>>Suy Ngẫm: “ * Tình yêu chân thật không phân biệt giai cấp tuổi tác, địa vị danh vọng... Nó sang bằng tất cả. Nó là vị thần của tình cảm.
Lope De Vegas
„
-
(tiếp theo)
Người dân sống trong vùng sông nước ở đây trồng nhiều loại cây ăn trái như cam, mãng cầu, ổi, mít, xoài, chuối... và loại trái nào ăn cũng rất ngọt. Dọc đường đi, tôi đã qua các vườn cây rậm rạp, trù phú nhưng thấy chỉ có dừa được trồng nhiều nhất. Đủ loại dừa từ loại dừa lửa nhỏ trái, dừa bị xanh to hoặc dừa xiêm vừa vừa cho nước uống ngọt thanh. Dừa nhiều, dân trong vùng làm thành kẹo dẻo ăn rất ngon. Trời tối hẳn, bà Ba dọn cơm ra bàn cùng ăn chung với ba chúng tôi bữa tối cuối cùng ở nhà. Kinh nghiệm từ các chuyến đi vượt biên, tôi không dám ăn no trước khi xuống ghe. Đào, Bẩy cũng sợ say sóng sẽ ói nên chỉ lùa vài miếng qua loa. Bữa cơm chấm dứt mau lẹ, bà Ba dọn dẹp rồi mang nước lá dứa nóng và kẹo dừa ra bàn. Anh Hai Nghệ ghé miệng vào sát ngọn đèn dầu hỏa, bập vài hơi mồi lửa điếu thuốc rê rồi nói:
- Bây giờ mấy đứa có buồn ngủ thì ngủ ngay đi còn không ngồi chơi với tía má anh. Có kẹo ngọt nước nóng cứ nhâm nhi cho vui miệng. Anh đi liên lạc xem đưa đón ra sao khuya nay.
Ba người chúng tôi vẫn ngồi yên chỗ, sắp xuống taxi có ai ngủ được. Đào, Bẩy mặc bộ quần áo mầu đen cho tiệp với bóng đêm, tôi thì bộ đồ công nhân xanh cũ. Trong ánh đèn dầu vàng mờ, chúng tôi quây quần như người cùng một gia đình trò chuyện sau bữa cơm tối. Bà Ba thỉnh thoảng châm thêm nước cho mọi người uống, xởi lởi:
- Từ đây ra ngoài vàm không xa đâu. Lên được ghe lớn rồi chịu cực vài bữa mấy cháu tới bển liền.
Ông Ba hỏi thăm về gia đình tôi ở Sài Gòn. Từ hôm trú ẩn trong căn buồng gói cho tới giờ mới có dịp ngồi cạnh ông, tôi muốn hỏi nhiều việc để biết. Vùng này gần biển, dân cư đã sống từ lâu hay mới về lập vườn lúc gần đây. Không biết thời còn chiến tranh có ai sống đây không hay chỉ thuần một vùng đất hoang? Nhìn các tấm ảnh thờ trên tủ và những tấm biển ghi công huân chương, tự nhiên tôi tò mò:
- Hai người này chết chắc lâu? Gia đình bác liệt sĩ cách mạng hả?
Nghe câu tôi hỏi, ông Ba nhăn mặt im lặng, bà Ba cũng ngưng chuyện dở dang với hai cô gái và khẽ liếc mắt nhìn tôi. Thấy cử chỉ của hai ông bà, tôi chột dạ thầm nghĩ mình vụng về đã làm hỏng bầu không khí đang vui. Tôi vội lập bập với ông:
- Cháu lỡ lời làm bác giận, xin bác...
- Đừng hỏi chuyện ngày xưa nữa mậy. Gia đình tao dám chứa tụi bây vượt biên thì cũng đủ hiểu rồi mà còn bá láp. Mầy làm tao ghét quá! Thằng Bắc Kỳ con. Ông Ba khoát tay, đột ngột đổi cách xưng hô.
Nói xong câu, ông hầm hầm ngồi yên và xoay mặt nhìn qua chỗ khác. Tôi thật dở ẹt khi hỏi kiểu điều tra về chuyện riêng gia đình làm ông Ba hiểu lầm, đành luống cuống ngồi im. Đào và Bẩy không biết rõ chuyện nhưng kín đáo nhìn tôi với ánh mắt trách cứ. Không khí im lặng ngột ngạt, tôi chưa biết phải làm gì chợt bà Ba xen vào:
- Ông này, có gì chấp nhứt mấy đứa cho mất vui. Lại còn Bắc Kỳ với Nam Kỳ nữa!
Dứt câu bà cười xòa nhìn cả ba chúng tôi đầy thân thiện, thông cảm. Ông Ba không nói một lời, đứng lên bỏ đi vào trong buồng riêng. Tôi liền xin phép bà Ba đi nằm nghỉ ở bộ ván ngựa. Đào, Bẩy tản ra lấy giỏ sách rồi sắp xếp lại quần áo cùng vật dụng bên trong. Nằm trên bộ ván, tôi nhắm mắt vờ ngủ nhưng mong chuyến taxi mau đến. Đồng hồ trên tay đã 8:17 tối.
(còn tiếp)
-
(tiếp theo)
Gần tiếng đồng hồ sau thì anh Hai Nghệ về tới và hối ba chúng tôi theo chân đi ngay. Bà Ba ở lại coi nhà, cả bọn cùng kéo nhau ra bên ngoài. Xuyên qua các tàn lá cây trong vườn, bầu trời trên cao vắng lặng đầy sao không một gợn mây. Anh Hai Nghệ cầm đèn pin đi trước dẫn đường, gió thổi nhẹ lay động những tàu lá chuối cùng các cành của bụi cây thấp. Chúng tôi băng qua vườn cây cùng những con mương nhỏ dẫn nước đến chỗ taxi là chiếc xuồng ba lá đang nằm chờ sẵn dưới hàng dừa cạnh một con rạch. Hai cô gái bước xuống xuồng, tôi đứng lại từ giã anh Hai Nghệ. Quay qua ông Ba, tôi ấp úng xin lỗi về chuyện lỡ lời làm ông giận khiến anh Hai Nghệ ngạc nhiên nhìn trân trối. Nghe tôi nói, ông Ba cười độ lượng, nắm chặt tay ân cần:
- Cháu đừng bận tâm chuyện đó nữa, bác cũng nóng, giờ đã quên hết. Thằng Hai gốc lính Cộng Hoà còn làm rể trong nhà thì cháu phải hiểu gia đình bác. Chúc cháu với hai cô tối nay đi đường bình an.
Tôi ngồi vào giữa xuồng đối mặt với cô Bảy đằng trước và cô Đào sau lưng. Hai người đàn ông chèo xuồng dặn cả ba tuyệt đối ngồi yên, giữ im lặng. Xuồng bắt đầu tiến nhè nhẹ giữa hai bờ rạch tối đen cùng cây cối lùm xùm. Quen đường đi nước bước, hai người phu dễ dàng chèo chiếc xuồng ra khỏi con rạch và nhập vào dòng kênh rộng hơn. Cứ vậy, xuồng ba lá chạy gần một giờ thì gặp sông lớn. Trăng lờ mờ hiện ra ở đường chân trời. Gió xuôi cùng con nước ròng giúp hai người phu chèo xuồng thật nhanh, thật nhẹ tay. Nước chảy rất xiết nên xuồng chỉ dám chạy sát bờ trong làn hơi nước từ mặt sông hòa với gió thổi mát lạnh. Nhìn mặt nước rộng, tôi không thấy được phía bờ đối diện và cũng không rõ đang ở trên sông nào? Khi chia tay ở xa cảng miền Tây, em gái tôi cho biết có thể cá lớn sẽ ra biển bằng ngã Bình Đại nhưng lại không chắc. Đám tổ chức đã chở tôi vượt qua Mỏ Cày trước khi xuống tới Rạch Dầu-Thạnh Phú. Từ đây muốn đến Bình Đại phải qua Giồng Trôm và như vậy tôi phải ở phía bên kia sông lớn. Hồi còn học giờ địa lý bậc trung học, tôi nhớ Bến Tre thông ra biển bằng các cửa sông Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên và cửa Đại. Học từ lâu nay đã quên hết, định buột miệng hỏi hai người phu nhưng nhớ lời họ đã dặn nên tôi ngồi im. Cửa sông nào cũng được, miễn sao cá lớn ra biển an toàn, tôi nhủ thầm. Ngồi yên lại nhớ chuyến đi không thành vừa qua, nhớ về mẹ tôi cùng các cô em gái trong nhà. Nhớ những lúc ngủ ngồi gà gật liền mấy ngày trong căn buồng đầy rệp đói và chuyện vô tình khiến cho ông Ba hiểu lầm. Thường thì người hiền lành ít nói như ông Ba lại có tính rất cục, lẽ ra tôi không nên hỏi vớ vẩn với ông. Đột nhiên tôi nhớ mình đã bỏ quên bộ quần áo giặt sạch, phơi bên hông nhà hồi lúc chiều.
Chạy trên dòng sông lớn chưa lâu, ba người khách chúng tôi một phen hốt hoảng khi bị một ghe gắn máy chận lại. Hai người phu chèo xuồng vội cập sát vào chiếc ghe máy đó và giúp cả ba trèo qua. Bóng điện nhỏ xíu gắn bên vách mái ghe soi sáng một dãy hơn mười người ngồi bó gối trong khoang che kín mít. Tiếng máy ghe nổ đều nhẹ, không ai nói với ai một lời, cứ im lặng tuân theo sắp xếp của người tổ chức. Ba chúng tôi chui vào ngồi yên xong xuôi, ghe máy tách khỏi xuồng ba lá rồi tăng tốc chạy tiếp. Đây mới là ghe taxi, xuồng chèo tay vừa rồi chỉ chuyển tiếp vì nó không thể chở khách đến thẳng cá lớn đang chờ đâu đó trên mặt sông rộng. Ghe taxi có lúc giảm tốc độ rồi lại chạy thật nhanh hoặc đảo hướng chạy ngược về đoạn sông cũ. Khách ngồi trong khoang ai cũng lo sợ, căng thẳng. Sát bên tôi, cô Đào thở hắt từng hơi hồi hộp.
(còn tiếp)
-
Hay quá . Đọc rất hồi hộp .
Cám ơn bác Khiêm An .
-
(tiếp theo)
Quần tới quần lui cả hơn nửa giờ đồng hồ trên sông, ghe taxi mới gặp được cá lớn. Ghe chậm dần và cập lại bên hông cá lớn trong sự vui mừng của khách vượt biên. Lần lượt từng người chui ra khỏi ghe taxi và nhanh chóng trèo sang cá lớn. Tôi chui ra sau cùng, trèo qua đứng loay hoay trên mặt sàn cá lớn. Gió trên sông thổi mạnh hơn cùng tiếng nước vỗ vào thân ghe làm tôi có cảm giác sờ sợ. Một người đứng gần liền cầm tay tôi, ấn tôi chui tọt ngay xuống khoang hầm. Trong khoang hầm, mùi dầu máy, hơi người quyện cùng mùi dầu gió xanh con Ó nồng nặc. Cái mùi quen thuộc trong các chuyến vượt biên khi trước. Cá lớn chạy chầm chậm nhận thêm khách chuyển tiếp ở các ghe taxi khác. Khoang hầm càng lúc càng đông người cho đến khi có tiếng phản đối:
- Chỗ đâu nữa mà nhét hả các cha nội.
Nói thì nói, khách vẫn được chuyển tiếp lên cá lớn và nhồi xuống luôn khoang hầm. Thật lạ lùng, đông người vậy mà vẫn đủ chỗ. Nam hay nữ gì bất kể, mặt kề sát vào lưng hoặc đè lên chân lên thân của nhau.Tôi thấy khó chịu, phải ngửa mặt lên ô trống cửa khoang hầm mong tìm chút không khí để thở. Chắc chắn sẽ có người xỉu nếu cứ ở lâu trong khoang hầm tối đen nóng nực, ngột ngạt và chật chội này. Chợt tiếng người trên mặt sàn ghe nói vọng xuống:
- Cá lớn bắt đầu chạy, tụi tui phải đậy kín nắp hầm đó. Ráng chịu đựng một chút nghe bà con.
Tiếng máy nổ to hơn, cá lớn rùng mình và từ từ tăng tốc độ. Tiếng nước vuốt sát vào ván thân ghe kêu rào rạo. Cá lớn chạy rồi, ai nấy thở phào mừng rỡ. Nắp khoang hầm nói đậy kín nhưng chỉ che hờ, nhờ vậy gió bên ngoài thổi tốc xuống dưới làm không khí bớt ngộp bớt nóng. Tôi mỏi mệt khắp cả người, cảm giác tê dại lan dần xuống hai đùi rồi hai chân nhưng vẫn không cách nào nhúc nhích thân mình được. Cá lớn chạy được một lúc khá lâu thì người ngồi ngay trước mặt giơ hai tay choàng vào cổ tôi và sau đó gục hẳn đầu xuống. Từ từ người đó chúi đầu vào ngực tôi, xòa những lọn tóc dài phủ trên hai cánh tay. Một cô gái và không phải Đào hay Bẩy vì mầu áo trắng nhờ nhờ. Cô gái này chúi đầu mãi thì làm sao có thể thở được và sẽ càng say sóng hơn. Nghĩ vậy, dùng hai tay tôi nâng người cô ngồi thẳng dậy rồi nói:
- Cô ráng ngửa mặt lên mà thở, sẽ thấy dễ chịu. Đừng cúi đầu xuống mãi, chóng mặt lắm.
Làm theo lời vừa nghe nhưng chỉ được chốc lát, cô ta lại chúi đầu tiếp vào ngực tôi. Mỗi lần như vậy tôi phải nâng người cô ngồi thẳng lên. Tôi cũng quá sức mệt mỏi rồi thiếp đi cho đến khi cửa hầm được mở hẳn ra, kéo theo luồng không khí mát lạnh vào khoang kèm cùng lời báo.
- Mình ra biển lớn rồi bà con ơi. Ra biển lớn rồi!
Không một tiếng người trong khoang hầm đáp lại. Ai nấy đều mệt nhoài vì say sóng, vì ngồi mãi một tư thế trong chỗ ngột ngạt. Ra tới biển lớn, không khí trong khoang ghe bớt ngộp thì một cảm giác khó chịu khác xuất hiện. Sóng biển vỗ mạnh vào thân ghe làm mọi người nôn nao, bần thần say sẩm. Tôi bắt đầu chóng mặt và buồn ói dù trong bụng lép xẹp. Lúc chiều khi ở nhà ông bà Ba, tôi chỉ ăn uống qua loa nên giờ thức ăn trong bụng đã tiêu hết. Buồn ói nhưng chỉ ợ toàn hơi nhưng nhờ ợ được mới thấy dễ chịu trong người. Chung quanh tôi, tiếng người rên vì mệt, vì kiệt sức hoặc vì nôn ọe. Một dòng âm ấm chảy từ từ xuống ngực rồi lan xuống bụng tôi, cô gái ngồi trước mặt đã ói vào. Cô ta tiếp tục ợ rồi ói luôn vào người tôi. Được một lúc, cô thì thào:
- Em mệt lắm anh ơi. Em xin lỗi anh... Khó chịu quá, chắc em chết.
Nghe giọng cô, tôi biết là người miền Bắc và còn trẻ. Ngửa mặt lên, cô ta rùng mình nhiều lần rồi lại ói nữa. Mùi chua nước chanh pha lẫn mùi béo hủ tiếu mì cùng mùi thịt nướng bốc lên từ bệt ói trên người, tôi ghê quá, rồi nghĩ mình mặc duy nhất bộ quần áo lấy đâu ra bộ khác để thay. Ói đầy người tôi, cô gái này làm phiền quá nhưng cũng không trách được. Khoang hầm tối hù không ai biết mặt ai, người này nằm rũ đè lên người khác. Chỗ nào cũng bê bết những vệt nước bẩn, đồ ói của nhau. Có người còn càu nhàu, than vãn vì bị nước đái thấm ướt người.
Cá lớn cứ chạy cho đến khi trời sáng dần. Ánh sáng chiếu vào mới thấy có quá đông người trong khoang hầm. Người lớn, trẻ em, nam và nữ... san sát bên nhau trong một không gian nhỏ xíu. Người người bó gối, cong lưng, nằm ngang, dựa ngửa, nửa đứng nửa ngồi lom khom sát vách hầm hoặc đè lên nhau chịu đựng. Ai nấy nhắm mắt như ngủ, gục đầu gật gù hoặc ngửa mặt lên phía cửa khoang. Trước chuyến đi nhiều người đã uống thuốc chống ói nhưng cũng chẳng ăn thua. Ói vẫn cứ ói. Cô gái ói vào người tôi mặc chiếc áo có mầu hồng nhạt, ngồi gục đầu bất động rũ rượi. Tai tôi nghe có tiếng con nít kêu khóc đâu đó trong ghe rồi tiếng phụ nữ dỗ nhè nhẹ. Trẻ em đi cùng cha mẹ trên cá lớn và chúng đang ở đâu? Trong khoang hầm bên cạnh hay ở trên buồng máy? Được một lát tôi lại ngủ thiếp đi, ngủ rồi thức sau đó lại ngủ tiếp cho đến lúc có tiếng người vọng xuống báo tin cá lớn đã ra khỏi vùng biển Việt Nam.
Cá lớn đã ra khỏi vùng biển Việt Nam, chúng tôi đã thoát tay công an biên phòng. Tài công cho phép ai muốn lên trên mặt ghe thì lên nhưng phải cẩn thận khi đi lại. Rủi bị rớt xuống biển không ai biết thì ráng chịu mà ngay cả có người trông thấy cũng chưa chắc ghe sẽ quay lại vớt cho. Các tài công nói thêm nếu ai cảm thấy ở dưới khoang ghe được thì cứ ở dưới, đông người trên mặt sàn ghe cũng không tốt. Nghe xong, vài người ngồi gần cửa hầm đã lấy sức đu thân trèo hẳn lên trên rồi lại có thêm một số người khác leo ra tiếp.
Không khí ở khoang hầm bớt nóng nhưng mùi đồ ói, mùi nước tiểu, mùi dầu máy ghe hoà với mùi dầu gió xanh vẫn nồng nặc khiến tôi nghĩ mình phải ra khỏi đây. Liền đó, tôi lách người kéo cô gái ngồi dậy và nhẹ nhàng dời cô dựa lưng vào sát vách ghe. Cô ta ngửa mặt lên hé mắt nhìn tôi, miệng thều thào: " Em cám ơn anh ". Đúng như tôi nghĩ lúc khuya, cô gái này còn rất trẻ, chắc trên dưới 20 tuổi. Nét mặt cô mệt mỏi, tiều tụy nhưng trông rất xinh. Bước tới chỗ nắp cửa hầm, lấy sức tôi đã chồm tới được và một người ngồi ngay cạnh liền nắm tay giúp leo hẳn lên.
Trên mặt sàn ghe đầy nhóc người ngồi nằm la liệt bên nhau. Nhìn đồng hồ đeo tay đã 6:25 chiều, tôi cúi người lết lại một chỗ trống gần phía mũi ghe và nằm ngửa vật ra đó. Cá lớn vẫn chạy băng băng có lúc cỡi sóng làm văng nước tung toé vào mặt vào người bọn chúng tôi nhưng vẫn thật dễ chịu so với lúc chen nhau chật cứng dưới khoang hầm. Trời xâm xẩm tối dần rồi đêm hẳn. Bầu trời trong vắt đầy sao lấp lánh, cá lớn chạy hết tốc lực mà tôi cảm giác mình vẫn đang nằm yên tại chỗ. Tôi luồn tay nắm chặt đoạn dây thừng nối từ mũi ghe cho an toàn và cứ nằm yên cho đến lúc lại ngủ thiếp nữa. Rồi thức rồi ngủ trong đêm dần dần qua cho đến khi trời bình minh. Một tròng đỏ trứng gà từ từ nhô lên trên mặt biển xanh ở phía đông xiên xiên cạnh bên thân cá lớn. Bóng tròn đỏ mặt trời lơ lửng trên bầu trời buổi sớm mai và in hình phản chiếu trong làn sương mờ của mặt nước xanh dương không một gợn mây. Cảnh bình minh trên biển trông thật đẹp. Đã qua cơn say sóng, tôi ngồi nhổm thẳng dậy nhìn xuống quần áo mình. Những bệt loang lổ đã khô của thức ăn ói hồi khuya giờ dính cứng trên mặt vải. Thầm nghĩ mình bẩn quá nhưng lấy đâu ra quần áo sạch để thay! Không thấy Đào và Bẩy trong số người ngồi trên mặt sàn ghe, tài công đã ém hai cô gái vào chỗ nào trong đêm tối khi từ ghe taxi chuyển sang? Bây giờ, tình trạng hai cô ra sao?
Không còn say sóng, tôi đi lần ra đằng sau cá lớn, nhìn vào buồng lái thấy khá đông phụ nữ cùng trẻ em chen chúc sát bên nhau trên cái sập gỗ. Phần đuôi ghe sau buồng lái cũng đầy người đang ngồi hoặc nằm la liệt ở mặt sàn hầm máy tàu. Hai phụ nữ đang lui cui nhóm lửa bếp dầu hôi để chuẩn bị nấu bữa ăn. Một cái nồi khá lớn đầy mì gói bẻ vụn, cơm nguội và thịt băm nhỏ để trong dĩa ngay bên cạnh. Gần đó, một phi nhựa lớn nước lã được người đàn ông trộng tuổi ngồi kế bên canh giữ. Tôi lại gần xin ông ta chút nước uống. Ông liền mở nắp phi nhựa, múc ít nước bằng cái ca mủ nhỏ xíu đưa cho tôi rồi nói:
- Uống vậy thôi nha cậu, còn phải để dành cho người khác nữa.
Mì nấu chín, hai phụ nữ múc lần lượt cho từng người một bát nhỏ. Nhận bát mì, có người cố nuốt lấy sức nhưng vài người lắc đầu từ chối. Từ lúc xuống cá lớn tới giờ không một chút gì bỏ bụng nên khi bát cháo chuyền đến, tôi cầm lấy và húp liền từng ngụm. Cháo nấu lạt nhách. Hai người phụ nữ đã cố ý nấu cháo lạt vì những gói bột nêm còn nguyên nằm cạnh bếp lò. Cho bột nêm vào nồi cháo, người trên cá lớn khi ăn xong sẽ phải uống thêm nước mà nước rất giới hạn cho từng người.
Cá lớn vẫn chạy êm ả suốt trọn buổi sáng trên mặt biển bao la, vắng lặng không một bóng tầu. Những người ngồi nằm gần bên tôi vẫn lừ đừ cơn say sóng. Cả bọn chúng tôi mệt mỏi, áo quần bẩn thỉu nhìn nhau không ai buồn nói chuyện với ai. Có anh thanh niên nằm như đang ngủ chợt ngồi nhổm dậy, lết đến sát mép ghe và ói ra chút nước đặc quánh mầu vàng. Anh ta đã ói ra mật? Nhìn đồng hồ trên tay đã 2: 45 chiều, chợt tai tôi nghe tiếng nói lớn:
- Ê! Hình như có tàu lạ đuổi theo ghe mình bà con ơi.
Nghe lời báo động, tôi đứng hẳn người lên nhìn ở mé sau cá lớn. Lờ mờ một chấm đen nhỏ bằng cỡ hạt đậu xanh tuốt tận đằng xa xa. Vài người khác cố đứng lên nhìn chấm nhỏ đó rồi có tiếng hỏi:
- Sao ông biết tàu đó đuổi theo ghe mình! Có chắc không?
- Tui để ý cả tiếng đồng hồ từ lúc nó mới chỉ như một cái chấm. Nó cứ chạy theo mình, có vẻ càng lúc càng nhanh hơn. Tui phải báo tin cho mấy cha tài công biết.
Dứt câu, người đó đi vào trong buồng lái ghe và ngay sau quay trở ra với một người đàn ông trung niên vẻ mặt mệt mỏi như vừa thức dậy sau giấc ngủ vùi. Bước đến gần chỗ chúng tôi, ông đó lấy tay che mắt, tránh những tia nắng phản chiếu từ mặt nước biển để nhìn cái chấm đen. Đứng yên im lặng suy nghĩ trong chốc lát rồi hướng mặt về buồng lái, ông ta nói:
- Thử đổi hướng khác xem sao Thuận ơi.
Ông này là chủ ghe và chỉ huy đám tài công cùng thợ máy trên cá lớn? Khuôn mặt ông xương xương, để râu mép, da hơi đen, thân người gầy gò và dáng vẻ khắc khổ. Ông đến cạnh phi nhựa đựng nước lã, người đàn ông ngồi đó đưa ngay ra một ca mủ lớn. Ông cầm và múc một ca nước đầy đến miệng. Uống ngay vài ngụm rồi bước ra sát mép ghe, ông đổ nước vào tay thấm ướt mặt, xúc miệng lục bục rồi sau đó nhổ thẳng xuống biển. Đúng là xếp xòng vì người đàn ông ngồi giữ phi nước không hề phàn nàn gì, lại hỏi:
- Có lấy thêm nước nữa không anh Tám?
- Không. Vậy đủ rồi anh. Ông ta lắc đầu.
Cá lớn đã đổi hướng chạy, cả bọn chúng tôi ngồi yên nghĩ mọi việc đã qua mối lo nhưng không lâu sau, người đàn ông tên Tám cau mặt, lẩm bẩm:
- Cha chả! Nó cũng đổi hướng chạy theo mình cà. Thuận ơi, đổi hướng khác lần nữa xem mậy.
Tàu lạ cũng đổi hướng bám theo cá lớn chúng tôi. Người đàn ông tên Tám quay vô buồng lái rồi trở ra tay cầm theo một cái ống nhòm khá lớn. Loại ống nhòm quân đội miền Nam VNCH trước đây thường dùng. Ông ta đứng dựa lưng sát vào cột gỗ sau buồng lái, chỉa ống nhòm nhìn về chấm đen. Ông im lặng quan sát khá lâu rồi đưa cái ống nhòm cho vài người chung quanh của nhóm tổ chức. Họ lần lượt chuyền tay cái ống nhòm nhìn con tàu lạ. Người đàn ông tên Tám ra lệnh:
- Thuận ơi! Cho máy chạy hết tốc lực đi.
Đám người tổ chức ngồi hẳn xuống sàn ghe ngay cái bếp nấu, mặt người nào người nấy nhìn nhau căng thẳng. Vài người ngồi gần hỏi mượn cái ống nhòm để nhìn con tàu lạ. Đến phiên tôi, nghĩ mình thử nhìn xem con tàu lạ ra sao! Tôi hướng ống nhòm nhìn cái chấm đen xám. Nó lớn hơn khi nhìn so với bên ngoài nhưng khó mà đoán được hình dáng thực. Chỉ biết tàu lạ vẫn cố bám theo sau chúng tôi. Tôi chuyền cái ống nhòm cho người khác. Người đàn ông tên Tám trấn an bảo ai nấy bình tĩnh đừng lo lắng gì. Ông giao cái ống nhòm cho một thanh niên và dặn tiếp tục theo dõi. Nghe lời ông, đám chúng tôi tản ra nhưng trong bụng ai cũng vẫn mối lo.
Cá lớn chạy mãi cho đến khi trời và nước đổi sang màu xám của hoàng hôn. Chiều xuống, gió thổi càng lúc càng dữ dội và vì vậy mặt biển nổi đầy những cơn sóng khá mạnh làm ai cũng sợ. Trời đã 5 giờ rồi 6 giờ... mặt biển dần xẩm tối và sóng nhẹ hơn trước. Anh thanh niên cầm ống nhòm cất tiếng gọi to:
- Anh Tám ơi lại xem ngay nè, có thêm một tàu nữa đuổi theo ghe mình đó.
Nghe báo, chúng tôi vội đứng lên nhìn và sau đó lại chuyền tay nhau cái ống nhòm. Rõ ràng thấp thoáng thêm một tàu thứ hai chạy xiên xiên nhắm hướng về cá lớn trong làn sóng nhấp nhô. Tài công Thuận cho máy chạy hết tốc lực nhưng khoảng cách giữa hai bên đã gần hơn trước nên người trên ghe thấy rõ hình ảnh của hai tàu lạ. Với tôi, chúng trông rất quen và thôi chết, tôi đã nhận ra hai tàu đánh cá Thái Lan. Quay đầu nhìn nhóm người của ông Tám, tôi định nói cho họ biết về ý nghĩ của mình thì một thanh niên thì thào:
- Hai tàu đánh cá Thái Lan. Mình gặp bọn hải tặc rồi.
Ai có mặt tại chỗ đều nghe rất rõ lời anh thanh niên. Một luồng ớn lạnh chạy dọc cơ thể hằn lên nỗi sợ hãi trên mặt mọi người chúng tôi. Người đàn ông tên Tám vụt đứng lên, vỗ hai tay vào nhau và nói lớn:
- Nghe đây... nghe đây! Chúng ta đang cơn nguy hiểm bà con ơi.
Rồi ông tiếp liền một hơi:
- Tàu hải tặc theo sát ghe mình. Tui là Tám Kiệt, chủ ghe này. Mong bà con bình tĩnh góp sức với anh em tui để chống lại bọn chúng.
Tám Kiệt cho biết trước khi vượt biên, dự trù ghe có thể gặp tàu công an hoặc bọn hải tặc truy đuổi nên ông đã đích thân xem xét thân ghe thật kỹ, cho gắn máy mới và mang theo ít vũ khí phòng thân. Ông tiếp:
- Tụi tui có một quả da láng (lựu đạn M 26 hình tròn, vỏ láng bóng như quả vú sữa) và hai trái mini (lựu đạn trái nhỏ, các đơn vị biệt kích quân đội miền Nam VNCH thường sử dụng). Súng thì một AK 47 báng gấp và một Cabin cưa bỏ báng gỗ. Đạn mỗi súng chỉ có một băng 30 viên thôi. Rất cần các anh các chú giúp, ai từng đi lính quốc gia hoặc bộ đội hãy ra góp sức với tụi tui ngay.
Những người có mặt trên sàn cá lớn không còn cảm thấy say sóng hay buồn ngủ nữa, ai nấy đều tỉnh hẳn. Tám Kiệt vừa dứt lời, tiếng vài người nói ngay: " Chú ơi để cháu sử dụng cây AK cho " hoặc " Anh để tôi thủ cây Cabin nghe ". Tiếng một người khác: " Đưa tui trái mini đi, tui ném chết mẹ tụi nó luôn ".
Trong chốc lát những người hưởng ứng ngồi quây quần chung quanh Tám Kiệt và một phương án tác chiến cấp tốc được họ vạch ra. Kinh nghiệm từ những ghe vượt biên gặp hải tặc trước đây kể lại trong thư gửi về cho thân nhân thì hai tàu hải tặc sẽ chạy ép ghe chúng tôi vào giữa. Ép cho đến khi ghe vượt biên phải ngừng lại, chúng sẽ nhẩy qua dở trò. Tám Kiệt cho biết khi hai tàu hải tặc áp sát bên cá lớn thì đúng dịp thuận tiện gần tầm tay nhất, người thủ lựu đạn phải mở kíp ném thẳng sao cho lọt vào tàu hải tặc. Ném lọt được xuống hầm máy tàu chúng càng tốt. Người thủ súng AK hay Cabin phải hổ trợ bắn gục ngay bất kỳ tên hải tặc nào định nhào qua hay vừa nhẩy sang được mặt sàn cá lớn.
- Mini rút chốt xong sẽ nổ lập tức khi ném và sức sát thương rất lớn. Do vậy, tôi đề nghị hai quả mini được ném liên tiếp ngay vào hai tàu chúng. Ai cầm quả da láng phải hờm sẵn trong tay, nếu thấy quả mini nào không nổ hoặc nổ nhưng không phá được tàu chúng thì phải ném bồi tiếp liền. Nhớ nghe, mini rút chốt phải ném ngay. Da láng phải đếm từ một đến năm mới được ném. Ném sớm quá, coi chừng bọn hải tặc nhặt được rồi quăng lại bên ghe mình thì khốn. Một người đàn ông nói giọng Bắc góp ý.
Tất cả những điều họ nói ra thật đúng. Phải chờ khi hai tàu hải tặc Thái sáp lại cạnh bên hông cá lớn đúng tầm và ném được lựu đạn lọt vào trong tàu chúng thì chúng tôi mới có hy vọng thoát nạn. Điều quan trọng đừng để bọn hải tặc biết trên cá lớn có vũ khí vì như vậy chúng sẽ húc thẳng cho bể ghe thay vì áp sát vào để bắt sống người.
- Mình có ống nhòm, biết đâu chúng cũng có để theo dõi mình đó. Cẩn thận đừng để chúng thấy vũ khí mình cầm trong tay. Một người khác góp ý.
Cầm cây viết, Tám Kiệt vẽ phác hình hai tàu Thái Lan kè sát cá lớn vào giữa. Thật không ngờ nét vẽ của ông khá đẹp. Cung cách và nét vẽ của ông ta, tôi nghĩ Tám Kiệt không phải một chủ ghe bình thường. Tám Kiệt cùng nhóm tác chiến sắp xếp vị trí phải đứng, thủ vũ khí gì trong tay để có thể tiếp ứng cho nhau trong việc đối đầu với hai tàu hải tặc. Chợt ánh đèn pha sáng rực từ hai tàu Thái chiếu thẳng vào ghe chúng tôi làm ai nấy chói mắt. Chúng vừa mở đèn và khoảng cách đã gần kề cá lớn hơn trước. Tám Kiệt lấy tay che mắt nhìn hai tàu Thái rồi nói:
- Nếu bọn chúng chỉ có một chiếc mình cũng chẳng sợ vì nó đuổi thì đuổi mình chạy cứ chạy. Tui biết ghe mình gắn máy Yanmar đời mới thật nhưng làm sao chạy bằng tàu Thái được, máy tàu tụi nó loại Ray 6 chạy nhanh hết biết nhưng mình cứ chạy hết tốc lực, nếu nó sáp lại gần thì mình tách ra. Giờ nó có tới hai chiếc thì việc lại khác, các anh các chú đã nhận trách nhiệm thì phải thật bình tĩnh đối phó với bọn chúng. Muốn tránh gặp chúng mà không được, mình đành phải tự bảo vệ lấy thôi. Lựu đạn khi nổ có thể sẽ văng miểng gây thương tích người trên ghe nhưng đành phải chịu. Giữa cái xấu và cái tồi tệ, chúng ta phải chọn cái xấu. Biết đâu bọn chúng cũng có súng và như vậy sẽ có người của phe mình bị thương hoặc chết. Chúng ta phải chấp nhận may rủi. Phải không?
Một người tham gia tác chiến phụ họa:
- Tàu hải tặc Thái chỉ có trên dưới mười thằng trong khi mình tới sáu bẩy chục nam giới và có cả vũ khí nữa, không lẽ chịu thua bọn chúng sao! Mình phải lì, bình tĩnh khi hành động và đừng có sợ tụi nó.
Ông ta nói đúng. Mỗi tàu đánh cá Thái Lan có rất ít ngư phủ. Ỷ tàu lớn và ghe vượt biên nhỏ nên chúng sáp lại ăn hiếp. Nếu gan dạ đối đầu, chưa chắc bọn chúng làm gì được ghe vượt biên. Chúng tôi phải can đảm đối mặt và không còn sự lựa chọn nào khác.
Đột nhiên có tiếng súng nổ từ hướng hai tàu Thái. Tiếng súng lại nổ tiếp từng phát một vang vang. Chúng bắn chỉ thiên hay bắn thẳng vào cá lớn? Tám Kiệt đã tiên liệu đúng, tàu hải tặc có súng. Tám Kiệt liền bảo khách ngồi trên sàn ghe chui xuống khoang hầm cho an toàn nhưng chỉ một vài người chịu nghe lời ông. Đã trải qua cái mệt, ngột ngạt khi ở dưới khoang hầm nên bây giờ bảo họ chui xuống trở lại rất khó. Chết thì chết, họ vẫn cứ ngồi trên mặt sàn ghe, chờ đợi những chuyện sắp sửa xẩy đến.
Hai tàu Thái đến gần hơn, y chang những tàu hải tặc tôi đã gặp trong chuyến vượt biên kỳ trước. Dàn đèn pha sáng rực chiếu thẳng vào cá lớn cùng tiếng loa kêu stop... stop văng vẳng trong gió từ hướng hai tàu hải tặc. Bất chấp tiếng súng nổ tiếng loa gọi, cá lớn chúng tôi vẫn chạy. Sợ và dừng máy lại để chết vào tay chúng sao. Có mà điên! Đã có kế hoạch tác chiến rồi, hai tàu hải tặc áp sát lại hai bên hông cá lớn đi sẽ biết. Tám Kiệt lệnh lấy ngay túi vũ khí ra phân phát cho những người tác chiến và ông dặn phải thật khéo đừng để bọn tàu Thái trông thấy. Nhưng thật không ngờ! Túi đựng vũ khí không có trong cá lớn dù tay chân Tám Kiệt kiểm đi soát lại mọi ngóc ngách cùng các túi xách cá nhân ở trên ghe. Không ai tìm thấy túi đựng vũ khí đâu cả mà hai tàu hải tặc đến quá gần cá lớn rồi. Chúng chạy song song với nhau chỉ để một khoảng hẹp giữa hai thân tàu. Khoảng hẹp dành để ép cứng cá lớn chúng tôi phải dừng đứng lại. Tám Kiệt hoảng hốt thật sự, thúc hối tìm bằng được túi đựng vũ khí ngay nhưng vô vọng. Ai đó trong nhóm tổ chức đã bỏ quên nó dưới một ghe taxi khi vội vã chuyển người sang cá lớn. Biết sự thực phũ phàng, Tám Kiệt ngồi bệt hẳn xuống sàn ghe, hai tay ôm đầu rầu rĩ. Thình lình ông ta đứng bật dậy, gầm lớn:
- Đ.M tụi chúng mầy làm ăn như con C. Việc quan trọng như vậy mà làm cũng không xong. Bây giờ lấy cái gì để chơi với tụi nó đây? Tao đã dặn đi dặn lại mà vẫn quên. Trời ơi là trời!
Tám Kiệt lảo đảo tiến đến dựa vào cây cột phần đuôi ghe, nhóm người tay chân im lặng nhìn ông rồi quay ngó nhau trong bối rối. Tám Kiệt từ từ ngồi bệt xuống sàn ghe, mặt thiểu não nhìn hai con tàu Thái, khẽ lẩm bẩm trách móc:
- Tao đã quá tin tưởng tụi bay... Lẽ ra phải tự tay tao làm...Tội nghiệp con tui, vợ tui... Làm sao bây giờ?
Một hồi còi lảnh lót vang lên từ phía hai tàu Thái làm chúng tôi giật nẩy mình. Hồi còi như tiếng cười, tiếng hú của loài ác thú sắp vồ được con mồi sau đoạn đường rượt đuổi. Tiếng hú đắc thắng trước con mồi nhỏ, cố chạy vì không phương chống cự và sắp sửa sa vào tay chúng. Tôi nhìn Tám Kiệt cùng đám người tay chân. Ánh mắt thất thần của họ làm tôi nhớ lại khuôn mặt của anh Tấn và 2 tài công trong chuyến vượt biên vừa qua. Khuôn mặt hối lỗi vì một toan tính sai lầm để gây hậu quả không may cho cả ghe. Tôi thấy lại khuôn mặt của Ánh Phương, của Mỹ An đang hiển hiện trong ánh mắt các phụ nữ ngồi trên sập gỗ ở buồng lái cá lớn. Những phụ nữ, thiếu nữ vẻ mặt tuy tiều tụy nhưng vẫn xinh đẹp, hấp dẫn bọn quỷ sống. Chận được cá lớn tối nay, sau khi vơ vét tài sản thì có thể chúng chỉ bắt đi toàn bộ nữ giới và tha không giết đàn ông-thanh niên như ở ghe tôi vượt biên. Tôi nghĩ vậy nhưng cũng không chắc vì khi đó chuyến tôi đi đang ở trong vịnh Thái Lan nơi có nhiều ghe thuyền qua lại khiến chúng chùn tay. Giờ đây, cá lớn ở trong vùng biển quốc tế bao la và nhất là đang trong đêm tối. Bóng tối đồng lõa với tội ác, chắc chắn số phận bi thảm sẽ đến cho người trên cá lớn chỉ trong một chốc lát nữa. Vài thiếu nữ luống cuống cố thu mình trước ánh đèn pha hai tàu Thái và có người đã rấm rứt khóc. Đám nam giới chúng tôi ngồi bất động yên lặng, không có vũ khí trong tay nên ai cũng mất tinh thần. Người nào người nấy nhìn nhau thầm hỏi biết làm cái gì để thoát tay hai tàu Thái. Tôi nghĩ về mẹ tôi cùng các em trai em gái trong nhà, mình vừa thoát tay công an giờ lại gặp bọn hải tặc. Tôi nhớ lời dặn dò của Hường nếu gặp chuyến vượt biên phải báo tin cho nàng biết để gia đình sắp xếp gửi Cao đi cùng. Mấy ngày ẩn náu ở nhà ông Ba, thâm tâm tôi đã ray rức vì không làm tròn điều Hường gửi gấm. Không ngờ như vậy lại may cho gia đình nàng. Tôi nghĩ tới thằng Dũng với lời nó từng kể: " Số tao, mấy người coi tử vi nói đi vượt biên khó thành vì mệnh có cách ngựa què Chiết Túc Mã " mà hoang mang hay mạng của bản thân mình cũng thế? Tôi đã gặp hải tặc một lần và đã thoát nhưng còn bây giờ?
Thêm hồi còi lanh lảnh rít lên từ hai tàu Thái khiến tôi phải ngẩng mặt nhìn chúng. Một chữ T lớn nổi rõ ngay mũi con tàu cao vút phăng phăng lướt sóng theo sát sau chúng tôi. Tiếng loa stop... stop chung với tiếng còi vang vang làm ai nấy trong cá lớn khiếp đảm, tay chân run rẩy kinh hoàng. Ngồi thu mình cạnh cột gỗ, tôi cúi đầu, lẩm bẩm:
- Mẹ ơi! Tàu Thái đến gần quá rồi, con sắp chết đây.
Bất ngờ, thật bất ngờ. Một việc xẩy ra nhanh như cái chớp mắt và tương tự phép lạ đã giúp ghe vượt biên chúng tôi thoát tay bọn hải tặc chỉ trong gang tấc.
Sự việc xẩy đến thật nhanh và bất ngờ trong lúc tôi đang nghĩ về mẹ tôi. Người mẹ hiền, cao tuổi, suốt một đời lo lắng và săn sóc từng chút một khi tôi sống bên bà. Trong mắt bà, tôi vẫn chỉ đứa con trai bé nhỏ dù bây giờ đã ba mươi tuổi. Tôi khiếp sợ lúc thấy hai con tàu Thái đến quá gần vì biết khi ép bắt được cá lớn, chúng chẳng cần giết đám nam giới làm gì cho mệt sức. Chỉ quăng từng người một xuống biển là xong. Sóng biển cùng cơn nắng nóng, chỉ trong vài ngày cả bọn người trên cá lớn chúng tôi sẽ từ từ kiệt sức và chắc chắn là cái chết. Đó là chúng không giết ngay, còn không thì với dao to bản, đòng (sào cây dài gắn dao sắt nhọn như dáo dùng để đâm cá dữ trong lưới) là đồ nghề của ngư phủ cũng sẽ thành vũ khí để chúng thanh toán thuyền nhân nào còn lóp ngóp dưới nước. Khi còn ở trên tàu hải tặc trong chuyến vượt biên lần trước, tôi thấy chúng còn có cả búa tạ, mỏ lết lớn và các đòn sắt dài nữa. Một trong các thứ đó sẽ phạm vào người mình, tôi nhắm mắt ôm chân cột của mái che cá lớn mà rên rỉ. Ôm chân cột hay đang ôm chân từ mẫu, tôi lầm thầm xin bà tha thứ cho các lỗi lầm đã làm thì tai nghe tiếng động rào rào đều khắp. Tiếng rào rào phát ra từ trên nóc ca bin buồng lái càng lúc càng lớn hơn và át cả tiếng máy ghe cùng tiếng người gọi nhau lao xao. Những giọt nước lạnh bắn hất vào người làm tôi bừng tỉnh, mở to mắt nhìn. Một cơn mưa bất thần đổ xuống cá lớn và hai con tàu Thái. Trong phút chốc, hai tàu hải tặc thành các vệt đèn pha mờ đục ngay sau cá lớn chúng tôi. Hạt mưa phản chiếu ánh sáng từ dàn đèn pha vô tình đã tạo thành một bức chắn che mù đôi mắt loài cú nhìn mồi ngon. Mưa dầy nặng hạt quất xối xả vào thân cá lớn làm tôi phải lách người vào sâu hơn trong mái che để tránh nước kịp thấy Tám Kiệt đứng bật dậy lao tới buồng máy, hét lớn:
- Tắt máy... Tắt đèn... Ngừng ghe ngay, Thuận ơi!
(còn tiếp)
-
(tiếp theo)
Máy ghe liền im bặt, cá lớn chạy chậm từ từ. Thuận tắt luôn cả các bóng đèn nhỏ nơi buồng lái và mái che phía sau cá lớn. Chớp mắt, hai con tàu Thái lướt nhanh qua rồi mất dạng trong cơn mưa mù mịt, tầm tã. Chúng đã không thấy cá lớn chúng tôi giữa đêm trường thăm thẳm. Cơn mưa vẫn rớt xối xả khá lâu mới nhẹ hạt dần và từ từ dứt hẳn. Chúng tôi nhìn mặt biển tối đen chung quanh, hai con tàu Thái giờ chỉ là đốm đèn sáng nằm cách chúng tôi tít đằng xa nơi một chân trời. Tám Kiệt cho nổ máy ghe trở lại và dùng ngay đốm sáng của hai con tàu Thái làm điểm chuẩn, y đổi hải trình chạy sang một hướng khác. Cơn mưa bất ngờ đã cứu mạng ghe vượt biên chúng tôi.
- Chúng ta thoát nạn rồi bà con ơi. Ha ha!
Tám Kiệt nói và cười hoan hỉ với những phụ nữ vẫn còn đang trong tâm trạng sợ sệt ngồi đầy trên sập gỗ ngay sau lưng y. Vài người hét lên vì quá vui trước chuyện may bất ngờ. Chúng tôi, ai nấy thở phào nhẹ gánh mối lo. Bây giờ đến phiên Tám Kiệt chạy ghe thay cho tài công bước ra khỏi buồng máy. Thuận đến gần chỗ tôi ngồi và dọn sơ những mảnh vụn mì sợi vương vãi trên sàn ghe ướt nước rồi anh nằm vật ra, ngủ thật ngon lành.
Bình minh đến với hình ảnh cũ, một lòng đỏ trứng gà từ từ nhú lên khỏi mặt biển xanh phẳng lì. Gió thổi nhè nhẹ, mặt biển buổi sáng thật yên lặng không một lọn sóng. Trong cá lớn, hầu hết mọi người vẫn đang cơn ngủ say. Vài người cho nhau biết họ buồn tiểu nhưng dù cố hết sức vẫn không rặn ra được một giọt. Không hiểu tại sao hay đây là dạng sinh lý cơ thể người say sóng biển. Tôi lại kiếm chỗ ngủ cho đến khi tai nghe tiếng người gọi nhau ơi ới để xem cảnh cá heo bơi đua song song với cá lớn. Cá heo cả bầy 3, 4 con có lúc vọt hẳn thân hình xám trắng thon gọn lên mặt nước như thách thức tốc độ, trông thật ngoạn mục. Ở mặt sàn, tài công Thuận ngủ li bì khá lâu như chưa bao giờ anh có giấc ngủ như vậy. Cũng phải thôi, anh đã cầm lái suốt từ lúc cá lớn còn ở trên sông bên quê nhà cho đến tối đêm qua. Nhìn Tám Kiệt bên tay lái ghe, tôi phục ông đã nhanh trí cho ngưng máy đúng lúc. Ngẫm lại cũng là chuyện lạ vì mưa đến rất nhanh, hai con tàu Thái vừa vượt qua cá lớn một quãng xa thì cơn mưa đó liền dứt đột ngột. Một phối hợp nhịp nhàng chính xác lạ lùng. Không ai ngờ đã có cơn mưa kịp lúc và đã mở sinh lộ cho đám người vượt biên chúng tôi. Nếu mưa mang niềm vui cho người này thì sẽ mang nỗi buồn cho kẻ khác như khi mình so sánh giữa người làm ruộng và người bán nước mía khi cả hai cùng trong một cơn mưa.
Cá lớn vẫn chạy đều đều êm ả. Mặt biển chung quanh vẫn một mầu nước xanh và không một bóng tàu, ghe qua lại. Biển ở đây có mầu xanh lá cây rất đậm và có lúc đổi sang tím thẫm. Trời về trưa làm bầu không khí nóng nực, vài người mặt mũi đỏ bừng vì ở ngoài nắng nhiều giờ. Những cụm mây trắng đứng yên trên bầu trời xanh trong vắt không một cánh hải âu. Sau cơn hoạn nạn người trên cá lớn cảm thấy thân thiết hơn, ngồi bên nhau, bàn luận rôm rả về chuyện hai con tàu hải tặc hồi hôm. Ai cũng mừng vì một kết cuộc may mắn đã đến với mọi người trên ghe. Chuyện đã qua, giờ nghĩ lại nếu khi đó chúng tôi có vũ khí và không có cơn mưa thì chưa biết hậu quả của hai bên sẽ ra sao. Có người quả quyết:
- Ghe chúng ta có ông bà theo phù hộ cho con cháu nên mới khiến đổ mưa đột ngột như vậy. Bầu trời trước đó trong veo tui có thấy mây thấy miếc gì đâu.
- Lúc đó tui cứ nghĩ ghe mình tiêu tùng rồi. Nói thật, vái đến được trại tị nạn tui sẽ cạo đầu ăn chay một tháng liền. Một thanh niên vẻ mặt chất phác, góp lời.
Ai cũng đồng ý chuyện ghe bị tàu Thái đuổi đêm qua mới biết hải tặc lúc nào và thời nào cũng có. Thực ra chúng là ghe đánh cá nhưng hễ có cơ hội thì sẵn sàng xuống tay liền. Bàn luận vui vẻ, chúng tôi mới biết thêm về từng người trong nhóm hưởng ứng tác chiến hồi hôm. Dũng, thanh niên nói Tám Kiệt cho sử dụng cây AK 47 vốn từng là bộ đội Việt Cộng thuộc trung đoàn Gia Định. Người dành sử dụng cây Cabin là cựu lính địa phương quân thời trước 30-4 và người thủ lựu đạn mini từng có thời gian đi lính trinh sát thuộc sư đoàn 7 bộ binh miền Nam VNCH. Đàn em Tám Kiệt là những người nhận quả da láng hổ trợ hoặc quả mini còn lại. Cả bọn ngồi bên nhau thân thích như bạn bè hay họ hàng ruột thịt đã xa cách lâu ngày mới vừa gặp lại. Tôi sáp lại ngồi gần họ cho vui. Ông cựu binh địa phương quân nói:
- Mấy anh biết, tui nhận cây Cabin mà lo không biết có tỉa trúng táo thằng giặc Thái nào không, lâu rồi đâu có cầm đến súng.
Một thanh niên ngồi đối diện ông cựu binh, góp lời:
- Tui cũng vậy, lúc nhận lời anh Tám thủ lựu đạn để ném sang tàu chúng, tui cũng lo lắm vì không biết có làm được như ý mình muốn không.
Ông cựu lính trinh sát cười nụ, nói:
- Bây giờ sức bọn lính gìa như mình cũng đâu có còn được như mấy cậu trẻ. Có điều như anh Tám nói, mình không còn sự chọn lựa nào khác, đành phải làm thôi.
- Ông nói đúng đa! Giờ nghĩ lại tui mới thấy sợ. Lựu đạn nổ đúng theo ý mình định đi rồi AK hoặc Cabin quất ngã vài đứa tụi nó và bên ghe mình cũng bị chúng bắn sang làm bị thương hay chết người. Giả dụ tàu bọn chúng bị lựu đạn nổ có thể chìm. Có thể lắm chứ vì mấy ông biết, sức nổ của mini thì ngay cả lô cốt bê tông còn chịu không nổi huống chi là thân tàu gỗ. Tất nhiên ghe mình cũng có thể bị ảnh hưởng vì cự ly hai bên quá gần mà, phải không? Nếu ghe mình an toàn chạy được đến trại tị nạn sẽ phải khai báo ra sao đây? Rắc rối chứ chẳng chơi dù bọn mình trong tình trạng tự vệ. Người đàn ông giữ phi nhựa chứa nước ngọt nói vọng xuống.
Rõ ràng, cơn mưa đột ngột đã vô tình giúp cho cá lớn thoát tay hải tặc và việc đàn em Tám Kiệt bỏ quên túi vũ khí cũng một điều may cho cá lớn cũng như cho cả hai con tàu Thái. Hai phía đã tránh được một đối đầu tàn khốc. Ai nấy đồng ý thêm một điều giúp cá lớn chạy thoát là có máy ghe quá tốt. Từ lúc khởi hành tới giờ chỉ ngưng máy một lần ngắn ngủi, thời gian còn lại chạy suốt mà tiếng nổ vẫn dòn vẫn êm.
Tài công Thuận tỉnh dậy đã vào thay cho Tám Kiệt đi nghỉ. Trời bắt đầu về chiều, gió thổi mạnh làm mặt nước biển sao động thành những cơn sóng. Mỗi khi chiều xuống, mặt trời vừa tắt bóng thì gió biển bắt đầu thổi mạnh liền. Gió thổi càng mạnh, cơn sóng càng lớn thay nhau nhồi lắc thân cá lớn. Những lúc đó, cảm giác say sóng làm cơ thể mệt nhoài trở về với nhiều người trên ghe. Chỉ đến khuya thì trời bớt gió bớt sóng, mọi người khi đó mới dễ chịu hơn và hầu như ai cũng lăn ra ngủ để hồi phục sức lực cho đến lúc bình minh ló dạng. Mặt biển sẽ hoàn toàn êm ả trong ánh nắng ban mai của một ngày mới.
Trời tối dần rồi một đêm êm ả trôi qua, cá lớn vẫn không gặp bất kỳ chiếc tàu chiếc ghe nào khác trên mặt biển bao la. Trưa đứng bóng, Tám Kiệt cùng đám tay chân chụm đầu bàn chuyện riêng mà mặt cả đám lộ vẻ lo âu. Tám Kiệt cùng vài người trong nhóm tác chiến theo ông leo lên nóc buồng lái. Trên mặt ván bằng phẳng, Tám Kiệt trải tấm hải đồ khu vực biển tiếp giáp giữa vùng cực nam Việt Nam với nam Thái Lan và Malaysia rồi y nói với những người chúng tôi vây chung quanh:
- Ghe chúng ta đã đi lạc, tui nghĩ chắc chắn vậy. Bây giờ thực sự tụi tui không biết phải làm sao vì nếu cứ chạy ghe lòng vòng mãi rồi sẽ đến lúc hết dầu, mong các anh em góp ý cho đám tổ chức tụi tui.
Tám Kiệt cho biết vì phải đổi hướng chạy liên tục từ lúc gặp tàu hải tặc và sau cơn mưa nên cá lớn đã không theo đúng hải trình như hồi đầu. Nhìn trời bao la không một bóng chim và mầu nước biển xanh đen thẫm, chẳng nói thì ai cũng biết cá lớn hiện đang ở trong vùng biển rất xa với đất liền.
Chỉ vào tấm hải đồ, Tám Kiệt nói:
- Lẽ ra theo tính toán thì ghe chúng ta đã phải gặp các dàn khoan dầu Mã Lai từ ngày hôm qua.Tụi tui không biết ghe mình đang ở đâu trong vùng lãnh hải này? Các anh từng ở trong quân đội, thử nghiên cứu xem có cách nào giúp cho cả ghe.
Cá lớn tuy có hải bàn, hải đồ và tài công chạy ghe giỏi nhưng đâu phải là hoa tiêu tàu hải quân viễn duyên chuyên nghiệp. Ông tên Hưng, cựu lính trinh sát sư đoàn 7 bộ binh miền Nam VNCH nhìn Tám Kiệt và hết thẩy chúng tôi, nói:
- Hồi trước mỗi lần đi công tác trong mật khu Việt Cộng, tụi tui từng dùng địa bàn định phương hướng và vị trí đứng trên mặt đất liên tục để khi xong nhiệm vụ hoặc lỡ khi bị bọn nó phát giác thì gọi trực thăng UH đến bốc cả toán ra khỏi vùng địch ngay. Khi đó thì có mang theo bản đồ với tỷ lệ xích rất rõ nên việc xác định tọa độ không khó. Ngoài địa bàn và bản đồ, tụi tui còn dựa vào mỏm núi hoặc con suối hay cây to trong vùng để biết chính xác vị trí. Còn bây giờ... Người cựu binh ngập ngừng: " Cái này... chắc tui chịu anh Tám à ".
- Tàu hải quân viễn duyên ngoài hải bàn, hải đồ hướng dẫn thì họ còn có các dụng cụ khác như kính lục phân đo chiều cao bóng mặt trời và tầm xa đường chân trời khi muốn biết tàu của họ đang ở toạ độ nào giữa kinh tuyến, vĩ tuyến trên mặt biển. Thêm vào đó, họ còn phải có niên giám hàng hải cập nhật hàng năm để đối chiếu các dịch chuyển của dòng nước biển nữa. Muốn biết chính xác hơn, các sĩ quan hoa tiêu trên tàu còn phải tính toán cả độ dời sóng. Phải dùng compa, thước kẻ đo đạc và tính toán ngay trên hải đồ. Trời! Chuyện này khó lắm các ông. Một người nói giọng miền Bắc khoát tay phân bua.
Thật đúng, biết được chính xác vị trí ghe tàu trên mặt biển bao la đâu phải một chuyện dễ dàng với những người không phải dân hải quân chuyên nghiệp như Tám Kiệt cùng đám đàn em.
Chúng tôi ngó tấm hải đồ rồi nhìn nhau, lắc đầu xác nhận bó tay. Tám Kiệt lập lại nỗi lo của y khi cho biết dầu diesel chạy máy chỉ còn khoảng trăm lít, cá lớn cứ chạy lòng vòng không phương hướng mãi thì rồi sẽ đến lúc cạn dầu phải ngừng và khi đó sẽ phải thả trôi vô định trên biển. Thấy cả bọn chúng tôi không ai góp tiếng, Tám Kiệt bồi tiếp:
- Nước uống trong phi nhựa cũng sắp cạn, đâu ngờ mình lại chạy lạc như vậy. Không có đồ ăn còn cầm cự được vài ngày nhưng cạn nước uống thì sẽ có người chết ngay. Tui lo nhất là mấy đứa trẻ, các anh em không giúp được thì đành trông vào tàu nước ngoài, may ra gặp được.
Đi vượt biên ai cũng sợ ghe đi lạc ngoài chuyện gặp hải tặc hoặc bão tố, chúng tôi buồn lo vì bó tay không giúp được chuyện Tám Kiệt cần. Tám Kiệt lệnh cho một thanh niên trong nhóm ông ở lại nóc ghe dùng ống nhòm theo dõi mặt biển chung quanh. Xong, ông cùng cả bọn chúng tôi leo xuống trở lại sàn ghe. Cá lớn giờ đây chỉ chạy tốc độ cầm chừng, ai cũng mong gặp được tàu viễn duyên và nếu họ vớt hết người chúng tôi thì quá tốt. Nếu không được như vậy, ít ra cũng sẽ có thêm nước, thực phẩm cùng dầu diesel chạy máy. Ngoài ra, điều quan trọng nhất là chúng tôi sẽ biết vị trí cá lớn ở đâu trên mặt biển và hiện đang cách đất liền bao xa.
Nắng dịu dần và gió bắt đầu thổi mạnh từng cơn khi trời bắt đầu gần chiều. Chợt anh thanh niên trên nóc ghe thò đầu xuống, thảng thốt báo tin:
- Anh Tám ơi! Có tàu lớn phía sau ghe mình, ở hướng 8 giờ đó.
Tám Kiệt cùng cả bọn chúng tôi vội trèo lên nóc ghe trở lại và lần lượt chuyền tay nhau cái ống nhòm để xem. Một chiếc tàu lớn mầu trắng chạy tuốt đằng xa và chờ khi nó đến khá gần cá lớn thì Tám Kiệt ngồi chồm hổm, cúi đầu xuống buồng lái, nói lớn:
- Thuận, Thuận ơi! Tạm ngừng máy đi mậy... thả trôi ghe xem sao.
Chúng tôi đứng hết cả lên, hồi hộp nhìn con tàu lạ càng lúc càng rõ. Nó đang đến gần ghe chúng tôi đây. Một con tàu viễn duyên to như ngôi nhà lớn sơn mầu kem trắng lừng lững lướt qua trong ánh mắt theo dõi, trầm trồ của tất cả người đứng người ngồi trên cá lớn. Nhưng! Suốt dọc theo thân tàu, trên hàng barrie an toàn ở các khoang và cả trong cabin cửa kiếng trong vắt, chúng tôi không thấy một bóng người lai vãng. Con tàu này trông khác với hình ảnh thường thấy ở chỗ nó có bốn cái bồn tròn khổng lồ chiếm hết mặt khoang. Tiếng la tiếng hét cùng những cánh tay vẫy từ người ở nóc ghe, trên mặt sàn... mong có ai đó trên tàu viễn duyên thấy mà ngừng lại nhưng con tàu khổng lồ vẫn êm ả lướt nhanh làm như các hoa tiêu đã xếp đặt máy móc để nó chạy tự động. Chúng tôi tuyệt vọng nhìn vét đuôi con tàu đang dần dần trôi xa. Ai cũng cảm thấy chán nản, mệt mỏi vì con tàu viễn duyên... vô tình. Một người trong đám tay chân Tám Kiệt bực bội, hỏi đổng :
- Sao nó không ngừng lại ta? Kỳ vậy! Bộ bọn người trên tàu đó đi ngủ hết cả rồi chắc?
- Tàu nước nào mà không thấy treo cờ gì cả, phải chi mình có súng bắn hỏa pháo lên để họ biết. Một người đàn ông bảo.
Con tàu chạy đã thật xa, mọi người trên nóc ghe thất vọng, từ từ ngồi xuống trở lại. Thuận ở dưới buồng lái hỏi vọng lên:
- Mình chạy theo đuôi nó hả anh Tám? Em nghĩ cứ bám đằng sau thì thế nào cũng gặp hải cảng hà.
Ý kiến thật hay! Tám Kiệt đã cố tình cho tắt máy ghe, hy vọng con tàu trông thấy may ra sẽ dừng lại giúp nhưng nó bỏ đi thẳng vậy thì mình phải chạy theo nó. Bám theo, chúng tôi rồi sẽ tìm được đất liền vì tàu hàng viễn duyên nào cũng phải ghé vào một hải cảng. Tám Kiệt gật đầu, trả lời đồng ý. Thuận vừa cho máy ghe nổ ròn rã và chuẩn bị vào số để chạy thì có tiếng nói của ai đó:
- Ê! Bà con! Tàu nó quay đầu lại kìa.
Chúng tôi lại nhìn về con tàu viễn duyên đó. Đúng vậy! Nó đánh một vòng cua rồi quay mũi chạy ngược thẳng về phía chúng tôi. Tám Kiệt thấy vậy vội nói lớn:
- Tắt máy đi, nó quay lại kìa. Tắt ngay đi... Thuận.
Tiếng máy của cá lớn lại tắt phụt, chúng tôi hồi hộp nhìn con tàu. Khi chạy đến gần, con tàu kéo một hồi còi rền vang như gửi lời chào rồi nó giảm bớt tốc độ, từ từ đánh một vòng chung quanh cá lớn và sau cùng dừng hẳn lại. Một nhúm 6, 7 người đứng lố nhố bên nhau sát cạnh hàng song sắt barrie gần một cabin cao vút. Một người trong số họ cầm cái loa pin trong tay, nói bằng Anh ngữ vang vang:
- A lô! Các bạn biết nói tiếng Anh không?
Tiếng trả lời có thật lớn cùng một lúc vọng vang từ ghe chúng tôi. Người cầm loa tay đó cho biết không thể vớt chúng tôi được vì trên tàu chở hoá chất nguy hiểm nhưng họ sẽ giúp thực phẩm và nước uống. Nghe họ báo, tôi nhìn kỹ 4 cái bồn tròn khổng lồ, đoán hóa chất chắc chứa bên trong đây. Thảo nào mà họ không thể giúp. Rồi, người cầm loa tay hỏi có cần thêm những thứ gì khác, chúng tôi nói cần dầu diesel chạy máy. Liền sau đó, vài thùng thực phẩm, nước lọc và các can nhựa đựng dầu diesel được con tàu viễn duyên vất thẳng xuống mặt biển. Trước khi bỏ đi, người cầm loa tay cho biết tàu họ đang trên đường đến cảng Kelang của Malaysia. Nghe vậy, chúng tôi vội hỏi cảng Kelang khoảng cách bao xa, ở đâu thì được họ trả lời độ 2 giờ đồng hồ đi biển cùng hướng mà cá lớn phải đi.
Chúng tôi cho nổ máy ghe trở lại và chạy tìm vớt các thùng hàng các can nhựa của chiếc tàu vừa giúp. Hai thùng giấy bọc nhựa kín chứa bánh ngọt loại cracker, mì gói ăn liền và ba thùng nước lọc đóng trong các chai nhựa nhỏ. Ba can nhựa chứa tổng cộng khoảng 90 lít dầu diesel. Bánh cracker và mì gói được chia đều cho mọi người nhấm nháp ăn liền tức khắc. Vỏ các gói thức ăn in bằng tiếng Anh và một ngôn ngữ lạ không phải tiếng Tàu hay tiếng Nhật. Nhưng khi đọc thấy hàng chữ nhỏ xíu Made in The Democratic People's Republic of Korea trên một gói mì sợi thì ai nấy hết hồn. Vài năm trước đã có vụ ghe vượt biên gặp tàu Liên Xô vớt tưởng đã an toàn nào ngờ tàu Liên Xô đó vừa từ Việt Nam ra. Vớt người vượt biên xong, tàu Liên Xô đã quay mũi trở lại cảng Vũng Tàu và giao nộp toàn bộ người trên ghe cho công an Việt Cộng. Tàu Bắc Hàn này lại khác với chuyện về tàu Liên Xô bắt người vượt biên năm xưa mà cũng có thể vì cá lớn chúng tôi đang trong vùng hải phận Malaysia nên họ mới hành xử như vậy. Thuận cho cá lớn chạy theo đuôi con tàu Bắc Hàn giờ chỉ là một chấm nhỏ nhưng không lâu nó cũng mất hút dưới đường chân trời. Nó chạy quá nhanh so với ghe chúng tôi nhưng không hề chi vì Tám Kiệt đã biết phương hướng rồi.
Không một ai trong chúng tôi biết cảng Kelang nằm ở đâu bên nước Malaysia. Làm chuyến vượt biên nhắm hướng Malaysia, thâm tâm Tám Kiệt và đám đàn em nghĩ sẽ dễ dàng đến được đảo tị nạn Bidong nhưng do đi lạc, giờ đây sẽ phải ghé vào cảng Kelang nên ai cũng lo lắng lẫn háo hức. Cảng Kelang này ra sao, cách đảo tị nạn Bidong bao xa? Hình ảnh bến Bạch Đằng cùng các cầu tàu vùng Khánh Hội lại trở về trong trí người gốc Sài Gòn như tôi, Kelang có giống như vậy không?
Nói chỉ 2 giờ đi biển thì sẽ gặp cảng Kelang vậy mà chúng tôi phải chạy ghe tới hơn 4 tiếng đồng hồ mới thấy được vầng sáng phản chiếu của một vùng đất liền khu vực gần cảng. Lúc này thì trời đã sâm sẩm tối rồi. Thấy đến được đất liền, ai nấy trên cá lớn đều mừng rỡ la hét rùm trời. Ngay cả những người nằm dưới khoang hầm cũng cố sức leo lên mặt sàn ghe để nhìn cho rõ. Chúng tôi sắp sửa đặt chân lên một vùng đất nước ngoài chỉ trong buổi tối nay hay sáng sớm ngày mai thôi. Chuyến vượt biên thành công, ai nấy đều nghĩ như vậy và nhìn nhau cười rạng rỡ. Thôi nhé, những ngày lao động chết người, cơn sốt rét rừng ở vùng kinh tế mới, đêm ngủ bất an vì sợ tiếng đập cửa xét nhà thình lình, ánh mắt cú vọ dò xét của công an khu vực... Tất cả, xin vĩnh biệt từ giờ phút này. Thật là mừng.
Tám Kiệt cho cá lớn chạy chầm chậm dọc theo bờ biển khá lâu nhưng vẫn không tìm được lối dẫn vào cảng Kelang dù thấy đường phố, đỉnh lầu các tòa nhà và các dome tròn nhà thờ đạo Hồi thấp thoáng xa xa sau các rặng cây xanh đen trong ánh sáng đèn chiếu đô thị. Vài ghe ngư dân địa phương chạy ngược chiều với cá lớn chúng tôi. Người trên các ghe đó lấy tay chỉ trỏ vào phía bờ biển phủ khói sóng như làn sương xám. Tám Kiệt rất muốn các ghe dân địa phương này ngừng lại để hỏi thăm nhưng họ bỏ chạy xa mất. Dọc bờ biển, nhiều chỗ là các vách đá cao làm chúng tôi sợ vướng đá ngầm ở gần nên không dám chạy thẳng ghe vào. Thấy trời càng lúc càng tối đen khó mà quan sát, Tám Kiệt lệnh cho Thuận kiếm chỗ an toàn, ngừng máy rồi buông neo để sáng hôm sau sẽ tính. Ai nấy rôm rả trò chuyện toàn về các tin vui rồi sau đó lăn ra ngủ ngon lành, một giấc ngủ thực sự an tâm kể từ lúc đặt chân lên cá lớn.
Khi những tia nắng mặt trời ban mai vừa mới ló dạng xua bớt đám sương mù la đà sát mặt nước biển, một chiếc canoe có gắn hàng chữ Pilot từ phia trong chạy ra và đến sát bên cá lớn chúng tôi. Ba người trên chiếc xuồng máy đó bằng Anh ngữ, cho biết họ sẽ chạy trước dẫn đường ghe chúng tôi lối vào cảng Kelang. Các Malaysian này nói họ đã biết cá lớn từ tối hôm qua và định chạy ra đón ngay vì sợ chúng tôi có thể đi vào vùng đá ngầm nguy hiểm nhưng thấy đã neo ghe lại nên họ để yên. Chiếc canoe dẫn chúng tôi đến một vùng cảng tấp nập các con tàu to đùng đang neo gần bên nhau. Tàu hóa chất Bắc Hàn nằm yên lặng khuất sau một bờ kè không xa lắm. Chúng tôi chạy băng ngang qua những cần cẩu khổng lồ gầm gừ, vươn các cánh tay dài vận chuyển hàng hóa lên hoặc xuống cạnh các con tàu lớn. Nhiều người trên ghe xuýt xoa khi lần đầu trong đời được tận mắt thấy một vùng đất của nước ngoài. Hải cảng Kelang này quá rộng, quá đẹp so với thương cảng Bạch Đằng ở Sài Gòn.
Xuồng máy Pilot đó dắt cá lớn chúng tôi đến một bãi vắng vẻ cách xa khu vực cảng và những toà nhà trên bờ. Lấy tay chỉ vào một bãi cát thoai thoải nằm khuất sau một bờ đá, một người Malaysia trên xuồng máy bảo chúng tôi lái ghe tắp vào đó và đậu yên chờ chính quyền họ sẽ đến tiếp xúc sau. Chờ cho tài công Thuận chạy cá lớn vào sát bờ và tắt hẳn động cơ, xuồng máy Pilot mới chịu quay mũi đi ngược trở ra. Đợi một lúc khá lâu để chắc chắn xuồng Pilot đi khuất xa hẳn, Tám Kiệt hối Thuận nhanh chóng nổ máy ghe trở lại, chạy lùi ra một quãng khá xa bờ. Từ nơi này, Thuận đã để máy nổ hết tốc lực rồi cho ghe lao thẳng như tên bắn lướt qua mặt nước, nằm phơi gần hết cái lườn trên bãi cát thoai thoải sát bờ.
Cá lớn đã làm xong nhiệm vụ của nó. Tám Kiệt bước sát bên lườn ghe, ngó xuống mặt nước rồi quay lại nói:
- Thử cho ghe chạy lui xem coi Thuận.
Tiếng máy nổ vang vang, ghe nhúc nhích cố thụt lùi nhưng chỉ giần giật vài cơn. Thuận tăng tốc, máy nổ to hơn mà chiếc ghe vẫn đứng yên không thể chạy lùi ra được. Lườn nó đã bám sát dính vào mặt cát như có keo dán. Tám Kiệt mỉm cười, khoát tay ra dấu cho Thuận tắt máy ghe. Tiếng máy im bặt trả lại sự vắng vẻ, tĩnh mịch của khu vực.
Kinh nghiệm từ những người vượt biên trước viết thư về kể lại, chúng tôi mong khi thấy cá lớn mắc cạn, chính quyền địa phương sẽ không đẩy ghe quay trở lại biển cả. Nhìn mớn nước sát với bờ cát mịn thoai thoải, hiện thời không ai biết con nước đang lên hay xuống. Thấy nước cạn, vài người cả nam lẫn nữ vội tuột xuống bước lội vào bờ, xuyên qua các hàng cây để làm việc vệ sinh cá nhân. Tôi nhìn bao quát chung quanh, xuồng Pilot dẫn cá lớn cập vào một vùng ở đây thật vắng vẻ không bóng người qua lại. Bờ biển rất nhỏ, khuất sau một khu rừng và các đụn cát thâm thấp trải dài rõ là chỗ tắm vắng người. Sau đêm dài ngon giấc, chúng tôi ai nấy đều tỉnh hẳn người kéo nhau bỏ khoang hầm, ngồi chật cứng trên mặt sàn ghe. Dầu vậy, khuôn mặt người nào trông cũng tiều tuỵ vì trải qua những ngày đi biển vất vả và trong bộ quần áo bẩn thỉu.
Chợt có tiếng máy xe nổ gần đâu đây và rồi một chiếc xe sơn mầu xanh lá cây vượt ra từ một bờ cát dọc theo bờ biển tiến thẳng lại chỗ chúng tôi. Một chiếc xe tải quân đội. Chiếc xe dừng hẳn lại, ba người đàn ông da ngâm đen dáng vạm vỡ cao to, mặc quân phục hoa dù, đầu đội mũ beret đỏ nâu, tay thủ súng trường M 16 lần lượt nhẩy xuống. Ba người lính đứng trên bờ dưới các hàng cây im lặng quan sát bọn chúng tôi. Quân phục họ mặc y chang lính nhẩy dù, biệt động quân miền Nam VNCH trước đây. Chiếc xe đánh vòng quay đầu và chạy biến mất sau một bờ cát.
Mấy cha lính này có nhiệm vụ canh giữ cá lớn phòng ngừa mình gặp dân địa phương đây, chúng tôi nghĩ vậy. Ánh nắng ban mai chói lọi rực rỡ, trời đã sáng hẳn rồi, vài phụ nữ trên cá lớn giơ tay vẫy chào ba người lính gác. Họ nhìn chúng tôi, mỉm cười phô hàm răng trắng đều và vẫy tay chào đáp trả. Một dấu hiệu thân thiện.
Gần 2 giờ đồng hồ sau, lại có thêm ba chiếc xe nhà binh chạy đến. Một xe chở đầy lính, một xe đầy các bao bố loại 50 kg căng phồng cùng hai thùng phi sắt nằm trên sàn và chiếc xe thứ ba kéo theo một rờ moọc đằng sau. Đám lính nhanh chóng làm một hàng người sát bên nhau thẳng từ trên bờ xuống cạnh cá lớn rồi họ dùng tay chuyền từng bao bố lên cho chúng tôi. Người trên ghe phải dồn lại để có chỗ chất những bao bố. Chuyền xong các bao bố, đám lính chia ra hai toán chiết nước uống từ cái rờ moọc và dầu diesel ở hai thùng phi sắt sang các can nhựa loại 20 lít. Can nhựa đựng nước uống và dầu diesel cũng được chuyền lên trên cá lớn luôn. Nhìn việc đám lính vừa làm, Tám Kiệt làu bàu:
- Chết mẹ rồi. Nó tiếp tế cho mấy thứ này là để tống cổ mình đi khỏi đây đó mấy cha.
Đúng vậy! Xong xuôi thì một gã lính trên bờ ra lệnh chúng tôi nổ máy và chạy lùi ghe trở ra. Thuận đành phải nổ máy, ai nấy trên ghe hồi hộp chờ chuyện sẽ xẩy đến. Sau chuyến hải hành, cặp được vào bờ an toàn thì người trên ghe rất sợ phải chạy tiếp trên biển. Có sợ cũng phải chấp nhận. Tiếng máy ghe nổ dòn, cá lớn nhúc nhích nhưng không lùi được dù đã gầm rú hết sức. Thật may cho chúng tôi, mớn nước đã lùi khỏi thân ghe vì biển bắt đầu cơn ròng. Đám lính trên bờ chụm đầu trò chuyện rồi khoát tay ra dấu bảo tắt máy ghe và họ tản ra chờ đợi. Không lâu sau, chiếc xuồng máy Pilot hồi lúc sáng và một tàu đánh cá Malaysia lớn hơn chạy đến ngay sau cá lớn chúng tôi. Một thủy thủ nhẩy xuống, lội sang và dùng dây buộc chặt vào hai cột của nóc buồng máy cá lớn. Hai đầu dây còn lại thì được nối thẳng vào mũi chiếc xuồng Pilot và tàu đánh cá. Thuận lại được lệnh của họ cho nổ máy ghe trở lại. Tiếng máy vang lên ròn rã, ai trên ghe đều hiểu chuyện bọn người Malaysia làm. Thế là xong, chúng tôi thật lo vì nghĩ chắc sẽ phải làm tiếp chuyến hải hành.
(còn tiếp)
-
(tiếp theo)
Thuận cho máy nổ dòn chạy số lùi hợp với sức kéo từ hai con tàu Malaysia chực sẵn cố lôi ghe chúng tôi ra khỏi chỗ cạn. Tiếng động cơ của ba cỗ máy gầm rú từng chập nhưng cá lớn chỉ rung nhẹ và vẫn nằm yên tại chỗ. Nước biển đang ròng, cát dán chặt lườn ghe dính chắc luôn vào bãi. Gã chỉ huy trên bờ nói lớn hiệu lệnh cho cả đám lính chạy xuống biển đến sát dọc bên lườn cá lớn và khom người cố sức đẩy. Thấy cá lớn không nhúc nhích, đám lính xì xồ miệng, tay ra dấu lệnh chúng tôi phải nhẩy xuống nước cùng phụ đẩy với họ. Trên cá lớn hầu như chỉ còn phụ nữ và trẻ em. Quá đông người nhưng đứng chùm nhum trong một diện tích nhỏ nên dù loay hoay hợp sức đẩy với đám lính một hồi mà cá lớn vẫn chẳng hề xoay chuyển. Chúng tôi mừng thầm vì rõ ràng con nước đã ròng mạnh, ghe thực sự mắc cạn và lườn bị cát hít dính chắc như keo dán. Thấy chuyện định làm nhưng không thành, đám lính kéo nhau bỏ hết lên bờ. Một gã đến gần ra lệnh cho chúng tôi rời ghe lên bờ nghỉ ngơi, xuồng máy Pilot và tàu đánh cá cũng đã tháo dây bỏ đi. Trước khi đoàn xe nhà binh chạy khỏi bãi biển, gã chỉ huy cho biết sẽ quay trở lại sau buổi trưa.
- Mẹ bà, tụi này nó nhất quyết đẩy bọn mình ra biển đây. Tám Kiệt nói.
Thấy đám lính đi khỏi, chúng tôi vội chuyền vài bao thực phẩm xuống và tản ra ngồi dưới các bóng cây. Mở miệng một bao ra xem thì thấy bên trong có mì gói ăn liền, bánh biscuit, gạo xấy, thuốc lá, diêm quẹt, trà, cà phê, đường và sữa bột. Bao nào cũng kèm theo cả các muỗng nhựa và khá nhiều lon sắt nhỏ mầu đen. Cầm một lon lắc thử nghe tiếng kêu óc ách. Món gì trong lon và sao vỏ nó lại sơn đen? Một người reo lên:
- Úi cha! Có đồ khui nè, mình thử mở xem cái gì bên trong vậy.
Nắp chiếc lon vừa mở kéo theo một mùi thơm bốc lên mũi. Cá mòi sốt với cà chua đỏ đặc sền sệt. Chúng tôi khui thêm các lon khác và cũng món cá mòi đóng hộp. Không có cơm trắng thì đành ăn cá mòi hộp với bánh bisquit mà cũng ngon. Vừa ăn, có người lại thắc mắc tại sao họ phải sơn đen cái lon? Bộ không muốn ai biết lon này chứa thứ gì và từ đâu ra! Có lẽ như vậy vì các gói thức ăn khô ở bao bố được đóng trong bao nylon cũng không một dòng chữ một tờ nhãn ghi bên ngoài. Đúng như lời Tám Kiệt nói, đám lính Malaysia cố tình đẩy ghe mình ra biển sau khi tiếp tế thực phẩm, nước uống và dầu diesel chạy máy. Khi ra biển trở lại, rủi chúng tôi gặp tai nạn thì sẽ không ai biết ghe đã ghé vào Malaysia nhưng không được chính quyền cho cập bến.
- Hồi xưa khi bọn Cộng Sản Bắc Việt chở hàng tiếp tế cho bọn Việt Cộng miền Nam thì cũng có cái màn xoá hết dấu vết, xuất xứ từ vũ khí, thuốc men, thực phẩm và cả máy móc trên con tàu chúng. Ở nước nào cũng vậy, bọn gây chuyện ám muội thì bao giờ cũng dấu việc chúng làm. Người đàn ông nói giọng Bắc ngồi dưới một bóng cây mát gần đó cho biết.
Sẵn có thực phẩm, có thuốc lá... chúng tôi bảo nhau phải ăn phải hút trước hết cho đã miệng, mọi chuyện để qua một bên tính sau. Người hút thuốc thả khói thơm lừng, người ngồi dựa lưng vào thân cây nhâm nhi từng cái bánh nhỏ. Có người ăn vã mấy hộp cá mòi liền mà không ngán miệng. Ăn uống xong xuôi, vài người đi vào khu rừng cây lục lọi sau đó quay ra báo tin có dòng suối nhỏ nước trong vắt ở gần đó. Tôi cùng vài người ngồi gần vội đến ngay và thật may là suối nước ngọt dù chỉ cách bãi biển không xa. Nhiều người thấy có suối nên quá mừng vội cởi ngay quần áo, vục nước lên người tắm kiểu dã chiến. Tôi cũng vậy, giặt sạch bộ đồ bộ đội cũ xong rồi vắt khô mặc trở lại người. Tuy còn ẩm ướt nhưng vẫn dễ chịu hơn cứ khoác mãi bộ đồ hôi hám, bẩn thỉu. Thêm nhiều người khác nghe tin báo về con suối nên cũng mò đến nữa, kể cả phái nữ. Cả mấy ngày liền trên ghe ai nấy quần áo đều dơ dáy, nhơ nhớp nay có dịp gặp nước ngọt nên vội tắm táp, giặt gịa liền. Sau khi tắm rửa sạch sẽ, có người vất bỏ quần áo bẩn tại chỗ mà không giặt. Thấy quần áo họ vất bỏ, nghĩ vì chỉ có duy nhất bộ đồ bộ đội đang mặc trên người nên tôi đến, lựa ra được hai áo thun và hai quần dài còn khá tốt rồi quay qua chung quanh, hỏi:
- Mấy bộ đồ này của ai? Còn mặc nữa không? Nếu vất bỏ thì cho tôi xin nha.
Không ai lên tiếng trả lời, tôi hỏi thêm lần nữa thì một thanh niên đứng gần bên nói:
- Quần áo này dơ rồi, họ không giặt lại vất ở đây là bỏ đó. Anh muốn thì cứ lấy mà xài.
Tôi định đem 2 bộ quần áo bẩn xuống suối giặt thì tai nghe có tiếng xe hơi và sau đó giọng người gọi lớn: " Ê! Có mấy người Malaysia đến kìa " nên vội vàng quay trở ra bãi biển. Hai người đàn ông lớn tuổi, mặc thường phục theo kiểu đạo Hồi áo trắng cùng mũ nồi đen đội trên đầu khệ nệ bưng các thùng giấy nhỏ từ trong một xe van mầu trắng ra. Huy hiệu vầng trăng khuyết đỏ thêu trên ngực áo của hai người. Họ là nhân viên hội Hồng Nguyệt, một hội bác ái y như hội Hồng Thập Tự. Cả hai ông mang cho chúng tôi một số hộp nhỏ nước giải khát như trà hoa cúc, sữa đậu nành, rau má, nước mía ép... Tiếc cái họ không nói được Anh ngữ còn chúng tôi thì cũng chẳng biết tiếng Malaysia nên đành cố hiểu nhau qua các cử chỉ ra dấu.
Cả hai người họ dường như không muốn chúng tôi quay ghe ra biển đi tiếp. Họ lập đi lập lại hai chữ Sungei Besi, Bidong với nhóm người chúng tôi đứng vây quanh. Trước khi bỏ đi, một trong hai ông kín đáo chỉ vào cá lớn và bằng hai bàn tay chụm lại làm bộ dạng như đang đào vật gì đó trên đất. Lập đi lập lại cử chỉ đó nhưng không ai trong chúng tôi hiểu ý định của ông ta. Thấy nhóm người chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau, ông ta mỉm cười hiền lành và quay trở về chiếc xe van.
Malaysia là một quốc gia Hồi giáo trong vùng đông nam châu Á. Y phục trắng với mũ nồi đen trên đầu, hai người nhân viên hội Hồng Nguyệt trông như các tín đồ đạo Hồi ở vùng Hoà Hưng thuộc quận Tân Bình-Sài Gòn. Tại đó có một đền thờ đạo Hồi và khá đông tín đồ sống rải rác chung quanh. Nhóm dân đạo Hồi ở Hòa Hưng không biết chính xác thời điểm bắt đầu cư trú tại địa phương nhưng, nội việc có riêng một nghĩa địa trong vùng thì ắt hẳn họ đã có mặt từ rất lâu đời. Tuy cùng nói tiếng Việt nhưng khuôn mặt và vóc dáng họ vẫn khác hẳn với người Việt Nam vì mái tóc quăn, da ngâm đen, mắt có khoen và cơ thể họ cao to hơn.
Cử chỉ của ông nhân viên hội Hồng Nguyệt khi chụm hai tay đưa lên đưa xuống như đào đất vẫn chưa ai hiểu ý. Đám chúng tôi bàn bạc hay ông ta bảo mình bới cát và đào rãnh dưới lườn cá lớn để nó dễ dàng tuột ra khi cơn triều lên? Không phải như vậy vì ông đã khoa bàn tay lắc lắc khi chỉ ra biến và ngón tay trỏ ông chỉ vào hướng rừng kèm theo các chữ Bidong, Sungei Besi. Cuối cùng, đoán là ông ta muốn chúng tôi ở lại đây và đừng đi tiếp nữa. Ông Hưng, cựu lính trinh sát chợt nghĩ ra một điều nên nói:
- Tôi nghĩ ông ta bảo mình đục cho thủng ghe, mấy anh thấy sao?
Chúng tôi nhìn nhau, một thanh niên trong nhóm tổ chức khẽ trả lời.
- Chắc vậy rồi anh Tám. Phải đục lủng ghe thôi.
Phải đục cho lủng ghe nhưng đục ở chỗ nào để bọn lính khi quay lại sẽ không biết do chúng tôi cố tình phá. Nghĩ vậy nhưng lấy cái gì để làm việc này? Thuận nói ở dưới ghe có sẵn cái búa nhỏ dùng bửa củi nấu ăn cùng một con dao to bản và nhận sẽ thử làm xem sao. Nghe vậy, Tám Kiệt đảo mắt chung quanh và hối Thuận thi hành ngay nhưng kín đáo đừng để thêm người biết chuyện, nhất là đám đàn bà-con gái.
Trời đã quá trưa, ánh nắng chiếu chói chang nóng bỏng. Cảm giác chao đảo khi ở dưới ghe rồi trở về đất liền mà người ta gọi là say đất đã hết thêm có thức ăn, nước uống lại có cả nước suối để rửa ráy mặt mũi tay chân và thay y phục sạch sẽ nên hầu như người nào cũng rút vào trong các bóng râm để nghỉ. Vài bóng hải âu đảo qua đảo lại tìm mồi xa xa ở ngoài biển. Thấy không một bóng người trên bãi cát gần với cá lớn, Tám Kiệt gật đầu ra tín hiệu cho Thuận cùng hai thanh niên khác vọt ngay ra. Biển bắt đầu cơn triều lên, nước đã mấp mé thân cá lớn. Cả ba người nhẩy phóc lên và chui tọt ngay xuống hầm máy ghe. Chốc lát sau họ trở lại mặt sàn và nhẩy xuống nước mà trên vai vác theo một bao thực phẩm cùng hai can nước ngọt làm bộ ra ghe để lấy thêm cho những người cần thêm trên bờ.
- Xong rồi, nước đang vào. Tụi em đục hai chỗ ở phần đuôi. Một thanh niên báo tin.
Thuận mỉm cười, tiếp lời:
- Ghe mình coi vậy mà không chắc đâu nha anh Tám. Mới bửa mạnh vài búa mà ván đã bục ra liền. Nước vô xối xả làm tụi em thấy sợ luôn.
Đám chúng tôi chờ xem chuyện sẽ đến trong tâm trạng lo lắng. Mọi người tản ra tìm chỗ nghỉ, tôi bẻ vài cành nhỏ có nhiều lá rồi đem trải chúng xuống sát một gốc cây và nằm ngay xuống. Gió từ biển thổi vào thật mát, tôi nhắm mắt lim dim ngủ cho đến khi nghe tiếng xe tiếng người nói và tiếng còi huýt toe toe từng chập ngắn. Tôi choàng dậy khi đám lính Malaysia đã quay trở lại đầy đủ ở bãi biển. Lần này chỉ một chiếc xe tải nhà binh nhưng lại có thêm một xe ủi đất bánh xích nhỏ. Một gã lính vẫn huýt còi gọi tập họp trong khi các gã khác xục hẳn vào từng bụi cây để lùa bọn chúng tôi đi ra hết. Họ ra lệnh chúng tôi đứng gọn tại một chỗ. Nhìn nhau, chúng tôi phải trên một trăm người là ít. Đám lính Malaysia cũng lắc đầu vì không dè cá lớn lại có thể chứa được nhiều người như vậy.
Nước biển đã dâng lên ngang thân cá lớn và thỉnh thoảng có sóng nhỏ làm nó khẽ lúc lắc, xê dịch. Đám lính Malaysia nhìn nhau mỉm cười chắc mẫm lần này việc kéo cá lớn ra khơi dễ dàng và như vậy, công tác của họ sẽ kết thúc chóng vánh. Tiếng ghe máy văng vẳng từ xa vọng đến và chỉ có một chiếc là chiếc xuồng Pilot khi sáng. À! Đám lính Malaysia biết nước biển lên cao chỉ cần chiếc xuồng máy Pilot đã đủ sức để kéo cá lớn chúng tôi ra khỏi chỗ cạn. Nếu chiếc xuồng Pilot không đủ lực, đám lính sẽ dùng thêm xe ủi đất phụ sức đẩy cá lớn xuống hẳn dưới nước.
- Thôi rồi. Mình sẽ phải đi tiếp trên biển nữa. Có xuồng máy kéo rồi xe ủi đất phụ đẩy, chắc chắn họ sẽ lôi ghe mình ra khỏi chỗ cạn dễ dàng. Một người lẩm bẩm than.
Xuồng máy Pilot đến sát phía sau cá lớn, một thủy thủ Malaysia phóng xuống nước bơi đứng đến cá lớn và leo lên mặt sàn. Tay y cầm sợi dây định buộc vào cá lớn như lúc sáng đã làm nhưng khi nhìn xuống hầm máy, gã này liền quay mặt hướng về đám lính Malaysia đứng ở trên bờ và xổ ra một tràng. Ngay lập tức hai gã lính khác chạy ra, bước lội đến rồi trèo lên và nhìn xuống khoang hầm ghe. Cả hai gã đi dọc trên mặt sàn và lần lượt nhẩy hẳn xuống khoang hầm xem xét rồi sau đó quay trở về bờ cát trên bờ. Đám lính tụ lại nói chuyện xì xồ với nhau trong tia mắt giận dữ. Họ đã biết ghe bị chúng tôi đục cho lủng.
Nửa tiếng đồng hồ trôi qua trong sự lo âu lẫn mừng vui của đám chúng tôi. Mừng vì biết sẽ không bị ngồi xuống ghe kéo ra biển lớn nhưng lo âu những gì sắp sửa xẩy đến. Gã chỉ huy khoát tay ra dấu cho xuồng máy Pilot và cái xe ủi đất rút lui. Tiếng còi toe toe lại nổi lên, đám lính ra lệnh cho chúng tôi xếp thành một hàng dọc di chuyển theo song song với họ. Vài phụ nữ hì hục xách theo các gói thức ăn còn sót trên bờ nhưng bị mấy gã lính ra hiệu phải bỏ lại trên mặt đất và chỉ được mang các túi xách cá nhân. Đi theo đám lính, chúng tôi vượt qua các đụn cát cùng phần rừng cây thưa thớt rồi đổ xuống con dốc lài và sau cùng băng qua mặt đường nhựa để vào một vườn hoa khá đẹp. Qua khỏi vườn hoa thì đến một sân gạch tiếp nối vào các căn nhà lớn cửa đóng kín mít, đám lính lệnh chúng tôi phải giữ im lặng và ngồi theo từng hàng mười người một. Sau đó, đám lính tản ra đếm tổng số rồi họ đưa một tập giấy để tự chúng tôi chuyền tay nhau, ghi tên và đánh số của từng người. Ngồi gọn thành từng hàng nên rất dễ đếm và thật không ngờ, tổng cộng người trong ghe chúng tôi là 135 người. Vậy, quá nhiều so với sức chứa của một chiếc ghe đi biển nhỏ tí xíu.
Ngồi ở cái sân gạch cả mấy tiếng đồng hồ mà không gặp bất kỳ nhân viên của hội đoàn thiện nguyện quốc tế như Hồng Thập Tự, Cao Ủy Liên Hiệp Quốc (UNHCR)... làm chúng tôi lo lắng không yên. Muốn bắt chuyện với đám lính để dò tin nhưng nhìn quanh thấy họ cố ý đứng ra xa, tách biệt hẳn với đám người Việt chúng tôi. Tuy ngồi thành từng hàng nhưng nhiều người bắt đầu hoán chuyển chỗ với nhau. Họ muốn ngồi gần để có gì thì cùng chịu sống chết bên nhau và chính vậy mới có thêm lệnh mới của đám lính là phải giữ trật tự, ai ngồi đâu yên đấy. Đã có vài người chịu cú đấm, cái đá từ bọn lính rõ là chúng không còn vẻ hiền lành như lúc đầu nữa. Trời chiều dần rồi xẩm tối, muỗi rừng đánh hơi người vo ve bay ra đậu trên mặt trên tay và ngay cả ở phần lưng. Kim chúng vừa nhọn vừa cứng thọc xuyên qua cả vải dầy, chích phát nào phát nấy muốn nhẩy nhổm. Tiếng trẻ con khóc cùng với tiếng đập muỗi lép bép nho nhỏ trong bóng đêm tĩnh mịch. Mùi máu tanh từ xác muỗi bết trên da càng lôi cuốn những con khác đến kiếm ăn. Ai thủ được dầu gió xanh con Ó thì còn đỡ nếu không phải đành chịu trận, chỉ một cách lấy tay xoa xoa hoặc làm quạt để xua đuổi chúng đi. Đám lính mưu chuyện đẩy ghe chúng tôi trở lại biển không được nên đành phải đưa chúng tôi vào ngồi ở đây lâu như vậy, tuy không trò chuyện được với nhau nhưng ai cũng nghĩ chắc để chờ một quyết định từ chính quyền?
Chợt có tiếng xe hơi cùng ánh đèn chiếu lấp loáng từ xa chạy đến làm chúng tôi phải ngẩng đầu lên nhìn. Một xe bus lớn dừng lại gần, đám lính từ các chỗ tối chung quanh tiến lại bên xe và một gã nói to:
- Trẻ em cùng phụ nữ lên xe còn nam giới ngồi yên tại chỗ, xin quí vị thi hành ngay.
Ánh đèn pin trong tay các gã lính loang loáng soi cho đám phụ nữ cùng trẻ em thấy đường để lên xe bus. Vài người trù trừ không muốn chia lìa khi phải đi trước để chồng, thân nhân họ còn kẹt lại. Họ dùng dằng nhưng bị đám lính thúc hối phải trèo lên xe ngay. Xe bus vừa chạy khuất trong bóng đêm, đám lính dồn chúng tôi ngồi gọn lại trên sân gạch và tuy không thấy mặt nhau nhưng chúng tôi ai cũng bồn chồn lo lắng vì cái vụ đi trước đi sau này. Thêm một xe bus nữa có gì khó nhưng sao bọn lính Malaysia lại không cho. Chúng tôi ngồi đó chờ tới gần 2 tiếng đồng hồ nữa thì chiếc xe bus mới quay lại. Lần lượt từng người chúng tôi theo thứ tự đi lên xe. Mọi việc xong xuôi, hai gã lính Malaysia đóng cửa trước cửa sau xe lại rồi đứng trấn tại chỗ. Lên xe rồi mới biết tài xế ngồi lái phiá bên tay mặt và xe chạy giữ lề trái trên đường ngược hẳn với Việt Nam. Xe bus ra khỏi khu vực và nhập vào một con đường to, rộng hơn xa lộ Biên Hoà. Xe chạy rất nhanh rồi rẽ vào một thành phố đèn đuốc sáng rực với các cửa hàng người ra kẻ vô tấp nập. Có lúc xe bus cắt ngang qua các giao lộ đầy nghẹt xe hơi và xe gắn máy nối tiếp đuôi nhau thành dòng khá dài. Chúng tôi trố mắt nhìn phố xá Malaysia về đêm. Sự phát triển và văn minh một đô thị, có lẽ chỉ dễ thấy nhất khi đêm về qua ánh đèn mầu quảng cáo bên vệ đường hoặc từ mặt tiền các tòa bin đinh lộng lẫy. Người ngồi trên xe lao nhao, chắt lưỡi tiếc nuối:
- Nhìn phố xá nước người ta kìa, bỏ xa Sài Gòn mình, cũng do cái bọn Việt Cộng mà ra cả.
Chúng tôi còn muốn được thấy thêm các khu phố khác nhưng xe bus lại quay trở ra xa lộ và sau đó chui vào một con đường đất dẫn vô rừng cây rậm rạp. Đường rừng nên khấp khểnh nhiều ổ gà và các hố lớn đầy nước giữa hai hàng cây. Ánh đèn pha cùng tiếng xe bus khiến một con chim to như con gà hoảng hốt vỗ cánh bay vội vào bóng tối để lại tiếng kêu táo tác trong đêm trường vắng lặng. Một thân cây khô khá lớn bật gốc phơi nùi rễ xù xì, còng queo cùng cành khô không lá nằm sát lề đường và một gò mối nổi hẳn trên mặt đất như ngọn núi nho nhỏ gần ở lối mòn dẫn vào rừng. Chạy xe vào con đường này, không lẽ họ để chúng tôi sống trong rừng sao? Nghĩ như vậy mà đúng vì xe bus chậm dần và từ từ tiến vào một bãi đất trống rồi ngừng hẳn. Chúng tôi có lệnh rời xe trong trật tự. Đèn điện giăng đây đó trên các hàng cọc bờ rào và từ trong các nhà lều soi rõ khu trại vắng vẻ. Hai nhà lều lớn dựng gần bên nhau và cái lều thứ ba nhỏ hơn, nằm xeo xéo đối diện gần cổng gỗ ra vào. Một trại lính dã chiến giữa rừng.
Phụ nữ, trẻ em của chuyến xe bus đến trước im lặng, ngồi tò hỏ gọn một chỗ trong căn nhà lều lớn nhìn đám nam giới chúng tôi mới đến đang đứng tập trung trước sân trại. Trông thấy mặt nhau, ai cũng thở phào nhẹ nhõm. Nam giới chúng tôi được lệnh vào căn nhà lều lớn còn lại sau khi đám lính kiểm danh xong. Tất cả phải để dép ở bên ngoài lều và tự ý sắp xếp chỗ ngồi chỗ nằm của từng người. Nền lều được trải bằng vải bạt dầy nhưng mùi ẩm mốc lẫn với hơi đất vẫn bốc lên mũi. Một gã lính chỉ chỗ nhà vệ sinh rồi thông báo:
- Khuya lúc 10 giờ thì máy phát điện sẽ ngừng chạy chỉ còn đèn bão (đèn dầu có bóng che kín chịu được gió mạnh), khi đó các anh phải nằm yên trong lều và giới hạn đi lại. Cấm ngặt nam giới không được bước vào lều của nữ giới dù với bất cứ lý do gì. Bây giờ mời tất cả quý vị tập trung ra ngoài sân để dùng tạm thức ăn, nước uống thay cho bữa chiều.
Nam nữ chúng tôi kéo nhau ra hết ngoài lều đứng thành hai dãy dài. Các gã lính phát cho mỗi người một gói bánh biscuit và một chai nước lã để lót dạ trước khi ngủ. Vài phụ nữ kể xe bus chở họ đi trước để vào trại dọn dẹp cho sạch hai cái nhà lều dành cho cả bọn. Một bà chu mỏ:
- Tụi tui làm mệt chết mẹ luôn, hai cái nhà lều lâu rồi có ma nào ở đâu, bụi ơi là bụi... Đàn ông-con trai mấy người đi sau khoẻ ru chẳng phải làm cái gì hết, vô đến nơi có sẵn chỗ ở rồi. Chỉ tụi nầy là cực.
Không lẽ ở các nước Hồi giáo, nữ giới bị xem nhẹ hơn cánh đàn ông? Hay là việc dọn dẹp nhà cửa cho gọn gàng, phụ nữ làm tốt hơn nam giới?
Được đám lính cho sinh hoạt thoải mái trước khi máy phát điện ngừng chạy, tôi rảo bước nhìn bao quát chung quanh. Căn trại được ngăn cách với rừng bằng một hàng rào gỗ, rác rưởi vương vãi cùng cây bụi nhỏ mọc từng chùm đây đó trên mặt sân. Tiếng ì ì của máy phát điện nằm dưới một mái che gần bên một rờ moọc đựng nước, loại đã tiếp nước cho cá lớn buổi sáng ở ngoài bãi biển. Hai dãy vừa bàn vừa ghế bằng gỗ rừng nằm dưới hàng cây cao to gần cổng ra vào. Rõ ràng đây là một trại bỏ hoang khá lâu không có người ở. Chỉ còn ít phút nữa phải vào lều đi ngủ, chúng tôi thỏa thuận ngày mai sẽ sắp xếp lại chỗ cho từng người, bây giờ thì nằm tạm. Điện tắt, bóng tối phủ trùm trong tiếng côn trùng rỉ rả khúc nhạc bất tận của rừng đêm. Nửa khuya về sáng trời trở lạnh, không chăn mền đắp ai nên cũng co quắp tay chân sát bên nhau tìm chút hơi ấm. Khác hẳn với lúc ngồi trong cái sân gạch, chúng tôi ở đây ở giữa rừng nhưng không một tiếng muỗi, hình như bọn lính đã xịt thuốc khử cả rồi. Thao thức nhưng rồi cả đám chúng tôi từ từ chìm vào giấc ngủ của đêm đầu tiên ở nước Malaysia.
Tôi tỉnh giấc khi tiếng chim hót cùng tiếng thú rừng kêu râm ran trong làn sương mờ của buổi ban mai. Ở căn nhà lều nhỏ, mấy gã lính Malaysia vẫn cuộn tròn người trong các tấm võng. Trời còn sớm chưa thể ra bên ngoài được, tôi đành ngồi tại chỗ co duỗi tay chân cho bớt mỏi. Ngồi như vậy cho đến khi có tiếng kẻng báo hiệu mới được ra khỏi lều để làm vệ sinh cá nhân. Đến 8 giờ sáng một xe quân đội khá lớn chạy vào trại, vài đứa nhỏ tò mò đến gần xem. 3 gã lính từ căn nhà lều nhỏ đi ra và phụ sức với 2 gã khác trên xe khiêng xuống những thùng giấy khá lớn. Có lệnh chúng tôi xếp hàng tập trung theo thứ tự để nhận đồ dùng cá nhân.
Nghe tin xếp hàng để đám lính phát đồ thì lập tức có màn chen nhau dành chỗ đứng đầu dẫn đến to tiếng cãi cọ. Thấy đám lính bực tức giương mắt nhìn, Tám Kiệt rồi ông Thăng cùng vài người khác vội nói:
- Xếp hàng có thứ tự đi bà con, lần lượt ai cũng có phần hết. Tranh nhau chỗ đứng làm gì, ra khỏi nước rồi mà còn kiểu dành giựt như bên quê nhà tụi lính nhìn vào mang tiếng cả đám đó.
Nói thì nói, tranh dành vẫn tranh dành và chỉ trật tự khi đám lính can thiệp mới yên. Người nào cũng hai gói một lớn một nhỏ như nhau. Mang phần của mình về căn nhà lều, tôi liền mở gói lớn ra xem thấy có kem đánh răng, bàn chải xúc miệng, xà bông cục, khăn nhỏ, khăn lông tắm, cuộn giấy vệ sinh, ca nhựa có nắp đậy và cái chăn đắp. Gói nhỏ thứ hai gồm bịch bánh biscuit và một bọc trà đường còn âm ấm. Cái chăn tuy mỏng tang nhưng khổ đủ rộng cho một người, dầu sao có cái đắp còn hơn không. Bữa ăn sáng chấm dứt mau lẹ. Một xe hơi nhỏ chạy vào ngừng ở sân, hai người mặc thường phục một già một trẻ bước ra gặp đám lính. Tiếng còi toe toe lại nổi lên, tất cả người lớn chúng tôi được lệnh ra sân tập họp trở lại. Ông Malaysia mới đến hỏi: " Trong quý vị, người nào biết Anh ngữ ". Vài cánh tay giơ lên, ông ta gật đầu rồi hỏi vài câu tiếng Anh sau đó chỉ định hai người làm leader cho cả đoàn. Một là ông Thăng, người nói giọng Bắc. Hai là ông Phát, người giữ phi nước ngọt trên cá lớn trong suốt chuyến hải hành. Không ai ngờ tuy nhìn vẻ bề ngoài chậm lụt, lù đù nhưng ông Phát lại nói Anh ngữ như sáo với các ông Malaysia. Cả hai leader, kể từ lúc này sẽ nhận lệnh từ đám lính và chịu trách nhiệm quản lý số người Việt.
- Tôi là Alek, nhân viên bộ Nội Vụ. Bên quân đội báo tin có ghe quý vị ghé vào khu vực cảng Kelang và không thể tiếp tục cuộc hành trình nên họ đưa quý vị tạm dung tại đây từ tối hôm qua. Nay, tôi đến thăm và sẽ cố hết sức để liên lạc với viên chức UNHCR về tình trạng của quý vị. Trong thời gian tạm dung ở đây, mong quý vị giữ gìn nội quy của trại, tôi hứa sẽ liên lạc sớm. Ông Malaysia lớn tuổi nói.
Một gã lính chờ sẵn, cầm tờ giấy đọc lớn các nội quy cho cả bọn chúng tôi nghe. Y đọc to hai lần từng điều một và lệnh cho hai ông Thăng, Phát phiên dịch những việc mà ai cũng biết sẽ phải theo khi sống trong môi trường tập thể như giữ gìn vệ sinh chung, không được ấu đả, không lấy trộm đồ đạc cá nhân của nhau... Có một nội qui khi nghe ông Phát dịch xong đã làm vài cô gái mắc cở nhưng đám thanh niên lại cười đó là cấm không được làm tình với nhau khi sống ở trại.
Khi hai viên chức bộ Nội Vụ ra về, hai ông Thăng và Phát cho biết tất cả phải đi tắm ngay, đàn ông con trai đi tắm trước xong rồi sẽ đến nữ giới. Được phép đi tắm ai cũng khoái nên vội vã quơ quào quần áo, khăn lông, xà bông theo ngay. Một gã lính tay thủ súng trường M 16 dẫn cả đám nam giới ra khỏi trại hướng vào rừng theo lối mòn cũ. Cây rừng có nơi rậm rạp mọc lấn ra tận ngoài mặt đường, nơi lại thưa thớt toàn lau sậy cùng các vạt đất trống xanh rêu. Dấu chân của loài thú nhỏ hai móng chẻ in trên đất đã khô ở vài chỗ ngay mặt đường. Qua khỏi một đoạn khoảng 200 thước, gã lính rẽ vào lối đi nhỏ cắt ngang đường mòn và chỉ hướng dẫn xuống con suối. Y ngồi ở thân gỗ khá lớn gần ngay đó, tựa cây súng trên đùi và bảo chúng tôi tắm giặt trong vòng một giờ đồng hồ. Con suối khá rộng, nước trong vắt chảy lững lờ uốn cong qua các phiến đá bằng phẳng rồi luồn khuất sau các hàng cây rừng xa xa. Theo một đường dốc thoai thoải, chúng tôi lần lượt đặt chân xuống bờ suối. Không có mặt nữ giới, trong chúng tôi có người cởi bỏ hết quần áo tồng ngồng tắm tự nhiên. Nước buổi ban mai rất lạnh làm ai nấy nổi da gà run rẩy nhưng chỉ lát sau thì quen dần. Sẵn xà bông, chúng tôi thoải mái tắm gội và giặt giũ quần áo bẩn. Có người nhắc lại lời hứa của ông bộ Nội Vụ và về nội quy của trại nhất là điều bị cấm. Một thanh niên vui vẻ:
- Không được làm tình với nhau dù là vợ chồng. Cấm thì cấm, dễ gì chịu ăn chay hả anh Tám?
- Nói vậy chứ tao biết anh Tám mình nhát hít hà. Có thèm cũng phải nhịn, sức mấy mà dám mậy. Người khác trả lời.
Đám thanh niên trẻ cười vang nhưng Tám Kiệt khẽ nháy mắt, kín đáo lấy tay chỉ vào thằng bé con y đang ngồi vộc nước gần đó ngầm ra dấu đừng nói bậy, rồi trả lời nho nhỏ:
- Mẹ kiếp! Mày làm như chỉ có mình tao là có vợ đi theo chắc. Thiếu gì người trong ghe nha.
Sau này, tôi mới biết Tám Kiệt không hề là người nhát gan, chính y liều lĩnh đã phá rào bất tuân lệnh cấm của đám lính coi trại.
(còn tiếp)
-
(tiếp theo)
Tuy có những đứa con nít khác đang tắm chung với số người lớn nhưng chuyện tầm bậy tầm bạ vẫn được đám thanh niên trẻ tiếp tục kể rồi cười khoái trá với nhau. Suối ở đây, nước từ trong rừng chảy xuống tràn qua một bãi đá bằng phẳng rồi tạo thành một cái hồ nhỏ dưới đáy toàn sỏi cát, người đứng chỉ tới ngực. Tắm táp đã đời bù lại nhiều ngày ở dưới ghe hôi hám, có người còn nằm lăn trên bãi đá để cho nước chẩy tràn trên thân mình. Ánh nắng bắt đầu chiếu xuyên qua các tán lá cây gần bờ suối, cơn lạnh ban mai đã biến mất hẳn, người nào cũng thơm tho mát mẻ và mái tóc không còn bết cứng như trước. Tôi cũng vậy, tắm sạch sẽ và giặt xong quần áo bộ đội của mình cùng hai bộ nhặt được ngoài bãi biển. Ai cũng muốn ở lại tắm nữa nhưng tiếng còi báo hết giờ từ gã lính gác vọng lại khiến cả bọn phải kéo nhau ra về. Đi trên đường, một người thắc mắc, hỏi:
- Đám phụ nữ cũng tắm ở suối này luôn sao mấy cha. Tắm, theo tôi nghĩ họ sẽ để nguyên áo quần nhưng lấy chỗ nào để thay đồ? Không lẽ phải vào lùm bụi thay như tụi mình hoặc tỉnh bơ ngay bờ suối? Với lại, còn thằng lính gác nữa chứ.
Thắc mắc cũng phải vì có vợ, con gái họ đi cùng. Hai ông Thăng, Phát cho biết đám lính lệnh đi tắm là đi chứ họ đâu dè ở lộ thiên ngoài suối. Bọn thanh niên quả quyết thể nào tụi lính cũng rình xem lén cho đã mắt nhưng chẳng trách đám lính vì, đang trong tay chúng và thực tế nếu mình là bọn lính thì cũng làm y vậy. Có tội nghiệp mấy cô con gái tre trẻ thôi còn đàn bà sồn sồn lớn tuổi thì ai mà thèm nhìn. Tiếng cười hô hố phụ họa, ông Phát phải cau mặt:
- Nữ giới tắm suối mà lính canh trên bờ là nam thì kẹt thật nhưng coi vậy chứ dễ gì mà nhòm lén họ được các cha! Có khăn lông, họ che cho nhau hết, mấy bả hay lắm. Mà thôi, đi vượt biên là phải chấp nhận hết mọi thứ chứ.
Về tới trại, cả bọn nam giới chúng tôi tản ra phơi quần áo trên các sào ngang ở hàng rào cây. Đang lui cui vuốt cho thẳng các bộ đồ ướt, chợt có tiếng nói sau lưng tôi :
- Anh, Anh! Cho xin lại mấy quần áo của em.
Một thanh niên tuổi cỡ 22, 23 mỉm cười sau câu nói, lấy tay chỉ tay vào bộ quần áo tôi đã nhặt và vừa giặt sạch sẽ. Ngạc nhiên tôi hỏi:
- Cậu nói gì, muốn xin lại bộ đồ này?.
Người thanh niên đó ú ớ gật đầu, tôi hỏi tiếp:
- Sao lúc ngoài bãi biển tôi hỏi ai bỏ thì tôi lấy sao cậu không trả lời? Cậu vất bỏ nó mà, phải không?
Cậu ta không trả lời câu hỏi mà cứ nằng nặc xin lại bộ quần áo. Nghe tiếng đôi co, một thanh niên mặt bậm trợn khác đứng gần đó tiến lại bênh tôi:
- Đúng rồi! Khi đó tao có mặt ở đó nè mày. Ông này hỏi hai ba lần mà không ai trả lời. Mày cũng có mặt ở đó, bỏ thì người ta lấy. Giờ đợi người ta giặt sạch sẽ xong xuôi mới đòi xin lại. Đ.M mày tính chơi đểu hả?
- Em chỉ có hai bộ, tưởng đến trại sẽ được phát quần áo mới, đâu ngờ. Tắm xong em chỉ còn quần đùi nè. Cậu ta lí nhí.
Tôi đang trần xì độc một quần tà lỏn, khăn lông khoác trên người và nếu không nhặt hai bộ quần áo ngoài bãi biển thì cũng sẽ không khác. Thôi thì! Tôi khẽ gật đầu đồng cho cậu thanh niên đó lấy bộ quần áo. Chờ cậu ta bỏ đi, người thanh niên còn lại nhìn tôi, nói:
- Anh dễ tính quá, phải em là không được. Ban nãy ở ngoài suối nó cũng thấy anh giặt quần áo chứ bộ, sao không mở miệng xin lại đi, tới đâu thì tới em cũng không trả. Anh tên gì, em là Đỉnh.
- Anh tên Vũ, cám ơn Đỉnh. Tôi trả lời.
Hai chúng tôi rảo bước về căn nhà lều nam giới. Chuyện vừa xẩy ra làm tôi suy nghĩ vẩn vơ không biết sẽ có ai đến xin bộ quần áo còn lại nữa đây? Nam giới về trại giờ đến lượt phe nữ đi tắm, Đào đi cùng Bẩy vừa thấy tôi liền bước đến hỏi:
- Anh Vũ. Nghe nói lính họ cho mình tắm ở dưới suối hả?
Tôi gật đầu xác nhận, hai cô gái nhìn nhau bối rối. Đào tiếp:
- Trời! Ai mà tắm như vậy được.
Làm sao mấy cô gái nầy có thể tắm ngoài suối như đám nam giới! Đây đâu phải là một bãi biển đông người mặc quần áo tắm và nhất là có một gã lính đi theo nữa. Dễ gì mà đám đàm bà-con gái tự nhiên được và đã có người dùng dằng nửa muốn đi nửa lại không. Nhưng nếu không đi, phải chờ ngày mai vì nội quy chỉ cho phép ngày tắm một lần.
- Đám lính ra lệnh đi tắm lè lẹ kìa mấy bà mấy cô, làm ơn nhanh chân lên. Ông Thăng đi tới đi lui thúc giục
Trong căn nhà lều, ông Thăng ông Phát và Tám Kiệt đã sắp xếp lại chỗ ở cho cả bọn. Nam giới cả thẩy là 64 người lớn và 8 bé trai, cứ chỗ cha con, anh em ở gần bên nhau. Căn nhà lều chúng tôi ở nó lớn như một cái nhà nho nhỏ, sườn là các thân gỗ tròn nối với nhau bằng khoen sắt. Nóc phủ vải bạt nhà binh, vách cũng vậy và được kéo căng bằng các dây cố định ở các cọc. Những năm 1972, 1973 ở vùng Củ Chi-Tây Ninh, chính quyền miền Nam VNCH đã dựng hàng loạt loại nhà lều này cho Việt kiều tránh nạn cáp Duôn hồi hương từ Kampuchia về. Một nhà lều, chỗ tạm trú cho hai hoặc ba gia đình nhưng ở đây với 72 người, chúng tôi đành phải vạch 4 phần trên sàn chia chỗ cho cả bọn. Mỗi phần là chỗ nằm của 18 người. Để tiện đi lại, một khoảng trống nhỏ rộng 40 cm hình chữ thập nằm chính giữa bốn phần.
- Bên lều nữ giới cũng phải chia như vậy khi họ đi tắm về, ông Phát nói.
Chỗ tôi và Đỉnh ở sát bên nhau. Tấm bạt nền lều mới toanh thơm mùi thuốc nhuộm lót trên các ván gỗ ép bằng phẳng. Tám Kiệt kể vợ y nói hôm qua vào sớm dọn dẹp hai nhà lều, đã nhặt được các giấy báo cũ tiếng Việt còn sót lại chứng tỏ có thuyền nhân từng tạm trú ở đây. Hai dãy bàn ghế gần cổng trại ước chừng chỉ ngồi được độ 60 người, như vậy trại này dành cho những thuyền vượt biên nhỏ.
Lần lượt vài phụ nữ đi tắm về trong tay cầm bộ quần áo vừa giặt. Ai cũng trông tươi tắn trong bộ quần áo sạch sẽ và có người lại cầm cả chùm trái chôm chôm vàng tươi. Chôm chôm này ở đâu ra? Một bà đưa vài quả chôm chôm cho thằng bé con trong nhà lều. Hỏi, bà ta trả lời:
- Cây chôm chôm gần chỗ tắm trái nhiều lắm nhưng còn xanh, tui bứt được ít trái chín ở cành thấp thôi.
Cây chôm chôm gần chỗ tắm! Như vậy, đám nữ giới chúng tôi đã tắm ở một chỗ khác của con suối.
Đến trưa, đám lính thổi còi tập hợp khi có một xe nhà binh vào trại. Xe chở cơm cho chúng tôi cùng đám lính gác. Hai thùng nước nóng được chuyền xuống cùng các thùng chứa cơm, canh. Như buổi sáng, trẻ em đứng trước rồi phụ nữ và sau cùng đám nam giới. 3 người lính chia cơm trắng, cá, canh rau đựng trong dĩa và tô giấy cứng. Chỉ có muỗng bằng nhựa đúc. Hai dãy bàn ngồi chật chỗ, người đến sau đành đứng hoặc chồm hổm trên đất. Mỗi người bất kể lớn nhỏ đều một con cá chiên rất dòn. Món canh không ai ngờ, đó là rau muống nấu với cá cơm nhỏ. Ông Thăng nói.
- Mấy bà miền Nam hết nói chúng tôi dân Bắc Kỳ rau Muống nghe, thấy người Mã Lai họ cũng ăn rau Muống chưa?.
- Họ biết mình người Việt nên nấu canh rau Muống cho mình ăn đó. Một người cãi lại.
- Thôi đi cha, sao họ biết mình ghé vào mà trồng sẵn rau Muống. Mình là ông nội họ chắc? Tui nghĩ dân Mã Lai cũng ăn rau Muống nhưng khác ở chỗ họ nấu bằng cá cơm thay vì thịt heo hay tôm khô như mình. Người khác đáp lại.
Cơm ngon nhưng chỉ có một dĩa nên ai cũng thanh toán lẹ làng, đám lính trên xe thu dọn đồ lề rồi rút gọn. Một giờ sau lại có lệnh buộc đám nam giới chúng tôi dọn dẹp sân trại lần nữa và sửa chữa cái hàng rào cùng bàn ghế hư cũ. Ông Thăng, ông Phát liền chia người ra ba nhóm đi vét các rãnh nước chung quanh hai căn nhà lều phòng trời mưa và đào thêm nhà vệ sinh cùng các hố tháo nước. Nhóm còn lại vào rừng chặt một số cây thẳng để gia cố các chỗ hỏng, gẫy mục cho cứng chắc.
- Không nên một mình vào rừng vì ở đây có cọp, trăn và rắn độc. Gã lính dặn dò nhóm người chặt cây làm hàng rào.
Phía nữ được ở yên chỗ, một bà thấy chỉ có nam giới phải đi làm nên nói:
- Tối hôm qua mấy ông ở không, giờ họ bắt làm bù mới công bằng chứ.
Tôi và Đỉnh ở trong nhóm mười hai người đi vào rừng chặt cây. Gã lính dặn ông Thăng nói chúng tôi phải xong mọi việc trước 5 giờ chiều rồi y lấy ra 3 cây mã tấu cho cả bọn dùng. Đi chung với nhau ai nấy cười đùa vui vẻ, nếu có cọp hay trăn mà gặp đám đông như vầy thì cũng phải chạy tét. Mấy thanh niên cầm mã tấu đi đầu, tay loang loáng chặt các cây nhỏ cản đường. Nói vào rừng chặt cây nhưng thực tế chúng tôi phải đi kiếm mới có loại cần dùng. Cả đám vượt qua các khoảng rừng cây to, có lúc gặp thân cây mục nằm vật ngang giữa đường phải tìm cách trèo qua đi tiếp. Gặp cả những bụi tre rừng rồi qua bãi cỏ tranh thì may sao gặp được một khu vực có cây chồi nhỏ mọc sát thân thẳng tắp. Chúng tôi dừng lại, trong nhóm có người từng có thời đốn cây rừng hầm than góp ý:
- Mình chẳng ở trại này lâu, theo tôi nên tìm cây tạp đừng lựa cây lá kim gỗ cứng khi chặt sẽ đau tay lắm, phí sức.
Chúng tôi lựa những cây thẳng, to bằng cườm tay và dài khoảng 3 m vừa tầm với hàng rào. Chớp mắt đã đủ số được giao 3 cây cho mỗi người. Cả đám xong việc sớm ngồi nghỉ, vài người phàn nàn về bữa cơm trưa. Con cá chiên khá lớn và canh nhiều mà cơm lại ít xỉn, người lớn hay trẻ nhỏ gì cũng một dĩa bằng nhau. Chia hết vòng vẫn còn dư cơm mà đám lính cũng không múc thêm cho. Một ông vóc dáng to con, bực bội:
- Nói thẳng, sức tôi phải 2 dĩa thì mới thấm. Mấy người có con nhỏ còn được ké thêm. Cơm dư trong thùng mang về cũng bỏ, không lẽ lính chịu ăn thừa? Vậy mà cũng không cho.
Có lẽ phần ăn của từng người chúng tôi là như vậy, đám lính chỉ thừa hành lệnh cấp trên.
Ngồi không, có người đề nghị đi sục sạo kiếm trái cây rừng để ăn cho vui miệng nhưng người khác lại sợ vì lời dặn của đám lính trước khi đi. Rừng Mã Lai có loài cọp nhỏ cỡ con chó lớn nhưng rất hung dữ. Còn trăn? Tuy không có nọc độc nhưng loài này có thể quấn chết rồi nuốt sống gọn một người lớn như chơi. Nhất là loại trăn gió, chúng có thể chuyền từ cây nầy sang cây khác để tìm mồi mà không gây một tiếng động. Ngồi không mãi một chỗ cũng chán, cả bọn quyết định cắt rừng để quay trở về. Gần tới trại, chúng tôi gặp một khoảnh đất trống trải nằm lọt thỏm giữa cây rừng bao chung quanh. Cả đám dừng lại bên cây Thánh giá gỗ có hàng chữ đen Truong Cong Dai mờ nhạt cắm ở một trong các gò đất lúp xúp. Một nghĩa địa người vượt biên từng sống ở đây. Tên là nam giới rõ ràng nhưng Dai là Đại, Đãi hay Đài? Người này chết lâu mau vì không thấy ghi ngày sinh ngày tử? Tuy vậy, nạn nhân vẫn hơn các người khác vì có cây Thánh giá ghi tên. Nằm xuống vĩnh viễn ở rẻo rừng xứ người, chắc gì thân nhân của họ bên quê nhà đã biết tin.
Gặp nghĩa địa, đám chúng tôi ai nấy cũng cảm thấy buồn buồn trong lòng. Một ông làm dấu đạo Thiên Chúa, miệng lầm thầm nguyện kinh nho nhỏ. Đêm bị tàu hải tặc đuổi, nếu không có cơn mưa đột ngột, số phần chúng tôi chắc không khác những người tị nạn bất hạnh nằm ở đây. So ra, ghe chúng tôi thật may mắn vì đến được xứ người bình an.
Cây thẳng mang về tới trại, gã lính mang ra búa và đinh cho cả bọn gia cố các chỗ hư hỏng ở hàng rào và ở hai dãy bàn ăn. Hai nhóm kia cũng đã làm xong các việc được giao, căn trại bây giờ trông sạch sẽ hơn. Ai nấy mồ hôi nhễ nhại nên ông Thăng ông Phát xin phép bọn lính cho chúng tôi được đi tắm thêm lần nữa. Đám lính gật đầu, chúng tôi hăm hở lên đường. Đến gần suối, để ý thật kỹ cả bọn mới thấy có thêm một lối mòn khác nằm phía tay trái, ngược với hướng con suối nam giới tắm. Lối mòn đó là hướng đi tắm của nữ giới trong trại.
Bữa cơm chiều cũng món ăn y như khi sáng nhưng nam giới do làm việc, ai cũng đói bụng nên ăn thật ngon.
Chúng tôi đã sống trong căn trại này được ba ngày. Cứ tuần tự sáng dậy sớm lúc 7 giờ vệ sinh cá nhân, 8 giờ ăn điểm tâm, 9:30 nam giới đi ra suối tắm giặt. Khi đám nam giới về thì đến phiên nữ giới. Xong vụ tắm giặt trời đã trưa, chúng tôi phải chờ đến 1 giờ thì xe chở cơm mới đến. Bữa cơm chiều lúc 5 giờ, sau đó chẳng có việc gì làm ngoài chuyện nằm ngủ, đi tới lui trong sân hoặc tụ họp nói chuyện đời cho đến khi trời tối. Tối, cả bọn kéo vào căn nhà lều và chờ đến 10 giờ khuya khi đám lính ngưng máy điện thì ngủ.
Lính gác trại không ăn sáng như chúng tôi mà hầu như chỉ cà phê thuốc lá. Thỉnh thoảng, mới thấy họ nấu mì gói để điểm tâm. Cơm trưa hoặc cơm chiều khi xe chở đến trại, đám lính cũng nhận khẩu phần đựng trong các khay nhôm che kín nên không ai biết loại thức ăn gì ở bên trong? Ngày hôm qua, ông nhân viên bộ Nội Vụ và hai sĩ quan quân đội vào thăm chúng tôi sau bữa ăn trưa. Đi lòng vòng trong trại, vẻ mặt họ hài lòng khi thấy căn trại sạch sẽ và gọn gàng. Ba người họ thông báo cho chúng tôi biết là đã liên lạc với đại diện của UNHCR tại Kuala Lumpur xong. Ông Thăng hỏi họ bao lâu nữa thì chúng tôi rời khỏi trại và rồi sẽ đi đâu? Vào Sungei Besi hay ra đảo tị nạn Pulau Bidong? Ông Alek bảo chúng tôi cứ chờ và sẽ được thông báo sau. Khi biết ghe chúng tôi ra khỏi nước đã hơn tuần lễ, một sĩ quan quân đội lấy ra một chồng giấy cùng bút mực và bì thư cho chúng tôi, nói ai muốn gửi thư cho thân nhân thì viết ngay. Ông ta sẽ ghé lại trong vài ngày tới và chuyển các thư về Việt Nam liền. Tôi xin giấy viết liền thư cho gia đình.
Ăn ở không nhưng ai cũng cảm thấy bụng rất mau đói và mong giờ cơm tới sơm sớm. Có một bất tiện trong việc ăn uống đó là xong bữa cơm chiều lúc 5 giờ thì chúng tôi phải qua một đêm dài đến 8 giờ sáng hôm sau mới có điểm tâm mà chỉ vỏn vẹn một gói bánh qui nhỏ cùng bịch nước trà đường nóng khoảng 1/3 lít. Thời gian cách quãng giữa hai bữa ăn đó quá dài làm nhiều người cảm thấy sót ruột vì bụng trống, nhất là các cháu bé. Trẻ nít khóc vì đói, cha mẹ nhìn con mà bó tay còn người lớn đánh lừa bao tử bằng các hớp nước lã. Những người có con nhỏ như Tám Kiệt, ông Thăng... bàn nhau thử dò hỏi bọn lính gác để mua thêm thức ăn. Đám lính lúc đầu gồm 6 người nay rút xuống chỉ còn 3. Mới bàn và chưa kịp dò ý với bọn lính thì chính chúng lại tỏ ý trước. Chúng biết người vượt biên có vàng, dollar mang theo. Xã hội nào cũng có người nghiền thuốc lá điếu, cà phê và nếu thiếu các thứ này, mặt người đó sẽ tiều tuỵ, cơ thể mệt mỏi tuy... không chết. Sơ khởi, bọn lính mang thuốc lá điếu và cà phê ra bán nhưng chỉ nhận tiền Ringgit (tiền Malaysia) thôi. Thấy người trong chúng tôi sùy ra dollar, chúng vờ vĩnh không biết xài mà chỉ đòi tiền Ringgit. Do vậy, đành phải để chúng đổi dùm luôn. Cứ 100 dollar Mỹ, chúng đổi lấy 200 Ringgit. Hối suất hai loại tiền thực sự bao nhiêu thì không ai biết nhưng bọn lính phải có lời. Được cái tiền Malaysia có giá trị vì chỉ 10 Ringgit thì cũng mua được kha khá thức ăn. Ai không có dollar mà có nhẫn vàng 24 cara thì chúng cũng sẵn sàng đổi giùm luôn. Thậm chí, đồng hồ đeo tay chúng cũng nhận đổi nhưng phải còn mới và tốt.
- Đến được đây coi như thành công, còn cái đồng hồ đổi lấy tiền mua thuốc lá hút cho miệng đỡ nhạt. Không có đồng hồ cũng chả sao. Một ông tháo cái đồng hồ Seiko 5 trên tay, phân bua trước khi đưa cho gã lính.
Giờ đây muốn có thứ gì chỉ cần đưa tiền ra, đám lính phóng xe máy chạy đi mua liền. Có người nhờ mua cả bếp dầu, chảo và xoong-nồi nhỏ nhưng không phải ai cũng có dollar thủ trong người hoặc sẵn vàng, tư trang quý để trao đổi với đám lính. Người có Ringgit mua thêm thức ăn, cà phê và thuốc lá về nhâm nhi làm người không có rất thèm. Đành chịu, không lẽ mở miệng xin. Tám Kiệt thấy vậy, y lẳng lặng bỏ tiền mua thêm cà phê, thuốc lá cùng bánh kẹo cho người trong trại hưởng chung. Tâm lý con người thật kỳ, lúc đầu thấy hành động của Tám Kiệt làm thì ai cũng khen thầm rồi chỉ sau một hai ngày cà phê thuốc lá đã có tiếng xầm xì sau lưng. Nói Tám Kiệt thu được khối vàng khi tổ chức vượt biên và hối lỗi, muốn mua cái đức cho mấy đứa con sau cơn hút chết trên biển. Tám Kiệt nghe được các chuyện đó, mỉm cười thố lộ:
- Đầu người đi trong ghe chỉ 2 cây nếu khách trực tiếp nói chuyện với tui. Còn mối của ai khác sang qua mất bao nhiêu tui không quan tâm. Cả ghe 135 người đi thì đã 30 người là gia đình, bà con và trong băng tui. Số khách còn lại, tưởng nhiều thật nhưng tiền công đưa rước rồi phải cúng cho bọn công an nên cũng chẳng dư bao nhiêu. Cái chính là tui đưa gia đình đi thoát là mừng, sang được xứ người thì mình sẽ làm lại cuộc đời mấy hồi.
Thực ra trong túi nhiều người cũng còn tiền nhưng loại tiền đã thành các tấm giấy màu không chút giá trị, đó là tiền in hình lão già. Đủ loại tiền từ tờ bác đau gan, bác sợ cho đến bác say rượu (tiền Việt Cộng có hình mặt Hồ Chí Minh mầu vàng 200 $, mầu xanh xám 50.000$ và mầu đỏ 500$, 10.000). Nhiều người lấy tiền đó vất bỏ gần hố rác sau khi cho đám lính xem. Thấy vậy, tôi gom lại được một bó ước đoán trên 7 triệu đồng và cất trong túi xách dù chưa biết sẽ làm gì với số tiền này.
Buổi tối, bóng người lui cui nấu nướng bên những ánh lửa xanh của các bếp dầu ở mé sau căn nhà lều nữ giới. Mùi món ăn, cà phê nóng bay thơm ngào ngạt trong tiếng xèo xèo chảo chiên.
Mối thân thiện giữa đám lính gác và người trong ghe tăng lên. Một gã lính trẻ tên Daniel có máu văn nghệ, y có một cây đàn Guitar. Vài người trong ghe cũng biết chơi Guitar nên nhanh chóng thân thiện với gã. Trưa nào cũng vậy, sau bữa cơm thì túm tụm dưới bóng mát một nhúm con trai con gái đàn hát bên nhau. Nhạc Việt, nhạc Mã hoặc nhạc trẻ ngoại quốc văng vẳng trong cái tĩnh mịch của trại lính giữa rừng.
Thư chúng tôi viết xong, viên sĩ quan quân đội ghé vào trại lấy đi rồi nên ai cũng vui khi nghĩ thân nhân bên quê nhà sớm muộn gì cũng biết tin về chuyến đi. Ở yên chỗ, tạm thời vất bỏ các lo lắng trước mắt, các cô gái trẻ se sua lại y phục, trang điểm khuôn mặt và mái tóc mỗi khi đi tắm về. Theo đề nghị của nhiều người, đám lính cho phép chúng tôi vào rừng lần nữa để chặt cây về làm thêm hai dãy bàn ăn. Rồi kế đó thì ở mé sau căn nhà lều nam giới, đất cũng được chúng tôi san phẳng và cất một lều tròn nhỏ lợp tranh có cả bàn ghế nghỉ trưa. Nhờ vậy, tới giờ ăn, ai cũng có chỗ ngồi ở bàn gọn gàng không còn cảnh bưng dĩa cơm đứng lêu bêu hoặc ngồi bệt dưới đất như trước nữa. Ngồi chung bàn ăn cơm, một hai lần tôi đã đối mặt với cô gái ở dưới khoang hầm cá lớn và biết tên cô là Đoàn Hải Yến, 20 tuổi. Chim én biển họ Đoàn, cái tên đẹp như khuôn mặt cô. Từ lúc còn ở ngoài bãi biển, cô đã nhận ra tôi là người bên cô dưới khoang hầm cá lớn và đã đến hỏi chuyện. Én biển nhưng chịu không nổi các cơn sóng. Có lần, trong bữa cơm Yến đã hỏi tôi khi đó đang ngồi chung với Đỉnh:
- Anh Vũ! Yến nghe mấy chỉ nói người nào là lính VNCH hoặc liên quan với chế độ cũ thì sẽ được họ cho vào Sungei Besi, còn không thì sẽ phải ra đảo Bidong ở. Phải không?
Tôi gật đầu dù không biết chắc về cái tin đồn. Đầu đuôi câu chuyện là do lính gác trại xì ra cho mấy cô gái biết và đám đàn ông đã bàn bạc liền ngay đó. Người gốc lính hoặc viên chức thời miền Nam VNCH như ông Hưng ông Thăng, ông Phát... đều phấn khởi vì nghĩ vào được Sungei Besi thì chỉ chờ làm thủ tục đi định cư tại đệ tam quốc gia. Phải chuyển ra đảo Bidong thì bị xét lý lịch và phải chờ rất lâu nếu nhân thân lờ mờ hoặc thuộc phe Việt Cộng. Đỉnh ngồi cạnh, hích nhẹ đùi vào chân tôi miệng cười tủm tỉm. Yến đã hai lần mang cho tôi mì gói và thuốc lá. Tôi không hút thuốc định đem trả thì Đỉnh giữ lại dành phần cho nó. Sau lúc đôi co giữa tôi với cậu thanh niên đòi lại bộ quần áo rồi do sắp xếp, Đỉnh và tôi nằm sát bên nhau trong căn nhà lều khiến cả hai thân thiện với nhau hơn, đi đâu cũng hai đứa. Có lần Đỉnh đã kể về cha ruột hiện đang sống tại Mỹ.
- Ba em là trung úy tòng sự tại nha an ninh quân đội miền Nam VNCH. Sau ngày 30-4-1975 ổng bị Việt Cộng tập trung cải tạo như các sĩ quan khác. Mẹ em tưởng chỉ có một tháng sẽ về nào ngờ ông đi đằng đẵng cả mấy năm. Anh biết khi đó em mới có 13 tuổi còn niên thiếu, biết gì. Lúc mấy tháng đầu không thấy ba trong nhà, em cứ hỏi mẹ rồi hỏi mãi thì mẹ em gắt không biết nên sợ không dám hỏi nữa. Cả năm trời không thấy ba em về mà cũng chẳng có tin tức gì của ổng, mẹ em ra chợ Tân Bình, sang lại một sạp buôn bán quần áo cũ sống qua ngày chờ xem tình hình. Bất ngờ có thư của ba gửi về cho biết chỗ ổng bị giam, mẹ em mừng quá liền đi thăm ngay nào ngờ khi đến nơi, quản giáo nói ông đã bị chuyển sang trại khác. Mẹ em đành quay về, lên phường xin giấy đi thăm nuôi thì bọn công an bảo chưa được phép, phải chờ. Chờ cả mấy tháng trời không được cấp giấy, mẹ em lại đến trại của ổng thì được biết đã chuyển đi nơi khác rồi và lần này thì quản giáo không biết ổng chuyển đi đâu nữa. Mãi hơn ba năm cho đến một hôm thì tự dưng bọn công an phường đến nhà hỏi thăm nhiều chuyện về ba càng làm mẹ em lo lắng, rối trí thêm. Rồi một lần, có vài người lạ mặt đến gặp mẹ em và gặp riêng cả em nữa anh.
Ngừng một chút, Đỉnh tiếp:
- Mấy người đó tự xưng họ ở trong tổ chức phục quốc và muốn liên lạc gấp với ba em, hỏi em biết ba đang ở đâu thì chỉ chỗ. Em đâu biết phục quốc phục kiết gì. Phần mẹ em thì ngạc nhiên vì từ lúc ba đi cải tạo tới giờ còn không biết chỗ để liên lạc thăm nuôi. Khi mấy người này đi khỏi nhà thì mẹ em lờ mờ đoán đã có chuyện với ba em. Khổ cái gia đình không biết đi hỏi dò tin tức ở đâu. Đỉnh dứt lời, ngồi im lặng như nhớ về chuyện cũ.
- Rồi sao nữa, kể tiếp? Tôi hỏi dồn Đỉnh.
- Một ngày vào cuối năm 1980, lúc đang bán hàng ở chợ thì mẹ em tình cờ gặp lại một thuộc cấp dưới quyền ba em khi trước. Nhờ ông này, mẹ em liên lạc được một người cải tạo đã có lúc ở chung trại với ba em và được chính quyền CS thả về sớm. Đến nhà ông ta rồi thì mẹ em mới biết ba đã trốn khỏi trại Suối Máu từ cuối năm 77.
- Trốn khỏi trại từ năm 77 mà ba mầy không về nhà? Tôi hỏi.
Đỉnh lắc đầu, kể tiếp:
- Mẹ em nghe tin kể, về đến nhà thì lâm bịnh vì chuyện đó. Thời gian ổng bỏ trốn trại, tính ra đã quá lâu mà không thấy về nhà nên mẹ em nghĩ ba đã chết. Mẹ em bịnh nằm đó, bỏ mặc việc đời. Lúc đó em đã hơn 18 tuổi nên phải thay mẹ bán hàng nuôi cả nhà. Quên không nói anh biết trong nhà còn 2 đứa em gái nữa. Chính vì bán hàng ở chợ trời nên khiến em có cái tính du côn trong người nhưng thực sự không phải như vậy.
Đỉnh cười hiền lành, tiếp:
- Cả năm trời mẹ em nằm liệt trên giường gần như buông xuôi tất cả thì gia đình nhận được tin ba em đang sống tại Mỹ.
- Sống ở Mỹ! Sao biết ba em ở Mỹ? Tôi ngạc nhiên:
- Từ lá thư của ổng gửi bên Mỹ về và nó đã cứu mạng mẹ em. Trước lúc đó, anh biết sức mẹ em yếu lắm, bà buồn rồi bịnh gần như sẽ chết. Lá thư là thuốc tiên đã làm bà trỗi dậy được và hồi phục nhanh chóng. Sau lá thư là các thùng hàng ba em gửi về giúp gia đình. Nhờ vậy mà mẹ em đã có phương tiện để lần lượt lo cho từng người trong nhà đi vượt biên, kể cả mẹ em nữa. Người trong nhà em đi chuyến nào thắng chuyến đó, chỉ có mình em bị trục trặc hoài. Đánh chuyến nầy mới thoát đó anh.
- Ba mày trốn khỏi trại tù cải tạo rồi sau đó vượt biên tới Mỹ phải không Đỉnh? Chuyện ly kỳ nha mày mà có biết chuyện của ông trốn trại như thế nào không? Tôi thắc mắc.
Đỉnh lắc đầu, tiếp:
- Đại loại câu chuyện là vậy. Em cũng không biết chuyện ông đã làm ra sao, định bụng khi nào sang được Mỹ gặp nhau thì sẽ hỏi cho rõ.
- Phải bị chuyển ra ở đảo Bidong khổ lắm, Yến nghe bảo còn phải chở nước uống từ đất liền ra nữa phải không hai anh? Lời cô gái kéo tôi về cuộc trò chuyện, Đỉnh ngồi yên không đáp, tôi nói:
- Anh không biết rõ. Nếu có như vậy thì chật vật thật mà cũng không chắc vì đảo nào cũng có các nguồn nước ngọt tự nhiên. Tôi kể cho Đỉnh và Yến nghe về lần bị kẹt ở hoang đảo trong chuyến đi vượt biên kỳ trước.
(còn tiếp)
-
(tiếp theo)
Tuy có những đứa con nít khác đang tắm chung với số người lớn nhưng chuyện tầm bậy tầm bạ vẫn được đám thanh niên trẻ tiếp tục kể rồi cười khoái trá với nhau. Suối ở đây, nước từ trong rừng chảy xuống tràn qua một bãi đá bằng phẳng rồi tạo thành một cái hồ nhỏ dưới đáy toàn sỏi cát, người đứng chỉ tới ngực. Tắm táp đã đời bù lại nhiều ngày ở dưới ghe hôi hám, có người còn nằm lăn trên bãi đá để cho nước chẩy tràn trên thân mình. Ánh nắng bắt đầu chiếu xuyên qua các tán lá cây gần bờ suối, cơn lạnh ban mai đã biến mất hẳn, người nào cũng thơm tho mát mẻ và mái tóc không còn bết cứng như trước. Tôi cũng vậy, tắm sạch sẽ và giặt xong quần áo bộ đội của mình cùng hai bộ nhặt được ngoài bãi biển. Ai cũng muốn ở lại tắm nữa nhưng tiếng còi báo hết giờ từ gã lính gác vọng lại khiến cả bọn phải kéo nhau ra về. Đi trên đường, một người thắc mắc, hỏi:
- Đám phụ nữ cũng tắm ở suối này luôn sao mấy cha. Tắm, theo tôi nghĩ họ sẽ để nguyên áo quần nhưng lấy chỗ nào để thay đồ? Không lẽ phải vào lùm bụi thay như tụi mình hoặc tỉnh bơ ngay bờ suối? Với lại, còn thằng lính gác nữa chứ.
Thắc mắc cũng phải vì có vợ, con gái họ đi cùng. Hai ông Thăng, Phát cho biết đám lính lệnh đi tắm là đi chứ họ đâu dè ở lộ thiên ngoài suối. Bọn thanh niên quả quyết thể nào tụi lính cũng rình xem lén cho đã mắt nhưng chẳng trách đám lính vì, đang trong tay chúng và thực tế nếu mình là bọn lính thì cũng làm y vậy. Có tội nghiệp mấy cô con gái tre trẻ thôi còn đàn bà sồn sồn lớn tuổi thì ai mà thèm nhìn. Tiếng cười hô hố phụ họa, ông Phát phải cau mặt:
- Nữ giới tắm suối mà lính canh trên bờ là nam thì kẹt thật nhưng coi vậy chứ dễ gì mà nhòm lén họ được các cha! Có khăn lông, họ che cho nhau hết, mấy bả hay lắm. Mà thôi, đi vượt biên là phải chấp nhận hết mọi thứ chứ.
Về tới trại, cả bọn nam giới chúng tôi tản ra phơi quần áo trên các sào ngang ở hàng rào cây. Đang lui cui vuốt cho thẳng các bộ đồ ướt, chợt có tiếng nói sau lưng tôi :
- Anh, Anh! Cho xin lại mấy quần áo của em.
Một thanh niên tuổi cỡ 22, 23 mỉm cười sau câu nói, lấy tay chỉ tay vào bộ quần áo tôi đã nhặt và vừa giặt sạch sẽ. Ngạc nhiên tôi hỏi:
- Cậu nói gì, muốn xin lại bộ đồ này?.
Người thanh niên đó ú ớ gật đầu, tôi hỏi tiếp:
- Sao lúc ngoài bãi biển tôi hỏi ai bỏ thì tôi lấy sao cậu không trả lời? Cậu vất bỏ nó mà, phải không?
Cậu ta không trả lời câu hỏi mà cứ nằng nặc xin lại bộ quần áo. Nghe tiếng đôi co, một thanh niên mặt bậm trợn khác đứng gần đó tiến lại bênh tôi:
- Đúng rồi! Khi đó tao có mặt ở đó nè mày. Ông này hỏi hai ba lần mà không ai trả lời. Mày cũng có mặt ở đó, bỏ thì người ta lấy. Giờ đợi người ta giặt sạch sẽ xong xuôi mới đòi xin lại. Đ.M mày tính chơi đểu hả?
- Em chỉ có hai bộ, tưởng đến trại sẽ được phát quần áo mới, đâu ngờ. Tắm xong em chỉ còn quần đùi nè. Cậu ta lí nhí.
Tôi đang trần xì độc một quần tà lỏn, khăn lông khoác trên người và nếu không nhặt hai bộ quần áo ngoài bãi biển thì cũng sẽ không khác. Thôi thì! Tôi khẽ gật đầu đồng cho cậu thanh niên đó lấy bộ quần áo. Chờ cậu ta bỏ đi, người thanh niên còn lại nhìn tôi, nói:
- Anh dễ tính quá, phải em là không được. Ban nãy ở ngoài suối nó cũng thấy anh giặt quần áo chứ bộ, sao không mở miệng xin lại đi, tới đâu thì tới em cũng không trả. Anh tên gì, em là Đỉnh.
- Anh tên Vũ, cám ơn Đỉnh. Tôi trả lời.
Hai chúng tôi rảo bước về căn nhà lều nam giới. Chuyện vừa xẩy ra làm tôi suy nghĩ vẩn vơ không biết sẽ có ai đến xin bộ quần áo còn lại nữa đây? Nam giới về trại giờ đến lượt phe nữ đi tắm, Đào đi cùng Bẩy vừa thấy tôi liền bước đến hỏi:
- Anh Vũ. Nghe nói lính họ cho mình tắm ở dưới suối hả?
Tôi gật đầu xác nhận, hai cô gái nhìn nhau bối rối. Đào tiếp:
- Trời! Ai mà tắm như vậy được.
Làm sao mấy cô gái nầy có thể tắm ngoài suối như đám nam giới! Đây đâu phải là một bãi biển đông người mặc quần áo tắm và nhất là có một gã lính đi theo nữa. Dễ gì mà đám đàm bà-con gái tự nhiên được và đã có người dùng dằng nửa muốn đi nửa lại không. Nhưng nếu không đi, phải chờ ngày mai vì nội quy chỉ cho phép ngày tắm một lần.
- Đám lính ra lệnh đi tắm lè lẹ kìa mấy bà mấy cô, làm ơn nhanh chân lên. Ông Thăng đi tới đi lui thúc giục
Trong căn nhà lều, ông Thăng ông Phát và Tám Kiệt đã sắp xếp lại chỗ ở cho cả bọn. Nam giới cả thẩy là 64 người lớn và 8 bé trai, cứ chỗ cha con, anh em ở gần bên nhau. Căn nhà lều chúng tôi ở nó lớn như một cái nhà nho nhỏ, sườn là các thân gỗ tròn nối với nhau bằng khoen sắt. Nóc phủ vải bạt nhà binh, vách cũng vậy và được kéo căng bằng các dây cố định ở các cọc. Những năm 1972, 1973 ở vùng Củ Chi-Tây Ninh, chính quyền miền Nam VNCH đã dựng hàng loạt loại nhà lều này cho Việt kiều tránh nạn cáp Duôn hồi hương từ Kampuchia về. Một nhà lều, chỗ tạm trú cho hai hoặc ba gia đình nhưng ở đây với 72 người, chúng tôi đành phải vạch 4 phần trên sàn chia chỗ cho cả bọn. Mỗi phần là chỗ nằm của 18 người. Để tiện đi lại, một khoảng trống nhỏ rộng 40 cm hình chữ thập nằm chính giữa bốn phần.
- Bên lều nữ giới cũng phải chia như vậy khi họ đi tắm về, ông Phát nói.
Chỗ tôi và Đỉnh ở sát bên nhau. Tấm bạt nền lều mới toanh thơm mùi thuốc nhuộm lót trên các ván gỗ ép bằng phẳng. Tám Kiệt kể vợ y nói hôm qua vào sớm dọn dẹp hai nhà lều, đã nhặt được các giấy báo cũ tiếng Việt còn sót lại chứng tỏ có thuyền nhân từng tạm trú ở đây. Hai dãy bàn ghế gần cổng trại ước chừng chỉ ngồi được độ 60 người, như vậy trại này dành cho những thuyền vượt biên nhỏ.
Lần lượt vài phụ nữ đi tắm về trong tay cầm bộ quần áo vừa giặt. Ai cũng trông tươi tắn trong bộ quần áo sạch sẽ và có người lại cầm cả chùm trái chôm chôm vàng tươi. Chôm chôm này ở đâu ra? Một bà đưa vài quả chôm chôm cho thằng bé con trong nhà lều. Hỏi, bà ta trả lời:
- Cây chôm chôm gần chỗ tắm trái nhiều lắm nhưng còn xanh, tui bứt được ít trái chín ở cành thấp thôi.
Cây chôm chôm gần chỗ tắm! Như vậy, đám nữ giới chúng tôi đã tắm ở một chỗ khác của con suối.
Đến trưa, đám lính thổi còi tập hợp khi có một xe nhà binh vào trại. Xe chở cơm cho chúng tôi cùng đám lính gác. Hai thùng nước nóng được chuyền xuống cùng các thùng chứa cơm, canh. Như buổi sáng, trẻ em đứng trước rồi phụ nữ và sau cùng đám nam giới. 3 người lính chia cơm trắng, cá, canh rau đựng trong dĩa và tô giấy cứng. Chỉ có muỗng bằng nhựa đúc. Hai dãy bàn ngồi chật chỗ, người đến sau đành đứng hoặc chồm hổm trên đất. Mỗi người bất kể lớn nhỏ đều một con cá chiên rất dòn. Món canh không ai ngờ, đó là rau muống nấu với cá cơm nhỏ. Ông Thăng nói.
- Mấy bà miền Nam hết nói chúng tôi dân Bắc Kỳ rau Muống nghe, thấy người Mã Lai họ cũng ăn rau Muống chưa?.
- Họ biết mình người Việt nên nấu canh rau Muống cho mình ăn đó. Một người cãi lại.
- Thôi đi cha, sao họ biết mình ghé vào mà trồng sẵn rau Muống. Mình là ông nội họ chắc? Tui nghĩ dân Mã Lai cũng ăn rau Muống nhưng khác ở chỗ họ nấu bằng cá cơm thay vì thịt heo hay tôm khô như mình. Người khác đáp lại.
Cơm ngon nhưng chỉ có một dĩa nên ai cũng thanh toán lẹ làng, đám lính trên xe thu dọn đồ lề rồi rút gọn. Một giờ sau lại có lệnh buộc đám nam giới chúng tôi dọn dẹp sân trại lần nữa và sửa chữa cái hàng rào cùng bàn ghế hư cũ. Ông Thăng, ông Phát liền chia người ra ba nhóm đi vét các rãnh nước chung quanh hai căn nhà lều phòng trời mưa và đào thêm nhà vệ sinh cùng các hố tháo nước. Nhóm còn lại vào rừng chặt một số cây thẳng để gia cố các chỗ hỏng, gẫy mục cho cứng chắc.
- Không nên một mình vào rừng vì ở đây có cọp, trăn và rắn độc. Gã lính dặn dò nhóm người chặt cây làm hàng rào.
Phía nữ được ở yên chỗ, một bà thấy chỉ có nam giới phải đi làm nên nói:
- Tối hôm qua mấy ông ở không, giờ họ bắt làm bù mới công bằng chứ.
Tôi và Đỉnh ở trong nhóm mười hai người đi vào rừng chặt cây. Gã lính dặn ông Thăng nói chúng tôi phải xong mọi việc trước 5 giờ chiều rồi y lấy ra 3 cây mã tấu cho cả bọn dùng. Đi chung với nhau ai nấy cười đùa vui vẻ, nếu có cọp hay trăn mà gặp đám đông như vầy thì cũng phải chạy tét. Mấy thanh niên cầm mã tấu đi đầu, tay loang loáng chặt các cây nhỏ cản đường. Nói vào rừng chặt cây nhưng thực tế chúng tôi phải đi kiếm mới có loại cần dùng. Cả đám vượt qua các khoảng rừng cây to, có lúc gặp thân cây mục nằm vật ngang giữa đường phải tìm cách trèo qua đi tiếp. Gặp cả những bụi tre rừng rồi qua bãi cỏ tranh thì may sao gặp được một khu vực có cây chồi nhỏ mọc sát thân thẳng tắp. Chúng tôi dừng lại, trong nhóm có người từng có thời đốn cây rừng hầm than góp ý:
- Mình chẳng ở trại này lâu, theo tôi nên tìm cây tạp đừng lựa cây lá kim gỗ cứng khi chặt sẽ đau tay lắm, phí sức.
Chúng tôi lựa những cây thẳng, to bằng cườm tay và dài khoảng 3 m vừa tầm với hàng rào. Chớp mắt đã đủ số được giao 3 cây cho mỗi người. Cả đám xong việc sớm ngồi nghỉ, vài người phàn nàn về bữa cơm trưa. Con cá chiên khá lớn và canh nhiều mà cơm lại ít xỉn, người lớn hay trẻ nhỏ gì cũng một dĩa bằng nhau. Chia hết vòng vẫn còn dư cơm mà đám lính cũng không múc thêm cho. Một ông vóc dáng to con, bực bội:
- Nói thẳng, sức tôi phải 2 dĩa thì mới thấm. Mấy người có con nhỏ còn được ké thêm. Cơm dư trong thùng mang về cũng bỏ, không lẽ lính chịu ăn thừa? Vậy mà cũng không cho.
Có lẽ phần ăn của từng người chúng tôi là như vậy, đám lính chỉ thừa hành lệnh cấp trên.
Ngồi không, có người đề nghị đi sục sạo kiếm trái cây rừng để ăn cho vui miệng nhưng người khác lại sợ vì lời dặn của đám lính trước khi đi. Rừng Mã Lai có loài cọp nhỏ cỡ con chó lớn nhưng rất hung dữ. Còn trăn? Tuy không có nọc độc nhưng loài này có thể quấn chết rồi nuốt sống gọn một người lớn như chơi. Nhất là loại trăn gió, chúng có thể chuyền từ cây nầy sang cây khác để tìm mồi mà không gây một tiếng động. Ngồi không mãi một chỗ cũng chán, cả bọn quyết định cắt rừng để quay trở về. Gần tới trại, chúng tôi gặp một khoảnh đất trống trải nằm lọt thỏm giữa cây rừng bao chung quanh. Cả đám dừng lại bên cây Thánh giá gỗ có hàng chữ đen Truong Cong Dai mờ nhạt cắm ở một trong các gò đất lúp xúp. Một nghĩa địa người vượt biên từng sống ở đây. Tên là nam giới rõ ràng nhưng Dai là Đại, Đãi hay Đài? Người này chết lâu mau vì không thấy ghi ngày sinh ngày tử? Tuy vậy, nạn nhân vẫn hơn các người khác vì có cây Thánh giá ghi tên. Nằm xuống vĩnh viễn ở rẻo rừng xứ người, chắc gì thân nhân của họ bên quê nhà đã biết tin.
Gặp nghĩa địa, đám chúng tôi ai nấy cũng cảm thấy buồn buồn trong lòng. Một ông làm dấu đạo Thiên Chúa, miệng lầm thầm nguyện kinh nho nhỏ. Đêm bị tàu hải tặc đuổi, nếu không có cơn mưa đột ngột, số phần chúng tôi chắc không khác những người tị nạn bất hạnh nằm ở đây. So ra, ghe chúng tôi thật may mắn vì đến được xứ người bình an.
Cây thẳng mang về tới trại, gã lính mang ra búa và đinh cho cả bọn gia cố các chỗ hư hỏng ở hàng rào và ở hai dãy bàn ăn. Hai nhóm kia cũng đã làm xong các việc được giao, căn trại bây giờ trông sạch sẽ hơn. Ai nấy mồ hôi nhễ nhại nên ông Thăng ông Phát xin phép bọn lính cho chúng tôi được đi tắm thêm lần nữa. Đám lính gật đầu, chúng tôi hăm hở lên đường. Đến gần suối, để ý thật kỹ cả bọn mới thấy có thêm một lối mòn khác nằm phía tay trái, ngược với hướng con suối nam giới tắm. Lối mòn đó là hướng đi tắm của nữ giới trong trại.
Bữa cơm chiều cũng món ăn y như khi sáng nhưng nam giới do làm việc, ai cũng đói bụng nên ăn thật ngon.
Chúng tôi đã sống trong căn trại này được ba ngày. Cứ tuần tự sáng dậy sớm lúc 7 giờ vệ sinh cá nhân, 8 giờ ăn điểm tâm, 9:30 nam giới đi ra suối tắm giặt. Khi đám nam giới về thì đến phiên nữ giới. Xong vụ tắm giặt trời đã trưa, chúng tôi phải chờ đến 1 giờ thì xe chở cơm mới đến. Bữa cơm chiều lúc 5 giờ, sau đó chẳng có việc gì làm ngoài chuyện nằm ngủ, đi tới lui trong sân hoặc tụ họp nói chuyện đời cho đến khi trời tối. Tối, cả bọn kéo vào căn nhà lều và chờ đến 10 giờ khuya khi đám lính ngưng máy điện thì ngủ.
Lính gác trại không ăn sáng như chúng tôi mà hầu như chỉ cà phê thuốc lá. Thỉnh thoảng, mới thấy họ nấu mì gói để điểm tâm. Cơm trưa hoặc cơm chiều khi xe chở đến trại, đám lính cũng nhận khẩu phần đựng trong các khay nhôm che kín nên không ai biết loại thức ăn gì ở bên trong? Ngày hôm qua, ông nhân viên bộ Nội Vụ và hai sĩ quan quân đội vào thăm chúng tôi sau bữa ăn trưa. Đi lòng vòng trong trại, vẻ mặt họ hài lòng khi thấy căn trại sạch sẽ và gọn gàng. Ba người họ thông báo cho chúng tôi biết là đã liên lạc với đại diện của UNHCR tại Kuala Lumpur xong. Ông Thăng hỏi họ bao lâu nữa thì chúng tôi rời khỏi trại và rồi sẽ đi đâu? Vào Sungei Besi hay ra đảo tị nạn Pulau Bidong? Ông Alek bảo chúng tôi cứ chờ và sẽ được thông báo sau. Khi biết ghe chúng tôi ra khỏi nước đã hơn tuần lễ, một sĩ quan quân đội lấy ra một chồng giấy cùng bút mực và bì thư cho chúng tôi, nói ai muốn gửi thư cho thân nhân thì viết ngay. Ông ta sẽ ghé lại trong vài ngày tới và chuyển các thư về Việt Nam liền. Tôi xin giấy viết liền thư cho gia đình.
Ăn ở không nhưng ai cũng cảm thấy bụng rất mau đói và mong giờ cơm tới sơm sớm. Có một bất tiện trong việc ăn uống đó là xong bữa cơm chiều lúc 5 giờ thì chúng tôi phải qua một đêm dài đến 8 giờ sáng hôm sau mới có điểm tâm mà chỉ vỏn vẹn một gói bánh qui nhỏ cùng bịch nước trà đường nóng khoảng 1/3 lít. Thời gian cách quãng giữa hai bữa ăn đó quá dài làm nhiều người cảm thấy sót ruột vì bụng trống, nhất là các cháu bé. Trẻ nít khóc vì đói, cha mẹ nhìn con mà bó tay còn người lớn đánh lừa bao tử bằng các hớp nước lã. Những người có con nhỏ như Tám Kiệt, ông Thăng... bàn nhau thử dò hỏi bọn lính gác để mua thêm thức ăn. Đám lính lúc đầu gồm 6 người nay rút xuống chỉ còn 3. Mới bàn và chưa kịp dò ý với bọn lính thì chính chúng lại tỏ ý trước. Chúng biết người vượt biên có vàng, dollar mang theo. Xã hội nào cũng có người nghiền thuốc lá điếu, cà phê và nếu thiếu các thứ này, mặt người đó sẽ tiều tuỵ, cơ thể mệt mỏi tuy... không chết. Sơ khởi, bọn lính mang thuốc lá điếu và cà phê ra bán nhưng chỉ nhận tiền Ringgit (tiền Malaysia) thôi. Thấy người trong chúng tôi sùy ra dollar, chúng vờ vĩnh không biết xài mà chỉ đòi tiền Ringgit. Do vậy, đành phải để chúng đổi dùm luôn. Cứ 100 dollar Mỹ, chúng đổi lấy 200 Ringgit. Hối suất hai loại tiền thực sự bao nhiêu thì không ai biết nhưng bọn lính phải có lời. Được cái tiền Malaysia có giá trị vì chỉ 10 Ringgit thì cũng mua được kha khá thức ăn. Ai không có dollar mà có nhẫn vàng 24 cara thì chúng cũng sẵn sàng đổi giùm luôn. Thậm chí, đồng hồ đeo tay chúng cũng nhận đổi nhưng phải còn mới và tốt.
- Đến được đây coi như thành công, còn cái đồng hồ đổi lấy tiền mua thuốc lá hút cho miệng đỡ nhạt. Không có đồng hồ cũng chả sao. Một ông tháo cái đồng hồ Seiko 5 trên tay, phân bua trước khi đưa cho gã lính.
Giờ đây muốn có thứ gì chỉ cần đưa tiền ra, đám lính phóng xe máy chạy đi mua liền. Có người nhờ mua cả bếp dầu, chảo và xoong-nồi nhỏ nhưng không phải ai cũng có dollar thủ trong người hoặc sẵn vàng, tư trang quý để trao đổi với đám lính. Người có Ringgit mua thêm thức ăn, cà phê và thuốc lá về nhâm nhi làm người không có rất thèm. Đành chịu, không lẽ mở miệng xin. Tám Kiệt thấy vậy, y lẳng lặng bỏ tiền mua thêm cà phê, thuốc lá cùng bánh kẹo cho người trong trại hưởng chung. Tâm lý con người thật kỳ, lúc đầu thấy hành động của Tám Kiệt làm thì ai cũng khen thầm rồi chỉ sau một hai ngày cà phê thuốc lá đã có tiếng xầm xì sau lưng. Nói Tám Kiệt thu được khối vàng khi tổ chức vượt biên và hối lỗi, muốn mua cái đức cho mấy đứa con sau cơn hút chết trên biển. Tám Kiệt nghe được các chuyện đó, mỉm cười thố lộ:
- Đầu người đi trong ghe chỉ 2 cây nếu khách trực tiếp nói chuyện với tui. Còn mối của ai khác sang qua mất bao nhiêu tui không quan tâm. Cả ghe 135 người đi thì đã 30 người là gia đình, bà con và trong băng tui. Số khách còn lại, tưởng nhiều thật nhưng tiền công đưa rước rồi phải cúng cho bọn công an nên cũng chẳng dư bao nhiêu. Cái chính là tui đưa gia đình đi thoát là mừng, sang được xứ người thì mình sẽ làm lại cuộc đời mấy hồi.
Thực ra trong túi nhiều người cũng còn tiền nhưng loại tiền đã thành các tấm giấy màu không chút giá trị, đó là tiền in hình lão già. Đủ loại tiền từ tờ bác đau gan, bác sợ cho đến bác say rượu (tiền Việt Cộng có hình mặt Hồ Chí Minh mầu vàng 200 $, mầu xanh xám 50.000$ và mầu đỏ 500$, 10.000). Nhiều người lấy tiền đó vất bỏ gần hố rác sau khi cho đám lính xem. Thấy vậy, tôi gom lại được một bó ước đoán trên 7 triệu đồng và cất trong túi xách dù chưa biết sẽ làm gì với số tiền này.
Buổi tối, bóng người lui cui nấu nướng bên những ánh lửa xanh của các bếp dầu ở mé sau căn nhà lều nữ giới. Mùi món ăn, cà phê nóng bay thơm ngào ngạt trong tiếng xèo xèo chảo chiên.
Mối thân thiện giữa đám lính gác và người trong ghe tăng lên. Một gã lính trẻ tên Daniel có máu văn nghệ, y có một cây đàn Guitar. Vài người trong ghe cũng biết chơi Guitar nên nhanh chóng thân thiện với gã. Trưa nào cũng vậy, sau bữa cơm thì túm tụm dưới bóng mát một nhúm con trai con gái đàn hát bên nhau. Nhạc Việt, nhạc Mã hoặc nhạc trẻ ngoại quốc văng vẳng trong cái tĩnh mịch của trại lính giữa rừng.
Thư chúng tôi viết xong, viên sĩ quan quân đội ghé vào trại lấy đi rồi nên ai cũng vui khi nghĩ thân nhân bên quê nhà sớm muộn gì cũng biết tin về chuyến đi. Ở yên chỗ, tạm thời vất bỏ các lo lắng trước mắt, các cô gái trẻ se sua lại y phục, trang điểm khuôn mặt và mái tóc mỗi khi đi tắm về. Theo đề nghị của nhiều người, đám lính cho phép chúng tôi vào rừng lần nữa để chặt cây về làm thêm hai dãy bàn ăn. Rồi kế đó thì ở mé sau căn nhà lều nam giới, đất cũng được chúng tôi san phẳng và cất một lều tròn nhỏ lợp tranh có cả bàn ghế nghỉ trưa. Nhờ vậy, tới giờ ăn, ai cũng có chỗ ngồi ở bàn gọn gàng không còn cảnh bưng dĩa cơm đứng lêu bêu hoặc ngồi bệt dưới đất như trước nữa. Ngồi chung bàn ăn cơm, một hai lần tôi đã đối mặt với cô gái ở dưới khoang hầm cá lớn và biết tên cô là Đoàn Hải Yến, 20 tuổi. Chim én biển họ Đoàn, cái tên đẹp như khuôn mặt cô. Từ lúc còn ở ngoài bãi biển, cô đã nhận ra tôi là người bên cô dưới khoang hầm cá lớn và đã đến hỏi chuyện. Én biển nhưng chịu không nổi các cơn sóng. Có lần, trong bữa cơm Yến đã hỏi tôi khi đó đang ngồi chung với Đỉnh:
- Anh Vũ! Yến nghe mấy chỉ nói người nào là lính VNCH hoặc liên quan với chế độ cũ thì sẽ được họ cho vào Sungei Besi, còn không thì sẽ phải ra đảo Bidong ở. Phải không?
Tôi gật đầu dù không biết chắc về cái tin đồn. Đầu đuôi câu chuyện là do lính gác trại xì ra cho mấy cô gái biết và đám đàn ông đã bàn bạc liền ngay đó. Người gốc lính hoặc viên chức thời miền Nam VNCH như ông Hưng ông Thăng, ông Phát... đều phấn khởi vì nghĩ vào được Sungei Besi thì chỉ chờ làm thủ tục đi định cư tại đệ tam quốc gia. Phải chuyển ra đảo Bidong thì bị xét lý lịch và phải chờ rất lâu nếu nhân thân lờ mờ hoặc thuộc phe Việt Cộng. Đỉnh ngồi cạnh, hích nhẹ đùi vào chân tôi miệng cười tủm tỉm. Yến đã hai lần mang cho tôi mì gói và thuốc lá. Tôi không hút thuốc định đem trả thì Đỉnh giữ lại dành phần cho nó. Sau lúc đôi co giữa tôi với cậu thanh niên đòi lại bộ quần áo rồi do sắp xếp, Đỉnh và tôi nằm sát bên nhau trong căn nhà lều khiến cả hai thân thiện với nhau hơn, đi đâu cũng hai đứa. Có lần Đỉnh đã kể về cha ruột hiện đang sống tại Mỹ.
- Ba em là trung úy tòng sự tại nha an ninh quân đội miền Nam VNCH. Sau ngày 30-4-1975 ổng bị Việt Cộng tập trung cải tạo như các sĩ quan khác. Mẹ em tưởng chỉ có một tháng sẽ về nào ngờ ông đi đằng đẵng cả mấy năm. Anh biết khi đó em mới có 13 tuổi còn niên thiếu, biết gì. Lúc mấy tháng đầu không thấy ba trong nhà, em cứ hỏi mẹ rồi hỏi mãi thì mẹ em gắt không biết nên sợ không dám hỏi nữa. Cả năm trời không thấy ba em về mà cũng chẳng có tin tức gì của ổng, mẹ em ra chợ Tân Bình, sang lại một sạp buôn bán quần áo cũ sống qua ngày chờ xem tình hình. Bất ngờ có thư của ba gửi về cho biết chỗ ổng bị giam, mẹ em mừng quá liền đi thăm ngay nào ngờ khi đến nơi, quản giáo nói ông đã bị chuyển sang trại khác. Mẹ em đành quay về, lên phường xin giấy đi thăm nuôi thì bọn công an bảo chưa được phép, phải chờ. Chờ cả mấy tháng trời không được cấp giấy, mẹ em lại đến trại của ổng thì được biết đã chuyển đi nơi khác rồi và lần này thì quản giáo không biết ổng chuyển đi đâu nữa. Mãi hơn ba năm cho đến một hôm thì tự dưng bọn công an phường đến nhà hỏi thăm nhiều chuyện về ba càng làm mẹ em lo lắng, rối trí thêm. Rồi một lần, có vài người lạ mặt đến gặp mẹ em và gặp riêng cả em nữa anh.
Ngừng một chút, Đỉnh tiếp:
- Mấy người đó tự xưng họ ở trong tổ chức phục quốc và muốn liên lạc gấp với ba em, hỏi em biết ba đang ở đâu thì chỉ chỗ. Em đâu biết phục quốc phục kiết gì. Phần mẹ em thì ngạc nhiên vì từ lúc ba đi cải tạo tới giờ còn không biết chỗ để liên lạc thăm nuôi. Khi mấy người này đi khỏi nhà thì mẹ em lờ mờ đoán đã có chuyện với ba em. Khổ cái gia đình không biết đi hỏi dò tin tức ở đâu. Đỉnh dứt lời, ngồi im lặng như nhớ về chuyện cũ.
- Rồi sao nữa, kể tiếp? Tôi hỏi dồn Đỉnh.
- Một ngày vào cuối năm 1980, lúc đang bán hàng ở chợ thì mẹ em tình cờ gặp lại một thuộc cấp dưới quyền ba em khi trước. Nhờ ông này, mẹ em liên lạc được một người cải tạo đã có lúc ở chung trại với ba em và được chính quyền CS thả về sớm. Đến nhà ông ta rồi thì mẹ em mới biết ba đã trốn khỏi trại Suối Máu từ cuối năm 77.
- Trốn khỏi trại từ năm 77 mà ba mầy không về nhà? Tôi hỏi.
Đỉnh lắc đầu, kể tiếp:
- Mẹ em nghe tin kể, về đến nhà thì lâm bịnh vì chuyện đó. Thời gian ổng bỏ trốn trại, tính ra đã quá lâu mà không thấy về nhà nên mẹ em nghĩ ba đã chết. Mẹ em bịnh nằm đó, bỏ mặc việc đời. Lúc đó em đã hơn 18 tuổi nên phải thay mẹ bán hàng nuôi cả nhà. Quên không nói anh biết trong nhà còn 2 đứa em gái nữa. Chính vì bán hàng ở chợ trời nên khiến em có cái tính du côn trong người nhưng thực sự không phải như vậy.
Đỉnh cười hiền lành, tiếp:
- Cả năm trời mẹ em nằm liệt trên giường gần như buông xuôi tất cả thì gia đình nhận được tin ba em đang sống tại Mỹ.
- Sống ở Mỹ! Sao biết ba em ở Mỹ? Tôi ngạc nhiên:
- Từ lá thư của ổng gửi bên Mỹ về và nó đã cứu mạng mẹ em. Trước lúc đó, anh biết sức mẹ em yếu lắm, bà buồn rồi bịnh gần như sẽ chết. Lá thư là thuốc tiên đã làm bà trỗi dậy được và hồi phục nhanh chóng. Sau lá thư là các thùng hàng ba em gửi về giúp gia đình. Nhờ vậy mà mẹ em đã có phương tiện để lần lượt lo cho từng người trong nhà đi vượt biên, kể cả mẹ em nữa. Người trong nhà em đi chuyến nào thắng chuyến đó, chỉ có mình em bị trục trặc hoài. Đánh chuyến nầy mới thoát đó anh.
- Ba mày trốn khỏi trại tù cải tạo rồi sau đó vượt biên tới Mỹ phải không Đỉnh? Chuyện ly kỳ nha mày mà có biết chuyện của ông trốn trại như thế nào không? Tôi thắc mắc.
Đỉnh lắc đầu, tiếp:
- Đại loại câu chuyện là vậy. Em cũng không biết chuyện ông đã làm ra sao, định bụng khi nào sang được Mỹ gặp nhau thì sẽ hỏi cho rõ.
- Phải bị chuyển ra ở đảo Bidong khổ lắm, Yến nghe bảo còn phải chở nước uống từ đất liền ra nữa phải không hai anh? Lời cô gái kéo tôi về cuộc trò chuyện, Đỉnh ngồi yên không đáp, tôi nói:
- Anh không biết rõ. Nếu có như vậy thì chật vật thật mà cũng không chắc vì đảo nào cũng có các nguồn nước ngọt tự nhiên. Tôi kể cho Đỉnh và Yến nghe về lần bị kẹt ở hoang đảo trong chuyến đi vượt biên kỳ trước.
(còn tiếp)
-
(tiếp theo)
Có lần khi ở trong căn nhà lều, Đỉnh lôi trong túi xách vài tấm hình mầu gia đình chụp bên Mỹ ra cho tôi xem. Trong các hình, ba mẹ Đỉnh trông thật sang, đứng bên nhau trước khuôn viên một căn nhà thật đẹp có sân cỏ xanh rì bằng phẳng hoặc gần những bụi hoa bên cửa sổ lớn. Hai em gái Đỉnh trông thật duyên dáng ngồi ở sofa phòng khách gần bên cái TV to đùng. Vườn sau nhà, trồng những cây đào đang mùa cho trái. Những trái đào to mơn mởn thấy rõ cả các lông tơ trên bề mặt. Đỉnh lấy tay chỉ vào trái đào trong hình hỏi:
- Anh biết trái đào này giống cái gì không?
- Giống cái gì? Tôi hỏi nó.
- Gò má con Yến đó. Trời ơi! Được cắn nhẹ vào đó một cái thì sướng lắm.
Đỉnh cười thành tiếng, tiếp: " Làm tới đi anh Vũ ơi ".
- Mày cứ đùa tao. Tôi trả lời.
- Không, không đùa đâu. Em biết con nhỏ thích anh. Anh không nhào vô ngay để thằng khác vớt mất uổng lắm. Đỉnh nhìn tôi.
- Thôi Đỉnh ơi! Nói tầm bậy tầm bạ không hà. Tôi ngắt lời.
- Thiệt! Em nhìn cặp mắt khi con nhỏ nói chuyện với anh là em biết liền. Chịu anh lắm đó anh Vũ. Tin em đi.
- Mắt nó! Sao mà mày biết nó chịu... tao. Nói nghe coi.
Đỉnh kẹp các tấm hình trong một quyển sổ rồi cất chúng lại vào túi xách xong, khẽ nói với tôi:
- Cặp mắt ướt rượt, đắm đuối khi nhìn anh là hiểu rồi. Em quan sát kỹ mỗi khi anh và nó nói chuyện với nhau. Tình yêu đến từ đôi mắt... Kinh nghiệm đã dạy em.
Kinh nghiệm của Đỉnh, theo nó nói là nhờ những năm tháng bán hàng ở chợ trời Tân Bình mới có được. Mỗi khi có khách ghé vào sạp, nó chỉ cần nhìn cặp mắt, lời nói và thái độ thì đã biết ngay người đó có muốn mua hàng hay không? Có khách say món hàng, chỉ sợ bị mua tranh mất khi thấy người khác mới đến xem. Những lúc như vậy thì rất ngon ăn, cầm chắc sẽ bán món hàng với giá hời. Ngay cả khách khi đến đưa hàng của họ ra để bán, Đỉnh kể nó có thể biết người khách muốn bán thật hay chỉ vờ dọ giá qua lời nói và thái độ. Đỉnh cười đắc chí rồi quay lại chuyện của Yến.
- Con nhỏ thích anh lắm mà em hỏi thật, anh và nó đã làm gì ở dưới ghe với nhau. Khai báo ngay.
Tôi kể vắn tắt cho Đỉnh biết về cái va chạm nhỏ giữa tôi và cô gái khi ở dưới khoang hầm cá lớn. Đỉnh yên lặng chốc lát rồi nói:
- Con gái nó vậy đó. Thích, thương hoặc ghét một thằng cà chớn nào có khi chỉ bắt nguồn từ những cái nhỏ nhặt, bất thường. Con nhỏ xinh gái lắm chứ anh, bộ anh không biết à? Nhào vô đi, đừng chần chờ nữa.
Đỉnh khỏi nói ra thì tôi cũng biết Yến rất xinh. Đỉnh xúi nhào vô, thật sự trong tim tôi có lúc vẫn còn hình ảnh của Ánh Phương và của cả Hường nữa. Ánh Phương thì chưa biết số phận ra sao còn Hường, chắc nàng vẫn mong sẽ có thư tôi sớm. Nghĩ về Ánh Phương và Hường làm tôi im lặng, phân vân.
Một buổi trưa khi đang thiu thiu ngủ trong căn nhà lều thì tai tôi nghe có tiếng la hoảng hốt vọng lại ở bên ngoài. Tiếng la từ phía cổng trại, tôi chạy vội ra xem. Một đám người lớn nhỏ đứng lố nhố chỉ tay về hàng cây rừng cạnh đường mòn hướng đi ra suối. Một con vật khá to, lông đen tua tủa đang lững thững đi từng bước từng bước về phía trại. Đầu con vật lúc lắc khi sang phải khi sang trái và có lúc, nó dừng lại nhìn đám người chúng tôi. Hai cái nanh vàng lườm dài cả gang tay lòi ra ở bờ mép, có người la lớn.
- Heo rừng bà con ơi, gọi tụi lính mang súng ra bắn nó.
Nghe ồn ào, hai gã lính gác tay thủ súng trường M 16 từ trong căn nhà lều nhỏ đi đến chỗ đám đông chúng tôi. Một phụ nữ tay chỉ con heo rừng, miệng lí nhí vài câu tiếng Anh: " Animal, animal... shoot... shoot, please ". Con heo rừng chết tới nơi, ai cũng hồi hộp chờ xem một cảnh bắn thú hoang trước mắt. Thật ngạc nhiên, vừa thấy con heo rừng đó thì hai gã lính vội khoát tay xua chúng tôi quay trở ngay vào trại. Vài người còn cố nán lại nhìn con vật không có vẻ gì sợ người, đủng đỉnh đi từ từ và sắp khuất sau các bụi cây ở bìa rừng. Đuôi con heo, như một cái cái chổi cùn nhỏ vẫn còn quất qua đảo lại ở bờ mông to.
Đám chúng tôi bước trở vào trại thắc mắc tại sao bọn lính không bắn hạ con heo rừng? Phải chi hạ nó, ngay tối nay cả trại sẽ có món thịt quay thịt nướng ngon phải biết. Sống ở rừng, việc gầy một bếp than hồng rực lửa đâu khó khăn. Thịt heo tươi như thăn, đùi... mà nướng trên bếp than hồng còn gì hơn! Mỡ chảy xuống các hòn than đỏ, mùi thơm ngào ngạt bốc lên sẽ điếc cả mũi. Còn bộ lòng nữa. Không có nồi lớn để nấu cháo lòng cho cả bọn thì chia ra nấu bằng xoong nhỏ cũng xong. Chỉ nghĩ không thôi mà tiếc hùi hụi. Kể từ lúc xuống dưới ghe cho đến giờ, ai đã được nếm món thịt heo!
Cơm hàng ngày trong trại chỉ rặt cá chiên rồi lại cá chiên. Cứ hết cá ngân lại cá bạc má hoặc cá lù đù rồi cá hường. Những ngày đầu ai cũng khen ngon vì bọn đầu bếp chiên cá rất dòn, ăn được luôn cả đầu. Nay ai cũng phát ngán, có dĩa cơm còn bỏ dở hơn nửa con cá. Người có tiền nhờ bọn lính mua thịt thì chỉ toàn thịt gà. Đỉnh đến bên tôi, chắc lưỡi tiếc vì cứ nghĩ nó sẽ chộp được một cái nanh heo để có dịp bịt vàng hình ông Phật đeo trừ tà.
- Anh Vũ biết không, ở chợ Tân Bình em đã thấy có người đeo những cái nanh bịt bạc nhưng ngắn ngủn đâu có dài bằng của con heo ban nãy. Uổng quá, dễ gì có bên Việt Nam mình.
Tôi và Đỉnh kéo nhau về lều tranh ngồi trò chuyện cùng những người khác. Không như bên quê nhà, thú rừng ở đây thấy người đã không sợ còn đủng đỉnh giương mắt nhìn. Người nói hai nanh lòi dài cả gang tay, con heo đã quá già thuộc loại lăn chai, độc chiếc... thịt dai nhách không ai thèm nên lờn mặt mới thong dong như vậy. Một cậu trẻ quả quyết bọn lính không bắn con heo rừng vì họ theo Hồi giáo có tục thờ heo. Câu ta so sánh với đạo thờ bò bên Ấn Độ. Nơi đó, dân chúng không dám xua đuổi khi con vật nằm ì ở giữa đường cản lối xe cộ qua lại. Thậm chí khi gặp được bò đang đái, có tín đồ còn hứng lấy nước tiểu rồi vuốt lên tóc lên mặt mình nữa. Con vật thiêng tôn giáo, như vậy ai mà dám giết. Phạm thượng sao! Nhưng ông Thái, người đã đọc kinh ở khu mộ địa khi nghe như vậy đã bật cười, cải chính:
- Cậu này nói sai rồi. Sở dĩ tụi lính không bắn con lợn lòi vì bởi tín lý đạo Hồi coi nó ô uế do bị ma quỷ đã nhập vào nên không bao giờ ăn thịt nó chứ không phải họ thờ heo đâu. Đạo Do Thái cũng tin y vậy đó.
Cậu trẻ im lặng không cải chính, ông Thái nói tiếp:
- Ngoài việc không ăn thịt heo, tín lý đạo Hồi còn không cho phép ăn thịt những giống vật bay trên trời, nằm vùi sâu dưới bùn hoặc bò lết trên mặt đất. Họ chỉ ăn thịt những con vật có chân hai móng chẻ và nhai lại như bò, dê, cừu... thôi. Con heo, có chân hai móng chẻ nhưng không thuộc loài nhai lại còn ngựa, tuy nhai lại nhưng chân nó chỉ có một móng nên họ cũng không ăn.
Sau hôm đó, bữa điểm tâm ngày kế thì không phải gói bánh qui nhỏ cùng bịch trà đường như thường lệ mà đám lính cho chúng tôi mỗi người một cái bánh patechaud khá lớn và một hộp nhỏ sữa lạnh. Hai thùng nước trà đường nóng thay cho nước lã đun sôi. Rồi khi nam giới chúng tôi đi tắm về, thấy một xe van trắng của hội Hồng Nguyệt đậu sẵn trong sân trại và được lệnh xếp chung hàng để ba nhân viên y tế khám bệnh, phát thuốc và chích ngừa sốt rét. Chúng tôi, mặt người nào ngươi nấy vui mừng thấy rõ và suy diễn đủ thứ tin có lợi.
Đã thế, bọn lính cho chúng tôi món ăn mới là thịt trừu kho và đậu ve luộc trong bữa trưa. Ở Việt Nam, kho thịt hay cá đều thắng đường làm nước mầu rồi nêm bằng nước mắm và cho hành lá vào. Cục thịt trừu kho trắng nhách trong ít nước mặn sền sệt mùi gây gây, trông không bắt mắt nhưng ai cũng ăn rất ngon, dĩa để lại trên các bàn sạch nhẵn. Bữa cơm đã củng cố niềm tin của cả bọn. Phần cơm cho người lớn cũng nhiều hơn và hai thùng nước mới đổi cũng đầy tới miệng là nước trà nóng pha đường.
Được nhân viên hội Hồng Nguyệt chích ngừa sốt rét rồi khám bệnh cho thuốc nên người nào cũng thủ được ít thuốc cảm, thuốc ho trong túi xách. Thức ăn đổi sang món khác khiến ai cũng phấn khởi, nghĩ cả đoàn ghe đã được chính quyền Malaysia chấp nhận cho vào trại tị nạn chỉ trong nay mai.
Trưa hôm nay trời đứng gió, không khí hầm hập nóng bức khiến không ai có thể ngủ trưa được nên kéo nhau ra ngồi ở lều tranh hoặc các chỗ mát trò chuyện. Như mọi ngày, một nhóm nam nữ ngồi túm tụm đàn hát với hai gã lính dưới một bóng cây gần cổng trại, gã lính còn lại thì nằm ngủ trong cái võng căng dưới một chỗ mát. Đây đó, những đứa trẻ la hét ầm ĩ đùa giỡn cút bắt với nhau. Trời quá nóng, Đỉnh và tôi lòng vòng trong sân rồi lách qua hàng rào trại để đi vào rừng. Cây to đan kín nhau che mất mặt trời làm không khí trong rừng thật mát khác hẳn khi ở sân trại. Vài con sóc chạy vội trên các cành cây tạo các tiếng động nhẹ. Chim chóc đảo cánh qua lại, kêu rả rích. Rừng ở đây có nhiều loại lan mọc tầm gửi trên các tầng cao. Có loại lan hoa màu cam hoặc mầu trắng nhỏ như hạt gạo nhưng nổi bật vẫn là các chùm lan Ngọc Điểm tím nhạt e ấp trong các tàu lá xanh. Lan rừng sẵn và dễ lấy sao không gã lính nào hái mang về trang trí hay là họ cũng vừa đến sống trong căn trại này? Hình như chỉ dân châu Á da vàng như người Việt, Tàu và Nhật Bản mới có cái thú chơi lan rừng thôi. Những lùm dứa dại có lá mầu tím mầu xanh thẫm nhô ra từ những cụm đá trắng trong ánh nắng trông thật đẹp. Nhiều đoạn dây leo mầu xám mốc trắng lốm đốm to bằng cổ tay bò quấn sát vào các thân cây trông thật giống một con rắn lớn. Lá vàng nằm rải rác trên mặt đất mềm còn in dấu chân thú, khúc rừng này khác với chỗ tôi vào chặt cây và đốn tranh trong hai lần trước. Bước trên cỏ xanh mịn như nhung, rừng trưa thật tĩnh mịch và vắng lặng. Thấy đi đã khá xa trại, tôi kéo tay Đỉnh định quay về thì tai nghe một tiếng động nhỏ rồi im bặt. Không nghe thêm gì nữa, cả hai vừa mới dợm bước lại có tiếng như người rên nhẹ. Tôi và Đỉnh nhìn nhau, nghe rõ tiếng rên nhưng chưa biết là cái gì? Hai chúng tôi bước thêm vài bước, lắng nghe. Hình như tiếng rên đó phát ra trong một bụi rậm dưới bóng những thân cây lớn, nằm xê xế phía bên phải ở một quãng không xa.
- Chết... trời ơi... Âm thanh chầm chập trong trẻo của phụ nữ. Tôi và Đỉnh nhìn nhau thì tiếng thở phì phò liền sau đó chung với tiếng rên: " Trời ơi! Chết… Chết thôi ".
Không gian tĩnh mịch chỉ có vài tiếng chim hót đây đó.
Tiếng phì phò lại nổi lên nhè nhẹ, tôi và Đỉnh nhìn nhau thất sắc. Chuyện về loài trăn gió khổng lồ trở về trong tâm trí vì mấy ngày trước theo toán người vào rừng cắt tranh, chặt trúc về lợp mái tròn chỗ nghỉ. Gã lính ôm súng đi cùng đã kể về chuyện trăn quấn người rồi nuốt trộng. Xứ này vì không ăn thịt loài bò sát nên ở ngoài thiên nhiên, trăn thường rất lớn con. Tiếng phì phò vừa nổi lên lại tắt nghẽn làm như bị vướng một cái gì đó hòa với giọng nữ: " Chết... Chết... Trời ơi! ", rên xiết như đang chịu cơn đau đớn.
- Trăn cuốn người, Đỉnh thất sắc nhìn tôi, thì thào.
Tôi im lặng gật đầu nhưng biết làm gì bây giờ đây? Hai đứa tôi chạy ngay về trại gọi lính gác nhưng khoảng cách trại khá xa, phải quyết định ngay kẻo không kịp. Đỉnh chộp lấy một khúc cây khô dưới đất còn tôi thì nhặt ngay cục đá lớn rồi nhè nhẹ từng bước từng bước... đến lùm cây phát ra các tiếng động. Lách mình vào đến nơi, hai đứa đứng yên sững người trước cảnh đang xẩy ra trước mắt khiến tôi vội kéo tay Đỉnh thối lui ngay lập tức.
Sững người và nhón gót rút lui thật nhanh nhưng hình ảnh vừa thấy vẫn như hiển hiện trước mắt. Hai thân người bắt cặp nhau trên đống quần áo trải trên mặt cỏ, nội y vất nằm từng cái ở gần bên. Cặp giò trường túc trắng hồng của người nằm bên dưới choàng lên ôm sát bờ lưng ngay phần eo người trên đang trong tư thế nửa ngồi xổm, nửa úp thìa không cho thoát. Tiếng rên và tiếng thở phì phò kêu nhè nhẹ theo nhịp lên xuống. Mái tóc dài đen nhánh lòa xòa che mất khuôn mặt người rên rỉ nằm dưới cùng đôi gò bồng đảo trắng hồng với núm đỏ lấp ló sau cánh tay và bờ lưng đen của người thở phì phò phía trên mà tôi thấy quen quen khi đi tắm suối chung trong các buổi sáng.
Nhón chân rút thật lẹ ra xa rồi, chợt Đỉnh nắm tay tôi kéo đứng khựng lại và khẩn khoản:
- Mình quay lại xem anh Vũ, mấy khi mà gặp dịp như vậy. Bỏ rất uổng anh.
Tôi nhìn Đỉnh rồi khẽ lắc đầu, trả lời:
- Đừng, Đừng! Mầy biết ai đó không?
Đỉnh im lặng nhìn tôi rồi gật đầu. Cái lưng trần da ngâm đen, vóc người thon nhỏ lên xuống nhịp nhàng cùng tiếng thở phì phò đó làm sao chúng tôi lẫn được nhưng Đỉnh còn trù trừ, vẫn đứng yên tại chỗ. Tôi biết nó muốn quay trở lại để xem cho đã mắt nên bồi thêm:
- Quay lại xem rủi họ biết thì sao hả mậy? Giả đối với tụi mình tốt quá mà. Cà phê, mì gói... mua cho tụi mình ăn, thêm thuốc lá mầy hút. Phải không? Thôi đi về, dứt khoát mình đi về. Chuyện này tao biết đối với mầy đâu có lạ gì. Về Đỉnh ơi, bộ mầy tưởng tao không muốn xem à... Nhưng không được
- Xem thấy cái vụ nầy khó chịu trong người quá anh Vũ, em đang tức... cái chỗ đó đây nè. Đỉnh cười cười rồi mặt nhăn nhó, tiếp: " Anh biết nếu còn bên quê nhà như hôm nay, em phải đi kiếm ngay cho bằng được. Anh ngại cái gì không biết ".
- Trời! Mầy tưởng tao gỗ đá chắc nhưng không được. Cha nội tốt với tụi mình quá mà. Kỳ lắm! Không được.
Trước đó, Đỉnh đã kể tôi nghe chuyện trai gái nó đã từng khi còn bán hàng ở chợ trời. Đỉnh chưa có bạn gái, nó kết thân với những tay bán hàng khác. Thỉnh thoảng cả đám vô mánh, kéo nhau đến nhà một người trong nhóm ăn nhậu và xem phim con nhà nghèo rồi hứng lên thì đi bắt một hai bò lạc về. Bò lạc là gái làm tiền. Cả bọn ép các cô nầy nhậu chung rồi cùng hành lạc tập thể với nhau. Chợt Đỉnh nói:
- Ông bà này bạo quá dám đưa nhau ra đây quằm, bọn lính mà biết thì chết với chúng. Có hai đứa con rồi mà cặp ngực bả còn ác liệt quá hả anh Vũ.
- Ừ! Mà sao bà la dữ mậy... Nếu cứ im re thì sao tao với mầy biết. Bộ bà không sợ có người biết hay sao. Tôi nói với Đỉnh.
- Sao mà nín được anh, sướng quá mà. Trời có sắp sập họ cũng chẳng biết. Đỉnh trả lời.
Nội quy trại đã cấm nhưng hai người họ vẫn cố tình vi phạm. Không biết vợ chồng Tám Kiệt sẽ ra sao nếu hôm nay bị đám lính Malaysia bắt được? Khi nghe đọc nội quy hôm mới vào trại, ông Thăng ông Phát cho biết ở mấy quốc gia Hồi giáo, chuyện tình dục nam nữ rất khe khắt. Người nào mà quan hệ giới tính lén lút hoặc ngoại tình nếu bị phát giác thì sẽ bị trừng phạt rất nặng và có khi, kẻ vi phạm phải nhận một cái chết thê thảm.
Về lại sân trại, tôi và Đỉnh nhập vào đám đàn ông con trai ở mái lều tròn nghỉ trưa. Các ông Thăng, Hưng, Phát, Thuận và vài tay thanh niên trong nhóm của Tám Kiệt đang kể chuyện tiếu lâm. Đám phụ nữ ngồi tản mát dưới những bóng cây xa xa. Đỉnh cúi đầu sát bên tôi nói nhỏ:
- Anh coi, lính thằng thì mải ngủ, thằng thì đàn đúm hát hò với đám con gái còn phe mình lo tụ họp nói chuyện... Nào ai biết hai ông bà đang cụp lạc trong rừng.
Vừa lúc, một người bước vào ngồi không xa chỗ chúng tôi, Đỉnh khẽ lấy đùi huých nhẹ vào chân tôi báo hiệu. Tám Kiệt, quần áo chỉnh tề, cười cười khi nhìn mọi người đang có mặt trong mái nhà lều. Thấy y, ông Thăng liền lên tiếng:
- Khoẻ anh Tám! Hôm nay trời nóng quá ha, chắc tối mưa chứ anh?
Tám Kiệt không trả lời, gật đầu nhè nhẹ với ông Thăng và y ngẩng mặt nhìn ngước ra phía bên ngoài mái nhà lều.
- Ban nãy, chị và sắp nhỏ đi kiếm anh đó, anh Tám. Thuận xen vô.
- Bả kiếm tao hả, lâu mau rồi mầy? Tám Kiệt giọng khào khào hỏi lại, hơi thở y phì phò, mệt nhọc.
Tôi và Đỉnh nhìn nhau, khẽ mỉm cười hiểu ý. Đúng cái hơi khè phì phò của con trăn gió ban nãy đây. Bây giờ thì trăn gió mệt rồi, chiến đấu ác liệt quá mà. Tám Kiệt lấy thuốc lá ra hít, nhả khói rồi vẫn ngồi im lặng và có lúc nhắm khẽ mắt dường như mơ màng, đang suy nghĩ về một chuyện gì. Vừa lúc, có bóng người từ bên ngoài lách vào kèm theo giọng nói phụ nữ:
- Anh đi đâu, em cùng sắp nhỏ kiếm nãy giờ mà không thấy?
- Đi lòng vòng gần đây chứ đâu, trời nóng quá... mà em kiếm anh có chuyện gì? Tám Kiệt mở mắt thật lẹ, miệng lắp bắp.
- Ra đây em nói cái này hay lắm. Người phụ nữ mới đến mặc áo mầu nâu nhạt để tóc ngắn, kéo tay Tám Kiệt đi ra và cả hai khuất sau căn nhà lều của nam giới.
Nhìn theo bóng hai người họ vừa khuất sau căn nhà lều, tôi hỏi Thuận:
- Ai vậy hả Thuận? Phải vợ anh Tám không?
- Chị Tám đó anh. Thuận gật đầu, nhìn tôi.
Chị Tám! Vậy người vừa bị... trăn gió quấn trong rừng là ai? Mái tóc dài, đồ bộ lụa mầu xanh lá mà vạt áo được kéo dồn tới tận cổ. Đỉnh nhìn tôi, nói nhỏ:
- Lúc đó em đã nghi họ không phải là vợ chồng của nhau.
Tôi im lặng chờ nghe Đỉnh nói tiếp nhưng nó lại giữ im lặng. Chỗ đang có đông người ngồi chung quanh, nói ra không tiện.
Bữa cơm chiều đến đúng 5 giờ vẫn món thịt trừu kho và đậu ve luộc. Tôi cố ý nhìn người phe Tám Kiệt ngồi ăn chung với nhau thành một nhóm như mỗi bữa. Xế trưa nay, tôi đã biết mặt vợ Tám Kiệt và bây giờ cũng biết người nằm bên dưới y qua mầu áo đang mặc. Đây là một phụ nữ trẻ đẹp nhưng quan hệ ra sao với người trong nhóm Tám Kiệt thì tôi và Đỉnh không biết.
Vừa xong bữa cơm chiều, trời đột ngột đen kịt vì những đám mây kéo đến báo hiệu cơn mưa sắp gần. Cùng tiếng sấm xa xa, gió ào ào mang hơi lạnh vào trại, chúng tôi vội kéo nhau vào hết trong hai căn nhà lều để tránh cơn mưa sắp đến. Người lớn thì im lặng còn đám con nít lại hò hét, lấy tay chỉ trỏ cột bụi của cơn lốc nhỏ đang di chuyển chầm chậm trên sân trại và sau đó bị tan biến khi vừa chạm vào cái hàng rào gỗ. Mây đen chuyển dữ cùng sấm ì ì nghe thật ghê vậy nhưng chỉ lát sau, cơn mưa đã đổi sang hướng khác. Trời quang đãng trở lại, tôi và Đỉnh cùng một số người khác lại tụ họp nhau nơi mái tranh uống trà đường nóng cùng tán chuyện. Thắc mắc còn lởn vởn trong đầu, tôi hỏi nho nhỏ:
- Sao mầy biết họ không phải vợ chồng của nhau? Hay thiệt đó, nói tao nghe coi.
Đỉnh nhìn chung quanh, cười cười và thì thào bên tai:
- Vợ chồng khi vào chuyện đó, phụ nữ không có rên đâu... chỉ có tình nhân thôi.
Một khám phá mới, tôi hỏi tiếp:
- Nói tao chưa hiểu. Sao tình nhân mới rên còn vợ chồng lại không mậy?.
- Em cũng chẳng biết, mấy cha lớn tuổi bán hàng gần chỗ em kể vậy. Khi đó cũng có người hỏi như anh bây giờ. Để em nghĩ lại coi. À! Nhớ rồi, mấy chả nói vợ chồng vì quen mặt nhau nên đâu còn hứng thú như những ngày đầu, nếu có cũng in ít... Còn bồ bịch, tình nhân... thì lâu lâu lén lút gặp nhau nên hấp dẫn lắm, nhất là khi xáp trận làm một phát.
Ngừng một chút rồi Đỉnh tiếp:
- Ư, ứ, ử... như bị đánh bị tra tấn cũng vì kích thích cao độ.
- Chẳng tin! Mầy và tao còn độc thân nên chưa biết chuyện vừa nói đúng hay không? Mày bảo lén lút mới rên, vậy tao hỏi ở trong phòng với nhau mà... ối giời ơi... thì người ta biết hết. Lạy ông con ở bụi này.
- Đấy, đấy... Người ta hỏi giống y chang anh. Họ chỉ rên rỉ khi nào ở chỗ an toàn vắng vẻ với nhau, lén lút ở trong nhà có thân nhân gần bên thì lại nín khe. Rên cho chết à, khùng chắc. Có khi còn cắn cả vào người nhau nữa. Đỉnh nói đến đây thì bật cười.
- Tao đâu ngờ mày rành dữ vậy. Tôi nhìn Đỉnh, lắc đầu.
- Tại anh hỏi. Nhưng anh biết lén lút được với ai mới ngon nhứt không? Tôi lắc đầu lần nữa thì Đỉnh tiếp:
- Mấy chả nói xáp được với bà con bên vợ như em hay chị gái ruột, người nào khác cũng không bằng. Kỳ vậy đó! Em biết bà hồi trưa thế nào cũng có dây mơ rễ má gì với vợ của Tám Kiệt cho anh xem.
Lời Đỉnh nói dám có lắm, tôi sẽ thử hỏi dò Thuận xem khi gặp dịp.
Gió đã làm loãng đi các cơn nóng sót lại từ lúc trưa, không khí trong trại bây giờ thật thoáng mát dễ chịu. Chúng tôi ngồi kín ở mái tranh trò chuyện rôm rả, vài người tản bộ tới lui trong sân, con nít chạy đùa í ới với nhau. Ông Thăng buột miệng:
- Mấy đời sấm trước có mưa bao giờ, kể đúng thật mấy ông.
Tính đến hôm nay, đã ngày thứ mười bẩy chúng tôi tạm trú ở đây. Khi ăn mãi cá chiên đến ngán, giờ ăn khỉa liên tiếp bốn ngày món thịt trừu kho cùng đậu ve luộc, ai nấy đều muốn có cá chiên dòn và canh rau muống trở lại.
Ngoài vụ bắt gặp tại trận hôm đó trong rừng, không biết còn cặp nào trong đoàn ghe dám xé rào nội quy trại không nữa? Đỉnh bảo:
- Cứ chịu khó đi rảo thật êm trong rừng, thể nào cũng có lúc anh em mình sẽ gặp. Sống đây lâu, phải có những cặp khác đóng phim chứ anh. Cái chuyện kéo nhau vô lùm bụi đâu cần phải có người chỉ thì mới biết. Họ phải giải tỏa, để tồn ở não sinh ngu sao! Lần này, phải xem cho đã nha, không có vụ thôi mầy ơi mày hỡi, kỳ lắm... gì gì hết nghe cha.
Hai đứa tôi cười vui với nhau. Thật vậy, rừng ở đây rất rậm, lủi vào đâu cũng gặp được những chỗ kín đáo khuất trong các lùm bụi. Chẳng cần đến chiếu hay y phục hoặc khăn lót trải xuống cho sạch vì mặt đất ở nhiều chỗ phủ đầy cỏ rêu mọc đều và mịn như tấm thảm nhung. Đỉnh thử lăn lộn trên mặt cỏ êm và sạch rồi cười hí hí, kêu:
- Có chỗ nằm ngon lành như vầy thì tha hồ làm cá làm thịt nhau, bẻ khóa động đào bố ai mà biết.
Ghe chúng tôi tổng cộng 135 người, vào trại kiểm lại danh sách có tới 49 đàn bà con gái. Có người thì đi cùng chồng và con hay bồ bịch với nhau như Tuyến-Hạnh, Dũng-Hằng, Trí-Minh hoặc độc thân như các cô Đào, Bẩy, Yến, Loan, Tuyết... Một buổi tối, lúc trại sắp sửa ngưng máy điện, Đỉnh vào lều nằm bên tôi, kể: " Chậc! Em vừa thấy một cặp ôm nhau chặt cứng ngay góc khuất sau nhà lều nữ nè. Cứ như vậy thì chỉ có chết ". Vì vậy, Đỉnh hăng rủ tôi đi rảo trong rừng xem coi có thêm vụ... trăn quấn nào nữa không. Có lần hai đứa thấy động đậy trong một bụi rậm nhưng đó chỉ là chú thỏ rừng hốt hoảng nhẩy ra rồi chạy biến.
Có lẽ, duy nhất chỉ mình Tám Kiệt mới dám xé rào vì những cặp đã là vợ chồng hay bồ bịch chính thức với nhau thì lại không dám vi phạm nội quy trại. Họ sợ tụi lính gác trừng phạt nếu bị lộ và sẽ mắc cở với mọi người trong ghe. Đỉnh thì nói Tám Kiệt nghĩ bản thân y đã chơi đẹp với đám lính khi nhờ chúng đổi tiền, mua hàng... nên mới dám chơi bạo. Tám Kiệt khoảng 45 hoặc 46 tuổi, thân người rắn chắc, da hơi đen, mặt khắc khổ xương xương và mép để râu con kiến. Y có hàm răng trắng bóng dù rít thuốc điếu liên tục, cáu vàng nhựa thuốc chỉ bám nơi đầu ba ngón tay. Trầm tĩnh, chịu lắng nghe người khác nói và luôn nở nụ cười tươi với người đối thoại, Tám Kiệt nhìn có duyên ngầm. Thêm cách xử sự rộng rãi, chân thành khi giao tiếp, y lấy lòng người đối diện rất dễ. Nam giới chúng tôi, hầu hết đều mến y huống chi người khác phái. Mẫu người như Tám Kiệt, chẳng cần giỏi thuật xem tướng số thì cũng biết phụ nữ ngã vào tay y dễ dàng.
Vợ Tám Kiệt cũng như người đàn bà trong rừng với y rất đẹp. Cả hai người họ, một thì hơi lớn tuổi, một thì còn trẻ và đều là dân miền Nam.
Hôm nay thứ Hai đầu tuần, chúng tôi được lệnh khi đi tắm phải giặt sạch cái chăn trại đã phát. Chiều đến, lính gác sẽ kiểm tra từng cái một. Nguyên do trước giờ đi ngủ lúc hồi hôm, chăn của một cô gái đã bị người khác đổi bằng cái chăn ướt nước đái khai nồng. Đám lính được ông Thăng báo cáo vừa bực mình vừa tức cười, đã bắt những người có con nhỏ phải mang ra các tấm chăn ra cho nạn nhân nhận lại cái của mình nhưng việc không thành. Cái chăn nào cũng một cỡ và mầu sắc y nhau. Ai cũng nói con nít đái dầm ướt chăn, nghĩ trời khuya sợ con mình lạnh nên thủ phạm đã đánh tráo khi cô gái vắng mặt khỏi căn nhà lều.
Trời tuy còn sớm mà ông Aleck và hai người mặc thường phục đến trại tập họp chúng tôi ở giữa sân nghe thông báo. Ông ta cho biết ở đảo tị nạn Bidong đã chật cứng thuyền nhân rồi nên ông không thể chuyển đoàn người chúng tôi ra đó. Còn trại Sungei Besi thì cũng phải chờ ý kiến của đại diện Cao Ủy LHQ xem sao nhưng ông nói ở đó cũng rất đông người Việt. Hai người tháp tùng theo ông Aleck thì được giới thiệu là sĩ quan hải quân đóng ở cảng Johore giáp với Singapore. Hai sĩ quan hải quân đó lấy sổ tay của họ, nhìn chúng tôi rồi ghi ghi chép chép lia lịa và thăm hỏi vài người có con nhỏ đứng kèm bên cạnh. Trước khi rời khỏi trại, ông Aleck nói cho cả đám chúng tôi nghe:
- Nếu Sungei Besi tương tự như Bidong, chúng tôi sẽ dự liệu cho quý vị đến một nơi khác. Dù không muốn nhưng có thể chúng tôi buộc phải làm.
Chính vì lời tiết lộ của ông Aleck và vì có mặt hai sĩ quan hải quân ở cảng Johore nên suốt buổi đi tắm rồi cả sau buổi cơm trưa sau đó đã làm đám đàn ông chúng tôi bàn chuyện sôi nổi. Malaysia có hai trại tị nạn chính dành cho người Việt vượt biên là Sungei Besi nằm gần thủ đô Kuala Lumpur và đảo tị nạn Bidong ở ngoài biển. Các trại nhỏ, biệt lập khác như cái trại này nhưng ở đâu thì không ai biết. Không bị ra Bidong, chúng tôi rất vui và mong đại diện Cao Ủy LHQ ở trại Sungei Besi sẽ nhận cho chúng tôi vào vì dầu gì, ở trại trong đất liền vẫn tốt hơn ở ngoài đảo. Có điều lo lắng là tại sao lại có mặt sĩ quan hải quân cảng Johore đi theo ông Aleck khi gặp chúng tôi? Johore là hải cảng cực Nam của Malaysia cũng như của lục địa Châu Á tiếp giáp với Singapore. Hai ông Thăng, Phát hỏi dò bọn lính nhưng họ cũng chẳng biết gì thêm ngoài chuyện từ đây đến Johore bằng xe bus, phải mất gần một ngày đi đường. Không lẽ ở Johore còn có một trại tị nạn lớn nào khác dành cho người Việt? Chúng tôi thắc mắc mà đành chịu.
Chỉ chính quyền Malaysia biết sự hiện diện của chúng tôi, nhân viên hội thiện Hồng Nguyệt đến khám bệnh, chích thuốc cũng người địa phương. Càng nghĩ càng đâm lo, tương lai chúng tôi thật mờ mịt, một người nói:
- Khi nào mà có tay mắt xanh, mũi lõ đến gặp bọn mình thì tôi mới yên tâm. Nói thật, đám Malaysia kéo mình ra biển trở lại hay... giết hết cả bọn trong cánh rừng ở đây, thế giới cũng chẳng ai biết đến.
Nghe ông ta nói thấy ớn, nhưng kể cũng đúng. Trước đây, hãy nhớ tàu hải quân Malaysia đã từng nhiều lần kéo ghe vượt biên người Việt ra tuốt hải phận quốc tế rồi cắt dây kéo, bỏ mặc. Không lẽ...? Tám Kiệt xen vào:
- Theo tui, nếu cố ý kéo mình ra trở lại biển thì họ đã làm rồi. Hôm đó đám lính cũng biết mình đục lủng ghe chứ bộ nhưng tại sao cứ để mình ở mãi trong khu rừng này thì tui chịu, không nghĩ ra được. Tám Kiệt nhìn chung quanh, tiếp:
- Chúng ta ở đây bao lâu rồi? Đã hơn nửa tháng, phải không? Tui nghĩ, càng suy đoán thì càng sợ và thêm mệt óc. Vượt biên, đủ thứ chuyện có thể xẩy ra. Trong tay họ, họ tha hồ vo tròn bóp méo mà mình phải chấp nhận. Cứ bình thản sống, cái gì tới nó sẽ tới. Tui, gia đình cả bầy đi theo còn không sợ nè.
Tha hồ vo tròn bóp méo mà mình phải chấp nhận. Hai ngày trước, bọn lính gác đã làm một chuyện khi chúng tôi biết, dù rất bực tức nhưng đành phải im lặng. Chỉ biết an ủi nhau là sống trên nước họ thì may rủi mình phải chịu và coi như không có chuyện đã xẩy ra.
(còn tiếp)
-
(tiếp theo)
Hôm xẩy ra chuyện đó thì tôi và Đỉnh đang ngồi ở cái bàn ăn thường ngày, thấy một số phụ nữ vội vã về trại mà mặt người nào cũng hầm hầm đầy vẻ bực tức khi họ rù rì nói chuyện với nhau.
- Mấy bả vừa mới đi chưa được bao lâu, sao đã quay về gần hết anh. Kỳ vậy! Chắc có chuyện gì rồi, Đỉnh nói.
Ngoài sân trại, ông Thăng ông Phát, Tám Kiệt cùng vài phụ nữ chụm đầu nói chuyện qua lại với nhau. Trong sân trại, không một gã lính trực gác hoặc lảng vảng đi đi lại lại như thường lệ. Tôi nói với Đỉnh muốn biết chuyện, chắc mình phải hỏi mấy cô Đào, Bẩy hoặc Yến. Khi thấy ba cô gái từ nhà lều bước ra sân, hai đứa tôi vội vàng tiến đến hỏi chuyện. Thì ra sự việc như sau:
Thường lệ, cứ 10:30 gần trưa thì đám nữ giới đi tắm trong một căn nhà lộ thiên ở gần bìa rừng. Căn nhà tắm nầy, đám lính đã dựng từ lâu dành cho các thuyền nhân đến trại trước đây. Căn nhà rất hẹp chỉ hơi dài và phía quay mặt ra con đường mòn thì được che kín bằng tole, còn phía quay vào trong rừng thì lại để trống. Chỗ tắm trong căn nhà, được đóng thành sàn gỗ cao khoảng 1 m và có các vòi nhỏ cách nhau đều đặn từ một ống lớn chạy dọc theo vách tắm từ trên cao. Nước được máy bơm từ dưới suối lên, chẩy từ ống lớn chia đều ra các vòi nhỏ cho từng chỗ người đứng tắm. Hàng ngày khi tắm, đám phụ nữ trông thấy gã lính ngồi ôm súng chờ ngoài xa bên đường. Hai gã lính còn lại thì đang trực gác ở trại, đám nữ giới tha hồ tắm mát cùng giặt rũ ở phía bên trong căn nhà lộ thiên.
Nội quy trại cho phép chúng tôi chỉ được tắm một lần trong ngày. Do khi đến lượt nữ giới đi tắm thì trời đã gần trưa rất nóng nên ai cũng mong được tắm ngay một cái cho mát. Trời khiến cơ thể con người, nhất là phụ nữ mà không có nước tắm rửa thường xuyên thì thật khó chịu nên hầu như vừa đến căn nhà lộ thiên, họ đã vội chen nhau đứng dưới vòi nước ngay. Có nước suối mát lạnh và xà bông thơm mua từ bọn lính gác nên, ai cũng mải tắm giặt mà đâu biết có những cặp mắt nhìn lén sát gần bên. Mắt của bọn lính gác từ trong các bụi rậm không xa. Hôm nay, một bé gái không tắm nên ngồi yên chỗ dưới bóng cây chôm chôm chờ mẹ xong cùng về. Được một lát, bé gái đó lại đi vào rừng rồi lòng vòng và đã bắt gặp hai gã lính đang ngồi quay phim đám nữ giới đứng trên sàn tắm dưới các vòi nước. Từ sau lưng hai gã lính, bé gái đó đi bọc qua một ngã khác rồi quay lại căn nhà tắm và tri hô cho đám nữ giới biết sự việc. Ba, bốn phụ nữ sồn sồn thay vội quần áo rồi họ chạy ngay đến bụi rậm đó và bắt quả tang tại chỗ hai gã lính đang ngồi nhìn trộm. Buổi tắm vì vậy đã chấm dứt nhanh chóng và cả đám nữ giới lần lượt kéo nhau về trại sớm hơn thường lệ.
Ba gã lính về tới trại, vừa đi chúng vừa nói chuyện tỉnh queo như không xẩy ra chuyện gì. Đám phụ nữ nói với nhau là phải làm đơn thưa với ông Aleck nhưng bàn cãi tới lui, sau cùng đoàn người chúng tôi quyết định phải lờ đi. Ông Thăng nói:
- Bọn mình là khách không mời tự ý tìm đến nước họ và đang cần sự che chở thì đừng làm chuyện gì để họ ghét.
- Giả dụ mình đến tá túc nhà ai, chủ nhân cho mình chỗ ngủ, thức ăn nhưng trong đám con cháu họ lại có đứa nghịch phá mình thì sao. Không lẽ lại ăn thua đủ. Nếu mình tố cáo, chắc chắn họ sẽ bênh đám lính và không ưa mình. Họ phải giữ thể diện của họ chứ. Thưa, cũng chẳng ăn thua gì, tốt hơn hết mình nên quên đi. Tám Kiệt đồng tình với lời ông Thăng.
Khi có ông Aleck đến, ba gã lính gác lộ vẻ sợ hãi nhưng chúng tôi im lặng không đả động gì về chuyện xẩy ra. Chỉ một an ủi là có xinh đẹp thì lính mới rình xem, dầu sao cũng một kinh nghiệm.
Bữa ăn hàng ngày của chúng tôi đột nhiên đổi khác, nhiều và ngon hơn. Điểm tâm thì bằng bánh hấp, bánh chuối, bánh khoai mì và cơm trưa lại có cả thịt bò cà ri hoặc thịt gà xả ớt trộn với sa kê sắt mỏng. Sa kê là loại trái bề ngoài trông khá giống mít non nhưng có vị bùi y như khoai môn pha bột. Ông Aleck đến trại thường hơn trước. Có khi ông đến ngay lúc bọn lính đang phân phát thức ăn, ông cũng đứng xếp hàng nhận dĩa cơm rồi cùng ăn chung. Có buổi chiều gần tối, ông còn đến và vào ngồi trong mái lều tranh hỏi chuyện với đám chúng tôi nữa. Chuyện ông Aleck làm chúng tôi phải suy đoán mà đa số thì cho là tín hiệu tốt, chúng tôi sẽ được chuyển vào trại Sungei Besi. Dù vậy, có người nhắc lại lời ông từng nói nếu Sungei Besi đầy người thì buộc lòng sẽ chuyển chúng tôi đến một nơi khác. Nếu có như vậy thì nơi đó ở đâu? Tám Kiệt tuy ngoài miệng nói cứng cái gì tới sẽ tới đừng lo nghĩ mất công nhưng bản thân y thì thường ngồi yên tư lự và rít thuốc lá điếu liên tục. Trừ con nít ra, đám người lớn chúng tôi ai ai cũng lờ mờ đoán sắp có chuyện.
Cái gì đến thì sẽ đến, một buổi chiều bọn lính lệnh chúng tôi tập họp hết tất cả mọi người ngồi chờ ở giữa sân trại. Lát sau thì ông Aleck đến cùng một nhóm khá đông người và ông báo tin vào sáng ngày mốt, chúng tôi sẽ phải chuyển xuống cảng Johore. Một sĩ quan hải quân đứng gần bên ông Aleck, tiếp lời:
- Một ghe to hơn chiếc cũ, đầy đủ gas chạy máy cùng lương thực, nước uống và trước khi khởi hành, quý vị có thể kiểm tra tình trạng máy móc. Tôi bảo đảm ghe rất tốt, có cả một máy bơm nước nữa.
Nghe rõ những lời thông báo của họ, dù đã tiên liệu từ trước nhưng cả đám chúng tôi vẫn thẫn thờ trong im lặng.
- Thưa ông, tụi tui phải rời trại và sau đó sẽ ra khơi trở lại bằng chiếc ghe mới từ cảng Johore? Tám Kiệt thay mặt cả đám, hỏi cho chắc ăn.
Ông Aleck gật đầu xác nhận, rồi nói:
- Để an toàn, chúng tôi sẽ giúp quý vị bằng cách kéo chiếc ghe từ cảng ra biển lớn, sau đó quý vị sẽ tự tiếp tục chuyến đi.
- Ông bảo tự tiếp tục chạy ghe, vậy chúng tôi sẽ đi đâu trong cái đại dương bao la? Chúng tôi trốn nạn Cộng Sản, tìm tự do, ghé vào đây rồi bây giờ ông lại bảo chúng tôi tiếp tục đi... đi nữa. Các ông có biết Cộng Sản như thế nào không? Sao các ông không hiểu cho hoàn cảnh, còn đẩy chúng tôi đi tiếp? Ông Phát to giọng bực tức, chất vấn.
Thấy vậy, hết ông Aleck rồi đến các sĩ quan khác thay nhau trả lời rằng họ biết chúng tôi đào thoát để tìm tự do, đã ghé vào cảng Kelang và vì vậy nên được cho tạm dung ở đây. Hiện thời vì Bidong và Sungei Besi quá đông người, không thể nhận thêm nên họ phải kiếm một ghe mới khác, mong chúng tôi thông cảm. Điều quan trọng khi xuống ghe đó, chúng tôi sẽ không được quay trở lại Malaysia nữa. Ông Thăng khi nghe vậy, hỏi liền:
- Johore gần Singapore, ông nghĩ chúng tôi chạy ghe vào đó có được không?
- Tùy quý vị nhưng từ lâu rồi thì Singapore không nhận người Việt Nam, thêm nữa vùng biển gần cảng Singapore có rất nhiều tàu lớn nên có thể làm chìm ghe quý vị nếu chạy gần. Theo tôi, quý vị nên tránh cập bến Singapore. Một người trong đoàn ông Aleck, trả lời.
- Vậy thì chúng tôi sẽ tiếp tục đi đâu để gặp trại tị nạn? Ông Phát lập lại câu hỏi.
- Tốt nhất thì quý vị nên hướng đến Indonesia và nhớ đừng tiết lộ gì kể từ lúc vào Kelang, thời gian tạm dung ở đây cũng như chuyến đi sắp tới tại Johore. Trước giờ xuống ghe, quý vị sẽ phải mặc áo phao cứu sinh vừa với kích thước từng người. Một sĩ quan hải quân kết thúc câu chuyện.
Sau đó, các nhân viên hội thiện Hồng Nguyệt tản ra, lăng xăng khám sức khoẻ chúng tôi rồi cho mỗi người gói nylon nhỏ gồm trái cây tươi và bánh ngọt. Ai nấy thắc mắc về lời nói của viên sĩ quan, ghe mới to hơn và tốt hơn cá lớn nhưng sao lại phải mặc áo phao cứu sinh.
Ngày kế, lính gác lệnh đám nam giới chia từng toán nhỏ đi quét dọn các nơi cùng hai nhà lều, lấp hố rác và vào rừng khuân các thân cây khô về chất thành đống lớn để đốt lửa trại. Chốc lát xong việc, lính gác cho phép chúng tôi tự do đi tắm suối lần cuối, ai ai cũng một cảm giác nôn nao về chuyến sẽ đi vào sáng sớm ngày mai. Ngày qua đi thật nhanh rồi khi trời sẩm tối, thêm ba gã lính khác đi xe Jeep đến nhập bọn chung. Lửa trại bùng lên, chúng tôi ngồi xen kẽ với lính gác thành một vòng tròn khá rộng chung quanh. Gã lính Daniel chơi guitar một điệu tango vui mở màn, có người thổi sáo miệng phụ họa theo. Một thanh niên trong chúng tôi dùng hai chiếc muỗng làm đôi chập chõa hòa âm với gã lính đang gõ lên cái mũ sắt nhà binh thay cho trống. Cây guitar được chuyền tay lần lượt cho các người khác biểu diễn. Hát nhạc ngoại quốc chán thì đổi qua nhạc sến rồi ca cải lương. Và không ai ngờ, bằng cây guitar mà ông Phát lại gẩy được nhiều điệu cải lương réo rắt chung với người ca. Cải lương có nhiều bài bản bài lý cùng các loại hơi xuân hơi oán rất khó ca ngay cả với người miền Nam. Đám lính thì cũng hát hò nhạc Malaysia góp vui. Lửa trại sẽ còn tiếp tục nhưng đám lính chấm dứt sớm, lệnh cho chúng tôi đi ngủ ngay để giữ sức cho chuyến đi vào ngày mai. Gã lính Daniel lộ vẻ buồn ra mặt vì y biết sẽ không gặp những cô gái trẻ trong đoàn ghe nữa, còn chúng tôi thì hầu như ai cũng cảm thấy khó ngủ vì lo lắng. Khung cảnh trơ lại cái tĩnh mịch trong ánh sáng bập bùng của lửa trại sắp tàn.
Tiếng kèn và ánh đèn từ hai chiếc xe bus đến thật sớm khi trời còn chưa sáng rõ đã đánh thức cả trại dậy. Vì chuẩn bị sẵn nên mọi người ùa ra làm vệ sinh cá nhân rồi điểm tâm qua loa nhanh chóng, sau đó lên ngồi kín trên hai chiếc xe. Khi kiểm danh đã đủ 135 người thì hai chiếc xe bus bắt đầu từ từ lăn bánh ra khỏi trại, Daniel cùng các gã lính khác đứng cạnh gần cổng ra vào vẫy tay từ giã chúng tôi.
Mỗi chiếc xe bus đều có hai gã lính thủ súng trường M 16 đứng trấn sát ngay cạnh cửa lên xuống ở bên trong. Xe chạy chầm chậm, lắc lư trên con đường gập ghềnh hoặc tránh các vũng nước nằm ngay giữa lộ đất đỏ. Trời sáng dần, tôi thấy rõ cây rừng đan chặt chỉ cách vệ đường vài bước chân và rừng trải dài bạt ngàn khi xe bus qua những chỗ thấp như thung lũng hoặc đồi cao. Văng vẳng tiếng chim hót râm ran hòa với tiếng hộc tiếng hú của muông thú chào đón đầu ngày mới.
Ra khỏi khu rừng thì hai chiếc xe bus nhập vào một xa lộ rộng rãi, đầy xe để chạy về hướng Nam. Có lúc xe bus chạy ngang qua những đoạn đường trồng toàn cọ dầu tương tự cây dừa với chùm trái chín đỏ bên thân sau kẽ bẹ lá. Hàng cọ dầu thẳng tắp trồng thành rừng như cao su bên quê nhà, trái dùng để ép lấy dầu thực phẩm. Chúng tôi vượt qua các khu đô thị sầm uất với những công trình xây dựng rất đẹp, những thánh đường Hồi giáo với tháp cao riêng biệt hoặc nhiều khu dân cư vùng ngoại ô. Trông thấy phố xá đông người với các tòa nhà cửa kiếng bóng lộn bên dòng xe cộ mới thấy bên quê nhà đã bị đứng khựng lại từ nhiều năm. Chỉ mới đến các thành phố miền Nam Malaysia thôi đã như vậy thì ở thủ đô Kuala Lumpur chắc chắn còn đẹp và phồn thịnh hơn nữa.
Đến một thành phố, hai chiếc xe bus ngừng sát cạnh bên vệ đường, gần những tiệm ăn và các cửa hàng thương mãi. Lệnh buộc chúng tôi phải ngồi yên trên ghế, đám lính gác rời xe đi lo công việc. Xe bus ngưng máy nằm yên bên đường, vài người mở hết cửa kiếng ra cho mát. Khách bộ hành địa phương đi qua đi lại, tò mò nhìn vào xe bus rồi một người trong số họ xì xồ tiếng Tàu. Có tiếng phụ nữ trong dẫy ghế phía trước xe trả lời và rồi hai bên trò chuyện qua lại với nhau.
Người khách đó bỏ đi để rồi chỉ chốc lát sau kéo thêm các người khác đến bên hai chiếc xe bus với các thùng nước giải khát và bánh ngọt để cho chúng tôi. Họ là người Malaysia gốc Tàu Triều Châu. Người phụ nữ trên xe cho biết người khách bộ hành đó đã đi báo tin về nhóm 135 người Việt tị nạn CS chúng tôi và họ mang quà đến cho. Chúng tôi chuyển cho nhau bánh ngọt, nước giải khát từ tay những Hoa kiều xa lạ nhưng thật tốt bụng. Đi từ lúc sáng sớm, ai cũng khát khô họng nên vội mở nắp uống ngon lành. Uống chưa cạn lon nước thì đã nghe tiếng người la hét vọng tới làm những Hoa kiều hoảng hốt nhìn chúng tôi, xì xào. Đám lính gác từ đâu quay trở lại và chúng thẳng tay xua đuổi các Hoa kiều đang vây quanh hai xe bus. Những lon nước giải khát, hộp bánh ngọt còn sót trong thùng chứa đã bị đám lính lôi ra, vất bỏ tung toé trên vỉa hè đường rồi họ còn đuổi đánh các người dân địa phương hiếu kỳ đứng gần xem.
- Mấy cha lính nầy dữ quá! Người ta cho bánh cho nước uống chứ có làm quái gì đâu mà cấm, một người trong xe than.
Lính gác cũng mang về hai chiếc xe bus các thùng carton cùng những lon nước lã khác của họ. Cửa xe bus được đóng lại nhanh chóng và sau đó xe chạy tiếp ra xa lộ rồi băng qua các khu dân cư thưa thớt vùng quê hoặc đi qua các thành phố sầm uất. Khi chạy dọc theo một cánh rừng cao su tương tự vùng Long Thành-Đồng Nai được một đoạn đường, hai chiếc xe bus quẹo vào lối nhỏ cạnh rừng rồi ngừng lại. Lính gác lệnh chúng tôi xuống xe nghỉ ngơi rồi họ phát cho mỗi người một gói thức ăn và một lon nước lã.
Rừng cao su ở đây, cây nào cũng có các rãnh cắt xiên bên thân và một chén nhỏ hứng mủ gài ngay dưới cùng của đường rãnh. Không biết thời xưa khi còn là thuộc địa của nước Anh thì đời sống người phu cạo mủ ở đây có giống như bên Việt Nam mình không? Có được những cánh rừng cao su như bây giờ, chắc chắn phải mất nhiều công sức và cả sinh mạng người phu cạo mủ trong những buổi đầu. Ăn uống và nghỉ ngơi được khoảng nửa tiếng đồng hồ, lính gác lệnh cho cả bọn chúng tôi trở về xe. Đêm hôm qua hầu như không ai ngủ được lại phải đi suốt từ lúc sáng sớm nên giờ đây nhiều người trong chúng tôi đã ngủ gà ngủ gật trên xe. Tôi muốn thức để nhìn cảnh vật hai bên đường cho biết nhưng không thể. Mắt đã nhíu lại và tôi đã ngủ cho đến khi tỉnh giấc vì những giọt mưa lạnh hắt vào mặt. Nhưng chỉ là cơn mưa bóng mây vài giọt rồi dứt hẳn. Tuy vậy cũng đã làm tôi tỉnh hẳn. Hai chiếc xe bus vẫn tiếp tục chạy chung với dòng xe cộ trên xa lộ dài hun hút, bên ngoài trời về chiều rồi tối dần dần. Cuối cùng, xe bus chạy vào một khu vực đèn đường sáng choang soi rõ từng dãy nhà thẳng tắp cùng những thân tàu lớn, đen đen đậu dọc theo bờ kè cạnh con đường.
- Mình đang vào căn cứ hải quân Johore, Đỉnh ngồi bên tôi khẽ nói.
Những dãy nhà cạnh bên những con đường thẳng tắp, sạch sẽ mà rất ít người qua lại. Có lẽ hai chiếc xe bus chạy vào một khu vực kín đáo, giới hạn người và được canh phòng cẩn mật. Đến một bãi trống trải, hai chiếc xe bus giảm tốc độ và dừng hẳn. Lính gác lệnh chúng tôi xuống xe và xếp thành hai hàng trên cái sân bê tông gần ngay một bến tàu. Đèn trên các hàng cột cao chiếu sáng chói chang khiến tôi phải dùng tay che mắt khi muốn nhìn kỹ một nhóm người đang đi đến gần. Chúng tôi gặp lại ông Aleck và các sĩ quan hải quân khi trước.
- Ông Thăng ông Phát đâu rồi! Mấy người Mã Lai nầy muốn nói cái gì nè, tiếng một phụ nữ gọi lớn, thông báo.
Chúng tôi nối nhau thành một hàng dọc tiến về phía trước nơi đám lính gác chờ sẵn với một đống áo phao cứu sinh mới toanh bỏ nằm dưới đất. Mỗi người được phát một chiếc áo phao cứu sinh này. Các gã lính chỉ dẫn cách thức luồn sợi dây choàng qua hai đùi phía dưới háng từng người để cố định vị trí cái áo phao luôn luôn dính chặt vào thân mình. Ở túi ngực áo phao, có một còi hơi để thổi khi cần đến và một bóng đèn pin nhỏ sẽ cháy chớp tắt khi cái chốt nắm được giật tung ra. Lần lượt giúp từng người chúng tôi mặc áo phao cứu sinh xong, một sĩ quan hải quân nói:
- Ai cũng cần biết cách sử dụng còi và đèn để phòng khi nổi dưới biển, gặp tàu cấp cứu chạy đến gần sẽ dễ dàng biết vị trí của quý vị.
Buộc mọi người phải mặc áo phao rồi chỉ dẫn cách dùng còi và đèn báo khi thân người đang nổi dưới biển đã làm chúng tôi phải nghĩ ngợi pha chút lo lắng. Sẵn có còi hơi trong tay, vài trẻ nít cứ vô tư thổi toe toe và tắt mở bóng đèn pin để vui đùa với nhau. Đồng hồ trên tay tôi đã hơn 8 giờ tối và bầu trời thì tối đen không một ánh sao. Chúng tôi chỉ cho nhau thấy các thân ghe đậu lố nhố dưới chân cầu xa xa mà không biết chiếc nào sẽ thay cá lớn trong tối nay? Chợt ông Thăng lách đến gần chỗ tôi đang đứng, miệng nói gấp:
- Anh Tám và cậu Thuận đâu rồi? Đi ra với tôi ngay, mấy người hải quân họ muốn mình xuống xem ghe bây giờ nè.
Tiếng một người khác nói với theo:
- Ê mấy ông! Nhớ kiểm tra máy ghe, máy bơm nước xem coi nó có chạy ngon lành không nha.
Tám Kiệt, Thuận cùng các ông Thăng ông Phát theo chân ông Aleck cùng các sĩ quan hải quân tiến về phía những chiếc ghe đậu ở phía dưới bờ cảng. Họ đi xuống chiếc nào trong số ghe lớn, nhỏ đang nằm im lìm đó? Trong cái áo phao cứu sinh đồng một màu cam đỏ, chúng tôi bây giờ trông ai cũng giống như ai nếu không nhìn thấy mặt của nhau. Người lớn trong áo phao lớn, trẻ nhỏ trong áo phao nhỏ. Một mùi tanh cá, mùi mằn mặn của nước biển theo cơn gió thổi hắt lên bờ về phía đám chúng tôi đang đứng chờ tin. Lát nữa đây, chúng tôi sẽ phải tiếp tục cuộc hải hành mới, một cuộc hải hành tuy không muốn mà phải đi trong lo sợ. Tôi chợt run người vì sợ, tay tôi nổi chút da gà. Bên tôi, vài người nhìn mặt thấy rõ vẻ lo âu trong yên lặng. Cầu mong chuyến đi sẽ được suôn sẻ.
Tám Kiệt cùng Thuận, ông Thăng, ông Phát quay trở lại chung với nhóm người của ông Aleck. Thuận đi đầu mỉm cười và giơ ngón tay cái hướng lên trời với chúng tôi.
- Ghe, máy cùng bơm nước thì tụi tui kiểm tra thấy chạy rất tốt. Anh Tám và cậu Thuận đã xem đi xem lại thật kỹ rồi, tiếng ông Phát nói lớn cho cả đám nghe.
Tám Kiệt tiếp lời:
- Dầu chạy ghe đã được họ bơm đầy còn sơ cua thêm vài can nhựa 30 lít nữa. Ghe nầy rộng hơn chiếc cũ, máy mạnh hơn nhưng không có hải bàn vì tầu hải quân họ kéo đi theo và sẽ chỉ hướng để mình chạy tiếp. Thực phẩm và nước ngọt có đầy đủ dưới ghe, tụi tui đã xem xét kỹ lưỡng.
Ông Aleck tiến đến, đứng đối mặt với cả đám chúng tôi rồi khoa tay buộc mọi người chú ý và im lặng. Ông chậm rãi nhắc lại những cam kết của Malaysia với Cao Ủy Tị Nạn LHQ khi nhận cho chúng tôi vào tạm trú nhưng do những khó khăn nội bộ nên buộc lòng họ phải sắp xếp để làm một chuyến hải hành mới. Rồi thay mặt bộ Nội Vụ, ông mong chúng tôi thông cảm và quả quyết chuyến đi tối nay sẽ tốt đẹp. Một sĩ quan hải quân khác, thông báo:
- Lát nữa đây, tôi sẽ chỉ huy chiếc tàu kéo ghe quý vị đi ra tới biển lớn. Thuyền trưởng, tài công bên quí vị nhớ phải giữ khoảng cách an toàn ở phía sau tàu hải quân. Bây giờ, xin mời quý vị xuống ghe, di chuyển trong trật tự và im lặng.
Chúng tôi cầm hành lý cá nhân trong một tâm trạng hồi hộp vì sắp sửa bước xuống ghe để dự vào chuyến hải hành mới. Vài người lớn nắm chặt tay trẻ nhỏ như sợ chúng sẽ lạc mất. Trong những phút cuối cùng còn trên sân cảng, ông Aleck lách qua hàng người và tiến đến chỗ ông Thăng ông Phát đứng rồi đưa hai gói giấy vuông cạnh với dây mầu cột hình chiếc nơ khá đẹp cho hai người nầy. Ngay tức khắc, hai ông Thăng, Phát cùng mở hai gói giấy đó trước mặt chúng tôi rồi lấy ra hai quyển album thật đẹp. Ông Thăng giơ quyển album lên cho mọi người thấy, lắp bắp nói đây là quà của ông Aleck tặng riêng, trả công vì hai người họ đã giúp việc thông dịch cho đoàn người.
Đến giờ xuống ghe, chúng tôi lần lượt nối đuôi thành một hàng dọc theo nhau tiến về phía trước. Ông Aleck cùng các sĩ quan hải quân đứng yên tại chỗ và lần lượt bắt tay từng người chúng tôi. Đến phút phải chia tay với đất nước Malaysia thật rồi. Đám chúng tôi băng qua hết bờ cảng bê tông rồi vượt qua một cầu tàu xi măng nhỏ để đến chiếc ghe mới trong tiếng máy nổ êm nhẹ cùng dàn đèn cháy sáng choang đậu riêng biệt sát cạnh cầu tàu. Xa xa, các ghe lớn nhỏ khác nhau đậu thành hàng im lìm trong ánh sáng đèn chiếu sáng rực. Không biết những ghe đó của dân hay của quân đội vì chúng tôi đang trong khu căn cứ hải quân Johore? Tôi xuống ghe và đi dọc theo cạnh lườn sát căn buồng lái hướng về phía mũi rồi khoang hầm. Bắt chước người đi trước, tôi đu người chui xuống khoang hầm ghe. Đúng như lời ông Aleck nói, ghe này tuy to hơn chiếc cá lớn nhưng lòng nó thì cạn hơn. Khoang hầm khá rộng và được lót bằng ván gỗ mới nên trông rất sạch. Nhiều miếng vải vụn cùng các bịch nylon mới toanh được bỏ nằm vương vãi ở nhiều nơi trên mặt sàn khoang hầm.
Một bóng đèn tròn lủng lẳng trên nóc soi rõ mặt từng người đám chúng tôi. Đào, Bẩy cùng Yến ngồi bó gối sát cạnh vách khoang ghe phía đối diện không xa chỗ tôi còn Đỉnh thì ngồi cùng bên cách tôi vài người. Lần đi này, trẻ em thì ngồi chung với gia đình chứ không tập trung hết trên buồng lái như ở cá lớn. Cùng một cảm giác như khi còn đang ở Việt Nam, ai cũng hồi hộp nhưng nhanh nhẹn như vừa từ taxi bước qua cá lớn và trám kín vào bất cứ chỗ nào còn trống của khoang hầm. Tám Kiệt, Thuận và hai ông Thăng, Phát thì ở trên buồng lái với đám hải quân Malaysia. Một gã lính hải quân thò đầu xuống khoang hầm cười cười và vẫy tay chào với chúng tôi. Mọi người im bặt khi có tiếng ông Phát nói vọng xuống, báo tin:
- Tàu hải quân của họ sắp sửa kéo ghe mình chạy đó bà con ơi. Ai mà cảm thấy muốn ói muốn mửa gì thì cứ ói vào mấy bịch nylon để sẵn đó và ngồi yên chỗ, đừng di chuyển tới lui nha.
Tiếng máy từ tàu hải quân nổ lớn hơn rồi sau đó thì có một chuyển động nhẹ từ tấm ván nơi tôi dựa lưng và nó càng lúc càng mạnh hơn, ghe đã bắt đầu chạy. Đúng hơn, ghe đang được tàu hải quân Malaysia kéo đi. Gần bên tôi, người thì hai mắt mở thao láo vô hồn, người thì ngồi nhưng mắt nhắm nghiền hoặc dựa lưng vào vách ghe như đang ngủ. Vài đứa bé nằm xoài người ra ngay dưới sàn hầm bên cạnh ba mẹ chúng. Đông người nhưng không quá chật vì như đã kể, khoang hầm ghe rộng bề ngang tuy không sâu như bên chiếc cá lớn. Cửa khoang hầm mở rộng do đó không khí bên ngoài thốc vào đã giúp chúng tôi bớt nóng và ngột ngạt. Nhìn trong khoang hầm và mũi ghe bầu tròn, sàn thấp thì có người nói đây không phải ghe đi biển đánh cá mà chỉ là loại chở hàng trên sông rạch hoặc trong vùng cận duyên. Số người có mặt trong ghe có lẽ chẳng là bao so với tải trọng thực của ghe và vì vậy, máy ghe chạy rất êm. Nói vậy nhưng cũng khó biết chính xác vì hiện ghe đang được tàu hải quân kéo bên ngoài. Những tấm ván mới cũ ghép bên nhau trên sàn hầm thì biết chiếc ghe này vừa được hải quân Malaysia tân trang lại. Gốc gác nó từ ngư phủ Malaysia hay của một chuyến vượt biên người Việt nào đó đã vất bỏ khi họ lên bờ? Biết đâu cá lớn chúng tôi bỏ tại cảng Kelang vừa rồi thì cũng sẽ được họ tân trang và dành cho chuyến chuyển tiếp người Việt khác sau này. Hơi đâu mà chính quyền Malaysia bỏ tiền ra đóng ghe mới cho thuyền nhân Việt. Tận dụng ghe cũ là thượng sách, có hư hỏng thì sửa lại là xong. Và, để phòng các chuyện không hay xẩy ra thì cách tốt nhất họ dùng tàu hải quân kéo hẳn ghe ra tới biển lớn là hết trách nhiệm. Có bóng đèn chiếu sáng lủng lẳng trên đầu, tôi xem lại cái áo phao mới toanh đang mặc. Ngay cổ áo, không có miếng vải nhỏ ghi xuất xứ làm tôi nhớ lời của ông Aleck và các sĩ quan hải quân đã dặn không được tiết lộ ghe này xuất phát từ cảng Johore ra. Đúng rồi. Họ cố tình không muốn ai biết về hành động của họ. Lúc mới xuống dưới ghe, tôi đã thấy trong buồng lái cũng có các bao thực phẩm y chang loại đã tiếp tế cho cá lớn khi còn ở cảng Kelang. Họ giúp nhưng lại muốn che dấu tung tích về chuyện đã tiếp xúc với chúng tôi, những người vượt biên quá trễ. Lòng nhân đạo của các nước lân bang đã quá mỏi mệt vì phải giúp thuyền nhân cả một thời gian dài khiến họ lúng túng trong cách đối xử với người vượt biên như chúng tôi bây giờ. Họ đã tàn ác hay vụng về khi kéo ghe trở ngược ra biển? Cũng khó mà hiểu tâm trạng cùng hoàn cảnh của người nước họ. Tiếng người nói chuyện lao xao chợt im bặt vì một tiếng giật mạnh chuyển vào thân ghe để rồi tiếp sau đó làm mọi người bắt đầu có cảm giác nôn nao.
Tàu kéo hải quân Malaysia đã tăng tốc độ, ai trong khoang hầm cũng biết.
Ghe bây giờ chạy nhanh hơn, nước biển bên ngoài có lúc tung cao hắt văng xuống lòng khoang hầm làm những người ngồi gần ô cửa phải lết sang chỗ khác tránh. Cảm giác khó chịu của cơ thể vì chuyển động từ ghe càng lúc càng tăng và đã có người bắt đầu vớ lấy các bịch nylon hờm sẵn trong tay. Chỉ một lát sau, tiếng nôn oẹ ợ lên trong khoang hầm và đã có người bắt đầu ói. Hai phụ nữ ngồi gần tôi đã bắt đầu ói lọt bọt vào các bịch nylon. May là bụng ai cũng trống rỗng nên muốn ói mà chẳng có gì để mửa ra. Lúc còn đứng tập trung ở mặt sân bê tông tại cảng, đã có người trong đám chúng tôi than đói than khát và trách móc bọn lính Malaysia cho ăn uống quá ít lại không phát thêm chút gì khác để dằn bụng. Nhờ vậy mà hay vì nếu có sẵn thức ăn bên cạnh, thể nào có người cũng sẽ nốc cho cố xác. No bụng, sẽ khổ cho cái thân và cho cả người ngồi cạnh. Để chúng tôi phải chịu đói khát trước giờ hải hành, hải quân Malaysia ở căn cứ Johore rõ ra đã cố ý làm vậy và như thế, họ đã từng kéo ghe người Việt.
Chạy tiếp mãi như vậy khoảng bốn tiếng đồng hồ thì ghe bắt đầu từ từ chậm lại rồi ngừng hẳn. Tàu hải quân Malaysia đến bên ghe và tiếng người nói lao xao ở phía trên, hai gã lính Malaysia đi theo ghe từ lúc khởi hành lại thò đầu xuống khoang hầm cười cười rồi vẫy tay từ biệt chúng tôi. Giờ đây, đã đến lúc chúng tôi phải tự lái ghe lấy. Một hồi còi rít vang lanh lảnh, tàu hải quân Malaysia từ từ tách ra xa rồi tiếng máy của nó nhỏ dần và mất hẳn. Tàu hải quân đi xa rồi, vài người trong khoang hầm tiến đến gần chỗ cửa để chuẩn bị trèo lên nhưng còn phải nghe ngóng chờ ý của Tám Kiệt đã. Nếu họ trèo lên thì mình cũng sẽ theo chân, tôi nhủ thầm. Chợt thấy Đỉnh trong số những người vừa lết lại gần cửa khoang hầm, nó cũng thấy tôi và khẽ giơ ngón tay trỏ quay quay vào đầu như cho biết đang cơn choáng váng. Không phải chờ lâu, tiếng chân người trên mặt sàn ghe bước đến gần và giọng Tám Kiệt vọng xuống:
- Ai muốn lên thì lên còn không cứ ở dưới. Bây giờ thì bọn mình giống y như lúc chưa ghé vào Kelang đó.
Tôi vội theo chân những người đu mình leo lên trên mặt sàn ghe rồi sau đó phóng tầm mắt nhìn biển chung quanh tối đen. Gió đêm thổi mát lạnh, xa xa trên mặt biển chỉ một chấm đèn nhỏ có lẽ là chiếc tầu hải quân vừa bỏ ghe chúng tôi. Một vầng sáng lờ mờ hắt lên từ dưới mặt nước biển ở đường chân trời, ai cũng cho chắc đó là cảng Johore. Bầu trời đen thui không một ánh sao đêm, Tám Kiệt đứng lẫn trong nhóm người vừa từ khoang hầm ghe vọt lên, nói:
- Bây giờ chúng ta nhắm hướng ánh đèn hải đăng phía trước mặt cho đến khi nào trông thấy cái hải đăng thứ hai thì đổi hướng theo ngay nó. Cứ theo như vậy lần lượt, mình gặp đến cái hải đăng thứ năm thì ghe sẽ vào Indonesia. Mấy cha hải quân nói khi gần sáng chúng ta sẽ đến nơi đó.
- Nơi đó là Galang hả anh Tám? Một người đứng gần tôi, hỏi.
- Không. Tám Kiệt lắc đầu mà không trả lời. Ông Thăng nhìn người vừa hỏi, xen vào:
- Lúc nãy tôi cũng hỏi như anh nhưng mấy bố hải quân nói Galang còn xa lắm. Galang cũng chỉ là một hòn đảo nhưng phải là dân Indo thì mới biết đường. Bây giờ, bọn mình chỉ còn cách duy nhất là đi theo ánh đèn hải đăng thôi.
Mọi người nhìn theo hướng tay của ông Thăng về một chấm nhỏ loé sáng rồi tắt sau đó lại sáng và tắt trở lại nằm tuốt tận chân trời xa xa tương tự như ánh đèn hải đăng nơi đỉnh núi Lớn ở Vũng Tàu. Vài người lấy tay che ngang trán ráng nhìn, người khác hỏi ống nhòm thì Tám Kiệt lắc đầu, trả lời không có.Từ khi còn ở trong nước, hầu như ai có máu vượt biên cũng đều biết bên Indonesia có trại tị nạn người Việt tên là Galang. Giờ đây mới rõ Galang chỉ là một hòn đảo và nằm đâu đó trong số hàng ngàn hòn đảo của Indonesia. Làm sao ghe chúng tôi đến được đảo tị nạn Galang đây?
Nhìn đồng hồ tay đã hơn 1 giờ sáng, chỉ còn vài tiếng nữa thì ghe chúng tôi sẽ cập vào Indonesia. Thấy có hải đăng chỉ đường nên ai nấy lộ vẻ vui mừng, nghĩ mọi việc rồi sẽ ổn. Có người rủ nhau leo xuống trở lại khoang hầm để ngủ trong khi chờ trời sáng. Tám Kiệt và Thuận đứng bên nhau trong buồng lái, chạy ghe nhắm theo ánh đèn hải đăng. Cảm giác nôn nao bớt hẳn trong người tôi nhưng lại thấy lạnh vì gió. Có tiếng gọi nho nhỏ, tôi quay mặt tìm và thấy Đỉnh đã ngồi trên mặt sàn ghe không xa, tôi liền lại gần bên, hỏi:
- Bớt nhức đầu chưa Đỉnh? Ráng lên, trời sáng là ghe mình sẽ cập được bến mới rồi.
Đỉnh nhìn tôi thật yếu ớt, nó khẽ gật đầu rồi cười. Chắc ai trên ghe cũng đều chung một ý nghĩ như tôi nhưng ngờ đâu, chỉ chốc lát nữa thôi thì mọi dự tính sẽ đảo lộn hết tất cả.
(còn tiếp)