Lênh Đênh Qua Cửa Thần Phù
Lênh Đênh Qua Cửa Thần Phù
GỌI HỒN
1.
Tới ngã ba đường tôi đứng lại. Nhà hát nhìn thẳng ra con đường lớn trước mặt. Tôi băng qua đường, bước lên những bậc đá của nhà hát. Những cánh cửa sắt khép kín. Không một bóng người. Một tấm bảng nhỏ: có việc xin đi cửa sau. Tôi ngồi xuống thềm đá. Chắc bố tôi đã nhiều lần bước trên những bậc đá này. Bao nhiêu người đã từng đặt những bước chân lên đây, như bố tôi và nay không còn cơ hội. Mỗi kẻ có một thời của nó. Còn tôi, tôi chưa bao giờ bước chân lên đây, tiến vào trong đại sảnh. Chưa bao giờ. Tôi thấy như mình ở ngoài màn kịch. Những màn kịch, những lớp tuồng có mấy khi được trình diễn giữa ban ngày ban mặt? Chỉ là bóng tối. Ánh sáng chỉ được rọi vào những chỗ nào mà người ta muốn. Sáng. Tối. Lộ ra. Khuất đi. Tiếng cười. Tiếng khóc. Mưa nắng. Sớm mai. Hoàng hôn... Tất cả đều được xếp đặt. Hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục đều được cân đo đong đếm...
Cánh cửa sắt, những thanh sắt nhiều chỗ đã bong sơn, rỉ sét. Lớp vôi tường bẩn cũ nhoa nhuếch... Tôi đứng sát vào cánh cửa sắt. Lớp bụi đất dày trên nền nhà, một cánh cửa phía trong hé mở. Tôi đi vòng về phía sau. Hàng rào sắt cách xa với tường nhà hát. Cổng sắt gần cuối hàng rào mở một cánh. Có chiếc xe đạp cũ dựng tựa vào vách tường gần với cửa nhỏ vào trong nhà hát. Tôi bước lên bậc tam cấp đứng sát vào khung cửa nhìn vào trong: không bóng người. Không tiếng động. Chỉ có bóng tối. Với ánh sáng từ khung cửa nhỏ tôi nhận ra một bậc cấp ở phía trong để lên sân khấu. Phía tay mặt đưa tới khu khán giả, phía trái đưa vào phần trong sân khấu. Tôi bước hẳn vào trong:
- Có ai không?
Trong im lặng tôi nghe thấy tiếng mình vang lên từ phía trong hắt ra: Có ai không...
Tôi vào hẳn trong nhà hát đi về phía dành cho khán giả. Trong ánh sáng lờ mờ hiện ra những lưng ghế màu đỏ, những khe hở đâu đó tạo ra những vệt ánh sáng chồng chéo nhau. Trên sâu khấu có một vùng ánh sáng, tấm màn đỏ đã được kéo ra hết sang hai bên cánh gà. Tôi quay trở lại tới chỗ cửa có bậc bước lên, tôi bước lên đi qua cánh gà vào giữa sân khấu. Tôi nhìn xuống: những hàng ghế chạy song song...
- Ai đó?
Tôi giật mình với tiếng người không biết phát ra từ phía nào:
- Ai đó?
- Tôi là...
- ... Cột, Kèo... là gì cũng được. Chẳng quan trọng gì. Nhưng đã đứng ở trên sân khấu thì diễn đi.
- Anh nói tôi?
- Chứ còn ai nữa. Hãy diễn vai kịch của anh đi...
- Tôi không phải diễn viên. Tôi không có vai kịch nào cả.
- Có đấy...
Tiếng cười khô khan cất lên vang động. Tôi đứng im. Hình như có tiếng cánh cửa mở rồi đóng ở một chỗ nào đó trong nhà hát:
- Tôi lại tìm về sân khấu
Đêm đêm bên tấm màn nhung
Tiếng gõ ba hồi xuống ván
Nghe như vồ đập áp 1
Tiếng đọc thơ, giọng mạnh mẽ vang động tôi nghe như ở trên tầng cao gần sát với trần của nhà hát. Tôi nhìn từ trên xuống dưới, chú ý vào những góc tối với hy vọng tìm ra nhân dáng của tiếng nói đang dấu mặt.
- Anh hãy diễn đi. Tôi nhìn thấy anh rất rõ: ở giữa sân khấu, một vùng ánh sáng dưới chân, mặt khuất trong bóng tối... Đến tuổi anh đủ để vào vai một ông bố trẻ, một người con đã hơi già... Cuộc chiến tranh đã kết thúc, như vậy anh là kẻ sống sót. Có phải anh cũng trở về từ một chiến trường nào đấy? Như vậy thì anh có thể vào vai nhiều loại nhân vật. Anh thích vào vai nào? Một chiến binh trở về với một quê nhà đổ nát? Một ông bố trước những đứa con lớn lên vào thời bình hay một ông bố... Nhiều người thích đóng vai ông bố lắm. Làm bố thiên hạ ai chả thích. Sao? Một ông bố nhá?
- Bố của tôi hay bố của con tôi?
Tiếng cười lại vang lên:
- Thật tuyệt – Đúng rồi. Bố của anh hay bố của con anh? Anh thử nghĩ xem vai nào thích hợp với anh?
- Tôi chẳng muốn chọn vai nào. Tôi không phải là diễn viên.
- Anh không chọn anh vẫn là một diễn viên. Vậy anh là một ông bố không muốn làm ông bố. Một ông bố không là một ông bố thì là gì nhỉ? Có tên gọi không? Một người đàn ông trước sau gì cũng là một ông bố vì chẳng lẽ anh ái nam ái nữ, hay con cu đã gửi lại chiến trường? Anh không muốn thì ít nhất cũng là bố một đứa con. Phải thế không? Xem ra anh có bố mà không muốn nhận đó là bố mình. Anh muốn có một ông bố khác, một ông bố mà anh tưởng tượng ra, một ông bố mà anh muốn có. Anh quên rằng chẳng có ai được chọn bố mình. Diễn đi, có thể chọn một ông bố mà anh thích. Hãy chọn lấy vai diễn của mình.
Tôi bỏ sân khấu vào trong cánh gà. Thêm một thằng điên nữa.
- Anh không thể cáng đáng được vai ông bố phải không? Đó anh thấy chưa: để đóng vai một ông bố là khó cực kỳ. Chọn vai diễn một bậc anh hùng, một thằng ăn mày, một tên say rượu, một thằng ăn cướp giết người... có khi anh diễn ngay được đấy. Anh chịu rồi à. Vai một ông bố đâu phải dễ. Anh bỏ cuộc à?
Tôi trở lại chỗ đứng cũ vừa nói vừa giơ tay vẻ cương quyết như một vai diễn nào đó tôi đã từng được coi?
- Tôi không bao giờ bỏ cuộc.
Tiếng vỗ tay đơn lẻ vang lên ở một góc nào đó.
- Tuyệt lắm, rất kịch. Diễn đi...
Diễn đi. Ông già ngồi im lặng trên chiếc giường cá nhân. Anh Tín từ ngoài cửa bước vào với những bước đi nhẹ. Anh Tín đứng bên giường nói vừa đủ nghe: Bố quyết định thế nào? Tôi bỏ tờ báo xuống. Ông già ngồi bất động. Có tiếng một con chim sâu kêu ở một ngọn cây phía ngoài cửa sổ. Một hồi chuông reo. Ở ngoài cửa có một ai đó. Tôi lắng nghe và chừng như anh Tín cũng đang chờ đợi. Thôi không đóng kịch nữa. Câu nói ngắn gọn, rõ ràng. Ông già xoay người rồi nằm xuống. Anh Tín bước ra. Tôi cầm tờ báo bước ra theo: Chuyện gì vậy? Họ tới nói với bố việc tổ chức tuyên dương bố, chắc họ nghĩ bố sắp chết. Tôi mỉm cười: đóng kịch mãi cũng mệt. Anh Tín trừng mắt nhìn tôi rồi nói: không biết phải nói sao cho xuôi đây? Cứ nói ông già yếu lắm rồi, không ngồi được nữa, không ăn được nữa là xong chứ gì? Càng chết, có người nằm ngáp ngáp còn bị dựng dậy để nghe diễn văn. Anh Tín bước ra phòng nơi có những người khách đang đợi. Tôi nói: mệt nhỉ, làm nhân vật đâu sung sướng gì.
Để tránh gặp những người khách và chứng kiến một lớp kịch, tôi trở vào phòng ông già. Ông già mình đang nằm đó sao? Chẳng còn một ông già lưng thẳng, bước đi dài, cứ có mặt ở chỗ nào là nghe thấy tiếng nói oang oang: khi mạnh mẽ như ở đấu trường, khi đằm thắm nhẹ nhàng khi lên giọng, khi xuống giọng... Từ mở đầu tới kết thúc bao giờ cũng suôn sẻ, bài bản... Bây giờ mệt rồi: chân tay không muốn động đậy, miệng không muốn mở. Bây giờ là một vai kịch lặng lẽ trong một không gian tĩnh lặng. Phải chăng một vở kịch mới đang hình thành, một kịch bản không còn đối thoại, chỉ còn độc thoại câm lặng với chính mình? Ông đã quyết định điều này từ bao giờ? Các chức vụ ông nắm giữ vẫn còn nguyên. Chức vụ, ông có mấy chức vụ cùng một lúc và vai diễn khi nào cũng hoàn thành tốt đẹp. Có người gọi ông là ông trạng. Từ hội trường của một hội nghị khi ông bước xuống tam cấp để ra xe thì ông té ngã. Ba ngày sau anh Tín mới báo tin và nhắc đi nhắc lại: bố bảo chú đưa hai cháu lên cho bố gặp. Vợ tôi bảo: vậy chắc bố sắp chết nên muốn gặp cháu đích tôn. Tôi bảo: chưa đâu, chết đâu có dễ thế? Tôi leo xe ra thành phố, vào bệnh viện. Ông già ở một phòng riêng với nhiều hoa và trái cây. Khi tôi mở cửa bước vào tôi thấy ông già đang ngồi mặt hướng ra ngoài cửa sổ. Tôi ngồi xuống ghế ở phía đầu giường lấy một trái cam bóc ăn. Chị Tín dẫn người con gái lớn tới. Chị Tín nói: Hôm nay chú mới lên? Tôi nói: Dạ, anh báo tin em lên ngay. Chị Tín nói: hôm mới nhập viện bọn tôi lo... ông già xoay người lại, mắt ông chạm vào mắt tôi, ông già phác một nụ cười nói: khỏe rồi, mai về... Tôi im lặng, ông già cũng không nói gì thêm. Sao ông không hỏi về thằng cháu đích tôn của ông? Hay có chị Tín ở đó nên ông không nói? Ông già nằm xuống, kéo cho vạt áo thẳng thớm rồi để hai tay lên ngực. Tôi nhìn thấy hình ảnh một người chết sau khi được người thân chăm sóc trước khi nhập quan. Khỏe rồi, mai về. Đó là bốn tiếng duy nhất tôi nghe được từ miệng ông già. Tôi đứng lên ra khỏi phòng. Tôi nghĩ ông già nhắm mắt nhưng biết tôi ra khỏi phòng.
Tôi đứng yên giữa sân khấu rất lâu, sau chót tôi khoanh tay trước ngực. Giọng nói ở đâu đó, rất xa:
- Bố anh như vậy à? Chỉ có im lặng? Nếu thế tất nhiên là một thảm kịch...
Tôi bỏ sân khấu đi vào cánh gà. Tôi cố gắng tìm kiếm trên vách tường chỗ đóng mở hệ thống đèn chiếu sáng trong nhà hát. Cuối cùng tôi đã thấy tấm bảng với những dây nhợ chằng chịt. Tôi bật nút thứ nhất: không có. Tôi bật nút thứ hai: ánh sáng nhấp nháy ở cửa vào nhà vệ sinh một lúc rồi tắt ngấm. Tôi bật liên tiếp những nút còn lại nhưng không có một bóng đèn nào lóe sáng. Tôi thất vọng bật nút cuối cùng: một ngọn đèn đỏ sáng lên ở cửa dành cho khán giả bước vào trong nhà hát. Tiếng cười khó chịu vang lên. Hình như mọi động tác của tôi đều bị theo dõi bởi một đôi mắt xa lạ. Tiếng nói vang lên:
- Chỉ còn một bóng đèn dành cho những người ra vào cửa không bị vấp ngã. Thế là nhiều... Tôi đứng giữa sân khấu nhìn khắp bốn bề:
- Thôi tôi đi đây, chào ông...
Tôi bước trở vào. Giọng người đuổi theo:
- Tắt giúp tôi ngọn đèn đỏ đi đã. Đi đâu mà vội thế? Chẳng lẽ anh đến đây chỉ để cho biết nhà hát thôi sao?
Tôi quay trở lại sân khấu:
-Tôi đi tìm đoàn kịch Ánh Sáng.
- Không còn Ánh Sáng ở đây.
- Họ đã ở đây mấy chục năm... Vậy họ đi đâu?
- Đi đâu? Ánh Sáng họ đi đâu làm sao tôi biết.
- Thế ông làm gì ở đây?
- Tôi chẳng làm gì cả?
- Vậy ông là ai?
- Tôi là ai? Vậy ông là ai? Tôi là khán giả, tôi là người đi xem kịch. Được không?
- Có mỗi cái sân khấu bỏ không, ông xem gì?
- Sao tôi bảo anh diễn mà anh không chịu diễn?
- Tôi không phải diễn viên...
Tiếng cười vang lên, hình như nó chạy dọc theo những hành lang của nhà hát. Bỗng tiếng cười im bặt và sự tĩnh lặng trở lại. Tiếng nói dấu mặt lại cất lên:
- Anh đi tìm đoàn Ánh Sáng làm gì? Để trở thành diễn viên?
- Tôi đi tìm ông đạo diễn.
- Ông đạo diễn nào? Đoàn đâu chỉ có một ông đạo diễn.
- Đạo diễn Hùng Tiến, ông có biết không?
- Nhưng trước hết anh hãy làm ơn tắt giúp tôi ngọn đèn đỏ đi đã.
Tôi vào trong cánh gà tắt ngọn đèn đỏ. Nhìn xuống: những hàng ghế lờ mờ trong bóng tối nhợt nhạt. Từ trên sân khấu tôi bước xuống bậc thang dẫn xuống phía khán giả. Tôi đi thẳng xuống lối đi giữa. Tôi chọn chiếc ghế ở gần cuối rạp định ngồi xuống. Vừa kéo mặt ghế xếp ra, tôi nghe giọng nói gấp gáp:
- Coi chừng ghế gẫy.
Tôi kéo lên kéo xuống mấy lần rồi mới ngồi xuống.
- Anh chỉ thích đóng vai khán giả thôi phải không? Nhưng kịch bây giờ khán giả cũng có vai diễn. Anh biết chẳng có kịch nếu không có khán giả.
Tôi nghe rõ tiếng nói vọng xuống từ phía sân khấu. Tôi nói thật to:
- Diễn đi, ông diễn đi. Có khán giả rồi đây.
Không có tiếng đáp lại. Hoàn toàn im lặng. Từ xa, ở chỗ nào đó có tiếng bước chân, tiếng đóng cửa, mở cửa.
Tôi cũng từng có dịp ngồi trong một nhà hát. Ngay khi bước vào tấm màn nhung đỏ rực đập vào mắt. Người người nối nhau, với sự hướng dẫn mọi người tìm chỗ ngồi. Tiếng nói chuyện nhỏ, tiếng ghế va đập, tiếng gọi nhau... Khi đèn tắt, tiếng gõ vang động trên sàn sân khấu.
Không khí bỗng im lặng vẻ trang trọng như đang chờ đón một cái gì. Tấm màn nhung kéo lên...
Tiếng chuột đâu kêu ngay dưới chân, tôi giật mình. Nhà hát đã tối đèn từ bao giờ? Tiếng của người dấu mặt đâu rồi? Tôi la lớn:
- Diễn đi, sao ông không diễn đi?
Tiếng nói như mất tăm. Tôi đứng dậy đi trở lại sân khấu, băng qua cánh gà, tới cửa sau và ra sân. Nắng chan hòa làm tôi chói mắt. Tôi ngạc nhiên thấy chiếc xe đạp lúc trước dựa vào tường nhà hát đã không còn nữa. Cánh cửa sắt nơi hàng rào đã khép lại. Kẻ dấu mặt chắc đã cười thầm khi bỏ tôi lại một mình trong nhà hát... Tôi đi về phía sau. Một dãy nhà lợp ngói đỏ nhìn ra khoảng sân hẹp được ngăn ra làm nhiều căn, chỉ có căn đầu tiên có cửa sổ mở, còn lại tất cả đều đóng kín. Tôi tới gần cửa sổ mở và cất tiếng gọi. Không có ai trả lời. Tôi tới gần hơn, sát cửa sổ: phía trong có một cái bàn gỗ thấp kê sát vào cửa, trong xa là một chiếc giường cá nhân có trải một cái chiếu mộc, bên cạnh có một tủ thấp, những vật dụng chung quanh cho thấy có người sống ở đây. Tôi nghĩ tới tiếng nói dấu mặt trong nhà hát. Tôi trở ra mặt tiền nhà hát đứng nhìn mông dọc con đường trước mặt.
Anh Tín nói: chú tin rằng có một vở kịch chưa được công diễn còn ở đâu đó? Thì anh đã chẳng nghe ông già nói đó sao. Ông già bảo: nếu con đọc được vở kịch này con sẽ hiểu bố. Anh có hiểu được bố không? Anh Tín ngần ngừ: cũng không rõ nữa, có cái hiểu được, có cái chẳng hiểu gì hết. Con người ta... Anh Tín nói nửa chừng thì ngừng lại. Lúc sau anh bảo: Bố chết rồi, hiểu hay không hiểu mà làm gì. Có vở kịch hay không có vở kịch chưa công diễn, nhưng biết đâu vở kịch đó bố chưa viết, hoặc là bố chỉ mới nghĩ tới trong đầu mà tưởng viết ra. Tôi ngạc nhiên với điều anh Tín nói. Tôi nhìn vào mắt anh Tín nói: sao người ta bảo: lời nói của người sắp chết là lời nói thật? Sao phải chờ tới lúc sắp chết mới nói thật?
2.
Nghe tiếng động ngoài ngõ, từ trong nhà nhìn ra thấy anh Tín thò tay vào phía trong tìm cách mở cổng, tôi vội chạy ra, nắng đã đứng bóng, tôi vừa mở cửa vừa nói:
- Trưa nắng muốn vỡ đầu mà anh đi đâu vậy...
Anh Tín cười nhẹ nhàng:
- Về nhà chứ đi đâu nữa.
Qua sân, lên hiên, vào nhà, anh Tín nhìn quanh quất rồi hỏi:
- Đi đâu cả rồi?
- Nhà em cho hai cháu qua nhà ngoại chơi... chắc anh chưa ăn cơm?
- Ăn rồi, ăn từ lúc đợi xe.
Anh Tín đi tới ngồi ở trường kỷ giữa nhà. Tôi với lấy cái nón ở hiên băng qua sân, ra ngõ đi nhanh tới nhà bà Bát ở đầu ngõ lấy bốn chai bia và nước đá. Để hai cái cốc lớn lên bàn, tôi nói:
- Nóng thế này uống bia cho giải nhiệt.
Anh Tín nhìn lên bàn thờ rồi đưa mắt nhìn khắp nhà, anh hỏi:
- Cái giường của bố em kê ở nhà trên à?
- Không... Cái giường em bán ngay ở bến xe từ hôm đó...
Anh Tín lặng im cầm cốc bia lên uống.
Ông già tôi chết được mấy ngày anh Tín nhắn tôi lên nhà và bảo: Bố bảo anh đưa cái giường của bố về nhà chú kê ở gian bên nhà ngang cạnh bàn học của cháu Luận. Hình như lúc đó bố định khỏi bệnh ra viện sẽ về ở với gia đình chú. Không may bố mất, nhưng anh vẫn muốn thực hiện điều bố dặn... Anh Tín chỉ vào cái giường cá nhân đã được tháo ra và cột lại gọn gàng để nằm dọc theo bờ tường. Cái giường này tôi đã thấy khi còn mới nguyên lúc ông già quyết định về ở với anh Tín. Anh Tín bảo: quà tặng của một ông trung ương, đại biểu của một tỉnh vùng ngược, gỗ có mùi lạ lắm, chú ngửi thử mà xem, thơm phức à, mối mọt đều không dám bén mảng, gỗ này người ta xẻ mỏng thay ngói lợp nhà, đóng quan tài muôn đời không mục. Hôm mang chiếc giường tới, ông ấy còn kể cho bố nghe về những ai được nằm trên giường loại gỗ này, con số chỉ trên đầu ngón tay. Tôi nghe giọng anh Tín đều đều dễ chịu. Đã lớn tuổi vậy mà anh vẫn nghĩ một cách đơn giản. Vào bệnh viện sau cơn đột quỵ, khi thấy sức khỏe đã hồi phục có phải ông già đã có ý định về ở với tôi? Tôi không biết là có thể tin được điều này không?
Rót thêm bia, uống hết chai thứ nhất, anh Tín gúc gắc đầu nói:
- Cái giường quý thế mà chú bán đi, uổng quá.
- Giường người bệnh nằm, sau khi chết em thấy người đem đốt bỏ cả.
- Đó giường tre, giường nứa, lại chết vì dịch kia... Thật chú chẳng biết gì cả...
- Em cứ nghĩ để cái giường không đó ngày ngày nhìn thấy, em khiếp lắm...
Nói với anh Tín là bán cái giường ở ngay bến xe thì cũng không đúng hẳn. Khi ra bến xe, anh Tín gọi một chiếc xích lô tới bỏ cái giường lên và dặn người đạp xe quen biết hãy giúp tôi bỏ chiếc giường lên mui vì nó nặng. Tới bến xe nhìn cái giường tôi chợt nhớ tới thằng bạn thân. Tôi nói người đạp xe đợi tôi một chút. Tôi tới nhà Chánh và nói chuyện cái giường cho nó nghe. Nó theo tôi ra bến xe, nó sờ sờ mó mó, cả ngửi nữa. Tôi bảo nó: có cách nào giải quyết không? Chánh bặm môi vẻ suy nghĩ rồi: giải quyết ngay thì không được, hãy mang về để ở nhà mình đã rồi tính sau. Chưa chừng trúng đậm, của quý mà... Thế là tôi không phải mang cái giường về nhà. Bữa ấy Chánh đãi tôi một chầu suốt từ trưa tới chiều tối. Hứng khởi với chầu bia Chánh lấy xe gắn máy vượt hơn hai chục cây số đưa tôi về tận cửa nhà. Vợ tôi từ trong nhà chạy ra, Chánh nói lớn: Tôi mang ổng về cho chị đây. Không sứt mẻ gì đâu. Ra đi vợ đã dạy rằng: Nhậu thì cứ nhậu lăng nhăng thì đừng... Chánh cười ha hả của một kẻ gốc nam bộ rồi quay xe nổ máy chạy đi...
Cầm cốc bia lên nửa chừng, anh Tín ngừng lại để cốc xuống bàn:
- Không hiểu bố nghĩ thế nào lại bảo đưa cái giường về nhà chú nhỉ?
- Ông già không nói gì với anh sao?
- Chú biết đó, sau này bố ít nói hẳn đi. Ông thường ngồi im đưa mắt nhìn vào khoảng không. Bố nói gì anh nghe thôi... Hay khi già rồi bố mới nhớ: bố chưa bao giờ sống với chú?
Tôi dốc cạn những giọt bia trong chai cuối cùng.
- Kiếm vài chai nữa đi...
Giọng anh Tín nhệu nhạo vẻ buồn ngủ. Tôi cầm mấy vỏ chai đi lấy thêm bia. Những viên gạch dưới chân nóng rãy. Khi trở lại, anh Tín đã nằm xuống trường kỷ, mắt nhắm và có tiếng ngáy. Tôi nhủ thầm: một con người hạnh phúc... Bà ngoài bảo: số nó bọc vải điều, sinh ra vào lúc nô lệ nhưng có hòa bình, cháu đích tôn của một gia đình giàu có, ngày thôi nôi vàng bạc đeo đầy người, lúc nào cũng được bế ẵm trên tay chẳng có thời gian để khóc...
Những kỷ niệm thời thơ ấu tôi không nhớ được nhiều, cuộc sống những ngày tản cư chỉ lờ mờ những di chuyển không ngừng. Tôi nhớ rõ ngày anh em tôi theo bà hồi cư trở lại ngôi nhà này: mới đầu là một người rồi hai người, rồi ba người... ngôi nhà bỗng đông nghẹt những người... Bà tôi vừa nói vừa mếu máo vì cảm động và vui mừng. Chúng tôi được gọi đến tên nhiều lần, người vỗ vai, kẻ xoa đầu, người kéo lại ôm chặt vào lòng, có người nhắc đến mẹ tôi rồi ôm tôi mà khóc... Tôi hiểu rằng đây là những bà con của ông bà ngoại, những người hàng xóm cũ và người dân trong làng. Nhiều người ngạc nhiên khi thấy em Lành: da trắng, mắt xanh, tóc hoe vàng hơi quăn... Bà ngoại ôm Lành vào lòng bảo: đây là cháu nuôi... Ba anh em tôi lạc lõng giữa đám đông. Mọi người biết chúng tôi là con ai, cháu ai. Còn chúng tôi chẳng biết gì về những người vừa gặp mặt. Anh Tín và tôi được sinh ra ở thành phố, lửa đạn đến chúng tôi được đưa lên tận những vùng núi non thưa thớt bóng người và em Lành ra đời ở đó. Tôi nghĩ: chắc lúc còn nhỏ đã có lần mẹ tôi đưa chúng tôi về đây. Cuộc sống ở quê ngoại vừa mới quen, bỗng một buổi sáng có người mặc đồ bộ đội đi xe đạp chạy thẳng vào sân, dựng xe nơi hè, bà ngoại ở trong nhà bước ra, hai người ôm chầm lấy nhau. Cậu tôi từ thành phố về. Tôi thấy bà ngoại khóc không thành tiếng. Cậu nhìn em Lành không chớp mắt làm em sợ bỏ chạy. Bà ngoại dắt cậu đi thăm khắp, hết nhà này tới nhà khác. Tối đó bà ngồi ngoài hiên với cậu nói chuyện tới khuya. Tôi ngồi ở phía sau bậc cửa lắng nghe, cậu nói về đời sống bộ đội, có lúc hai người nhắc đến mẹ tôi rồi cả hai đều im lặng rất lâu. Bà nói nhiều nhưng giọng nhỏ không nghe rõ, tôi nhớ chỉ có một câu bà nói lớn và rõ: ai ngờ quân ấy bạc... tôi không rõ bà nói tới ai. Có rất nhiều những quãng im lặng trong câu chuyện, và những lúc giọng bà tôi nghẹn ngào... Sáng hôm sau cậu đèo anh Tín bằng xe đạp lên tỉnh bắt đầu cuộc sống mới. Từ đó chỉ thỉnh thoảng anh Tín mới về. Ít ngày sau khi anh Tín đi, bà ngoại dắt em Lành ra tỉnh, tôi đòi đi theo nhưng không được. Bà xoa đầu nói với tôi: rồi bà cũng cho cháu ra ngoài với anh Tín và em Lành... Cùng với năm tháng, càng lớn lên chúng tôi càng xa nhau. Em Lành không phải ra sống ở thành phố mà bà đã giao cho một người em nuôi đưa vào sống ở trong Nam. Anh Tín được học hành đến nơi đến chốn, sau đó được đưa ra nước ngoài học trong lúc chiến tranh ác liệt. Có bằng cấp, có chuyên môn, có một ông bố có chức có quyền khiến cuộc sống của anh Tín dễ dàng. Anh lấy vợ, được phân nhà, có con đầu lòng sớm, ai cũng chúc ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng. Sau đó anh và mọi người trông đợi anh có một đứa con trai để nối dõi tông đường. Nhưng trông đợi ấy mãi không thành sự thật. Đột nhiên anh xin nghỉ hưu non với lý do sức khỏe kém. Từ đó mỗi sáng anh ra bưu điện xếp hàng mua báo ra công viên ngồi đọc rồi chơi cờ tướng với những cụ già râu tóc bạc phơ. Có lần tôi hỏi: sao anh không phấn đấu thêm ít năm nữa. Anh cười buồn: có mỗi một mụn con gái làm gì nhiều cho mệt...
Tôi mở bia uống tiếp. Có một con ruồi bay vòng vòng một lúc rồi đáp xuống má anh Tín, nó bước đi nhún nhẩy trên da mặt láng bóng mồ hôi. Chợt anh Tín đưa tay lên má, con ruồi bay nhanh lên và biến mất dạng. Anh Tín hơi xoay người, nghiêng mặt sang một bên, miệng hé mở làm chảy một dòng nước miếng xuống mặt ghế... Tôi thấy như mắt mình nhíu lại, tôi nằm xuống tràng kỷ đối diện với anh Tín...
Khi thức dậy tôi thấy anh Tín đang ngồi ở ngoài hiên nhà trên, hai chân bỏ xuống sân. Trời đã hết nắng, gió thổi nhẹ. Những cục nước đã tan hết trong cái ca nhựa. Tôi thu dọn mấy chai bia, lau sạch mặt bàn rồi bước ra sân.
- Anh thật dễ ngủ...
Anh Tín cười hềnh hệch. Tôi ra bể lấy gáo múc nước rửa mặt. Anh Tín nói:
- Anh em mình tửu lượng đều kém.
Tôi đi lấy thêm ít cục nước đá vào nhà mang mấy chai bia còn lại ra hiên. Anh Tín cười nhìn tôi:
- Uống nữa à?
- Uống nốt, chẳng lẽ mang đi trả, mấy khi...
Tôi rót bia đưa cho anh Tín. Anh Tín uống một hơi dài, để cốc xuống hiên, đầu gúc gúc. Tôi nói:
- Đã có khi nào anh được uống bia với bố chưa?
Anh Tín nhìn tôi, hừ một tiếng rồi nói:
- Làm gì có chuyện đó, bố mình mà...
- Thế bố người ta? Có một ông bố có thể cụng ly với con chắc là thú lắm chứ.
- Chú nghĩ cái gì vậy, bố con cụng ly với nhau, rồi quay ra mà gác chân gác tay, thế thì còn ra cái thể thống gì nữa.
Anh Tín chợt im lặng, tôi cười nhìn anh:
- Anh hiểu sai ý em, em chỉ muốn nói: một sự gần gũi nào giữa bố với con chứ đâu như anh nghĩ.
- Kể chú cũng lạ thật đấy, có người còn hỏi tôi: chú có hâm không đấy. Bố rất ngại chú, nhất là mỗi khi chú phán điều gì...
Tôi phá lên cười, nốc cạn cốc bia. Tôi phân trần:
- Có gì đâu anh, em sống như một người bình thường. Quả là cái đầu em có nhiều khi nó nghĩ lung tung...
- Anh thấy chú như vậy là sướng. Vợ hiền, con thì có trai có gái. Có lẽ tuổi của chú khắc với tuổi bố. Khi rời quê ra tỉnh, anh có hỏi bố: sao không đưa em ra. Bố bảo để sau đã... Anh cũng chẳng hiểu được bố. Bây giờ nhìn lại: chú sống với bà lại sướng, chẳng phải khổ tâm.
Anh Tín đứng lên nhìn về phía nhà thờ cửa đóng:
- Anh chị đang tính vào Nam với gia đình cháu nhưng cứ lúng túng cái nhà. Bán thì tiếc nhưng để không làm gì. Chị bảo: nói chú ra ngoài tỉnh ở cho mấy cháu nó tiện học hành, chú tính sao?
- Em ra ngoài thì nhà này giao cho ai? Vợ chồng em lại sợ cuộc sống ở ngoài. Em nghĩ anh bán quách nó đi lấy vốn cho cháu nó làm ăn, không ở giữ làm gì. Nó đâu phải nhà thờ hay của hương hỏa gì.
Anh Tính tư lự:
- Thực ra có được căn nhà tốt thế cũng là nhờ bố. Hôm rồi thu dọn nhà cửa cho gọn gàng anh thấy nhiều thứ lỉnh kỉnh quá, bỏ thì không đáng, giữ thì không biết để làm gì? Cả một đống sách vở, bố đã nói giao cho chú mà chú vẫn cứ để đó. Sau này có đứa nào đọc không? Rồi những tranh tượng, những vật kỷ niệm, giấy khen, huân chương... của bố để lại. Có người bảo anh: của gia bảo đó vô giá, nhất là của một người nổi tiếng... Bao nhiêu người muốn mà không có được.
Giọng anh Tín có vẻ gì xúc động. Anh ngừng lại tự rót bia cho mình, anh Tín hơi cúi người, hai tay để lên đầu gối, hai chân đạp nhịp xuống mặt gân gạch. Tôi nghĩ tới gia đình người con gái anh:
- Thằng con rể của anh em thấy nó được đấy chứ...
- Nó thì được lắm... nhưng là con trưởng của một dòng họ... Phải chi anh có được một thằng con trai.
Tôi ngậm ngụm bia trong miệng mà thấy đắng trong cổ họng. Tôi không biết nói sao. Giọng anh Tín có vẻ khác thường:
- Chú có biết tại sao bao nhiêu sách vở bố giao hết cho chú không? Lại nữa, bố bảo đưa cái giường của bố về nhà chú chính là ý bố muốn về nhà chú và chết ở đó, tất cả là vì chú có thằng con trai, cháu đích tôn của bố, người nối dõi...
Tôi lặng đi. Không ngờ anh Tín nói ra điều mà không ai muốn nói, hình như cả ông già tôi. Giọng anh Tín đều đều:
- Bán nhà rồi, mấy thứ bố để lại anh sẽ đưa về cho chú giữ...
Tôi lặng im không biết phải nói thế nào. Về sống với anh Tín nhưng ông già ở riêng một phòng lớn vừa là nơi làm việc, vừa là nơi tiếp khách nghỉ ngơi, chỉ có bữa ăn là ông ra khỏi phòng. Một hôm tôi ghé thăm ngồi ở nhà ngoài nói chuyện với anh chị Tín. Chợt cánh cửa phòng ông già mở ra, ông già nói: chút nữa vào đây bố nói cái này. Tôi dạ và vào phòng ông già ngay. Ông già cúi xuống dưới gầm giường kéo ra một cái thùng gỗ lớn được chằng lại bằng giây thừng rất kỹ. Ông già nói: Anh thích văn chương nên bố nghĩ anh thích sách. Tất cả sách vở của bố để lại cho con. Còn đây là những bản thảo, những sách bố đã viết, có sách đã in, có cuốn chưa in được... Anh Tín từ ngoài bước vào. Ông già tôi nói tiếp: Chắc là con có đọc một ít cuốn của bố, cũng chẳng có gì phải không, nhưng ở đây còn những trang chữ con chưa từng biết... Tiếc là có một kịch bản hiện thất lạc... Nếu như con tìm lại được. Bố chỉ muốn con hiểu bố... Tôi nhìn cái thùng gỗ để giữa nhà thấy ngần ngại. Tôi nhìn sang anh Tín, nét mặt anh bình thản. Tôi muốn từ chối, nhưng thấy như vậy có vẻ tàn nhẫn. Tôi tới bên chiếc thùng gỗ, cúi người đẩy nó trở lại gầm giường: bố hãy để đó đã, hôm nay con chưa về nhà ngay. Ông già im lặng. Ông già im lặng. Anh Tín nhìn tôi.
Câu chuyện về cái thùng sách đến hôm nay tôi vẫn còn nhớ như in. Phải chăng tất cả chỉ vì tôi có một thằng con trai để nối dõi. Tôi nhìn anh Tín, nhìn về phía nhà thờ.
- Con cái có ai được chọn bố mẹ đâu.
Tôi nghe trong giọng nói của anh Tín như có ý trách tôi về thái độ đối với ông bà. Chợt anh Tín hỏi:
- Vậy cậu cũng bỏ đi luôn rồi sao?
- Lần trước cậu vào thấy dễ chịu, bệnh suyễn nhờ khí hậu như dứt hẳn. Mấy anh chị thì làm ăn khấm khá. Cậu bảo con cái ở đâu thì bố mẹ ở đó chứ mình già rồi, trông vào con chứ trông vào ai, bây giờ hãy biết thế đã. Cậu còn nói: cháu ở ngôi nhà này từ nhỏ, nay cậu giao cho cháu trông nom cùng với mồ mả tổ tiên, bên ngoại cũng như bên nội thôi. Những người thân của mẹ mình đâu còn ai, mồ mả thì chỉ còn mộ bà ngoại nhờ mất sau này, còn mộ ông ngoại và những người trước nữa thì đâu có tìm lại được từ sau ngày cải cách... Cậu bảo mang bàn thờ mẹ lên nhà trên nhưng em vẫn chưa mang.
Anh Tín đăm chiêu nhìn lên ngọn cau vượt lên trên bức tường của nhà hàng xóm. Thời gian gần đây tôi thường thấy nét mặt anh như thế. Hình như anh phân vân có nên đi theo con không? Hai vợ chồng đã lớn tuổi sống với nhau, sinh hoạt lặng lẽ đó làm cho ngày tháng trôi qua một cách nhàm chán, tẻ nhạt, nhưng đi theo con, nếu là con trai thì chắc dễ hơn, đằng này lại là con gái. Anh Tín quay lại nhìn tôi:
- Có người hỏi anh: sao bố không chuyển ngôi nhà bố ở với dì cho chú mà lại trao cho người ta. Chú là con mà...
Tôi mỉm cười:
- Em chẳng hiểu gì cả, hay là bố muốn dứt khoát với một thời kỳ trong đời bố, một thời kỳ bố không muốn nhớ tới nữa. Vả em cũng đã có chỗ ở rồi.
- Nhưng đây là nhà của bà ngoại chứ đâu phải nhà của gia đình mình...
- Quả là em chưa bao giờ nghĩ đến điều này...
Vợ tôi cùng hai đứa con từ ngoài đi về cắt đứt câu chuyện giữa hai anh em. Tôi nói:
- Tối nay anh ở đây mai về.
Anh Tín cười:
- Giờ này còn về đâu nữa, lúc đi anh đã nói với chị rồi.
Anh Tín vào trong nhà trò truyện với vợ tôi và hai đứa cháu. Bữa ăn tối vui vẻ, tiếng cười nói quấn quýt chan hòa. Vợ tôi nói: sao hôm nay bác Tín vui thế...
Giữa đêm tôi thức giấc thấy anh Tín ngồi ở trên phía đầu giường, lưng dựa vào tường.
- Anh mất ngủ sao?
- Chắc lạ nhà.
Thấy tôi đã thức anh Tín rời giường ra bàn rót nước uống, đứng ngẩn ngơ một lúc anh lại trở về giường nằm xuống, hai bàn tay đan với nhau kê dưới đầu.
- Về đây anh lại nghĩ tới bà... Tại sao suốt từ lúc tản cư cho tới khi bà mất bố không về nhà một lần thăm bà?
Giọng anh Tín nhẹ nhàng nhưng đượm vẻ buồn. Truyện của người lớn đối với tôi lúc nào cũng nhỏe nhoẹt, nhập nhằng... có những điều được che đậy, hoặc làm cho biến dạng. Người lớn không muốn chúng tôi biết rõ sự thật. Nhưng những sự việc không nằm nguyên một chỗ, qua thời gian có cũng đến với tôi, nhưng sự thật đã biến dạng, méo mó. Nó là một sự thật khác. Lúc tản cư bà nói tới bố tôi mỗi khi có thông tin. Về sau, không biết vào lúc nào không thấy bà nhắc đến bố tôi nữa. Có lần anh Tín hỏi: sao lâu quá không có tin của bố cháu, bà nghe nhưng không trả lời. Lần khác anh Tín lại hỏi, bà gắt lên: không hỏi nữa. Tôi nhớ mặt bà cau lại, giọng nói khô cứng. Giọng anh Tín đều đều:
- Chú có nhớ lúc cậu về đưa anh ra tỉnh không? Hình như lúc đó anh chẳng có nghĩ ngợi gì, người lớn bảo sao thì nghe vậy. Ra tới tỉnh anh đâu có được gặp bố ngay. Cậu đưa anh về nhà cậu. Anh lớn hơn em nhưng cũng chỉ có ba tuổi. Anh hỏi cậu: Bố cháu đâu? Cậu bảo rồi sẽ gặp, bây giờ về nhà cậu đã, cậu còn phải nói chuyện với cháu. Buổi tối đầu tiên ở thành phố, trong căn nhà chật hẹp câu nói: bố cháu đã lập gia đình sau khi mẹ cháu mất, cháu sẽ sống với mẹ kế của cháu... Anh ngạc nhiên: bố cháu lấy vợ rồi? Anh hỏi cậu xong thì nước mắt trào ra. Sống với gì ghẻ, nghĩ thế anh muốn về ở với bà...
Tôi đứng lên ra bàn nước:
-Thôi, anh đừng kể nữa, chuyện đã mấy chục năm...
Anh Tín ra ngồi nơi trường kỷ:
- Anh nói để em rõ tình cảm lúc đó của anh. Anh đòi cậu đưa về quê với bà. Mới đầu cậu có vẻ bực mình, sau cậu dịu xuống và giải thích cho anh nghe vì sao phải ra đây, cậu gắt lớn: về đó mà đi cày à? Còn về bố, cậu bảo: bố còn trẻ sao lại không cho bố lấy vợ, bố cháu là người có lý tưởng, có tài. Sau cùng cậu bảo: nếu không muốn ở với bố và dì thì ở đây với cậu mợ, dứt khoát không về quê. Bây giờ nhìn lại, nhờ bố anh được học hành, có điều sao đời sống của bố phức tạp quá... Anh chẳng hiểu gì cả, cho đến bây giờ khi bố đã mất.
Anh Tín rót nước, nhìn tôi:
- Có những thắc mắc mà anh tin là chẳng bao giờ được sáng tỏ. Con người của bố? Khó quá, anh đã nói với em: anh chẳng hiểu được.
Anh Tín vừa nói vừa lắc đầu. Tôi nói:
- Anh gần bố nhiều, vậy có khi nào anh nghe bố nói về gia đình mình? Quê quán, dòng họ?
- Anh nhớ lần làm hồ sơ cá nhân, trong tờ khai lý lịch có phần: thành phần gia đình. Anh không hiểu rõ thành phần là thế nào? Có phải là giàu nghèo, giai cấp xuất thân? Anh cầm tờ khai tới hỏi bố. Bố đọc qua rồi bảo: gia đình cách mạng. Bút vẫn cầm trên tay, tờ giấy ở trên mặt bàn. Bố có vẻ ngạc nhiên nhìn sự bất động của anh. Giọng bố hơi lớn: Ông ngoại con bị quân Nhật lôi ra khỏi nhà giết chết, ông bà nội chết vì giặc Pháp, mẹ bị Tây hiếp, bố đi kháng chiến... Như thế không phải là gia đình cách mạng sao? Giọng bố khô cứng lại, anh hoảng sợ vội vàng viết vào tờ khai. Đó là lần đầu tiên anh nghe bố nói về gia đình. Sau anh mang thắc mắc hỏi cậu.
- Cậu bảo: ông nội của mẹ cháu làm quan, không rõ chức tước thế nào vì cụ mất sớm lúc cậu chưa ra đời. Chúng ta còn thấy tấm ảnh thờ cụ đội mũ cánh chuồn, áo có thêu rồng phượng. Ông ngoại cháu được đi học nhưng bỏ nửa chừng không biết có đỗ đạt gì không, với đầu óc phiêu lưu nên ông theo những người đi đào vàng tận bên Lào. Chính ở Lào ông ngoại cháu đã quen biết ông nội cháu. Có một số vốn khi về ông ngoại buôn bán tơ lụa. Còn ông nội cháu khi về thì làm đại lý bán rượu và thuốc phiện. Bà ngoại bảo: ông nội cháu buôn thuốc phiện lậu từ lúc còn ở bên Lào, nếu biết trước đã không gả mẹ cháu cho gia đình ấy.
Anh Tín ngừng kể, nét mặt tư lự, không gian như rộng ra trong không khí im ắng của đêm khuya:
- Chúng ta còn nhỏ không dám hỏi.
Người lớn thì không nói. Có điều là hai bên nội ngoại của anh em mình trước kia giàu có nhờ buôn bán. Về cái chết của ông ngoại, có lần anh nghe bà kể: ông ngoại là người hiền lành, có máu làm giàu. Vào năm đói ông tham gia phong trào cứu tế. Bọn Nhật nghĩ ông có nhiều của nên một hôm ập vào nhà, bắt trói ông lại khảo của, chúng lục lọi tìm vàng bạc nhưng chẳng được bao nhiêu, chúng lôi ông đi, hôm sau thấy xác ông bị nhiều viên đạn nằm ở ngoài bờ sông. Bà ngoại bảo bên nội rất giàu có, có nhiều nhà cho thuê, bố được đi học trường Tây, Bố là con một, con nhà giàu, học giỏi, đẹp trai, ăn nói hấp dẫn nên có nhiều gia đình bắn tiếng gả con gái. Ông nội bắt bố lập gia đình lúc bố còn đang đi học... Sau đám cưới bố mẹ ra ở riêng ngay với vốn liếng của ông bà cho. Bà bảo bố mẹ cháu ra ở riêng là ý của bà nội: tránh sự va chạm giữa hai bố con. Bà biết điều này vì mẹ nói ra. Bố muốn ông nội bỏ thuốc phiện và thôi buôn bán nha phiến cho giặc. Ông nội cho dẹp chuyện buôn bán nhưng cai thuốc thì ông không cai, ông bảo: tao già rồi, sống được bao nhiêu nữa mà phải hành hạ thân mình. Một lần hai cha con to tiếng với nhau ông nội bảo bố: thằng con đánh ngạnh kia, mày hãy bóp cổ cho tao chết đi... Mấy lần bố về nhà đập bỏ bàn đèn của ông nội. Nhưng ông vẫn không bỏ hút, mỗi lần như thế bà nội lại lặng lẽ đi sắm bàn đèn mới cho ông nội. Có một thời gian dài hai cha con không nhìn mặt nhau. Đến khi giặc Pháp nổ súng, bố đưa mẹ và anh em mình gửi bà ngoại vì ông bà nội dùng dằng không muốn đi khỏi nhà. Ông bảo: Tây đi rồi Tây lại về. Đi làm gì. Ông không đi nên bà cũng không thể đi. Mẹ nói với bà ngoại: ông bảo bọn mày đi hết đi tao ở lại đây với Tây mà hút cho sướng. Ông cho quét dọn một cái gầm giường, trên có che chắn như một cái hầm trú ẩn và mang bàn đèn xuống đó. Khi từ chiến khu trở về thành cậu gặp bố và hỏi thăm về ông bà nội mình, bố bảo: chết rồi, chết cả rồi. Thái độ của bố làm cậu khó chịu nên không hỏi tiếp. Ngay những ngày đầu mới về cậu có đi qua ngôi nhà cũ của ông bà nội, ngôi nhà đã không còn nữa, cả một khu phố chỉ còn những bức tường, những đống đổ nát và cỏ dại... Sau này cậu có nói lại với bà. Bà bảo lúc đang tản cư bố có nhắn về là ông bà cụ đều đã chết. Như vậy là bố cháu có tin tức. Bà còn nói với cậu: hình như thằng đó không phải con của ông cụ, chính ông cụ đã có lần nói: thằng con đánh ngạnh.
Tôi đứng dậy, nhìn anh Tín:
- Thế là thế nào? Sao em không nghe ai nói.
Anh Tín giữ giọng bình thản:
- Chắc bà giận vì cách ăn ở của bố nên nói thế. Anh cũng chẳng hiểu gì cả, thực hư thế nào bọn mình đâu có thể biết. Tất cả chỉ là nghe nói...
- Sự thực chỉ có bà nội biết. Chỉ có người mẹ biết đứa con trong bụng mình là con ai.
- Bà mình ngờ không phải chỉ vì điều ông nội nói với bố mà còn những nguyên cớ khác. Ông nội lập gia đình từ sớm nhưng phải sáu năm sau mới sinh ra bố. Ông nội nghiện từ hồi qua Lào, lại nuôi nhiều nàng hầu kế tiếp nhau, người ta bảo người nghiện không thích gần đàn bà.
- Vậy cha thực của bố là một người khác?
- Đó là điều bà ngoại mình nghi. Anh có được nghe một vài câu chuyện như vậy. Có người lấy nhau không có con, chồng đồng ý cho vợ ăn ở với người khác để có con nối dõi và giữ của cải. Người đàn bà đi xin con thường lựa người đàn ông tử tế, con nhà danh giá thì tốt nhất, người ta gọi là đi lấy giống. Nhưng ở nhà quê xưa kia có khi bà chủ nhà ăn nằm với tá điền. Có những trường hợp, dù người chồng không cho, nhưng bà vợ vì lo cho tuổi già của mình, hoặc vai trò của mình trong gia đình thì tự ý làm. Cũng có những người có con với người này nhưng vì lý do nào đấy lại lấy người khác, hóa ra ông bố thực chính người con cũng không biết. Bố mình có con đường tranh đấu trước mặt có lẽ vì thế bố không muốn có một ông bố hút thuốc phiện. Đã có những người con ngoảnh mặt đi khi bố bị liệt vào hàng những kẻ bóc lột. Bây giờ bố đã mất, tại sao em không bỏ qua mọi điều. Bố dù có là người thế nào đi nữa thì cũng là bố mình. Anh đã nói rồi: chẳng ai được quyền chọn lựa bố mẹ.
Anh Tín ngồi im. Có lẽ trời cũng sắp sáng. Bầu không khí chung quanh như khô đặc lại. Tôi nhớ tới khuôn mặt bà ngoại mấy nét mơ hồ về mẹ tôi. Tôi cố tìm kiếm nhưng không thấy khuôn mặt nào của ông bà nội. Còn lại khuôn mặt của ông già im lặng bí hiểm. Tất cả đều đã chết, rồi tôi cũng chết...
- Em đâu có oán trách gì, em chỉ muốn tìm hiểu xem con người của bố là như thế nào giữa những điều đã nghe, đã thấy. Bố đã chết. Bây giờ chúng ta là những ông bố... Thấy mình là một ông bố, em khiếp quá....
Anh Tín không nói gì trở lại giường, nằm xuống và quay mặt vào tường. Tôi nghe như có tiếng gà gáy ở xa...