>>Suy Ngẫm: “ *Khó mà thương yêu được một lần thứ hai người mà mình đã hết thương yêu.
La Rocheffoucauld
„
-
Ân Thù Kiếm Lục
[/CENTER]
Hồi 01
Người Áo Trắng
Gió lạnh xé thịt da như dao cắt, từng đụn mây dày đặc cuộn chụp lên nhau...
Bên bờ Bột Hải sóng biển ì ầm, đợt đợt nối tiếp phủ lên gành đá...
Rốp!....
Một đợt sóng nhào lên, đẩy chiếc buồm đập vào ghềnh đá phát lên một tiếng khô khan, cột buồm gãy làm đôi tụt ra theo sóng nước.
Mặt biển đen ngòm vụt lóe lên hai ánh ngời ngời như hai vì sao lấp lánh di động lần lan vào bờ biển.
Nếu có ai chợt thấy nhất định sẽ cho đó là đôi mắt của Thần Biển báo hiệu cho nhân gian biết trước cơn thịnh nộ của phong bạ..
Nhưng không, hai đóm sáng cao dần khi sát đến bờ, và khi đợt sóng cao nhất tụt xuống, hiện ra một người vận áo trắng, tóc lõa xõa phủ vai đứng thẳng mình lên, đôi mắt ngời chiếu sáng...
Thanh trường kiếm vỏ đen óng ánh được nắm chặt trong bàn tay trắng muốt, nhiều đường gân xanh rờn nổi lên cuồn cuộn, bộc lộ nội lực của kẻ cầm gươm và đồng thời cũng nói lên rằng giữa sóng biển muôn trùng dồn dập, người ấy bằng lòng bỏ tất cả những gì trên cõi đời này, chỉ trừ thanh trường kiếm ấy mà thôi!
Rõ ràng người áo trắng là kẻ bị đắm thuyền, nhưng không biết từ nơi đâu và từ lúc nào, đã nắm chặt thanh gươm vượt sóng nước vào bờ...
Chân đặt lên bãi cát chưa được mấy bước, thân ảnh người ấy vùng lảo đảo, nhưng chỉ thoáng qua, người áo trắng đã đứng thẳng mình lên một cách vững vàng, tia mắt như hai vì sao chiếu thẳng.
Hắn vừa đi vừa móc trong lưng ra một túi vải dầu, từ trong đó hắn lấy ra một tấm địa đồ và nhiều hàng chữ ghi chi chít.
Hắn xem qua và cuốn lại cho vào túi cẩn thận, vừa đi vừa lẩm bẩm:
- Lao Sơn... Phi Hạc Môn Thanh Hạc Liễu Tòng...
Hắn cứ bước đều không để ý mọi vật chung quanh, nhưng lạ làm sao, nếu có ai đem thước ra đo dấu chân của hắn, chắc chắn sẽ kinh ngạc vô cùng, vì mỗi bước cách nhau đúng y một thước bảy tấc, không bước nào xê xích một ly!
Cứ như thế, hắn thẳng đến Phi Hạc Môn.
Phi Hạc Môn, một trang trại dưới chân Lao Sơn nằm chắn miền Đông Lỗ. Nó là một cơ nghiệp, một tông phái võ lâm, được dựng lên bởi bàn tay của Thanh Hạc Liễu Tòng, một nhân vật thành danh suốt bốn mươi năm mà Thập Thất Hạc Trảo, Hóa Hạc Chưởng và Hạc Vũ Châm được thiên hạ mệnh danh là Tam Tuyệt, một cái tên chấn động giang hồ.
Mặt trời đã xế sau rặng núi, người áo trắng không mau không chậm, bước đi vẫn đúng y một thước bảy tấc, thẳng vào Phi Hạc Môn, đầu tóc vẫn lòa xòa quái di.....
Hai cánh cửa gỗ thật dày sơn màu đỏ chói đóng chặt im ỉm. Người áo trắng bước thẳng qua cùng một lượt với khung cửa đổ. Nếu không để ý, có thể nghĩ rằng tại khung cửa đổ người ấy bước qua, chứ không ai tưởng tượng được rằng kình lực từ bước đi của hắn đã làm cho khung cửa kiên cố ấy tróc ra một cách quá dễ dàng.
Bên trong, dưới hàng cổ thụ, có nhiều thanh niên đại hán, có lẽ là đám lực sĩ giữ cửa, thấy tình huống dị thường, cùng đứng phắt lên và cùng há hốc mồm kinh ngạc...
Như không cảm thấy việc làm của mình gây ra khinh động, người áo trắng cứ bước đều tới trước mặt đám đại hán và dừng lại nói bằng một cách chậm rãi từ từ:
- Liễu Tòng ở đâu? Gọi hắn ra đây!
Tiếng nói từng tiếng một rõ ràng lắm, nhưng người nghe vẫn thấy lạ, y như người nói có gì chận trong cổ họng lúc phát âm, một giọng nói khác thường.
Đám đại hán có lẽ là cao thủ Phi Hạc Môn, và có lẽ bình thường họ cũng là tay kiệt liệt, nhưng lúc bấy giờ, lúc người áo trắng xuất hiện, họ bỗng đâm ra tái mặt, họ lừ mắt ra hiệu cho nhau và chậm rút lui.
- Chuyện gì mà kinh hoàng thế?
Tiếng quát như chuông gióng, làm cho đám đại hán đang hớt hải thụt lui vụt quay mình lại. Một lão già mặc cẩm bào, râu tóc bạc phơ đứng sững trước bệ thần.
Một trong đám đại hán cúi đầu run rẩy:
- Sư phu..... Sư phụ hãy xem... quỷ...!
- Nói bậy!
Lão già tóc bạc cau mày rầy át, nhưng ánh mắt ông ta cũng hơi sửng sốt trước trạng thái dị kỳ của người áo trắng.
Tuy nhiên, vẫn còn đúng phong độ của kẻ hào hùng, lão già tóc bạc vòng tay cố tạo vẻ ung dung:
- Bằng hữu là ai? Chẳng hay có chuyện chi quá bước đến tệ môn?
Người áo trắng bước từng bước một và cất giọng nói lạ lùng:
- Ông là Liễu Tòng?
Thanh Hạc Liễu Tòng đúng là lão già tóc bạc, ông ta vẫn giữ vẻ ôn tồn:
- Vâng, Liễu Tòng chính là lão phu!
Người áo trắng khẽ gật đầu:
- Tốt, tuốt kiếm ra!
Liễu Tòng nhướng mắt:
- Bằng hữu và họ Liễu này có thù oán ra sao?
Người áo trắng trả lời đặt một:
- Không!
Liễu Tòng nhếch môi cười:
- Vốn không từng quen biết, lại không có oán thù, thế tại sao mới gặp nhau lại đòi so kiếm?
Người áo trắng lạnh lùng:
- Thế ai bảo ông thành danh một bậc võ sư?
Liễu Tòng vặn lại:
- Chẳng lẽ những nhân vật thành danh trong chốn võ lâm, các hạ cũng đều cùng quyết đấu cả sao?
Môi điểm nụ cười kỳ dị, người áo trắng đáp từng tiếng một:
- Đúng, nhắm danh nhân trong võ lâm hiếu chiến, đó là mục đích của ta đến miền Đông này vậy!
Sắc diện đã dị kỳ, phát âm lại càng kỳ dị, cộng thêm nét cười quái lạ, người áo trắng quả là một kẻ khác thường.
Một luồng ớn lạnh chạy dài trong xương sống, nhưng Thanh Hạc Liễu Tòng vẫn ngửa mặt cười ha hả:
- Lấy sức của một mình, hướng thiên hạ võ lâm khiêu chiến, bằng hữu... bằng hữu định nói đùa đấy chứ?
Sắc mặt của người áo trắng vẫn lạnh như băng, hắn nói từng tiếng một:
- Tuốt kiếm ra!
Là một kẻ thành danh hiệp nghĩa và cũng là một người mà võ lâm nể mặt tôn sùng, sự việc xảy ra tuy rằng vô cớ nhưng dù sao sự khinh lờn đó cũng không dung thứ được. Thanh Hạc Liễu Tòng khẽ liếc ra sau, lập tức môn hạ hối hả dâng binh khí.
Món binh khí hơi có vẻ lạ thường, nó là một cặp côn ngắn, trên đầu giống như bàn tay úp khum khum năm móng ló ra y như móng hạc. Cặp Hạc Trảo này đã giúp Liễu Tòng danh dậy giang hồ, nhưng hiện tại trước một trạng huống lạ lùng do một nhân vật lạ lùng mang lại, làm cho đầu Hạc Trảo trên tay họ Liễu chợt thấy rung rung.
Tréo theo chữ Thập, một tay quày ngang, một tay trầm hẳn xuống, Liễu Tòng gằn giọng:
- Trừ Thập Thất Hạc Trảo ra, trong này còn tàng ẩn Hạc Vũ Châm chuyên đánh vào huyệt đạo, xin bằng hữu hãy lưu ý cho!
Trước hết nói rõ chỗ diệu dụng của món binh khí độc môn của mình, thâm ý của người lãnh tụ Phi Hạc Môn không muốn âm thầm chiếm lấy thượng phong, đúng là con người chính đại. Và mở đầu bằng chiêu thức Thập Tự Giá bộc lộ đầy khí lực tiến có thế công, thối có thế thủ, họ Liễu đã giáo đầu một thế cực kỳ đẹp mắt.
Tia mắt nhìn như xoi vào cặp Hạc Trảo, người áo trắng khẽ gật gù:
- Nghe Trung Nguyên gần đây thêm mười ba món binh khí lạ lùng, không dè chạm chiến lần đầu khi đến miền Đông đã gặp ngay một món!
- Xin mời!
Khẽ gắt lên một tiếng, Liễu Tòng vụt thay đổi chiêu thức trảo bên trái đưa ra trước, trảo bên phải kéo ra sau, chân trái hơi co, chân phải duỗi thẳng lướt mình tới nhanh như gió cuốn.
Người áo trắng vẫn đứng thẳng mình như trụ, chẳng những trường kiếm không rút ra khỏi võ, mà đôi mắt lại sụp lim dim như một nhà sư nhập định.
Đảo luôn hơn mười bận, bao nhiêu lần dợm định tấn công nhưng thấy tư thế dị kỳ của người áo trắng làm cho Liễu Tòng chưa dám ra taỵ..
Màn đêm đã hoàn toàn phủ xuống, vầng trăng rọi ánh mập mờ, người áo trắng vẫn bất động như một bóng ma rờn rợn...
Vầng trán cao rộng của Liễu Tòng lấm tấm mồ hôi.
Hàng cao đệ Phi Hạc Môn há hốc mồm quan sát, từng nhịp tim đập mạnh, không khí đứng lại nặng nề.
Thình lình, Liễu Tòng hú lên một tiếng như xé màn đêm, hai tay trảo nhoáng chóa mắt.
Thân ảnh Liễu Tòng vừa di động, bóng người áo trắng cũng cùng một lúc chớp lên. Hai bóng người như nhập một vào nhau xẹt thẳng lên như ngọn pháp thăng thiên và từ từ dạt ra rơi xuống.
Liễu Tòng trợn trừng đôi mắt, một đường máu ngay giữa Tam Tinh chạy dài xuống sóng mũi, rọc thẳng một đường tới rún, thẳng băng như sợi chỉ căng dài.
Chỉ một chớp mắt, ruột gan theo máu trào ra, Liễu Tòng từ từ bật ngửa.
Thanh trường kiếm trên tay người áo trắng hơi chúc nghiêng xuống đất, máu từng giọt nhỏ xuống ròng ròng.
Những kẻ đứng ngoài, khoé mắt trừng như muốn rách ra vì kinh dị.
Họ đều là hạng cao đồ Phi Hạc Môn, võ công đều là bậc thành danh trong thiên hạ miền Đông Lỗ. Thế mà, không một ai thấy kịp người áo trắng đã sử dụng chiêu thế gì, cả đến việc tuốt kiếm ra khỏi vỏ bao giờ, họ cũng không nhận thấy.
Chỉ đến khi hai bóng người dang ra và dừng lại thì mới hay rằng sư phụ của họ đã tử thương, và điều kinh dị hơn hết là lối đánh của người áo trắng chỉ có một kiếm thôi, mà lại là một kiếm rọc thẳng băng như thước kẻ.
Đảo cặp mắt như điện lạnh qua khắp một vòng, người áo trắng chậm chạp tra gươm vào vỏ và quay mình đi thẳng ra ngoài, thần thái ung dung như lúc đi vô, và mỗi bước đúng y thước bảy tấc.
- Ác tặc, trả mạng cho thầy ta!
Tiếng thét ré lên cực kỳ bi thiết, một trong hàng cao đệ Phi Hạc Môn nhún mình phóng vút theo.
Tiếp liền theo bốn người nữa, cũng trong hàng đại đệ tử của Liễu Tòng cùng một lượt ập rạ..
Cả năm người ánh mắt đỏ rực vì đau thương, vì căm hận quyền chưởng cùng một lúc ập thẳng vào người áo trắng.
Công lực của họ cực kỳ thâm hậu, tuy không thể nói là nhất nhì trong vùng Đông Lỗ, nhưng được trui rèn công phu tại Phi Hạc Môn, cả năm người nhập lại kình phong cuốn tới như nước vỡ bờ.
Người áo trắng vẫn ung dung đi tới, thanh trường kiếm chậm chạp rút ra khỏi vỏ và loáng ngược ra sau.
Một tiếng rú rạp lên, năm người cao đệ Phi Hạc Môn ngã ngửa ra sau nhất loạt.
Không thể nhìn thấy kịp, một đường kiếm đưa ra sau lưng, nhưng lạ làm sao cùng một lúc, lại tẻ ra năm ngã, và thật là ngoài sức tưởng tượng của mọi người, năm người cao đệ Phi Hạc Môn mỗi người đều bị một nhát kiếm đúng ngay giữa trán, rạch thẳng một đường xuống rún y như cái chết của Liễu Tòng.
Người áo trắng vẫn từng bước một đi luôn không hề quay lại, máu từ mũi kiếm rỏ xuống từng giọt theo đường.
Tất cả môn đệ Phi Hạc Môn đều cảm thấy như chân mình mềm nhũn, không một ai nhấc được bước nào.
Tuy nói là từng bước nhưng chỉ thoắt cái, người áo trắng đã vọt ra ngoài mười trượng, và y như không nghe thấy tiếng rú, y như không hề hay biết đằng sau thêm năm mạng lìa đời.
Hắn vừa đi vừa rút cuộn giấy ra lẩm nhẩm:
- Mồng bảy tháng mười:
Thanh Hạc Liễu Tòng. Mồng tám tháng Mười:
Song Hoàn Triệu Sĩ Hồng. Mồng chín tháng Mười:
Bát Tiên Kiếm Lý Thanh Phong. Mồng mười tháng Mười:
Bát Thủ Phiến Kim Đại Phi.
Mười một tháng Mười:
Tế Nam Bạch Tam Không...
Một trận gió cuốn mạnh qua, mây xám hụp xuống và từ không trung mưa trút ào ào, gió mưa từng chập rít lên, như báo hiệu hạn tử vong của những kẻ có tên trong sổ...
Mười một tháng Mười.
Tại phủ Tế Nam, bầu trời u ám, mây đen giăng thấp, báo hiệu một cơn mưa to sắp đổ xuống thành. Trên con đường cái, từ xa tiến đến hơn mấy mươi người vận tang phục hộ tống bốn cỗ xe, mỗi cỗ xe tải một quan tài.
Đoàn xe tang đó từ hướng Đông đến Tế Nam, qua cửa thành theo đại lộ tiến vào, dừng lại trước cổng một tòa nhà to lớn.
Nơi cổng, có tám đại hán vận y phục đen, chừng như đứng sẵn tại đó từ lâu, chực chờ nghinh đón.
Người trong đoàn xe tang cũng như người tại cổng đều ngưng trọng thần sắc, ai ai cũng có vẻ vừa bi thương vừa phẫn hận.
Những người vận tang phục kề vai khiêng quan tài, theo tám đại hán áo đen qua cổng vào sân thẳng đến đại sảnh.
Nơi thềm đại sảnh có một lão nhân, thân vóc cao lớn, năm chòm râu dài, buông thõng qua ngực, vận áo rộng đen, tướng mạo hết sức thanh kỳ, đứng lặng nhìn họ.
Những người vận tang phục vừa trông thấy lão nhân, đồng đặt quan tài xuống, rồi đồng khóc rống lên, vừa khóc vừa gào:
- Bạch lão tiền bối ơi! Xin tiền bối nghỉ đến niềm thâm giao ngày cũ, tìm cách báo thù cho gia sư!
Lão nhân áo đen, trầm trầm gương mặt, từ từ bước xuống từng bậc thềm, từ từ vẫy tay, vừa ra hiệu cho bọn người vận tang phục đang quỳ mọp trên sân đứng lên, vừa bảo họ giở nắp quan tài.
Xác chết nằm trong quan tài không đắp điếm gì cả. Xác nào cũng mang một vết thương như nhau, vết thương do mũi kiếm quét từ giữa đôi mày ngang qua mũi xuống bụng. Nạn nhân mở trừng đôi mắt tuy còn màu trắng dã, nhưng khí hận bốc bừng.
Lão nhân áo đen chẳng để lộ một xúc động nào trên gương mặt, chỉ ngẩng đầu nhìn tám đại hán áo đen, bảo:
- Đóng cổng lại, đứng bên ngoài canh giữ, không để cho một ai ra vào!
Tám đại hán cúi đầu lãnh lịnh trở ra ngoài, đóng trái cánh cổng lại.
Lão nhân gầm đầu nhìn xuống đát, chấp tay sau lưng đi tới đi lui mãi, vừa đi vừa lẩm nhẩm một mình:
- Thanh Hạc Liễu Tòng, Song Hoàn Triệu Sĩ Hồng, Bát Tiên Kiếm Lý Thanh Phong, Bát Thủ Phiến Kim Đại Phi! Tất cả bốn người, trông mấy ngày liên tiếp bị sát hại! Hừ! Hừ, một sự kiện hi hữu trong võ lâm.
Nếu chẳng mắt thấy, tất khách giang hồ dù tai nghe cũng không ai tin nổi! Phải! Còn ai tin nổi một sự kiện như thế lại có thể xảy ra chứ?
Lão nhân áo đen là ai?
Lão là Minh Chủ võ lâm toàn hạt Sơn Đông họ Bạch tên Tam Không, ngoại hiệu Thanh Bình Kiếm Khách, từng nổi danh trên giang hồ là tay vô địch về kiếm pháp cũng như quyền thuật.
Lão cùng bọn Thanh Hạc Liễu Tòng là chỗ bằng hữu thâm giao, do đó sau khi các vị ấy tử nạn, bọn môn đồ mới đưa thi hài đến đây, thỉnh cầu lão tìm phương báo thù phục hận.
Lão đi tới đi lui một lúc, rồi dừng chân lại, hỏi qua tình hình. Bọn người vận y phục tang luân phiên thuật lại diễn tiến của sự việc.
Đại khái, chúng cho biết có một quái khách vận áo trắng xuất hiện đột ngột, hỏi qua loa mấy tiếng, rồi xuất thủ, nhưng chỉ với một chiêu kiếm thôi, là sư phó của gã gục liền. Quái khách áo trắng không nói một lời thừa, không làm một cử động dư, hạ sát sư phó họ xong là bỏ đi liền.
Thanh Bình Kiếm Khách Bạch Tam Không càng nghe càng ngưng trọng thần sắc, sau cùng lão lẩm nhẩm:
- Một chiêu trí mạng? Quái lạ thật! Bọn Thanh Hạc Liễu Tòng dù sao cũng chẳng đến đỗi hèn kém, không chịu được một chiêu? Quái khách áo trắng là ai? Hắn sử dụng môn công gì tuyệt diệu như thế?
Bên ngoài, tám đại hán áo đen, chính là tám đệ tử của Bạch Tam Không, còn suy tư về cái chết của bốn vị anh hùng, người nào cũng trầm trầm gương mặt. Họ chẳng tưởng nổi trên thế gian lại có người tài giỏi như quái khách.
Bỗng, trước tầm mắt họ, xa xa có một người vận áo trắng từ từ tiến về phía họ.
Một người áo trắng!
Tám đại hán cùng biến sắc. Họ đưa mắt nhìn nhau, nhưng khi nhìn ra trước mặt, người áo trắng đã đến nơi rồi.
Người đó mặt lạnh như tiền, đôi mắt sáng quắc đảo quanh họ một lượt, đoạn buôn cộc lốc:
- Vào gọi Bạch Tam Không ra đây!
Y không buông thừa một tiếng, câu nói vừa đủ diễn tả cái ý của y, chừng như bình sanh y chẳng chịu dư công làm việc gì vô ích, đến bước đi y cũng chẳng vội vàng. Vì không vội vàng nên y chẳng hề sử dụng đến thuật khinh công. Nếu lấy con mắt bình thường nhận xét y, tất phải nghĩ rằng y không phải là tay có võ công đáng sợ.
Cũng vì nhận xét như thế, nên tám đệ tử của Bạch Tam Không thầm nghĩ như nhau. Nếu tám người hợp sức lại, cùng một lúc tấn công y, chắc chắn là y khó tránh khỏi bị hạ.
Tuy nhiên, họ chưa dám xuất thủ, họ còn ngầm hỏi ý nhau. Người này đưa mắt nhìn người kia, nhưng người nào cũng sờ tay vào đốc thanh trường kiếm lủng lẳng bên hông.
Tên đại đệ tử họ Mạc tên Bất Khuất lạnh lùng thốt:
- Bằng hữu đã muốn gặp gia sư, thiết tưởng cũng chẳng khó khăn gì, bất quá bằng hữu làm cách nào vượt qua khỏi anh em tại hạ!
Soảng! Soảng!
Tám tiếng soảng vang lên gần như đồng thời phát xuất. Tám thanh trường kiếm rời khỏi vỏ, chớp ngời nơi tay họ. Tám thanh trường kiếm cùng chong ra, đồng một độ, chân họ đứng tấn cũng đồng một hình thức.
Giả dĩ họ lại giăng hàng ngang, không người nào chồm tới hoặc thụt lui, trông tư thế của họ, vô cùng ngoạn mục, nhưng chẳng kém kiêu hùng.
Họ tuốt kiếm, chực chờ, song chưa xuất thủ.
Người áo trắng lùi lại hai bước. Trong lúc lùi, một đạo bạch quang từ tay y lóe lên rồi tắt liền. Đạo bạch quang tắt lúc chân y chưa chạm đất, dù y chỉ lùi hai bước thôi.
Đạo bạch quang đó là làn chớp của thanh kiếm. Y vừa rút kiếm, vừa khoa lên, vừa lùi lại, vừa trụ bộ, vừa tra kiếm vào vỏ, ngần ấy động tác chỉ diễn ra trong một thoáng. Nhưng trong tay tả của y đã có một cành cây khô, do nhát kiếm vừa rồi tước đứt. Và chẳng rõ y chụp cành cây đó như thế nào, cả tám tên đệ tử của họ Bạch chẳng ai trông thấy cả.
-
Người áo trắng quắc mắt nhìn họ, trong ánh mắt hiện rõ niềm thương hại họ. Y bước tới hai bước, trao cành cây khô cho Mạc Bất Khuất, đoạn lạnh lùng nói:
- Mang vào, trao cho sư phó các ngươi!
Rồi y lặng lẽ bước đến phiến đá dựa cội cây gần đó, ngồi xuống, đưa ánh mắt mơ màng nhìn tận xa xăm...
Tám tên đệ tử họ Bạch sửng sốt nhìn nhau, chẳng ai hiểu ý tứ của y ra sao cả.
Mạc Bất Khuất cầm cành cây khô, lẩm nhẩm:
- Cái gì thế này?
Tên đệ tử thứ hai, họ Kim tên Bất Úy, buông một câu:
- Hay y ngán chúng ta?
Kim Bất Úy có thân vóc to lớn hơn các bạn đồng môn, tánh tình thô lỗ, hành động hồ đồ, lại nóng nảy, chừng như bình sanh hắn chỉ buông lung theo tính khí, chẳng bao giờ chịu dùng lý trí xét suy cả.
Nhưng tên đệ tử thứ ba, họ Công Tôn tên Bất Trí, trầm giọng thốt:
- Sự tình không phải đơn giản đâu, chúng ta phải vào trong bẩm báo với sư phụ mới được!
Công Tôn Bất Trí có thân hình vừa ốm vừa thấp, tâm cơ mưu trí có thừa. Bạch Tam Không đặt cho hắn cái tên Bất Trí là cốt cảnh cáo hắn đừng quá ỷ lại vào cái trí linh mẫn trong mọi trường hợp, bởi con người thích dùng trí thường đa nghi và kém thành thật.
Mạc Bất Khuất nhìn thoáng sang người áo trắng đang ngồi thừ trên phiến đá, khẽ gật đầu:
- Tam sư đệ nói phải! Chúng ta cần bẩm báo sư phụ, tùy người định đoạt!
Hắn quay mình, xô vẹt cánh cửa cổng, bước vào.
Vừa trông thấy hắn, Bạch Tam Không đã biết là quái khách áo trắng đến rồi, lão biến sắc mặt, hỏi nhanh:
- Y ở đâu?
Mạc Bất Khuất đáp:
- Còn ở bên ngoài. Y chẳng dám động thủ với bọn để tử mà chẳng dám ngang nhiên tiến vào, y chỉ tước một cành cây, bảo đệ tử mang vào trình sư phụ!
Bạch Tam Không cau mày, tiếp lấy cành cây. Thoạt đầu ánh mắt của lão còn chơm chớp, dần dần ánh mắt đó dán chặt vào cành cây, hay đúng hơn lão nhìn sững dấu kiếm chặt ngang cành cây, lão ngây người xuất thần.
Mạc Bất Khuất theo dõi từng biến chuyển trên gương mặt của lão, khởi sơ lão nhếch môi điểm phớt một nụ cười, chừng như hài lòng, chừng như tán thưởng đường kiếm chém rất sắc, dần dần lão ngưng trọng thần sắc, kế tiếp có vẻ sợ hãi, cuối cùng thì tay lão rung rung theo, hắn vô cùng kỳ quái, không dằn được tính hiếu kỳ, hỏi gấp:
- Sư phụ cho phép bọn đệ tử xuất thủ đuổi y đi chứ?
Bạch Tam Không trầm gương mặt quát:
- Câm ngay! Các ngươi muốn nạp mạng cho y phải không?
Mạc Bất Khuất lộ vẻ kinh dị:
- Nhưng...
Bạch Tam Không trừng mắt:
- Nếu y chẳng thương hại các ngươi, thì đừng nói là tám mạng các ngươi, dù có đông gấp mấy lần số dó cũng phải gục tại cổng rồi!
Mạc Bất Khuất bị sư phụ quở, cúi đầu nhưng lòng chưa phục.
Bạch Tam Không thở dài:
- Uổng công ta huấn luyện các ngươi, học tập bao nhiêu năm trời rồi vẫn chẳng có nhãn lực xét người, xét mình. Hãy ra ngoài đó, gọi tất cả sư đệ vào đây cho ta!
Mạc Bất Khuất trố mắt:
- Vào hết trong này, người áo trắng...
Bạch Tam Không quát chận:
- Nếu ý muốn vào dễ thường các ngươi ngăn chận được à? Y muốn ngồi đợi bên ngoài, thì chẳng bao giờ y vào, dù các ngươi bỏ trống cửa.
Lão dặn tiếp:
- Cứ mở toát cổng ra, cấm các ngươi đóng lại. Đóng cửa, chẳng ngăn được y, mà còn tỏ ra hèn nhát.
Mạc Bất Khuất còn làm sao cãi được lịnh của sư phụ? Hắn bước ra ngoài, gọi các sư đệ vào, hắn không quên nhìn thoáng sang quái khách áo trắng, thấy y vẫn ngồi bất động tại chỗ, không hề hướng mắt nhìn về phía cửa.
Bạch Tam Không trở vào đại sảnh, lại chiếc bàn có đầy đủ giấy bút và nghiêng mực, ngồi xuống viết một phong thư, niêm phong cẩn thận.
Trong lúc lão viết thư, các đệ tử đứng xa xa, lặng lẽ nhìn lão.
Phong thư niêm kỹ rồi, Bạch Tam Không đứng lên, day lại nhìn các đệ tử, đột nhiên quát lớn:
- Qùy xuống!
Các đệ tử chẳng biết ý tứ sư phụ như thế nào, đồng riu ríu quỳ xuống, người nào cũng lộ vẻ kinh dị.
Lão nghiêm giọng hỏi:
- Giới luật thứ ba của bổn môn như thế nào?
Tất cả tám người đồng thanh đáp:
- Triệt để tuân sư mạng, ai phản bội sẽ bị trời tru đất diệt.
Bạch Tam Không gật gù, đoạn trầm gương mặt, gằn từng tiếng:
- Cuộc chiến hôm nay, thắng thì ta sống, bại thì ta chết. Dù ta thắng hay ta bại, các ngươi không được can thiệp! Các ngươi nghe rõ chứ, tuyệt đối không được vọng động xuất thủ.
Mạc Bất Khuất khẽ kêu lên:
- Trời! Sư phu.....
Bạch Tam Không khoát tay, hét:
- Lịnh của ta là thế, kẻ nào trái lịnh sẽ bị trời tru đất diệt. Các ngươi nghe chưa? Không kẻ nào được nói tiếng gì nữa!
Tám tên đệ tử gầm đầu, im lặng.
Bạch Tam Không trầm giọng tiếp:
- Nếu ta chết trong cuộc chiến này, thì từ Mạc Bất Khuất trở xuống, bảy người hãy chia tay nhau đến các phái Thiếu Lâm, Võ Đương, Nga Mi, Điểm Thương, Không Động, Hoa Sơn và Hoài Dương thuật rõ sự tình và xin nhập môn, và tiếp tục luyện võ. Chưởng môn các phái đó là bằng hữu của ta, các vị ấy sẽ thu nhận các ngươi. Hãy nhớ lời ta dặn, chuyên tâm khổ luyện, không được nghĩ ngợi gì đến các việc khác, nhất là việc báo thù cho ta!
Lão nhìn người đệ tử thứ tám, dừng lại một chút, rồi ngập ngừng:
- Còn ngươi...
Lão thở dài.
Người đệ tử đó họ Hồ, tên Bất Sầu, nghiêm sắc mặt, chờ nghe.
Một lúc lâu, Bạch Tam Không tiếp:
- Việc ta giao phó cho ngươi rất quan trọng, ta lo ngại từ đây ngươi sẽ không còn được an nhàn tự tại. Ngươi sẽ vất vả gian lao, lắm lúc lại phải đương đầu với nguy hiểm. Chẳng rõ ngươi dám thừa nhận không?
Hồ Bất Sầu quả quyết:
- Đệ tử dù nát thân cũng chẳng từ. Xin sư phụ cứ phân phó.
Hắn, thân ngắn, đầu to, trán rộng, mặt hắn luôn luôn tươi, tuy không cười vẫn trông như cười. Hắn thường ngày ăn và học chứ chẳng hề trò chuyện ba hoa như các bạn đồng môn, họ cho hắn là một người tích sự hơn hết.
Mạc Bất Khuất và sáu người kia, thấy sư phụ giao trọng trách cho hắn, vừa lấy làm lạ bất bình, chừng như ganh tỵ.
Mạc Bất Khuất cố lấy can đảm, ấp úng:
- Nếu đúng là việc trọng đại, tại sao sư phụ không giao phó cho bọn đệ tử thi hành, lại ủy thác cho hắn? Hoặc giả đệ tử, hoặc giả Công Tôn Tam sư đệ, một trong hai chúng tôi có thể làm tròn nhiệm vụ sư phụ giao phó...
Bạch Tam Không khoát tay:
- Ngươi chẳng còn việc gì phải ở đây! Cút!
Rồi lão trao phong thư cho Hồ Bất Sầu, trầm giọng thốt:
- Nếu ta bại trong tay người áo trắng rồi, ngươi lập tức vào hậu viện, đưa Bửu nhi đến tận nơi ta đã ghi chú trên phong bì, giao Bửu nhi và phong thư này cho người đó, phần ngươi thì hãy tuân theo lời người đó, y bảo làm sao thì ngươi y theo làm vậy!
Nói được điều khó nói xong, sắc mặt của Bạch Tam Không dịu lại, giọng lão cũng dịu theo, lão tiếp:
- Vô luận là gặp điều gì quái dị Ở nơi đó, ngươi cũng chẳng nên kinh hãi. Bây giờ thì ngươi có thể đi được rồi!....
Hồ Bất Sầu hỏi:
- Nhưng sư phụ chưa.....
Bạch Tam Không cười khổ:
- Chưa giao chiến với người áo trắng? Ngươi cứ đi đi, sự việc sẽ diễn tiến đúng như ta dự liệu, chẳng có gì thay đổi cả!
Tuy lão đã quát bọn đệ tử lui ra, nhưng lúc đó tám người vẫn còn hiện diện, lão chẳng nhìn đến người nào, lạnh lùng với lấy thanh kiếm trên án thư, bước ra tiền sảnh, đến bên thềm, nhìn qua bốn cổ quan tài, đoạn đến gần sờ tay lên nắp, rồi ngẩn mặt lên không, bật cười khanh khách, thốt:
- Con nhà võ, cái lý phải chết tại chiến trường, thì cái chết có gì đáng sợ đối với ta?
Lão bước đến cổng, ra ngoài, đi thẳng tới trước mặt người áo trắng, điềm nhiên cất tiếng:
- Các hạ vì nghiên cứu cái đạo của võ học, nên không ngần ngại giết người, tại hạ vì cái đạo của võ học, không màng sanh tử vì một cuộc chiến. Tuy hai phương tiện khác biệt, song vẫn cùng chung cứu cánh, song phương đều vì cái đạo của võ học cả. Cục diện ngày nay đặt chúng ta đối lập với nhau, dù các hạ có giết tại hạ, tại hạ chẳng hề oán hận các hạ.
Người áo trắng từ từ đứng lên, nghiêng mình thi lễ.
Bạch Tam Không lấy làm lạ hỏi:
- Các hạ còn phải thủ lễ nữa sao?
Người áo trắng mặt lạnh như tiền, gật đầu:
- Bắt buộc phải thế, bởi từ phương Đông đến Trung thổ, lần đầu tiên mới gặp một người như ngươi, xứng đáng là một nhân vật võ lâm! Ta phải chào, ta chào tư cách của ngươi!
Đây là câu nói dài nhất của y, từ lúc y trôi dạt vào bờ biển, trải qua bốn hôm, sát hại bốn nhân vật.
Bạch Tam Không trầm giọng:
- Đa tạ!
Người áo trắng trở lại thái độ cũ:
- Động thủ đi!
Bạch Tam Không tay hữu rút kiếm, tay tả còn nắm chiếc vỏ, buông gọn:
- Mời các hạ!
Liền theo đó, lão đưa cao thanh kiếm rồi đứng lặng.
Cục trường tịch mịch lạ lùng, một cây kim rơi cũng nghe rõ tiếng.
Bọn môn nhân của Liễu Tòng, Triệu Sĩ Hồng, Lý Thanh Phong và Kim Đại Phi hết sức kinh ngạc. Họ nhớ lại, lúc sư phụ họ giao thủ với người áo trắng, thì các vị đó không ngừng đảo bộ quanh đối phương, đảo bộ một lúc mới xuất thủ. Còn bây giờ, Bạch Tam Không chỉ cử gươm rồi bất động, thế là nghĩa gì? Tư thế đó, chiêu kiếm đó rất thông thường, tại sao Bạch Tam Không lại dùng để đối phó với người áo trắng?
Trời! Sư phụ sử dụng tuyệt chiêu, mà còn không thoát chết được với địch, Bạch Tam Không lại dùng chiêu tầm thường thì mong gì thủ thắng?
Giả sử người áo trắng chỉ nhích bước tới một chút, loang kiếm lên là Thanh Bình Kiếm Khách phải phơi thây trên nền đất, và chắc chắn vết thương cũng đồng dạng với vết thương của bốn người kia.
Nhưng trước một chiêu thức thông thường đó, người áo trắng không tiến tới, trái lại còn lùi một bước.
Thanh Bình Kiếm Khách Bạch Tam Không thấy đối tượng lùi, nên thu kiếm về, rồi đưa ra chiêu thứ hai, cũng bình thường như chiêu trước.
Bọn môn đồ đứng bên ngoài lại một phen kinh hãi.
Người áo trắng lại lùi thêm một bước, lùi rồi bất động, thần sắc vẫn lạnh lùng.
Chiêu kiếm của Bạch Tam Không công không mạnh, mà thủ cũng không kín đáo, hơn nữa phần dưới thân hình lại để hở lồ lộ nét sơ hở mà bất cứ đối phương nào cũng thấy thèm.
Nhưng người áo trắng không thèm. Chừng như lùi một bước chưa đủ, y lùi thêm hai bước nữa.
Bọn môn đồ bên ngoài chẳng hiểu làm sao cả, chúng đưa mắt nhìn nhau, tất cả đều có đồng một thắc mắc như sau:
Sư phụ họ xuất độc chiêu, vừa xuất chiêu là người áo trắng phản công ngay. Bây giờ, Bạch Tam Không xuất chiêu thông thường, lại dùng hai lượt, thế mà người áo trắng chỉ có lùi và bất động.
Hai chiêu đó có mãnh lực gì, bức thoái đối phương?
Chúng không hiểu, song người áo trắng hiểu.
Chiêu thứ nhất của Bạch Tam Không là chiêu khởi đầu của Thanh Bình kiếm pháp, còn chiêu thứ hai cũng là chiêu khởi đầu, nhưng thuộc Uyên Ương kiếm pháp. Phàm trong giới kiếm thủ, khi nào luyện đến mức độ tinh vi, người ta mới dám sử dụng chiêu khởi đầu, vừa để chào đối thủ, vừa tỏ rõ cho đối thủ biết mình là tay kiếm uyên thâm, tỏ rõ như vậy mới xứng đáng là quân tử kiếm. Những chiêu khởi đầu không dùng để công ngay địch, tuy có sơ hở như vậy, song thực sự rất kín đáo, nếu đối phương cũng uyên thâm kiếm thuật, tất chẳng bao giờ hấp tấp thừa cơ nhào vô liền.
Còn một lý do khác khiến Bạch Tam Không sử dụng hai chiêu kiếm thông thường đó là hai kiếm pháp Thanh Bình và Uyên Ương vốn do một đôi vợ chồng cầm đầu phái kiếm biến chế ra trong sinh hoạt hàng ngày, vợ đối với chồng tất phải tay nâng ngang mày, chồng đối với vợ phải tròn lễ độ, cho nên hai kiếm pháp đó đều khởi đầu bằng chiêu Cử Án Tề My, để chứng tỏ sự tương kính nhau.
Bọn môn đồ sở học còn thiếu bạc, làm sao thấu đáo tinh lý bên trong, tự nhiên thấy làm lạ.
Ngoài ra, Bạch Tam Không còn một dụng ý sâu xa, mới sử dụng hai chiêu kiếm đó.
Lão nhận thấy bốn vị bằng hữu đều chết vì một thế kiếm duy nhất nhắm từ giữa đôi mày đi ngang mũi, xuống bụng, tất nhiên đối phương phải nhắm khoảng giữa đôi mi, và hộ vệ khoảng giữa đôi mi, lão mới thi triển chiêu Cử Án Tề My.
Nhưng đưa ra hai chiêu đó, lão chỉ thấy đối phương lùi lại rồi bất động chứ không lướt tới tấn công. Lão giật mình, chẳng biết cứ giữ tư thế đó mãi hoặc dùng đi dùng lại hai chiêu đó, bắt buộc lão đảo bộ bước tới, vung kiếm đánh ra chiêu thứ ba liền.
Chiêu thứ ba là một chiêu đắc ý nhất của lão trong kiếm thuật, tất nhiên phải ảo diệu vô tưởng, nhiều cao thủ trên giang hồ phải ngã gục trước mặt lão vì chiêu kiếm đó.
Với chiêu thứ ba, lão vẫn thừa sức phòng vệ khoảng giữa đôi mi.
Lạ lùng làm sao, người áo trắng vẫn lùi. Đến chiêu thứ tư của Bạch Tam Không, y cũng lùi luôn, y chỉ có lùi từ đầu cuộc đến giờ.
Bọn môn đồ đinh ninh Bạch Tam Không đã chiếm được ưu thế rồi, bất giác chúng reo hò lên, niềm hân hoan hiện rõ trong ánh mắt, trên gương mặt của họ.
Nhưng họ không hân hoan lâu nổi!
Tiếng reo hò vừa vang dội, dư âm còn văng vẳng trong không gian, một ánh sáng chớp lên, ánh sáng từ nơi người áo trắng xẹt tới Bạch Tam Không. Kế tiếp một tiếng reng chấn động cục trường. Tiếng reng ngân dài, rồi một làn sáng xanh bay vút lên không, uốn cầu vòng, cắm phập vào một thân cây cách đó khá xa.
Bạch Tam Không nắm chặt trong tay phần kiếm còn lại, chập choạng lùi mấy bước, miệng nhếch nụ cười thảm, buông khẽ mấy tiếng:
- Chiêu kiếm... tuyệt diệu...
Có lẽ lão định vớt câu với hai tiếng “vô cùng” cho trọn nghĩa, nhưng câu nói bỏ lửng ở chỗ đó, lão ngã ngửa người ra phía sau bất động.
Bọn môn đồ kịp nhận ra một vết thương từ giữa đôi mi kép ngang mũi, dài xuống bụng, đồng dạng với vết thương của sư phụ họ!
Họ xám mặt trố mắt, thừ người, trong phút giây khủng khiếp, chẳng có một phản ứng nào cả.
Người áo trắng lạnh lùng nhìn mũi trường kiếm dài sáu thước, mũi kiếm còn nhỏ máu ròng ròng. Cơn gió quét qua, thổi tung bay những sợi tóc xỏa của lão, những sợi tóc vờn qua gương mặt lạnh lùng, trông y như một âm hồn trong lớp áo trắng.
Qua những giây phút hãi hùng, bọn Mạc Bất Khuất cùng rú lên một tiếng lớn, cùng nhào đến bên cạnh Bạch Tam Không, cùng rống lên thê thảm.
Riêng Hồ Bất Sầu cũng bước tới, nhưng đứng ngoài xa xa. Hắn lạy ba lạy, đưa tay vuốt mấy hạt lệ, đoạn quay mình bước vào.
Những bước tường sau lưng hắn ngăn chận tiếng khóc, tiếng than của các vị sư huynh hắn không còn vang đến tai hắn, nhờ vậy tâm thần đỡ bấn loạn phần nào.
Hắn đi thẳng vào hậu viện, ra đến hoa viên.
Trong hậu viện, có một cây ngô đồng, tàn rậm, dựa cội cây có kê một chiếc giường thấp. Hiện tại, một đồng tử vận áo gấm, trạc độ mười một mười hai, đang nằm đọc sách.
Hắn chăm chú vào quyển sách, đôi mắt đen láy mở to không chớp.
Bên cạnh hắn có chiếc mâm nhỏ, trong mâm có mấy loại trái cây, chừng như hắn mải mê đọc, quên cả ăn, số trái cây còn rất nhiều.
Hồ Bất Sầu đeo một bọc khá to nơi lưng, ung dung bước vào hậu viện, chưa tới gần, y đã gọi to:
- Bửu nhi!....
Đồng tử lặng thinh, mắt không rời quyển sách.
Hồ Bất Sầu lại gọi lượt nữa, rồi lượt nữa, đồng tử vẫn không nhúc nhích, mắt dán chặt vào quyển sách.
Hồ Bất Sấu thở dài, tuổi thơ nào biết gì? Nhà có đại tang mà hắn vẫn còn lơ lửng nơi chín tầng mây, nghĩ đáng thương hại biết bao!
Y bước đến sát chiếc giường, nắm cánh tay đồng tử giật giật. Đến lúc đó, đồng tử mơi day mặt qua, nhìn họ Hồ, khẽ cau mày gắt:
- Người ta đang xem sách, thúc thúc làm gì gọi ồn lên như thế?
Hắn tức thật, nhưng cái tức của trẻ nít, hắn cố làm oai, tỏ vẻ nghiêm, trách nhẹ họ Hồ, tự vi mình cũng là kẻ thành nhân rồi, hoặc giả hắn chỉ xem Hồ Bất Sấu hơn hắn độ vài tuổi, dù hắn gọi là thúc thúc.
Nhưng Hồ Bất Sấu không giận, dịu giọng hỏi:
- Ngoại công của ngươi bảo ta vào đây đưa ngươi đi dạo một lúc, ngươi có thấy hứng không?
Đồng tử là giọt máu duy nhất của con gái Bạch Tam Không tên là Bạch Man Sa, còn đồng tử lấy họ cha tên Phương Bửu Nhi.
Kết hôn với Phương Sư Hiệp, Bạch Man Sa cùng chồng rời gia đình xuất ngoại hành hiệp khắp bốn phương trời. Cả hai chỉ trở lại nhà Bạch Tam Không có một lần mà thôi, để ký thác Phương Bửu Nhi cho ngoại công hắn ngay từ lúc hắn chưa tròn tuổi, từ đó đến nay, chẳng hề về thăm con.
Xuất thân trong gia đình chuộng võ, Phương Bửu Nhi lại thích văn, nên chỉ mới có ngần ấy tuổi mà hắn ngày cũng như đêm, luôn luôn tay không rời quyển sách, lắm lúc đọc quên cả ăn. Hắn không giống như bao nhiêu trẻ đồng tuổi, chúng ham rong chơi nô đùa, còn hắn cứ miệt mài với bút nghiên sách vở.
Nghe Hồ Bất Sầu đề nghị xuất du, hắn lắc đầu:
- Tôi không đi đâu!
Rồi hắn nhìn vào quyển sách, chăm chú đọc tiếp, bỏ mặc Hồ Bất Sầu thở dài nhìn hắn.
Hồ Bất Sầu biết rõ tánh tình hắn. Tuy chuộng văn nhưng rất quật cường, bởi biết vậy, y không giận. Hắn có thể làm bất cứ việc gì hắn thích, dù khó khăn đến đâu, hắn cũng làm được, vui vẻ mà làm, nhưng đừng ai mong cưỡng ép hắn làm việc gì hắn không thích, vô ích, chẳng bao giờ hắn làm.
Hồ Bất Sầu phải lựa lời khích hắn, y thốt:
- Người xưa nói đọc vạn quyển sách, đi vạn dặm đường là hai điều rất cần cho cái đạo làm người. Đọc nhiều sách để trau dồi kiến thức, đi nhiều dặm đường để chứng nghiệm kiến thức, ngươi không muốn mở rộng mắt nhìn đời sao? Như vậy có khác nào là một con mọt sách.
Đột nhiên, Hồ Bất Sầu làm sao cho hắn biết thảm trạng gia đình? Óc hắn còn non quá, cơn đại biết cố vừa qua gây ảnh hưởng tai hại nặng nề cho hắn, y phải cố dấu sự tình, gượng cười tươi đối thoại với hắn.
Bửu Nhi day qua Hồ Bất Sầu, suy nghĩ một lúc rồi đáp:
- Thúc thúc nói đúng! Tôi nên theo thúc thúc đi dạo một lúc. Nhưng trước khi đi, mình nên thu dọn mấy món này...
Thu dọn để làm gì nữa? Toàn khu gia cư lẫn cả tài sản đều phải bỏ phế, bỏ cả, thì sá gì mấy vật mọn này?
Y cười nhẹ, tiếp:
- Là nam tử, là trượng phu, nói đi là đi, nói ở là ở, cử động thác lạc, có bậc anh hùng hảo hán nào tha thiết với những vật nhỏ mọn ấy? Họa chăng có bọn phụ nữ mới luyến tiếc những tế nhuyễn như vậy thôi.
Bửu Nhi thoáng đỏ mặt, gật đầu:
- Thì đi! Mình đi ngay bây giờ!
Hắn cho mấy quyển sách vào trong áo, nhảy xuống giường điểm một nụ cười tiếp:
- Bất cứ nơi nào, thúc thúc dám đến là tôi vẫn đến được như thường!
Hồ Bất Sầu gật đầu:
- Nam tử chí tại bốn phưong, kể cả những hiểm ác nhất! Chúng ta đi ngay!
Họ vừa ra cửa đường sau, theo con đường nhỏ vào lòng thị trấn Tế Nam. Hồ Bất Sầu vừa lo vừa sợ. Lo vì hành trình vô định, sợ vì kẻ ác kia rất có thể theo dõi thực hành câu trảm thảo trừ căn. Tuy nhiên, ngoài mặt y luôn luôn tỏ ra tươi cười để giục lòng đồng tử, cho hắn nổi hứng lên, chịu đi xa với y.
Thời tiết lúc đó đã vào thu, không khí mát mẻ, nhưng chỉ đi độ một dặm đường, Bửu Nhi đổ mồ hôi như tắm.
Bỗng hắn dừng chân lại, chánh sắc thốt:
- Hồ thúc thúc to đầu nhưng lại nhỏ trí quá! Cứ thản nhiên bước đi quên rằng cái bước của con nhà văn không hòa nhịp nổi với cước lực của người luyện võ. Thiết tưởng thúc thúc chậm lại bằng tôi cũng chẳng hại gì, hơn là tôi phải nhanh bằng thúc thúc!
Thấy hắn giáo huấn nhẹ mình, Hồ Bất Sầu cười thầm, song y nghĩ ra cũng phải thương hại hắn, dù sao thì hắn đâu có chịu vất vả bôn ba bằng y. Y nghĩ:
- Song thân hắn đã biệt dạng phương trời, ngoại công hắn đã ra người thiên cổ, nếu ta không chiếu cố hắn, thì làm sao? Làm sao cho hắn?
Còn ai chiếu cố đến hắn?
Đưa tay chỉ một quán bán giải khát trước mặt, Hồ Bất Sầu thốt:
- Nếu thấy mệt, mình nên dừng chân lại nơi ngôi quán đó, nghỉ chân một lúc.
Đến quán, gọi trà xong, Hồ Bất Sầu để mặc Bửu Nhi ngồi đó, y bước ra ngoài lấy phong thư ra đọc mấy hàng chữ bên ngoài:
“Lưu bút lại cho Hồ Bất Sầu, cứ mở ra xem rồi thi hành đúng theo lời trong thư!” Y vội bóc phong bì, đọc liền:
-
“Lúc ngươi đọc mấy dòng chữ này thì ta đã buông tay tắt thở dưới lưởi kiếm của kẻ kia rồi. Nhìn nhát kiếm tước đoạn cành cây khô, ta đã biết kiếm pháp của người áo trắng cao hơn ta mấy bậc, trong võ lâm ngày nay há dễ có nhân vật nào khả dỉ đối địch lại hắn. Hắn từ phương Đông đến, chỉ có một ý chí quyết thắng tất cả cao thủ trên giang hồ, hắn xuất chiêu độc, đủ biết lòng dạ hắn rất độc, vì tâm độc nên hắn chẳng hề lưu tình trong mỗi cuộc chiến. Trong những ngày sắp đến, nếu chẳng có tay nào ức chế nổi hắn thì rồi đây chẳng biết còn bao nhiêu trăm ngàn cao thủ ngả gục trước kiếm pháp tuyệt độc của hắn! Ta vì muốn hạ sát hắn, nên phải tử chiến với hắn, dù có chết cũng đã làm tròn tâm nguyện đối với chánh nghĩa võ lâm.” Hồ Bất Sầu lắc đầu thở dài, rồi đọc tiếp:
“Sau khi ta quyết tử chiến với hắn, ta nghĩ rất nhiều về Bửu Nhi.
Soát lại trong đệ tử, ta nhận thấy chỉ có ngươi rất đáng cho ta giao phó một nhiệm vụ. Nhiệm vụ đó là đưa Bửu Nhi đến bờ Đông Hải, ngươi phải tìm cho gặp chiếc thuyền to lớn buồm bằng gấm ngũ sắc, bằng bất cứ thủ đoạn nào, ngươi phải lên được trên thuyền, xin hội kiến với chủ nhân trao cành cây khô ta kèm theo đây cho người xem và tường thuật sự tình cho người nghe việc xảy ra như thế nào, cứ thuật y như vậy, không nên thêm bớt. Theo chỗ nhận xét của ta, trong thiên hạ ngày nay, may ra chỉ có chủ nhân chiếc thuyền ngũ sắc là có thể chế ngự người áo trắng. Chủ nhân chiếc thuyền sẽ bảo ngươi những gì cần làm, và ngươi phải làm theo những gì người bảo. Ghi nhớ! Ghi nhớ!
Hồ Bất Sầu đọc xong bức thư, thở dài mấy lượt. Y khâm phục sư phó bình tĩnh vô cùng, cái chết kề bên mình mà vẫn viết ra được trọn ý, nét bút tự nhiên, không rối loạn!
Ngồi nơi bàn, đợi mãi mà chẳng thấy Hồ Bất Sầu trở vào, Bửu Nhi gọi:
- Thúc thúc đâu, nóng nảy gì lại chẳng ngồi yên được một chút để uống cạn chén trà? Hừ, luyện võ như thế, hóa ra phí ngày xanh quá!
Hồ Bất Sầu trở vào, điểm nhẹ một nụ cười:
- Luyện võ thì có gì phí ngày xanh? Võ cũng như văn, đều có cái hứng riêng biệt, đã có hứng thì chẳng bao giờ phí ngày xanh cả.
Thay vì đáp, Bửu Nhi lại tỏ ra vẻ trưởng thành, đầy kinh nghiệm, bĩu môi không nói tiếng gì.
Hồ Bất Sầu nhìn hắn, trầm ngâm một chút, rồi hỏi:
- Chừng như ngươi chẳng thích học võ, tại sao?
Bửu Nhi vừa đứng lên, vừa cười nhẹ, thốt:
- Có nói ra, thúc thúc cũng chẳng hiểu được nào! Thôi chúng ta tiếp tục cuộc du hành đi!
Hồ Bất Sầu thở dài, thầm nghĩ:
“Ta e rồi đây ngươi không học võ cũng không được! Ngọn bút của ngươi không sắc bằng thép kiếm đâu!” Bây giờ thì đã có hướng đi rồi, Hồ Bất Sầu chẳng còn hoang mang nữa, cứ theo hướng Đông thẳng tiến.
Đi, đành rằng phải có cước lực, nghị lực, nhưng hai yếu tố đó chưa hắn đủ để cho người hoàn tất cuộc hành trình. Bởi, cước lực và nghị lực chỉ chí mà không giúp thân, và người lữ khách nào cũng cần đến lộ phí.
Ra đi hấp tấp, Hồ Bất Sầu không chuẩn bị lộ phí dồi dào, thành ra khi gần đến bờ Đông Hải thì tiền nong sắp cạn.
Riêng y vất vả đói khát, đâu phải là một vấn đề? Song Bửu Nhi từ nhỏ đến lớn, sống sung túc, đến độ thừa thãi, y có thể để cho hắn kham khổ như y được chăng?
Do đó dần dần, y tự biết giảm khẩu phần của mình, để chu toàn cho Bửu Nhi được đầy đủ hơn. Y làm như thế, do lòng nhân hay vì cảm nghĩa sư tôn? Có lẽ do cả hai.
Rồi một hôm, họ đến bờ sông Đông Hải.
Khung trời lạ mở ra trước mắt, Phương Bửu Nhi thích thú cười luôn, trái lại Hồ Bất Sầu lại sầu rã ruột.
Y phải tìm cần, tìm nhợ, làm ngư phủ bất đắc dĩ.
Tại sao y phải làm ngư phủ bất đắc dĩ?
Muốn dọ thám trong rừng, không gì bằng làm tiều phu, muốn dọ thám trên mặt biển, không gì bằng làm ngư phủ.
Vừa lưu ý đến những con thuyền lui tới bờ Đông Hải, vừa kiếm được con cá để ăn, đỡ tốn hao trong khi tiền nong sắp cạn, Hồ Bất Sầu không còn phương pháp nào hữu hiệu và thiết thực hơn nữa.
Dụng tâm của Hồ Bất Sầu là thế, Phương Bửu Nhi nào có biết cho hắn đâu, cứ ngắm mây trông nước, đón gió nhìn cây, cởi mở tâm tư, hắn gọi Hồ Bất Sầu cợt một câu:
- Ngờ đâu thúc thúc cũng có cái hứng nhã khiết như thế!
Thời gian vào lúc hoàng hôn tàn, đêm xuống, xa xa nơi phương trời Tây, ráng muộn còn ửng đỏ, trên không sao sớm đã chớp đều trên mặt biển, đèn câu đã đốt sáng, đèn thuyền cũng đã chiếu sáng khắp đó đây.
Hồ Bất Sầu đã câu được ba con cá khá to, y nướng tươi tại chỗ, rồi cả hai dùng bữa cơm tối ngay tại bờ biển.
Phương Bửu Nhi ăn ngon quá, có lẽ bình sanh chưa bao giờ ăn được một bữa ngon như đêm nay.
Ăn xong hắn cười thốt:
- Trong sách người xưa có dạy, ăn no rồi nên nằm nghỉ. Bây giờ mình nên tìm khách sạn thuê phòng đi!
Hồ Bất Sầu trầm ngâm lâu lắm, sau cùng thở dài:
- Bửu Nhi! Từ nay trở đi, chúng ta không còn ngụ tại khách sạn nữa rồi!
Y nghĩ buông câu đó, y phải làm cho Bửu Nhi bất mãn, vì chẳng muốn cho Bửu Nhi bất mãn nên y do dự, cuối cùng y đành thốt ra, bởi chẳng có cách nào hơn, bởi trước sau gì cũng thốt câu đó.
Phương Bửu Nhi suy nghĩ một chút, đoạn cười nhẹ:
- Không ngụ tại khách sạn, thì trời làm màn, đất làm giường, cỏ non làm nệm, mình vẫn sống được như thường, huống chi trong khi chờ giấc ngủ, mình có thêm cái thú đếm sao...
Hồ Bất Sầu nhìn hắn:
- Ngươi có thể chịu đựng được cái kiếp màn trời chiếu đất nổi không?
Phương Bửu Nhi cười lớn hơn một chút nữa:
- Màn trời chiếu đất với phòng ấm giường êm, khác nhau ở điểm nào, khi nhắm mắt đưa hồn vào giấc mơ, là ngoại vật chẳng còn ảnh hưởng gì cả. Giả sử, tôi hiểu rằng trong chiếc bọc hành trang của thúc thúc, tiền nong đã cạn, giả sử tôi hiểu rằng hiện tại hai chúng ta phải ăn đường ngủ đất, thì tôi dù muốn dù không cũng chẳng nghĩ đến khách sạn?
Hồ Bất Sầu giật mình, ngán sự thông minh của hắn, song y lắc đầu cười khổ:
- Tuy nhiên...
Phương Bửu Nhi cũng lắc đầu:
- Chẳng sao cả, thúc thúc ạ! Bất quá, người đọc nhiều quyển sách tất phải hiểu nhiều sự đời, cho thúc thúc biết, đó chỉ là một cái hay trong muôn ngàn cái hay của sách vở. Văn có kém võ đâu?
Bỗng Hồ Bất Sầu biến sắc mặt, thấp giọng thốt gấp:
- Có tiếng y phục phất trong gió, chắc khách dạ hành nào đó sắp ngang qua đây, chẳng rõ khách có hảo ý hay ác cảm đối với chúng ta, vậy chúng ta hãy đề phòng!
Y đưa tay xoa xoa trên mặt đất, bốt một nắm bụi, trát lên mặt.
Phương Bửu Nhi thở dài:
- Những người theo nghiệp võ, sao cứ mỗi lúc phải đề phòng? Chẳng lẽ...
Hắn chưa dứt câu, hai bóng người đã xuất hiện trong màn đêm.
Người bên tả thốt:
- Thời khắc còn sớm quá! Mà ánh lửa kia chừng như khác biệt. Ta nghĩ, chẳng phải nơi đây đâu, vậy mà ngươi cứ giục ta đến đây.
Người bên hữu đáp:
- Vô luận như thế nào, mình cũng phải đến đây nghỉ chân một lúc.
Ngươi xem kìa, có ai vừa nướng cá đó...
Người đó bỏ lửng câu nói, ngồi ngay bên cạnh đống lửa, trước mặt Hồ Bất Sầu, trên đống lửa còn cá, y với lấy một con, đưa vào miệng cắn liền.
Y tự nhiên quá, tưởng chừng những con cá nướng là phần dành cho y.
Y cũng xem luôn Hồ Bất Sầu và Phương Bửu Nhi như những pho tượng vô tri giác, chẳng cần nhìn thoáng qua cả hai một cái.
Phương Bửu Nhi trừng mắt, gằn giọng:
- Hừ! Bằng hữu! Ít nhất cũng...
Hồ Bất Sầu nhanh tay bóp mạnh vào lưng hắn, ngầm bảo hắn đừng, đoạn trách hắn:
- Hai vị đại gia ăn cá của chúng ta là vinh hạnh cho ta lắm, ngươi trẻ nít biết gì lại dám hằn học?
Quả nhiên họ Hồ trách vờ để ve vuốt tự ái của kẻ kia, y chẳng sanh sự trong khi chưa cần thiết lắm, trong tình cảnh của y và Phương Bửu Nhi nhẩn được bao nhiêu có lợi bấy nhiêu, vừa dấu được hành tung.
Y điểm một nụ cười, hướng sang người lạ mặt tiếp nối:
- Hai vị cứ tự nhiên cho, những con cá nầy tiểu nhân nướng sẵn để cung kiến hai vị đấy!
Nướng sẵn để cung kiến? Y hớ rõ rệt, bởi làm sao y biết được hai người kia sắp đến đây mà nướng sẵn, dành phần? Vả lại y biết họ là ai, mà cất lòng cung hiến cái ăn?
Người bên tả bật cười âm trầm:
- Không ngờ một ngốc tử như ngươi lại có nhãn lực, biết xét người!
Hà hà, khá lắm, nếu chẳng vậy thì...
Người bên hữu miệng còn ngồm ngoàm cá, tiếp nối:
- Nếu chẳng vậy thì bọn ta sẽ nướng hai ngươi, ăn như ăn cá!
Phương Bửu Nhi sôi giận, cắn chặt hai hàm răng, ánh mắt bừng lửa đỏ, ánh mắt chớp luôn luôn, hắn nhìn người bên tả, như muốn vặn cổ y ngay.
Người bên tả, có gương mặt trắng bệch, màu trắng vô tình cảm, thân vóc y gầy đét, vận chiếc áo dài bằng gấm màu hồng, trông thoáng qua cũng có thể đoán thị hiếu của y là tửu sắc.
Người bên hữu dáng cao trên tám thước, cũng vận áo gấm, râu ngắn viền quanh cằm.
Cả hai đeo nơi lưng một chiếc bao chừng nặng lắm, mỗi người đều có một thanh đao lủng lẳng nơi hông.
Người râu ngắn ăn một lúc hết hai con cá nướng. Người ốm cao đứng một bên nhìn đồng bạn, lắc đầu thở dài:
- Ngươi...
Bỗng y quay phắt người lại, tay nắm chặc chuôi đao, hét lên:
- Kẻ nào đó?
Từ trong màn đêm, có tiếng lanh lãnh đáp vọng lại:
- Giang Bắc Nhất Trận Phong! Ta đi không tiếng, ta đến không tăm!
Câu đáp vừa buông dứt, một bóng người xuất hiện trước đống lửa còn cháy cao ngọn.
Người đó là một thiếu niên, xác ốm, trên lưng cũng có một chiếc bao như hai người kia.
Người râu ngắn múc múc xương cá trắng phếu, thấy hết thịt liền quăng xa xa, đoạn đưa tay áo lau vội mép cất tiếng cười ha hả:
- Tưởng ai! Không ngờ lại là Phong lão đệ! Lại đây, lại đây! Còn mấy con cá nướng đây, ăn với ta đi!
Người mới đến bật cười giòn:
- Từ xa, tiểu đệ trông thấy ánh lửa tưởng đâu là ngọn Linh Không Thần Hỏa, nên hối hả chạy đến. Bất ngờ lại gặp Bưu Hổ nhị vị nhân huynh!
Nghe nói đến bốn tiếng Linh Không Thần Hỏa, người râu ngắn thoáng biến sắc mặt, hấp tấp hỏi:
- Vậy ra Phong lão đệ có tiếp được Thần Mộc Lịnh nữa à? Chắc Phong lão đệ mang lễ vật đến đây phải không?
Y vừa nói, vừa đảo mắt nhìn quanh sợ có kẻ nghe ngóng.
Người mới đến chính là Nhất Trận Phong, mỉm cười đáp:
- Tiếp được Thần Mộc Lịnh rồi, tiểu đệ lo quấn lên, phải mất đến hai mươi hai đêm trọn, đánh cướp đúng hai mươi ba nhà mới thu thập một số lễ vật đạm bạc!
Người râu ngắn cũng cười, thốt:
- Chứ bọn ta lại sẵn bạc vàng châu báu gì? Cũng phải bố đầu nầy, hốt đầu kia, gom góp được phần nào, tuy chẳng xứng đáng lắm, song tạm gọi là khả quan.
Nhất Trận Phong khoát khoát tay:
- Đừng láo! Còn ai chẳng biết nhị vị nhân huynh tích trữ rất nhiều bảo vật bạc vàng? Thiết tưởng, có vật gì tiểu đệ mang hiến vật ấy, quyết chẳng vay mượn đâu mà hai nhân huynh sợ!
Cả ba cùng cất tiếng cười vang.
Phương Bửu Nhi nghe chúng đối thoại với nhau, bất giác sững sờ lâu lắm, hắn mới bấm khẽ Hồ Bất Sầu, rỉ bên tai y:
- Thì ra chúng là những tên cường đạo!
Hồ Bất Sầu gật đầu:
- Đại cường đạo nữa là khác! Chúng là những tay có hạng lắm. Phàm là khách giang hồ ai ai cũng nghe danh biết chúng! Chúng giết người không hề chớp mắt. Hai tên tới trước, một là Phấn Bưu, còn một là Thiết Hổ. Tên đến sau như chúng đã gọi nhau chính là Nhất Trận Phong. Phấn Bưu và Thiết Hổ, lập căn cứ tại Bạch Mã Sơn, còn Nhất Trận Phong thì hành tung vô định, này đây mai đó, lại độc lực hành nghề, chẳng gia nhập vào nhóm cường đạo nào cả.
Phương Bửu Nhi trầm ngâm một chút:
- Chúng từ những nơi riêng biệt bỗng nhiên đến đây cùng một lúc, không lẽ chúng có ước hẹn với nhau? Trong vùng nầy có nhà nào thừa tiền dư bạc mà chúng định đánh cướp chăng?
Hồ Bất Sầu lắc đầu:
- Chúng chẳng ước hẹn nhau mà cũng chẳng đánh cướp nhà ai quanh vùng này cả. Suy qua cuộc đối thoại của chúng, ta có thể đoán là chúng tiếp được tín vật của nhân vật nào đó vô cùng lợi hại, đòi chúng đến đây, nên tên nào cũng trang bị lễ vật chúc mừng, và nhân vật đó ước hẹn nơi nào phóng hỏa, chúng hãy đến nơi đó, cho nên thấy lửa nướng cá của chúng ta, chúng lầm rồi đồng đổ xô về đây!
Y trầm ngâm một lúc:
- Thần Mộc Lịnh! Thần Mộc Lịnh! Nhân vật nào có Thần Mộc Lịnh?
Hắn phải ghê gớm lắm mơi điều động nổi bọn đại cường đạo nầy!
Phương Bửu Nhi xì một tiếng:
- Ghê gớm gì? Bất quá cáo lão nào đó, chỉ là một con cáo già, cao thủ đoạn ngồi một chỗ, thu của bốn phương, có khác gì Đơn Hùng Tín ngày xưa ngồi không chia của.
Một cơn gió nhẹ chợt quét qua.
Phấu Bưu, Thiết Hổ và Nhất Trận Phong cùng đứng nhanh lên, cùng hướng mắt về một phía:
- Kẻ nào đó?
Không có tiếng đáp, nhưng có tiếng chân người. Tiếng chân vang lên trầm trọng, vì quá trầm trọng nên phải thận trọng.
Cả ba lộ vẻ khẩn trương ra mặt. Thiết Hổ nóng tính hơn hết, rút thanh đao dài bên hông cầm tay, hét to:
- Kẻ nào đó, nếu không chịu lên tiếng, đừng trách ta tàn nhẫn...
Y khỏi phải nôn nóng, câu nói của y chưa dứt tròn ý, một bóng người đã hiện rõ trong tầm mắt.
Người đó là một lão bà, vóc thấp, mập mạp, đầu bạc phơ, tóc rụng độ nửa, thành chiếc đầu gần như sói. Bà vận chiếc áo rộng, dài, bằng bố, khắp chiếc áo đều có túi, phỏng tính có hơn mười lăm mười sáu túi, hình thức bất đồng.
Tay bà cầm một chiếc trượng, dài độ chín thước, dĩ nhiên trượng phải cao hơn hình vóc của bà. Bà vừa đi vừa thở, ra dáng mệt nhọc lắm.
Bà cứ bước những bước chân chậm chạp, trầm trọng, tiến thẳng đến bên đống lửa, ngồi xuống tự lẩm nhẩm ; - Đêm thu mà gặp ngọn lửa như thế nầy, nghe ấm áp lạ! Khoái quá!
Khoái quá!
Phương Bửu Nhi nhìn bà ta, nhận ra, gương mặt bà rất tròn, miệng tươi như có nụ cười gắn mãi mãi nơi vành môi, giọng nói của bà ấm dịu, thần thái bà rất an tường.
Hắn không khỏi lo sợ cho bà, hắn đoán chừng ba tên cường đạo thế nào cũng gây sự với bà, mà bà thì hiền lành như vậy, làm sao tránh khỏi thủ đoạn tàn độc của chúng?
Lão bà ung dung đưa tay vào một chiếc túi, lấy ra một trái đào, kè vào mủi ngửi. Chừng như bà thèm ăn lắm, nhưng lại tiếc, cứ ngửi mãi, ngửi một lúc rồi hạ xuống miệng, cắn một miếng, nhai nhóc nhách, mắt chớp sáng ngời ra vẻ thích thú lắm.
Bà ăn, chốc chốc lại chép chép miệng, tiếc từ một chút mùi thơm của quả đào thoát ra ngoài, bà thản nhiên ăn, tưởng chừng như chẳng hề trông thấy ba tên cường đạo lăm lăm vũ khí trong tay, đứng nhìn bà chẳng chớp mắt.
Chúng nhìn bà, gương mặt chúng dần dần biến sắc, chúng đưa mắt nhìn nhau, đột nhiên cùng tra vũ khí vào vỏ, cùng quỳ xuống.
Đến lúc đó thì chúng lộ vẻ kinh khiếp rõ rệt trên mặt. Chúng quỳ nhưng chẳng nói năng gì liền.
Mặc chúng quỳ, lão bà cứ ăn xong quả đào, bà ta lấy trong chiếc túi khác, một nắm hạt đào rang tiếp tục ăn.
Bà cũng chẳng buồn nhìn đến ba tên cường đạo.
Phương Bửu Nhi trông cái cảnh đó vừa buồn cười vừa kinh hãi. Hắn cười vì bọn cường đạo trước đó, hùng hổ làm sao, giờ chẳng khác nào những con mèo bị cắt tai. Hắn cười vì lão bà cao niên kỷ như thế đó, thích ăn vặt như trẻ nít, áo bà rất nhiều túi, nhưng chẳng chứa đựng gì khác hơn là những quả những hạt, cho bà ăn vặt...
Hắn kinh hãi vì bọn cường đạo là những hung thần ác sát, vậy mà gặp bà rồi, lại riu ríu quỳ xuống, tỏ vẻ ngoan ngoãn như chó con. Hẳn bà phải là một nhân vật thượng đỉnh trong giang hồ nên chúng mới kính nể đến độ đó.
Qùy một lúc, chẳng thấy lão bà nhìn lại, chẳng nghe lão bà bảo gì, Thiết Hổ đặng hắng mấy tiếng, đoạn thốt:
- Anh em Bưu Hổ bái kiến Vạn lão phu nhân!
Lão bà day mặt về hướng chúng, nhướng mắt nhìn một lúc lâu, bà mới cười hì hì cất tiếng:
- À! Các ngươi chào ta phải không? Đứng dậy đi, ta già rồi, mắt đã mờ rồi, chẳng trông thấy gì rõ rệt! Thật ta có phần nào không phải đấy!
Bọn Thiết Hổ càng cúi đầu thấp hơn, Phấn Bưu ấp úng:
- Không rõ gần đây... Vạn đại hiệp...có được mạnh giỏi chăng?
Vạn lão phu nhân mỉm cười:
- Vạn đại hiệp nào? Trượng phu ta đã chết từ lâu... À! Các ngươi muốn hỏi đến đứa con trai vô dụng của ta phải chăng? Nó thì trời đánh cũng không chết, làm gì chẳng được mạnh giỏi? Khổ cái là từ ngày nó lấy vợ đến nay, chẳng còn săn sóc gì mẹ già của nó nữa!
Giọng nói, giọng cười của bà hiền từ quá, bà trách con trai nhưng ai lại chẳng biết bà trách yêu. Phương Bửu Nhi trông thấy bà bất giác liên tưởng ngay đến bà ngoại hắn...
Hồ Bất Sầu ngưng trọng thần sắc từ lúc Vạn lão phu nhân xuất hiện, y nhìn bà rất kỷ, một lúc lâu tự lẩm nhẩm:
- Vạn đại hiệp?... Vạn đại hiệp nào?... Hay là Vân Mộng đại hiệp Vạn Tử Lương, mà bà ta là mẹ của vị đại hiệp đó?...
Bọn Thiết Hổ đứng lên.
Vạn lão phu nhân mỉm cười hỏi:
- Trông tình hình các ngươi, ta đoán các ngươi vì tiếp Thần Mộc Lịnh mà đến đây có phải vậy không?
Thiết Hổ gật đầu:
- Đúng vậy!
Y đáp nhanh quá, Phấn Bưu muốn ngăn lại, nhưng không còn kịp nữa.
Vạn lão phu nhân thở dài:
-
- Chủ nhân Thần Mộc Lịnh thật ra đã làm một việc phi phận rồi đó!
Đã quy ẩn trong bao nhiêu năm, mà vẫn còn sử dụng uy tín ngày nào, tùy tiện phát lịnh điều động các ngươi, lão ấy cứ tưởng rằng mình vẫn còn là Minh Chủ Hắc đạo. Thành ra, các ngươi vất vả mang lễ vật bôn ba trên đường dài tìm đến đây, cống hiến cho lão!
Bà dừng lại một chút, đoạn tiếp hỏi:
- Mà các ngươi mang những món gì đó, có thể cho ta nhìn thấy được chăng?
Ba tên đại cường đạo nhìn nhau một thoáng, gương mặt tên nào cũng lộ vẻ khó khăn. Chúng còn do dự, Vạn lão phu nhân cười nhẹ thốt:
- Không lẽ cho ta xem một chút lại chẳng được sao?
Chúng còn làm sao hơn?
Phấn Bưu hấp tấp đáp:
- Vạn lão phu nhân đã dạy, tự nhiên chúng tôi phải vâng!
Rồi cả ba cùng hạ chiếc bao trên lưng xuống, cùng mở ra, tuôn những báu vật bên trong đổ bừa bãi trước ánh lửa hồng.
Những báu vật đó toàn là những món hi hữu trên thế gian, chớp ngời dưới ánh lửa. Phương Bửu Nhi dù sanh trưởng trong dư giả, cũng phải chóa mắt.
Tuôn những báu vật đó ra rồi, ba tên cường đạo cùng lộ vẻ cao ngạo, chúng cười nhẹ hỏi:
- Lão phu nhân xem, những vật nầy mang đến mừng Chủ nhân Thần Mộc Lịnh, có xứng đáng không?
Vạn lão phu nhân vẫn giữ nụ cười hiền hòa:
- Những báu vật đó, mang cống hiến cho bậc vua chúa, kể ra thừa xứng đáng nữa là khác, song...
Thiết Hổ vội hỏi:
- Song làm sao, hở phu nhân?
Vạn lão phu nhân điềm nhiên:
- Song đem cống hiến cho Chủ nhân Thần Mộc Linh, ta e quá đạm bạc.
Nhất Trận Phong biến sắc trước. Phấn Bưu và Thiết Hổ biến sắc sau.
Cả ba cùng trố mắt nhìn lão bà.
Lâu lắm, Thiết Hổ mới ấp úng:
- Đạm bạc?...
Vạn lão phu nhân gật đầu:
- Đạm bạc lắm. Trừ phị..ba phần gộp lại làm một, may ra khả dĩ tạm gọi là được! Thật tình ta chỉ sợ Chủ nhân Thần Mộc Lịnh bắt tội các ngươi khinh thường người!
Bà đưa tay vào một chiếc túi khác, lấy ra mấy trái ô mai rim đường híp mắt lại, vừa nhai vừa chép chép miệng. Bà thản nhiên ăn, thích thú ăn, tưởng chừng bình sanh không gì hấp dẫn bà bằng những quà vặt.
Phấn Bưu, Thiết Hổ cấp tốc thu xếp các món đồ của chúng vào bọc, cột dây cẩn thận, cho lên lưng, rồi lùi lại mấy bước.
Đột nhiên, Nhất Trận Phong giương đôi mắt, bắn tinh quang sáng ngời sang cả hai bên cười khanh khách:
- Vạn lão phu nhân đã nói thế, tại hạ tưởng hai vị nên làm phương tiện cho tại hạ là phải hơn!
Thiết Hổ cao giọng:
- Làm phương tiện như thế nào?
Nhất Trận Phong mỉm cười:
- Ba phần riêng rẽ chẳng phần nào đủ giá trị để cung hiến Chủ nhân Thần Mộc Lịnh, chi bằng hai vị nên nhường hai phần đó cho tại hạ, nhập với phần riêng, còn hai vị thì hãy trở về, sắm sửa phần khác tươm tất hơn. Như vậy là tiện lợi cho cả ba chúng ta.
Thiết Hổ hét to:
- Vô lý! Ngươi muốn cướp báu vật của anh em ta?
Nhất Trận Phong rít một tràng cười ghê rợn:
- Nhất Trận Phong này không đến nỗi có thái độ đó với các vị đâu, mà dù tại hạ muốn cướp, hai vị cũng chẳng ngăn cản được! Tại hạ mong hai vị nên thức thời một chút, thà đắc tội với hai vị, còn hơn là bị Chủ nhân Thần Mộc Lịnh quở trách.
Thiết Hổ quát lớn:
- Câm ngay! Ngươi làm gì nổi bọn ta mà dám cao ngạo?
Nhất Trận Phong trầm giọng:
- Thế là các vị nhất định bắt buộc tại hạ phải ra tay? Giả sử tại hạ lỡ giết chết các vị, thì chẳng hóa ra oan uổng cho các vị chăng?
Thiết Hổ sôi giận:
- Ngươi giết bọn ta hay bọn ta giết ngươi?
Câu nói vừa buông dứt, Phấn Bưu và Thiết Hổ cùng rút trường đao.
Nhất Trận Phong cười lạnh, tháo chiếc thắt lưng quét ra một vòng biến thành một trường thương rộng bản sáng như bạc.
Vạn lão phu nhân không nhìn đến họ nửa mắt, tự nhiên cắn ô mai nhai nhai, chép chép, mắt vẫn híp lại như thường. Gương mặt bà vẫn còn mãi vẻ tư tưởng hiền hậu, nơi khoé miệng nụ cười tươi vẫn gắn chặt như từ thuở nào, chẳng hề tắt.
Hồ Bất Sầu theo dõi diễn tiến của mọi người tại cục trượng, y thái độ thầm nghĩ:
“Lão bà nầy xem thì ôn nhu hòa dịu lắm, nhưng cái tâm của bà tàn độc làm sao! Chỉ dùng một câu ngắn ngủi, lại có thể khích cả ba cùng đưa nhau vào cuộc tử chiến! Người ta sắp đánh nhau trí mạng, mà bà vẫn thản nhiên được, nham hiểm thật.” Biết vậy, họ Hồ dù can thiệp để ngăn chận một cuộc chiến vô lý cũng chẳng thực hiện ý muốn được, bởi còn bao nhiêu việc bên mình, mà toàn là những việc khẩn cấp, nếu rầy vào việc người, sự tình biết đến bao giờ dứt khoát, chẳng hóa ra chậm trễ việc mình sao?
Y đành bất động, chỉ lấy mắt nhìn.
Y bất động, song Phương Bửu Nhi không dằn được bất bình, hắn kêu lên:
- Lão thái thái đã xem lễ vật của người, tại sao không cho người xem lễ vật của thái thái? Như vậy có bất công chăng?
Vạn lão phu nhân mở mắt ra, cười nhẹ:
- Tiểu tử, ngươi nói gì đó?
Nhưng Phương Bửu Nhi không lập lại câu hỏi. Có lẽ hắn hỏi như thế, do một dụng ý nào khác hơn là muốn xem lễ vật của bà.
Và cái dụng ý của hắn, bọn Phấn Bưu, Thiết Hổ và Nhất Trận Phong hiểu rõ, họ là những tay lão luyện giang hồ, dù kém võ công chứ kinh nghiệm có thừa, so với bất kỳ ai.
Cả ba cùng thu võ khí, Phấn Bưu cười lớn thốt:
- Buồn cười thật!
Y không đợi hai người kia hỏi, cười tiếp luôn:
- Chúng ta toàn là những kẻ to đầu, cao tuổi, mà không nghĩ đến việc xem lễ vật của Vạn lão phu nhân, phải chờ một tiểu tử đề cập đến mới nhớ ra!
Nhất Trận Phong phụ họa:
- Phải đó! Chúng ta cần xem lễ vật của lão phu nhân như thế nào, để dùng làm tiêu chuẩn chu biện cho thích đáng!
Phấn Bưu còn đi xa hơn, không cần dè dặt sợ hãi như trước:
- Ta chỉ sợ lão phu nhân trong khi khẩn cấp, không kịp sắm sửa lễ vật, nên nảy sanh ác ý khích nộ chúng ta, cho chúng ta đánh toi mạng cướp phần của nhau, dĩ nhiên đánh mãi thì bọn chúng ta sẽ chết dần, cuối cùng thì bà ta chẳng cần phí sức lắm cũng hạ được kẻ sống sót, chiếm luôn cả ba phần. Như thế có phải khỏe chăng?
San bằng được bất hòa, ba tên cường đạo giờ đây liên kết với nhau, chúng cùng lùi lại ba bước, cùng đứng ngang nhau giăng thành hàng chữ nhất, cùng nhìn thẳng đến Vạn lão phu nhân.
Chúng không quên ngầm vận công, chuẩn bị ứng phó nếu Vạn lão phu nhân xuất thủ bất thình lình.
Vạn lão phu nhân khẽ thở dài, vẫn với giọng dịu hiền thốt:
- Các ngươi xem nhẹ ta quá! Đây các ngươi xem!
Bà ta đưa vào một chiếc túi, lấy ra một xâu mười hai hạt ngọc chói màu tím sậm, mỗi hạt to cỡ quả trứng chim câu.
Vốn là những tay lục lâm, cường đạo, bọn Phấn Bưu Thiết Hổ và Nhất Trận Phong còn lạ gì loại châu ngọc trên đời. Chúng xem ngọc còn tinh vi hơn thợ ngọc. Trông thấy mười hai viên ngọc của Vạn lão phu nhân tất cả cùng biến sắc mặt, cùng trố mắt, thừ người. Bình sanh chúng chưa từng trông thấy một loại ngọc nào vừa đẹp vừa to như thế.
Chúng muốn nhìn sát mắt nhưng còn dè dặt bước tới một bước, rồi ngập ngừng, rồi bước.
Vạn lão phu nhân cười nhẹ:
- Cứ bước tới mà xem, ta chẳng làm gì hại đến các ngươi đâu đừng ngại.
Chúng cùng bước tới, nghiêng mình nhìn, vừa nhìn vừa nói:
- Vô giá! Vô giá! Đáng thẹn cho chúng ta, bôn tẩu giang hồ trong bao nhiêu năm, thế mà tầm mắt vẫn còn hẹp, chưa từng trông thấy vật quý như thế này!
Bỗng hơn mười đạo hắc quang chớp lên, từ lòng bàn tay Vạn lão phu nhân bắn ra.
Dĩ nhiên, cái đích là ba tên cường đạo.
Hơn mười đạo hắc quang đó nhắm vào yếu huyệt của chúng lão vút tới.
Như chưa vừa lòng với bao nhiêu đạo Hắc quang đó, Vạn lão phu nhân cho tay vào túi áo, láy ra hạt đào, hạt hạnh nhân, hạt ô mai, lao vút theo. Thủ pháp của bà vừa nhanh vừa chuẩn, dù cho bọn Phấn Bưu có đề phòng cũng chẳng mong gì tránh kịp, huống hồ bà xuất thủ đột ngột.
Chúng có bao giờ tưởng những chiếc túi của bà ta, lại chứa toàn ám khí, mà ám khí chẳng phải là những vật chế luyện với hình thức riêng biệt như khách giang hồ thường dùng. Ám khí của bà là những món quà vặt, bình thường thì thưởng thức nó, khi cần thì bà dùng nó làm ám khí, thừa lợi hại hạ địch như những ám khí thực sự.
Vì chẳng ngờ như vậy, chúng lãnh đủ. Bất quá, chúng chỉ tránh né được một vài vật đầu tiên, song những hạt đào, hạt hạnh nhân, hạt ô mai bắn ra tới tấp, chúng làm sao tránh kịp?
Rồi ba tiếng rú vang lên, ba tên cường đạo ngã nhào một lượt. Mỗi tên hứng ít nhất cũng mười hạt, hạt nào cũng ấn sâu vào da thịt tưởng chừng như xác thân chúng có khảm những hạt đào, hạt hạnh nhân, hạt ô mai.
Hai tên kia có lẽ đã tắt thở, chỉ còn mỗi một mình Thiết Hổ, có sực chịu đựng khá, y phều phào hỏi:
- Bà đã có xâu ngọc đó, chưa đủ sao, còn bày kế lừa chúng tôi đoạt báu vật của chúng tôi? Dù sao, thủ đoạn của bà tàn độc quá.
Vạn lão phu nhân lắc đầu, thở dài:
- Bọn ngươi thật là ngu xuẩn! Trên thế gian này làm gì có ngọc màu tím?
Thiết Hổ sững sốt, không rõ vì giận hay vì tức là mình ngốc, y nghe mồ hôi hạt, đượm đầy trán, rơi xuống áo ròng ròng. Một lúc sau, y cố gom toàn lực hỏi:
- Thế vật gì trong tay bà?
Vạn lão phu nhân cười nhẹ:
- Kẹo ô mai, sênh đường pha màu tím trông bóng ngời, món quà ta ưa thích nhất, bất cứ đến thị trấn nào, ta phải tìm mua cho kỳ được một mớ, bỏ trong túi ta ăn suốt ngày suốt đêm trừ lúc ngủ. Ngươi có quáng manh chăng mà không nhận ra?
Thiết Hổ giương tròn mắt, đôi tròng suýt lọt ra ngoài, hét lên một tiếng to:
- Tức chết ta thôi!
Rồi y nấc nấc mấy tiếng tắt lịm.
Vạn lão phu nhân nhìn ba xác chết nằm vật trên mặt đất, lại lắc đầu, lại thở dài:
- Đáng tiếc! Đáng tiếc!
Phương Bửu Nhi mục kích cảnh tình của ba tên cường đạo, không khỏi tức uất Vạn lão phu nhân xuất thủ tàn độc, sát hại ba mạng người như một trò đùa, hắn chưa nói gì, bà ta lại thở dài tiếc rẻ, hắn càng tức uất hơn thầm nghĩ:
“Đã biết tiếc sao còn hạ thủ đoạn?” Vạn lão phu nhân tặc lưỡi, tiếp nối:
- Ta chỉ còn có bao nhiêu đó thôi, chúng bắt buộc ta phải hủy hoại tất cả, đáng hận thật!
Bà đứng lên, bước tới cạnh các xác chết, vạch áo chúng gỡ từng hạt đào, hạt hạnh nhân, hạt ô mai lút sâu vào da thịt chúng. Hạt nào cũng có vấy máu, có hạt đọng chảy ròng ròng.
Bà quẹt những hạt đó trên áo chúng cho sạch máu, đoạn bỏ vào túi.
Phương Bửu Nhi vỡ lẽ, thì ra bà tiếc mấy món quà của bà, chứ chẳng tiếc mạng sống của bọn cường đạo.
Trời! Những hạt đó vấy máu tanh hôi, bà chỉ quẹt sơ cho khô rồi cất vào mình, định ăn bằng thích chứ chẳng bỏ. Hắn nghĩ đến điều đó, lợm giọng nôn khan, nhưng bụng hắn chứa đầy cá nướng, hắn vừa nôn bao nhiêu cá tuông ra rồn rột.
Hồ Bất Sầu lúc đầu nghe Phương Bửu Nhi hạch hỏi Vạn lão phu nhân đoán chắc sẽ có đại họa đến nơi, rồi bây giờ hắn lại nôn mửa, như vậy thế nào Vạn lão phu nhân cũng quở trách, mà bà ta quở trách thì chỉ còn có nước cúi đầu chờ bà ta giết, chứ chẳng còn làm gì khác nơi được, y sợ quá, vội bế xốc Phương Bửu Nhi lên, dợm chân chạy đi.
Một tràng cười ha hả vang lên, Vạn lão phu nhân đã đứng án trước mặt y rồi. Bà hỏi:
- Tiểu tử đó, con cái nhà ai, lại thông minh thế?
Hồ Bất Sầu không nói năng chi cả, xoay người nửa vòng, nhún chân vọt lên cao, xoay mình tạt qua, đáp xuống chạy đi liền.
Nhưng y vừa chấm chân xuống đất, Vạn lão phu nhân nhanh hơn, đã đáp xuống trước mặt y.
Bà cười gằn:
- Tại sao ngươi chạy trốn ta? Tiểu tử thông minh như thế kia, ta có lòng nào làm thương hại đến hắn sao?
Hồ Bất Sầu chẳng thế nào chạy khỏi tay bà được, đành đứng nguyên tại chỗ, suy nghĩ tìm cách đối phó.
Phương Bửu Nhi vùng vẫy, vuột khỏi tay Hồ Bất Sầu, hắn đứng thẳng người cất cao giọng hỏi:
- Đã không làm gì thương tổn đến tôi, lại không chịu phóng thích tôi, thế bà muốn làm gì tôi?
Vạn lão phu nhân cười dịu:
- Già như ta, thấy trẻ thông minh, ai mà chẳng mến, đã mến thì phóng thích làm sao được. Ít nhất ta cũng phải nâng niu một lúc chứ? Lại đây lại ăn quà với ta!
Bà lấy mấy hạt đào, hạnh nhân, ô mai vấy máu, trao cho Phương Bửu Nhi. Giết chết hắn, hắn chẳng bao giờ tiếp nhận đừng nói là ăn.
Vạn lão phu nhân cười lạnh:
- Tiểu tử không ăn mà được với ta à? Có vấy máu ăn càng ngon chứ sao?
Bà giết người, bà cưỡng ép người ăn những vật đẫm máu, vậy mà cử chỉ của bà hết sức dịu hiền, lời nói của bà hết sức êm nhẹ, gương mặt hết sức từ tường.
Phương Bửu Nhi giận quá mắng to:
- Lão yêu phụ! Lão độc bà! Lão quái vật! Cũng có ngày ngươi bị thiên hạ mổ bụng, moi tim lột da!
-
Hồi 02
Chủ Nhân Thần Mộc Lịnh
Hồ Bất Sầu bất quá chỉ nghĩ rằng Phương Bửu Nhi từng được ông ngoại nuông chiều quá độ rồi sanh tánh ương ngạnh, bướng bỉnh mà thôi, chứ nằm mộng y cũng chẳng tưởng hắn can đảm đến thế. Trêu vào tay bà, ba tên đại cường đạo bỏ mạng không kịp thở, huống hồ một đồng tử như hắn?
Mắng như tát nước vào mặt lão phu nhân nhà họ Vạn là tự tuyên bản án từ hình cho hắn rồi, đó là thông lệ của bà ta, chẳng bao giờ bà để cho ai ngoài lệ cả.
Hồ Bất Sầu kinh hãi ra mặt, cấp tốc bước đến trước Phương Bửu Nhi. Nhưng chẳng rõ nghĩ sao, y lại trở về chỗ cũ, ngồi xuống nhếch môi cười, trong nụ cười có ẩn sự khinh khỉnh, chừng như không cần lo lắng về hậu quả do Vạn lão phu nhân dành cho Phương Bửu Nhi qua thái độ của hắn.
Vạn lão phu nhân cười nhẹ:
- Khá đó tiểu tử! Ngươi dám mắng ta! Không lẽ ngươi không thấy ba đống thịt còn nằm lồ lộ nước mặt kia sao?
Phương Bửu Nhi đã buông tất phải buông luôn:
- Bà lấy cái chết để dọa tôi? Chết thì chết sợ gì? Có ai tham sống, phải sợ đến cái hèn mà chẳng dám nói cho hả?
Vạn lão phu nhân thở dài:
- Tiểu tử không sợ chết ? Con người ta chỉ có mỗi người một sanh mạng, sao ngươi lại khinh thường sanh mạng như thế? Ngươi muốn chết, lão bà trước hết cho ngươi nếm thử mùi vị của cảnh dở sống dở chết cho ngươi biết sanh mạng quý như thế nào, sau đó sẽ hạ sát ngươi cũng chẳng muộn.
Bà hướng mắt sang Hồ Bất Sầu, thấy y vẫn ngồi yên tại chỗ, nụ cười nở trên môi, nụ cười bình thản, y lại nhìn trời, không lưu ý đến tình cảnh của Phương Bửu Nhi.
Vốn gian hoạt xảo trá, Vạn lão phu nhân không khỏi lấy làm lạ trước thái độ thản nhiên của Hồ Bất Sầu, bà cười nhẹ, từ từ hỏi:
- Gã to đầu kia, tiểu tử cùng đến đây với ngươi?
Hồ Bất Sầu gật đầu:
- Hắn là bạn đồng hành của tại hạ!
Vạn lão phu nhân đưa tay xoa xoa trên đầu Phương Bửu Nhi dịu giọng hỏi tiếp:
- Ta sẽ mang tiểu tử theo ta, ngươi có tưởng là hắn sẽ sống sót trở về với ngươi chăng?
Hồ Bất Sầu lắc đầu, cười mỉa:
- Tại hạ không tưởng hắn sẽ được sống sót trở về!
Vạn lão phu nhân hừ một tiếng:
- Thế tại sao ngươi không tỏ vẻ lo sợ cho hắn?
Hồ Bất Sầu cười hì hì:
- Bà mang hắn đi, sẽ có người tìm hắn về. Bà giết hắn, sẽ có người tìm bà giết bà báo thù cho hắn, tại hạ còn lo lắng gì nữa chứ?
Vạn lão phu nhân cười lớn:
- Báo thù? Ta sống đến từng tuổi này, có chết cũng vừa rồi. Nếu có kẻ tìm ta, báo thù cho hắn mà giết ta, thì càng hay cho ta, ta không phải sống nốt chuỗi ngày thừa trong cô đơn buồn thảm, khỏi phải phiêu dạt linh đinh, không cửa không nhà, ta khỏi gây ra thêm nhiễu tội lỗi.
Nhưng ta muốn chết từ lâu, những kẻ đã tìm ta muốn giết ta, lại phải chết vì tay ta, chết tất cả, thành thử ta chưa chết được, ta bắt buộc phải sống mãi sống đến ngày nay. Và gần đây, chẳng còn kẻ nào dám tìm ta mà báo thù, sự giết ta trở thành cái mộng của những kẻ thù ta, chẳng bao giờ những kẻ đó thực hiện mộng nổi.
Hồ Bất Sầu điềm nhiên, trong vẻ điềm nhiên của y có ẩn lộ chút nào niềm thương hại bà ta:
- Không ai dám, chỉ có người đó dám!
Vạn lão phu nhân bật cười khanh khách:
- Nếu ta giết luôn ngươi, còn ai biết tiểu tử chết trong trường hợp nào mà mách lại với người nào đó vừa do người đề cập để tìm ta? Ngươi rất thông minh, thế mà vẫn không nghĩ ra điều ấy à?
Hồ Bất Sầu điềm nhiên điểm một nụ cười ung dung thốt:
- Không ai biết, nhưng người đó biết! Bà giết tôi cũng chẳng bưng bít được hành động của bà!
Vạn lão phu nhân vẫn cười lớn:
- Bằng vào lời nói của ngươi, thì người nào đó thần thông quảng đại, biết cả mọi việc, việc trước việc sau, việc lớn việc nhỏ. Ha ha! Ta muốn biết người đó là ai?
Hồ Bất Sầu thong thả đứng lên, lấy trong mình ra một nhánh cây khô, nhánh cây Thanh Bình Kiếm Khách Bạch Tam Không trao cho y, y tiếp:
- Người đó dùng một nhát kiếm, chém đứt cành cây nầy, bà cứ xem chỗ đứt tất biết rõ người đó là ai!
Y trao cành cây cho Vạn lão phu nhân.
Vạn lão phu nhân tiếp lấy cành cây, thoạt đầu bà ta cười còn mỉm, càng xem kỹ thì bà ta biến sắc mặt, dần dần sắc mặt càng biến thảm, cuối cùng thì gương mặt bà xanh dờn, tay bà, run run, giọng bà cũng run run:
- Nhân vật nào có đường kiếm tuyệt diệu như thế? Hay là... hay là...
Ngũ... Ngũ...
Hồ Bất Sầu vẫn điềm nhiên, thay bà nói tiếp câu bỏ dở:
- Ngũ Sắc Phàm Thuyền Chủ!
Chủ nhân chiếc thuyền có cánh buồm ngũ sắc. Trời!
Vạn lão phu nhân vội lùi lại hai bước, lúc đó tay bà còn kẹp Phương Bửu Nhi, lập tức buông hắn rơi xuống đất, dùng hết cả sức lực trao hoàn cành cây khô cho Hồ Bất Sầu, nhặt nhanh mấy chiếc bao của bọn Phấn Bưu, Thiết Hổ và Nhất Trận Phong, rồi phi thân vút vào màn đêm không nói một tiếng nào.
Đợi cho Vạn lão phu nhân khuất, Hồ Bất Sầu bước nhanh đến cạnh Phương Bửu Nhi, nhưng đi được mấy bước, y ngã quỵ xuống.
Thì ra, trong khi đối thoại với Vạn lão phu nhân, y quá sức khẩn trương, tinh thần căng thẳng cực độ, khí huyết ngưng đọng nặng nề, toàn thân như tê liệt, y vụt đứng lên bước vài bước, khí huyết chưa lưu hành như bình thường, thành ra y chới với rồi ngã xuống.Y phải vận ngầm nội công cho chân khí chuyển động quanh cơ thể một lượt để lấy thăng bằng, rồi đứng lên bước đi.
Tự lượng sức mình, biết là chẳng làm sao chống nổi Vạn lão phu nhân, không dùng sức được tất phải dùng mưu, y định mượn danh nghĩa người áo trắng để áp đảo tinh thần bà, nhưng bà lại đề cập đến chủ nhân chiếc thuyền buồm ngũ sắc, y chụp ngay cơ hội bịa luôn câu chuyện.
Sở dĩ y định mượn danh nghĩa của người áo trắng là vì sư phụ y dù sao cũng là một nhân vật hữu danh trên giang hồ, vừa trông thấy nhát kiếm trên cành cây liền biến sắc mặt. Nhát kiếm đó hẳn phải có cái nhiệm mầu siêu việt của nó. Rất có thể y dùng cành cây để lòe bà ta, y nghĩ tài nghệ của bà ta suýt soát với Bạch Tam Không, dĩ nhiên cũng phải sợ nhát kiếm của người áo trắng.
Y thành công, và hiện tại Vạn lão phu nhân đã bỏ đi, y và Phương Bửu Nhi không còn lo ngại vì bà ta nữa.
Y đến cạnh Phương Bửu Nhi, thấy hắn đờ người nằm bất động, y biết là hắn bị bà ta điểm huyệt. Vì cấp bách quá chẳng thể dần dà giải quyết ngay tại chỗ cho hắn, Hồ Bất Sầu cúi xuống bế xốc hấn lên, mang hắn phóng chân chạy đi.
Vượt được mấy dặm đường, y mới dám dừng chân lại, đưa mắt nhìn qua màn đêm, thấy dựa vách núi, có một cái động nhỏ, y liền bế Phương Bửu Nhi vào động đó, đặt hắn nằm xuống, giải khai huyệt đạo cho hắn.
Phương Bửu Nhi không am tường võ thuật, chẳng hiểu tại sao mình đang thư thái trong người, bỗng nhiên lại cứng đờ chẳng còn nhúc nhích được tay chân, thân thể như bị ngàn muôn lượt giây mây quấn quanh.
Tuy nhiên, tâm trí còn sáng suốt, không cử động được chứ hắn vẫn còn nghe, còn hiểu những gì xảy ra chung quanh, hắn nghe rõ cuộc đối thoại giữa Hồ Bất Sầu và Vạn lão phu nhân.
Giải huyệt cho Phương Bửu Nhi trở lại bình thường rồi, Hồ Bất Sầu dịu giọng hỏi hắn:
- Ngươi sợ hãi chăng?
Phương Bửu Nhi lắc đầu:
- Chết còn chẳng sợ, tôi sợ gì cái mụ tàn độc đó? Có điều tôi hết sức lấy làm lạ, mụ ta tàn độc là thế, giết người không chớp mắt, sao lại thấy cành cây vô giá trị tức khắc biến sắc mặt.
Hồ Bất Sầu mỉm cười:
- Sự tình dài dòng phức tạp lắm, trong phút giây ngắn ngủi, ta không thể nào tóm lược cho ngươi hiểu được. Khi nào rỗi rảnh ta sẽ giải thích cho.
Hắn trầm ngâm một chút, lại hỏi:
- Tại sao bà ta chỉ điểm nhẹ vào người tôi, tôi lại bất động liền?
Hồ Bất Sầu nhìn hắn:
- Đó là pháp điểm huyệt của con nhà võ. Nếu muốn tránh khỏi bị người điểm huyệt không gì bằng học võ.
Phương Bửu Nhi cười mỉa:
- Thúc thúc định nhân cơ hội này, thuyết phục cho tôi học võ phải không? Đừng! Đừng mong thúc thúc thành công! Chẳng bao giờ tôi học võ, dù có phải bị người điểm huyệt trăm lần, ngàn lần.
Hồ Bất sầu lắc đầu, thở ra không nói gì nữa. Y nhìn ra bên ngoài động, chăm chú hướng xuống dưới triền. Bỗng y quay nhìn Phương Bửu Nhi, vừa khoát tay vừa thì thầm:
- Bên dưới chúng ta có người, đừng gây tiếng động.
Rồi y nép sát mình xuống nền động, bò lần ra đến mép đá. Phương Bửu Nhi động tính hiếu kỳ, cũng bò theo kế bên y.
Cả hai thò nửa đầu ra khỏi mép động, vừa đủ nhìn xuống.
Bên dưới, tại một khoảng trống, nằm sâu trong vách núi, có bảy ngọn lửa, lửa cháy không do nhiên liệu cháy tự nhiên, như lửa thần lửa ma, lửa màu lam chẳng sáng lắm. Để ý nhìn kỹ tất thấy mỗi ngọn lửa bên trên một chiếc ống bằng đồng, bảy ngọn kết thành một vòng tròn khá rộng.
Khoảng cách từ ngọn này đến ngọn kia cũng khá xa. Nơi trung tâm vòng lửa có một người xếp bằng tròn, trong tư thế tham thiền nhập định.
Người đó vận chiếc áo bố, dĩ nhiên nhắm mắt, không rõ ngồi như thế được bao lâu rồi, bất động như tượng gỗ.
Phương Bửu Nhi hết sức lấy làm lạ, hỏi:
- Ngồi làm gì thế hở thúc thúc? Có lẽ y sợ lạnh nên đốt lửa chăng?
Hồ Bất Sầu lắc đầu:
- Không phải là người đâu!
Phương Bửu Nhi càng lấy làm lạ, nhướng mắt cố nhìn kỹ, bất giác a lên một tiếng, nhận ra không phải là người thật sự, mà chính là một pho tượng bằng gỗ, tay thợ nào đó chạm thành quả là một nhà nghề, tượng giống người thật như hai giọt nước.
Hắn lẩm bẩm:
- Tượng gỗ sao lại sợ lạnh, bởi sợ lạnh nên mới đốt lửa chứ? Kẻ nào đốt lửa sưởi ấm pho tượng, đúng là ngốc tử?
Tượng có dáng dấp không hiền. Giữa đêm khuya, dưới ánh lửa bập bùng, hình tượng đó hiện ra, dù ít nhiều cũng gieo khiếp đảm nơi lòng kẻ nào bất ngờ trông thấy. Hồ Bất Sầu thầm nghĩ:
- Không ai ngu dại gì bố trí cái cảnh đó không có lý do? Hẳn bên trong sự tình phải có điều gì bí ẩn cùng cực.
Đột nhiên, từ nơi cạnh núi gần đó có tiếng động vang lên rồi hai bóng người xuất hiện. Hai người đó bước đi rất nhanh. Thoạt trông, Hồ Bất Sầu biết ngay họ thuộc thành phần võ lâm.
Còn xa xa, họ hước nhanh họ cười nói, nhưng đến gần vùng lửa, họ chậm chân lại, bước rón rén, họ nín lặng, tỏ vẻ cung cung kính kính. Họ tiến đến từ từ, khi vừa đúng tầm đã định, bỗng họ cùng quỳ xuống.
Người bên tả cất giọng trầm trầm, thốt:
- Đinh Trọng Hoa và Đinh Bá Hoa, kính dâng bảy mươi hai món báu và bảy trăm lượng vàng ròng, cầu xin Thần Quân thu nhận!
Cả hai.hoành tay ra sau, lấy chiếc bọc mở ra tuông số báu vật và vàng ròng ngay trên khoảng đất trắng trước tượng gỗ.
Rồi cả hai cúi đầu, lạy lạy mấy lạy, đoạn đứng lên, quay mình trở lại, gương mặt lộ vẻ hân hoan như một đứa bé con vừa được người lớn khen tặng.
Làm được cái việc đó, họ thích thú như bình sanh chưa hc làm được một việc nào thích thú bằng, chẳng hề tiếc số báu vật và vàng ròng bỏ bừa bãi tại đó.
Lửa bập bùng, ánh sáng châu báu chiếu vàng, ngời sáng lên, xem ngoạn mục vô cùng.
Phương Bửu Nhi lấy làm lạ, thầm nghĩ:
- Họ điên hay họ ngốc? Mang bao nhiêu báu vật vàng ròng đến đây, cung cung kính kính hiến dâng cho một pho tượng gỗ, thế là nghĩa gì?
Đã vậy, lại còn nói năng lễ phép với pho tượng. Một pho tượng biết nghe sao? Một pho tượng biết sử dụng bạc vàng châu báu sao?
Chính Hồ Bất Sầu cũng kỳ quái như hắn.
Y còn lạ gì anh em Đinh Trọng Hoa và Đinh Bá Hoa, có ngoại hiệu Kim Tiễn Ngân Câu, là những tay hữu danh trong giới lục lâm làm cường đạo, từng làm mưa làm gió vùng Giang Chiếc, ai ai nghe nói song kiệt họ Đinh cũng đều xám mặt, vậy mà giờ đây, trước một pho tượng gỗ, họ lại cúi đầu bái phục, lại dâng hiến vàng bạc châu báu, tất phải có nguyên do.
Bỗng y chợt nhớ ra, khẽ ạ lên một tiếng, thầm nghĩ:
- Hay là tượng gỗ là biểu hiện của chủ nhân Thần Mộc Lịnh mà bảy ngọn lửa kia chính là Linh Phong Thần Hỏa, như Nhất Trận Phong đã tiết lộ?
Cả hai chú mắt nhìn xuống chỗ trũng, chờ xem sự tình có biến chuyển như thế nào nữa chăng.
Từ phút giây đó, lần lượt có nhiều toán người, có kẻ đi đơn độc, có người đi với bằng hữu. Phương Bửu Nhi đếm đúng mười bảy người rồi, người nào cũng có bọc theo bạc vàng, châu báu, cũng đổ tuôn ra trước tượng gỗ, cũng lạy, cũng khấn như anh em họ Đinh. Họ gồm cả nam lẫn nữ, đủ tác vóc.
Làm xong công việc đó, lúc trở ra về, người nào cũng lộ vẻ hân hoan, tưởng chừng bình sanh họ vừa làm được một việc hết sức quan trọng.
Mười bảy người đó, chẳng xa lạ gì với Hồ Bất Sầu, y biết rõ họ là những kẻ tham tàn, cướp đoạt của người thì có, chẳng bao giờ bố thí cho ai một vật nhỏ mọn nào, họ tham tàn như vậy, bỗng dưng lại mang gia tài cung hiến cho tượng gỗ, kể cũng là một sự hi hữu, chính vì cái lẽ hi hữu đó, Hồ Bất sầu mới nghĩ ngợi mông lung...
Quanh pho tượng gỗ, giờ đây có những đống bạc vàng châu báu chất thành đồi, đồi này liền mí với đồi kia, tạo thành một cảnh huy hoàng rực rỡ. Lửa vẫn cháy đều, lửa tỏa ánh sáng, chiếu ngời châu báu, từ trên trông xuống, Phương Bửu Nhi vừa lạ kỳ vừa thích thú, chưa bao giờ hắn mục kích một cảnh tượng thần bí huyền ảo như vậy.
Hắn tặc lưỡi nói:
- Chủ nhân tượng gỗ vắng mặt, bạc vàng châu báu lại để tung bừa bãi thư thế không sợ cường đạo đến cướp đoạt hết sao?
Cường đạo! Còn cường đạo nào nữa? Chính những tên cường đạo khét tiếng hung tàn, tham bạo mang báu vật đến đây, còn tên nào to gan dám cướp đoạt? Nếu có ý muốn cướp đoạt thì tội gì chúng lại mang tư sản của chúng, cung hiến cho kẻ khác.
Hồ Bất Sầu lắc đầu:
- Ta không hiểu nổi rồi! Nhưng...
Y chưa dứt câu, có giọng ca từ đâu đây văng vẳng vọng đến. Thoạt đầu nhỏ, dần dần to, lời ca thanh thoát, khẩu khí của kẻ từng sống với đồng tiền hạt gạo của nhân loại bốn phương trên khắp mọi nẻo đường, hiện lộ rõ rệt trong lời ca, khẩu khí của những kẻ vô câu thúc, khỏi lo cái ăn cái mặc, lấy trời đất làm nhà, dựa vào từ tâm nhân loại làm nguồn sống.
Lời ca dứt, ba bóng người xuất hiện, trong lớp áo lông chim chẳng rõ đúng thật bằng lông chim hay rách mướp giống lông chim, áo chằm vá trăm mảnh.
Ba người hành khất.
-
Là hành khất, họ có bị, có gậy, đặc biệt là ba người nầy có rất nhiêu bị, mỗi người ít nhất cũng mang sáu bảy bị.
Họ cùng lứa tuổi với nhau, vào trạc bốn mươi trên dưới.
Họ đi tới, khi đến gần, họ trố mắt nhìn đống bạc vàng, châu báu, họ sửng sốt thừ người, đứng lặng mồm há hốc, mắt trợn tròn.
Hồ Bất Sầu nhận ra ngay họ là những đệ tử thượng thặng của Cái Bang. Y biết luôn họ đến đây chẳng phải hiến dâng lễ vật, bất quá nhân lộ trình phải ngang qua đây, tình cờ bắt gặp cảnh này thôi, bởi họ kinh ngạc trước đống châu báu quá to lớn, tức nhiên cảnh tượng đó hiện đúng ngoài chỗ tưởng của họ.
Họ thừ người một lúc, rồi đưa ánh mắt nhìn nhau, trong số đó có một người ốm, một người mặt đầy nốt ruồi, một người thọt chân.
Người ốm, qua một lúc lâu, cất tiếng trước:
- Lão tứ, lão thất? Các ngươi thử đoán xem việc gì như thế này?
Người có nốt ruồi lắc đầu, buông một câu:
- Một tôn giáo bí mật nào trên giang hồ, bày cuộc tế lễ thần bí này?
Người chân thọt tặc lưỡi:
- Mang bao nhiêu báu vật, cung hiến cho quỷ thần ma mỵ hư vô, phiêu diêu. Hừ! Nếu không điên thì cũng chỉ là ngu. Trong thế gian sao lại có hạng người ngu thế?
Cả ba nhìn báu vật, rồi nhìn quanh.
Nằm tại mép động, Hồ Bất Sầu cơ hồ nín thở, dõi mắt theo từng cử chỉ của ba người hành khất bên dưới.
Người mang nốt ruồi nói:
- Bốn phía vắng lặng, chẳng có một tiếng động, chẳng có một bóng người...
Y dừng lại một chút, rồi tiếp:
- Nếu chúng ta thu dọn bao nhiêu báu vật này, thì... hay biết mấy!
Người chân thọt thốt:
- Những vật đó, thuộc về tượng gỗ, mà tượng gỗ là vật vô tri giác, tự nhiên không hưởng thọ được, chúng ta là kẻ hưởng thọ được, tại sao không hưởng thọ?
Người có rốt ruồi cười lớn:
- Ha ha! Người không hay, quỷ thần không biết. Còn ai truy rạ..
Y nhìn thoáng qua người ốm, hỏi:
- Nhị ca có ý kiến gì chẳng?
Người ốm trầm ngâm một chút:
- Có chắc là tượng gỗ hay không đó? Nếu là người thì sao?
Người có nốt ruồi mỉm cười:
- Muốn biết có đúng tượng gỗ hay là người, chúng ta cứ thử, khó khăn gì mà nhị ca phải thắc mắc?
Y cúi xuống, nhặt một hòn đá, khá to, nhắm đúng chiếc đầu tượng gỗ, vung tới.
Đã là tượng gỗ, tự nhiên không thể né tránh, chiếc đầu hứng trọn hòn đá đó, một tiếng bốp vang lên.
Đệ tử thượng thặng của Cái Bang hẳn phải có công lực hơn người.
Hòn đá đó được tung ra với toàn công phu tu vi, áp lực phải trên mấy trăm cân, dù vật cứng rắn đến đâu, chạm phải hòn đá cũng vỡ tan.
Nhưng chiếc đầu lâu vẫn còn nguyên vẹn, chỗ bị chạm chỉ xây xát một chút, chẳng thấy máu chảy. Không có máu chảy tức nhiên là một tượng gỗ, chứ chẳng phải người bằng xương bằng thịt.
Người chân thọt cười lớn:
- Đúng là tượng gỗ rồi?
Người ốm lại trầm ngâm một chút, lẩm nhẩm:
- Chỉ sợ bang chủ hay được...
Y nhìn đống châu báu, mắt chớp từng hồi, sau cùng y tặc lưỡi lắc đầu:
- Không thể bỏ qua! Dù bang chủ có hay dược thì...
Người có nốt ruồi vỗ tay bôm bốp:
- Nhị ca thông minh quá! Đáng phục nhị ca!
Cả ba nhún chân nhảy vọt tới, cạnh tượng gỗ.
Hồ Bất Sầu thầm nghĩ:
- Từng nghe quy luật của Cái Bang rất nghiêm, tại sao bọn này lại sanh lòng tham, thấy báu vật là tối mắt, quên đi chánh đạo giang hồ?
Bên dưới ba gã hành khất cùng bước qua vòng lửa, gã thọt chân nhanh hơn đồng bọn, vọt mình tới trước, chụp lấy một số châu báu, rồi hướng mắt thẳng vào tượng gỗ, bật cười ha hả thốt:
- Bằng hữu gỗ ơi! Đành vậy nhé, ba anh em ta tạm đỡ số châu báu này, chi dụng một thời gian, khi nào...
Y chưa dứt câu, bỗng y giật mình trố mắt, ngây người. Rồi bao nhiêu châu báu từ hai bàn tay rơi lộp độp xuống đất.
Người ốm và người có nốt ruồi lấy làm lạ, bước nhanh đến gần hấp tấp hỏi:
- Việc gì thế? Sao lạ vậy chứ!
Liền sau đó cả hai cũng giật mình, cũng trố mắt cũng ngây người.
Cả ba há hốc mồm ra, há rất lâu vẫn chưa khép lại.
Thì ra họ đã trông thấy đôi mắt nhắm nghiền của tượng gỗ, đột nhiên mở ra, đôi mắt đó bắn tinh quang sáng rực chiếu thẳng vào mặt cả ba, đôi mắt lạnh lùng ngời niềm oán độc.
Chẳng những ba gã hành khất kinh khiếp vô cùng mà Hồ Bất Sầu và Phương Bửu Nhi cũng hãi hùng không kém họ.
Bỗng người có nốt ruồi hét lớn:
- Ngươi là người trá hình làm thần, làm quỷ phải không?
Cả ba trấn định tinh thần, họ bình tĩnh rồi thì hung tánh nổi lên, người nào cũng vận công, chuyền nội lực vào hai tay, chính người có nốt ruồi nhào tới trước, tung một chưởng vào ngực tượng gỗ.
Chưởng lực đó nặng ít nhất cũng ngàn cân, nếu trúng đá, đá cũng phải vỡ, đừng nói là một tượng gỗ hay da thịt người.
Tượng gỗ không né tránh, mà cũng chẳng xuất thủ phản công.
Người có nốt ruồi cả mừng, cầm chắc thế nào tượng gỗ cũng phải nát dưới chưởng kình của y, hoặc giả nếu là người thật sự, người đó cũng phải nhừ như cám.
Một tiếng bịch vang lên, mường tượng tiếng một vật thể lao vào một tấm da căng phồng.
Tượng gỗ bất động, nhưng người có nốt ruồi lại bị chấn dội như quả cầu tung vào tường bật trở về, xa hơn vị trí chân chạm đất, y loạng choạng mấy lượt không gượng đứng được, ngã nhào.
Y cảm thấy khí huyết trong người nghịch chuyển, đôi cánh tay đau nhức vô cùng, mặt y xanh dờn.
Nếu tượng gỗ là một con người trá hình, tại sao lại không bị bắn đi, dưới chưởng kình của y? Tại sao tiếng chạm chỉ nghe bịch như lượt da phồng. Nhưng nếu không phải là người, sao đôi mắt lại tinh quang sáng rực?
Người chân thọt và người ốm kinh hãi hết sức, cả hai trố mắt nhìn tượng gỗ trừng trừng.
Lâu lắm, người có nốt ruồi cố lết tới gần run run giọng hỏi:
- Ngươi... ngươi... thật sự ngươi là người?
Tượng gỗ bất động.
Vừa lúc đó, từ sau lưng ba gã hành khất một giọng dịu dàng vọng đến:
- Đáng thương hại cho bọn trẻ con...
Âm thanh dịu như gió xuân, nhưng ba gã hành khất là những con chim bị tên, thấy cây cong là sợ, nghe tiếng động là giật mình, cùng quay lại phía hậu, thấy một lão phụ vừa lùn vừa mập đến độ tròn như quả cầu, tay tả đeo một tay nải, tay hữu nương trượng khập khễnh bước tới.
Phương Bửu Nhi nhận ra bà ta liền, hắn run sợ, thấp giọng kêu lên:
- Không xong rồi! Yêu phụ lại đến đây!
Bà ấy đúng là Vạn lão phu nhân, nếu Phương Bửu Nhi không mục kích hành động tàn độc của bà vừa rồi, hắn phải tin là bà ta hiền hơn Bồ Tát. Bà cười lạnh quá, bà nói hiền quá, dáng dấp của bà khệnh khạng, cái vẻ già nua đó nói lên một tâm tánh từ bi, bác ái vô lường.
Hắn rùng mình, không dám nhìn bà ta lâu, vội nhắm mắt lại.
Nhưng tuổi trẻ là tuổi háo kỳ, hắn không nhìn làm sao được? Nhắm mắt lại rồi hắn liền mở ra.
Vạn lão phu nhân khệnh khạng bước tới, vừa bước vừa lẩm bẩm:
- Đáng thương hại cho bọn trẻ con. Thật đáng thương hại!
Bà nói mãi, nói không ngừng. Chừng như từ tâm của bà bị kích động mãnh liệt, bà phải nói, nói cho dịu bớt niềm kích động.
Cuối cùng bà đến trước mặt ba gã hành khất.
Người có nốt ruồi chịu không nổi cái vẻ đạo đức của bà ta, hét to:
- Bọn trẻ con nào đáng thương hại mà bà cứ lải nhải thế?
Vạn lão phu nhân nhìn gã, thở dài:
- Trẻ con là ngươi đó!
Người có nốt ruồi thoáng giật mình, song sôi giận lên liền:
- Cái bà này có lẽ điên rồi? Ta có gì mà bà phải thương hại chứ?
Vạn lão phu nhân lại thở dài:
- Ta thương hại vì ngươi chẳng sống nổi qua ba khắc thời gian nữa?
Người có nốt ruồi nói lớn:
- Câm ngay!
Vạn lão phu nhân thong thả tiếp:
- Ngươi đừng tưởng ta nói ngoa, ngươi đã trúng phải Khô Mộc Thần Công, phàm ai trúng phải Khô Mộc Thần Công thì đừng hòng sống sót quá ba khắc, hiện tại ngươi cầm như chờ chết mà không hay, nên ta thương hại cho ngươi đấy!
Ba gã hành khất đột nhiên biến sắc, cùng cất giọng run run kêu lên:
- Khô Mộc Thần Công?...
Cả ba quay đầu lại nhìn tượng gỗ, mặt lộ vẻ kinh khiếp rõ rệt.
Phương Bửu Nhi thấy cả ba trước thì hùng hổ, giờ đây lại sợ hãi cùng cực lấy làm lạ, thầm nghĩ:
- Khô Mộc Thần Công là cái gì? Tại sao nghe nói đến thần công đó, ba gã hành khất lại sợ hãi như thế?
Hồ Bất Sầu vụt đưa tay nắm bàn tay hắn, lòng bàn tay của họ Hồ đẫm ướt mồ hôi lạnh.
Hắn kinh dị quay sang họ Hồ, thấy y cũng sợ hãi như ba gã hành khất, hắn càng kinh dị hơn nữa.
Không đợi Phương Bửu Nhi hỏi, Hồ Bất Sầu rỉ bên tai hắn:
- Khô Mộc Thần Công là một môn võ công trong số bảy môn võ công tuyệt đỉnh thất truyền từ lâu, thuộc về Ma Giáo. Phàm người luyện môn công đó, đều tuyệt diệt lục dục thất tình, trở thành như gỗ như đá, do đó vượt ra ngoài đạo lý của thế nhân. Theo ta nhận xét thì tượng kia, chẳng phải là tượng gỗ đâu, như ta đã nghĩ lúc đầu, mà là một người đã luyện được Khô Mộc Thần Công đến bảy tám thành rồi. Toàn thân mất hẳn cảm giác, chẳng khác nào một khúc gỗ, đao kiếm thường không thể gây thương tổn được. Gã hành khất có nốt ruồi ngông cuồng chạm phải người đó, cầm như mất mạng không thể sống sót nổi. Chúng ta phải hết sức cẩn thận, nếu để y phát hiện thì kể như đi đời.
Bên dưới ba gã hành khất thừ người, đứng đờ ra chẳng khác nào ba tượng gỗ, cũng như tượng gỗ đang ngồi xếp bằng tròn bất động giữa trung tâm vòng lửa.
Một lúc sau, người có nối ruồi bỗng hự lên một tiếng to, rồi ọc ra một búng máu, ngã nhào.
Thương thế đến bây giờ mới phát tác, đủ biết cái độ âm nhu của lực đạo do môn Khô Mộc Thần Công phát huy.
Vạn lão phu nhân lắc đầu, thở dài:
- Xong rồi! Đáng thương hại quá. Ta nói không sai mà! Chẳng thể nào sống nổi quá ba khắc thời gian!
Bà tặc lưỡi tỏ vẻ tiếc thương. Bà ta làm như từ bi bác ái đến độ thương xót cả một con kiến chẳng nỡ đạp nhầm.
Phương Bửu Nhi thấy thái độ của bà, hắn hết sức khinh miệt.
Người thọt chân và người ốm xanh mặt, cùng rú lên một tràng kinh thảm, cùng cúi xuống soát khắp thân thể của người có nốt ruồi, cố ý tìm một thương tích, chỉ thấy gương mặt của nạn nhân tím đen lại, hơi thở của y đã đứt.
Bất giác cả hai bật khóc.
Vạn lão phu nhân lại thở dài:
- Các ngươi đến bây giờ mới biết xót thương đồng bạn à? Có cái chết nào lại chẳng gây thương tâm? Song, nghĩ cho kỹ, sống cũng không có thú vị gì, ai được chết sớm, cầm như giải thoát sớm. Nghe theo ta. nên đào huyệt vùi xác kẻ bạc mạng đi, ta sẽ giúp một tay, làm cho chóng xong việc.
Bà đổi tay tả cầm trượng, còn tay hữu mò mò trong túi.
Phượng Bửu Nhi kinh hãi thầm nghĩ:
- Nguy! Nguy cho hai gã đó rồi! Bà ta lại định dùng hạt đào, hạt hạnh nhân, hạt mai, giết người nữa rồi!
Vừa lúc đó, tượng gỗ vụt mở miệng:
- Việc của Mộc Lang Quân, người ngoài không được can thiệp vào!
Giọng nói hết sức lạnh lùng, hết sức tàn khốc. Từng tiếng nói buông rõ như tiếng mõ nện giữa canh trường vắng lặng, dội vào tai người như những tiếng búa đập.
Giọng nói chẳng còn một điểm âm thanh của con người mà là một vật thể ngân ra.
Vạn lão phu nhân cười nhẹ, gật đầu:
- Cũng được!
Mộc Lang Quân lạnh lùng gọi:
- Đệ tử Cái Bang bước lại đây!
Dù đang đau đớn về cái chết thảm của bạn đồng môn, người chân thọt và người ốm trước môn Thần Công siêu đẳng của Mộc Lang Quân, chẳng dám chẳng vâng lời, cùng đứng lên, cùng từ từ bước đến trước mặt lão.
Mộc Lang Quân nghiêm giọng:
- Nể mặt Gia Cát Thông, ta tha chết cho hai ngươi!
Người chân thọt và người ốm mừng rỡ, đồng thốt:
- Đa tạ tiền bối mở đức hải hà!
Mộc Lang Quân lạnh lùng tiếp:
- Các ngươi đã dùng tay hữu hốt châu báu của ta, hãy chặt cánh tay đó, để lại đây rồi tự do ra đi!
Người chân thọt và người ốm xanh mặt run bắn mình, mồ hôi đượm quanh trán, mồ hôi đẫm ướt lưng, họ ấp úng:
- Tiền bối... đã thương xin thương cho trót, đã nể mặt bang chủ chúng tôi, xin nể trọn niềm tha cho chúng tôi được toàn vẹn...
Mộc Lang Quân thản nhiên:
- Ta nói lần thứ hai, chặt cánh tay tận vai!
Người thọt chân và người ốm càng run hơn:
- Tiền bối... tiền bối...
Mộc Lang Quân vẫn thản nhiên:
.
- Ta nói lần thứ ba, cắt luôn hai vành tai các ngươi!
Người chân thọt và người ốm càng run rẩy hơn, đôi chân nhũn lại ngã sụm xuống tại chỗ, mặt họ trắng nhợt, chằng còn một hạt máu.
Phương Bửu Nhi cũng lạnh người, chẳng khác chính hắn ở trong cuộc, lòng bàn tay của hắn ướt lạnh.
Vạn lão phu nhân thở dài, dịu giọng thốt:
- Ta khuyên các ngươi một câu nhé, đừng kêu ca van nài gì nữa. Nếu cứ nói mãi, đôi chân các ngươi cũng đứt luôn, cả chiếc đầu cũng chẳng còn nằm yên trên cổ.
Bà tặc lưỡi, tiếp nói:
- Mỗi một tiếng van xin là mỗi một bộ phận trên người các ngươi đứt lìa thân thể, hãy nhận chịu số phận đi!
Hai gã hành khất biết là bà ta không nói ngoa, vội rút chủy thủ trong mình ra, tự chặt tay hữu, tự thẻo vành tai.
Có lẽ bình thường, họ giết người rất diệu tay, ngọt đao, nhưng hiện tại họ lúng túng thấy rõ, bởi họ quá run sợ, tay cầm trủy thủ hầu như cầm một hòn núi, nghe nặng làm sao!
Chặt cánh tay xem chừng dễ hơn, đến khi xẻo tai, họ cứa đến mấy lượt, vành tai mới đứt, mặc dù thanh trủy thủ sắc bén vô cùng.
Trong lúc hai gã hành khất tự hủy đi mấy bộ phận thân thể của họ, Vạn lão phu nhân luôn luôn tặc lưỡi, luôn luôn lắc đầu, luôn luôn buồn thảm:
- Đáng thương hại quá! Đáng thương bọn trẻ con quá!....
Đột nhiên bà vung trượng lên, từ nơi đầu trượng ló ra một vật nhọn, dài độ ba thước...
Chiếc trượng dài độ chín thước, thêm một vật nhọn đó, chiều dài của chiếc trượng tăng lên, nghiễm nhiên thành một chiếc sào.
Sử dụng một chiếc sào dài như vậy, dĩ nhiên bà khỏi cần xê dịch cũng đâm trúng hai gã hành khất ở trong khoảng cách rất vừa tầm.
Và hiện tại, vật nhọn cắm nơi đầu trượng sắp sửa đâm vào đầu hai gã hành khất.
Bà muốn hạ sát họ? Tại sao bà có ý định đó?
-
Nhưng hai gã hành khất trông thấy kịp, họ rú lên một tiếng kinh khiếp, nghiêng mình vọt lên theo một góc độ thuận lợi, tránh mũi nhọn của Vạn lão phu nhân rồi đáp xuống đất, không còn nghĩ đến xác đồng bạn nằm phơi lộ dưới sương đêm, mang thân vấy máu chạy bay xuống núi.
Vạn lão phu nhân đã thu chiếc trượng về, mũi nhọn cũng thụt vào thân trượng, bà nhìn hai cánh tay, bốn vành tai đổ máu trên mặt đất lắc đầu thở dài:
- Già rồi? Ta đã già quá rồi? Thủ pháp không còn linh hoạt như xưa.
Rồi bà đưa lay vào túi, lấy ra một quả ô mai bỏ vào miệng nhai ngon lành, không vì thấy máu trước mặt mà gớm.
Trước đó, khi Vạn lão phu nhân tung ám khí hạ sát bọn Phấn Bưu, Thiết Hổ và Nhất Trận Phong, Hồ Bất Sầu chỉ nghĩ là bà ta sở trường ám toán giết người trong lúc bất ngờ, giờ đây thấy bà vung trượng hết sức nhanh, y mới thức ngộ là bà có võ công kỳ diệu.
Y còn biết thêm là chiếc trượng của bà, xem thì thông thường như bao nhiêu chiếc trượng trên đời, song thật ra, là một loại vũ khí hết sức lợi hại với bao nhiêu ám khí chứa đựng bên trong. Đúng là một vũ khí ngoại môn độc nhất vô nhị trong võ lâm.
Mộc Lang Quân hừ một tiếng lạnh lùng nói:
- Ai bảo ngươi xuất thủ?
Vạn lão phu nhân điểm nụ cười:
- Người ta thường nói, không ai nỡ xuống tay đối với kẻ đang cười tươi được, cũng như không ai nỡ khước từ cái hảo ý của kẻ khác mang đến cho mình. Già từ xa mang lễ vật đến đây cung hiến cho Thần Quân, chẳng lẽ Thần Quân lại bắt tội vì một phút vui hay sao?
Mộc Lang Quân lại hừ một tiếng.
Vạn lão phu nhân hoành tay để chiếc bọc nơi vai xuống, vừa mở bọc vừa thốt:
- Nếu Thần Quân cho là không xứng đáng, già sẽ trở về thu góp thêm!
Phương Bửu Nhi không cần phải nhìn kỹ cũng thừa hiểu những món đó do bà ta đoạt nơi tay ba tên cường đạo, hắn giương tròn mắt nhìn xem Mộc Lang Quân có thái độ gì.
Bỗng Mộc Lang Quân vụt đứng lên, gương mặt của lão bốc ra một vầng thanh khí.
Vạn lão phu nhân trông thấy vầng thanh khí đó biến sắc mặt, song bà ta lấy ngay bình tĩnh điểm nhẹ một nụ cười:
- Thần Quân định làm gì?
Mộc Lang Quân từ từ buông từng tiếng một:
- Ai bảo ngươi đến đây? Đến đây để làm gì?
Vạn lão phu nhân giương tròn mắt:
- Làm gì? Làm gì?...
Mộc Lang Quân cười lạnh:
- Đừng vờ cái vẻ từ cung trăng rơi xuống!
Tràng cười lạnh của lão càng lúc càng vang, lớn âm thanh gieo cái rợn chẳng những cho Vạn lão phu nhân mà đến cả Hồ Bất Sầu và Phương Bửu Nhi là những kẻ ngoài cuộc, vô can vẫn hãi hùng như thường. Tràng cười nhói tai họ còn hơn một tiếng sét bất ngờ.
Tuy nhiên, chừng như có chủ trương vững, Vạn lão phu nhân qua phút giây giật mình, lấy lại bình tĩnh ngay, cũng bật cười lạnh nhưng chẳng to bằng đối tượng:
- Thần Quân nói gì, già chẳng hiểu sao cả! Già nhận thấy mình thành thật quá, lòng nghĩ sao, thái độ biểu hiện làm vậy, có gì vờ vĩnh đâu?
Dù cười lạnh, bà vẫn ngơ ngơ ngác ngác, thần tình nửa lấy làm lạ nửa sợ sệt, bất an.
Mộc Lang Quân trầm giọng:
- Tiện phụ họ Thủy kia, ngươi có biết là bổn tòa dùng Thần Mộc Lịnh điều động quần hùng cống hiến lễ vật làm lễ ra mắt Thuyền chủ Ngũ sắc Phàm chăng? Ngươi bắt được tin đó ở đâu rồi định đến đây phỗng tay trên ta?
Hồ Bất Sầu kinh hãi thầm nghĩ:
- Thì ra, sự việc này có liên quan đến vị thuyền chủ mà ta sắp sửa tìm đến bái kiến theo sự ủy thác của sư phó!
Bỗng Vạn lão phu nhân đổi thái độ, từ cái vẻ ngơ ngơ ngác ngác, bà ta trở nên cao ngạo, và có ý khiêu khích rõ rệt:
- Lời truyền thuyết trên giang hồ cho rằng Mộc Lang Quân toàn thân như gỗ, riêng chỉ có quả tim thì chưa thành gỗ, lời truyền thuyết đó chẳng ngoa tí nào, bởi còn quả tim con người nên Thần Quân nghi ngờ thiện ý của ta.
Mộc Lang Quân bật cười ha hả:
- Bổn tòa chẳng hề truyền lệnh đến ngươi, ngươi lại tự dấn thân đến đây, dĩ nhiên là phải có lý do chứ! Và cái lý do thầm kín của ngươi được che đậy bằng cái lý do thông thường, là ngươi cũng mượn cớ cống hiến báu vật cho ta để được đến đây. Ngươi định lấy mồi nhỏ nhử con cá lớn phải chăng?
Lão bước tới mấy bước, vượt khối đống châu báu, chân và tay lão xem thì cứng đờ như gỗ nhưng động tác của lão nhanh vô cùng, trên mức linh hoạt thường.
Vạn lão phu nhân thở dài:
- Già đã bị Thần Quân khám phá tâm tư, giờ chỉ còn mong Thần Quân dung thứ cho thôi!
Bà chống đầu trượng xuống đất, nương thế nhảy vọt tới.
Phương Bửu Nhi thầm nghĩ:
- Bà này lại thừa lúc người ta không phòng bị đột kích đây!
Hắn chưa nghĩ tròn ý, thì bên dưới, Vạn lão phu nhân vừa chấm chân xuống đất, đầu trượng đã cất lên, ngang tầm Mộc Lang Quân bất thình lình bà đâm tới.
Dĩ nhiễn mũi nhọn cũng ló ra như lúc bà định hạ sát hai gã hành khất.
Một chiếc trượng dài chín thước, cộng với ba thước của mũi nhọn, thừa chạm vào người Mộc Lang Quân, gia dĩ bà đâm nhanh hơn con rắn độc thè lưỡi. Thân pháp của bà lại ảo diệu, tuy với một mũi nhọn bà đâm tới hầu như trên dưới tả hữu đều có đủ, phong tỏa hẳn đối phương trong vị trí chẳng cho xê dịch qua bên, hoặc tung lên hụp xuống.
Dù cho mũi nhọn đó không trúng đích đi nữa, ít nhất bà cũng được cái lợi là đối phương chẳng nhập nội được. Địch tay không, lại chẳng nhập nội được, thì làm gì bà nổi, rồi nhân dó bà cứ đảo lộn chiếc trượng cầm chân địch trong một khoảng cách an toàn, tránh được cái hại, thong thả thừa cơ hội nắm cái lợi.
Hồ Bất Sầu thấy thế giật mình thầm nghĩ:
- Bà ta quả lợi hại thật! Dùng vũ khí dài, lại xuất thế công trước, giữ được khoảng cách an toàn, chẳng sợ địch nhập nội, khởi đầu cuộc giao thủ đã nắm cái ưu vị rồi, dù đối phương có xoay chiều cục diện cũng còn lâu!
Nhưng Mộc Lang Quân nào phải tay vừa. Mũi nhọn của Vạn lão phu nhân linh hoạt ảo diệu đến đâu, thân pháp của lão cũng nhanh nhẹn chẳng kém. Lạ một điều là dù xê dịch cách nào, dù động tác trong giác độ nào, thân hình lão cũng vẫn cứng đơ như tượng gỗ.
Trong thoáng mắt, chẳng rõ Vạn lão phu nhân đã xuất phát được bao nhiêu thức, chính Hồ Bất Sầu là tay khá mà cũng chẳng nhận định kịp, bỗng nghe Mộc Lang Quân hét lên một tiếng lớn trụ bộ lại đứng bất động.
Vạn lão phu nhân cũng trụ bộ, bất động.
Chiếc trượng chong ngay ngực Mộc Lang Quân trong khoảng cách độ ba tấc, nhưng chẳng phải do bà chống thẳng, hòng phóng tới nếu cần, mà chính do Mộc Lang Quân giữ khoảng cách đó.
Không rõ lão xuất thủ cách nào, bàn tay của lão đang nắm cứng mũi nhọn, bàn tay đó chẳng hề bị thương tổn qua ánh chớp rùng rợn của mũi nhọn.
Vạn lão phu nhân lộ hẳn vẻ hãi hùng trên gương mặt. Bà ta không tưởng là Mộc Lang Quân dám dùng tay không chụp vũ khí của bà, bà càng không tưởng hơn nữa là chiêu thức tiến công của bà lại bị địch phong tỏa quá dễ dàng như vậy.
Tuy tạp niệm đột hiện trong tâm tư, Vạn lão phu nhân không vì sự hoang mang hãi hùng đó mà chậm phản ứng, vừa trụ bộ nhận ra vũ khí bị kềm chế, lập tức bà giật mạnh tay lại, vũ khí theo đà tay thu về, Mộc Lang Quân chừng như cũng chỉ chờ có thế nên đối phương vừa nhích động cánh tay, lão buông tay liền, đối phương vừa lùi lại một bước lão cũng vừa tiến lên nhập nội.
Lão nhập nội khoảng cách thu hẹp, chiếc trượng dài hơn mười thước trở thành vô dụng, vũ khí vô dụng thì người cầm nó phải lúng túng ngay.
Vừa nhập nội, Mộc Lang Quân xuất chưởng giáng xuống vai tả của Vạn lão phu nhân liền.
Hồ Bất Sầu dù là một cao đồ của Thanh Bình Kiếm Khách Bạch Tam Không vẫn phải thán phục thân pháp và thủ pháp của Mộc Lang Quân. Tài nghệ đó ít nhất cũng ngang hàng với sư phó y trở lên, và như vậy là y chưa có thể sánh mình được. Dù muốn dù không, y cũng nhận thấy với những gì thọ huấn nơi sư phó, y chưa đủ mang ra sử dụng trên bước giang hồ.
Y hết sức lo sợ cho Vạn lão phu nhân, đã từ cái thế chủ động trở về thế thụ động, và trong một cuộc ác chiến, chỉ thụ động một giây thôi cũng đủ giúp cho địch chuyển nguy thành an, chuyển bại thành thắng.
Hiện tại, bà ta mất cả ưu thế, và sắp rơi vào thảm bại, bởi ỷ vào vũ khí trong khi địch tay không, mà còn chẳng làm gì được. Khi địch nhập nội rồi, vũ khí vô dụng, bà ta còn hy vọng gì nữa?
Trong tình trạng đó, nếu bà tiếc rẻ chiếc trượng, chẳng chịu bỏ đi thì chẳng những bà giữ một vật thừa vướng bận, mà còn mất hết một cánh tay, trong khi địch có đủ hai tay.
Mộc Lang Quân tiến tới, ngoài tay chưởng giáng xuống vai tả của bà, lão còn phát động một đạo âm nhu kình lực cuồn cuộn dồn tới, kình lực đó càng lúc càng mãnh liệt, càng mãnh liệt càng hiện màu xanh dờn, màu xanh chớp chớp dợn dợn như sóng nước đuổi nhau, dưới ánh dương quang chiếu sáng.
Ở đây, đang đêm thiếu vắng ánh dương quang, thì còn có ánh sáng của bảy ngọn đèn. Mộc Lang Quân chập chờn trong ánh sáng kỳ diệu đó, trông huyền huyền ảo ảo vừa kỳ bí, vừa rùng rợn, chẳng khác nào một ác quỷ, một hung thần đang tác oai, tác phúc.
Dĩ nhiên, Vạn lão phu nhân phải sợ hãi vô cùng. Có lẽ bà ta đã ước độ bản lãnh của đối phương quá thấp, giờ đây bà mục kích tài nghệ siêu nhiên của lão, bà mới nhận thấy dấn thân đến nơi này là một sự liều.
Nhưng không phải với nhận xét đó, Vạn lão phu nhân nao núng. Dù sao thì bà cũng là một vị tiền bối cao tuổi đời, cao tuổi giang hồ, gặp hoàn cảnh khó nào, bà cũng thừa sức hóa giải, có khi nào bà chịu khoanh tay thọ nhận thảm bại?
Nhận thấy không còn tránh né kịp trong cơn nguy cấp, Vạn lão phu nhân phải liều, bà hạ nhanh đầu chiếc trượng chỏi mặt đất nhún chân, nương theo cái chỏi đó, tung người lên không theo một góc độ đã tính toán kỹ, vừa nhích khỏi tầm chưởng của địch, vừa vượt qua đầu Mộc Lang Quân, thân hình uốn cầu vồng, đáp xuống phía hậu.
Thoạt đầu, Phương Bửu Nhi thấy Mộc Lang Quân dồn bà ta vào nguy cảnh, hắn nhất định chẳng bao giờ bà ta thoát khỏi thủ đoạn của Mộc Lang Quân. Hắn mừng ra mặt và thầm nhủ:
- Yêu bà thế nào cũng mất mạng. Phải chứ, tạo hóa chí công có khi nào lại để cho một nữ lão ma đầu ung dung hưởng an nhàn trong ngày tàn. Kẻ gây nhiều tội ác phải đền tội ác, không sớm thì muộn, như vậy mới hợp lý chứ.
Nhưng hắn chưa mừng lâu thì chỉ một cái vọt đó, Vạn lão phu nhân đã thoát ra khỏi vòng kiềm tỏa của Mộc Lang Quân dễ dàng. Từ cái nguy, bà nắm được cái an. Rất có thể nhân cái an đó, bà sẽ nắm luôn phần chủ động tình hình.
Phương Bửu Nhi vừa mừng đó lại lo liền đó. Chẳng phải hắn lo cho sinh mạng của Mộc Lang Quân mà hắn tiếc cái cơ hội ngàn năm một thưở. Mất cơ hội này Vạn lão phu nhân sẽ sống thêm một thời gian.
Trong thời gian đó bà ta sẽ sát hại bao nhiêu mạng người nữa, dù những nạn nhân trước đó và sau này chỉ là những tay đại cường đạo đáng chết cả.
Mộc Lang Quân hụt chưởng đó, cấp tốc thu tay về, quay mình nửa vòng đối diện với Vạn lão phu nhân.
Vừa đáp xuống đất, Vạn lão phu nhân gạt mạnh tay, chiếc trượng vụt gãy làm hai đoạn, tuy gãy làm hai đoạn nhưng chẳng rời nhau, như còn dính chung bởi một làn da mỏng. Nơi hai đầu đoạn gãy, hai đợt khói đen bắn ra.
Trong thoáng mắt đã tỏa rộng, bao bọc quanh mình bà. Vầng khói lớn dần, từ trong làn khói có một đạo ngân quang xẹt tới Mộc Lang Quân.
Đạo ngân quang đó, chính là chiếc trượng có mũi nhọn do Vạn lão phu nhân nấp trong vầng khói, đâm tới nhắm đúng ngực đối phương.
Đúng như chỗ lo ngại của Phương Bửu Nhi, thoát khỏi cái nguy, bà ta trở về vị trí an toàn, dành phần chủ động. Rất có thể bà sẽ đoạt lại lợi thế đã mất.
Hắn buột miệng kêu lên:
- Không xong!....
Chính lúc đó, Mộc Lang Quân ngã người, nằm dài trên mặt đất.
Hắn tưởng đâu lão bị đạo ngân quang đó chạm phải, hắn lo sợ cho lão, vì quá lo sợ thành ra líu lưỡi không thốt nên lời, dứt trọn câu.
Hắn đưa mắt nhìn sang Vạn lão phu nhân, thấy bà đã nhảy vọt ra xa ngoài mười trượng, bà cười hì hì thốt:
- Đừng hy vọng chạm đến ta, Thần Quân ạ! Ít nhất ta cũng có bảy mươi hai cách biến hóa thừa ứng phó mọi biến chuyển bất ngờ, không ai làm gì thương tổn đến ta nổi.
Câu nói vừa dứt, bà ta đã biến mất luôn.
Hồ Bất Sầu hết sức kinh khiếp trước thuật khinh công của bà.
Còn Phương Bửu Nhi thừ người ra, tắc lưỡi thở dài than:
- Đáng tiếc! Đáng tiếc! Yêu bà đã thoát chết rồi! Nhưng lão già lại chết!
Bỗng Mộc Lang Quân vụt đứng lên, ngẩng mặt nhìn về phía hắn và Hồ Bất Sầu, ánh mắt của lão sắc lạnh vô tưởng, lão cất giọng cũng lạnh lùng vô tưởng, nói:
- Xuống đây!
Phương Bửu Nhi xám mặt run run giọng rỉ bên tai Hồ Bất Sầu:
- Lão ấy... không chết? Lão đã phát hiện ra chúng ta?
Hồ Bất Sầu thở dài:
- Một ngọn chưởng như thế làm gì nổi lão?
Phương Bửu Nhi sanh tính quật cường:
- Mình không xuống dưới xem lão làm gì mình!
Hồ Bất Sầu cười khổ:
- Vô ích. Không xuống cũng chẳng xong, mà dù có chạy đi cũng chẳng thoát, nên tuân theo lời lão là hơn!
Y còn nói gì, cái họa đêm nay, nếu có, thì cũng do Phương Bửu Nhi tạo nên, giả sử hắn cứ tuân theo lời y, đừng lên tiếng, làm sao Mộc Lang Quân biết được cả hai đang nấp trong động, theo dõi mọi biến chuyển bên dưới? Bây giờ sự việc đã như thế rồi, có trách hắn cũng vô ích. Y điểm một nụ cười vòng tay ôm hắn, kẹp vào nách, nhún chân nhảy xuống.
Cửa động cách bên dưới hơn trượng, trong một phút y đã đáp xuống trước mặt Mộc Lang Quân.
Mộc Lang Quân nhìn cả hai một thoáng đoạn đưa tay vẫy Phương Bửu Nhi:
- Tiểu tử bước lại đây!
Hồ Bất Sầu toan đáp, Phương Bửu Nhi đã cất tiếng:
- Bước tới đó để làm gì?
Mộc Lang Quân cười lạnh:
- Chính ngươi đã kêu lên vừa rồi, bên trên động, phải chăng?
Phương Bửu Nhi đảo mắt nhìn quanh cục trường một lượt, hừ nhẹ:
- Phải! Rồi có sao không?
Mộc Lang Quân từ từ bước tới gần Phương Bửu Nhi, gương mặt lão lạnh như tiền, không thể biết rõ lão đến với thiện ý hay ác ý.
Phương Bửu Nhi điềm nhiên chẳng tỏ vẻ gì sợ sệt cả, hắn trừng mắt ưỡn ngực bất động.
Hắn điềm nhiên nhưng Hồ Bất Sầu thầm kêu khổ, dù biết là khổ, y vẫn chẳng làm sao được, phải đánh liều mặc cho sự việc xảy ra như thế nào, cam nhận thế ấy.
Mộc Lang Quân vụt nhếch môi cười nhẹ, nụ cười giảm bớt phần giá lạnh của gương mặt lão.
Phương Bửu Nhi lấy làm lạ hỏi:
- Ngươi cười chi?
Mộc lang Quân cười to tiếng :
- Bình sanh bổn tòa giết người không đếm, thiên hạ giang hồ đều oán hận. Ai ai cũng muốn bổn tòa chết đi, chết gấp, chết bằng mọi cách.
Song bổn tòa vẫn sống dai, thiên hạ giang hồ càng thêm oán hận.
Chẳng một ai trông thấy bổn tòa thoát chết mà vui mừng. Chỉ có ngươi, vừa rồi ta đã lâm nguy dưới ngọn trượng của lão yêu bà họ Vạn, ngươi lại lo sợ cho ta, ngươi kêu lên tỏ ý tiếc thương ta. Ngươi là kẻ duy nhất biết thương hại ta, mà bình sanh ta mới gặp một kẻ biết thương tiếc ta.
Ta cao hứng, ta cười...
Lão cười lớn hơn, cười thích thú.
Lão cười nhức, gương mặt lão bớt lạnh nhạt, nhưng lúc lão cười lớn, gương mặt lão đáng sợ vô cùng, còn đáng sợ hơn lúc lão lạnh lùng.
Dù lão cười nhẹ, dù lão cười lớn ánh mắt của lão vẫn lạnh, ánh mắt đó phản ngược với nụ cười, tiết lộ rõ rệt tâm trạng của lão, tiết lộ luôn nụ cười man trá.
Dù ai muốn dựa vào nụ cười đặt một niềm tin mong manh nơi lão, cũng chẳng tin nổi.
Bỗng, lão ngưng bặt tiếng cười, trầm lạnh gương mặt, trầm lạnh giọng nói, quắc mắt nhìn Hồ Bất Sầu nói:
- Ngươi là ai?
Phương Bửu Nhi đứng trước mặt Hồ Bất Sầu trừng mắt hớt đáp:
- Thúc thúc của ta đấy!
Mộc Lang Quân hừ một tiếng:
- Ngươi nấp trong chỗ kín nhìn trộm hành động của ta, tội ngươi đáng chết, song ta nể mặt tiểu tử tạm dung tha cho ngươi. Hãy thu xếp những vật dụng của ngươi rồi theo ta đến yết kiến thuyền chủ Ngũ Sắc Phàm.
Phương Bửu Nhi kêu to:
- Ai muốn theo ngươi mà hòng bảo?
Mộc Lang Quân từ từ thốt:
- Ta có cái ý muốn thu nhận ngươi làm đệ tử, ngươi hãy theo ta, đừng hỏi lôi thôi gì cả, nên nhớ phải vâng lời ta mới bảo toàn được tánh mạng.
Phương Bửu Nhi thét lên:
- Ta chẳng muốn học võ. Ta chẳng muốn nhận ngươi làm sư phụ!
Mộc Lang Quân cười lạnh:
- Trong thiên hạ, chẳng biết bao nhiêu người quỳ trước mặt ta van cầu ta thu nhận làm môn đồ mà ta đều từ chối, giờ đây chính ta tỏ ý muốn thu nhận ngươi, chẳng bởi ngươi van cầu, như vậy là một đại hạnh cho ngươi đó, đừng cự tuyệt, vừa mất dịp may cho ngươi, vừa chọc giận ta, chẳng ích lợi gì đâu!
Phương Bửu Nhi hét to hơn:
- Ta cự tuyệt.
Nhưng Hồ Bất Sầu khẽ kéo chéo áo hắn, giật nhẹ, bảo:
- Thần Quân đã có ý tốt, ngươi chẳng nên từ khước.
Chuyến viễn hành này, Hồ Bất sầu lãnh sứ mạng của sư phó, tìm cho được thuyền chủ Ngũ Sắc Phàm, mà y thì chẳng biết thuyền chủ ở đâu. Nghe Mộc Lang Quân nói là y mang lễ vật đến bái kiến thuyền chủ, y cho là một dịp vô cùng may mắn. Tại sao không giả vờ ưng thuận để tháp tùng theo lão đến gặp thuyền chủ?
Bởi nghĩ vậy, y mới khuyên Phương Bửu Nhi đừng cự tuyệt. Bất quá tạm thời ưng thuận theo lão, vừa giải thoát cảnh nguy hiện tại, vừa được việc mình, thiết tưởng biến phải tùng quyền, y cần lợi dụng cơ hội lắm chứ?
Mộc Lang Quân gật đầu:
- Ngươi nghĩ phải đó!
Hồ Bất Sầu tiếp nối:
-
- Nếu dọc đường, ngươi cứ càu nhàu, tỏ vẻ ương ngạnh, Thần Quân không thu nhận ngươi đâu nhé!
Trong khi Mộc Lang Quân mỉm cười thì Phương Bửu Nhi lại nghĩ:
- Chắc gì dọc đường ta mọi việc đều nghe theo ngươi? Để rồi ta kiếm chuyện chống đối ngươi, xem ngươi sẽ làm gì được ta!
Hắn không thể cự tuyệt đi theo Mộc Lang Quân, vì Hồ Bất Sầu đã đồng ý rồi. Bây giờ hắn chỉ còn cách chọc tức Mộc Lang Quân thôi, và hắn nuôi dưỡng cái ý đó, nhất định có dịp là tỏ lộ liền.
Với sức tưởng tượng của một đứa bé tinh khôn, hắn đã cấp tốc phác họa trong đầu óc hơn mười trò đùa ác, trò đùa nào cũng khiêu khích cực độ Mộc Lang Quân. Tuy chưa thực hiện những trò đùa đó, hắn thấy thích thú trước rồi và hắn đắc ý vô cùng.
Trong niềm đắc ý đó, hắn thay đổi thái độ ngay. Từ chỗ cự tuyệt, hắn gần như tán đồng sự đi theo Mộc Lang Quân. Song hắn không thay đổi lối xưng hô, có lẽ còn lâu lắm mới chịu thay đổi, và chỉ khi nào cần.
- Được rồi! Ta bằng lòng theo ngươi. Nhưng chỉ đi theo thôi nhé, còn việc ta có chịu nhận ngươi làm sư phụ hay chăng thì ta chưa có thái độ!
Mộc Lang Quân khoái trá quá bật cười ha hả:
- Được! Được! Cứ đi theo ta rồi việc gì phải đến sẽ đến.. Lão quay người nửa vòng, vung tay tung ra một chưởng. Chưởng phong cuốn tới thổi tắt bảy ngọn lửa.
Lão giục:
- Tiếp tay với ta, thu dọn những báu vật này, rồi mình lên đường.
Hồ Bất Sầu thấy dự tính của mình có cơ thành tựu, mừng thầm vội đáp:
- Xin tuân lệnh tiền bối!
Sẵn có mấy chiếc bao, y gom số báu vật lại gói ghém cẩn thận cột chùm vào nhau. Nhờ tiếp tay với Mộc Lang Quân, y mới có thể đến gần chiếc bồn bằng đồng, nhìn vào bồn y thấy chứa một chất dầu màu đen.
Không hiểu được đó là loại dầu gì, Hồ Bất Sầu đoán là một nhiên liệu cháy mạnh, dù có gió to ngọn lửa chẳng hề tắt.
Cả ba chia nhau những chiếc bao, theo hướng đông tiến tới.
Đêm đã tàn. Bình minh sắp trở về vạn vật, đường đi không lối tăm khó khăn lắm, Phương Bửu Nhi đỡ vất vả phần nào.
Dọc đường hắn luôn luôn tìm dịp chọc tức Mộc Lang Quân, chọc một cách trắng trợn, lắm lúc Hồ Bất Sầu thấy hắn nghịch ngợm quá phải lo sợ thay cho hắn, nhưng Mộc Láng Quân chằng hề phẫn nộ. Mặc hắn nói gì thì nói, làm gì thì làm, lão vẫn thản nhiên như thường.
Đi được một ngày đường họ tới một mũi đất nằm de ra tận ngoài khơi biển, ba phía đều nước, một phía đính với đất liền.
Có lẽ nơi đây là một ngư thôn, gặp một đại biến cố nào đó, cư dân hoặc chết, hoặc bỏ đi nơi khác, thành ra hiện tại là một địa phương hoang vắng lạnh lùng, người dân trước đó sinh sống về ngư nghiệp, nên những dấu vết sinh hoạt vẫn còn như thuyền hư, lưới rách.
Toàn địa phương chỉ còn lại độ mươi nóc nhà, cái nào cũng xiêu vẹo hoang tàn, nhưng cũng chỉ là những mái nhà hoang, chẳng có người ở.
Hồ Bất Sầu lấy làm lạ thầm nghĩ:
- Đây là địa phương nào? Thuyền Chủ Ngũ Sắc Phàm cư trú tại đây sao?
Nghĩ sao thì nghĩ, y chẳng dám mở miệng hỏi han tiếng nào.
Mộc Lang Quân tiến đến một ngôi nhà tương đối to lớn hơn các ngôi nhà khác.
Phương Bửu Nhi cũng kinh dị như Hồ Bất Sầu, hắn tự hỏi làm thế nào lão lại ở trong một ngôi nhà như thế được? Rất có thể dưới cơn gió nhẹ, ngôi nhà sẽ đổ sụp, huống hồ đây thuộc vùng duyên hải, gió biển thổi lộng bốn mùa?
Mộc Lang Quân không cần đưa tay mở cửa, lão đứng xa xa tung nhẹ một chưởng.
Chưởng phong quất tới đẩy bật cánh cửa vào phía trong.
Phương Bửu Nhi giật mình, sửng sốt, tưởng chừng như nằm mộng.
Thì ra Mộc Lang Quân dùng ngôi nhà này làm một nghi trang. Bên ngoài thì trông điêu tàn xiêu đổ, nhưng bên trong lại là một ngôi nhà kiên cố tráng lệ, huy hoàng, đặc biệt nhất là vật trang trí gồm toàn da thú, treo đầy bốn phía vách.
Đã là tráng lệ, huy hoàng tất nhiên chẳng thiếu vật dụng nào, mà lại là những vật quý giá cả.
Trong ngôi nhà, hiện tại có hai đại hán vận áo gấm đang ngồi trên cẩm đôn, tay nâng chén pha lê nốc rượu.
Đại hán bên tả vụt đứng lên, quát hỏi:
- Ai?
Phương Bửu Nhi trông thấy đại hán đó có thân hình cao ít nhất cũng chín thước, lưng to vai rộng, râu dài màu đen óng ánh. Tiếng quát của y sang sảng như tiếng chuông đồng, hắn thầm tán:
- Đúng là một tay anh hùng hảo hán!.
Hồ Bất Sầu giật mình, thầm nghĩ:
- Nếu ta đoán không lầm, thì đại hán này là Hắc Tu Long Thọ Thiên Tề, một hải tặc lợi hại từng làm mưa gió vùng Đông Hải.
Đại hán quát xong nhận ra ngay người mới đến là Mộc Lang Quân, vụt biến sắc mặt.
Nhưng, Mộc Lang Quân chẳng hề nhìn y, ngang nhiên bước vào, quăng mấy chiếc bao lên nền, rồi ngồi ngay xuống đó, xếp bằng tròn, buông gọn:
- Mang rượu lại đây!
Đại hán càng biến sắc hơn, nhưng chẳng dám phát tác, lặng lẽ mang rượu đến, rót đầy chén hai tay trao cho lão, vừa trao vừa ấp úng hỏi:
- Thần Quân bao lâu nay được bình an chứ?
Phường Bửu Nhi thấy đại hán bỗng nhiên mất khí khái anh hùng, hắn cũng mất hứng luôn, thâm tâm của hắn muốn có một tay kiệt hiệt chế ngự nổi Mộc Lang Quân. Thoạt trông đại hán hắn đã có ý mừng cầm chắc là đại hán thừa sức lực hạ Mộc Lang Quân, nhưng y lại tỏ lộ sự khiếp nhược rõ rệt, thì hắn còn hy vọng gì nơi y nữa? Hắn vất mấy chiếc bao, cạnh đống bao của Mộc Lang Quân, rồi quay nhìn nơi khác, chẳng cần đề ý đến đại hán mà hắn cho là một kẻ vô dụng không hơn không kém. Bất quá y có thân hình hộ pháp, chứ thật ra cũng thuộc phường giá áo túi cơm.
Mộc Lang Quân nuốt một ngụm rượu xong cười lạnh hỏi:
- Thọ Thiên Tề! Ngươi cũng còn nhận ra ta nữa sao?
Đại hán thứ hai từ lúc đầu vẫn tựa lưng vào cửa, không nhìn ai, không nói với ai một tiếng gì cứ rót, cứ uống.
Vì y quay lưng về phía Phương Bửu Nhi, hắn chẳng trông thấy mặt mày y thế nào, chỉ thấy y vận chiếc áo hoa, thân hình bậc trung, bàn tay nâng chén rượu gầy guộc làn da tay vàng như sáp.
Y nghe Mộc Lang Quân hỏi Thọ Thiên Tề liền bật cười hắc hắc.
Giọng cười của y như nghe tiếng thép cọ sát vào nhau, kêu ken két nghe rờn rợn:
- Thần Quân nhìn được Thọ Thiên Tề nhưng chẳng nhận ra tại hạ?
Tuy nhiên tại hạ vẫn nhận ra Thần Quân. Được rồi, tại hạ xin kính Thần Quân một chén gọi là làm lễ ra mắt.
Hồ Bất Sầu nghĩ đại hán đó đối ẩm với Hắc Tu Long, chắc phải là một tay hữu danh nhưng chưa thấy được mặt mày, họ Hồ không thể đoán y là ai.
Mộc Lang Quân lạnh lùng gặng lại:
- Đã nhận ra ta, tại sao ngươi chẳng đứng lên?
Đại hán đó cười hắc hắc:
- Tại hạ Ở đây trước, Thần Quân là người khách bất ngờ, không duyên không cớ đột nhập vào đây. Tại hạ là chủ nhân, không có đạo lý nào bắt buộc phải đứng lên nghênh đón cả.
Mộc Lang Quân chớp mắt:
- Từ giây phút này trở đi, ta là chủ nhân ngôi nhà này, những ai hiện có mặt tại đây đều trở thành khách cả, đã là khách thì ngươi phải đứng lên!
Đại hán đó đầu đội một cái mão kết toàn châu ngọc, lắc lắc đầu, châu ngọc chớp ngời, điềm nhiên thốt:
- Tại hạ đã biết Thần Quân thế nào rồi cũng định chiếm đoạt ngôi nhà này. Tại hạ cũng dự định nhường ngôi nhà này cho Thần Quân, nhưng chỉ sợ Thần Quân chẳng dám đó thôi.
Mộc Lạng Quan bật cười lớn:
- Ha ha! Bình sanh ta mới nghe câu nói đó. Bình sanh ta chẳng hề biết hai tiếng không dám! Ha ha! Không dám, có cái gì ta sợ? Ngươi thử nói cho ta nghe xem!
Người đội mão ngọc từ từ tiếp:
- Chi vì tại hạ đã trót hứa cho một người khác tạm mượn ngôi nhà này rồi. Thần Quân có biết không, người ấy định mượn ngôi nhà làm nơi trú chân để chờ nghinh đón thuyền chủ Ngũ Sắc Phàm. Tại hạ tưởng Thần Quân chẳng dám chạm đến người đó đâu!
Mộc Lang Quân hừ một tiếng:
- Người đó là ai?
Người mão ngọc, buông gọn:
- Là Thủy..... Y chưa buông tiếng kế, Mộc Lang Quân biến sắc, những thớ thịt trên gương mặt giật mạnh môi rung, mũi rung, mí mắt rung, nhưng chẳng rõ lão biến sắc vì sợ hay vì phẫn nộ.
Qua giây phút kích động, lão bình tĩnh trở lại trầm giọng thốt:
- Thủy Thiên Cơ! Thủy Thiên Cơ!....
Lão rít lên:
- Thủy Thiên Cơ! Ta gặp ngươi, nhất định thẻo từng mảnh thịt ngươi mới hả cho!
Đến lúc đó, Ngọc Quan Nhân mới quay đầu đối diện với lão bật cười khanh khách:
- Thật vậy, hở Thần Quân?
Hồ Bất Sầu nhận ra, người đội mão ngọc có gương mặt vàng như sáp, chừng như gương mặt đó chẳng có một tí thịt nào cả, da xọp, ép sát xương. Gương mặt đó dĩ nhiên chẳng biểu lộ một cảm tình nào, ngoài cái vẻ lạnh lùng, lạnh như gương mặt của một xác chết.
Phương Bửu Nhi giật mình, bình sanh hắn chưa trông thấy một con người nào đáng sợ như thế!
Mộc Lang Quân nghiến răng ken két, thái độ đó chứng tỏ hắn có thù hận sâu nặng đối với Thủy Thiên Cơ nào đó, lão rít lên:
- Nếu Thủy Thiên Cơ dám bước một bước vào nhà này, ngươi sẽ thấy thủ đoạn nào ta sẽ dành cho mụ ấy!
Lão vụt nắm chặt bàn tay, chén rượu đang cầm nát nhừ như cát.
Ngọc Quan Nhân không hề dao động thần sắc, thản nhiên cười, thản nhiên thốt:
- Khá lắm! Võ công được như thế là khá lắm. Song rất tiếc Thần Quân đã chẳng làm gì nổi Vạn lão thái bà, một thuộc hạ của Thủy Thiên Cơ thì đừng hòng nói khoác lác đối với Thủy Thiên Cơ.
Mộc Lang Quân vụt đứng lên quát:
- Ngươi là ai? Sao biết được..... Ngọc Quan Nhân cười nhẹ:
- Ta là ai? Đến bây giờ ngươi cũng chưa đoán ra à?
Thân hình bất động, tay không cử động, chẳng rõ Ngọc Quan Nhân làm cách nào người vọt thẳng lên, xuyên thủng nóc nhà, phút chốc đã mất dạng. Y vừa qua khỏi lỗ hổng, năm sáu đạo ngân quang từ bên ngoài xuyên lỗ hổng đó bay xuống.
Mấy đạo ngân quang trông nhỏ như những đường tơ bạc, chẳng rõ là những vật gì, Mộc Lang Quân có võ công thượng thừa oai bức đến cả những tên đại cường đạo, vừa trông thấy mấy đường tơ bạc đó, liền sợ hãi không dám đưa tay đón bắt, mà cũng chẳng dám đuổi theo Ngọc Quan Nhân, chỉ nhảy tạt qua một bên cửa né tránh.
Phương Bửu Nhi hết sức lấy làm lạ, một người bản lĩnh như lão, lại sợ ám khí, mà là loại ám khí thông thường...
Thì ra những đường tơ bạc đó là những giọt nước do ống đồng bắn ra, như trò chơi trẻ nít, nước rơi xuống những tấm da thú lót nền, da thú thủng lỗ. Trong thoáng mắt, những lỗ thủng lan rộng, cuối cùng bao nhiêu da thú lót nền tiêu tan mất.
Mộc Lang Quân trở vào nhà, vừa giậm chân tặc lưỡi với lộ vẻ kinh khiếp:
- Đúng là mụ ấy rồi! Đúng rồi!
Bỗng từ xa, có tràng cười vọng lại tiếp theo tràng cười. một giọng nói đầy ngạo nghễ vang đến tai lão:
- Ta ngồi trước mắt ngươi, ngươi chẳng nhận ra được ta. Vậy mà ngươi còn khoác lác được sao? Ta có ngờ đâu, giờ đây ngươi trở thành mù quáng như thế! Đáng thương hại cho ngươi quá..... Mộc Lang Quân biết có đuổi theo bà ta, cũng chẳng còn kịp nữa. Lão trừng mắt nhìn Thọ Thiên Tề, gằn giọng:
- Ngươi đã biết sao ngươi chẳng nói với ta!
Thọ Thiên Tề điềm nhiên thốt:
- Địa phương này là nơi trước đây tại hạ cùng anh em đồng đạo tụ họp. Sau này mỗi năm thuyền chủ Ngũ Sắc Phàm đều cập thuyền, thành bất tiện cho tại hạ, nên bắt buộc phải tìm nơi khác lập căn cứ. Kể từ ngày đó, trên giang hồ bất cứ nhân vật nào muốn gặp thuyền chủ Ngũ Sắc Phàm đều đến tại đây, lưu lại chờ đợi kỳ cập thuyền của thuyền chủ.
Dù đã lập căn cứ nơi khác, song tại hạ vẫn không bỏ nơi cũ, cứ giữ bổn phận mình là địa chủ phải nghinh đón hào kiệt bốn phương đổ về bái kiến thuyền chủ. Vì muốn che giấu hành tung của tại hạ cũng như của tất cả nhân vật trên giang hồ cần xuất hiện tại đây, tại hạ chẳng dám sửa sang ngoại diện ngôi nhà, còn trang trí bên trong được nhã lịch phần nào hay phần ấy, miễn sao có đủ nhu cầu cung cấp cho đồng đạo võ lâm thôi. Còn như ai đến ai đi, tại hạ có tìm hiểu lai lịch của họ làm gì?
Cũng như tại hạ chẳng cần biết họ làm gì. Tuyệt nhiên tại hạ không hỏi han họ một tiếng nào, chỉ lo làm tròn bổn phận một địa chủ thôi.
Y đừng lại một chút rồi tiếp:
- Vừa rồi vị huynh đài đó đến đây, tại hạ chỉ nghênh tiếp đúng theo bổn phận một địa chủ, chứ đâu hỏi lai lịch làm gì, thành ra nào biết được vị huynh đài đó là ai? Thần Quân trách tại hạ thật oan quá!
Dù bị Mộc Lang Quân oai hiếp, Thọ Thiên Tề không nao núng, cứ ung dung giải thích, tỏ rõ cái khí độ bất phàm, xứng đáng là một tên hải tặc có thủ đoạn. Mộc Lang Quân hừ lạnh một tiếng, tìm chỗ ngồi xuống chẳng nói năng gì cả.
Lâu lắm chừng như tạp niệm đã lắng dịu, lão vẫy tay:
- Ra đi!
Thọ Thiên Tề vòng tay chào biệt đoạn quay mình tránh khoảng da thú bị nước độc của Thủy Thiên Cơ hủy diệt, vòng qua một bên, bước ra cửa.
Phương Bửu Nhi vụt hỏi:
- Người vừa rồi là một nữ nhân?
Mộc Lang Quân lại hừ một tiếng:
- Một mỹ nhân tối hiểm độc, tối dâm loạn, tối vô sỉ, tối đê tiện trên đời. Ngươi có gặp mụ ấy phải tránh xa, tránh gấp!
Rồi lão tiếp:
- Mụ ấy có tài cải sửa dung mạo tuyệt diệu, khi cải sửa dung mạo rồi mụ ta có thể qua mặt cả những người rất thân, chẳng nhìn ra được. Rơi vào tay mụ ta, dù có muốn chết đi cho khoẻ thân, cũng chẳng ai chết được với mụ!
-
Hồi 03
Giai Nhân Xuất Hiện
Giọng nói đó lạnh như giá băng, từng tiếng lọt vào tai Phương Bửu Nhi như những hạt tuyết rơi. Hắn cảm thấy rợn người, hai hàm răng chạm vào nhau cầm cập.
Rồi một tràng cười vang lên, âm thanh rang rảng song cũng lạnh lùng như câu nói. Tràng cười dứt, một câu nói tiếp liền, lần này có phần nào ấm dịu:
- Tiểu tử tên Phương Bửu Nhi kia, đừng nghe lão, lão là người vô sỉ nhất đời, ác độc nhất đời...
Mộc Lang Quân hét lớn một tiếng, tung mình bay qua cửa sổ, thoát ra ngoài. Thân pháp của lão nhanh quá, cơ hồ Phương Bửu Nhi không nhận định kịp. Nhưng lão vọt nhanh, có người còn nhanh hơn lão, nhanh gấp mấy lần, người đó lao ngược chiều từ bên ngoài, cũng ngang qua cửa đó, vào trong phòng.
Thân pháp người đó nhanh đến độ chính Mộc Lang Quân không trông thấy, và Hồ Bất Sầu đã chú mắt theo dõi mọi diễn biến, mà cũng chẳng nhận định rõ ràng diện mạo hình vóc thế nào.
Khi bóng đó chạm chân xuống nền, Hồ Bất Sầu đứng lên quát khẽ:
- Bằng...
Nhưng với thân pháp tuyệt diệu như vậy, khi nào người vừa xuất hiện lại để cho họ Hồ nói gì? Cái chạm chân vừa rồi bất quá chỉ để lấy đà, thay vì đứng lại, người đó lại vọt tới sát Hồ Bất Sầu. Sau khi y thốt lên tiếng “Bằng”, thì người đó đã đưa tay điểm nhanh vào ba yếu huyệt của y nơi trước ngực, y chưa ngã xuống, người đó đã đảo bộ sang qua Phương Bửu Nhi, điểm luôn mấy huyệt nơi hông hắn, rồi bế xốc hắn nên, tung mình qua một khung cửa sổ khác ra bên ngoài.
Khi Hồ Bất Sầu ngã xuống nền thì người đó đã mang Phương Bửu Nhi đi mất dạng.
Bình sanh Hồ Bất Sầu chưa gặp mộc nhân vật nào có động tác cực kỳ nhanh nhẹn như người bí mật xuất hiện cướp Phương Bửu Nhi mang đi, động tác nhanh, thuật khinh công cũng tuyệt diệu. Y không tự vệ nổi, để người đó chế ngự dễ dàng, thì còn làm sao chiếu cố đến Phương Bửu Nhi kịp lúc?
Thoát ra bên ngoài cửa sổ rồi, người đó khẽ vung bàn tay bắn ra một điểm ngân quang, rồi lập tức nhún chân nhảy vút lên mái nhà, nằm sát xuống bất động.
Phương Bửu Nhi dù bị bắt đi như thế không chút sợ hãi, thầm nghĩ:
- Quái thật! Tại sao y chưa chịu chạy đi, còn nằm lại đây, định làm gì?
Nếu lão Mộc Lang Quân bắt gặp thì sao?
Từ trong một gian phòng gần đó, Mộc Lang Quân lại hét lên, lao vút ra ngoài, nhảy lên mái lướt qua đầu cả hai, đuổi theo điểm ngân quang.
Tuyệt nhiên lão không nhìn xuống, nên chẳng thấy người bí mật và Phương Bửu Nhi.
Khi Mộc Lang Quân lao vút đi xa rồi, người đó lại bế Phương Bửu Nhi đứng lên, đến lúc ấy Phương Bửu Nhi mới biết là người ấy vừa bắn ngân quang để dụ cho Mộc Lang Quân chạy xa, nhưng Mộc Lang quân đã chạy quá xa rồi, y cũng chẳng chịu rời khỏi nơi này, trái lại còn nhảy trở xuống bên dưới, vào một gian phòng.
Y rỉ bên tai Phương Bửu Nhi:
- Tiểu tử! Ngươi có thấy bổn cô nương gạt Mộc Lang Quân bỏ mồi bắt bóng chứ?
Âm thanh của người đó ngọc dịu dàng quá, êm ái hơn giọng oanh vàng trỗi lúc bình minh. Âm thanh đó phải là của một nữ nhân, mà nữ nhân phải là trang tuyệt sắc! Âm thanh có sức quyến rũ lạ thường, Phương Bửu Nhi dù chưa được bao nhiêu buổi đầu, vẫn nghe niềm rạo rực sôi động trong huyết quản. Hắn giương tròn mắt nhìn y, nhận ra chính là Ngọc Quan Nhân, con người xấu xí trông phát tởm, con người mà Mộc Lang Quân đã nhận qua âm thanh là Thủy Thiên Cơ.
Nhìn gương mặt xấu xí ghê tởm đó, bất giác Phương Bửu Nhi rùng mình, niềm rạo rực lắng dịu ngay, hắn nhắm mắt lại.
Bị Ngọc Quan Nhân Thủy Thiên Cơ điểm huyệt, hắn chẳag còn cử động được nữa, luôn cả lưỡi cũng cứng lại, hắn không thốt được lời nào.
Hắn nhận ra so với lần bị Mộc Lang Quân điểm huyệt, cảm giác khác hẳn.
Bỗng, một tiếng hú vọng ngân dài từ xa vang đến, tiếng hú càng lúc nghe càng gần, Phương Bửu Nhi biết ngay Mộc Lang Quân lùng gian tế không gặp đã trở lại.
Lão trở lại, bắt đầu từ gian phòng thứ nhất, lão tung chưởng đẩy bật cửa vọt vào trong lục soát một chút rồi trở ra, tiếp tục lục soát gian thứ hai, sang gian thứ ba và những gian kế tiếp...
Chưởng tung vù vù cửa bật ầm ầm, ngôi nhà chuyển động lên tưởng chừng sẽ ngã xuống bất cứ phút giây nào.
Để khích nộ lão, Thúy Thiên Cơ chốc chốc lại gọi to một tiếng, lão chạy sang hướng Đông thì tiếng gọi vang lên hướng Tây, lão chạy sang hướng Nam tiếng gọi vang lên hướng Bắc lão lùng khắp nơi quần khấp chốn, nhưng chẳng bắt gặp bóng người nào cả.
Không gặp người, không thể phát tiết phẫn nộ, lão đập phá đồ vật vỡ ầm ầm.
Mặc cho Mộc Lang Quân lùng kiếm đập phá, Ngọc Quan Nhân Thủy Thiên Cơ ung dung bế Phương Bửu Nhi nhảy xuống đất thong thả bước đi, chẳng hề sợ hãi.
Phương Bửu Nhi lấy làm lạ, tìm hiểu mãi tại sao bà ta không chịu bước gấp để mau rời khỏi tòa nhà này. Còn quanh quẩn tại đây là còn bị Mộc Lang Quân theo đuổi. Nhưng rồi, hắn vỡ lẽ biết ngay bà ta sở dĩ chậm, là để tránh gây tiếng động, có bước chậm, tiếng chân mới nhẹ nhàng. Huống chi bà ta lại mang hắn dưới nách, hắn dù còn nhỏ tuổi, cũng là một sức nặng đáng kể.
Độ chừng đã cách ngôi nhà khá xa. Thủy Thiên Cơ gia tăng tốc độ bước nhanh và dài hơn...
Tốc độ càng phút càng tăng, Phương Bửu Nhi nghe gió thổi ngược vù vù bên tai, hắn có cảm tưởng là bà đang cưỡi mây lướt di.
Một lát sau, Thủy Thiên Cơ dừng chân lại.
Phương Bửu Nhi nhìn quanh, nơi đó một vùng núi non hiểm tuấn, bên dưới là ven biển, sóng vỗ bọt trào trắng xóa.
Thủy Thiên Cơ vừa giải huyệt đạo cho Phương Bửu Nhi, vừa thốt:
- Ta với ngươi thỏa ước một điều kiện, nếu ngươi không toan tìm cách chạy đi thì ta chẳng điểm huyệt ngươi nữa.
Phương Bửu Nhi cười khổ:
- Chạy đâu cho thoát khỏi tay bà mà tìm cách chạy?
Thủy Thiên Cơ vuốt sau lưng hắn dịu giọng tiếp:
- Khá đấy! Tiểu tử thông minh thế là được lắm, ta rất thích những đứa bé thông minh như ngươi!
Rồi bà nói:
- Ta bắt ngươi rời xa sư phụ ngươi như vậy ngươi có thấy khó chịu chăng?
Phường Bửu Nhi bĩu môi:
- Tại sao lại khó chịu? Nếu được rời xa lão ấy vĩnh viễn thì đúng là một đại hạnh cho tôi chứ làm gì lại khó chịu?
Bỗng hắn nhớ lại Hồ Bất Sầu còn kẹt trong tay Mộc Lang Quân, có lẽ vị thúc thúc đó đang nghĩ đến hắn rất nhiều mà cũng lo nghĩ cho số phận của y không ít.
Hắn dự đoán, Thủy Thiên Cơ bắt hắn mang đi như vậy chắc không phải do một hảo ý gì. Rất có thể bà ta quản thúc hắn vĩnh viễn. Đã xa Hồ Bất Sầu lại còn bị quản thúc, làm thế nào trở về. nhà sống bên ngoại công?
Hắn nhớ lại câu nói của Mộc Lang Quân vừa rồi:
- Ngươi mà rơi vô tay bà ấy, dù có muốn chết cũng chẳng chết được với bà tạ..
Hắn rùng minh tưởng đến viễn ảnh đầy bất ngờ của ngày mai.
Còn nhỏ tuổi quá chưa hề tiếp xúc với đời, tâm tính còn thuần phác quá, nghĩ làm sao thần sắc hiện ra làm vậy, hiện tại hắn lộ vẻ ưu tư ra mặt.
Thủy Thiên Cơ nhìn hắn bật cười khanh khách:
- Ngươi đừng dối ta, ta biết miệng thì nói thế chứ lòng lại khó chịu lắm, có phải vậy chăng?
Phương Bửu Nhi không thích nói chuyện với bà ta, vội nhắm mắt lại day mặt qua hướng khác.
Thủy Thiên Cơ không ngừng rờ rẫm khắp mình hắn, xem chừng bà ta nâng niu, trìu mến hắn vô cùng, giả sử tuổi tác song phương không quá chênh lệch thì đúng là tình nhân ve vuốt mơn trớn người yêu. Cảnh trạng âu yếm rạt rào, như quá nhớ nhung khát vọng sau bao ngày xa cách...
Bàn tay của bà ta như có phép lạ, sờ mó đến đâu là Phương Bửu Nhi nghe khoan khoái đến đó, dù hắn chưa đến tuổi bộc phát tinh cảm cũng nghe niềm đam mê chuyền khắp người..... Thủy Thiên Cơ nói giọng hết sức dịu dàng trầm ấm:
- Đừng sợ! Chẳng có gì đáng sợ cả. Mà cũng đừng lo nghĩ gì cả. Cứ yên trí ở đây với ta mấy hôm, rồi ta sẽ đưa ngươi về...
Hai tay ôm hắn, đặt hắn ngồi trọn trong lòng bà, hơi ấm từ người bà truyền sang hắn làm cho máu huyết hắn càng rạo rực hơn. Hắn không còn tìm cách rời xa bà ta được nữa, toàn thân bà như có sức hút mãnh liệt quá, dù hắn không muốn vẫn bị áp sát vào người bà.
Hắn quên mất gương mặt bà xấu xí, kinh tởm, hắn nhắm mắt lại nghe niềm đê mê dâng trào, đưa hồn hắn phiêu phưởng, chơi vơi.
Bỗng Thủy Thiên Cơ buột miệng thở dài:
- Ta muốn cái lão Mộc xuẩn ngốc kia đáp ứng cho ta một điều kiện.
Nếu không thì.....Ngươi thông minh thế kia, ta nỡ nào hạ thủ sát hại cho đành?
Phương Bửu Nhi bừng tỉnh đê mê, vụt đứng lên, cao giọng hối gấp:
- Bà dùng tôi làm con tin, tạo áp lực buộc lão ấy chấp nhận điều kiện của bà?
Thủy Thiên Cơ mỉm cười dịu giọng:
- Thông minh thật! Ngươi đoán đúng ý ta.
Phương Bửu Nhi bật cười lớn:
- Nếu vậy bà lầm to! Bà làm một việc hết sức sai lầm. Dù bà có chặt tôi ra làm trăm mảnh, Mộc Lang Quân cũng chẳng hề nao núng.
Thủy Thiên Cơ trố mắt:
- Thật vậy?
Phương Bửu Nhi xì một tiếng:
- Lão với tôi đâu phải là thân thích gì? Lão bắt tôi, mang từ xa về đó, dọc đường tôi làm đủ mọi cách chọc tức lão. Lão đang căm hận tôi, làm gì lão lại vì tôi mà đáp ứng điều kiện của bà? Nếu bà không tin, cứ làm thử xem lão có nao núng chăng! Tôi chỉ sợ bà phí công vô ích!
Dù đã đứng lên, dù đang thốt với Thủy Thiên Cơ, hắn vẫn nhắm mắt, không thấy gương mặt bà.
Thúy Thiên Cơ mỉm cười:
- Tiểu tử! Lần này thì ngươi không thông minh rồi. Giả sử việc đó có thật như vậy, ngươi cũng chẳng nên nói ra cho ta hiểu. Bởi nếu ta biết được ngươi vô dụng, thì ta giết quách ngươi cho ta khỏi bận giữ gìn.
Phương Bửu Nhi giật mình thầm nghĩ:
- Bà ta nói đúng. Tại sao ta nói ra như thế. Đáng lẽ ta chỉ nghĩ trong lòng thôi đừng nói ra là hơn, ta đã không ưa bà. tại sao ta lại nói lên những điều ta nghĩ? Bà có đáng cho ta giãi bày tâm sự đâu?
Hắn vụt mở mắt ra, nhìn thấy thần sắc của bà, nhưng thấy gương mặt đáng tởm quá, hắn nhắm mắt lại liền.
Thủy Thiên Cơ cười nhẹ:
- Ngươi không dám nhìn ta? Mặt ta xấu lắm phải không?
Phương Bửu Nhi đáp gọn:
- Nếu chỉ có xấu thôi còn nói làm gì? Đã xấu lại còn ghê tởm lạ!
Thấy mặt bà là có chết đi được, chết gấp!
Thủy Thiên Cơ bật cười khanh khách, một lúc sau gọi hắn:
- Bây giờ, ngươi thử mở mắt ra nhìn lại xem nào! ' Phương Bửu Nhi lắc đầu quầy quậy:
- Không không nhìn đâu? Tôi không có can đảm nhìn mặt bà nữa!
Tuy nhiên hắn hi hí mí mất, nhìn qua khe hở, hắn giật mình chẳng những không khép mi mắt lại mà còn mở rộng hơn.
Trước mặt hắn, hiện tại không phải là một nữ dạ xoa nữa, đối tượng có đầy đủ những nét của một giai nhân, chỉ nội một nụ cười của giai nhân thôi, cũng thừa ma lực khuất phục một đạo quân hùng mạnh mọp mình sát đất, sẵn sàng nhận mọi sự dày vò...
Phương Bửu Nhi từng đọc sách sử, người xưa ghi lại bao nhiêu hình ảnh yêu kiều, hắn từng hình dung những mỹ nhân đó qua tưởng tượng, nhưng hắn phải nhìn nhận sự tưởng tượng của hắn quá nghèo nàn trước một con người bằng thịt, có nhiều nét quyến rũ mỹ lệ mà trí tưởng lượng của hắn chưa hề phác họa.
Một con người đẹp trên chỗ tưởng tượng, có những nét ngoại sự tưởng tượng. Trời, hóa công quá ưu đãi một người như thế sao?
Cái đẹp của Thủy Thiên Cơ, dù hắn đã đọc hàng muôn, hàng vạn chữ, qua bao nhiêu năm rộng tháng dài, hắn vẫn thấy không đủ chữ để mô tả.
Trước đó hắn chết khiếp vì vẻ xấu xí ghê tởm, thì giờ đây hắn lại chết si chết mê, hắn thừ người ra đó, mắt giương tròn mồm há hốc.
Thủy Thiên Cơ đưa tay ngoắc :
- Lại đây!
Phương Bửu Nhi như mảnh sắt bị viên đã nam châm hút mạnh, hắn không còn tự chủ được nữa, bước tới. Đúng ra là hắn nhào tới hơn là bước, vì sức hút quá mạnh.
Thủy Thiên Cơ cất giọng hết sức dịu dàng:
- Tiểu tử xem ta có đẹp không?
Phương Bữu Nhi thở dài:
- Tôi đã đọc qua rất nhiều sách sử, có sách ca tụng sắc đẹp, có sách ghi rằng sắc đẹp là nguồn gốc của mọi tội lỗi, sắc đẹp là mối hoạn họa của người đời. Tôi chẳng hiểu thế nào là nguồn gốc tội lỗi, thế nào là mối hoạn họa. Giờ đây trông thấy bà tôi thức ngộ ngay!
Thủy Thiên Cơ đảo ánh mắt thu ba đầy tình tứ nhoẻn miệng cười duyên:
- Tại sao là nguồn gốc của mọi tội lỗi? Tại sao là mối hoạn họa của người đời?
Phương Bữu Nhi lại thở dài:
- Tôi là một đứa bé tuổi non, trông thấy bà tâm thần tán loạn, bà đưa tay ngoắc tôi chạy đến ngay. Giả sử một thanh niên nào gặp bà, thì cái độ si mê cuồng nhiệt sẽ bốc cao đến đâu. Bà sai khiến họ giết người họ vẫn cúi đầu ngoan ngoãn vâng theo. Bà bảo họ lên trời, xuống đất, nhảy vào lửa, lặn trong nước sôi, họ chẳng từ nan. Bà có thấy chăng, những tội họ làm, những hoạn họa họ tạo cho đời đều có vẻ quyến rũ của bà sai khiến họ. Tất cả đều bắt nguồn từ nơi bà.
Thủy Thiên Cơ bật cười khanh khách:
- Ngươi tuổi thì nhỏ, sự hiểu biết rất rộng ta thích những tiểu tử như ngươi, ngồi mà nói chuyện với ngươi liền một đôi ngày vẫn không thấy chán.
Đột nhiên bà rú lên một tiếng khủng khiếp, chụp tay Phương Bửu Nhi nắm chặt, mắt bà dán xuống đất Phương Bửu Nhi lấy làm lạ nhìn theo.
Một con chuột to, một con chuột dài độ bốn năm tấc đang nhìn bà, bà sợ quá líu lưỡi, lí nhí:
- Chuột... chuột Bà dù có võ công cao tuyệt vẫn là một nữ nhân, mà nữ nhân nào lại chẳng gớm chuột?
Phương Bửu Nhi dù chẳng có võ công, dù còn nhỏ tuổi, vẫn là nam nhân. Đã là nam nhân thì chẳng sợ chuột. Hắn giậm chân miệng dọa hù hù, đuổi con chuột, nhưng nó chẳng chịu chạy đi cứ thu hình tại đó, giương mắt nhìn Thủy Thiên Cơ làm bà càng sợ hơn.
Phương Bửu Nhi cúi xuống cởi một chiếc giầy quăng tới. Chuột hoảng sợ, quay mình chạy mất.
Thủy Thiên Cơ thở phào mấy tiếng, đưa tay vuốt ngực:
- Ghê quá! Ghê quá? Con chuột ác ôn làm ta suýt chết khiếp. May cho ta là có ngươi, ngươi chẳng sợ chuột?
Phương Bửu Nhi bước tới nhặt chiếc giày xỏ vào chân rồi thốt lên:
- Thật ra tôi cũng sợ chuột như bà!
Thủy Thiên Cơ trố mắt:
- Ngươi sợ chuội sao ngươi lại..... Phương Bửu Nhi nghiêm giọng chặn câu nói của bà:
- Trời sanh nam nhân trên cõi đời này là để bảo vệ nữ nhân. Tôi thấy bà sợ chuột, nên quên mất là mình cũng sợ chuột cấp tốc đuổi chuột cho bà hết sợ.
Thủy Thiên Cơ sáng mắt lên:
-
- Tiểu tử đáng yêu quá...
Bất thình lình bà lướt tới ôm Phương Bửu Nhi vào lòng, hôn vào má vào miệng hắn.
Phương Bửu Nhi thẹn đỏ mặt, kêu to:
- Bà buông tôi ra bà đừng làm thế chớ, nam nữ thọ bất thân mà.
Bà không biết câu đó.
Thủy Thiên Cơ vừa hôn, vừa cưới hắc hắc, rồi thốt:
- Ta làm vậy đã sao. Ngươi chỉ là một đứa bé con, ta có muốn đi xa hơn nữa cũng chẳng được!
Phương Bửu Nhi chỉnh sắc mặt:
- Đành rằng hai cái tuổi chênh lệch rất xa, song tôi là nam bà là nữ. Thánh nhân có dạy, nam nữ là phải phân biệt, trừ khi nào thành vợ chồng mới được phép gần gũi nhau.
Thủy Thiên Cơ cười tíu tít:
- Thì ngươi hãy làm chồng ta, một người chồng nhỏ xíu, ngươi đã đuổi chuột cứu ta, ta có thể làm vợ ngươi để trả ơn cũng được chứ! Phải không ông chồng tí hon của ta?
Phương Bửu Nhi bị bà ôm chặt quá, không vùng vẫy nổi, bà ta lại cứ ghì hắn tìm mặt mà hôn càng hôn càng ghì, làm hắn đỏ mặt lên như gấc chín. hắn thầm nghĩ:
- Bà đã cố tình đùa cợt ta, tại sao ta chẳng đùa cợt lại bà?
Thay vì vùng vẫy nửa hắn vòng tay ôm ngang hông bà, ngẩng mặt lên chờ bà ta ghé sát mũi xuống, đột nhiên hắn há miệng cắn chót mũi bà.
Đau quá Thủy Thiên Cơ đưa tay vò vò chiếc mũi càu nhàu:
- Ngươi... ngươi dám..:
Phương Bửu Nhi cười hì hì:
- Đã là vợ chồng với nhau cắn chót mũi một chút cũng không được sao? Thời Tuyên đế nhà Tây Hán, có quan Kinh Triệu Doãn là Thương Sưởng từng ca ngợi cái việc kẻ lông mày cho mỹ nhân là một trong những lạc thú khuê phòng kia mà?
Thủy Thiên Cơ trố mắt nhìn sững hắn, không tưởng nổi một tiểu tử chưa ráo máu đầu lại biết những cái thú buồng the. Một lúc lâu, bà bật cười lớn nói:
- Ngươi đúng là một đứa bé tinh quái! Rất đáng là chồng tí hon của Thủy Thiên Cơ này.
Phương Bửu Nhi gật đầu đùa tiếp:
- Xin mời hiền thê theo hạ quan!
Hắn đã đọc những câu xưng hô như thế trên nhiều sách, ngày xưa hàng quan lại thường dùng đối với những mệnh phụ phu nhân. Hắn nghĩ là chẳng bao giờ có dịp sử dụng, ngờ đâu, hôm nay sử dụng rất đúng lúc, đúng việc.
Nghe hắn xưng hô như thế. Thủy Thiên Cơ khoái trá cười híp mắt.
Cười một lúc, bà ta hỏi:
- Thượng quan định đưa tiện thiếp đi đâu đây?
Phương Bửu Nhi đã đóng kịch. cứ đóng luôn:
- Người xưa có nói gả cho gà, con gái phải theo gà, gả cho chó phải theo chó, chồng đi đâu vợ phải theo đó, còn hỏi đến nơi nào để làm gì?
Thủy Thiên Cơ đột nhiên chỉnh sắc mặt nghiêm giọng thốt:
- Ngươi đọc sách khá nhiều lại quên mất một câu của cổ nhân?
Phương Bửu Nhi trố mắt:
- Câu gì?
Thủy Thiên Cơ tiếp:
- Cưới vợ gà, phải tùy gà, cưới vợ chó, phải tùy chó!
Phương Bửu Nhi lắc đầu:
- Làm gì có câu đó lưu truyền đến nay?
Thủy Thiên Cơ điềm nhiên:
- Có chứ! Có ghi trong sách rõ ràng, tại ngươi hoặc chẳng đọc, hoặc có đọc song quên mất rồi!
Phương, Bửu Nhi sửng sốt:
- Sách nào? Ai làm ra sách đó?
Thủy Thiên Cơ buông gọn:
- Vợ Khổng Phu Tử!
Buông xong bà gập người lại mà cười, Phương Bửu Nhi cũng ôm bụng mà cười, cả hai bò lăn ra mà cười. Họ cười lâu lắm, sau cùng Thủy Thiên Cơ ngưng cười, thốt:
- Đã lâu lắm rồi ta không có dịp nào cười bằng thích như lần này.
Rất tiếc là ta có việc cần phải làm gấp, nếu không thì chẳng rõ ta sẽ cười đến bao giờ mới hả. Ngươi cứ ở đây chờ ta nhé!
Phương Bửu Nhi nói:
- Bà định đi tìm Mộc Lang Quân để gây sự à?
Thủy Thiên Cơ gật đầu:
- Phải! Ta khuyên ngươi đừng bỏ đi đâu nhé.
Phương Bửu Nhi chớp mắt:
- Chưa biết được! Nếu thấy hứng ta có thể đi bâng quợ..
Thủy Thiên Cơ dịu giọng:
- Đi đâu làm chi! Cứ ở đây ngủ yên một giấc ngon lành để khi ta trở về, ta đánh thức.
Bà đưa tay điểm vào huyệt ngủ của hắn, rồi tìm chỗ kín rồi đặt hắn nằm xuống, gài khuy áo cho hắn, vừa làm cái việc đó bà vừa lẩm bẩm:
- Ngủ ngon nhé! Ông chồng tí hon của ta. Ta đi một chốc trở lại ngay!
Nhìn gương mặt hồng hồng của hắn, bà không dằn lòng nổi lại cúi xuống hôn hắn mấy lượt rồi mang chiếc mặt nạ xấu xí như trước, dùng thuật khinh công lao mình vút đi như tên bắn.
Thấy Thiên Cơ đi chưa được bao lâu, từ trong một cái động bí mật nằm khuất sau mấy tảng đá hình quá dị, hai thiếu nữ xuất hiện.
Một nàng vận áo đỏ, nàng kia mặc áo trắng, nàng trước cao ốm, nàng sau lùn mập, nhưng cả hai có làn da trắng như tuyết, đôi mắt chớp ngời ánh thu ba.
Cả hai độ mười bảy mười tám.
Thiếu nữ áo đỏ điểm một nụ cười:
- Võ công bà ấy cũng có hạng lắm chứ. Thú thật ta phải một phen khiếp vía với bà ta rồi đấy, nếu chẳng dè dặt tất phải bị bà ta phát hiện ra mình rồi?
Nàng áo trắng bật cười khanh khách:
- May là thơ thơ chộp đầu được một con chuột, buông ra đúng lúc dọa hãi bà ta, thành bà ta hoảng lên, quên lưu ý đến bọn mình?
Thiếu nữ áo đỏ cười híp mắt:
- Không ngờ bà ấy lại sợ chuột đến thế. Cái sợ của bà ấy cứu chúng ta thoát nạn!
Cả hai trước khi nói một câu gì đều cười, nụ cười họ tươi quá, hấp dẫn quá, giọng cười ấm áp quá, trông thấy nụ cười đó, nghe giọng cười đó, còn ai giữ vững lòng đừng xiêu?
Chừng như họ sanh ra trên đời này, chi để cười vui, sầu khổ đừng mong xâm chiếm tâm hồn họ?
Thiếu nữ áo đỏ cúi mình xuống đưa tay xoa đầu Phương Bửu Nhi thốt:
- Tiểu tử này có vẻ thông minh khác thường, lại ăn nói lanh lợi hoạt bát đáng yêu quá!
Thíếu nữ áo trắng cười nhẹ:
- Chắc thơ thơ có ý chọn hắn làm trượng phu?
Nàng áo đỏ gắt:
- Nói nhảm! Liễu đầu liệu hồn đấy nhé. Coi chừng chết với ta bây giờ?
Nàng áo trắng nói tiếp:
- Thơ thơ chẳng có ý đó sao chứ? Chính tôi, tôi cũng muốn mang hắn về với chúng ta Nàng áo đỏ vỗ tay:
- Ta nói có sai đâu? Ngươi muốn chọn hắn làm tiểu trượng phu, lại đổ cho ta.
Nàng bật cười khoái trá, vừa cười vừa xoa đầu Phương Bửu Nhi tỏ vẻ âu yếm lạ.
Đến lượt nàng áo trắng gắt:
- Tôi có giống thơ thơ đâu? Luôn luôn thơ thơ chỉ nghĩ đến mình thôi. Tôi thì khác, thấy tiểu tử thông minh, thơ thơ có ý chiếm hắn liền để tận hưởng khoái lạc với hắn. Chứ còn tôi thì không, tôi định mang hắn về, hiến cho tiểu công chúa của chúng ta đó!
Nàng áo đỏ chớp chớp mắt reo lên:
- Ý kiến hay! Hay lắm! Hắn với tiểu công chúa của chúng ta đúng là một đôi cân xứng. Trời sanh ra người này là dành để cho người kia, cả hai hiệp nhau đúng là giai ngẫu tự nhiên thành.
Nàng áo trắng cười tít:
- Dĩ nhiên rồi, đợi gì thơ thơ phải nói ra tôi mới hiểu. Nếu chẳng hiểu, có khi nào tôi nói ý kiến đó đâu? Tiểu công chúa của chúng ta ngày nào cũng như ngày nào, không có ai bầu bạn cả. Công chúa khoái trá, chúng ta được yên tịnh, khỏi nghe càu nhàu, hằn học, khỏi bị quấy nhiễu thường xuyên.
Nàng áo đỏ bỗng trầm giọng:
- Nhưng... nhưng chúng ta lén lút bắt ngay người chồng tí hon của bà ấy. Bà trở về đây thấy vắng chồng sẽ oán hận chúng ta đến đâu!
Nàng áo trắng điềm nhiên:
- Đến khi nào chúng ta thi hành công tác xong xuôi, âm thầm bế hắn đi, bà ấy làm gì biết được chúng ta phỗng tay trên mà oán hận?
Chừng như thích thú với cái việc bắt cóc Phương Bửu Nhi mang về cho tiểu công chúa, nàng áo trắng bật cười ha hả, cười một lúc, rồi thốt:
- Hai chị em ta hễ hiệp chung một chỗ thì làm được rất nhiều điều khoái trá. Cái lão ấy gần đây hay nổi tánh khí bất ngờ, không ai chịu nổi, nếu trông thấy tiểu tử, chắc chắn phải cởi mở không còn làm khổ chúng ta nữa!
Cả hai mỗi người một câu, câu qua câu lại càng nói càng thích thú, càng cười vang cả hai cao hứng tột độ.
Nàng áo đỏ gật đầu:
- Vậy là kể như chúng ta đồng ý với nhau rồi, cứ như thế thi hành!
Rồi nàng lòn tay dưới lưng Phương Bửu Nhi, bế xốc hắn lên.
Nàng áo trắng hỏi:
- Có nên giải huyệt trước cho hắn không?
Nàng áo đỏ lắc đầu:
- Không nên? Hắn tỉnh lại, hắn thấy mình sắp lên thiên đàng, biết đâu hắn chẳng đòi hỏi khoái lạc ngay, chúng ta mới làm sao? Vâng theo ý muốn của hắn, tiểu công chúa hay được quở trách chúng ta thì sao?
Nàng lại bật cười lớn.
Nàng áo trắng cũng cười to:
- Thơ thơ lúc nào cũng nghĩ đến điều đó. Rõ thật là bị ám ảnh!
Phải gấp lấy chồng đi, chứ không thì loạn óc mất!
Cả hai thoát đi liền. Từ nơi mô đá họ lao mình xuống phía dưới, nhẹ nhàng như hai cánh yến.
Bên dưới là ven biển, có một chiếc thuyền con, chế tạo hết sức tinh xảo, thuyền đang chao chao theo nhịp sóng nhồi, ngoài khơi là trời nước mênh mông, sóng cuộn chập chùng, gió gào ầm ĩ...
Khi tỉnh lại, Phương Bửu Nhi đầu tiên cảm thấy cái lạnh của phiến đá, nơi Thủy Thiên Cơ đặt hắn đã tan biến mất, và hiện tại hắn nghe lưng êm dịu ấm áp lạ.
Một mùi hương nhẹ thoang thoảng trong không khí. Hít phải, tâm hồn thư thái vô cùng.
Hắn lấy làm lạ, đảo mắt nhìn quanh, quanh hắn toàn là màn gấm phủ giăng, bên ngoài màn thấp thoáng có sáu bảy thiếu nữ, nàng nào cũng xinh đẹp tuyệt trần, phảng phất thiên tiên trong các bộ y phục đủ màu. Màu sắc chớp ngời tăng thêm về huy hoàng rực rỡ của khung cảnh.
Những tiên nữ đó nàng nào cũng gắn nụ cười tươi nơi miệng. Nếu sắc đẹp của họ có khuyết điểm, nụ cười đó cũng sẽ điểm xuyết cho toàn vẹn ngay, biến họ thành quyến rũ lạ lùng.
Hắn nghĩ mình đang nằm mộng, nhưng hắn đưa tay sờ soạng quanh chỗ nằm. Hắn cắn môi, xem cảm giác thế nào và hắn ý thức ngay là đang sống với thực cảnh.
Hắn nhảy xuống giường, mở mắt to, nhìn quanh rồi nhìn ra ngoài.
Bọn thiếu nữ bên ngoài thấy bộ tịch hắn thì gập lưng lại cười, cười mãi.
Phương Bửu Nhi trố mắt hỏi:
- Đây.. đây là đâu?
Trong bọn thiếu nữ, nàng mặc áo trắng chừng như cao hứng tội độ, chớp chớp mắt hỏi lại:
- Ngươi xem đây giống nơi nào?
Nàng có đeo đôi vòng, lủng lẳng nơi vành tai, cười lớn, đầu lắc lắc, đôi vòng cũng lắc lắc theo. Vòng bằng vàng, chiếu lấp lánh tạo cho nàng một sắc thái tân kỳ.
Phương Bửu Nhi lại đảo mắt quan sát quanh mình lượt nữa. Thấy giường ngà, rèm gấm, màn nhung, đúng là một gian phòng, song không rộng lớn lắm. Gian phòng trang trí cực kỳ hoa lệ.
Ngoại tổ của hắn lâ Thanh Bình Kiếm Khách Bạch Tam Không lãnh tụ trọn vùng Tề Lỗ, sản nghiệp to lớn chẳng thiếu món gì. Phương Bửu Nhi từ thủa ấu thơ sống trong khung cảnh giàu sang đó, hưởng dụng thừa thãi, từng quen với những kỳ trân bửu vật, nhưng nếu đem gia đình ngoại tổ so với địa điểm này thì còn sai biệt quá nhiều, nếu chẳng nói ngoa, thì đúng là trời với vực.
Càng quan sát, Phương Bửu Nhi càng nhận thấy vẻ tráng lệ huy hoàng của gian phòng.
Một gian phòng như thế này thì trọn khu gia cư sẽ còn ra sao nữa.
Hắn thừ người đứng lặng, không còn biết ức đoán như thế nào cho đúng. Hoàng cung? Đế khuyết? Thâm khuê của hạng thiên kim?
Thiếu nữ áo trắng cười duyên, giọng cười hết sức ấm dịu :
- Sao? Ngươi đã đoán ra đây là đâu chưa?
Phương Bửu Nhi thở dài:
- Ta là Lưu Linh? Ta là Nguyễn Tịch? Ta lạc vào tiên cảnh, ta đang sống giữa quần tiên.
Tất cả bọn thiếu nữ bật cười khanh khách:
- Bọn ta đẹp như các nàng tiên à?
Phương Bửu Nhi chỉnh sắc:
- Đành rằng tôi chưa hề trông thấy tiên nữ lần nào. Đành rằng các vị thơ thơ đều là những trang tuyệt thế giai nhân, song nghĩ cho cùng người trần có đẹp đến đâu, cũng chẳng so sánh được tiên nữ là hạng vô ưu vô tự, vô tục niệm, vô dục tình. Thiết tưởng là một cuộc so sánh giữa hai giới đều là điều cuồng vọng.
Bọn thiếu nữ thấy tiểu tử chưa ráo máu đầu đã có lập luận trang nghiêm thì không khỏi buồn cười, tuy nhiên chúng cũng đắc ý phần nào vì ít nhất cũng được hắn tán là đẹp.
Thiếu nữ áo trắng đảo ánh thu ba, mỉm cười hỏi:
- Người xem, bọn ta với cái bà vợ sồn sồn của ngươi ai đẹp hơn ai?
Bà vợ sồn sồn với ông chồng tí hon!
Những danh từ đó gợi thích thú cho chúng, tất cả lại bật cười lên, gập lưng mà cười, cười đến chảy nước mắt.
Phương Bửu Nhi trừng mắt gằn giọng:
- Các vị thơ thơ, làm sao biết được chuyện đó?
Nàng áo trắng vừa cười vừa thốt :
- Bọn ta là tiên nữ, tiên thì việc gì lại chẳng biết?
Một nàng khác vận áo xanh, giục:
- Nói mau đi! Ngươi thấy sao?
Phương Bửu Nhi đảo mắt qua lại mấy lượt, bỗng thở dài:
- Hoa lan mùa xuân hoa cúc mùa thu, hoa nào chẳng đẹp? Mỗi loại một vẻ, vẻ đẹp hợp với mùa, thật sự mà nói, không thể so sánh được?
Nàng áo xanh cười nhẹ, tiếp:
- Linh muội nói đúng quá? Tiểu tử này chẳng những tuấn tú khôi ngô mà khí chất thanh khiết, thần tình tao nhã, mở miệng là nhả ngọc phun châu!
Bỗng có tiếng gọi từ phòng bên cạnh vọng đến:
- Tiểu Linh Đang đâu? Vào đây mài mực hộ ta, đừng để ta chờ lâu đấy!
Nàng áo trắng điểm một nụ cười thốt:
- Tiểu công chúa đúng là chúa phiền nhiễu người ta. Bất cứ lúc nào cũng bắt người ta quanh quẩn bên mình. May mà ta tìm được gã này mang về đây, có người bầu bạn cho, vừa đỡ cho chúng ta, vừa làm cho công chúa thích thú.
Nghe nàng nói, thấy đôi vòng bằng vàng lắc lắc dưới vành tai.
Phương Bửu Nhi biết ngay nàng chính là Tiểu Linh Đang. Có lẽ do vật đó mà thành tên, hắn không khỏi cười thầm.
Rồi nàng bước tới, nắm tay hắn, dịu giọng tiếp:
- Ta đưa ngươi đến gặp tiểu công chúa của ta nhé! Tiểu công chúa còn xinh đẹp hơn tiên nữ đây. Ngươi bầu bạn với tiểu công chúa hay ngược lại cũng có thế, ngươi có thấy khoái chăng?
Phương Bửu Nhi lắc đầu:
- Tại đây là một tiên cảnh rồi, tuy vậy tôi chẳng muốn ở, tôi chỉ muốn về thôi. Các vị thơ thơ hãy đưa tôi về chỗ cũ đi, tôi chẳng muốn gặp tiểu công chúa nào cả, dù tiểu công chúa xinh đẹp hơn tiên.
Linh nhi, nàng áo trắng cười nhẹ:
- Thế ra ngươi không muốn xa bà vợ sồn sồn của ngươi à?
Phương Bửu Nhi thẹn đỏ mặt:
- Ai... ai muốn gặp mụ ấy? Cách xa mụ ấy càng lâu càng hay, chỉ vì tôi...
Linh nhi dịu giọng chận lời hắn:
- Nếu không muốn gặp mặt mụ ấy nữa, thì nên ở lại đây. Ta cam đoan nếu ngươi trông thấy tiểu công chúa của ta rồi, dù có đuổi ngươi cũng chẳng chịu đi?
Phương Bửu Nhi nóng nảy:
- Tôi... tôi...
Bọn thiếu nữ nào để cho hắn nói được gì nữa, chúng cười lên ầm ĩ, nàng thì đẩy, nàng thì lôi hắn đi, hắn dù là nam nhân song có khác nào nữ nhân, vẫn bất lực trước áp lực của một đoàn nữ quái.
Chúng đưa hắn đi thco con đường hành lang, dọc theo hành lang có bảy tám vọng cửa, mỗi ba bốn vọng, nàng áo xanh vỗ nhẹ lên đầu hắn, thốt:
- Nghe lời bọn ta đi, vào bầu bạn với tiểu công chúa, nếu bất tuân chúng ta đưa ngươi trở lại mụ ấy đấy. Hoặc giả chúng ta đưa ngươi tới tận chân trời, cho ngươi chẳng bao giờ còn tìm về nhà được!
Phương Bửu Nhi giật mình thầm nghĩ :
- Bọn này xem thì đẹp đẽ, thùy mị ăn nói dịu dàng, nhưng hung dữ quá, chừng như chúng thuộc thành phần ác độc trong giang hồ thì phải.
Ta còn lạ gì chúng định đưa ta đến chỗ tiểu công chúa của chúng, để làm một tên hầu hạ tùy sai trong các việc vặt vãnh, đỡ lụy phiền cho chúng. Chúng tưởng đâu ta không biết việc đó!
Bị Thủy Thiên Cơ bắt đi, tuy hắn bất mãn nhiều, song ít nhất ở trong tay Thủy Thiên Cơ hắn còn hy vọng trốn đi, tìm đường trở về nhà ngoại tổ, nhưng kẹt ở trong tay bọn này thì mong mỏi gì thấy trời thấy đất nữa? Nơi đây theo cảm nghĩ đầu tiên của hắn, đúng là một nơi thần bí, một địa phương cổ quái biết đến bao giờ có dịp trở về? Rồi còn sự việc tìm tay đệ nhất kiếm khách đương thời, là thuyền chủ Ngũ Sắc Phàm, làm sao thực hiện công việc đó đúng lúc. Rồi còn Hồ thúc thúc?
Hiện tại thúc thúc ra sao, bên cạnh Mộc Lang Quân?
Tưởng tới tưởng lui, hắn chẳng tìm thấy một ánh sáng nào mang lại cho hắn chút hy vọng nhỏ mọn, rồi hắn đành lờ đi mặc cho số phận đưa đẩy thế nào phải chịu thế ấy.
Cuối cùng hắn thấy hoàn cảnh hết sức trớ trêu đáng buồn cười quá, hắn lại nghĩ:
- Người xưa nói, ngũ thập nhi tri thiên mạng, ta nay mới mười lăm, sao lại có ý phó mặc cho định mạng? Như vậy sao được gọi là con người có chí quật cường?
Hắn thật sự chưa đầy mười lăm tuổi nhưng đã có những tư tưởng siêu việt hơn trang lứa của hắn nhiều, hắn lại còn có lối suy diễn chín chắn, không kém những người cao niên, nhờ đó hắn không đến nỗi quá tiêu cực để giòng đời lôi cuốn đắm chìm, hắn không thụ động, nếu có bất động là để tìm lối thoát thôi.
Cho nên, hắn tự tạo cho mình được cái dửng dưng trước mọi nghịch cảnh, và hiện tại hắn yên lặng chờ xem bọn thiếu nữ còn giở trò gì nữa.
Bọn thiếu nữ đã đưa hắn đến trước vọng cửa thứ nhất, nàng áo xanh mở ra, Linh Nhi đứng sau lưng hắn đầy hắn tới, hắn không gượng lại được bước trở vào trong phòng.
Gian phòng đó, bày trí có phần hoa lệ hơn gian phòng hắn. Chính giữa, có một chiếc bàn cẩn ngọc xanh, trên bàn có bình ngọc, trong bình có cắm hoa bên cạnh bình có xấp giấy loại thượng hảo hạng, có nghiên mực, có giá bút, lại có một chiếc bát to cũng bằng ngọc, đựng nước xanh, có lẽ nước dùng để rửa bút.
Ngồi bên cạnh chiếc bàn là một thiếu nữ tác độ mười hai, mười ba tuổi, vận y phục toàn trắng, màu trắng tinh khiết như tuyết, hai tay chõi má, chỏ tỳ lên bàn, đưa mắt nhìn bình hoa, nhìn chăm chú đến xuất thần.
Trán rộng, mày thanh, mắt sáng, dĩ nhiên thiếu nữ phải xinh đẹp vô cùng, có xinh đẹp mới làm chủ tể một đàn tiên nữ đang quây quanh Phương Bửu Nhi ủng hộ hắn vào đây.
Nàng nhìn hoa, hoa gần nàng, hoa thuộc loài quý kề bên mặt nàng như mất hẳn vẻ tươi.
Thoáng nhìn qua Phương Bửu Nhi vốn tính cao ngạo, vốn giữ lễ độ, đạo đức, vẫn không tránh khỏi dao động thần hồn.
Trời! Khung cảnh đó, giai nhân đó, trên thế gian này lại có một bức tranh sống như thế sao Bất giác hắn thu hình, thu ý, không còn cao ngạo nữa, không còn nghênh ngang nữa, hắn dè dặt đặt từng bước nhẹ tiến vào sợ làm kinh động nàng.
Hắn vào đến bàn, không đợi ai mời, rón rén kéo nhẹ một chiếc ghế, rồi ngồi xuống đối diện với nàng. Hắn không dám nhìn thẳng vào mặt nàng, hắn nhìn hoa chăm chú, nhìn một lúc rồi cũng xuất thần luôn.
Một lúc sau, hắn bừng tỉnh nhận ra hoa cắm tượng hình không theo một phương thức nào cả, hắn cười thầm, con người không có khiếu thẩm mỹ thì chơi hoa làm gì?
Nhưng nhìn kỹ, hắn giật mình, nhận ra lối cắm hoa hỗn tạp đó, hẳn chẳng phải vì người chơi hoa không có khiếu thẩm mỹ, mà đúng là một lối kỳ diệu, trên thế gian này chưa nhấc có mấy tay sành cắm hoa như chủ nhân trong phòng.
Khoảng cách từng đóa, màu sắc phối hợp, chồi thấp chồi cao, cách sắp xếp hết sức tinh xảo, dù ai khó tính đến đâu, dù ai không thích chơi hoa, ngắm bình hoa cũng chẳng tìm được điểm nào đáng chỉ trích cả, và thấy thích liền.
Hoa đã đẹp, đó là lẽ dĩ nhiên rồi, sắp xếp khéo léo, hoa như tăng phần diễm ảo hơn, gặp tay chơi hoa như thế này, hoa sẽ tăng giá trị vô cùng.
-
Bình sanh, Phương Bửu Nhi cũng thích chơi hoa, yêu hoa, cũng cắm hoa vào lọ, nhưng hắn có tưởng tượng đâu trên thế gian lại có nghệ thuật cắm hoa? Hắn chỉ cho là cắm hoa bất quá là một trò tiêu khiển, giờ đây hắn mới có nhận thức là có người nâng cái trò tiêu khiển đó lên thành một nghệ thuật.
Hắn mê hoa, hắn suy tưởng về nghệ thuật cắm hoa, bất giác hắn quên hiện cảnh, buột miệng thở dài:
- Trông thấy bình hoa này rồi mới biết, tất cả những bình hoa khác đều do tục tử phàm phu trang trí. Có lẽ ta cũng là một trong số ngốc tử đó đòi học chơi hoa.
Hắn thốt rất khẽ, song ngồi đối diện nhau, khoảng cách giữa nhau là mặt bàn, tức nhiên không lớn lắm, tiếng nói của hắn phải vang mạnh vào tai thiếu nữ, nàng giật mình bừng tỉnh ngẩng mặt lên, giương tròn mắt nhìn sững hắn một lúc lâu, đoạn kêu lên:
- Ngươi..... ngươi à quái vật từ đâu tới?
Phương Bửu Nhi điềm nhiên dáp:
- Tôi là người, chẳng phải là quái vật. Tôi từ nơi vô định mà đến, và không do ý định mà đến.
Thiếu nữ chính là tiểu công chúa, nàng lại nhìn sững Phương Bửu Nhi một lúc nữa rồi mới hỏi:
- Ngươi là người sao ngươi chẳng giống ta? Ăn mặc như thế đó mà là người?
Phương Bửu Nhi vừa bực, vừa tức cười:
:
- Tôi là nam nhân! Phải ăn mặc khác hơn cô nương, nam nhân giống nữ nhân thế nào được?
Thoạt tiên trông thấy tiểu công chúa đẹp, Phương Bửu Nhi nghĩ rằng hẳn nàng phải thông minh lắm, rồi nhìn lối cắm hoa, hắn lại cũng tin chắc là mình nghĩ đúng.
Nhưng giờ đây qua hai câu nàng hỏi, hắn phát hiện ra nàng ngây ngô như kẻ si dại, hắn hết sức thương hại cho nàng và cũng có phần nào tiếc rẻ.
Tiểu công chúa lại mở to đôi mắt nhìn hắn một lúc lâu, rồi lắc đầu thốt:
- Không! Không phải vậy đâu! Là nam nhân sao ngươi không có râu?
Phương Bửu Nhi hết còn cười nổi, hắn lắc đầu tỏ vẻ chán nản:
- Tôi còn nhỏ tuổi làm gì có râu? Cô nương lại chẳng hiểu được một việc như thế sao?
Tiểu công chúa lại nhìn hắn, bỗng bật cười:
- Ạ! Ta biết rồi! Thì ra nam nhân còn nhỏ tuổi là không có râu!
Muốn có râu dài phải chờ đến lúc cao tuổi. Cũng như những đứa bé con, lúc mới sanh không có răng, lớn lên răng mới mọc!
Nàng thốt với giọng hết sức trịnh trọng, như người vừa phát minh ra một sự kiện lạ, như cho rằng sự kiện đó trên thế gian này không có ai nghĩ ra nổi.
Thốt xong nàng lại cười cười khoái trá, tự tán thưởng mình bằng tiếng cười đó.
Phương Bửu Nhi dù thương hại nàng đến đâu cũng không thể dằn lòng được nữa, bật cười to, hắn cười ngiêng ngửa, hắn đưa tay chỉ tiểu công chúa, cánh tay vươn ra quá dài suốt chạm vào bình hoa, hắn kêu lên:
- Cô nương... cô nương...
Thấy hắn bật cười, tiểu công chúa phẫn nộ, gằn giọng:
- Tại sao ngươi cười? Có cái gì đáng cười đâu? Vì ta thấy gia gia có râu, ta cứ tưởng hễ là nam nhân tất phải có râu, do đó ta mới hỏi ngươi chứ!
Phương Bửu Nhi sửng sốt, ngưng bặt tràng cười ngay, nhìn nàng hỏi:
- Thế ra, từ bao lâu nay, cô nương chi trông thấy một mình lệnh tôn là nam nhân thôi à?
Tiểu công chúa cau mặt:
- Gia gia ta là người thông minh bậc nhất trên đời, anh tuấn bậc nhất trên đời mà cũng là người giàu bậc nhất trên đời. Ta chỉ nhìn người thôi, ta chẳng cần trông thấy một nam nhân nào khác!
Có thật là sự nàng chỉ thích một nam nhân thần tượng đó chăng?
Không ai hiểu được tâm tự nàng, có điều trong vẻ cao ngạo quật cường của nàng có ẩn ước niềm oán, do tịch mịch gây nên..... Phương Bửu Nhi thở dài hỏi tiếp:
- Tuy nhiên từ trước đến nay, chẳng có ai giải thích cho cô nương sự đó sao?
Tiểu công chúa lắc đầu:
- Gia gia không nói gì cả, ta cũng chẳng muốn nghe.
Bỗng như chợt nghĩ ra điều gì, nàng mở tròn đôi mắt tiếp:
- Nơi đây chẳng hề có bóng nam nhân, ta quên hỏi ngươi làm sao ngươi đến được nơi này?
Phương Bửu Nhi cười khổ:
- Tôi đã nói rồi, cô nương quên lãng hay không lưu ý? Cô nương hỏi tôi như thế, rồi tôi phải hỏi lại ai? Khi tôi tỉnh lại bất phát giác hiện ra mình ở tại đây!
Tiểu công chúa chớp chớp đôi mắt, thốt :
- Ta đã hiểu rồi! Hẳn là Tiểu Linh Đang nhân xuất ngoại thi hành công tác gặp ngươi rồi mang ngươi về đây!
Đối với quan hệ bình thường giữa nam và nữ nàng hoàn toàn mờ tịt, nhưng luận về tình lý, nàng suy diễn rất xác đáng, không kém bậc lão thành già dặn.
Phương Bửu Nhi nhìn bình hoa lấy làm lạ hết sức, hắn nhận ra những cành hoa đều thay đổi vị trí bừa bãi không còn đúng theo lối cắm kỳ diệu như trước nữa.
Hắn tự hỏi, chẳng lẽ một tràng cười của hắn lại có áp lực đảo lộn những cành hoa như thế? Và nếu đúng vậy thì hắn đã làm một việc vô cùng khiếm lễ, do đó hắn bứt rứt không an, đưa bàn tay sửa lại những cành hoa.
Nhưng động tác của hắn làm cho tiểu công chúa sôi giận lên, nàng giậm chân xuống đất nện thình thịch gắt:
- Ai mượn ngươi mó tay vào hoa chứ?
Nàng đưa tay hất bàn tay của Phương Bửu Nhi vừa sờ đến một đóa hoa, đoạn rút cành hoa đó ra khỏi bình, nhúng vào bát nước trong xanh trên bàn, rửa qua rửa lại.
Gương mặt đẹp của nàng bừng lên niềm phẫn nộ lẫn căm hờn.
Đang lúc giận, nàng rửa khá mạnh tay làm cho đóa hoa đứt từng cánh, từng cánh, cuối cùng thì chỉ còn lại một vài cánh tận trong long, vừa đủ bao quanh nhụy hoa.
Không vì nàng hất tay mà hờn giận, Phương Bửu Nhi thấy đóa hoa bị hủy diệt, hết sức tiếc rẻ, kêu lên:
- Cô nương... cô nương làm gì thế?
Tiểu công chúa hừ một tiếng:
- Làm gì? Bàn tay thô tục dơ dáy của ngươi mò vào hoa của ta, ta phải rửa hoa cho sạch, chứ còn làm gì nữa?
Phương Bửu Nhi trố mất:
- Dù bàn tay tôi mó vào hoa, không xứng đáng lắm, song hoa vẫn còn nguyên vẹn chứ như cô nương rửa mạnh như thế thì còn gì là hoa?
Hoa đã chẳng sạch được mà lại còn bị hủy hoại Đáng tiếc quá!
Tiểu công chúa xì một tiếng:
- Hủy diệt hay còn nguyên vẹn, mặc cho hoa, ta chỉ muốn rửa sạch hoa thôi, thà nó bị hủy diệt mà cái xác của nó được sạch sẽ hơn là nó còn nguyên vẹn mà dơ dáy.
Phương Bửu Nhi sững sờ ngây người một lúc rồi thở dài.
Lâu lắm hắn thở dài thốt:
- Không ngờ cô nương lại chẳng biết thế nào là đạo lý..... Tiểu công chúa vụt đứng lên, bước tới trước mặt hắn cao giọng gắt:
- Ngươi nói ai chẳng thông đạo lý? Ta hỏi tại sao ngươi lại mó tay vào hoa của ta?
Hiện tại nàng tỏ rõ vẻ lanh lợi gần như chua ngoa, nàng chẳng còn ngây thơ thùy mị, đáng yêu như trước đó. Sự chuyển biến của nàng làm cho Phương Bửu Nhi thêm sững sờ.
Chưa hết, nàng gắt xong, sôi giận bừng bừng, đưa tay vớ lấy chiếc bình bằng ngọc quăng xuống nền, rồi chộp luôn xấp giấy quý xé toạc thành từng mảnh vụn, đoạn gằn từng tiếng:
- Ta phí tâm sư suốt ngày dài mới cắm xong một bình hoa, bình sanh chưa bao giờ ta cắm được một bình hoa thích ý như lần này, nhưng... giờ thì... giờ thì ngươi.. bị ngươi làm hỏng lất cả! Ta bắt đền ngươi, ngươi phải đền bình hoa cho ta!
Phương Bửu Nhi chẳng biết làm sao đáp gọn:
- Được tôi sẽ đền cho cô nương!
Đáp gọn cho xuôi vậy thôi, chứ hắn làm sao đền bình hoa cho nàng được? Giảng giải về đạo lý nàng chẳng nghe, nàng lại cứ giở thói trẻ con ra, làm khó hắn, hắn còn nói gì được với nàng hơn là hứa càn, hứa bừa thử xem nàng còn giở trò gì nữa.
Tiểu công chúa kêu to:
- Ngươi đền? Ngươi đền được chăng? Ngươi đền bằng cách nào?
Phương Bửu Nhi thở dài:
- Đền, thì tôi bằng lòng đền, những chưa biết phải làm sao mà đền đây! Làm sao bây giờ?
Chừng như Tiểu công chúa sắp khóc lên, đôi mắt của nàng rựng đỏ, nàng hằn học:
- Ta không dung tha cho ngươi đâu! Không dung thứ được đâu. Vĩnh viễn ta chẳng tha cho ngươi được. Trừ rạ.. trừ rạ..
Thấy nàng mở một lối thoát, Phương Bửu Nhi hấp tấp hỏi :
- Trừ ra làm sao hở cô nương?
Tiểu công chúa nhìn thẳng vào mặt hắn:
- Ta nói ra, ngươi có bằng lòng hay không?
Phương Bửu Nhi giục:
- Thì... cô nương cứ nói ra cho tôi nghe đi có nghe rồi mới biết là mình làm được hay không chứ. Làm được thì chấp nhận ngay, làm không được thì ai dám bằng lòng?
Tiểu công chúa nhảy choi choi, giậm chân thình thịch, lần này thì nàng òa khóc thật sự vừa khóc nàng vừa gào:
- Tiểu tặc! Ngươi là một tên tiểu tặc. Một tiểu quỷ! Nếu ngươi không chấp thuận, ta sẽ rút gân ngươi, ta sẽ lột da ngươi. Làm được cũng chấp thuận, không làm được cũng chấp thuận, từ khước là chết với ta!
Bình sanh, Phương Bửu Nhi chưa hề trông thấy một tiểu cô nương vừa khóc vừa làm huyên náo lên trước mặt hắn, do đó hắn có phần nào bối rối hắn hoang mang chẳng biết phải làm gì, nói gì cho cô bé dịu lại, nhưng cứ ỳ ra đó thì nàng càng khóc to càng gào to, thành trơ trẽn cho cả hai quá, bất đắc dĩ hắn đáp:
- Được rồi! Cô nương nín đi, tôi chấp thuận!
Tiểu công chúa vẫn khóc, vẫn gào:
- Ta không chịu đâu! Giờ thì muốn ta nín, ngươi phải chấp thuận đủ mười điều kiện của ta. Giờ thì phải đúng mười điều kiện chứ không phải chỉ có một như trước đây.
Nàng khóc to hơn một chút, gào to hơn một chút, chân giậm cũng nhanh hơn trước. Mắt nàng ướt đẫm lệ, lệ vẫn tuôn trào ra như suối.
Phương Bửu Nhi đã liều một tất phải liều hai, đáp luôn:
- Được rồi! Tôi chấp thuận đủ mười điều kiện chấp nhận tất cả, cô nương hãy nín đi?
Tiểu công chúa hơi dịu lại một chút:
- Mà ngươi đừng hối hận mới được!
Phương Bửu Nhi gật đầu:
- Nam nhân đã hứa làm sao giữ làm vậychẳng hề hối hận!
Tiểu công chúa nhấn mạnh:
- Nếu sau này ngươi hối hận thì sao?
Phương Bửu Nhi đáp nhanh:
- Thì tôi sẽ là một tiểu tặc, một tiểu súc sinh, tiểu quái vật!
Tiểu công chúa vụt cười khanh khách, kêu lên:
- Quỷ.' Tiểu quỷ. Ngươi đáp ứng điều kiện của ta thế nào được? Giả sử ta bảo ngươi cắt chót mũi trao cho ta, ngươi có bằng long chăng?
Nàng vừa thốt, vừa lau mặt ráo lệ, với nụ cười vừa nở, gượng mặt nàng trở lại tươi xinh như trước, đôi mắt nàng sáng như trước, chẳng ai có thể ngờ là nàng Tiểu công chúa xinh đẹp đó mới khóc mùi mẫn, khóc đến chết người nghe, khóc đến nhọc phờ người khóc.
Nghe nàng đặt một ví dụ xẻo mũi, Phương Bửu Nhi sững sờ đờ người trố mắt nhìn nàng.
Đúng vậy, nếu nàng đòi làm thương tổn đến thân thể hắn thì sao?
Xẻo mũi, cũng chưa đến nỗi nguy hại đến mạng sống, bất quá chỉ lưu lại cho hắn một vết sẹo, biến thành con người xấu xí thôi, giả sử nàng đòi móc mắt, giả sử nàng đòi moi tim thì sao?
Mắng thì hắn đã bị Thủy Thiên Cơ mắng xiêng mắng xẹo rồi, hắn cũng bị tiểu công chúa mắng với giọng đó, gần như cả hai cùng một ngôn ngữ, một thái độ mắng hắn.
Song, Thủy Thiên Cơ là người có tuổi tác, lại thành danh trên chốn giang hồ, dù chỉ là danh một đại nữ ma đầu, điều đó có thể chịu đựng được, bất quá Thủy Thiên Cơ dùng uy lực bắt hiếp hắn kém thì hắn phải chịu thua.
Nhưng, tiểu công chúa bất quá chỉ là một cô bé, rất bé, kém hắn mấy tuổi sao lại có thể gọi hắn là tiểu tử. Nàng có uy lực gì mà lung lạc hắn như một món đồ chơi?
Mới ngần ấy tuổi, nàng đã cao ngạo như vậy rồi đến lúc thành nhân, tạo được một danh vị trên giang hồ rồi, nàng còn khó chịu đến mức độ nào nữa?
Dù sao thì nàng cũng là người thuộc giới giang hồ, bởi gia gia nàng là người chốn giang hồ kia mà?
Giờ đây hắn kẹt trong khuôn khổ của nàng, nàng lại đặt mười điều kiện buộc hắn phải thỏa thuận đủ mười điều kiện đó, mà hắn chẳng biết những điều kiện gì.
Nếu không làm cho nào vừa lòng, rất có thể lũ tiểu yêu kia sẽ chẳng buông tha hắn, như chúng đã hăm dọa.
Càng nghĩ hắn càng lo ngại. Đúng ra chẳng phải hắn khiếp nhược sợ chết, nhược chết trong trường hợp này thì phi lý quá, hắn thấy tức.
Tức song phải kiên nhẫn, tùy cơ tháo gỡ rối rắm, hắn thừa hiểu dục tốc bất đạt, và lại nàng công chúa bé bỏng kia ương ngạnh vô lý, độc đoán, dù có giải thích cách nào vị tất nàng chịu nghe cho?
Do đó hắn lo lắng...
Tiểu công chúa bật cười khanh khách:
- Nói chứ ai lại bảo ngươi lại thẻo chóp mũi cho đành, phải vậy không hở tiểu tử. Thẻo mũi thì máu chảy, ta rất sợ máu, ta chẳng dám nhìn máu chảy, không ta không thích thẻo mũi ngươi đâu.
Rồi nàng đảo mắt, ánh mắt chớp chớp màu xanh biếc từ từ tiếp:
- Bình sanh, ta chưa từng trông thấy nam nhân khóc. Vậy điều kiện thứ nhất của ta là ngươi khóc lên, khóc cho ta xem, ta muốn xem gương mặt nam nhân lúc khóc sẽ như thế nào, tiếng khóc của nam nhân nghe ai oán, căm hờn tủi hận như thế nào!
Phương Bửu Nhi trố mắt nhìn tiểu công chúa như nhìn quái vật.
Một điều kiện lạ kỳ. Phải chăng có tâm tính bất thường? Nàng có loạn óc chăng? Trên đời này có một ước vọng kỳ lạ như thế? Khóc thì có gì thích thú mà đòi xem?
Nhưng khóc, nào phải bỗng dưng rồi ai cũng có thể khóc rống lên một cách ồ ồ khóc mướt khóc tỉ tê?
Tiểu công chúa hừ một tiếng:
- Sao? Ngươi hối hận rồi phải không? Đó chỉ là một trong mười điều kiện, mới nói đến điều kiện thứ nhất, ngươi lại hối hận! Chắc chắn chín điều kiện còn lại ngươi cũng sẽ hối hận luôn!
Phương Bửu Nhi ấp úng:
- Tôi... tôi khóc không ra tiếng nổi!
Tiểu công chúa xí một tiếng:
- Rõ thật là vô dụng. Chi có mỗi một việc khóc mà làm không nổi thì còn làm nổi việc gì khác! Như tạ.. Ta nói khóc là khóc ngay, ta muốn nín là nín ngay, đang khóc ta muốn cười là cười liền, thiết tưởng rằng chẳng có việc gì dễ dàng bằng những việc đó.
Phương Bửu Nhi vừa tức vừa buồn cười, thực nàng đóng kịch chắc khéo lắm. Tuy nhiên, làm được vậy kể cũng khá lắm chứ, bởi chưa chắc mọi người trừ hắn làm được như nàng?
Rồi hắn thở dài, đưa tay che mặt bật khóc.
Hắn khóc thành tiếng thật, nhưng đôi mắt ráo hoảnh, song nếu mắt ráo thì bao giờ nàng chịu cho hắn? Bất buộc hắn rà rà lòng bàn tay quanh môi, rỉ một chút nước bọt ướt bàn tay, rồi chà bàn tay quanh mắt, cho tèm nhem ướt át một chút.
Tiểu công chúa không màng nhìn hắn, ung dung thốt:
- Khi nào ta bảo ngừng ngươi mới được nín khóc nhé. Cứ khóc đi, khóc cho ta nghe!
Phương Bửu Nhi vừa khóc vừa suy nghĩ.
Hắn thấy hận nàng quá, bỗng dưng lại bắt hắn làm trò hề cho nàng xem. Và đây chỉ là một trò hề, còn chín điều kiện kia, chắc chắn là chín trò hề nốt.
Hắn vẫn khóc, cứ khóc, khóc mãi nước mắt không rơi, nhưng mồ hôi rơi từng hạt to bằng hạt đậu. Khóc mãi mồ hôi đẫm ướt cả tóc, cả trán.
Tiểu công chúa cười hi hì, hỏi:
- Nam nhân khóc lệ không rơi nhưng mồ hôi lại đổ. Lạ thật!..... Rồi nàng phê bình tiếp:
- Ngươi khóc không khéo chút nào, tuy nhiên ta nhìn nhận ngươi có cố gắng đấy. Thôi được rồi, nín đi!
Phương Bửu Nhi không đợi giục lần thứ hai, nín liền, chắc là hắn quá mệt nên vừa nín khóc liền bật lưng tựa vào thành ghế, thở dốc.
Tiểu công chúa chớp chớp mắt, thốt:
- Điều kiện thứ hai...
Nàng trầm ngâm suy nghĩ một lúc, định tìm một điều kiện khó khăn. Nêu lên cái số mười điều kiện, có lẽ nàng buột miệng mà nói chứ nàng chưa tính trước. Và giờ đây, nàng nghĩ từ từ chưa thấy điều gì hợp lý, nên còn nghĩ ngợi.
Thoạt đầu, nàng định bảo Phương Bửu Nhi nhào lộn trên nền phòng đúng năm mươi vòng, rồi đổi ý định bảo hắn bò quanh phòng năm mươi vòng, lại định bảo hắn ngồi xếp bằng tròn trên mặt nền trong hai khắc thời gian liền, bất động, khiến cho hắn mệt đừ người ra, dở khóc dở cười...
Gian phòng, không có một điểm ánh sang mặt trời, không rõ bắt đầu từ lúc nào, bên ngoài có người đưa cơm tới, đã bốn năm lượt rồi, nhưng bọn thiếu nữ thập thò, thập thò chẳng nàng nào bước vào, chúng nhìn hắn, chúng cười cười.
Ngồi một chỗ, Phương Bửu Nhi tìm hiểu mãi, đây là địa phương nào, gia gia của Tiểu công chúa là nhân vật ra làm sao, tại sao lão ấy chẳng đến kiểm soát qua, xem con gái làm gì, bởi ít nhất, dù là nam nhân, bổn phận làm cha bắt buộc lão phải thinh thoảng đến kiểm soát sinh hoại của con gái chứ. Từ lúc Phương Bửu Nhi vào đây, thời khắc trôi qua đã lâu quá rồi mà chẳng thấy lão đến. Lão không đến, thì còn mẹ nàng nàng còn mẹ chăng hay mồ côi mẹ?
Tiểu công chúa lại quay về với việc cắm hoa, nàng làm cái việc đó hết sức chăm chú nhờ vậy mà Phương Bửu Nhi được rảnh rỗi, trong khi chờ đợi thực hành những điều kiện kế tiếp.
-
Hắn lặng lẽ nhìn nàng bận rộn với, việc cắm hoa.
Có lẽ nàng thích thú với lối cắm hoa, mặt nàng tươi tỉnh lạ, ánh mắt ngời vẻ đắc ý.
Nàng cắm hoa khéo quá, Phương Bửu Nhi hết sức thán phục, bất giác buột miệng khen, rồi hắn vỗ bàn tán thưởng, rồi hắn hỏi:
- Thuật cắm hoa của cô nương học của ai thế?
Tiểu công chúa đáp:
- Gia gia có một vị bằng hữu, nghe nói vị đó là một bậc kỳ nhân trên đời này, mấy năm trước vị kỳ nhân đó đến đây một lần, gia gia ta hết lòng khẩn khoản lưu người lại để giáo huấn ta, nhưng người ch ở lại độ tháng, dạy ta cái thuật cắm hoa, chiều cắm hoa, ngày ngày cắm hoa, ta chán qụá, trái lại gia gia thì cao hứng quá, cho rằng cắm hoa càng có cái đạo lý riêng biệt, đạo lý đó bao hàm một bí quyết luyện võ công đến chốn thâm diệu vô cùng.
Phương Bửu Nhi lắc đầu:
- Tôi không tin như vậy!
Tiểu công chúa mỉm cười:
- Chính ta, ta cũng không tin, ta hỏi gia gia. Gia gia cũng chẳng biết giải thích làm sao cho ta hiểu, dù chính người nói ra như thế.
Nhưng người khuyên ta cứ chăm cắm hoa, ta vâng lời lo cắm hoa. Ta cũng chẳng lưu ý nghiên cứu tìm một liên hệ giữa thuật cắm hoa và võ thuật. Đến một hôm ta chợt cảm thấy thích cắm hoa, cái hứng đã có rồi, ta càng chăm chú cắm hoa mãi đến lúc ta học xong cái thuật cắm hoa ta mới thức ngộ trọn vẹn đạo lý cao thâm của việc cắm hoa.
Phương Bửu Nhi thở dài:
- Có lẽ tôi cũng đã thức ngộ như cô nương? Cũng thời bao nhiêu đóa hoa đó, nếu là tôi, tôi có lối cắm khác, và dĩ nhiên kém cô nương. Cũng thời bao nhiêu hoa đó, cô nương có nhiều lối cắm, lối nào cũng tuyệt diệu. Suy rạ.. suy ra ...
Hắn muốn đưa ra một thí dụ nhưng chưa tìm được một thí dụ xác đáng đành ú ớ.
Tiểu công chúa tiếp:
- Ví dụ như một thanh kiếm, cũng thời một kiếm pháp, người có võ công cao, có lối sử dụng ảo diệu hơn người học võ tầm thường.
Phương Bửu Nhi tán đồng ngay lý luận đó:
- Đúng vậy! Đúng lắm!.
Hắn nhìn sững Tiểu. công chúa một lúc, sau cùng lẩm bẩm:
- Kỳ quái thật? Những sực việc rất thông thường thì cô nương chẳng hiểu gì cả. Còn những điều cao thâm, huyền diệu thì cô nương lại quá tinh tường, một bậc lão thành chưa hẳn có nhận xét chí lý như cô nương?
Tiểu công chúa mỉm cười:
- Thật vậy à?
Phương Bửu Nhi tiếp nối:
- Nếu tôi đoán không lầm thì cô nương có biết võ công?
Tiểu công chúa gật đầu :
- Đương nhiên!
Sanh trong nhà võ dĩ nhiên phải biết võ, nhưng giọng nói của nàng có cái ý nghĩa khác, không phải vì sanh trong nhà võ rồi đương nhiên biết võ mà thôi, chừng như nàng cho rằng hễ là ccon người là phải biết võ, nếu chẳng biết võ, chỉ là một quái vật không hơn không kém.
Lâu lắm, nàng hỏi:
- Ngươi có muốn ta thi triển một vài chiêu thức cho ngươi xem không?
Phương Bửu Nhi cau mày lắc đầu:
- Không! Không!
Nói đến võ công là hắn nghe đầu nhức ngay còn nhìn người biểu diễn làm sao được?
Hắn đã quá ngán rồi, từ lúc rời nhà ra đi đến nay, hắn đã mục kích hơn một lần cảnh đánh nhau, sát hại nhau, hắn gớm và cái ý chí không bao giờ luyện võ lại càng được hắn cũng cố hơn.
Đối với võ công, hắn có cảm tưởng là nên sợ kính nhi viễn chi, như đối với quỷ thần. Gần quỷ thần là có hại, thì gần võ công cũng thế, gần võ công là gần máu đổ, thây rơi, gần tang tóc.
Tiểu công chúa trừng mắt nhìn hắn, gắt:
- Nếu ngươi nói không muốn xem, ta lại thích biểu diễn cho ngươi xem, nếu ngươi nói thích xem, ta lại cảm thấy biếng nhác biểu diễn.
Phương Bửu Nhi vội đổi câu nói:
- Tôi muốn! Tôi muốn!
Tiểu công chúa bật cười khanh khách:
- Ngươi đã muốn rồi đó. Đã muốn thì phải xem, không xem không được!
Phương Bửu Nhi sững sờ, biết mình kẹt rồi, chỉ còn có nước ngồi ỳ ra đó, chờ xem.
Hắn than thầm, vô luận là hắn nói thế nào tiểu công chúa cũng tìm cách xoay chiều, đưa hắn vào tròng. Điều đó làm cho hắn tức uất, song biết rõ có tức uất cũng vô ích, cho nên hắn cố lờ đi bởi càng nghĩ tới càng khó dằn lòng.
Tiểu công chúa nhìn hắn, thấy thái độ của hắn nàng thích thú vô cùng, nàng vừa cười vừa thốt:
- Ngươi đừng phát cáu lên chứ, trông ngươi khôi hài quá! Ta thích khiêu khích cho ngươi phát cáu, để xem mặt mày ngươi khôi hài như thế nào, nếu ngươi không giữ ý, thì chỉ làm trò cười cho ta thôi!
Phương Bửu Nhi sa sầm gương mặt đôi mày cau lại.
Tiểu công chúa đảo bộ, bước ra chỗ trống, tung mình lên không nhẹ như chim yến, rồi từ nơi không trung nàng xoay chuyển thân hình, tà áo trắng bay lả lướt, bật kêu phần phật, trông nàng mường tượng con bướm vờn hoa, chập chờn, nàng vung tay, đá chân, quay quay một lúc bỗng nàng đáp xuống bát nước trong.
Tiếng là cái bát chỉ vì hình thức vật đó là cái bát chứ nó khá to lớn, to bằng một chiếc bồn thường, dĩ nhiên nước chứa khá nhiều.
Phương Bửu Nhi tưởng đâu nàng sơ xuất rơi xuống đất, giật mình toan chạy tới đỡ nàng, nhưng chân nàng với chấm mặt nước nàng đã vút mình trở lại không trung, rồi đáp xuống đầu cành hoa trong chiếc bình cứ tư thế đó, nàng đứng một lúc Trừ loài bướm, trên thế gian này có loài động vật nào đáp trên cành hoa, nhẹ nhàng không chút lay động? Chỉ có loại dế trùng, nhưng các loại đó chẳng thích hoa.
Vậy mà nàng đứng được, bình hoa chẳng ngả đóa hoa chẳng rung.
Nàng đứng thư thả quá, chẳng khác nào đứng trên mặt đất.
Màu hoa phản chiếu, màu áo phản chiếu gương mặt đẹp, thân hình có những đường cong tuyệt mỹ, tuy những đường cong đó chưa nẩy nở hoàn toàn trong lứa tuổi của nàng, lúc đó nàng đẹp tuyệt vời, đẹp hơn một tiên nữ hạ trần, duyệt hoa để so sánh sắc người và sắc hoa.
Giàu tưởng tượng một chút người ta có thể cho nàng là một tiên nữ đang hiện trên mặt Bát Bửu Liên Trì...
Phương Bửu Nhi thật sự không thích võ công, song cảnh trước mắt là một tiên cảnh, hắn khoái trá mê mệt nhìn và cuối cùng thì hắn không dè dặt nữa reo lên:
- Tuyệt, tuyệt, cô nương có thân pháp phi phàm!
Thân pháp đối với hắn chỉ là động tác của thân thể chứ hắn có hiếu thân pháp là gì theo võ đâu? Hắn vẫn dùng danh từ đó như thường theo ý của hắn.
Tiểu công chúa khẽ nhún đôi chân bay vút lên không, tà tà đáp xuống nền phòng mỉm cười:
- Chẳng có gì đáng khen cả. Chắc chắn những tay võ sư trên giang hồ trông ta biểu diễn sẽ nhận thấy nhiều sơ hở cần sửa chữa. Bất quá ta có chút thân pháp xoàng xoàng thôi.
Phương Bửu Nhi thở dài:
- Nếu những gì cô nương vừa thi triển mà gọi là xoàng thì trên thế gian này không có tay nào đáng đựợc người đời chú ý.
Tiểu công chúa nhìn hắn:
- Thế ra ngươi cũng biết võ công?
Phương Bửu Nhi lắc đầu :
- Tôi làm gì biết võ công? Tuy nhiên với đôi nhãn quang phàm tục tôi cũng có thể nhìn thấy cái giá trị thân pháp của cô nương. Vả lại trong gia đinh tôi, trừ tôi ra chẳng học võ công, chứ ngoại công tôi, gia gia tôi, mẹ tôi, tất cả đều biết.
Hắn muốn nói cả ba người đó đều là cao thủ, nhưng qua một sự so sánh chớp nhoáng giữa những người thân và tiểu công chúa, hắn không dám quả quyết sự hơn kém của song phương, thành thử hắn không dám dùng mấy tiếng cao thủ.
Còn một lý do khiến hắn không thể gọi ông ngoại và cha mẹ là cao thủ vì gia gia của công chúa là một nhân vật còn xa lạ quá đối với hắn, con người đó sống trong khung cảnh quá bí mật, hẳn phải có lai lịch bí mật, và như vậy hẳn cũng phải lợi hại lắm, chắc chắn lão chẳng kém ông cha hắn, thì làm sao hắn dám xưng ông cha là cao thủ?
Hắn bỏ lửng câu nói ròi liên tưởng đến tình cảnh hiện tại của hắn, bị đưa về cái chỗ thần bí này, biết đến ngày nào hắn thoát ra được mà trở về nhà?
Bất giác, hắn mơ màng đến xuất thần.
Tiểu công chúa thấy hắn đột nhiên lại bỏ dở câu nói, lấy làm lạ nhìn hắn một lúc rồi hỏi:
- Ngoại công ngươi làm sao? Gia gia và mẫu thân ngươi làm sao?
Phường Bửu Nhi giật mình toan đáp, bỗng vừa lúc đó, cả tòa kiến trúc chuyển động kịch liệt đến độ Tiểu công chúa không còn giữ nổi thăng bằng, ngã nhào xuống nền phòng, mặt hắn xanh dờn, chẳng còn một hạt máu. Tiểu công chúa cười dịu :
- Tiểu tử! Ngươi sợ à? Sợ gì chứ? Ta đỡ ngươi dậy cho lấy lại bình tĩnh đi!
Nàng đưa cánh tay trắng nõn như ngà chuốt, nắm hắn kéo đứng lên.
-
Hồi 04
Cuồng Ngạo Chấp Vương Hầu
Nhưng nàng chưa chạm vào mình, hắn đã tự đứng lên được, đứng lên rồi hắn lại ôm chầm lấy Tiểu công chúa, run run giọng thốt:
- Nguy! Nguy rồi cô nương ơi! Trời long, đất sụp.
Chúng ta chạy nhanh lên, nếu không thì mất mạng cả.
Tiểu công chúa bật cười khanh khách:
- Tiểu tử! Ai bảo với ngươi là trời long đất sụp?
Bất quá, chiếc thuyền của chúng ta vào bờ, chạm phải đất liền. Ngươi sợ đến thế ư?
Phương Bửu Nhi sững sờ, một lúc lâu, mới cất tiếng được:
- Chúng tạ.. đang ở trên thuyền?
Tiểu công chúa gật đầu:
- Không ở thuyền thì ở đâu?
Phương Bửu Nhi trố mắt:
- Nếu là ở trên thuyền, tại sao tôi không có cảm giác gì cả? Ít nhất con thuyền cũng chao chao, không mạnh cũng nhẹ chứ?
Tiểu công chúa cười hì hì:
- Chỉ vì con thuyền to lớn quá, vì nó to lớn nên sóng chẳng làm gì chuyển nó nổi, ngươi còn cảm thấy nó chao chao làm sao được?
Rồi nàng gắt:
- Thôi buông ta ra đi!
Đến lúc đó, Phương Bửu Nhi mới nhận ra là trong lúc hoảng hốt, hắn ôm chầm lấy nàng, hắn thẹn đỏ mặt, buông nàng ra ngay, nhưng cũng liền lúc, hắn cảm thấy vòng tay chạm vật gì mềm mại quá, vật đó lại thơm thơm, lúc ôm cứng thì chẳng nghe gì, khi buông lơi rồi mới cảm thấy, tự nhiên hắn tiếc...
Tiểu công chúa trừng mắt:
- Nam nữ thọ thọ bất thân, vừa rồi ngươi ôm ta là ý tứ ra sao?
Câu nói đó, cách không bao lâu thời gian, nhưng Phương Bửu Nhi đã nói với một người, bây giờ có người nói với hắn y câu đó. Hắn thoáng đỏ mặt, ngây người chết thẹn, đúng là cái cảnh dở khóc dở cười.
Tiểu công chúa lại hét lên:
- Nói! Nói đi chứ! Ý tứ ngươi ra sao mà dám chạm vào mình ta?
Phương Bửu Nhi cúi thấp đầu, ấp úng:
- Tôi... tôi...
Hắn biết rõ là hắn khiếm nhã, nhưng nói làm sao cho xuôi đây? Y cần phải nói gấp, lại không có lời ổn thỏa, thành ra hắn khẩn trương ra mặt, hắn suýt bật khóc.
Bỗng Tiểu công chúa bật cười khanh khách:
- Thôi đừng quýnh quáng, ta nói đùa đấy. Thật ra thì ta cũng thích ngươi ôm ta lắm, ngươi ôm ta, ta nghe khoan khoái vô cùng!
Rồi bất thình lình nàng vươn hai cánh tay tới ôm quanh cổ hắn, rồi nàng ngẩng mặt, tìm má hắn, đặt môi vào, môi cận má thì nàng im, môi rời má thì nàng cười hì hì, cười hắc hắc.
Sau cùng nàng buông hắn ra, dang ra xa.
Phương Bửu Nhi lúc đó chẳng rõ mình khoan khoái hay chua chát nữa, hắn ngây người nhìn nàng, dù sao thì hắn cũng cảm thấy sự cọ chạm vừa qua, môi nàng áp vào má hắn, ngực nàng ép sát ngực hắn, hơi thở nàng phều phào, nhịp tim nàng thình thịch, hắn nghe sự cọ chạm đó gây cho hắn một đê mê, một rờn rợn...
Nàng bước đi được vài bước, dừng lại quay đầu nhìn hắn, chớp chớp mắt:
- Ngươi câm à?
Không câm thì còn nói gì? Chẳng lẽ bảo cho nàng biết là hắn đê mê, hắn rờn rợn, chẳng lẽ gọi nàng trở lại, tái diễn cảnh đó?
Hắn vẫn ngây người đứng lặng.
Nàng nói:
- Ngươi còn thiếu mấy điều kiện nữa?
Phương Bửu Nhi nhẩm tính, rồi đáp:
- Bốn!
Tiểu công chúa há miệng cười giòn, bày hai hàm răng trắng đều đặn:
- Vậy mà ta tưởng ngươi bỗng nhiên lại câm ngay. Thì ra ngươi còn nói được. Còn nói được sao ngươi nín lặng? Ta hỏi ngươi đang nghĩ gì?
Phương Bửu Nhi lắc đầu quầy quậy:
- Chịu thôi? Không nói được đâu. Ai lại nói những ý nghĩ đó ra chứ.
Tiểu công chúa hơi đỏ mặt một chút:
- Nói! Nói! Ta muốn ngươi nói cho ta nghe? Ta nóng nghe đây?
Phương Bửu Nhi né câu chuyện:
- Tôi tưởng... tôi tưởng con thuyền này... đã cặp bờ, chắc trên bờ có nhiều sự lạ lùng đáng xem, nếu cô nương muốn xem...
Tiểu công chúa sửng sốt trố mất nhìn hắn, chừng như nàng có vẻ thất vọng.
Không rõ vì sao, nàng vụt quay lưng lại hắn, chừng như chẳng muốn nhìn thấy hắn nữa, rồi nàng cúi gầm đầu xuống chừng như nàng khóc.
Phương Bửu Nhi vội bước tới, thấp giọng nói:
- Cô nương... Cô nương làm sao thế!
Tiểu công chúa cắn môi, giậm chân, không quay nhìn hắn, chỉ vẫy tay phía sau khoát khoát nói:
- Đi đi! Dang xa ta!
Phương Bửu Nhi dịu giọng:
- Nói đi, cô nương nói cho tôi biết tại sao cô nương khóc?
Tiểu công chúa căm hờn:
- Tiểu tặc! Tiểu quỷ! Tiểu bại hoại! Ta không nói! Ta không bao giờ nói cho ngươi biết đâu. Hừ? Ta hiểu mà, vừa rồi nào có phải ngươi nghĩ ngợi về ta đâu. Ta hận ngươi! Ta chẳng nói gì với ngươi đâu!
Nói như thế có khác nào sẽ cho hắn biết những gì nàng đang nghĩ, có điều đang lúc hận tràn lòng, nàng còn gay gắt vậy thôi, chung quy rồi nàng cũng nói. Vì hận, nàng hận vì Phương Bửu Nhi không dành trọn tâm tư nghĩ về nàng, lại nghĩ đến cái việc lên bờ xem cảnh.
Trên bờ thì có gì đáng xem? Hắn không thích ở cạnh nàng sao, lại đề nghị lên bờ? Nàng không xứng đáng cho hắn nhìn ngắm sao, lại đòi lên bờ?
Nàng hận như một đứa bé bị bạn lứa lờ đi để nghĩ đến chuyện gì khác. Nàng hận vì Phương Bửu Nhi không dành trọn tâm tư cho nàng.
Nàng bị chạm tự ái.
Phương Bửu Nhi thở dài:
- Ai bảo là tôi không nghĩ ngợi gì về cô nương? Tôi luôn luôn nghĩ ngợi về cô nương, phút giây nào tôi cũng nghĩ đến cô nương, tôi nghĩ ngợi đến phát cuồng được đấy cô nương ơi! Nín đi, cô nương đừng khóc, đừng khóc nhé.
Tiểu công chúa vụt quay mình lại đưa tay áo lau lệ, miệng điểm nụ cười, gằn từng tiếng:
- Thật vậy không?
Phương Bửu Nhi gật đầu:
- Thật mà! Ai nói dối cô nương làm gì?
Trong thâm tâm hắn tự trách mình:
- Tại sao ta có thể nói như vậy được? Từ bao lâu nay, có khi nào ta nói dối lừa người đâu? Sao bây giờ ta làm được việc đó? Hừ? Thật sự thì việc lừa người chẳng tốt đẹp gì đó, song hiện tại ta chẳng còn cách nào làm khác hơn bởi ta muốn cùng nàng lên bờ, có lên bờ ta mới tìm được cơ hội thoát đi. Thì muốn trở về nhà, ta phải lừa nàng, thiết tưởng ta chẳng có lỗi gì cả. Như vậy là ta làm một việc rất hợp lý, bởi biến phải quyền, cứ cố chấp tiểu mãi thì ta phải kẹt mãi. Huống chi đó là có lừa nàng, bất quá là chỉ muốn nàng vui vẻ, cởi mở kia mà, ta có hảo ý chứ đâu phải có ác tâm đối với nàng...
Đã có lý do tắc trách việc làm, Phương Bửu Nhi chẳng còn thắc mắc nữa.
Hắn nhìn sang Tiểu công chúa thấy nàng ngóc đầu trên bàn tay ra chiều suy nghĩ xa xôi.
Bỗng nàng hỏi:
- Có thật trên bờ vui lắm không? Tạ.. ta muốn lên đó xem cho biết!
Phương Bửu Nhi như cởi mở trong bụng, nhưng vẫn tỉnh bơ thản nhiên thốt:
- Có lẽ vui lắm, bởi dù sao thì khung cảnh trên bờ cũng không giới hạn quá hẹp hòi như trên một con thuyền. Cô nương muốn lên đó, thì cứ lên!
Tiểu công chúa thở dài cất giọng u buồn:
- Mỗi năm khi thuyền cập bến, gia gia có cái lệ nghiêm cấm ta trong vòng năm mười hôm bước ra khỏi phòng dù là một bước. Hiện tại chỉ là ngày thứ ba mươi mốt, làm sao ta dám rời phòng lên bờ được?
Phương Bửu Nhi thầm thương hại nàng, nghĩ:
- Thì ra nàng luôn luôn bị cấm cố trên thuyền, chẳng có cơ hội lên bờ, nhìn trời cao đất rộng, thảo nào mà nàng chẳng thấy một nam nhân, ngoài gia gia nàng? Thảo nào mà nàng chẳng mù mờ thế sự, suốt ngày nàng có việc gì làm khác hơn là đọc sách, ngâm thi, rồi suy nghĩ vẩn vơ. Cho nên trong cái quẩn, nàng khó tránh mang phiền phức vào tâm hồn.
Sống trong tịch mịch như thế, dù có ngồi trên bạc vàng cũng chẳng thú vị gì. Tưởng nên an ủi nàng một câu mà cũng vừa khuyến khích nàng, giả sử nàng chấp nhận thì hắn sẽ có dịp may, hắn dịu giọng thốt:
- Nếu lệnh tôn cấm đoán như vậy thì chúng ta liệu cách lén lên bờ.
Dù có bị phát giác ra, thiết tưởng cũng không phải là một tội nặng!
Tiểu công chúa trừng mắt, trong ánh mắt của nàng có vẻ kinh khiếp vô cùng:
- Lén? Gia gia sẽ phẫn uất, gia gia có thể chết vì sự phẫn uất đó!
Qua khẩu khí của nàng Phương Bửu Nhi biết ngay từ bao lâu rồi, nàng chẳng hề làm điều gì trái ý thân phụ nàng. Nàng xử sự đúng theo câu áo mặc chẳng quá khỏi đầu, phận làm con, cha mẹ khiến sao hay vậy.
Phương Bửu Nhi đưa ý kiến:
- Lệnh tôn không hay biết thì làm sao phẫn uất?
Tiểu công chúa lắc đầu không đáp.
Phương Bửu Nhi nói tiếp:
- Chúng ta len lén lên bờ, nhìn qua cảnh vật một tí, rồi xuống thuyền ngay, chúng ta sẽ thấy biết bao cái lạ, chẳng hạn liễu rủ đào hồng, chiếc cầu xinh, giòng nước nho nhỏ.
Tiểu công chúa đảo mắt đen lay láy, ánh mắt chớp ngời, trong ánh mắt đó hiện rõ cái ý muốn liều lên bờ, sau cùng nàng cười nhẹ gật đầu:
- Phải đấy? Gia gia không hay biết thì làm sao phẫn uất?
Phương Bửu Nhi vuốt:
- Tôi đã nói cô nương là con người thông minh tuyệt đỉnh, đã nghĩ đến việc gì nhất định là chu đáo lắm.
Nghe hắn tán, Tiểu công chúa cao hứng vỗ tay nhưng vẫn làm ra vẻ thơ ngây lỏi:
- Thật à? Ta thông minh lắm à? Hừ, ngươi dối gạt ta đó. Lúc ta lên năm tuổi, học kiếm thuật, gia gia ta thường mắng là ta ngu ngốc, rồi qua năm ta được sáu tuổi...
Nàng kéo dài câu chuyện, cốt để nghe Phương Bửu Nhi lập đi lập lại là nàng thông minh, càng nghe hắn lán, nàng càng khoái trá.
Phương Bửu Nhi sợ nàng nói mãi xa dần vấn đề chánh, và có khi nàng không còn thích lên bờ nữa, nên chỉ ấm ớ khen thêm mấy tiếng rồi buông gọn:
- Chúng ta có thể qua lọt cửa trước chăng? Bọn nào canh giữ phía đó?
Tiểu công chúa dù ngồi đấy mà nghe hắn tán tụng suốt ngày cũng chẳng chán, nghe hắn khen bâng quơ mấy tiếng, nàng tỏ rõ thất vọng ra mặt, đã thất vọng. thì còn gì cái hứng lên bờ, nàng đáp nhẹ:
- Bên ngoài cửa có đông người lắm. Nhưng... nơi đây có một lối thông bí mật có thể theo con đường đó đi thẳng đến khách sảnh của con thuyền, mà khỏi lẩn ra lối cửa trước. Đến khách sảnh rồi ta có cách lên bờ mà không ai trông thấy.
Phương Bửu Nhi mừng thầm thốt:
- Vậy thì hay quá!
Hắn trầm ngâm một chút tỏ vẻ lo ngại:
- Nếu lệnh tôn có mặt tại khách sảnh?
Tiểu công chúa lắc đầu:
- Suốt ngày gia gia ở trong thư phòng, không khi nào người có mặt tại đại sảnh.
Nàng vừa thốt vừa bước tới trước tấm gương bằng đồng. chải lại mái tóc.
Phương Bửu Nhi giục:
- Đi cô nương? Chúng ta nhanh lên một chút!
Tiểu công chúa quay lại trừng mắt nhìn hắn, gắt:
- Ít nhất ngươi cũng phải để cho ta sửa dạng lại một chút chứ! Nếu luộm thuộm quá ta còn làm sao nhìn thấy người trên bờ?
Phượng Bửu Nhi lại tán:
- Vậy là đẹp lắm rồi. Bình sanh tôi chưa từng thấy thiếu nữ nào đẹp bằng cô nương, dù cô nương không sửa soạn, cũng xứng đáng là đệ nhất giai nhân trong thiên hạ.
Tiểu công chúa sáng mắt lên:
- Thật vậy à? Tạ..
Phương Bửu Nhi sợ nàng lại biến chứng, dần dà rồi mất cơ hội, hấp tấp gật đầu:
- Nói thật mà, cô nương cứ tin tôi!
Rồi hắn hỏi nhanh:
- Lối đi bí mật ở chỗ nào đâu, cô nương?
Tiểu công chúa đưa bàn tay trắng có ngón thon tròn chỉ bên dưới bức màn:
- Phía dưới, bên trong bức màn đó.
Nàng bước tới vẹt bức màn qua một bên, phía sau, quả có một lối đi hơi ăn sâu xuống lườn thuyền.
Nàng đứng lại tại đó, quay đầu nhìn Phương Thiếu Nhi bám sát bên nàng, do dự:
- Ta sợ quá? Tim ta bắt đầu đập mạnh rồi!
Phương Bửu Nhi vội tìm lời trấn an nàng, rồi cả hai, theo lối đi bí mật đó tiến tới.
Một con đường trong khoang thuyền tự nhiên không được rộng lắm, và phải khúc chiết quanh co, họ đi một lúc thì đến bậc thang.
Tiểu công chúa khẽ thốt bên tai hắn:
- Lên tới đầu thang, là lọt vào đại sảnh.
Nàng với tay nắm cánh tay Phương Bửu Nhi từ từ tiến lên từng nấc thang.
Từ lúc vào con đường bí mật, Phương Bửu Nhi hồi hộp vô cùng, càng đi tới hắn càng hồi hộp hơn, tim hắn đập mạnh, chân hắn run run cơ hồ ngã xuống.
Đến đầu thang, Tiểu công chúa đẩy nắp ván lên chui ra. Phương Bửu Nhi chẳng chậm trễ theo liền.
Trong con đường bí mật bóng tối dày bao nhiêu thì nơi đây sáng sủa bấy nhiêu. Tuy trong một khoang thuyền nhưng khách sảnh rộng rãi không kém tại một dinh thự nào, đủ biết con thuyền này to lớn đến đâu, có lẽ nó to hơn một tòa nhà nguy nga đồ sộ trên đất liền.
Vào một khung cảnh lạ, Phương Bửu Nhi không còn tâm tưởng nào nhìn ngang nhìn dọc, chủ tâm của hắn là làm sao lên được đất liền, hắn vội bước đến cạnh cửa sổ nơi hông nhìn ra bên ngoài.
Nhưng vừa lúc đó có tiếng chân người vang lên, tiếng chân càng lúc càng nghe lớn, chứng tỏ người nào đó đang tiến đến khách sảnh.
Phương Bửu Nhi thầm kêu khổ:
- Thế là hỏng ? Vĩnh viễn ta không còn cơ hội nào nữa rồi.
Hắn nhìn qua Tiểu công chúa, trông thấy nàng biến sắc, mặt trắng nhợt, nàng run run giọng thốt gấp:
- Nguy! Nguy rồi! Có người đến ? Làm sao bây giờ?
Nàng nắm lay Phương Bửu Nhi ý chừng định lôi hắn trở lại khoảng trống chui xuống thang...
Nhưng tiếng chân người mỗi lúc mỗi vang lên rõ rệt, nàng không còn kịp kéo Phương Bửu Nhi chui xuống, ngó quanh quẩn chợt nàng thấy nơi một góc khách sảnh có bức màn, rũ xuống sát sàn thuyền, cả hai không còn chần chờ được nữa vội nhào về phía đó, chui qua bên kia bức màn.
Tiểu công chúa ghé sát miệng bên tai Phương Bửu Nhi thì thầm:
- Đừng nhúc nhích! Đừng nhé! Nếu gia gia ta phát giác ra, ta sẽ khổ mà ngươi cũng chẳng an nhàn gì đâu!
Phương Bửu Nhi bị hơi gió từ miệng nàng phào qua lỗ tai, nghe nhột nhột suýt buột miệng cười, nhưng hắn dằn lại được, khẽ gật đầu tựa lưng vào vách.
Hắn đứng đúng một chỗ có lợi thế, nhìn được bên ngoài, nhưng muốn nhìn phải nhắm một bên mắt, nhìn bằng một bên, vì trước mặt hắn có một khe hở nhỏ.
Bên ngoài bức màn, lúc đó một người xuất hiện có thân hình to lớn, người đó là một nữ nhân, song thân vóc lực lưỡng như một nam nhân, khom mình quét khắp mặt sàn thuyền, dù sàn thuyền đã sạch bóng.
Quét xong, người đó lại lấy vải lau, tiếng lau nghe soàn soạt.
Bỗng có tiếng vòng ngọc chạm vào nhau, vang bên tai hắn, hắn thầm nghĩ:
Tiểu Linh Đang! Nàng đã đến!
Đúng như Phương Bửu Nhi dự đoán, Tiểu Linh Đang bước vào hỏi:
- Đã sạch sẽ chưa?
Nữ nhân đáp:
- Trình cô nương, đã sạch rồi!
Nữ nhân vâng một tiếng, thu dọn chổi giẻ, rồi bước ra.
Phương Bửu Nhi thầm kêu khổ, than khẽ:
- Lại nguy nữa rồi? Khách đâu có khách tai hại thế! Trước không tới, sau không tới, lại chờ lúc ta có mặt tại đây mà tới! Tới đây rồi chừng nào mới rời đi?
Đứng trong chỗ khuất, tiểu công chúa chẳng thấy gì bên ngoài bức màn, chỉ thấy Phương Bửu Nhi chăm chú nhìn qua khe hở, động tính hiếu kỳ, nàng tới gần hơn, khom mình nhìn như hắn.
Lúc nàng ghé mắt vào khe hở, bên ngoài Linh Nhi hai tay kéo là áo cho thẳng và nhếch lên, mình hơi nghiêng tới, cất giọng cung kính thốt:
- Chỗ tiếp khách đã lau sạch sẽ rồi, cung thỉnh Hầu Gia đến xem qua!
Có tiếng cửa mở, cửa đóng mấy lượt, điều đó có nghĩa là có nhiều vọng cửa được mở, đóng, rồi tiếp theo đó, tiếng y phục vang lên...
Mười sáu thiếu nữ vận cung trang, quần quét đất, tay cầm thẻ ngọc, tay cầm quạt tơ, từ từ bước vào, phân đứng hai bên.
Kế đó, bốn thiếu nữ khác cũng vận cung trang, tay cầm dĩa vàng, ủng hộ một người vận áo màu tía, bước trên nệm gấm từ từ bước vào.
-
Phương Bửu Nhi đảo mắt đủ mọi cách nhưng chẳng làm sao trông thấy mặt mày, hình dáng người áo tía, giữa bọn thiếu nữ cung trang, bất quá hắn chỉ thấy từng lõm y phục qua lỗ hổng giữa bọn thiếu nữ, chứ chẳng hề nhìn được độ nửa phần người, dù trên dù dưới.
Tiểu công chúa vạch bàn lay Phương Bửu Nhi, dùng ngón viết vào lòng ba chữ:
“Gia gia ta.” Phương Bửu Nhi gật đầu, hắn đang chăm chú nhìn người đó, nhưng không trông thấy gì cả, bọn thiếu nữ cung trang giăng hàng ngang, chặn tầm mắt của hắn.
Chẳng những bọn thiếu nữ che khuất mà khi người đó vào trong đại sảnh, lại có một tấm bình phong ngăn chặn, nếu chàng cố nhếch đầu lên cao thì sợ gây nên tiếng động, còn như cúi thấp xuống bất quá chỉ thấy đôi chân.
Chàng ước đoán, có lẽ đó là một kỳ nhân, tính hiếu kỳ, mỗi phút mỗi khích động, chẳng biết làm cách nào trông thấy rõ mặt mày được.
Tuy nhiên, nhón cao không được, hắn lại cúi thấp cúi sát sàn thuyền, dù chẳng thấy gì nhiều, cũng thấy ít, thà có thấy còn đỡ tức hơn.
Bên cạnh đôi chân người đó có một con mèo, nằm khoanh, lông trắng mượt.
Hắn chỉ thấy được bao nhiêu đó thôi!
Bỗng, có tiếng tiêu, tiếng sáo vang lên, rồi nhiều loại nhạc khí khác phụ họa, tiếng nhạc vang rền, Phương Bửu Nhi chẳng rõ phát xuất từ phía nào.
Linh Nhi lại kéo vạt áo, nghiêng mình sát ván thuyền, kính cẩn hỏi:
- Xin Hầu Gia cho biết có thể mở cửa được chưa?
Bên trong bức bình phong, một giọng nói uể oải vang lên:
- Ngươi là sứ giả tiếp khách, mọi việc tùy ngươi định liệu!
Giọng nói tuy uể oải, nhưng hòa hoãn, dịu hiền, một giọng nói của hạng người bình sanh không hề khẩn cấp, nôn nao, bất cứ trong trường hợp nào. Giọng nói của hạng người bình tĩnh lạ.
Không khẩn cấp, không nôn nao, tất nhiên không bao giờ quan tâm đến bất cứ sự việc gì, có lẽ trời sanh ra người đó, để hưởng đúng hai chữ vô sự.
Linh Nhi vâng một tiếng, dập đầu lượt nữa đoạn đứng lên xoay mình bước đi.
Phương Bửu Nhi chăm chú nhìn bên dưới tấm bình phong, bỗng thấy một bàn tay trắng như ngọc, không chút tỳ vết, hai ngón cái và trỏ kẹp đuôi một con lý ngư, cá màu vàng phản ánh với màu trắng của bàn tay, cả hai màu đều óng ánh chớp ngời.
Rồi thì con mèo trắng muốt vươn dài mình ra, ngẩng mỏ đớp nhanh lý ngư, đớp xong cong mình khoanh tròn nơi chân của chủ nhân.
Người vận áo tía đưa bàn tay đó, xoa xoa trên mình con mèo ra chiều quý mến nó lắm.
Phương Bửu Nhi mục kích cảnh đó, vừa kinh hãi vừa mừng.
Hắn kinh hãi vì lý ngư, màu vàng, một sinh vật rất quý, một con như thế trị giá ít nhất cũng trăm vàng, đắt giá như vậy mà người áo tía lại tìm cho kỳ được, chẳng tiếc rẻ gì đem cho con mèo ăn. Trên thế gian này có ai dám lấy vật trị giá trăm vàng nuôi thú? Và nuôi hằng bữa?
Còn hắn mừng là vì chung quy rồi hắn cũng thấy được bàn tay của người đó.
Thấy được một bàn tay, trong khi hắn mong muốn thấy toàn diện con người, kể ra cũng đủ lắm rồi, hơn là chẳng thấy gì hết.
Lúc đó Linh Nhi đã ra khỏi cửa thuyền đứng trước mũi. Sóng nước vỗ mạn thuyền, bắn bọt tung tóe, bọt văng lên sàn thuyền. Trước mũi thuyền có ba chiếc bè, trên bè có độ mấy mươi người, cao có, thấp có, ốm mập bất đồng đang đứng thẳng người.
Con thuyền rất lớn, lường sâu trong nước, vì sâu nên thuyền không cặp sát bờ được, từ thuyền vào bờ phải dùng bè.
Mũi thuyền cao, bè dưới thấp, Linh Nhi đứng đó chẳng khác nào một tiên nữ hạ trần, chơi vơi nửa từng trời xanh nhìn xuống, còn người trên bè thì ngẩng mặt nhìn lên.
Linh Nhi điểm nụ cười hòa dịu, cất tiếng hỏi:
- Các vị đến đây, chỉ để nhìn tôi hay có ý tham kiến Hầu Gia?
Mấy mươi người đó giật mình, chưa kịp nói gì, Linh Nhi tiếp:
- Nếu các vị có ý tham kiến Hầu Gia, tôi xin mời tất cả lên thuyền!
Bọn người trên bè nhao nhao, ai cũng muốn lên thuyền.
Đột nhiên, Linh Nhi cao giọng:
- Hãy khoan! Hầu Gia có trao tôi một bảng danh sách đây, chỉ những người nào có tên trong danh sách mới được lên thuyền, không có tên mà cứ lên, thì chừng muốn xuống bè cũng không được đâu đấy! Tôi có lời nói trước, nếu có vị nào chẳng tuân theo, lỡ có bề gì đừng trách tôi?
Người trên bè thì thầm bàn tán.
Có kẻ cao giọng nói:
- Hầu Gia của cô nương vừa từ ngoài khơi cập bến, làm sao biết được những ai đến đây yết kiến mà lập bảng danh sách?
Linh Nhi cười nhẹ:
- Việc nhỏ mọn như vậy, làm gì Hầu Gia chúng tôi lại chẳng biết?
Nàng lấy trong tay áo ra một mảnh giấy mỏng, buông mảnh giấy bay xuống bể.
Người trên bè đinh ninh là thế nào mảnh giấy cũng bị gió tạt bay luôn ra biển, bất ngờ mảnh giấy như có bàn tay điều khiển, từ trên rơi xuống không chênh lệch chút nào, rơi đúng trên bè.
Có kẻ thích chí quá reo lên:
- Tuyệt! Tuyệt! Cô nương quả có công phu tuyệt đỉnh.
Linh Nhi mỉm cười:
- Các vị cứ đọc danh thiếp, ai có tên cứ tự tiện lên thuyền!
Danh sách ghi đúng tất những người thành danh, hiện có mặt trên bè. Trong số những người hiện diện, có mặt vị thuộc hàng thông thường chẳng mấy được trọng vọng lắm, những người đó không có tên trong bảng danh sách.
Tất cả đều lộ vẻ kinh hãi ra mặt.
Linh Nhi trông thấy thần thái của họ, khẽ điểm một nụ cười đắc ý, ánh thu ba chớp lên, thốt:
- Nào, xin mời những vị nào có tên trong danh sách, lên thuyền ngay.
Nàng quay mình bước vào khoang thuyền.
Bọn người trên bè lần lượt lên thuyền, họ gồm toàn những tay có thuật khinh công tuyệt diệu, từ dưới bè nhảy lên đáp xuống sàn thuyền, không gây một tiếng động.
Nếu Phương Bửu Nhi có mặt tại chỗ lúc đó, hắn sẽ ức đoán là Linh Nhi đã lên bờ quan sát tình hình trước, kiểm điểm số người, hỏi rõ tên họ lai lịch rồi lập bản danh sách. Trong khi nàng làm công tác đó, gặp hắn bắt hắn mang luôn về đây, giao cho Tiểu công chúa.
Nhưng hiện tại hắn bị kẹt sau bức màn trong đại sảnh, nên chẳng hiểu những gì đã xảy ra bên ngoài.
Hắn nấp tại đó một lúc lâu, nghe Linh Nhi trở lại, hắn càng nép sát mặt xuống sàn thuyền, thấy hơn mười đôi bàn chân bước đều theo sau nàng.
Những đôi bàn chân đó có hình thức bất đồng, màu và kiểu của những đôi giày cũng bất đồng luôn. Trong số đó có một cặp chân không mang giày.
Phương Bửu Nhi lấy làm lạ, thầm nghĩ:
- Cứ theo khí thái của Hầu gia, thì lão hẳn là một nhân vật phi thường, thế tại sao lão thỉnh số tân khách quái dị? Họ mang những kiểu giày hết sức quái đản, bình sanh ta chưa hề trông thấy.
Linh Nhi cao giọng trình:
- Tân khách đã đến, xin Hầu Gia phát lạc!
Có giọng nói vừa trầm dịu vừa hòa hoãn vang lên:
- Mời vào!
Hai mươi đôi bàn chân từ từ bước qua Linh Nhi vượt qua cửa đại sảnh vào trong.
Cớ kẻ mọp sát cung kính lạy, nhưng tất cả đều đứng lại không ai dám bước xa hơn ngưỡng cửa ngoài ba thước.
Phương Bửu Nhi biết rõ những kẻ nào không lạy, hẳn phải nghiêng mình vòng tay vái chào, rồi phân ra dạt về hai bên vách đại sảnh ngồi xuống ghế đã được kê sẵn.
Riêng có người đi chân không, từ lúc vào đại sảnh không hề dừng bước, cứ đi thẳng đến ghế ngồi xuống.
Phương Bửu Nhi động tính hiếu kỳ muốn biết rõ dung mạo của người đó, để xem hắn là con người như thế nào lại thản nhiên đặt ngoài vòng cung cách sùng kính của tân khách dành cho Hầu gia.
Hắn đứng lên, nhón gót, cố nhìn qua khe hở bức màn, từ bên trên đầu tấm bình phong, nhưng mười sáu nàng thiếu nữ vận cung trang, đứng thành hàng chắn ngang tầm mắt, hắn chẳng trông thấy gì cả.
Bên ngoài Linh Nhi nhoẻn miệng cười tươi đảo nhìn quanh tân khách một lượt, đoạn cao giọng nói:
- Các vị từ bốn phương tám hướng vượt nghìn dặm đến đây cầu kiến Hầu Gia, chắc cũng phải thỉnh giáo những điều cần thiết, chẳng hay vị nào cất tiếng trước?
Một người đáp:
- Bọn tại hạ, chẳng từ đường xa, đến chốn này, tức nhiên là phải có việc cần thỉnh giáo nơi Hầu Gia. Xét ra, người ở càng xa càng có việc tối quan trọng, vì quan trọng nên chẳng quản đường dài, và cũng vì cái lẽ tối quan trọng cần phải có nhiều thời gian mới trình bày cặn kẽ. Vậy những ai từ xa xôi đến nên nhường cho những vị Ở cần nói trước bởi ở gần thì khi nào đến đây cũng được, dễ đi, dễ đến, thì sự việc dù sao cũng chẳng quan trọng hơn.
Giọng nói của người đó khó nghe vô cùng, mường tượng giọng của một con chim anh vũ nói tiếng người.
Linh Nhi mỉm cười thốt:
- Nếu thế vị nào ở gần mà có sự việc ít quan trọng xin lên tiếng.
Bọn tân khách trầm lặng một lúc lâu, chưa ai chịu nói trước.
Bỗng một người cất tiếng:
- Các vị đã khiêm nhường thì Thiết Kim Đao tại đất Huỳnh Châu xin mạn phép thỉnh giáo Hầu Gia trước tiên!
Câu nói buông dứt, một đại hán vận áo gấm bước ra.
Nhờ người đó đứng lên, Phương Bửu Nhi mới trông rõ được mặt mày của y, một gương mặt ở khoảng giữa hai màu đen tím, oai khí bốc ngời, tóc và râu đều bạc nhưng thần thái trông còn cường tráng lắm.
Tay cầm một chiếc hộp bằng gỗ đàn hương màu tím, hông giắt đao dài, vỏ đao có nạm ngọc chiếu sáng ngời.
Phương Bửu Nhi nào biết Thiết Kim Đao là nhân vật ra sao, song nhìn vào phong độ của lão, hắn cho rằng lão không kém ông ngoại hắn là Thanh Bình Kiếm Khách, hắn không khỏi ngưỡng mộ thầm.
Linh Nhi nhìn lão hỏi:
- Thiết đại hiệp có biết quy củ của Hầu Gia chăng?
Thiết Kim Đao nghiêng mình đáp:
- Tại hạ có biết. Xin cô nương đừng xưng hô tại hạ như thế làm tại hạ áy náy quá.
Linh Nhi điểm một nụ cười:
- Với thanh kim đao đó, lúc thiếu thời Thiết anh hùng từng hạ sáu mươi bảy tướng cướp tại vừng Xuyên Ngạc thì hai tiếng đại hiệp nghĩ cũng thích đáng lắm chứ? Huống chi gần đây thanh danh nổi dậy như sấm rền tai, có thể bảo là công thành nghiệp tựu. Hôm nay đến đây chẳng hay Thiết đại hiệp có điều chi cần nhờ Hầu Gia giải quyết?
Nàng nhấn mạnh:
- Đã biết quy củ của Hầu Gia rồi, Thiết đại hiệp cứ trình lễ vật cho Hầu Gia xem đi!
Thấy một thiếu nữ tuổi chưa tròn hai mươi lại biết được những hành động trong quá khứ xa xôi, không khỏi giật mình kinh hãi, lão kính cẩn nghiêng mình thốt:
- Tuân lệnh!
Đoạn lão hạ chiếc hộp bằng gỗ đàn hương xuống.
Tiếng là hộp, nhưng nó cũng khá to, bằng một chiếc rương nhỏ, lão mở nắp ra, kiểm điểm lại một lượt, rồi hai tay nâng cao.
Mọi người đều nghĩ là trong chiếc hộp đó phải có kỳ trân dị bửu, nhưng chiếc hộp chỉ đựng mấy quyển kinh, sách, giấy đã ngả màu vàng.
Lão cung kính thốt:
- Vãn bối chẳng có vật gì quý giá, chỉ có pho Phật Kinh của Vương Hy Chí xin mạo muội cung kiến Hầu Gia!
Phương Bửu Nhi là con mọt sách, hắn thừa hiểu pho Phật Kinh của Vương Hy Chí bình chú là một pho sách quý giá vô cùng trên thế gian này không có một trân bửu nào sánh bằng, hắn giật mình, thầm hỏi lão ấy tìm đâu ra một pho sách quý, dâng lên cho gia gia tiểu công chúa.
Giữa Hầu Gia và tân khách có tấm bình phong chắn ngang từ bên trong có tiếng trầm trầm dịu dịu vọng ra:
- Thật vất vả cho ngươi quá. Linh Nhi hãy thu nhận đi.
Giọng nói hết sức thản nhiên, chẳng biểu lộ một chút gì xúc động, chừng như vật báu do Thiết Kim Đao vừa cống hiến chẳng có giá trị gì đối với Hầu Gia cả. Phàm con người dù chẳng có tánh tham, thấy được một vật báu vô giá trên đời, cũng không tránh được phần nào xúc động, hoặc phải tặc lưỡi, hoặc phải trố mắt hoặc buột miệng khen, thái độ có ít nhiều dao động. Nhưng vị Hầu Gia này chẳng mảy may chú ý. Nghĩ cũng kỳ!
Linh Nhi đưa tay tiếp lấy chiếc hộp, mỉm cười:
- Hầu Gia đã chấp nhận lễ vật rồi, Thiết đại hiệp có gì xin cứ nói!
Thiết Kim Đao lộ vẻ mừng, lại nghiêng mình kính cẩn hơn bao giờ hết.
Lão suy nghĩ một chút rồi trấn tĩnh:
- Bảy mươi năm trước đây, tại đất Huỳnh Châu, có nhóm Ngọa Hổ Đao, tại đất Tín dương, do nhóm Bàn Long Câu, cả hai nhóm cùng quật khởi một lượt trên giang hồ, người đương thời xưng là Ngọa Hổ Bàn Long Đao Câu Song Hùng oai phong chấn dội, đanh dự chói lòa... Nhưng...
Linh Nhi cười nhẹ, chặn lại:
- Nên vắn tắt một tí, Hầu Gia còn nghe nhiều người khác nữa mà thời giờ không thể kéo dài cho cuộc tiếp xúc này. Tránh những sự khoa trương rườm rà là hơn!
Thiết Kim Đao thoáng đỏ mặt, đằng hắng một tiếng tiếp nối:
- Trong mấy mươi năm qua, hai nhóm đối xử với nhau hết sức thuận hòa, từng đi lại thân mật với nhau, mãi đến thời gian gần đây, cách độ mười bảy năm, lúc Hàn nhất Câu tiếp thọ quyền điều khiển Bàn Long Môn, tình thế từ từ đổi khác, Hàn Nhất Câu cho rằng cái danh hiệu Bàn Long Môn phải đứng trước danh hiệu Ngọc Hổ, muốn vãn bối phải sửa lối xưng hô do giang hồ tặng từ trước, nếu không thì giữa hai môn phái có một cuộc quyết đấu để phân định tài nghệ song phương hầu điều chỉnh thứ tự của danh hiệu. Cuộc quyết đấu phải được khai diễn trước mặt quần hùng võ lâm, cho tất cả cao thủ giang hồ chứng kiến với tư cách trọng tài.
Linh Nhi lại mỉm cười:
- Cái danh hiệu đứng trước hoặc đứng sau có thêm lợi lộc hay mất mát gì chăng?
Thiết Kim Đao thở đài:
- Thực tế thì... cô nương nói có lý, song dù sao cũng hơi chạm vào tự ái con người, cô nương ạ? Nhường trên nhịn dưới nào phải là việc dễ làm, khi việc đó có liên quan đến danh dự! Cho nên...
Lão dừng lại một chúi, câu nói hướng về Hầu Gia:
- Vãn bối bắt buộc phải nhận cuộc đấu, chọn một khoảng đất trống ngoài thành Tích Dương làm chiến trường, và hào kiệt bốn phương tiếp được tin tức, cũng kéo về tấp nập, tạo nên cảnh nhiệt náo phi thường. Trong cuộc đấu đó đến chiêu thứ bảy trăm hai mươi, vãn bối bị Hàn Nhất Câu đánh trúng một câu...
Linh Nhi vẫn giữ nụ cười mai mỉa:
- Do đó Thiết đại hiệp hận? Hận vì bất phục Hàn Nhất Câu nên hẹn năm sau tái đấu?
Thiết Kim Đao thở dài:
- Cô nương đoán chẳng sai. Tại hạ tịnh dưỡng tròn năm thương tích lành, công lực khôi phục, cuộc tái đấu lại khai diễn, vẫn tại địa điểm cũ, vẫn số khán giả của năm qua, có tăng cường quan trọng với số người hiếu kỳ, chưa được chứng kiến kỳ đấu trước. Khung cảnh nhiệt náo hơn mấy phần. Tại hạ quyết phục thù nên dốc toàn lực, cùng Hàn Nhất Câu tử chiến. Qua hơn mấy trăm chiêu, cuộc chiến càng khai diễn, lại hạ càng thấy mình chiếm ưu thế dần dần, cái chuyện tất thắng hầu như cầm trong tay. Nhưng đến chiêu thứ bảy trăm hai mươi, như năm xưa, Hàn Nhất Câu đột nhiên phóng chiêu câu sang, dùng y thủ pháp xưa, đánh tại hạ trọng thương cũng y chỗ cũ...
Linh Nhi cười nhẹ:
- Thiết đại hiệp lại bại, bại đến hai lần song vẫn bất phục lại hẹn sang năm tái đấu, một cuộc đấu thứ ba?
Thiết Kim Đao đáp:
- Lần thứ hai đó, tại hạ bị thương nặng hơn lần trước, tại hạ phải tịnh dưỡng trong một thời gian rất lâu, mãi đến năm thứ năm cuộc tái đấu mới khai diễn để rồi... để rồi...
Linh Nhi lại cười:
- Để rồi đại hiệp thủ bại luôn?
Thiết Kim đao lộ vẻ thẹn, trong vẻ thẹn có ẩn vẻ bi phẫn, lão ngửa mặt lên trần thuyền, thở dài:
- Bại là cái chắc rồi, song lại bại với một chiêu câu duy nhất đó, y như hai lần trước.
Linh Nhi có phần nào kinh dị, nhìn sửng lão:
- Đại hiệp có võ công như vậy, lại hai lân thủ bại trước một chiêu duy nhất, thế chẳng rút được kinh nghiệm, tìm cách hóa giải độc chiêu của địch sao? Có ai lại giao đấu đến ba bốn lượt lại để mãi bị địch dùng một chiêu thức đánh bại? Ít nhất mình cũng đề phòng tránh né chứ?
Thiết Kim Đao trầm ngâm một lúc đoạn thở dài:
- Tại hạ làm gì không biết được điều đó hở cô nương? Tại hạ nghiên cứu tuyệt chiêu của họ Hàn, ngay sau lần thảm bại đầu tiên, tại hạ cũng có thỉnh hơn mười bằng hữu trong võ lâm quan sát cuộc chiến để nhận định chiêu thức đó góp ý trong việc nghiên cứu của tại hạ, nhưng...
-
Lão trầm gương mặt lộ vẻ tuyệt vọng tiếp:
- Bao nhiêu công trình đều cầm như dã tràng se cát lấp biển đông, chẳng một ai phát giác được một điều gì hữu ích!
Lão mơ màng, tiếp:
- Nếu đã thấy được chiêu câu của họ Hàn xuất phát như thế thì...
Linh Nhi nói:
- Rồi trong lần tái đấu thứ tư?
Thiết Kim Đao trầm giọng:
- Trong cuộc tái đấu lần thứ tư, tại hạ hết sức lưu tâm đề phòng, vả lại với công phu khổ luyện qua bảy năm dài, võ thuật của tại hạ phải có ít nhiều tiến bộ, song...
Lão khẽ giậm chân, rồi lão cúi thấp đầu!
Linh Nhi thốt:
- Đại hiệp cũng bại luôn? Đại hiệp sẽ tái đấu lần thứ năm, đại hiệp nhất định làm mọi cách để thắng được Hàn Nhất Câu trong lân tái đấu sau cùng. Muốn thắng họ Hàn, phải biết cách hóa giải tuyệt chiêu đó, mà hiện tại thì đại hiệp chưa biết cách hóa giải! Và chưa biết cách nên tìm đến đây thỉnh giáo Hầu Giạ..
Nàng dừng lại một chút rồi tiếp:
- Nhưng chiêu đó Hầu Gia chưa hề trông thấy...
Thiết Kim Đao hấp tấp đáp:.
- Tại hạ có ghi chú chiêu đó rất kỹ, cùng bộ vị của lối xuất thủ, thời gian xuất phát, phương hướng, giác độ, hiện tại tại hạ có thể biểu diễn cho Hầu Gia xem!
Linh Nhi thở dài:
- Đã biết rành như vậy mà không nghĩ ra cách hóa giải, thiết tưởng chiêu câu đó lợi hại đến đâu!
Thiết Kim Đao cố tất trách cái kém của mình:
- Chiêu câu đó, hình thức thì chẳng có gì đáng chú ý, song chỗ lợi hại tiềm ẩn bên trong, nhất là lúc chiêu câu biến ảo, chính bọn tại hạ cố tìm hiểu sự biến ảo đó, mà chẳng ai tìm ra, thành thử tại hạ chuốc thảm bại mãi..... Lão rút kim đao bên mình cầm tay, nói:
- Tại hạ tạm mượn đao thay câu xin diễn lại chiêu câu của họ Hàn, cho Hầu Gia duyệt lãm.
Rồi lão múa đao, diễn tả lại chiêu câu từng gây thảm bại cho lão.
Phương Bửu Nhi lắng nghe cuộc đối thoại bên ngoài, hắn giật mình nhận ra âm thanh của lão già có cái tên là Thiết Kim Đao, quá quen thuộc với hắn, âm thanh đó giống hệt âm thanh của Hồ Bất Sầu. Nhưng hắn không triền miên suy nghĩ lâu được, tiếng động bên ngoài làm hắn chú ý, hắn lại lắng tai cố tìm khe hở nhìn rạ..
Một tràng cười sang sảng vang lên, tiếp theo là một câu nói oang oang:
- Như vậy thì có gì tuyệt diệu, có gì lợi hại đâu. Một trẻ nít lên ba trong gia đình ta cũng thừa khả năng múa may như thế!
Câu nói buông dứt, tràng cười kế tiếp liền, tràng cười đầy ngạo nghễ.
Thiết Kim Đao phẫn nộ, dừng tay đao, cao giọng:
- Chính Thiết tôi phải thảm bại đúng bốn lượt trước chiêu thức độc nhất đó, vậy mà bằng hữu cho rằng là một trò múa rối của trẻ con.
Thiết tôi muốn thỉnh giáo bằng hữu...
Người vừa cười vừa thốt, lại bật cười, rồi thốt:
- Được! Được! Các hạ không nói, tại hạ cũng muốn chỉ giáo như thường. Thảm bại trước một chiêu quá thông thường như vậy, nghĩ cũng lạ, nếu không thể bảo là các hạ còn kém hết sức!
Từ một góc gian thuyền, một bóng người đứng lên, bóng đó nhún chân định vọt ra khoảng trống trước mặt Linh Nhi.
Nhưng liền lúc đó, một người khác vọt theo nắm bóng trước lại.
Nhờ họ vọt lên cao, Phương Bửu Nhi trông thấy được, song thân pháp của họ quá nhanh, hắn cũng chẳng nhận định rõ ràng, đến y phục của họ thế nào hắn cũng chẳng nhận thức được.
Rồi giọng nói như giọng anh vũ nối tiếp người trước đó lại vang lên:
- Đây là quý địa của Tử Y Hầu, nếu lão huynh phóng túng hành động như vậy tất không tránh khỏi bị quở trách. Mà đã bị quở trách rồi, lão huynh còn mong vọng gì thỉnh cầu nơi người? Thành ra cái chuyến đi của lão huynh cầm như vô ích. Hãy trầm khí một chút.
Một tràng cười tiếp nối như loạt tiếng ngựa hí, liền thco đó. một câu nói vang lên:
- Phải! Phải! Tiểu đệ xin vâng lời. Tiểu đệ chẳng dám buông lung ngông cuồng nữa!
Phương Bửu Nhi buồn cười quá, hắn muốn nhìn tận mắt con người đó, xem y có hình dáng như thế nào, nhưng hắn làm sao thực hiện ý muốn đó được? Nhỏng mình lên cao là lộ hẳn hình tích rồi, người ta có khi nào để yên cho hắn đâu?
Thiết Kim Đao dằn cơn phẫn nộ, không thốt lên tiếng nào.
Bên trong bức bình phong, Tử Y Hầu thong thả cất tiếng, hòa hoãn như lúc nào:
- Chiêu thức đó có cái tên là Càn Khôn Phá Thiên, một chiêu thức phát nguyên từ một chiêu kiếm thời thượng cổ, biến đổi dần dần, để tiện dụng trong câu pháp, xem thì chẳng có gì siêu việt, xong rất khó hóa giải.
Hầu Gia gọi:
- Châu Nhi đâu, ngươi có học qua đao pháp, câu pháp hãy bước ra chỉ điểm cho hắn!
Chừng như nói một câu dài, thành mệt, Hầu Gia dừng lại nghỉ xả hơi. Có lẽ bình sanh lão chưa hề nói một câu dài như thế.
Từ sau bình phong, một tiếng vâng dịu dàng đáp lại lịnh Hầu Gia, rồi một thiếu nữ vận cung trang yểu điệu bước ra, trên mái tóc đen huyền những hạt châu kết thành vòng chớp sáng.
Thiết Kim Đao thấy Hầu Gia nhận thức chiêu câu mà y bị bại dễ dàng như nhìn vào bàn tay, y không khỏi sợ hãi, càng sợ hãi y càng khâm phục sức học uyên thâm của Hầu Gia, y định mở miệng tán một câu, nhưng lúc thảng thốt, y chẳng tìm được lời nào xứng đáng, cũng vừa lúc đó, một thiếu nữ xuất hiện dáng dấp yếu đuối lừng chừng không chịu nổi một cơn gió nhẹ thoảng qua!
Thấy thiếu nữ ẻo lả quá, Thiết Kim Đao thất vọng vô cùng. Một con người bạc nhược như vậy làm gì có đủ sở năng chỉ điểm cho y?
Y thầm nghĩ:
- Ta đã đem chiêu thức đó hỏi khắp anh hùng hào kiệt trên sông hồ, chẳng một ai giải thích nổi, thì một thiếu nữ với ngần tuổi đó, với thân vóc đó thì làm gì lãnh hội được chỗ huyền diệu câu pháp và đao pháp mà hòng chỉ điểm ta? Hay là Hầu gia định đùa ta? Lừa ta?
Nhìn qua thần sắc của Thiết Kim Đao, Châu Nhi đã biết y đang nghĩ gì rồi, nàng cười nhẹ, đưa tay nắm cánh tay y lay mạnh:
- Đi theo ta!
Thiết Kim Đao dĩ nhiên dù muốn dù không cũng phải đi theo nàng.
Không phải vì lễ độ mà vì nàng lôi y quá mạnh, tường chừng y có cưỡng lại cũng không xong.
Đến lúc đó y mới nhận ra, dù thân hình bạc nhược, thiếu nữ có một công lực thâm hậu vô cùng, có công lực đó hẳn nhiên nàng phải hoài bão một võ công trác tuyệt.
Sau Thiết Kim Đao là bọn Tư Đồ Thanh, Thích Trường Lâm, Đoàn Ngọc Từ Tả Xa và Vũ Nhất Bình năm người lần lượt cùng hiến lễ vật.
Năm người đó là những nhân vật thượng đỉnh trong võ lâm hiện đại.
Họ từ nghìn dặm đến đây, vất vả vô cùng, tất nhiên sở cầu của họ phải quan trọng lắm, và sở cầu quan trọng thì lễ vật phải quan trọng.
Tử Y Hầu bằng một câu năm bảy tiếng, cởi mở thắc mắc của họ dễ dàng, lão không lưu ý đến giá trị của lễ vật, chừng như sự cống hiến lễ vật là một nghi thức được đặt ra để chứng tỏ sự tôn quý của lão, và sự kính ngưỡng của người cầu cạnh vậy thôi.
Nhưng có ai dám xem thường nghi thức đó? Cho nên ai cũng cố tìm vật quý để hiến dâng, mong làm đẹp lòng Hầu Gia.
Đó cũng là một lối thông thường của hạng người cầu cạnh, ai ai cũng muốn được trọng vọng hơn, được ưu đãi hơn...
Khi năm người đó đều lui lại, thì Thiết Kim Đao bước ra, mặt lộ niềm hân hoan rõ rệt. Y hướng về bức hình phong, quỳ xuống gật đầu ba lượt.
Linh Nhi cười nhẹ:
- Ngươi đã thỏa mãn rồi chứ.
Lần này nàng không gọi y là đại hiệp nữa, nàng giở cái giọng cao của kẻ tùy bậc đại quý lên mặt với bọn người cầu cạnh.
Thiết Kim Đao cung kính thốt:
- Một cuộc đàm thoại với Châu Nhi cô nương trong mấy phút, cầm bằng ba mươi năm khổ luyện, tại hạ thu thập được kết quả phi thường, dĩ nhiên phải thỏa mãn. Chẳng biết...
Hầu Gia từ trong bức bình phong thốt vọng ra:
- Chẳng có gì khó khăn! Hiện tại ngươi đã học qua cách hóa giải chiêu câu rồi, hãy trở về đi!
Đúng là Hầu Gia không muốn cho y nói tiếp, bởi Hầu Gia biết rõ, y sẽ tán tụng, chứ chẳng có gì lạ phải nghe.
Thiết Kim Đao lại cúi đầu ba lượt nữa, vâng một tràng lớn đoạn bước ra ngoài.
Linh Nhi dõng dạc gọi:
- Vị nào muốn kế tiếp, xin bước ra!
Một giọng nói khàn khàn vang lên:
- Hãy nhường cho con ngựa đó hí trước!
Phương Bửu Nhi giật mình!
Hắn nhận ra ngay người vừa thốt lên câu nói mỉa mai đó không ai khác hơn là Mộc Lang Quân!
Mộc Lang Quân đã đến đây, như vậy thì vị Tử Y Hầu chính là Ngũ Sắc Phàm thuyền chủ.
Và như vậy, Hồ Bất Sáu đại thúc của hắn cũng phải đến đây. Song hiện tại có mặt Hồ Bất Sầu trong số người bên ngoài đó chăng?
Nếu có thì hắn làm sao xuất hiện để hội kiến?
Hắn vừa sợ, vừa mừng lại vừa giận.
Bên ngoài, người bị Mộc Lang Quân gọi là ngựa, sôi giận hét to:
- Mộc lão đầu, ngươi ám chỉ ta?
Mộc Lang Quân điềm nhiên:
- Ngươi có ăn cỏ chăng?
Linh Nhi đưa tay che nĩiệng cười khúckhích.
Người bị gọi là ngựa lại hét lớn hơn:
- Còn ngươi, ngươi ăn... ngươi ăn..... Bình sanh y chẳng hề chịu khuất phục trước một ai, hiện tại bị hạ nhục trước đông người, nhưng tại địa điểm này, y còn làm gì hơn? Dù vậy y quát:
- Ngươi có giỏi cứ bước ra!
Tiếp theo câu nói, một bóng người vọt ra khỏi đám đông.
Người đó có thân hình quá ốm, quá cao, lưng gù, gương mặt quá dài, dài bằng ba bốn gương mặt thường, mũi to, mũi chênh lên đang lúc giận, hai cánh phập phồng, đúng là mũi ngựa thở hồng hộc qua đoạn đường dài.
Gọi lão là ngựa, dù có hàm cái ý khôi hài mai mỉa, thật cũng đúng quá!
Phương Bửu Nhi định bụng, thế nào Mộc Lang Quân cũng mắng y như tát nước vào mặt, hắn chờ nghe, hắn thích thú, cơ hồ bật cười thành tiếng.
Mộc Lang Quân cười lạnh:
- Nơi đây là đâu, ngươi có biết chăng, lại toan sanh sự?
Người mặt ngựa vươn hai cánh tay ra, tiếng xương cốt kêu răn rắc, gằn từng tiếng:
- Ngươi không bước ra, ta sẽ chụp ngươi quăng ra cho xem!
Y xòe mười ngón tay, từ từ bước tới.
Phương Bửu Nhi thầm nghĩ:
- Họ định đánh nhau tại đây? Tử Y Hầu có thể để yên cho họ được sao?
Nghĩ vậy, hắn vẫn hy vọng họ đánh nhau, để được xem một trận khoái mắt.
Bỗng hắn thấy mắt mình hoa lên, có một vầng sáng màu vàng, tròn tròn, ngăn trước mặt người mặt ngựa.
Hắn nhìn kỹ, nhận ra vầng sáng tròn tròn đó là một người vừa lùn vừa mập, đầu đội chiếc mão vàng, vận áo dài cũng màu vàng, dung mạo cực kỳ cổ quái.
Đội mão vàng, mặc áo vàng, tất nhiên y phải thuộc hạng giàu có, nhưng giàu có mà lại chẳng có vẻ sung sướng thư thái tí nào cả, gương mặt y đượm nét u buồn.
Phương Bửu Nhi cười thầm:
- Hắn suốt ngày mang niềm tâm sự nặng nề, con người lo âu sầu muộn như vậy lại mập mạp được kể cũng lạ!
Người mặc áo vàng từ từ thốt:
- Người ta tranh trước thì có, ai lại giành sau? Thật bình sanh ta chưa hề thấy một người nào như lão huynh. Mình hãy nói chuyện với nhau một lúc đi!....
Người mặt ngựa hằn học:
- Nhưng Mộc lão đầu...
Người áo vàng chận lại:
- Lão huynh hận lão Mộc? Hận tức là thù, quân tử phục thù chờ đến ba năm cũng chưa gọi là muộn. Nếu lão huynh muốn phục thù, còn thiếu chi ngày, tại sao lại phải hành động ngay hôm nay? Đúng vậy không?
Đúng không hở lão huynh?
Sau bức bình phong, Tử Y Hầu bỗng thở dài:
- Linh Nhi, nếu hai kẻ đó còn tranh chấp nữa, ngươi hãy lôi chúng đi đi, đổi lấy rượu ngon vào đây cho ta.
Linh Nhi vâng một tiếng rồi co gập người lại mà cười.
Thoạt đầu Phương. Bửu Nhi không hiểu tại sao nàng cười thích như thế, đột nhiên hắn nhớ đến câu thơ của Lý Bạch:
Ngũ Hoa Mã Thiên Kim Cừu Hô Nhi tương xuất, hoán mỹ tửu...
Ngựa năm sắc hoa, áo ngàn vàng, đúng là hai gã đang lý luận bên ngoài. Hắn bất giác cao hứng quá, nhưng kịp dằn cơn cười nôn, vì dằn gấp, thành tức bụng một chút.
Hắn nhìn lại, thấy tiểu công chúa bò lăn dưới sàn thuyền mà cười, nàng cười đến đỏ cả mặt mày.
Người áo vàng không cười, không giận, chỉnh sắc mặt thốt:
- Bọn chúng tôi xa từ thành Đại Uyển đến đây, quân hầu có thể đem đổi rượu được sao?
Linh Nhi vừa cười, vừa đáp:
- Được lắm! Được lắm! Các ngươi từ xứ lạ đến đây, có lễ vật gì, hãy trình xem, có thắc mắc gì, hãy bày tỏ ngay, cho Hầu gia giải quyết.
Phương Bửu Nhi thức ngộ ngay, vì cả hai không phải là người Trung Nguyên, nên có tướng mạo khác thường. Nhưng, đã là người khác nước, họ đến đây để thỉnh cầu sự gì?
Người áo vàng ung dung đưa tay vào mình lấy ra một vuông khăn bằng lụa trắng có lấm tấm như hoa đào, đỏ như máu.
Phương Bửu Nhi cau mày, thầm hỏi:
- Vật gì quái lạ thế?
Linh Nhi nhìn chiếc khăn, cau mày hỏi:
- Vật gì thế?
Người áo vàng đáp:
- Xứ Đại Uyển của tại hạ từng sản xuất loại ngựa quý, chính Hán vũ Đế ngày xưa thân bút phê cho là Thiên Mã. Chiếc khăn này có điểm lấm tấm như hoa đào, là dấu mồ hôi máu của loài ngựa đó. Vị quốc chủ của tại hạ, sai tại hạ đưa đến đây ba cặp ngựa, đủ đực cái, cống hiến Hầu gia.
Phương Bửu Nhi từng đọc Hán sử, biết rõ việc đó, xứ Đại Uyển có loại ngựa quý, mồ hôi đỏ như máu, người địa phương gọi là Hãn huyết bửu mã, tuy hắn chưa thấy ngựa như thế nào, hắn vẫn cho là một lễ vật đáng giá lắm.
Linh Nhi cười nhẹ:
- Không ngờ vị quốc chủ xứ Đại Uyển lại có việc cần phải thỉnh cầu nơi Hầu gia! Nhưng ngựa hiện giờ ở đâu? Chẳng lẽ ngươi chỉ xuất chiếu mấy giọt mồ hôi ngựa như vậy là đủ?
Người áo vàng tiếp:
- Lão huynh nói Hán ngữ thông thạo, có thể đáp thay cho ta được chăng?
Dĩ nhiên, câu đó phải hướng về người mặt ngựa.
Người mặt ngựa không đợi đến lần thứ hai, đáp liền:
- Ba cặp ngựa hiện tại ở nơi bờ biển, do mười tám dũng sĩ bảo thủ, bất cứ phút giây nào cũng có thể đưa đến đây.
Y đưa tay chỉ người áo vàng, tiếp:
- Vị này là Cam Tôn, chức đệ tam quốc sư tại Đại Uyển, sở dĩ bọn tại hạ đến đây, trước hết vì quốc chủ của bọn tại hạ hết lòng ngưỡng mộ kiếm pháp của Hầu gia, mang lễ vật kết thân, sau đó thỉnh Hầu gia sang Đại Uyển, đương nhậm chức vị Đệ nhất Quốc sư, rất cao, chỉ kém Quốc chủ thôi. Thiết tưởng Hầu giạ..
Đột nhiên, Tử y Hầu hừ một tiếng, chận lời:
- Nghe giọng nói của ngươi, ta độ chừng ngươi là người Hán?
Giọng nói của lão khác hẳn các lần trước.
Người mặt ngựa định ưỡn thẳng ngực, song lưng gù thì còn ưỡn ngực làm sao thẳng? Y cố lấy dáng kiêu hãnh đáp:
- Tại hạ vốn là người Hán, thọ ân lớn của Quốc chủ Đại Uyển, thành ra về với Quốc chủ...
Tử y Hầu không hừ nữa, mà lại quát, tuy tiếng quát chưa hẳn là to, vẫn tỏ lộ sự bất mãn rõ rệt:
- Ta không ngờ, là dòng dõi của Hoàng Đế, Hiên Viên, ngươi lại vong bội căn cội phủ nhận tổ tông, thật cái tâm của ngươi đáng bỉ vô cùng! Thật cái hạnh của ngươi đáng miệt vô cùng! Có giết chết ngươi, ngươi cũng chưa rửa được sỉ nhục đó! Nếu ngươi không là tân khách của ta hôm nay, ta lấy thủ cấp ngươi ngay! Lần sau, đừng để ta thấy mặt ngươi! Còn gặp ta là ngươi phải táng mạng đấy!
Đang dương dương tự đắc, người mặt ngựa bị mắng như tát nước vào mặt, thẹn quám sắc diện tái xanh.
Phương Bửu Nhi cao hứng vô cùng. Nếu không bị ràng buộc trong cảnh khó, hắn chẳng ngần ngại vỗ tay reo lên, hắn thầm nghĩ:
- Tử y Hầu đúng là con người biết trọng đại nghĩa! Lão có đầy đủ khí tiết, đáng mặt anh hùng, một bậc đại anh hùng! Nếu mỗi phần tử trong toàn dân đều có khí tiết như lão thì có lo gì bờ cõi chẳng mở mang, nước chẳng giàu, dân chẳng mạnh, uy tín quốc gia chẳng được bảo tồn?
Người áo vàng xuất mồ hôi hạn, đẫm ướt đầu, ướt trán, rung rung giọng ấp úng:
- Nhưng... Hãn Huyết bảo mã...
Tử y Hầu sôi giận:
- Ngươi cho ta là một nhân vật như thế nào? Về mà báo trình lại với quốc chủ ngươi, đừng nói là ba cặp ngựa, dù cho ba ngàn cặp, ba vạn cặp, cũng chẳng nên mong ta đến Đại Uyển đâu!
Người áo vàng mặt vàng như đất:
- Việc ấy... việc ấy...
Đột nhiên, một người mặc áo dài trắng, tóc vàng, đôi mắt xanh biếc từ trong đám đông vọt ra ngoài, tuy khoảng cách từ chỗ đứng đến cục trường chẳng xa lắm, song người đó vẫn biểu diễn một thân pháp cực kỳ ngụy dị, đã ngụy dị tức nhiên tuyệt diệu.
Người đó bật cười ha hả, cao giọng thốt:
- Tử y Hầu lấy mặt biển làm giang san, có cần dùng ngựa làm gì?
Ngươi đem ngựa đến dâng, là làm một việc không hợp lý. Không hợp lý, thì lui lại, nhường cho ta hiến dâng vật hợp lý hơn!
Người đó, nói tiếng Hán rất rành, nhưng giọng nói rất khó nghe.
Người đó, nói được một câu bằng tiếng Hán, ra chiều đắc ý lắm, càng đắc ý hơn nữa là y tưởng câu nói đó, những người hiện diện tại cục trường đều hiểu rõ, y lại cười, cười mấy tiếng rồi tiếp:
- Tôi, từ Lỗ Sỉ, An Tức, đến đây, mang theo lễ vật gồm... gồm... của đại vương... đại vương...
Lỗ Sỉ, An Tức, là những địa danh thuộc xứ Ba Tư ngày nay, như vậy người đó không phải Hán tộc rồi. Tự nhiên, dù hiểu tiếng Hán, y chẳng thể phát âm đúng giọng được.
Y muốn xưng mình là sứ thần của đại vương quốc gia y, song chỉ nói lên được hai tiếng đại vương, rồi không biết tiếp nối làm sao nữa, đành ấp úng, bỏ dở...
Phương Bửu Nhi biết rõ như vậy, hắn thấy thương hại cho y mang một sứ mạng nơi mình, không đủ ngôn ngữ để diễn tả sự tình, nghĩ cũng khổ, hắn muốn thay y, giải thích hộ, song làm sao ra được bên ngoài mà chen vào việc của thiên hạ?
Y ngưng bặt câu nói dở chừng, khiến toàn thể anh hùng hiện diện thì thầm, bàn tán, điều đó làm cho y thêm bối rối hơn.
-
Chợt một người khác, cũng áo trắng, tóc vàng, trang phục theo người Ba Tư, có thân pháp cũng ngụy dị, tuyệt diệu như người trước, vượt đám đông xuất hiện tại cục trường, cao giọng thốt:
- Chính ta đây mới thực sự là sứ thần của đại vương, ngươi là cái quái gì, từ đâu đến, lại dám mạo...
Giọng nói của người này cũng khó nghe vô cùng, song dù sao thì y vẫn nói thoát được hai tiếng sứ thần, kể ra còn tiến bộ hơn người trước.
Người trước thoáng biến sắc:
- Ngươi? Ngươi là ai? Ngươi từ đâu đến?
Người sau cười mỉa:
- Ta là ai, từ đâu đến? Ta đã nói rồi, ta là sứ thần của đại vương, dĩ nhiên phải từ Lỗ sĩ An Tức mà đến. Ta đến hiến dâng lễ vật cho Hầu gia.
Y vỗ tay kêu bộp một tiếng.
Bốn gã áo trắng tóc vàng khiêng một chiếc rương to đi vào.
Người trước tức quá, dùng Hán ngữ không đủ tả ý tứ, y bật tiếng Ba tư với người sau. Người sau khoát khoát tay, không dùng tiếng Ba tư, mà chỉ dùng tiếng Hán đáp lại, cốt cho những người Hán tại cục trường biết:
- Đừng! Đừng! Trước mặt người Hán, chúng ta không nên nói quốc ngữ, như vậy là vô lễ, khiếm nhã! Người ta có thể bảo mình nói xấu họ đấy!
Người trước vừa bối rối, vừa khẩn trương, dậm chân thình thịch xuống sàn thuyền:
- Lễ vật, do ta mang đến đây, ta là sứ thần, ngươi chẳng phải...
Người sau bĩu môi:
- Chính ta mới thực sự là sứ thần, ngươi chẳng phải là sứ thần!
Rồi cả hai cãi vã với nhau, càng phút càng hăng, những người hiện diện lại được một dịp cười vỡ bụng.
Ngoài họ ra, chỉ có trời mới biết kẻ nào thật là sứ thần, kẻ nào là giả sứ thần! Nhưng, ai giả, ai thực, điều đó có quan hệ gì với đám đông, gặp việc khôi hài, họ cứ cười, cười bằng thích, chẳng ai cấm mà cũng chẳng ai đòi tiền mà sợ!
Linh Nhi bực, hét to:
- Hầu gia của ta suýt bị các ngươi làm nhức đầu đấy, muốn tranh luận, cứ lui ra một góc mà tranh luận, khi nào ra lẽ rồi, vào đây mà trình!
Người Ba Tư sau gật đầu:
- Phải! Phải!
Y đưa tay nắm người trước, lôi đến một góc, rồi tiếp tục cãi.
Người trước cứ giậm chân, cứ lắc đầu, cứ gân cổ cãi, nhưng y không hoạt bát bằng người kia.
Bỗng, y nghe nhói ở nơi sườn, rồi toàn thân mềm nhũn, mất cả tự chủ, tuy nhiên, y chưa ngã xuống.
Người Ba Tư sau cười nhẹ:
- Khá lắm, vậy là ngươi biết mình sai quấy, không cãi nữa, có thế mới được chứ! Thôi, cứ ngồi đấy mà nghỉ!
Y đưa tay xô nhẹ, người trước sụm xuống, ngay trên chiếc ghế trừng mắt nhìn, môi mấp máy song không thốt được tiếng nào.
Bên trong bức bình phong, Tử y Hầu thốt vọng ra:
- Ngựa hí, chim kêu, thật làm phiền phức quá! Hãy cho người nào đó, thật sự nói tiếng người, ra trình bày sở cầu đi!
Linh Nhi đưa mắt sang Mộc Lang Quân, điểm phớt nụ cười, hỏi:
- Ngươi có nói được tiếng người chăng?
Mộc Lang Quân đứng thẳng người lên, tay ôm một bọc khá lớn, bước tới, cất tiếng:
- Hôm nay đã có đủ dân các nước Đại Uyển, An Tức, Thân Độc, Giao Chỉ đồng đến đây, như vậy chứng tỏ thinh danh của Hầu gia vang dội khắp bốn biển năm hồ, họ có những kỳ trân, dị bảo cung hiến Hầu gia, còn tại ha..... thì dù sao cũng chằng so sánh được với họ, cho nên lễ vật của tại hạ chẳng có gì đáng giá lắm, chỉ bằng vào một tấc lòng thành, mong Hầu gia châm chế cho tại hạ.
Linh Nhi cười nhẹ:
- Đúng là tiếng người rồi! Nghe được rồi! Ngươi cứ tiếp đi!
Mộc Lang Quân mở chiếc bọc ra, những vật trong bọc chiếu sáng ngời ánh sáng bắn vào mặt lão, gương mặt bình thường mường tượng vỏ cây, giò đây lại càng giống gỗ vô tưởng.
Phương Bửu Nhi trông thấy lão, lửa giận phừng lên trong tâm, tuy chẳng làm gì được lão, hắn cứ bĩu môi, tỏ vẻ khinh bỉ như thường, mặc dù những biểu lộ đó chỉ để cho mỗi một mình hắn biết.
Mộc Lang Quân tự nhiên không trông thấy hắn, lão chăm chú vào sự việc của lão:
- Tại hạ là Mộc Lang Quân, từ Đông Phương Thanh Mộc Cung đến đây, gia phụ là Mộc Vương...
Tử y Hầu từ từ thốt:
- Không cần phải nương tựa vào oai phong của gia tộc, ngươi đến đây, là ta biết lai lịch ngươi rồi, khỏi kê khai rườm rà.
Mộc Lang Quân tiếp:
- Hôm trước đây, gia phụ bất cẩn, bị yêu nữ Bạch Thủy cung đánh trọng thương toàn thân gần như nát bấy, võ công gần như tiêu tán, những danh y trên giang hồ đều thúc thủ, không phương cứu chữa.
Trong thiên hạ ngày nay, chỉ có Hầu gia là có thể ban phúc đức cho gia phụ, bởi loại thuốc quý Đại Phong cao của Hầu gia có hiệu dụng chữa trị thương thế đó, cho nên tại hạ không quản ngàn dặm, tìm đến đây, bái kiến Hầu gia, cầu mong Hầu gia đoái thương, cứu một mạng người! Tại hạ xin cung hiến trân bảo của tệ cung.
Tử y Hầu cười thành tiếng:
- Chủ nhân Thanh mộc cung, ngày trước là lãnh tụ của lục lâm hắc đạo toàn quốc, bổn hầu chỉ sợ những trân bảo đó chẳng phải là vật của Thanh Mộc cung.
Không là vật của Thanh Mộc cung, tức nhiên là vật cướp đoạt trên giang hồ, mà vật cướp đoạt có giá trị gì, đối với một người thanh bạch truyền gia? Vật có trọng, là do người có hạnh cao đức trọng, chính Hầu gia muốn nhấn mạnh ở điểm đó.
Mộc Lang Quân không phiền gì câu nói đó, điềm nhiên tiếp:
- Vô luận như thế nào, tại hạ cầu mong Hầu gia xét cho cái tâm thành của tại hạ.
Còn ai biết thần sắc của lão có vì một câu nói mà biến cải đâu bởi gương mặt lão là gương mặt gỗ, do đó, lão có vẻ điềm nhiên như thường.
Tử y Hầu từ từ thốt:
- Ngươi cũng có lý! Việc này nghĩ chẳng có khăn gì...
Bỗng, một người cất tiếng oang oang:
- Không được! Không! Việc đó, khó khăn lắm chứ!....
Buông xong câu nói, người đó vượt đám đông bước ra.
Người đó, chẳng phải ai xa lạ, chính là tên Ba tư sau cùng, đã chế ngự xong tên kia, trở lại.
Mộc Lang Quân sôi giận:
- Tên man di, dị tộc kia, dám buông lung dã tánh, chen vào việc người?
Tên Ba tư không lưu ý đến Mộc lang Quân, hướng thẳng bức bình phong thốt vọng vào Tử y Hầu:
- Chúng tôi trình diện trước, thỉnh cầu trước, Hầu gia phải cứu xét trước, hoặc chấp thuận sở cầu, hoặc từ khước, cho rõ rệt thái độ đối với chúng tôi, rồi sau đó mới định đoạt việc của người khác!
Y nói rành Hán ngữ, nói đủ nghĩa, song âm thanh khó nghe quá, thành chói lỗ tai của mọi người.
Mộc Lang Quân hừ một tiếng:
- Tại sao phải nghe ngươi trước rồi mới đến lượt ta sau? Ngươi có quyền gì tranh phần ưu tiên?
Linh Nhi từng nghe người Ba tư có thủ công vô cùng tinh xảo, muốn xem y mang những lễ vật gì cống hiến Hầu gia, vội cười đáp thay y:
- Hãy để cho y trình bày đi, y ở xa, y có nói trước cũng là hợp lý, còn ngươi nên chờ một tý, chẳng việc gì phải gấp!
Mộc Lang Quân chẳng còn biết làm sao hơn, đành hừ một tiếng rồi lùi lại sau.
Tên Ba tư vỗ tay, bọn tùy sai của y mang đến chiếc rương thứ nhất.
Y mỉm cười thốt:
- Nơi này, Hầu gia bày trí chẳng khác gì một thiên cung, nhưng còn thiếu một vật!
Linh Nhi trố mắt:
Vật gì?
Tên Ba tư mở chiếc rương ra, lấy một tấm thảm trải nền, bảo kẻ tùy sai căng rộng.
Đúng là một tấm thảm quý, màu sắc huy hoàng, không rõ cấu tạo bằng chất liệu gì. Với tấm thảm đó, gian đại sảnh biến đổi trạng thái ngay, trước đó cũng huy hoàng, cũng tráng lệ, song chỉ là cái huy hoàng tráng lệ thông thường trong những khung cảnh giàu sang, hiện tại rực rỡ hơn mấy phần, vừa tân kỳ, vừa cao quý...
Trên mặt thảm, có bức đồ ghi lại cuộc hành lạc trong hậu cung, quanh cuộc hành lạc đó, có trên trăm người, người nào cũng giống như sống. Đặc biệt nhất là thần tình của mỗi người mỗi khác, nam thì hoặc say khướt, hoặc đang nâng chén, hoặc đang ôm mỹ nữ trong lòng, có kẻ giương mắt nhìn một đám vũ nữ đang hiến tuyệt nghệ.
Còn nữ nhân thì người nào cũng đẹp như tiên nữ, yểu điệu, dịu dàng, người nào cũng lồ lộ phong tư tình tứ.
Tất cả những người có mặt tại gian đại sảnh đều trố mắt, há mồm nhìn.
Đến Tử y Hầu cũng buột miệng thở dài:
- Người tại địa phương An Tức quả có thủ công tinh diệu quán thế!
Tên Ba Tư từ từ thốt:
- Tại nước tôi, nghề dệt thảm này truyền từ đời cha đến đời con, bất tuyệt, mỗi nhà đều có bí quyết riêng, tấm thảm này do đại vương của nước tôi tập hợp những người từng nổi tiếng trong nghề, cộng tất cả độ hai trăm thợ khéo, ngày đêm dệt nên, tổn phí phỏng hàng ngàn vạn, phải mất ba năm mới xong. Tôi dám quả quyết, dưới gầm trời này, chỉ có tấm thảm đó thôi, một tấm thảm duy nhất tự cổ chí kim!
Y cao giọng tiếp nối:
- Nếu Hầu gia dùng tấm thảm này, trải trên nền khách sảnh, hoặc một nơi nào đó, thì còn gì bằng?
Linh Nhi khích động rõ rệt:
- Ngươi mang vật quý đến đây, vậy sở cầu của ngươi như thế nào?
Tên Ba tư cười đắc ý:
- Tuy vậy, tấm thảm đó chưa phải là vật quý, so với mấy món sau.
Y lại vỗ tay. Bọn tùy sai khuân vào chiếc rương thứ hai.
Mọi người đều công nhận tấm thảm là vật báu vô song, lại nghe y cho rằng chưa quý bằng những món khác, bất giác, động tính hiếu kỳ, trố mắt nhìn chiếc rương thứ hai, chờ xem trong đó có vật gì.
Nhưng Tử y Hầu đã thốt:
- Ngươi hãy nói sở cầu cho ta biết đi, còn vật gì thì hãy thư thả mà trình ra.
Tên Ba Tư mỉm cười:
- Hầu gia sợ rằng sở cầu của tệ quốc giống như sở cầu của nước Đại Uyển chăng, nên chẳng dám nhìn đến các báu vật khác, nhìn rồi động tâm, khó từ chối chăng?
Tử y Hầu điềm nhiên:
- Ngươi khá thông minh đấy!
Tên Ba Tư tiếp:
- Hầu gia có đại nghĩa vì dân tộc như thế, còn ai chẳng kính trọng?
Nhưng xin Hầu gia yên trí, việc tệ quốc thỉnh cầu, không khó khăn gì, bất quá, mong Hầu gia, trong vòng ba năm thôi, đừng bao giờ cấp cho bất kỳ ai, loại thuốc quý Đại Phong cao!
Từ An Tức đến đây, vượt hàng ngàn dặm đường, mang lễ vật quý báu, chỉ để thỉnh cầu một việc như thế, đơn giản như thế, không làm hao phí mảy may công lục, tâm trí của Hầu gia, khiến cho mọi người lấy làm lạ.
Tên Ba Tư trước, hiển nhiên đã bị tên sau điểm huyệt, tuy bất động song vẫn nghe lọt những gì tên sau trình bày, bất giác gân xanh nổi vồng khắp trán, khắp mặt, biến gương mặt y thành xanh dờn, gương mặt càng xanh, mắt y càng mở to, mặt xanh nhưng mắt đỏ, chừng như tóe lửa.
Nhưng chẳng phải một mình y sôi giận, Mộc Lang Quân cũng sôi giận, có lẽ còn cao độ hơn y:
- Quái vật nào ở đâu, dám đến đây toan phá hòng việc của ta?
Linh Nhi đã kịp thời ngăn chặn lão:
- Hầu gia chưa đáp ứng thỉnh nguyện của hắn kia mà? Ngươi nóng nảy làm chi? Cứ xem chiếc rương kia chứa đựng vật gì trước, rồi hãy đề cập đến việc khác.
Mộc Lang Quân hằn học:
- Nhưng..... Linh Nhi trầm gương mặt:
- Giả sử Hầu gia đáp ứng hắn, liệu ngươi có ngăn trở được chăng?
Mộc Lang Quân biết rõ, nàng thích xem vật gì trong chiếc rương nên có giọng nói đó, chứ chẳng phải ác ý gì đối với bên nào, che chở bên nào, song lão không khỏi tức uất. Rồi lão nghĩ, tức uất cũng chẳng làm gì được ai, thành lão dằn lòng, day qua tên Ba Tư gằn giọng:
- Ngươi đợi chừng nào mới mở rương ra?
Tên Ba Tư đáp nhanh:
- Mở liền! Liền bây giờ.
Câu giục đó, đáng lý Mộc Lang Quân để cho Linh Nhi mới phải, vì lão nóng quá, muốn cho việc xuất trình báu vật chóng qua, để còn nghĩ đến việc khác, nên hớt trước mà hối thúc tên Ba Tư.
Nắp rương vừa hé lên, một điệu nhạc du dương từ trong phát ra, kế tiếp, một gã lùn, cao không quá ba thước, tay cầm đàn năm dây, nhảy vọt ra ngoài, vừa ra khỏi rương là nhào lộn trên sàn thuyền, nhào đến trước tấm bình phong, đứng lại, dạo đàn liền.
Gã lùn trông như một trẻ nít, nhưng gương mặt giống kẻ trưởng thành, mọi người đều kinh dị, không ngờ một chiếc rương có thể chứa được người.
-
Hồi 05
Buồm Gấm Hứng Phong Ba
Gã lùn ra khỏi rương rồi, mọi người chỉ tưởng là trong ấy chẳng còn gì nữa, bất ngờ một bàn tay ló lên, bàn tay đó trắng như ngọc, năm ngón no tròn như búp măng, bàn tay lên cao, cổ tay bày rõ, tròn trắng như ngọc ngà, nơi cổ tay có xâu lục lạc vàng.
Bàn tay đó, cổ tay đó phải là của một mỹ nhân, đúng như vậy, vì người trong rương đứng lên trước sự kinh ngạc của toàn thể tân khách.
Một tiếng “Ạ” vang lên, sau đó đại sảnh chìm trong im lặng, đến cánh ruồi lướt qua, người ta cũng có thể nghe lọt.
Người trong rương là một thiếu nữ có sắc đẹp mê hồn.
Dùng danh từ mỹ nhân gán cho thiếu nữ cũng chưa diễn tả đúng cái nhan sắc của nàng. Không một bộ phận nào trong người nàng có mang một khuyết điểm nhỏ nhặt, chừng như tạo hóa đã dồn cả tinh hoa của vạn vật hun đúc riêng cho nàng, duy nhất nàng thôi!
Người Trung Nguyên có suối tóc đen huyền, nhưng mỹ nhân ớ đây có suối tóc vàng dài quá gối.
Đừng nói bọn khách nam trông thấy phải bạt vía tiêu hồn, đến cả những khách nữ nhân nhìn nàng cũng phải say mệ..
Phương Bửu Nhi còn nhỏ tuổi chưa biết ái tình là gì, nhìn mỹ nhân đến xuất thần một lúc lâu, hắn lắc đầu nghĩ thầm:
- Dân di dịch lại có người đẹp tuyệt trần như thế thật là lạ!
Thiếu nữ vận y phục bằng lụa mỏng nàng gần như trần truồng, do đó thân hình nàng toa? ra một sức hấp dẫn vô tưởng...
Nàng ra khỏi rương, bước đến gần gã lùn, theo nhịp đàn múa một điệu lạ, tay cử động khua vang lục lạc, tiếng lục lạc hòa với giọng đàn tạo thành một khúc nhạc vừa quái dị vừa tuyệt vời...
Phương Bửu Nhi trố mắt theo dõi từng cử động của thiếu nữ, lắng tai nghe từng cung đàn, hắn suýt buột miệng tán, song tiểu công chúa đã nhanh tay bụm miệng hắn. Còn tay kia nàng chụp tay hắn dùng ngón vẽ vào lòng mấy chữ:
“Không cho ngươi nhìn!” Một lúc lâu nàng lại vẽ tiếp mấy chữ:
“Tiện nữ đó trơ trẽn quá!” Trơ trẽn? Tại sao trơ trẽn chứ? Người ta đến đây cốt để biểu diễn tài nghệ, mong làm vui lòng gia gia nàng, cái nghiệp đã sử nhiên, không làm không được, tại sao lại trơ trẽn? Đã trơ trẽn thì ai bảo nàng nhìn?
Tiếng đàn càng lúc càng du dương, tuy chẳng nhìn được thiếu nữ múa, Phương Bửu Nhi vẫn nghe. Bàn tay của tiểu công chúa đưa lên miệng lên mắt hắn, rồi từ mắt hắn xuống miệng. Nàng thấy hắn mấp môi là hạ tay xuống bụm miệng liền, nếu hắn ngậm miệng lại nàng đưa nhanh tay lên che mắt hắn.
Hắn căm hận, nghĩ nếu chẳng sợ gây náo động thì hắn đã cắn mạnh vào bàn tay nàng.
Rồi tiếng đàn dứt, vũ điệu ngừng, tiếng lục lạc ngừng theo. Qua lớp y phục mỏng, tân khách nhìn rõ từng hạt mồ hôi điểm sáng trên mình thiếu nữ chẳng khác nào ngọc dát vào người.
Nàng ngừng vũ, mà mọi người còn mê mẩn ngây ngất, thần hồn như còn phiêu phưởng tìm dư hưởng êm dịu trong không gian...
Tên Ba Tư điểm một nụ cười:
- Đây là đệ nhất mỹ nữ tại tệ quốc, nhan sắc vô cùng, ngoài ra còn...
Y cười, y không dứt câu tròn ý. Y không nói tiếp, nhưng nam nhân thừa hiểu nếu nói tiếp y sẽ nói như thế nào, và ai ai cũng biểu lộ sự đồng tình với ý nghĩ úp mở của y.
Nữ nhân cũng hiểu như vậy, nhưng khác hơn nam nhân là họ chẳng biểu đồng tình, bởi họ đố kỵ. Có nữ nhân nào thấy kẻ đồng đồng phái đẹp hơn mình, có nhiều điểm hơn mình lại chẳng đố kỵ?
Trong số nữ nhân đố kỵ, chẳng biểu đồng tình hiện tại có Linh Nhi, nàng cười lạnh gằn giọng:
- Có gì đặc biệt đâu?
Phưởng Bửu Nhi thầm nghĩ:
- Ganh rồi! Qúa ganh nên phủ nhận cả những cái diệu của người!
Tên Ba Tư cũng biết vậy, tuy nhiên y không giận, trái lại bật cười khanh khách:
- Cô nương nói cũng có lý, dù có phần nào ganh tài kỵ sắc. Nhưng thiết tưởng nếu hoa khôi của tệ quốc không có giá trị gì thì trên thế gian này, vị tất có một mỹ nhân nào đáng được Quân Hầu ghé mắt?
Tử Y Hầu chưa kịp nói gì, Linh Nhi lạnh giọng tiếp:
- Nếu cho nàng ấy là tuyệt sắc giai nhân thì dưới gầm trời này ai cũng được gọi là mỹ nữ cả. Nếu vậy giai nhân quá nhiều, còn gì trọng giá nữa? Đừng nói đâu xa, bọn chị em ta đây, có ai xấu xí kém nàng ấy chăng? Hà huống chị em ta vừa đọc sách vừa làm được thi từ, ca phú, vừa biết đàn, biết hát, biết vũ, lại tinh luyện võ công, ngoài ra lại thông minh vô tưởng, chỉ nhìn thoáng qua kẻ nào là hiểu rõ tâm ý của kẻ đó.
Chị em ta thừa khéo léo cùng bằng hữu đối ẩm, luận đàm, liệu bọn thiếu nữ di dịch của ngươi có sánh được chăng?
Mộc Lang Quân nghe lòng nở hoa rộ lên, lão nghĩ:
- Hay quá, ta khỏi cần phải xuất thủ rồi! Sở nguyện của tên Ba Tư này chắc chắn là chẳng được Hầu Gia chấp nhận!
Tên Ba Tư cười nhẹ, từ từ thốt:
- Cô nương lại có lý một lần nữa. Người dù đẹp đến đâu mà nếu thiếu vị tâm tình, thì có khác gì một pho tượng vô tri giác?
Linh Nhi bĩu môi:
- Ngươi khá thông minh đó. Hãy dẹp sự khoa trương hoa khôi của ngươi lại đi!
Tên Ba Tư suy nghĩ một chút:
- Nếu tại hạ tìm được một người đủ những đặc điểm như cô nương vừa kê khai đó, thì cô nương nghĩ sao?
Linh Nhi bật cười sằng sặc:
- Làm gì tìm được? Ngươi tưởng dễ lắm sao chứ? Mà chừng nào ngươi mới đi tìm?
Tên Ba Tư điềm nhiên:
- Đi đâu làm chi cho phí công hở cô nương?
Linh Nhi trố mắt:
- Nghĩa là sao? Ngươi phịa?
Tên Ba Tư lắc đầu:
- Có gan to bằng trời cũng chẳng dám phịa trước mặt Hầu Gia! Mỹ nhân đầy đủ đặc điểm như cô nương vừa nói ở ngay đây!
Linh nhi vụt cười lớn:
- Ngay tại đây? Từ thiên cung rơi xuống hẳn? Từ địa phủ vọt lên chăng?
Tên Ba Tư thản nhiên:
- Từ thủy cung đến, và đã đến từ lâu. Y cười nhẹ, từ từ cởi bỏ chiếc áo ngoài, bày ra một bộ y phục màu tuyệt đẹp bên trong, y phục đó cũng mỏng như y phục thiếu nữ đẹp, thành ra thân hình y cũng phô rõ những đường cong như thiếu nữ, những đường cong nảy nở tự nhiên hoàn toàn.
Mọi người đều kinh hãi, suýt nhảy dựng lên, tất cả trố mắt nhìn y, trong khi y thản nhiên đưa tay lên đầu gỡ mớ tóc giả bỏ đi, mớ tóc thật bày ra đen huyền óng ả, rồi bàn tay đó lại vuốt mặt, chiếc nạ da người xấu xí rớt theo Hiện tại tên Ba Tư đã biến thân một trang tuyệt thế giai nhân có phần mặn mà, hấp dẫn hơn thiếu nữ tóc vàng.
Một sự kiện hiện ra, trên chỗ tưởng tượng của mọi người. Trời!
Trên thế gian sao lại có người đẹp lạ lùng như thế?
Người kinh hãi hơn hết chính là Phương Bửu Nhi, hắn nằm mộng cũng không tưởng nổi là tên Ba Tư lại là một nữ nhân đẹp tuyệt trần, và nữ nhân đó lại chính là Thủy Thiên Cơ.
Bất giác hắn rú lên một tiếng khẽ.
May cho hắn, tiếng rú của hắn phát xuất đồng thời với câu nói của Linh Nhi, bởi nàng cũng nhận ra Thủy Thiên Cơ và nàng kinh hãi chẳng kém hắn:
- Ngươi... ngươi là vợ sồn sồn của hắn à?
Mộc Lang Quân thét lên một tiếng lớn, nhún chân nhảy vọt lên không quát:
- Ta chỉ tưởng kẻ nào to gan đến khuấy sự việc của ta, thì ra là ngươi!
Thủy Thiên Cơ hướng mắt sang lão:
- Ngươi mạnh giỏi chứ?
Hỏi xong nàng bật cười.
Mộc Lang Quân hét:
- Mạnh! Mạnh giỏi lắm. Vì mạnh giỏi nên chỉ tưởng phải giết ngươi, thoát bớt nhựa sống ứ dồn trong người ta.
Lão nhoài người tới, hai cánh tay vươn mười ngón tay khô đét chụp vào yết hầu của Thủy Thiên Cơ.
Thủy Thiên Cơ vẫn giữ nụ cười duyên dáng, không hề nhúc nhích thân hình, nhẹ nhàng hỏi:
- Ai dám gây án mạng tại chốn này?
Tử Y Hầu cũng trầm giọng quát:
- Ai dám gây án mạng tại chốn này?
Một người khác cũng buột miệng hỏi:
- Ai dám gây án mạng tại chốn này?
Một câu nói do ba người khác nhau, ba giọng nói khác nhau, một giọng dịu hiền, một giọng gây oai khí còn một giọng thì đầy mỉa mai thách thức!
Ba giọng nói gần như phát ra cùng một lượt nhưng Mộc Lang Quân chỉ chú trọng tới giọng nói của Tử Y Hầu thôi, lão chẳng thể không rút tay về.
Vừa lúc đó, một người đầu trọc, chân không, vận áo gai, da đen như sắt, từ từ tách đám đông bước ra. Đầu trọc, tức nhiên người đó là tăng nhân.
Tử Y Hầu trông thấy người đó hỏi liền:
- Đại sư có phải là Dà Tinh Pháp Vương từ Thiên Trúc đến?
Giọng nói của Hầu Già có phần nào xúc động, chứng tỏ Hầu Gia xem trọng sự có mặt của nhà sư hơn bất cứ sự có mặt của nhân vật nào đây.
Tất cả hào kiệt nam cũng như nữ quy tụ tại đây đều xanh mặt.
Dù chưa diện kiến lần nào, ít nhất cũng có nghe nói đến con người có pháp hiệu Dà Tinh Pháp Vương đang đứng sừng sững trước mắt ho.....
Đại sư tuy ở Thiên Trúc, song võ lâm Trung Nguyên từng truyền thuyết về lão. Lão có nội công cực cao, lão còn luyện được một bí thuật Du Dà trong Phật Môn Mật Tông, xuống nước bảy ngày không chết, chôn sống nửa tháng không chết, chân không đi trên than hồng lửa đỏ không cháy.
Thiên hạ võ lâm Trung Nguyên xem Dà Tinh Pháp Vương như một nhân vật thần thoại, luyện thành một thân Kim Cương Bất Hoại, một con người mà trên thế gian chẳng ai chế ngự nổi.
Hiện tại người đó đã có mặt tại đây, khiến ai cũng kinh hoàng, khủng khiếp dù nhà sư không tìm họ để gây sự.
Dà Tinh Pháp Vương day qua Mộc Lang Quân gằn giọng:
- Đi ra đi!
Sợ Dà Tinh Pháp Vương đành rồi nhưng không thể để cho bất kỳ ai chà đạp tự ái của lão, Mộc Lang Quân ít nhất cũng phải giữ thể diện trước quần hùng, đâu phải ai muốn đuổi lão ra khỏi nơi này cũng được?
Lão trừng mắt nhìn Dà Tinh Pháp Vương:
- Ngươi dựa vào oai lực gì mà dám đuổi ta ra khỏi chốn này?
Thủy Thiên Cơ cười nhẹ chen vào:
- Pháp Vương đã bảo ngươi cút đi, ngươi cãi lịnh sẽ khổ cho thân ngươi chứ chẳng ích gì, hãy đi đi, đi mau đi!
Giọng nói rất nhẹ nhàng, nhưng hàm chứa một niềm khiêu khích làm cho Mộc Lang Quân càng sôi giận hơn.
Lão chưa kịp có một phản ứng gì, Dà Tinh Pháp Vương nhanh như chớp vươn tay dùng lưng bàn tay quạt nhẹ vào mặt lão.
Thủ pháp của đại sư nhanh, Mộc Lang Quân cũng đưa tay nhanh đón cái tát đó.
Nhưng cánh tay của Dà Tinh Pháp Vương dường như chẳng có xương, chạm phải cánh tay cửa Mộc Lang Quân uốn lại nửa vòng cung, bàn tay vẫn ngoặc xuống, tát trúng gò má hữu của lão như thường.
Tay chạm vào má, dù tiếng chạm khô khan đến đâu cũng là tiếng da thịt chạm da thịt, nhưng ở đây, tiếng chạm nghe “Cạch”, chẳng khác nào tát vào gỗ.
Dĩ nhiên cái tát đó không làm Mộc Lang Quân đau đớn gì, vậy mà lão thấy khổ vô cùng, bởi lão hổ thẹn, bởi danh dự của lão bị tát trước mặt quần hùng.
Kinh hãi vì thủ pháp tuyệt diệu của Dà Tinh đại sư, sôi giận vì mất danh dự, Mộc Lang Quân hét lên một tiếng nhào tới đại sư.
Trong thoáng mắt, lão xuất phát đúng bảy chiêu, toàn là những chiêu tuyệt độc, ảo diệu vô cùng.
Nhưng bảy chiêu qua rồi, một tiếng cạch khác vang lên, lão hứng thêm một cái tát nữa lên má tả.
Trong võ lâm hiện tại có năm ma cung phân theo ngũ hành, Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ, chủ nhân mỗi cung luyện một môn công kỳ diệu, trong giang hồ không ai dám trêu vào năm ma cung đó.
Đông Phương Thanh Mộc Cung do cha con Mộc Lang Quân điều khiển, chuyên luyện Khô Mộc Công, có đấu pháp vô cùng quái dị, thân thể họ gần như trở thành vô cảm giác, không một loại độc, không một công lực nào gây thương tổn cho họ nổi. Ở đây Dà Tinh Pháp Vương cũng biết vậy, song lão vẫn tát tay chẳng qua cốt ý hạ nhục đối phương thôi, chứ sát hại thì nhà sư chưa có thể làm. Với thân phận là người thừa kế ngôi vị cung chủ Đông Phương Thanh Mộc Cung, bị hạ nhục như vậy, Mộc Lang Quân tức uất người lên được.
Nhưng tức để làm gì, khi tự lượng sức mình biết rõ không làm sao thắng nổi đối phương!
Mộc Lang Quân nhanh như chớp vọt mình ra khỏi cửa gian đại sảnh, chạy thẳng đến mũi thuyền, nhảy ùm xuống nước.
Nghe tiếng nước vang lên, Thủy Thiên Cơ mỉm cười, thốt bâng quơ:
- Đánh nhau không thủ thắng nổi, lại nhảy xuống nước tự tử.
Dà Tinh Pháp Vương trầm giọng:
- Nhất định hắn chẳng khi nào bỏ qua việc hôm nay đâu. Hắn sẽ trù mưu liệu kế, quyết rửa hận. Nữ đàn việt từ đây phải cẩn thận cho lắm.
Thủy Thiên Cơ nghiêng mình:
- Đa tạ Pháp Vương chỉ giáo!
Phương Bửu Nhi bên trong bức màn cười thầm nghĩ:
- Luận về mưu kế thì Mộc Lang Quân còn lâu mới lừa được Thủy Thiên Cơ vào tròng. Hòa thượng khéo dư công lo sợ cho mụ! Rồi hắn lại nghĩ:
- Mụ ta đã theo dõi bọn Ba Tư này từ lâu nên hiểu sự việc của chúng quá rõ ràng, chẳng ai khám phá nổi kế hoạch của nàng cả. Xem đó đủ biết dù ngàn năm sau nữa Mộc Lang Quân cũng chẳng theo kịp nàng. Lão ấy chỉ còn mang tức uất đến suốt đời thôi, mong gì báo hận?
Dà Tinh Pháp vương hướng thẳng về phía Tử Y Hầu, lấy ra xâu chuỗi bằng gỗ đàn hương đưa cao lên:
- Bần tăng ở xa xôi chẳng có vật gì quý giá cung hiến Hầu Gia, phải tạm dụng vật này, mong Hầu Gia không từ khước.
Tử Y Hầu thốt:
- Đa tạ đại sư!
Rồi lão gọi:
- Linh Nhi hãy tiếp nhận tặng vật của đại sư đi!
-
Linh Nhi vừa đưa tay dón lấy xâu chuỗi đàn hương, vừa cười nhẹ:
- Pháp vương là bậc kỳ nhân trên đời này, có việc gì mà chẳng làm nổi, lại còn đến đây thỉnh Hầu Gia giải quyết hộ?
Dà Tinh đại sư thản nhiên:
- Vậy mà vẫn có việc nhờ đến Hầu Gia!
Tử Y Hầu nói:
- Chẳng hay đại sư có việc chi cần chỉ giáo?
Dà Tinh đại sư tiếp:
- Bình sanh bần tăng giao thiệp với người đời chỉ có thắng chứ không bao giờ bại. Do đó hôm nay đến đây hy vọng được đấu với tay đệ nhất kiếm khách để nếm mùi thất bại như thế nào?
Không ai tưởng là lão quái tăng từ Thiên Trúc đến đây không thỉnh cầu điều gì có lợi cho mình lại xin giao đấu. Phàm giao đấu với Tử Y Hầu là giỡn với tử thần, lợi đã không có, hại lại ở bên cạnh mình, nếu không có sự tự tin vững chắc, hẳn phải ngông cuồng. Người nào cũng trố mắt nhìn lão.
Hồ Bất Sầu cau mày thầm nghĩ:
- Lại có một cuộc đánh nhau! Đánh! Lúc nào cũng đánh, luôn luôn đánh nhau. Cứu cánh của bọn võ lâm là thế!
Tử Y Hầu cười nhẹ:
- Tại hạ đã bỏ phế võ công từ lâu lắm rồi, đâu còn là địch thủ của đại sư nữa mà hòng giao đấu? Nếu đại sư muốn nếm mùi thất bại thì đúng là đại sư chọn lầm người.
Dà Tinh đại sư lạnh lùng:
- Hầu Gia khiêm tốn quá! Ở đây tuy cục diện không rộng lắm, song vẫn vừa cho hai chúng ta so tài, xin Hầu Gia cho bần tăng lãnh giáo mấy chiêu đi!
Tử Y Hầu điềm nhiên điểm một nụ cười:
- Hơn hai mươi năm qua tại hạ không cùng người đời giao thủ. Hơn nữa đại sư là khách từ xa đến tại hạ là chủ, nếu động thủ thì còn đạo lý gì nữa?
Dà Tinh đại sư gằn giọng:
- Bần tăng không quản đường xa vạn dặm tìm đến đây, chẳng lẽ Hầu Gia lại để cho bần tăng thất vọng?
Tử Y Hầu lắc đầu:
- Chịu thôi, đại sư ạ ? Tại hạ không thể vâng theo ý muốn của đại sư được!
Dà Tinh đại sư thoáng biến sắc mặt trầm giọng hỏi:
- Hầu Gia khinh thường bần tăng? Bần tăng là kẻ vô danh bất tài không đủ tư cách cho Hầu Gia động thủ?
Tử Y Hầu lấc đầu:
- Không đâu, không làm gì có việc đó thưa đại sư? Lý do như thế nào lại hạ đã phân trần rồi, đại sư hãy lượng xét cho, đừng bức người phải làm cái việc khó làm.
Dà Tinh đại sư trầm ngâm một lúc lâu, đoạn từ từ thốt:
- Bần tăng nào dám bức bách Hầu Gia.
Đột nhiên lão cởi chiếc áo gai bên ngoài để lộ thân hình gầy đét và lớp đa đen sì, rồi lão vớ chiếc bọc bên mình, mở bọc lấy ra một chiếc búa con và vô số đinh dài độ ba tấc, tay tả cầm đinh, tay hữu cầm búa, đinh ấn lên làn da, búa đập vào đinh, dinh ghim sâu vào thịt, lão vừa nện búa vừa thốt:
- Nếu Hầu Gia từ khước động thủ với bần tăng thì bần tăng phải tự tìm phương giải thoát!
Một chiếc đinh lún vào da thịt, rồi hai chiếc, rồi ba chiếc, trong giây phút lão đóng hơn mười chiếc đinh ba tấc lún sâu hơn hai tấc Thần sắc của Da Tinh đại sư thản nhiên không biểu lộ sự đau đớn nào cả, lạ một điều là chẳng có một giọt máu nào rỉ rạ..
Toàn thể quần hùng kinh hãi thất sắc.
Hồ Bất Sầu xám mặt lè lưỡi, lắc đầu mãi.
Tử Y Hầu cười nhẹ:
- Đại sư tự làm khổ mình chi thế?
Dà Tinh đại sư không ngừng tay nện búa vào đinh:
- Nếu Hầu Gia đáp ứng, bần tăng ngừng tay liền!
Tử Y Hầu khẽ thở dài:
- Đại sư thật sự có ý đó thì tại hạ đành lấy mắt nhìn chứ chẳng còn biết phải làm sao hơn.
Bỗng có tiếng nhạc nhẹ vang lên, rồi có mấy tên hải tặc bước vào, nghiêng mình cung kính thốt:
- Vãn bối đã chuẩn bị yến tiệc sẵn sàng, chẳng hay Hầu Gia định chừng nào mới khai diễn?
Tử Y Hầu mỉm cười:
- Thật làm phiền các ngươi quá!
Mấy tên hải tặc nghiêng mình thấp hơn chút nữa:
- Được Hầu Gia chiếu cố là một vinh dự lớn lao, dù có vào nguy ra hiểm làm mọi điều Hầu Gia sai khiến, bọn vãn bối cũng hân hoan mà, làm sá gì một tiệc mọn?
Tử Y Hầu gật đầu:
- Vậy các ngươi cho thuộc hạ sắp đặt đi. Ta định vào tiệc ngay bây giờ.
Mấy tên hải tặc chào Tử Y Hầu bước ra, lão liền đưa mắt quanh bọn tân khách một lượt đằng hắng một tiếng:
- Sự việc các các vị cầm như giải quyết đã xong, tạm thời cuộc họp hôm nay kết thúc. Nếu ai thấy hứng cứ ở lại dùng mấy chén rượu với tại hạ, còn vị nào gấp ra về xin cứ tự tiện.
Bỗng có tiếng thốt oang oang:
- Hãy thư thả!
Một người đầu to, thân lùn bước ra, người đó có hai cánh tay dài quá gối, vì đầu to nên trán phải rộng mắt lớn mày dài.
Phương Bửu Nhi nhận ra người ấy ngay, hết sức kinh ngạc thầm nghĩ:
- Hồ đại thúc của ta! Làm sao người đến được nơi đây? Người có điều gì thỉnh cầu nơi Tử Y Hầu? Tiền không đủ để mua cơm ăn hàng ngày, lấy đâu sắm sửa lễ vật ra mắt chứ? Mà người sẽ trình hiến những gì đây?
Hồ Bất Sầu không cầm một vật gì nơi tay, y lại chẳng có kẻ tùy hành, dĩ nhiên y chẳng có lễ vật gì rồi. Không lễ vật thì mong chi Hầu Gia chấp nhận thỉnh cầu?
Linh Nhi cau mày sẵng giọng:
- Ngươi có việc thỉnh cầu sao chẳng trình bày sớm?
Hồ Bất Sầu giữ sắc mặt trang nghiêm:
- Vì tại hạ không có thân phận cao quý, nên chẳng dám tranh giành với ai cả.
Hình dáng của y tầm thường quá chẳng có điểm nào đáng cho ai chú ý, song khí độ ung dung, cử chỉ khoan thai trang trọng xem chừng cũng là hạng người biết trọng đạo nghĩa lắm.
Linh Nhi nhìn thoáng qua y rồi hướng vào tấm bình phong:
- Hầu Gia có cho phép hắn nói chăng?
Hồ Bất Sầu vụt thốt ngay:
- Vãn bối hấp tấp đến đây, thành chẳng kịp mang lễ vật...
Linh Nhi “Hừ” một tiếng:
- Ngươi có biết quy củ của Hầu Gia như thế nào chăng lại đến đây với hai bàn tay không?
Hồ Bất Sầu điềm nhiên:
- Tuy tại hạ chẳng có lễ vật, song việc thỉnh cầu này chẳng vì cái lợi riêng cho mình mà có có liên quan đến đồng đạo võ lâm, nếu Hầu Gia từ khước lại hạ e rằng sẽ có rất nhiều cao thủ chết oan và võ lâm phải trải qua một đại họa.
Đến lúc đó quần hùng mới chịu lưu ý, lắng nghe y nói.
Tử Y Hầu lạnh lùng thốt:
- Cao thủ trong võ lâm, sống thì họ nhờ chết thì họ chịu có can hệ gì đến ta đâu? Giả như ta chết đi, họ có tìm đến tận nơi nhỏ lệ thương la chăng?
Hồ Bất Sầu sững sờ một lúc lâu, ấp úng:
- Nhưng... nhưng...
Tử Y Hầu tiếp nối:
- Ba mươi năm trước ta đã phát nguyện là không vì người đời mà xuất thủ, ba mươi năm trước đã vậy thì hôm nay ta lại càng không tưởng là phải xuất thủ, bất cứ trong trường hợp nào. Người còn trẻ quá ta khuyên ngươi đừng chuốc lấy việc người, bởi trường thị phi không đem lại một hào hứng nào đâu!
Hồ Bất Sầu càng sững sờ hơn. Y đưa mắt nhìn láo liên.
Phương Bửu Nhi biết ngay, cái tập quán của y là mỗi khi cần suy nghĩ một mưu mẹo gì, đôi mắt của y nhìn ngang ngó dọc, hắn nghĩ:
- Hồ đại thúc chỉ sợ rồi thất vọng thôi! Đừng hòng tìm được một mưu mẹo gì khích động nổi Tử y hầu.
Nhưng bên ngoài đại sảnh, Hồ Bất Sầu ung dung thốt:
- Tuy nhiên việc này có liên quan đến Hầu Gia!
Tử Y Hầu hỏi:
- Liên quan như thế nào, ngươi thử nói cho ta nghe?
Hồ Bất Sầu bình tĩnh giải thích:
- Cái kiếp vận võ lâm sắp trải qua, đó là do một kiếm khách quái dị, không rõ từ đâu đến, kiếm khách đó tìm tất cả danh thủ trên giang hồ khiêu chiến!
Tử Y Hầu cười nhẹ:
- Vị kiếm khách đó có khẩu khí quá lớn, gần như khoác lác.
Hồ Bất Sầu tiếp:
- Khoác lác hay không điều đó vãn bối chẳng dám nói, có điều y hết sức ngông cuồng, và vãn bối thành thật nhìn nhận là kiếm pháp của y rất cao siêu, có thể bảo là tay kiếm đệ nhất đương thời, dù Hầu Gia cũng...
Y ngưng bặt câu nói, không tiếp cho tròn ý nhưng ai ai cũng đoán ra được y muốn nói gì. Y muốn nói Hầu Gia cũng chẳng thắng nổi tay kiếm đó.
Tử Y Hầu cười lạnh:
- Đệ nhất kiếm khách đương thời? Chỉ sợ vị tất...
Hồ Bất Sầu đã biết lão bị khích động rồi, mừng thầm song ngoài mặt vẫn giữ vẻ lo ngại thở dài:
- Chẳng phải vãn bối khoa trương tài nghệ của người, tự hạ thấp mình xuống, song phải thành thật mà xét, trên thế gian này khó có một người nào khả dĩ gọi là đối thủ của vị kiếm khách đó.
Tử Y Hầu trầm ngâm một lúc lâu đột nhiên bật cười lớn:
- Tên trẻ tuổi kia, ngươi định dùng phương pháp khích tướng đối với ta? Vô ích, dù kẻ đó là tay kiếm đệ nhất trên đời thì sự việc đó đối với ta có liên quan gì?
Hồ Bất Sầu nao núng:
- Nếu vậy, vãn bối xin cáo từ! Nhưng, rất tiếc... hừ!
Y nghiêng mình chào Tử Y Hầu, rồi quay mình bước đi.
Vừa được mấy bước, Tử Y Hầu vụt gọi:
- Trở lại!
Hồ Bất Sầu nhìn lại chứ chưa chịu quay mình:
- Hầu Gia có điều chỉ dậy bảo?
Tử Y Hầu hỏi:
- Rất tiếc là làm sao? Ngươi nói cho ta nghe!
Hồ Bất Sầu thản nhiên:
- Phàm ai học qua cách múa kiếm cũng cần phải xem cho biết đường kiếm của ngươi đó. Không thấy được, là một điều đáng tiếc!
Tử Y Hầu hừ một tiếng:
- Kiếm pháp của kẻ đó có những đặc điểm gì?
Cái lối úp úp mở mở của Hồ Bất Sầu quả có hiệu lực câu nhử Tử Y Hầu vào tròng. Y cười nhẹ thốt:
- Thực sự thì vãn bối chẳng biết hình dung chỗ tuyệt diệu của kiếm pháp không tiền khoáng hậu!
Y dừng lại một chút cho tánh hiếu kỳ của mọi người sôi động hơn đoạn tiếp:
- Vãn bối có mang theo đây một vật xin trình lên Hầu Gia, xem rồi Hầu Gia sẽ phải chịu là vãn bối không nói ngoa.
Tử Y Hầu không dấu được vẻ náo nức môt chút:
- Ngươi đưa ra đây cho ta xem nào!
Mãi cho đến bây giờ, Hồ Bất Sầu mới bằng lòng đưa cành cây ra cho Tử Y Hầu. Y cố giữ vẻ hết sức thản nhiên.
Nhưng y vừa cho tay vào mình, không rõ nghĩ sao, lại lấy tay ra.
Tử Y Hầu lấy làm lạ hỏi:
- Người làm gì thế?
Hồ Bất Sầu cười nhẹ:
- Hầu Gia không có ý xuất thủ thì không nên xem làm gì!
Tử Y Hầu “Hừ” một tiếng:
- Ai nói là ta không xuất thủ? Ngươi cứ đưa vật gì đó cho ta xem đi!
Hồ Bất Sầu chắc ý rồi liền lấy cành cây hai tay trao cho Tử Y Hầu.
Một cành cây ư? Như vậy có nghĩa gì? Một cành cây khô thì làm gì chứng minh được một kiếm pháp không tiền khoáng hậu?
Tất cả mọi người đều lấy làm lạ, chính Tử Y Hầu cũng lấy làm lạ như toàn thể, song nhìn cành cây rồi lão từ từ lấc đầu, lại thở dài mấy lượt, đoạn thốt:
- Kiếm pháp tuyệt diệu! Nhanh chuẩn, tinh ảo phi thường.
Tử Y Hầu là tay kiếm đệ nhất đương thế cũng phải thán phục thì còn ai nói gì được?
Hồ Bất Sầu tỏ vẻ lo ngại:
- Giả sử Tử Y Hầu cũng không phải là địch thủ của kiếm khách áo trắng thì ta biết làm thế nào?.. Linh Nhi không dằn được tính hiếu kỳ, vụt hỏi:
- Không lẽ Hầu Gia chỉ nhìn cành cây khô đó rồi hiểu được kiếm pháp của người ấy cao tuyệt vô tưởng sao?
Tử Y Hầu gật đầu:
- Phải! Chỉ cần nhìn cành cây khô này cũng thừa hiểu kiếm pháp của người đó ra sao rồi!
Linh Nhi trố mắt:
- Bằng một đặc điểm nào của cây khô?
Tử Y Hầu thở dài:
- Khi nào ngươi luyện kiếm pháp đến mức độ của ta, ngươi sẽ có thể nhìn vào lằn kiếm chém vào cành cây mà suy đoán kiếm pháp của người đó. Nếu không thì ta có giảng giải ba ngày ba đêm, vị tất người hiểu nổi!
Linh Nhi giật mình nhếch nụ cười khổ:
- Thế ra hạng người như tiểu bối chẳng thể nào hiểu thấu triệt được!
Câu hỏi vừa rồi của nàng chính là câu hỏi của toàn thể những người hiện diện, trong số đó có cả Hồ Bất Sầu song chẳng ai dám mở miệng hỏi. Nàng nêu lên rất đúng với tâm nguyện của họ. Nghe Tử Y Hầu đáp như thế, tất cả đều thất vọng. Tất cả cùng buột miệng thở dài.
Tử Y Hầu nói:
- Người đó hiện giờ ở đâu?
Hồ Bất Sầu có ý mừng:
- Hầu Gia định xuất thủ?
Tử Y Hầu thản nhiên:
- Ta không có ý định xuất thủ thì y ở đâu mặc y can gì đến ta mà ta hỏi? Hừ! Được cùng người ấy so kiếm, thiết tưởng kiếp sống một con người không đến đỗi quá vô vị.
Không ai nghĩ là Hồ Bất Sầu đến không lễ vật việc thỉnh cầu lại khó khăn mà Tử Y Hầu lại đáp ứng như thường. Tất cả đều hết sức kinh ngạc.
Họ nào có biết được, phàm học võ công càng đạt đến mức cao, càng cảm thấy mình cô độc, bởi chẳng có bao nhiêu người khả dĩ cùng mình giao thủ. Cái danh vô địch càng cô đơn quạnh quẽ, có thể bảo quanh năm suốt tháng mình mang một bóng lẻ đi khắp sông hồ, thiên hạ võ lâm dù có xem minh là thần tượng, chung quy cũng tránh xa mình, đúng như câu “Kính nhi viễn chị.. ” Vả lại cuộc đấu võ cũng như đấu cờ, gặp kẻ đồng tài đồng sức, thì cuộc đấu mới gây phần hứng thú, chứ đấu với những kẻ kém cỏi quá thì còn gì chán nhạt bằng, cho nên nghe ở nơi nào đó có một tay siêu việt, khả dĩ cùng mình đọ qua vài đường kiếm vài chiêu quyền tự nhiên mình không bỏ lỡ cơ hội nổi, cái cơ hội giúp mình gặp người kiếm hữu, cũng như làn bút mực tìm biết văn hữu. Họ đạt đến mức độ quá cao, họ chỉ cần chú trọng đến nghệ thuật, mà không cần thắng, không sợ bại như hạng bình thường.
Tuy giao đấu với những chiêu thức tân kỳ, có thể giết người trong đường tơ kẽ tóc, song họ xem nhau như tri kỷ. Cái thú của loại tri kỷ kiếm là thế, bởi kiếm thì bao giờ cũng ác hơn bút, kiếm càng ác hứng thú càng lớn, họ có thể giết nhau bằng một đường kiếm, nhưng chẳng phải vì thù nhau mà tương sát, mà chỉ vì cái hứng của tao ngộ vọt lên cao độ.
Bỗng có tiếng quát vang lên, âm thanh lạ kỳ, mường tượng là tiếng lụa xé:
- Hãy khoan!
Tiếng quát đo do Dà Tinh Pháp Vương phát ra. Nhà sư mang tấm thân chơm chớm những đinh đến trước mặt mọi người.
Ai ai nhìn nhà sư cũng phải rùng mình kinh hãi, mang một thân hình đinh như vậy chắc chắn phải đau đớn lắm.
Tử Y Hầu vẫn điềm nhiên hỏi:
-
- Đại sư còn điều gì chỉ giáo cho tại hạ nữa đây?
Dà Tinh Pháp Vương hỏi lại:
- Hầu Gia đã chấp thuận cùng người giao thủ, vậy trước hết nên giao thủ với bần tăng đi, chẳng lẽ Hầu Gia khinh khi bần tăng không bằng vị kiếm khách nào đó?
Tử Y Hầu thở dài:
- Đại sư hãy xem nhát kiếm của người đó như thế nào!
Từ phía hậu tấm bình phong, cành cây khô bay lên, uốn cầu vòng ra đến ngoài chúc đầu xuống, đứng trước mặt Dà Tinh Pháp Vương cành cây đi từ từ, chẳng khác nào có bàn tay vô hình nâng nhẹ và đưa ra ngoài.
Cành cây đến trước mặt Dà Tinh Pháp Vương, pháp vương chưa đưa tay ra đón lấy, cành cây vẫn lơ lửng nơi đó, không bay tới xa hơn mà cũng chẳng rơi xuống sàn thuyền.
Phương Bửu Nhi nào có biết cành cây được Hầu Gia dụng nội lực chuyển đi, hắn lấy làm lạ thầm nghĩ:
- Kỳ quái thật! Tại sao nó không rớt xuống mà cứ lơ lửng nơi đó?
Hắn lấy làm lạ, nhưng toàn thể những người hiện diện đều xám mặt, họ kinh hãi đến độ chẳng ai dám thở mạnh. Họ chưa từng mục kích một biểu dương nội lực như Tử Y Hầu vừa làm. Và làm được như vậy, Hầu Gia quả đúng là thần tượng của võ lâm!
Dà Tinh Pháp Vương hươ hươ đưa tay tiếp lấy cành cây khô nhìn vào chỗ đường kiếm phớt qua.
Nhìn một lúc lâu, nhà sư vụt biến sắc mặt, không nói năng gì cả, quẳng cành cây xuống sàn thuyền, quay mình nhảy vọt ra ngoài liền.
Cành cây đã khiến Dà Tinh Pháp Vương khiếp đảm thì còn ai chẳng khiếp đảm chứ?
Hồ Bất Sầu bước tới nhặt lấy cành cây lên thở dài:
- Gia sư sai vãn bối đến đây, gặp Hầu Gia rồi, ngoài cái việc trình báo về người kiếm khách áo trắng còn thỉnh cầu Hầu Gia một việc, nhưng giờ đây... giờ đây...
Tử Y Hầu hỏi:
- Lệnh sư là ai? Ngươi còn thỉnh cầu điều chi nữa?
Hồ Bất Sầu đáp:
- Gia sư là Thanh Bình Kiếm Khách...
Tử Y Hầu chận lời:
Thì ra là Bạch Tam Không! Lúc thiếu thời, ta từng uống với y mấy chén rượu... hừ, trên ba mươi năm rồi!
Hồ Bất Sầu tiếp nối:
- Gia sư mong cầu nơi Hầu Gia một điều thứ hai là... là...
Đột nhiên y quay mình lại đưa tay chỉ Thủy Thiên Cơ tiếp:
- Hầu Gia hãy hạ lệnh bắt nàng ấy trói lại!
Thủy Thiên Cơ điềm nhiên nở một nụ cười duyên dáng hỏi:
- Ta có làm gì nên tội tình đối với ngươi, ngươi lại van xin Hầu Gia bắt ta? Không lẽ một gã to đầu như ngươi lại có một người cha hoa sắc cỡ cha của Mộc Lang Quân, bị ta làm thương tổn rồi cầu thuốc trị?
Nàng không sợ Hồ Bất Sầu tố cáo hành động, trái lại còn kích thích cho sự việc sôi nhộn lên, điều đó không ngoài thủ đoạn thường dùng của nàng, cốt làm sao cho kẻ đối thoại phẫn nộ rồi mất bình tĩnh, khi bình tĩnh đã mất thì dễ bị lệch lạc.
Nhưng Hồ Bất Sầu có cái tâm kiên định như núi Thủy Thiên Cơ dù thừa thủ đoạn cũng chẳng làm sao lung lạc được y.
Y làm như chẳng nghe Thủy Thiên Cơ nói gì bình tĩnh thốt:
- Nàng ấy đã cướp mất đứa cháu ngoại duy nhất của gia sư.
Thủy Thiên Cơ bật cười khanh khách:
- Hầu Gia không nên tin lời hắn. Hắn chịu không nổi tiểu tử đó, bỏ rơi dọc đường rồi đổ triệt cho tôi. Dù hắn có cho tôi tiểu tử đó tôi cũng chẳng ham, nói gì đến cướp mất.
Thật ra Hồ Bất Sầu chỉ nghĩ quyết chính nàng đã cướp Phương Bửu Nhi mang đi chứ chứng cớ thì làm gì mà trưng ra được chứng cứ buộc tội nàng?
Tuy nhiên y cao giọng hỏi:
- Ngươi không cướp đi, thì còn ai cướp chứ?
Thủy Thiên Cơ càng cười lớn:
- Ngươi cứ vu khống cho ta, thử hỏi ngươi có bằng cớ gì không? Có ai trông thấy ta cướp tiểu tử đó không? Hừ! Đã không chăm nom chu đáo tiểu tử để sổng mất rồi muốn đổ tội cho ai thì đổ.
Phương Bửu Nhi bên trong bức màn sôi giận thầm nghĩ:
- Có mặt ta, nàng tỏ vẻ âu âu yếm yếm, vắng mặt ta rồi nàng xem ta như một phế vật! Rõ đáng hận!
Hồ Bất Sầu đuối lý, đứng lặng người.
Linh Nhi quá hiểu sự tình, song chưa tỏ thái độ, đưa mắt nhìn quanh chờ một sự huyên náo diễn ra, xem cho bằng thích, bởi nàng chắc chắn là phải náo nhiệt.
Thủy Thiên Cơ được thể tấn công luôn:
- Hầu Gia thấy đó, trước mặt Hầu Gia mà hắn còn dám ngậm máu phun người, khi phụ đến cả những thiếu nữ đáng thương hại như tôi...
Hồ Bất Sầu gằn giọng:
- Rõ ràng là ngươi...
Thủy Thiên Cơ giậm chân thình thịch xuống thuyền, tru tréo:
- Đó! Đó! Hầu Gia thấy chưa. Hắn vẫn ngoan cố cứ vu oan cho tôi mãi. Hầu Gia bảo hắn trưng bằng cớ ra đi, nếu không thì....thì... hắn phải cúi đầu tạ lỗi với tôi. Như vậy mới công bình.
Nàng càng phút càng làm ra vẻ khổ sở, bi thương, cái khổ sở, bi thương của một nữ nhân bơ vơ côi cút bị người đời lấn hiếp đủ mọi cách.
Ai nhìn vào mà chẳng xúc động tâm tình?
Tử Y Hầu thở dài:
- Đã không có chứng cứ, ngươi không nên đề quyết cho người ta như vậy!
Thủy Thiên Cơ càng được nước:
- Phải đó, Hầu Gia! Tại sao hắn vu cho tôi chứ?
Nàng nhích tới gần Linh Nhi nắm chéo áo Linh Nhi to tiếng van cầu:
- Thơ thơ thương tôi, thơ thơ chủ sự việc này hộ tôi. Tức lắm, tôi chỉ muốn chết thôi thơ thơ!
Nàng dụi đầu vào ngực Linh Nhi rồi nhoi lên vai, thì thầm bên tai:
- Tiểu liễu đầu! Ngươi đã cướp gã trượng phu tí hon của ta mang về đây hay đưa đi đâu?
Linh Nhi đang bật cười khanh khách nghe nàng nói thế thì giật mình nhưng miệng chẳng ngừng cười, vừa cười vừa hỏi:
- Ai bảo với ngươi như vậy?
Thủy Thiên Cơ vẫn khóc để che lấp tiếng rỉ bên tai Linh Nhi:
- Nếu ngươi không cướp đi, tại sao ngươi biết ta là vợ sồn sồn của hắn?
Linh Nhi vỡ lẽ, thì ra vừa rồi nàng nói hớ, thầm nghĩ:
- Nàng này lợi hại thật?
Thủy Thiên Cơ tiếp:
- Nếu ngươi không trợ giúp ta ứng phó với cái tên to đầu có giọng nói âm dương kia, ta sẽ lôi cuốn ngươi vào việc này cho xem!
Linh Nhi cười khổ:
- Trợ giúp ngươi bằng cách nào?
Thủy Thiên Cơ thét:
- Ta nói sao ngươi nói vậy y theo ta, nhất định là cái gã to đầu đó sẽ điên đầu, hắn điên đầu thì còn nhiều điều thú vị lắm!
Mọi người chỉ trông thấy hai nàng quấn quýt ôm nhau, một cười một khóc nhưng chẳng ai nghe họ nói gì với nhau, chẳng ai hiểu gì cả, cũng lấy làm lạ nhìn họ.
Chợt Linh Nhi ngẩng mặt lên hỏi:
- Tên to đầu kia ngươi nói vậy mà có chứng cứ gì chăng?
Hồ Bất Sầu bối rối:
- Việc đó... việc đó...
Linh Nhi chặn lại:
- Đã không có chứng cứ, ngươi chẳng nên vu oan cho người ta như vậy. Không lẽ bọn nữ nhân như chúng ta dễ dàng bị ngươi khi phụ sao?
Ngươi hãy cúi đầu tạ lỗi đi!
Hồ Bất Sầu cố dằn uất hận, vì quá dằn nên mặt mày y đỏ lựng, y quẫn quá kêu lên:
- Nếu Hầu Gia không tin cho cho đòi Mộc Lang Quân trở lại đây, lão ấy hiểu rõ sự việc, lão ấy tường thuật cho Hầu Gia nghe.
Thủy Thiên Cơ lại rỉ bên tai Linh Nhi:
- Hắn hận ta thấu xương tủy, ngươi hãy liệu cách nào ức chế hắn giúp ta!
Có người cho rằng Hồ Bất Sầu bịa chuyện, mượn tay Tử Y Hầu thỏa mãn niềm riêng nên cất tiếng:
- Hắn phải cúi đầu tạ lỗi mới được! Cho hắn biết một lần, sau này không còn dám nói oan cho người khác!
Hồ Bất Sầu nhìn quanh, thấy tất cả đều đổ dồn ánh mắt về mình, những ánh mắt đó chẳng có cảm tình chút nào, y đâm lo, vừa lo vừa hận, hận quá đến run người.
Thủy Thiên Cơ thoáng nhìn y, hết sức khoan khoái trong lòng.
Tử Y Hầu thở dài:
- Nếu không có chứng cứ, chỉ còn cách cúi đầu lạ lỗi mà thôi.
Hồ Bất Sầu chết lặng, chưa biết phải phản ứng làm sao bỗng một giọng nói trong trẻo vang lên:
- Ai bảo là không có chứng cứ? Chứng cứ đã đến đây này.
Câu nói từ sau bức màn vọng ra, rồi một đồng tử có đôi mắt to, chiếc mũi cao, gương mặt hồng hào, làn da trắng như tuyết từ từ bước ra.
Hồ Bất Sầu vừa kinh hãi vừa mừng rỡ vội kêu to:
- Bửu Nhi? Ngươi ở đây? Tại sao ngươi ở đây?
Phương Bửu Nhi xuất hiện tại đây, đúng là một sự kiện trên chỗ tưởng của y.
Phương Bửu Nhi đáp:
- Việc dài dòng lắm, để thư thả tiểu điệt sẽ thuật lại cho đại thúc nghe, bây giờ thì tiểu diệt phải giải quyết việc này, giải tỏa uất ức cho đại thúc trước!
Hồ Bất Sầu trố mắt:
- Ngươi giải tỏa uất ức cho ta?
Phương Bửu Nhi gật đầu:
- Phải!
Hắn day lại đối diện với Tử Y Hầu. Đến lúc này hắn mới trông thấy rõ dung mạo của Tử Y Hầu... Lão vận chiếc áo gấm màu tía, đầu đội mão hàng vương, gắn ngọc, mặt trắng, toàn thân bốc ra một uy lực đáng khiếp, gan lì như Phương Bửu Nhi nhìn lão cũng phải rợn người.
Chừng như Tử Y Hầu đã biết là có người nấp sau bức màn cho nên hắn xuất hiện rồi Hầu Gia vẫn bình thản như thường, chẳng tỏ vẻ gì kinh ngạc, hơn thế, gương mặt lão còn lạnh lùng hơn.
Phương Bửu Nhi vòng tay vái chào xong, đoạn cất tiếng:
- Tôn Hầu ngao du bốn biển, vui thú trăng nước trời mây, chẳng khác nào một thần tiên, trí thân vật ngoại, chẳng hay Tôn Hầu còn nghĩ đến lễ giáo chốn nhân gian chăng?
Tử Y Hầu thấy hắn còn nhổ tuổi mà ăn nói chững chạc như hạng trưởng thành, lão liền hết sức lấy làm lạ, gương mặt lạnh giờ đây hiện rõ vẻ hiếu kỳ, lão từ từ thốt:
- Tuy quanh năm bổn Hầu lênh đênh mặt biển, dạo khắp đó đây, song chẳng phải là kẻ hóa ngoại ngang tàng, dù sao cũng giữ gìn lễ giáo chứ?
Lời nói của Tử Y Hầu chứng tỏ lão không khinh thường kẻ đối thoại là một đồng tử.
Phương Bửu Nhi lại vòng tay vái chào một lượt nữa:
- Tam cang, ngũ thường, là căn bổn của lễ giáo, nếu có kẻ bất chấp cang thường luân lý thì theo ý Hầu Gia, phải trừng trị kẻ đó như thế nào?
Bây giờ đến lượt quần hùng kinh ngạc, tất cả không ngờ một đồng tử có phong độ chững chạc lão luyện như một nhà đạo đức.
Tiểu công chúa còn núp sau bức màn, chưa dám xuất hiện nghe Phương Bửu Nhi đối đáp với Hầu Gia bên ngoài, nàng nóng nảy quá song còn biết làm sao hơn, chỉ có giậm chân nhè nhẹ cho hả tức.
Hầu Gia điềm nhiên đáp:
- Kẻ nào phạm lễ giáo, kẻ đó phải bị trừng phạt không thể dung tha được.
Phương Bửu Nhi tiếp:
- Lời xưa có ví:
Vua là trời của bầy tôi, chồng là trời của vợ, nếu có người vợ nào không tròn đạo nghĩa đối với chồng, thì ngườivợ đó có phạm lễ giáo không?
Tử Y Hầu nhẹ cười thốt:
- Ngươi còn nhỏ tuổi quá làm gì có vợ mà nói đến đạo nghĩa vợ chồng!
Mọi người phụ họa theo nụ cười của Hầu Gia, cũng nhếch mép cười.
Nhưng thản nhiên như thường, Phương Bửu Nhi buông gọn:
- Tôi có vợ rồi!
Tử Y Hầu cười lớn hơn một chút:
- Vợ ngươi là ai?
Đưa tay chỉ Thủy Thiên Cơ, Phương Bửu Nhi đáp:
- Nàng ấy!
Theo cái chỉ tay của hắn, con thuyền to lớn như thế hầu như dao động dưới áp lực của những tiếng cười vang dội. Mọi người đều cười như quên đi trước mắt mình có bậc lãnh tụ võ lâm đáng kính, đáng sợ, ai ai cũng phải dè dặt từ cử động, tránh xúc phạm đến oai phong, cũng có người không tin được lời nói của hắn, vì không tin họ cho rằng hắn điên khùng mới hồ đồ như vậy.
Hắn buông câu xác nhận ra rồi, Linh Nhi nghe Thủy Thiên Cơ càng bám sát vào mình nàng, véo mạnh vào vai nàng đau điếng.
Nàng đảo mắt nhìn quanh mấy lượt, chẳng hiểu nàng làm thế có ý tứ gì, chợt nàng vỗ tay reo lên:
- Tiểu tử đó nói thế mà đúng với sự thật đấy!
Tử Y Hầu hỏi:
- Sao ngươi biết được?
Linh Nhi mỉm cười:
- Lúc vị Thủy cô nương này và tiểu tử thành thân, tôi cùng Châu Linh tình cờ trông thấy dĩ nhiên phải biết rõ.
Thủy Thiên Cơ mắng khẽ:
- Ngươi....ngươi.. là một quỷ liễu đầu!
Linh Nhi cười nhẹ.
Thủy Thiên Cơ xì một tiếng:
- Thừa nhận thì đã sao chứ?
Rồi nàng cao giọng:
- Lại đây ông chồng tí hon! Lại đây vợ chồng mình thân thiết một chút nào!
Nàng đưa tay định nắm Phương Bửu Nhi lôi hắn về phía nàng.
Phương Bửu Nhi mở tròn đôi mắt trừng nàng:
- Đã là vợ của ta, ngươi xúc phạm đến đại thúc là vô lễ đó , bây giờ thì ngươi thừa nhận nhưng trước đây ngươi lại phủ nhận ăn nói đảo điên, như vậy là vô tín đó... Đã là vợ người lại buông lung tính nết, cốt đạt được mục đích, tự hiến mình làm tặng vật cho người khác, là vô sỉ đó.
Thủy Thiên Cơ cười sằng sặc:
- Ngươi mắng nghe hay quá!
Phương Bửu Nhi thản nhiên không lưu ý đến nàng, day qua Tử Y Hầu hỏi:
- Một người vô lễ, vô tín, vô sỉ như thế xin hỏi Hầu Gia có nên phạt chăng?
Tử Y Hầu cười nhẹ.
Phương Bửu Nhi chớp chớp mắt:
- Trước hêt nàng phải cúi đầu tạ tội trước đại thúc tôi, sau đó...
Bỗng có tiếng thốt vọng ra từ bức màn ra ngoài:
- Sau đó phạt nàng lưu lại ở đây ba năm làm khổ công cho chúng tôi, đọc sách cho chúng tôi nghe, viết chữ thay cho chúng tôi.
Giọng nói nhẹ nhàng ấm dịu quá, đúng là giọng nói của tiểu công chúa.
Nàng được nâng tiu chiều chuộng từ nhỏ, từ lười biếng thành tánh, cho nên mới xem việc đọc sách, viết chữ là khổ công.
Mọi người nghe nàng nói thế đều bật cười vang.
Thủy Thiên Cơ cũng khó nín cười:
- Được, loại khổ công như vậy tôi có thể làm suốt ba năm.
Tử Y Hầu gật đầu:
- Tốt lắm!
Thủy Thiên Cơ giật mình:
- Tốt, tốt làm sao? Việc gì tốt?
Tử Y Hầu điềm nhiên:
- Ngươi nói có thể làm, thì phạt ngươi làm việc đó trong ba năm.
Thủy Thiên Cơ cau mày:
- Nhưng... nhưng tôi vui miệng mà nói...
Tử Y Hầu buồng gọn:
- Trước mặt ta đâu có việc vui miệng mà nói đùa?
Thủy Thiên Cơ tiu nghỉu ấp úng:
- Tôi... tôi...
Linh Nhi chớp chớp mắt, rồi cùng Châu Nhi và hai thiếu nữ nữa áp đến vây quanh Thủy Thiên Cơ cười thốt:
- Ngươi muốn gì? Định trốn phạt phải không?
Thủy Thiên Cơ đảo mắt nhìn quanh, biết có thoát đi cũng chẳng lọt, đột nhiên thay đổi chủ ý, nở nụ cười duyên:
- Được rồi! Tôi bôn tẩu mãi, rày đây mai đó cảm thấy mệt mỏi lắm rồi, giờ có dừng chân tại đây ba năm, tưởng cũng là một dịp tốt. Nhưng tôi đã có chồng, tôi lưu lại đây thì chồng tôi cũng phải ở lại đây, sớm hôm có bạn với nhau!
Tiểu cô nương vỗ tay cười lớn:
-
- Tự nhiên! Nhất định là hắn phải ở lại rồi:
Hồ Bất Sầu hân hoan thốt:
- Hiện tại hắn cũng chẳng có việc gì đáng làm, hắn có thể lưu lại đây đọc sách, làm văn, có lợi cho hắn lắm!
Phương Bửu Nhi chận lời:
- Hãy để cho nàng cúi đầu tạ lỗi với thúc thúc, rồi sau đó hẵng tính gì thì tính.
Hồ Bất Sầu khoát tay cười nhẹ:
- Cái cúi đầu của nàng ta chẳng nhận đâu, miễn cho nàng đi!
Tử Y Hầu quát to:
- Ai đấy!
Bên ngoài có hai giọng nói còn vọng vào mỗi giọng một câu nhưng thốt lên đồng thời gian:
- Tôn Hầu có thính giác lợi hại đấy!
- Quái sự thì năm nào cũng gặp, nhưng năm nay lại gặp nhiều! Ghế ngồi đặt trên vách, đá tảng biết trên gò. Tiểu đồng hơn mười tuổi, lấy vợ cỡ sồn sồn. Làm cho Vương lão nhị này cười vỡ bụng.
Một tràng cười tiếp theo câu nói thứ hai.
Hai câu nói có một âm thanh lạnh lùng khô khan, còn một thì hào sảng, phóng túng, hai câu nói với hai giọng khác nhau đồng thời phát xuất nhưng nghe rất phân biệt. Câu nào vào câu ấy, mọi người trong sảnh thuyền phải nghĩ là có hai người cùng phát xuất. Và tất cả đều phải công nhận hai người đó có võ công rất cao, bằng cớ là họ xuất hiện trên sàn thuyền, họ phát âm rất gần, chỉ cách có một vách gỗ, mà không ai phát giác ra được, nếu Tử Y Hầu không lên tiếng hỏi.
Chừng như đã biết người vừa đến là ai, Tử Y Hầu dịu nét mặt ngay, bình tĩnh thốt:
- Thì ra huynh đài...
Giọng nói lạnh lùng khô khan tiếp nối:
- Đúng là tại hạ! Hôm nay bỗng nảy ra cái ý đến đây bái phỏng Hầu Gia!
Liền theo câu nói, một người từ bên ngoài bước vào.
Người đó có thân vóc cao nhưng rất ốm, da mặt xanh, vận chiếc áo vá nhiều mảnh, nhưng giặt giũ rất sạch sẽ, áo màu lam, mầu đã bạc theo thời gian, đôi bàn tay trong như ngọc, ngón giữa bàn tay hữu có đeo một cái khoen hình dáng kỳ dị, bằng ngọc xanh, thần sắc lạnh lùng hết sức, đôi chân di động nhẹ nhàng như áng mây vờn, chẳng gây nên một tiếng động khẽ.
Vừa rồi có hai giọng nói tức nhiên phải do hai người phát ra, nhưng bây giờ chỉ có một người đi vào, quần hùng vô cùng kinh ngạc, tự hỏi người kia là ai, họ muốn biết mặt mày con người có tánh khôi hài đã thốt lên một câu nói đùa ý nhị quá.
Từ Y Hầu cười nhẹ :
- Mười năm cách biệt nhau, gặp lại rồi mới biết huynh đài tiến bộ vô cùng. Thiết tưởng cái danh đệ nhất khinh công trong thiên hạ phải dành cho huynh đài mới đúng!
Người áo lam mỉm cười:
- Mười năm không gặp, gặp rồi mới nhận ra nhĩ lực của Hầu Gia chẳng suy giảm chút nào. Đáng phục! Đáng phục!
Rồi lão tiếp:
- Năm ngoái đây, tại hạ cùng Phong đạo nhân tỉ thí khinh công, suốt một ngày một đêm, thắng lão ấy được nửa dặm đường. Chỉ vì tại hạ không thích thinh danh, nên nhường cho lão ấy cái chức đệ nhất khinh công trong thiên hạ.
Gương mặt lão lạnh lùng, khẩu khí của lão cao ngạo quá, khi lão thốt vẻ tự đắc ngời trong ánh mắt. Có lẽ ngoài Tử Y Hằu ra, tại sảnh thuyền chẳng có nhân vật nào đáng cho lão thoáng nhìn qua.
Tiểu công chúa không chịu nổi vẻ cao ngạo đó, buột miệng thốt:
- Khoác lác quá!
Phương Bửu Nhi lập tức phụ họa:
- Mèo khen mèo dài đuôi!
Đột nhiên người áo lam quay lại nhìn cả hai.
Bây giờ cả hai mới thấy rõ ràng. Gương mặt thì lạnh như giá băng, song đôi mắt sáng rực nhiệt tình.
Lão hỏi:
- Hai bé con kia nói về ta phải không?
Thủy Thiên Cơ bước tới đứng án trước mặt Phương Bửu Nhi điểm nụ cười tươi:
- Người lớn không nên tỏ lộ hung hăng với trẻ con.
Rồi nàng hỏi:
- Còn một người nữa ở đâu? Đã đến đây chưa?
Người áo lam đáp:
- Đến rồi!
Thủy Thiên Cơ lại hói:
- Đến rồi mà ở đâu, sao chẳng thấy?
Bỗng có giọng nói khôi hài như vừa rồi đầy nhiệt tình vang lên.
- Ở đâu? Ở đây chứ còn ở đâu nữa? Ngươi tuy chẳng thấy ta chớ ta thì thấy ngươi rõ ràng!
Câu nói được điểm xuyết bằng mấy tiếng cười ròn rã.
Thủy Thiên Cơ, Phường Bửu Nhi, cùng giật mình đưa mắt nhìn về hướng vừa phát ra câu nói, chẳng thấy ai cả, chỉ thấy người áo lam đang đứng trước mặt, vẫn lạnh lùng, vẻ lạnh lùng đó chứng tỏ không phải chính lão vừa thốt lên câu vừa rồi, và người lạnh lùng như lão hiển nhiên chẳng cười thành tiếng vui tươi như vậy được.
Vậy người vừa nói vừa cười đó là ai? Người đó có thuật ẩn hình chăng?
Phương Bửu Nhi rợn người, nép sát mình vào Thủy Thiên Cơ.
Giọng nói đó, giọng cười đó lại tiếp tục vang lên:
- Đôi bạn đó thân mật với nhau quá trước mặt đông người.
Bỗng Phương Bửu Nhi kêu lên:
- Chính lão! Hai giọng nói cùng do một người? Người đó là lão? Lão có thể phát âm bằng bụng cũng như bằng miệng.
Tiếng cười tuy dứt, ý cười còn ngời trong ánh mắt của người áo lam.
Ánh mắt và sắc diện của lão không hòa hợp chút nào, ánh mắt đầy nhiệt tình, còn sắc diện hết sức lãnh đạm. Ánh mắt và sắc diện đó phải ở hai người, chẳng thể cùng nơi một người được.
Thủy Thiên Cơ nhìn người áo lam một lúc bông vỗ tay cười lớn:
- Vương Bán Hiệp! Ông chính là Vương Bán Hiệp, Ngoài lạnh trong nóng, một hiệp chia làm hai, nửa hiệp nửa cuồng, nên chỉ được xưng bán hiệp chứ không toàn hiệp. Đáng lẽ tôi phải nhận ra sớm.
Người áo lam đúng là Vương Bán Hiệp, thản nhiên thốt:
- Hiện tại cũng chẳng muộn gì.
Thủy Thiên Cơ tiếp:
- Từ lâu nghe đồn Vương Bán Hiệp đã được giang hồ liệt vào danh sách quái nhân võ lâm, một quái nhân tuyệt diệu, không ngờ hôm nay được gặp mặt, thật hân hạnh vô cùng!
Vương Bán Hiệp cười nhẹ:
- Chứ ngươi không được liệt vào danh sách quái nhân võ lâm à?
Phương Bửu Nhi nhìn lại một lúc hỏi:
- Ông... Ông phát âm bằng bụng được à?
Thủy Thiên Cơ mỉm cười, đáp thay Vương Bán Hiệp:
- Được chứ, ông ta luyện được phúc ngữ công phu, rồi ỷ trượng vào công phu đó, làm thành hai người, cho nên mới tự đặt cho mình một ngoại hiệu nữa là Hóa Thân Song Hiệp. Từng gieo hoang mang trên giang hồ, võ lâm phải đau đầu vì ông ta, ai ai cũng tưởng là hai người, chẳng ai biết được chỉ là một người!
Vương Bán Hiệp lạnh lùng:
- Phàm gặp người biết người nhìn chánh nghĩa, thì ta làm Vương Bán Hiệp, còn gặp bọn hung gian ác đạo, thì ta là Vương Bán Cuồng, cũng như ngươi, bỗng có lúc là nam chợt có lúc là nữ. Cái lẽ tương đồng rất đơn giản như vậy đó.
Tử Y Hầu cười nhẹ:
- Vương huynh có tuyệt kỹ thân ngoại, hóa thân du hí phong trần, hôm nay đến đây chẳng rõ trong cái bản thân Bán Hiệp hay Bán Cuồng?
Vương Bán Hiệp đáp:
- Nếu là Bán Cuồng thì không bao giờ tại hạ đến đây. Chỉ vì có một sự việc mà sự việc đó lại chẳng quan hệ gì đến tại hạ, tại hạ phải vượt ngàn dặm đến đây. Nghĩ ra tại hạ cũng hay gánh vác việc người.
Lão đưa mắt nhìn quanh một lượt đoạn hỏi:
- Ai là đồ đệ của Bạch Tam Không?
Hồ Bất Sầu nghiêng mình:
- Chính vãn bôi! Chẳng hay tiền bối có điều chi chỉ giáo?
Vương Bán Hiệp lại hỏi:
- Sư phó ngươi giao cho việc đó, ngươi đã thi hành xong chưa?
Hồ Bất Sầu đáp:
- Hầu Gia vừa chấp thuận.
Vương Bán Hiệp gật đầu:
- Hay lắm! Tôn Hầu đã chấp thuận, tại sao ngươi chưa đi? Ngươi há chẳng biết việc đó chậm trễ một ngày là hào kiệt võ lâm chết thêm mấy mạng.
Tử Y Hầu thốt:
- Thì ra Vương huynh vì việc đó mà đến đấy!
Vương Bán Hiệp gật đầu:
- Đúng vậy! Chính vì việc đó mà tại hạ đến đây. Cho đến hôm nay, có hơn hai mươi hào kiệt anh hùng đã táng mạng trong tay người áo trắng!
Tử Y Hầu cau mày:
- Tên đó có thủ đoạn tàn độc đến thế à?
Vương Bán Hiệp đáp:
- Hắn từ phương Đông đến, đầu tiên hắn hạ sát Phi Hạc Liễu Tòng, kế đó suốt con đường từ Lỗ Đông xuống Tây Nam với thanh trường kiếm kỳ hình quái trạng, lần lượt hắn hạ từng người từng người, trong số có Trung Châu Nhất Kiếm Thiệu Văn Sanh, Thanh Bình Kiếm Khách Bạch Tam Không, phải biết họ Thiệu và họ Bạch là những tay danh kiếm đương thời, mà cũng phải thảm bại trước kiếm pháp tân kỳ của hắn!
Phương Bửu Nhi rú lên một tiếng, lảo đảo thân hình, run run giọng:
- Ngoại công tạ..
Vương Bán Hiệp nhìn hắn:
- Ông ngoại ngươi là ai?
Vương Bửu Nhi nắm chéo áo của Hồ Bất Sầu, không đáp lời Vương Bán Hiệp mà chỉ hỏi họ Hồ:
- Đại thúc, ông ngoại tôi như thế nào, chắc đại thúc biết chứ?
Hồ Bất Sầu trước hết đáp lời Vương Bán Hiệp thay cho Phương Bửu Nhi:
- Tiểu tử đó là cháu ngoại của gia sư.
Rồi y trở lại Phương Bửu Nhi:
- Ông ngoại ngươi....ta chỉ sơ.....
Vương Bán Hiệp chận lời:
-Bạch Tam Không chưa chết!
Phương Bửu Nhi thở phào, mừng trên chỗ tưởng.
Hồ Bất Sầu trố mắt nhìn Vương Bán Hiệp:
- Gia sư còn sống?
Vương Bán Hiệp gật đầu:
- Nhát kiếm của người áo trắng không trúng chỗ nhược, nhờ vậy mà Bạch Tam Không chẳng đến đỗi vong mạng. Lão ấy là người duy nhất thoát chết dưới đường kiếm siêu nhiên của người áo trắng!
-
Hồi 06
Hạ Chiến Thơ Ngoài Ngàn Dặm
Chính mắt trông thấy sư phó trúng kiếm ngã nhào, giờ đây nghe nói người còn sống, Hồ Bất Sầu hết sức hân hoan, niềm hân hoan của y có lẽ còn to lớn hơn sự vui mừng của Phương Bửu Nhi.
Vương Bán Hiệp, bỗng thở dài từ từ tiếp nối:
- Lão ấy tuy còn sống, song chẳng khác nào người chết, lão khổ sở biết bao!
Hồ Bất Sầu hấp tấp hỏi:
- Tại sao hở tiền bối?
Vương Bán Hiệp trầm giọng:
- Trong các vị hiện tại đây, chắc ai ai cũng muốn biết kiếm pháp của người áo trắng tuyệt diệu ở điểm nào, nhưng cao thủ nào gặp y là bỏ mạng ngay, còn ai sống sót để nói lên sự nhận định của mình? Chỉ có Bạch Tam Không, lão là người duy nhất không bỏ mạng dưới lưỡi kiếm linh ảo của người áo trắng. Dĩ nhiên chỉ có lão mới biết được đặc điểm trong kiếm pháp của người áo trắng thôi.
Hồ Bất Sầu lại hỏi:
- Gia sư có... có nói cho tiền bối nghe chăng?
Vương Bán Hiệp lắc đầu:
- Vì người áo trắng lưu tình, Bạch Tam Không thoát chết dưới đường kiếm ảo diệu, cho nên vô luận là ai bức hỏi, lão chẳng hề tiết lộ bí mật đó. Tuy nhiên, nghe đồng đạo võ lâm có rất nhiều người táng mạng vì đường kiếm đó, lão hết sức thống khổ. Hừ... Hầu Gia đã đáp ứng lời thỉnh cầu của đại hán này rồi thì nên ra tay sớm.
Lần thứ nhất nghe nói đến người áo trắng và những thành tích của y, Thủy Thiên Cơ giật mình buột miệng hỏi:
- Trong võ lâm Trung Nguyên chẳng có nhân vật nào đương cự nổi y sao?
Vương Bán Hiệp lắc đầu:
- Không!
Thủy Thiên Cơ trầm ngâm một chút:
- Một người đương cự không nổi thì mười người, trăm người hợp lại nhất định là phải làm thịt được hắn. Tại sao không ai nghĩ ra, cứ chịu chết dần chết mòn?
Vương Bán Hiệp lạnh lùng:
- Người áo trắng vì nghiên cứu võ học mà từ phương Đông vào Trung Nguyên chuyên tìm những tay hữu danh để so tài. Dù cho thật sự có người chết trong tay y, song những kẻ đã chết, được cái tiếng là vì võ đạo mà chết, nếu vì thắng bại mà tập hợp một số đông, chống lại một người thì còn chi danh nghĩa võ đạo, làm như vậy chỉ chuốc lấy sự khinh khi của toàn thể võ lâm, dù có thắng cũng chẳng vinh hạnh gì.
Thủy Thiên Cơ thở dài:
- Thì ra người ta chịu chết hơn là bị khinh khi!
Phương Bửu Nhi cao giọng:
- Đạo lý làm người đương nhiên là phải thế chứ sao? Phàm ai biết trọng nhân phẩm, đều có thể chết mà được tiếng tốt hơn sống mà mang tiếng nhơ, có như vậy mới thành bậc đại anh hùng.
Thủy Thiên Cơ không kém, vỗ nhẹ lên đầu hắn ra vẻ chị cả:
- Bé con khá lắm!
Tử Y Hầu cũng cười:
- Khá chứ! Đáng khen cho hắn lắm đó.
Thủy Thiên Cơ lại thở dài, lẩm bẩm:
- Nhưng chưa chắc là tốt...
Không rõ nàng nói thế là phê phán Phương Bửu Nhi hay chỉ trích cái hành động của những kẻ thà chết hơn bị khinh khi. Có điều nàng không thốt to tiếng thành ra chẳng ai lưu ý.
Vương Bán Hiệp cũng khen ngợi Phương Bửu Nhi mấy lời, đoạn dứt khoát:
- Nếu Hầu Gia muốn xuất thủ, thì nên bắt đầu từ giờ phút này, đi tìm người áo trắng là vừa!
Tử Y Hầu trầm ngâm một chút, đoạn với tay thanh trường kiếm của một thiếu nữ xinh đẹp đứng hầu bên cạnh.
Nơi đây tất cả những đồ vật đều có nạm châu nạm ngọc, cẩn vàng cho xứng với nếp sống của một bậc vương hầu sang quý, song chỉ có thanh kiếm là vật duy nhất thô lậu, đơn giản nhìn qua chẳng ai cho nó có một giá trị gì. Chừng như vị trí của nó chẳng ở trong khung cảnh huy hoàng tráng lệ này.
Tử Y Hầu vuốt vuốt thanh trường kiếm, tư lự một lúc, bỗng ngẩng mặt nhìn người mặt ngựa, sứ giả của nước Đại Uyển, vẫy tay:
- Lại đây!
Mục kích những diễn biến vừa qua, người mặt ngựa có cái tên là Kiềm Lậu bàng hoàng, ngơ ngẩn, quên hẳn mình đến đây để làm gì, quên luôn đây là đâu, nghe gọi giật bắn mình hấp tấp bước tới, ấp úng:
- Hầu Gia gọi kẻ hèn này?
Tử Y Hầu từ từ thối:
- Ngươi nghe ta nói đây, ta đếm từ một đến ba, dứt tiếng ba rồi ta xuất thủ, kích ngươi một nhát kiếm. Nếu ngươi tránh được ta sẽ đáp ứng theo về Đại Uyển với người, sẵn sàng làm quân sư cho quốc vương ngươi. Còn như ngươi không tránh được thì ngươi phái đáp ứng lại ta, phải làm một công tác tại Trung Nguyên do ta giao phó. Nên nhớ, nhát kiếm của ta dù có chạm trúng người cũng chẳng gây nguy hại cho tánh mạng ngươi đâu!
Kiềm Lậu vừa mừng vừa sợ, hỏi:
- Chỉ một nhát kiếm thôi?
Tử Y Hầu gật đầu:
- Một nhát thôi! Ta sẽ kích vào vị trí dưới huyệt kiên tĩnh, trên huyệt nhũ tuyền, một nhát kiếm của ta sẽ điểm trúng bảy huyệt nơi đó.
Kiềm Lậu thầm nghĩ:
- Chỉ kích một nhát lại còn nêu rõ bộ vị, dù Hầu Gia là tay kiếm thánh, ta cũng chẳng đến đỗi hèn mà không tránh được sao?
Nghĩ thế hắn gật đầu:
- Tại hạ bằng lòng!
Tử Y Hầu đếm:
- Một... Hai...
Kiềm Lậu đã giới bị chặt chẽ, ngưng thần chú ý. Đôi mắt nhìn lom lom thanh trường kiếm trong tay Tử Y Hầu.
Tử Y Hầu buông tiếng ba, từ từ mà buông, rồi cũng từ từ cử cao thanh kiếm, từ từ đâm tới.
Với lối xuất thủ của Tử Y Hầu, giả sử đối phương chỉ là một kẻ tầm thường cũng thừa thời gian tránh né, gia dĩ Hầu Gia lại bất động, chỉ ở tại nguyên vị mà kích tới.
Lối xuất thì chậm chạp, chiêu kiếm tầm thường, khoảng cách lại xa ai ai cũng cầm chắc là nhát kiếm không thể nào trúng đích.
Kiềm Lậu lấy làm lạ thầm nhủ:
- Thế là nghĩa gì?
Nhưng câu hỏi vừa thành hình trong tâm tư chiêu kiêm tầm thường vụt biến ảo phi thường, chỉ thấy chớp lên là đến đích ngay.
Người bên ngoài vừa thấy một ánh sáng xanh lóe lên Kiếm Lậu rú một tiếng kinh hoàng, thanh trường kiếm đã được Tử Y Hầu thu về nằm gọn trong vỏ.
Kiềm Lậu tuy chưa ngã xuống, nhưng nơi bộ vị Hầu Gia nêu lên có bảy dấu máu. Bảy dấu đó ở hai bên đầu vai, hai bên ngực bụng và hai bên nách.
Gương mặt ngựa của Kiềm Lậu trắng nhợt, hắn đứng ngây ra đó, chẳng khác nào một pho tượng vô tri giác.
Ngũ Hoa Mã đã bị thương rồi, cái gã Thiên Kim Cầu mà Hầu Gia mượn để tượng trưng câu nói của Lý Thái Bạch trong bài thi bất hủ đã chuồn mất không rõ tự lúc nào.
Tử Y Hầu thản nhiên thốt:
- Vị nhân huynh họ Kiềm đó, quả đã bị ta đâm trúng huyệt đạo, như đã nói. Kiếm thì dùng để gây thương tích, nặng lắm là làm chết người chứ có bao giờ dùng để điểm huyệt đâu. Trên giang hồ có danh thủ nào dám dùng kiếm điểm huyệt đối phương?
Nghe Tử Y Hầu bảo thế, Hồ Bất Sầu hết sức kinh hãi chưa kịp nói gì thì Tử Y Hầu lại tiếp:
- Các vị hãy đưa hắn đến gặp người kiếm khách áo trắng, cho y nhìn thấy vết thương trên mình hắn và bảo với y rằng người gây ra mấy vết thương đó, hiện đang ở tại biển Đông chờ gặp y.
Vượng Bán Hiệp cau mày:
- Thiết nghĩ tự Hầu Gia đi tìm y là tiện hơn...
Tử Y Hầu cười khổ:
- Hơn mười năm trước ta đã bại dưới lưỡi kiếm của một người. Ta phát thệ từ đó không lên đất liền nữa!
Vương Bán Hiệp trố mắt:
- Trong thiên hạ, ngày nay làm gì có người thắng nổi Hầu Gia?
Tử Y Hầu thở dài chậm chạp thốt:
- Trong vùng trời bao la nào ai biết được nơi nào mây mỏng, mây dày? Lời xưa có câu trong một xóm mười nhà hẳn có một kẻ tài ba, huống chi trong trời đất rộng?
Vương Bán Hiệp trầm tư lâu lắm. Sự kiện Hầu Gia bại trước lưỡi kiếm của một người đúng là trên chỗ tưởng của lão.
Sau cùng lão hỏi:
- Giả sử kiếm khách áo trắng không đến thì sao?
Tử Y Hầu đáp:
- Nếu đúng là y vì võ đạo mà vào Trung Nguyên thì nhìn thấy những vết thương trên mình Kiềm Lậu, vô luận làm sao y cũng tìm đến đây, cùng tại hạ so kiếm. Bằng chẳng phải vậy thì quả là y chỉ lợi dụng hai tiếng võ đạo mà thỏa mãn cái tính khát máu. Đến lúc đó hào kiệt trên giang hồ có thể kết hợp lại, hạ sát y không còn sợ người đời sỉ tiếu nữa?
Vương Bán Hiệp nhìn Kiềm Lậu một thoáng, đoạn thở dài:
- Mang con ngựa dở sống dở chết này lặn lội sông hồ. Đúng là một cực hình vậy. Hồ Bất Sầu, ta giao cái công tác này cho ngươi đó.
Oo Thành Lạc Dương lờ mờ trong lớp sương sớm còn phủ dày. Nơi một chỗ cao dựa tựa thành có bóng người vận áo trắng đang ngồi buông tóc xõa bay phất phơ theo chiều gió.
Sau lưng, thanh trường kiếm nhô đốc khỏi bờ vai.
Người đó có gương mặt xanh mờ hiện trong màn sương trông vừa thê lương, vừa ngụy dị, chẳng khác nào một oan hồn tùy thuộc về thế giới khác loài người, song nỗi uất hờn còn nặng đọng theo u linh.
Đôi mắt lim dim như nửa ngủ nửa thức. Đôi mắt đó nhìn về phía cổng thành bên trong cổng là nhà ngang dãy dọc, nhìn một lúc, mắt vẫn lim dim nhưng đôi mày hơi cau lại.
Người đó có vẻ tịnh mịch làm sao!
Một lúc lâu, người áo trắng đứng lên, từ từ xuống đường từ từ bước đi về hướng Tây, nếu ai đo thử khoảng cách của những bước chân y, thì chắc chắn phải lấy làm lạ, khoảng nào cũng như khoảng nào, không ngắn hơn, không dài hơn, mỗi khoảng đúng một thước bảy tấc.
Con đường hướng Tây thành Lạc Dương đá vụn hai bên cây cối mọc um tùm, sầm uất như cụm rừng, vì là buổi sáng tinh sương nên con đường vắng khách lữ hành càng thêm tĩnh mịch.
Nhưng nếu ai để ý tất nhận thấy qua lớp sương dày, nơi mỗi cội cây có một đại hán vận áo trắng đứng lặng, buông thõng tay, thần tình trầm trọng, chừng như sắp chạm trán với đại địch, mà cũng có lẽ đang chờ đợi một quý khách sắp đến nơi.
Nơi kia đầu con đường, có một tòa trang viện to lớn. Bên trong im lặng như cảnh không người. Có lẽ những người trong đó còn ngại lạnh nên chưa nơc rời cái ấm của chăn màn, gượng ngủ thêm một khỏanh khắc.
Tuy nhiên nếu bước vào trang viên sẽ thấy rất đông người qua lại nhộn nhịp, dù chạm mặt nhau cũng chẳng ai nói với ai một tiếng, họ là những bóng ma chập chờn, tấp nập, nhưng không nói được tiếng người.
Đi sâu vào tận đại sảnh, sẽ nhận thấy tòa sảnh rộng lớn thênh thang, nhưng trống trải quá chừng như những đồ vật trang hoàng đã được khuân dẹp nơi nào.
Đột nhiên, không rõ từ đâu đến chín người vận áo trắng, nối đuôi cùng tiến vào đứng thành hàng nép vào tường.
Chín người đó có thân vóc cao thấp bất tường, già trẻ bất đồng nhưng tinh thần hùng hùng liệt liệt, khí độ ngang tàng. Tay mỗi người cầm một chiếc bao bố màu xanh. Vào sảnh đường rồi đứng yên, rồi tất cả đều nhìn ra ngoài cửa, mười tám ánh mắt soi rọi sáng rực như mười tám ngọn đèn.
Bên ngoài sương sớm dần thưa. Không lâu lắm ánh dương quang chiếu xuống mờ mờ.
Người đứng giữa trầm giọng thốt:
- Thời gian đến mau quá...
Câu nói chưa buông dứt, một con chim câu từ bên ngoài bay vọt vào như mũi tên xẹt.
Trông thấy con chim câu, loại chim mang tín hiệu hoặc thư mật, chín người đó cũng im lặng sửa dáng trang nghiêm.
Lúc đó người áo trắng đã đến con đường lát đá hai bên có hai dãy tùng bách trồng dày.
Bỗng tiếng hét vang rền nổi lên. Tiếng hét xuất phát từ nơi mấy hàng tùng bách.
- Nghênh giá!....
Tiếng hét do hai trăm chín mươi bảy người cùng phát ra một lượt.
Tiếng hét vừa dứt, hai trăm chín mươi bảy thanh quỷ đầu đao cũng lóe sáng trong không gian, tiếng thét và ánh đao trong phút chốc biến đoạn đường đó thành một trận trường, dù chưa hẳn là sẽ có trận chiến xảy ra.
Người áo trắng không buồn nhìn ra hai bên, chỉ đăm đăm ngó về phía trước, bước từng bước một, tiến đều.
Hai trăm chín mươi bảy đại hán cầm đao thấy thế, lòng bàn tay đẫm mồ hôi lạnh.
Không lâu lắm, từ trong trang viện, có tiếng hét vang lên, rền dội hơn loạt hét đầu:
- Nghinh giá!....
Tiếng hét phát xuất từ một góc, liền theo đó những góc khác tiếng phụ họa vang lên.
Dọc theo con đường từ cổng viện đến đại sảnh, đúng ba trăm hai mươi đại hán cầm quỷ đầu đại đao đứng thành hàng, đao đưa cao, chênh chênh, bên này đường qua bên kia đường, tạo thành một trăm sáu mươi cái giá tréo lớp bên trên.
Giả sử người áo trắng muốn đi vào đại sảnh, y phải chui qua một trăm sáu mươi giá đại đao đó và biết đâu một trong những giá đao đó chẳng hạ nhanh xuống bất ngờ, đồng thời một giá trước chặn đầu, một giá sau chặn hậu?
Ba trăm hai mươi đại hán cùng có một ý nghĩ như nhau:
- Thử xem hắn có dám bước đi chăng!
Nhưng người áo trắng ung dung bước, thẳng người mà bước, thần sắc thản nhiên như bách bộ thừa nhàn dưới những cành cây giao chuyền che nắng.
Mỗi bước chân, không dài hơn mà cũng không ngắn hơn, một thước bảy tấc, không mau quá mà cũng chẳng chậm, đều đều mà bước qua một trăm sáu mươi giá đao sáng ngời.
Các đại hán thủ đao sững sờ, trố mắt, không tưởng người áo trắng bình tĩnh đến như thế.
Rồi người áo trắng đến tận đại sảnh, quét ánh mắt từ gã đại hán đứng cuối bên tả ngang qua, đủ chín gã.
Ánh mắt quét qua cũng khá nhanh, xong chín gã đại hán xem như quá lâu. Tất cả đều lấy làm lạ, thầm hỏi:
- Hắn không sợ chết à?
Nhìn từ tả sang hữu xong, người áo trắng dường như đoán được thâm ý của bọn chúng, lạnh lùng nói:
- Con nhà võ được chết dưới làn dao, nhát kiếm, có khác gì cầu nhân được nhân, chết như vậy, chẳng đáng chết lắm sao?
Người đứng chính giữa hơi đỏ mặt, đưa mắt sang người đứng cuối phía tả, đoạn trầm giọng:
- Hôm nay, chẳng những chín cao thủ đất Trung Châu đều có mặt đông đủ tại Liên Vân Trang này, mà những môn hạ đắc lực cũng đều tụ họp toàn thể, nếu cuộc chiến này, các hạ thủ thắng được, thì các hạ chẳng cần đi tới xa hơn, hãy tìm địa phương khác!
Người áo trắng nhìn kẻ phát thoại, hỏi:
- Trích Tinh Thủ Bành Thanh?
Người đứng giữa đáp:
- Chính tại hạ!
Người áo trắng buông gọn:
- Được! Nào, động thủ!
Bành Thanh cười lạnh:
- Hôm nay, chín người bọn ta đều muốn lãnh giáo nơi các hạ, nhưng người nào phải xuất thủ trước, lại không do các hạ định đoạt đâu! Cuộc chiến hôm nay có tầm quan trọng rất lớn, bọn tại hạ đã nghĩ kỹ lắm rồi. Sở dĩ chín người cùng hiệp chung một chỗ, không phải tạo cho các hạ cái phương tiện cùng gặp tất cả một lần, khỏi phí công tìm từng người, mà vì bọn tại hạ muốn dùng xa luân chiến pháp, trước tiên làm cho các hạ tiêu hao khí lực, rồi sau cùng một người nào đó sẽ xuất thủ đánh bại các hạ. Làm như vậy tuy có thể gọi là một thủ đoạn, nhưng nghĩ ra vẫn không thương tổn tinh thần vũ đạo.
Y bật cười thành tiếng, giọng cười, giọng cười hết sức lạnh lùng, tiếp:
- Thiết tưởng, phương pháp giao đấu đó có lợi cho các hạ hơn là cứ để cho trên một ngàn người trong Liên Vân Trang cùng chém loạn một loạt vào người các hạ, và trong trường hợp đó, phỏng các hạ sẽ đối phó làm sao?
Người áo trắng rùn vai:
- Người cứ làm theo ý muốn!
Khi Trích Tính Thủ Bành Thanh dứt câu, tám người kia, có người đưa mắt ra hiệu, ngầm bảo y nên nói ít một chút, có người cúi đầu xuống để dấu cái vẻ thẹn thoáng hiện. Họ là những tay có lai lịch cả, từng gây sóng gió trên giang hồ, họ có khí phách hơn đời, tự nhiên họ tiêu không nổi những lời của Bành Thanh bộc lộ rõ rệt cái tâm ti tiện.
Người đứng cuối phía hữu có hàm râu ngắn chừng như bất mãn nặng hơn tất cả cao giọng thanh minh:
- Tất cả những cuộc giao đấu tại đây đều do Bành Thanh chủ trương, chẳng liên quan gì đến Phi Thiên Báo này. Giả như ngươi muốn động thủ thì ta xin nghinh đón ngươi trước hết!
Người áo trắng vẫn lạnh lùng:
- Được! Xin mời!
Phi Thiên Báo bề ngoài có vẻ thô bạo lỗ mãng song trước tình hình hết sức nghiêm trọng, y không hấp tấp, nóng nảy chút nào, từ từ xách chiếc bao bố màu xanh bước ra:
Lúc đó, sương mai tan biến ánh dương quang chiếu hiện, sảnh đường không còn mờ mờ như trước. Dương quang rọi xuống những thanh quỷ đầu đao, ánh thép chớp ngời, ánh thép rung rung như ngàn muôn hoa bạc lung linh lạnh rợn.
Phi Thiên Báo cao giọng quát:
- Dẹp đao!
Lập tức có hơn mười mấy thanh quỷ đầu đao hạ xuống. Những kẻ cầm đao hạ thấp, dĩ nhiên là môn hạ của Phi Thiên Báo.
Tám người kia suy nghĩ một giây, rồi cũng ra lệnh như Phi Thiên Báo. Trong khỏanh khắc, một trăm sáu mươi giá đao lợp trên con đường từ cổng viện vào sảnh đường cùng một lúc hạ thấp, hiện tại chẳng còn một bóng đao nào chớp chớp nữa cả.
Người áo trắng nhìn Phi Thiên Báo, lấy làm lạ con người coi thô bạo như y lại hết sức chu đáo, y sợ hàng trăm thanh đao phô dưới ánh dương quang chớp chớp mãi, làm phải choá mắt trong lúc thi đấu, như vậy ảnh hưởng rất nhiều cho cái lẽ thắng bại.
Một người chu đáo như thế, tất nhiên không phải vì may mắn nhất thời mà thành danh trên giang hồ, con người đó phải có thực tài, và nếu đối phương là một tay có thực tài, thì cuộc giao dấu hôm nay không đến đỗi vô bổ cho người áo trắng.
Nghĩ thế, người áo trắng cảm thấy niềm phấn khởi dâng mạnh, đôi mắt bừng sáng dị thường. Chắc chắn hắn sợ gặp phải hạng tầm thường, thành có xuất thủ cũng chỉ chuốc lấy thất vọng thôi.
Phi Thiên Báo đảo mắt nhìn quanh một lượt đoạn hướng về người đứng chính giữa vòng tay vái chào, như để tạ lỗi, vô lễ xuất thủ trước, rồi mang chiếc bao bố xanh đến một góc tường, mở ra.
Bao bố không đựng vật gì lạ, chỉ đựng vũ khí của y. Vũ khí đó là một đôi Lưu Linh Luyện Tử Chùy. Khoảng giữa hai cái chùy, có sợi dây xích dài, quá dài đến độ lết trên nền sảnh.
Phi Thiên Báo cao giọng:
- Đôi chùy này, luôn cán và dây, dài một trượng hai thước, hơn một trăm cao thủ đã táng mạng dưới sức nặng của nó. Ngươi hãy thận trọng.
Hai tiếng cẩn thận vừa buông dứt, Phi Thiên Báo di động thân hình khôi vĩ chạy quanh sảnh đường, chùy nặng, xác thân nặng, nhưng bước chân nhẹ nhàng, không gây một tiếng động khẽ.
Chỉ có đường dây xích nối liền hai quả chùy là khua chạm leng keng lạch cạch thôi.
-
Y càng chạy càng nhanh, bước chân không ngắn lại nhưng đôi chân giao chuyền thoăn thoắt, dần dần y chỉ di động trước mặt người áo trắng thôi, song khoảng cách vẫn còn xa, trong khoảng cách đó, giả sử y có dùng chùy đánh sang đối phương, cũng chẳng đến đích, nói gì người áo trắng dùng kiếm ngắn hơn dây chùy rất nhiều?
Trong khoảng cách đó dù cho người áo trắng có bản lãnh cao thâm vô lường cũng khó thủ thắng với nhát kiếm duy nhất như đã làm đối với bao nhiêu hào kiệt bỏ mình trong tay hắn.
Bỗng, Phi Thân Bảo hét một tiếng lớn tiếp theo đó một tiếng soạt vang lên, một quả chùy rời tay y bay vút sang người áo trắng.
Cái đích của quả chùy là chiếc đầu của đối phương, nếu thấp xuống một chút, thì phải là ngực.
Người áo trắng không hề nhích động thân hình, thần sắc vẫn y nhiên lạnh lùng như muôn thưở, đưa một tay lên đầu vai, nắm lấy chuôi kiếm.
Hắn không cần rút trọn thanh kiếm ra khỏi vỏ, hắn chỉ kéo chuôi kiếm cho ló lên độ ba tấc, đồng thời hắn né đầu qua một bên. Quả chùy bay vút sang rít gió vù vù, những người đứng bên ngoài nhìn vào cuộc chiến, đều lo sợ cho chiếc đầu của người áo trắng.
Khí thế của quả chùy mãnh liệt vô cùng, mà người áo trắng không biểu lộ một phản ứng nào ngoài cái việc đưa tay nắm lấy chuôi kiếm, ít nhất hắn cũng phải rút kiếm khỏi vỏ chứ?
Không. Người áo trắng không buồn rút kiếm, hắn độ chừng quả chùy quét qua vừa tầm, hắn nhẹ rút đuôi kiếm cho ló ra thêm chừng hai tấc nữa vừa đủ chạm quả chùy thôi.
Bốp!
Chuôi kiếm chạm quả chùy, kiếm chẳng việc gì, người cầm chuôi kiếm vẫn y nhiên tại chỗ, nhưng quả chùy lại bay vụt trở về.
Đôi chùy đó giúp Phi Thiên Báo thành danh trên chốn giang hồ, dĩ nhiên y sử dụng nó rất thuần thục, hụt quả chùy đầu từ tay hữu bắn sang, y không chậm trễ, tung quả chùy tay tả tiếp theo liền.
Rồi đôi chùy giao chuyền, quả ra, quả vào, Phi Thiên Báo tung đúng tám quả tất cả.
Vẫn cái thế đó, người áo trắng ung dung tiếp đỡ tám quả chùy, ung dung bắn trả lại nguyên chủ, chẳng khác nào song phương đang biểu diễn một trò đùa, ngoạn mục kẻ tung người hứng, hứng rồi tung trả lại.
Một bên tấn công mãnh liệt, bên kia phản ứng ung dung, như đùa, như cợt, sự kiện đó tỏ rõ sự chênh lệch giữa nhau, và dĩ nhiên Phi Thiên Báo phải thẹn, phải uất. phải nóng nảy.
Dù sao, đôi chùy của y cũng từng làm khiếp đảm bất cứ cao thủ nào chạm trán với y, nhưng hiện tại với tám quả chùy thần tốc, mãnh liệt y chẳng gây được một cái giật mình dù chỉ thoáng qua nơi đối tượng, nói gì đến làm cho hắn nao núng?
Y hét một tiếng to, lần này thì y tung luôn hai quả chùy, ánh chùy chớp ngời, gió chùy vùn vụt, giáng xuống đầu người áo trắng chẳng khác nào có một hung thần từ chín tầng mây hiện xuống, nhổ trốc gốc hai hòn giả sơn mà lao xuống đầu người áo trắng.
Đột nhiên, một đạo thanh quang lóe lên, xuyên qua giữa hai quả chùy.
Đạo thanh quang vừa qua khỏi đôi chùy, Phi Thiên Báo rú lên một tiếng lớn ngã nhào xuống nền gạch tắt thở ngay.
Thì ra, người áo trắng lần này mới chịu rút kiếm ra khởi vỏ, và thay vì vung kiếm ngăn chặn song chùy, hắn lại phóng thanh kiếm tạo thành một đạo thanh quang, bay thẳng đến yết hầu của Phi Thiên Báo.
Động tác của người áo trắng nhanh quá, dù dùng ý mà tưởng tượng, chưa chắc cái ý nhanh hơn động tác, tự nhiên tại cục trường chẳng ai nhận thấy kịp.
Khi Phi Thiên Báo rú lên, người áo trắng đã phi thân vút lên trần nhà, tránh hai quả chùy, và lúc Phi Thiên Báo ngã xuống, người áo trắng cũng đã đáp xuống cạnh xác chết của y. Hắn ung dung rút thanh kiếm còn cắm nơi yết hầu Phi Thiên Báo, hắn lau mũi kiếm trên mình Phi Thiên Báo cho sạch máu, đoạn cài vào vỏ.
Cái vẻ hứng khởi lúc đầu tiêu tan mất, người áo trắng lạnh lùng nhìn quanh tám kẻ kia, trầm giọng quát:
- Tiếp theo đi!
Người đứng bên vị trí cũ của Phi Thiên Báo bước ra. Người đó, thân vóc ốm quá, chừng chẳng có lượng thịt nào, mặt vàng như sáp, chi có đôi mắt thì sáng rực, tay cầm chiếc bao bố như tất cả, nhưng chiếc bao lại chỗ lồi chỗ lõm, như bên trong có vật gì lom chom, chẳng phái vũ khí.
Người áo trắng nhìn thoáng qua người đó hỏi:
- Thất Thủ Đại Thánh Kiều Phi?
Người gầy ốm gật đầu:
- Chính ta!
Rồi y xách chiếc bao bố đến một góc tường, như Phi Thiên Báo đã làm, mở ra, bên trong có bẩy tám chiếc túi nhỏ. Những chiếc túi đó, to nhỏ bất đồng, màu sắc cũng bất đồng luôn.
Kiều Phi nhặt từng chiếc túi, giắt quanh mình, y làm cái việc đó hết sức trịnh trọng chừng như vật nào phải ở đúng vị trí của vật ấy không thể sai chạy, có như vậy khi với tay vào túi y không nhầm vật bên trong.
Bẳy tám chiếc túi đủ màu, giắt quanh mình, những màu sắc đỏ chói lọi trên nền người áo trắng, trông Kiều Phi tươi quá, dù cái xác thân rất gầy.
Người áo trắng rút kiếm cầm tay, mũi kiếm chỉ thẳng xuống nền sảnh, mắt hắn nhìn mũi kiếm chứ không nhìn đối phương.
Tuy nhiên, cứ mỗi cử động của Kiều Phi không qua ánh mắt của hắn được.
Kiều Phi “nai nịt” xong rồi, đứng thẳng người lên, nguyên tại góc tường, từ từ hỏi:
- Kiều Phi này nhờ ám khí mà thành danh, từng hạ sát cùng lúc ba mươi sáu người trong nhóm Phục Ngưu Sơn ngày nào, chẳng hay ngươi có dám đấu với ta chăng? Thiết tưởng, dùng một thanh trường kiếm, chống lại vô số ám khí, ngươi không hy vọng gì thủ thắng đâu!
Y có vẻ bình tĩnh vô cùng, tưởng chừng sấm sét nổ bên tai, cũng không làm chấn động nổi y, điều đó không có gì lạ, bởi y quá tin tưởng vào chỗ diệu dụng của các loại ám khí trên người y.
Nhưng người áo trắng chẳng nói năng gì, cũng chẳng nhìn sang Kiều Phi đến nửa mắt.
Bình sinh Thất Thu Đại Thánh Kiều Phi từng giao đấu với nhiều tay thượng thặng trên giang hồ, bất cứ ai gặp y rồi là nơm nớp lo sợ, đôi mắt lom lom nhìn bàn tay của y, theo dõi từ cái mảy may nhỏ.
Thế mà người áo trắng lại không lưu ý gì cả, điều đó khiến cho y một niềm hoan hỷ phi thường, bởi đối phương không lưu tâm thì y dễ thắng chứ sao!
Khi song phương đối diện, bên nào cũng phải đề cao cảnh giác, nhưng hiện tại, người áo trắng lững lững lờ lờ, ý chí dường như xa vắng, thanh kiếm chỉ xuống đất, mấy ngón tay lỏng lẻo. Giả sử lúc đó Kiều Phi xuất thủ, chắc chắn người áo trắng không phản ứng kịp. Hắn không sợ chết? Hắn khinh thường con người trước trước mặt, dù con người đó từng hạ sát bạo nhiêu danh thủ trên giang hồ bằng tuyệt nghệ sử dụng ám khí?
Kiều Phi từ từ rà tay qua mấy chiếc túi, dần dần tay y di động nhanh hơn nhanh đến độ hai tay dường như biến thành mười tay, trăm tay, không còn đếm được.
Chính đến lúc đó, y mới thi triển cái tài siêu việt của y. Đối phương không còn biết y vung tay từ lúc nào, và cái vung tay đó theo giác độ nào, để ước đoán chiều hướng ám khí vút đi.
Huống chi, đã gọi là ám khí, thì còn ai nhận định kịp thời? Do đó y thường thường thủ thắng là phải lắm.
Sử dụng tuyệt kỹ đó, Kiều Phi càng đứng xa đối thủ càng có lợi hơn, vừa dễ dàng phóng ám khí, vừa có một khoảng an toàn độ hai trượng trong khoảng cách đó. Đối thủ có muốn tấn công, cũng chẳng đến sát y liền được và như vậy y có thừa thời gian, hoặc né tránh, hoặc ứng phó kịp lúc.
Y cũng như những người hiện diện, từng nghe người áo trắng chỉ một nhát kiếm, là hạ đối thủ dễ dàng nhanh chóng. Giờ đây, trong khoảng cách đó, làm gì với một nhát kiếm, người áo trắng hạ y nổi?
Bỗng, Kiều Phi hét lên một tiếng, hơn hai mươi đạo hào quang, từ tay y bắn ra, lao vút đến người áo trắng.
Phóng ám khí, phàm là hảo thủ trên giang hồ, chẳng ai là không biết sử dụng, có điều người thì thích, người thì chê, vì những tay từng được đời tôn xưng là quân tử, có hành vi chánh đại, họ cho rằng ám khí là một phương tiện ám muội không biểu tượng được cái hiệp khí của con người hùng.
Cách sử dụng thì giống nhau, cứ lao vút tới, ám khí bay đi thẳng đến đích.
Nhưng thủ pháp của Kiều Phi, có thể gọi là độc đáo, ám khí bắn ra thay vì đi thẳng đến đích khi gần đến nơi, lại rẽ sang hai bên, hoặc uốn cầu vồng từ trên móc xuống, hoặc vòng ra phía hậu, hoặc ngoặc ngược trở lại, do đó, những người giao đấu với y, ít có ai tránh khỏi bị y hại.
Lần này, cũng như trăm ngàn lần trước, Kiều Phi đinh ninh là mình lấy mạng người áo trắng dễ như trở bàn tay.
Y lầm lớn!
Tuy không chú ý đến Kiều phi, người áo trắng vẫn không bỏ sót một cử động nhỏ nhặt nào của y.
Vừa trông thấy y chớp hai bàn tay, người áo trắng vội lạng mình, nép sát xuống nền sảnh, lăn qua một vòng, đáp xuống phía hậu của y.
Khi Kiều Phi hay kịp, hắn đã đảo bộ, hoành thân mình ra phía trước, tay kiếm đưa ra, mũi kiếm đã cắm vào yết hầu của y.
Dĩ nhiên Kiều Phi chết không kịp hú nửa tiếng.
Thế là trong chín danh thủ Trung Châu đã có hai người thảm tử dưới lưỡi kiếm ảo diệu của người áo trắng.
Cũng như trước cái chết của Phi Thiên Báo, những người còn sống vẫn giữ vẻ mặt thản nhiên, chừng như họ đã ứng đoán cái kết quả sẽ phải như vậy rồi, trước khi vào cuộc chiến. Họ không tỏ lộ một cảm nghĩ nào, cũng bình tĩnh chờ đến phiên mình.
Cũng như bọn đệ tử của Phi Thiên Báo, lặng lẽ vào sảnh đường thu dọn xác chết của sư phụ, lặng lẽ mang ra ngoài. Bọn đệ tử của Kiều Phi bước vào, lạnh lùng bế cái xác của y ra ngoài.
Rảy rảy thanh trường kiếm cho mấy giọt máu dính ở nơi mũi rơi xuống nền, người áo trắng lạnh lùng buông gọn:
- Tiếp theo đi!
Người đứng bên cạnh vị trí của Kiều Phi từ từ bước ra, thong thả buông từng tiếng:
- Từ Văn Trí xin lãnh giáo cao chiêu!
Người này có xương gò má rất cao, xương nhô ra quá cao, thành đôi má hóp quá sâu, tay dài, chân dài, thân vóc cao hơn người thường một cái đầu.
Người áo trắng thoáng nhìn qua y, lạnh lùng thốt:
- Đại Lực Thần ưng? Được lắm! Nào xuất thủ ngay!
Người đó mỉm cười:
- Thư thả một tí!
Cũng như hai người trước, y mang chiếc bao bố đến góc tường, mở ra lấy chiếc côn ba đốt cầm nơi tay.
Ba đốt côn chạm vào nhau, kêu coong coong nghe lạnh rợn.
oo Trên con đường thiên lý hướng về Lạc Dương thành, có một cỗ xe lớn, xe do hai con ngựa kéo, chạy hết tốc lực.
Xe chạy như bay, cuốn bụi đường mù mịt.
Ngồi trên xe, là Vương Bán Hiệp và Hồ Bất Sầu dĩ nhiên có cả gã mặt ngựa họ Kiềm tên Lậu người xứ Đại Uyên.
Vương Bán Hiệp và Hồ Bất Sầu thì thần sắc ngưng trọng, còn Kiềm Lậu thì nửa hôn mê nửa tỉnh.
Xa phu vận chiếc áo rách rưới, toàn thân hắn là sự lam lũ hiện hình, có lẽ hắn là đệ tử Cái Bang.
Hắn như chẳng có chút nhân đạo, cứ thẳng tay roi vút. lên mình hai con ngựa, vút liên hồi, mặc dù hai con ngựa chạy như bay, chân chạm khẽ nền đường, chân chẳng gây tiếng động cộp cộp.
Chốc chốc, Vương Bán Hiệp ngẩng mặt nhìn trời không ngừng lẩm nhẩm:
- Trễ!.... trễ...
Hồ Bất Sầu lấy làm lạ, hỏi:
- Trễ? Cái gì trễ, hở lão tiền bối?
Vương Bán Hiệp đáp:
- Hôm nay, chín đại cao thủ Trung Châu hội chiến với người áo trắng, hiện tại có thể có người bị hại dưới tay y!
Cái ý thì lão tha thiết với sự việc đó vô cùng, song giọng nói lại lạnh lùng, như nói về một sự việc thuộc về một hạng người hoàn toàn xa lạ.
Ở một người, cùng một lúc có hai thái độ tương phản, kể cũng là một sự hi hữu trên đời!
Hồ Bất Sầu thở dài:
- Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên! Nếu như vậy thì...
Vương Bán Hiệp đột nhiên đập tay vào thành xe, quát:
- Ngươi còn nói gì nữa? Nếu không vì cái chuyện an bài gì cho cháu chắt của ngươi đó, thì ta đã đến nơi rồi, đến sớm rồi, làm sao trễ được?
Hồ Bất Sầu cúi đầu, chẳng dám nói gì hơn.
Nhìn ra bên ngoài xe, thấy trời mỗi lúc một sáng rõ, Vương Bán Hiệp không ngừng mắng, lão ta mắng nhiếc chẳng tiếc lời, lão dùng miệng mà mắng, lại dùng luôn cả bụng mà mắng, khẩu ngữ và phúc ngữ cùng phát ra một lượt, một giọng thì lạnh lùng, âm thầm, giọng kia thì nóng nảy, ầm ĩ. Nếu ai thoáng nghe qua, chắc phải cho rằng có hai người cùng mắng.
Hồ Bất Sầu cố chịu đựng, chẳng dám nói đã dành, mà cũng chẳng dám lộ vẻ bất bình.
Bỗng có tiếng ngựa ré lên, cỗ xe chao đảo chực ngã, rồi đâm ngay vô lề.
Thì ra, trong hai con ngựa, có một con mệt lả không còn sức chịu đựng ngã nhào, cỗ xe mất thăng bằng, con ngựa kia một mình không kềm vững nổi, chập choạng lôi xe vào lề.
Một con chết, con còn lại sùi bọt mép trắng dã, rơi lòng thòng trông thảm hết sức.
Xa phu buột miệng kêu rên:
- Xong! Thế là đành chịu!
Vương Bán Hiệp dậm chân thình thịch xuống sàn xe:
- Càng gấp rút chừng nào, lại càng trễ nải chừng ấy! Rõ là “Dục tốc bất đạt” mà! Ngươi cũng kém quá! Thế mà Gia Cát Thông lại bốc ngươi lên cao, khoa trương ngươi có tài điều khiển ngựa phi thường! Tại sao ngươi vô dụng thế?
Xa phu cúi gầm đầu, thấp giọng:
- Vãn bối chỉ biết làm hết sức mình, chứ có bao gồm luôn sức ngựa đâu? Hai con ngựa này, thực ra cũng thuộc giống tốt. Nhưng thiết tưởng dù là ngựa thần cũng chẳng làm sao chạy nhanh, chạy mãi như ý muốn của lão tiền bối!
Vương Bán Hiệp còn tâm trí đâu nghe hắn nói và nghĩ gì về lời hắn. Lão nhảy vọt ra phía trước xe, gấp giọng, thốt:
- Thấy bất cứ cỗ xe nào vượt ngang đây, lập tức chận lại liền, vô luận là người trên trên xe thuộc hạng nào, cứ đuổi xuống xe, rồi bảo Mã Lương đánh xe đó đến thẳng Liên Vân Trang. Ngươi nghe rõ chưa?
Mã Lương là tên gã đánh xe, dĩ nhiên câu nói đó phải hướng về Hồ Bất Sầu.
Hồ Bất Sầu trố mắt:
- Tiền bối định đến đó trước?
Vương Bán Hiệp gật đầu:
- Ta phải có mặt tại đó kịp lúc, tìm cách ngăn chặn cuộc đấu...
Câu nói vừa buông dứt, thân hình lão đã xa hơn hai mươi trượng, rồi thoáng mắt, lão đã khuất dạng trên con đường dài, đường thẳng tắp mà lão vọt đi. Hồ Bất Sầu chẳng nhìn kịp, đủ biết thuật khinh công của lão đã đến mức siêu nhiên vậy!
Mã Lương, một đệ tử trong Cái Bang chớp chớp mắt, thở dài:
- Thật không ngờ Vương lão tiền bối nóng nảy đến độ đó! Gấp làm chi chứ, trên thế gian này làm gì có một con ngựa phi nhanh bằng lão?
Không có ngựa nhanh, thì đừng đòi đi ngựa.
Vừa lúc đó, xa xa từ phía hậu, có tiếng vó ngựa nện đều tiếng bánh xe nghiến đường theo nhịp vó ngựa.
Một cỗ xe ngựa kéo, lướt nhanh như vậy, bình sinh Mã Lương chưa hề trông thấy, nếu không nhìn tận mắt dù có nghe ai nói cũng không tin.
oo Nơi đại sảnh Liên Vân Trang, trừ người áo trắng hiện tại còn năm người.
Người áo trắng không tỏ lộ hăng say chút nào, mặc dù liên tiếp hạ mấy cao thủ Trung Châu, y không tìm thấy một thích thú nhỏ qua các cuộc đấu. Giờ đây thần thái của y uể oải, như con người không thích một công việc nhưng bắt buộc phải làm xong công việc đó, chẳng thể để lại một ngày nào đó, miễn cưỡng làm.
Y nhìn quanh sảnh đường một vòng đoạn lẩm nhẩm:
- Còn bốn nữa!
Trích Tinh Thu Bành Thanh chữa ngay:
- Còn năm chứ!
Người áo trắng không buồn nhìn họ Bành, buông cộc lốc:
- Ngươi không xứng đáng giao thủ với ta!
Bành Thanh biến sắc:
- Tại sao?
Người áo trắng lạnh lùng:
- Ta chỉ giao đấu với con người chuộng võ, có tinh thần thượng võ, ta không thích động thủ với kẻ tiểu nhân!
Gương mặt Bành Thanh biến trắng nhợt, lâu lấm, hắn ngửng mắt lên không, bật cười lớn:
- Ngươi không muốn động thủ với ta? Chỉ hiềm sự bất tất do ngươi mà được đâu!
Người áo trắng hừ một tiếng:
- Ta không xuất thủ, ngươi làm gì bức bách ta được?
Trích Tinh Thu Bành Thanh cười mỉa:
- Đã đến đây rồi...
Người áo trắng lại hừ một tiếng:
- Đã đến đây rồi thì sao?
Y vút người lên không, nghiêng đà xẹt đến đám đại hán cầm quỷ đầu đao dừng lại bên ngoài, đáp xuống.
Chúng chẳng biết y định làm gì, trong lúc bất thần, chẳng ai có một phản ứng, chỉ kêu lên kinh hoàng.
Tiếng kêu còn vang dội, bóng người nhao nhao lên, người áo trắng đã phi thân trở lại đại sảnh, hai tay ôm hơn mười thanh qủy đầu đao, y lỏng hai vòng tay, số đao đó rơi xuống nền, bật thành những tiếng loảng xoảng lạnh lùng, ánh đao chớp ngời.
Gương mặt lạnh như tiền, người áo trắng thản nhiên nói:
- Ngươi cho ở đây là tường đồng vách sắt chăng? Ta thì xem như chốn không người, ngươi thấy đó chứ?
Tước vũ khí địch một cách thần diệu như thế, thật trên chỗ tưởng của bọn Trích Tinh Thu Bành Thanh! Với thân pháp và thủ pháp đó nếu người áo trắng khát máu thì những kẻ bị tước đao kia, đã bị tước mạng rồi, không khó khăn gì cả!
Nhưng người áo trắng khát võ công, chứ không khát máu!
Nếu có máu đổ, máu đó chỉ đổ để đo lường mức độ võ công, chứ chẳng đổ do tánh hiếu sát.
Gương mặt đã trắng nhợt, giờ đây Trích Tinh Thu càng khiếp đảm hơn. Hắn đứng đờ người, gần như xuất thần.
Người áo trắng không màng đến hắn, lạnh lùng hỏi:
- Còn bốn, ai tiếp theo đây?
Một hán tứ mắt to, râu rậm, mày rậm, trịnh trọng bước ra.
Trong số chín đại cao thủ Trung Châu, người này trẻ tuổi nhất, độ hai mươi sáu, hai mươi bảy thôi, thần thái hết sức uy nghiêm dũng mãnh, đôi tay vẫn giữ chiếc bao bố xanh như mọi người.
Trong chiếc bao đó, có đôi vũ khí, hình dáng kỳ dị, không giống câu liêm mà cũng chẳng phải gươm giáo...
Người áo trắng nhìn đôi vũ khí, điềm nhiên thốt:
- Thiết Ôn Hầu!
Đại hán gật đầu:
- Chính ta!
Người áo trắng tiếp:
-
- Nghe nói món Thất Táng Kích của ngươi là một trong mười ba loại vũ khí mới sáng chế gần đây trên giang hồ. Nó đứng hàng thứ tám phải không? Chắc nó có chỗ diệu dụng, nên mới được người trân trọng như vậy!
Bốn đại cao thủ kia cũng thoáng lộ vẻ kinh ngạc, không ngờ gã kiếm khách hải ngoại lại biết quá rõ tình hình võ lâm Trung Nguyên.
Thiết Ôn Hầu trầm giọng:
- Thất Táng Kích có bốn chiêu thức, ba chỗ diệu dụng! Những chiêu thức đó, ta không thể bày tỏ cho người biết được!
Hắn vung hai tay, hai thanh vũ khí gác lên nhau thành hình chữ thập.
Người áo trắng điềm nhiên:
- Chẳng cần phải tỏ bày?
Hai ngọn kích tỏa sáng xanh dờn, xem ra có vẻ nặng lắm. Ngọn kích nơi tay hữu dài độ ba thước, ngọn kia dài độ hai thước bảy tấc thân kích sắc như lưỡi kiếm, mũi kích nhọn như mũi châm, một loại vũ khí gồm đủ hình thức “Vạn Tử Đoạt”, “Song Thiết Kích”, “Uyên Ương Kiếm”, “Hộ Thủ Câu”.
Có lẽ bốn chiêu thức Thiết Ôn Hầu vừa nói, là do bốn hình dáng đó mà ra, mỗi hình dáng có một điển pháp riêng.
Nhìn đôi vũ khí kỳ lạ, người áo trắng lộ niềm thích thú qua ánh mắt, như một kẻ thích rượu nhưng đã nhịn uống quá nhiều ngày, giờ đánh hơi men, bụng rạo rực lên.
Đúng vậy, y khát võ công, như ma men khát rượu. Gặp đối thủ cao tài, như gặp loại rượu quý niềm thích thú bừng lên, vẻ uể oải biến mất.
Thấy ánh mắt của đối phương, Thiết Ôn Hầu hơi chột dạ, nhưng hắn cố trấn định tinh thần, hét lên một tiếng:
- Vào!
Người áo trắng sáng ngời ánh mắt:
- Vào!
Rồi y trầm lặng gương mặt ngay, không muốn tỏ lộ ý niệm rõ rệt.
Hiện tại, y là một pho tượng đá bất động chờ.
Thiết Ôn Hầu từ từ nhích bước, đôi kích từ từ cử cao, từ từ đưa ra.
Hắn trịnh trọng bước gót giày ép nền sảnh nghe soàn soạt. Lưng bàn tay của hắn kéo gân xanh chằng chịt.
Đột nhiên từ bên ngoài, có tiếng gọi lên vang dội đến sảnh đường:
- Các vị khoan động thủ!
Tiếng cuối câu gọi vừa dứt, một bóng người chạy nhào vào trong.
Thiết Ôn Hầu hạ thấp kích xuống lui lại bảy bước. Hắn chưa động thủ, nhưng hắn giới bị đến độ căng thẳng thần kinh mãnh liệt, lúc lùi lại tản mát công lực. Miệng thở phào mồ hôi toát ra như tắm. Tình trạng của hắn như vừa trải qua mười cuộc đấu liên tục với mười tay thượng đẳng.
Dĩ nhiên hắn phờ phạc mệt lả thấy rõ.
Trích Tinh Thủ Bành Thanh và ba người kia qua phút hãi hùng chợt nhận ra người vừa đến, bất giác thở phào.
Bành Thanh kêu lên:
- Bán hiệp huynh! Thì ra Bán hiệp huynh cũng đến được kịp lúc!
Người đó đúng là Vương Bán Hiệp, y phục của lão ướt sũng mồ hôi.
Vào đến nơi, việc đầu tiên là tựa mình vào tường, đứng thở dốc lâu lắm hơi thở mới điều hòa, và đến lúc đó mới nói chuyện được.
Từ chỗ bỏ xe đến Lạc Dương con đường hai trăm dặm chỉ trong hai khắc thời gian lão có mặt tại Liên Vân Trang! Thiết tưởng trên thế gian này, luyện khinh công đến mức độ đó chỉ có lão mà thôi! Cho nên Mã Lương, gã phu xe đệ tử Cái Bang mới cho rằng lão chạy nhanh hơn ngựa quý!
Dĩ nhiên, vượt qua đoạn đường đó, lão phải hao phí bao nhiêu dưỡng khí, lão phải đứng thở dốc, nếu là tay nào khác, hắn phải mệt nhoài rồi!
Người áo trắng nhìn thoáng qua Vương Bán Hiệp, lạnh lùng buông:
- Thuật khinh công khá đấy!
Vương Bán Hiệp vừa thở vừa thốt:
- Cũng maỵ..
Chợt nhớ là người áo trắng khen tặng, lão tiếp:
- Không đáng chi! Không đáng!
Lão đưa mắt nhìn qua nền sảnh chừng như thấy dấu máu, chừng như thấy mất người, lão kêu lên:
- Kiều Phi? Từ Văn Trí? Mấy người đó...
Bành Thanh thở dài:
- Xong rồi! Họ đã được đưa sang thế giới mới!
Vương Bán Hiệp ngồi ngay xuống nền, bọn Bành Thanh cũng ngồi xuống theo, lão trầm ngâm lâu lắm, chẳng còn biết nói năng gì nữa.
Lão chậm trễ một chút, bốn mạng người đã xong!
Người áo trắng lạnh lùng buông:
- Nào xuất thủ!
Thiết Ôn Hầu cao giọng hét:
- Vương đại ca đến đây chẳng phải để so tài với ngươi!
Người áo trắng bĩu môi:
- Không so tài thì đến chốn này làm gì?
Vương Bán Hiệp đột nhiên đứng lên, dõng dạc nói:
- Tại hạ đến đây là làm cái việc thay mặt vị đệ Nhất Kiếm Khách, tại hạ mang chiến thơ, ước hẹn với các ha.....
Người áo trắng cười mỉa:
- Đệ Nhất Kiếm Khách? Dù có là chiến thơ, hãy đợi ta xong việc nơi đây rồi hãy nói chuyện sau! Nhưng đã chắc gì Đệ Nhất Kiếm Khách?
Vương Bán Hiệp thốt nhanh:
- Nếu các hạ thấy chiến thơ rồi, chắc chắn các hạ sẽ không còn thích giao thủ với ai khác. Các hạ sẽ nhận thấy người gửi chiến thơ là tay vô song!
Người áo trắng chớp mắt:
- Chiến thơ đâu?
Vương Bán Hiệp đáp:
- Đợi một chút sẽ có chiến thơ!
Người áo trắng nhún vai:
- Đợi bao lâu?
Vương Bán Hiệp nhìn ra ngoài cửa sảnh:
- Không lâu hơn hai khắc!
Người áo trắng suy nghĩ một chút:
- Cũng được! Ta đợi!
Rồi y ngồi xuống nền sảnh, ngồi tự nhiên, như có thể ngồi bất cứ nơi nào, dơ sạch, sang hèn...
oo Cỗ xe lao tới vun vút. Hồ Bất Sầu và Mã Lương nhìn cỗ xe, bụng mừng. Hồ Bất Sầu đưa tay áo lau mồ hôi trán thốt:
- Xe chạy nhanh đấy chứ!
Mã Lương thở dài:
- Tại hạ từ ba tuổi đã biết cưỡi ngựa, bảy tuổi bắt đầu nuôi ngựa, ngày ngày sống với ngựa, suốt hai ba mươi năm rồi! Bình sinh chưa thấy ngựa nào chạy nhanh bằng ngựa của cỗ xe đó!
Cỗ xe sắp đến nơi.
Hồ Bất Sầu nhảy ra giữa đường. Đứng chặn lối quát to:
- Hãy dừng xe lại!
Xe chạy nhanh như vậy, muốn dừng lại, ít nhất cũng phải gò ngựa chậm, xe lăn bánh vài mươi trượng mới dừng được.
Nhưng không, tiếng quát của y vừa buông dứt, xe dừng liền, không dao động. Phu xe đội nón phủ xuống tận mang tai, còn hai con ngựa không lộ vẻ mệt nhọc chút nào.
Mã Lương thích ngựa, nên đến xem cho biết ngựa gì quý thế, hắn đưa tay vuốt vuốt trên mình ngựa, trong khi đó, Hồ Bất Sầu vòng tay hướng về gã phu xe.
- Tại hạ có việc khẩn cấp, định mượn tạm xe này...
Phu xe bật cười khanh khách, hỏi:
- Ngươi có điên không?
Giọng nói của hắn khó nghe quá, chừng như Hồ Bất Sầu nhận ra giọng nói đó, y trợn mắt nhìn, chưa kịp nói gì, Mã Lương kêu lên:
- Hãn Huyết Mã!
Bàn tay của hắn ướt mồ hôi máu, đỏ ngời.
Hồ Bất Sầu không còn nghi ngờ gì nữa.
- Bằng hữu là...
Người trên bật cười khanh khách:
- Người ta bảo, cất công tìm khắp sông hồ, trở về ngõ hẻm bất ngờ gặp nhau. Hay quá! Hay quá! Có phải thế không?
Hồ Bất Sầu kêu lên:
- Thiên Kim Cầu!
Đúng vậy, người đó chính là Thiên Kim Cầu Cam Tôn, đã len lén bỏ đi trong khi Kiềm Lậu bị Tử Y Hầu dùng kiếm điểm huyệt.
Y bật cười ha ha:
- Các hạ Ở đây, chắc Kiềm huynh cũng chẳng ở xa lắm?
Hồ Bất Sầu cùng Mã Lương nhìn ra, thầm ra hiệu với nhau, đoạn gằn giọng:
- Các hạ theo dõi người mặt ngựa? Nếu vậy càng hay!
Đột nhiên, y tung ra một chưởng.
Cam Tôn dù là ngu xuẩn, dù mập mạp nặng nề, song cũng linh hoạt vô cùng. Hắn né mình, nhường cho chưởng của Hồ Bất Sầu lướt qua, dễ dàng như bỡn.
Mã Lương lãnh việc hạ tên tùy hành của Cam Tôn, việc đó chẳng khó khăn gì.
Rồi Hồ Bất Sầu và Cam Tôn khai diễn trường ác chiến.
Võ công của Cam Tôn thực ra chẳng cao cường gì cho lắm, nhưng Hồ Bất Sầu đánh mãi mà chẳng hạ được hắn. Bởi hắn có lối né tránh kỳ dị. Hắn chỉ né tránh thôi, không thủ mà cũng không công, vậy mà Hồ Bất Sầu vẫn chẳng làm gì hắn nổi.
Mã Lương chưa vào tiếp trợ, thầm nghĩ:
- Thanh Bình Kiếm Khách oai danh hiển hách như vậy, sao môn đệ tầm thường quá, mà y gặp tên bất tài này, nếu đối phương là ai khác thì y đã đo đất lâu rồi.
Bỗng Hồ Bất Sầu kêu lên:
- A! Vương đại hiệp trở lại!
Cam Tôn giật mình hỏi gấp:
- Ở đâu? ở đâu?
Hắn vừa buông dứt tiếng cuối, Hớ Bất Sầu tống một chưởng vào ngực hắn, đồng thời y cũng tung luôn một ngọn cước, dĩ nhiên hắn lộn nhào mấy vòng.
Nhưng, Hồ Bất Sầu cảm thấy chỗ tay chạm và chân chạm mềm nhũn, như chạm vào bông, cái cảm giác đó chứng tỏ hai đòn đánh ra chẳng gây thương tích gì cho đối phương cả.
Y kinh hoảng kinh, chưa biết làm gì kế tiếp, Cam Tôn đã vụt đứng lên không quay nhìn lại chạy đi như baỵ..
Mã Lương giận vì Hồ Bất Sầu đánh trúng mà Cam Tôn lại chẳng sao cả, lại nực cười cho thái độ kỳ quái của hắn.
Hồ Bất Sầu cũng cười, thốt:
- Luận về võ công, hắn hơn ta thật đấy nhưng hắn nhát gan quá, hắn sợ chết nên không dám thi thố gì. Do đó, ta vờ chống đỡ không nổi, để cho hắn đắc ý, lộ sơ hở, rồi bất thình lình ta tấn công mạnh, đánh trúng hắn là hắn chạy liền!
Mã Lương có phần nào thẹn thầm đã ước độ sai công lực của Hồ Bất Sầu, tưởng đâu y chẳng có thực tài gì cả.
Hắn nghĩ:
- Xem ra, họ Hồ tuy có phần nào hồ đồ lỗ mãng, song tâm cơ cũng linh mẫn lắm. Đúng lúc khẩn cấp như vậy vẫn giữ được bình tĩnh, ta còn kém xa.
Hắn sanh lòng kính phục Hồ Bất Sầu hơn trước nhiều.
Hồ Bất Sầu cười liếp nói:
- Vô luận làm sao, chúng ta cũng cảm kích hắn. Hắn bỗng dưng mang ngựa đến hiến chúng ta mà lại ngựa quý. Chúng ta mau mau mang tên mặt ngựa sang xe rồi đến Lạc Dương gấp, e Vương Bán Hiệp nóng lòng chờ đó!
Nhưng cả hai hết sức kinh hoàng, lúc vào xe xem lại thì tên mặt ngựa đã mất dạng.
Vầng thái dương từ từ lên cao, tại Liên Vân Trang như chìm trong tư tịch, im vắng như cảnh tha ma.
Thu đã vào sâu trong mùa, dương quang không thiêu nóng như trời hạ, không khí mát dịu nhưng bọn đại hán dàn thành những toán trực bên ngoài xuất hạn dầm dề!
Vương Bán Hiệp, Thiết Ôn Hầu cùng bọn Bình Thanh tất cả sáu người cùng mở tròn mười hai con mắt nhìn lom lom ra phía cửa. Gương mặt người nào cũng đượm vẻ lo âu:
Người áo trắng ngồi riêng một chỗ, yên lặng như pho tượng. Ánh nắng ban mai chiếu trên lượt áo trắng của y, phản ánh một màu vàng vàng, vì màu áo đã bạc, ngã sang màu đất.
Ánh nắng lung linh, tạo cho y cái vẻ thần bí với gương mặt không cảm tình, trông y như một người chẳng còn thuộc thế gian trần tục này nữa.
Vương Bán Hiệp chốc chốc lại lẩm bẩm:
- Cái bọn đáng chết đó, mãi đến bây giờ chưa thấy tới đây!....
Đột nhiên, người áo trắng đứng thẳng lên, từ từ thốt:
- Hai khắc thời gian đã qua rồi!
Vương Bán Hiệp cười khổ:
- Đã qua rồi sao?
Người áo trắng hôi cộc lốc - Chiến thơ của Đệ Nhất Kiếm Khách đâu?
Vương Bán Hiệp miễn cưỡng:
- Các hạ đợi một khắc nữa...
Người áo trắng cười lạnh:
- Ta đã nói, đợi hai khắc đã qua rồi, hai khắc uổng phí. Phàm là con nhà võ, có thể uổng phí thời gian quý báu được chăng?
Vương Bán Hiệp bất bình:
- Các hạ chỉ biết tỷ võ, luyện võ, nuôi dưỡng tinh thần thượng võ, ngoài ra chẳng nghĩ đến việc gì khác à?
Bành Thanh tiếp nối:
- Ngươi phải biết ngoài học võ ra, trên thế gian này còn biết bao nhiêu điều tốt đẹp? Như hoa thơm, như cây quý, như rượu ngon, như nữ sắc, chẳng lẽ người khinh thường tất cả?
Người áo trắng điềm nhiên:
- Cái sanh mạng của ta đã hiến cho võ học rồi, ta chẳng màng đến những gì khác ngoài võ học!
Lời nói rõ ràng như chém đinh, chặt sắt, cương quyết lạ.
Vương Bán Hiệp thở dài:
- Như vậy là võ sĩ, cũng như những thư sinh văn sĩ. Si như thế cũng đáng kính!
Người áo trắng không buồn kéo dài câu chuyện ngoài đề, xoay xoay thanh kiếm, buông gọn:
- Vào đi thôi?
Thiết ôn Hầu vụt đứng lên, trầm giọng:
- Đã vậy ta xin...
Bỗng bên ngoài trang có tiếng huyên náo, mọi người kêu lên:
- Đến! Đến rồi! Có người đến!....
Trong tiếng huyên náo có tiếng chân ngựa.
Hai con ngựa chạy như bay, trên lưng mỗi con có một người thoáng mắt đã đến tận sảnh đường.
Vương Bán Hiệp mừng rỡ, kêu to:
- Bất Sầu! Bất Sầu! Ngươi đến rất đúng...
Nhưng lão vụt biến sắc, hấp tấp hỏi:
- Còn Kiềm...Kiềm Lậu?...
Hồ Bất Sầu vừa thở dốc, vừa cúi đầu đáp:
- Mất..mất tích...
Vương Bán Hiệp vừa kinh hãi vừa phẫn nộ, hét to:
- Hắn đã bị điểm huyệt, làm sao trốn đi được?
Hồ Bất Sầu cúi mặt thấp hơn, tóm lược sự tình.
Vương Bán Hiệp dậm chân thình thịch, khí giận bốc bừng bừng, gào to lên:
- Thế này thì làm sao? Làm sao? Bao nhiêu cao thủ võ lâm mất mạng rồi, bao nhiêu sẽ mất mạng trong tương lai? Và hiện tại những người tại đây...Làm sao? Làm sao?...
Hồ Bất Sầu còn dám nói gì?
Vương Bán Hiệp khóc ngay, lệ đổ ròng ròng, giọt lệ giàn giụa trông thảm đạm hết sức.
Rồi lão than:
- Ai mang hắn đi? Ai chứ? Ai nỡ gieo cái thảm cho ta thế? Tàn độc quá!
Bọn Thiết Ôn Hầu quyết tâm hy sinh vì tinh thần. thượng võ, song vẫn hy vọng bằng vào chiến thơ như Vương Bán Hiệp đã nói đình hoãn cuộc đấu lại, được thời gian nào, hay thời gian ấy. Họ biết chắc, qua cuộc đấu với người áo trắng, họ khó sống còn, thì tạm hoãn đấu lại còn sống tạm, cho nên nghe sự tình Hồ Bất Sầu vừa kể, tất cả đều thất vọng.
Hồ Bất Sầu lẩm nhẩm:
- Theo vãn bối nghĩ, thì cái người cướp mất Kiềm Lậu, không bao lâu nữa, sẽ có mặt đây?
Vương Bán Hiệp “Hừ” lên một tiếng:
- Làm gì có việc đó? Kẻ ấy đến đây để nạp mạng à? Chẳng lẽ chán đời mức độ đó?
Hồ Bất Sầu trầm giọng:
- Người đó không có ý cứu Kiềm Lậu đâu, mà cướp hắn cũng chẳng dùng vào việc gì, trừ ra mượn hắn làm con tin mượn hắn để uy hiếp chúng ta. Mà muốn uy hiếp chúng ta, thì phải đúng lúc, nếu không đúng lúc thì cái mạng của Kiềm Lậu không còn giá trị gì. Đúng lúc, chính là lúc này, chậm trễ là vô ích!
Không ai ngờ một người có tướng mạo thô lậu như vậy lại có tư tưởng khá cao, niềm hy vọng chớm sống dậy nơi lòng họ.
Vương Bán Hiệp gật đầu:
- Cũng có lý! Cũng...
Bỗng mọi người hoa mắt cả lên. Từ trên không một bóng người lao vút xuống bên thềm sảnh, vọt luôn vào trong, người đó mặc áo gai, mặt lạnh như gỗ.
Gương mặt gỗ là gương mặt của Mộc Lang Quân. Người đó chính là lão.
Không cần suy nghĩ, Hồ Bất Sầu biết ngay chính lão đã cướp Kiềm Lậu, y quay qua Vương Bán Hiệp, thấp giọng thốt:
- Rất có thể vãn bối đoán trúng!
Tại sảnh đường, những người chưa từng gặp lão, cũng đoán ra lão là người trong Thanh Mộc Cung.
Vương Bán Hiệp bước tới, cao giọng hỏi:
- Kiềm Lậu đâu?
Mộc Lang Quân cười âm thầm:
- Các hạ khá thông minh dấy! Tên mặt ngựa hiện tại ở trong tay tại hạ. Nhưng các vị muốn gặp hắn, thiết tưởng đâu phải dễ dàng thế được!
Vương Bán Hiệp trầm giọng:
- Ngươi cứ nói điều kiện!
-
Hồi 07
Cuộc Chiến Kinh Hồn
Mộc Lang Quân cười nhẹ:
- Các hạ sẽ được thích thú. Còn như có được dễ dàng hay không, còn tùy nơi các hạ có chấp thuận dễ dàng những điều kiện của tại hạ.
Lão trầm giọng tiếp:
- Điều kiện thứ nhất, các hạ làm cách nào lấy được Đại Phong Cao của Tử Y Hầu. dĩ nhiên lấy được rồi phải trao cho tại hạ!
Vương Bán Hiệp không do dự:
- Điều kiện đó rất dễ dàng!
Mộc Lang Quân thoáng cau mày:
- Các hạ đáp ứng nhanh quá, khiến lại hạ lại nghi ngờ!
Vương Bán Hiệp cao giọng:
- Điều cốt yếu là ngươi giao trả Kiềm Lậu cho bọn ta. Còn ta có đáp ứng nhanh chẳng qua cái tánh ta cương trực thẳng thắn, được là đáp ứng nhanh được. không là từ chối nhanh, không cần quanh co mất thời giờ. Ngươi phải hiểu, chúng ta đây là những người có ít nhiều danh dự trên giang hồ, lời nói của chúng ta quý hơn sanh mạng, có khi nào chúng ta quên lời nói được chăng? Dù chỉ hứa riêng với ngươi, ta cũng giữ lời huống chi hôm nay ta hứa với ngươi trước mặt đông người?
Mộc Lang Quân giương tròn mắt nhìn Vương Bán Hiệp một lúc, gật đầu:
- Tốt lắm, khi nào các hạ lấy được Đại Phong Cao rồi, tại hạ phải biết và sai ngươi đến tìm ngươi tiếp nhận. Còn điều kiện thứ hai, có phần nào khó khăn hơn...và cũng chẳng phải các hạ là người đáp ứng điều kiện này!
Vương Bán Hiệp hỏi:
- Ngươi muốn ai đáp ứng?
Mộc Lang Quân đứa mắt nhìn Hồ Bất Sầu, đưa tay vào mình lấy ra một chiếc bình bằng gỗ màu xanh, thốt:
- Trong bình có một loại thuốc, không màu sắc, không hương vị, bỏ vào trà, chẳng một ai phát giác nổi....
Hồ Bất Sầu không đợi lão nói dứt câu, chận liền:
- Các hạ muốn tại hạ trao bình thuốc này cho Phương Bửu Nhi, bảo hắn tìm cách cho vào trà lừa Thủy Thiên Cơ uống?
Mộc Lang Quân bật cười khanh khách:
- Đúng vậy!
Hồ Bất Sầu gật đầu:
- Dễ lắm, giả sử điều kiện của các hạ có khó khăn đến gấp mười gấp trăm lần, tại hạ cũng đáp ứng ngay, huống hồ việc này nhằm vào Thủy Thiên Cơ, là người mà tại hạ hết sức bất mãn?
Y dừng lại một chút, rồi tiếp:
- Tại hạ, dù chưa là một nhân vật thành danh trên giang hồ. Song đã là người tôn thờ chánh nghĩa, hằng gìn hiệp khí, hảo tâm! Tự nhiên lời nói xem trọng bằng ngàn cân vàng, chẳng dám bội tín.
Y mỉm cười, tiếp luôn:
- Tại hạ đã hứa, các hạ cứ yên tâm, nhất định điều kiện đó sẽ được thực hành đúng theo ý muốn của các hạ!
Mộc Lang Quân đã tin một người, hắn phải tin được người kia, lão trao ngay chiếc bình bằng gỗ cho Hồ Bất Sầu.
Hồ Bất Sầu nhận lấy chiếc bình, khẳng khái lấy, chẳng hề do dự, miễn cưỡng.
Mộc Lang Quân ngẩng mặt lên không, cưới lớn:
- Các hạ muốn tìm một thích thú, nên đáp ứng đủ hai điều kiện, tại hạ có gì tiếc chẳng đem cho các vị niềm thích thú đó?
Lão nhún chân nhảy vọt lên không, tà tà lao thẳng ra ngoài. Một phút sau bay trở vào, dưới nách lão có người họ Kiềm, tên Lậu.
Kiềm Lậu sưng vù đôi má. Chừng như Mộc Lang Quân đã phát tiết cái hận trên đôi má của hắn, cũng khá nặng tay.
Mộc Lang Quân quăng hắn xuống nền sảnh.
Trông thấy Kiềm Lậu. Vương Bán Hiệp thở phào, bước vội nâng hắn lên, thốt gấp:
- Chiến thơ đây rồi!
Người áo trắng rùn vai:
- Chiến thơ đâu?
Bình sinh, dù gặp phải chuyện gì kỳ quái đến đâu, y chẳng bao giờ biến đổi sắc mặt. Nhưng lần này, măc dù hỏi thế, y nhìn Kiềm Lậu, trong ánh mắt thoáng vẻ kinh ngạc.
Vương Bán Hiệp cởi nhanh chiếc áo da Kiềm Lậu, để lộ hai bờ vai và ngực, ở những nơi đó, có bảy vết kiếm, nằm khoảng giữa hai huyệt đạo Kiên Tĩnh và Nhũ Tuyền. Bảy vết kiếm tung hoành ngang dọc, không khác gì những vết kiếm thường, có điều giữa những vết kiếm, có vô số đường gân đỏ liên lạc với nhau, vẽ chằng chịt, nhìn kỹ mới biết những đường gân đỏ đó do mũi kiếm vạch nên.
Trong khi Vương Bán Hiệp cởi áo Kiếm Lậu, người áo trắng bước tới gần, nhìn vào các vết kiếm.
Tòa đại sảnh Liên Vân Trang bỗng im lặng như cảnh tha ma. Mọi người đều theo dõi từng diễn tiến, nơi Vương Bán Hiệp, nơi người áo trắng, ngoài ra họ còn nhìn vào thân thể của Kiềm Lậu.
Gương mặt của người áo trắng, vốn lạnh như tiền, bỗng chốc biến đổi. Trên gương mặt đó, niềm phấn khởi hiện lên. Cũng theo niềm phấn khởi, màu hồng nhuận nhuộm tươi khuôn mặt y.
Đột nhiên, người áo trắng đưa nhanh tay ra! Trong nháy mắt đã xuất thủ đủ bảy chưởng, mỗi chưởng chiếu vào một vết thương trên mình Kiềm Lậu, Kiềm Lậu kêu lên một tiếng, qua tiếng kêu đó, những gì ứ đọng trong buồng ngực từ lúc rời chiếc thuyền buồm ngũ sắc đến giờ, thoát theo ra ngoài, thở ồ một tiếng dài, rồi hắn vùng khỏi vòng tay của Vương Bán Hiệp, chạy vội ra khỏi tòa đại sảnh, nhưng qua khỏi cửa, hắn ngã nhào.
Người áo trắng không buồn nhìn hắn, tay vung kiếm, loang lên mấy vòng, rồi chống mũi kiếm thẳng lên không, mũi kiếm hơi rung rung, môi y rung rung. Chừng như y đang lâm râm khấn nguyện điều gì đó, sau cùng, y thốt thành tiếng:
- Trời đất không cùng, thì ra cũng có người cùng ta đối thủ!....
Y vụt quỳ xuống, cúi thấp đầu một chút. Đầu cúi thấp, mái tóc bỏ xõa phủ kín trông như lượt vải đen trùm quanh y. Có lẽ y đang tạ trời, tạ đất đã giúp cho y gặp được người khả dĩ cùng y so kiếm, so kiếm để học hỏi cái hay, của võ thuật.
Một con người chí thành với võ thuật như thế, thật chẳng còn ai hơn!
Mọi người nhìn y, kinh dị ra mặt. Một con người bình sinh chỉ biết sống vì võ thuật, chỉ vui với võ thuật!
Hồ Bất Sầu kích động thật sự, đôi mắt đẫm ướt lệ thông cảm.
Bỗng một tiếng kêu kinh hãi vang lên, tiếp theo đó là một tiếng ngựa hí vang rền, rồi Mộc Lang Quân phi thân bay vút ra ngoài. Thì ra gã mặt ngựa Kiềm Lậu thừa lúc mọi người không lưu ý đến hắn, nhảy lên lưng của một con ngựa do Hồ Bất Sầu và Mã Lương đoạt được của Cam Tôn cưỡi đến đây, hắn thúc mạnh gối vào mông con ngựa, ngựa cất vó sải nhanh. Thoáng mắt đã ra khỏi Liên Vân Trang.
Mộc Lang Quân ra đến bên ngoài, Kiềm Lậu đã khuất dạng, còn lại một con Hãn Huyết Mã, lão không do dự, nhảy phóc lên liền.
Năm gã đại hán, thuộc hạ của Bành Thanh lướt tới định ngăn chặn. Vô ích, chúng làm gì ngăn chặn nổi Mộc Lang Quân? Lão vỗ tay lên bờm ngựa, ngựa cong hai vó trước lướt qua trên đầu chúng. Đồng thời Mộc Lang Quân quay lại, cao giọng thốt vọng vào:
- Những điều giao ước xin đừng quên...
Câu nói vừa buông dứt, Mộc Lang Quân đã khuất dạng bên ngoài cổng trang viện Liên Vân.
Không ai biết lão đi về đâu, nhưng ai ai cũng hiểu là lão theo dấu gã mặt ngựa Kiềm Lậu.
Mã Lương dậm chân:
- Đáng tiếc! Đáng tiếc! Một đôi Hãn Huyết Mã?...
Hồ Bất Sầu cười mỉa:
- Ngựa không của ta, không của ngươi, không nuôi được một ngày, không bỏ một phân bạc ra mua, sao lại tiếc? Nam tử hán tiếc rẻ về một sự đắc thất cỏn con như thế được sao?
Mã Lương giật mình, ngây người nhìn họ Hồ một lúc, Hồ Bất Sầu lại cười sang sảng, Hắn tỉnh ngộ, thở dài:
- Hồ đại hiệp có cái tâm khoáng dật vô cùng. Tôi hết sức hổ thẹn nhận ra mình còn ti tiện quá!
Từ lúc Kiềm Lậu thoái đi, Mộc Lang Quân đuổi theo, sảnh đường có phần nào huyên náo đó chẳng hề ảnh hướng đến người áo trắng. Y trầm lặng lâu lắm, sau cùng từ từ đứng lên, lẩm nhẩm:
- Lấy vết kiếm làm thơ, làm được vậy kể cũng là tay khá!
Y hỏi:
- Người dùng kiếm biên thơ, hiện giờ ở đâu?
Vượng Bán Hiệp đáp nhanh:
- Tại bờ Đông Hải!
Người áo trắng lạnh lùng:
- Cảm phiền đưa ta đến đó!
Hồ Bất Sầu ứng tiếng:
- Ta tình nguyện hướng đạo!
Người áo trắng quay qua nhìn y một thoáng:
- Được? Đi ngay!
Thốt xong, người áo trắng bước ra cửa, vừa đến cửa, vội quay trở lại, tiếp nối:
- Tinh thần võ đạo cao như núi. Núi càng cao, người trèo núi càng thích. Gặp núi cao phải trèo núi cao, không cần trèo núi thấp nữa!
Y dừng lại chỗ đó, đưa tay vẫy Hồ Bất Sầu rồi từ từ bước ra cổng.
Từ đại sảnh đến cổng, bọn đại hán vẫn còn túc trực thấy y bước nhưng tất cả tản nhanh ra hai bên, nhường lối.
Y bước đi, gương mặt lạnh như tiền. Bước chân đều đều. Mỗi bước đúng một thước bảy tấc, trên thế gian này không có hấp lực nào, mãnh lực nào gây nổi cho y cái gấp bước hoặc chùn bước. Trong bất cứ trường hợp nào, vui buồn, gấp hoảng, y vẫn bước đều mỗi bước một thước bảy tấc đúng.
Bước đi chững chạc, tỏ rõ niềm cương quyết như trên đời chẳng có một mãnh lực nào ngăn trở y tiến đến đỉnh cao của tinh thần võ đạo.
Hồ Bất Sầu từ biệt mọi người rồi bước nhanh ra cửa.
Thiết Ôn Hầu kêu to:
- Cuộc chiến ở Đông Hải sắp khai diễn trong nay mai, đúng là không tiền, khoáng hậu. Nghìn xưa chẳng có nghìn sau sẽ không có, chúng ta có thể bỏ qua chăng? Các vị thì sao chẳng biết chứ tại hạ thì nhất định sẽ đến đấy rồi. Mất dịp này thì cầm như một đời võ nghiệp vứt đi!
Bành Thanh cao giọng:
- Một cuộc chiến như vậy, còn ai không ước vọng được mục kích?
Tại tệ trang có sẵn ngựa tốt. Mỗi vị chọn một con rồi lên đường gấp!
Vương Bán Hiệp mỉm cười:
- Bình sinh lão không quen cưỡi ngựa, các vị Ở lại chọn ngựa lão xin đi trước.
Vù một tiếng, lão như đợt khói mờ, quét ngang đầu bọn đại hán túc trực bên ngoài. Đợt khói tan, Vương Bán Hiệp mất dạng.
oo Bên bờ Đông Hải Sóng nước trập trùng Áo tía, áo trắng So kiếm tranh hùng!
Sóng nước trùng trùng,Kiếm ảnh trùng trùng. Danh hùng về ai?
Đó là câu nói của hào kiệt võ lâm. Khi biết được tin hai tay đại kiếm khách sẽ ấn chứng võ công trong một trận chiến không tiền khoáng hậu!
Tử Y Hầu, đệ nhất kiếm khách võ lâm hiện đại, sẽ so tài với tay kiếm hải ngoại vào Trung nguyên, từng hạ mấy mươi cao thủ thượng thặng trên giang hồ, một tay kiếm chưa hề thất bại, chưa từng dùng đến nhát kiếm thứ hai từ ngày vào Trung Thổ!
Cái tin đó truyền đi, nhanh vô tưởng.
Chẳng mấy hôm mà khắp nẻo sông hồ đến tận miền hút gió đèo heo, sơn cùng thủy tận, ai ai cũng nghe.
Và nghe được rồi, ai ai cũng náo nức, bồn chồn, rạo rực, cố tìm mọi cách có mặt tại đấu trường, để mục kích một trận chiến kinh hồn...
Tại Yểng thành, Cửu Hoa Thương Nhạc Hùng, dòng dõi họ Nhạc đời Tống, vô địch thương pháp, đang uống rượu, nghe được tin đó, quẳng chén, bất chấp bạn bè giữa tiệc, bất chấp hành trang, chạy luôn ra cửa, bất chấp ngựa xe, rong bộ thẳng đường dài sang Đông Hải.
Dọc đường, y gọi thêm mấy bằng hữu cùng đi, ai nghe y gọi cũng hớt hơ hớt hải chạy đi, gấp rút hơn người chạy nạn.
Tại trấn Dư Kỳ, Khoái Mã Song Tiên Hồ Diện Thọ, dòng dõi họ Hồ, đang trầm mình tắm ngựa ở bờ sông, nghe được tin đó lập tức chụp lấy chiếc áo, nhảy phăng lên ngựa, giục vó đi liền, ngựa chẳng cần yên, người không cần hành lý.
Tại trấn Dương Quang, Long Hổ Đao Đồ Chánh Phương, sau bữa cơm, tản bộ trên đường, thấy Hồ Diện Thọ chạy ngang, hỏi qua mới biết sự tình, vội nhảy lên lưng ngựa, ngồi sau họ Hồ hai người một ngựa đến thẳng Đông Hải.
Tại Điền Gia An, Ngọa Hổ Điền Thông có mặt tại Chánh Dương Quang, lúc đó đang cũng bằng hữu uống rượu trên lầu cao, nghe được tin đó, vội vọt mình qua cửa sổ đáp xuống bên dưới gặp một con ngựa của ai cột tại cổng, giật đứt dây, nhảy vọt lên lưng, thúc gối vào lưng ngựa sải liền. Dĩ nhiên là đi về Đông Hải.
Tại Vũ Hồ, tay đại hào Khoái Thủ Phân Kim Tùy cùng Phi đao tướng Dương Thế Nghĩa đang tranh chấp về thị trường lúa gạo, nghe được tin đó, cả hai bỏ ngay cuộc tranh chấp, cũng đoạt một cỗ xe của khách du lướt ngang qua chỗ đó rồi cùng nhau đánh xe thẳng đến Đông Hải. Dọc đường họ đàm đạo với nhau, tương đắc như đôi bạn thân, cuộc tranh chấp chết sống vừa qua đã biến tan trong ký ức.
Có nhiều người trầm tính hơn, nghe được tin đó rồi hoặc cho gia nhân chạy ngựa thông báo bằng hữu cùng đi, hoặc cho bồ câu mang tin tức cho đồng đạo hẹn nhau khởi hành.
Hầu như tất cả hào kiệt trên giang hồ đều rầm rộ lên đường về Đông Hải, riêng người áo trắng và Hồ Bất Sầu thì mới đến địa phận đất Dự.
Những kẻ hay tin sau cùng, cấp tốc lên đường thẳng đến nơi, sợ trễ mất dịp may hy hữu.
Tử Nhiêm Long Thọ Thiên Tề, tay đại đạo khét tiếng vùng duyên hải đã đoán biết trong kỳ đại chiến giữa hai tay kiếm phi phàm này, hẳn phải có mặt toàn thể nhân vật võ lâm lưỡng phái hắc bạch, nên đã chọn địa điểm tốt, dựng tạm lên độ hai trăm gian phòng nghinh đón khách bốn phương.
Khách, tùy theo thanh khí của nhau, hoặc đôi ba người một phòng, hoặc năm bảy, mươi người một phòng. Những ké đến trước chiếm trọn số phòng, ai đến sau phải đành ở cội cây tàng lá.
Chỉ trong vòng mấy hôm, quần hùng khắp nơi quy tụ nơi bờ Đông Hải đông hơn kiến, rồi hàng quán dựng lên, người mua kẻ bán tấp nập, địa điểm trở thành một cái chợ bất ngờ...
oo Vào một ngày, hoàng hôn xuống, đồng hoang nhuộm nắng nhạt trải tận phương trời.
Người áo trắng và Hồ Bất Sầu đã qua Nhữ Hà.
Cả hai tiến bước đều đều, xuyên cánh đồng dưới ánh tịch dương. Họ không theo lộ cái, chọn những con đường tắt mà đi. Họ đúng là những con người hoàn toàn hiến mình cho võ thuật. Võ thuật đối với họ là trên hết, trên cả lẽ sống của họ. Mệt nhọc, buồn ngủ, gặp đâu ngủ đó, đói không cần vào hàng quán, cứ đi. Gặp chim gặp thú, bắt là nướng, là ăn, ăn xong lại đi, khát thì đã có sông, có suối, dọc đường, khát đâu uống đó.
Không có một trở lực nào, không có một nhu cầu nào làm cho họ chậm hành trình.
Người áo trắng đã thế, mà Hồ Bất Sầu cũng thế. Có lẽ y đã nhiễm cái tánh của người áo trắng, nhiễm mau, nhiễm mạnh nên giờ đây y chẳng khác gì người áo trắng.
Lắm lúc, họ gấp rút quá, bắt được con thú, bắt được con chim, không kịp nướng chín, cứ xé sống mà ăn, vừa đi vừa ăn...
Xuyên đồng vượt núi, đốt giai đoạn hành trình. Ăn sống ăn tươi, nếu là ai ở vào trường hợp họ, chắc chắn không kham nổi.
Hồ Bất Sầu bám sát người áo trắng như bóng theo hình, hình ăn, bóng ăn, hình nghỉ, bóng nghỉ.
Chiều hôm đó, họ qua sông Nhữ. Họ đã đi từ sáng sớm đến giờ. Tuy dọc đường không có sự gì quan trọng xảy ra, song Hồ Bất Sầu cảm thấy mình kiệt sức, y vẫn cố gượng bước đều, gượng một chút lại cảm thấy không còn chịu nổi được nữa. Dù vậy, y chưa than van, y cứ cười cứ cố gắng bước đều.
Người áo trắng thoáng nhìn qua, thấy vậy liền dừng chân, tìm chỗ ngồi xuống.
Hồ Bất Sầu kín đáo thở phào, ngồi xuống theo người ằo trắng. Vừa ngồi xuống liền nằm dài ra, duỗi chân, duỗi tay, nghe khoan khoái vô cùng. Nằm, có ai trên đời này lại thiếu cái nằm? Nhưng ở vào trượng hợp của Hồ Bất Sầu mới biết giá trị của một cái nằm như thế nào.
Bỗng người áo trắng ngẩng mặt nhìn buột miệng thở dài:
- Bạch Tam Không! Lão ấy là con người khá lắm!
Từ lúc rời Liên Vân Trang đến hôm nay, đây là câu nói thứ nhất của người áo trắng, mà lời nói thứ nhất lại đề cập đến vị sư phó của y.
Hồ Bất Sầu hết sức kinh ngạc, vừa kinh ngạc vừa hân hoan, y muốn chen vào một câu, nhưng chẳng biết phải giáo đầu như thế nào.
Lâu lắm người áo trắng lại tiếp:
- Còn ngươi, ngươi cũng khá lắm!
Hồ Bất Sầu càng kinh ngạc hơn nữa. Lần này thì câu nói nhắm vào y, y có thể chen lời. Y ấp úng:
- Đạ..đa ta.....
Người áo trắng lại nhìn lên khoảng trời trong xanh, không gợn chút mây chiều, mơ màng chẳng nói gì thêm.
Đối phương không nói, thì Hồ Bất sầu chẳng dám kinh động, y cũng nín luôn.
Rồi gió từ từ lên; mây từ bốn phướng từ từ bay về, bầu trời trong xanh dần dần gợn hồng, gợn bạch...thoáng mắt có đủ sắc màu của hoàng hôn. Rồi mây trôi, nối tiếp trôi qua, ánh mắt của người áo trắng cũng chơm chớp theo mây.
Hắn đang nghĩ gì?
Đồng rộng mêng mang, hai con người ở giữa cánh đồng mênh mang xem nhỏ bé quá!
Người nhỏ bé, nhưng hoài bão to lớn! Chính cái to lớn đó tạo cho họ vẻ thê lương của người nuôi mộng.
-
Hồ Bất Sầu len lén nhìn hắn. Lòng y phát sanh muôn cảm khái. Y thở dài, nghĩ thầm:
- Trọn đời hắn, hắn cứ như thế mãi sao? Hắn tứ cố vô thân, hắn chẳng có một bằng hữu nào trên vạn nẻo sông hồ? Bình sinh hắn làm gì? Hắn nghĩ gì? Hừ! Cho hắn có đạt đến đỉnh cao của võ đạo có ai cùng hắn chia hưởng thành công? Có ai cùng hắn chia hưởng vinh quang?
Bất quá hắn cũng tịch mịch như lúc ban sơ, hắn tịch mịch suốt đời, đến hơi thở cuối cùng hắn cũng tắt trong tịch mịch!
Trong một lúc, Hồ Bất Sầu cảm thấy người áo trắng đáng thương hại quá. Võ công hiển hách thật, nhưng kiếp sống lại chìm sâu trong đen tối của dòng đời...
Bỗng, người áo trắng cất tiếng ca. Lời ca gọi trời, gào đất, oán than tạo vật vô tình, buồn than cái chí khó thành, cái khí khó bình. Bao nhiêu năm dài, xách kiếm lang thang đi khắp đó đây, người không tri kỷ đã đành, mà kiếm cũng khống tri kỷ!
Lời ca trầm trầm, giọng bi ai, nhưng hàm chứa một khí hùng, dù con người lạc phách như thế nào, khí hùng vẫn bất diệt.
Hồ Bất Sầu không dằn được tính hiếu kỳ. Từ lúc rời Liên Vân Trang thẳng đường về Đông Hải, đã mấy lượt y toan gợi chuyện với người áo trắng dò la tâm ý của hắn. Song lượt nào cũng thế, sắp sửa mở miệng là ngại trong lòng. Do đó suốt cuộc hành trình đến đoạn đường này, y chưa có cuộc đối thoại nào với bạn đồng hành.
Giờ đây, dịp khá thuận tiện, y chẳng bỏ qua, nhóng một câu:
- Cái thân đơn độc đã đành, mà hành động, cũng cô độc nốt. Các hạ tự cầu tịch mịch chăng? Với tài nghệ quán tuyệt trần gian các hạ thừa phương tiện tạo cho mình một nhiệt náo thích thú, tại sao lại tự chuốc lấy cô liêu tịch mịch cho mình?
Người áo trắng không đáp liền. Lâu lắm mới từ từ cất tiếng:
- Không! Lời ca đó không hẳn là phản ánh tâm tư của ta! Lời ca đó, chính là của cha ta.
Hắn muốn nói nhiều hơn, hắn muốn nói lưu loát hơn. Nhưng có cái gì ngăn chặn bên trong, câu nói chi thoát ra được ngần ấy rồi ngưng lại.
Hồ Bất sầu hiểu rõ hắn đang có một u hoài, một thứ u hoài thâm trầm, dù có muốn bộc lộ, nó cũng chẳng trào dâng. Y chỉ thở dài, rồi một lúc sau, y lại nói:
- Hẳn lệnh tôn là một bậc phi thường? Mà đã là phi thường, tất phải có tao ngộ phi thường?
Người áo trắng lại trầm lặng một lúc sau cũng thốt:
- Thân phụ là một bậc kỳ tài, am tường bách nghệ, vì cái chỗ am tường quá nhiều đó, nên có phần nào phân tâm. Khi phân tâm rồi chẳng thể tinh thông võ thuật đủ cả bách nghệ. Phàm võ học là giới canh vô bờ bến, càng học càng thấy huyền diệu, cao thâm, thì sự tinh thông lại càng khó đạt. Vả lại dù tài giỏi đến đâu, trăm thắng cũng có một bại. Bại mình thì thẹn, bại người thì chuốc lấy đố kỵ, hận thù. Tiên phụ phải lạc phách giữa dòng đời, thế nhân ngoảnh mặt. Cuối cùng người phải tìm đến một nơi xa, thật xa, tận phương trời, qua nhiều năm tháng...
Hồ Bất Sầu thầm nghĩ:
- Rút kinh nghiệm qua lối đối xử với chính mình, của người đời quen thói xu thừa, phụng hưởng, phụ thân của hắn, có lẽ đã bảo con, nên bỏ sự việc trên thế gian, chuyên tâm nghiên cứu võ đạo. Lời ca tỏ rõ cái nỗi bất bình, bi thống. Lão ấy chắc lúc chết không nhắm mắt vậy! Hắn ngay từ lúc ấu thơ đã bị cái bi thống, bất bình của cha thâm nhiễm quá nặng nề rồi, thành thử hắn tiếp nối cái di sản tinh thần của cha, hắn hoàn toàn là một phản ánh trung thực của cha, hoàn toàn hiến thân cho võ đạo!
Luận con người đối diện như thế đó, Hồ Bất Sầu chẳng thiết mình kính sợ hay hân hoan, hay thương hại... Người áo trắng lại từ từ tiếp:
- Thân thế của ta, trên thế gian này, chẳng ai có quyền biết đến.
Giả sử hôm nay ta bốc đồng một chút, tiết lộ cho ngươi nghe rồi, thì nghe bên tai này, nên để cho ra bên tai kia, đừng bao giờ nhớ đến!
Giọng nói của hắn lạnh lùng, tàn khốc làm sao, giọng nói không một chút cảm tình nào. Giọng nói còn khô khan hơn âm thanh của một đao phủ trước khi hươ đao chặt đầu tử tội.
oo Trên chiếc thuyền buồm ngũ sắc trong một khoang, trang trí như khuê các của các nhà hàng thiên kim. Tiểu công chúa đang cắm hoa vào lọ.
Nàng xắn tay áo khá cao, để lộ đôi cánh tay tròn lẳn trắng ngà.
Cánh tay đó tận cùng bằng một bàn tay cũng tròn, mịn, trắng, có năm ngón thon thon. Cánh tay, bàn tay, ngón tay gồm đủ vẻ quý phái, vẻ mỹ miều, vẻ sung túc và luôn cả vẻ mãn nguyện. Có thể bằng vào các vẻ đó mà cho rằng nàng yêu đời được chăng?
Dù sao thì cũng chưa có ai biết được hoài bão của nàng. Chưa ai biết được nàng để mộng với đời những đường tơ tình màu sắc gì.
Cánh tay đó, bàn tay và ngón tay đó, đang kề hoa. Người nhìn vào chẳng rõ chú ý đến hoa nhiều, hay chú ý đến tay nhiều...
Phương Bửu Nhi ngồi một bên nàng, nhìn đến xuất thần.
Thủy Thiên Cơ ngồi bên đối diện, tay cầm một quyển sách, nhưng quyển sách chỉ mở hờ, chẳng rõ lúc đó nàng đang đọc hay mơ màng đến tận đâu đâu? Khung cảnh đó, đúng là một bức mỹ đồ, tiếc thay bức đồ không phải ghi trên vuông lụa bằng một nét bút thần mà chỉ hiện giữa không gian, rồi sẽ thay đổi theo không gian... Bức họa có người đẹp, có hoa đẹp, có y phục đẹp...
Bỗng, tiểu công chúa buông cành hoa xuống, giận dỗi:
- Thôi! Chẳng cắm nữa!
Phương Bửu Nhi trố mắt:
- Tại sao?
Tiểu công chúa hờn:
- Có ngươi ở một bên ta, ta cắm không đẹp?
Thủy Thiên Cơ uốn mình cho đỡ mỏi, nhẹ điểm một nụ cười:
- Tiểu trượng phu của ta kia, sang qua ghế này mà ngồi với ta, xem sách với ta. Đeo mãi một bên đó chi tổ làm phiền người, không cho người cắm hoa đúng ý!
Nàng đưa tay qua bàn, nắm lấy Phương Bửu Nhi kéo qua ghế nàng.
Nàng cười nực:
- Lại đây, ngồi gần một bên ta đây, xem có được chăng? À vậy mới phải chứ! Vợ chồng mà!
Cả hai dán sát vào nhau, đọc chung quyển sách.
Tiểu công chúa nhìn họ, vụt đứng lên, đi tới đi lui hai lượt, rồi ngồi xuống, cầm chiếc kéo cắt vụn mấy cành hoa!
Thủy Thiên Cơ thấy rõ việc đó bật cười khanh khách:
- Cái đức ông chồng tí hon của ta không ngồi bên cạnh công chúa mà sao công chúa chẳng cắm hoa cho vừa ý?
Tiểu công chúa nhấp nhấp chiếc kéo dậm chân hằn học:
- Bực chết? Bực chết được đi thôi!
Thủy Thiên Cơ lại cười ngặt nghẽo, cười đến rung chuyển cả không gian, rung luôn mấy đoạn hoa vụn, đưa tay vỗ vỗ vào mình Phương Bửu Nhi bảo:
- Ngươi xem kìa, ngươi ngồi đó người ta bực. Ngươi đi rồi người ta cũng bực. Thật ta chẳng biết làm sao cho người ta hết bực!
Tiểu công chúa không nhắp kéo nữa, mà cắn chặt môi, cắn mạnh đến suýt bật máu:
- Hắn chết! Hắn chết là tốt hơn hết! Hắn chết là ta hết bực!
Thủy Thiên Cơ vẫn cười, tiếng cười dịu lại phần nào.
- Ý! Hắn chết rồi, tôi thành quả phụ sao?
Nàng vòng tay sau lưng Phương Bửu Nhi, ôm chàng, nhấc bổng lên, thốt:
- Không! Ông chồng tí hon của ta không thể chết được đâu! Phải không phu quân?
Phương Bửu Nhi gật đầu:
- Ta không chết đâu, nàng yên trí!
Đột nhiên tiểu công chúa đứng lên, rồi nhảy vọt tới, chụp cánh tay hắn, đưa lên miệng, cắn mạnh.
Phương Bửu Nhi kêu oai oái mấy lượt. Đau quá, chàng ngã xuống sàn.
Vừa lúc đó, có tiếng lục lạc khua nhẹ leng keng, leng keng, từ xa vọng đến.
Linh Nhi xô cửa bước vào, cười thốt:
- Đùa gì đùa tợn thế, làm tròng trành cả chiếc thuyền to. Rõ trẻ con có khác.
Thủy Thiên Cơ trừng mắt mắng:
- Liễu đầu, ngươi cho ai là trẻ con?
Linh Nhi cười khanh khách:
- Ngươi không là trẻ con, thì còn ai trẻ con?
Thủy Thiên Cơ nhào tới vừa cười vừa mắng:
- Hay! Hay cho ngươi...
Đoạn đưa tay chụp cánh tay Linh Nhi nhưng Linh Nhi đã gập người lại mà cười, tránh được cái chụp của nàng, rồi tạ lỗi:
- A! Thơ thơ! Tha cho Linh Nhi đi! Thơ thơ không là trẻ con, thơ thơ là... lão bà...lão thái bà...
Linh Nhi nhìn Phương Bửu Nhi, kêu lên:
- Bửu Nhi! Bửu Nhi! Cứu ta với chứ! Lão thái bà ngươi định ăn thịt ta đây!
Vừa cười vừa kêu lên, Linh Nhi vừa thụt lui ra cửa, tiếng cười, tiếng kêu nhỏ dần, rồi ngưng bặt luôn.
Vừa lúc đó, Châu Nhi bước vào, gằn giọng:
- Các ông, các bà ơi! Làm gì mà ồn ào lên như thế? Người ta sắp đi hết rồi đó, không ai đợi các ông bà đâu?
Thủy Thiên Cơ hỏi nhanh:
- Ai đi?
Linh Nhi cũng đã trở lại, đáp thay Châu Nhi:
- Đùa mãi ta quên mất việc quan trọng! Hầu gia đang ở đại sảnh chờ các người đấy, chừng như để phân phó điều gì đó!
oo Tại đại sánh, một mùi thơm của y phục mới thoảng trong không gian. Hơn hai mươi thiến nữ vận áo gấm, đang rủ rỉ cười nói, những ánh mắt của người nào cũng ẩn hiện vẻ ưu tư, nghi ngại.
Không rõ Hầu gia sẽ phân phó việc gì đó cho chúng...
Bọn Phương Bửu Nhi kéo đến, nhập vào chúng.
Chừng như tất cả người trên thuyền đều có mặt đầy đủ, nhưng Tử Y Hầu chưa đến nơi. Phương Bửu Nhi nép mình qua bên cửa sổ nhìn ra ngoài. Lúc đó dương quang rất thịnh, rải vàng trên đầu sóng nhô cao, sóng vỗ trập trùng, sóng gào ầm ĩ. Nơi bờ biển, có bóng người, lao nhao lố nhố.
Những người đứng bên bờ đều hướng mắt ra chiếc thuyền buồm ngũ sắc, có người đưa tay chỉ trỏ, có người cười cười, nói nói, tiếng cười, tiếng nói của họ hòa lẫn với tiếng gió, tiếng sóng tạo thành một nhiệt náo quái dị.
Có chỗ, người ta quây quần ba mạng, năm mạng, hoặc mười mạng, cũng ngồi ngay trên bờ uống rượu, dạo đàn, cao hứng quá, lại ca vang ầm lên.
Nhìn quần hùng tụ họp nơi đất liền, Phương Bửu Nhi thầm phục cái hào khí của họ. Họ đúng là con người của sông núi gió mây, sống cuộc đời phóng túng, không thúc không câu. Tuy còn ngụp lặn trong trần thế nhưng đã đưa tâm hồn thoát khỏi tục trần.
Bỗng, có tiếng đằng hắng khác vang lên. Gian sảnh đường trong thuyền trở nên tịch tịnh. Phương Bửu Nhi quay nhìn lại thấy Tử Y Hầu đã đến, đang ngồi trên chiếc ghế trước bình phong.
Đôi mắt của Tử Y Hầu quét quanh mọi người một lượt, ánh mắt vẫn dịu hiền như thường ngày, song có ẩn một oai khí sum nghiêm. Ánh mắt đến đâu, người cúi đầu đến đó.
Tử Y Hầu chưa mở miệng nói tiếng nào, nhưng tất cả đều cảm thấy một sự bất thường đang lởn vởn đâu đây. Do đó khung cảnh đang tịch tịnh lại càng thêm tịch tịnh, chẳng còn ai dám thở mạnh nữa.
Mọi người thừ ra đó, như bao nhiêu tượng gỗ dựng đứng. Có khác chăng là đôi mắt còn mở, còn sáng, nhưng mắt cũng không chớp...
Rồi có tiếng chân từ xa vọng lại, tiếng chân của nhiều người, tiếng chân đến gần. Hai mươi người đàn bà, dáng dấp khỏe mạnh khiêng hai mươi chiếc rương bằng gỗ tử đàn, rương khá to, nối đuôi cá tiến vào khách sảnh.
Tử Y Hầu trầm giọng:
- Để xuống, rồi mở ra!
Hai mươi chiếc nắp rương liền bật lên.
Khung cảnh gian khách sảnh vụt sáng rực lên, như hàng trăm, hàng ngàn ngọn đèn cùng đốt lên một lượt đột ngột.
Hai mươi chiếc rương đựng toàn châu ngọc to có, nhỏ có, đủ hình, đủ màu. Viên ngọc nào cũng có giá trị liên thành.
Tử Y Hầu từ từ thốt:
- Tài sản của ta phần lớn là ở trong mấy chiếc rương đó. Trừ con gái ta, Châu Nhi và Linh Nhi, các ngươi hãy nhận mỗi người một chiếc!
Ta tặng các ngươi đấy!
Trời! Phân chia tài sản! Như vậy là phân ly! Sanh ly hay tử biệt?
Bao nhiêu thiếu nữ hiện diện đều thất sắc, cũng rung rung giọng thốt:
- Hầu gia! Thế này là sao hở Hầu gia? Hầu gia định... định...
Tử Y Hầu cười nhẹ:
- Các ngươi theo ta đã nhiều năm rồi, nếu ngày mai thì rất có thể ta bất hạnh mà chết đi. Ta không nỡ để cho các ngươi thiếu thốn trên dòng đời. Một chiếc rương châu ngọc đó cũng đủ bảo đảm cho cái ăn cái mặc cho các ngươi trọn kiếp sống. Ta chỉ mong các ngươi có chỗ nương tựa an toàn. Được như vậy mới không uổng phí thời gian tụ hội vui vầy với nhau. Ta chết đi mà các ngươi không đói rách, thì cái công hầu hạ ta cũng được đáp đền...
Bọn thiếu nữ cũng rớm lệ rập đầu thốt:
- Hầu gia còn tráng kiện. Số thọ hẳn phải dài, sao bỗng nhiên nói thế, bọn chúng tôi đau lòng biết bao!
Tử Y Hầu mỉm cười:
- Cường địch ở trước mắt trong cuộc chiến đấu sắp diễn ra. Chưa biết sống chết thế nào, ta phải có cách an bài cho các ngươi. Như vậy ta mới vững tâm mà chiến đấu chứ!
Nói đến chuyện sanh tử mà Hầu gia lại cười được. Đủ biết con người trầm tĩnh phi thường. Tuy nhiên trong giọng cười, có phần nào ảm đạm...
Bọn thiếu nữ giờ đây đã quỳ sát sàn thuyền. Nàng nào cũng muốn nói một câu, nhiều câu, những chẳng ai tìm được một lời thích hợp với tình cảnh.
Tiểu công chúa khóc to hơn ai hết, nàng gào lên:
- Gia gia nếu không nắm được cái lẽ tất thắng, thì còn giao đấu với hắn làm gì?
Tử Y Hầu trầm gương mặt gắt:
- Con còn nhỏ tuổi, nào đã biết gì mà nói. Dù cha biết trong cuộc chiến này, cha phải chết, cha cũng chẳng từ chối được. Cõi thế tất chiến là phải chiến, dù chẳng nắm được lẽ tất thắng con ạ? Huống chị đối với hắn có năm phần thắng, năm phần bại, như vậy cũng chẳng đáng lo ngại gì. Con hãy nhớ kỹ điều này, là có việc không nên làm, có việc phải làm. Phàm con người chọn nghiệp võ như cha, không ai không gìn câu đó như phương châm bảo vệ tác phong.
Tiểu công chúa không dám nói nữa chỉ khóc muồi...
Phương Bửu Nhi nghe lão nói, có việc không nên làm, có việc phải làm. Hắn nghe máu nóng trong người sôi động, trào dâng.
Hắn đảo mắt nhìn quanh khách sảnh, thấy người nào cũng sụt sùi, đổ lệ. Tiếng khóc to nhỏ bất đồng, có người nức nở từng cơn, có người cắn môi nén hận...
Đến Thủy Thiên Cơ cũng nhòa lệ thảm, Phương Bửu Nhi thương cảm quá, quay mặt chỗ khác, chẳng dám nhìn ai lâu.
Tử Y Hầu đưa mắt trông mây trời qua khung cửa sổ thuyền, lâu lắm lão mới thốt:
- Linh Nhi! Châu Nhi! Đáng lý ta cũng phải trả tự do cho hai ngươi, như hai mươi người kia, ngại gì...
Khẽ thở dài, khẽ thở dài chỉ tiểu công chúa, đoạn tiếp:
- Vì nó còn nhỏ tuổi quá, nó cần phải có người chiếu cố. Mà các ngươi gần bên nó từ lâu, biết tánh với nhau, quyến luyến nhau. Ta phải tạm lưu hai ngươi lại, bầu bạn với nó. Chiếc thuyền này, luôn cả những gì còn lại trên thuyền, giao lại cho hai ngươi...
Lão lại thở dài, rồi tiếp:
- Thực ra, ta bất nhẫn quá. Hai ngươi đang tuổi thanh xuân, lại phải giam hãm tuổi xuân trên thuyền, chẳng mấy chốc, xuân qua, già đến!....
Châu Nhi, Linh Nhi khóc ngất, gào lên:
- Sao Hầu gia nói thết? Dù Hầu gia có bảo chúng tôi chết, chúng tôi cũng sẵn sàng, huống gì việc hầu hạ công chúa? Dù có hầu đến suốt đời, chúng tôi cũng vui!
Bọn thiếu nữ khóc quá, thành khan tiếng, chúng cất giọng khàn khàn phụ họa theo Linh Nhi và Châu Nhi:
- Bọn chúng tôi tình nguyện ở lại trên thuyền với Châu thơ và Linh thơ, hầu hạ công chúa mãn đời, chết cùng chết, nhất định không rời khỏi thuyền này.
Tử Y Hầu trầm nghiêm giọng:
- Có nhiều việc xảy đến cho con người, thế tất phải chịu. Không nên gượng gạo ngược lại chuyển biến của dòng đời. Huống chi các ngươi đang ở luống tuổi thanh xuân, tương lai rộng sáng, đừng khinh thường mà mỗi việc mỗi lấy cái chết tự hẹn với mình!
Mặt lão thì ngưng trọng, nhưng thần thái lại trấn tĩnh phi thường...
Phương Bửu Nhi lại nhìn tất cả, mọi người đều thiểu não phạc phờ.
Riêng lão lại bình tĩnh cực độ, khí thái kiên hùng. Bất giác lòng hắn phát sinh một cảm khái kỳ dị, hắn nghĩ:
- Sắp dấn thân vào cảnh sống chết khó lường mà giữ được khí độ như Tử Y Hầu, nếu không là con người có dòng máu lạnh, hẳn phái là một bậc chánh đại anh hùng...
Bỗng từ trên bờ, tiếng la hét vang lên, ồn quá, lấn át cả tiếng sóng, tiếng gió.
Tuy tiếng la hét ồn ào, sóng nhưng chỉ là những tiếng giống nhau, nên nghe rất rõ, chẳng cần phải suy nghĩ:
- Đến! Đến rồi!
-
Tự nhiên Phương Bửu Nhi lại giật mình, chẳng khác nào sự việc hôm nay có liên quan hệ trọng với hắn. Không dừng được, hắn quay đầu nhìn lên bờ.
Hắn chưa thấy gì trên bờ, trước hết hắn thấy một con thuyền nhẹ, lướt sóng như bay. Chèo thuyền là hai đại hán mình trần, đang gồng tay đẩy mái chèo. Nơi mũi thuyền, một đại hán khác, đôi chân bẹt ra, đứng vững như trồng, Dù thuyền nhồi mạnh theo sóng, còn cách xa thuyền buồm ngũ sắc đại hán đó cao giọng thốt:
- Trình với Hầu gia! Kiếm khách áo trắng vừa đến.
Tất cả mọi người trong khách sảnh đều biến sắc.
Mặt Tử Y Hầu vẫn thản nhiên như thường. Chỉ có đôi mắt thì sáng rực lên. Một thứ ánh sáng kỳ lạ, ánh sáng đó tạo cho lão một vẻ mặt siêu phàm, biến lão thành một nhân vật thần thoại.
Phương Bửu Nhi cứ rung động mãi mấy ngón tay, chứng tỏ thần kinh hắn khích động mạnh. Hắn không thích võ công, nhưng những gì diễn tiến quanh hắn nói lên một cuộc chiến mà hắn nghĩ là không tiền khoáng hậu. Bởi hy hữu, nên mới quy tụ được hầu hết những tay thượng đẳng trong giang hồ nơi bờ Đông hải như hôm nay. Hắn cũng cảm thấy nao nao với niềm hứng khởi. Hắn nắm lấy bàn tay Thủy Thiên Cơ bóp mạnh, Thủy Thiên Cơ cũng tỏ lộ sự khích động như hắn.
oo Trên bờ biển, sự khích động của quần hùng lên đến cực độ. Niềm khích động của họ vượt xa Phương Bửu Nhi và Thủy Thiên Cơ, chỉ vì Phương Bửu Nhi và Thủy Thiên Cơ đang ở lại thuyền, chẳng thấy gì ngoài bọn thiếu nữ đang bi lụy, khổ sở, còn quần hùng thì trông thấy được chính mắt, người áo trắng đến nơi với Hồ Bất Sầu!
Trong những ngày gần đây, sự xuất hiện của người áo trắng trên dải đất Trung Nguyên đã gây chấn động mạnh trong võ lâm. Và bất cứ nơi nào có sự họp mặt của hào kiệt anh hùng, người áo trắng cũng là đầu đề câu chuyện.
Giờ đây, hắn cùng Hồ Bất Sầu sánh vai với nhau, xuất hiện tại Đông Hải. Họ mới có dịp trông tận mắt con người khét tiếng với một đường kiếm duy nhất lấy mạng đối phương như trở bàn tay, không cần dùng đến nửa chiêu thứ hai.
Tất cả hò hét, gào lên. Tiếng hò, tiếng hét, tiếng gào của hàng ngàn người hẳn phải to lớn đến bậc nào. Gia dĩ họ gây huyên náo với tất cả niềm khích động cao độ, sóng gió như mất cái oai khí trước sự bồng bột của họ mà lắng dịu âm vang...
Tiếng hoan hô của họ có thể làm chuyển động cả núi rừng, nhưng không phá vỡ nổi vẻ lạnh lùng nơi khuôn mặt người áo trắng. Chừng như tai hắn chẳng nghe huyên náo, mắt hắn chẳng thấy quây quần, mắt hắn chỉ nhìn thẳng ra ngoài, nơi có chiếc thuyền buồm ngũ sắc đang neo...
Tử Nhiêm Long Thọ Thiên Tề, người có nhiệm vụ tiếp tân tại bờ Đông Hải trong cuộc so kiếm hôm nay, nghe động, biết là người áo trắng đã đến, vội sai bốn vị đầu mục nghinh đón.
Trong bốn vị đại đầu mục, có một vị râu ngắn tựa râu rồng, vóc to, vừa trông thấy người áo trắng, vụt biến sắc mặt. Vẻ sợ hãi hiện rõ như trẻ con thấy quỷ dữ hiện hình, đôi chân của gã run run rồi từ từ nhũn lại, gã ngã sụm tại chỗ.
Người áo trắng cũng đã trông thấy đại hán. Đôi mắt của hắn sáng rực lên, hắn không tiến ra bờ biển, hắn quay trở về hướng Thọ Thiên Tề và bốn vị đại đầu mục.
Đại hán râu rồng càng biến sắc mặt hơn. Còn Thọ Thiên Tề và ba đại đầu mục kia thấy ánh mắt của người áo trắng bắt rùn mình. Họ chẳng hiểu lại sao hắn chăm chú nhìn đại hán râu rồng như thế.
Khi người áo trắng đến gần, đại hán râu rồng cố gắng hỏi một câu:
- Ngươi không chết?
Người áo trắng nhìn gã một lúc trong ánh mắt có vẻ khinh miệt đối phương rõ rệt, hắn gằn từng tiếng một:
- Ngươi chẳng xứng đáng cho ta xuất thủ!
Rồi hắn quay mình, trở lại bờ biển.
Đại hán râu rồng thở phào, lồm cồm ngồi dậy, mồ hôi đẫm ướt đầu, kết thành dòng, rơi xuống đất, nghe rõ độp độp.
Vậy mà hắn chẳng đưa tay lau khô. Chẳng rõ gã quá sợ, không dám làm một cử chỉ nào, hay gã chưa hoàn hồn, nên quên mất là mình xuất hạn như đi trong mưa.
Thọ Thiên Tề lấy làm lạ hỏi:
- Sự tình như thế nào?
Đại hán râu rồng đáp:
- Người đó từ phương đông, cỡi thuyền vượt biển, ngang qua Lao Sơn, bị anh em chúng tôi phát hiện. Thấy thuyền của hắn khẳm đừ, mường tượng là chở đầy vàng bạc châu ngọc, do đó anh em chúng tôi mới xuống nước, lặn ra ngoài khơi, đục thuyền của hắn, thuyền chìm.
Từ chỗ thuyền vào bờ, ít nhất cũng trên một dặm đường, anh em chúng tôi đinh ninh là hắn phải chết chìm, ngờ đâu...
Gã thở dài, lặp lại:
- Ngờ đâu?...
Gã không ngờ cũng phải, vì gã có biết đâu người trên thuyền có võ công đạt đến mức hoa? hầu, có thể phong bế các khí quan trên người ít nhất cũng hơn nửa khắc thời gian. Cho nên sau khi thuyền đắm, hắn dùng thiên cân trụy pháp, trầm mình xuống đáy biển, theo dòng biển vào thẳng bờ.
Vì không thấy người áo trắng nổi lên mặt nước, bọn của gã đại hán râu rồng tưởng gã chìm lỉm mà chết luôn. Rồi giờ đây, quần hùng võ lâm quy tụ tại đây chờ xem một người, mà người đó lại là kẻ xưa kia bị gã và bằng hữu của gã hãm hại để đoạt của...
Tự nhiên, gã phát sợ hãi!
Gã cúi đầu gầm xuống trong khi Tử Nhiêm Long Thọ Thiên Tề hỏi:
- Trên thuyền có tất cả mấy người?
Gã đại hán râu rồng ấp úng:
- Chỉ có... một người! Hắn!
Rồi gã liếp:
- Thấy hắn rồi, thuộc hạ nhớ việc hắn đơn thân độc lực, vượt thuyền lướt biển từ hải ngoại xa xôi đến Trung Nguyên, biết ngay hắn là tay ghê gớm. Hơn nữa nhìn ánh mắt sáng rực của hắn, thuộc hạ tự lượng sức mình chưa phải là đối thủ! Hắn có trông thấy thuộc hạ rõ ràng đâu lúc thuộc hạ đục thuyền hắn, vậy giờ đây thoáng trông qua thuộc hạ, hắn nhận ra ngay. Đủ biết nhãn lực của hắn thật phi phàm.
Gã thở dài, tiếp nối:
- Thuyền của hắn khẳm đừ, chẳng phải hắn chở vàng bạc châu ngọc gì, mà chỉ là những táng đá to, dùng dằn cho thuyền vững sóng.
Thọ Thiên Tề căm giận, gằn giọng:
- Vậy mà gặp ngươi, hắn tha thứ cho ngươi được?
Đại hán râu rồng lộ vé thiểu não:
- Hắn không báo thù, điều đó thực là trên chỗ tưởng tượng của thuộc hạ!
Thọ Thiên Tề nói:
- Hắn tha cho ngươi, nhưng ta chẳng thể tha thứ cho ngươi được!
Ngươi bất chấp cái đạo nghĩa của kẻ sinh hoạt trên mặt biển, cái đạo nghĩa của hạng người lấy biển rộng trời cao làm nhà, lại hạ độc thủ với kẻ cô lữ trong bước hải hành, ngươi đã phạm vào tội gì theo luật hải hồ, ngươi biết chăng?
Đại hán râu rồng biến sắc nhợt nhạt, run run giọng:
- Thuộc hạ biết! Thuộc hạ đáng tội chết!
Thọ Thiên Tề hừ một tiếng:
- Ngươi đã biết tội mình, thì hãy tự xử gấp!
Y chẳng buồn nhìn thoáng qua gã đến nửa mắt, bước đi liền. Y đi theo người áo trắng.
Đại hán râu rồng ngẩng mặt lên không, than thở. Gã hướng qua ba bạn đồng chức, quỳ xuống cất giọng thê thảm:
- Nếu các vị còn nhớ đến tình nghĩa giữa chúng ta ngày nào, xin chiếu cố đến vợ con của tôi! Được vậy tôi sẽ ngậm cười nơi chín suối!
Ba đại hán kia đau lòng quá, nhưng còn biết làm sao hơn? Họ đồng đáp nhanh:
- Bằng hữu yên trí! Hãy đi đi, mọi việc anh em chúng tôi xin chu toàn cho quý quyến?
Đại hán đưa tay rút thanh chủy thủ dưới đế giày, trong khi ba người kia quay mặt nơi khác, không dám nhìn thảm cảnh.
Gã cầm thanh chùy thủ, chống mũi ngay ngực, khoảng con tim đâm mạnh vào.
Một tiếng phập vang lên, mấy tia máu phun ra, thân hình đại hán từ từ ngã xuống.
Đến lúc đó, ba vị đầu mục kia mới quay lại nhấc bổng gã lên bê xác gã đi nhanh về phía người áo trắng và Thọ Thiên Tề.
Quần hùng chứng kiến cảnh dó, phải thầm phục quy luật giới hải đạo hết sức nghiêm. Cái chết của gã đại hán râu rồng làm cho mọi người hiện diện xao lòng phần nào hứng khởi trước cuộc đấu sắp khai diễn.
Nghe tiếng động sau lưng, người áo trắng quay đầu nhìn lại.
Thọ Thiên Tề bước tới cao giọng thốt:
- Thuộc hạ của Thọ tôi, ngày ấy đã có hành động trái với luật hải hồ, sai công đạo, thì...
Người áo trắng dù không mục kích những gì đã xảy ra, sau khi buông tha gã đại hán râu rồng, chừng như hắn biết trước cái kết cuộc là phải như thế, hắn buông gọn:
- Mang xác gã ấy lại đây!
Thọ Thiên Tề vẫy tay, ba vị đại đầu mục đưa xác gã đại hán râu rồng đến trước mặt hắn, đặt xuống đấy.
Thọ Thiên Tề đảo mất nhìn ra bốn phía, đoạn dõng dạc tuyên bản án:
- Bất nhân! Phải chết! Bất nghĩa, phải chết? Quy luật hải hồ không dung thứ những kẻ bất nhân, bất nghĩa! Hắn chết để chứng minh công đạo trường tồn!
Quần hùng vỗ tay hoan hô vang dội. Người áo trắng lạnh lùng nhìn qua xác chết, lại buông gọn:
- Tốt lắm!
Thọ Thiên Tề lại cao giọng:
- Kẻ phạm tội trực tiếp, đã đền tội. Người có tội gián tiếp, không thể trốn tránh. Thọ lôi xin bồi thường thiệt hại cho kiếm khách. Trong nửa khắc nữa, sẽ có một chiếc thuyền mới, hiến cho quý khách.
Người áo trắng nhìn thoáng qua xác chết, không nói lời nào cả.
bước thẳng đến bờ biển.
Một giọng nói từ chiếc thuyền buồm ngũ sắc vọng đến bờ:
- Các hạ đã luyện được kiếm pháp vô song, xứng đáng được gọi là Vô Song Kiếm Khách, chẳng hay các hạ có thể cùng tại hạ giao đấu ngay trên mặt biển chăng?
Giọng nói không lớn lắm. Gia dĩ lúc đó gió biển tuy không thổi mạnh, vẫn nghe rào rào, sóng biển tràn bờ cuốn cát vàng xì xèo. Vậy mà quần hùng đều nghe lọt, chẳng khác nào người thoại rỉ bên tai.
Khẩu khí đó, dĩ nhiên đúng là của Tử Y Hầu. Bây giờ mọi người biết rõ giai đoạn quan trọng nhất của cuộc ước hẹn hôm nay đã đến, ai ai cũng im hơi lặng tiếng, cố trút hết tinh thần theo dõi...
Người áo trắng vẫn lạnh lùng như muôn thuở từ từ hỏi lại:
- Tại sao phải chiến đấu ngay trên mặt biển?
Hắn đáp, cũng nhẹ nhàng, cũng rõ rệt như Tử Y Hầu, có điều thanh âm hơi lạnh lùng hơn một chút.
Trên thuyền, Thủy Thiên Cơ, Phương Bửu Nhi và tiểu công chúa tất cả bọn thiếu nữ thừa hiểu cuộc quyết liệt đã bắt đầu. Trừ Phương Bửu Nhi ra, còn thì tất cả đều biết ít nhiều võ công. Họ suy qua âm thinh của người áo trắng, họ ước độ võ công của người áo trắng nên không ai không lo ngại cho Tử Y Hầu.
Tử Y Hầu bình tĩnh, hỏi chứ không đáp:
- Các hạ muốn nghe một lời giải thích?
Người áo trắng trầm ngâm một lúc:
- Không nghe cũng chẳng sao!
Tử Y Hầu lại hỏi:
- Chúng ta cùng lên thuyền, hội diện nhau trên mặt biển, các hạ nghĩ thế nào?
Người áo trắng thản nhiên:
- Càng hay!
Từ bờ đến thuyền buồm ngũ sắc, khoảng cách ít nhất cũng trên mấy mươi trượng. Song phương đối thoại với nhau chẳng khác hai người ngồi trong một gian phòng, đối diện với nhau. Họ không tỏ lộ có dùng một công lực truyền âm, như vậy đủ biết mức tu vi của họ đã đến mức độ cao thế nào. Quần hùng phải công nhận họ là những tay quán thế!
Trên gương mặt của quần hùng, sự khẩn trương hiện rõ, tưởng chừng như chính họ là người trong cuộc, chứ chẳng phải bàng quan.
Nghe song phương ước hội với nhau trên mặt biển. Thọ Thiên Tề vẫy tay lên, lập tức có một chiếc thuyền nhẹ lướt tới, cập sát bờ.
Người áo trắng quay qua Hồ Bất Sầu, hỏi:
- Người có thể chèo thuyền cho ta?
Hồ Bất Sầu đáp nhanh:
- Rất sẵn sàng!
Đại hán đưa chiếc thuyền nhẹ đến, vội nhảy lên bờ.
Người áo trắng khẽ nhích đôi chân, thân hình tà tà lướt khỏi mặt đất, đáp xuống mũi thuyền. Hồ Bất Sầu không chậm trễ, nhảy theo ngay, vừa đáp xuống lái thuyền là tay vớ ngay chèo, chuyển mũi ra khơi, đẩy mái!
Tử Y Hầu cũng ra khỏi đại sảnh, đến mũi thuyền nhìn xuống, chiếc thuyền nhẹ do đại hán vừa rồi mang tin kiếm khách áo trắng đã đến hỏi:
- Cuộc giao đấu này, dữ nhiều lành ít, chẳng hay ngươi có dám chèo thuyền cho ta hội diện với Vô Song Kiếm Khách chăng?
Đại hán đó còn mong gì hơn. Chính hắn muốn xin cái ân huệ được theo bên cạnh Tử Y Hầu, xem cuộc chiến. Giờ đây bỗng nhiên Hầu gia gọi đến, hắn cầm như bắt được vàng, vội ứng tiếng:
- Được thế là hân hạnh cho tiểu nhân lắm!
Lập tức hắn bảo tên chèo thuyền cho hắn tạm lên thuyền buồm ngũ sắc, còn hắn thì lùi lại lái thuyền, cầm chèo, chờ Tử Y Hầu xuống.
Tử Y Hầu quay lại, nhìn bọn người trên thuyền, điểm một nụ cười:
- Các ngươi thận trọng nhé!
Lão nhìn tiểu công chúa, như muốn nói thêm điều gì, nhưng không rõ nghĩ sao, lại thôi, đoạn nhảy xuống thuyền nhẹ.
Người trên thuyền buồm ngũ sắc không ai không khóc ròng...
Thoạt đầu Phương Bửu Nhi chưa bị kích thích lắm, chừng thấy tất cả đều rơi lệ, hắn cũng khóc luôn.
oo Hàng ngàn cặp mắt từ trên bờ, giương tròn nhìn theo bóng hai chiếc nhẹ, lướt sóng từ từ ra khơi.
Vầng thái dương đã chếch, hoàng hôn sắp về, nắng vàng trải khắp mặt biển nhấp nhô, như giữa muôn vàn hạt kim cương lóng lánh.
Hai chiếc thuyền con rẽ sóng tiến tới...
Khi hai chiếc thuyền đến gần, Tử Y Hầu hai tay nâng cao thanh kiếm từ từ thốt:
- Xin mời!
Người áo trắng cũng rút kiếm cầm tay, từ từ thốt:
- Xin mời!
Bỗng, hai tiếng thép ngân dài, trong vạn đạo kim quang bốc từ đầu sóng, có hai đạo kiếm khí xung lên, cao vút.
Ánh tà dương, ánh sóng vàng, ánh kiếm cùng chiếu rực trên bãi biển. Quần hùng giương mắt theo dõi từng diễn tiến giữa hai người. Ai ai cũng choá lên, không dám nhìn lâu nhưng không nhìn thì lại tiếc, thành ra có nhức đầu, có hoa mắt, họ vẫn cố nhìn...
Hồ Bất Sầu giữ vững tay chèo, không đẩy tới nhưng chẳng cho thuyền lùi lại, duy trì bộ vị của đầu thuyền trong tầm kiếm.
Tâm thần theo dõi cuộc nghinh diện của song phương, phần cố gắng giữ con thuyền nguyên vị, y xuất hạn đẫm ướt mình. Gió biển từ ngoài khơi thổi về không làm dịu cơn nóng trong cơ thể y, mồ hôi vẫn đổ.
Người áo trắng đứng tại mũi thuyền thẳng mình như thanh kiếm trong tay, nhưng mũi kiếm chúc xuống.
Tử Y Hầu thì cầm kiếm thủ ngực.
Hai con thuyền nhẹ, nổi trên mặt biển sóng cồn. Dù tay chèo có cứng đến đâu cũng chẳng giữ được thuyền vững. Song dù thuyền lắc lư, cả hai đấu thủ vẫn đứng vững như trời trồng, hai thanh kiếm không hề dao động.
Hai con thuyền từ từ đến gần nhau, hai con thuyền nhích từng tấc một, khó khăn vô cùng bởi một mái chèo đẩy tới, là sóng tràn về phía hậu ngay, có khi còn xa hơn vị trí cũ.
Đấu thủ căng thẳng tinh thần đã đành, người cầm chèo vẫn căng thẳng tâm tư như họ.
Cái khó của kẻ cầm chèo là ngoài việc giữ thuyền vững, còn chú hết tinh thần theo dõi cuộc đấu. Bởi vì thích nhìn tận mắt một cuộc đấu vô tiền khoáng hậu, họ mới tình nguyện làm trạo phu, chứ có lợi lộc gì?
Còn hai đấu thủ chỉ có việc ghìm nhau thôi, chẳng phải lo nghĩ đến việc điều khiển con thuyền...
-
Một người ghìm mũi kiếm xuống, một người hoành kiếm ngang ngực, họ chú hết tâm tư, nhận định từng cử động nhỏ nhặt của đối phương, giả sử lúc đó, biển có sôi trào, hay từ ngang trời bay xuống một hòn núi rơi kề cận, họ cũng chẳng dám xao lãng ý chí.
Tử Y Hầu ngưng đọng thần sắc đến trắng nhợt. Còn người áo trắng thì phấn khởi lạ thường, người áo trắng cho rằng từ lúc múa kiếm đến nay mới có dịp so tài cùng người đáng so tài.
Hai con thuyền đến gần, đến gần...vụt, hai con thuyền lướt qua, một tả, một hữu, như hai cái thoi dệt phóng nghịch chiều.
Thuyền qua ngang nhau là chiêu thứ nhất được thi triển.
Từ Y Hầu đã vung kiếm trước.
Thế kiếm của lão rất bình thường, chẳng có gì ngụy dị, kỳ ảo, chỉ có mũi là rung rung, nếu đếm được, tất cả phải nhận ra có hơn hai mươi lần rung. Tất cả những cái rung đó, đều hướng vào ngực, hai bên sườn, bụng, yết hầu của đối phương. Cái đích là hơn ba mươi yếu huyệt của đối phương trong phạm vi đó.
Nên hiểu là họ đang thi triển kiếm khí, chứ chẳng phải dùng ngay chất thép quật chan chát vào nhau như những tay vừa học tập múa kiếm, cho nên với một chiêu, họ có thể công được mấy mươi nơi.
Do đó, dùng hai tiếng xuất kiếm, bất quá chỉ để nói lên họ đã thật sự khai diễn cuộc đấu mà thôi. Thân kiếm hơi nhích động một chút, chứ chẳng bay vèo sang địch, đâm chém như những kiếm thủ thông thường.
Tuy nhiên, khí kiếm vẫn lợi hại, gấp trăm, gấp ngàn lần thép kiếm. Hơn nữa, địch dễ tránh thép kiếm chứ kiếm khí đi nhanh bằng ý tưởng, khiến địch khó khăn định được phương hướng mà lùi hoặc tạt qua bên này, bên kia,...
Người áo trắng cũng nhích động cổ tay, thanh kiếm nhích động theo, độ hơn ba mươi lượt song quanh quẩn tại vị trí cũ, chẳng hề được cử cao lên, hay đổi chiều.
Thuyền qua ngang nhau, rồi tách nhau, mũi xa, lái gần.
Xong rồi chiêu thứ nhất!
Song phương lấy lại tư thế trước, đứng vững tại mũi, và như vậy chưa có sự thắng bại lẫn nhau, và như vậy người áo trắng không hạ nổi Từ Y Hầu với chiêu duy nhất giúp hắn thành công từ lúc cập bờ Đông Hải, đi sâu vào Trung Thổ.
Mà, Tử Y Hầu cũng chẳng hạ nổi đối phương.
Quần hùng trên bờ nín thở từ lúc hai con thuyêdn sắp sửa ngang qua nhau. Giờ đây tất cả đều thở phào. Tiếng thở của họ cùng phát ra một lượt, lại mạnh, mang theo cái dồn ép, hồi hộp, nghe như còn lớn hơn tiếng gió biển từ ngoài khơi lộng về.
Trận chiến diễn ra trên mặt biển cách bờ hơn ba mươi trượng song quần hùng cũng trông thấy rõ, bởi hiện diện tại đây những tay thượng đẳng trong võ lâm, nhãn lực của họ hết sức tinh vi, nhìn đêm như ngày, nhìn xa rõ như gần.
May mắn hơn tất cả, Hồ Bất Sầu đóng vai trạo phu, được nhìn tận mắt cuộc đấu. Y nhận ra chiêu thức của Tử Y Hầu, giống như chiêu Xuân Phong Lôi Động trong Hồi Phong Vô Liễu kiếm pháp gồm bốn mươi chín thức của phái Điểm Thương, một kiếm pháp tân kỳ, một tuyệt học trấn sơn của phái này. Nhìn kỹ mội chút chiêu đó lại giống chiêu Long Vũ Cửu Thiên trong Thiên Long Bí Kiếm pháp của Lý gia trang lại Lạc Dương, đất Hà Nam. Rồi nhìn một lúc nữa y lại thấy giống chiêu Thái Cực Sơ Sanh trong Lưỡng Nghi kiếm pháp mà võ lâm đang xem như một kiếm pháp vô địch trên giang hồ.
Bốn chiêu đó, vừa lợi hại vừa nhanh vừa ảo, thế mà Tử Y Hầu chỉ thi triển một chiêu gồm đủ bốn chiêu, gom lại cái tinh túy của bốn chiêu vào một thế hiểm, thật là một sự kiện không thể có trong tưởng tượng của mọi người, chứ đừng nói là có người thi triển nổi.
Nhưng, Hồ Bất Sầu còn nhận ra điều này nữa, là đưa một chiêu gồm đủ tinh túy của bốn chiêu, Tử Y Hầu chưa chịu phát huy trọn vẹn tinh túy đó, lão chi chuyên về thế thủ hơn thế công, chính đó là cái khó nhất cho người cầm kiếm lấy chiêu công làm chiêu thủ.
Thanh Bình Kiếm Khách Bạch Tam Không từng luyện được cái tính trầm ổn bình tịnh như nước ao thu, võ công lại đạt đến mức tinh túy tột cùng, bình sinh nghiên cứu hầu hết các thế thủ của những môn phái trên giang hồ, rút ra cái hay, so sánh cái lợi hại, sở đắc bao nhiêu điều đem ra truyền dậy cho môn đồ, mà Hồ Bất Sầu lại là một đệ tử tâm ái, cho nên y lãnh hội trọn vẹn những kinh nghiệm của sư phó hiện tại. Y có một nhận xét rất kỹ về chiêu thức hỗn hợp của Tử Y Hầu.
Ngoài sự tổng hợp bốn chiêu thủ như y đã thấy chiêu thức đó còn mường tượng chiêu Hải Yến Hà Thanh của Nhị Lang Thần Tiễn mà tượng thờ tại miếu Nhị Lang Thần nơi quán Giang Khẩu biểu trưng, rồi lại giống chiêu Phong Vũ Bất Thấu trong Thất Oanh kiếm pháp của phái Hoa Sơn, mà cũng giống chiêu Long Vi Phụng Thủ trong Long Phụng thập cửu thức của phái Côn Luân, ngoài ra còn giống chiêu Huyền Băng Như Thiết trong Trường Bạch kiếm pháp của phái Trường Bạch.
Còn như so sánh với kiếm pháp của Thanh Bình kiếm khách thì chiêu đó giống chiêu Bát Phương Phong Vũ.
Những chiêu sau này, là những thế thủ tối nghiêm mật trong các kiếm pháp từng nổi tiếng trong võ lâm. Hiện tại Tử Y Hầu lại gồm được tất cả vào một chiêu, đủ biết cái công phu nghiên cứu kiếm thuật của lão phải khổ nhọc lắm và trải qua rất nhiều năm tháng.
Một chiêu tuy nhìn qua, thấy rất thông thường, nhưng bao gồm tinh túy của gần mười môn kiếm, thì cái lợi hại không thể lường, đủ cương, đủ nhu, đủ thủ, đủ công, xem thì yếu nhưng mạnh vô tường. Giả sử đối phương là một người nào khác, không phải kiếm khách áo trắng, chắc chắn Tử Y Hầu không quá dè dặt mà sử dụng một chiêu tuyệt diệu như vậy.
Nhưng cái hay của Tử Y Hầu, theo Hồ Bất Sầu suy uận, là ở chỗ dùng một chiêu thức thông thường, biểu lộ được tinh túy ảo diệu, điều đó thiết tưởng ngoài lão ra không còn một ai làm nổi!
Bình sinh y mới được dịp mục kích một tay kiếm pháp thi triển cái sở học của mình...
Hai con thuyền quay mũi, từ từ tiến đến gần nhau, rồi từ từ vượt qua.
Tử Y Hầu khẽ hạ một bên vai, thân hình hơi nghiêng một chút, thanh kiếm nhếch lên độ mấy tấc, rồi giữ cứng lại đó không nhích động.
Lão thi triển chiêu thứ hai. Chiêu này cũng thuộc về thế thủ. Tuy nhiên với chiêu thứ hai của Tử Y Hầu, người áo trắng ngưng đọng thần sắc thấy rõ, hắn hoành kiếm ngang tầm trán, mường tượng một tấm màn sẵn sàng buông xuống ngăn chặn mọi xâm nhập bất ngờ vào thân thể.
Bởi hắn biết, chiêu thức của Tử Y Hầu, dù chuyên về thủ, vẫn có thể tấn công bất ngờ, mà khi tấn công thì nhanh không thể tưởng, công với nhiều biến thế khôn lường.
Gió biển vẫn gầm gào, sóng biển vẫn cuộn trào ầm ĩ. Con thuyền tự nhiên phải dao động, nhưng đối thủ vẫn đứng như trồng. Cái cứng của họ không chôn chân theo thuyền, bởi chôn chân theo thuyền là cũng phải dao động luôn, họ tài tình ở chỗ thuyền lắc, thuyền chao làm sao.
Mặc thuyền. Họ giữ đúng giác độ của kiếm, của bộ vị, chẳng khác nào họ vừa giao đấu với phong bạ..
Do đó, kiếm thế song phương vẫn kín đáo chặt chẽ như đang giao đấu trên bình địa.
Hai đấu thủ ghìm nhau đến tinh thần căng thẳng đã đành, mà hai trạo phu cũng khẩn trương chẳng kém, nhất là Hồ Bất Sầu.
Bởi đến Đông Hải là vâng theo di ngôn của sư phó, nhờ Tử Y Hầu báo cái hận một nhát kiếm ngày nào cho sư phó. Giờ đây Tử Y Hầu đã chấm đến người áo trắng, dĩ nhiên y khẩn trương. Càng khẩn trương hơn nữa là y chưa thấy Tử Y Hầu chiếm được ưu thế nào...
Còn như tên trạo phu kia, bất quá vì tính hiếu kỳ, vì đam mê kiếm thuật mà thôi, chứ thực ra, cuộc hiến chẳng có liên quan mảy may nào đến cá nhân của hắn, hoặc người thân thuộc của hắn.
Vì tinh thần quá khẩn trương, vì quá cố gắng giữ con thuyền ở nguyên vị trí cho song phương có đủ tầm thi triển kiếm pháp. Hồ Bất sầu mệt quá, không còn kìm thuyền nổi, đánh lỏng mái chèo, sóng đẩy thuyền lướt đi, hái con thuyền lại qua ngang nhau. Thuyền vượt qua, thế là chiêu thứ hai đã qua.
Người áo trắng chẳng bao giờ phải dùng đến chiêu thứ hai để hạ đối thủ, từ ngày hắn đặt chân đến Trung thổ. Thế mà giờ đây, chiêu thứ hai đã qua, Tử Y Hầu không việc gì, như vậy là Tử Y Hầu thừa sức cầm cự với hắn, Tử Y Hầu không bại, là hắn không thủ thắng nổi.
Suy theo đó Hồ Bất Sầu có hy vọng rất nhiều nơi Tử Y Hầu. Niềm hy vọng của y, nếu có, chẳng qua vì tình nghĩa sư đồ. Chứ thực ra, về phương diện cá nhân, y chẳng có lợi lộc gì đến nỗi phải mong mỏi người áo trắng phải thất bại.
Y cảm thấy thương hại hắn. Nếu hắn có thất bại trước kiếm pháp thần diệu của Tử Y Hầu, dù hắn có là kẻ thù chung của toàn thể nhân vật võ lâm Trung thổ, hắn có những ý niệm thầm kín đáng thương hại, ngoài ra hắn có đủ tư cách một bậc anh hùng, đáng sùng đáng kính...
Y miên man nghĩ ngợi, quên cả đẩy mái chèo mà đại hán bên thuyền kia cũng thế, ngây người ra mà nhìn. Thành thử hai con thuyền vượt qua nhau rồi, cứ trôi đi, khoảng cách xa dần...
Hai đấu thủ vẫn giữ nguyên tư thế không hề nhích động thân hình.
Hồ Bất Sầu thầm mong hai con thuyền cứ ở trong cảnh đó mãi, rồi dần xa nhau hơn, mỗi con thuyền sẽ đi một hướng đừng bao giờ gặp lại nhau nữa. Thuyền không gặp nhau là cuộc đấu cầm như hủy diệt. Tử Y Hầu và người áo trắng chẳng bao giờ ai thắng ai và cũng chẳng ai bại ai...
Bởi, sự thắng bại của họ có quan hệ trọng đại đối với y, y không muốn có sự phân định thấp cao giữa họ, ít nhất cũng trong thời gian này!
Muốn như vậy, là vì y bắt đầu có cảm tình với người áo trắng, cái cảm tình phát xuất từ sự đồng cảm cảnh ngộ bi đát của người áo trắng.
Nhưng, Hồ Bất sầu giật mình, một tiếng “Chạc” vang lên, tiếng “Chạc” do con thuyền ấn mạnh mặt nước. Con thuyền chao động, rồi dứt ra làm hai đoạn, một đoạn mũi một đoạn lái, hai đoạn rơi hẳn ra, y đứng tại phần lái, người áo trắng đứng tại phần mũi.
Thì ra, người áo trắng không thể chờ thuyền quay lại, hắn vận dụng công lực, chấn đoạn con thuyền làm đôi tự mình điều động mũi để xáp nhanh lại thuyền của Tử Y Hầu.
Tử Y Hầu cũng nóng nảy như hắn, cũng dùng nội lực chấn đoạn thuyền điều khiển đoạn mũi xáp lại.
Còn lại một nửa con thuyền, Hồ Hất Sầu và đại hán kia, dĩ nhiên không thể chèo chống được nữa, nước ào ào, đoạn thuyền chìm, cả hai loi ngoi, nhưng cũng cố ngóc cao đầu nhìn xem hai đấu thủ xuất chiêu như thế nào.
Trên bờ, quần hùng theo dõi đến đó, cũng kinh khiếp. Họ nhốn nháo lên nhưng họ quá khẩn trương, chẳng ai thốt thành liếng...
Trong khi đó, Tử Y Hầu và người áo trắng càng phút càng đến gần.
Sóng biển dâng cao ngọn, bất quá hiện tại, cả hai đứng trên gỗ thuyền, chứ thuyền đã vỡ rồi, cho nên từ trong bờ trông ra, thấy họ như chập chờn trên đầu sóng...
Chập chờn trên sông nước, cả hai trông như thiên phủ thần tiên giáng trần vào buổi hoàng hôn.
Quần hùng theo dõi cuộc đấu, xuất thần.
Cảnh đẹp, người hùng hoàn toàn hấp dẫn tâm tư của họ. Chẳng ai thở mạnh. Ven bờ biển hiện quy tụ hơn ngàn người, vắng lặng như cánh tử tịch, trừ tiếng sóng, tiếng gió ầm ngoài xa xạ.. họ bất động bên ngoài nhưng trong nội tâm họ dao động. Gió đùa sóng biển bên ngoài ì ầm, trong lòng của họ cũng dâng tràn lên ì ầm. Bên trong họ là một trận bão do muôn ngàn tạp niệm phát sinh, tất cả đều xuất hạn đẫm ướt y phục.
Ánh kim quang của tà dương, ánh kiếm của hai đấu thủ, ánh sóng chớp ngời, vạn ánh sáng giao chuyền chớp động, tạo thành một vầng ngũ sắc quang huy linh động trên mặt biển không ngừng.
Tử Y Hầu và người áo trắng trong thoáng mắt đã trao đổi nhau hơn ba mươi chiêu tuyệt kiếm.
Không một ai nhận định rõ rệt những đường kiếm thần của họ. Bất quá họ chỉ thấy kiếm quang chơm chớp, hai bóng người xê dịch như hai vệt khói mờ mà thôi.
Bỗng một tiếng ngân dài do thép kiếm phát lên, rền rĩ từ ngoài khơi vọng vào bờ...
Tiếng ngân chừng như vô tận, tiếng ngân chưa dứt, Tử Y Hầu lảo đảo thân hình rơi ngay xuống biển.
Còn người áo trắng hai tay chắp kiếm đưa cao lên, bất động, nơi thuyền còn nửa đoạn.
Sóng biển cứ đùa, gió biển cứ gào, người trên bờ cứ nín thở, một Tử Y Hầu cứ chìm lỉm dưới nước, còn một người áo trắng cứ đứng sững như trời trồng. Bóng trắng đứng giữa vầng ngũ sắc quang huy, trông rực rỡ làm sao...
-
Hồi 08
Một Rừng Không Hai Hổ
Nhưng tất cả hào kiệt anh hùng trên bờ biển, qua phút giây sửng sốt trước cái ngã xuống nước của Tử Y Hầu. Họ cũng bừng tỉnh, ai ai cũng thấy có cái gì ngăn chận nơi yết hầu. Ai ai cũng cảm thấy một viên đá tảng to lớn đang đè nặng trên con tim họ, họ không còn thở nổi...
Khung cảnh vẫn tĩnh mịch như trước, xem ra còn có phần nặng nề hơn trước.
Lâu lắm, có kẻ kêu lên kinh hoàng. Một người kêu, nhiều người phụ họa, nhưng tiếng kêu không phải khơi từ những người trên bờ mà do bọn người trên chiếc thuyền buồm ngũ sắc.
Tiếng kêu vang dội như xé không gian. Tiếp theo tiếng kêu kinh hoàng khủng khiếp là những tiếng khóc não nùng.
Họ gào to, đúng hơn họ gào tận lực bình sinh, nên lần lượt ngã xuống sàn thuyền, mặt mày dàn dụa lệ thảm.
Riêng tiểu công chúa thì đã hôn mê từ lâu Nàng bất tỉnh ngay từ lúc Tử Y Hầu rơi xuống nước.
Phương Bửu Nhi là người ngoài cuộc, khóc không lý do, cười không nỡ lòng nào. Hắn lặng người, há hốc mồm, giương tròn mắt. Hắn nào phải là người của võ lâm, hắn không thưởng thức nổi những chiêu kiếm tân kỳ, hắn chỉ dao động vì cảnh, vì tình mà thôi.
Nơi mặt biển, người áo trắng vẫn đứng nguyên trong tư thế đó một lúc lâu, đoạn vận công điều khiển nửa phần thuyền hướng thẳng vào bờ.
Đằng sau hắn, sóng nước nổi cao, ánh tà đương chiếu diệu, tăng thêm phần kiêu dũng cho con người hùng!
Nơi bờ biển, quần hùng đều im lặng, tất cả đều cúi đầu, như hàng ngàn tín đồ kính cẩn cung nghinh giáo chủ...
Trên thuyền buồm ngũ sắc, bầu không khí đượm màu tang tóc.
Trên bờ biển, quần hùng hồi hộp hãi hùng. Ngoài xa xa, trên mặt nước một bóng người từ đáy sâu nhô lên, người đó dĩ nhiên toàn thân ướt sũng, nhưng oai khí vẫn bộc lộ rõ ràng, thoáng nhìn qua ai ai cũng sinh lòng kính phục.
Người đó nhô lên, tung mình khỏi mặt nước, xuất hiện như hải thần từ Long cung du hành hải phận...
Người đó là Tử Y Hầu.
Thì ra lão chưa chết! Lão vẫn còn oai khí như thuở nào. Sự xuất hiện của lão ngoài sức tưởng tượng của mọi người, bởi ngoài chỗ tưởng nên ai cũng ngây người, bất động.
Trong khi đó người áo trắng đã vào bờ, hắn lên bờ cùng một lượt với Tử Y Hầu lên thuyền...
Lên đến bờ rồi, vẫn gương mặt lạnh lùng như muôn thưở, người áo trắng hỏi bâng quơ:
- Thuyền đâu?
Đúng là hắn nhắc đến chiếc thuyền do Thọ Thiên Tề đã hứa đền bù cho hắn...
Tử Nhiêm Long Thọ Thiền Tề giật mình, biết ngay câu hỏi hướng về y, vội tách đám đông bước ra đáp:
- Có thuyền kia rồi!
Y đưa tay chỉ một chiếc thuyên rất mới, vừa nhẹ, vừa đẹp, trên thuyền gã trạo phu còn giữ tay chèo.
Người áo trắng nhìn về hướng chiếc thuyền của Thọ Thiên Tề vừa chỉ một thoáng, đoạn chuyển mắt sang hướng thuyền buồm ngũ sắc, từ từ thốt từng tiếng:
- Kiếm pháp của các hạ, quả nhiên vô địch trên đời!
Tử Y Hầu còn đứng lại mũi thuyền, thần sắc nghiêm trang đáp:
- Phong cách của các hạ, đáng làm gương mẫu cho thiên hạ võ lâm, tại hạ hết sức khâm phục!
Đối phương ca ngợi võ công của mình mà Tử Y Hầu lại tán tụng cái phong cách của đối phương. Tử Y Hầu quả hết sức tế nhị, và sự tế nhị của lão thừa nói lên sự hơn kém giữa nhau rồi.
Như vậy Tử Y Hầu đã thắng?
Người áo trắng buông gọn:
- Hơn, tất phải thắng, kém, tất phải bại, đó là lẽ đương nhiên!
Tử Y Hầu lờ qua sự kiện đó:
- Giờ đây, các hạ định đi về đâu?
Người áo trắng lạnh lùng:
- Chân mây, cuối trời, rừng sâu, núi thẳm...
Tử Y Hầu tặc lưỡi:
- Tại hạ không thể tiễn đưa!
Người áo trắng thản nhiên:
- Chẳng sao!
Hai bên đối thoại, bốn phía im lặng như giữa bãi tha ma, chẳng một ai dám thở mạnh.
Người áo trắng tiếp:
- Cái bại năm nay, tại hạ nhớ mãi. Xin hẹn bảy năm sau, sẽ cũng tái ngộ rửa cái nhục này!
Hắn bước nhanh về chiếc thuyền do Thọ Thiên Tề cung cấp.
Cho đến bây giờ quần hùng mới biết ra người thắng chính là Tử Y Hầu, biết được điều đó rồi, họ cũng thở phào, hoan hô vang dội.
Họ hoan hô Tử Y Hầu một phần do ác cảm mà người áo trắng gieo nơi họ. Người áo trắng là mối đe dọa cho họ trong tương lai.
Rất có thể hắn sẽ lần lượt tìm từng người một để so tài, và họ không còn hy vọng gì thoát khỏi chiêu kiếm ác độc của hắn.
Bất cứ ai, thắng được người áo trắng là họ hoan hô, bởi người thắng từ đây sẽ là bức bình phong đảm bảo an toàn cho họ. Huống chi người thắng lại là nhân vật mà họ tôn sùng như thần tượng từ bao nhiêu năm tháng qua rồi?
Tiếng hoan hô xuất phát với tận lực bình sinh, chấn động cả một vùng rộng lớn ven bờ Đông Hải. Bây giờ, sự căng thẳng tiêu tan, niềm cởi mở trở lại trên gương mặt mọi người. Ai ai cũng phấn khởi vô cùng, tưởng chừng như chính mình tạo nên thành tích chiến thắng người áo trắng.
Họ cao hứng quá, có kẻ nhảy xuống thuyền, bất cứ là thuyền của ai, họ gẩy chèo cố lướt sóng đến tận thuyền buồm ngũ sắc, dâng lời tán tụng cho Tử Y Hầu. Có kẻ không thuyền, nhảy ùm xuống nước, định bơi, lội, vượt qua ba mươi trượng khoảng cách, ra tận thuyền vị Hầu gia vừa mang lại danh dự cho võ lâm Trung Nguyên.
Cũng có mấy kẻ, quá hăng say, nhảy xuống nước rồi mới nhớ là mình không thông thủy tánh, vội trở lên bờ, ướt loi ngoi.
Cũng có những chiếc thuyền quá nhỏ lại chở nhiều người, sóng đưa, thuyền lật, người chìm...
Thật là một cảnh nhốn nháo hết sức hỗn độn.
Dù được lên thuyền, dù không lên được thuyền, hàng ngàn người chẳng ngừng reo hò, tiếng reo của họ át hẳn tiếng sóng thét, gió gào...
Phương Bửu Nhi nhìn họ lấc đầu:
- Đúng là một bọn điên! Người trong võ lâm toàn là những gã điên cả!
Nhưng, cái điên cũng lây luôn đến hắn. Không phải vì hắn đồng quan niệm với người trong võ lâm, mà chính vì hắn thấy Tử Y Hầu thoát nạn. Hắn cũng chẳng biết tại sao Tử Y Hầu thoát nạn mà hắn vui mừng, hắn chồm tới nhảy vọt lên, ôm cổ Thủy Thiên Cơ đeo dính, hắn reo lên:
- Tử Y Hầu vạn tuế!
Thủy Thiên Cơ khoan khoái vô cùng, quay mặt qua, cọ sát mà nàng vào má hắn, đoạn dịu giọng thốt:
- Đáng yêu quá!
Đã có kẻ đến sát thuyền buồm ngũ sắc, nhưng chưa ai dám lên thuyền. Có người đeo dây, có người đạp chân giữ cho thân mình nổi trên mặt nước, họ cùng cười, họ cười lớn, cười cuồng dại, họ cùng reo lên:
- Hầu gia vạn tuế! Tử Y Hầu vạn tuế!
Bên trên chiếc thuyền buồm ngũ sắc, bọn thiếu nữ hân hoan chẳng khác nào chết đi sống lại, Linh Nhi, Châu Nhi dẫn đầu mang tất cả những gì còn la liệt trên bàn tiệc mà chưa có ai mó tới, đến tận mũi thuyền quăng xuống mặt biển.
Tất cả đều đẹp, tất cả đều mặc áo gấm, thêu hoa, đủ màu, trông chúng như đoàn tiên nữ từ ngang trời đáp xuống, rải hoa thơm cho người đời...
Thiết Kim Đao trong đám đông, cao giọng thốt:
- Ta đã đoán chắc thế, thế nào Tử Y Hầu cũng thắng! Kiếm pháp của Hầu gia vô địch trong thiên hạ từ nhiều năm qua, làm gì lại bại trong tay một con quái vật...
Một kẻ khác cười nhẹ:
- Buồn cười thay cho quái vật đó, chẳng biết phục thiện, lại còn hẹn bảy năm sau tái ngộ rửa nhục...
Thiết Kim Đao cười lớn:
- Bảy năm sau, hắn đến! Đến mà làm gì? Đến vô ích, bởi có đến cũng chỉ có chuốc lấy cái bại như hôm nay thôi!
Nhiều người phụ hoạ:
- Lão Thiết nói đúng đó!
Hồ Bất Sầu từ dưới nước, bò lên, thấy cảnh tình như thế, trong lòng có phần nào phấn khởi, nhưng niềm phấn khởi sớm tiêu tan, nhường chỗ cho sự ưu tư não nề...
Y nhìn ra thuyền buồm ngũ sắc, thấy Tử Y Hầu đứng nơi mũi thuyền, gương mặt trắng xanh của Hầu gia chẳng hiện lộ một chút ý niệm gì. Chứng tỏ lão vừa thắng một trận chiến kinh hồn, không tiền khoáng hậu, điều đó thật ngoài sự tưởng tượng của y.
Bỗng tử trong đám đông có người cao giọng thốt:
- Yêu cầu Hầu gia nói mấy tiếng với bọn tôi!
Một người thốt lên, ngàn người phụ họa:
- Phải phải! Tất cả chúng tôi đều muốn nghe Hầu gia nói mấy tiếng.
Tử Y Hầu chớp mắt, từ từ đưa cao hai tay. Quần hùng lại reo vang, tiếng reo chấn động tận mấy dặm xa.
Linh Nhi hướng về quần hùng, mỉm cười:
- Các vị an tịnh lại đi chứ! Nếu cứ làm ồn lên như thế mãi thì làm sao Hầu gia cất tiếng?
Nàng phải lập đi lập lại câu đó mấy lượt quần hùng mới chịu yên tịnh cho.
Tử Y Hầu đảo mắt nhìn khắp quần hùng từ trên bờ biển đến tận những người ra tận ngoài thuyền của lão, đoạn từ từ thốt:
- Các vị tỏ rõ thịnh tình đối với tại hạ như thế, thật tại hạ cảm kích vô cùng, chỉ vì...chỉ vì...
Thốt đến đó, lão phun ra một búng mau tươi thân hình đứng vững từ trước, hơi rung rung theo búng máu vọt ra. Nếu không do một cố gắng phi thường, hẳn lão phải ngã xuống.
Linh Nhi và Châu Nhi kinh hoàng, cùng hét lên một tiếng, cùng nhào tới, mỗi nàng một bên, nâng Hầu gia cho khỏi ngã.
Quần hùng cũng biến sắc, niềm hân hoan chớm vụt tắt lịm, và hiện tại ai ai cũng lộ vé hãi hùng...
Trên thuyền, bọn thiếu nữ vây quanh Tử Y Hầu, nhao nhao hỏi:
- Hầu gia làm sao thế? Có việc gì chăng?
Vành môi của Tử Y Hầu vẽ nên nét ảm đạm thê lương, từng tiếng một lão giải thích:
- Kiếm pháp của người áo trắng cao diệu phi phàm, đáng cho hào kiệt giang hồ khiếp phục. Ta đã thay đổi đúng chín mươi bảy loại kiếm pháp, mà vẫn chẳng thể thắng nổi. Cuối cùng, ta phải sử dụng đến môn công do vua Đại Võ sáng chế lúc trị thủy. Môn công đó đã thất truyền trong võ lâm trên mấy trám năm rồi, nó có cái tên là Phục Ma Kiếm Pháp, với môn công này, ta mới chiếm được ưu thế mà chỉ hơn người áo trắng có nửa chiêu thôi. Nửa chiêu kiếm, tuy có hơn y, nhưng chẳng làm y thương tổn. Nhưng... nhưng...
Giọng nói của Tử Y Hầu rất nhỏ, xem chừng lão rất khó khăn phát âm, thốt đến đó lão thở mạnh, thở gấp, không còn đủ sức tiếp tục nữa.
Linh Nhi và Châu Nhi bối rối, kinh hoàng. Kẻ vuốt ngực, người vỗ lưng, có kẻ gấp rút quá, lấy tay quạt quạt khắp người lão, còn quần hùng trên bờ thì người này nhìn người kia, ai ai cũng sững sờ.
Dĩ nhiên không một tiếng động nào, bởi chẳng ai dám nói gì, chẳng ai dám thở mạnh.
Cục trường rộng mấy mươi trượng tròn từ bờ đến con thuyền, im lặng như cảnh tử tịch.
Từ Y Hầu thở một lúc, hơi khoẻ lại, đoạn tiếp nối:
- Nhưng sử dụng đúng chín mươi bảy kiếm pháp rồi, ta cảm thấy chân khí tiêu hao quá nhiều, nhưng chiêu cuối cùng dù có thắng thế thật, vẫn bị kiếm lực của đối phương làm chấn động, tâm mạch của ta hầu như đứt đoạn, còn y thì... đúng là một trang hảo hán. Thua ta nữa chiêu nhưng thấy ta kiệt quệ rồi khảng khái thừa nhận là ta thắng y, nếu y chẳng có cái khí phách anh hùng đó, giả sử y là một kẻ có dã tâm, thừa cơn nguy của ta mà hạ thủ đoạn, thì hiện tại ta chỉ là cái xác không hồn làm mồi cho cá...
Thiết Kim Đao vụt cất cao giọng:
- Người xưa có nói, ai không chết vì đại nạn, tất có cái phước về sau, Hầu gia đã qua đại nạn rồi, chắc chắn là có cái phúc phận hưởng vinh hoa, phú quý; tuổi thọ niên trường như trời đất...
Quần hùng cùng reo lên phụ hoạ:
- Đúng vậy! Đúng!
Tử Y Hầu nhếch nụ cười thảm, thở dài tiếp:
- Các vị chúc tụng thế nào chẳng qua do cái hảo ý đối với tại hạ mà thôi, chứ thực trạng thì tại hạ biết mình rất rõ, khó thể sống đến ngày mai. Tại ha..... tiện đây, xin có lời vĩnh biệt, và... xin các vị ai về địa phương nấy. Kết quả cuộc chiến này không đem hài lòng quý vị thì âu cũng là kiếp số tự nhiên!
Lão cúi đầu chào khắp mọi phía, rồi quay mình trở vào khoang thuyền.
Linh Nhi, Châu Nhi và bọn thiếu nữ vây quanh, dìu lão.
Chúng theo hầu hạ lão biết hao nhiêu năm dài, chưa hề thấy lão thở ra một lần, hoặc tỏ vẻ ưu tư thê thảm. Nhưng hiện tại thì lão u buồn ra mặt, điều đó khiến toàn thể bọn thiếu nữ bi thương. Chúng không dằn được tình hoài sôi động, cùng cúi đầu khóc.
Thấy thắng rõ rệt, nhưng sự thật chẳng khác nào bại, điều đó làm cho quần hùng ngơ ngơ ngẩn ngẩn. Tử Y Hầu khuất dạng trong khoang thuyền, mà mọi người còn tần ngần đứng yên tại chỗ.
Những người ở tại bờ, đứng thừ người ra đó. Những kẻ cưỡi thuyền ra biển, trở vào bờ, cũng đứng thừ ra đó, chẳng ai nghĩ đến việc ly khai.
Họ quá khích động trước sự tình!
Và họ nhớ đến thái độ của họ đối với người áo trắng. Lúc hắn vào bờ ai cũng nghĩ là hắn bại, và đồng thanh hoan hô Tử Y Hầu, lạnh nhạt hững hờ với hắn. Có ngờ đâu, thừa khí độ hùng anh, hắn nương tay, và có ngờ đâu Tử Y Hầu là kẻ sống sót dưới tay hắn! Và giờ đây, Tử Y Hầu lại bảo mình chẳng sống sót được quá ngày mai, khi bình minh trở lại với vạn vật.
Rồi, một người ngồi ngay xuống bãi cát, nhiều người khác ngồi theo. Rồi tất cả cùng ngồi, họ ngồi nhưng chẳng ai thốt với ai một lời.
Họ ngồi đó, sóng biển trào dâng, có người đã bị nước đẫm ướt y phục, nhưng không buồn nhúc nhích, tìm chỗ khô ráo.
Gió biển ban đêm phải lạnh, y phục ướt càng làm cho sự lạnh gia tăng. Song chẳng ai màng đến cái lạnh, họ ngồi đó, ngàn cặp mắt hướng ra chiếc thuyền buồm ngũ sắc.
Đêm xuống, màn đen phủ kín, tất cả đã bị màn đen che khuất.
Riêng cánh buồm năm sắc còn hiện rõ ngoài khơi, rồi dần dần màn đêm buông dày, cánh buồm cũng mất dạng.
Người áo trắng đã lặng lẽ chèo thuyền rời bờ biển ra đi chẳng rõ từ lúc nào. Hiện tại thì hắn đã khuất dạng nơi phương trời ngoài khơi xa xăm. Hắn ra đi, hẹn bảy năm sau trở lại rửa cái nhục bại hôm nay, không ai mảy may hoài nghi về lời hứa của hắn!
Không ai trao đổi ý tưởng với ai, nhưng tất cả cũng tự hỏi một câu như nhau:
Tử Y Hầu chết rồi, bảy năm sau, hắn trở lại, còn ai đâu đấu kiếm với hắn?
oo Trước đó không mấy phút, trước đó bao nhiêu năm chiếc thuyền buồm huy hoàng tráng lệ bao nhiêu, thì hôm nay mây sầu che phủ, cánh buồm ngũ sắc như đượm màu tang tóc, cái vẻ huy hoàng cũng mất chói sáng của ngày nào.
Bọn thiếu nữ vây quanh Tử Y Hầu, tiểu công chúa thì quỳ trên sàn ôm gối lão, Phương Bửu Nhi và Thủy Thiên Cơ. Hồ Bất Sầu thì đứng xa xa, Thọ Thiên Tề cũng có mặt trên thuyền, chẳng dám đến gần.
Khoang thuyền rộng lớn, trang trí thành sảnh đường, lúc đó rất đông người, nhưng chẳng khác nào cảnh tử tịch.
Tử Y Hầu nhắm mắt, gương mặt thê thảm vô cùng, lão thở dài, lẩm bẩm:
- Bảy năm sau! Cũng ngày này, người áo trắng lại đến? Hừ!....
Linh Nhi khóc mướt, vừa khóc vừa thốt:
- Hầu gia đừng lo nghĩ gì cả, cứ tĩnh dưỡng. Biết đâu thương thế chẳng biến chuyển mà mình tưởng nguy lại được an? Còn cái việc bảy năm sau, đến lúc đó hẵng hay, hơi đâu phải phiền muộn.
Tử Y Hầu mở mắt ra, nghiêm giọng đáp:
- Một đời ta dù sống dù chết, có khi nào ta căm hận lo nghĩ? Nhưng làm thế nào quên được đồng đạo võ lâm? Ta đâu có thể để cho họ kiếp vận hãi hùng?
Phương Bửu Nhi thấy lão sắp chết đến nơi mà còn lo nghĩ đến sự việc bảy năm sau, ưu tư cho kiếp vận võ lâm, chẳng mảy may quan tâm đến thực trạng của mình. Hắn hết sức khâm phục cái hào khí của lão.
Hắn nghe lòng mình bồng bột sôi trào dòng máu nóng, hắn thầm nghĩ:
- Lão ấy đúng là bậc đại anh cùng, đại hào kiệt? Sau này lớn lên, nếu ta được như lão mới chẳng hổ là kẻ làm trai!
Linh Nhi cúi thấp đầu hơn vẫn khóc, vừa khóc vừa thốt:
- Bảy năm sau hắn trở lại. Trong thời gian đó, mình cố luyện tập thêm, thì có lo gì chẳng thắng được hắn mà Hầu gia phải ưu tư?
Tử Y Hầu thở dài:
- Mình cố luyện dễ thường hắn không luyện à? Ta cầm như đã quá già. Dù ta có sống sót qua trường hợp này đi nữa, vị tất ta tiến bộ bằng hắn? Trong thiên hạ ngày nay, không thể có một nhân vật nào cố luyện trong bảy năm mà thắng nổi hắn! Huống chi, hắn đam mê võ học đến điên cuồng, nếu hắn luyện được bảy năm nữa, thì mức thành tựu của hắn không biết sao mà lường nổi!
Lão dừng lại, rồi thở dài mấy tiếng, đoạn than:
- Rất tiếc đại cạ.. hừ!
Lão khống nói tiếp. Lão cau đôi mày, tựa hồ suy tư về một việc khó giải quyết lắm.
Không ai dám cất tiếng hỏi lão điều gì. Nhưng ai ai cũng đổ lệ. Mắt của họ đỏ ngầu.
Chỉ có Phương Bửu Nhi thì mắt đỏ mà mặt cũng đỏ, chừng như hắn bị kích động mạnh hơn cả.
Bỗng Tử Y Hầu hét lớn:
- Phải rồi!
Tất cả đều giật mình, tưởng đâu Tử Y Hầu đã nghĩ được cách chiến thắng người áo trắng, nhưng Hầu gia nhìn khắp mọi ngươi một lượt hỏi:
- Ai biết đánh cờ?
Linh Nhi lại giật mình một lần nữa, đáp:
- Đánh cờ? Bọn chúng tôi đều biết...
Tử Y Hầu cười nhẹ:
- Cờ của các ngươi thì nằm trong bụng của ta đây, ta chẳng cần nhìn vào bàn cũng biết các ngươi đánh như thế nào. Như vậy, đánh với các người chán chết!
Hồ Bất Sầu ứng tiếng:
- Vãn bối có biết qua cách đánh...
Tử Y Hầu gật đầu:
- Có lạ thì còn đánh được, ngươi hãy gầy cuộc với ta xem sao?
Không ai hiểu lão có ý tứ gì. Đang lúc nghiêm trọng như thế này lại nghĩ đến việc đánh cờ! Nhận thấy lão hứng khởi bừng bừng đành nghe theo lão bày cớ ra, chẳng ai dám hỏi gì cả.
Cuộc cờ gây hứng thú cho lão rõ rệt, lão hết sức chăm chú từng thế mà Hồ Bất Sầu cũng là tay khá cao, không nhượng lão thế nào. Chơi cờ có thực sự chơi mới tạo hứng thú được, chứ nhường từng thế, thì còn chán hơn là đánh với kẻ thấp kém.
Hồ Bất Sầu quyết ý không nhường thế, bởi y đã đoán ra Tử Y Hầu hẳn có nuôi một thâm ý gì đó, nên mới đòi chơi cờ ngay trong lúc khẩn trương này, do đó mới mang hết sở năng ra, cố tranh từng thế...
Thần thái của Tử Y Hầu biến đổi liền liền, thoạt lão cười nhẹ, thoạt cau mày, thoạt suy tư thoạt hăng hái, chẳng khác nào lúc lão cầm nhánh cây khô nhìn chỗ nhát kiếm của người áo trắng chém qua.
Tuy nhiên gương mặt của lão trắng nhợt quá. Đôi mắt lão như bất thần, đến thế cờ thứ bốn mươi chín lão lại suy tư lâu lắm, chẳng tìm được thế kế tiếp. Càng suy tư lão càng khẩn trương, hơi thở bất đầu dồn dập, thân hình bỗng chồm tới một chút, rồi bất thình lình đưa tay xóa cuộc cờ.
Xóa xong cuộc cờ, lão than liền miệng:
- Rất tiếc ? Rất tiếc ? Làm sao được? Làm sao bây giờ?
Nhưng Hồ Bất Sầu điềm nhiên thốt:
- Chẳng sao đâu Hầu gia!
Y nhặt lại mấy quân cờ, sắp lại đàng hoàng, không phải lập lại một bàn cờ mới, bày lại như bàn cờ cũ, không sai một vị trí của cn cờ nào.
Bọn thiếu nữ trông thấy Hồ Bất Sầu, tướng mạo thì không có gì đặc biệt, song ký ức lại phi thường, tất cả đều kinh dị nhìn y đăm đăm.
Tử Y Hầu cũng lấy làm lạ nhưng chỉ nhìn một thoáng thôi, rồi cúi mặt xuống bàn cờ. Tay nắm một quân cờ, giơ cao lên, do dự mãi không nhất quyết phải hạ xuống chỗ nào.
Hồ Bất Sầu thầm nghĩ, một thế cờ giản dị như vậy, tại sao Tử Y Hầu là một tay cờ cao lại có thể do dự?
Bỗng, Tử Y Hầu buột miệng thớ dài, rồi dùng tay xóa bàn cờ như đã làm, xóa xong lão thở dài mấy tiếng nữa, rồi lão than:
- Ta suy nghĩ mãi, biết kiếm pháp của người áo trắng chẳng khác gì kỳ pháp, cho nên ta muốn dùng bàn cờ để nghiệm giải thế kiếm của hắn qua thế cờ, rất có thể trong năm sáu mươi hôm, ta sẽ nghiệm giải được, nhưng năm sáu mươi hôm, thì làm thế nào? Bởi ta chỉ còn mấy khắc thời gian nữa thôi! Nghiệm giải một thế kiếm tuyệt diệu trong mấy khắc thời gian thực tình ta không làm nổi!
Phương Bửu Nhi căm hận nghĩ:
- Trời cao quá bất công? Kẻ vộ dụng thì cho sống mãi, người hữu dụng thì cho chết gấp chết non. Giả sử ta chết thay được cho lão thì ta sẽ khẳng khái mà chết!
Nhìn Hồ Bất Sầu một lúc lâu, Tử Y Hầu từ từ thốt:
- Cuộc cờ này, chung quy cũng vô dụng, vô dụng về cái chỗ ta nghiệm giải thế kiếm tân kỳ của người áo trắng, nhưng hữu dụng về cái chỗ ta phát giác ra ngươi có ký ức phi thường. Ta lấy làm lạ, con người của ngươi, tại sao lại không tiếng tăm chi cả? Ta nhận thấy ngươi cũng là một tay tài tình kia mà.
Lão lấy trong mình ra một chiếc chìa khóa, có hình dáng kỳ dị, rồi trầm giọng tiếp:
- Trong thơ phòng của ta, có một trăm chín mươi ba quyển sách ghi chép đủ kỳ công tuyệt học của tất cả các môn phái trên giang hồ, chi có chiếc chìa khóa này mới mở được cửa thơ phòng đó, ta trao cho ngươi.
-
Hồ Bất Sầu kinh hãi, ấp úng:
- Vãn...Vãn bối...làm sao dám nhận nổi.
Tử Y Hầu cứ tiếp:
- Chiếc chìa khóa này, thiên hạ võ lâm dù nằm mộng cũng chẳng thấy về tay. Hiện tại ta truyền lại cho ngươi, bởi ta nghĩ rằng, chỉ có ngươi mới ghi nhớ được tất cả những kỳ công tuyệt kỹ trong một trăm chín mươi ba quyển sách đó vào ký ức!
Hồ Bất Sầu lại mừng, mặc dù y còn sợ hãi. Vừa mừng vừa sợ y chẳng biết nói như thế nào cho hợp tình hợp cảnh, chỉ còn có cách là mọp mình sát sàn thuyền đầu vập xuống, hai tay đưa lên tiếp nhận chìa khóa.
Chiếc chìa khóa trọng lượng có là bao, song Hồ Bất Sầu nghe nặng như hòn núi Thái Sơn.
Tử Y Hầu ngẩng mặt nhìn lên không, thở dài mấy tiếng, rồi thốt với giọng trầm buồn:
- Tuy nhiên, dù người có học tất cả các kiếm pháp trong thiên hạ ngươi cũng không phải là đối thủ của người áo trắng!
Phương Bửu Nhi cất cao giọng chen vào:
- Nếu chẳng có ai là đối thủ của người áo trắng, thì tôi tình nguyện làm cái việc đó. Bảy năm sau tôi nhất định sẽ đánh bại y.
Tử Y Hầu thoáng lộ vẻ kinh dị, song chỉ trong một thoáng thôi lão lấy lại bình tĩnh, hỏi:
- Ngươi? Ngươi dám làm cái việc đó? Ngươi có biết võ công chăng?
Phương Bửu Nhi lấc đầu:
- Tôi chưa học!
Tử Y Hầu chớp chớp mắt:
- Không học võ công, thì làm sao đối phó nổi ngươi áo trắng mà tình nguyện làm?
Phương Bửu Nhi ưỡn ngực một chút:
- Tôi tuy không biết võ công, tuy tôi không thích học võ công, song cái việc đó chẳng có ai làm được, thì tôi làm được. Nhất định là tôi sẽ làm được!
Hắn nói với vẻ cương quyết. Mặt hắn thì còn non choẹt, song thần tình nghiêm trọng như bậc lão thành, hắn thêm một câu:
- Vào địa ngục, ai cũng sợ. Nếu tất cả đều sợ thì ai vào địa ngục?
Cho nên tôi phải vào, và chỉ có mình tôi dám vào mà thôi.
Mới ngần tuổi đó, hắn đã tỏ ra khí độ hơn người, dám xá kỷ vị tha, dám trọng đạo nghĩa khinh sinh mạng, thì còn ai có thể xem thường hắn được?
Tử Y Hầu nhìn hắn một lúc lâu, từ từ hỏi:
- Hàng ngàn, hàng vạn hào kiệt anh hùng trong thiên hạ võ lâm, không ai làm nổi việc đó, ngươi bằng vào đâu mà cho rằng mình làm nổi?
Phương Bửu Nhi cao giọng:
- Thành tâm, tinh ý thì dù là sắt, là đá mình cũng có thể khắc chế như thường, huống chi người áo trắng, vẫn là con người bằng xương bằng thịt, có phải là sắt là đá đâu. Tại sao tôi không khắc chế được hắn? Tôi bằng vào tâm thành, ý tinh thôi, Hầu gia ạ!
Ánh mắt hơi nghiêm, nhưng giọng nói hòa dịu, Tử Y Hầu hỏi:
- Còn nhỏ tuổi sao ngươi học cái lối ăn nói ngông cuồng, không sợ mang tiếng khoác lác sao?
Không rõ với dụng ý gì, lão khoát nhẹ bàn tay về phía Phương Bửu Nhi. Tuy lão thọ trọng thưởng nhưng chưởng lực đó thừa phát huy kình phong đẩy Phương Bửu Nhi nhào ngược về phía hậu.
Mọi ngươi thấy vậy, đều biến sắc mặt, vừa sợ hãi, vừa thương hắn vô duyên vô cớ bị đánh.
Họ có cảm tình ít nhiều với hắn, họ còn thương hại hắn. Nhưng trái lại người có liên quan mật thiết với hắn là Hồ Bất Sầu dửng dừng như thường, chừng như y có vẻ mừng rỡ là khác!
Thủy Thiên Cơ thoạt đầu cũng biến sắc mặt, cũng sợ hãi như mọi người. Song sau đó thấy Hồ Bất Sầu hân hoan, nàng đổi thần sắc ngay, hân hoan như y.
Phương Bửu Nhi ngã xuống sàn thuyền, lăn một vòng, mặt không đổi sắc, Tử Y Hầu nhìn hắn, lạnh lùng hỏi:
- Tạ..Ta đánh ngươi, ngươi không oán hận?
Phương Bửu Nhi điềm nhiên:
- Có ai bị kẻ khác làm nhục mà không oán hận bao giờ?
Tử Y Hầu tiếp lời:
- Như vậy có nghĩa là ngươi muốn trả lại một chưởng, nhưng chẳng dám làm?
Phương Bửu Nhi vẫn điềm nhiên:
- Không phải tôi chẳng dám làm, cũng chẳng phải không nỡ làm.
Chỉ vì Hầu gia là bậc cao niên kỷ trượng, thiên hạ đều xem là vị đại anh hùng, tôi có ý tôn kính ba phần. Thêm vào đó, hiện lại Hầu gia đang bị thọ thương nặng, tôi nhượng hai phần, cộng tất cả là năm phần nhượng, vì năm phần đó tôi không đánh lại Hầu gia mặc dù tôi rất oán hận.
Hắn buông từng tiếng một rõ ràng, mặt chẳng lộ vẻ sợ hãi. Ai ai cũng nhìn hắn trân trân, gần như xuất thần. Họ từng theo Hầu gia bao nhiêu năm dài, từng thấy nhiều người tiếp xúc với Hầu gia nhưng chưa hề thấy một ai đối thoại với Hầu gia mà giữ được thần sắc như vậy.
Tử Y Hầu trầm gương mặt, thốt:
- Bất quá, ngươi nói thế là để trang sức sự không dám của ngươi thôi!
Phương Bửu Nhi mỉm cười:
- Tùy Hầu gia muốn hiểu thế nào cũng được Có điều là tôi bao giờ cũng nghĩ mình phải đánh trả một chưởng.
Hắn dừng lại một chút rồi tiếp:
- Hầu gia đánh lôi, vẻ mặt Hầu gia thì hung ác thật, nhưng ánh mắt Hầu Gia thì rất hiền. Do đó, tôi hiểu Hầu gia không thực tâm đánh tôi, bất quá chỉ đánh thử mà thôi, với cái dụng ý nào đó! Đã biết người ta đánh thử mình, thì còn oán hận làm sao? Còn tưởng đánh lại làm sao?
Tử Y Hầu nhìn sững Phương Bửu Ngọc một lúc, sau cùng bật cười lớn, dù hiện tại lão không nên cười lớn, hao phí chân khí:
- Tiểu tử khá lắm!.... Khá lắm!
Bất ngờ lão cười lớn, thương thế bị chấn động, lão ho mấy tiếng, khi dứt tiếng ho, lão tiếp:
- Biết phân biệt thị phi, tránh vọng động, đúng là một kẻ trí. Cái ý có tôn nhượng hợp tình, hợp lý, đúng là kẻ nhân! Gặp nguy không sợ hãi, khảng khái đương đầu với nguy hại, đúng là một kẻ dũng? Một tiểu tử gồm trí, nhân dũng kể ra chỉ có một người, bình sinh ta chỉ gặp một người.
Phương Bửu Nhi thầm nghĩ:
- Ông ta thì quanh năm suốt tháng phải bồng bềnh trên mặt biển, còn biết gì đến người trên đất liền, mà nói rằng gặp với không gặp?
Bị trách mắng hắn luôn ưỡn ngực chống đối. Nhưng khi có ai khen ngợi, hắn lại lúng lúng, chẳng thốt nên lời hắn lại còn thẹn đỏ mặt!
Thủy Thiên Cơ thấy hắn như vậy, thầm nghĩ:
- Không ngờ hắn nhỏ tuổi như thế lại có tính trầm tĩnh phi thường.
Vừa rồi ta thấy Tử Y Hầu đánh hắn, chỉ tưởng là Hầu gia không hài lòng về việc gì đó...
Nàng nhìn sang Hồ Bất Sầu, y đã hướng mắt về hướng khác. Nàng mắng thầm:
- Cái tên to đầu này cũng đáng ghét thật. Ta cứ tưởng to đầu thư hắn là đần độn, không ngờ hắn lại gian hoạt, biết rõ Tử Y Hầu không thực tâm đánh tiểu tử, hắn chẳng phát tác.
Về phần Hồ Bất Sầu, tránh cái nhìn của Thủy Thiên Cơ, y thừa hiểu là Thủy Thiên Cơ đang thán phục y, do đó y càng lộ vẻ tự đắc, càng tự đắc, Thủy Thiên Cơ càng ghét y hơn. Nàng lại mắng dĩ nhiên là mắng thầm:
- Tên to đầu đáng chết!
Lâu lắm, tại đại sảnh, mỗi người đều có ý tưởng riêng biệt, tất cả theo ý tưởng cửa mình mà suy nghiệm về những điểm diễn tiến vừa qua, những diễn tiến sắp tới, cục trường im lặng nặng nề.
Bỗng Tử Y Hầu cất tiếng:
- Thiên hạ giang hồ thấy ta cứ phiêu bạt trên sóng trùng dương năm này qua năm khác đều tưởng ta chán hồng trần. Thực ra trong gió bụi trần gian còn có rất nhiều điều gây niềm lưu luyến với ta. Sở dĩ ta lấy trùng dương làm đất dung thân, là vì năm xưa ta thất bại dưới lưỡi kiếm một người. Sau lần thảm bại đó, ta phát nguyện không bao giờ đặt chân lên đất liền nữa!
Mọi người nghe lão nói thế, đều lộ vẻ mừng. Nếu có một người thắng nổi Tử Y Hầu, tất nhiên người đó có nhiều hy vọng thắng luôn người áo trắng. Thắng được người áo trắng là gián tiếp rửa được cái nhục bại của Tử Y Hầu hôm nay. Bất cứ nhân vật nào trong võ lâm hiện tại, thắng được người áo trắng là rửa được cái nhục cho Tử Y Hầu miễn là người đó là một hào kiệt Trung Nguyên. Còn người áo trắng thì dù sao cũng chỉ là một kẻ hải ngoại.
Tử Y Hầu tiếp nối:
- Người thắng ta, là sư huynh của ta, người đời cứ cho ta có kiếm pháp vô song, nhưng thực ra, sư huynh ta mới đúng là đệ nhất kiếm thủ!
Hồ Bất Sầu vốn ít nói, nghe đến đây không dằn được hiếu kỳ, buột miệng thốt:
- Vãn bối dù kiến thức chẳng bằng ai, song cũng chẳng đến nỗi quá sai lầm khi nhận xét rằng kiếm thuật của Hầu gia là vô địch trên đời.
Người áo trắng bất quá chỉ bằng vào nội lực mà thôi. Hắn đang lúc khí huyết phương cương, dĩ nhiên chân khí phải dồi dào, chứ tài nghệ của hắn vị tất vượt nổi Hầu gia?
Tử Y Hầu thớ dài:
- Ta am tường kiếm pháp của tất cả các môn phải trên giang hồ.
Phàm những chiêu bí kỹ của bất cứ kiếm pháp nào ta đều nghiên cứu đến mức tinh vi. Nhưng, thực sự mà nói, sư huynh ta còn trên ta một bậc!
Hồ Bất Sầu trố mắt:
- Dám hỏi Hầu gia, chẳng hay vị sư huynh của Hầu gia làm thế nào mà thắng được khi mà Hầu gia đã am tường tất cả các kiếm pháp?
Tử Y Hầu cười khổ:
- Sư huynh ta cũng như ta, am tường tất cả các kiếm pháp. Nhưng hơn ta ở chỗ là sau đó lại có thể quên mất. Còn ta cố quên cách nào cũng chẳng được. Những chiêu thức một khi đã khắc sâu vào ký ức rồi, thì chẳng phai mờ dấu vết, tay vừa cầm kiếm là chiêu thức hiển hiện trước mắt rồi! Đó là cái kém của ta, cái kém do chỗ nhớ dai.
Không ai hiểu đạo lý ẩn trong câu nói của Tử Y Hầu. Tại sao một con người quên mất đi những chiêu thức, mà lại có thế thắng nổi một người nhớ dai, nhớ giỏi?
Hồ Bất Sầu ngây người một lúc, nhưng rồi sau cùng y bật cười, chừng như đã lãnh hội được cái đạo lý diệu huyền qua câu nói của Hầu gia.
Cố mà nhớ việc gì, thoạt đầu thì quên, học mãi, nhìn mãi, nghe mãi cũng nhớ được. Bất quá chỉ là vấn đề thời gian, tùy theo mức độ thông minh thôi, chứ thật ra chẳng phải việc khó khăn gì. Song khi đã khắc ghi một sự việc gì trong tâm não rồi, rất khó mà quên được bởi chẳng thể xoá mờ dấu vết, nên bao người chết đi vẫn mang xuống diêm đài những vết thương lòng.
Chẳng qua, có nhiều sự việc mình không tưởng đến, không nhắc đến, mình lại ngỡ rằng đã quên mất nó rồi. Nhưng khi có một sự kiện phát sanh, làm sống động ký ức, cái dấu vết mà mình nghĩ là đã phai mờ theo thời gian, vụt hiện diện lên. Đến lúc đó mình mới nhận thức ra là chưa quên hẳn những gì trong dĩ vãng.
Cũng có những sự việc, ngày thì mình như quên mất, song đêm lại trở về trong mộng, rồi gặp mãi trong mộng thành ra ám ảnh.
Nếu quên dĩ vãng dễ dàng thì trên thế gian này không còn ai đau khổ. Nhưng tại sao quên được những kiếm pháp mà mình đã học, lại thắng được những người mãi mãi nhớ kỹ, chẳng sót một chiêu thức nào?
Tử Y Hầu từ từ giải thích:
- Sau khi quên được những kiếm pháp đã lãnh hội, sư huynh ta giác ngộ. Điều mà người giác ngộ, là kiếm ý, đem tất cả tâm thần vào kiếm thuật, dùng cái ý điều khiển thanh kiếm, chứ chẳng cần theo chiêu thức nào nữa cả. Dùng ý thì đường kiếm được tự do, hoà nhập phát huy trọn vẹn theo cái ý, còn bằng chiêu thức thì phải thi triển theo môn quy, giác độ gò bó hơn, hẹp hòi hơn. Học kiếm thuật, đạt đến mức độ dùng cái ý mà sử dụng kiếm là kỳ cùng rồi, là siêu thượng. Trên thế gian này, không thể có một nhân vật nào đánh bại nổi. Trong võ học, thuật đó có tên là Nô Kiếm. Tuy không xuất phát đường kiếm theo chiêu thức cố định nào. Muốn biến hóa chiêu thức đó như thế nào cũng được.
Những đường kiếm phát xuất có thể gọi là chiêu thức, mà cũng có thể cho là chẳng phải chiêu thức, bởi sự biến hóa tùy tâm tùy ý, chẳng cần áp dụng môn qui, giác độ. Các ngươi thấy đó, kiếm pháp còn nằm trong khuôn khổ, chứ luyện tập được Nô Kiếm thuật rồi, là thi triển tự nhiên, nhờ vậy mà sự biến ảo linh diệu phi thường. Và cái đạo lý mà ta muốn nói đến là còn nhớ chiêu thức là chưa thoát khỏi khuôn viên kiếm pháp.
Muốn dạt được cái thuật Nô Kiếm, phải thoát khỏi khuôn viên đó. Phải quên tất cả các chiếu thức. Sư huynh hơn ta, nhờ người quên được còn ta kém vì ta cứ nhớ mãi! Nói một cách khác, sư huynh ta đã bước qua giai đoạn siêu nhiên, còn ta thì cứ lục đục trong vòng hình thức.
Tất cả mọi người đều thừ ra như tượng gỗ đá. Thoạt đầu, họ chưa thức ngộ kịp, dần dần họ mới thấu triệt được lẽ nhiệm màu. Và họ nhận ra sở đắc của họ từ bao lâu nay, bất quá chỉ là hạt cát trong sa mạc. Và họ nhận thấy rất vô lý, rất hổ thẹn nếu hãnh diện với sở đắc đó. Con đường họ đã đi qua, bất quá chỉ là một khoảng cách nhỏ mọn từ khởi điểm muốn đạt đến mức thành tựu cao minh, họ còn phải vượt qua vô số dặm dài...
Hồ Bất Sầu thở dài mãi, muốn nói lên một câu, nhưng chẳng biết nói gì.
Đột nhiên, Phương Bửu Nhi cao giọng:
- Những bậc kiếm tiên ngày xưa từng nói, thân và kiếm hợp nhất, có lẽ vô cùng tương đương với thuật Nô Kiếm như Hầu gia vừa giải thích đó thôi!
Hắn thốt với niềm phấn khởi bừng bừng. Chừng như hắn còn thức ngộ cái đạo lý Tử Y Hầu đã nêu lên, trên Hồ Bất Sầu một bậc.
Tử Y Hầu gật đầu:
- Ngươi nói đúng. Ta không ngờ ngươi chưa được bao nhiêu tuổi, lại biết rất nhiều điều hữu ích như vậy! Luyện được thuật Nô Kiếm rồi, là Thân Kiếm hợp Nhất, rồi từ đó mà nếu luyện mãi sẽ đạt đến mức độ Phóng Kiếm lấy đầu người ngoài ngàn dặm...
Phương Bửu Nhi chớp mắt:
- Hầu gia có vị sư huynh cao minh như vậy sao chẳng thỉnh người đến đây, đối phó với kiếm khách áo trắng?
Tử Y Hầu thở dài:
- Sư huynh của ta, thích thanh tịch, vô vi không hề muốn tranh chấp với người đời. Mấy mươi năm trước, ta đã nghĩ ra nhiều phương pháp, bức người cùng ta giao đấu một trận. Người từ chối mãi. Cuối cùng, không nỡ làm cho ta thất vọng, người chấp nhận. Nếu người dùng tận sở học, chắc ta phải thảm bại. Nhưng thương ta là một sư đệ, bất quá vì hiếu thắng mà có cuộc so tài nên người nhường ta. Ta nào có biết được điều đó, trong khi sư huynh nhân nhượng, thì ta dốc tận lực bình sinh để thủ thắng. Bởi không ngờ ta có tâm địa nhỏ nhoi đó, sư huynh đã bị ta đánh trọng thương...
Gương mặt Tử Y Hầu thảm đạm vô cùng, trong ánh mắt ngời lên niềm hối hận.
Hồ Bất Sầu thở ra hỏi:
- Rồi sau đó sự tình như thể nào nữa, Hầu gia?
Tử Y Hầu tiếp:
- Sư huynh mang thương thế mà đi, dọc đường, chẳng may gặp một kẻ thù. Đấy là kẻ thù duy nhất. Bình sinh sư huynh ta không can thiệp vào việc giang hồ, vậy mà vẫn có kẻ thù. Điều đó hẳn có nguyên nhân mà ta không tiện nói ra. Sư huynh đã mất quá nhiều công lực đo thương thế gây ra, song vẫn cố gắng đánh bại người đó, nhưng lại bị đồng bọn của người đó ám toán, làm cho sư huynh trúng độc. Sư huynh thừa phương pháp giải độc cho mình song chỉ bảo toàn sánh mạng thôi, võ công bị hủy diệt trọn vẹn, quán thông kiếm thuật, nhưng công lực tiêu tan hết rồi, còn thi thố vào đâu được nữa?
Sự việc do Tử Y Hầu vừa kể chằng có gì đặc biệt trên giang hồ, thời đại nào không có xảy ra? Nhưng ở đây nó có chỗ đáng suy ngẫm là người sư huynh của Tử Y Hầu trở thành vô dụng thì hy vọng người xuất hiện đối phó với kiếm khách áo trắng không còn nữa. Và lại chính Tử Y Hầu gây ra hậu quả đó.
Tiểu Công chúa đột nhiên hỏi:
- Có phải chính là vị bá bá dạy con cắm hoa chăng hở gia gia?
Tử Y Hầu gật đầu:
- Phải đó. Gia gia đã gây hậu quả cho đại bá bá con như vậy, mà người chẳng hề oán hận gia gia, thỉnh thoảng, đến thăm gia giạ..
Tử Y Hầu dừng lại một chút rồi tiếp:
- Đại bá bá thấy con thông minh, có ý đem Vô Song Kiếm Thuật truyền lại cho con, nên trước hết dạy con phương pháp cắm hoa. Con phải biết, kiếm đạo, cũng như thơ đạo, hoa. đạo, kỳ đạo, người trong họ ta, đều nổi tiếng là vô địch. Thế hệ nào cũng sản xuất bậc kỳ tài. Gần đây gia gia có nghe đồn tại một hòn đảo ngoài biển Đông, có kẻ nghiên cứu những đạo đó, nhưng gia gia không tin là kẻ đó đã nghiên cứu đến mức tinh vi như người trong họ mình...
Lão dừng lại một lúc lâu đoạn tiếp nối:
- Sau ngày võ công bị hủy diệt, đại bá bá con dành thì giờ nghiên cứu tận tường hoa đạo, kỳ đạo, kiếm đạo. Người thức ngộ chỗ tinh diệu của các đạo đó và nhận thấy rõ chỗ tương đồng giữa nhau, cho nên người mượn hoa đạo để dễ điểm khai kiếm đạo nơi con. Ngờ đâu con thông minh mà cũng thừa hiếu thắng và quật cường. Mà kiếm đạo lại tối kỵ hiếu thắng, quật cường, cho nên đại bá bá con thất vọng bỏ đi!
Tiểu công chúa uất người lên. Phàm những kẻ hiếu thắng quật cường có ai chẳng tức uất khi bị thiên hạ chê bai?
Nàng trầm giọng hơn:
- Nếu con không học được, thì trên thế gian này còn ai học được.
Hở gia gia?
Tử Y Hầu mỉm cười, không đáp, hướng mắt sang Phương Bửu Nhị..
Tiểu công chúa trừng mắt, hỏi tiếp:
- Hắn?...
Tử Y Hầu gật đầu:
- Chính hắn!
Tiểu công chúa hừ một tiếng:
- Hắn làm gì học nổi?
Tử Y Hầu hỏi lại:
- Con tự cho là mình thông minh hơn hắn?
Tiểu công chúa cười lạnh:
- Dĩ nhiên rồi! Hắn là hạng người gì mà lại thông minh hơn con?
Tử Y Hầu cười nhẹ:
- Con có biết thế nào là tiểu thông minh và thế nào là đại trí tuệ chăng?
Tiểu công chúa đáp nhanh:
- Biết chứ!....
Tử Y Hầu gật đầu:
- Vậy càng hay! Con hãy giải thích cho mọi người nghe xem!
Tiểu công chúa thốt:
- Thông minh là... là... ạ.. ạ.. khó nói quá gia gia, gia gia làm khó con, việc ấy hiểu thì được chứ làm sao giải thích?...
Tử Y Hầu mỉm cười:
- Phải? Hiểu thì ai cũng hiểu, nhưng chẳng ai giải thích nổi, gia gia cũng biết vậy, song, gia gia nói như thế này, con nghe đây:
Tiểu thông minh là con đó, còn đại trí tuệ, là hắn!
Tiểu công chúa sững sờ, chừng như nàng không tưởng là suốt đời nàng chẳng có ai dám nói câu đó với nàng! Nàng lại kém một người?
Mà người đó không hơn nàng bao nhiêu tuổi?
Đội nhiên nàng kêu lên:
- Được rồi! Ngươi hơn ta! Ngươi đừng tự đắc, có một ngày nào đó, ta sẽ cho ngươi biết là ta trên ngươi mấy bậc!
-
Nàng vừa kêu lên, vừa nhìn Phương Bửu Nhi, vừa dậm chân thình thịch xuống sàn thuyền, rồi nàng quay nhanh mình, bước đi, đôi vai nàng rung mạnh, nhưng nàng không bật thành tiếng...
Phương Bửu Nhi nhìn theo nàng, lẩm nhẩm:
- Khóc? Tại sao khóc? Ai hơn ai, rồi sao chớ?
Hắn toan bước theo nàng, có lẽ để an ủi nàng, song Tử Y Hầu khoát tay:
- Để mặc nó, ngươi hãy đến gần ta đây!
Phương Bửu Nhi bước tới.
Tử Y Hầu đưa tay vuốt lên tóc hắn, ra vẻ âu yếm, lâu lắm lão mới cất giọng ôn tồn thốt:
- Đợi khi sự việc ở đây xong rồi, ngươi hãy đi tìm sư huynh ta, ngươi nghe ta nói chứ?
Phương Bửu Nhi gật đầu:
- Tôi nghe!
Tử Y Hầu đưa tay vào mình, lấy ra một bức cẩm nang rồi tiếp:
- Chiếc cẩm nang này do sư huynh ta để lại, trong đó có ghi rõ nơi ẩn cư của người. Trong mấy năm nay, không muốn cho ai biết rõ hành tung của mình, sư huynh ta dấu biệt chỗ ở, cho đến ta cũng chẳng tiết lộ. Người lưu lại bức cẩm nang này, dặn lại chỉ trong trường hợp bất khả kháng, mới được mở ra, rồi theo sự ghi chú, đến tìm người. Bây giờ ta trao cho ngươi, ngươi đã biết với dụng ý như thế nào rồi chứ?
Phương Bửu Nhi gật đầu:
- Tôi hiểu!
Tử Y Hầu tiếp:
- Tánh tình sư huynh ta rất cổ quái, hẳn trong bức cẩm nang này cớ ghi chú nhiều điều cổ quái cho nên ta chưa thể quả quyết là ngươi có thể tìm được người chăng!
Phương Bửu Nhi ngẩng cao đầu, cất cao giọng thốt:
- Việc gì tôi đã nói là làm, nhất định tôi sẽ làm được, phải làm cho được! Vô luận là vị tiền bối đó ở nơi nào, tôi cũng tìm tới tận nơi.
Tử Y Hầu trầm giọng:
- Nơi đó, rất có thể là chân trời, góc biển, là núi thẳm, rừng sâu, một nơi không từng in dấu chân người, một nơi có nhiều quái cầm, dị thú. Ngươi đã đơn độc, lại còn tuổi non, lại chẳng biết võ công, ngươi không thấy sợ hãi sao?
Phương Bửu Nhi giương tròn đôi mắt, dõng đạc tuyên bố:
- Đành rằng, trên đời phải có nhiều việc đáng cho con người ghê sợ, song tôi chẳng hề vì những việc đáng sợ đó rồi khiếp đảm rụt rè, rồi bỏ tránh, mà không dám thực hiện những điều cần làm, đáng làm!
Tử Y Hầu gật đầu mỉm cười:
- Ngươi quả có bản sắc anh hùng!
Phàm những con người không biết sợ sệt thường tự cho mình là anh hùng. Thật ra, những người đó chỉ là những kẻ ngu, những kẻ lỗ mãng:
Họ chỉ biết liều lĩnh, chứ không phải là họ có can đảm, những kẻ đó chẳng hề là anh hùng được!
Đoạn lão ngẩng mặt lên không, thở dài mấy lượt lại tiếp:
- Mọi việc kể như ta đã hoạch định đâu vào đấy rồi, thì lúc sống ta được nhàn hạ, lúc chết ta cũng được an tâm...
Đột nhiên lão quát to:
- Rượu! Đem rượu ra đây cho ta! Ta uống thật say, ta mang cái say đi chạm chân với loài quỷ sứ, cho chúng biết rằng trên dương gian, vẫn có những nam nhi không sợ chết, cho quỷ thần phải ngán mà cúi đầu trước những nam nhân đó!
Bọn thiếu nữ chạy đi tìm rượu, mang đến liền.
Tử Y Hầu tự châm, tự nâng, nốc cạn chén đầy, rồi rót đầy chén cạn, gương mặt trắng xanh chuyển sang màu hồng, chốc chốc lại lẩm nhẩm:
Một đời oanh liệt hùng anh, chung quy rồi cũng chẳng tránh được kết cuộc như thế này! Ý trời! Ý trời!....
Bỗng lão hừ một tiếng lớn, rồi bật cười ha hả, tự thốt:
- Trên đời ta từng giao đấu trăm trận, ngàn trận, ta gieo khiếp đảm khắp sông hồ, ta không thể sống mãi! Ta được chết do con người đó, nghĩ thật vinh hạnh, còn thán oán gì chứ? Ha ha! Ta là một tên ngốc!
Ha ha!....
Lão vừa cười vừa đứng lên, quay mình tiến bước về phía hậu, nơi có gian phòng tĩnh mịch của lão.
Thấy lão hơi chập choạng. Linh Nhi và Châu Nhi bước tới, định dìu lão, nhưng lão hét to:
- Ra đi, ta đứng, tự ta, ai mượn các ngươi dìu dắt?
Linh Nhi và Châu Nhi giật mình đứng lại tại chỗ.
Lão vẫn cười ha hả, đi thẳng về phòng. Cánh cửa phòng đóng lại mạnh, vang lên một tiếng “ầm”. Bên trong tiếng cười vẫn còn nghe rõ, nhưng càng phút càng nhỏ dần, một lúc lâu tắt hẳn.
Phương đông mờ sáng. Thái dương báo hiệu sắp sửa chu hàn trên vòm trời, ánh sáng mờ mờ dồn màn đêm dần dần thu dọn về tây, mặt biển vượng lên sinh khí với những cánh buồm ngư phủ ra khơi.
Tất cả mọi người trên thuyền như bị chôn chân tại chỗ, tâm tư, khí huyết cô đọng thành đá, thành băng...
Lâu lắm, Linh Nhi mới nhích chân từ từ bước đến mũi thuyền.
Nhìn lên bờ, nơi đó quần hùng vẫn còn đủ số, chưa ai quay gót trở lại quê nhà...
oo Quần hùng bất kể sương gió lạnh lùng, chực chờ, nơi biển mong sớm biết tin tức về Tử Y Hầu.
Linh Nhi với giọng trầm buồn, thốt vọng vào bờ:
- Hầu giạ..đã quy ...tiên...
Không ai bảo ai, hơn ngàn hào kiệt anh hùng có mặt tại bờ biển cùng quỳ xuống, cùng cúi đầu. Có giọng ca đâu đây, vang lên trong đám đông, lời ca thê thảm quá, tai oán kiếp người nặng chất buồn thương!
Giọng ca vang lên, theo gió chuyền tới, ai ai nghe lọt cũng phải sa lệ, nhưng chẳng ai nghĩ đến việc quay đầu nhìn xem kẻ nào khởi xướng!
Rồi một người vận áo lam lũ, đầu bù tóc rối, chân không, từ trong đám đông, bước dần tới ven biển.
Người đó chính là Vương Bán Hiệp! Lão đứng đó, nhìn ra khơi, đôi dòng lệ thi nhau tuôn dài theo má...
Chợt một bàn tay từ phía sau lão vươn tới nắm cánh tay lão bóp mạnh, cơ hồ dập xương...
Vương Bán Hiệp quay đầu nhìn lại, nhận ra Mộc Lang Quân.
Mộc Lang Quân hỏi:
- Lời hứa về món thuốc đó, ngươi có quên chăng?
Vương Bán Hiệp lắc đầu:
- Khi nào ta lại quên!
Mộc Lang Quân lạnh lùng:
- Vậy thì trao thuốc đây cho ta!
Vướng Bán Hiệp lại lắc đầu:
- Không có thuốc!
Mộc Lang Quân trừng mắt:
- Ngươi muốn nuốt lời?
Vương Bán Hiệp nhún vai:
- Tử Y Hầu đã chết, ngươi bảo ta hỏi ai mà lấy thuốc?
Mộc Lang Quân hừ một tiếng:
- Tử Y Hầu uỷ thác mọi việc cho Linh Nhi và Châu Nhi, ngươi cứ hỏi chúng mà lấy, nếu không thì...
Vương Bán Hiệp bĩu môi:
- Nếu không rồi làm sao? Ta hứa với ngươi là hỏi Tử Y Hầu mà lấy thuốc chứ có hứa là hỏi mấy nàng đó đâu? Bảo ta hỏi chúng là hỏi thế nào cơ chứ?
Mộc Lang Quân sững sờ một lúc, đoạn ấp úng:
- Nhưng...việc đó...
Vương Bán Hiệp lạnh lùng:
- Chẳng nhưng gì cả! Hầu gia chết, là ta vô phương! Ta không hứa là hỏi Linh Nhi hoặc Châu Nhi, tự nhiên chẳng khi nào ta hỏi hai nàng đó mà lấy thuốc!
Mộc Lang Quân tức uất có thể chết người được, đứng ngây ra đó.
oo Thuyền buồm ngũ sắc im lặng hoàn toàn, dù trên đó có đến mấy mươi người.
Tất cả các thiếu nữ đều khóc, nhưng khóc câm, khóc thầm, lệ tuôn trào mà chẳng một tiếng nức nở thở than...
Tử Nhiêm Long Thọ Thiên Tề quay lưng lại, đưa mắt nhìn ra biển, y cũng đổ lệ như bọn thiếu nữ. Y quay lưng lại là không muốn cho bọn thiếu nữ thấy y khóc. Tuy hướng mặt về bờ biển chẳng sợ quần hùng trông thấy dòng lệ của y, vì khoảng cách khá xa. Tiểu công chúa đã nhào lăn ra trước cửa phòng Tử Y Hầu gào lên:
- Gia gia! Gia gia đành bỏ con lại bơ vơ côi cút... gia gia ơi!
Phương Bửu Nhi gầm đầu, chẳng dám nhìn nàng, Thủy Thiên Cơ choàng tay qua vai hắn, tuy an ủi hắn nhưng lệ vẫn doanh tròng...
Bỗng có tiếng gọi oang oang, từ trên bờ vọng ra thuyền:
- Hồ Bất Sầu?...Hồ Bất Sầu...
Tiếng gọi lanh lảnh như oan hồn đòi thường mạng.
Thủy Thiên Cơ ngẩng mặt hỏi:
- Ai?
Hồ Bất Sầu điềm nhiên:
- Ngươi đã biết là ai rồi, còn hỏi làm gì nữa?
Thủy Thiên Cơ trố mắt:
- Mộc Lang Quân gọi ngươi để làm gì?
Hồ Bất Sầu lạnh lùng:
- Nhắc lời giao ước giữa ta và lão!
Thủy Thiên Cơ hỏi:
- Giao ước làm sao?
Hồ Bất Sầu thản nhiên:
- Dùng độc dược lấy mạng ngươi!
Thủy Thiên Cơ giật mình.
Trên bờ, Mộc Lạng Quân thốt vọng ra:
- Đêm nay đúng giờ tý?...
Hồ Bất Sầu giải thích:
- Lão giục ta đêm nay đúng giờ tý hạ độc sát ngươi!
Thủy Thiên Cơ phụt phì cười:
- Ngươi hãm hại được ta?
Hồ Bất Sầu rùn vai:
- Khó khăn gì chứ? Nhất là khi ngươi chẳng phòng bị?
Thủy Thiên Cơ cười rợn:
- Nhưng hiện tại ta sẽ phòng bị, ngươi hạ thủ thế nào được? Chắc ta phải hạ ngươi trước, cho khỏi phải lo ngại ngươi hại ta.
Hồ Bất Sầu gật đầu:
- Đúng! Tiên hạ thủ vi cường! Nếu sợ bị giết, thà giết người trước là hay nhất!
Cả hai lườm nhau, không rõ cả hai đang nghĩ gì. Trời chưa sáng, bỗng có trận mưa, mưa lúc đầu nhỏ hạt, dần dần to, dần dần rơi gắt.
Quần hùng vẫn quỳ tại bờ biển chưa ai nghĩ đến việc rời đị..
Thuyền buồm ngũ sắc, còn Tử Y Hầu, vẫn tượng trưng một uy quyền vô định. Tử Y Hầu chết rồi, quyền uy đó vẫn còn, có lẽ sum nghiêm hơn, đủ biết sự sùng kính của hào kiệt anh hùng đối với Hầu gia cao đến mức độ kỳ công!
Nhìn thấy thái độ của Thủy Thiên Cơ và Hồ Bất Sầu, Phương Bửu Nhi không khỏi lo ngại.
Linh Nhi hỏi hắn:
- Ngươi thấy sao mà lo ngại như vậy?
Phương Bửu Nhi thở dài:
- Trong thần tình của ho.....
Linh Nhi xì một tiếng:
- Rồi ngươi sợ họ hạ thủ với nhau? Yên trí đi, thật sự Hồ Bất Sầu muốn hạ độc có khi nào y tiết lộ cho Thủy Thiên Cơ biết? Đã nói ra là chẳng làm, nếu nhất định làm là chẳng bao giờ nói ra!
Phương Bửu Nhi vẫn lắc đầu, thở dài:
- Đạo lý là đơn giản như vậy dó, nhưng nếu bất cứ ai khác thì cái đạo lý đó mới vững chứ Hồ đại thúc ta và Thủy Thiên Cơ, họ là những quái nhân, họ có thể hành động quái di.....
Bỗng bên ngoài thuyền, từ dưới mặt biến có tiếng gọi oang oang vọng vào:
- Lạc Dương Bành Thanh có việc khẩn yếu muốn trình bày!
Linh Nhi đưa tay áo lau khô ngấn lệ còn vương đọng, bước ra ngoài.
- Việc gì thế?
Trích Tinh Thủ Bành Thanh đứng trước mũi thuyền con, vòng tay thốt:
- Tử Y Hầu đã quy tiên, phàm hào kiệt trên giang hồ chẳng ai không bi thương luyến tiếc. Hiện lại hơn ngàn người quy tụ nơi bờ biển, tâm thần của họ bất định. Nếu họp chung nhau lâu một chỗ, sợ sanh biến, cô nương hãy nghĩ cách nào...
Rồi y tiếp với giọng cung kính hơn:
- Tại hạ xuất ngôn vô lễ, xin cô nương đừng chấp!
Linh Nhi thở dài:
- Biết ơn các hạ không hết, tôi đâu dám chấp gì? Nhưng thiên hạ anh hừng có thịnh tình như vậy, tôi làm sao giải tán họ được?
Bành Thanh trầm giọng:
- Thuyền buồm ngũ sắc còn đây là họ còn ở nơi bờ biển. Thuyền rời đi nơi khác, họ giải tán ngay, ý ngu của tại hạ như thế cô nương nghĩ sao?
Linh Nhi trầm giọng một lúc:
- Ý kiến đó rất hay!
Bành Thanh tiếp:
- Cách đây không xa, về hướng bắc có một cái vịnh, khá an tịnh có thể tránh sóng gió...
Linh Nhi gật đầu:
- Từ lâu nghe danh Lạc Dương Bành Thanh là bậc hào hiệp, bây giờ có dịp biết được chân giá trị của bậc đại anh hùng. Tôi vô cùng cảm kích.
Bành Thanh nghiêng mình:
- Cô nương khen quá đáng!
Y khoát một vòng tay chiếc thuyền con quay mũi hướng vào bờ.
Vương Bán Hiệp còn đứng nơi bờ biển, Bành Thanh không để ý đến lão, chỉ trừng mắt nhìn Mộc Lang Quân gằn giọng:
- Ngươi chưa buông tay sao?
Mộc Lang Quân trừng mắt nhìn lại y, đoạn buông tay, rồi quay sang Vương Bán Hiệp:
- Chẳng phải ta sợ ngươi, chỉ vì ta đuối lý, ta chẳng còn vịn vào đâu bức bách ngươi được nữa!
Vương Bán Hiệp bĩu môi:
- Ta cứ tưởng ngươi là kẻ bại hoại hoàn toàn, không ngờ người cũng biết đạo lý!
Mộc Lang Quân hừ luôn mấy tiếng.
Vương Bán Hiệp nhìn lão một lúc, đoạn buông gọn:
- Đừng nuôi mộng nhé!
Rồi lại tiếp:
- Tử Y Hầu tuy đã chết, bọn thiếu nữ trên thuyền vẫn thừa sức trừng trị ngươi, nếu giờ tý đêm nay ngươi vọng động!
Mộc Lang Quân quát:
- Im cái miệng thối của ngươi lại!
Thốt xong, Mộc Lang Quân vọt đi liền, không thèm nhìn Vương Bán Hiệp nửa mắt.
Nhìn theo bóng Mộc Lang Quân, Vương Bán Hiệp lắc đầu. Vừa lúc đó, có mấy đệ tử Cái Bang từ sau lưng lão bước tới, thần sắc hoảng hốt.
Một trong bọn đó bước tới, nghiêng mình thốt:
- Bang chủ gặp nạn, đêm quạ..
Giọng hắn thấp xuống, nhỏ quá không ai nghe hắn nói gì sau đó.
Vương Bán Hiệp nghe hắn thì thầm, biến sắc mặt nhìn chiếc thuyền buồm ngũ sắc. Lâu lắm lão dậm chân rồi chẳng nói năng gì quay mình bước theo bọn Cái Bang đệ tử...
Lão đi rồi, thuyền buồm ngũ sắc cũng kéo neo, trỏ mũi về hướng bắc.
Đứng trên bờ, cách quần hùng khá xa, Mộc Lang Quân nhìn theo thuyền, gằn giọng:
- Đi đâu? Có chắc khỏi tay ta chăng?
-
Hồi 09
Thần Đi, Quỷ Hiện
Đúng như sự dự đoán của Bành Thanh, sau khi chiếc thuyền buồm ngũ sắc kéo neo, quần hùng trên bờ lần lượt giải tán.
Đến lúc màn đêm phủ trùm vạn vật, thì người cuối cùng cũng đã rời đi.
Từ bờ biển ngược về hướng bắc, độ hơn mười hải lý có một cái vịnh, thì trời còn mưa rỉ rả, hạt không nặng nhưng rơi dai dẳng, tạo thành một bức màn đục trắng, tạo nên một cảnh tượng thê lương. Thêm vào đó có tiếng gió gào, sóng xô, khung trời ảm đạm tiêu điều...
Con thuyền to lớn như tòa dinh thự, chỉ có mỗi một ngọn đèn, gió thổi chao chao, ánh sáng chập chờn, tạo nên hình ma bóng quỷ âm u rùng rợn kỳ càng...
Mưa không ngừng rơi, gió không ngừng thổi, mưa nhỏ, gió nhẹ, đùa mặt nước gợn sóng nhấp nhô. Lạnh từ gió mang về, lạnh từ mưa đổ xuống, mà lạnh cũng từ lòng người tỏ ra. Người và vật đều lạnh.
Trên bờ vịnh, cành lá xạc xào như oan hồn rên khóc. Tưởng trên thế gian này, dù cho ai ngông cuồng đến đâu cũng chẳng dạo chân trong khung cảnh đó.
Vậy mà có một bóng người. Bóng đó xuất hiện nơi cội cây đứng lặng nhìn con thuyền buồm ngũ sắc, lâu lắm mới nói khẽ qua hai hàm răng, giọng căm hờn tột độ.
- Đi! Ngươi đi thoát ta được chăng? Hừ! Ngươi nên tỉnh mộng là vừa!
Người đó chính là Mộc Lang Quân, dù Vương Bán Hiệp đã cảnh cáo, lão vẫn theo dõi con thuyền. Đã theo dõi, tức nhiên lão phải lên thuyền, thực hiện điều toan tính!
Hiện tại, lão vận y phục đen chẹt bó sát mình. Y phục chẹt làm bật nổi thân vóc gầy cao của lão.
Một lúc sau lão rời cội cây, đi trong mưa đến sát bờ biển, rồi đột nhiên phóng mình xuống nước.
Thân pháp vừa nhanh, vừa nhẹ. Lão lại vận y phục đen, lão phóng đi, vẽ thành một vệt đen dài, trông như con hắc xà hạ thủy.
Bên ngoài biển, không một tiếng động nào trên thuyền buồm ngũ sắc. Mộc Lang Quân không còn mong mỏi gì nữa. Tất cả đều chìm trong im tịnh, thì lão hành động dễ dàng.
Phóng mình xuống nước, lạng theo hình vòng cung, ra một khoảng xa, lão trồi lên, bơi nhẹ nhàng đến cạnh thuyền. Theo dây neo lên, trong phút giây lão đã xuất hiện nơi sàn thuyền.
Thân pháp của lão hết sức khinh linh, trông chừng còn khinh linh hơn chiếc lá rụng. Người có thân pháp đó, chẳng thể nào làm kinh động những kẻ trên thuyền.
Nhưng nếu lão cẩn thận kỹ càng, thì trên thuyền cũng có người giữ cao cảnh giác. Nên khi lão vừa xuống sàn thuyền, thì từ bên dưới khoang có giọng nói vọng lên:
- Ngươi đã đến đấy à?
Tiếng hỏi rất khẽ, song vang rõ nơi thính giác của Mộc Lang Quân.
Dù lão nắm vững tự tin nơi lòng bàn tay, lão vẫn giật mình như thường.
Lão đảo mắt nhìn quanh, chẳng thấy một bóng người, lão càng kinh hãi hơn nữa.
Kinh hãi, chẳng phải khiếp nhược, bất quá lão nghĩ rằng hành tung đã bị lộ, thì mưu vọng khó thành, chứ Tử Y Hầu đã chết rồi, trên thuyền này còn có kẻ nào làm khó dễ lão nổi?
Lão không cần tìm kiếm lâu. Bên cạnh lão một mảnh ván từ bên dưới đưa cao lên, bày ra một lỗ hổng, một đầu người thò qua lỗ hổng đó.
Nhìn thấy cái đầu to, lão chẳng cần vận dụng nhãn lực trông rõ cũng biết chính là Hồ Bất Sầu.
Mộc Lang Quân thở phào, bước tới thấp giọng hỏi:
- Xong rồi?
Hồ Bất Sầu gật đầu:
- Theo ta đây!
Chiếc đầu to tụt xuống khỏi lỗ.
Mộc Lang Quân do dự mộc chút, rồi thì vận công đề tụ chân khí, giới bị kỹ càng đoạn chui xuống.
Khoang thuyền rất rộng, một ngọn đèn treo lơ lửng, hắt ánh sáng vàng mờ, không soi rõ các đồ vật. Nhưng Mộc Lang Quân cũng nhận ra nơi một góc, có kê chiếc giường con, trên giường có một thân thể người nằm dài vận áo trắng, tóc xõa thẳng xuống hai bên mép giường bay phất phợ..
Thân thể đó bất động.
Mộc lang Quân rùng mình mấy lượt, sau cũng cố thu can đảm, lướt tới nhìn mặt thi thể đó lão lộ vẻ hân hoan ra mặt.
Thì ra, chính là Thủy Thiên Cơ. Nàng nằm đó bất động và đã chết rồi, Hồ Bất Sầu đã giữ lời hứa.
Hồ Bất Sầu đứng cạnh Mộc Lang Quân lạnh lùng thốt:
- Nàng đã uống trọn gói thuốc của ngươi!
Mộc Lang Quân không đáp, lão chỉ Thủy Thiên Cơ cười gằn:
- Tiện tỳ! Cũng phải có ngày ngươi như thế này chứ!
Lão đưa bàn tay xương xẩu ra xòe đủ năm ngón, định bóp cổ Thủy Thiên Cơ.
Đã biết nàng chết rồi mà lão còn toan thực hiện ý định đó, đủ thấy lão oán hận nàng thâm độc vô lường.
Hồ Bất Sầu vội ngăn chận ão:
- Hãy khoan!
Mộc Lang Quân hừ một tiếng:
- Tại sao ngươi cản trở?
Hồ Bất sầu thản nhiên:
- Độc dược ngươi trao ta, ta đã cho nàng uống hết, uống trọn gói!
Mộc Lang Quân hừ một tiếng:
- Ta biết rồi!....
Hồ Bất Sầu tiếp:
- Từ nay ta không can dự gì đến việc của ngươi và nàng nữa!
Mộc Lang Quân bực dọc:
- Chứ ta có nói là ngươi còn can dự chi sao, lại phải lên tiếng?
Hồ Bất Sầu gật đầu:
- Vậy là dứt khoát! Ta đi đây!
Y quay mình bước những bước dài, rời khỏi nơi đó, lẫn vào bóng tối.
Mộc Lang Quân nhìn theo bóng Hồ Bất Sầu lắc đầu:
- Hắn điên!
Hai bàn tay xương xẩu đã rút về lại vươn tới mười ngón xòe đủ, to như hai chiếc quạt bồ, hai bàn tay áp hai bên cổ trắng nõn nà của Thủy Thiên Cơ.
Nhưng chiếc xác bất động trên giường, giờ lại nhích động. Cái xác vươn hai cánh tay lên rất nhanh, hai bàn tay chụp lấy cánh tay của Mộc Lang Quân đúng vào huyệt đạo.
Mộc Lang Quân giật mình, suýt nhảy dựng lên, muốn tránh cũng chẳng kịp nữa.
Hai tiếng rắc vang khẽ, hai đốt xương nơi đầu vai của lão gãy vụn.
Thủy Thiên Cơ sau khi chụp đúng huyệt đạo của lão, buông nhanh tay ra, đưa lên cao một chút, chụp vào đầu vai của lão bóp mạnh.
Làm xong việc đó, nàng bật cười hắc hắc:
- Bằng vào loại độc dược tầm thường của ngươi, ngươi hy vọng giết ta à? Nông cạn quá Mộc Lang Quân ạ! Cút! Cút ngay đi, đừng có để ta phát cáu lên là mất mạng với ta đấy!
Mộc Lang Quân vừa sợ, vừa hận, vừa giận, song còn biết làm sao hơn? Trong chớp nhoáng lão đắn đo, tự lượng sức mình, còn một tay chắc chắn là không thể nào địch lại Thủy Thiên Cơ, lão rú một tiếng quay nhanh người như chiếc pháo thăng thiên, vọt qua lỗ hổng trên sàn thuyền.
Tiếp theo đó, một tiếng ùm vang lên như có vật gì nặng rơi xuống nước, rồi không gian trở lại với gió thét, sóng gào...
oo Hồ Bất Sầu từ từ bước ra, miệng điểm một nụ cười:
- Trôi chảy chứ?
Thủy Thiên Cơ cười nhẹ:
- Ít nhấy lão ấy cũng bất động trong mấy tháng. Nhờ ngươi đấy!
Chủ ý của ngươi hay quá!
Hồ Bất Sầu chớp mắt:
- Tất cả đều...vì ngươi!....
Thủy Thiên Cơ nguýt dài:
- Ngươi đừng quên ta là vợ của cháu ngươi, một bà vợ sồn sồn của một cậu bé con! Thân phận là đại thúc, ngươi không nên nói những lời phi đạo nghĩa, không ai muốn nghe!
Cái nguýt của nàng vừa quét qua, đuôi mắt rất dài, nàng lại quét trở lại một lượt nữa, cũng dài không kém!
Hồ Bất Sầu thoáng đỏ mặt.
Thủy Thiên Cơ bật cười khanh khách:
- Thì ra ngươi cũng biết đỏ mặt! Ta cứ tưởng da mặt ngươi là một lớp thủy tinh, dày như bức tường thành, cứng rắn, vô cảm, vô giác!....
Hồ Bất Sầu dặng hắng mãi, chung quy chẳng thốt được một tiếng nào. Không thốt được mà cứ đứng đờ ra đó, thì trơ trẽn quá, y quay mình bước nhanh vào bóng tối.
Thủy Thiên Cơ nhìn theo y cười mãi, ngờ đâu trong lúc nàng đang ngặt nghẽo cười, một biến cố phát sanh...
Trong vùng trời đen như mực, hơn hai mươi bóng người vận y phục lội nước đồng thời màu đen, từ trên bờ nhảy ùm xuống biển lướt nhanh trên đầu sóng nhẹ nhàng, nhanh chóng phi thường.
Hơn hai mươi người dó, dùng khăn đen bao kín mặt, chỉ lộ đôi mắt sáng ngời, như hai điểm sao, lướt mình trên nước, đến chiếc thuyền buồm ngũ sắc dừng lại. Không cần đeo giây neo, bằng một động tác cực kỳ ngoạn mục họ uốn tròn người tung bổng lên không, đáp xuống sàn thuyền. Chân chạm sàn gỗ, nhẹ hơn chiếc lá rơi, không gây một tiếng động khẽ.
Tuy hơn hai mươi người cử động như bóng ma cũng có kẻ phát giác kịp thời, kẻ đó là Thủy Thiên Cơ, nàng mỉm cười.
Vừa lúc đó, bọn Linh Nhi, Châu Nhi và các thiếu nữ ủng hộ tiểu công chúa bước ra, cùng theo họ có cả Phương Bửu Nhi và Hồ Bất Sầu.
Bọn người của Tử Y Hầu lúc đó đã vận tang phục.
Phương Bọn Nhi vừa mở miệng hỏi:
- Mộc Lang Quân...
Thủy Thiên Cơ nhanh như chớp, vọt mình tới, chạm vào người hắn.
Cả ba ngã nhào xuống sàn, chưa ai kịp đứng lên, một ngọn gió từ bên ngoài quét ngang khung cửa sổ, rồi một tiếng bộp vang lên. Nơi một chiếc trụ, có mũi tên đuôi cá gắn lông chim điêu cắm sâu hơn năm tấc, đuôi lông còn rung rung.
Linh Nhi biến sắc kêu lên:
- Ai đây?
Bên ngoài có giọng cười âm trầm vang lên, rồi một giọng nói cũng ầrn trâm đáp câu hỏi của nàng:
- Nhị Thập Tứ Quái Đoạt Mạng Truy Hồn, giết người cũng chẳng cần lý do, nếu gặp kẻ biết điều, thì chẳng cần đòi mạng, mà chỉ đòi châu báu, bạc vàng!
Bình! Bình!
Hai cánh cửa mở tung ra, từ bên trong nhìn thấy rõ bên ngoài. Hơn hai mươi người vận y phục đen mặt bao kín khăn đen, ánh mắt chớp ngời, hiện rõ trong tầm mắt của bọn thiếu nữ.
Tiểu công chúa khuỳnh hai cánh tay chống nạnh, đứng thẳng người, trợn tròn mắt, lớn tiếng mắng:
- Bọn cường đạo nào, từ đâu đến, có biết đây là đâu chăng? To gan lắm, mới khinh thường mạng sống, dẫn xác lên thuyền phóng túng, tánh ngông cuồng!
Người cầm đầu nội bọn, bật cười hắc hắc:
- Các đại gia chúng ta chỉ cần châu báu, bạc vàng. Nơi nào có châu báu bạc vàng, là chúng ta đến, cần gì phải biết nơi đó là địa phương chi, nơi chi? Kẻ nào muốn sống hãy bước đến vách thuyền kia, đứng bất động, bất tuân thì cầm như quỷ vô thường đã buông thòng lọng quanh cổ rồi!
Linh Nhi sôi giận:
- Chắc như thế không?
Hơn hai mươi người vận y phục đen, rập nhau cười lên, giọng cười quái dị, đồng một lượt vung mấy mươi cánh tay đập mạnh vào các cánh cửa.
Tiếng ầm ầm phát lên dữ dội những tấm ván vỡ vụn thành văm, thành mảnh, bay tung toé.
Linh Nhi không ngờ bọn hải tặc đó chưởng lực kinh hồn đến thế.
Bằng vào công lực đó chúng có thể tự liệt mình vào hạng cao thủ thượng thặng trên giang hồ.
Trong một thoáng, nàng ước lượng tình thế. Trên thuyền, ngoài nàng, Châu Nhi và Thủy Thiên Cơ ra, tất cả đều còn kém xa chúng.
Nếu xảy ra xô xát, chỉ có ba người chống lại hơn hai mươi người, sự chênh lệch quá rõ ràng. Do đó, sự thắng bại cũng quá rõ ràng, không cần đợi lúc kết thúc mới thấy rõ...
Tự nhiên nàng phát lo ngại.
Nàng cao giọng hỏi:
- Các ngươi sinh hoạt trên biển, hẳn phải thuộc quyền quản trị của Tử Nhiêm Long Thọ Thiên Tề?
Người đối thoại với nàng bật cười ha hả:
- Tử Nhiêm Long là cái quái gì? Ta chẳng hề biết một tên quá tầm thường như thế!
Tiểu công chúa lại mắng:
- Ta chẳng quản các ngươi là ai, ta chỉ nói cho các ngươi? biết là cha ta bỏ mình vì đồng đạo võ lâm mà các ngươi dù sao cũng là người trong võ lâm. Nhân cơn tai biến của ta, lại dám đến đây làm điều vô lễ, thử hỏi lương tâm các ngươi để đâu?
Người đối thoại bật cười cuồng dại:
- Lương tâm! Lương tâm! Xếp cái lương tâm do ngươi vừa nêu ra vào một xó nào đó đi! Lương tâm là cái quái gì, đối với bọn người như chúng ta, lương tâm còn nhẹ hơn một chén rượu thừa.
Y vẫy tay khắp đồng bọn. Hơn hai mươi người cùng lướt tới.
Linh Nhi và Châu Nhi kinh hãi, vội lướt tới án ngữ cho nội bọn nhà.
Bỗng Thủy Thiên Cơ cất tiếng:
- Ta hết sức lấy làm lạ, nghĩ mãi mà chẳng hiểu được. Truy Hồn Đoạt Mạng Nhị Thập Tứ Quái là hạng người nào? Nhóm đó xuất hiện trên giang hồ từ lúc nào? Ta từng đi khắp đó đây, tuyệt nhiên chẳng nghe ai nói đến.
Người cầm đầu bọn chúng gằn giọng:
- Ngươi là cái quái gì, hòng biết được bọn ta?
Thủy Thiên Cơ quay qua Hồ Bất Sầu hỏi:
- Ngươi có biết gì không?
Hồ Bất Sầu gật đầu:
- Biết chứ!
Linh Nhi động tính hiếu kỳ hỏi:
- Thế ra, chúng là những ai?
Hồ Bất Sầu thản nhiên:
- Chúng là một bọn người tập hợp dưới quyền điều động của Trích Tinh Thủ Bành Thanh!
Mọi người của cả hai cánh đều giật mình.
Người cầm đầu đối phương lùi lại hai bước.
Linh Nhi rít lên:
- Thì ra ngươi! Ngươi khuyến cáo chúng ta dời thuyền đến đây, cứ tưởng là ngươi có hảo ý, không ngờ ngươi muốn cho chúng ta đi khuất để dễ bề hạ thủ đoạn!....Xưa nay ngươi tỏ ra là nhân vật tốt, giờ đây mới biết lòng lang dạ sói ẩn sau gương mặt ngươi! Ngươi là cầm thú, không hơn không kém!
Tiểu công chúa cao giọng:
- Còn kém loài cầm thú mới đúng! Con gà còn biết ơn hạt thóc, con chó còn biết ơn bát cơm, con trâu còn biết ơn bó cỏ, chứ bọn chúng thì nhân tai biến toan đoạt tài sản người đã hy sinh cho sự an toàn của chúng!
Người cầm đầu bọn áo đen đột nhiên đưa tay giật phắt chiếc khăn bao mặt xuống.
Đúng như Hồ Bất Sầu đã nói, hắn chính là Trích Tinh Thủ Bành Thanh. Lộ gương mặt thật rồi, hắn bật cười ghê rợn, trầm giọng thốt:
- Không ngờ các người khá thông minh, đoán ra được đại gia là ai!
Bản ý của ta là nể oai linh của Tử Y Hầu, dung tha cho các ngươi được sống sót, nhưng hiện tại các ngươi biết rõ chân tướng của ta rồi, thì các ngươi phải chết, có như vậy ta mới yên tâm!
Hắn bước tới một bước, rồi hai bước... Hai mươi ba người kia cũng bước tới, mỗi người một phía mỗi người chiếu cố một hoặc hai thiếu nữ...
Hồ Bất Sầu tự lượng sức mình, chưa phải là địch thủ của bọn áo đen. Cầm chắc cái bại trong tay, y len lén lấy chiếc chìa khóa do Tử Y Hầu trao cho, cài lên mái tóc, chuẩn bị giao đấu.
Bành Thanh hét lên một tiếng lớn, tất cả bọn áo đen cùng xuất thủ một lượt.
Linh Nhi kêu lên:
- Châu Nhi hãy bảo hộ tiểu công chúa!....
Tiểu công chúa hét vang:
- Ta chẳng cần ai bảo vệ! Để mặc ta!
Một đại hán thân vóc ốm, cao, nhào tới.
Hắn khinh thường nàng còn nhỏ tuổi, không đáng sợ cho lắm, chừng như hắn thương hại nàng, không nỡ sát hại, nên hắn nhào tới, mà không cầm vũ khí, chắc hắn định bắt sống nàng.
Phương Bửu Nhi sôi giận, quát to:
- Hèn nhát! Vô sỉ! Đường đường một nam nhân lại toan hiếp đáp một cô gái bé nhỏ! Ngươi chẳng xứng đáng đứng trong hàng ngũ võ lâm chút nào!
Thấy người khác lâm nguy, hắn nóng lòng, hắn bất bình mắng cho hả, nhưng mắng mà làm được gì? Hắn lại liều lĩnh, bước nhanh tới đứng án trước mặt tiểu công chúa, vung tay đấm thẳng vào người đại hán cao ốm.
Nhưng hắn đấm làm sao trúng gã đại hán? Mà có trúng cũng vị tất làm cho gã đại hán phải đau đớn...
Thủy Thiên Cơ thấy kịp sự việc đó, song đứng hơi xa, không can thiệp chỉ kêu thét lớn:
- Bửu nhi! Đề phòng!
Nàng chỉ kêu được mấy tiếng, thân hình Phương Bửu Nhi tung bổng lên không, văng ra ngoài xa, rơi xuống sàn thuyền kêu bình một tiếng nằm bất động...
Tiểu công chúa biến sắc, gọi gấp:
- Bửu nhi? Bửu nhi! Ngươi...
Đại hán ốm cao đã đến trước mặt nàng. Hắn cười hắc hắc, thốt:
- Mặc hắn, cô bé đừng động tâm đến hắn!
Gã dang rộng hai cánh tay ra, bàn tay xòe ra như chiếc quạt bồ, định ôm nàng.
Tiểu công chúa vội xoay người nửa vòng, thoát khỏi vòng tay của gã.
Đại hán cao ốm lại cười ha hả:
- Khinh công khá lắm đó! Song hãy xem thủ đoạn của ta đây.
Hai bàn tay của gã vung lên với tốc độ phi phàm, hai bàn tay biến thành trăm thành ngàn, như vô số cánh bướm chập chờn bay liệng quanh mình tiểu công chúa.
Ngoài thuật khinh công ra, tiểu công chúa chẳng biết loại võ công nào khoác, nên hiện tại nàng sử dụng tuyệt kỹ, tránh né thủ pháp của đối phương, chứ chẳng mảy may phản kích.
Thủ pháp của đại hán quả thật nhanh phi thường. Nhưng thân pháp của tiểu công chúa nhanh vô tưởng, nhờ vậy mà nàng duy trì được một lúc lâu, tránh khỏi bị đại hán chụp trúng.
Linh Nhi, Châu Nhi dù có muốn trợ giúp tiểu công chúa, song mỗi nàng tự cứu lấy bản thân còn vất vả vô cùng, làm gì lo liệu cho kẻ khác nổi? Bởi lúc đó, bọn đại hán áo đen đã vào cuộc tất cả rồi, và cảnh hỗn chiến khai diễn khắp khoang thuyền.
Tiểu công chúa vừa né tránh vừa kêu thảm. Đại hán cao ốm vừa dồn áp lực vừa cười rợn. Cuối cùng hắn cũng chụp được tiểu công chúa.
Đến lúc đó, hơn nửa số thiếu nữ trên thuyền đã bị các đại hán điểm huyệt, còn Hồ Bất Sầu thì mồ hôi đầm đìa. Y chẳng còn sức lực đành ngã khuỵu tại chỗ.
Chỉ có Thủy Thiên Cơ là dửng dưng như thường, nàng ung dung lăn qua đảo lại giữa rừng đao kiếm. Nàng thừa công lực tự vệ, nhưng lại thiếu khả năng chiếu cố bọn người nhà. Nếu bọn đại hán kia rảnh tay, rồi cùng nhau xông vào hợp kích, chẳng rõ nàng có đương đầu nổi hay không?
Võ công của Linh Nhi và Châu Nhi cũng khá cao, song bất quá cả hai đều hiểu theo hình thức các chiêu. Biểu diễn thì xem rất đẹp mắt, nhưng thực sự giao đấu với địch thủ thì thiếu hẳn phần thực nghiệm.
Do đó chẳng những không linh hoạt, mà còn lúng túng, không phát huy nổi cái thâm diệu tuyệt học, không tạo được áp lực trước một đối phương kém tài, song thừa kinh nghiệm.
Cái học của hai nàng còn nặng mùi lý thuyết. Cái học đó dù được một tay bá chủ võ lâm như Tử Y Hầu truyền cho, nhưng cũng chưa ứng dụng được.
Thành ra, hiện tại hai nàng tự vệ còn thấy khó khăn, nói chi đến việc chiếu cố kẻ khác!
Qua một lúc duy trì, cả hai xuất hạn ướt đẫm y phục. Trong tình thế nguy cấp đó, Linh Nhi nhìn sang Thủy Thiên Cơ, một ý niệm thoáng hiện trong tâm não, nàng gọi to:
- Thủy Thiên Cơ, ngươi hãy chạy đi, đừng lưu luyến, vì bọn ta mà phải mang họa chung!
Thủy Thiên Cơ lắc đầu:
- Không! Ta không đi đâu cả!
Linh Nhi tưởng nàng có hảo ý, không nỡ bỏ người trong cơn hoạn nạn, hết sức cảm kích, rung rung giọng:
- Thủy cô nương! Đừng bận lâm gì đến bọn này, hãy lo nghĩ đến bản thân...
Thủy Thiên Cơ vụt cười ha hả:
- Đừng lầm! Chẳng phải ta tự nguyện cùng chung hoạn nạn với các ngươi đâu. Chẳng phải ta dại gì nấn ná tại đây để chết chung với các ngươi cho trọn tình đâu! Không, ta còn muốn sống, ta tiếc sự sống của ta lắm. Chỉ vì bờ biển cách thuyền rất xa; mà ta thì chẳng quen lội nước, ta không đi được. Dù ta muốn đi, cũng chẳng có cách nào để đi!
Ta ở lại là vì lẽ đó chứ ta chẳng phải vì các người đâu!
Nàng cười, nàng nói, thản nhiên, không kinh hãi trước địch, không ngại sự trắng trợn trước mặt bọn Linh Nhi. Giọng cười, giọng nói còn có phần trào phúng.
Nghe nàng nói thế, Linh Nhi và Châu Nhi dở khóc dở cười! Còn gì chua chát hơn?
Một bóng người lướt tới, Linh Nhi thuận tay vươn nhanh ra, điểm vào huyệt đạo của người đó, nhưng hắn tránh khỏi. Hắn vọt mình đến trước mặt Bành Thanh hỏi:
- Đánh như thế này mãi, biết đến chừng nào chúng ta mới càn quét sạch bọn chúng hở đại ca? Chúng tôi có thể giở một vài tuyệt chiêu ra chứ?
Bành Thanh gật đầu:
- Chúng đã ngoan cố, mình cũng cần gì nương tình nữa. Các ngươi tùy tiện, miễn sao thu gọn chúng nhanh chóng được thì thôi!
Đại hán đó vâng một tiếng, đoạn quay mình trở lại cục trường, thoạt nhiên, hắn bốc từng thiếu nữ một, những nàng đã bị điểm huyệt ngã tại chỗ, quăng vào một góc thuyền, trong thoáng mắt hắn làm song việc đó. Rồi hắn chọn một nàng, vừa đưa tay vừa xoa xoa mặt nàng đó, vừa cười nham nhở, vừa thốt:
- Đẹp! Đẹp lắm! Trẻ lắm! Trẻ như thế này chắc làn da trắng mát lắm đây!
-
Linh Nhi trông thấy hét to:
- Tên khốn nạn, ngươi định làm gì?
Đại hán bật cười lớn:
- Ta làm gì? Ngươi lo sợ cho nàng phải không? Đây, nhìn xem ta làm gì nàng!
Hắn đưa tay, nắm áo nàng đó kéo mạnh, chiếc áo rách ra, bày bộ ngực trắng, nhũ hoa căng phồng...
Linh Nhi mắng to:
- Tên khốn nạn? Tên súc sinh!
Hắn bật cười hô hố, xé toát luôn chiếc quần nàng đó vừa cười vừa thốt:
- Đúng, ta là tên súc sinh, bởi là súc sinh nên ta chẳng thích những vật che dấu thân hình. Ta muốn nhìn toàn một những con người trần như nhộng, trần như loại súc sinh! Rồi đến lượt các ngươi, nếu chẳng dừng tay, cúi đầu, các ngươi cũng trần như nhộng!
Hiện tại, thiếu nữ đó chẳng còn mảnh vải che thân, dù một mảnh vải nhỏ bằng bàn tay.
Hắn lại rà tay từ trên suối tóc đen huyền của nàng, từ từ đi xuống ngực, xuống bụng...bọn thiếu nữ thẹn quá, chẳng nàng nào dám nhìn.
Châu Nhi hét lo:
- Ngươi...ngươi...
Nàng muốn mắng nhiều tiếng độc song chẳng thốt được tiếng nào, vì quá tức uất.
Một thiếu nữ bị lột trần, rồi đến lượt nàng thứ hai, nàng thứ ba, chúng bị điểm huyệt, dù căm phẫn, song còn phản kháng gì được?
Chúng quá thẹn, quá hận, tủi thân, khóc ròng...
Đại hán cao, ốm đã chế ngự được tiểu công chúa, chụp nàng nhấc bổng đưa nàng lên cao, vừa cười vừa gọi:
- Anh em xem đây? Nàng này còn bé bỏng gì đâu? Có thể dùng làm nàng hầu được rồi đó! Có hầu non như thế này thì tuyệt!
Linh Nhi hét to:
- Buông ra, tên khốn nạn! Buông ra!
Thủy Thiên Cơ khẽ cảnh cáo nàng:
- Mắng cứ mắng, hét cứ hét, tuyệt đối không nghe lời chúng mà dừng tay, các người hãy tưởng tượng nếu sa vào tay bọn súc sinh này, thì tai hại không lường nổi! Ai đã kẹt, cứ để kẹt, ai chưa kẹt cố vùng vẫy cho khỏi kẹt.
Linh Nhi khóc rống lên:
- Nhưng...nhưng...
Vừa lúc đó, đèn trong khoang thuyền vụ tắt, chỉ còn mấy ngọn bên ngoài, nhưng gió thổi mạnh làm chao chao, khi mờ khi tỏ, không còn ai trông rõ sự vật cả.
Một mùi hương lạ đột nhiên thoang thoảng trong không gian, mùi thơm đó hẳn từ bên ngoài theo gió bay vào, tiếp theo mùi hương là hơn hai mươi bóng vàng óng ánh, từ bốn phía bay đến chập chờn như ác quỷ hung thần.
Bọn người do Bành Thanh quy tụ, điều động đến tận thuyền đêm nay toan vét sạch tài sản của Tử Y Hầu, gồm toàn những tay giết người không chớp mắt, không tanh máu. Thế mà thấy những bóng vàng xuất hiện, người nào cũng sửng sốt, kinh hoàng. Không hẹn mà đồng, chúng cùng dừng tay, cùng hiệp nhau một chỗ, nương tựa vào nhau như sắp khai chiến với địch.
Còn Bọn Linh Nhi, Châu Nhi, Hồ Bất Sầu cũng đã lùi nhanh về một góc khoang thuyền, đôi tay nắm chặt lại.
Cục trường hình thành cái thế tam giác rõ rệt, và bọn Bành Thanh đang từ cái thế chủ động, chuyển sang thế thụ động.
Thế tam giác hình thành rồi, phe Bành Thanh và phe Linh Nhi bây giờ mới quan sát kỹ bọn mới đến.
Chúng không là ác quỷ hung thần, chúng là những con người, bằng xương bằng thịt, mùi hương lạ bốc từ thân thể chúng.
Bỗng, không rõ từ đâu xẹt đến, hơn mấy mươi đạo bạch quang sáng rực, chiếu thẳng vào người bọn đó, thành cái màu vàng óng ánh của chúng ngời lên choá mắt, và cũng nhờ những đạo bạch quang đó mà cánh Linh Nhi và cánh Bành Thanh mới nhận ra đó là những nàng thiếu nữ, lõa thể, xõa tóc dài chấm đất, tóc và thân thể được xoa một lớp phấn màu vàng bốc mùi thơm phức.
Hiện tượng đó làm cho mọi người bàng hoàng, sửng sốt. Mùi hương đó làm cho tất cả ngây ngất, say sưa, phần hồn rời phần xác phiêu phưởng dật dờ.
Trong khi mọi người đang đờ đẫn như tượng gỗ, thì bọn thiếu nữ đó dang hai cánh tay ra, nhào tới, mỗi nàng tiến đến một gã áo đen.
Chúng mỉm miệng cười duyên, trông còn hấp dẫn hơn mùi hương lạ.
Chúng đã đẹp, chúng lại trần xuồng, phô trọn toà thiên nhiên ngà ngọc trước mắt những đại hán tràn đầy nhựa sống, bảo sao bọn đại hán đã ngây ngất, lại chẳng ngây ngất hơn với nụ cười quyến rũ?
Thân hình đó, mùi hương đó, nụ cười đó, làm tê liệt hơn hai mươi đại hán dưới sự điều động của Bành Thanh, hắn cũng không tránh khỏi trận mê hồn, do chúng bố trí.
Chúng trở thành những pho tượng mặc cho các nàng làm gì thì làm.
Mỗi nàng đeo kín một gã, tay vòng qua cổ đu mình lên, chân co lại, gót chân ấn vào phía hậu đầu gối.
Sự cọ sát của các nàng, càng làm cho bọn đại hán thêm đê mê hơn, hiện tại bọn đại hán chẳng còn nghĩ đến phản ứng, chứ đừng nói là có phản ứng nào.
Thoáng nhìn qua cục diện, ai ai cũng tưởng là nữ đang vồ vập say sưa nam, nữ là những kẻ trông nam xuất ngoại từ lâu, mới đặt chân trở lại gia đình, nữ còn trong cơn xúc cảm, không ngăn chặn nổi nguồn lòng để cái thương, cái nhớ, cái trông chờ hiện lộ qua vòng tay nữ, muốn hoà lẫn xương thịt với nam thành một khối...
Và cái khối chung đó đang bị ngọn lửa lòng đốt chín. Trước khí chín, đường gân rung thớ thịt rung, càng bị đốt, họ càng đê mê, nam cũng như nữ, sẵn sàng chết với sự đê mệ..
Nhưng, nam và nữ là hai phe đối chiếu, trong khi nam đang tê liệt, thì nữ lại sự dụng đấu pháp ly kỳ, đấu pháp đó càng làm cho nam tê liệt hơn, hoàn toàn biến thành khí cụ cho nữ mặc tình vọc, phá...
Bỗng, một trong số thiếu nữ khỏa thân hỏi:
- Chúng ta là ai?
Tất cả những nàng kia rập nhau đáp:
- Chúng ta là Huỳnh Kim Ma Nữ!
Kế tiếp, nhiều tiếng rắc rắc, bạch bạch vang lên kèm theo tiếng rú thảm, tất cả bọn đại hán áo đen ngã nhào trong tiếng cười của bọn Huỳnh Kim Ma Nữ.
Thì ra vòng tay đeo nơi cổ các đại hán, siết mạnh một cái, xương vai đại hán gãy vụn. Gót chân ấn nơi phía hậu đầu gối đại hán, nhấn mạnh một chút, xương chân gãy vụn. Xương gãy kêu rắc rắc; thân hình ngã xuống kêu bạch bạch,đồng thời chúng rú lên, lẫn với tiếng với tiếng cười của bọn thiếu nữ.
Giờ đây, hơn hai mươi xác bất động nằm la liệt trên sàn thuyền.
Chúng bất động nhưng miệng còn rên rỉ ư ư? được.
Trong mấy phút giây, với đấu pháp kỳ dị, bọn Huỳnh Ma Kim Nữ, tận loại trừ bọn đại hán áo đen, khỏi vòng chiến. chỉ còn độc lại Bành Thanh.
Bọn Linh Nhi hết sức kinh hoàng, chỉ có Thủy Thiên Cơ là dửng dưng như thường, hơn nữa nàng khoanh tay, đứng nhìn, miệng điểm nụ cười thích thú.
Trích Tinh Thủ Bành Thanh xuất hạn đẫm ướt, y rung rung giọng hỏi:
- Các ngươi...có phải là Tây Phương...
Từ bên ngoài khoang thuyền, một giọng nói lanh lảnh vọng vào:
- Đúng vậy! Ngươi có kiến thức khá đấy!
Giọng nói phát lên, nghe thì nhỏ, nhưng ngân vang rờn rợn, như tiếng chạm khẽ vào nhau của những vật bằng kim loại.
Vẻ sợ hãi hiện lên rất rõ trong ánh mắt của Trích Tinh Thủ Bành Thanh, y líu lưỡi ấp úng:
- Kim...Lão tiền...bối, bọn chúng tôi...chưa hề làm điều gì đắc tội với tiền bối, tiền bối sao nỡ...
Người bên ngoài hét to:
- Câm ngay! Tử Y Hầu có là hạng người thế nào đi nữa, thì lão ấy cũng đã chết rồi. Bọn tỳ thiếp của lão có tội tình gì, mà các ngươi dám lăng nhục dã man như vậy?
Dùng khẩu khí đó, người bên ngoài khoang thuyền không biểu lộ cái ý tôn sùng Tử Y Hầu như tất cả hào kiệt anh hùng đã quy tụ nơi bờ biển, theo dõi cuộc so kiếm vừa qua. Trước con mắt y. Tử Y Hầu bất quá là một nhân vật có thực tài, nhưng chẳng đến nỗi là một thần tượng!
Nhưng, y là bạn hay thù của Tử Y Hầu?
Bọn Linh Nhi vừa kinh hãi vừa hoan hỉ, nếu người nào đó là bạn Tử Y Hầu, thì cục diện hôm nay quả đúng là “ Hoa. trung hữu phúc, kiết xuất từ hung”. Còn như người đó là thù, thì đúng là “Hoa. vô đơn chí”, đành rằng y loại trừ bọn Bành Thanh đề cứu bọ, nhưng cứu họ rồi đưa họ vào nguy cảnh khác, rất có thể hung hiểm hơn, như vậy trốn mồ gặp mả, chứ có thoát nạn đâu?
Bọn Linh Nhi nghĩ rằng, sa vào tay cường đạo, là bọn Bành Thanh, kể ra còn nhẹ nhàng hơn rơi vào tay ác quỷ. Bởi bọn Huỳnh Kinh Ma Nữ kia xuất hiện chẳng khác nào bọn ác quỷ.
Do đó, sự mừng rỡ của bọn Linh Nhi rất mong manh, mà niềm sợ hãi càng thêm trầm trọng.
Thủy Thiên Cơ không hề tỏ ra nao núng chút nào, chừng như nàng đã có chủ ý, chừng như nàng thừa hiểu bọn người mới đến đó là ai, và nàng chẳng hề sợ hãi chúng Tất cả đều hướng ra ngoài.
Vô luận là người bên ngoài là tốt, là xấu, hiền hay dữ, bạn hay thù, người đó hẳn là một nhân vật phi thường, có thinh danh chấn động khắp bốn phương.
Một vầng kim quang bao bọc người bên ngoài, người đó có thân vóc độ ba thước cao vĩ, kim quang bao bọc, nên trông như một quả cầu tròn, quả cầu đó bay vút vào khoang thuyền. Vầng kim quang phát ra do bộ y phục của y, chẳng rõ bộ y phục đó bằng chất liệu gì. Đầu y đội một chiếc mão cũng bằng vàng, mão có hình thức quái dị xem nặng lắm, nếu người yếu sức chụp cái mão đó lên đầu dám thụt thân xác xuống mấy tấc, cổ phải rụt ra khỏi bờ vai.
Đặc biệt nhất là hàm râu của y dài hơn thân hình, vì quá dài nên phết đất, tóc màu vàng, trông y hết sức huy hoàng, nhưng có phần khôi hài, dễ khiến cho người nhìn phải cười nôn.
Còn ai dám cười nữa, khi thuộc hạ của người đó đã loại trừ hai mươi cường đạo. Chúng còn thoi thóp thở đó nhưng có khác nào đống xương thịt chỉ chờ vất xuống biển.
Có hàm râu dài như vậy, dĩ nhiên người đó phải già, và nhân bộ râu vàng, người ta gọi lão là “Kim Tu Lão Nhân”.
Lão vừa bay vút vào khoang thuyền, bọn Huỳnh Kim Ma Nữ cấp tốc quỳ xuống, đầu cúi sát ván thuyền.
Kim Tu Lão Nhân bật cười ha hả:
- Được lắm! Được lắm! Các ngươi không đến nỗi làm mất mặt lão phu!
Giọng nói của lão ngân lên, như tiếng kim khí nghe chói tai hết sức.
Nhưng giọng cười của lão nhân nghe như tiếng trống gióng liên hồi, như ngàn muôn quân giục ngựa, nện vó rầm rập trên nẻo đường chinh chiến. Tiếng trống, tiếng vó ngựa bừng bừng sát khí ai nghe cũng phải khiếp vía kinh hồn.
Một con người cao to hơn ba thước, dáng dấp bằng một hài đồng, thế mà phát huy âm thinh hồng lượng, ngang với một kẻ khổng lồ. Nếu chẳng có võ công tuyệt đỉnh thì làm gì biểu lộ một sinh lực phi thường như vậy?
Kim Tu Lão Nhân cười một lúc, rồi ngừng, đảo mắt nhìn quanh, ánh mắt dừng lại nơi Thủy Thiên Cơ.
Toàn thân lão bốc một ánh sáng vàng, và đôi mắt của lão cũng rực ánh sáng vàng, ánh mắt đó nhìn vào ai là kẻ ấy nghe lạnh xương sống ngay.
Thủy Thiên Cơ chừng như có chỗ ỷ trượng, chẳng những không ngán, trái lại còn cười duyên, cười đến khích động những ai cố lơ là với nàng.
Kim Tu Lão Nhân thấy nàng cười, cũng cười lớn:
- Hay quá! Hay quá! Không ngờ Thủy Thiên Cơ liễu đầu cũng có mặt tại đây.
Thủy Thiên Cơ nhại lại đúng giọng, đúng câu:
- Hay quá! Hay quá! Không ngờ Kim Hà Vương cũng có mặt tại đây!
Bọn Huỳnh Kim Ma Nữ kinh hãi, trố mắt nhìn nàng. Chúng không ngờ nàng khinh thường vị chúa tể của chúng, dám đối đáp ngạo mạn như thế!
Trái lại bọn Linh Nhi hết sức hân hoan, nếu Thủy Thiên Cơ dám đùa cợt như vậy, là nàng không ngán lão nhân. Trong trường hợp đó nếu lão nhân có làm gì nguy hại đến họ thì Thủy Thiên Cơ can thiệp ngay. Nàng thừa sức can thiệp, nên mới dám khinh thường lão.
Niềm sợ hãi đã qua, họ trấn định tinh thần, tính hiếu kỳ phát động, họ tìm hiểu về cái tên Kim Hà Vương.
Cái tên có vẻ quái dị với họ, họ tự hỏi, đó là danh tánh thật sự của lão nhân, hày chỉ là một ngoại hiệu do màu vàng của thân thể, của râu tóc dài mà thành?
Kim Hà Vương cười lớn:
- Thủy liễu đầu to gan nhỉ, ngang nhiên dám nhại giọng Kim đại thúc!
Rồi lão nhân lại đảo mắt ngời ánh vàng, nhìn quanh một lượt nữa, lại thở dài, tiếp:
- Nhưng ngươi từng khoe mình là tay khá lắm, giờ gặp tại đây, lão phu thất vọng vô cùng!
Thủy Thiên Cơ cười hì hì chẳng nói làm sao cả.
Kim Hà Vương tiếp:
- Ngươi có mặt tại đây, lại để cho bọn hải tặc lăng nhục tỳ thiếp của Tử Y Hầu. Chính lão phu cũng thẹn lây. Thẹn là vì dù sao cũng là đại thúc của một nàng quá vô dụng.
Lão thốt với giọng tràn đầy hiệp khí, thốt xong lão tỏ vẻ hết sức cảm khái. lão kích động đến độ rung cằm, cả hàm râu cũng rung rung theo, ánh vàng chơm chớp trông như sóng dợn dưới bóng hoàng hôn.
Thủy Thiên Cơ không đề cập đến sự thắng bại giữa nàng và bọn Bành Thanh, chỉ hỏi lại:
- Bọn súc sanh đó lão nhân gia định trừng trị thế nào?
Kim Hà Vương không do dự:
- Nghĩ vì chúng cũng có con mắt nhận được lão phu là ai, lão phu sẽ tha cho chúng!
Bọn Bành Thanh hết sức mừng rỡ, tên nào cũng sáng rực ánh mắt.
Nhưng Kim Hà Vương tiếp:
- Tha cho chúng được toàn thây!
Không phải tha mạng sống mà chỉ tha cho toàn thây! Thế là chết, chết được toàn thây!
Ánh mắt sáng ngời của bọn Bành Thanh vụt tắt, gương mặt xám xịt lại, kẻ nào run được cứ run.
Đến bọn Linh Nhi cũng biến sắc, dù Kim Hà Vương sát hại bọn Bành Thanh là giải nạn cho họ. Họ biến sắc, vì không ngờ lão tàn độc đến độ đó! Dù sao, bọn Bành thanh cũng chưa phạm tội ác quá nặng, bất quá chúng uy hiếp để cướp đoạt châu báu bạc vàng, chúng chưa hại mạng người, sao nỡ dùng độc hình với chúng, giết một lúc hai mươi bốn mạng người dù cho chúng toàn thây, nghĩ ra cũng thảm thương vô cùng!
Bình sinh bọn Linh Nhi chưa thấy cảnh giết chóc như vậy!
Bành Thanh lêu lên:
- Tây Phương Huỳnh Kim Cung...
Y không kịp dứt câu trọn ý, hai Huỳnh Kim Ma Nữ nhấc bổng y lên. Bên cánh tay vàng chói chớp chớp, thân hình y bị tung qua khung cửa sổ khoang thuyền, một tiếng “tủm” vang khẽ. Từ đây oan hồn của y phiêu phưởng muôn đời trên mặt trùng dương.
Từng cặp ma nữ khác lần lượt phóng bọn đại hán áo đen ra ngoài.
Chúng sẽ chẳng bơ vơ cô quanh bước sang thế giới bên kia!
Kim Hà Vương vuốt nhẹ chòm râu dài, bật cười ha hả:
- Lão phu trả sự im lặng lại cho con thuyền, không còn ai nhũng nhiễu các ngươi nữa.
Lão nhìn quanh, bỗng thấy Hồ Bất Sầu, hét to:
- Còn một gã nữa! Bay đâu! Sao không thanh toán nốt?
Hồ Bất Sầu là nam nhân duy nhất còn lại trước con mắt lão, bởi lão chưa thấy Phương Bửu Nhi. Lão không muốn nhìn nam nhân duy nhất đó, lão muốn quét sạch bọn nam nhân trong tầm mắt lão.
Linh Nhi và Châu Nhi giật mình, trong khi bọn Huỳnh Kim Ma Nữ đã bước tới kèm hai bên Hồ Bất Sầu rồi.
Linh Nhi và Châu Nhi trong thoáng mắt ước lượng tình hình, tự xét không thể cứu nạn cho Hồ Bất Sầu được, không đủ sức can thiệp là cầm như Hồ Bất sầu phải chịu chung số phận với Bành Thanh. Hai nàng bất nhẫn quá, đành liều mạng bước nhanh đến khung cửa sổ, án ngữ tại đó, đồng thời kêu lên:
- Y không phải là đồng đảng của bọn áo đen, y không oán thù với các vị tại sao các vị muốn giết y?
Kim Hà Vương cười lạnh:
- Tất cả nam nhân trên thế gian đều đáng giết cả, giết tuyệt, các ngươi có hiểu chăng? Hắn là nam nhân, không thể ra ngoài thông lệ đó!
Các ngươi hãy tránh ra!
Linh Nhi sôi giận:
- Nói như vậy là tiền bối muốn tất cả nam nhân trên đời đều phải chết hết, chỉ để một mình tiền bối sống sót sao?
Kim Hà Vương lạnh lùng:
- Cô bé hiểu đúng đó! Chỉ vì!....
Thủy Thiên Cơ lên tiếng:
- Chỉ vì nếu còn một nam nhân sống sót thì nữ nhân không thể không làm một cuộc so sánh với đại thúc, và đại thúc không thể giấu diếm được cái lùn của mình. Mà trên đời nầy có một nữ nhân nào chịu với một người chồng lùn tịt, chiều cao chỉ ngang nách mình thôi! Thà rằng nam nhân chết hết, còn độc lại một mình đại thúc, nữ nhân còn kén chọn thể nào được? Có đúng vậy không, hở đại thúc?
Kim Hà Vương cười hà hà:
- Liễu đầu đoán trúng tâm ý lão phu!
Cái lão Kim Hà Vương này quả có tánh tình quái thật. Việc đáng giận, lão không giận, việc chẳng đáng đối xử tàn nhẫn, lão lại cực kỳ hung ác. Giả sử người nào khác nghe Thủy Thiên Cơ móc như vậy, phải phẫn nộ, gào thét ầm ĩ, nhưng lão lại cười bằng thích, lão tỏ lộ niềm khoái trá phi thường.
Thủy Thiên Cơ đáp:
- Nhưng về người này thì khác! Nếu lão nhân gia giết hắn, thì mẹ tôi chẳng cao hứng chút nào. Mà nếu mẹ tôi không cao hứng thì chính lão nhân gia cũng thừa hiểu là sẽ có những gì phát sinh sau đó. Lão nhân gia từng chứng kiến hậu quả những sự việc như vậy, phải không?
Kim Hà Vương sững sờ người một lúc, đoạn ấp úng:
- Thật vậy à?
Thủy Thiên Cơ cười lạnh:
- Tôi làm gì dám nói ngoa với lão nhân gia?
Kim Hà Vương lại thừ ra một lúc nữa, sau cùng thì lão đấm tay vào bụng bình bịch, lão nhảy dựng lên. Lão cử động mạnh quá làm con thuyền to lớn như thế cũng phải lắc lư, những cánh cửa khua động ầm ầm.
Bọn Linh Nhi xám mặt chẳng nàng nào dám nói năng gì cả, chi có Thủy Thiên Cơ cười tủm tỉm mãi...
Lão quát lớn:
- Buông gã ra đi, đuổi gã ra phía sau thuyền, đừng để ta trông thấy gã!
Huỳnh Kim Ma Nữ chẳng dám chậm trễ, đẩy Hồ Bất Sầu về phía hậu.
Mãi đến lúc đó, Linh Nhi mới trấn định tinh thần, bước tới vòng tay hỏi:
- Lão tiền bối giải nạn cho chúng tôi như thế này, chúng lôi phải làm gì để đáp ơn trọng?
Kim Hà Vương gật gù:
- Phải đấy, lão phu cứu các ngươi thoát chết, dĩ nhiên các người phải báo đáp ơn của lão phu chứ! Đâu các ngươi thử nói, sẽ báo đáp như thế nào cho lão phu nghe đi!
Linh Nhi trầm ngâm một lúc:
- Hầu gia có để lại bạc vàng châu ngọc...
Kim Hà Vương cưới lớn:
- Bạc vàng, châu ngọc? lão phu mơ mộng những thứ đó à? Bọn kia toan sát hại các ngươi, để cướp vàng bạc châu ngọc, rồi lão phu tàn sát chúng, để nhận lấy vàng bạc châu ngọc của các người, như vậy có khác nào lão phu tranh đoạt với chúng đâu? Tây Phương Huỳnh Kim Cung giàu có vô cùng, lão phu sá gì một số tài sản nhỏ mọn trên con thuyền bé này?
Linh Nhi giật mình:
- Lão tiền bối...
Nàng nhìn đồng bọn, thấy người nào cũng biến sắc, rồi nàng nhìn qua bọn Huỳnh Kim Ma Nữ. Thấy nàng nào cũng lạnh lùng, nàng thầm nghĩ, không tham bạc vàng, châu ngọc, Kim Tu Lão Nhân muốn gì?
Lão muốn gì, làm sao nàng đoán nổi? Nàng nhìn lão cố lấy binh tĩnh, hỏi:
- Xin tiền bối cho biết chúng tôi phải làm thế nào?
Kim Hà Vương lại cười vang:
-
- Các ngươi đừng sợ là lão phu mang các ngươi về cung! Không đâu, lão phu háo sắc thật đấy, song trong thiên hạ thiếu gì gái đẹp còn nguyên vẹn, lão phu cần gì phải thu lượm của thừa thãi của Tử Y Hầu?
Linh Nhi thở phào cung kính thốt:
- Xin tiền bối cho biết ý kiến!
Kim Hà Vương vụt thu nụ cười trầm giọng:
- Lão phu đến đây, với mục đích tra cứu lai lịch một người, xem người đó hiện hạ lạc địa phương nào. Lão phu hận người đó tận xương tuỷ, thề quyết không đội trời chung với y. Biết y ở đâu rồi lão phu sẽ đến tận nơi chặt xác y thành ngàn mảnh, vạn đoạn!
Giọng nói của lão càng phút càng nghiêm lạnh, ánh mắt của lão ngời lửa hận thù, trông phát ngán.
Linh Nhi run run giọng hỏi:
- Tiền bối có thể cho biết ngươi đó là ai?
Kim Hà Vương hừ một tiếng:
- Dĩ nhiên là phải cho các ngươi biết! Người đó là sự huynh của Tử Y Hầu, bị lão phu đánh bại một lần, co đầu rút cổ trốn nhủi trốn chui vào xó kẹt nào. Từ bao nhiêu năm qua, lão phu tìm mãi mà không gặp.
Trong thiên hạ ngày nay, chỉ có Tử Y Hầu biết y hiện ẩn nấp ở nơi nào!
Một ý niệm chớm hiện, Linh Nhi thốt:
- Nhưng tiền bối đến chậm một chút!....
Kim Hà Vương bật cười rùng rợn:
- Ngươi tưởng lão phu không hay biết gì về cái chết của Tử Y Hầu à? Chỉ vì lão ấy chết, lão phu mới đến đây! Lão phu chờ đợi cái chết của Hầu gia ngươi từ hơn mười năm qua rồi. Mãi đến gần đây mới nghe lão sắp đấu kiếm với người áo trắng, lão phu cấp tốc đến đây thầm khấn nguyện cho lão ấy chết dưới tay kiếm khách la.....
Linh Nhi trố mắt:
- Hầu gia chết rồi còn ai biết được sư huynh của người hiện giờ ở đâu mà chỉ cho tiền bối?
Kim Hà Vương cười ha hả:
- Ngươi xem lão phu là hạng người như thế nào. Lại dám buông lời gian trá? Sự liên hệ giữa Tử Y Hầu và người sư huynh của lão vô cùng mật thiết, Hầu gia của ngươi chết rồi hẳn phải có trối trăng hậu sự cho các ngươi chứ? Huống chi, người áo trắng có hẹn bảy năm sau sẽ trở lại, tự nhiên Tử Y Hầu phải sai phái ké nào đó trong các ngươi đến gặp sư huynh của lão, nhờ chỉ điểm võ công, để sau này đối phó với người áo trắng. Lão phu hỏi các ngươi, ai được phái đi tìm sự huynh của Tử Y Hầu? Kẻ đó phải khai thật với lão phu địa phương ẩn náu của sư huynh lão ấy!
Linh Nhi biến sắc, ấp úng:
- Nhưng...nhưng...
Kim Hà Vương quát lớn:
- Nhưng cái gì? Không nhưng cái gì cả, các ngươi lập tức khai ra cho lão phu biết, lão quỷ đó hiện tọa lạc nơi nào, nếu một mực giấu diếm, thì đừng trách lão phu hạ thủ đoạn tàn độc!
Lão gằn từng tiếng:
- Cho các ngươi mấy phút suy nghĩ? Qua mấy phút đó, số phận của các ngươi sẽ được định đoạt!
Linh Nhi bình thường lanh lợi lắm, hiện tại thì chẳng khác nào một kẻ ngốc, đành thu vai bất động trước mọi biến chuyển của tình hình, không có một phản ứng nhỏ hữu hiệu.
Kim Hà Vương bước đến một chiếc ghế ngồi xếp bằng tròn, vẫy tay về phía các Huỳnh Kim Ma Nữ:
- Ca lên! Ca một khúc, không dài mà cũng không ngắn, gợi cái hứng thú của con người bốc lên độ khá cao một chút!
Bọn Huỳnh Kim Ma Nữ vâng một tiếng lớn, đồng ca. Giọng chúng nghe thì dịu dàng, nhưng lạnh lùng làm sao.
Kim Hà Vương hướng sang bọn Linh Nhi:
- Ca khúc dứt mà các ngươi chưa chịu cung khai với lão phu, thì cứ mở to mắt, nhìn xem thủ đoạn lão phu dành cho các ngươi!
Giọng ca tuy lạnh lùng, khúc ca không đượm mùi dâm dật, nhưng có một ma lực là dao động lâm tư con người dần dần người nghe mất cả tự chủ. Tuy nhiên, Linh Nhi vì quá lo sợ nên chăng để ý đến giọng ca, nhờ vậy mà tâm hồn ổn định, Thủy Thiên Cơ bỗng kêu to:
- Yêu cầu lão nhân gia ra lệnh ngừng ca khúc đi!
Kim Hà Vương thét:
- Tại sao phải ngưng?
Thủy Thiên Cơ lạnh lùng:
- Dù lão nhân gia có bắt chúng ca luôn ba ngày ba đêm cũng chẳng có ma nào cung khai cho! Bởi họ có biết gì mà cung khai?
Kim Hà Vương bỗng bằng một thân pháp cực kỳ ảo diệu, đang ngồi xếp bằng tròn trên ghế, quật tung bổng người lên, lộn một vòng trong không gian, đáp xuống đứng trước mặt Thủy Thiên Cơ chỉ thẳng tay vào mũi nàng quát:
- Xú liễu đầu! Ngươi là người trong Ngũ Hành Thần Cung của lão phu, sao lại đứng về phe kẻ khác, toan chống chọi với lão phu?
Thủy Thiên Cơ điềm nhiên nhếch nụ cười nhẹ:
- Tôi có theo phe ai đâu? Bất quá tôi nói sự thật, lão nhân gia không chịu nghe thì thôi, sao lại gắt, thế lão nhân gia tưởng tôi nói dối để chạy tội cho họ à?
Kim Hà Vương quay lại bọn Huỳnh Ma Kim Nữ vẫy tay mấy lượt, chúng ngưng ca khúc liền.
Lão trùng mắt nhìn Linh Nhi và Châu Nhi đột nhiên quát:
- Nói hay không nói?
Linh Nhi và Châu Nhi nín lặng.
Thủy Thiên Cơ cười hì hì:
- Tôi nói có sai đâu! Họ biết gì mà nói?
Kim Hà Vương quát lên như sấm, song Linh Nhi và Châu Nhi vẫn mím môi chẳng thốt một lời nào. Dù là lời phân trần.
Thủy Thiên Cơ khoanh tay trước ngực, ngả người tựa vào vách, chân thò ra, chân rút lại mắt nhìn lên, mơ màng tiếp:
- Nghe lời tôi đi, lão nhân gia hãy trở về, nóng nảy, phẫn uất cũng chẳng ích lợi gì, tìm nơi khác mà dò la tin tức may ra còn được việc hơn.
Kim Hà Vương quát, mắng một lúc, chẳng có kết quả gì. Lại đứng thừ ra đó, lâu lắm lão bỗng cười ha ha, giọng cười rùng rợn vô cùng, dứt tràng cười, lão gằn từng tiếng:
- Được Lão phu hãy xem các ngươi có bằng lòng cung khai hay không cho biết!
Đưa nhanh tay mò mò trong mình, lão rút ra một cuộn kim tuyến:
Đường dây do nhiều sợi tơ vàng đánh lại, ít nhất cũng dài mấy trượng, nhỏ như tơ nhện.
Chẳng ai biết lão lấy đường dây đó ra để làm gì? Chỉ có Thủy Thiên Cơ, nàng hiểu lắm, bởi nàng cũng thuộc về Ngũ Hành Thần Cung. Vừa trông thấy đường giây. nàng biến sắc...
Lấy đường dây ra rồi. Kim Hà Vương vung tay, đường dây tháo ra, vươn dài đường dây nhỏ như tơ nhện, thẳng cứng. Lão bật cười hăng hắc, hỏi:
- Các ngươi có chịu nói hay không?
Buông dứt câu, lão đưa tay lên, đường dây thừng cứng lên theo, rồi lão hạ tay xuống đường dây nhắm lưng bọn Linh Nhi giáng mạnh.
Một đường dây nhỏ bằng tơ nhện chạm vào mình chúng phỏng có nghĩa lý gì, huống chi dù sao chúng cũng từng luyện tập nội công có sức chịu đựng đến mức độ nào đó?
Đường dây giáng xuống lưng thiếu nữ, từng nàng một bắt đầu từ nàng đầu tiên tới nàng cuối cùng, trong thoáng mắt nó đã đánh đủ hơn hai mươi thiếu nữ.
Chưa bị dây chạm, tất cả đều khinh thường, nhưng đường dây chạm nàng thứ nhất, nàng đó rú lên, rồi nàng đứng kế rú lên, tiếp theo là nàng thứ ba, đến nàng cuối cùng, chúng vừa rú, vừa co rúm người lại, cảm thấy đau đớn như bị trượng to đập vào mình.
Rồi đường dây không ngừng lên xuống, không rít gió, nhưng quất vào lưng bọn thiếu nữ kêu trói trót, chẳng khác nào roi vọt đánh mạnh, chỉ qua mấy cái quất đầu tiên, y phục của bọn thiếu nữ rách tơi tả, phần dưới còn che đậy phần nào cơ thể, chứ phần trên thì lộ da thịt trên làn da trắng, có hằn vết dây, dù nhỏ song trông rất rõ.
Chỗ tuyệt diệu của thủ pháp của Kim Hà Vương là đường dây giáng đúng vào huyệt đạo của bọn thiếu nữ, chúng đã đau vì bị đánh đau, càng đau hơn vì bị trúng nhằm những chỗ nhược. Chúng rúm người, rú thảm, mặt chúng xanh mét, chân tay run, trông hết sức não nùng.
Đã đến lúc phải liều, Linh Nhi và Châu Nhi chụp đường dây.
Đường dây tơ vàng lại vút lên tiếp, lần này chỉ giáng trót trót xuống lưng Linh Nhi và Châu Nhi.
Dĩ nhiên cả hai đau đớn vô cùng nhưng hai nàng cắn răng cố chịu đựng, không dám kêu than chi hết.
Kim Hà Vương vừa quất, vừa cười ha hả:
- Nói hay không nói? Có chịu nói không nào?
Thấy kẻ khác khổ sở, nhất là khổ sở do lão lão, lão đắc ý lắm.
Càng đắc ý lão càng quất nhanh, quất mạnh. Chẳng những không kêu than, Linh Nhi và Châu Nhi cũng có ý liều mạng toan nhào tới quyết sống chết với lão.
Đột nhiên có tiếng quát vang lên như sấm:
- Dừng tay! Dừng tay ngay! Ta nói!
Kim Hà Vương cười lớn:
- Có vậy chứ! Thế nào rồi cũng có kẻ phải nói chứ! Ha ha! Đừng hòng, nghịch ý với lão phu.
Lão giật mạnh cánh tay, đường dây thu về, cuộn tròn lại trong bàn tay lão.
Đường dây thu về rồi, lão tìm xem kẻ nào vừa tuyên bố là bằng lòng nói, chi thấy một tiểu tử mũi cao mắt sáng từ góc khoang thuyền bước tới, hiên ngang chững chạc.
Thì ra chính là Phương Bửu Nhi. Không rõ hắn đã tỉnh lại từ lúc nào.
Kim Hà Vương cau mày, hỏi:
- Chính ngươi? Ngươi là một tiểu quỷ, ngươi biết gì mà hòng nói?
Linh Nhi và Châu Nhi cùng mội loạt thét lên:
- Bửu Nhi lui lại ngay, ngươi không được nói gì hết!
Kim Hà Vương không hề tin tưởng một đứa bé như Phương Bửu Nhi lại biết được việc hệ trọng, song nghe Linh Nhi và Châu Nhi thét lên, lão sáng mắt liền, bởi nếu hắn chẳng biết gì thì tại sao hai nàng ngăn chặn?
Lao nhảy vọt tới cạnh hắn, vừa cười vừa thốt:
- Nói đi, nói mau cậu bé, lão phu sẽ cho kẹo, cho thật nhiều kẹo!
Gia gia đang chờ đây!
Phương Bửu Nhi trừng mắt:
- Gia gia của ai?
Kim Hà Vương giật mình cười lớn:
- Được! Được! Lão phu là gia gia của kẻ khác, chẳng phải gia gia của ngươi!
Phương Bửu Nhi cười hì hì:
- Hỡi lão đệ râu dài kia, nói thế nghe được đấy! Đại ca sẽ mua kẹo cho ăn.
Kim Hà Vương giật mình, đột nhiên sôi giận, nhưng chẳng dám phát tác, vì lão còn phải uyển chuyển để khai thác Phương Bửu Nhi.
Nếu làm dữ hắn sanh ngạnh, không chịu nói thì phiền phức lắm. Lão chẳng biết nói gì làm gì, cứ vuốt vuốt chòm râu dài óng ánh vàng, chờ xem thái độ của Phương Bửu Nhi.
Linh Nhi và Châu Nhi dù đang lo sốt ruột gan, trông thần thái của lão cũng khó nín cười.
Phương Bửu Nhi tiếp nối:
- Trước khi chết, Tử Y Hầu có lưu lại một phong mật giản, trong giản đó, có ghi chỗ ẩn trú của người sư huynh. Mật giản đó hiện do ai cất giữ, ngươi muốn biết chăng?
Kim Hà Vương vô cùng hân hoan thốt gấp:
- Muốn! Muốn lắm! Ai đâu, ngươi chỉ cho lão phu biết nhanh đi!
Phương Bứu Nhi hừ một tiếng:
- Nói chuyện với đại ca mà giở cái giọng đó à? Ngươi có thấy là vô lễ không?
Kim Hà Vương đằng hắng máy tiếng, mắng thầm:
- Tiểu súc sinh! Rồi ngươi sẽ biết tay lão phu? Lão phu cố dằn lòng chờ nghe ngươi nói rồi, sẽ đập nát xác ngươi cũng chưa muộn!
Bắt lão gọi bằng đại ca, kể ra Phương Bửu Nhi cũng còn lễ độ lắm, giả sử hắn bắt lão gọi bằng tổ tông lão cũng chẳng ngại. Cứ gọi để biết những gì muốn biết rồi, sẽ trừng trị tội hỗn láo của hắn, cũng chẳng thiệt gì.
Lão cố cười ròn, chấp tay, cung cung kính kính thốt:
- Xin đại ca nói đi! Đại ca cho biết người nào hiện đang giữ bức mật giản của Tử Y Hầu!
Thủy Thiên Cơ vỗ tay cười lớn:
- Việc quái dị, thời đại nào chẳng có, địa phương nào chẳng có, song cái sự quái dị hôm nay, thì quả thật là hi hữu! Một lão già râu dài phết đất lại gọi một tiểu tử bằng đại ca. Ha ha! Thú vị quá!
Linh Nhi và Chậu Nhi cũng bật cười xòa. Nhưng vừa buột miệng cười, lại nin lặng ngay, nhớ đến cảnh tình hiện tại hết sức bi thương lại òa lên khóc.
Phương Bửu Nhi trầm lạnh giọng:
- Ngươi muốn ta nói, điều đó chẳng khó khăn gì. Nhưng bọn thiếu nữ kia đối với ngươi chẳng có thù, có oán chi cả, ngươi hãy phóng thích chúng trước đi!
Kim Hà Vương cắn răng, cố lắng đọng niềm tức uất nghẹn nơi yết hầu, rồi gượng cười gật đầu:
- Dễ! Dễ lắm!....
Lão vẫy tay sang bọn Huỳnh Kim Ma Nữ:
- Giải khai huyệt đạo cho bọn chúng, rồi để chúng đi đâu thì đi!
Vàng bạc, châu báu, lão không màng, tự ái lão bất chấp, miễn sao biết được chỗ ở vị sư huynh Tử Y Hầu thì thôi. Đủ biết lão thù hận con người đó đến mức độ nào!
Lão hạ mình, gọi Phương Bửu Nhi một tiểu tử chưa ráo máu đầu là đại ca! Đủ thấy lão nhẫn nhục vô cùng. Thủy Thiên Cơ chế nhạo, lão vẫn lờ đi, nhưng sau khi thoa? mãn rồi, đừng hòng kẻ nào vô lễ với lão, mong sống sót nổi.
Bọn Huỳnh Kim Ma Nữ hành động rất nhanh chóng, trong thoáng mắt, bọn thiếu nữ tỉnh lại như thường. Ngày nào, còn Tử Y Hầu, chúng là những con người rất tôn quý, trên giang hồ có mấy kẻ dám trêu vào chúng. Nhưng, hiện tại, chúng là những kẻ xót thương nhất đời, có mắt khôg dám nhìn ai, có miệng không dám thốt nên lời. Mọi tư thái đều xếp gọn, nhường chỗ cho dáng sợ hãi, đứng tại đó chẳng khác nào đứng giữa lò sát sinh, chờ tên đồ tể hạ con đao tuyệt mạng.
Nàng nào cũng đưa tay bấu víu những mảnh y phục rách, cố che giấu phần nào hở hang trên cơ thể, chúng đưa mắt khẩn cầu, nhìn Linh Nhi và Châu Nhi, như kêu cứu hai nàng tìm biện pháp che chở chúng...
Song, Linh Nhi và Châu Nhi còn biết làm gì cho chúng? Chính hai nàng rồi cũng không biết số phận mình rồi sẽ ra sao, thì chiếu cố đến ai nổi?
Hai nàng cúi thấp đầu khẽ bảo:
- Các ngươi nên đi thôi!
Phương Bửu Nhi cũng chẳng nỡ nhìn thẳng vào mặt chúng, cất cao giọng để ngăn chặn niềm xúc cảm dâng trào:
- Những chiếc rương nơi góc thuyền kia, ngươi ưng thuận cho chúng mang đi chứ?
- Tự nhiên! Tự nhiên!....
Chính lão ra lệnh cho bọn Huỳnh Kim Ma Nữ khuân những chiếc rương cho bọn thiếu nữ.
Những chiếc rương đựng bạc vàng châu ngọc của Tử Y Hầu để lại cho chúng làm của phòng thân sau ngày Hầu gia chết...
Các thiếu nữ y phục xác xơ, run lạnh trước những cơn gió biển lộng vào những khung cửa sổ, tất cả đứng lặng tại chỗ, không nàng nào muốn rời đi cả.
Kim Hà Vương quát to:
- Bọn xú liễu đầu, chưa chịu đi ngay còn đợi gì nữa? Các ngươi muốn nếm mùi vị đường dây của lão phu lần nữa à?
Các thiếu nữ hoảng hồn, đồng quỳ xuống nước mặt Linh Nhi và Châu Nhi, thốt nức nở:
- Bọn tôi không xứng đáng với Hầu giạ..
Linh Nhi an ủi chúng:
- Hầu gia có linh thiêng, hẳn không trách các ngươi đâu, các ngươi yên tâm ra đị..
Thủy Thiên Cơ chen lời:
- Phải đó, chính Hầu gia cũng bảo các ngươi nên rời thuyền. Các ngươi nên đi sớm đi, đi càng sớm càng tốt, chần chờ mãi biết đâu chăng có biến cố bất ngờ gây tai nạn cho các ngươi?
Cuối cùng, các thiếu nữ không còn làm gì khác hơn là nhặt rương bước đi, mỗi nàng đều nhìn Phương Bửu Nhi một thoáng, ánh mắt thiết tha lưu luyến vô cùng.
Ánh mắt đó, có lẽ suốt đời Phương Bửu Nhi không quên được...
oo Đêm xuống sâu, mây giăng dày, che khuất tinh quang...
Hơn mười mấy bóng mường tượng bóng ngươi, cầm đèn bão hoặc đứng, hoặc ngồi, ở bên ngoài khoang thuyền, những bóng đó cũng ánh ngời màu vàng như các Huỳnh Kim Ma Nữ của Kim Hà Vương.
Đặc biệt hơn, những bóng đó cũng thấp nhỏ như Kim Hà Vương, song toàn thân lông lá mọc đều.
Nhìn kỹ một chút, mới biết chúng không phải là những con người lùn như lão, chúng chỉ là những con vượn lông vàng, được Kim Hà Vương huấn luyện rất công phu, nên hiểu được ý người.
Bên cạnh thuyền, lềnh bềnh trên mặt nước, có mười mấy chiếc thuyền da thú. Có lẽ bọn Huỳnh Kim Ma Nữ dùng những bè đó từ bờ biển ra tận đến thuyền, nên chúng xuất hiện như bóng ma, chẳng gây tiếng chạm...
Bọn thiếu nữ thả thuyền con xuống nước, rồi lần lượt đeo dây neo, vác rương báu xuống theo, tiếng khóc của chúng còn vọng lại, trong khi những chiếc thuyền con rẽ sóng tiếng vào bờ.
Kim Hà Vương nóng nảy không chờ lâu, khi chúng khuất dạng bên ngoài, lão quay qua Phương Bửu Nhi, cười cởi mở:
- Bức mật giản ở trên mình kẻ nào, xin lão huynh nói ngay đi!
Những sự gì lão huynh đòi hỏi, đều được thỏa mãn cả rồi đó!
Phương Bửu Nhi dõng dạc thét:
- Trên mình ta đây!
Kim Hà Vương giật mình, nhưng hắn giữ nụ cười tươi:
- Trên mình lão huynh? Vậy lão huynh trao đây!
Phương Bửu Nhi nhìn sững lão, như nhìn quái vật, ánh mắt nửa phần ngạo nghễ, nửa phần trào phúng, một lúc lâu, hắn buông gọn:
- Ngươi không lấy được đâu, đừng hi vọng!....
Kim Hà Vương bật cười ghê rợn:
- Tiểu súc sinh! Ngươi lừa ta! Ngươi lừa thì phải nếm cái khổ của đường dây tơ vàng, lừa ta là phải chết với ta!
Phương Bửu Nhi cười lớn:
- Ngươi bất quá là một con vượn vàng. Người có thể giết ta, ăn thịt ta, đập nát xác ta, đốt cháy ta, trầm thủy cho ta chết ngộp, ngươi có thể làm bất cứ gì ngươi muốn, để sát hại ta, trừ cái việc thủ đoạn bức mật gian đó, bởi ta đã nuốt nó vào dạ dày rồi.
Linh Nhi và Châu Nhi vừa sợ vừa mừng, vừa cảm động, có lẽ niềm cảm động mạnh hơn tất cả mọi ý niệm khác, nên hai nàng lại rơi lệ.
Những hạt lệ đó, hiển nhiên dành cho Phương Bửu Nhi, có ai ngờ đâu một tiểu tử nhỏ tuổi như hắn lại có tâm trường thâm hậu, có can đảm to lớn...
-
Hồi 10
Mưa Gió Vô Tình
Nếu một lằn sét giáng xuống đầu có lẽ Kim Hà Vương không kinh khủng hơn nghe Phương Bửu Nhi bảo thế.
Lão kinh khủng đến thừ người ra, lâu lắm lão mới hoàn hồn, trở về thực tế, lão thét lên:
- Tiểu súc sinh! Lão phu sẽ lột da ngươi!
Lão vươn hai cánh tay ra mười ngón xòe nhọn hoắt, như mười mũi dùi sắp sửa chộp vào yết hầu của hắn...
Thân pháp của lão nhanh quá, hơn nữa Phương Bửu Nhi chẳng biết mảy may võ công làm gì tránh né kịp...
Lão chụp hắn, giơ bổng hắn lên khỏi mặt sàn thuyền, hắn nghe hơi thở nghẹn lại, mặt đỏ bừng vì nghẹt. Tuy nhiên, Phương Bửu Nhi cố điểm một nụ cười, bởi hắn biết chắc thế nào cũng phải chết với lão.
Hắn đã tự nguyện chết, để cứu nạn bọn thiếu nữ, để cứu vãn tình hình các hạng người nào còn sót lại trên thuyền được bình an vô sự.
Bên ngoài, hắn điểm nụ cười, bên trong hắn nghe đau vô cùng, vì cái chộp của Kim Hà Vương khá mạnh, vừa đau vừa nghẹt thở, mũi hắn cứ khịt khịt mãi.
Linh Nhi cao giọng:
- Bửu Nhi đừng sợ, có bọn ta đến đây! Bọn ta sẽ cùng chết với ngươi.
Châu Nhi phụ hoạ:
- Còn ta nữa! Ta sẵn sàng cùng chết với các ngươi.
Cả hai vừa khóc vừa dợm chân nhào tới.
Thủy Thiên Cơ quát:
- Buông hắn mau!
Kim Hà Vương bật cười ghê rợn:
- Đợi lão phu lột da hắn xong rồi buông xuống cũng chưa muộn!
Thủy Thiên Cơ gằn từng tiếng:
- Lột da hắn, đặng cho tôi trở thành quả phụ sao?
Kim Hà Vương giật mình, nhìn sững nàng:
- Ngươi nói sao?
Thủy Thiên Cơ điềm nhiên:
- Hắn là trượng phu của ta, ta đã thành hôn với hắn từ lâu rồi, với danh nghĩa là tiểu trượng phu của Thủy Thiên Cơ, hắn nghiễm nhiên trở thành tiểu chủ nhân trong Thánh Thủy Thần Cung. Lão nhân gia dám giết hắn à?
Kim Hà Vương ngẩng mặt lên không, bật cười ha hả:
- Ngươi được gả cho hắn? Ai gả ngươi? Tiểu súc sinh đó mà trở thành tiểu trượng phu của ngươi à? Ha ha! Đừng đùa nữa, cô bé ơi!
Không ai tin ngươi đâu, đừng bày chuyện khôi hài, nhạt lắm!
Lão cho là chuyện khôi hài vì lão thấy Linh Nhi và Châu Nhi khóc ồ ồ, bỗng nhoẻn miệng cười, đó đúng là cảnh cười trong nước mắt nhưng chẳng còn vẻ khổ.
Dù lão nói thế nhưng quan sát thần thái của Thủy Thiên Cơ, lão chợt tỉnh ngộ, biết chẳng phải chuyện đùa. Rồi từ chỗ cương quyết giết Phương Bửu Nhi, lão lộ sự miễn cưỡng rõ rệt.
Tiếng cười của lão càng lúc càng yếu ớt, cuối cùng thì chỉ còn sôi ụt ụt trong yết hầu.
Thủy Thiên Cơ cười hì hì, hỏi:
- Chưa chịu buông tiểu trượng của tôi sao, lão nhân gia?
Kim Hà Vương nghiến răng, dậm chân thình thịch, đột nhiên hắn cười lớn, giọng cười ghê rợn vô cùng, cười một lúc, lão thiết tha van cầu:
- Thủy cô nương! Để cho lão phu giết tiểu tử đi? Lão phải giết hắn mới được, nếu không giết được hắn, lão tức uất mà chết mất! Cô nương chấp nhận cho điều đó nhất định lão phu suốt đời không quên ơn...
Thủy Thiên Cơ cười nhẹ, lắc đầu:
- Lão nhân gia quên tiểu trượng phu của tôi sao? Có bao giờ vợ chấp nhận cho người ta giết chồng mình không? Yêu cầu sự gì còn có thể được, chứ giết chồng tôi, lão nhân gia đừng hy vọng!
Kim Hà Vương khổ sở ra mặt:
- Cô nương chấp nhận đi, rồi bắt lão phu làm gì cũng được, bắt lão phu gọi cô nương bằng dì, bằng mẹ cũng được, lão phu quỳ trước mặt cô nương, tùy ý sai khiến...
Thủy Thiên Cơ lắc đầu:
- Không! Không thể được! Tôi chẳng thể chấp nhận cho bất kỳ ai biến tôi thành một quả phụ!
Dịu không xong, Kim Hà Vương nổi nóng, quát to:
- À! Xú liễu đầu! Ta đấu dịu, ngươi không nghe! Ngươi không nghe rồi ta lại chịu thua ngươi à? Ngươi phải biết trong Ngũ Hành Cung, mấy mươi cao thủ đó phỏng có tên nào địch nổi lão phu không? Lão phu giết hắn rồi, liệu có ai dám làm gì lão phu chăng?
Thủy Thiên Cơ bật cười hăng hắc:
- Phải võ công của lão nhân gia rất cao, tuyệt cao, chẳng ai địch lại, nhưng trước mặt mẹ tôi lão nhân gia cầm như một phế nhân, thì có võ công cao mà làm gì? Bây giờ hùng hùng hổ hổ lắm, khi đứng trước mặt mẹ tôi lại chẳng dám thở mạnh? Hà hà!
Kim Hà Vương xịu mặt, rồi cúi đầu, hai bàn tay nhuộm vàng đã biến thành màu đỏ, có lẽ mặt lão nóng, tai lão cũng nóng, nóng vì thẹn.
Lão không phản kháng, điều đó chứng tỏ Thủy Thiên Cơ nói đúng sự thật, lão không sợ trời không sợ đất, nhưng chỉ sợ mẹ Thủy Thiên Cơ!
Bọn Huỳnh Kim Ma Nữ ngầm đưa mắt nhìn nhau, nàng nào cũng chúm chím cười, nụ cười đầy vẻ mỉa mai, châm biếm...
Là người trong Ngũ hành Cung, dĩ nhiên Huỳnh Kim Ma Nữ rất hiểu sự tình, hiểu như Thủy Thiên Cơ, Kim Hà Vương sợ chủ nhân Thánh Thủy Cung như sợ nữ thần. Chúng cười con người từng khoa trương một khí phách phi thường, nhưng đối với một nữ nhân, lại ngoan ngoãn như trẻ nít.
Cung chủ Thánh Thủy Cung oai phong như thế nào? Nhan sắc như thế nào? Kim Hà Vương sợ Oai hay sợ sắc?
Lão cúi gầm đầu như vậy một lúc lâu, đoạn ngẩng mặt lên, ánh mắt ngời ý niệm nham hiểm, từ từ hỏi:
- Nếu lão phu giết luôn ngươi, thì làm sao mẹ ngươi biết được sự tình mà tìm lão phu báo hận?
Thủy Thiên Cơ cười mỉa:
- Lão nhân gia dám giết tôi?
Kim Hà Vương gằn giọng:
- Sao lại không dám?
Thủy Thiên Cơ rùn vai:
- Nhất định là lão nhân gia không dám làm! Bởi, chẳng bao giờ lão nhân gia quên, Thánh Thủy Cung có Vô Thủy Huỳnh Phong Châm, dù lão nhân gia có hạ thủ sát hại tôi, tôi cũng có thể tặng lại một mũi châm, trúng mũi châm đó thì cầm như bị tổ tông gọi hồn về âm cảnh, trên thế gian này không ai ngoài người trong Thánh Thủy Cung có phương pháp cứu giải! Sở dĩ Mộc Lang Quân không dám quyết liệt với tôi, cũng chỉ vì thấy mũi Vô Thủy Huỳnh Phong Châm. Thiết tưởng lão nhân gia chưa thích chết gấp?
Kim Hà Vương sững sờ, ngây người ra đó.
Một lúc lâu, lão vụt buông Phương Bửu Nhi, rồi lão nghiến răng ken két, rồi gầm gừ:
- Tức chết! Tức chết ta thôi!
Có thể là lão tức uất tràn lòng thật sự, lão quay mình nhún chân vọt mạnh tới, đầu chạm vào vách thuyền bật tiếng bốp.
Đầu lão chẳng hề sứt mẻ trầy trụa, nhưng vách thuyền bung mấy mảnh, bay một lỗ trống, đà lao của lão còn mạnh, lão bay vọt tuốt ra bên ngoài.
Linh Nhi và Châu nhi thấy công lực của lão quả là phi thường, đều lắc đầu lè lưỡi, sợ hãi đến xanh mặt.
Rồi một tiếng bốp thứ hai vang lên, ván vách lại bung ra, bày một lỗ trống thứ hai, Kim hà Vương từ bên ngoài bay vút trở lại qua lỗ trống sau cùng đó.
Chân vừa chấm sàn thuyền, lão ngẩng mặt lên không nói, bật cười ghê rợn.
Mặc lão xuyên vách thuyền ra ngoài, vào trong, Thủy Thiên Cơ không thèm nhìn lão đến nửa mắt. Nàng bước tới cạnh Phương Bửu Nhi lúc đó bị Kim Hà Vương buông vội, ngã nhào xuống sàn. Nàng đưa tay vỗ nhẹ lên mình hắn, dịu giọng hỏi:
- Có đau lắm không?
Hỏi han, vỗ về Phương Bửu Nhi xong, nàng mới ngẩng mặt nhìn Kim Hà Vương hỏi cộc lốc:
- Đã hả chưa, lão nhân gia?
Nàng cười nhẹ, tiếp nối:
- Phát tiết phẫn uất mà làm hỏng vách thuyền của người ta như thế này, kể cũng đáng trách lắm?
Chừng như tinh thần lắng dịu, Kim Hà Vương bật cười ha hả:
- Ngu! Ngu như lừa! Ta đúng là ngu như lừa!
Thủy Thiên Cơ bĩu môi:
- Đến bây giờ, lão nhân gia mới phát hiện ra điều đó?
Kim Hà Vương không để ý tới nàng, cứ cười cuồng dại một lúc rồi tiếp:
- Tuy lão phu không thể giết chết hai ngươi, nhưng chẳng lẽ không được bắt giam các ngươi một nơi, rồi hành hạ các ngươi, từ từ hành hạ.
Người có thể chịu nổi chứ tiểu tử thì nhất định là không chịu nổi. Hắn sẽ cung khai với ta vị sư huynh của Tử Y Hầu hiện ẩn trốn tại địa phương nào!
Thủy Thiên Cơ biến sắc, lần thứ nhất nàng thoáng lộ niềm sợ hãi.
Kim Hà Vương bật cười khoái trá:
- Dù lão phu không tìm được thi thể của Tử Y Hầu, song phá hủy chiếc thuyền này, được phần nào hay phần ấy, như vậy cũng hả dạ lắm rồi!
Linh Nhi và Châu Nhi cũng biến sắc luôn, họ biến sắc vì chẳng những xác của Tử Y Hầu còn trên thuyền, mà tiểu công chúa cũng còn lại đây, trước đó cả hai không dám chú ý đến tiểu công chúa vì sợ Kim Hà Vương sinh nghi, lão sẽ tìm cách cật vấn, và sẽ hiểu là hậu nhân của Hầu gia rất có thể lão chuyển nộ sang nàng.
Giờ đây Kim Hà Vương đòi phá hủy trọn con thuyền, nếu lão lục soát khắp nơi thì thế nào cũng gặp tiểu công chúa. Cả hai cố giữ ý cũng chẳng ích lợi vào đâu, nên đồng nhào tới chỗ tiểu công chúa đang nằm mê man bất tỉnh, rồi quắc mắt nhìn lại Kim Hà Vương, rung rung giọng nói:
- Tiền bối dám...
Giọng nói rung rung vì giận chứ không phải vì sợ, bởi hai nàng đến nước này, có sợ cũng bằng thừa, sợ đến mức độ nào, chắc gì Kim Hà Vương thương tình mà bỏ qua cho họ hay cho tiểu công chúa.
Kim Hà Vương càng cười lớn:
- Sao lại không dám? Lão phu sẽ phá hủy con thuyền, lão sẽ giết tất cả những người trên thuyền nữa đấy! Riêng về nàng ấy thì...
Lão đưa tay chỉ tiểu công chúa tiếp:
- Lão phu đoán nàng là giọt máu của Tử Y Hầu, lão sẽ tha chết cho nàng, chịu khó nuôi nàng khôn lớn, để dùng nàng làm thiếp thứ một trăm chín mươi chín...
Linh Nhi sôi giận:
- Tiền bối dám...
Vừa lúc đó bên ngoài có tiếng niệm Phật vang lên:
- A Di Đà Phật!
Tiếp theo tiếng niệm, một giọng nói cực kỳ quái dị vang lên:
- Không ai được động đến một cọng rác trên con thuyền này, đừng nói gì là tài vật, nhân mạng!
Tuy tiếng niệm phật và câu nói nghe rất rõ ràng, song thực ra thì người phát âm còn xa. Nhưng, tiếng cuối của câu nói vừa dứt, chừng như người đó đã cận kề rồi.
Có thuật khinh công như vậy, hẳn người đó phải là một nhân vật phi thường.
Tự nhiên, Kim Hà Vương đã nhận ra người đó là ai, lão vừa giận vừa cao giọng hỏi:
- Già Tinh Pháp Vương phải không?
Kim hà Vương chưa từng tiếp xúc với vị cao tăng đó lần nào, song có nghe giang hồ truyền thuyết, lão tăng là tay vô cùng ghê gớm, trên giang hồ này, may ra chỉ có Tử Y hầu khả dĩ đối địch với lão, còn lại thì ai ai cũng ngán.
Già Tinh Pháp Vương vào đến nơi khi câu hỏi của Kim Hà Vương vừa dứt, Pháp Vương điểm một nụ cười, vì quá ốm, thân xác chỉ còn da bọc xương, nên nụ cười của Pháp Vương mường tượng cái bĩu môi.
Pháp Vương hai tay chắp chữ thập, từ từ nói:
- Không ngờ Kim Cung ma chủ lại nhận thức được bần tăng. Thật hân hạnh cho bần tăng quá!
Già Tinh Pháp Vương xưa nay cũng chưa từng có dịp tiếp xúc với Kim Hà Vương. Song nhìn vào cái lối trang phục của lão Kim nhất là màu vàng, đặc biệt hàm râu dài phết đất, xem hình dáng và trang phục đó, phối kiểm với lời truyền thuyết trên giang hồ, tự nhiên Pháp Vương biết ngay đối tượng là ai rồi!
Kim Hà Vương bật cười khanh khách:
- Bổn Cung với đại sư từ bao lâu giang san ai nấy giữ, không hề có việc xâm phạm nhau, chẳng hay hôm nay với lý do gì đại sư lại định can dự vào việc của bổn cung?
Linh Nhi và Châu Nhi nghe câu nói của Già Tinh Pháp Vương thốt lên ngay từ lúc đầu vừa đến, lòng mừng vô hạn. Nhưng hai nàng vừa hy vọng đó, lại thất vọng ngay, bởi Pháp Vương lạnh lùng đáp:
- Cung chủ muốn làm gì tùy thích, nhưng cung chủ có thể tác oai, tác phúc ở bất cứ địa phương nào, đối với bất kỳ ai, riêng về con thuyền buồm ngũ sắc thì không được động tới. Con thuyền này cầm như thuộc về bần tăng, chẳng những cung chủ phải chừa ra, mà bất cứ ai trên giang hồ cũng phải chừa ra, ai động đến nó tức là công khai đối lập với bần tăng.
Bằng vào khẩu khí của Pháp vương, bọn Linh nhi và Châu Nhi còn làm sao mong vọng nơi lão tăng nữa? Lão chẳng phải là một kẻ đến đây để tranh đoạt một quyền lợi, không hơn không kém.
Tai hại cho hai nàng là, mỗi sự xuất hiện tiếp nối mang lại niềm hy vọng mong manh, niềm hy vọng tan rã thì sự thất vọng hiện lên, sự thất vọng sau cùng lại to lớn hơn sự thất vọng đầu tiên, bởi kẻ đến sau luôn luôn lợi hại hơn kẻ đến trước.
Già Tinh Pháp Vương tỏ ra lợi hại hơn Kim Hà Vương, cũng như Kim Hà Vương trên bậc Bành Thanh. Sau Già Tinh Pháp Vương còn ai nữa? Pháp Vương dành số phận nào cho họ? Thủy Thiên Cơ có uy tín gì đối với Pháp Vương chăng.
Thủy Thiên Cơ bước tới điềm nhiên thốt:
- Ngươi thất vọng à? Tại sao phải thất vọng chứ? Nên hiểu đêm nay, phàm những ai trên thuyền này đều có hảo ý đối với các ngươi cả.
Bất quá, mục đích của họ bất đồng nhưng chung quy họ không lang thì sói, đừng mong mỏi một sự trợ giúp của bất kỳ ai. Chính mình phải tìm phương tự cứu.
Linh Nhi ấp úng:
- Tự cứu! Bằng phương pháp gì?
Thủy Thiên Cơ thở dài:
- Hiện tại ta cũng chưa nghĩ ra một phương pháp nào cả?
Kim hà Vương cười lạnh:
- Không ngờ đại sư lại mơ vọng đến di vật của người! Đã trí thân thế ngoại, lánh tục tu chân, kệ chiều kinh sớm, đại sư lại phủ nhận tam giới, tại hạ e rằng Đức Phật từ bi sẽ trách cứ nặng nề!....
Già Tinh Pháp Vương trầm giọng:
- Bần tăng không đành để cái võ công tuyệt thế cửa Tử Y Hầu thất truyền trên giang hồ, nên mới kiêm trình đến gấp nơi đây, thu nhặt bí kíp, thay Hầu gia truyền môn học diệu huyền cho thế nhân. Đó là do hảo ý bảo tồn quí vật, lưu lại thế nhân hưởng thụ, đời đời kiếp kiếp, ngoài ra bần tăng không hề thủ đắc một vật gì khác. Làm như vậy, bần tăng vẫn ở trong tôn chí cứu đời giúp thế, bần tăng làm sáng tỏ cái đạo từ bi, bần tăng có công chứ nào có tội!
Kim Hà Vương cười nhạt:
- Thực ra tại hạ đã thất ngôn!.
Già Tinh Pháp Vương chấp tay:
- A di đà phật? Lành thay? Lành thay!
Bỗng Kim Hà Vương cười lớn:
- Cái dạ từ bi của lão hòa thượng thật đáng ngợi vô cùng. Nhưng lão hòa thượng quên rằng, tuyệt học của Tử Y Hầu, nếu cần truyền lại thế nhân, thì Hấn gia có thừa người làm việc đó, đâu phải đến lão hòa thượng?
Già Tinh Pháp Vương hừ một tràng:
- Ngươi thử nói cho bần tăng biết, ai là truyền nhân của Tử Y Hầu?
Kim Hà Vương khoát một vòng tay:
- Tất cả mọi người trên thuyền này!
Già Tinh pháp vương đảo mắt nhìn quanh, từ Phương Bửu Nhi, Thủy Thiên Cơ, Linh Nhi, Châu Nhi, tiểu công chúa, đoạn lạnh lùng thốt:
- Nhóm người này, bản chất căn cơ đều kém. Nếu lãnh trọng trách đại diện cho Tử Y Hầu thì môn hộ phải lu mờ ngay. Bần tăng cùng Tử Y Hầu vốn là chỗ thân giao với nhau qua nhiều năm tháng. Do đó, bần tăng bất nhẫn để cho thanh danh của Hầu gia phải mai một với thời gian, nên chẳng quản dặm dài, lặn lội đến đây tự nguyện làm cái việc móc nối giữa hai thế hệ, bảo tồn cái tinh túy võ thuật cho người đời hưởng dụng. Trên không phụ chỗ tri giao của người quá cố, dưới trọn vẹn cái đạo từ bi cứu thế trợ nhân! Bí kíp của Tử Y Hầu đương nhiên phải về tay bần tăng.
Kim Hà Vương cười mỉa:
- Tại sao lão hòa thượng không nói trắng ra là mình đến đây để cướp đoạt bí kíp võ công của Tử Y Hầu, hà tất phải phí lắm công phu vẽ lời hoa mỹ? Muốn là làm, làm đường hoàng, làm công khai, dù mục đích có đê hèn, nhưng hành động quang minh, thiên hạ trách được chứ không chê được!
Già Tinh Pháp Vương sôi giận:
- Ngươi dám buông lời vô lễ đối với bần tăng?
Kim Hà Vương cười lớn:
- Đêm nay trước sau gì cũng có cuộc chiến giữa ngươi và ta thì nói đến lễ độ làm gì vô ích? Huống chi ngươi có cái quái gì, dám trách ta vô lễ? Ta là hạng người thế nào, phải thủ lễ với ngươi? Ai sợ ngươi chứ Tây Kim Cung chẳng xem ngươi ra gì đâu!
Già Tinh Pháp Vương trầm giọng:
- Được lắm, bần tăng muốn thấy tận mắt tuyệt kỹ của Tây Kim Cung như thế nào!
Song phương trừng mắt nhìn nhau. Một bên thì gầy ốm, cao nhong nhong, bên kia thì lùn thấp, lè tè như chiếc nấm. Một cuộc đối diện của hai thái cực, bên nào cũng khôi hài cả.
Một ngọn gió từ ngoài khơi lòn qua các khung cửa, tạt vào, gieo lạnh cho mọi người, trừ hai đối thủ. Ngọn gió khá mạnh.
Song mọi người không nghĩ đến cái lạnh, họ đang chú hết tâm tư theo dõi cuộc chiến kinh hồn khai diễn giữa hai cao thủ tuyệt luân, một cuộc chiến phải kết thúc bằng sự sống chết.
Là con nhà võ, họ cảm thấy cái hứng dâng cao trước mọi cuộc thi triển võ công, dù rằng họ chưa thoát ra ngoài nguy cảnh, họ quên đi một lúc cái lo, để chứng kiến cuộc so tài hi hữu.
Họ đã mục kích cuộc chiến không tiền khoáng hậu giữa Tử y Hầu và người áo trắng, nhưng cả hai chỉ dùng kiếm pháp quán thế mà giao thủ, lối giao thủ lại đường đường chánh chánh, do đó kém phần ngoạn mục.
Giờ đây đối thủ là những người quái dị, sở học của họ cũng quái dị, thì cuộc giao đấu phải vô cùng quái dị, tự nhiên phải ngoạn mục hơn, họ không thể bỏ qua, dù mục kích mãn nhãn rồi, có ra sao thì ra, họ cũng cam tâm.
Ngoài ra, họ còn nhận thấy một điểm bất đồng giữa hai cuộc chiến Tử y Hầu và người áo trắng, ai thắng ai bại, quần hùng đều quan tâm, còn Già Tinh Pháp Vương và Kim hà Vương, dù ai thắng ai bại, điều đó họ chẳng mảy may tha thiết. Bởi không tha thiết họ mới cao hứng trọn vẹn khi mục kích một cuộc đấu phi phàm.
Giả sử cả hai cùng bị thương vong như nhau, thì đúng là một đại hạnh cho họ.
Già Tinh Pháp vương và Kim Hà vương cùng gườm nhau, chưa ai xuất thủ trước.
Hai đối thủ bất động, bọn người dự khán cũng bất động.
Đột nhiên, Kim Hà vương vung bàn tay. Đường giây tơ vàng bay vút ra, kêu một tiếng rẹt, xẹt đến Pháp vương liền.
Mọi người đều nghĩ, Pháp vương hẳn phải giữ thân pháp cực kỳ linh diệu né tránh, hoặc có một thủ đoạn gì hóa giải đường dây.
Nhưng không, nhà sư vẫn bất động, đứng nguyên tại chỗ như trồng, mặc cho đường dây quất vào mình.
Linh Nhi và Châu Nhi từng nếm cái khổ của đường dây đó, nghe tiếng vút đã lạnh người, rồi thấy nhà sư bất động. Cả hai trố mắt nhìn.
Một tiếng trót vang lên, đường dây quất mình nhà sư, lão chẳng hề chớp mắt, cau mày nhăn mặt, chẳng hề nhúc nhích, tưởng chừng một sợi tơ nhện bị gió cuốn, phớt qua mình lão.
-
Kim Hà Vương quất luôn bốn lượt. Già Tinh Pháp Vương vẫn bất động, miệng điểm nhẹ một nụ cười.
Kim Hà Vương rít lên một tiếng cười ken két, khẽ giật tay, đầu dây uốn lại quanh mình Pháp Vương, quấn thành nhiều vòng như trăn quấn mồi, định rút hẹp cho vỡ xương:
Xong lão giật mạnh.
Già Tinh Pháp Vương nhắm mắt lại, không thấy lão làm một cố gắng nào, nhưng lão vẫn đứng vững như thường, mặc dù Kim Hà Vương tận lực bình sinh giật đường dây.
Mọi người đểu thán phục bộ pháp vững như núi của nhà sư, riêng Linh Nhi lại lẩm bẩm:
- Đành rằng Pháp Vương là tay lợi hại, tuy nhiên giao đấu mà cứ bất động mãi thì sao thủ thắng?
Châu Nhi cãi:
- Biết đâu lão chẳng nắm được cái cơ tất thắng rồi? Bất quá tại lão chỉ đùa thôi mà cũng để lung lạc tinh thần của đối phương phần nào?
Thủy Thiên Cơ cười nhẹ:
- Lo nghĩ ai thắng ai bại làm gì cho phí công? Mà chẳng có lợi gì cả. Nếu cả hai cùng bại, cùng chết, thì càng hay!
Nàng đang nắm cánh tay Phương Bửu Nhi, bàn tay nàng bị vùng mạnh, nàng nhìn qua hắn hỏi:
- Ngươi muốn gì?
Phương Bửu Nhi thấp giọng đáp:
- Đại đầu thúc thúc gọi ta, ta phải đi, xem đại thúc muốn bảo gì!
Lúc đó, thần sắc Kim Hà Vương hết ngưng trọng, đường dây bị kéo thẳng, tuy nhỏ, nhưng không đứt.
Lão cố kéo, nín thở mà kéo, Già Tinh Pháp Vương vẫn không nhúc nhích. Luyện được thân pháp muốn vững thì vững như núi đó, Già Tinh Pháp Vương theo đúng một bí quyết, gồm vỏn vẹn một chữ “nhẫn”.
Phàm người trong phái Mật Tông, chẳng ai không biết bí quyết đó. Cao thủ nào luyện được đến mức độ siêu huyền thì vào lửa, lửa chẳng đốt, xuống nước, nước không làm ngộp thở, bị chôn trong lòng đất mấy mươi ngày, vẫn sống được như thường. Những việc gì trong thiên hạ, không ai nhẫn được, họ chịu nổi như thường. Nếu hai đối thủ có tài ngang nhau, ai cao chữ nhẫn, người ấy thắng là cái chắc. Với chữ nhẫn, nhu có thể thắng cang, nhược có thể thắng cường.
Già Tinh pháp vương là đệ nhất cao thủ vùng Thiên Trúc, hẳn nhiên lão luyện bí quyết đó đến giới cảnh siêu nhiên, điều đó không lạ gì.
Bên ngoài trời càng về khuya, gió càng thổi mạnh, sự kiện đó hẳn có vẻ khác thường, bởi những đêm thanh, trời thường gió tịnh. Con thuyền buồm ngũ sắc to lớn như một tòa gia trang vẫn rung chuyển mạnh, song mọi người không lưu ý đến biến động của không gian, đấu thủ thì lo cự địch, dự khán thì lo theo dõi song phương, họ chú tất cả tâm thần vào cục diện.
Trán Kim Hà vương đã bắt đầu rịn mồ hôi, thoạt đầu lấm tấm, dần dần kết thành hạt to, rồi thành giòng, chảy dài xuống mặt, xuống ngực áo.
Phương Bửu Nhi đã trở lại bên cạnh Linh Nhi, thì thầm:
- Đại đầu thúc thúc bảo ta hỏi ngươi, nơi nào là chỗ cất chứa thơ sách của Tử y Hầu.
Linh Nhi kề miệng sát tai hắn:
- Trong gian phòng do Hầu gia đã yên lần cuối trước khi chết!
Phương Bửu Nhi lại đi ngay.
Bỗng, Kim Hà vương quát to:
- Múa!
Bọn Huỳnh Kim Ma Nữ lập tức rập nhau vâng một tiếng lớn, đoạn xếp thành hàng bắt đầu uốn mình, chớp tay, nghiêng đầu, soạt chân.
Chúng múa rất uyển chuyển, vừa múa vừa phát ra một âm hình kỳ dị, tựa hồ như tiếng rên, nhưng nghe thì vô cùng êm ái, âm thanh ngân lên, dài ngắn rập theo vũ điệu nhanh hay chậm.
Đặc biệt nhất là thanh âm phát ra song mồm của chúng không há rộng, đến môi cũng chẳng thấy mấp máy. Chừng như âm thanh phát ra từ mũi, song quyến rũ lạ thường.
Vũ điệu mê ly, âm thanh mê ly, chúng lại trần như nhộng để lộ các bộ phận có các đường cong tuyệt mỹ, thân hình mê ly, mỗi một nàng có một sức hút mãnh liệt, ai nhìn vào là tâm thần tán loạn ngay. Sức hút đó kết thành toán, thành đội, tạo nên một cái khối hấp dẫn phi phàm.
Nhìn chúng, nghe chúng thì đừng mong giữ vững đấu trí, đừng mong phản ứng linh hoạt trước nhưng chiêu thức tân kỳ.
Có lẽ chỉ trong trường hợp Kim Hà Vương nhận thấy khó thủ thắng trước một đối phương có bản lãnh cao, và ý chí kiên trì, lão mới nhờ đến vũ pháp của bọn Huỳnh Kim Ma Nữ.
Mà có lẽ chúng được huấn luyện với mục đích duy nhất đó, hơn là giúp vui cho những buổi yến tiệc linh đình.
Lão chẳng thu thập kết quả nhỏ mọn nào với đường dây tơ vàng tuyệt diệu, giờ thì lão gọi đến bọn Huỳnh Kim Ma Nữ.
Bọn Linh Nhi tuy cùng một giống, vẫn mê mẩn như thường trước sức hút của bọn Huỳnh Kim Ma Nữ, huống hồ là bọn nam nhân.
Nhìn chúng, nghe chúng, chẳng ai tự chủ được nữa...
Già Tinh Pháp Vương đang giữ thần thái an trung kiên định bỗng nhiên biến sắc, rồi từ từ sắc diện ảm đạm, rồi từng hạt mồ hôi lấm tấm rịn ra, thoạt nhỏ, dần dần to, kết thành dòng.
Trái lại, Kim Hà vương dần dần giảm bớt vẻ khẩn trương, niềm phấn khởi từ từ xuất hiện.
Bên ngoài thuyền, dường như gió khơi lắng dịu, nhưng cái lắng dịu chỉ là tạm thời, cái lắng dịu giữa hai cơn gió lớn. Ai cũng nghĩ là trời sẽ thanh, biển sẽ tịnh.
Bất ngờ, một tiếng ào vang lên, kế tiếp là một tiếng ầm kinh khủng, con thuyền to lớn chao mạnh, rồi một loạt tiếng rú thảm nổi theo, đèn mười ngọn tắt hết bảy tám.
Cột buồm đã gãy, cánh buồm đứt đây, bay theo gió lộng cuốn xa.
Linh Nhi xám mặt, kêu lớn:
- Long Quyển Phong!
Đi biển, gặp những cơn gió này, cầm như làm mồi cho cá.
Nàng vừa dứt tiếng, một cơn lốc xoáy từ ngoài vào trong, như nhấc bổng con thuyền lên cao.
Lũ khỉ cầm đèn bão, đứng trên sàn thuyền bên ngoài, bị gió đùa mạnh rơi cả xuống nước.
Trước mặt mọi người, cả một vùng đen tối, đen dầy đặc, sờ tay không thấy ngón.
Gió mạnh, thuyền chao, vũ điệu ngừng. Linh Nhi và Châu Nhi nắm chặt bàn tay Thủy Thiên Cơ gọi gấp:
- Bửu Nhi! Bửu Nhi!
Không một tiếng đáp lại.
Gió càng thổi mạnh, thuyền càng chao mạnh.
Bọn Huỳnh Kim Ma Nữ ngừng ca, ngừng múa, kinh hoàng rồi ré lên ầm ĩ.
Thủy Thiên Cơ quờ quạng tay, chạm phải một chiếc cột, ôm cứng, toan cất tiếng gọi Phương Bửu Nhi, miệng vừa há ra, cuồng phong thổi phọc vào, lôi mạnh yết hầu, dồn luôn hơi trở vào lồng ngực. Rồi hai tai nghe gió tạt qua vù vù, ầm ầm như trời long đất lở.
Đột nhiên con thuyền nghiêng hẳn về một bên, có tiếng đập đùng đùng, rồi tiếng rắc rắc vang lên, tiếng rắc bên ngoài, tiếng rắc bên trong, kế tiếp là tiếng rú thất thanh của bọn thiếu nữ hỗn tạp quýnh quáng, chẳng khác nào đàn gà la hoảng khi cáo lọt vào chuồng.
Có lẽ tiếng rú thảm đó do bọn Huỳnh Kim Ma Nữ phát lên, Kim Hà Vương quát to:
- Không nên...
Câu nói chỉ được buông ra với hai tiếng vỏn vẹn rồi đứt đoạn, không rõ do cuồng phong át mất, hay do Già Tinh Pháp Vương vin vào âm thanh đoán hướng mà xuất chiêu tấn công, bắt buộc lão bỏ dở để chống đỡ.
Không còn ai dám gây một tiếng động nào nữa, phần sợ Già Tinh Pháp Vương hạ thủ đoạn, phần bị bão biển làm bạt vía bay hồn.
Gió càng lúc càng mạnh, kế tiếp trời đổ mưa ào ào, gió đùa mưa, mưa đập thuyền, sóng biển càng dâng cao, nâng thuyền lên, quăng xuống.
Một vùng trời nước đen kịt, đang lên cơn sốt hãi hùng.
Trước cái oai khí của trời đất, con người chỉ là cái giun, cái dế, dù con người đó là một cao thủ, một kẻ thừa năng lực sinh sát trên thế gian.
Thủy Thiên Cơ ôm cứng chiếc trụ, càng phút càng khiếp đảm. Từ bao lâu nay, nàng ngạo nghễ, ngông cuồng, xem trần gian là một bãi hoang mặc tình nàng ngang dọc, nhân loại là một đàn cừu mặc tình nàng thao túng. Giờ đây nàng thức ngộ ra, mình rất nhỏ bế, sự hiện diện giữa dòng đời không tăm hưởng bằng một hạt cát trên đường. Hạt cát còn tạo trở ngại cho khách bộ hành, chứ trước cái oai khí của đất trời, nàng hoàn toàn là một bóng ma, không thực tế bằng một chiếc lá rụng.
Nàng ngồi xuống tại chỗ, tay vẫn ôm cứng chiếc cột.
Sóng biển phủ thuyền, nước vào khoang, tạt ướt y phục nàng, sóng biển đập mạnh, bật tung những vọng cửa, cuốn băng những cánh cửa to lớn nặng nề vào lòng đại dương đang sôi động.
Rồi nàng từ từ hôn mê, nàng hôn mê mà tay vẫn còn ôm cứng chân cột.
Có gió, có mưa, tất có sấm sét. Ngang trời điện chớp vẽ những đường ngoằn ngoèo. Sấm nổ rền vang, điện chớp liên hồi, sấm nổ liên hồi.
Trong ánh chớp, thấy một bóng người từ một góc thuyền lăn ra.
Bóng đó là Hồ Bất Sầu, chừng như y không tìm được chỗ bám víu vững vàng, bị con thuyền chuyển động mạnh, hất khỏi chỗ nấp.
Nếu y lăn mãi ra khỏi khoang thuyền, tất sẽ bị thuyền tròng trành, quăng luôn xuống nước...
Vừa lúc đó, một lượn sóng to đập vào mạn thuyền, làm chấn động mạnh. Thủy Thiên Cơ bừng tỉnh, mở mắt ra, trông thấy thế vội thét lên:
- Cứu y!
Một giọng nói lạnh lùng đáp lại:
- Tại sao lại phải cứu y?
Thủy Thiên Cơ không do dự:
- Chỉ một mình y biết Tử Y Hầu cất giấu những quyển bí lục võ công!
Một ánh chớp lóe lên.
Một bóng người vọt đi, dĩ nhiên về hướng Hồ Bất Sầu. Bóng đó vươn hai cánh tay, chận Hồ Bất Sầu xuống sàn thuyền.
Bóng đó chính là Già Tinh Pháp Vương.
Thủy Thiên Cơ thấy rõ, nhưng rồi cơn bão đảo lộn mạnh con thuyền, làm nàng hôn mê trở lại, không còn theo dõi những diễn biến kế tiếp.
oOo Một đêm đã qua, một đêm hãi hùng, trời đất đã tung cái oai khí nhắc nhở con người sự nhỏ bé của nhân loại trước thiên nhiên, mà đừng hành động nghịch thiên, bội địa.
Bầu trời thanh tịnh trở lại, bình minh đã lên, tất cả đều rạng rỡ dưới dương quang đầu ngày, chỉ có con thuyền buồm ngũ sắc là rủ xác điêu tàn ảm đạm.. Vẻ hùng.tráng huy hoàng ngày nào còn tượng trưng cái oai phong của một thần tượng võ lâm, giờ đây chẳng hơn gì một đống gỗ vụn, ghép sơ sài, thành hình một vật thể may mắn còn bềnh bồng trên mặt nước, chưa chìm hẳn để mang theo mấy người sống sót sau cơn bão, chôn sâu trong lòng biển cả.
Bão biển đã đưa con thuyền xa bờ. Nói là con thuyền chứ thực ra chỉ là một phần xác thuyền còn lại và đủ bềnh bồng, vừa đủ cho con người sống sót, che mưa nấp nắng.
Khi Thủy Thiên Cơ tỉnh hẳn thì trời đã sáng tỏ.
Hình ảnh đầu tiên hiện ra trước mắt nàng là cái điêu tàn của con thuyền qua đêm giông tố. Gió đã cuốn mất cái vẻ huy hoàng tượng trưng oai khi của một người hùng, cuốn luôn cái ngôi thần tượng do võ lâm đã dành cho con người hùng đó, giờ đã ra thiên cổ rồi.
Bàn ghế, những vật dụng cần thiết đều bị gió bốc quăng vào lòng biển cả, trong một tối một sáng, bao nhiêu tiện nghi đều bị hủy diệt!
Nàng nhìn quanh quẩn, chẳng thấy một bóng người.
Chỉ còn một mình nàng sống sót sao? Một mình nàng với cái xác thuyền tan vỡ giữa biển khơi?
Một cảnh tĩnh mịch hãi hùng!
Thủy Thiên Cơ lạnh rợn người, tự nhiên nàng run run không phải vì gió lạnh, mà run vì niềm khiếp đảm đang xâm chiếm tâm tư!
Răng chạm vào nhau cành cạch, bất giác nàng kêu thét lên, rời chỗ nấp chạy bay ra ngoài.
Bình minh lên chưa bao lâu, mưa lất phất bay, màn mưa bụi giăng mắc biến không gian mờ đục u buồn. Nhìn qua làn mưa nàng không thấy một cánh buồm nào ẩn hiện.
Trời! Nàng bơ vơ cô quạnh đến thế sao?
Bơ vơ cô quạnh trên mặt biển còn thê lương ảm đạm gấp mấy lần đơn độc trên đất liền!
Còn gặp ai? Còn nương tựa vào ai?
Nàng như điên, chạy từ trước đến phía sau, sau trở lại phía trước, vừa chạy vừa gào:
- Bửu nhi! Linh Nhi! Châu Nhi! Các ngươi...
Nhưng nàng nín lắng ngay, một bóng người cao, gầy, vừa hiện ra trong tầm mất của nàng.
Người đó, là Già Tinh Pháp Vương, người thứ hai, sau nàng trên thuyền, còn sống sót qua cơn bão biển.
Thấy có người, là nàng không cô độc nữa, nàng mừng, song niềm vui biến mất ngay bởi người đó lại là Già Tinh Pháp Vương. Nỗi mừng biến thành kinh hãi.
Có tiếng chân vang lên, từ xa đến gần.
Thì ra, còn một người nữa được may mắn sống sót qua cơn bão.
Người thứ ba là Hồ Bất Sầu.
Già Tinh Pháp Vương giương mă'l nhìn nàng. Trong ánh mắt, niềm hân hoan hiện rõ. Niềm hân hoan thoát lên như ánh chớp rồi tắt ngay, gương mặt của lão lạnh như tiền, ánh mắt của lão sắc lạnh như giá băng.
Trong ba người, Hồ Bất Sầu chịu ảnh hưởng nặng hơn hết sau cơn giông tố hãi hùng.Hiện tại, y dật dờ, dở say dở tỉnh.
Già Tinh pháp vương nhìn thoáng qua Thủy Thiên Cơ, đoạn trở lại Hồ Bất Sầu, ấn vai y cho y ngồi xuống, rồi xoa bóp các huyệt đạo cho nước ứ đọng trong dạ dày trào ra, cứu tỉnh y dần dần.
Thủy Thiên Cơ có hơn một ngàn câu hỏi, định nêu ra với Già Tinh pháp vương, lòng nàng đang nôn nóng, chực chờ cất tiếng, sự nôn nóng bỗng chốc giá lạnh qua ánh mắt hết sức vô tình của nhà sư.
Tuy nhiên, nàng cố gượng buông dò một câu:
- Pháp vương dày phúc hậu, được sống sót sau trận thiên tai, đáng mừng cho Pháp Vương lắm! Không hay Pháp Vương có thấy còn ai sống sót nữa chăng?
Hỏi rồi, nàng phập phồng chờ nghe. Giả sử nhà sư đáp là còn Bửu Nhi, Linh Nhi, Châu Nhi thì nàng hân hoan biết bao?
Già Tinh pháp vương chừng như không nghe nàng hỏi, lão không nhìn nhưng mà cũng không đáp.
Thủy Thiên Cơ thất vọng, cố chờ một lúc, đoạn buông tiếp:
- Pháp Vương bất chấp nhân tình, lạnh nhạt với mọi người., vậy mà cũng biết làm cả việc cứu người. Thực là kỳ quái! Tôi nằm mộng cũng không tưởng nổi!
Già Tinh Pháp Vương vẫn im lặng. Một lúc lâu, lão cười lạnh thốt:
- Bần tăng chịu khó cứu người nào phải do hảo ý đâu? Ngươi chẳng nên lấy làm lạ.
Thủy Thiên Cơ chụp cơ hội, bắt chuyện ngay:
- Đã không do hảo ý, vậy cứu người để làm gì?
Già Tinh Pháp Vương bĩu môi đáp:
- Bắt buộc hắn phải cung khai chỗ dấu bí lục võ công của Tử Y Hầu.
Nếu không cần hiểu việc đó, dù hắn có chết trăm lần, ngàn lần, bần tăng cũng chẳng hề lưu ý đến hắn!
Trước đó vì nàng quá lo ngại, nàng sơ suất đến độ tiết lộ bí mật, nên nhà sư mới biết là Hồ Bất Sầu hiểu Tử y Hầu dấu những pho sách quí tại đâu. Giờ đây, nhà sư cứu y để chất vấn, bắt buộc y phải chỉ chỗ, cái lỗi do nàng, nàng hối hận vô cùng.
Đôi mắt chớp đảo mấy lượt, bỗng nàng cười lớn:
- Có lẽ nào Tử Y Hầu chọn một người như vậy mà truyền cái sở học kinh thiên động địa sao? Pháp vương nhìn kỹ xem y có nhân tướng cao quý đáng cho Hầu gia lưu ý chăng?
Già Tinh Pháp Vương hừ một tràng:
- Thì chính ngươi đã nói thế kia mà!
Thủy Thiên Cơ bật cười dòn:
- Thì trong lúc khẩn cấp, tôi buột miệng bịa nhảm, cho đại sự buông tha y, những lời hồ đồ như vậy đại sư cũng tin được à? Chẳng lẽ đại sư mù mờ đến thế?
Già Tinh pháp Vương biển sắc, thừ người ra một lúc lâu, bỗng cười lạnh từ từ thốt:
- Phải, những lời đó do ngươi trong lúc quá khẩn trương mà thốt ra.
Nhưng theo ta nghĩ, trong lúc con người hoang mang lo sợ làm gì còn giữ được tâm trí sáng suốt mà bịa chuyện cứu người? Con người càng gặp khẩn cấp càng để lộ sơ hở. Có lẽ ngươi biết mình sơ hở, bây giờ tìm cách lấy lại lời nói đó chứ gì? Chắc ngươi hối hận lắm?
Thủy Thiên Cơ nghĩ thầm:
- Lão này lợi hại thật!
Nhưng bên ngoài, nàng giữ vẻ thản nhiên, buông lững lờ:
- Thực thực hư hư, tùy đại sư muốn tưởng sao cũng đựợc!
Già Tinh Pháp vương nhóng ý:
- Nếu vậy bần tăng nghĩ, có tra vấn cũng chỉ phí công thôi! Tốt hơn nên quẳng hắn xuống biển cho xong!
Hai tay vươn ra, định chụp lấy Hồ Bất Sầu.
Thủy Thiên Cơ kinh hoảng kêu lên:
- Hãy khoan!
Già Tinh pháp vương nhìn nghiêng sang nàng:
- Ngươi muốn gì?
Thủy Thiên Cơ ấp úng:
- Ỵ..y...
Pháp Vương cười lạnh:
- Y làm sao?
Thủy Thiên Cơ thở dài:
- Chính y biết chỗ Tứ Y Hầu tàng trữ những pho bí lục võ công!
Già Tinh pháp vương gằn giọng:
- Thật hay bịa đấy?
Thủy Thiên Cơ thốt nhanh:
- Trăm lần thật! Nghìn lần thật!
Già Tinh Pháp Vương bật cười ha hả:
- Tiễu liễu đầu còn bé bỏng mà đã học thói lừa người rồi. Nhưng đối với bần tăng, ngươi đừng hòng giở trò quỷ! Đừng lầm tưởng lừa nổi bần tăng!
Bình sinh, Thủy Thiên Cơ từng hí lộng không biết bao nhiêu nhân vật trên giang hồ, nhưng chưa một lần bị ai bắt bí đến đuối lý, rồi bị mắng đến cứng lưỡi như hôm nay, trước Già Tinh Pháp Vương.
Dĩ nhiên, nàng hết sức uất hận đành nuốt hận chứ chẳng nghĩ ra được một phản ứng nào.
Vừa lúc đó, Hồ Bất Sầu tỉnh lại.
Già Tinh Pháp Vương chụp hỏi liền:
- Tử Y Hầu tàng trữ thơ sách của y tại đâu, ngươi biết chứ?
Hồ Bất Sầu nhìn lão, rồi nhìn Thủy Thiên Cơ gật đầu:
- Biết!
Thấy Hồ Bất Sầu đáp nhanh quá, Già Tinh Pháp Vương trố mắt nhìn sững y, trong ánh mắt ngời lên niềm hoài nghi rõ rệt.
Hồ Bất Sầu nói:
- Ta đã rơi vào tay ngươi rồi, trừ ra ta có chết ngay thì thôi chứ còn sống sót lại, chẳng sớm thì muộn ta cũng phải nói, nói để cầu sống. Nói gấp có cái lợi là nắm hy vọng sống sót sớm một chút. Đừng lấy làm lạ sao ta đáp nhanh.
Già Tinh Pháp Vương mỉm cười gật đầu:
- Thông minh đấy! Thảo nào mà Tử Y Hầu chẳng chọn ngươi làm kẻ truyền nhân. Lão ấy cũng có nhãn lực khá lắm? Vậy lão dấu những pho sách ở chỗ nào ngươi chỉ cho bần tăng đi!
Hồ Bất Sầu gật đầu:
- Được rồi! Ta chịu chỉ!
Rồi cả ba đi đến trước vọng cửa gian phòng bí mật của Tử Y Hầu.
-
Đột nhiên, Hồ Bất Sầu vận tận lực bình sinh, co chân đá mạnh vào cánh cửa.
Một tiếng ầm vang lên, cánh cửa chẳng rung chuyển chút nào. Hồ Bất Sầu nghe đau nhói bàn chân, cơ hồ không đứng vững.
Già Tinh Pháp vương cau mày:
- Ngươi điên à?
Thủy Thiên Cơ không để cho Hồ Bất Sầu đáp lại lão, nàng cười nhẹ thốt:
- Thời thường y nổi cơn điên như thế đó, đừng để ý làm gì?
Hồ Bất Sầu nhìn sang Thủy Thiên Cơ, ánh mắt lộ vẻ cảm kích.
Dĩ nhiên, Thủy Thiên Cơ đã hiểu ý tứ của Hồ Bất Sầu như thế nào khi co chân đá vào cánh cửa.
Cả hai đúng là một cặp bài trùng, người này làm gì thì người kia đoán biết ngay.
Rồi họ nhìn nhau, miệng không cười song ánh mắt cười, họ cảm thông chẳng khác nào đôi tri kỷ.
Nhưng ý tứ của Hồ Bất Sầu như thế nào?
Già Tinh Pháp Vương có nằm mộng cũng chẳng tưởng nổi!
Lão cười lạnh hỏi:
- Tử Y Hầu đã chọn ngươi, chắc lão ấy có giao cho ngươi chiếc chìa khóa mở phòng đó chứ?
Hồ Bất Sầu cúi đầu thở dài:
- Pháp Vương quả thật thông minh!
Già Tinh Pháp Vương lộ vẻ đắc ý, bật cười ha hả:
- Chẳng lý nào ngươi dám dối bần tăng!
Hồ Bất Sầu rút chìa khóa trên tóc ra:
- Đây, Pháp Vương tự tiện!
Già Tinh Pháp Vương cười hì hì, tiếp lấy chiếc chìa khóa, Hồ Bất Sầu từ từ lui ra xa, Thủy Thiên Cơ đã lùi xa hơn.
Già Tinh Pháp Vương bước tới trước vọng, chớp chớp mắt. Thấy cả hai bước xa, bất thần lão xoay người, vọt thẹo, một tay chụp y, tay kia nhét chiếc chìa khóa vào lòng bàn tay y, đoạn lạnh giọng bảo:
- Ngươi bước tới mở cửa cho bần tăng!
Hồ Bất Sầu trầm giọng:
- Tại sao Pháp Vương không tự mở lấy?
Già Tinh Pháp Vương cười lạnh:
- Vọng cửa đó chắc có cái gì lạ, các ngươi cho rằng bần tăng không biết nên lừa cho bần tăng sa hố. Bình sinh bần tăng chưa hề mắc lừa ai!
Hồ Bất Sầu thở dài, cau mày, nhăn mặt, một lúc lâu thốt:
- Nếu vậy, xin Pháp Vương đứng đây đợi một chút, tại hạ mở cửa xong rồi hãy vào!
Y đưa mắt ngấm ngầm ra hiệu cho Thủy Thiên Cơ, đoạn cả hai bước trở lại vọng cửa phòng.
Già Tinh Pháp Vương bật cười hắc hắc:
- Biết mà! Ngươi đáp ứng nhanh chóng quá! Bần tăng biết thế nào ngươi cũng giở trò quỉ lừa bần tăng.
Thủy Thiên Cơ cười thầm, nhưng vờ thở dài tán:
- Pháp Vương quả thật là người thần!
Bỗng có tiếng y phục quét gió, Già Tinh Pháp Vương đã vọt đến nơi lôi Thủy Thiên Cơ ra xa.
Thủy Thiên Cơ biến sắc, vội hỏi:
- Pháp Vương định làm gì thế?
Già Tinh Pháp Vương lạnh lùng:
- Một người mở cửa đủ lắm rối, ngươi đứng đây với bần tăng, đừng lẩn quẩn bên nhau, toa rập giở trò quỷ.
Thủy Thiên Cơ thất vọng, nhưng cố giữ vẻ thản nhiên, miệng điếm một nụ cười, tự lẩm bẩm:
- Cũng được! Cũng được! Như vậy là yên ổn cho ta, chứ có sao đâu!
Hồ Bất Sầu biết rõ Già Tinh Pháp Vương đã lôi Thủy Thiên Cơ xa cửa phòng rồi, song y không dám quay đầu nhìn lại, y chỉ buông bâng quơ:
- Bảo trọng! Bảo trọng!
Thủy Thiên Cơ càng thốt bâng quơ:
- Miễn sao ai cũng được yên ổn là đủ!
Trong câu nói bâng quơ của họ đã gởi nhau một ý niệm thầm kín, Già Tinh Pháp Vương biết rõ họ thông đồng với nhau, song không hiểu nổi họ dặn bảo gì nhau, lão thốt lên:
- Ngươi chưa chịu mở cửa, còn nói bóng gió nói gió gì nữa chứ?
Bỗng lão thấy Hồ Bất Sầu lách mình qua vọng cửa nhanh như chớp, rồi một tiếng cách vang lên, cánh cửa đóng lại liền.
Già Tinh Pháp Vương sau một phút giây giật mình, sôi giận, nhảy vọt đến hét to:
- Ngươi làm gì thế? Không cho bần tăng vào phải không?
Cánh cửa bằng sắt lại đóng, lão gọi làm gì vô ích! Có chắc gì Hồ Bất Sầu ở bên trong nghe lọt? Mà dù có nghe đã chắc gì y mở cửa cho lão vào?
Thủy Thiên Cơ bước tới, cười lạnh:
- Sao Pháp Vương không thử xem?
Già Tinh Pháp Vương lùi lại hai bước, xăn tay áo, đứng thẳng người một lúc.
Hiển nhiên, lão đang vận tụ chân khí, dồn vào hai cánh tay.
Rồi lão tung mạnh hai chưởng, nhắm đúng cánh cửa. Chưởng lực phát ra, do công phu tu vi suốt mấy mươi năm dài, phải mạnh ghê gớm, có thể đánh bằng một góc núi.
Nhưng cánh cửa vẫn trơ trơ, bốn phía vách phòng trơ trơ, chưởng lực chỉ gây âm vang ầm ầm, vang rền rồi tắt lịm.
Gương mặt của lão đen đúa, lúc đó đỏ hồng lên. Lão bước quanh bên ngoài gian phòng, bước đến đâu tung chưởng đánh vào vách đến đó.
Âm vang rền dội, vách vẫn trơ trơ.
Lão giận quá, vung chưởng đánh ra tứ tung, gỗ ván không liên lạc gì đến gian phòng bay vun vút, đánh mãi, lão lại tung chân đá, gặp vật nào đá vật đó, đá như ngựa điên...
Thủy Thiên Cơ nhìn Già Tinh Pháp Vương đấm đá cuồng loạn một lúc, ngồi xuống sàn thuyền, lấc đầu thở dài, thốt:
- Nếu tôi là Pháp Vương, quyết không bao giờ hao phí công phu như vậy.
Già Tinh Pháp Vương dừng chân tay, trừng mắt nhìn nàng:
- Ngươi... ngươi đã biết là không phá nổi?
Thủy Thiên Cơ tặc lưỡi:
- Những người vào trên con thuyền này, còn ai chẳng biết là gian phòng được kiến tạo bằng một loại thép vô cùng cứng rắn. Vừa rồi Hồ Bất Sầu co chân đá vào cánh cửa, không phải điên đâu, mà chính là để biết sự cứng rắn của loại thép đó như thế nào!
Rồi nàng mỉm cười, tiếp nối:
- Tôi còn biết y cố ý lừa Pháp Vương ở bên ngoài, y vờ trả chìa khóa cho Pháp Vương mở cửa nhưng đó là một cái kế, tạo sự nghi ngờ cho Pháp Vương. Cuối cùng Pháp Vương cũng phải bảo y mở cứa, nhưng Pháp Vương chẳng dám ở gần. Bất thình lình, y nhào vào trong phòng và nhanh tay đóng cửa lại ngay. Bây giở Pháp Vương có lảm cách gì cũng chẳng vào được!
Nàng cười lớn hơn một chút:
- Trong khi Pháp Vương tự đắc, tưởng mình là cao minh thì chính là lúc Pháp Vương rơi vào mưu kế của y!
Nàng còn trêu cợt lão một câu:
- Thú thật với Pháp Vương, tôi cũng có ý theo y vào trong gian phòng đó, song bất ngờ bị Pháp Vương lôi trở lại. Chúng tôi nói bóng nói gió với nhau vừa rồi là nói về việc đó!
Già Tinh Pháp Vương biến sắc mặt, từ đen ra xanh, từ xanh ra trắng, từ trắng ra nhợt nhạt, từ nhợt nhạt chuyển sang hồng, những màu sắc thay đổi luôn.
Nếu là Kim Hà Vương, chắc có một trận lôi đình không kém gì cơn bão đêm qua, nhưng Già Tinh Pháp Vương trấn tĩnh tinh thần, thừ người ra một lúc, đoạn cười lạnh:
- Trên đời này, có vật gì cứng rấn mà người ta không có cách nào phá nổi?
Thủy Thiên Cơ mỉm cười:
- Phải, có những thanh kiếm, thanh đao chém sắt như chém bùn, song liệu Pháp Vương đi tìm kiếm đao đó rồi, trở lại đây thì con thuyền này có tại chỗ cũ chờ pháp vương hay không? Mà dù Pháp Vương có tìm lại được con thuyền, chắc gì đã được toại nguyện?
Già Tinh Pháp Vương trố mắt:
- Ngươi muốn nói gì?
Thủy Thiên Cơ vẫn cười:
- Có cái gì bảo đảm với Pháp Vương là sau khi pháp Vương rời thuyền, Hồ Bất Sầu không cuỗm mấy quyển sách đó trốn xa?
Già Tinh Pháp Vương rùn vai:
- Thế bần tăng không biết đợi cho hắn chết rồi mới đi à?
Thủy Thiên Cơ lắc đầu:
- Cũng không ổn! Nếu y biết là không có cơ hội trốn đi, và phải chết tại đây, thì trước khi chết, rất có thể y hủy diệt mấy cuốn sách đó!
Rồi Pháp Vương cũng chẳng lấy được gì!
Già Tinh Pháp Vương giật mình, lại biến sắc, lại trầm ngâm, một lúc sau cũng lẩm nhẩm:
- Trước khi hắn chết vì đói khát, hắn hủy diệt hết pho bí lục võ công của Tử y Hầu thì mình mới sao đây?
Thủy Thiên Cơ bĩu môi:
- Tại sao y chết vì đói khát?
Già Tinh Pháp Vương lại giật mình:
- Đành rằng trên thuyền còn có vật thực dùng được một thời gian nào đó, song hắn giam mình trong phòng kín, làm gì hắn không chết vì đói? Dù ngươi có ý tiếp tế cho hắn, cũng bó tay!
Thủy Thiên Cơ cười nhẹ:
- Sao tôi lại bó tay?
Già Tinh pháp vương trố mất:
- Ngươi có cách?
Thủy Thiên Cơ gật đầu:
- Dĩ nhiên rồi!
Già Tinh Pháp Vương bĩu môi:
- Ngươi thử nói cho bần tăng nghe xem!
Thủy Thiên Cơ bĩu môi:
- Có muốn nghe Pháp vương cũng phải van lơn, cầu khẩn, chứ cứ gằn giọng ra lệnh, lên mặt kẻ cả thì đừng hòng tôi nói đâu! Phải biết tôi mà nói cách đó ra thì người thủ lợi chính là Pháp Vương chứ chẳng phải tôi!
Già Tinh Pháp Vương cười lớn:
- Ngươi tha thiết cứu hắn khỏi chết đói, chứ có phải bần tăng đâu mà bần tăng phải cầu khẩn ngươi?
Thủy Thiên Cơ điềm nhiên:
- Đừng ỡm ờ nữa, Pháp vương ạ! Chắc chắc từ giờ phút này chính Pháp vương mong mỏi cho y đừng chết vì đói! Trước tôi lo sợ cho y, thật vậy tôi không chối điều đó, song bây giờ lại là Pháp vương. Vì như tôi đã nói rõ, chính Pháp vương là người thủ lợi chứ chẳng phải tôi.
Già Tinh Pháp Vương quắc mắt quát lớn:
- Bần tăng sẽ giết ngươi luôn!
Thủy Thiên Cơ chẳng nao núng:
- Thì Pháp Vương cứ hạ thủ? Giết tôi rồi cầm như tiêu tan cái hy vọng chiếm đoạt những quyển bí lục võ công của Tử Y Hầu! Cứ giết đi Pháp Vương, nếu Pháp Vương không thích những quyển bí lục đó nữa!
Gương mặt già của Pháp Vương lại đổi sắc liền liền, lão nghiến răng, rồi lão hầm hừ, sau cùng lão thở dài, thốt:
- Được! Được! Bần tăng chịu thua ngươi! Ngươi hãy nói đi!
Thủy Thiên Cơ lắc đầu:
- Chưa đủ lễ độ! Tôi chưa chịu nói đâu.
Già Tinh Pháp Vương thở dài, chắp tay chữ thập, ngả mình tới trước mặt một chút, cung kính thốt:
- Đệ tử là Già Tinh, cầu mong cô nương chỉ giáo cách thức làm cho hắn khỏi chết!
Thủy Thiên Cơ bật cười khanh khách:
- Có váy mới được chứ! Phải biết khiêm cung, từ lốn, nói năng lễ độ như thế mới ngoan chứ?
Già Tinh Pháp Vương mắng thầm, nhưng hiện tại lão chẳng dám tỏ lộ vẻ gì có thể làm cho nàng phật ý cả.
Thủy Thiên Cơ cười một lúc bằng thích, đoạn cất tiếng:
- Pháp Vương có biết không? Nếu gian phòng khônng có lỗ thông hơi, thì ai lại kiến tạo ra làm gì, giam mình trong đó cho chết ngạt sao?
Già Tinh Pháp Vương gật gù:
- Cô nương nói đúng.
Thủy Thiên Cơ tiếp:
- Có lỗ thông hơi là có lối chuyền thức ăn vào trong cho Hồ Bất Sầu! Việc đơn giản như vậy đó, pháp vương!
Già Tinh Pháp Vương sững sờ! Thế mà lão nghĩ không ra!
Rồi lão ngẩng mặt lên cười ha ha:
- Phải! Phải!
Lão tỏ vẻ khoái trá, chừng như cái việc chiếm đoạt mấy pho sách quý của Tử Y Hầu, lão đã nắm trong tay rồi, nếu nó chưa thành hình là còn vấp phải vấn đề thời gian thôi.
Thủy Thiên Cơ tiếp:
- Tuy nhiên Pháp Vương chớ vội đắc ý sớm. Chắc Pháp Vương nghĩ có thể chui qua lỗ thông hơi vào trong gian phòng chiếm mấy pho sách, rồ bức bách Hồ Bất sầu mở cửa cho Pháp Vương ra ngoài? Đừng nuôi mộng, Pháp vương! Lỗ thông hơi đó, có to lắm cũng không hơn miệng chén, nếu Pháp Vương muốn chui qua, tất phải biến mình thành con chuột con, hoặc con chim, con bướm, nhưng Pháp Vương có năng lực làm việc đó?
Già Tinh Pháp Vương bĩu môi:
- Nào ai muốn vào?
Thủy Thiên Cơ cười nhẹ:
Vậy càng hay? Tôi cũng không tưởng là Pháp Vương lại nuôi cái mộng điên rồ như vậy!
Rồi nàng mơ màng, tiếp:
- Giả như vận chúng ta còn đỏ, thì bất quá trong nửa tháng, con thuyền này cũng vào bờ.
Pháp Vương lại bĩu môi:
- Ai mong vào bờ? Cái gã ấy ngày nào chưa ra khỏi phòng, là ngày đó bần tăng còn ở trên thuyền này. Lão tăng còn trên thuyền ngày nào, là con thuyền chưa cặp bờ được ngày đó!
Thủy Thiên Cơ thoáng lúng túng, nhưng rồi lấy lại bình tĩnh, ướm một câu:
- Nếu y chẳng bao giờ chịu ra khỏi phòng?
Già Tinh Pháp Vương cười? lạnh:
- Hắn ở trong đó một năm, bần tăng ở đây một năm, hắn ở mười năm, suốt đời, bần tăng cũng ở mười năm, suối đời.
Lần này thì Thủy Thiên Cơ để lộ thất vọng rõ rệt.
Ai nói câu đó chắc nàng không tin nổi, nhưng Già Tinh Pháp Vương là con người nhờ chữ nhẫn mà thành danh, công phu thâm hậu của lão cũng nhờ chữ nhẫn mà nên, thì con người đó nếu thi kiên nhẫn, may ra chỉ có trời đất mới thắng nổi.
Già Tinh Pháp Vương buông luôn:
- Nếu thực vật trên thuyền không đủ cung cấp, thì bần tăng sẽ tìm cách bắt cá tôm, bắt không được cá tôm thì còn có rong rêu. Nếu không đủ nước ngọt, thì mưa xuống chúng ta hứng, chứa đầy chum, đầy vại, mùa này mưa thường lo gì May mắn hơn nữa, nếu gặp thuyền buồm, bần tăng sẽ không ngần ngại đóng vai hải tặc bất đắc dĩ, chúng ta không cướp tiền, chỉ đoạt thực vật thôi.
Thủy Thiên Cơ như chết sững! Nhưng có tuyệt vọng cũng bằng thừa, bởi chưng còn cách gì cứu vãn sự tình qua sự phác họa do Già Tinh Pháp Vương.
Nàng thở dài cười khổ:
- Pháp Vương nghĩ sâu xa quá!
Già Tinh Pháp Vương cười lớn:
- Có công mài sắt, có ngày nên kim! Mặl bể mênh mang, bồng bềnh riêng một cõi, xa hẳn thế nhân, bần tăng nhân dịp này hưởng thọ vài năm thanh phúc!
Thủy Thiên Cơ mắng thầm nghĩ:
- Đừng đắc ý vội nhà sư nham hiểm! Ta có thể bảo Hồ Bất Sầu hủy diệt tất cả các pho sách, trước khi niềm hy vọng cuối cùng tắt lịm.
Nàng cao giọng:
- Pháp Vương bức quá, hắn sẽ hủy diệt những quyển sách quý đó?
Pháp Vương cười hắc hắc:
- Đừng lo ngại viển vông, trên thế gian này, chẳng có con nhà võ nào nhẫn tâm hủy diệt những kíp võ công. Họ quý sách đó hơn tánh mạng trừ khi họ không thiết sống nữa. Mà Hồ Bất Sầu còn yêu đời lắm.
Thủy Thiên Cơ thất vọng vô cùng, dậm chân thình thịch, rồi bỏ đi nơi khác. Già Tinh Pháp Vương không ngăn trở, đứng tại chỗ nhìn theo nàng, cười lạnh.
Một lúc sau, nàng trở lại, mang theo một mâm cơm, có khá nhiều thức ăn còn bốc khói thơm phưng phức.
Nàng mời:
- Pháp Vương chắc đói? Vậy xin dùng trước!
Già Tinh Pháp Vương cầm đũa, gắp một mớ rau, vừa đưa lên miệng, vội bỏ trở lại vào bát liền, nhìn nàng bảo:
- Ngươi ăn trước đi!
Thủy Thiên Cơ chớp mắt:
- Pháp Vương sợ thức ăn có độc? Đa nghi như vậy thì thôi, tôi còn biết làm sao bây giờ?
Rồi nàng xớt một phần cơm, đồ ăn dồn hết vào một tô lớn, cầm tay, bước quanh gian phòng, tìm lỗ thông hơi. Quả nhiên, nàng tìm được một lỗ to bằng miệng chén, ghé miệng vào lỗ gọi to:
- Hồ Bất Sầu!....Hồ Bất Sầu!....
Bên trong chưa có tiếng đáp liền! Nàng lại gọi mấy lượt nữa. Vẫn không có tiếng đáp.
Bất giác nàng biến sắc, nhưng vừa lúc đó, Hồ Bất sầu hỏi vọng ra:
- Thủy Thiên Cơ đó à?
Giọng nói của y có phần nào kinh dị mất hẳn cái vẻ tự nhiên.
Thủy Thiên Cơ mừng quá thốt:
- Chính ta! Ta mang thức ăn cho ngươi đây!
Nàng dồn luôn cơm và thức ăn qua ống thông hơi, bên trong Hồ Bất Sầu cứ hứng mà ăn. Rồi nàng lại chuyền nước cho y uống.
Lo cho y được no rồi, nàng trở lại mâm cơm, cứ ăn, chọn cái ngon mà ăn, chừa những xương xẩu nuốt không trôi lại đó.
Già Tinh pháp vương bất kể chay, mặn, bất kể thừa thãi, đói quá, phải ăn chỗ thừa thãi còn lại của nàng.
Tuy đồ ăn thừa thãi, lão không buồn lắm, bởi ít nhất cũng tránh được cái họa trúng độc.
Dù sao thì lão đâu có thể trọn tin ở Thủy Thiên Cơ?
Nhìn Pháp Vương ăn, Thủy Thiên Cơ cao hứng quá, nàng không tưởng một nhân vật như lão lại nuốt được những gì nàng thải ra. Lão biết rõ ý tưởng của nàng, nên vừa tự nhiên vừa thốt:
- Bình sinh bần tăng thích đồ ăn dư của thiên hạ, hôm nay ăn như vậy kể cũng là sự thường!
Nhưng cái cao hứng của Thủy Thiên Cơ bất quá chỉ tạm thời. còn cái lo thì chừng vô tận!
Trước hết làm sao thoát khỏi cái cảnh này? Làm sao giải thoát cho Hồ Bất Sầu?
Kế đó nàng nhớ đến Bửu Nhi, Linh Nhi, Châu nhi.
Họ có sao chăng? Bão biển đã hốt họ, đưa về đâu?
-
Hồi 11
Một Lần Kết Nghĩa
Bình minh đã về, vùng duyên hải qua cơn giông bão phũ phàng đã lấy lại phần nào phong quang thủy tú sơn kỳ, mặt dù còn rải rác đó đây những di tích tàn phá.
Một chiếc ngư thuyền từ phương bắc đến, cập bờ.
Gọi là thuyền bởi nó lướt trên mặt nước, tiến đến nơi muốn đến, bởi nó không là bè, chứ thực ra, nó có hình dáng hết sức quái dị, có thể bảo trên thế gian này, không có một chiếc thứ hai nào.
Thuyền hình vuông vuông, dài dài, bằng mấy cành cây ghép lại, cành không lột vỏ, không đẽo suông trên những cành cây có cái mui hình tam giác.
Đặc biệt nhất là cánh buồm to gấp ba thân thuyền, có vẻ chắc lắm, thân thuyền tuy bằng cành cây ghép lại, cũng chắc không kém, dù trùng dương có gặp sóng to gió lớn, cũng chẳng vỡ tan.
Trên thuyền có một đại hán, da đen như đồng, lúc thuyền từ từ cập bờ thì hắn đang nằm ngửa nhìn trời, nơi cột buồm.
Hắn nằm, tay dang ra, chân duỗi thẳng, tỏ rõ thân vóc to lớn phi thường.
Thuyền cặp bờ, chạm phải bãi cát, hắn giật mình, vụt đứng lên, miệng càu nhàu hắn nhảy xuống, rồi nắm đầu thuyền kéo lên trên xa hẳn mặt nước, con thuyền nặng nề lắm mà hắn kéo dễ dàng, không để lộ một cố gắng nào.
Hắn đứng lên, trông hắn như cái tháp, chiều cao ít nhất cũng trên trượng, với chiều cao đó, dĩ nhiên vai hắn phải rộng, lưng phải to, chân tay phải lớn.
Hắn vận bộ y phục võ sĩ, nếu là người thường thì có lẽ là vừa tầm vóc, song đối với hắn thì chẳng khác nào một kẻ trưởng thành vớ vội y phục trẻ con mà mặc vào, vừa ngắn, vừa chẹt, ngắn gần như trần truồng, chẹt đến khó day trở, nếu cử động mạnh rất có thể sẽ rách toạc ra.
Nhưng cũng may, loại y phục đó luôn luôn làm bằng hàng vải rắn chắc thành ra có thể chịu đựng với hắn lâu ngày.
Thoáng nhìn qua tất hiểu ngay bộ y phục đó không phải của hắn rồi, bởi chẳng ai may một bộ y phục sai lệch kích thước quá khôi hài như vậy. Không phải của hắn thì dĩ nhiên là hoặc hắn tạm mượn, hoặc hắn cướp đoạt mà dùng.
Thân hình hộ pháp đó gây khiếp đảm cho bất kỳ ai thoạt nhìn hắn, nhưng vẻ mặt của hắn lại quá hiền lành, chất phát, gần như ngây ngô.
Trông gương mặt hắn người ta có cảm tình ngay.
Chừng như con thuyền không đủ rộng cho hắn co duỗi nên đến bãi cát rồi, hắn vươn tay, soạt chân uốn lưng xua đuổi cái uể oải chịu đựng qua mấy ngày trên mặt biển.
Chiếc áo quá hẹp, hắn uốn mình mấy lượt, chỉ nút đứt tung, ngực bày ra, lóng lánh.
Bình minh lên một lúc, nền trời bỗng râm râm, rồi mưa rơi lất phất, dư oai của cơn bão còn vương đọng trong không gian, bắt đầu đổ xuống vạn vật. Đại hán không chú ý đến cái giá lạnh của mưa phùn, uốn mình một lúc rồi ngóng cổ nhìn ra bốn phía, miệng lẩm bẩm :
- Mẹ kiếp! Lão gia đã đến rồi, sao bọn tiểu tặc đó chưa xuất hiện?
Hắn đưa tay vỗ bụng kêu binh binh, rồi hắn ngóng trông, rồi hắn nằm xuống lại vỗ bụng binh binh, cuối cùng hắn lẩm nhẩm:
- Đói! Đói rồi! Ông trời đâu, sao chẳng buông xuống vài chiếc bánh to lớn cho ta dùng đỡ đói? Có no mới có khí lực đấm đá chứ?
Hắn nắm một lúc lâu, chừng như cố chịu cái đói song chịu không kham, hắn lại đứng lên bước xuống thuyền, chui vào mui, lấy ra một miếng thịt không rõ thịt gì, dở sống giở chín, thêm chiếc bánh, hắn ôm nơi ngực, vừa bước đi vừa càu nhàu :
- Mẹ kiếp! Đói càng phút càng dữ dội, đói chịu không nổi! Ta ăn quách cho rồi, ngày mai sẽ kiếm cái khác mà ăn, tội gì để đó mà nhìn chứ? Giả sử ngày mai có chết, ta cũng chết no!
Hắn vừa đi, vừa cắn thịt cắn bánh, nhai ngấu nghiến.
Vừa lúc đó, một lượt sóng phủ cao, từ ngoài khơi tràn vào, bọt sóng trắng ngời, chớp chớp dưới ánh mờ mờ qua làn mưa mỏng.
Lượn sóng rút đi rồi, bỏ lại trên bãi cát một vật gì, bởi đứng xa đại hán không trông rõ.
Hắn lại càu nhàu :
- Mẹ kiếp! Vật gì thế? Hay là thần biển thấy ta đói tặng vật thực?...
Hắn bước về phía đó, hắn nắm nó, đưa lên cao, rồi kêu lên :
- Trời! Trời! Biển lại sanh con nít...
Thì ra vật đó là một tiểu tử, hắn gọi là con nít, bởi đối với thân vóc to lớn của hắn, cái gì cũng trở thành nhỏ cả.
Tiểu tử vận chiếc áo gấm hai tay ôm cứng một đoạn gỗ, lúc đó đã mê man, không rõ còn sống hay chết rồi, hai tay vẫn giữ chắc đoạn gỗ.
Tiểu tử cắn chặt hai hàm răng, môi nhợt nhạt...
Đại hán kêu liền miệng :
- Không xong! Không xong!....
Rồi hắn buông tiểu tử xuống bãi cát, quay mình toan bước đi!
Không rõ nghĩ sao, hắn quay lại mình trở lại, lẩm nhẩm:
- Nếu hắn là con đẻ của thần biển, thì làm gì phải mê man trong cơn sóng nhồi gió đẩy? Nhất định nó là con cái của người chứ chẳng phải con của thần! Nó từ trên một chiếc thuyền nào đó rơi xuống nước, trôi dạt về đây!
Hắn cúi xuống bế xốc đồng tử lên, sờ tay vào ngực, nhoẻn miệng cười :
- Không sao! Không sao! Tim còn đập ! Hắn chưa chết!
Hắn lại ngồi xuống, lấy tay vuốt vuốt nơi lưng đồng tử, như truyền hơi ấm.
Một lúc lâu, đồng tử bật rên ư ử, rồi guộm bụng, mửa ra mấy bụng nước biển.
Đại hán bật cười vang khoan khoái vô cùng, gã đứng lên khoa tay, vung chân, líu tíu thối :
- Sống! Hắn sống lại rồi! Ha ha!
Còn gì đáng hoan hỉ hơn là cứu được một mạng người, càng hoan hỉ hơn đối với những kẻ có thiện lương, bởi những kẻ đó chỉ lấy việc cứu người làm vui!
Ăn miếng thịt và ba chiếc bánh khá to, gã vẫn còn đói, song niềm hân hoan làm cho gã quên mất cái đói, gã lại ngồi xuống, tiếp tục xoa lưng đồng tử, vừa xoa vừa gọi :
- Tiểu tử! Tiểu lử! Ngươi sống lại rồi phải không? Ngươi mở mắt ra đi!
Đồng tử từ từ mở mắt, nhìn dáo dác, vẻ kinh dị hiện rõ trên gương mặt.
Niềm kinh hãi hiện trên gương mặt một lúc rồi tan biến mất, đồng tử nhìn gã đại hán, điểm nhẹ một nụ cười.
Đại hán hân hoan ra mặt :
- A! A! Ngươi cười rồi! Tiểu tử! Ngươi nói được chứ? Biết nói rồi chứ?
Thì ra gã vẫn xem đồng tử như một đứa trẻ sơ sinh, chưa biết nói!
Điều đó chứng tỏ gã chất phát đến ngây ngô!
Đồng tử gật đầu chứ không đáp.
Gã tiếp hỏi :
- Ngươi tên họ gì?
Đồng tử thở ra mấy hơi dài, rồi thốt :
- Ta họ Phương tên Bửu Nhi!
Đúng vậy, hắn chính là Phương Bửu Nhi, nhờ phúc tổ sống sót qua cơn bão biển vừa rồi, vớ được một đoạn gỗ, đeo cứng mặc cho sóng lượn trùng đưa đẩy, mãi đến sáng nay thì tấp vào bờ trong khi hắn mê man trầm trầm.
Đại hán cười lớn :
- Bửu Nhi! Bửu Nhi! Ha ha! Đúng là một bửu bối hay hay. Ngươi xem tay chân của người có lớn gì hơn ngón tay của ta đâu!
Bấy giờ Phương Bửu Nhi mới lưu ý đến cái xác thân khổng lồ của con người trước mặt, hắn không sợ, trái lại, hắn càng thích thú hơn, hắn lại cười hỏi :
- Còn ngươi, ngươi tên họ gì?
Đại hán đáp nhanh :
- Ta họ Ngưu, từ nhỏ gia gia quen gọi là Thiết Oa nhưng ngoại nhân thì gọi ta là gã hộ pháp, gọi như thế làm ta đâm ra bực, những lúc cáu tiết ta trấn nước hết mấy người, nhờ vậy mà trước mặt ta không còn ai dám gọi ta là hộ pháp nữa.
Phương Bửu Nhi bật cười ha hả, cười mãi đến hụt hơi, cười không thành tiếng.
Thực ra, sống lại rồi, ý niệm đầu tiên của hắn là tưởng đến Hồ Bất Sầu, đến Thủy Thiên Cơ và những người trên thuyền, hắn lo lắng cho họ, nhưng hắn kịp nghĩ lại, nếu hắn còn sống sót được thì rất có thể những người đó cũng được sống sót như hắn, tất cả đều sống sót được thì vẫn còn có lúc gặp lại nhau, bất quá sớm hay muộn mà thôi.
Cho nên hắn yên tâm không bận lo nghĩ đến họ nữa.
Vả lại hắn còn nhỏ tuổi, dù có sự lo nghĩ nào, quan trọng đến đâu, sự lo nghĩ đó cũng chóng phôi pha. Càng phôi pha mau hơn là trước mặt có một hoạt tượng hết sức khôi hài, con người hộ pháp có cái điệu bộ ngây ngô khờ khạo.
Tâm tư của hắn hoàn toàn bị vẻ khôi hài của Ngưu Thiết Oa hấp dẫn.
Đột nhiên đại hán cất tiếng hỏi :
- Ngươi bé bỏng như vậy, dù có tại ở nhà, cũng chẳng có ăn hại gia gia ngươi bao nhiêu, còn bỏ đi còn bỏ đi đâu thế? Ngươi xem lại thân hình của ngươi có to hơn ngón tay của ta đâu? Cùng lắm mỗi ngày gia gia ngươi bố thí cho ngươi mươi hạt gạo chứ gì?
Phương Bửu Nhi thở dài, rồi lắc đầu, rồi cười hỏi lại :
- Còn ngươi, ngươi sợ Ở nhà ăn hại gia gia ngươi, nên bỏ đi, phải không? Ít nhất, mỗi ngày ngươi cũng ngốn mười cân gạo, chắc gia gia ngươi không nuôi nổi chứ gì?
Ngưu Thiết Oa cười vang :
- Tiểu tử thông minh thật! Ngươi nói đúng đấy!
Gã trầm ngâm, một lúc sau, lại tưởng ra điều gì, há rộng miệng cười vang :
- Ngươi không có cha, ta lại không còn, thì giờ đây ngươi nên nhận ta là cha đi, ta sẽ nuôi dưỡng ngươi, ta cho ngươi ăn, cho ngươi mặc tươm tất...
Phương Bửu Nhi nhìn sững gã :
- Ngươi có vợ à?
Ngưu Thiết Oa cười hì hì :
- Vợ ta còn nằm trong bụng mẹ của nó!
Phương Bửu Nhi hừ một tiếng :
- Chưa có vợ sao muốn nuôi con?
Đại hán nhìn lại hắn :
- Còn ngươi? Thế ngươi đã có vợ rồi à?
Phương Bửu Nhi thản nhiên :
- Mới có một thôi!
Ngưu Thiết Oa trố mắt :
- Bằng ngón tay mà đã có vợ rồi?
Gã nhìn trừng trừng, nhìn một lúc, rồi lắc đầu kêu lên :
- Không! Không! Ta không tin là ngươi có vợ rồi! Có ai chịu lấy một người to bằng ngón tay làm chồng? Nếu đúng là ngươi có vợ rồi thì quả thật ngươi cao thủ đoạn lắm!
Phương Bửu Nhi mỉm cười :
- Nói gì, chứ thủ đoạn của ta thì to lớn hơn cái xác hộ pháp của ngươi nhiều!
Ngưu Thiết Oa thở dài :
- Không làm được cha con với nhau, thì mình làm anh em vậy!
Phương Bửu Nhi gật đầu :
- Cũng được! Ta làm đại ca, còn ngươi làm tiểu đệ!
Ngưu Thiết Oa há hốc, miệng rộng toàng toạc, giương tròn mắt nhìn hắn... Lâu lắm gã mới kêu lên :
- Trời! Trời! Ta to lớn như vầy mà làm tiểu đệ? Còn ngươi bé bỏng như vậy mà là đại ca?
Rồi gã bật cười, cười bằng thích, cười không thôi.
Phương Bửu Nhi nghiêm sắc mặt :
- Đừng cười nữa! Cười mãi sẽ đứt ruột, ruột đứt thì ta phải mổ bụng vá lại, phí công lắm!....
Ngưu Thiết Oa vụt nín cười, hai tay ôm bụng, như sợ ruột đứt bất ngờ. Rồi gã hỏi :
- Ngươi đòi làm đại ca ta? So sánh hai thân vóc. ngươi làm tiểu đệ cũng là quá đáng lắm rồi, còn đòi làm đại ca thế nào được?
Phương Bửu Nhi thản nhiên :
- Ngươi có biết không, phàm trong việc học, không phân biệt lớn nhỏ, ai có tài làm thầy, ai vô tài làm đệ tử. Luận người, nên luận khả năng chứ ai luận thân vóc?
Ngưu Thiết Oa khoát tay :
- Đừng nói chuyện học hành, đừng dùng lời bóng bẩy, ta chẳng hiểu đâu!
Phường Bửu Nhi cười nhẹ :
- Ta giảng giải cho ngươi nghe đây, nghe rồi là hiểu ngay. Người không luận niên kỷ, chỉ bằng vào học vấn mà thôi. Người học cao dù nhỏ tuổi cũng là sư phó được như thường. Ta học vấn cao hơn ngươi nhiều, thủ đoạn của ta cũng cao, dù ta có làm sư phó của ngươi cũng là cái may cho ngươi đó, huống hồ chỉ làm đại ca ngươi?
Ngưu Thiết Oa đưa tay lên gãi đầu sột sột, lâu lắm gã mới lẩm nhẩm :
- Ngươi có học, ngươi ăn nói theo cổ nhân, mà cổ nhân chẳng khi nào nói sai! Nhưng nói rằng ngươi hoàn toàn hơn ta về mọi mặt, ta không thể tin được! Ta chỉ cần đưa ra một đấm tay nhẹ là ngươi tan xác rồi! Như thế mà bảo ta gọi ngươi là đại ca, làm sao ta phục được?
Phương Bửu Nhi cau mày :
- Ngươi muốn đấu khí lực với ta?
Ngưu Thiết Oa bật cười ha hả :
- Đấu làm gì? Chắc chắn là ta hơn ngươi bằng khí lực rồi. Ngươi chẳng nhận ra điều đó sao? Đây ngươi nhìn tạ..
Gã vung tay đấm mạnh xuống nền cát. Cát bay tung tóe, nơi chỗ đấm bày ra một trũng sâu độ thước.
Phương Bửu Nhi gật gù :
- Kể cũng khá đấy! Nhưng chưa hẳn là tuyệt! Ngươi thử nắm một nắm cát, quăng mạnh tới, xem cát có tới tận mặt biển kia chăng?
Ngưu Thiết Oa bĩu môi :
- Mười nắm cát, ta cũng quăng tận đích, sá gì một nắm? Một nắm thì có nặng là bao nhiêu?
Gã chỉ nghĩ đến trọng lượng bởi vì gã thừa sức lực, gã ngô nghê đến độ chừng hiểu là cát rời rạc từng hạt. Nào phải một vật thể liên lạc mà dùng sức lực quăng đi xa? Tay vừa vung, là cát bay tơi tả rơi xuống ngay.
Gã hăng hái cúi xuống, vốc cát đầy nắm, rồi đứng lên, vận thần lực vung mạnh tay.
Cát rời rạc, phần có gió ngược chiều, tay gã vừa xòe; gió đưa cát bay trở lại phủ đầy đầu đầy mặt hắn. Gã nhắm mắt lại, kêu lên rối rít, lùi lại.
Rồi gã mở mắt ra, lẩm nhầm mãi :
- Quái! Quái! Sao hôm nay sức ta yếu thế? Quăng một nắm cát cũng chả được xa? Thế này làm sao giao thủ với bọn tiểu tặc chứ?
Phương Bửu Nhi gọi gã :
- Ngươi đã thấy chưa? Ta đã bảo, khí lực của ngươi có gì mà khoe?
Ngươi mở mắt to ra xem ta làm đây này!
Ngưu Thiết Oa trố mắt :
- Ngươi... định thử? Ta không làm được, ngươi lại làm được à?
Phương Bưu Nhi mỉm cười :
- Đừng gần quá, có quăng tới nước cũng chẳng hay gì. Ta đi xa hơn nữa, càng xa càng tỏ rõ cái bản lãnh của ta!
Tại chỗ hắn đứng, là vùng cát khô, hắn lùi đến vùng cát ướt, cúi xuống vo tròn một nắm, cầm tay, đoạn gọi to :
- Mở mắt mà xem ta quăng đây!
Hắn vung tay, nắm cát ướt được vo tròn rất kỹ, dù có gặp gió cũng chẳng rời rạc, lao đi vun vút, rơi xuống nước.
Ngưu Thiết Oa lặng người, hoang mang quá. Gã chẳng hiểu tại sao, to lớn như gã mà không quăng nổi một nắm cát, còn Phương Bửu Nhi bất quá là một đứa bé, sức lực bao nhiêu lại làm được cái việc đó rất dễ dàng.
Gã há hốc mồm, dở khóc dở cười, thừ người một lúc.
Phương Bửu Nhi lại hỏi gã :
- Ngươi phục ta chưa?
Gã thở dài, gật đầu :
- Phục! Phục rồi!
Phương Bửu Nhi mỉm cười :
- Phục thì tôn ta làm đại ca!
Ngưu Thiết Oa cúi đầu, thấp giọng :
- Đại... ca! Tiểu đệ xin ra mắt đại ca!
Đoạn gã sụp xuống lạy liền.
Không rõ nghĩ sao, Phương Bửu Nhi cũng sụp mình xuống lạy trả lại. Song phương đã trở thành huynh đệ với nhau, Ngưu Thiết Oa chạy bay về thuyền mang số vật thực dự trữ đến hiến cho Phương Bửu Nhi dùng, lại còn khuân một tảng đá to cho Phương Bửu Nhi nằm, ngồi tùy ý, khỏi phải nằm ngồi ngay trên mặt cát.
Trong khi Phương Bửu Nhi đang ăn. Ngưu Thiết Oa do dự mãi mới hỏi :
- Đại ca ạ, có phải mình cười nhiều rồi đứt ruột đi chăng?
Phương Bửu Nhi nghiêm sắc mặt :
- Phải đó! Cho nên ta khuyên ngươi đừng nên cười cợt chế giễu thiên hạ, có lúc cười quên thôi mà sanh tai hại đấy! Chỉ khi nào gặp việc đáng cười thì cười một tí mà thôi, cười chút chút thì chẳng sao cả.
Ngưu Thiết Oa gật đầu :
- Đại ca khỏi lo! Tuy nhiên đến cái cười mà cũng hạn chế, thì khổ thật!
Phương Bửu Nhi trầm giọng :
- Người thích cười lắm à?
-
Ngưu Thiết Oa lại gật đầu :
- Bình thường, mỗi ngày tiểu đệ cười lớn độ ba mươi lần, cười nhỏ độ ba trăm lần, có cười được đủ số, khí lực mới dồi dào...
Đột nhiên gã vụt đứng lên, nhìn ra mặt biển.
Phương Bửu Nhi lấy làm lạ, nhìn theo gã, hắn thấy một chiếc thuyền buồm lao vút vào bờ, thân thuyền và buồm còn lộ vẻ tàn phá của trận bão biển trong đêm vừa qua.
Ngưu Thiết Oa lẩm nhẩm :
- Đến rồi! Đến rồi!....
Phương Bửu Nhi hỏi :
- Ngươi biết những người trên thuyền đó à?
Ngưu Thiết Oa gật đầu :
- Bọn cướp vặt ngoài biển đó, còn ai không biết chúng? Chúng thấy tiểu đệ nghèo khổ, cơm chẳng đủ no, áo chẳng đủ ấm, định lôi cuốn tiểu đệ nhập đảng, nhưng Ngưu Thiết Oa này dù đói lạnh thật, nhất quyết không vì cái ăn cái mặc mà làm một kẻ cướp như chúng. Chỉ vì...
Gã toét miệng cười ha hả, rồi tiếp :
- Tiểu đệ không làm kẻ cướp, nhưng chúng cướp được gì, tiểu đệ đoạt lại cái đó, thích cái gì, tiểu đệ cứ đoạt lại trong tay chúng!
Phương Bửu Nhi mỉm cười :
- Bộ y phục của của ngươi trên người đó, chắc cũng đoạt lại nơi tay chúng chứ gì?
Ngưu Thiết Oa gật đầu :
- Đúng vậy! Y phục, muối, bánh, thịt, nhất nhất món gì trên thuyền tiểu đệ, đều là những vật đoạt lại từ chúng đấy! Do đó, chúng hận tiểu đệ, niềm oán hận nuôi dưỡng từ lâu, càng ngày càng lớn, chúng không chịu nổi nên ước hẹn với tiểu đệ gặp nhau hôm nay tại đây để đánh nhau một trận chí tử!
Phương Bửu Nhi lại hỏi :
- Chúng ước hẹn như vậy, rồi hôm nay ngươi đến đây để gặp chúng?
Ngưu Thiết Oa gật đầu :
- Tự nhiên là phải đến, nếu không đến thì mất mặt sao?
Phương Bửu Nhi thở dài :
- Chúng oán hận ngươi từ lâu, song vẫn chẳng làm gì được ngươi, giờ đây chúng ước hẹn gặp ngươi, dĩ nhiên chúng phải có chuẩn bị kỹ, chúng lại đông, còn ngươi thì đơn thân độc lực, ta chỉ sợ người khó tránh khỏi họa!
Ngưu Thiết Oa lắc đầu :
- Tiểu đệ không ngán chúng, dù chúng đông người hơn nữa tiểu đệ cũng chẳng ngán.
Lúc đó, con thuyền của bọn giặc biển đã cập hờ, hơn hai mươi đại hán, hình vóc vạm vỡ từ trên thuyền nhảy xuống, tên nào cũng có vũ khí trong tay, gồm hoa thương, ngư xoa, phân thủy thích, quỷ đầu đao, gậy sắt, búa đồng...
Chúng có vũ khí, chúng vạm vỡ, chúng lại đông người, nhưng xem chừng chúng có ý gờm Ngưu Thiết Oa ra mặt. Nhảy xuống đất rồi, chúng đứng xa xa, quây quần nhau một chỗ, cao giọng gọi Ngưu Thiết Oa, to tiếng mắng gã.
Chẳng một tên nào dám bước tới một bước, tất cả những cặp mắt chăm chú nhìn gã, miệng thì cứ mắng oang oang tay lăm lăm vũ khí.
Một tên dáng chừng là tên đầu đảng, hét lớn :
- Gã hộ pháp kia, nếu hôm nay ngươi quy thuận với chúng ta, thì mọi việc sẽ êm xuôi, bằng không cự lại chúng ta sẽ chặt ngươi ra hàng trăm hàng ngàn mảnh!
Ngưu Thiết Oa cao giọng mắng trả :
- Câm cái mồm thối của ngươi lại!
Gã quay lại Phương Bửu Nhi :
- Đại ca hãy ngồi đây, để tiểu đệ đến đó đánh với chúng một trận!
Phương Bửu Nhi thở dài :
- Đã muốn đánh thì cứ đi mà đánh, nhưng cũng phải cẩn thận đấy!
Ngưu Thiết Oa gật đầu :
- Tự nhiên rồi, đại ca khỏi lo!
Gã cúi xuống, ôm tảng đá nặng độ trăm cân chạy bay về phía bọn cướp biển.
Đằng xa chúng lập tức tản ra, dàn thành hàng, tên nào cũng cử cao vũ khí.
Một đại hán vọt tới, chận đầu Ngưu Thiết Oa vung thanh quỷ đầu đao giáng xuống.
Ngưu Thiết Oa mắng lớn :
- Tên cướp vặt, ngươi muốn chết!
Gã nâng tảng đá lên, đón thanh đao.
Bốp!
Đao chạm vào đá lửa bắn tung tóe, Ngưu Thiết Oa không hề nhúc nhích, trái lại đại hán bị chấn dội trở lại, hổ khẩu tay tét rộng, máu chảy ròng ròng, thanh đao vuột tay bay bổng trên không, rơi ngoài xa mấy trượng.
Ngưu Thiết Oa cười vang :
- Ha ha! Vô dụng thế mà cũng học đòi làm hải tặc! Cút đi cho đỡ bẩn mắt lão gia!
Gã vừa dứt câu, gió rít bên tai, rồi một ngọn hoa thương bay tới. Bị tấn công bất ngờ, gã hoành tay quăng luôn tảng đá về phía tên vừa phóng ngọn thương qua gã.
Tảng đá vừa lo, vừa nặng, gió cuốn vù vù, lao vút vào bọn hải tặc, bọn chúng khiếp hãi, rã ngay cả hàng ngũ, chạy tứ tán.
Đồng thời, gã xoay ngược vòng tay, chụp vào ngọn thương, nắm cứng, gã lộ vẻ đắc ý vô cùng.
Nhìn bọn hải tặc đứng xa xa giương tròn mắt hướng về gã, gã vung tít ngọn thương, gió rít vù vù. gã vung bằng thích chứ chẳng ra chiêu thức gì cả.
Gã đứng đó, bọn hải tặc cũng đứng tại chỗ, gã nhích tới một bước, chúng lùi lại một bước, gã dừng, chúng dừng, chúng tuy ngán gã nhưng chẳng tên nào bỏ chạy.
Gã to tiếng mắng chúng, chúng hò hét mắng trả, song phương cứ ghìm nhau như thế, đấu võ mồm một lúc.
Cuối cùng, tên đầu đảng quét ánh mắt khắp đàn em một vòng, cao giọng giục :
- Hắn có sức mạnh như trâu thật đấy, nhưng hắn chẳng biết mảy may võ công, chúng ta cứ xông vào quần hắn một lúc, thế nào hắn cũng phải kiệt lực, lo gì không bắt được hắn! Nào anh em cứ vào!
Toàn bọn phụ họa :
- Phải! Phải! Nào anh em vào ngay!
Tuy hò hét như vậy, chẳng tên nào dám xung phong tới. Ngưu Thiết Oa thấy chúng ví mình như trâu, nổi cáu vung ngọn hoa thương tiến tới, bọn hải tặc lại nhảy trái về phía hậu, tên nào nhảy gấp chạm vào tên chậm chân chúng lẩn quẩn với nhau trông buồn cười hết sức, tuy thế, chúng vẫn to tiếng mắng gã không ngừng.
Không làm gì được bọn hải tặc, Ngưu Thiết Oa lại ngồi xuống. Gã ngồi xuống thì bọn hải tặc lướt tới, vung vũ khí dứ dứ vào không gian, bắt buộc gã phải đứng lên, gã đứng lên thì chúng dừng lại, gã bước tới thì chúng lùi.
Cứ như thế, song phương tương trì qua một lúc nữa, Ngưu Thiết Oa đổ mồ hôi nhễ nhại, hơi thở ồ ồ..... Đến lúc này bọn hải tặc mới cùng loạt xông vào, bao vây gã bốn phía, vung vũ khí tấn công tới tấp.
Gã xoay tít ngọn hoa thương chống đỡ, ngọn thương hướng về phía nào, tên hải tặc đương đứng phía đó lui ra xa, nhưng những tên ở ba phía kia lại lướt tới.
Ngưu Thiết Oa phải quay mình chống đỡ, chống một phía thì ba phía kia tấn công, làm gã cứ xoay tròn mãi, gã vừa mệt vừa chóng mặt, lớ ngớ thế nào bị chúng đâm ba nhát vào đùi và cánh tay bên tả, máu chảy ròng ròng.
Tên đầu đảng thấy thắng thế, reo lên :
- Cố gắng, anh em! Miếng thịt trâu sắp vào miệng chúng ta rồi đó!
Ngưu Thiết Oa sôi giận vung ngọn thương vùn vụt, nhanh hơn trước bội phần.
Nhưng vốn chẳng biết võ công, gã dù có sức mạnh như trâu cũng chẳng làm gì được bọn hải tặc, chúng nhờ am tường thuật khinh công nên chạy nhảy nhanh nhẹn, chúng không thể hạ gã bằng sức lực thì chúng cũng có cách quần gã đến một lúc nào đó, gã kiệt lực phải ngã xuống. Bởi gã dù mạnh, cũng chỉ là một con người bằng xương bằng thịt, nào có phải là sắt đá đâu mà chi trì mãi nổi.
Bỗng gã hét lớn :
- Dừng tay lại!
Tiếng hét của gã to quá, làm bọn hải tặc giật mình, tất cả cùng dừng lại, tên đầu đảng quát :
- Ngươi chịu phục rồi phải không?
Nhân lúc bọn hải tặc dừng tay, Ngưu Thiết Oa vọt nhanh ra khỏi vòng vây, cao giọng quát trả :
- Bọn cướp vặt không sợ đám viện binh của ta sắp tới đây sao mà dám hùng hổ với ta?
Bọn hải tặc chẳng hề nghĩ là Ngưu Thiết Oa biết dối gạt chúng nên tin ngay, không tên nào dám đuổi theo gã...
Tên đầu đảng thốt với nội bọn :
- Để xem hắn sẽ giở trò gì, đuổi theo hắn lỡ gặp tiếp trợ của hắn thì nguy cho chúng ta. Rất có thể bọn tiếp trợ hắn mai phục đâu đấy!
Chúng dừng tại chỗ nhìn theo gã chạy thẳng về chỗ Phương Bửu Nhi, sụp xuống đất lạy hắn.
Phương Bửu Nhi bên trong có phần nào kinh hãi, nhưng ngoài mặt hắn vẫn làm tỉnh, hỏi :
- Chạy trốn phải không?
Hắn nhìn thấy nơi bị thương của gã, nhăn mặt.
Ngưu Thiết Oa lắc đầu :
- Có muốn chạy cũng không chạy thoát bọn chúng! Chắc hôm nay tiểu đệ phải bị chúng hạ sát rồi!....
Gã bật khóc ngay, khóc một lúc, gã cúi đầu cất giọng bi thiết :
- Được đại ca nhận làm tiểu đệ, chưa làm được cái gì tỏ lòng hiếu kính với đại ca, lại phải chết đi, bỏ đại ca một mình, tiểu đệ đau đớn làm sao! Con thuyền kia, tiểu đệ xin để lại cho đại ca, những vật dụng trên thuyền, đại ca cứ hưởng dụng, bây giờ tiểu đệ đưa đại ca đến thuyền, xong rồi sẽ trở lại đánh với chúng một trận chí tử, dù chết cũng cam!
Phương Bửu Nhi xúc động thật sự trước vẻ thành khẩn của Ngưu Thiết Oa, dù còn ít tuổi hắn vẫn có nghĩa khí hơn người, hắn cao giọng thốt :
- Ta với ngươi đã thành huynh đệ rồi thì hoạn nạn tương cứu, ta còn sống thì ngươi chết thế nào được? Ta lấy mắt nhìn ngươi chết được sao? Ngươi chết đi, ta cũng chẳng sống nổi đâu!
Ngưu Thiết Oa suy nghĩ một lúc, đoạn kêu lên :
- Không được đâu đại ca! Đại ca đã có vợ nếu đại ca chết đi thì tẩu tẩu của tiểu đệ thành quả phụ sao?
Đang âu lo, Phương Bửu Nhi cũng phải phì cười trước lời nói hết sức chân thành của gã, phì cười vì sự ngớ ngẩn của gã chứ lòng hắn xúc động vô cùng. Hắn an ủi :
- Không sao! Ngươi không chết, ta không chết, tẩu tẩu ngươi không trở thành quả phụ đâu!
Nói cứng như vậy, Phương Bửu Nhi vẫn chưa tìm được biện pháp cứu nguy cho gã.
Nhưng Ngưu Thiết Oa lại hân hoan ra mặt, vừa nhảy nhót, vừa cười tươi reo lên :
- Phải! Phải! Bản lĩnh của đại ca hơn tiểu đệ nhiều! Nhất định là đại ca có cách!
Linh cơ chợt phát động, trong thoáng mắt, Phương Bửu Nhi đã nghĩ ra biện pháp giải nguy, dù chưa tin hẳn là biện pháp đó có tạo được kết quả nào chăng, song hắn vẫn nhẹ người. Hắn cứ thực nghiệm xem, dù không kết quả cũng còn hơn bất động chờ khổ.
Hắn cao giọng :
- Ngươi đứng đây chờ ta, ta sẽ đến đó thu thập bọn hải tặc cho mà xem!
Hắn đứng lên bước về phía bọn hải tặc.
Bọn chúng tên nào thấp nhất cũng có thân hình bảy thước trở lên, còn Phương Bửu Nhi bất quá là một tiểu đồng, cao không hơn năm thước tay chân lại nhỏ, sự chênh lệch quá rõ, hắn từ từ bước tới, chẳng khác nào cừu con tiến dần đến hang cọp.
Ngưu Thiết Oa hết sức tin tưởng vào thủ đoạn của Phương Bửu Nhi, gã cao giọng gọi bọn hải tặc :
- Các ngươi hãy ngửa cổ chờ chết! Đại ca ta đến đấy nhé!
Bọn hải tặc bật cười vang :
- Tiểu quỷ đó là đại ca của ngươi? Được lắm, tiểu quỷ lại đây! Lại đây nếm một quả thôi sơn của chúng ta, xem ngươi có nát nhừ ra như cám không?
Đối diện bọn hải tặc, tên nào cũng có vẻ hung hãn như lang như hổ, dù sao thì Phương Bửu Nhi cũng thấy khiếp đảm phần nào, nếu hắn không cố kiềm hãm thân mình, chắc phải run lên, đôi chân của hắn nhũn ra, tuy nhiên hắn cố bước tới một vài bước, cho gần chúng hơn, rồi thu hết can đảm vào hai tay, hắn cao giọng hỏi :
- Các vị sinh hoạt trên sông nước trùng dương, chắc các vị là thuộc hạ của Thọ Thiên Tề?
Bọn hải tặc giật mình đưa mắt nhìn nhau.
Tên đầu đảng qua phút giây sửng sốt, hỏi lại :
- Tiểu quỷ lại biết được vị thủ lãnh của bọn ta à?
Phương Bửu Nhi hiểu ngay hắn nghĩ đúng, bọn hải tặc này thuộc quyền quản trị của Tử Nhiêm Long Thọ Thiên Tề, hiểu được điều đó rồi, hắn thấy vững tâm hơn. Hắn cười lạnh, tiếp nối :
- Kỷ luật của Tử Nhiêm Long Thọ Thiên Tề rất nghiêm, có thể nào dung dưỡng để các vị lộng hành, bằng vào số đông lấn hiếp người cô thế? Chắc các vị chưa quên cái hình phạt do Thọ Thiên Tề dành cho một đồng nghiệp của các vị cách đây mấy hôm, nhân cướp đoạt tài vật của người cô khách?
Hiện tại thì hắn đã học được cái tắc phong của khách giang hồ, hắn có ngôn từ cử động rất chững chạc.
Bọn hải tặc lộ vẻ kinh hoàng ra mặt.
Trọn vùng Đông Hải này, có ai không nghe chuyện Thọ Thiên Tề áp dụng nghiêm khắc môn quy xử tử đại hán chận thuyền người áo trắng? Đại hán đó, là một vị đầu mục của Thọ Thiên Tề, mà y còn thẳng tay trừng trị, huống chi những người ở bậc thấp hơn?
Từ ngày Tử Nhiêm Long Thọ Thiên Tề xử tử vị đầu mục, tất cả bọn hải tặc đều dè lòng chẳng còn dám phóng túng như thuở nào.
Giờ đây, nghe Phương Bửu Nhi nhắc lại việc đó, tự nhiên chúng phải ngán.
Tên đầu đảng dịu tánh hung hãn ngay, y mỉm cười với giọng lễ độ :
- Chẳng hay tiểu bằng hữu có thể cho bọn tại hạ biết lai lịch chăng?
Y đấu dịu, Phương Bửu Nhi mừng thầm, hắn càng làm già hơn :
- Các vị không xứng đáng hỏi lai lịch tại hạ! Hãy đi gọi Thọ Thiên Tề đến đây!
Một đại hán có đôi mày rậm, từ lúc đầu nhìn Phương Bửu Nhi không hề chớp mắt, vụt kêu lên :
- Tôi nhớ ra rồi!
Tất cả đều quay lại nhìn gã. Tên đầu đảng thấp giọng hỏi :
- Ngươi biết lai lịch tiểu quỷ này?
Đại hán hấp tấp đáp :
- Vị tiểu bằng hữu này... là người trên chiếc thuyền buồm ngũ sắc!
Tất cả đều biến sắc kêu lên :
- Thật vậy? Thật vậy? Ngươi lầm chăng?
Đại hán mày rậm lắc đầu :
- Lầm thế nào được? Ngày Tử Y Hầu và người áo trắng đấu kiếm, chính mắt tôi trông thấy vị tiểu bằng hữu này đang trò chuyện với Hầu gia!
Được Tử Y Hầu tiếp chuyện, hẳn phải là một nhân vật phi thường, nghe đại hán tiết lộ điều đó, bọn hải tặc xám mặt. Rồi không rõ tên nào trước nhất sụp xuống lạy.
Tất cả đầu cúi sát đất, chẳng khác nào một đám tín đồ ngoan đạo cung nghinh giáo chủ giáng lâm.
Sự kiện đó xảy ra ngoài tưởng tượng của Phương Bửu Nhi. Hắn ước mong hòa giải xuôi thuận, chứ có bao giờ nghĩ là chúng quá sợ hãi như vậy? Bây giờ hắn mới nhận thức oai danh của Tử Y Hầu không phải nhỏ! Sợ Hầu gia đã đành, thiên hạ còn sợ đến cả những người trên thuyền có cánh buồm ngũ sắc! Và bọn giết người không tanh máu cũng khiếp đảm kinh hồn mà trở thành ngoan ngoãn như kẻ thiện lương.
Ngưu Thiết Oa nghĩ, gã cố vận dụng tận lực sình sanh, vẫn không đánh bại được bọn hải tặc, còn Phương Bửu Nhi chỉ nói mấy câu, chúng quỳ rạp xuống, cúi đầu, bất động, bất giác vừa kinh hãi vừa hân hoan, gã vỗ tay bôm bốp, kêu lên :
- Có bản lãnh thật! Đúng là đại ca có bản lãnh thật đó! Tiểu đệ phục vô cùng!
Phương Bửu Nhi đảo mắt nhìn khắp bọn hải tặc một lượt, đoạn nghiêm giọng :
- Sự việc hôm nay, dù sao cũng đã xảy ra rồi, ta tha cho các ngơi!
Song từ nay về sau, nếu các ngươi còn xúc phạm đến người anh em của ta kia, thì đừng trách ta hẹp lượng với các ngươi!
Bây giờ hắn không gọi chúng là các vị nữa.
Tên đầu đảng hấp tấp đáp :
- Không! Không! Chúng tôi chẳng dám động đến Ngưu đại gia nữa đâu, chúng tôi sẽ một mực cung cung kính, dù Ngưu đại gia có đánh chết chúng tôi, nhất định chúng tôi cũng chẳng dám hoàn thủ!
Ngưu Thiết Oa mắng lớn :
- Mẹ kiếp! Các ngươi không hoàn thủ, thì còn ai đánh chết các ngươi nữa. Nói như vậy mà nghe được!
Bọn hải tặc gật đầu nhanh :
- Phải! Phải! Ngưu đại gia có lý!
Phương Bửu Nhi hăm :
- Nếu ta biết các ngươi quen tính cậy đông hiếp kẻ cô đơn, nhất định là ta trách cứ Thọ Thiên Tề ngay!
Bọn hải tặc hấp tấp kêu lên :
- Làm gì dám vậy? Bọn chúng tôi có gan bằng trời cũng không dám làm vậy nữa.
Tên đầu đàn run run giọng hỏi :
- Đại gia còn gì phân phó nữa chăng?
Phương Bửu Nhi lắc đầu :
- Chẳng còn việc gì cả!
Ngưu Thiết Oa vội chen vào :
- Còn! Còn! Còn bảo các ngươi tí việc!
Tên đầu đàn hỏi :
- Việc gì? Xin Ngưu đại gia cứ nói, vô luận như thế nào, chúng tôi vẫn xin tuân theo!
Ngưu Thiết Oa cười lớn :
- Trên thuyền có bao nhiêu thịt bánh, đường, muối, gom hết khuân lại cho ta, để ta thết đại ca một bữa no nê xem nào!
Tên đầu đảng vâng một tiếng lớn, đoạn quắc mắt nhìn lũ thuộc hạ, chúng chạy bay về thuyền mang tất cả những gì của chúng dự trữ, giao nạp cho Ngưu Thiết Oa.
Gã nhìn qua một thoáng, đoạn cao giọng quát :
- Xong rồi các ngươi cút hết đi, còn đứng đó làm gì? Thế các ngươi muốn ăn ké nữa sao?
Bọn hải tặc nghe gã quát, như bắt được vàng, vội cúi rạp mình vái Phương Bửu Nhi và Ngưu Thiết Oa, đoạn trở về thuyền, mở dây tách bờ cấp tốc.
Ngưu Thiết Oa cười híp mắt thốt :
- Mặc sức mà ăn, đại ca ơi! Ha ha! Chẳng ngờ hôm nay tiểu đệ chẳng những không chết, mà lại được no nê. Còn gì sung sướng bằng, hở đại ca!
Rồi suốt ngày đó, cả hai cứ ăn, Phương Bửu Nhi thì ăn điềm đạm bởi hắn nhỏ vóc, hơn nữa lại là nhà văn, sự ăn uống điều độ thanh lịch, không như gã Ngưu thô bạo thành tánh, ăn no nốc đậm.
Đối với gã, trên thế gian này còn có sự việc trọng đại đáng làm đâu, ngoài ăn và ngủ? Ăn no rồi, gã ngủ, gã ngủ say như chết, thức dậy lại ăn.
Phương Bửu Nhi cũng buồn ngủ lắm song nằm xuống rồi thì tâm tư dao động với những ý niệm phức tạp, hắn nghĩ ngợi mãi không thể nào nhắm mắt nổi.
Đêm đến, hắn chỉ chợp mắt được một chút, còn Ngưu Thiết Oa thì ngáy đủ năm canh dài!
Qua hôm sau, xong bữa ăn sáng rồi, Ngưu Thiết Oa thốt :
- Đại ca hiện đang trong cảnh lui không nhà, tới không hướng định, chi bằng theo tiểu đệ phiêu dao trên sóng nước hải hồ, tuy có lúc thiếu cái ăn, nhưng được cái lợi là vô cầu vô thúc, không ai chọc cho mình sinh giận, không ai khó dễ cho mình, đói thì có gì ăn nấy, không có thì nhịn, mệt thì cứ ngủ, tùy ý ngủ bao lâu cũng được.
Phương Bửu Nhi cười khổ :
- Nếu ta được an nhàn như ngươi, thì còn nói làm gì!
Ngưu Thiết Oa trố mắt :
- Đại ca có sự việc gì phải bận lo?
Phương Bửu Nhi thở dài :
- Ngươi làm sao hiểu được!
Ngưu Thiết Oa cúi đầu, lộ rõ vẻ u buồn :
- Như vậy là đại ca không đi theo tiểu đệ! Đại ca bỏ rơi tiểu đệ à?
Giọng nói của gã bi thiết quá, Phương Bửu Nhi nghe gã nói mà xúc cảm vô cùng.
Hắn thở dài, thốt :
- Ta đâu có muốn ly khai ngươi? Song sự tình bắt buộc thì ta còn biết làm sao hơn? Khi nào công việc của ta hoàn thành rồi, ta sẽ trở lại vùng này, tìm ngươi!
Ngưu Thiết Oa vẫn cúi đầu, thấp giọng hỏi :
- Đại ca định đi đâu?
Phương Bửu Nhi lắc đầu :
- Ta cũng chưa định là mình sẽ về đâu, chỉ biết trong chuyến đi này ta cần tìm một người cho đến bây giờ, ta vẫn không hiểu người đó hiện đang ở địa phương nào?
Ngưu Thiết Oa suy nghĩ một lúc, rồi ngẩng đầu lên nhìn hắn :
- Đã thế tiểu đệ xin tiễn đại ca một đoạn đường, từ đây đến vàm sông, nơi đó tiểu đệ có quen một số chủ thuyền, tiểu đệ sẽ gởi gắm đại ca cho một vị chủ thuyền nào đó, chở đi xuôi đòng sông, giúp đại ca bớt nhọc bôn ba trên con đường bô.....
Sở dĩ Ngưu Thiết Oa trước đó không dám ngẩng đau lên, là vì gã khóc. Chừng nguồn lòng lắng dịu, gã mới chường mặt, tuy nhiên gã không lau khô ngấn lệ còn in rõ nơi khóe mắt, nơi má...
Phương Bửu Nhi không tưởng là con người thuần phác, thô kệch như gã lại để cảm xúc đến phải rơi giọt vắn giọt dài, thì ra gã quả có tình thâm ý trọng đối với hắn thực sự.
Trong cơn bình thủy tương phùng; gã tỏ lộ một tấc chân thành như thế, nghĩ ra, cái nhiệt tâm của gã lớn hơn những kẻ ruột rà.
Phương Bửu Nhi dù muốn dù không cũng phải chấp nhận đề nghị của gã, đoạn cả hai nắm tay nhau đến tiến đến con thuyền bằng cành cây, Ngưu Thiết Oa đẩy nó xuống nước, kéo buồm lên tách bến ra khơi...
X Bên ngoài cửa Ngô Tùng, bãi chài khá rộng, cát, đất từ ngoài khơi đổ vào, từ dòng sông lùa ra, dồn ứ lại, làm dịu bớt đợt sóng biển ập vào, những con thuyền qua lại nơi đó được an toàn phần nào, khỏi bị dồn dập mạnh.
Nơi đó, nối liền thủy đạo từ Huỳnh Hà đổ đến, rồi xuôi về Trường Giang Nam cũng như Bắc, nhờ tư thế giao liên quan trọng mà địa phương trở nên phồn thịnh vô cùng.
Thuyền trăm, thuyền ngàn, xuôi ngược, buồm phơi trắng xóa to nhỏ bất đồng, xem nhộn nhịp lạ.
Nơi đó, có đảo Sùng Minh, dân cư trên đảo sống bằng nghề hạ bạc, một nghề truyền tử lưu tôn. Khi bình minh lên là rong thuyền ra khơi, lúc hoàng hôn xuống, thuyền từ trùng dương trở về, chen lẫn với ngư thuyền, còn có du thuyền, thương thuyền, ngày buồm lợp nước, đêm đèn rực rỡ như sao trời.
Những khi gió lặng, sóng im, chèo buông thuyền thả, tiếng ngư ca vang dội khắp nơi.
Đúng là một cảnh thanh bình, dân cư an lạc trong cái mộc mạc của dân phong.
Sau mấy hôm bềnh bồng trên mặt biển, thuyền của Ngưu Thiết Oa đã vào Trường Giang, tìm bến đỗ.
Ngưu Thiết Oa định tìm thuyền chủ quen, gởi gắm Phương Bửu Nhi.
Nhưng, có lẽ đã suy nghĩ kỹ trong mấy ngày qua, Phương Bửu Nhi thốt:
- Bây giờ, ta thay đổi ý kiến, chỉ muốn noi theo đường bộ mà đi!
Ngưu Thiết Oa kêu lên :
- Tại sao?
Phương Bửu Nhi thở dài :
- Cái người ta định đi tìm, có lưu địa chỉ cho ta, nhưng vì tánh tình cổ quái, người đó không nêu đúng địa điểm, cho nên muốn tìm đến tận nơi, phải lắm công phu, phải hỏi thăm đường từng chặng, từng chặng, do đó, cần phải đi đường bộ mới xong, chứ ngồi trên thuyền còn biết hỏi ai?
Ngưu Thiết Oa trố mắt :
- Nhưng, đại ca đơn thân, độc lực, trong mình lại chẳng có lộ phí nếu theo đường bộ mà đi, thì làm sao được? Chẳng lẽ chịu đói chịu khát mãi?
Phương Bửu Nhi cười gượng :
- Ngươi yên trí, đại ca của ngươi có lắm thủ đoạn kia mà!
Ngưu Thiết Oa sáng mắt, ạ lên một tiếng :
- Phải! Tiểu đệ quên mất là đại ca có thủ đoạn cao cường hơn hẳn tiểu đệ mấy bậc! Ngu xuẩn như tiểu đệ còn không sợ đói, làm gì đại ca lại phải đói?
Gã suy nghĩ một chút, rồi khuân hết thịt, bánh, muối, đường, ra giữa hai người, đoạn thốt :
- Trên thuyền chỉ còn lại bao nhiêu thực phẩm đó thôi, đại ca cứ lấy mang theo trên đường đi!
Phương Bửu Nhi sửng sốt :
- Không! Những vật này thuộc về ngươi, cứ giữ lại mà dùng, chẳng phải là của ta!
Ngưu Thiết Oa lắc đầu :
- Không! Của đại ca mà! Đại ca cứ mang theo!
Phương Bửu Nhi khoát tay :
- Ngươi cứ giữ lại!
Ngưu Thiết Oa bối rối :
-
- Đại ca không chịu mang theo, thì… thì… tiểu đê.....
Gã cũng chẳng biết phải nói gì thêm nữa.
Phương Bửu Nhi mỉm cười :
- Cùng là huynh đệ có phúc đồng hưởng, có lộc đồng chia, người không chịu giữ lại, ta chẳng chịu mang đi, vậy chúng ta chia nhau ăn, ăn cho hết, chẳng con ai đưa đẩy cho ai nữa!
Phương Bửu Nhi thốt xong, Ngưu Thiết Oa khoái chí, vỗ tay bốp bốp :
- Hay lắm! Hay lắm! Mình cứ ăn, ăn cho hết, đại ca!
Rồi cả hai cùng ăn Phương Bửu Nhi ăn cầm chừng còn Ngưu Thiết Oa thì ngốn mạnh, đớp mau, ăn một lúc gã vụt kêu lên :
- Không xong! Không! Tiểu đệ ăn nhiều, đại ca ăn ít, ăn như vậy thì mất công bình quá! Tiểu đệ xin thôi, nhường đại ca ăn, để bắt kịp cái chỗ thua thiệt.
Gã đưa phần thịt còn lại cho Phương Bửu Nhi. Phương Bửu Nhi nhìn gã xúc động bồi hồi! Hắn lấy phần thịt, gói lại bỏ vào mình, đoạn thốt :
- Cũng được, ta giữ phần thịt này, cho ngươi vui!
Hắn nhìn ra xa xa rồi nói tiếp :
- Giờ ta muốn đi! Đã đến lúc ta đi rồi… Ngưu Thiết Oa thừ người một phút, đoạn đứng lên, cúi đầu, giọng gã sền sệt :
- Đại ca!…Đại ca đừng quên …Thiết… Oa… Đột nhiên gã quay mình phóng chân chạy như bay, trong thoáng mắt đã khuất dạng. Phương Bửu Nhi nhìn theo gã, thẫn thờ một lúc, rồi hắn cao giọng gọi :
- Thiết Oa! Thiết Oa! Chẳng khi nào ta quên ngươi!
Gọi, bất quá để vơi đi phần nào ưu sầu đang đè nặng tâm hồn, chứ làm gì Ngưu Thiết Oa nghe lọt?
Rồi, hắn khóc.
Hắn đã được biết bao nhiêu người yêu mến, song những tình cảm mà hắn hưởng thụ từ trước, do hàng trưởng thượng dành cho hoặc thân thích, ruột rà, hoặc những kẻ ngưởng mộ tổ phụ hắn, rồi tưởng nghĩ luôn đến hắn.
Những tình cảm đó, không làm cho hắn rung động tâm tư, bởi không do hắn tự tìm, nó có sẵn, nó tự nhiên mà đến với hắn.
Đối với Ngưu Thiết Oa thì khác, từ cái chỗ chất phát, gã trở thành thân mật với hắn, gã dành cho hắn sự chân thành, chính tình cảm này mới làm cho hắn rung động thật sự. Tình bằng hữu!
Hắn rung động, hắn khóc, thành thật khóc.
Hắn rời thuyền, đến một tảng đá gần đó, ngồi xuống ủ rũ như một cái xác không hồn.
Chốc chốc, hắn lắc đầu, lệ vẫn tuôn tràn, hắn không lau khô, hắn hồi ức lại những việc đã qua, từ ngày ly khai gia đình đến nay, thời gian chưa qua nửa tháng, mà bao nhiêu diễn tiến dồn dập!… Bỗng, có tiếng thét vang lên phía sau lưng hắn, xa xa. Hắn giật mình, quay đầu nhìn lại, thì ra Ngưu Thiết Oa vừa chạy vừa gọi hắn.
Hắn vừa mừng vừa kinh hãi, hấp tấp hỏi :
- Ngươi…Ngươi trở lại làm gì?
Ngưu Thiết Oa đến trước mặt hắn, cúi đầu, mặt gã còn ngấn lệ, gã ấp úng nói :
- Đại ca! Tuy đại ca có thủ đoạn hơn tiểu đệ, song tiểu đệ vẫn không nỡ để đại ca đơn thân trên đường dài, đại ca chịu làm sao nổi với những vất vả đó? Tiểu đệ trở lại, mong đại ca chấp nhận cho tiểu đệ cùng đi với, dù đi đến chân trời góc bể, dù phải trải bao nhiêu cực khổ nhọc nhằn, tiểu đệ cũng cam tâm!
Phương Bửu Nhi nghe tim đập mạnh, hắn nhìn sững Ngưu Thiết Oa một lúc đoạn bước tới choàng tay ôm mình gã, cao giọng thốt :
- Ngươi đi theo ta! Ta bằng lòng! Chúng ta không rời nhau nữa!
Ngưu Thiết Oa reo lên :
- Thật vậy hở đại ca?
Gã vòng hai cánh tay hộ pháp ôm cứng Phương Bửu Nhi. Hai thái cực quyện vào nhau trông hết sức khôi hài, nhưng nhìn đến bốn giòng lệ đang chảy dài trên má họ, chẳng ai cười được nữa.
Khi tâm tư lắng dịu niềm xúc động, cả hai lại đưa nhau xuống thuyền, thuyền tách bến, xuôi giòng.
oOo Trên sông có rất nhiều thuyền qua lại, trong số có những thuyền quen của Ngưu Thiết Oa, người ngồi trên thuyền gọi gã chào mừng.
Có người cười lớn thốt :
- A! Thiết Oa! Ngươi đã trở về rồi đó à? Năm nay có ngươi thì bọn ta còn cái gì thừa mà ăn chứ?
Có người khác hỏi :
-Ngươi cùng về với ai thế?
Ngưu Thiết Oa cao giọng nói:
- Đại ca của tôi đấy!
Người hỏi, bật cười ha hả. Trên thế gian này, không một ai có thể tin được Phương Bửu Nhi là đại ca của gã cả!
Ngưu Thiết Oa thong thả đẩy mái chèo, xuôi thuyền giòng nước, đến chiều thì họ đã vượt qua một đoạn sông dài. Họ định cặp thuyền vào bờ phía Tây đảo Sùng Minh, nghỉ đêm.
Bỗng, có tiếng gọi từ xa vọng lại :
- Đại ca! Đại ca đợi tôi với!… Tiếng gọi do một nữ nhân phát ra. Phương Bửu Nhi mỉm cười :
- Không ngờ cũng có người gọi ngươi là đại ca!
Hắn nhìn về hướng phát ra tiếng gọi, thấy một chiếc thuyền nhẹ, lướt tới như bay, người chèo thuyền là một thiếu nữ, vận áo xanh, tuy còn xa mà hắn vẫn nhận ra nàng có đôi mắt xanh đen, răng trắng bóng.
Y phục của nàng ngắn. Để lộ đôi chân no tròn, cổ tay no tròn, chân tay trắng nõn, nơi cổ tay có chiếc vòng không rõ bằng đá hay bằng ngọc, màu xanh biếc.
Trông dáng dấp của nàng, Phương Bửu Nhi biết ngay sinh hoạt của nàng phần lớn thời gian ở trên mặt nước, nàng chèo thuyền rất thạo, con thuyền lướt nhẹ nhàng, nhanh chóng.
Ngưu Thiết Oa cũng nhìn theo hắn, bất giác hắn reo lên :
- Tam muội! Tam muội! Mau lên! Cố gắng tay chèo chút nữa đi!
Trong khoảnh khắc, chiếc thuyền nhẹ đã đến nơi, thuyền vừa cặp nhau, Ngưu Thiết Oa đưa tay đỡ thiếu nữ, đặt qua thuyền gã nhẹ nhàng như con diều hâu xớt gà con.
Thiếu nữ áo xanh nhìn gã từ đầu đến chân, rồi ạ lên một tiếng :
- Đại ca lớn nhanh quá! Khác hồi xưa rất xa!
Rồi nàng nhìn sang Phương Bửu Nhi một thoáng đoạn hỏi anh :
- Còn vị tiểu đệ này là ai hở đại ca?
Ngưu Thiết Oa bật cười ha hả :
- Tiểu đệ? Ha ha! Tiểu đệ thế nào được, tam muội! Y chính là đại ca của ta đó! Đại ca của ta, là đại ca của tam muội luôn, tam muội hãy nhớ như vậy!
Gã trầm giọng một chút, hỏi tiếp :
- Làm sao tam muội lại có mặt tại đây?
Thiếu nữ áo xanh không đáp lời gã, trừng mắt nhìn Phương Bửu Nhi, ấp úng nói :
- Đại… ca… Đại ca?
Ngưu Thiết Oa gật đầu :
- Đúng vậy! Đại ca của ta đó!
Gã day qua Phương Bửu Nhi giới thiệu :
- Em gái của tiểu đệ đó, đại ca! Nó tên là Thiết Lan, sánh với tiểu đệ thì nó thông minh hơn nhiều!
Ngưu Thiết Lan giương tròn mắt lên nhìn Phương Bửu Nhi, như nhìn quái vật, một lúc lâu rồi hỏi :
- Ngươi… ngươi là… đại ca của đại ca ta?
Bỗng nàng bật cười hắc hắc, cười ngất đến mất thở.
Ngưu Thiết Oa sừng sộ :
- Cười gì mà hăng thế? Sao không làm lễ ra mắt đại ca đi à?
Thực sự, Ngưu Thiết Lan cũng muốn nhịn cười lắm, song càng nhịn, nàng càng cười ròn, cười một lúc rồi mới thốt lên lời được :
- Ngươi… có thật là… ngươi muốn ta gọi ngươi bằng đại ca?
Phương Bửu Nhi chưa kịp nói gì, thì Ngưu Thiết Oa cao giọng :
- Tự nhiên rồi! Đại ca của ta, tức là đại ca của ngươi chứ còn gì nữa?
Lần này, Ngưu Thiết Lan cũng cười, nhưng là nụ cười mỉa :
- Được! Được!… Thì ta gọi ngươi là đại ca! Cũng được đi! Tiểu tiểu đại ca!
Phương Bửu Nhi thản nhiên :
- Chắc ngươi hiềm vì ta nhỏ tuổi?
Ngưu Thiết Lan bĩu môi :
- Nếu ta nói là không phải như vậy, thì hóa ra ta nói dối ngươi!
Phương Bửu Nhi chớp chớp mắt :
- Ngươi mới ngần ấy tuổi, lại là nhi nữ, tại sao lại trốn gia đình bỏ đi như thế, không sợ cha mẹ lo lắng sao?
Ngưu Thiết Lan trố mắt :
- Sao ngươi biết ta bỏ trốn? … Chợt nàng thấy mình nói hớ, bỏ lửng câu nói.
Phương Bửu Nhi mỉm cười :
- Nếu không là trốn gia đình bỏ đi, thì vừa rồi đại ca ngươi hỏi tại sao ngươi có mặt ở đây, hẳn ngươi phải giải thích ngay chứ?
Ngưu Thiết Lan lại nhìn sững hắn, nàng lấy làm lạ, một đồng tử trạc tuổi hắn mà lại biết suy luận theo sự việc mà đưa ra nhận xét!
Nàng không đáp, nhưng Ngưu Thiết Oa đã nghe lọt câu bắt chẹt của Phương Bửu Nhi, gã cao giọng hét lên :
- Tam muội! Thế ngươi trốn nhà, bỏ đi à?
Ngưu Thiết Lan gật đầu.
Ngưu Thiết Oa nổi cáu :
- Hay! Hay! Gái mới mười hai, mười ba tuổi đã bỏ nhà trốn đi như vậy! Ngươi to gan lắm đấy, không sợ kẻ lạ làm thịt ngươi à?
Ngưu Thiết Lan mau mồm :
- Ai mười hai, mười ba tuổi?
Ngưu Thiết Oa lại hét :
- Còn hỏi nữa? Không mười hai mười ba thì mười mấy? Ta còn nhớ, lúc ta bỏ nhà ra đi, đúng là ngày sinh nhật mười tuổi của ngươi! Ta còn nhớ rõ lắm mà!
Ngưu Thiết Lan phì cười :
- Trời! Đó là việc của năm năm về trước, đại ca ơi! Cách nay đã năm năm rồi! Trong năm năm đó, đại ca không cho người ta lớn lên sao? Người ta làm gì còn là mười hai mười ba tuổi nữa đâu?
Ngưu Thiết Oa ạ lên một tiếng :
- Phải! Phải! Ta bỏ nhà đi được năm năm rồi! Thế mà ta quên mất, chóng nhỉ! Vậy là ngươi năm nay… Ngưu Thiết Lan mỉm cười :
- Được mười lăm tuổi rồi!
Nàng tiếp :
- Đại ca đi rồi, ở nhà, nhị ca lấy vợ… Ngưu Thiết Oa sáng mắt :
- Hắn có vợ rồi à? Hà hà! Hắn có vợ rồi! Thích nhỉ!
Ngưu Thiết Lan tiếp :
- Nhị tẩu vừa đẹp, vừa thông minh, tiểu muội tự hỏi mãi chẳng biết tại sao nhị tẩu lại chọn nhị ca!
Ngưu Thiết Oa trừng mắt :
- Thế nhị đệ là con người bỏ đi sao? Không lẽ hắn không sánh bằng ai hử?
Ngưu Thiết Lan cười hì hì :
- Nhị ca đúng là người có phúc tướng! Chỉ vì… chỉ vì… Năng thở dài rồi nói tiếp :
- Nhị tẩu tuy thông minh thật, đẹp thật, nhưng phải cái quá lợi hại!
Ngưu Thiết Oa giương tròn mắt :
- Lợi hại như thế nào?
Ngưu Thiết Lan lại thở dài :
- Từ ngày nhị tẩu vào trong gia đình mình, thì không khí hoàn toàn đổi khác, trước đó chúng ta nghèo thật nhưng nghèo mà vui vẻ. Nghèo mà hoà thuận… rồi nhị tẩu đến, có mang tiền bạc theo, gia đình không còn nghèo túng nữa, tuy nhiên… tiểu muội vẫn thấy luyến tiếc cái nghèo lúc trước … Ngưu Thiết Oa cau mày :
- Ngươi nói sao? Nó khi dễ ngươi?
Ngưu Thiết Lan lắc đầu :
- Khi dễ thì không, nhưng… nhưng… với tiểu muội, dù nhị tẩu có khi dễ hay không khi dễ, cũng chẳng có quan hệ gì chỉ thương hại cho nhị ca… Ngưu Thiết Oa trầm giọng :
- Nó khi dể nhị đệ? Nó lấn hiếp nhị đệ?
Ngưu Thiết Lan cúi đầu, lâu lắm vẫn chưa thốt tiếp tiếng nào.
Ngưu Thiết Oa nóng nảy, quát giục :
- Tiểu muội! Nói mau đi chứ! Có phải nàng ấy khi dể nhị ca của ngươi không?
Ngưu Thiết Lan đưa mắt sang nhìn Phương Bửu Nhi, rồi từ từ thốt :
- Nhị tẩu… trước khi về với nhị ca, đã có rất là nhiều bằng hữu… những người ngày thường lui tới với nhị tẩu… ngay tại nhà chúng ta… Ngưu Thiết Oa trừng mắt :
- Có nhiều bằng hữu là một việc tốt, họ đến tìm nó, là họ nhớ thương nó, chứ hại gì? Nó được nhiều bằng hữu nhớ thương quý mến, tìm đến thăm nó như vậy, là nó có tánh khẳng khái, thích làm việc nghĩa, chúng ta phải kính trọng nó chứ?
Ngưu Thiết Lan thở dài :
- Nhưng… nhưng… những bằng hữu của nhị tẩu, toàn là nam nhân!
Ngưu Thiết Oa cao giọng nói :
- Thì đã sao? Không lẽ nam nhân chẳng thể làm bằng hữu à? Hừ hừ! Ngươi rồi cũng đến kỳ quái mất!
Ngưu Thiết Lan nghiến răng :
- Chính đại ca cổ quái thì có! Phàm là nữ nhân, xuất giá rồi chẳng được tự tiện kết giao, nội cái việc như vậy mà đại ca cũng chẳng hiểu à?
Ngưu Thiết Oa lẩm nhẩm :
- Sao lạ vậy? Nữ nhân xuất giá rồi, lại không được kết giao bằng hữu sao?
Gã nhìn sang Phương Bửu Nhi, hỏi :
- Đại ca có cho là tam muội nói có lý không?
Phương Bửu Nhi gật đầu :
- Có lý!
Ngưu Thiết Oa lại suy nghĩ một chút, đoạn cao giọng thốt :
- Nếu vậy, ít ra nhị đệ cũng giáo huấn nàng chứ? Làm cách nào ngăn chận nàng từ nay về sau, đừng giao du bừa bãi như vậy chứ!
Ngưu Thiết Lan lại thở dài :
- Cái tánh của nhị ca lẽ nào đại ca lại không biết? Đối với bất cứ ai, có bao giờ nhị ca dám đắc tội, thì đối với nhị tẩu, nhị ca lại căng ngoan ngoãn hơn, chỉ nghe nhị tẩu đằng hắng một tiếng nhỏ thôi, từ xa xa vọng lại, là đang bận làm gì thì nhị ca cũng bỏ hết, mà chạy lẹ đến trước mặt nhị tẩu, chờ xem có sai bảo gì không?
Ngưu Thiết Oa hừ một tiếng :
- Còn cha? Cha ở đâu, sao không nói năng gì?
Ngưu Thiết Lan lại thở dài :
- Cha và mẹ sợ nhị tẩu quá chừng. Nhị tẩu muốn làm gì thì làm, hai người chẳng dám nói gì cả. Chỉ có… chỉ có… tiểu muội… Ngưu Thiết Oa hấp tấp hỏi :
- Ngươi làm sao?
Ngưu Thiết Lan cao giọng đáp :
- Tiểu muội không sợ, tuyệt nhiên không sợ! Nếu thấy gì trái mắt, nghe gì nghịch tai, là tiểu muội phản đối liền, tiểu muội quyết chống đối nhị tẩu, giờ phút nào cũng chống đối! Không chịu để cho nhị tẩu đắc ý!
Ngưu Thiết Oa cười lớn :
- Thì chính ta cũng từng bị ngươi làm khổ lúc nhỏ! Ai mà chịu nổi ngươi? Rồi nó có báo thù không?
Ngưu Thiết Lan gằn giọng :
- Sao lại không? Ngoài mặt thì nhị tẩu nhường nhịn, nhưng đến lúc gặp tiểu muội ở chỗ nào vắng vẻ là nhị tẩu lao vào mà đánh đập tiểu muội cho bỏ ghét!
Ngưu Thiết Oa trừng mắt :
- Ai dám hiếp bức em gái của Ngưu Thiết Oa chứ? Thế nó muốn chết à?
Ngưu Thiết Lan thở dài :
- Thủ pháp của nhị tẩu quá nhanh nhẹn, công lực lại phi thường, tiểu muội bị đánh đập thật là tàn nhẫn… Ngưu Thiết Oa nổi giận :
- Còn nhị ca ngươi đâu?
Ngưu Thiết Lan cúi đầu, thấp giọng :
- Nhị tẩu đánh đau lắm, nhưng chỉ đánh toàn là chỗ nhược, không lưu lại một dấu vết gì, nhị ca làm sao thấy được mà nói! Mà dù có thấy đi nữa cũng chẳng dám nói gì!
Ngưu Thiết Oa nổi giận đùng đùng :
- Chết! Nó phải chết với ta! Nhất định nó phải chết!
Ngưu Thiết Lan buông tiếp :
- Tiểu muội chịu không nổi nên mới bỏ đi!
Phương Bửu Nhi vụt hỏi :
- Nhị tẩu của ngươi chắc là biết võ công hả?
Ngưu Thiết Lan đáp :
- Nghe nói là đệ tử của phái Hoa Sơn đấy!
Phương Bửu Nhi cau mày thầm nghĩ :
- Là đệ tử của Hoa Sơn phái, lại thông minh, tại sao lại ưng lấy một người nhà nghèo chất phác làm chồng? Chắc chắn bên trong có nhiều uẩn khúc!
-
Hồi 12
Bang Hội Tranh Phong
Phương Bửu Nhi bây giờ mới nhìn kỹ Ngưu Thiết Lan, thấy nàng vận áo ngư gia, màu xanh, bằng một loại hàng mỏng, kiểu áo và lối may cắt rất tân kỳ, chiếc áo không biểu hiện mảy may cái nghèo của hạng người lao lực.
Mà lao lực làm sao được khi nàng có làn da đó, đôi chân cũng như đôi tay, vừa nhỏ, vừa tròn, vừa thanh lịch, nàng có những đặc điểm của hàng khuê các trâm anh?
Nhất là đôi vòng xanh chưa rõ bằng ngọc hay bằng đá, qua cái vẻ óng ánh của nó. Hắn đoán là bằng ngọc nếu đúng là bằng ngọc thì nó có cái giá liên thành.
Nếu Ngưu Thiết Oa không nhìn nàng là muội tử, nếu Phương Bửu Nhi không biết phần nào gia cảnh của Ngưu Thiết Oa, thì nằm mộng hắn cũng chẳng tưởng là nàng xuất thân từ gia đình bạch đình và nàng đã trốn gia đình, dấn bước vào phiêu bạt...
Ngưu Thiết Oa đập tay nhè nhẹ lên vai Ngưu Thiết Lan giọng đầy căm phẫn:
- Ta vắng mặt tại gia đình, thì tai biến xảy ra như thế đó! Mẹ kiếp!
Nếu có mặt ta thì làm gì tam muội phải chịu khổ như thế này! Đáng giận thật!
Ngưu Thiết Lan khẽ gật đầu.
Phương Bửu Nhi vụt hỏi:
- Chắc là trong thời gian đó, người khổ sở lắm?
Ngưu Thiết Lan giật mình, nhưng liền theo đó, nàng lấy lại bình tĩnh, nhẹ điểm một nụ cười đáp:
- Khổ thì có khổ, song cái khổ nào dai dẳng đối với hạng tuổi trẻ đâu? Rồi cũng chóng quên, chóng hết khổ!
Phương Bửu Nhi lại hỏi:
- Ngươi rời gia đình được bao lâu rồi?
Ngưu Thiết Lan buông gọn:
- Ba năm! Đúng ba năm!
Phương Bửu Nhi trầm giọng:
- Trong ba năm qua, ngươi làm gì?
Ngưu Thiết Lan mỉm cười:
- Bềnh bồng trên mặt nước, quăng lưới, buông câu, bắt con cá con tôm, đổi lấy chén cơm, manh áo.
Phương Bửu Nhi chớp mắt:
- Con thuyền kia, làm sao ngươi có nó mà hành nghề hạ bạc?
Ngưu Thiết Lan điềm nhiên:
- Thuê, mỗi tháng ba phân bạc.
Phương Bửu Nhi hừ nhẹ:
- Sinh hoạt khổ nhọc như vậy, đồng tiền đồng bạc khó kiếm như vậy, ngươi nghĩ sao mà ăn mặc quá sang?
Ngưu Thiết Lan bật cười ha hả:
- Ngươi ngây thơ quá! Ngươi có cái thành kiến là nữ nhân chẳng có quyền hân hoan mặc đẹp à? Tại sao ta có tiền may mặc đẹp? Ha ha!
Nếu con người biết cần kiệm, mỗi ngày dành lại một chút tiền, nhỏ đối với mỗi ngày, nhưng to khi tích tụ qua nhiều ngày, có cái gì mà ta mua sắm không nổi? Cho ngươi biết chiếc áo thì chẳng đáng giá bao nhiêu, không nói làm gì, chứ chiếc vòng ngọc này, ta mua nó với hai năm dài ăn dè uống xẻn đấy!
Cái ý của Phương Bửu nhi:
muốn khám phá một bí mật gì ở trong lối sống của nàng, bởi con nhà ngư phủ lấy phương tiện đâu mà mua sắm những vật quý giá, ăn mặc rực rở?
Nếu nàng ấp úng đáp lời hắn, tức nhiên nàng phải có một nguồn lợi nào khác hơn là cái nghề hạ bạc, hoặc giả có bàn tay bí mật nào đó cung cấp như cầu cho nàng.
Nhưng nàng đáp nhanh, lại suông, lại gọn, như chứng tỏ một sự hiển nhiên, nàng tự lực gánh sinh, nếu nàng được sang trọng như thế này là do mồ hôi, nước mắt của nàng, không hề nhờ một phương tiện nào cả.
Phương Bửu Nhi sững sờ, thoạt đầu hắn cũng có ý tin tưởng là nàng hữu lý.
Song nghĩ kỹ lại, hắn đâm ra nghi ngờ, bởi nàng đáp nhanh, quá nhanh, nhanh như có sắp xếp sẵn, hơn nữa ánh mắt của nàng vừa tinh vừa xảo, ánh mắt đó tố cáo một ẩn ý rõ rệt, những con người thuần phác ăn ngay nói thật chẳng khi nào có được một tia nhìn sáng rực như vậy.
Hắn biết có một sự bí ẩn bao trùm cô gái này, song làm sao hắn khám phá ra nổi sự bí ẩn đó?
Linh tính báo cho hắn biết, sự bí ẩn đó có vẻ bất tường, hoặc cho hắn hoặc cho nàng, cho Ngưu Thiết Oa trong nhất thời, hắn không thể quyết đoán được.
Hắn nhìn Ngưu Thiết Lan không chớp, nàng trái lại không nhìn hắn, nơi khoé miệng thoáng hiện một nụ cười ranh mãnh.
Ngưu Thiết Oa cũng nhìn em gái gật gật đầu:
- Thật mà! Thật vậy mà! Hiện tại ngươi đã lớn rồi, ngươi là một thiếu nữ không còn bé bỏng như ngày nào!
Gã đắc ý, gã hãnh diện có một em gái mà theo gã thì đã nên người lắm lắm.
Gã cười vang tiếp nối:
- May mà hôm nay ta gặp tiểu muội, chứ để năm bảy năm sau mới gặp tiểu muội, làm sao ta nhận ra?
Ngưu Thiết Lan cười tươi nói:
- Nghe nói đại ca trở về, tiểu muội mừng rỡ hết sức, vội chèo thuyền đi đón đại ca.
Phương Bửu Nhi vụt hỏi:
- Người ta ai ai cũng đang quăng câu, buông lưới trên mặt sông, còn người ăn mặc như thế đó, cũng đi quăng câu buông lưới à? Nếu không quăng câu buông lưới, thì làm gì nghe họ nói là đại ca ngươi trở về?
Không quăng câu buông lưới, lại có mặt trên sông, để làm gì chứ?
Ngưu Thiết Lan hừ một tiếng:
- Ai cấm ta nghỉ ngơi một vài ngày? Ai cấm ta chèo thuyền xem đồng nghiệp hành nghề?
Phương Bửu Nhi lại hỏi:
- Ngươi bỏ nhà ra đi, lại đến ở tại một nơi có rất nhiều người quen, thế nào chẳng có kẻ đem việc gặp ngươi tại đây, nói lại với cha mẹ ngươi, tại sao trong ba năm nay, cha mẹ ngươi không đến tìm ngươi?
Chẳng lẽ cha mẹ ngươi không nhớ thương con? Chẳng lẽ cha mẹ ngươi không thích ngươi có mặt tại nhà?
Ngưu Thiết Lan lại hừ một tiếng:
- Làm sao ta hiểu được là cha mẹ ta có biết hay không biết ta ở tại đây mà có ý kiến? Ta ở đây đúng ba năm rồi, Người trong gia đình ta chẳng hề đến tìm ta!
Từ đầu cuộc đối thoại, nàng đáp nhanh quá không hề do dự không hề suy nghĩ. Điều đó càng làm cho Phương Bửu Nhi thêm nghi hoặc.
Gặp Ngưu Thiết Oa hắn cứ tưởng là gia đình gã rất đơn thuần chất phác, giờ gặp Ngưu Thiết Lan, ý tưởng đó không còn vững nữa, và hắn bắt đầu nhận ra gia đình đó rất phức tạp.
Người anh thì thật thà như đếm, còn người em thì linh xảo vô cùng, có thể bảo nàng là giảo quyệt cũng không ngoa chút nào.
Còn Ngưu Thiết Lan, cũng không ngờ là tuổi nhỏ mà Phương Bửu Nhi lại có lối suy nghĩ rất chính xác, nàng nhìn nhận hắn biết nàng có điều bí mật, song chắc chắn là hắn chưa hiểu rõ những bí mật đó như thế nào.
Trong khi hai khối óc đang vận dụng để khám phá sự bí ẩn của nhau thì Ngưu Thiết Oa cứ cười bô bô nói oang oang, gã chỉ có mỗi một việc là mừng được gặp em gái, ngoài ra chẳng hề tưởng nghĩ già khác.
Ngưu Thiết Lan không còn nói gì, cúi gầm đầu mân mê tà áo.
Bỗng Phương Bửu Nhi cao giọng:
- Ta đi thôi!
Ngưu Thiết Oa kêu lên:
- Đi đâu?
Phương Bửu Nhi buông gọn:
- Đi về nơi mà em gái ngươi cư ngụ chứ đi đâu? Ta muốn nhìn qua cho biết.
Ngưu Thiết Oa reo lớn:
- Phải! Phải!
Gã day qua Ngưu Thiết Lan, hỏi:
- Tam muội ở đâu? Có gần đây lắm không?
Ngưu Thiết Lan thay vì đáp, chỉ thốt:
- Đại ca theo tiểu muội!
Chợt nàng rú lên thất thanh:
- Chết rồi, thuyền của tiểu muội...
Thì ra, lúc Ngưu Thiết Oa với tay đưa nàng qua thuyền minh, gã đã quên cột giây thuyền nàng lại, giờ thì chiếc thuyền đó đã trôi đi, mất dạng.
Phương Bửu Nhi cau mày:
- Đi tìm!
Ngưu Thiết Oa gật đầu:
- Phải! Mình đi ngay!
Thuyền trôi đi lâu lắm rồi, vả lại đêm sắp xuống, đi tìm thì biết tìm nơi nào?
Đúng lúc đó, một chiếc thuyền con từ xa lướt tới.
Chèo thuyền là một thiếu nữ, ăn mặc như Ngưu Thiết Lan cũng áo mà xanh, bằng hàng mỏng, cũng vòng ngọc xanh.
Ngưu Thiết Lan kêu to:
- Lưu thơ! Lưu thơ có thấy chiếc thuyền của tôi không?
Thiếu nữ đó đáp:
- Không!....Để ta đi tìm cho?
Ngưu Thiết Lan cả mừng:
- Hay lắm!
Nàng day lại Ngưu Thiết Oa:
- Đại ca ở đây chờ tiểu muội một chút, tiểu muội qua thuyền nhẹ kia, đi tìm dễ hơn!
Chiếc thuyền của thiếu nữ đã đến gần. Phương Bửu Nhi định nói gì đó, nhưng không rõ nghĩ sao lại thôi.
Ngưu Thiết Oa gật đầu:
- Lan muội có đi, hãy nhớ trở lại liền nhé!
Ngưu Thiết Lan mỉm cười, nhún chân nhảy qua chiếc thuyền của thiếu nữ nhẹ nhàng như cánh én.
Phương Bửu Nhi giật mình, tuy không biết võ công, hắn vẫn có nhận xét đúng. Trong mấy hôm vừa qua, từ lúc rời gia đình ngoại tổ, hắn luôn luôn tiếp xúc với bọn người trong võ lâm, từng mục kích họ thi triển võ công, hắn không còn lạ gì nghề nghiệp của giới giang hồ, cho nên nhìn thoáng qua thân pháp của Ngưu Thiết Lan là hắn có chủ ý ngay.
Người chẳng biết võ công làm gì có thân pháp đó?
Ngưu Thiết Lan vừa đáp chân xuống, là con thuyền của thiếu nữ đã tách xa rồi, thuyền ra giữa giòng sông, xuôi theo nước bon bon, đứng trên thuyền, Ngưu Thiết Lan quay nhìn Phương Bửu Nhi ánh mắt như thăm dò...
Ngưu Thiết Oa nhìn theo em gái, vụt cười lớn:
- Cái nàng đó ăn mặc giống tam muội của tiểu đệ quá, phải không đại ca? Cho đến con thuyền cũng không khác! Lạ thật chứ!
Phương Bửu Nhi giật mình lượt nữa.
Sự kiện do Ngưu Thiết Oa vừa nêu lên, rành rành trước mắt, ai nhìn qua cũng có thể nhận được vậy mà hắn không lưu ý.
Hắn hận mình hôm nay không thông minh bằng mọi hôm, nếu Ngưu Thiết Oa không nêu lên điều đó, chắc hắn cũng chẳng hề lưu ý đến. Tuy chẳng quan hệ gì, song hắn hận, bởi hắn cho rằng sự nhận xét của mình còn khuyết điểm quá.
Hắn ạ lên một tiếng, rồi gật đầu:
- Phải đấy!
Ngưu Thiết Oa được hắn đồng tình, mừng rỡ, nhắc lại:
- Giống quá chứ, hở đại ca?
Phương Bửu Nhi phải gật đầu lần nữa.
Hắn nghĩ thầm:
- Nhất định là em gái của Ngưu Thiết Oa có gia nhập vào bang, hội bí mật nào đó! Và bang hội đó hẳn có rất nhiều thiếu nữ, cỡ tuổi nàng, suy qua cái vẻ bí mật của nàng, ta tưởng là hoạt động của bang hội không được chánh đáng lắm!
Hắn càng suy luận về trường hợp của Ngưu Thiết Lan càng cảm thấy nhức đầu. Trong khi hắn đang miên man suy nghĩ, Ngưu Thiết Oa lái con thuyền của gã vào bờ sông.
Phương Bửu Nhi bỗng hỏi gã:
- Em gái ngươi có học võ công không?
Ngưu Thiết Oa lắc đầu:
- Không!
Phương Bửu Nhi cau mày:
- Nhưng hiện tại thì nàng biết võ công!
Ngưu Thiết Oa cười hì hì:
- Thật vậy à? Vậy thì hay lắm! Sau này tiểu đệ bảo nó dạy lại cho tiểu đệ!
Phương Bửu Nhi thốt, theo cái ý của hắn:
- Ai dạy nàng võ công? Nàng đã nói là lấy nghề hạ bạc làm kế sinh nhai, tại sao lại có người truyền võ công cho nàng? Ngươi có thấy kỳ quái không?
Ngưu Thiết Oa cười lớn hơn một chút:
- Có gì kỳ quái đâu, đại ca?
Phương Bửu Nhi thở dài, không đáp:
Qua một lúc lâu, chưa thấy Ngưu Thiết Lan trở lại. Ngưu Thiết Oa đứng tại bờ, nhìn đăm đăm ra giòng nước, chốc chốc lại nhướng cao đầu lên, rồi nhìn lên phía ngược giòng. Nhìn một lúc lại nằm xuống, rồi ngủ luôn, tiếng ngáy vang ồ ồ.
Phương Bửu Nhi lắc đầu, thở dài lẩm nhẩm:
- Đúng là con người có phúc khí! An nhàn vô sự quá!
Màn đêm đã xuống sao sớm bắt đầu lập loè trên nền trời.
Nhưng Ngưu Thiết Lan vẫn chưa trở lại.
Hắn lại nghĩ:
- “Hay là nàng sợ ta đến nhàn dọ dẫm điều bí mật, nhân dịp nầy chuồn luôn?”.
Tuy còn nhỏ tuổi, hắn có rất nhiều tâm sự, những tâm sự đó do tao ngộ trong mấy ngày qua tạo nên, giờ đây gặp Ngưu Thiết Lan thêm một đầu để cho hắn suy nghĩ nữa. Hắn chưa tìm được một giải đáp nào cho bất cứ thắc mắc nào đã hiện lên trong tâm não. Hắn cảm thấy khó chịu vô cùng.
Nghĩ mãi chẳng thấy một tia sáng nào về trường hợp Ngưu Thiết Lan hắn bước đến một tảng đá gần đó, ngồi xuống, xuất thần.
Rồi, chốc chốc, hắn lẩm nhẩm:
- Lạ thật! Lạ thật! Khó hiểu quá!.... Ở đâu chứ? Ở đâu?...
Bỗng có tiếng cười vang lên sau lưng hắn, kế tiếp một giọng nói chế giễu:
- Ở đây!....
Phương Bửu Nhi giật mình, suýt rơi xuống chân tảng đá, hắn vội quay đầu lại.
Không rõ xuất hiện từ lúc nào. Một bóng người đứng đó, một người có thân vóc cao, lớn ngang với thân vóc của Ngưu Thiết Oa tướng mạo uy nghi, y phục cực kỳ hoa lệ, chỉ có tóc buông xõa.
Người đó có râu, hàm râu dính đầy bùn. Bộ y phục hoa lệ cũng vấy bùn và đẫm nước, mường tượng một người bị ngã xuống sông vừa được vớt lên.
Phương Bửu Nhi kêu lên:
- Ngươi... ngươi là ai?
Người đó lạnh lùng thốt:
- Ngươi còn nhỏ tuổi quá, đừng hỏi đến lai lịch của ta!
Cử chỉ và giọng nói của y tỏ ra cái oai khí trang nghiêm của con người tôn quý, trông thấy y, chẳng ai dám khinh thương.
Y không cho hỏi lai lịch, Phương Bửu Nhi lại nhìn y một lúc rồi hỏi tiếp:
- Có điều gì chỉ giáo chăng?
Đại hán đó đưa tay chỉ con thuyền của Ngưu thiết Oa, hỏi lại:
- Phải thuyền của các ngươi không?
Phương Bửu Nhi lại đưa tay chỉ Ngưu Thiết Oa:
- Của gã đúng hơn!
Đại hán buông gọn:
- Đánh thức gã dậy ngay!
Phương Bửu Nhi lại trừng mắt nhìn y một chút, rồi bước tới cạnh Ngưu Thiết Oa lay gã dậy, lay mãi, Ngưu Thiết Oa vẫn ngay đều, hắn phải gọi. Rồi dùng chân đá nhẹ vào mình gã.
Ngưu Thiết Oa trở mình, ư ư mấy tiếng, rồi mở mắt, bật ngồi dậy, rồi đứng lên, rồi càu nhàu:
- Đang ngủ ngon quá, thức dậy thật uổng! Thế tam muội của tiểu đệ đã trở lại rồi à?
Chợt gã trông thấy đại hán, gã cao giọng hỏi:
- Ngươi... ngươi là ai?
Đại hán lạnh lùng:
- Ngươi chẳng cần phải biết ta là ai, hãy đẩy thuyền xuống nước đưa ta đến bên bờ kia. Bổn tướng quân sẽ trọng thưởng ngươi, bằng không tuân lời, thì... hừ... hừ...
Ngưu Thiết Oa cũng hừ hừ như y:
- Ngươi... ngươi là một vị tướng quân?
Đại hán lại hừ mấy tiếng:
- Đã biết ta là tướng quân thì hãy tuân lịnh ta!
Ngưu Thiết Oa bật cười vang:
- Ta thường nghe thiên hạ kể chuyện về những vị tướng quân ngày xưa. Không ngờ hôm nay lại được gặp một vị! Nhưng là một vị tướng quân không có oai phong như trong những chuyện ta nghe kể!
Đại hán xì một tiếng:
- Ngươi đúng là một ngốc tử! Những tướng quân trong chuyện xưa mà ngươi nghe kể, đâu sánh được với ta?
Ngưu Thiết Oa cười lớn hơn:
- Dù người là một tướng quân, ta cũng không thể khai thuyền!
Đại hán trừng mắt, gằn giọng:
- Tại sao?
Ngưu Thiết Oa rùn vai:
- Vì ta còn phải đợi một người.
Đại hán cau mày:
- Ngươi... ngươi đợi có phải là...
Ngưu Thiết Oa buột miệng chận ngang:
- Em gái ta, tên là Thiết Lan.
Đại hán phì cười:
- Thì ra ngươi chờ đợi nàng! Cho ngươi biết, nàng không trở lại nữa đâu! Hay đẩy thuyền đưa ta đi, bổn tướng quân sẽ dẫn ngươi đến gặp nàng!
Ngưu Thiết Oa mừng rỡ:
- Thật vậy à? Ngươi đưa ta đến gặp em ta à?
Gã đưa mắt nhìn sang Phương Bửu Nhi, như ngầm hỏi ý kiến.
Phương Bửu Nhi không đáp, chỉ gật đầu.
Ngưu Thiết Oa càng thêm mừng rỡ, reo lên:
- Được rồi! Được rồi! Ta chèo thuyền đưa ngươi đi, ngươi dẫn ta đến gặp em ta nhé!
Gã chạy đến thuyền, xắn tay áo, đẩy thuyền lướt bon bon trên bãi sông, nhẹ nhàng như chẳng dùng sức.
Đại hán bước lên thuyền, Ngưu Thiết Oa gảy chèo liền.
Thuyền chưa tách bờ, bỗng chao chao, y suýt ngã. Ngưu Thiết Oa cau mày, lắc đầu thốt:
- Không xong! Không xong! Đã là tướng quân, sao ngươi vô dụng thế? Ngươi có dối gạt ta không?
Đại hán gạt ngang:
- Ngốc tử! Ta là tướng quân trên bộ, có quen đi thuyền đâu. Ngươi từng nghe kể đến nhiều vị tướng quân ngày xưa chắc ngươi cũng biết Triệu Tử Long. Oai phong như thế nào trên bộ, thế mà bước xuống thuyền lần đầu tiên, còn phải ngây ngất như thường!
Ngưu Thiết Oa cười ha hả:
- Đúng vậy! Đúng vậy!
Rồi gã đẩy mái chèo.
Vừa lúc đó trên bờ từ xa xa, có bóng người chạy đến, vung tay gọi rối rít:
- Thuyền kia! Thuyền kia! Mau quay mũi vào bờ!
Ngưu Thiết Oa hét to:
- Ngươi là ai?
Ngươi mới đến cao giọng nói:
- Ngươi đừng hỏi ta là ai, cứ cặp thuyền vào bờ, rước ta đến phía trước mặt kia, nhất định ta sẽ trọng thưởng ngươi! Ta là hầu gia, ta không nói dối ngươi đâu.
Rồi y hừ một tiếng, tiếp:
- Nếu bất tuân lệnh ta thì đừng trách!
Ngưu Thiết Oa sững sốt:
- Ngươi...ngươi là “Hầu gia”?
Nhưng, vị tướng quân trên thuyền giục gã:
- Chúng ta cứ đi thôi, đừng để ý đến hắn.
Ngưu Thiết Oa lắc đầu:
- Không được! Không được đâu! Ngươi là tướng quân, con người kia là hầu gia, hầu gia thì phải lớn hơn tướng quân, ngươi phải nghe lời hầu gia, cũng như ta nghe lời ngươi.
Gã bất chấp tướng quân có đồng ý hay không, cứ quay mũi thuyền cho thuyền vào bờ.
Phương Bửu Nhi dĩ nhiên có theo thuyền, lúc đó muốn ngăn trở gã, nhưng hắn suy nghĩ một chút rồi thôi, để mặc gã làm gì thì làm.