục kí thóc đi thuê xay cũng phải có giấy chứng nhận của Hợp tác xã hay cơ quan chính quyền. Du kích ở các làng, các xã nhầu nhầu như một lũ ruồi xanh, thoáng thấy bóng ghe thuyền là xách súng kêu lại khám xét. Trên ghe có gạo, dù chỉ là gạo mang đi ăn dài ngày mà không có giấy chứng nhận thì cũng coi như hàng lậu và bị tịch thu.
Chính sách ngăn sông cấm chợ này ảnh hưởng sâu xa đến đời sống của mọi người, mọi tầng lớp dân chúng. Nhiều căn nhà ở Sài Gòn đã thấy biến phòng tắm ngày xưa thành chỗ nuôi gà, nuôi heo. Nhưng nói cho ngay, dân Sài Gòn thì chưa quen thuộc lối chăn nuôi kiểu đó. Hầu hết chủ nhân các nhà này đều là cán bộ miền Bắc mới được điều vào ở. Họ tận dụng không gian, phương tiện để gia tăng thu nhập. Sau nhà thì trồng rau. Bếp núc hay buồng tắm thì co cụm lại để lấy chỗ cho vài con heo nái. Nghĩ cho cùng, như thế cũng còn khá hơn là nhiều nhà ở ngoài Bắc, người ta còn nuôi cả lợn dưới gậm giường.
Nhưng mặc dầu vậy, dân Sài Gòn vẫn chưa quen thuộc được với mùi phân heo tỏa nồng nặc. Chính bà Tổ trưởng dân phố chỗ tôi ở cũng có lần lắc đầu lè lưỡi nói với bà con lối xóm :
- Báo hại cái cửa sổ phòng tắm bên đó lại chĩa qua phía nhà tôi. Ui chao, hôi quá là hôi.
Nhưng dù có kêu ca thì cũng chỉ nói suông vậy thôi. Ai dám đụng đến những công việc “lao động làm ra của cải vật chất”!
Miếng thịt heo vào thời đó thật đã trở nên hiếm hoi, quý giá, chỉ dân nhiều tiền thì mới dám đụng tới. Ở trường tôi đang dạy, tuy số lần lãnh cá thay thế thịt đã nhiều hơn trước, nhưng trong tháng ít ra cũng một, hai lần có thịt heo về. Đấy là do tài ngoại giao, móc nối của Ban Tiếp Liệu nhà trường. Mà một khi đã nói tới chuyện ngoại giao, móc nối thì không có chuyện phân phối đồng đều theo tiêu chuẩn. Nghĩa là chớ đem chuyện công bằng ra để phân bì ai hơn, ai kém, ai có, ai không. Đây cũng là nguyên nhân khiến cho tôi đã phải chứng kiến một cảnh tượng hết sức bất ngờ, tưởng chẳng bao giờ có thể xẩy ra được ở trong một ngôi trường.
Buổi sáng hôm đó là một sáng Chủ Nhật. Học sinh không tới trường nhưng Chi Đội, Chi Đoàn vẫn sinh hoạt. Trong phòng nghỉ của giáo viên lác đác có vài ba thầy cô tới làm việc theo lịch trình của Tổ Lao Động. Riêng tôi thì cần xem lại điểm tổng kết của học sinh trong vài cuốn sổ được lưu giữ tại trường nên sáng hôm ấy cũng có mặt. Qua vài câu chuyện trao đổi với mấy thầy, tôi được biết dưới khu nhà sau, Ban Tiếp Liệu cũng đang bận rộn chia thịt cho các Tổ, ngoài tiêu chuẩn. Tiếng chặt thịt, tiếng bàn tán xôn xao xen lẫn với tiếng cười nói ồn ào khiến cho dù là ngày Chủ Nhật nhưng ngôi trường cũng mang vẻ ồn ào, rộn rã như đang chuẩn bị liên hoan, tiệc tùng.
Bỗng tôi nghe thấy tiếng quát lên thật to :
- Cái đó của tôi….Cái đó của tôi..
Rồi lại có tiếng chân huỳnh huỵch chạy. Tôi vội vã tiến lại phía cửa sổ để nhìn ra sân trường. Phía cuối dẫy hành lang, tôi trông thấy một Thầy đang xách một túi nylon hãy còn dây máu đỏ lòm chạy vội vã lại phía bờ tường, chỗ để xe. Hớt hải chạy theo phía sau là một thầy khác, hai tay vị này vừa khua lên trời và miệng vừa quát tháo :
- Cái đó của tôi… Cái đó của tôi ….Tôi đăng ký rồi…
Để đáp lại tiếng gào thét này, Thầy chạy trước đã phóng lên được yên xe, ném túi thịt vào cái giỏ xe phía trước và cong cổ đạp qua bề ngang của sân trường.
Cũng nhanh nhẹn không kém, thầy chạy sau nhẩy lên một cái xe đạp của ai dựng gần đó và phóng đuổi theo, miệng còn la bải hải :
“Tốp ! Tốp lại! Tốp lại ngay!”.
Vì cổng trường luôn luôn khóa vào ngày Chủ Nhật, việc ra vô phải đi ngách phía sau, nên người đạp xe đằng trước không có lối phóng ra. Thầy đành quành lại phía trong sân trường, cố giữ khoảng cách thật xa với người đuổi theo sau. Cuộc đuổi bắt biến thành một cuộc chạy đua đường vòng. Mà nguyên nhân của cuộc rượt đuổi là khẩu phần của một cuộc chia chác nhu yếu phẩm.
Bây giờ thì tôi nom thấy rõ món gì đang chứa trong túi nylon để ở cái giỏ xe phía trước. Nó là một cái thủ lợn, không to gì lắm nhưng vì túi nhỏ nên lộ hẳn ra bên ngoài một bên vành tai và nửa cái má đã cạo sạch lông nom trắng hếu.
Ngay lúc ấy, mấy học sinh trong Chi đội đang họp cũng túa hết ra ngoài hành lang để nhìn ra sân. Có đứa nói :
- Hai Thầy dạy lớp Sáu tranh nhau cái đầu heo tụi bay ơi !
Nhưng chúng đã bị cô giáo phụ trách bắt quay ngay trở vào. Hầu như không thầy cô nào muốn chứng kiến cái cảnh đau lòng đang xẩy ra. Tôi thì vớ lấy chồng sổ điểm, cố dán mắt vào những con số mà lúc này chúng cứ như nhẩy múa trước mặt. Bên tai tôi như còn vẳng lên tiếng ồn ào ở trong sân. Hình như nhân viên bảo vệ cũng đã bắt đầu can thiệp vào chuyện này.
Họ can thiệp thế nào, tôi không rõ, mà cũng chẳng muốn rõ. Chỉ biết hình ảnh hai người đạp xe đuổi nhau trong sân trường đã ám ảnh tôi rất mạnh mẽ khó có thể nguôi ngoai vì tôi biết cả hai Thầy. Biết không chỉ trong khía cạnh giảng dạy mà tôi còn khá rõ hoàn cảnh riêng tư của mỗi người.
Một thầy tính tình nóng nẩy, dễ dàng to tiếng mỗi khi có chuyện bất bình. Thầy cũng là người ngay thẳng, không ưa khuất tất của ai nhưng cũng không chịu để cho ai qua mặt mình. Trong vụ đáng tiếc này, tôi nghĩ Thầy chính là người đã đăng ký cái thủ lợn trước, đúng như lời Thầy la bải hải lúc chạy theo sau ông bạn đồng nghiệp: “Cái đó của tôi…Cái đó của tôi…Tôi đăng ký rồi…”.
Cứ lý lẽ mà nói, thì thái độ quyết liệt của Thầy không có gì khó hiểu. Trong thời buổi khó khăn này, ai có thì người ấy hưởng! Đã đăng ký và được chấp thuận mua rồi, tức là đã làm mọi thủ tục theo đúng quy định thì đâu có phải là chuyện con phe giữa chợ mà đi xé rào !
Người xé rào, tôi ước đoán rằng Thầy ấy chắc cũng biết là mình sai trái. Chưa làm xong thủ tục giấy tờ thì không thể cứ chen vào mà lấy càn. Nhưng chắc là gặp chuyện ngặt nghèo sao đó nên thầy mới cho bừa cái thủ lợn vào túi rồi rút nhanh, không ngờ bị phát giác nên mới phải bỏ chạy. Trong nhiều năm dạy ở đây, tôi thấy thầy ấy là một con người nhỏ nhẹ, tính tình hơi nhút nhát nhưng cung cách ứng xử với bạn bè thì đâu ra đấy. Chả bao giờ gây chuyện nhố nhăng hay lấn lướt để làm mất lòng ai. Cho nên đầu óc của tôi cứ bị lởn vởn mãi câu “ Sao lại ra cái nông nỗi này ?”.
Mấy ngày sau tôi được nghe một cô giáo nói lại:
- Vợ Thầy ấy bị sản hậu. Rồi lại nghe ông lang nói phải có cái đầu heo nấu cháo tẩm bổ cho người bệnh.
Ngừng một chút, cô giáo lại nói tiếp:
- Tôi nghe nói, bà Hai trong ban Tiếp Liệu đã nháy nhó, đồng ý cho Thầy ấy đem cái thủ lợn đi rồi mà. Chỉ có điều bà ta không rõ là cái thủ này đã có người đăng ký, trả tiền trước rồi. Đến lúc phát hiện ra, bả lại cứ êm rơ, chẳng cải chính cho con người ta lấy một lời. Ngậm miệng ăn tiền nó khổ vậy đó.
Qua ít ngày sau, Thầy chạy theo đòi cái thủ lợn bỗng nhiên vắng mặt. Nghỉ dạy một vài ngày là chuyện bình thường, nhưng trong Tổ chuyên môn, các giáo viên lại có chỉ thị chia nhau giờ dạy thay thế. Mọi người qua đó mới đoán chắc là thầy đã bỏ việc.
Thầy đi đâu, làm gì, gia đình ra sao chẳng ai hay biết, mà Ban Giám Hiệu cũng chẳng nêu thắc mắc. Nhưng các giáo viên thì vẫn xì xào lúc rảnh rỗi. Có tin đồn là thầy bỏ dạy học để theo xe tải buôn bán chui dọc theo con đường xuyên Bắc Nam. Lại cũng có tin cho rằng Thầy đã xuống miền Hậu Giang để tìm đường đi vượt biên. Đặc biệt là chẳng thấy ai bàn tán gì về cái nguyên do tại sao thầy tự nhiên lại bỏ trường mà ra đi mau chóng như thế. Cứ theo lời xì xào của mọi người thì hầu như ai cũng mặc nhiên đồng tình chia sẻ cái quyết định vội vã bỏ trường mà đi của thầy, sau vụ đầu heo xẩy ra. Dù ai phải hay ai trái thì riêng cái sự rượt nhau trong sân trường vì cái thủ lợn cũng đủ làm cho con người nhà giáo của cả hai bên đều phải đột quỵ mất rồi.
Còn về bà vợ thầy giáo bị bệnh sản hậu, cũng chỉ vài tuần sau thì có tin bà qua đời. Chúng tôi có ngấm ngầm quyên góp nhau giúp thầy làm đám tang đơn giản, nhưng chẳng ai giúp gì được cho thầy về mặt tâm thần. Một đứa con còn đỏ hỏn trong nôi, một con bé mới chập chững biết đi và đang bi bô tập nói, đó là trách nhiệm mà thầy còn phải gánh vác. Nhưng sao mặt mũi của thầy bây giờ cứ ngu ngơ như người mắc bệnh tâm thần. Thầy cũng không còn tới lớp dạy học nữa. Còn dạy gì được khi mà đứng cúng cơm trước tấm ảnh vợ đặt trên sạp gỗ, có lúc thầy tự nhiên cười nói vu vơ. Nghe đâu bên nhà vợ của thầy ở dưới tỉnh đã lên tìm, nhận trông nom hai đứa nhỏ. Còn sau này chính thầy ra sao, thật tình chúng tôi không hề hay biết.
Nếp sinh hoạt trong trường cứ tiếp diễn theo ngày tháng trôi qua, cho dù đời sống bên ngoài cứ mỗi lúc một thêm khó khăn hơn. Hóa ra chuyện vào biên chế, đồng lương có tăng nhưng nào có giúp được gì khi vật giá ngoài thị trường cứ tăng vùn vụt, trong khi nhu yếu phẩm dành cho công nhân viên thì cứ ngày một nhỏ giọt, teo tóp đi.
Đời sống khó khăn, lại không thấy có ánh sáng cuối đường hầm, tất tinh thần sinh dao động. Chuyện “phấn đấu” để thành đối tượng trước hiện ra ráo riết, nay cũng trở nên lơi là . Bằng cớ là mỗi khi họp, nhà trường kêu gọi thầy cô tình nguyện làm thêm việc gì đó, chẳng còn ai chịu giơ tay sốt sắng như trước. Tệ đến nỗi chuyện tình nguyện trở thành nhiệm vụ phải phân công, để rồi lại bốc thăm coi anh nào xui xẻo.
Cái sự bốc thăm, nghĩ cũng có nhiều kỷ niệm đáng ghi nhớ. Lần đầu tiên Tổ chuyên môn của tôi phải bốc thăm là để xem ai bị rơi vào giờ phụ đạo nhằm đúng chiều Thứ Bẩy.
Hãy còn quen cái thói phong lưu hồi trước, chúng tôi thường coi các buổi chiều Thứ Bẩy là chiều đi dạo phố, đi coi ciné, đi giải trí sau suốt một tuần miệt mài với sách vở. Thế mà nay cái thú thần tiên ấy bị xâm phạm. Đành là phải …bốc thăm thôi ! Tôi còn nhớ hình ảnh cô giáo môn Sinh Vật cứ cười ngặt nghẽo khi xé trang giấy trắng ở tập vở để ghi tên từng người. Cô có ý nghĩ như mình chỉ đang tham dự một trò chơi của con nít, na ná như kiểu chúng nó hay chơi “oẳn tù tì”, bởi cả đời đi dạy, có bao giờ phải …bốc thăm !
Ấy thế mà riết rồi, chuyện bốc thăm đã trở thành quen thuộc như cơm bữa.
Đi họp nghe phổ biến về chuyên môn ở Phòng Giáo Dục Quận, bốc thăm coi ai phải đi để đại diện cho Tổ của mình.
Có mít tinh biểu tình để biểu dương một ngày lễ lớn do Quận hay Thành tổ chức, lại bốc thăm coi ai phụ trách việc dẫn học sinh đi tham dự.
Rồi chai xì dầu, chai nước mắm, thậm chí đến cả chai bia có khi cũng chung nhau cứ hai người một chai. Vậy phải bốc thăm chứ biết làm sao, chả lẽ đem chai nước mắm ra mái hiên trường san xẻ vào chai, lóng ngóng có khi mùi khắm sẽ bay theo vào tận lớp ! Hoặc ngửa cổ tu nửa chai bia thuộc phần mình rồi ngất ngưởng vào lớp thì coi sao tiện. Mà nếu đem xẻ ra ca nhựa chờ về nhà nhâm nhi thì bia đi hết gaz, hết bọt uống còn thú vị gì nữa. Vậy thì lại bốc thăm thôi.
Ấy thế mà cũng có một năm Ban Tiếp Liệu thuộc Công đoàn nhà trường đoan chắc với các thầy cô là “Tết năm nay phân phối đồng đều, khỏi có chuyện bốc thăm !”. Cũng là một chuyện lạ để thành một đề tài bàn tán, có người thì tán dương ban Tiếp Liệu móc ngoặc giỏi, có người thì lại cho rằng bên đằng vợ ông Hiệu trưởng có người vừa được đề bạt một chức vụ gì cao cấp bên Thành Ủy. Nhưng dù thế nào thì khi nghe tin, ai nấy cũng đều hoan hỉ.
Tết năm ấy tuy chưa gọi là sung túc gì nhưng phần chia nào cũng có nào là bánh tét, bánh quy, kẹo cứng, đậu xanh, bột ngọt, hạt tiêu, nấm mèo, miến…lại có cả thuốc lá Tam Đảo, với chè gói Ba Đình nữa. Các Tổ phải cử người đến tăng cường công tác đong đếm, cân kiếc sao cho được chính xác. Bột ngọt thì 20 gam, hạt tiêu thì 10 gam, miến thì 100 gam. Kẻ cân xong lại hỏi người khác kiểm tra giùm để không thừa không thiếu. Cân xong rồi thì đùn đẩy qua khâu gói ghém. Việc này cũng cần kỹ lưỡng để bảo đảm an toàn lúc mang đi phân phối. Căn phòng được ban Tiếp Liệu chiếm dụng để phân chia nhu yếu phẩm vì thế lúc nào cũng ồn ào tiếng cười nói rộn ràng. Thật đúng là vui như Tết !
Thì ra cái gì thừa mứa, cứ khi cần là có ngay thì không ai thấy quý. Như ngày xưa thì có ai để tâm đến chuyện gói bột ngọt, chai dầu, lon mỡ, hũ đường…nhất là các thầy quanh năm chẳng mấy khi chịu nhón chân bước vào khu bếp núc. Ấy thế mà bây giờ lòng ai cũng thấy vui buồn nổi trôi theo mấy món liệt kê trong bảng “nhu yếu phẩm kỳ này”.
Có thế thì mới hỏi nhau : “Kỳ này có thịt không hay lại chỉ cá?”, hoặc nghiêm trọng hơn : “Nghe nói có 8 cái lốp xe sắp về, thế mà Công đoàn lại đề nghị lấy ra một cặp làm phần thưởng thi đua thì có chết không ! Thế là mất mẹ nó 2 chỉ còn 6 !”.
Cái mối băn khoăn kiểu ấy, bọn chúng tôi đều đã nồng nhiệt chia sẻ, có khi lại còn góp phần bàn tán, chê trách, phàn nàn hay suýt soa tiếc sót.
Nghĩ cho cùng, những tâm tình tủn mủn đó nếu có nẩy sinh thì cũng là chuyện bình thường. Vì chúng tôi đang sống những cuộc đời thường, như tất cả mọi người chung quanh.
Đã thế, chúng tôi còn đang ở chung trên một chuyến đò để cùng sang sông, trong cái thời kỳ mà sách vở cũng như cán bộ vẫn thường gọi là “thời kỳ Quá Độ”!
(còn tiếp
-
(tiếp theo)
11
Nắng Sài Gòn…ai đi mà thấy mát ?
Trải qua mấy kỳ, trường tôi họp để công bố danh sách Giáo viên được biên chế, vậy mà cái tên của tôi vẫn biền biệt.
Cứ mỗi lần ông Hiệu trưởng gấp cuốn sổ lại để kết thúc danh sách đợt này, ông lại nói :
- Các đồng chí chưa có tên thì cứ yên tâm chờ đợt sau. Nhưng phải cố gắng phấn đấu hơn nữa thì rồi thế nào cũng tới lượt.
Lúc giải tán, mọi người xô ghế đứng dậy, kẻ thì vui vẻ ồn ào vì vừa được biên chế, kẻ thì ca cẩm sao mức lương của mình không đạt tới con số mình đã ước tính, đã thấp thỏm chờ đợi. Nó là sáu mươi lăm, hay sáu mươi, cùng lắm là năm mươi tám chứ không phải thứ bốn mươi hai đồng lãng xẹt như vừa công bố.
Sở dĩ mấy con số này được lấy ra làm thước đo là vì nó là những mức lương của người đã được biên chế từ những kỳ trước, căn cứ vào trình độ chuyên môn, vào số năm thâm niên trong ngành và tinh thần phấn đấu phục vụ.
Riêng những vị không được gọi đến tên thì có người cố giữ vẻ mặt thản nhiên, không nói năng gì, có người lại bật cười ngạo nghễ, biểu lộ sự chẳng có gì đáng phải quan tâm. Nhưng phải nói thêm tới cái ấn tượng bứt rứt khó quên nhất trong đầu óc của tôi, đó là phải chứng kiến những nụ cười gượng gạo, đậm vẻ cay đắng, thất vọng thay cho lời phân vua: “ Phấn đấu đến thế mà vẫn chưa đạt tiêu chuẩn sao ?”
Riêng trường hợp của tôi thì tôi hiểu rõ lý do tại sao mình chưa được biên chế. Nó bắt nguồn từ cái vụ năm ngoái, nhà trường bắt các Tổ chuyên môn, mỗi tổ cho ra một tờ bích báo để treo trong hội trường nhân dịp chào mừng một Ngày Lễ Lớn.
Tổ của tôi sau khi nhận được chỉ thị thì cũng họp hành, bàn thảo và phân công viết bài. Nói là viết cho oai vậy thôi, chứ tụi tôi bảo nhau đi cóp nhặt trên báo Nhân Dân, báo Sài Gòn Giải Phóng chỗ này một đoạn, chỗ kia một khúc rồi xào nấu lại cho đủ đầu đuôi, xuông xẻ là xong. Phần bài của ai thì người ấy chép sạch sẽ trên giấy trắng đã cắt đo theo khuôn khổ của cột báo. Tôi chỉ việc gom lại rồi dán lên, tô vẽ kẻ biển thêm vài bông hoa, cánh bướm bằng bút mầu là xong tờ báo.
Một vài cô giáo không có khả năng “bình luận” theo kiểu cóp nhặt kể trên (mà thật ra cũng phải có khiếu mới làm được !) thì viết bài theo kiến thức chuyên môn mình đang dạy, như cô giáo môn Sinh vật thì góp bài “Kinh nghiệm mổ con Cá Chép”, Cô dạy môn Hóa đúng vào dịp đang giảng ở lớp bài chất khí Acêtylen thì góp bài “Đêm đêm thắp đèn Gió Đá đi bán Cháo Sườn – Vậy đèn đó hoạt động ra sao?” . Tờ báo vì thế cũng có mầu sắc muôn mầu muôn vẻ.
Riêng tôi, vì là Tổ trưởng nên ngoài việc thu gom bài vở lại còn phải lo chuyện trình bầy.
Gay go nhất là phần trên cùng của tờ bích báo. Nó vừa mang tên tờ báo, vừa có tính cách phơi bầy trình độ mỹ thuật cũng như biểu lộ giá trị nội dung của tờ báo.
Tên báo thì chúng tôi đã chọn rồi, trong hàng chục cái tên mà các Tổ viên đề nghị : nào Phấn Đấu, nào Kiên Cường, nào Xung Phong, nào Chiến Thắng….v…v…
Trong khi thảo luận, có vị đã kêu lên:
- Báo dán trong nhà trường mà tên gọi chẳng thấy có tí giáo dục nào. Mỹ thì đã cuốn gói từ lâu, vậy thì đòi Xung Phong hay Chiến Thắng với ai…
Ai nấy chợt ngẩn người ra vì cái điều vị ấy nêu ra rất có lý. Hóa ra trong ngần ấy năm tháng sống trong bầu không khí luôn luôn có dịp vang động tiếng trống tiếng kèn, tiếng hoan hô, đả đảo để biểu dương khí thế hay phát động đủ thứ chiến dịch, trong đầu óc của chúng tôi cũng nhiễm phải cái bệnh thích lên gân hùng dũng. Mà bất cứ cái gì cũng đem ra gào to lên thì coi sao được.Thế là một loạt tên mới lại được nêu ra, đậm vẻ nhà trường như : Nhà Giáo, Sân Trường, Bảng Đen, Bục Giảng..v.v…
Nhưng rồi chính tôi lại thấy băn khoăn :
- Sao nghe nó chẳng khác kiểu Tiểu tư sản ngày xưa bao nhiêu. Thời buổi bây giờ nếu thêm được tí mầu sắc lao động thì chắc phù hợp hơn nhiều.
Một cô giáo nghe chừng đã sốt ruột vì phải về sớm trông con, nấu bếp, liền buông ngay một câu :
- Thế thì cứ lấy mẹ nó cái tên là Nguồn Vui, Niềm Vui gì đó cho xong…Chả hay ho gì nhưng khó bắt bẻ.
Tôi vớ ngay được cái ý hay đó liền reo lên:
- Niềm Vui Mới ! Niềm Vui Mới…nghe được không ?
Dĩ nhiên là mọi người đều nhất loạt tán thành. Niềm Vui như cô giáo đề nghị thì chưa đủ. Phải “mới” nữa thì mới đúng quan điểm, lập trường. Cái sự cứ phải che chắn, rào đón này tôi cũng không rõ đã nẩy sinh ra tự bao giờ, nhưng rõ ra là cái nếp suy nghĩ hàng ngày của tôi cũng như của mọi người cứ ngày một thấy khác đi.
Tên đã chọn được rồi, nhưng minh họa được cái “niềm vui mới’ này thì cũng không phải chuyện dễ. Sau có anh bạn góp ý :
- Cần gì cứ phải cầu kỳ bắt buộc minh họa cái vui. Lấy đại hình các vị lãnh tụ đem lên trang trí tờ báo thì nào có ai dám bắt bẻ !
Tôi băn khoăn:
- Đây là một ý kiến hay, nhưng ta chọn các lãnh tụ nào đây ? Bác Hồ, bác Tôn, ông Đồng, ông Duẩn thì đi một nhẽ rồi, nhưng còn ông Trần Văn Trà, ông Văn Tiến Dũng, ông Lê Đức Thọ, ông Võ Nguyên Giáp, biết chọn ai, bỏ ai ?
- Quý hồ tinh bất quý hồ đa ! Đem hết cả những khuôn mặt đó vẽ lên thì hết mẹ nó trang báo. Mình lấy mấy vị “quốc tế” thôi.
- Vậy là những ai ?
- Thì Các Mác này, Lê Nin này, Xít Ta Lin này….Bên Á đông thì có Bác Hồ, lão Mao.
- Dẹp mẹ thằng cha Mao đi. Nó đang dọa cho nước ta một bài học. Tương hình hắn lên có mà Thành Ủy nó cho đoàn viên Thanh Niên tới đốt trường.
Một vị khác cười ngỏn ngoẻn:
- Thôi, cứ đè mấy anh ngỏm rồi cho lên báo là ổn. Các Mác - Lê Nin- Xít Ta Lin, toàn cỡ trùm Cộng sản mà cũng đều ngủ với giun cả rồi đấy.
Nhưng tôi lại thắc mắc :
- Vẽ cái đám ấy thì dễ. Cứ phệt chòm râu xồm vào là nom ai cũng giống hết. Nhưng còn vẽ Bác Hồ thì sai một ly đi một dặm đấy.
Mọi người ngẩn ra nhìn nhau vì mối lo này không phải là không có lý. Mới xẩy ra trong thời gian gần đây là vụ một công ty ấn loát Hợp Doanh in năm chục ngàn tấm chân dung Bác Hồ để phân phối đi các nơi. Nào dè khi đóng gói, công nhân mới phát hiện ra là đã in sai cái tên: “Chân dung Bác Hố Chí Minh” thay vì “Chân dung Bác Hồ Chí Minh”. Hồ mà thành Hố thì chết cả đám rồi !Thế là công ty phải đem hủy bỏ hết, mà cũng không dám in lại tấm hình khác. Lý do:
- Chỉ cần lọt một vài tấm in sai vào cái mớ đã in lại thì tội danh gian dối để phá hoại còn tầy trời hơn nữa. Thôi thà hủy bỏ sáng kiến in ấy đi cho rồi !
Chính vì cái kinh nghiệm này mà tôi thấy rất ngần ngại phải vẽ hình Bác Hồ lên trang báo. Nhưng sau nhiều phút bàn thảo, chúng tôi cũng tìm ra cách giải quyết. Đó là : hình 3 ông Tây kia với những chòm râu xồm xoàm thì cứ vẽ, còn hình Bác thì đặt riêng ở một nơi khác trịnh trọng hơn, lại không phải hình vẽ mà là hình chụp. Chọn hình chụp từ cơ sở nhà in báo Nhân Dân là chắc ăn nhất, sẽ không lo bị bắt bẻ, xuyên tạc.
Thế là tờ báo của Tổ chúng tôi được hoàn tất đúng kỳ hạn và được treo trịnh trọng bên cạnh những tờ của tổ khác, nom chẳng khác một vườn hoa khoe sắc, rất đúng với câu “ Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” (bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh !)
Vậy mà chỉ nội trong ngày hôm sau, tôi đã được nghe lời xì xào:
- Tờ báo có vấn đề !
Tôi vội vã chạy đi tìm hiểu thì mới phát giác ra rằng, bài vở, nội dung tờ báo thì không sao, nhưng hình vẽ trang trí thì quả là mang tai họa. Lại là thứ tai họa tầy trời !
Tôi nhớ lại những giờ cặm cụi trình bầy trang báo. Ở phần quan trọng nhất là phía trên cái tên của tờ báo, tôi đã thận trọng lót giấy than can nguyên con hình của ba ông Các-Mác, Lê Nin, Xít-ta-Lin mà tôi tìm thấy đầy dẫy trên báo chí, tài liệu trong thời kỳ đó. Sau khi can xong, tôi mới lấy bút nỉ tô lên cho đậm nét, khiến nét mặt của cả ba ông đều nom rất nổi. Chẳng hiểu đã nghĩ sao, tôi lại còn đặt cả ba cái chân dung này lên trên một cái nền mầu đỏ tươi, gọi là tô điểm cho ba vị thêm sống động trên mầu sắc của lá cờ Cộng sản, với ngụ ý cả ba ông đều là những lãnh tụ của phong trào Cộng sản trên Thế giới.
Lập trường chính trị “vững chắc” đến thế rồi còn gì ! Ấy thế mà khi tờ báo trưng lên, chẳng bao lâu sau đã có kẻ buông một một câu xanh rờn :
- Tờ báo đã vẽ ba cái đầu lâu trôi trên biển máu !
Ôi trời ôi là trời ! Độc địa quá, mà cũng …đúng quá !!
Quả nhiên bây giờ ngắm lại, tôi thấy rõ ràng mấy cái đầu ông Mác, Ông Lê, Ông Xít đang trôi lềnh bềnh trên biển máu mà trước đây tôi chỉ nghĩ đơn sơ như nó là cái nền đỏ của lá cờ Cộng sản Quốc tế !
Dĩ nhiên là tờ báo cấp tốc bị triệt hạ và tôi bị Ban Giám Hiệu gọi lên chất vấn :
- Thầy cho là các vị lãnh tụ của phong trào Cộng sản quốc tế đã gây nên biển máu à ?
Tôi cãi lại :
- Đó không phải là biển máu mà là nền cờ. Cờ của Đảng CS cũng mang mầu đỏ vậy.
- Nhưng tờ báo có ý thâm hiểm, mượn cái này để nói cái kia.
- Đó là một sự xuyên tạc. Tôi là nhà giáo, không có thói quen dùng thủ đoạn lá mặt lá trái.
- Vậy thầy hãy làm tờ tường trình đi. Trên sẽ xem xét chuyện này cẩn thận.
Thế là tôi đã phải dành ra gần hai tiếng đồng hồ để viết lời khai, kể từ khâu khởi sự cho tới khi tờ báo thành hình. Đặc biệt là về những ý kiến mà Tổ của tôi đã bàn thảo về việc đem những bức chân dung của các lãnh tụ lên trang báo. May quá, vì biết lo xa nên chuyện này chỉ liên hệ tới ba ông ngoại quốc, chứ không dính dáng gì tới nhân vật lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Có lẽ các cấp trên của Ban Giám Hiệu cũng thấy sự sai sót của tôi chỉ là vô tình mà không có ý đồ phản động, nên hình như tôi chỉ phải lãnh một hình phạt nhẹ nhàng, không có sự công bố chính thức: “Hoãn biên chế !”
***
Mang cái án treo từ dạo ấy, tôi không còn chờ đợi có tên của mình trong những đợt biên chế kế tiếp. Vả chăng, ở bên ngoài xã hội thì tình thế có vẻ như ngày càng chộn rộn hơn, khiến những chuyện xẩy ra trong nhà trường cũng trở thành thứ yếu đi.
Sau một thời gian thử lửa tại những vùng cỏ khô, nắng cháy, dân đi Kinh Tế Mới bỏ trốn về nằm ngổn ngang trên khắp các công viên, hay mái hiên vỉa hè thành phố.
Ở trong Chợ Lớn, đám người Việt gốc Hoa ngày càng ra mặt ủng hộ chính phủ Trung Quốc bằng cách chỉ trưng cờ Tầu Cộng và ảnh Mao Trạch Đông trên các cửa tiệm. Đã thế, khi được thông báo phải khai lại lý lịch để nhà nước dễ bề kiểm soát thì họ khai mình là công dân Tầu. Mục đích của họ thì cũng dễ hiểu thôi. Họ muốn tránh né khai báo tài sản để khỏi bị dính vào công cuộc “cải tạo Tư sản” vẫn đang tiến hành ở khắp miền Nam. Ý đồ lộ liễu này đã tạo nên một làn sóng bài Hoa do nhiều cơ quan, đoàn thể của nhà nước phát động, nhất là vào cái lúc Trung Quốc đưa ra lời hăm dọa sẽ cho VN một bài học để đời.
Phong trào vượt biên “chính thức” rồi “bán chính thức” đã khai mào từ chủ trương bài Hoa kể trên. Ở ngoài Bắc thì mọi người Hoa phải rời khỏi VN trên những con thuyền ọp ẹp và được tầu của hải quân VN hướng dẫn ra hải phận quốc tế. Ở trong Nam thì muốn ra đi phải góp vàng đóng cho nhà nước. Như thế được coi là ra đi hợp pháp, khỏi lo mua bến bãi, khỏi lo bị lừa lọc khi vừa ra khơi đã bị công an ùa tới, bắt bớ đem về giam cầm trong khi của cải, tiền bạc mang theo cũng bị lột sạch.
Nhà trường trong những biến chuyển của thời cuộc như thế tất cũng dao động theo. Sĩ số trong nhiều lớp đã sút giảm đi. Có thể vì gia cảnh quá eo hẹp nên học sinh phải bỏ học đi kiếm tiền phụ giúp gia đình. Nhưng phần đông, học trò bỏ học vì đi theo gia đình vượt biên. Thầy Cô giáo, lâu lâu cũng thấy vắng mặt một người. Nhóm bạn quen xì xào với nhau : “ Nó đi rồi ! Chắc đang xuống Rạch Giá”.
Rạch Giá, Cần Thơ, Vũng Tầu, Phước Lễ, Phước Tỉnh …là những địa danh quen thuộc mà nhiều người hay nhắc nhở tới khi nói chuyện vượt biên. Nhưng với nhiều người, kể cả tôi thì chuyện đóng góp mỗi chỗ từ 4, 5 cây đến 9, 10 cây là những chuyện nằm mơ. Một chỉ vàng lận lưng còn không có, nói chi tới chuyện cây cọ. Cho nên trong khi mọi người xầm xì, mách bảo nhau đường dây nọ, đầu mối kia hay bàn tán tin tức chuyện vượt biên, thì tôi vẫn hằng ngày đạp xe dưới cái nắng chói chang đi từ nhà tới trường.
Tuy nhiên chuyện Sài Gòn với những toan tính âm thầm để vượt biên là cả một trường thiên tiểu thuyết bao gồm nhiều chuyện cười đau khóc hận. Nhiều người muốn ra đi nhưng không có điều kiện để ra đi, thế mà rồi cũng không ít kẻ bị lôi cuốn trực tiếp hay gián tiếp vào những toan tính âm thầm kể trên. Vì thế, đây là một lãnh vực có nhiều chuyện kể và hẳn sẽ không ít người kể lại, bao gồm cả chính tôi, khi tôi có dịp.
Nhưng vào lúc này thì Sài Gòn vẫn ngự trị trong tôi như một nơi chốn mà cho đến mãn đời tôi sẽ vẫn chỉ ở đó. Tôi cũng chẳng có mơ ước gì xa xôi sau tất cả những gì mà tôi đã chứng kiến ở nơi trường học. Khi bước ra đường phố để hòa nhập với những người đi lại chung quanh, tôi nhận ra rằng hầu như mỗi ngày thành phố này lại mang thêm một mầu u buồn, ảm đạm hơn. Tôi không diễn tả được cái mầu sắc ấy nó hình dung cụ thể ra sao, nhưng hầu như nó đã làm lộ ra cái vẻ xám xịt mang tính chất nghèo nàn của phố xá. Các cửa hàng trang trí lộng lẫy nay không còn nữa. Quanh tôi chỉ đầy dẫy những gánh hàng bán rong đèo đẹt mấy củ khoai, củ sắn hay vài mớ rau, con cá. Rồi trên hè phố lại thấy xuất hiện nhiều tấm vải bạt trên bầy bán những đồ linh tinh như búa, kìm, bật lửa, đồng hồ hỏng, kính gẫy. Đặc biệt là dưới những gốc cây hay trên hè phố còn xuất hiện mấy hàng sản xuất dép râu bộ đội mà người bán trình bầy công việc sản xuất ngay tại chỗ bằng cách xả thịt những cái vỏ xe hơi cũ kỹ và những cái săm xe đạp. Còn dòng người đông đúc chen chúc nhau hối hả đi lại thì hình như ai cũng mang trong đầu một toan tính gì đó. Có vẻ như họ sẵn sàng đổi thay cái đang có bây giờ lấy một điều nào đó mơ hồ nhưng ắt là phải khác hơn cái hiện tại. Nếp sống, nếp suy nghĩ của dân Sài Gòn bây giờ không còn thiết tha hay gắn bó như trước nữa mà nẩy sinh cái tâm trạng sống qua ngày, sống tạm bợ. Cái nét u buồn, ảm đạm của thành phố phải chăng cũng bắt nguồn từ đó mà ra?
Một đôi khi đạp xe dưới nắng trong đường phố Sài Gòn tôi chợt nghĩ đến mấy câu của nhà thơ Nguyên Sa:
Nắng Sài Gòn, anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Nhưng niềm xúc cảm, bồi hồi vì ý nghĩa hay ho của câu thơ bây giờ không còn gợi lên được điều gì trong tôi nữa. Hóa ra khi thành phố đổi chủ thì nó không chỉ đổi trong luật lệ, trong nếp sống, trong các ngôn ngữ ứng xử hàng ngày mà sẽ còn nhiều thứ khác lụi tàn do chính mình tự đánh mất đi.
Khi hết còn cảm xúc lúc gợi lại một câu thơ hay thì cũng là một sự mất mát chứ sao. Đó là những mất mát khó diễn tả nên thành lời cụ thể. Nó rất mong manh. Nó rất mơ hồ. Nó lại biến đi rất lặng lẽ, mà chỉ trong một khoảnh khắc nào đó mình mới chợt nhận ra là mình đã đánh mất.
Rồi người ta lại thường nói: mất cái này, thì được cái kia.
Nhưng luật bù trừ ấy cũng không áp dụng được ở đây. Tôi nào tìm thấy được đôi chút cảm xúc gì trong những câu thơ đang được ca tụng là rất hay, như câu thơ này:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời Chân lý chói qua tim…..
Có thật cái Chân lý mà ông Tố Hữu ca tụng đã là thứ Chân lý của mọi người chăng ?
Chắc chắn là không !
Bởi Chân lý gì mà lại nẩy nòi những cuộc đấu tố long trời lở đất khiến con tố cha, vợ tố chồng, đạo lý luân thường bị đảo ngược hết.
Mà không nói gì xa xôi, chính ngay ở đây, bây giờ, vào cái thời mà chính ông tác giả vốn đã ca tụng cái thứ Chân lý ấy, nay đang cầm trong tay sinh mạng của biết bao nhiêu con người. Ông ra lệnh triệt hạ biết bao nhiêu cơ sở vật chất cũng như tài sản của miền Nam. Chính sách kinh tế của ông đã đầy đọa biết bao nhiêu gia đình, bao nhiêu con người vào vòng khổ ải.
Như vậy cái thứ mặt trời Chân lý của ông chỉ là một thư sản phẩm dối trá như đủ thứ dối trá đang diễn ra trong cái thành phố này và ở ngay cả trong những ngôi trường như ngôi trường tôi đang giảng dạy này.
Niềm ước ao nhen nhúm trong lòng tôi là làm sao mình đi được cho thoát cho dù trong túi chẳng có lấy một chỉ vàng để mà lận lưng mỗi khi gặp lúc ngặt nghèo.
(còn tiếp)
-
(tiếp theo)
12
Về những đổi thay…
Nói cho ngay, một thành phố đang được tôn vinh bằng mỹ từ “Hòn ngọc Viễn Đông”, nếu một khi bị xuống cấp tệ hại đến như thế thì cũng phải mất một thời gian dài.
Vào thời điểm cuối tháng Tư-1975, Sài Gòn đã không chìm trong khói lửa như nhiều nơi khác. Một vài quả đạn pháo kích nổ trong sân bay hay bên ngoài thành phố không làm sứt mẻ đi chút nào những dinh cơ tráng lệ, những con đường tình mơ mộng đã được ghi vào nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật mà sự lan tỏa và truyền tụng vẫn còn tiếp tục cho đến bây giờ..
Về mặt tâm thức, ở Sài Gòn cũng như những nơi khác, nhiều người cũng đã thở phào khi thấy cuộc chiến triền miên, vô vọng nay đã chấm dứt. Tính sổ ra thì kẻ thắng, người thua dẫu sao cũng đều là đồng bào ruột thịt cả. Vậy tại sao khi tiếng súng đã im rồi, cả hai phía lại không rũ bỏ hết những hàng rào ngăn cách do cuộc chiến đã dựng lên để cùng nắm lấy tay nhau mà xây dựng lại đất nước. Người yêu nước thương nòi, hẳn ai mà không nghĩ thế.
Vì vậy, trong giờ phút lịch sử đã sang trang, dân chúng khắp mọi nơi gần như đã đổ hết ra đường phố để chứng kiến giây phút lịch sử, giây phút người Việt Nam không còn cầm súng bắn giết nhau, không còn bị những thế lực ngoại bang thúc ép để tiếp tục cuộc chiến nồi da xáo thịt. Đó là chưa kể, cũng vì tò mò, người dân thành phố muốn nhìn quang cảnh bộ đội tiến vào Sài Gòn, xem “họ” ra sao, nhân dáng, thực lực thế nào, và thái độ cũng như cung cách hành xử của họ trong cương vị của kẻ chiến thắng. Phải nói rõ những tâm trạng ấy để xóa đi cái luận điệu huênh hoang tuyên truyền của báo chí Nhà Nước khi nói rằng tất cả dân chúng Sài Gòn đã đổ hết xuống đường để “hân hoan chào đón đoàn quân tiến vào giải phóng Sài Gòn ra khỏi ách xâm lược Mỹ!”.
Có thể nói, ngoại trừ những kẻ nằm vùng thì dĩ nhiên là mừng vui, hân hoan, còn tuyệt đại đa số dân chúng thì làm gì có ai nôn nao chờ đón quân CS tiến vào Sài Gòn. Chuyện ấy hư thực thế nào, tưởng bây giờ thì cũng đã rõ rành rành ra rồi. Nó cũng đã rõ như cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đội danh nghĩa dân chúng miền Nam nổi dậy cùng với lá cờ khác biệt của nó đã tan xèo như bong bóng mà ngay đến cả nhiều nhân vật chủ chốt của Mặt Trận này cũng phải thấy hụt hẫng, ngỡ ngàng !
Tuy nhiên, chỉ mới một, hai ngày sau 30-4-75, thì đường phố Sài Gòn dĩ nhiên vẫn đỏ rực mầu sắc của hai thứ cờ. Một lá thì nền đỏ, trên có sao vàng, còn một lá thì nền nửa xanh nửa đỏ, giữa cũng có sao vàng. Mãi cho tới lúc này, dân Sài Gòn cũng chưa phân biệt được anh nào là bộ đội đến từ miền Bắc, và anh nào là lính của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Mà cũng chẳng ai cần thấy phải rạch ròi về cái sự ngoắt ngoéo lịch sử này vì dẫu sao thì chế độ miền Nam cũng đã sụp đổ rồi. Các vai trò trên sân khấu chính trị, những chiêu bài, những danh xưng dù tự phát hay được nhào nặn từ miền Bắc xa xôi ….tất cả rồi cũng trôi vào quá khứ.
Lòng dạ mọi người bây giờ chỉ còn thấy phân vân: có thực là mình sẽ không bị phân biệt đối xử hay là sẽ rơi vào cái cảnh “hàng thân lơ láo, phận mình ra sao” mà thôi.
Sáng ngày 1 tháng 5, tôi đạp xe một vòng để quan sát thành phố đang đổi chủ và tình cờ đi ngang qua ngôi trường Nguyễn Bá Tòng ở đường Bùi thị Xuân.
Trong sân trường, tôi thấy người ta tụ tập đông nghẹt, hỏi ra mới biết là dân chúng thuộc khu vực này được lệnh tụ tập để tham dự mít tinh chào mừng Ngày Quốc Tế Lao Động. Vì tổ chức vội vã, nên trong sân trường không có khán đài cho quan khách ngồi tham dự mà cũng chẳng thấy có biểu ngữ giăng ngang chào mừng ngày lễ lớn.
Chen chân sát vào nơi tổ chức, tôi chỉ thấy có mấy toán lố nhố xếp hàng nom không mấy nghiêm chỉnh và về ăn mặc thì nom rõ ra là một lực lượng ô hợp. Kẻ mặc quần dài, người quần đùi, kẻ đi dép, người chân đất. Toàn bộ võ khí thì nom rất thô sơ, hầu hết đều đeo lựu đạn và mang súng trường. Có người lại còn cầm cả gậy tầm vông hay mã tấu nữa. Họ đứng trước một rừng cờ do dân chúng được huy động mang theo. Đám cán bộ cách mạng thì lác đác dăm bẩy người. Họ dễ bị nhận diện do ở chiếc quần dài đen và áo cánh đen, trên cổ có khoác thêm cái khăn rằn ri, biểu tượng của những cán bộ ở R (tức Rừng) về. Lại cũng có cả những viên cán bộ đến từ miền Bắc, đầu đội nón cối, chân đi dép râu và mặc quần áo mầu xanh bộ đội nữa.
Tới giờ khai mạc, tiếng hô Chào cờ vang lên nghe hùng dũng mặc dù chẳng có đến một cái loa phóng thanh phụ trợ. Thế rồi những tiếng hát cất lên. Lời lẽ lộn xộn. Chỗ này hát khác chỗ kia. Như thể:
- Vùng lên, nhân dân Việt Nam anh hùng…
- Giải phóng miền Nam, chúng ta cùng quyết tiến bước…
- Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian!
Những tiếng cất lên loạc choạc ấy bỗng biến bầu không khí đang trang nghiêm trở thành lộn xộn rồi nhốn nháo. Một cán bộ chỉ huy của nhóm nào đó vội vã lớn tiếng ra lệnh :
- Quốc ca ! Quốc ca trước !
Rồi như thấy mặt nhiều người ngớ ra, ông ta lại nhắc nhở:
- Đoàn quân Việt Nam ! Đoàn quân Việt Nam đi sao vàng phấp phới ấy ! ….Không phải Vùng Lên Nhân dân Miền Nam anh hùng…
Vài tiếng hát chưa kịp ngưng, sau lời giải thích bỗng như bị teo lại rồi tắt ngóm. Mọi người còn ngơ ngác nhìn nhau thì viên chỉ huy lại cao giọng :
- Nào ..Một …hai…ba….Đoàn quân Việt Nam đi sao vàng phấp phới ...Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa…Cờ in máu….
Có vài ba tiếng lẻ tẻ phụ họa nhưng phần đông chẳng ai thuộc để hát theo, thậm chí có người còn chưa nghe tới bài hát này lần nào. Cho nên, lệnh hát thì hô lên rồi mà chỉ thấy mấy người ở hàng đầu lí nhí cất tiếng lên, nghe đã rời rạc mà lại còn sai cả điệu nữa. Tôi bỗng mỉm cười, tự nhủ thầm:
- Bài này mình thuộc và còn hát đúng hơn cả cái đám hiện diện ở đây.
Đúng như vậy ! Là dân Hà Nội từ năm 1945, ai chả biết bài Tiến Quân Ca của Văn Cao. Nhưng những du kích ở miền Nam hay ngay cả cánh quân gọi là Chủ Lực Miền hỏi có mấy ai biết đến bài này. Nó đã được giấu biến kể từ khi xuất hiện những cuộc nổi dậy được tô vẽ là do quần chúng tự phát đứng lên đấu tranh để giải phóng miền Nam.
Phải chứng kiến màn chào cờ độc đáo như vừa kể, đầu óc tôi bỗng nẩy sinh một ý tưởng bất ngờ: “Chuyện lợi dụng danh nghĩa thì trong đám lãnh đạo, ai cũng biết rồi. Nhưng Sài Gòn mới giải phóng được đúng có một ngày mà đã toan tính triệt nhau sớm sủa đến vậy sao ?”
Tôi không biết mấy anh chiến sĩ, du kích đứng trong hàng ngũ vừa rồi đã suy nghĩ gì về cái sự thay đổi bài ca, nhưng cứ nhớ đến những vẻ mặt ngỡ ngàng của họ và những tiếng hát lúng búng trong miệng không rõ nên lời, tôi không khỏi thấy ngậm ngùi. Tất cả đều chỉ là những người dân hiền lành chất phác bị xúi giục hay thúc đẩy lao vào cuộc chiến mà thôi.
Cho nên, hẳn họ cũng sẽ ngỡ ngàng khi trong quá khứ họ vẫn chỉ có một bài hát chính thức : “Vùng lên! Nhân dân miền Nam anh hùng! Vùng lên! Xông pha vượt qua bão bùng….” mà họ vẫn thường hùng dũng cất lên trong bao nhiêu năm dài băng rừng, xuyên núi, lao mình vào khói lửa.
Vậy mà bây giờ, chỉ trong khoảnh khắc đã phải đem sổ toẹt hết ! Rồi lập trường có phải thay đổi không, tổ chức ra sao, lãnh đạo thế nào…..tất cả đều thay đổi hết sao? Ôi, niềm tự hào cao ngất và lòng tin tưởng dũng mãnh trong trái tim một con người đâu có phải là thứ hàng hóa vật chất mà dễ đổi thay trong một sớm một chiều.
Sau này tôi lại biết thêm rằng chuyện xẩy ra ở sân trường Nguyễn Bá Tòng bữa hôm ấy chỉ là một sự nôn nóng có tính cục bộ. Việc xóa bỏ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đương nhiên là một nhu cầu có tính sách lược nhưng làm gì thì cũng cần phải có lớp lang, lộ liễu quá sẽ chẳng hay ho gì.
Quả nhiên, chỉ ít lâu sau đó, nào việc tổ chức Hội Nghị Hiệp Thương thống nhất đất nước, nào tổ chức Tổng Tuyển Cử Quốc Hội trên cả nước, nào đổi tên nước thành Cộng Hòa XHCN/VN, nào đổi tên Sài Gòn thành T/P Hồ Chí Minh…v..v..tất cả diễn ra một cách tuần tự, đầy đủ ý nghĩa ngõ hầu êm thắm xóa đi một thực thể vốn đã từng làm chóa mắt biết bao nhiêu chính trị gia khù khờ trên thế giới.
Đến ngay những người trong cuộc, chắc hẳn cũng đã nếm mùi cay đắng của sự ruồng bỏ phũ phàng. Tại một nhà in Hợp Doanh ở đường Phạm Ngũ Lão, tôi đã thấy mấy bà cán bộ phụ nữ có vẻ thuộc thành phần cao cấp thường hay lui tới để lo chăm sóc tờ báo ra hằng tuần lấy tên là tờ Phụ Nữ Giải Phóng, cơ quan của Hội Phụ Nữ Giải Phóng thuộc Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Hẳn họ có biết bao niềm vui sướng và tự hào khi tờ báo trước đây ở trong khu chỉ xuất bản lúi xùi, in ấn xấu xí, cốt ra cho có mặt, nay thì ấn loát đẹp đẽ, phát hành rộng rãi công khai ở Sài Gòn.
Thế nhưng đứa con tinh thần của những chị Bẩy, chị Chín, những vị cán bộ cấp cao ấy cũng chẳng tồn tại được bao lâu. Bởi nó không thể hiện diện cùng một lúc với tờ Phụ Nữ, cơ quan của Hội Phụ Nữ Trung Ương ấn hành ở Hà Nội. Làm gì có chuyện “một quốc gia tồn tại trong một quốc gia được”. Cộng sản là độc quyền ! Các bà, các chị vốn tự hào mình giác ngộ cách mạng, vậy mà có một điều giản dị như thế cũng không nghĩ ra để còn cố vớt vát vài hy vọng hão huyền.
Cho nên tờ báo của các chị đã âm thầm dẹp tiệm sau ngày Bầu cử Quốc Hội Thống Nhất Đất Nước và những con người phụ nữ đầy nhiệt huyết kia, tôi không biết họ đã đi đâu, về đâu. Nhưng chắc số phận của họ cũng sẽ giống như những huyền thoại về đoàn quân tóc dài của Bến Tre đất thép, thành đồng do chị Ba Nguyễn thị Định làm tư lệnh. Mọi tài liệu ca ngợi thành tích, tuyên dương công trạng của các “chiến sĩ gái” trong thời chiến, sau cuộc tổng tuyển cử tất cả cũng đã tan xèo theo mây khói.
***
Nói đến bầu cử, tôi lại nhớ đến cuộc mít tinh lớn lao được tổ chức khoảng giữa năm 1976 để chào mừng kết quả cuộc Tổng Tuyển cử trên cả nước. Hầu như tất cả nhân dân thành phố Sài Gòn đều được huy động tập trung tại đường Thống Nhất để vừa nghe diễn văn vừa tham gia diễu hành.
Học sinh các lớp trong trường của tôi hôm đó cũng phải tham dự và được lệnh của Ban Giám Hiệu tập trung ở trước cổng trường ngay từ sáng sớm, lúc chưa tỏ mặt người. Mỗi trò được phát một lá cờ giấy cầm tay. Dĩ nhiên là chỉ có cờ đỏ sao vàng. Ngoài ra, dẫn đầu mỗi lớp học còn có một tấm biểu ngữ do hai trò giăng ngang, trên có hàng chữ : “Không có gì quý hơn Độc lập, Tự Do”. hay là : “Yêu nước là yêu Chủ Nghĩa Xã Hội”.
Đám giáo viên chúng tôi cũng được cắt cử đi theo để trông nom học trò và giữ trật tự. Con đường Thống Nhất đông nghẹt những người với cờ xí, biển ngữ và những bó hoa cầm tay. Ở xế vườn hoa trước Dinh Độc Lập, phía có đặt những trụ sở của các công ty thì ở ngay sát bờ tường, tôi thấy Ban Tổ Chức đã dựng lên nhiều gian chạy dài, quây kín bằng những tấm cói hay tấm bạt nylon xanh trên có kẻ những chữ bằng vôi bột thật to : “Nhà Đái Nam” , “ Nhà Đái Nữ”.
Phải thức dậy đi biểu tình từ sáng sớm, lại đứng phơi nắng đến xế trưa, cái khoản giải quyết nhu cầu cá nhân dĩ nhiên là rất cần thiết. Tổ chức được nơi giải tỏa như thế cũng đã là chu đáo quá rồi, mặc dù nó vẫn còn có giới hạn. Bởi chỉ đái thôi, không được ỉa. Tôi biết chắc như vậy vì có nhiều nơi nếu cho phép “đủ lệ bộ” thì đã ghi rõ ràng:“ Nhà Đái-Ỉa Nam”, “Nhà Đái-Ỉa Nữ”. Chữ nghĩa cách mạng vừa gọn ghẽ, vừa rạch ròi, giới bình dân tất ai cũng hiểu. Dân Sài Gòn thoạt nghe thì có thấy chối tai, nhưng riết rồi cũng quen đi.
Sau này, dân chúng còn kháo nhau bệnh viện Từ Dũ cũng đã đổi bảng hiệu trở thành “Xưởng Đẻ”. Thoạt nghe tôi đã không tin, nhưng cách tốt nhất để kiểm chứng coi đúng hay sai là phải đi đến tận nơi tìm hiểu. Vì thế tôi đã tạt qua bệnh viện này vài lần, vừa nghe ngóng, vừa hỏi thăm nhưng không có ai xác nhận với tôi là bệnh viện này đã đổi tên cả. Ngay cả cái bảng hiệu chắn ngang trên cổng vào, tôi vẫn thấy cái tên cũ là Bệnh Viện Từ Dũ, với mầu sơn cũ kỹ chưa có dấu vết gì gọi là đã được chỉnh sửa.
Như vậy, “xưởng đẻ” là chuyện bịa đặt, mua vui, cũng có thể là có ý đồ bôi bác. Rồi sau này, vì chờ đợi mãi không thấy cái bảng “Xưởng Đẻ” ấy trương lên thì dư luận lại viện cớ là do dân chúng chống đối dữ quá nên nhà nước bỏ ý định đổi tên. Nhưng lại bịa chuyện nữa ! Làm gì có chuyện cái nhà nước này “sợ dân chống đối” !
Trong quá khứ, còn có biết bao chuyện động trời gấp cả triệu lần như thế mà vẫn được đem thi hành, Đảng và Nhà nước đâu có sợ hãi gì ai ?
Lấy ngay một ví dụ cụ thể. Cũng vào thời gian khoảng cuối năm 1976, các nhà in, các tòa báo, các cơ quan nhà nước được lệnh ban ra là :
“Kể từ nay, mọi dấu gạch nối đặt trong các tên riêng như Hà-Nội, Bắc-Ninh, Hải-Phòng…. đều phải loại bỏ để viết thành Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Phòng. Nhưng đặc biệt dấu gạch nối giữa hai chữ Trường-Chinh thì phải ngoại trừ, nghĩa là khi viết ra thì vẫn phải có gạch nối !”
Trường Chinh là bí danh của ông Đặng Xuân Khu, khi đó (1976) đang là Ủy viên Trung Ương Đảng kiêm Chủ tịch Quốc Hội Thống Nhất, và sau này thăng lên Chủ Tịch Hội Đồng Nhà Nước, rồi Tổng Bí Thư Đảng CSVN thay thế Lê Duẩn khi ông này qua đời.
Mọi thứ tên riêng đều phải thay đổi cách trình bầy, trừ tên một người ! Hỏi có khi nào một con người lại dám có thái độ ngang nhiên và ngạo mạn, ngồi xổm một cách chính thức và công khai lên dư luận cả nước đến như vậy không? Ấy vậy mà báo chí cứ phải răm rắp tuân theo. Cái sự “phong kiến” mà chế độ này muốn đánh đổ thì chính nó lại tỏ ra còn phong kiến hơn ai hết !
Khốn khổ nhất là thợ xếp chữ ở các nhà in trong Nam. Sơ xẩy một chút, bỏ hay không bỏ dấu gạch nối cho đúng quy định, lập tức sẽ có vấn đề ngay, bởi trên đầu của họ vẫn còn bị lơ lửng treo lên bản án có tên là “ tàn dư Mỹ Ngụy”.
***
Nói chuyện ngôn ngữ thì hầu như dân chúng càng sống lâu năm dưới chế độ XHCN thì cung cách vận dụng chữ nghĩa càng mang vẻ sắc bén và cay độc. Cụ thể nhất là cứ nhìn vào con số đông đảo của những người từ miền Bắc kéo vào thăm bà con thân nhân trong Sài Gòn để hàn huyên trăm nghìn nỗi nhớ hay tíu tít chuyện trò. Ngôn ngữ dễ dàng bộc lộ nhất là ở trong những dịp này. Vì thế tôi cũng đã học được nhiều từ ngữ mới hay những cách ví von. Như nghề dạy học, ở trong Nam cùng lắm thì chỉ gọi là “nghề bán cháo phổi”, nhưng ngoài Bắc thì nói là “đem cấu phổi bỏ vào dạ dầy !”. Thật kinh khủng. Chữ nghĩa cụ thể và tàn bạo cứ như những mũi tên phóng thẳng vào tim óc người nghe.
Tôi cho rằng, có lẽ khi con người phải triền miên đương đầu với những nỗi khó khăn trong đời sống thì bản năng của nó sẽ thường trực trỗi dậy để sẵn sàng thích ứng mà tồn tại. Ngôn ngữ sử dụng hàng ngày vì thế cũng phải thích ứng theo.
Buổi mít tinh chào mừng thắng lợi của cuộc Bầu Cử Quốc Hội Thống Nhất vào sáng hôm ấy không xẩy ra “sự cố” đáng tiếc nào. Riêng lớp của tôi, thì “khâu” trật tự tưởng là sẽ không “giản đơn” nhưng lại được các học sinh chấp hành “tốt”. Tinh thần kỷ luật, trật tự rất đáng “biểu dương”. Các Thầy giáo, cô giáo cũng “đảm bảo” thi hành “tốt” nhiệm vụ được giao phó…
Đấy là đại cương nội dung phần báo cáo mà tôi đã phải viết ra để nạp cho Ban Giám Hiệu nhà trường. Xét ra, mới chỉ có chưa đầy một năm làm việc trong vai trò Tổ trưởng Nhóm Lý-Hóa-Sinh mà chữ nghĩa của tôi đã có phần phong phú và “nhuần nhuyễn” thêm ra. Hầu như những từ ngữ mà tôi đã sử dụng khi cần viết bản tường trình, làm biên bản hoặc giáo án, chúng đã có vẻ như trôi tuồn tuột ra khỏi ngòi bút mà không bắt tôi phải nghĩ ngợi gì.
Điều đáng sợ hơn cả là tôi lại biết rõ những gì tôi vừa viết ra chỉ là những chuyện tầm phào đến chính tôi cũng không tin ở nó. Bởi nó không mang bất cứ một tinh thần liên đới trách nhiệm nào của người viết đối với nội dung vừa được chính hắn viết ra. Khi chợt nhận ra điều này (mà bao lâu nay tôi không để ý), tôi bỗng hốt hoảng như một kẻ chợt phát hiện ra rằng mình đang bị lây lan bởi một căn bệnh hiểm nghèo.
Nó thực sự là thứ bệnh gì, tôi không thể nói rõ, nhưng hầu như tôi thấy mình đã bắt đầu ứng xử rất giống với những bà con, họ hàng thân thuộc đến từ miền Bắc. Họ đa phần chẳng có quyền cao chức trọng gì để mà phải gìn giữ, nhưng rõ ràng hầu như ai cũng có một thứ áo giáp sẵn sàng giương ra để phòng thủ. Cái thứ áo giáp này hiện ra thôi thì đủ muôn hình vạn trạng. Gặp ai thì nhìn trước ngó sau. Nói năng thì lập trường chính trị cứ phải cương lên nhiều lần. Chả thế mà dân gian đã có câu : Ngang lưng thì thắt lập trường. Đầu đội chính sách, tay cầm chủ trương. Đặc biệt là những ánh mắt thì cứ đổi thay liên tục khi đang đối diện với một người còn xa lạ, chưa quen. Và dĩ nhiên là đầy dẫy sự dối trá. Tôi không hiểu đấy là sự thể hiện của những tâm trạng lúc nào cũng mang vẻ sợ hãi, bất an hay đó là những thói quen cảnh giác của những người đã bị tiêm nhiễm nhìn đâu cũng thấy kẻ thù?
Có thể là cả hai, nhưng sự sợ hãi có vẻ là điều chính yếu, mà sản phẩm của sợ hãi luôn luôn là sự dối trá thường xuyên.
(còn tiếp)
-
(tiếp theo)
Tôi lại còn nhớ có một lần, một bà cán bộ từ Hà Nội vào tham quan Sài Gòn trong những đợt đầu tiên. Bà ta có tìm tới địa chỉ nhà tôi để trao một lá thư thăm hỏi do thân nhân của tôi từ Hà Nội nhờ bà chuyển tay mang vào. Khi bà ta trở ra Hà Nội, tôi có nhờ mang giùm một đôi vớ còn nguyên trong vỏ bọc nylon để làm quà tặng cho một ông anh của tôi. Bà ta ngại ngần giây lâu rồi nhận lời với điều kiện : Tôi phải mang đôi vớ ra Phường xin giấy xác nhận đó là quà tặng nhờ cầm tay mang đi.
Thực tình, tôi không hề thấy phiền hà gì về chuyện phải mang một đôi vớ ra Phường chầu chực để xin giấy chứng nhận rằng nó là quà để biếu chứ không phải thứ buôn bán gì. Nhưng nghĩ kỹ thì thấy nực cười bởi đây là một chuyện kỳ cục chưa bao giờ xẩy ra ở trong Nam ngày trước. Cứ xem nội dung tấm giấy chứng nhận sau đây thì đủ rõ :
GIẤY CHỨNG NHẬN
Nay chứng nhận : Bà……….là cán bộ thuộc cơ quan……….
Có mang một đôi vớ ngoại, mầu xám, sọc nâu, điểm hoa văn trắng, là quà biếu của ông……..nhờ chuyển ra Hà Nội cho thân nhân là……..hiện ngụ tại địa chỉ……….
Nay chứng thực để đương sự có thể chuyên chở món đồ nói trên. Xin các cơ quan, đoàn thể, tổ chức dành mọi sự dễ dàng cho đương sự.
T.M. Ủy ban Nhân Dân Phường ….Quận…..
Ký tên và đóng dấu
Đòi hỏi điều kiện phải có dấu chứng thực cho một đôi vớ như thế, bà cán bộ đến từ miền Bắc đã hành xử rất đường hoàng, minh bạch, chấp hành rất nghiêm chỉnh đường lối chính sách của nhà nước cũng như lời Bác Hồ dạy là phải cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư.
Chỉ có điều là, khoảng hơn một năm sau, tôi lại được thân nhân ngoài Bắc cho biết là chính bà cán bộ này đã trở nên giầu sụ sau vài chuyến đi công tác trong Sài Gòn !!
***
Nhưng đâu phải ai cũng có cơ hội “làm giầu” như bà cán bộ kể trên. Hầu hết những người tôi quen biết hoặc là họ hàng thân thuộc ở miền Bắc thì đều đang sống một cuộc sống vô cùng vất vả, thiếu thốn. Vợ chồng ly dị nhau rồi mà vẫn phải chia nhau mỗi người nửa cái giường có màn làm bằng vỏ bao đựng bột đem ngăn đôi. Dưới gậm giường nhà nhà đều có một cái khạp được khóa kỹ mà bên trong chỉ chứa có nước máy tiêu dùng. Phải khóa lại vì nhà ở chen chúc, lẫn lộn chung nhau cả chục gia đình, sểnh ra là bị lấy trộm ngay đến cả nước máy. Nước khi đó rất hiếm hoi. Cả phố trông vào có một cái vòi chỉ chảy rỉ rả vào ban đêm. Sáng ra là tắt nước. Phải thức trắng đêm mới đổ đầy một khạp, không khóa nó lại thì có khi một ngày sẽ không có lấy một ngụm nước mà xài.
Như thế thì dân chúng miền Nam có san sẻ ra Bắc những ti-vi, tủ lạnh, quạt máy, đồng hồ, giường tủ, bàn ghế, sa-lông, xe đạp, xe máy.…để bà con ngoài ấy được hưởng đôi chút phương tiện văn minh vật chất thì cũng là sự san sẻ trong tình nghĩa đồng bào. Chẳng nên vì tiếc sót mà ca cẩm : Nam nhận họ, Bắc nhận hàng.
Có một lần tôi hỏi một bà chị họ :
- Ở ngoài Bắc có radio không ?
Bà ấy cười :
- Có chứ !
- Vậy chị có nghe được đài BBC không ?
- Radio một đài, sao nghe được BBC.
Thấy tôi ngạc nhiên không hiểu, chị giải thích :
- Đúng ra nó chỉ là một cái loa hình vuông nom giống cái bánh trưng nhưng mỏng lét. Phía trước có gắn một cái nút. Bật nút lên là có tiếng nói của đài Hà Nội phát ra. Nhà nào cũng có một cái như thế gắn trên tường. Thế chẳng là radio một đài thì là gì !
Tôi mỉm cười, tự nghĩ :
- Thật là một đầu óc kìm kẹp có sáng kiến thần sầu. Vừa rẻ, vừa tiện mà lại dễ bề kiểm soát...
Một xã hội triền miên thiếu thốn như thế, nhưng không bao giờ thiếu những tiếng hát trong trẻo, hồn nhiên của đám mầm non nhi đồng.
Tuổi thơ vốn vô tư, lại thêm các Cô giáo ở Vườn Trẻ, ở Trường Mầm Non, ở trên các chương trình TV dành cho tuổi trẻ luôn luôn sốt sắng dạy dỗ các em hát nhiều bài. Phổ biến nhất là bài :
Đêm qua em mơ gặp Bác Hồ
Râu bác dài tóc Bác bạc phơ
Em âu yếm hôn đôi má bác
Vui bên bác là em múa hát
Hát bài Hồ Chí Minh muôn năm
Có lần tôi vui miệng hỏi thằng Tửu:
- Hồi bé, Tửu có hay hát bài “Đêm qua em mơ gặp Bác Hồ” không ?
Tửu cười :
- Đứa nào mà không quai mồm ra hát thì có mà cô giáo gang họng ra.
- Ơ ! Vậy chớ Tửu có thật ngủ mơ là đã gặp Bác không ?
- Làm gì có đứa nào nằm mơ thấy Bác ! Chúng nó gào lên thế nhưng mà có nghĩ đến Bác bao giờ đâu. Có mà mơ thấy được ăn một cục kẹo thì đúng hơn. Hát thế là hát dối!
- Ấy ! Lỗi đâu phải chúng nó. Cái anh sáng tác bản nhạc với đám Thầy, Cô bắt chúng nó nghêu ngao suốt ngày kìa. Bơm cái dối trá vào đầu con trẻ mà cứ tiếp tục mãi như thế được. Thế là giáo dục ở miền Bắc đấy ư ?
Tửu cười hề hề :
- Thì thế ! Mà nào có ai dở hơi, vẽ chuyện nêu vấn đề ấy ra đâu ! Đụng đến Bác, có mà đi tù.
Nói cho ngay, cái trò bắt con trẻ nói lời “dối trá” không chỉ bắt nguồn từ thời buổi bây giờ, mà nó đã tồn tại ngay từ cái thuở mới khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tháng 9-1945. Vào thời đó, chính bọn trẻ chúng tôi cũng đã nghêu ngao suốt ngày :
Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn chúng em Nhi đồng
Bác chúng em dáng thanh thanh , người cao cao
Bác chúng em mắt như sao…Râu hơi dài…
Có bao giờ chúng tôi được nhìn thấy Bác tận mắt bao giờ đâu mà mô tả kỹ lưỡng như thế, rồi lại còn khẳng định : “Ai yêu Bác hơn chúng em Nhi đồng” nữa. Thế là giả dối ! Trong đầu óc non nớt của chúng tôi hồi đó, đúng ra chỉ có hình ảnh ông bà Nội, ông bà Ngoại là luôn ngự trị trong đầu.
Đã thế lại còn có những câu thơ tệ mạt tới mức giả dối trắng trợn như :
Yêu biết mấy khi nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Sít-ta-lin ….
Nhưng tác giả bài thơ này chắc ngoài ý định dụ dỗ các em nhi đồng hãy nên tôn kính ông Sít-ta-lin ông ta còn muốn gián tiếp ra một chỉ thị : “Mọi người hãy tôn sùng Sit-ta-lin !”. Phụ huynh của đám trẻ vốn là những cái đầu đã có sạn, đã biết bạo lực là gì, nên khi nghe ông trùm Thơ đang ở cương vị hét ra lửa đã mửa ra khói làm những câu Thơ như vậy, tất cũng phải khúm núm bầy tỏ lòng tôn kính ông lãnh tụ ngoại lai kia cho xong chuyện vậy thôi.
Mà chẳng cứ riêng một mình Tố Hữu ! Phải nói cho ngay rằng, ở thời cực thịnh của Đảng CSVN, nhiều ông, bà cầm bút đã cố tình xuyên tạc lịch sử, bóp méo sự thật để tuyên truyền cho những mục tiêu cả ngắn hạn lẫn dài hạn của Nhà Nước. Họ đã chiếm lĩnh dư luận toàn xã hội, đã vo tròn bóp méo biết bao nhiêu sự thật. Tài sản trí tuệ của họ sau một thời gian dài đã tạo nên vô vàn sản phẩm văn nghệ nhớp nhúa mà hiện nay vẫn còn đầy rẫy trong sách vở giáo khoa ở nhà trường hay trong thư viện.
Tôi lại nhớ cái thời Bác Hồ qua Pháp tới 6 tuần lễ trong dịp có Hội nghị Fontainebleau năm 1946, mà ông Phạm văn Đồng là đại biểu của VN. Lũ nhi đồng chúng tôi hồi đó lại cũng đã từng nghêu ngao hát bài “Vắng bác Hồ yêu dấu”, mặc dù chẳng biết Bác đang đi đâu, làm gì, có thật là mình đã nhớ Bác hay không :
Vắng bác Hồ yêu dấu
Lòng bâng khuâng- cháu sầu nhớ nhung
Bác có nhớ cháu không
Từ lúc con chim bằng cất cánh
Lòng thẫn thờ nhìn theo chim kia
Nhẹ cánh khuất trong mây
Quay bước chân trở về …
Chờ mong tháng ngày…
Cái sự gia công tiêm nhiễm vào đầu óc con trẻ những sự kiện chính trị của đời thường, đến khi trưởng thành chúng nhận ra là mình đã bị nhồi nhét những điều giả trá thì e rằng niềm tin của chúng sẽ không những bị thui chột, mà có khi còn làm dấy lên trong đầu óc của chúng sự khinh miệt cả cái môi trường xã hội mà chúng đã lớn lên để rồi có những phản ứng tiêu cực không biết đâu mà lường.
Phải chăng xã hội ngày nay ở VN, trong đám trẻ đã có nhiều tên phá phách, ngổ ngáo, hỗn xược, ngồi xổm lên mọi giá trị đạo đức của cha, anh là hậu quả của sự coi rẻ sự thật và giẫm đạp dễ dàng lên nhân phẩm mà thế hệ cha anh chúng nó thản nhiên thực hiện. Để đến bây giờ, nhìn gương của thế hệ đi trước, chúng cảm thấy nếu có làm những cái gì sai quấy thì cũng chỉ là đi theo vết xe của cha, anh để lại, còn chúng thì hoàn toàn vô can và có quyền phủi tay, vô trách nhiệm..v..v…
Mà căn bệnh trầm kha này cho tới nay cũng đâu đã chấm dứt !
***
Nhân đề cập tới những sự đổi thay thường trực xẩy ra ở chung quanh mình, tôi bỗng nhớ đến một nhân vật vốn là một trong những người đầu tiên đã tới tiếp thu ngôi trường mà tôi đang dạy.
Đó là một thanh niên trạc gần ba mươi, trán cao, mắt sáng, dáng dấp gầy gò, nước da xanh mét, khuôn mặt bủng tái như mầu chì chứng tỏ hãy còn mang trong mình một bệnh sốt rét kinh niên mà chỉ những người ở lâu trong rừng mới mắc phải. Anh tên Thành, nghe nói trước là sinh viên đại học Vạn Hạnh, sau bỏ ra bưng. Khi Cách mạng thành công, anh ta trở về thành và được giới thiệu là người của Thành Ủy tới tiếp thu ngôi trường và có nhiệm vụ điều động sao cho nó có thể chính thức khai giảng được năm học đầu tiên càng sớm càng tốt.
Công việc nhìn có vẻ dễ dàng, vì trường ốc còn nguyên, học sinh sẵn sàng tới lớp, đa phần giáo chức không di tản kịp cũng đã quay trở lại trường tìm một chân đứng thay vì bị Phường, Khóm ở các địa phương đưa lên danh sách những người bị xua đi kinh tế mới.
Nhưng hầu như đã có những cuộc tranh cãi kịch liệt xẩy ra ở đằng sau cánh cửa dành riêng cho văn phòng của Ban Giám Hiệu. Mỗi lần thấy Thành ở đó bước ra, tôi thấy mặt mũi anh bơ phờ, dáng dấp mệt mỏi trong chiếc áo sơ mi nhầu nát bỏ ra ngoài chiếc quần tây dài mầu xám đậm không ủi nếp. Anh lê đôi dép da không quai hậu, nặng nề đi qua chiều dọc của căn phòng dài trước đây vẫn dành làm chỗ tập trung của các nhà giáo trong giờ nghỉ. Thấy mọi người nhìn anh với cặp mắt dò hỏi, anh chỉ nhếch đôi môi khô khan lên cười một cách nhạt nhẽo rồi lẳng lặng bước ra.
Nhiều người đưa mắt nhìn theo, rồi lại quay ra nhìn nhau và xì xào :
- Có chuyện gì thế ?
Một vị có vẻ thông thạo thời thế đã nói :
- Trâu bò húc nhau…coi chừng ruồi muỗi chết !
Hẳn là vị này gợi ý có sự đụng độ giữa các cán bộ ở A vào và ở R ra. Hay nói khác đi, đường lối của miền Bắc có thể đang gây bất mãn cho cán bộ miền Nam
Sau này thì tôi biết thêm được một vài chuyện đã gây nên những cuộc tranh cãi trong thời gian nhà trường chuẩn bị khai giảng năm học đầu tiên ấy. Nào là vấn đề lập danh sách đề nghị lưu dung các giáo chức cũ, giữ ai, bỏ ai, ai còn có vấn đề phải xem xét kỹ khi đã mang danh nghĩa giáo sư “biệt phái”, hai chữ nghe sao mà nó đầy vẻ bí ẩn của loại công tác an ninh, điệp báo. Rồi nào là sách giáo khoa trong thời chế độ cũ, những cuốn nào đề nghị còn tạm xài trong khi chờ Bộ Giáo Dục cho in những sách mới, cuốn nào thì dứt khoát liệng bỏ cho chở đi làm bột giấy. Rồi trong tiến trình sắp xếp nhân sự để hoàn tất mọi cơ cấu nhà trường, lấy ai, gạt bỏ ai trong số người ở thì A vào, người ở thì R ra, người thì thuộc chế độ cũ nhưng có trình độ chuyên môn tổ chức cao ….Mà hình như ai cũng có lời gửi gấm từ “trên” cả, biết làm sao đây ?
Nhưng điều sai lầm lớn nhất mà Thành mắc phải - theo tôi nghĩ - là anh đã quá tự tin vào thành quả mình đã đóng góp cho cách mạng cũng như vào vai trò của mình đã được giao phó lúc chiến tranh chấm dứt.
Anh hồn nhiên với lý tưởng của mình vẫn hằng theo đuổi là “Đoàn kết các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các dân tộc, các đảng phái, các đoàn thể, các tôn giáo và nhân sĩ yêu nước không phân biệt xu hướng chính trị, để đấu tranh lật đổ chế độ tay sai của Mỹ để thực hiện một miền Nam trung lập, dân chủ, hoà bình trước khi tiến tới việc thống nhất Tổ quốc”. Đó là cương lĩnh của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam mà anh đã nghiền ngẫm trước khi bỏ Sài Gòn trốn ra bưng, đi theo Cách mạng.
Khi chiến tranh chấm dứt, anh luôn luôn bầy tỏ với mọi người rằng đã đến lúc ai ai cũng nên xóa bỏ mặc cảm của mình để cùng nhau xắn tay vào công cuộc xây dựng một xã hội mới. Có lần anh nói với tôi :
- Tội ác của chế độ cũ là gây chia rẽ, hận thù. Làm gì có chuyện Việt Cộng khi vào thành thì nhổ hết móng tay của phụ nữ. Thầy sẽ thấy dưới chế độ mới, ai cũng đều có chỗ đứng của mình. Đất nước đã hoang tàn đổ nát quá nhiều rồi, bây giờ thời điểm của xây dựng chứ không phải là của phá hoại.
Thế là vì quá tự tin vào thiện chí trong sáng của mình, anh đã lội ngược dòng mà không hay.
Dù hoàn toàn không đồng ý với anh ở luận điệu “Tội ác của chế độ cũ là gây chia rẽ, hận thù”, nhưng tôi cũng chia sẻ với anh về cái nhìn “Đất nước đã hoang tàn đổ nát quá nhiều rồi, bây giờ thời điểm của xây dựng chứ không phải là của phá hoại”. Chỉ tiếc là, thay vì phải đi động viên, khuyến khích những người thuộc chế độ cũ, thì điều chính yếu là anh cần phải thuyết phục ngay chính những kẻ đang cùng với anh có nhiệm vụ vận hành guồng máy vừa mới tiếp thu được.
Bởi họ đâu có chia sẻ với anh những điều mà anh hằng tâm niệm. Họ tiếp tục đàn áp người của chế độ cũ để trả thù và lợi dụng danh nghĩa trả thù ấy để chiếm đoạt, vơ vét…vào quỹ chung thì ít mà túi riêng thì nhiều. Chỉ riêng việc khi lập biên bản tịch thu những lạng vàng trong cuộc đánh Tư sản, cán bộ chỉ ghi là “Kim loại có mầu vàng” là đủ thấy rõ.
Cho nên, những lời động viên và khuyến khích có tính đi ngược trào lưu của Thành vừa được loan truyền ra thì bỗng nhiên không ai thấy anh lui tới nhà trường nữa. Trước thì chúng tôi tưởng anh ốm đau bệnh hoạn sao đó, sau lại thắc mắc tại sao nhà trường cứ êm ả không nói năng gì về sự vắng mặt của anh. Rồi đùng một hôm Ban Giám Hiệu tổ chức hội họp giáo viên để chính thức giới thiệu viên Hiệu trưởng mới. Bấy giờ thì chúng tôi mới hiểu số phận của anh Thành đã ra sao rồi.
Có thể nói mãi mãi sau này, dù có để tâm dò hỏi, cũng không bao giờ chúng tôi còn nghe được bất cứ tin tức gì của anh nữa, ngoại trừ những lời đồn đoán lúc ban đầu, không được kiểm chứng là anh đã bị đem đi mất tích.
Người thay thế anh như đã tả trong một chương trước, là một tay bộ đội, tuổi trung niên, khi lui tới nhà trường vẫn mặc đồ lính và đeo súng kè kè. Nhân viên Ban Giám Hiệu gọi ông này là “đồng chí Vũ”.
Ông Vũ không đeo quân hàm, nhưng tác phong thì khinh khỉnh với mọi người và sẵn sàng tỏ thái độ hách dịch với đám giáo viên chế độ cũ, như hỏi điều gì cũng nói trống không. Một lần ông ta chỉ vào dàn máy ghi âm khá tối tân đặt trong phòng gắn máy lạnh :
- Cái này là cái gì ? Nó phục vụ chức năng gì trong nhà trường cũ ?
Rồi quát tháo :
- Ai lo quản thủ những thứ này đây ? Sao cứ để máy lạnh chạy cả ngày lẫn đêm không lo tắt bớt lúc không cần đến.
Cũng có nhiều nhân viên cũ có thể đứng ra giải thích đấy. Nhưng ai cũng thấy sợ sệt, mong được yên thân nên không ai dại gì mà cứ ráo riết tranh biện vì lẽ phải. Vì thế, một lệnh của ông Vũ ban ra, bất cứ là thứ lệnh gì, mọi người đều cứ răm tắp tuân theo. Có thể nói, từ ngày ông Vũ được cử về công tác, bầu không khí trong nhà trường cứ như lúc nào cũng bao trùm một vẻ vừa u ám, vừa nặng nề.
Phải chăng ở ngôi trường này, dù là một cơ sở giáo dục, chúng tôi cũng đã bắt đầu ngửi được mùi vị của cái gọi là “chuyên chính vô sản”.
(còn tiếp)
-
(tiếp theo)
13
Có những …..tâm tình !
Thật khó có thể tưởng tượng được rằng nhà trường XHCN sao mà sinh ra lắm tổ chức thế. Mà lại toàn là những tổ chức công khai, có liên hệ tới mọi sinh hoạt trong nhà trường sau ngày Sài Gòn đổi chủ. Chúng đã tuần tự xuất hiện như một thực thể hiển nhiên, không cần thông báo, không cần giới thiệu và ngay cả thành phần nhân sự của mỗi tổ chức ra sao cũng không thấy phổ biến cho mọi người biết.
Mà thực sự cũng chẳng mấy ai cần biết. Vì biết cũng chẳng để làm gì. Ngôi trường này đâu còn là một chỗ thân thương, tha thiết trong tâm tình của mọi người như xưa để ai cũng thấy mình gắn bó nổi trôi theo nó. Bây giờ không yêu, cũng chẳng ghét, mọi người chỉ thấy cần tới nó mà thôi. Bởi ai cũng muốn bám víu vào nó như những kẻ sang sông đắm đò, cố ngoi lên, tìm cách cột thân xác mình vào những mảnh ván vỡ của con thuyền để cho qua cơn hoạn nạn.
Nếu hiểu được như thế thì mới lý giải được tại sao trong những tháng ngày đằng đẵng, các thầy cô nom mệt mỏi trong vẻ mặt nhẫn nhịn, âu sầu mà vẫn phải cố công đạp xe qua nhiều đường phố để tới nhà trường hít thở bầu không khí đe nẹt, dòm ngó, nghi kỵ, một đôi khi còn phải chịu đựng lắng nghe những lời nói hỗn hào, xấc xược.
Nhưng mấy ai hành xử được như Linh Mục kiêm nhà giáo Thanh Lãng.
Ông cũng dạy học, lại làm Trưởng ban Văn Chương Quốc Âm ở đại học Văn Khoa Sài Gòn. Sau 30 tháng 4-1975, chắc sinh hoạt ở đó cũng nhiều trò nhố nhăng lắm nên ông không muốn về trường nữa mà đi làm tàu hủ ở một Hợp tác xã trong Ngã Tư Bẩy Hiền. Vì có quen biết với ông, nên thỉnh thoảng trên đường đạp xe từ Hợp tác xã trở về ông có ghé qua nhà tôi để cho mấy bìa đậu hủ mới ra lò, cầm lên thấy vẫn còn nóng hổi.
Dư luận sau này lên án ông là một kẻ nằm vùng chỉ vì lý do ông là Chủ Tịch Hội Văn Bút, lại nhân danh Văn Bút để can thiệp với chính quyền cho một cây bút nằm vùng đích thực là Vũ Hạnh. Nếu LM Thanh Lãng là một tay nằm vùng thì công trình của ông thực hiện cho phía bên kia hẳn phải nhiều hơn nữa, nhất là sự lũng đoạn tổ chức Văn Bút là một công tác dễ làm. Nhưng thành tích có lợi cho bên kia chỉ có mỗi một chuyện can thiệp đó. Ngoài ra, tuyệt nhiên tôi không thấy có bất cứ một dấu hiệu nào chứng tỏ ông đã phá hoại tổ chức Văn Bút trong cương vị một Chủ tịch nhiều năm trước đó. Theo tôi nghĩ, có thể ông nhẹ dạ, thương người, trọng tình nghĩa đối với người cộng tác lâu năm. Vả chăng, quyết định xin tha cho Vũ Hạnh không phải là một quyết định đơn phương của riêng ông, mà là của cả Ban Chấp Hành. Nếu Ban Chấp Hành không đồng ý thì dù muốn, LM Thanh Lãng cũng không thể đơn phương ra quyết nghị can thiệp nhân danh Văn Bút.
Cho nên, theo tôi nghĩ, là một linh mục, không bị ràng buộc bởi gia đình, ông có điều kiện để hành xử như một kẻ sĩ. Không có ruộng ở nhà quê để về quê đi cầy như cung cách ứng xử của người xưa, thì ông đi làm đậu hủ. Đôi lần ông tạt qua nhà tôi để cho bìa đậu nóng như đã nói ở trên, tôi thấy ông nhìn vợ chồng tôi, và lũ nhỏ nhà tôi bằng đôi mắt tần ngần, xót xa. Tôi hiểu thấu tâm trạng của ông.
Mọi sự đã đổi thay hết rồi, và thời thế này biết có còn được gặp nhau. Cho nên, chúng tôi đã nghĩ rằng bìa đậu ông cho chỉ là phụ, mà điều chính yếu là lâu lâu ông lấy cớ tạt qua để hãy còn nhìn thấy được nhau. Ôi, tấm lòng của một vị Linh mục, kiêm Giáo sư Đại học và Chủ tịch Văn Bút Việt Nam trong nhiều nhiệm kỳ cho đến khi xẩy đàn tan nghé.
Thực tình, tôi cũng theo gương ông để rũ bỏ hết thẩy mà đi theo con đường lao động như thế. Nhưng đa phần chúng tôi, gia cảnh đùm đề, giữa thời buổi mà mọi người đều chung một hoàn cảnh xẩy đàn tan nghé, bạo lực bao vây tứ phía thì thôi, đành là cứ nhắm mắt đưa chân, không thể làm như ông được. Có lẽ chỉ những ai trong cùng cảnh ngộ với tôi lúc đó thì mới có thể cảm thông mà thôi.
***
Trở về chuyện các tổ chức có trong nhà trường. Nói sơ qua về mặt nổi, thì có Ban Giám Hiệu. Bên cạnh Ban Giám Hiệu là Công đoàn Trường. Rồi đến Chi đoàn Thanh Niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Chi Đội Thiếu niên Tiền Phong, Chi Hội Nhà Giáo Yêu Nước, các Tổ Chuyên Môn, các Tổ Lao Động Sản Xuất…..thôi thì đủ mọi thứ cứ rối tinh rối mù chen vào sinh hoạt giảng dạy trong nhà trường, nơi mà xưa kia vẫn sinh hoạt êm đềm, tĩnh mịch. Sự êm đềm, tĩnh mịch đến khiến con người còn chú ý được tới cả những tia nắng le lói lọt qua khe mành hay bình tâm nhìn ngắm những cành lá đu đưa bên ngoài song cửa, đôi khi còn có cả tiếng chim hót líu lo vọng vào lớp học. Cái thời xa xưa ấy bây giờ cũng phải dìm sâu trong tâm tưởng. Nó chẳng hợp thời !
Về mặt phân công thì Công đoàn có nhiệm vụ tham gia vào việc quản lý Nhà trường, phối hợp với Ban Giám Hiệu để vừa chăm lo đời sống vật chất của các giáo viên vừa theo dõi công tác giảng dạy sao cho chủ trương, chính sách của Đảng và nhà Nước được bảo đảm thực hiện tốt. Bên cạnh đó là nhiệm vụ tham gia công việc soạn thảo và giám sát việc tiến hành những quy chế áp dụng trong nhà trường. Như qui chế Chi tiêu Nội bộ, quy chế Thiết lập Hội đồng Thi đua, quy chế tổ chức các phong trào thi đua và những đề nghị khen thưởng, quy chế tiếp thu, bảo quản và sử dụng tài sản của nhà trường thuộc chế độ cũ còn bỏ lại …v..v...
Vì lắm công việc đa đoan như thế, nên Công đoàn nhà trường cũng choán khá nhiều chỗ, đặc biệt là cả một dẫy nhà kho ở cuối hành lang kế bên khu bếp núc cũng đã được vận dụng để làm chỗ tiếp thu và phân phối các loại nhu yếu phẩm dành cho giáo viên và công nhân viên nhà trường.
Người lo việc quản lý cái “khâu” phân phối này là một phụ nữ được Công đoàn Quận phái xuống. Chị trạc tuổi gần 50, da trắng trẻo, thân hình phốp pháp, bận quần thâm, áo cánh nhưng là thứ áo may bằng vải có in hoa với mầu sắc rực rỡ chứ chẳng phải thứ vải ngà ngà của mầu trắng đã ố vàng như nhiều bà, nhiều cô ở đây hay mặc. Chị vui tính, rất hay cười và khi cười thì miệng rộng huếch lên phát ra thứ âm thanh nghe vui vẻ, ròn rã, loại tiếng cười của những người ruột để ngoài da, chẳng có gì để phải giấu giếm.
Chị tên Thu, người miền Nam, nói năng bằng giọng miền Nam rặt. Trước tháng 4-1975 chị vẫn sinh sống ở Sài Gòn, có một quán cơm bình dân mở ở ngay xế Tổng Y Viện Cộng Hòa. Ở nơi này, không ai biết được đấy là một ổ giao liên do chính chị làm chủ chốt.
Một người phổi bò như chị mà lại có thể là dân “Việt Cộng nằm vùng” sao ?
Sau này, có nhiều dịp chuyện trò, chị đã kể:
- Chồng tui đi tập kết từ năm 54. Tui một nách hai con phải làm ăn buôn bán để nuôi chúng chớ ! Trước thì buôn ba thứ linh tinh bậy bạ ngoài chợ để đắp đổi qua ngày. Sau, cái Tổng Y Viện Cộng Hòa dựng lên khang trang, tui mới chen vào một chân bán cơm cho thân nhân người bệnh. Ai ngờ dính luôn tại đó vì khách đông quá trời. Mà toàn vợ lính thôi. Họ nghèo xơ xác mà lắm khi còn lâm vào hoàn cảnh khốn đốn hơn mình.
Chị ngừng một chút như để nén cái mủi lòng cứ như đang tràn lên cổ họng:
- Thầy biết không ! Lắm khi, chồng thì thương tích trầm trọng mới vô, nằm đó. Y tá thì nói bệnh viện hết máu trong kho. Muốn sang máu cho chồng thì phải đi mua. Mà tiền đâu mà mua.
Tôi cũng còn đang phân vân tìm câu trả lời cho câu hỏi của chị, thì chị đã cất giọng hằn học :
- Con bà nó ! Thiếu gì đứa chầu chực rình mò ở ngoài cổng để gạ gẫm muốn có tiền mua bịch máu cho chồng thì cứ đi bán dâm.
Chị ngừng một lát rồi tiếp :
- Tui hận những cảnh đời như thế nên khi được mấy ổng móc nối là tôi chấp thuận liền. Chẳng cứ là tôi đã có chồng đi tập kết. Nó đi từ đời nảo đời nào, chẳng thơ từ lấy một chữ, tôi đâu còn nhớ.
Tôi vui miệng hỏi thêm :
- Vậy bây giờ đất nước thống nhất rồi thì anh chị lại đoàn tụ chớ ?
Chị huếch miệng ra cười :
- Có mà đoàn với con thần đanh đỏ mỏ ! Ở đó mà nói đoàn !
Tôi ngạc nhiên :
- Thế là sao ?
- Còn là sao ! Nó vác vào trong này một con vợ Bắc kỳ rặt, ăn nói chỏng lỏn cứ như mụ nội nhà người ta. Rồi còn nói là “chúng mình cùng ngồi lại với nhau rồi hiệp đồng giải quyết !”. Giải quyết con mẹ gì. Tui ký phứt giấy ly dị, nhưng đòi vẫn giữ con là xong cái một.
- Ảnh chịu chớ ?
- Chịu chớ sao không. Còn mừng nữa là khác. Khỏi lo đèo bòng mà cũng khỏi bị kỷ luật.
Những dịp tôi được nghe chị Thu thổ lộ tâm tình như thế không hiếm. Vì cứ lâu lâu, cô giáo trong Tổ chuyên môn của tôi đáng lẽ phải tới gặp chị để phụ vào công việc điều hành, ghi chép sổ sách thì cô lại bận và nhờ tôi thay thế giùm một bữa. Thế là tôi thu xếp giờ giấc để giúp chị làm những việc chị cần nhờ. Toàn là những chuyện sổ sách thôi. Lâu lâu thì viết một cái văn thư cho một Hợp tác xã đề nghị mua ngoài tiêu chuẩn một, hai món gì đó để phục vụ nào Ngày Kỷ niệm, ngày Phát động một Phong trào, ngày Tổng kết Thi đua, ngày Bồi dưỡng sau một đợt công tác như tham gia Phòng Cháy Chữa Cháy ..v..v…
Vì thế, trong lúc nghỉ ngơi hay chờ đợi nhân viên đi tìm kiếm một hóa đơn hay bảng liệt kê nào đó thì chị lại quay ra trò chuyện với tôi một cách thoải mái. Sẵn dịp, tôi hay nêu những câu hỏi tò mò, như thể :
- Hồi còn nằm vùng thì chị đảm đương những công tác nào ?
Chị Thu đáp :
- Chủ yếu là biến cái quán ăn của tui làm cơ sở giao liên.
- Tức là một cái trạm tiếp nhận võ khí, mìn với lựu đạn trước khi đưa vào thành phố phải không?
Chị trợn mắt :
- Làm gì mà có tới mấy thứ đó ! Cái quán của tui ở ngay xế cổng Y viện, người ta đi lại rần rần, ở đó mà chứa võ khí. Chỉ nhận rồi chuyển giao tin tức thôi.
- Thế thì cũng quá cỡ thợ mộc rồi.
- Mà tui có biết tin tức trời trăng gì đâu. Chỉ nay nhận tấm bánh tét, mai con cá kho, chuyển giao đi mà bên trong ruột nó chứa cái gì tui đâu có biết.
- Các con của chị có tham gia vào những công tác ấy không ?
- Chúng nó còn con nít, biết gì mà tham gia. Với lại tui cũng không muốn cho chúng nó dính vào những thứ công việc này. Cứ phải lo học đi cái đã.
- Ủa ! Các con chị đi học ở nhà trường của chế độ cũ, chị cũng cho đi à ?
- Có gì mà không cho đi. Thầy cô thì cũng như thầy cô bây giờ chớ đâu có gì khác.
- Khác chớ ! Không khác thì sao Cách mạng cứ đòi đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào ?
Chị cười khanh khách :
- Chuyện của mấy ổng, mình xía vô chi cho thêm mệt. Tôi thì tôi vẫn quý các thầy các cô. Thời nào mà chẳng cần tới thầy giáo, cô giáo. Không thầy đố mầy làm nên, xưa ông bà đã nói vậy rồi mà.
Tôi tủm tỉm cười :
- Vậy mà tôi cứ nghĩ chị phải là tay cừ khôi lắm mới được trên giao cho nhiệm vụ này.
Chị chép miệng:
- Ui, cái trò bếp núc, chợ búa thì tui rành. Hồi còn cái quán, một ngày lo bữa ăn cho cả vài trăm cái miệng chớ đâu chỉ dăm bẩy chục người như các thầy ở đây. Mà phân phối cũng đâu có gì nhiều, dăm bữa nửa tháng mới có một kỳ. Mấy ổng biết tui từ ngày đó nên mới điều về đây đấy.
Rồi chị lại hỏi :
- Vậy mấy thầy có kêu ca gì không ?
- Kêu ca chuyện gì ?
- Thì cái khâu phân phối ấy. Thiếu gì thứ để kêu ca. Có điều là tụi tôi cũng đã cố gắng tối đa rồi. Lắm lúc phải vật lộn bên Hợp tác xã mới thu mua tạm đủ xài đó.
Tôi vội nói:
- Tụi tôi thông cảm chớ. Cả nước đang khó khăn mà. Đâu có ai kêu ca gì.
Chị thở dài :
- Các thầy hiểu cho vậy là tốt. Đúng là khó khăn cả nước. Nhưng nói cho ngay, mình đâu có thiên tai bão lụt gì. Khi không mấy ổng cứ hô lên chuyện này chuyện kia rồi làm rối tung cả lên. Bà con kháo nhau là cứ để yên như trước thì mọi sự sẽ êm tuốt.
Tôi vờ ngạc nhiên:
- Ủa ! Lại có chuyện nói năng như vậy à ?
Chị hiếng con mắt về phía tôi, vừa cười nhoẻn vừa hạ thấp giọng:
- Bà con nhân dân đâu có mù. Mà điều biết vậy thôi. Ai mà dám công khai nêu ý kiến. Thôi cứ cầu cho mọi sự bình an, đời sống yên lành, ổn định là tốt rồi.
Như thế là tôi lại biết thêm được một thứ tâm tình nữa của những con người đang đứng trong guồng máy cách mạng. Chị Thu, dưới mắt tôi thì cũng chỉ là một phụ nữ bình dân, dễ dãi, kiến thức hạn hẹp, suy nghĩ nông cạn ít khi ra khỏi những vấn đề nhỏ nhặt trong nếp sống hằng ngày.
Tuy nay thì chị đang được Cách mạng tin dùng, nhưng tôi thấy chị cũng chẳng khác chi hầu hết các bà buôn bán tại các sạp ngoài chợ. Chỉ có điều ngược lại, là họ thì đang bị liệt vào loại vô sản lưu manh, con phe buôn đi bán lại ngoài chợ trời, ngày ngày cứ phải đôn đáo, che đậy giấu giếm hoặc bỏ chạy tán loạn dưới sự ruồng bắt của những công an khu vực.
Rồi sau cuộc đảo lộn coi như một sự đổi đời, sẽ còn không biết bao nhiêu loại tâm tình khác biệt nữa trong những đám người đang chộn rộn ở xã hội bên ngoài kia. Làm sao phân biệt được cái nào là thật, cái nào là giả dối để biết đường, biết lối mà lần đi.
Thật vậy, bởi chính tôi đã trải qua một kinh nghiệm mà mỗi khi nhớ lại vẫn thấy hãi hùng. Hôm đó tôi phải tham dự một cuộc họp do ông Tổ trưởng dân phố triệu tập. Số người hiện diện không nhiều, chỉ khoảng hai chục người. Trừ dăm ba ông cán bộ, số còn lại có vẻ như là dân trí thức có ăn có học đang cư ngụ trong khu nhà quanh đó. Thì ra những người được mới tới cũng là thành phần có chọn lọc. Sau một hồi chuyện vãn về tình hình an ninh khu phố, bỗng một ông cán bộ quơ tờ báo Nhân Dân lên, xoay ngang xoay dọc rồi nói với mọi người:
- Báo chí gì mà chả có tin tức gì hết ráo. Toàn những thứ bình luận tào lao gì đâu.
Một ông khác, người hàng xóm tôi biết rõ chẳng có thành tích cách mạng gì, trước 30-4 còn chạy áp phe, buôn lậu đủ thứ hàng, vậy mà cũng lên giọng nói tiếp ngay :
- Đúng rồi ! Những thứ báo này chỉ đáng vứt vô sọt rác chớ ai mà coi !
Câu tuyên bố xanh rờn của ông ta rơi tõm vào trong sự im lặng cứ mỗi lúc một nặng nề hơn lên. Tôi khẽ liếc nhìn quanh, điểm đủ mặt mọi người với một tâm trạng hồi hộp, lo âu. Thật tình tôi chỉ lo rằng một vị nào đó buột mồm hay ngứa mồm mà hùa theo cái ý kiến chết người kể trên thì đêm nay, hẳn công an sẽ tới nhà gõ cửa, mời đi sớm.
Nhưng may quá, chẳng có ai lên tiếng một câu nào. Thì ra trình độ đề cao cảnh giác của mấy người cùng khu phố với tôi hôm đó cũng đã tới mức thượng thừa.
Sau cùng, mới có một vị nhẩn nha lên tiếng :
- Ông nói làm sao ấy chứ. Báo Nhân Dân có rất nhiều bài giá trị. Mình là dân thành phố mới được giải phóng, cần phải đọc kỹ báo này để học tập đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng với nhà nước chứ. Sao lại nói vứt vô sọt rác !
Chả hiểu ông ấy nói mỉa mai hay nịnh nọt. Nhưng phát biểu được như thế, dù với ý đồ nào thì cũng là thuộc loại cái đầu có sạn !
Nhưng chao ôi ! Chẳng lẽ từ nay con người ta sẽ cứ phải đối đáp với nhau kiểu như vậy mãi hay sao!
(còn tiếp)
-
(tiếp theo)
14
Măng có được mọc thẳng ?
Tháng 8-1945, ở Hà Nội các thiếu niên, nhi đồng đua nhau gia nhập các tổ chức mới vừa thành lập. Ai tuổi dưới 13 thì vô Nhi Đồng Cứu Quốc Hội. Trên tuổi đó thì vô Đoàn Thiếu niên Tiền Phong. Từ 18 trở lên thì gia nhập Tự vệ Thành hay Công an Xung phong. Sinh hoạt ở Thủ Đô vào thời kỳ đó rất nhộn nhịp. Đặc biệt là tiếng kèn, tiếng trống ếch, tiếng phèng la của các đoàn Nhi đồng Cứu quốc luôn luôn rộn rã, dù ai ở khu phố nào cũng đều nghe thấy, có khi đinh tai nhức óc vì phải nghe lũ trẻ tập tành như thế suốt ngày.
Riêng tôi thì cũng trở nên một đoàn viên Nhi đồng do anh tôi đưa vào, khi đó anh tôi đã là một Tự vệ Thành và sau này cũng chiến đấu trong hàng ngũ của Trung đoàn Thủ Đô.
Tôi gia nhập đoàn Ngọc Hồ, chi nhánh của Hội Nhi Đồng Cứu Quốc thuộc khu phố Sinh Từ, thủ đô Hà Nội. Y phục của đoàn là quần soọc mầu xanh lam, áo sơ-mi nâu, đầu đội mũ ca-lô cũng mầu nâu trên có viền xanh lá cây để phân biệt với đoàn Thiếu Niên trên mũ có viền mầu vàng.
Phù hiệu của Nhi đồng Cứu quốc là hình một đọt măng với hàng chữ “Măng Mọc Thẳng”, thể hiện sự trong sáng, hồn nhiên của tuổi thơ luôn sẵn sàng vươn thẳng lên cao không bị những hệ lụy của đời thường làm cho xiên vẹo đi.
Còn bài hát chính thức của Nhi Đồng thì cũng chưa có “5 điều bác Hồ dạy”. Nội dung chỉ là:
“Nhanh bước nhanh nhi đồng theo cờ đỏ sao vàng.
Kìa lời gió ngàn kìa lời sông núi, kìa lời gió ngàn kìa lời sông núi.
Nhắc nhủ em rằng tuy mình đang còn thơ ấu.
Nhưng nhất tâm trật tự, vâng lời, vâng lời người trên.
Tập tành sao thân hình em được nở nang,
Trở nên sau này anh tài hiên ngang.
Ơn nước non, em nguyền dám đâu xa rời.
Em trọn đời “trung” với Việt Nam.”
Sau này, không rõ chính tác giả Phong Nhã hay lệnh truyền từ ai đó mà nội dung bài hát đã bị thay đổi, nhất là 2 câu cuối cùng :
"Ơn nước non, em nguyền dám đâu xa rời. Em trọn đời “trung” với Việt Nam.”,
thì bị đổi thành :
“Em kính yêu, vâng lời nhớ ơn Bác Hồ, yêu hòa bình yêu nước Việt Nam.”
Thì ra ở trong cái xã hội này, những chuyện cho dù đã trở thành sự đã rồi, mà vẫn cứ bị đem ra uốn nắn, chỉnh sửa. Như vậy lịch sử cận đại VN bây giờ, nếu có bị méo mó, xuyên tạc đi thì cũng không có gì đáng phải ngạc nhiên. Mọi thứ đều bị đem ra cắt xén, thêm thắt theo nhu cầu !
Mà vấn đề đặt ra là việc sửa lời của bài hát chính thức kể trên đâu có làm cho nó hay hơn, hoặc có ý nghĩa gì hơn. Thật ra nó chỉ là một sự kiện bắt con nít cũng phải góp phần vỗ tay phụ họa trong cả triệu tiếng vỗ tay, hoan hô phụ họa để sùng bái một cá nhân do nhu cầu chính trị hơn là cho mục tiêu giáo dục Nhi đồng.
Như thế thì “Măng chưa kịp mọc lên” đã bị bẻ cong đi rồi, còn nói chi đến chuyện mọc lên thẳng được nữa.
Trong ngành giáo dục, hẳn nhiều người còn nhớ tới lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu tại lớp học Chính trị dành cho các giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc vào năm 1958. Tại đây, ông Hồ đã trình bầy sự quan trọng về nhiệm vụ của những người thầy giáo trong sự nghiệp giáo dục và nhấn mạnh:
“Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người.”
Câu nói đó tính ra đến nay đã được hơn nửa thế kỷ. Thành quả giáo dục của Nhà Nước VN cũng đã đủ chín mùi để nhìn xem nó đâm hoa, kết trái ra sao.
Dẫu lạc quan cách nào thì nhiều người cũng đã phải công nhận rằng con người ngày nay đã biến dạng so với con người đã được đào luyện trong truyền thống suốt mấy nghìn năm lịch sử.
Con tố cha, vợ tố chồng trong Cải Cách Ruộng đất chẳng phải là một chân dung Việt Nam đã bị bạo lực và giáo dục tuyên truyền CS làm cho méo nát đi sao ?
Trong một xã hội có biết bao nhiêu tài năng bị vùi giập. Con người thì bị dìm xuống mức tận cùng, chỉ biết đấu tranh với bất cứ đối tượng nào để có thể sinh tồn. Thực tế cho thấy người ta đã đấu tranh với cả những đối tượng trong gia đình như ông bà, cha mẹ, anh chị em ruột thịt, rồi qua đến bạn bè, bà con chòm xóm cùng các cá nhân ngoài xã hội. Khi con người đã chỉ nhìn nhau gầm gừ thì sự nghi kỵ, dòm ngó, bóp méo, thổi phồng thậm chí cả bịa đặt, xuyên tạc, tố cáo để tâng công…đều thấy hiển lộ trong đời sống thường trực hàng ngày. Như thế thì xã hội cũng bị biến dạng theo con người.
Chính những người từ Hà Nội đi vào Nam sau năm 75 cũng thú nhận rằng mình đã phải triền miên sống trong một xã hội u mê, rị mọ, “ăn mắm mút giòi” (chữ nghĩa mà người miền Nam chưa bao giờ nghe nói đến)
Nhưng thành quả giáo dục của nhà trường XHCN không chỉ có thế !
Khi nền kinh tế trong nước được Đảng và nhà Nước đổi qua nền Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa thì nó lại làm biến dạng con người đi theo một hướng khác.
Ôi, có bao giờ người phụ nữ Việt Nam phải xếp hàng cho đám đàn ông nước ngoài xăm xoi từng chỗ trên thân thể của mình để hòng được chúng tuyển chọn làm vợ như người ta đã thấy xẩy ra trong suốt những thập niên vừa qua. Đảng đâu rồi ? Nhà nước đâu rồi ? Quốc Hội đâu rồi ? Các bà các cô trong Hội Liên Hiệp Phụ Nữ VN (LHPNVN) đi đâu hết rồi ?
Không, họ vẫn còn cả đó, và vẫn cất lên những lời dối trá.
Như bà Chủ tịch Hội Liên Hiệp Phụ Nữ VN (LHPNVN) Nguyễn Thị Thanh Hòa, ngày 31-10-2011 khi tiếp đoàn đại biểu nước Cộng hòa Venezuela qua thăm Việt Nam, đã nói với bà Mercedes Ponce Delgado, phu nhân Chủ tịch Quốc hội Venezuela rằng:
“Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, vai trò và vị thế của phụ nữ Việt Nam trong xã hội ngày càng được nâng cao”.
Nâng cao cái nỗi gì khi mà cả đám phụ nữ VN ngồi chầu chực như một đám người vô cảm để mong tới lúc được gọi vào cho một lũ đàn ông nước ngoài sờ mó, tuyển chọn.
Họ đã nghĩ gì trong những giờ phút chờ đợi như thế?
Tôi không tin rằng họ làm những chuyện đau lòng như thế chỉ vì lòng ham muốn vật chất của mình. Trên vai họ vào lúc đó là gánh nặng gia đình, là sự học của con cái, là những món nợ chồng chất đè lên cả gia đình sau một thời gian dài vật lộn với đòi sống khó khăn, và bao trùm lên hết cả chính là cái guồng máy cường hào ác bá thời mới bây giờ đã vắt kiệt thành quả lao động của họ để khiến họ đành phải nhắm mắt đưa chân, thôi thì hy sinh thân mình mà cứu lấy người thân thích, ruột thịt.
Cho nên cái đáng nguyền rủa chính là cái xã hội bất nhân bây giờ đã xô đẩy người phụ nữ vào những con đường đau thương như thế.
Mà cũng không thể không nhắc tới bà Chủ tịch LHPNVN với nhân cách chắc cũng đã bị biến dạng. Bởi một con người mà nếu nhân cách không bị biến dạng chắc chắn sẽ không thể muối mặt nói lên những lời như trên. Nó không những đã vừa phỉ nhổ lên chính nhân cách của mình mà còn giẫm đạp lên trên những thân xác tủi nhục của nhiều phụ nữ VN xấu số trong thời đại vẫn còn Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ như hiện nay.
***
Lùi lại cái thời điểm nhiễu nhương của những ngày miền Nam vừa đổi chủ, ở sân trường vào lúc học trò xếp hàng chào cờ trước khi vô lớp, người ta đã thấy lác đác có bóng dáng của những chiếc khăn quàng đỏ do các em học sinh từ miền Bắc mang vào. Học sinh cũ của miền Nam chưa có được ngay cái “vinh dự” ấy. Chúng còn phải thi đua, còn phải phấn đấu, còn phải cật lực tham gia những kế hoạch nhỏ như đi lượm giấy vụn, lượm bao nylon, thu gom bao giấy dầu đựng xi-măng…v..v..cùng là học tập đủ thứ rồi mới được linh đình làm nghi thức đeo khăn. Cái khăn quàng đỏ phút chốc trở thành mục tiêu hàng đầu mà trẻ thơ mong muốn đạt được.
Mà để có điều kiện đeo khăn, chúng chỉ cần chăm chỉ ngoan ngoãn học hành, lễ phép với thầy cô, hiếu đễ với ông bà, cha mẹ, anh chị em thì cũng được đi. Nhưng chuyện không chỉ đơn giản như thế.
Sau này, khi vào lớp học, mấy đứa đeo khăn quàng đỏ cứ chăm chăm rình mò thầy cô lắm khi lộ liễu đến mức khiến cho thầy cô thấy nhột nhạt. Rồi bắt đầu xuất hiện những vụ thầy cô bị chúng tố cáo với Chi Đội, Chi Đoàn trong trường. Nào thầy-cô vô lớp trễ bao nhiêu phút, nào trong giờ giảng thầy-cô đi ra ngoài mấy lần, nào trong khi bài giảng thầy-cô hay nói tới chuyện ngày xưa thế này, ngày xưa thế kia..v..v…
Nhắc lại những điều này, tôi không hề trách cứ những học sinh đã từng làm công việc tố cáo ấy. Chúng chỉ là những mái đầu xanh hồn nhiên, trong sáng. Nghe người lớn xúi giục gì thì làm theo nấy, nhất lại là sự xúi giục đánh trúng vào tâm lý tuổi thơ là thường hay thích làm những chuyện động trời mang tính cách anh hùng nghĩa khí.
Kẻ gây tội ác hủy hoại đầu óc tuổi thơ chính là những bóng ma chập chờn đứng ở phía sau hậu trường sân khấu. Không ai có thể nêu được đích danh tên tuổi của chúng, nhưng dấu vết của chúng thì ai cũng thấy được. Đó là những Nghị Quyết, những Văn Bản, những Quy chế, những Công văn, Chỉ thị được phân phối cho các Ban, Ngành tùy theo từng kế hoạch ba năm, năm năm hay theo diễn tiến của tình hình chính trị, xã hội bên ngoài.
Nội dung những thứ đó đã mang một sức trấn áp vô song, nó bắt con người đầu thì gục xuống, miệng thí câm nín đi, và tâm địa thì cứ mỗi ngày một thêm hèn hạ, nhút nhát. Tất cả đã góp phần làm suy đồi đạo đức xã hội, đã khiến con người trở nên vô lương tâm, vô cảm, sẵn sàng giẫm đạp lên nỗi đau của người khác mà không có chút lòng dạ nào thấy băn khoăn, áy náy. Thật là mỉa mai khi nghĩ tới ba chữ “Quân, Sư, Phụ” ngày xưa, ông Thầy chỉ sau ông Vua và còn để trước cả người Cha sinh ra mình, chứ có đâu mà Thầy giáo bây giờ nem nép chỉ lo học trò rình mò, báo cáo về cuộc sống riêng tư của mình.
Thành quả 50 năm trồng người mà đã đến thế thì cái tai hại của 100 năm sau sẽ còn đưa đất nước đi về đâu?
Nhân nói đến chuyện phấn đấu để được đeo Khăn Quàng Đỏ ở Sài Gòn sau năm 1975, nhiều người hẳn không quên những công cuộc tuyên truyền vận động sôi nổi, liên tục như “bài trừ văn hóa phản động và đồi trụy”, “tham gia xây dựng nền văn hóa mới”, “vận động bà con rời thành phố đi kinh tế mới”..v..v…
Hầu hết thanh niên, sinh viên, học sinh đã được các chính quyền địa phương như Phường, Khóm hay các đoàn thể như Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản HCM, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Mặt trận Tổ quốc... thúc đẩy tích cực tham gia các cuộc vận động này.
Thành quả thu được theo tài liệu sách báo sau này thì chỉ trong hai năm 1975-1977 đã có khoảng 700.000 người hồi hương lập nghiệp hoặc đi xây dựng vùng kinh tế mới ở các huyện ngoại thành và các tỉnh miền Đông.
Năm 1976, lực lượng Thanh niên Xung phong thành phố được thành lập đã lùa hàng vạn thanh niên trai tráng đủ mọi thành phần từ sinh viên học sinh, công nhân lao động, lính chế độ cũ vào công tác khai hoang các vùng kinh tế mới từ đồng bằng lên cao nguyên.
Năm 1979, khi chiến tranh biên giới Tây Nam bùng nổ, nam nữ Thanh niên Xung phong thành phố cũng đã được gửi ra tuyến lửa lo việc cáng thương tải đạn, mà số lượng bị hy sinh không bao giờ được nêu rõ.
Sở dĩ tôi nêu lại một vài con số kể trên là để nhắc đến công tác tuyên truyền mà Nhà Nước phát động mỗi khi có một đợt công tác hay chiến dịch nào đó sắp được thi hành. Bọn học sinh, nhi đồng sinh hoạt trong các Chi Đội, Chi Đoàn, các trường, lớp..v.v..cũng không đứng ra ngoài công cuộc vận động quy mô đó.
Như trong cuộc Cải tạo Tư sản Thương nghiệp trên quy mô toàn miền Nam vào tháng 3-1978, Sài Gòn đã rúng động về những chuyện công an, cảnh sát ùa tới lục soát, niêm phong, tịch thu, bắt bớ tất cả những nhà buôn gọi là có máu mặt.
Đám trẻ góp phần trong công cuộc này là được rỉ tai dò la xem các cơ sở thương mại, các nhà buôn hàng xóm láng giềng hay trong khu phố có tẩu tán tài sản bằng cách lén lút chở đi vào ban đêm hay không, đặc biệt là ngay với cả người trong nhà, hãy ghi nhớ những chỗ ông bà, cha mẹ, chú bác…cất giấu vàng bạc châu báu để báo cáo lại, “nhằm bảo vệ tài sản của nhà nước XHCN”, đoàn thể trong nhà trường đã dạy dỗ trẻ con như thế !
Vào thời điểm đó, nhiều thành tích của tuổi trẻ được tuyên dương và loan truyền. Đã có nhiều dân Tư sản đào hố sau vườn hay nậy gạch trong nhà lên để cất giấu vàng bạc, như có mẹ già một nhà Tư sản vờ nằm ốm rên trên giường khi công an ập vào, dưới gối bà cụ đã nhét đầy những cây vàng để công an không ngờ tới.
Những thủ đoạn che giấu đó đều bị phát giác mà phần lớn là do sự tố cáo của những Đoàn viên hay Đội viên. Không biết sau này khi nhận được những tấm bằng khen, những đứa trẻ này đã nghĩ gì về hai chữ gia đình ? Nhưng dù có nghĩ gì hay không nghĩ thì đấy cũng lại là những bước khởi đầu làm cho những giá trị nhân bản của con người bắt đầu bị băng hoại.
Tuy nhiên có một vụ tố giác của một Đội viên mà sau này dư luận dân Sài Gòn cứ xì xào bàn tán mãi.
Số là có một nhà Tư Sản kia, khi chiến dịch đánh Tư sản được phát động thì trong nhà còn chứa rất nhiều vàng bạc. Bà chủ liền tìm cách tẩu tán tại nhiều nơi trong nhà : như dưới các chậu cây cảnh mỗi chỗ để vài cây vàng, trong xó xỉnh sau vách bếp để một túi có đến vài chục cây nữa, rồi mấy viên gạch được nậy lên ở góc nhà, dưới gậm ghế salon cũng ngụy trang thành chỗ cất giấu.
Ấy thế mà mọi chỗ mọi nơi kể trên đều bị cậu con trai quý mới có 14 tuổi, rình mò rồi đem ghi chép lại hết để lập bản tường trình như đã được căn dặn trước. Khi công an ập vào, moi ra từng chỗ từng nơi, chỗ nào cũng trúng phong phóc, tổng cộng phát hiện được tới hơn 100 cây vàng khiến cho bà chủ nhà gào to lên mấy tiếng “ Con ơi…con giết mẹ rồi ..” rồi quay ra ngất xỉu.
Cái vụ này đã gây chấn động dư luận và được nhiều Chi Đoàn, Chi Đội, Thanh niên các khu phố lấy làm trường hợp điển hình để học tập và noi gương “Dũng sĩ chống Tư sản mại bản”.
Ấy thế rồi bẵng đi một thời gian sau, khi mà dư luận đã nguôi ngoai về việc nguyền rủa thằng con bất hiếu đã đi nghe xúi khôn xúi dại làm hại ngay đến cả gia đình của mình, thì tôi lại được chị Thu, Ban Tiếp liệu Công đoàn, nhân lúc rảnh rỗi, xì ra cho nghe một chuyện động trời :
- Thằng nhỏ đó nó qua mặt cả nước đấy thầy ơi. Mẹ con nhà nó bảo nhau trước rồi. Chỗ nào, cất giấu bao nhiêu cứ đem tố giác ra hết đi. Cán bộ chủ quan, cứ tưởng nắm được hết lưng quần con mẹ tư sản rồi nên không còn tính chuyện khám xét nơi nào khác nữa. Ai có dè đâu, nó giấu trên trần cả lố, còn gấp đôi, gấp ba con số bị mất nữa kìa!
Tôi ngớ người ra :
- Làm sao chị biết được ?
Chị cười tủm tỉm :
- Hai nhỏ nhà tôi ăn giầm nằm giề trên Thành Đoàn, chuyện gì mà chúng nó không biết ! Chỉ có điều là gia đình con mẹ tư sản cùng với thằng nhỏ trốn đi rồi thì cả đám mới trơ mắt ếch hết cả ra thôi.
- Vậy rồi phải xử trí ra sao ?
Chị bật lên cười khanh khách :
- Còn xử với xét gì nữa. Cứ ếm lẹ cho xong. Càng moi ra càng thúi.
Tôi cũng bật cười theo :
- Hèn chi trên bảng thông tin của Chi Đoàn, lâu nay tôi thấy gỡ bỏ cái khẩu hiệu “Học tập theo gương của Đội viên Trần văn Tâm tích cực tham gia công tác Cải tạo Tư sản, Tư Doanh”.
Nhân lúc câu chuyện bắt đầu vui vui, tôi bèn nhìn thẳng vào chị và hỏi :
- Thế còn mấy đứa nhỏ nhà chị. Chúng nó cũng lập được nhiều công chứ?
Chị bỗng đổi giọng sẵng hỏi lại :
- Công gì ?
- Thì tham gia công tác Cải tạo ấy….
Mắt chị chợt long lên:
- Nhà tui không có mả đi làm chuyện báo cáo bà con, thầy à. Tôi đã căn dặn tụi nó, vui chơi đua đòi gì thì cứ việc, nhưng chớ có mà theo đuôi tụi nó làm những chuyện tố giác bà con là không xong được với tôi đâu.
Tôi đáp lời ngay như để làm cho cơn giận của chị nguôi đi :
- Nhất trí ! Tôi nhất trí với chị. Ở ngoài kia khác…Ở trong này khác ! Đâu có khi nào lại đi khuyến khích con nít làm những chuyện bất nhân.
Rồi như chợt nhận ra là mình cũng đang nói năng hớ hênh, tôi mau lẹ kiếm lời thoái thác rồi vội vã tiến ra cửa, chuồn một mạch.
Lòng tự nghĩ : Chính những tấm lòng trong sáng và ngay thẳng đuồn đuột của những người miền Nam như chị Thu thì mới tạo nên điều kiện để cho những đọt măng con cái sau này có thể mọc lên thật thẳng chứ không phải cả một guồng máy giáo dục khổng lồ đang vận chuyển làm nên được chuyện đó!
(còn tiếp)
-
(tiếp theo)
15
Bụi phấn…Bụi trần….
Chỉ không đầy 5 năm, sau khi Nhà Nước Cách mạng thi hành đủ loại biện pháp nhằm mục đích đưa nước nhà tiến mạnh, tiến mau, tiến vững chắc lên Chủ Nghĩa Xã Hội thì Sài Gòn vốn mang tên Hòn ngọc Viễn Đông nay đã trở nên tiều tụy với dân tình nhớn nhác, te tua.
Ở tại trụ sở các Phường, Khóm hồi mới ‘giải phóng”, đám thanh thiếu niên tụ họp suốt ngày để kèn trống om sòm tập tành gọi là văn nghệ nghiệp dư góp phần biểu dương khí thế của nền văn minh đỉnh cao ngang tầm thời đại của loài người. Bản nhạc được cất lên nhiều nhất, ở khắp mọi nơi là bài “ Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”, hay bài “Kết đoàn chúng ta là sức mạnh - Kết đoàn chúng ta là sắt gang.”, rồi bài “Tiếng chầy trên Sóc Bom Bo” cũng rất thịnh hành nữa, nhất là trẻ em trong các xóm thường hay nhắc lại đoạn hát nháy trong bài : Cắc cum cụp cum, cắc cum cum cụp cum…
Ấy vậy mà rồi trống kèn cũng tém dẹp, tiếng hát nhộn nhạo ngày nào đã biệt tăm.
Còn Cắc cum gì nữa khi cái đói đang đe dọa thường trực hằng ngày !
Ngay đến cái loa Phường trước thì ra rả suốt ngày, sau cũng chỉ ọ ẹ mỗi khi Phường cần ra thông cáo nhắc bà con về chuyện “Nhu yếu phẩm” đã về.
Trong một loạt bài viết mang tên “Ký ức thời sổ gạo” xuất hiện trên trang web Tuổi Trẻ, các tác giả Xuân Trung- Quang Thiện- Hàng Chức Nguyên đã có đoạn :
‘Sống giữa Sài Gòn thời ấy, ông giáo Nguyễn Văn Hàng thèm bát cơm trắng và đủ thứ: cây viết trơn tru, tờ giấy trắng, chiếc lốp xe chưa vá, chiếc xích chưa lộn... Hơn 20 năm rồi ông Hàng vẫn còn nhớ cái hôm chiếc xe đạp cà tàng bị banh niền.
Ông mượn cây kim to và sợi cước dài vật lộn với chiếc lốp suốt đêm. Sáng hôm sau, ông đến lớp mà không cầm nổi viên phấn nhưng không biết phải giải thích thế nào với học sinh. Mấy ngón tay nứt toét, sưng lên. Thế mà ông vẫn ngày hai buổi đến lớp.
Năm ấy, vợ ông sinh con đầu lòng. Tiêu chuẩn gạo hằng tháng được 13kg/khẩu, nhưng thường chỉ lĩnh được 3kg, còn lại qui đổi lúc bo bo, lúc bột mì, lúc mì sợi vụn, lúc khoai lang...
Cả tiêu chuẩn gạo của ông giáo Hàng cũng ưu tiên dành cho vợ, mấy tháng trời ông quên mất trên đời còn có món cơm trắng. Còn thịt chỉ là thứ mơ ước.
Một hôm hội đồng giáo viên bỗng nảy ý định biến mơ ước thành hiện thực: nuôi một con heo.
Nhưng bằng cách nào? Cả tập thể nhảy vào bàn bạc và quyết định tập thể cùng nuôi. Con heo được nhốt vào khoảng trống giữa hai dãy phòng học. Ai có thức ăn thừa mang đến, nhưng khổ nỗi người không đủ ăn thì làm gì có thừa cho heo
Nhưng rồi vẫn có: nước vo gạo, ruột cá, gốc rau... Nhưng nước vo gạo thì trong veo, gốc rau thì cụt ngủn. Con heo con thèm cám như trẻ con thèm sữa.
Một học kỳ trôi qua, con heo chẳng lớn được bao nhiêu. Nhưng đến ngày đến tháng hội đồng giáo viên cũng đành xẻ thịt liên hoan. Thế mà buổi liên hoan vẫn linh đình vì có được mấy miếng thịt.
Thầy Hàng bảo nửa năm rồi ông chưa ngửi được mùi thịt. Nuôi heo cực quá, trường thầy Hàng chuyển hướng “đầu tư” nuôi chó. Ông hiệu trưởng “lý luận”: không có gì cho chó ăn thì nó vẫn có thể tự kiếm lấy cái ăn.
Tưởng nói đùa hóa ra ông hiệu trưởng đi xin chó con thật rồi gửi nuôi ở nhà bà cụ trong trường. Thầy cô giáo có canh thừa, cá cặn lại gom góp mang đến cho con chó của tập thể.
Cuộc sống cứ thế trôi. Cây vẫn đơm hoa kết trái. Thầy cô cưới nhau trong cảnh mượn của người này chiếc áo trắng, của người kia chiếc cà vạt. Chén, đũa, ly, đĩa... tập hợp của nhau lại bày cho đủ mâm.
Nói thế cho sang chứ khẩu phần mỗi người ăn cỗ cưới chỉ có một miếng chả giò, một miếng dưa hấu và một quả chôm chôm. Thầy Hàng ra sân trường chặt một cành sứ vào trang trí, quét dọn sơ sơ để biến thành căn phòng... hạnh phúc.
Nhưng chiếc giường quá ọp ẹp, chân gãy tự bao giờ. Một ông thầy bạn thân thầy Hàng vốn khéo tay được tín nhiệm giao chăm chút lại “tổ ấm” cho đôi uyên ương. Chiếc giường đến giờ chót đủ bốn chân. Chú rể cười: xem như xong cái căn bản nhất...
(ngưng trích)
***
Xem ra ngôi trường của thầy giáo Nguyễn văn Hàng tuy cũng ở Sài Gòn, nhưng có mòi thảm thê hơn là ngôi trường mà tôi đang dạy rất nhiều. Bởi Hội đồng Giáo viên chúng tôi chưa phải bàn tính tới chuyện nuôi heo, mà vì thế cũng chưa đến nỗi phải chứng kiến cảnh đau lòng: “Con heo được nhốt vào khoảng trống giữa hai dãy phòng học. Ai có thức ăn thừa mang đến, nhưng khổ nỗi người không đủ ăn thì làm gì có thừa cho heo. Nhưng rồi vẫn có: nước vo gạo, ruột cá, gốc rau... Nhưng nước vo gạo thì trong veo, gốc rau thì cụt ngủn. Con heo con thèm cám như trẻ con thèm sữa.”
Đã thế nuôi heo chẳng có lời, các thầy còn bàn nhau nuôi chó nữa thì mới thật là thê thảm. Tôi đoan chắc vị Hiệu trưởng của ngôi trường mà thầy giáo Hàng đang giảng dạy, khi nêu cái ý kiến này hẳn đã từng đạp xe qua đường Trường Minh Ký, ở đó vào mỗi buổi chiều, mùi chả chó bốc lên ngào ngạt cả một con đường thênh thang dài cả cây số bởi vì hai bền lề đường, tiệm thịt chó mọc lên nhan nhản mà khách lui tới hầu hết là cán bộ ở Bắc vào với túi tiền rủng rẻng.
Nghĩ lại cũng thấy ngậm ngùi cho các nhà giáo ở thời đại này. Trong khi trách nhiệm nặng nề về việc giáo dục con em vẫn đổ lên đầu, lên vai các Thầy các Cô, vậy mà Thầy-Cô lại vẫn còn phải bận tâm chuyện tính toán nuôi heo, nuôi chó trong trường thì tâm trí đâu mà còn cầm phấn đứng trước bảng đen.
Nhưng khi nói ngôi trường của thầy Nguyễn văn Hàng thảm thê hơn ngôi trường mà tôi đang dạy, ý tôi chỉ nhắm vào chuyện nuôi heo, nuôi chó trong trường thôi, chứ tôi không ngụ ý cho rằng đời sống của giáo viên ở trường tôi lại sung túc, no đủ hơn những trường khác.
Làm sao no đủ hơn được khi mà tiêu chuẩn dành cho nhà giáo thì ở nơi nào cũng như nhau. Nếu Thầy giáo Hàng có phải vật lộn với chiếp lốp xe suốt đêm với cây kim to và sợi cước dài khiến ngón tay cứ toét ra để hôm sau vào lớp cầm viên phấn không nổi, thì chúng tôi cũng đã chẳng hơn gì. Tức là tay cũng sưng tấy lên vì phải đánh vật với cái xe đạp cũ kỹ, hư hỏng cả lốp lẫn xăm, cả vành bánh đến líp xe, thắng xe, và xích xe. Chúng tôi cũng kinh qua những tháng ngày gạo chỉ lĩnh 3 kí thay vì 13 kí, còn lại thì quy đổi ra bột mì, mì sợi vụn hay khoai lang với nhiều củ đã bị sùng….
Tuy nhiên tôi cũng lại đoan chắc rằng tập thể giáo viên trong ngôi trường của thầy Hàng cũng như chúng tôi, cứ đến ngày 20-11 mỗi năm, thì lại nhận được những bó hoa, hay trên ngực được cài một bông hoa. Đó là “Ngày Nhà Giáo VN ” nó được chính thức công nhận từ năm 1982 nhằm “thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với đội ngũ giáo viên; để nêu rõ vị trí, vai trò quan trọng của đội ngũ giáo viên trong sự nghiệp đào tạo lớp người mới xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; để phát huy truyền thống của nhân dân ta luôn luôn tôn trọng, quý mến thầy giáo và cô giáo.”
(nguyên văn trong Quyết định của Hội đồng Bộ Trưởng ban hành ngày 28-9-1982)
Tôi không hiểu các thầy cô đã nghĩ gì khi đeo trên ngực chùm hoa do học sinh trong lớp cài lên áo, nhưng riêng tôi thì vừa ngậm ngùi vừa cám ơn tấm lòng chân thực của đám học trò trong lớp. Chúng vẫn nhìn ông Thầy bằng con mắt tin cậy và biết ơn. Chúng cũng nhiều khi bầy tỏ tấm lòng chua xót và cảm thông khi thấy các thầy các cô ăn bận xốc xếch, nghèo nàn bước vào lớp, mặt mũi vêu vao, dáng dấp mệt mỏi khi cố cao giọng giảng bài. Làm gì mà chúng không biết là Thầy Cô đang đói, vì chính chúng nó cùng với gia đình cũng đang lâm vào tình cảnh bữa no bữa đói, nhưng vẫn kiên trì cắp sách đến trường.
Chỉ có điều là cứ mỗi năm tổ chức một ngày cho học trò gắn hoa lên áo thầy cô để rồi cho rằng đã “thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với đội ngũ giáo viên” hay “để phát huy truyền thống của nhân dân ta luôn luôn tôn trọng, quý mến thầy giáo và cô giáo.” thì thật không còn gì mai mỉa hơn.
Bộ cứ để cho nhân dân nhìn thấy “Con heo được nhốt vào khoảng trống giữa hai dãy phòng học” là đã phát huy truyền thống của nhân dân luôn luôn tôn trọng thầy giáo và cô giáo hay sao ?
Mà không phải vì nhà nước ở chỗ quá cao, không với được xuống thấp để thấu rõ hoàn cảnh thiếu thốn của Thầy Cô nơi học đường.
Kỷ niệm về một bữa liên hoan mà tôi kể lại dưới đây, đối với tôi thật đã để đời.
Số là nhân một dịp ăn mừng và phát huy thành quả chi đó, có thể là sau cuộc bầu cử Quốc Hội thống nhất cả nước, trường tôi có tổ chức một buổi liên hoan cho Thầy Cô toàn trường lại có sự tham dự của một phái đoàn hùng hậu từ trên Phường, trên Quận xuống nữa.
Theo tin từ Ban Giám Hiệu thì nội dung buổi tổ chức gồm nhiều tiết mục như báo cáo diễn tiến những công tác do nhà trường đã tham dự, công bố danh sách những giáo viên, công nhân viên nhà trường đã tích cực tham gia công tác, phát Giấy Khen Cá Nhân và cuối cùng là “hiểu thị” của Cán bộ lãnh đạo tới tham dự.
Đặc biệt, lại còn có cả món Bún Sườn Heo nấu với Dọc Mùng được chiêu đãi ngay trong buổi lễ nữa. Ấy, cái vụ ngoại lệ này xem ra lại được hoan nghênh hơn cả vì ngay từ sáng đã có những tiếng xì xào: “ Chiều nay có mít tinh sau buổi học, bà Thu chiêu đãi cả món Bún.”.
Ai kia chứ, chị Thu thì được lòng tin cậy của mọi người ở chỗ không xà xẻo, không thiên vị, không trù ếm ai trong thời gian chị lo công việc phân phối nhu yếu phẩm trong trường. Con người ấy đứng ra lo chuyện ăn uống liên hoan thì tất nhiên là phải “có chất lượng” rồi.
Ngay từ buổi chiều, chúng tôi đã cùng những học trò lớp lớn lo kê dọn bàn ghế và căng biểu ngữ trong hội trường. Thầy cô ngồi ghế học trò kê trước những cái bàn dài, quay mặt cả về phía bục diễn giả. Gần bục của diễn giả thì có kê thêm bàn vuông, ghế có lưng dựa dành cho Ban Giám Hiệu và quan khách. Trên mặt bàn của tất cả mọi chỗ ngồi, bát đũa cũng đã bầy sẵn sàng chờ đợi được đong đầy những sợi bún trắng muốt được để sẵn trong những cái rổ đặt trên một cái kệ ở sát tường. Phía cuối phòng, qua cánh cửa sổ mở rộng nhìn ra phía ngoài hành lang, mọi người đã thấy mấy nồi nước dùng đang bốc khói nghi ngút và tỏa ra một mùi vừa béo, vừa ngậy lại vừa thơm đến lạ lùng.
Gần tới giờ khai mạc thì nhân viên của chị Thu đã đơm bún vào tô sẵn sàng. Chỉ còn chờ tới khi quan khách đi từ văn phòng Ban Giám Hiệu ở mé trên đi xuống là chia nhau đi rót thêm nước dùng vào tô nữa là tiệc liên hoan có thể khởi sự ngay. Theo chị Thu thì ăn như thế vừa nóng, vừa đúng lúc bụng dạ ai cũng đã đói, mới ngon, lòng dạ mới phấn chấn, tinh thần mới “hồ hởi” mà lắng nghe những lời huấn thị hoặc tham dự mọi diễn tiến của buổi tổ chức.
Cũng vì tính toán như thế nên chị đã dặn sẵn toán trực, là hễ thấy quan khách bắt đầu từ văn phòng Ban Giám Hiệu ở trên ấy đi xuống khu hội trường là phải thông báo ngay để đầu bếp kịp thời phục vụ.
Mọi sự diễn tiến theo đúng như dự liệu. Các thầy cô đã tề tựu đông đủ trong hội trường. Mặt mũi ai cũng tươi tỉnh vừa vì có quan khách tới thăm trường, vừa do cái mùi Bún Sườn cứ ngào ngạt xông lên điếc mũi.
Rồi bỗng có tiếng người reo lên :
- Xuống rồi…xuống rồi….
Thế là các cô phục vụ ùa nhau đi từng bàn múc nước dùng đổ đầy từng tô bún.
Kể ra theo phép lịch sự thì phải chờ tất cả mọi người đông đủ và chủ tọa tuyên bố khai mạc rồi mới bắt tay vào cuộc. Nhưng bát bún đã để trước mặt rồi, lại đã đói mềm người sau một buổi dạy mệt rã rời, mấy ai cưỡng nổi cái múi hấp dẫn của tô bún. Thành ra, nhiều vị thì vẫn thản nhiên chờ, nhưng cũng đã có nhiều vị khác bưng tô bún lên húp sì sụp.
Ủa ! Mà sao quan khách thì chưa thấy ai vào hội trường? Tại cái tên háu ăn nào hô hoán láo hay có sự cố chi bất thường? Chị Thu mặt xanh lét, vừa trông ra ngoài hành lang chờ đợi vừa quay lại nhìn một cách bất lực các thầy, cô bây giờ đã trở thành đa số trong hội trường đang húp sùm sụp phần bún của mình, dù chưa có mặt quan khách. Thế có chết người không !
Hóa ra trong tiến trình sắp xếp đã xẩy ra một chi tiết bất thường. Số là đám quan khách trên đường đi xuống phía hội trường, lúc ngang qua khu vực dành cho các Tổ lao động thì có mấy vị tò mò muốn ghé qua để quan sát. Ông Hiệu trưởng trường tôi đã hoan hỉ giải thích mọi sinh hoạt ở đây, nào Tổ Đồng hồ, tổ Ấn loát, Tổ Thêu may, tổ Mành mành trúc…. Tất cả đã nói lên sự quan tâm của nhà trường trong công cuộc đề cao tinh thần lao động đối với các giáo viên dưới mái nhà trường XHCN.
Với ngần ấy thì giờ bỏ ra để giải thích, thì trong hội trường mọi người đã đánh sạch banh cả tô bún của mình.
Thôi thế cũng đành chứ biết làm sao. Lúc phái đoàn quan khách bước vào thì mặt bàn nơi các giáo viên ngồi bát đũa đã lỏng chỏng, giấy chùi tay vương vãi, tệ hơn nữa là có nhiều vị giáo viên bỏ luôn buổi họp, chuồn ra sân gọi nhau í ới lấy xe ra về.
Quang cảnh bừa bãi, tan hoang, chẳng còn ra cái “thống chế” gì!
Nhưng còn ai biết nói gì hơn !!!
***
Tuy nhiên những sự thể diễn ra trong một buổi liên hoan như thế, tuy cũng là những điều đáng xấu hổ trong một xã hội văn minh nhưng xét cho cùng, con người trong xã hội văn minh đâu có bị dồn ép tới mức cùng kiệt như những nhà giáo chúng tôi ở thời điểm đó. Hơn nữa, cũng có thể nghĩ rằng sự thể phũ phàng nếu đã xẩy ra như thế thì nó cũng là cái thước đo lòng quý trọng của các giáo viên chúng tôi đối với đám quan chức nhà nước đến như thế nào!
Nay ngồi nhắc lại cái kỷ niệm chua xót đó, tôi bỗng muốn so sánh cái nền tảng đạo đức trong ngành giáo dục của ba, bốn chục năm về trước với hiện trạng của ngành giáo dục ở Việt Nam bây giờ.
Hồi đó, tức sau ngày 30-4-1975, giáo viên dù nghèo, dù thiếu thốn, dù có đến nỗi húp một tô bún trước giờ khai mạc, nhưng cũng không bao giờ xẩy ra tệ trạng giáo viên gạ gẫm nữ sinh để đổi tình lấy điểm như đã xẩy ra trong ngành giáo dục ở VN hiện nay.
Hồi đó ông Hiệu trưởng có hống hách đeo súng lục vô trường để dọa dẫm thị uy với mọi người, nhưng không có cái cảnh Hiệu trưởng mua dâm học trò, lại còn tổ chức bán dâm cho đám quan chức quyền uy trong địa phương của mình nữa.
Hồi đó nếu học trò có đi báo cáo thầy, cô tới trễ vài phút, bỏ lớp ra ngoài mấy lần trong giờ học, hay nói chuyện hồi xưa thế này, hồi xưa thế khác..v..v… thì cũng không có cái cảnh chúng đâm chém nhau trong sân trường, hoặc nữ sinh tác oai tác quái trên hè phố, ngay giữa chốn đông người.
Rồi còn biết bao nhiêu thảm kịch xẩy ra trong nhà trường, trong hàng ngũ giáo chức, trong các lề lối thi cử và trong các trường thi..v..v…với những trò gian lận, trao phong bì, đem phao thi vào trắng xóa sân trường.
Đấy mới chỉ là nói những chuyện trực tiếp trong phạm vi nhà trường.
Nhưng nhà trường là đầu mối của đạo đức gia đình, đạo đức xã hội.
Do đâu mà có kẻ thì vung hàng chục, hàng trăm tỷ đồng trong những lề lối sống xa hoa, phí phạm, ngồi xổm lên nỗi đau của hàng triệu con người, trong khi còn có nhiều kẻ thì hãy còn đang vất vưởng sống cầm hơi bằng những đồng lương chết đói.
Do đâu mà có cảnh con nít hàng năm cứ phải đeo phao bơi qua sông để đến trường học mà từ tai to mặt lớn trong mọi tổ chức Đảng, Chính Phủ, Mặt Trận Tổ quốc cho đến cái Quốc Hội tiêu phí hàng năm cả ngàn tỷ đồng mà không một ai thấy động tâm, nẩy lòng thương xót.
Câu trả lời thích đáng cho những thắc mắc kể trên chắc chỉ cần trả lời trong một câu thu gọn.
Đó là cái chế độ Giáo Dục xây dựng trên nền tảng đã dựng sẵn: “Đảng lãnh đạo, Nhà Nước quản lý , Nhân dân làm chủ” đã tạo dựng nên cái xã hội VN ngày nay.
Vì Đảng lãnh đạo nên Đảng ngồi xổm lên mọi nỗi đau của con người và sử dụng bạo lực để trấn áp bất cứ kẻ nào muốn chống đối.
Nhà nước lãnh việc quản lý thực chất chỉ là những tên tay sai đắc lực của Đảng đã thi hành những chính sách ám muội nhằm phục vụ uy quyền của thiểu số nắm quyền lãnh đạo.
Còn Nhân dân làm chủ thì chỉ là cái bánh vẽ đã bốc mùi hôi thối. Bởi bất cứ người dân nào cũng đều thấy mình chẳng bao giờ có cơ hội làm chủ hết, mà tất cả đều chỉ là những nạn nhân đã bị guồng máy cai trị bóc lột từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Tôi tin rằng cứ triệt bỏ cái nguyên tắc phản dân chủ bao gồm “ba vế xác định sẵn” như nó đang còn hiện diện trong thể chế chính trị ở VN, thì mọi sự rồi sẽ đâu vào đấy hết!
(còn tiếp)
-
(tiếp theo)
16
Làm chủ tập thể
Trong 3 điều nói về vai trò của Đảng, Nhà Nước và Nhân dân thì tôi thấy cái vế thứ ba là khó nắm được nhất.
Thế nào là Nhân Dân làm chủ ?
Vào thời gian ấy, nghĩa là sau khi Sài Gòn đổi chủ, dân chúng Sài Gòn cũng như các công nhân viên chức đều đã được liên tục học tập để hiểu rõ vai trò của mình. Riêng tôi, trong cương vị một giáo viên, ngoài các buổi học tập chính trị do nhà trường tổ chức, tôi còn đọc thêm những tài liệu khác để tìm hiểu xem thế nào là “nhân dân làm chủ”.
Để tiện việc theo dõi hay khỏi mất công diễn giải dài dòng, tôi thử đặt công việc tìm hiểu của tôi vào nội dung cuộc đối thoại giữa hai người dân tên A, tên B trong vùng mới được “giải phóng” như sau :
A - Đảng lãnh đạo, Nhà Nước quản lý thì rõ rồi. Nhưng nhân dân làm chủ là thế nào nhể ? Làm chủ cái gì? Đi lấy của ai về mà đòi làm chủ?
B- Làm chủ nói nôm na ra là của mình. Giải phóng rồi thì mình có tất cả. Đất đai này, của cải vật chất này, các cơ xưởng, các xí nghiệp sản xuất này…. Tuốt tuột đều về tay mình cả nên mình làm chủ những thứ đó.
A- Vậy mình làm chủ thì mình có được lấy đem về nhà xài không?
B- Ấy ! Đâu được ! Cái này là của chung mà. Đã là của chung sao có thể khuân về nhà làm của riêng được.
A- Vậy ra còn có cái vụ làm chủ chung với làm chủ riêng nữa à ?
B- Giải phóng rồi, phải tập dùng chữ nghĩa cho nó hợp thời. Có đấy! Nhưng làm chủ riêng thì gọi là tư hữu, tư sản. Làm chủ chung thì gọi là làm chủ tập thể .
A- Chết ! Tư sản đang bị đánh tơi bời. Vậy mình không còn có quyền làm chủ riêng cái gì nữa sao?
B- Có chứ. Mình cứ làm chủ những thứ nhỏ nhỏ thì được chấp nhận. Như trong nhà mình có cái bàn, cái ghế, cái giường, cái chiếu …. nhà nước sẽ không động tới. Nhưng nếu mình lại đi có cửa hàng, có cơ sở máy móc sản xuất ra đồ dùng mà lại phải thuê công nhân đứng máy, thì cái đó gọi là tư sản bóc lột. Bị tiêu diệt là cái chắc rồi.
A- Vậy những thứ cửa hàng, cơ sở máy móc sản xuất ấy sẽ về tay ai ?
B- Về tay mình chứ còn tay ai !
A- Rõ dấm dớ !
B- Không dấm dớ đâu. Lại về tay mình nhưng không phải của mình. Mình chỉ “làm chủ tập thể” thôi !
A- Vậy tập thể là những thằng nào ?
B- Là toàn thể nhân dân ! Có cả cậu lẫn tôi trong đó nữa.
A- Thôi thế thì tôi hiểu rồi ! Nhân dân là cái đại thể trong đó có mình. Cái gì hễ cứ nhân danh nhân dân tất cũng là nhân danh cả cho mình. Nhưng riêng một mình mình thì mình không thể coi là nhân dân được. Đúng không ?
B- Đương nhiên. Có mỗi một cá nhân thôi mà lại đòi làm nhân dân !
A- Vậy mình có làm chủ tập thể thì cũng chỉ là danh nghĩa thôi. Chứ mình có quyền đếch gì trong cái tập thể gọi là nhân dân đó. Đã thế, mấy thằng có chức, có quyền thì cứ nhân danh “nhân dân” lôi mình ra ghè, bắt phải thế này, thế kia mà mình đâu dám há mồm ra cãi.
B- Ý nghĩa trong thực tế thì nó là như thế. Nhưng này, chớ có mở mồm nói ra, Công an Nhân dân nó còng cổ.
A- Như vậy nói tóm lại: Khi hô: « Làm Chủ tập thể » tức là chỉ có « Nhân dân làm chủ » thôi. Nhưng chớ có cắc ké đi hỏi nhân dân là những thằng nào, đúng không ?
B- Thì báo, đài chẳng ra rả suốt ngày câu : « Đảng lãnh đạo, Nhà Nước quản lý, Nhân dân làm chủ» đó sao, mà cứ còn phải thắc mắc.
A- Thôi..thôi…tớ cũng chẳng thắc mắc làm đếch gì cái thứ ngôn ngữ chập chờn như ma quỷ. Chẳng ăn cái giải gì, có khi lại lụy vào thân !
***
Diễn dịch kiểu nôm na như ở trên tất có nhiều người cho là xuyên tạc, thậm chí còn kết tội là phản động nữa. Có thể họ sẽ nại ra lời lẽ của ông Lê Duẩn để lý luận, vì ổng đã nói :
"Trên cơ sở những đòi hỏi tất yếu của cuộc sống cộng đồng, của quyền làm chủ tập thể, phải tôn trọng và bảo đảm các quyền của công dân, bảo đảm sự phát triển phong phú của nhân cách, bồi dưỡng và phát huy sở trường và năng khiếu cá nhân, tạo điều kiện cho mọi người tự tìm tòi và sáng tạo trên các lĩnh vực sản xuất, hoạt động khoa học, kỹ thuật, văn hóa, nghệ thuật".
Hoặc ngay cả bác Hồ cũng nói :
"Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thoả mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa... Trong chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, thì mỗi người là một bộ phận của tập thể, giữ một vị trí nhất định và đóng góp một phần công lao trong xã hội. Cho nên lợi ích cá nhân là nằm trong lợi ích tập thể, là một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập thể được bảo đảm thì lợi ích riêng của cá nhân mới có điều kiện để được thoả mãn"
Lời nào nghe chẳng hay ho. Nhưng thử đối chiếu với thực tế trong cái xã hội mà quyền làm chủ tập thể đã được thiết lập trên nửa thế kỷ nay rồi, để thấy nó sẽ ra làm sao.
Nhà văn Nguyễn Khải cũng đã suy ngẫm về chuyện này. Ông sinh năm 1930, là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà Văn Việt Nam các khóa 2, 3 và là Phó tổng thư ký khóa 3. Ông cũng là Đại biểu Quốc hội khóa VII. Vào lúc sắp lìa đời khoảng năm 2006, ông đã ngồi viết cuốn “ Đi tìm cái Tôi đã mất” . Đấy là tác phẩm cuối cùng vì ông mất năm 2008. Trong cuốn này, ông đã viết :
Trích Nguyễn Khải (những chỗ in đậm chỉ cốt để nhấn mạnh, trong nguyên bản không có chỗ nào in đậm):
“Vì số phận cá nhân gắn liền với tập thể với dân tộc, trùng hợp khít khao với các mục tiêu chính trị của đảng cầm quyền và những tham vọng của người lãnh đạo. Nhưng cả mấy thế hệ cùng tham gia chiến tranh, sống trong một môi trường xã hội, chính trị của một đất nước đang có chiến tranh cũng là một tai hoạ khôn lường.
Trong chiến tranh tập thể gạt phắt cá thể sang một bên, có thể giẫm đạp lên nó cũng chả mất mát gì, vì chiến tranh đòi hỏi sự nhất trí, cần sự ra lệnh đúng lúc của nhiều cái đầu chứ không có thời gian bàn luận, sai đúng có sự tham gia của nhiều cái đầu. Vả lại nếu người lãnh đạo tính toán sai lập tức sẽ bị đối phương trừng phạt ngay, không sớm tỉnh ngộ thì cả sự nghiệp có thể bị đổ vỡ.
Đến thời hoà bình thì chỉ còn dân chúng đối mặt với chính quyền, quyền lợi khác nhau, nguyện vọng khác nhau, có trăm ngàn thứ khác nhau trong một cộng đồng, dân tộc, tôn giáo, văn hoá, điều kiện sống… trong một thời gian dài tạm quên đi, tạm gác lại để lo việc lớn, lúc này nhất loạt trỗi dậy, đòi hỏi và mỗi cá nhân đều thấy cái mình đòi là quan trọng nhất, bức thiết nhất.
Độc lập có rồi, tự do có rồi, vậy cái hạnh phúc của mỗi chúng tôi, nhà nước định quên sao?
Nhưng người dân phải tìm ra cơ hội nào để nói, đến chỗ nào để nói, dùng phương tiện gì để nói.
Nói với tổ chức, với các đoàn thể mình là một hội viên, không ai nghe cả.
Nói trên báo chí không báo nào dám đăng.
Viết kế sách, thỉnh nguyện gửi lên các cấp có thẩm quyền thì chả bao giờ nhận được trả lời.
Vậy phải làm gì nhỉ?
Làm loạn không dám, biểu tình đúng pháp luật cũng chưa có tiền lệ. Người đứng đắn bộc lộ sự không bằng lòng của mình tại các cuộc họp lập tức bị những kẻ cơ hội trấn áp tức thì, bị cơ quan an ninh ghi vào sổ đen, thăng chức nên lương từ nay không thể, chỉ còn đợi ngày về hưu thôi.
(ngưng trích)
****
Trên đây là những lời có thể coi là tâm huyết của một nhà văn vào những ngày tháng cuối đời. Là một nhà văn, ông chỉ cần viết như thế cũng đã dàn trải được nhiều ý tưởng, chất chứa được nhiều tâm tư, cảm nghĩ mà tôi đoán chắc sẽ có nhiều người đồng tình, chia sẻ.
Ấy thế mà ở trường học, cả thầy lẫn trò chúng tôi vẫn phải nhai đi nhai lại bài học gồm có những chương :
1/- Xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa.
2/- Xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
3/- Xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa.
4/- Xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
Nói chung là Nhà Nước C.S nào cũng có cái tâm lý thích nhồi nhét mà lại còn tin chắc rằng cứ nhồi nhét mãi thì bất cứ cái đầu u mê trống rỗng nào cũng sẽ bị tẩy rửa để nhìn ra được« chân lý », giống như ông Tố Hữu đã làm câu thơ « mặt trời chân lý chói qua tim ».
Nhưng hỡi ơi, ở ngoài Bắc ra sao thì tôi không biết, nhưng ở trong Nam này thì trong bất cứ bài giảng nào, ở bất cứ hội trường nào, với bất cứ người nói hay người nghe nào, tôi đều chỉ thấy những ánh mắt thờ ơ, vô cảm, cứ như thể đầu óc ai ai cũng để đi đâu, mặc cho những lời lên gân lên cốt vẫn oang oang qua những cái loa bắt kề ngay ở bên lỗ tai.
Chỉ trong những giây phút chịu đựng cảnh «người nói, người nghe, chúng ta cùng nhau đóng trò dối trá » ấy, tôi mới thấy thấm thía nhớ đến bầu không khí sinh hoạt trong các nhà trường ở miền Nam trước đây.
Nhà trường hồi đó êm ả dưới bóng những lùm cây, bầu không khí trang nghiêm trong giờ học đôi lúc chỉ nghe thấy tiếng sang sảng giảng bài. Trong giờ chơi hay giờ tan trường, học trò vui vẻ túa ra đường phố với những vẻ mặt hồn nhiên, vui vẻ như những bầy chim non ùa ra khỏi tổ.
Và dù là trường Công hay trường Tư, sinh hoạt giảng dạy trong nhà trường không bao giờ có chuyện bị chính quyền thô bạo xen vào, bắt thầy cô phải dạy điều này điều kia ra ngoài phần chuyên môn đã được ấn định từ cả vài chục năm trước.
Đấy mới chỉ một chuyện nhỏ nhoi về bầu không khí nhà trường. Nhưng trong suốt cả những ngày dài đằng đẵng bây giờ, dù ai có tất bật cách mấy thì cũng không tránh được niềm hoài vọng những gì đã có từ ngày xưa, những thứ chẳng phải là vật chất xa hoa, giầu có hưởng thụ gì mà chỉ là những cái rất tầm thường, ai cũng có thể có.
Đó chính là một tâm trạng bình an, một niềm vui thanh thản khi sáng ra, biết một ngày nữa bắt đầu trong đó mọi sự lại cũng sẽ chỉ diễn tiến bình thường theo dự tính. Còn bây giờ, sự bình an không bao giờ còn ngự trị trong lòng của bất cứ ai, vì mọi bất trắc lúc nào cũng cứ sẵn sàng ụp xuống. Mọi người đều đã cảm nhận rõ như vậy. Họ tự biết Sài Gòn đâu phải là thành phố được giải phóng. Nó đang bị chiếm đóng, và nhân dân trong thành phố ấy đã và đang còn bị giầy xéo, hành hạ vì cái gốc « Ngụy » của mình.
Ghê gớm thay cái trò sử dụng từ ngữ của đám cầm bút chỉ biết phục vụ cho cường quyền, dù biết nó đang là một thứ ác quyền. Bọn cầm quyền không thể đẻ ra được chữ “Ngụy”. Nó phải là sản phẩm của một chuyên viên cầm bút. Rõ ra là chỉ có một con chữ ấy thôi, nhưng cũng đã nung sôi lên được biết bao nhiêu bầu nhiệt huyết của nhiều người nhẹ dạ để bây giờ, nhiều kẻ trong đám người nhiệt huyết ấy, với súng ống rầm rộ vào thành, sẵn sàng xả hết mọi nỗi căm thù vốn đã được nuôi dưỡng từ bao nhiêu năm lên mọi ngóc ngách sinh hoạt của dân thành phố. Và sau này, người ta chỉ bừng tỉnh khi nhận ra rằng, chính mình đã bị nhồi nhét căm thù để hành xử như những con rối sẵn sàng thiêu thân. Thủ phạm làm cái việc nhồi nhét ấy, chính là những kẻ cầm bút tình nguyện làm tay sai cho bạo lực !
Trở lại nỗi niềm tiếc nuối nhỏ nhoi đôi khi nó lén trở lại tâm hồn của mỗi người, có khi đó chỉ là một hồi tưởng, nhớ lại những dáng người nhộn nhịp đi lại trên hè phố, quần áo mang nhiều sắc mầu rộn rã, kiểu cách thì đủ hình đủ vẻ, mà cung cách đi đứng, nói năng cũng chất chứa vẻ tươi cười, bình thản. Những thứ đó, ngày xưa không ai hề nghĩ rằng đấy là những tài sản vô cùng quý giá mà mọi người đang có. Chỉ đến khi tất cả đã qua đi rồi, bây giờ trước mắt chỉ là những khuôn mặt đăm chiêu, những nụ cười héo hắt, những bộ quần áo nhuộm đen, nhuộm chàm đầy tính chất của sự đồng phục… mọi người mới thấy trong lòng sao vô cùng xót xa, tiếc nuối.
Vẻ tiếc nuối này hầu như tôi còn bắt gặp ở ngay cả một vài cán bộ vốn đã bỏ trường, bỏ lớp ra khu nay đã trở về. Như anh Thành, người cán bộ đầu tiên đã đến tiếp thu ngôi trường mà tôi đang giảng dạy.
Thoạt đầu thì anh vui lắm. Mặt anh rạng rỡ, ánh mắt vui mừng khi thấy có vị giáo viên nào tới gặp anh để hỏi han công việc. Anh sốt sắng trả lời hay giúp đỡ tận tình, làm như những người tới hợp tác với anh đã góp phần giải tỏa cho anh cái mặc cảm rằng anh là kẻ nằm vùng.
Mang trong người cái mặc cảm này, chính là vì anh cũng đã hấp thụ được phần nào tinh hoa của nền giáo dục miền Nam VN trước đây. Một trong những nét tinh hoa ấy là kính thầy, quí bạn, trọng tình nghĩa và không hề có tâm địa phản trắc.
Dĩ nhiên, khi quyết định rời bỏ Sài Gòn để ra bưng là anh đã đi theo tiếng gọi lý tưởng của mình. Anh muốn làm cách mạng để thay đổi cuộc sống mà anh thấy còn nhiều nỗi bất toàn. Đấy là bầu nhiệt huyết đáng khen của tuổi trẻ. Và giả sử nếu anh thực hiện được điều ước muốn, tức là đem lại cho dân chúng miền Nam một đời sống tốt đẹp hơn, thì anh đã trở thành một thứ anh hùng mà không mang một chút mặc cảm tội lỗi nào.
Nhưng cái chế độ mà anh chọn lựa nay cho thấy nó ngày càng tồi tệ hơn cái thể chế mà anh đã rời bỏ. Nó đã xây dựng vinh quang bằng sự nuôi dưỡng và kích động lòng căm thù. Nó đã phá tan hoang đời sống của biết bao con người, làm tróc gốc nhiều truyền thống gia đình tốt đẹp của cha ông và làm đảo lộn mọi trật tự trong xã hội.
Chạy ra bưng để rồi trở về nhìn thành quả chiến thắng đã ra đến nông nỗi ấy, thì trong tâm tưởng làm gì anh chẳng thấy mình là một kẻ phản bội gia đình, anh em, bạn bè, thầy cũ….Đó là thứ tâm trạng e dè, hụt hẫng, hối tiếc mà tôi đã nhìn thấy ở nhiều người quen biết khi họ đã lộ diện là kẻ nằm vùng.
***
Rồi thêm một nhân vật nữa tôi mới có dịp quen biết do anh Thành giới thiệu, mà theo anh gọi là để mở rộng việc giao du trong những ngày mọi người còn nhìn nhau bỡ ngỡ. Đó là anh Tư Đồng, người đang sinh hoạt trên Thành Đoàn. Tên thực anh là gì, tôi không biết, nhưng mọi người thì gọi anh theo bí danh là Tư Đồng. Cái tên này, theo anh giải thích thì đấy là bốn điều kiện để anh lập gia đình. Người phối ngẫu của anh phải cùng chủng tộc (không là người nước ngoài), cùng giai cấp, cùng lý tưởng CS và cùng tham gia phục vụ đất nước. Bốn điều ấy gọi là bốn điểm tương đồng, chỉ cô nào « đồng » với anh 4 thứ đó thì anh mới chịu lấy làm vợ. Đó là lý do anh trở thành người mang bí danh Bốn Đồng hay Tư Đồng.
Vì « kén chọn » như thế, nên cho đến nay, anh vẫn còn độc thân vì chưa tìm ra được đối tượng nào có đủ « bốn cái đồng » như anh mong muốn cả.
Anh Tư Đồng say mê lý tưởng CS chắc cũng giống như nhiều trí thức thiên tả khác. Anh đã đọc nhiều tài liệu sách báo C.S. để thấy những điều vạch ra trong mớ lý thuyết ấy đã rất phù hợp với lý tưởng của mình. Có lần anh say sưa nói với tôi :
- Còn gì tốt đẹp hơn là một xã hội trong đó “ Một người vì mọi người, Mọi người vì một người”.
Tôi thừa dịp chen vào :
- Thì xã hội cũ cũng có những con người sống vì mọi người. Tôi thấy nhiều bà, nhiều cô trong các tổ chức từ thiện vẫn tới thăm các viện Cô Nhi, giúp đỡ các quả phụ…
Đôi mắt của anh bỗng quắc lên, và anh trả lời tôi bằng một giọng có pha đôi chút phẫn nộ :
- Thầy chỉ nhìn thấy hiện tượng mà không nhận rõ được bản chất. Các bà, các cô đó là thuộc giai cấp bóc lột. Họ làm từ thiện chỉ như một trò giải trí hay bầy hàng để che giấu mặc cảm tội lỗi. Đến khi làm xong một công tác từ thiện rồi, lòng họ lại thư thái để tiếp tục hành vi bóc lột như trước.
Tôi công nhận là anh có nhận xét đúng, nhưng tôi phản đối anh về cái sự vơ đũa cả nắm. Tôi bảo anh rằng khi anh chưa tiếp xúc được với đầy đủ mọi loại người, chưa kinh qua được nhiều hoàn cảnh thì không thể quy chụp mọi con người vào chung một cái giỏ tội lỗi.
Anh có vẻ nguôi ngoai và không cãi lại lời phản bác của tôi. Qua đó, tôi đánh giá anh là một người biết phục thiện. Một lần khác, anh lại nói với tôi bằng một giọng phẫn nộ :
- Thầy thấy không. Người phụ nữ nông thôn, quanh năm chân lấm tay bùn, mùa đông tháng giá lội xuống ao vớt bèo tê cứng cả tay chân thì không thấy ai tỏ lòng thương xót gì. Ấy vậy mà mấy bà tướng, tá chế độ cũ vừa mới cầm cái cuốc bước xuống ruộng là mọi người ai nấy đều đã xót xa, thương cảm. Thế là bất công! Bất công !
Tôi cãi lại :
- Tôi không phủ nhận sự vất vả, gian nan của những phụ nữ ở nông thôn. Nhưng đem ví họ với mấy bà tướng, tá chưa từng bao giờ phải chân lấm tay bùn thì đó mới là sự so sánh bất công. Dưới mắt tôi, bàn chân bàn tay của các bà ấy khi giẫm xuống bùn sẽ gây cảm giác đau đớn hơn là cảm giác nhẹ nhàng quen thuộc của những phụ nữ ở thông thôn vốn đã lao động từ thuở nhỏ.
Ngưng một giây, tôi lại còn tiếp thêm :
- Theo ý tôi, khi đánh giá một nỗi đau của con người, ta không thể căn cứ vào thành phần giai cấp của con người ấy mà phải nhìn vào chính nỗi đau mà họ đang phải chịu đựng. Theo tôi, bàn chân của các bà tướng tá lần đầu tiên phải giẫm xuống ao bùn sẽ đau đớn hơn là bàn chân của các phụ nữ nông thôn đã quen thuộc với công việc lao động từ tấm bé. Đem quan điểm đấu tranh giai cấp vào việc đánh giá nỗi đau của con người sẽ đơn thuần chỉ là một hành vi trả thù giai cấp, chứ không có lý tưởng cao đẹp nào trong đó cả.
Lần ấy cả hai chúng tôi đều ra sức bênh vực lập luận của mình. Bầu không khí căng thẳng đến nỗi anh Tư Đồng vùng vằng bỏ ra về, quên cả chuyện tới xoa đầu hỏi han âu yếm mấy đứa nhỏ trong nhà tôi.
Rồi bẵng đi cả tuần không thấy anh ghé lại chơi. Tôi cho rằng tôi đã mất đi một người bạn vừa quen. Nhưng tôi không hề tiếc nuối. Giữa anh và tôi có một khoảng cách nhận thức về con người khá xa.
Nhưng ngạc nhiên thay, bỗng có một hôm anh tới gặp tôi và chưa kịp hỏi han gì, anh đã nói ngay :
-Tôi sai ! Đúng là tôi đã sai !
Anh kể lại rằng anh đã trải qua nhiều đêm trằn trọc để suy nghĩ về cuộc cãi vã vừa qua. Cuối cùng anh đã phải công nhận rằng tôi có lý khi tôi cho rằng : đánh giá một nỗi đau của con người, ta không thể căn cứ vào thành phần giai cấp của con người ấy mà phải nhìn vào chính nỗi đau mà họ đang phải chịu đựng. Và anh cũng đồng ý với tôi là : bàn chân bàn tay của các bà tướng tá thuộc chế độ cũ, vì chưa bao giờ phải lao động nên khi giẫm xuống bùn sẽ gây cảm giác đau đớn hơn là cảm giác nhẹ nhàng quen thuộc của những phụ nữ ở thông thôn.
Ngoài chuyện hân hoan khi thấy mình đã thắng cuộc, trong lòng tôi còn thấy rất cảm kích về tính phục thiện của anh Tư Đồng. Cho dù anh là một con người cộng sản, nhưng tôi cho rằng anh không phải là một thứ CS cực đoan, ham mê quyền lực đến độ có thể chấp nhận hủy diệt con người để phục vụ cho lý tưởng của mình. Nói cho đúng ra, anh chỉ là một con người mang ảo tưởng rằng chủ nghĩa CS sẽ giải quyết được mọi bất công trên cõi đời này. Tôi hy vọng một ngày kia, khi nhìn rõ chân tướng CS, anh sẽ sẵn sàng trở về với bà con, anh em bạn bè, nói chung là trở về với hàng ngũ dân tộc.
(còn tiếp)
-
(tiếp theo)
17
Quằn quại thân giun
Khi thành phố Sài Gòn vang lên những câu hát “Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng” thì trên cả nước, nhất là ở miền Bắc đã có kẻ ôm mặt khóc ròng trong khi nhiều người khác lại mang niềm vui chất ngất.
Có ai đã từng ngồi xuống để phân tích những niềm vui, nỗi buồn hay tiếng khóc của con người vào thời điểm ấy không?
Đất nước đã hòa bình, chiến tranh đã chấm dứt, miền Nam đã được giải phóng rồi thì tại sao không cười vui mà lại khóc ? Phải chăng nhiều người đã khóc vì trong cuộc sống vô vọng với muôn ngàn khổ đau, người ta đã hướng về miền Nam như một sự kỳ vọng vào tia sáng cuối cùng thì nay hỡi ơi miền Nam đã sụp đổ?
Còn những người vui có niềm vui chất ngất, có thật là họ đã nghĩ rằng kể từ nay, dân chúng miền Nam sẽ lại chung vai với mình cùng đi dưới bóng cờ vẻ vang của Đảng CS Việt Nam quang vinh, để tiến mạnh tiến mau tiến vững chắc lên Chủ Nghĩa Xã Hội? Hay người ta vui chất ngất là vì cái gánh nặng “Hạt lúa cắn đôi cho chủ trương chiếu cố miền Nam” vốn đè lên số phận thảm thương của họ qua đời sống tối tăm, rị mọ mà họ đã từng ê chề phải chịu đựng từ mấy chục năm qua, nay đã hoàn toàn được rũ bỏ ?
Cứ ngồi tỉ mẩn với những câu hỏi như thế, cho dù là có người khóc hay người cười sau khi miền Nam được giải phóng, thì tôi đã cảm thấy một thực trạng chua xót lộ ra ở đằng sau tâm tư của biết bao con người vốn đã còng lưng khốn khổ vì sự hà khắc của chế độ. Khóc hay cười thì cũng chỉ vì cái chế độ đó mà thôi !
Tuy nhiên, nếu sự suy nghĩ của tôi là chủ quan, hạn hẹp thì có còn những lý do nào khác nữa không, trong các nụ cười, tiếng khóc sau khi miền Nam được giải phóng ?
Tôi hy vọng sẽ có nhiều nhà viết sử quan tâm đến chuyện này để đưa ra câu trả lời cho những thắc mắc kể trên vốn không dễ gì lý giải, bởi trong cái thời u u minh minh, tranh tối tranh sáng ấy, đã có biết bao nhiêu tâm tư dằn vặt, bao nhiêu nỗi niềm chất chứa lâu ngày, nay có dịp bộc lộ khi miền Nam hoàn toàn sụp đổ.
Tôi bỗng nhớ đến hình ảnh ba anh bộ đội, một hôm kéo ùa vào nhà tôi khiến cho mọi người trong nhà đều ngơ ngác. Thì ra trong số ba anh ấy, một người tên là Toán đã có họ hàng rất gần với nhà tôi, nên khi anh có dịp vào tới Sài Gòn thì ở gia đình ở ngoài Bắc dặn dò là phải ghé vô thăm.
Cuộc trùng phùng dĩ nhiên là ồn ào, náo nhiệt. Không chỉ một mình Toán nói mà cả ba người đều thi nhau nói. Anh thì kể thành tích bộ đội chiến đấu anh dũng trong Trường Sơn, anh thì bầy tỏ sự chúc mừng miền Nam hết ách nô lệ Mỹ để từ nay sống đời sống ấm no, hạnh phúc dưới lá cờ vinh quang của Đảng CSVN. Còn Toán thì sau khi vắn tắt tin tức gia đình cũng hết lòng ca ngợi miền Bắc, nào giai cấp bóc lột đã bị xóa bỏ nên đời sống dân chúng đầy đủ bình yên, nào xã hội trong đó đã thể hiện tinh thần một người vì mọi người, mọi người vì một người. Tất cả khiến bọn chúng tôi cứ dỏng tai lên nghe, trong lòng tuy còn đôi chút nghi ngờ nhưng cũng thấy thán phục.
Nhưng chỉ ngay sau đó, vào cái lúc mà hai anh bộ đội kia đi vào khu nhà sau để làm công việc vệ sinh cá nhân, thì cậu Toán, người em họ con chú con bác của chúng tôi đã tụt lại phía sau, nắm chặt lấy bàn tay của nhà tôi và ghé vào tai chúng tôi mà gằn giọng :
- Anh chị đừng tin chúng nó. Giả dối bề ngoài hết cả đấy.
Câu nói ngắn gọn ấy thật như một gáo nước lạnh tạt lên mặt chúng tôi. Không tạt sao được khi chỉ mới đó lúc trước, cả ba người đều nói năng trơn tru, hùng hồn với những lời lẽ đầy nhiệt huyết. Vậy mà chỉ sau ít phút nó đã hóa ra là “giả dối, bề ngoài hết cả đấy”.
Nếu lời của Toán nói ra là sự thật thì chúng tôi đã phải trải qua một sự choáng ngợp đến hai lần. Trước tiên là sự thực đời sống ở miền Bắc lần đầu tiên đã được phơi bầy từ chính một con người đến từ miền Bắc. Hai là sự nói năng hăng hái, hùng hồn của những con người trẻ tuổi thuộc hàng ngũ bộ đội vốn là một tập thể chỉ biết chiến đấu hào hùng mà ai lại có thể ngờ là cũng chất chứa nhiều cung cách ăn nói điêu ngoa, giẫm đạp lên sự thật. Tôi tự hỏi những người trẻ tuổi này, ngay cho đến cái chết ngoài chiến trường cũng khó khiến lùi bước, thế thì họ đã phải mang một nỗi khiếp sợ kinh hoàng và ghê gớm thế nào để đến nỗi họ phải uốn cong ba tấc lưỡi của mình một cách thản nhiên và thành thạo đến thế ? Ý nghĩ này đã khiến cho tôi bỗng rùng mình ớn lạnh khi nhìn về tương lai của dân chúng miền Nam trong những ngày sắp tới.
Tuy đã quá ngạc nhiên về câu nói bỏ nhỏ của Toán, nhưng đồng thời tôi lại thấy như vừa được cậu em tặng cho một món quà quý giá không dễ gì có được vào thời điểm ấy. Đó là một lời nói trung thực chỉ có thể phát xuất từ một tình cảm quý mến chân thành. Tôi đã nhìn thấy ánh mắt chợt long lên của cậu ta khi cậu nói. Tôi cũng đã cảm thấy được những nỗi niềm uất nghẹn của cậu ta khi cậu chỉ phát ra được mấy lời ngắn gọn nhưng chất chứa biết bao nhiêu điều dồn nén trong lòng.
Cho nên, lời nói ấy của cậu tuy rất khẽ chỉ đủ cho hai người nghe nhưng nó không khác gì một lời cảnh báo vang lên như một tiếng sét nổ trước tất cả những gì đang ồn ào diễn ra ở chung quanh chúng tôi : Những buổi mít tinh, những cuộc diễn hành, những bài ca cách mạng lạc quan, hùng hồn, những khuôn mặt rạng rỡ trong ánh mắt tươi cười của đủ mọi loại tuổi tác cũng như mọi thành phần xuất hiện nhan nhản trên đài truyền hình, cùng những bài báo hết lời xưng tụng đường lối cách mạng đang trong tiến trình đánh gục cái cũ để xây dựng cái mới…v…v…
Cho đến tận ngày nay, lời của Toán vẫn còn vang vang trong tâm tưởng của tôi:
“Anh chị đừng tin chúng nó. Giả dối bề ngoài hết cả đấy.”
Sau này, khi mọi sự giao thông đã dễ dàng, chúng tôi mới được biết thêm vài chi tiết về đời sống của Toán ở miền Bắc.
Gia đình Toán tuy sống tại Hà Nội, nhưng gốc gác thì lại là ở Nam Định.
Khi xẩy ra vụ Cải Cách Ruộng Đất năm 1956, bố mẹ Toán đã bị gọi về quê trình diện do bị truy ra là thuộc thành phần gốc gác có ruộng đất. Vào thời kỳ đó, du kích và các thành viên cốt cán cải cách ruộng đất còn vác súng vào cả thành phố để lùng bắt địa chủ và con cái địa chủ nữa. Có ba loại địa chủ bị lùng bắt là Địa chủ gian ác, Địa chủ thường, và Địa chủ có ủng hộ kháng chiến. Thành phần địa chủ gian ác sẽ bị đội Cải Cách bắt và quản thúc ngay lập tức .
Thoạt tiên gia đình Toán chỉ bị liệt vào loại “địa chủ thông thường” thôi, nhưng rồi số lượng “địa chủ gian ác” trong vùng quá ít, không đủ chỉ tiêu, nên họ bị “kích thành phần” lên thành hàng “Địa chủ gian ác”.
Thế là gia đình Toán tan nát trong đau thương. Bố bị đấu tố đến chết. Mẹ con Toán thì bị đuổi ra khỏi xóm làng, không hộ khẩu, không một mảnh tem phiếu, tất cả đều sống vất vưởng bên lề xã hội, hàng ngày lang thang, luồn lách trong ruộng đồng hay bìa rừng để mò cua, bắt ốc hay kiếm củi để đổi lấy khoai, sắn đắp đổi qua ngày.
Lúc Toán trưởng thành thì miền Bắc đã nạo vét hết thanh niên, thiếu nữ vào bộ đội hay Thanh niên Xung phong. Gia đình Toán được đặc ân cấp hộ khẩu nếu Toán tình nguyện gia nhập bộ đội để vào Nam chiến đấu. Toán chấp nhận hy sinh mạng sống của mình để đánh đổi lấy cái hộ khẩu cho gia đình, vì có hộ khẩu là có tem phiếu mua gạo, mua muối, mua đường..v..v... tức là được phép ngồi vào cái mâm cơm chung èo uột mà Đảng và Nhà Nước bầy ra cho toàn xã hội.
Sau này nhớ lại, lúc Toán nắm lấy tay chúng tôi để nói lời chân thật hay lúc từ biệt để trở về quân ngũ, chúng tôi đều nhận thấy rằng da bàn tay của Toán dầy và cứng như một thứ mai rùa. Đấy chính là hậu quả của những năm Toán phải triền miên lao động vào rừng đốn củi nuôi gia đình khi bị nhà Nước hất ra khỏi hàng ngũ các công dân hợp pháp vì lý do gốc gác, lý lịch.
Tưởng cũng nên nhắc thêm rằng, theo thống kê chính thức của nhà nước trong dịp “sửa sai” sau này, thì đã có 172.008 người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông, trong đó có tới 123.266 người bị quy sai, tức hơn 70% bị kết án oan ức. Lại cũng theo báo cáo của Bộ chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam vào tháng 10 năm 1956 thì tổng số đảng viên bị đấu tố trong cuộc Cải cách Ruộng đất lên tới 84.000 người. Số lượng này chưa kể đến thân nhân, gia đình của họ, cũng đã bị cô lập và đối xử phân biệt.
Một cơ chế Đảng và Nhà Nước đã mắc phải tội lỗi tầy trời khiến gây ra biết bao nhiêu thảm cảnh và tiêu diệt biết bao sinh mạng con người như thế, mà vẫn còn đứng vững cho đến ngày nay thì là tại những nguyên do nào ?
Dĩ nhiên đại thể thì vẫn là guồng máy cai trị đã sử dụng bạo lực để trấn áp mọi mầm mống chống đối.
Nhưng bạo lực không thể tồn tại đơn thuần nếu không có dàn đồng ca của đám văn nghệ sĩ cam tâm vận dụng tối đa chữ nghĩa để nịnh hót, bợ đỡ, hay vo tròn bóp méo, thậm chí cả bịa đặt sự kiện một cách táng tận lương tâm để vừa trấn áp dư luận, vừa dìm quần chúng vào cái bể triền miên u-tối, trong đó kiến thức của người dân không bao giờ với được ra ngoài cái vòng kiềm tỏa mà đám cầm quyền đã hoạch định sẵn.
Và cái bầu không khí ô nhiễm ấy lại đã được nuôi dưỡng từ thế hệ này qua thế hệ khác, khởi đi từ chính sách ngu dân bằng cách tiêm nhiễm những điều gian dối vào đầu óc trẻ thơ trong ngành giáo dục. Bài hát sau đây rất thịnh hành cho tới hiện nay trong các trường mẫu giáo, chẳng là sự tuyên truyền những điều gian dối thì còn là thứ gì khác nữa:
Đêm qua em mơ gặp Bác Hồ
Râu bác dài tóc Bác bạc phơ
Em âu yếm hôn đôi má bác
Vui bên bác là em múa hát
Hát bài Hồ Chí Minh muôn năm
Múa bài Hồ Chí Minh muôn năm
Từ năm 1945, chính tuổi thơ của tôi cũng đã từng nghêu ngao những bài hát có nội dung nhồi nhét tương tự
***
Cho nên, khi đầu óc các nhà lãnh đạo trung ương chỉ loay hoay với những tấm tem phiếu, những chế độ phân chia cao thấp trong quyền lợi được hưởng thụ và những mô hình kinh tế rị mọ kiểu Tổ hợp hay Hợp tác xã..v..v.. thì toàn dân vẫn còn đắm chìm trong khốn đốn.
Trong tình cảnh ấy, các giáo viên trước còn giữ kẽ không dám làm điều gì đi ra ngoài tác phong mô phạm cố hữu của mình, nhưng khi cái túng thiếu đã tới gõ cửa từng nhà rồi thì chẳng còn lý do gì để mà phải gìn giữ nữa.
Ở góc đường Trương Minh Ký và Huỳnh văn Bảnh, kế bên đường rầy xe lửa số 6 tôi đã thấy một đồng nghiệp dựng xe bên lề đường, ngồi đón khách cần đi xe ôm. Tôi tiến lại gần anh bạn, mỉm một nụ cười cay đắng rồi cất tiếng hỏi :
- Có khi nào gặp học trò không ?
Anh bạn nhún vai :
- Học trò thì không nhưng phụ huynh học trò thì có.
- Ui da ! Cái đó còn gay hơn.
- Ăn nhằm gì. Bố mẹ học trò cũng khốn đốn như ai. Biết nhau quá đi rồi.
Tôi cãi :
- Nhưng biết nhau kiểu này thì ai còn dám tin vào ông thầy. Sức lực đổ mẹ nó hết vào cái xe ôm rồi, còn dạy dỗ gì nữa.
Anh bạn cười hề hề :
- Thì ai bảo cứ đi học. Học cho lắm, mai mốt nó coi lý lịch, xếp thành phần, có giỏi cách mấy thì cũng đến văng ra đường mà lái xe ôm thôi !
Lời nhận xét hữu lý của anh bạn khiến tôi không cãi thêm được gì. Đã thế, anh còn ghim vào trong đầu óc của tôi một câu hỏi đầy nghịch lý : “Học trò đi học cho lắm, đến khi bị đuổi văng ra đường vì lý lịch, mà như thế thì những ông thầy như chúng tôi tại sao còn đến lớp làm gì ?”
Phải chăng chúng tôi còn tỉnh táo để biết lợi dụng chuyện dạy dỗ học trò làm nơi ẩn náu và kiếm ăn ?
Hay là chúng tôi đã trở thành ngu ngơ như một lũ cừu ngoan ngoãn đang bị chế độ lùa đi từng đàn, bắt vào hàng ngũ chỉnh tề như mọi thành phần khác trong xã hội.
Thật chưa bao giờ mà chính tôi đã phải tự cật vấn lương tâm của mình bằng những câu hỏi như thế.
Mà anh bạn đồng nghiệp ngoài giờ ở trường còn đi lái xe ôm không phải là một trường hợp duy nhất, hay hãn hữu gì. Trong hàng ngũ giáo viên, tôi đã được nghe xì xào bàn tán chuyện thầy này, thầy kia ngoài giờ đứng lớp đã ra lề đường sửa xe, bơm bút bi, ép plastic giấy tờ, tài liệu, chạy xe ôm, thậm chí còn lảng vảng ở cổng các bệnh viện để xin bán máu của mình nữa.
Rồi vào cái thời ngăn sông cấm chợ, mọi thứ đồ tiêu dùng đều khan hiếm nên giá cả trong thị trường chợ đen, buôn lậu cứ lên vù vù. Đấy cũng là một cánh cửa mở ra cho nhiều người cố vượt qua đủ thứ hàng rào ngăn cản, nào du kích, nào dân phòng, nào công an hay nhân viên thuế vụ nhan nhản giăng mắc khắp mọi nơi, để liều mạng mang vào đô thành vài yến gạo, vài chục trứng hay dăm cân thịt bán kiếm lời.
Trong số những người liều mạng này, tôi biết có cả một vài cô giáo thuộc trường này, hoặc trường kia. Nhìn thấy họ, mặt mũi đen thui vì nắng cháy, tóc tai bù sù xơ xác, nụ cười nhí nhảnh đã tắt lịm trên môi, cặp mắt dịu dàng, hiền hậu nay đã trở nên láo liên, dáo dác, tôi bỗng thấy xót thương cho thân phận của những người mẹ, người vợ, người em, người chị đã phải dấn thân vào nơi lầm than cát bụi để thay thế cho cương vị của những người chồng người cha còn đang giam mình đâu đó trong các trại cải tạo.
Để kết thúc cho chương sách bi thảm này, tôi thấy không gì hay hơn là trích đăng lại bài thơ dưới đây được thi sĩ Song Hồ (1933-2009) sáng tác ở Sài Gòn vào năm 1981, đúng thời kỳ nhà nước đang ngăn sông cấm chợ. Bài thơ đánh dấu một thời kỳ bi thương của đất nước, tuy đã qua đi nhưng nó không thể bị quên lãng trên những trang lịch sử của dân tộc.
HỠI EM NHỎ CÔ ĐƠN
Hỡi em nhỏ cô đơn!
Đang lang thang ngoài phố.
Em ơi đi đâu đó?
Cho ta hỏi đôi lời:
- Cha đâu? - Bị cải tạo !
- Mẹ đâu? - Buôn chợ trời !
- Anh đâu? - Ở Cam Bốt !
- Chị đâu? - Vượt biên rồi !
- Ông đâu? - Đấu tố chết !
- Bà đâu? - Buồn qua đời !
- Cô đâu? - Kinh tế mới !
- Bác đâu? - Tự tử rồi !
Thôi ! thôi ! Không hỏi nữa !
Tim ta quá bồi hồi
Sao em còn nhỏ tuổi
Đã biết nhiều chuyện đời
Sao mảnh đất nhỏ bé
Xẩy nhiều chuyện rụng rời….
SONG HỒ
(1981)
(còn tiếp)
-
(tiếp theo)
18
Sài Gòn muôn ngả rẽ
Chuyện ngăn sống cấm chợ không chỉ xẩy ra ở Sài Gòn. Những đầu óc thiển cận của đám lãnh đạo trung ương Đảng CSVN lúc nào cũng sẵn sàng chôn vùi cả nước vào sự nghèo đói chỉ vì cứ mù quáng tin theo mớ lý luận sẵn sàng có trong đám sách vở kinh điển :
“Chủ nghĩa Xã Hội xóa bỏ triệt để mọi hình thức chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất - vốn là cơ sở của sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng nhau – do đó, cũng xóa bỏ tình trạng đối kháng cá nhân với xã hội.”
Cho nên, nhiều năm trước đó, dân chúng miền Bắc cũng đã nếm mùi “ngăn sông cấm chợ” do xã hội chỉ có hai hình thức kinh tế: Sở hữu Tập thể (tức Hợp tác xã) và Sở hữu Toàn dân (tức Quốc doanh).
Dân chúng làm ra được thành phẩm như lúa, gạo, heo, gà, rau, trái, thì sau khi đóng thuế sẽ lại bị Hợp tác xã thu mua với giá rẻ như bèo, nhiều khi chỉ bằng nửa hay một phần tư giá cả ngoài thị trường. Vì thế mới có cảnh nhân dân phải giấu giếm bớt hàng hóa của mình trước khi bị thu mua để sau đó tuồn theo mọi ngõ ngách chui nhủi đem ra bán ở các chợ chui trong thành phố hay đô thị. Đấy là lý do làm cho nhà nước phải thực thi việc “ngăn sông cấm chợ” để truy lùng hàng lậu, hàng chui, hàng giấu giếm cho dù đó chỉ là những thành quả lao động của chính người dân đã nai lưng làm ra. Kết quả là người dân đi đâu xa, nếu có mang theo ít thực phẩm làm quà hay dùng khi đi đường thì cũng phải làm đơn xin trong đó kê khai những thứ mình mang theo với lý do chính đáng.
Đời sống như thế quả là tối tăm, rị mọ. Một ông bác của tôi khi vào Nam kể lại rằng có lần xếp hàng cả tiếng đồng hồ mới chen vào mua được lạng muối. Nhưng khi ở nhà bước ra, lại quên mang theo cái đựng. Đến lúc cô mậu dịch viên đong xong bát muối mới quát hỏi:
- Có cái gì đựng không.
Ông này luýnh quýnh, vội vã trật ngay cái mũ đang đội trên đầu xuống để hứng bát muối được đổ vào. Về nhà cứ ngồi vừa nhặt từng hạt muối vừa tiếc rẻ nhúm muối đã vướng trong từng khe chỉ hay tan thấm vào lớp vải đã đẫm mồ hôi.
Rồi lại còn những thảm kịch đau thương xẩy ra chung quanh cái đời sống cứ phải bám riết lấy những tập tem phiếu hay sổ sách mua hàng phân phối. Kinh hoàng nhất là cuốn Sổ Gạo. Mất Sổ Gạo là coi như mất nguồn sinh sống hàng ngày. Đã có lần, một thằng bé mới 13 tuổi đầu được nhà sai cầm sổ gạo đi xếp hàng giành chỗ trước. Nào ngờ nó ngủ gục ngay giữa đám người chen chúc, dồn nén nhau chật như nêm cối. Khi choàng tỉnh dậy thì cuốn Sổ Gạo đã mất. Sau đó là một màn ông bố nổi cơn điên đánh đuổi thắng bé chạy đầu làng cuối xóm mà vẫn không tha. Sau nó chui tọt được sâu vào gầm giường. Ông bố không còn cầm cái roi nữa mà bây giờ ông sử dụng cái đòn gánh nước để chọc tía lia vào gậm cho thằng bé chui ra. Nhưng không bao giờ nó còn chui ra được nữa cả. Những cú chọc của đầu đòn gánh thúc điên cuồng vào trong gậm giường như đòn thù đã khiến nó tắt thở trước khi ông bố có thể nguôi giận mà ngưng tay.
Những thảm kịch như thế này, tội ác của ông bố chỉ có một phần. Phần lớn chính là phải quy về cái đám lãnh đạo không còn tình người đã tạo nên những tình thế xô đẩy con người phải nhúng tay vào tội ác như thế !
***
Sài Gòn sau 1975 cũng diễn ra cái thảm cảnh ngăn sông cấm chợ. Nhưng dân chúng miền Nam không dễ dàng khuất phục như dân chúng miền Bắc.
Đời sống khó khăn bị dồn đến đường cùng, khiến nhiều bà mẹ chiến sĩ trước đây đã từng che giấu cán bộ đã phải kêu lên :
- Nếu biết tụi bay bất nhân như vầy thì trước đây tau đâu có mở cửa hầm cho mà chui xuống.
Những lời phát biểu bất mãn nhiều khi có thể nghe được công khai ở những lều quán rải rác đầu làng, cuối xóm hay các ngõ hẻm trong thành phố.
Và người ta không chỉ bất mãn xuông. Cuộc vật lộn trong mưu sinh đã diễn ra ở mọi nơi, mọi chỗ nhiều khi rất quyết liệt chứng tỏ dân chúng miền Nam không chỉ toàn là một lũ cừu non để cho đám cán bộ nhà nước mặc tình sai bảo. Như việc tiến hành hợp tác hóa Nông nghiệp, nông dân trong Nam phần lớn đều đã có ruộng đất nên không ai muốn vào tập thể. Nhà nước trước còn khuyến dụ, sau áp dụng biện pháp cưỡng chế như truất hữu ruộng đất, tịch thu máy cày, máy bơm nước, trâu bò... Nông dân nổi giận giết trâu bò, gia súc trước khi bị tịch thu. Đó là chưa kể những hành vi phá hoại khác như khi cấy lúa, có những phụ nữ đã lấy móng tay bấm vào thân mạ cho gẫy đi trước khi trồng xuống ruộng nước. Những thái độ chống đối này hẳn cũng có sự đồng tình ngấm ngầm của nhiều cán bộ thuộc Mặt Trận Giải Phóng miền Nam, đặc biệt là những chiến sĩ gái trong đội quân tóc dài của chị Ba Định, một tên tuổi lừng lẫy trước đây nhưng sau này ít ai còn nghe nhắc tới nữa.
Chính sách thu mua sản phẩm, ngăn sông cấm chợ nhằm tiêu diệt việc buôn bán tư nhân đã khiến cho tình hình kinh tế cứ dần dà bị suy sụp thê thảm thêm. Cực chẳng đã, ông Võ Văn Kiệt, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh phải phá lệ, cho phép Công ty thu mua lương thực đi về miền Tây mua lúa của nông dân mà không theo giá rẻ do nhà nước quy định, trả tiền ngang bằng giá thị trường. Nhờ đó, hơn ba triệu dân Sài Gòn mới có gạo ăn, nông dân cũng bán được lúa trữ.
Các tỉnh khác ở miền Nam cũng làm theo cách đó khiến cho chính sách thu mua nếu còn tồn tại ở miền Bắc thì đã bị phá sản ở miền Nam. Đám lãnh đạo ở Trung ương Đảng CS trước tình trạng căm phẫn của quần chúng, đành cứ lẳng lặng làm ngơ.
***
Trở lại ngôi trường mà tôi đang giảng dạy, hầu như bầu không khí o ép ngày trước bây giờ cũng thấy lơi đi. Ban Giám Hiệu ít triệu tập giáo viên họp hành hơn. Các Tổ lao động cũng thấy lơi là, đặc biệt là Tổ mành mành trúc không thấy đi thu mua thêm những bó trúc chưa qua cắt, mài.
Học trò vì thế cũng bớt giờ lao động và giáo viên nhờ thế cũng được nghỉ ngơi. Duy chỉ có điều là tình hình tài chính của các Tổ lao động này ra sao thì không thấy ai đả động tới. Trong vài năm liền, lực lượng lao động của cả thầy lẫn trò đổ vào đó hẳn không biết bao nhiêu là công sức . Nhưng thành quả của nó ra sao ? Tính ra thành tiền thì là bao nhiêu ? Tuyệt nhiên không có một văn bản tổng kết nào được công bố. Thế là cả nhiều ngàn giờ lao động do thầy trò đóng góp trong ngần ấy thời gian cứ coi như nước lã ra sông, mà trên lãnh vực nhận thức, cũng chẳng ai tìm thấy sự vinh quang nào trong những ngày lao động ấy cả. Mà tại sao chế độ này lại cứ thích cái chữ “vinh quang” nhỉ, trong khi lao động chỉ là một bổn phận tất yếu của mọi thành viên trong xã hội. Hoàn tất một công tác lao động là hoàn tất một nhiệm vụ được giao phó. Có gì ghê gớm đâu mà nói tới chuyện vinh quang.
Có lẽ cũng vì những ý nghĩ ấy mà thầy trò chúng tôi vẫn nói đùa với nhau một câu đầu lưỡi trước khi làm công tác lao động :
- Lao động là vinh quang… Lang thang là chết đói….Thôi, bắt tay vào việc đi !
Bây giờ thì những thứ lao động bầy trò chỉ cốt là để lấy thành tích như thế coi như đã bị tém dẹp. Mấy vị trong Chi hội Nhà Giáo yêu Nước vốn đã có óc sáng chế ra nào Tổ đồng hồ, Tổ ấn loát, Tổ sửa quạt máy, bàn ủi..v..v…thấy thế cũng chẳng tỏ ra vẻ gì gọi là tiếc nuối công lao sắp xếp của mình. Chắc họ cũng thừa biết là chính mình cũng chỉ là thứ đèn cù, vẽ vời ra chỉ cốt phục vụ cho những nhu cầu nhất thời.
Nhưng chuyện lao động “giả” thì tém dẹp, chứ lao động thứ thiệt thì không đâu đấy nhé.
Thằng Tửu, qua năm học mới tuy đã ngồi vào lớp cấp 3, nhưng nó với thằng Sơn vẫn xoắn xuýt lấy nhau.
Tửu bầy cho Sơn một công tác lao động rất kiếm ra tiền, trước thì chỉ cốt cho tiền túi của Sơn có thêm đồng ra đồng vào, nhưng sau công việc khấm khá đến độ kéo theo luôn cả mẹ của Sơn vào việc nữa. Đó là công việc sản xuất thuốc lá cuộn bằng tay cho đám trẻ lau nhau đem bầy lên mẹt, bán ở ngay trên hè phố.
Sau vài năm Sài Gòn đổi chủ, các loại thuốc lá còn tồn đọng từ xưa, nay đã được dân nghiền tiêu thụ hết. Trên thị trường bắt đầu xuất hiện đủ loại thuốc sản xuất từ miền Bắc. Loại rẻ tiền thì có Trường Sơn, Hoa Mai, Công Nhân, Lao Động. Loại đắt tiền hơn thì có Thăng Long, Tam Đảo, Sông Cầu. Ngoài ra còn có thuốc lá sợi Lạng Sơn mầu vàng óng, khi hút phải cuộn bằng tay thành điếu thuốc, khói tỏa ra mùi thơm, được dân ghiền rất ưa chuộng.
Qua uy lực của ông cán bộ cấp cao, tức bố của Tửu, nên Tửu móc nối được những mối hàng chở thuốc sợi từ Bắc vào. Tửu không mua đi bán lại mà bầy cho Sơn cách cuộn thành điếu với một dụng cụ đơn giản nom như một lá cờ có cán dài. Thuốc cuốn xong, lấy kéo xén hai đầu cho gọn ghẽ là có thể đem bó lại thành bó như bó củi. Tùy theo giá tiền, mỗi bó có thể là 5 điếu, 10 điếu, 20 điếu. Cứ bó chung lại và cột bằng một sợi thung cao su. Dân ghiền bấy giờ gọi chung là thuốc củi.
Thuốc củi bán rất chạy, vì có đủ loại mặt hàng. Thuốc thơm có. Thuốc vừa có. Mà thuốc đắng nghét như hút lá cây phơi khô cũng có, tuy loại này rẻ tiền, chỉ bán cho mấy bác phu xe ba gác hút thuốc suốt ngày như một thứ ống khói mà thôi.
Chỗ cư trú của mẹ con Sơn biến thành một “cơ sở sản xuất”, chỉ trong thời gian ngắn lại có thêm cả vài cô gái hàng xóm ghé vào tiếp tay, cô thì ngồi xẻ từng tờ giấy quyến to bằng cả tờ nhật báo thành ra những mảnh nhỏ cuốn vừa một điếu thuốc, cô thì thoăn thoắt nhồi thuốc vào dụng cụ cuốn để làm thành những điếu nom cũng rất đều tay.
Thằng Tửu rất láu cá. Theo nó kể lại thì trước khi khuân những bó thuốc sợi về nhà Sơn, Tửu đã dụ khị được tay Tổ trưởng Dân phố cũng như Công an khu vực đi nhậu một chầu thịt chó ở đường Trương Minh Ký. Rồi nó lại mời nhị vị ghé nhà nó chơi cho biết.
Mà khi biết ra thì hai vị thấy hoảng hồn. Cổng ngoài nhà Tửu có anh lính ngồi gác trên cái ghế kê sát tường. Bên sân trong lại thấy có cái xe con đang có một anh cần-vụ cặm cụi lau chùi mặc dù nó đã bóng loáng. Khi hai người rụt rè tiến vào phòng khách thì thằng Tửu cứ rống lên gọi cái ông đang ngồi nghiêm nghị sau cái bàn buya-rô to tổ chảng đến mấy lần để nói huyên thuyên “Hôm nay con …thế này….”, “ Hôm qua Bố …thế kia….”.Nghĩa là cứ bố bố, con con ngậu sị làm mắt các vị cứ tròn hết cả lên, thấy rõ là có sự thán phục rằng nó là một thằng con cưng của một ông lớn!
Trình diễn như thế, sau này thằng Sơn có bầy đủ thứ trong căn nhà thế nào thì cũng chẳng thấy ai còn hó hé kiếm chuyện.
Sau đó chừng hơn hai tuần, bà mẹ của Sơn tổng kết vốn liếng, chi phí để tính toán tiền lời. Bà đẩy hẳn một nửa đống giấy tiền sang phía Tửu:
- Bác cám ơn cháu rất nhiều. Không có cháu giúp cho thì chắc chuyến này nguy cả mẹ lẫn con.
Tửu vội vã xua tay :
- Cháu đâu có chia lời của bác. Mấy tay đầu mối không bán thuốc sợi cho bác thì bác mua của người khác, thiếu gì.
Bà mẹ nhìn Sơn cầu cứu :
- Thì cháu cứ cầm lấy đi. Cứ coi cái cơ sở làm ăn này là của chung, lỗ cùng chia, lãi cùng hưởng.
Sơn cũng tiếp lời :
- Không có đằng ấy thì tụi nó hốt sạch ngay từ đầu rồi. Không chừng còn phải đi kinh tế mới nữa ấy chứ. Thôi cứ cầm lấy đi, cho mẹ tớ yên tâm.
Tửu cười :
- Thôi bác cứ giữ cho cái vốn nó nhiều hơn một tí đi. Mai mốt nhà này biến thành hãng sản xuất thuốc củi có trang bị máy móc hiện đại thì cháu sẽ xin chia lời.
Nói vừa xong, chưa ai kịp trả lời thì Tửu lại tiếp ngay:
- Cháu lại vừa xúi dại bác rồi. Ham gì cái cơ chế này mà tính mở hãng sản xuất. Cong cổ lên làm, khi có tí máu mặt là nó tịch thu hết.
Bà mẹ của Sơn chỉ biết nhún vai, thở dài.
***
Tình cảnh gia đình của Sơn, bọn chúng tôi ai biết cũng mừng. Chỉ ái ngại cho cô Tổ trưởng Tổ thêu may tức cô giáo Hường mà tôi đã có dịp nói đến trong một chương trước.
Hôm ấy, ngoài vẻ bình dị ngày thường với đôi vành môi khô héo không được thoa son, vẻ mặt vẫn thấp thoáng một vẻ phập phồng, e ngại như lúc nào cũng sợ chuyện gì bất trắc xẩy ra với mình, nhưng tôi lại thấy trong khi dọn dẹp đồ đạc của mình, mắt cô hôm nay đỏ hoe như đã khóc nhiều lần. Căn phòng lúc đó có nhiều người ra vô nên tôi không tiện hỏi, nhưng chiều hôm sau, tôi hỏi thăm một nữ giáo viên đồng nghiệp thì được biết cô không bị ai trong trường chèn ép cả. Cô chỉ vào gặp Ban Giám Hiệu để xin nghỉ việc !
Ui cha! Chuyện động trời ! Chen một chân làm giáo viên ở thời buổi này đâu có dễ, lại với cái vỏ nhà giáo thì Phường, Khóm nể vì, ít có lui tới hoạnh họe. Vậy làm sao mà cô xin nghỉ ? Mỗi hoàn cảnh riêng tư tất bao giờ cũng có những lý do riêng không thể cứ đem ra chỗ công khai mà phơi bầy. Cho nên, cô chỉ nói là xin nghỉ việc để dễ bề trông nom con cái. May là cô chưa được biên chế vì còn chồng đang học tập cải tạo, nên không bị ràng buộc theo quy chế nhà nước. Chứ biên chế rồi, cô đâu có thể xin ra, xin vào như đi mua vé vô một rạp hát. Ban Giám Hiệu, sau nhiều lần khuyên nhủ, cũng đành chấp thuận để cô ra đi. Mấy cô giáo bạn bè thân thiết thì cứ theo cô sát nút để khuyên can. Nhưng cô chỉ lạnh lùng buông gọn một câu :
- Ý tôi đã quyết rồi. Tôi phải để dành nhiều thì giờ cho con cái mình hơn.
Sau này tôi lại được nghe thêm chi tiết vì sao cô đã bỏ trường ra đi. Thì ra mọi sự chỉ là do câu chuyện xẩy ra vào cái hôm cô thay mặt chồng đang trong trại cải tạo làm giỗ ông bố chồng. Cô nói với mấy con nhỏ:
- Các con vái ông nội đi. Cầu xin ông nội phù hộ cho bố mau được trở về.
Đứa nhỏ nhất cất tiếng hỏi :
- Bố đi đâu mà sao lâu quá vậy hả mẹ ?
Con chị của nó giành trả lời :
- Bố đi học tập cải tạo. Phải lâu mới về.
Rồi nó quay sang phía mẹ cất giọng rành rẽ:
- Mẹ khuyên bố nên học tập tốt, lao động tốt, nhà nước sẽ khoan hồng cho mọi tội lỗi để mau mà trở về.
Mặt chị Hường bỗng tái nhợt đi. Chị nhìn đứa con gái của mình như một thứ quái vật rồi quắc mắt lên hỏi :
- Ai bảo với con rằng bố có tội lỗi chờ nhà nước khoan hồng.
Con bé cãi :
- Cô giáo nói ! Cô giáo bảo Mỹ Ngụy gây nhiều tội ác nên phải đi học tập cải tạo. Bố cũng là lính Ngụy phải không mẹ ?
Chỉ thiếu điều chị Hường hất tung mâm cơm khi đó còn đang đặt trước ban thờ có khói hương nghi ngút. Nhưng chị đã dằn được lòng nên chỉ chạy tuốt vô buồng trong nằm khóc lên rưng rức.
Đối với chị, niềm hy vọng to tát nhất trong lúc này là lo lắng cho con cái được cắp sách tới trường, mong chúng học hành chăm chỉ để gầy dựng tương lai. Lại vì quá lo toan trong cuộc sống, chị chỉ có thể gửi gấm chúng nó đến trường chứ ít khi nào có thể tự mình đích thân dạy dỗ chúng nó. Nhưng cứ cái cung cách khoán trắng cho nhà trường thế này, có ai dè là chúng nó sẽ bị nhồi nhét đủ mọi thứ ra ngoài tầm kiểm soát của gia đình. Hèn chi mà trong thực tế đầy dẫy những chuyện con cái thản nhiên quay ra dè bỉu, nhục mạ, có khi cả đấu tố cha mẹ nữa không chừng.
Chúng tôi nghe chị kể lại mà lòng ngao ngán, chỉ lặng lẽ nhìn nhau không ai nói lên lời. Mà cũng chẳng biết an ủi hay khuyên nhủ chị được điều gì hơn. Chúng tôi hoàn toàn cảm thông nỗi phẫn uất của chị trong hoàn cảnh chồng thì vẫn cứ kéo lê kiếp tù năm này qua năm khác tại các trại cải tạo, mà con cái thì hằng ngày vẫn cứ bị nhồi nhét lòng khinh miệt ngay cả đối với bố của chúng nó, kẻ đã xả thân cho sự an nguy của gia đình cũng như của toàn xã hội.Sao cái thời buổi này lại nẩy sinh ra nhiều chuyện nhếch nhác đến thế !
(còn tiếp)