>>Suy Ngẫm: “ * Tiêu diệtt được mọi lo âu phiền toái trong tâm hồn, ấy là đã tìm được một nguồn hạnh phúc vĩ đại.
Kinh Udanavarga
„
-
Chương 11
Cách mạng Tây Sơn theo sự hiểu biết của tôi
Chúng ta đã có giòng sông Gianh chia đất nước làm hai. Đàng ngoài của chúa Trịnh. Đàng trong của chúa Nguyễn. Tham vọng quyền bính đã làm chúa Trịnh mờ mắt và đưa dân tộc vào cuộc chiến tranh huynh đệ ngót nghét trăm năm. Phiêu lưu mù quáng và vô vọng của chúa Trịnh tạo ra đau khổ, lầm than cho dân chúng cả hai đàng. Chiến tranh làm nghèo đất nước. Của cải dồn hết cho những trò chơi giết nhau. Chiến tranh đẻ ra ngàn vạn tệ đoan. Sưu cao, thuế nặng. Bắt lính. Hối lộ. Tham nhũng. Guồng máy thống trị siết cổ dân chúng. Trái đau khổ khi chín mùi thì biến thành trái phẫn nộ. Và đó là nguyên do của cách mạng Tây Sơn. Đàng ngoài thối nát. Đàng trong thối nát, cơ cấu quốc gia nằm trong tay Trương Phúc Loan. Nguyễn Nhạc xuất hiện.
Nguyễn Nhạc là ai? Lịch sử không ghi rõ thân thế và sự nghiệp của ông cùng những sinh hoạt hàng ngày với bạn rượu. Tôi nghĩ, xuất xứ đời ông cũng giống Lưu Bang, người diệt Tần với Hạng Võ rồi diệt Hạng Võ mà lập ra nhà Hán. Lưu Bang được mô tả trong Hán Sở tranh hùng là một tên đình trưởng hạng bét. Đúng nghiã, y là tên phóng đãng mà chữ nghiã hôm nay gọi là du đãng. Lưu Bang lười biếng không chịu làm việc gì cả. Y thường ra quán, tụ tập bằng hữu, uống rượu say sưa, có tiền thì trả, không tiền thì quỵt. Y chọc gái trơ trẽn, phá xóm phá làng, dân chúng ai cũng ghét bỏ, khinh bỉ. Nhà Tần độc ác, bắt phu đi làm xâu triền miên. Lưu Bang trốn mãi không xong, đành phải gia nhập đám phu đi phá núi. Ngày thường, Lưu Bang nhát như cáy, hễ đánh nhau là bỏ chạy trước. Thế mà hôm leo núi, Lưu Bang dám mở miệng nhi nhô đòi diệt Tần Thuỷ Hoàng. Dân phu hoan hô Lưu Bang. Y can đảm, phóng lên phiá trước, chém chết con mãng xà. Dân phu phục lăn, bầu Lưu Bang làm minh chủ. Đó, Hán Cao Tổ trảm xà khởi nghiã một cách ngẫu nhiên chưa? Thừa thắng xông lên, Lưu Bang dẫn đám dân phu vây một huyện thành. Nhờ Tiêu Hà, Đằng Công nội ứng, Lưu Bang giết viên tri huyện, giải phóng cả huyện. Tiêu Hà là người tài giỏi, theo Lưu Bang luôn. Rồi đến cả Trương Lương cũng theo. Kế nữa là Hàn Tín và vô số anh hùng hào kiệt. Lưu Bang giải phóng Hàm Đan. Lưu Bang cho Hạng Võ chết nhục ở Ô giang. Lưu Bang lên ngôi hoàng đế. Cái gì thôi thúc anh hùng hào kiệt phò Lưu Bang? Đó là quyền uy tự tạo. Một người muốn tự mình tạo quyền uy cho mình để thu phục người khác thì phải can đảm hoặc liều lĩnh và gặp thời cơ. Nhiều người đã can đảm và liều lĩnh hơn Lưu Bang nhưng không làm nên sự nghiệp. Vì thiếu thời cơ. Kinh Kha chẳng hạn. Người ta thường rè bỉu tướng Ba Cụt, cho rằng ông ta chưa từng học ở trường đào tạo sĩ quan nào. Tôi nghĩ quyền uy tự tạo của Ba Cụt đã cho phép ông tự phong tướng. Và ông can đảm hơn khối vị tướng được gắn lon trên đời này. Quyền uy tự tạo nó chứng minh giá trị đích thực của con người và nó thu hút nhiều người khác.
Vậy thì Nguyễn Nhạc, tự Biện Nhạc, chỉ là anh thu thuế ở một xã nhỏ. Anh rất chịu chơi, ham uống rượu với bạn giang hồ và hào sảng, đem tiền thuế thu của nhà giầu thù tạc bạn bè. Có thể, anh đã không thu thuế nhà nghèo. Nhờ sự hào sảng và tính chịu chơi của anh, bằng hữu giang hồ cảm phục. Anh bèn chơi bạo, lập mưu cướp huyện thành. Bằng hữu tán đồng. Biện Nhạc tự nằm trong cũi, nhờ bằng hữu hộ tống khiêng mình nộp cho tri huyện về tội tiêu hết tiền thuế. Tri huyện ngu dốt tưởng thật. Thế là Biện Nhạc cướp huyện, giải phóng sưu thuế, tạo cho mình thứ quyền uy để từ đó đi xa hơn. Nguyễn Nhạc mở đường cho Nguyễn Huệ. Anh em nhà Tây Sơn chơi đúng lúc vì dân chúng cả hai đàng cũng đều đã chán ghét chúa Trịnh, chúa Nguyễn. Anh hùng, hào kiệt, sĩ phu hướng về nhà Tây Sơn bầy mưu, lập kế. Tây Sơn diệt Nguyễn, diệt Trịnh, diệt xâm lăng Tầu mở một kỷ nguyên sáng tạo cho đất nước. Cái quyền uy tự tạo nó quyến rũ vô cùng. Nó đòi hỏi can đảm, liều lĩnh và thời cơ. Nhưng những người can đảm, liều lĩnh không bao giờ là trí thức hay những kẻ đã thụ hưởng thừa mứa. Khổng Minh phò anh bán chiếu Lưu Bị. Trương Lương phò anh đình trưởng Lưu Bang. Phạm Tăng phò anh vũ phu Hạng Võ. Nguyễn Trãi phò Lê Lợi. La Sơn Phu Tử phò Nguyễn Huệ. Cao Ba Quát phò Lê Duy Cự...
Ở thời đại của tôi và ở đất nước tôi, mỗi cuộc dấy động có tính chất lịch sử, những người tiên phong hứng đạn và lưỡi lê đàn áp đều là những người không biết sợ hãi, những người mà cuộc đời quen gọi là dân anh chị, dân du đãng. Và họ đều là tuổi trẻ. Tuổi trẻ ngoài đời và tuổi trẻ trong quân dội. Những người tuổi trẻ trí thức đứng sau họ. Rồi đến nhân dân. Bọn đạo diễn thủ lợi không bao giờ có mặt. Tại sao Phật giáo xuống đường tỏ thái độ vối nhà cầm quyền phải nhờ vả anh em giang hồ dẫn đường? Tại sao Công giáo xuống đường đòi hỏi quyền lợi phải nhờ vả anh em giang hồ mở lối? Tại sao cảnh sát muốn dẹp xuống đường cũng phải nhờ vả anh em giang hồ? Bởi vì du đãng có quyền uy tự tạo. Bởi vì mỗi đàn anh của họ đều có tinh thần đại ca. Tinh thần đại ca là gì? Là sự hào sảng, bao dung, chịu thiệt thòi vì đàn em. Từ ba mươi năm nay, ở miền Nam, tôi chưa thấy một lãnh tụ tuổi trẻ nào xứng đáng so sánh với một đại ca du đãng. Từ mười năm nay, ở châu Âu, châu Mỹ, tôi chưa thấy một lãnh tụ kháng chiến nào xứng đáng so sánh với một du đãng bình thường. Hãy hỏi ông chủ tịch một hội đoàn, một phong trào xem có bao nhiêu hội viên, bao nhiêu đàn em thân tín. Chẳng có ai thân tín cả. Nhưng một đại ca du đãng có hàng trăm đàn em. Đại Cathay có ba ngàn đàn em một lòng một dạ với đàn anh. Môt tay anh chị ở một khu vực là một tổng thống trong bóng tối của khu vực. Bởi thế, không chứa nổi tâm hồn Đại Cathay nên, sau khi mời Bộ tham mưu của Đại về ngự ở Ngã Năm Bình Hòa giao du với Đại uý Chi, Trưởng ban bài trừ du đãng, ông Nguyễn Ngọc Loan đã hạ lệnh bắt Đại đầy ra đảo và thủ tiêu Đại Cathay.
Tại sao cộng sản đã gom hết những tay anh chị có tiền án và những tay bị tình nghi anh chị vào các trại tập trung lao cải rồi đầy đọa chết dần, chết mòn? Vì họ sợ du đãng, sợ sự liều lĩnh của du đãng. Họ lo ngại du đãng sẽ phát động quần chúng xuống đường chống đối chế độ mới. Họ hoảng hốt khi cán bộ, bộ đội, công an của họ đã bị ám sát. Họ đề phòng du đãng cuốn hút mọi khuynh hướng phản kháng họ. Chế độ nào cũng nể và cũng ghét du đãng. Nhưng du đãng, họ là ai? Trước hết, họ là những người tuổi trẻ như những người tuổi trẻ khác với đầy đủ cái tốt và cái xấu. Hoàn cảnh xã hội, gia đình tạo họ thành những người phóng đãng. Xã hội hẹp hòi đã phán xét họ nặng nề, đã lấp hết lối về của họ. Họ trở thành du đãng. Dưới mắt thành kiến của xã hội, du đãng là hạng người xấu xa nhất, tồi tệ nhất. Xã hội đồng hoá du đãng với bọn cướp giật đê tiện. Xã hội mù lòa không thể biết du đãng là những người tình cảm nhất, hào sảng nhất, giữ lời hứa nhất, dám nói và dám làm. Và làm là được. Một số người đã lợi dụng du đãng, lợi dụng sự can đảm và liều lĩnh của du đãng vào những mục đích xấu xa để họ mang tiếng. Tôi nghĩ, nếu du đãng có lý tưởng, nếu họ biết Lưu Bang là ai, Nguyễn Nhạc là ai thì thời cơ này dân tộc rất cần họ. Và tôi suy tư về cách mạng Tây Sơn.
Tôi không muốn đếm xỉa đến trí thức lưu vong nữa. Tưởng chừng như họ đã chết, dù họ vẫn còn sống. Những kẻ trốn tránh và sợ hãi thực tại, cố thu mình vào vỏ ốc mà mơ tưởng dĩ vãng huy hoàng, không dám dấn thân làm lại từ đầu, ta chẳng nên phí thì giờ nghĩ về họ. Bọn tướng tá đào ngũ thì tôi đã để lòng khinh bỉ. Lũ nghị sĩ, dân biểu bỏ cử tri đau khổ mà đi tìm sự an thân, càng đáng khinh bỉ. Tôi đã gặp trí thức kẹt lại. Họ hư đốn hết rồi. Sáng giá như kiến trúc sư Ngô Viết Thụ mà sau khi rời trại cải tạo, được cộng sản đoái hoài, cho sang Liên xô một chuyến, về nhà hót Liên xô như khướu. Trí thức hư đốn vào hết cái chuồng Hội Trí Thức Yêu Nước. Trí thức còn lương tri thì bải hoải, bạc nhược. Ngó trước, nhìn sau, tôi thấy chỉ còn tuổi trẻ đáng tin cậy. Tuổi trẻ Sàigòn hôm nay bất mãn và bất cần đời gấp ngàn lần tuổi trẻ trước 1975. Người tuổi trẻ tiểu tư sản lãng mạn rất nhiều ẩn ức và đang chờ cơ hội phóng những ẩn ức đó ra. Tôi còn biết tuổi trẻ Hà Nội muốn phá tung cái lưới chế độ chụp bủa lên thân phận họ. Ngay cả Võ Điện Biên, con trai Võ Nguyên Giáp, đã trở thành du đãng, sống ngoài vòng pháp chế xã hội chủ nghiã.
Tôi muốn vận động tuổi trẻ...
Chàng phải ngừng ở đó vì, tự nhiên, chàng nhức đầu ghê gớm. Rồi chàng lên cơn sốt. Chàng bỏ cơm. Người công an bảo vệ cho chàng ăn cháo, uống sữa. Bác sĩ của Sở Công An đến khám bệnh, chích thuốc. Mất ba ngày chàng mới lành mạnh. Chàng định viết tiếp > sang phần kỹ thuật vận động. Rồi thôi. Không nên để kẻ thù biết những điều họ cần biết. Cứ lơ lửng thế này, họ sẽ tưởng chàng khủng hoảng thần kinh đề cao du đãng. Một tuần lễ, tính từ ngày chàng gặp Mai Chí Thọ, công an bảo vệ gọi chàng ra làm việc. Vẫn cái bàn cũ, cảnh cũ, nước trà và thuốc lá. Khác một chút, lần này, thuốc là Vàm Cỏ và lãnh đạo trẻ trung. Chàng đặt tên lãnh đạo là Lãnh Đạo 6.
- Anh khỏi sốt rồi chứ, anh Bá?
- Cám ơn ông, tôi đã khỏi.
- Ngày mai tôi sang Paris công tác, anh có muốn gửi gì không?
- Gửi gì, thưa ông?
- Thư từ.
- Tôi biết ông không chuyển, ông sẽ bỏ vào hồ sơ của tôi, nên tôi không viết thư.
- Anh đa nghi quá.
- Ở đây, tôi chỉ còn tin tôi. Nếu ông muốn tôi tin ông, xin ông cho tôi gửi một thứ.
- Được. Cái gì?
- Một miếng cô đơn cho bạn bè tôi ỏ Paris chia sẽ với tôi.
- Bạn bè anh là ai, ở đâu?
- Ở Paris. Tất cả những người tuổi trẻ chống cộng sản.
Lãnh Đạo 6 cười:
- Đồng chí Mai Chí Thọ bảo anh bị crise!
Chàng cười theo:
- Có lẽ.
- Ta ôn chuyện Paris đi. Tôi đã ở trong phái đoàn hội đàm năm 1968 đến 1969.
- Ông yêu Paris?
- Yêu chứ.
- Tôi thì chỉ yêu Sàigòn.
- Anh không yêu Hà Nội?
- Tôi yêu Hà Nội hơn cả ông. Tại sao tôi không yêu bất cứ một thành phố nào của quê hương tôi nhỉ?
- Nhưng mà ta nên nói chuyện Paris.
- Tùy ý ông.
- Mùa này giữa thu Paris phải không, anh Bá?
- Phải.
- Có lần tôi vào vườn Luxembourg dịp khai trường và tôi nhớ Anatole France.
- Ông cũng đọc Anatole France?
- Tôi thích cuốn Livre de mon ami.
- Đoạn Anatole hồi tưởng ngày khai trường?
- Đúng.
- Tôi lại thích Thanh Tịnh.
- Anh khác tôi.
- Luôn luôn tôi khác ông. Ông đã đọc André Gide chưa?
- Rồi.
- Cuốn gì của Gide làm ông thích?
- Le retour de l’URSS.
- Tôi lại thích cuốn A la retouche sur mon retour de l'URSS.
- Cuốn đó phản động.
- Nhưng của André Gide, nhà văn mà ông thích.
- Anh Bá!
- Tôi nghe ông đây.
- Tôi muốn nói chuyện tâm cảm với anh.
- Thì ông cứ nói.
- Anh thích tạo mâu thuẫn. Tôi đến gặp anh nói chuyện Paris, không đến để thẩm vấn anh.
- Tôi không thích chuyện Paris. Ông nên nói chuyện Hà Nội, thành phố tôi ao ước tới.
- Anh sẽ tới Hà Nội.
- Vâng, tôi hy vọng sẽ tới Hà Nội.
- Giả sử ngày mai anh tới Hà Nội, nơi nào anh sẽ thăm viếng trước tiên?
- Chỗ Nhượng Tống gục ngã bởi những viên đạn hèn.
- Anh... Việt Nam Quốc Dân Đảng?
- Không phải đâu. Tôi yêu mến và cảm phục tài hoa của Nhượng Tống. Ông đọc bản dịch Nam Hoa Kinh của Nhượng Tống chưa?
- Chưa.
- Thế thì làm sao ông cảm nổi Nhượng Tống. Riêng bài Tựa của Nhượng Tống cho bản dịch đã làm tôi ngây ngất. Tôi nói ông đừng buồn nhé?
- Anh cứ nói.
- Cộng tất cả tinh hoa văn chương của lãnh tụ các ông cũng chưa thể so sánh với bài Tựa bản dịch Nam Hoa Kinh của Nhượng Tống.
- Anh nói quá đáng.
- Tôi nói theo ý nghĩ của tôi. Nằm trong tù, tôi có dịp nhớ lại bài Tựa ấy, và lòng tôi dạt dào cảm xúc. Tôi tưởng tượng tôi đang đứng ở Quảng Trị, ở một làng nghèo nhất Quảng Trị, Gio Linh chẳng hạn, ngước mắt nhìn lên phương Bắc, ngoảnh mặt quay xuống phương Nam. Trên miền đất khổ quê hương tôi, thời đại tôi, tại sao lại sẽ chẳng có dân tộc Kinh nhỉ?
- Anh lãng mạn quá đà!
- Quá đà lãng mạn, tôi hình tưởng từ dân tộc Kinh, một Nguyễn Huệ mới đứng dựa lưng vào Trường Sơn nhìn ra biển Đông, vươn tay trái hất đổ triều đình nhà Trịnh, vươn tay phải hất đổ triều đình nhà Nguyễn; đạp chân trái, 20 vạn quân Thanh chết thảm, đạp chân phải, 2 vạn quân Xiêm chết nhục; mỉm nụ cười nhân ái, đất nước rực rỡ tự hào.
- Quả thật anh bị khủng hoảng thần kinh. Có lẽ, chúng tôi phải đưa anh vào nhà thương Chợ Quán.
- Ông đe dọa?
- Chữa bệnh cho anh mà gọi là đe dọa à?
- Đưa tôi vào nhà thương điên để tôi trở thành người điên thật sự! Các ông cứ việc đưa đi. Đó là quyền của các ông. Trước khi tôi hoàn toàn mất trí, ông nên nhớ điều này: Các ông, những người cộng sản Việt Nam đã mất gốc cộng sản rồi, các ông đang bơ vơ tội nghiệp. Tội nghiệp hơn nữa là các ông không biết mình đang bơ vơ.
- Anh Bá, tôi kiểm chứng từ lúc gặp anh tới bây giờ, chuyện của anh đúng là chuyện của người điên. Chúng tôi sẽ làm anh hết điên.
- Ông nói thẳng là các ông sẽ làm tôi chết.
- Không, anh sẽ sống.
- Tại sao các ông sợ tôi điên?
- Vì chúng tôi quý mến anh.
- Các ông sợ sự thật. Sự thật làm các ông cuống quýt nhất là chế độ của các ông sắp tàn rồi. Các ông đang ở đỉnh ngọn cây và cây thì đã trốc gốc. Cộng sản Việt Nam hôm nay có đến 12 giai cấp. Những giai cấp thiệt thòi nhất sẽ bứng gốc cây. Khi cách mạng Tây Sơn bùng dậy.
- Khẩu khí người điên.
- Tôi chưa điên.
- Anh chưa điên thì hẳn anh còn nhớ lời anh hứa với đồng chí Mai Chí Thọ.
- Tôi nhớ.
- Gì?
- Tự khai.
- Anh đã viết thự khai chưa?
- Rồi.
- Vậy thì anh chưa điên mà là ngông cuồng, dại dột. Tôi biết, trước sau anh cũng phải viết tự khai. Như thế; chúng ta có thể tiếp tục chuyện Hà Nội.
- Bằng Nhượng Tống?
- Được.
- Tại sao các ông nỡ ám hại một nhà văn mảnh mai và tài hoa như thế?
- Điều này đã thuộc về quá khứ.
- Tại sao các ông sát hại thi sĩ Vũ Hoàng Chương? Cũng thuộc về quá khứ chăng?
- Sai lầm hiện tượng.
- Còn bản chất, nhiều nhà văn, nhà thơ vô tội vẫn nằm trong các trại tập trung?
Lãnh Đạo 6 đứng dậy:
- Tôi muốn đọc bản Tự Khai của anh.
- Ông ta không trả lời câu hỏi của chàng. Vẫy tay, ông ta ra lệnh người công an bảo vệ:
- Dẫn anh Bá về phòng và đem bản Tự Khai ra cho tôi.
Người công an tuân lệnh. Cánh cửa khép lại. Chàng đoán trước những sự việc sắp xẩy ra sau khi người ta > những gì chàng viết trên những trang giấy trắng. Thản nhiên, chàng đợi chờ. > chàng thầm nghĩ thế.
-
Chương 13
Ngay nửa đêm hôm đó, khi chàng đang ngủ, người ta mở cửa phòng và lay chàng dậy. Thái độ của người công an bảo vệ thay đổi hẳn. Thay vì những lời nói tử tế, y ra lệnh cho chàng. Trăng đã lu, mật đã đắng. Công an bịt mắt chàng, còng tay chàng, xích chân chàng đúng kiểu và đúng cách họ đã bịt, còng, xích ngày đầu tiên. May Chí Thọ sửa sai thế đấy. Cộng sản là cộng sản. Chỉ cần may mảy lương tâm và thủ tín, cộng sản hết là cộng sản. Công an lôi chàng rời khỏi căn biệt thự, ném chàng lên sàn xe. Không phải là xe du lịch nữa. Xe chở tù nguy hiểm. Chẳng cần đo lường thời gian, chàng nằm nghiêng trên sàn xe, mậc số phận dẫn chàng đến đâu thì đến.
Xe ngừng ở đâu, chàng không thể biết. Chỉ biết chàng đã bị lôi xuống, kéo đi lòng vòng khá lâu rồi bị xốc nách leo lên bốn tầng thang lầu. Và người ta đẩy chàng vào một căn phòng hôi hám. Cánh cửa sắt đóng lại. Im lặng tuyệt đối. Chàng nhích bước giật lùi tìm bức tường. Rồi chàng từ từ ngồi xuống. Mắt vẫn bị bịt chặt. Tay vẫn bị siết còng. Chân vẫn bị xích nghiến. Chàng nghe sự thinh không và ngửi mùi tanh nồng khó diễn tả nhưng dễ so sánh. Mùi tanh nồng giống hệt mùi chủ nghiã cộng sản!
Chàng đã hoàn toàn mất hết cảm giác sợ hãi. Đây không phải là nhà thương điên. Nếu là nhà thương điên thì hạnh phúc biết mấy. Chàng sẽ được gặp người. Ngót tháng nay, chàng gặp những hạng người mất tính người và chàng tha thiết gần gũi con người đích thực, dẫu là người điên. Tại sao người ta không dám nhốt chàng chung vơí những tù nhân nguy hiểm khác? Tai sao người ta không nhốt chàng ở một nhà tù đúng nghiã nhà tù? Một ông lãnh đạo đã giải thích rồi. Cộng sản luôn luôn sợ sự thật kể cả sự thật đã bắt nhốt chàng. Họ đã loan báo tin chàng bị bắt chưa nhỉ? Chắc chắn chưa. Họ sẽ lợi dụng một cơ hội tốt đẹp nào đó. Chàng không quên vụ Võ Đại Tôn. Võ Đại Tôn thiếu may mắn hơn chàng. Võ bị sa lưới ở biên giới. Chàng đã về tận quê hương. Ngâm mình dưới giòng sông quê hương và gặp gỡ, trò chuyện với người quê hương. Chàng may mắn hơn cả một bậc lão thành cách mạng thời Pháp đô hộ là lãnh tụ Lý Đông A. Ông Lý bôn ba ở Liễu Châu, giấc hương quan làm ông ngơ ngẩn những canh dài, ông tìm về thăm quê nhà. Nhưng ông chỉ được đứng bên đây bờ sông Kỳ Cùng- người Tầu gọi là sông Pặc Nậm - nhìn sang bên kia sông mà thương nhớ trong một bài thơ nặng tình non nước:
Ta đã về đứng bên bờ Pặc Nậm
Mặc heo mây vương vấn hồn cố hương
Khuất hàng cây lấp ló mấy ven tường
Hòa làn khói mơ màng bao nhớ ước
Cách giòng nước, ta là dân mất nước
Nước non ta, ai ngăn cản ta về
Thấy người quê không được tỏ tình quê
Rõ trước mắt mà tìm đâu cho thấy
Hãy thét lớn, hai bàn tay nắm lấy
Hãy xua tan quân địch của Rồng Tiên
Hãy làm cho người Việt được đoàn viên
Quê, Nước ở trong đáy lòng sông máu.
Võ Đại Tôn chưa được nhìn cả giòng sông quê hương mình. Người ta bắt Võ, giam nhốt Võ. Rồi hơn một năm sau, người ta đưa Võ ra tòa buộc tội Võ làm tay sai cho CIA, rêu rao cùng thế giới tội trạng Võ để Nguyễn Cơ Thạch có > sang Singapore giải thích tại sao cộng sản Việt Nam chiếm đóng Kampuchia. Cộng sản là bọn bưng bít sự thật nhà nghề. Họ không dại dột gì vinh tôn một anh hùng của những phe nhóm đối nghịch họ. Khi phải tôn vinh kẻ đối nghịch làm anh hùng, họ đã toan tính lợi cho họ nhiều và hại cho họ thật ít. Chàng mong họ tìm ra cơ hội châu báu của họ để loan tin chàng bị bắt. Không chàng không bao giờ muốn làm anh hùng cả, chàng chỉ muốn gia đình chàng, người yêu của chàng, bằng hữu của chàng biết rằng chàng đã về Việt Nam và đang nằm trong tù ngục cộng sản để chia sẻ nỗi đau khổ với dân tộc chàng. Thế thôi. Đơn giản và thành thật.
Mắt chàng bị bịt chặt đến nỗi không thể chớp được. Nhưng, khi người ta hồi tưởng, người ta chẳng cần mở mắt. Và chàng, tay bị còng chéo sau lưng, chân bị xích, mắt bị bịt, ngồi dựa vai vào tường tù, tưởng nhớ người thân. Chàng nhớ một tiệc rượu tưởng chừng một tiệc ly mà bằng hữu chàng không hề biết đó là tiệc ly. Ít có dịp chàng thù tạc với bạn hữu. Chàng luôn luôn lẩn tránh mọi ồn ào nặng tính chất phô trương. Chàng nói ít, làm nhiều. Bằng hữu bảo chàng kín đáo. Người ngoài bảo chàng thiếu cởi mở. Song, bất cứ ai gặp chàng, nói chuyện với chàng đều có cảm tình với chàng. Trong tiệc rượu hôm ấy, bằng hữu đã ngạc nhiên thấy chàng cụng ly tất cả mọi người. Chàng đọc thơ và kể những kỷ niệm niên thiếu của chàng ở Việt Nam. Rồi tiệc rượu tàn, chàng chia tay bạn bè đi tìm người yêu. Đã quen tính chàng, không ai hỏi chàng sắp đi đâu, làm gì, bao giờ gặp nhau uống rượu nữa.
Chàng lang thang với người yêu gần nửa khuya, dẫn nàng vào Rubis, nghe Ngọc Hải hát Nghìn trùng xa cách, nhẩy với người yêu một bản tango rồi đưa nàng về căn phòng nhỏ bé của chàng. Chàng mở một chai champagne, cụng ly với người yêu:
- Đêm nay chúng ta thức uống rượu. Chàng nói.
- Anh có chuyện buồn? Nàng hỏi.
- Không.
- Anh uống từ trưa?
- Nhưng chưa đỏ mặt. Em không thuộc thơ Trần Huyền Trân đâu nhỉ?
- Vâng. Em không biết thi sĩ ấy.
- Những người có những tâm sự nào đó, lại thích sống cô đơn và ham uống rượu, đều phải thuộc thơ rượu của Trần Huyền Trân. Nhiều đêm anh uống rượu ở quán, về khuya, ra khỏi cửa trời lạnh, nâng cổ áo che gáy là anh ngâm câu: Rượu rồi nâng cổ áo lên cao.
Chàng sảng khoái:
- Rượu rồi nâng cổ áo lên cao...
Và tiếp:
- Nâng cổ áo lên cao để đi xa.
Chàng và nàng uống rượu, hút thuốc, nói chuyện thi ca, âm nhạc. Đêm bình an và tinh khiết. Năm giờ sáng, chàng đưa nàng về nhà nàng. Chàng hôn nàng từ biệt, hẹn sẽ tới đón nàng dịp khác. Sáu giờ, chàng có mặt ở phi trường. Bẩy giờ, chàng lên phi cơ bay tới một nước vùng Đông Nam Á. Bây giờ, chàng nằm đây, mắt bị bịt kín mít, tay bị còng, chân bị xích. Bằng hữu và người yêu không thể tưởng tượng nơi chốn chàng đang có mặt.
Hồi tưởng là một điệu ru êm ái. Điệu ru ấy đã ru chàng ngủ dựa vai vào tường tù ngục. Khi chàng thức giấc, chàng nghe rõ những tiếng ồn ào phía dưới. Có lẽ, trời đã sáng. Có lẽ, chàng đã được đưa đến một nhà tù nào đó của thành phố Hồ Chí Minh. Tiếng ồn ào không ngừng. Âm vang của nó nghe thật ma quái. Cánh cửa đã mở. Chàng nghe bước chân của công an. Người ta tháo miếng vải bịt mắt chàng ra. Chàng vừa hi hí mở mắt thì đèn pin đã rọi sát mắt chàng. Chàng vội khép mắt lại. Đau nhức. Người ta mở còng tay cho chàng.
- Anh nói anh tự do chọn lựa sự đau đớn phải không?
Người công an hỏi
- Phải. Chàng đáp.
- Anh sẽ thỏa mãn sự lựa chọn của anh. Hôm nay anh có thể biết chỗ dành cho anh rồi đấy. Hỏi đi!
- Tôi ở đâu?
- Chí Hòa. Biệt giam khu FG Chí Hòa! Tụi phản động nó quen gọi là ca sô! Phòng của anh, những năm trước đã nhốt thằng Nguyễn Việt Hưng, trùm phản động vụ nhà thờ Vinh Sơn. Từ phòng này, chúng tôi lôi nó ra bắn chết như con chó ghẻ. Anh hỏi nữa đi!
- Không có gì để hỏi nữa.
- Vậy mở to mắt ra mà nhìn!
Người công an hét lớn:
- Mở mắt ra!
Chàng nói:
- Tôi không thể mở lớn được.
- Tại sao?
- Vì anh bịt quá chặt và quá lâu.
Người công an cười gằn:
- Hừ, tưởng anh ngoan cường tới mức nào chứ! Lãnh đạo không thèm chấp thứ anh, anh được đà phét lác. Vào tay tôi, anh tới số.
Chàng nhỏ nhẹ:
- Anh không dám làm gì tôi đâu. Anh nhỏ bé lắm, tôi rất thương hại anh. Anh đâu biết Đảng và Nhà Nước của anh chờ đợi tôi có bốn tiếng...
Chàng nhấn mạnh:
- Bốn tiếng thôi nhé! Sám hối tội lỗi.
Rồi chàng chậm rãi:
- Tôi không sợ anh trả thù giùm lãnh đạo của anh đâu. Anh muốn tôi mở mắt, tôi mở thật lớn.
Chàng mở căng mắt. Người công an rọi thẳng đèn pin vào mắt chàng. Không thèm chớp mắt, chàng chịu đựng một thứ hình phạt nghiệt ngã.
Người công an tắt đèn.
- Tôi tự do mở mắt đấy nhé! Tôi tự do lựa chọn đau đớn đấy nhé! Thứ anh, chắc chắn, không dám, kể cả lãnh đạo của anh.
Người công an nín thinh. Y quẹt ánh sáng đèn pin chung quanh cachot.
- Anh iả, đái vào cái xô kẽm góc phòng. Mỗi tuần, cho anh đi tắm một lần. Khi đi tắm, anh xách xô theo đổ phân và rửa xô. Mỗi ngày anh có hai ca nước, hai bữa cơm theo tiêu chuẩn phạm nhân vi phạm kỷ luật. Anh nhìn rõ chưa?
- Rõ rồi. Tôi nhìn rõ cả chế độ cộng sản.
- Anh liệu cái mồm anh.
Người công an bước khỏi cachot, đóng cửa sắt, khóa kỹ. Cachot tối đen. Không có đèn ở cachot khu FG Chí Hoà. Ban ngày như ban đêm. Giữa trưa nắng chói ngoài trời, ở cachot FG, đưa bàn tay trước mắt mình cũng chẳng nhìn rõ. Cachot mà chàng nằm là cachot biệt lập nên không thể liên hệ với cachot bên cạnh hay cachot đối diện. Mỗi cánh cửa cachot có một ô cửa gió nhỏ. Muốn kiểm soát tù nhân sống, chết hoặc tự tử, công an rọi đèn pin qua ô cửa gió. Cơm nước đều được đưa qua ô cửa gió. Do vậy, ô cửa gió luôn luôn mở vừa tiện can phạm lao động đưa cơm nước vừa để tội nhân thở. Tội nhân như chàng, đích thân công an đưa cơm nước. Cánh cửa sắt chỉ mở mỗi tuần một lần cho tội nhân xách xô phân tiểu đi đổ và tắm rửa. Nếu bất chợt, cánh cửa sắt mở thì hoặc chấp pháp gọi tội nhân ra làm việc, hoặc tội nhân chết bệnh, hoặc tội nhân đập đầu tự tử, hoặc tội nhân bị dẫn đi thủ tiêu.
Chàng đã nhìn rõ cachot của chàng nhờ ánh sáng của ngọn đèn pin của người công an. Chàng biết chỗ cái xô phân tiểu ở góc phòng. Dù mắt rất nhức nhối, khó chịu, chàng vẫn dang thẳng hai tay, lê chân xích đi ngang. Chiều rộng của cachot quá dư soải tay chàng, khoảng 1 mét 20 phân gì đó. Chiều dài khỏi đo mất công. Chàng dơ tay lên cao, đụng trần cachot. Nền cachot nhớp nhụa, ẩm ướt. Hẳn nó đã đóng từng lớp phân tiểu của tù nhân nhiều chế độ. Chàng đã nghe kể về cái đỉnh cao tù ngục Chí Hòa. Bây giờ, chàng đã leo lên chót vót cái ngọn đỉnh ấy để đủ kiến thức thẩm định giá trị chịu đựng của những người trại viên học tập cải tạo và những người tù luân lạc khắp các đề lao thành phố. Nỗi khổ thường được nhân lên tùy cảm hứng khi người ta may mắn thoát ly nỗi khổ. Nỗi khổ thường cũng được thêu dệt, vẽ vời khi người ta may mắn giã từ nỗi khổ. Bởi thế, có anh tự ý dẫn xác đi trình diện học tập, ở trại cải tạo chỉ ngồi vẽ chân dung Hồ Chí Minh, kẻ khẩu hiệu thi đua lao động, không hề cầm cái cuốc, không hề đào bom, khiêng bom, lấp hố bom mà qua Mỹ vẫn thích làm dáng đau khổ viết hồi ký, so sánh chỗ ngồi vẽ với đáy địa ngục! Bởi thế, có anh bị bắt oan, nằm tù vài tháng chuyên nghề phát thuốc ghẻ cho các tù nhân khác, nhởn nhơ ngoài hành lang suốt ngày, sang Pháp, cũng viết về cái đề lao tép riu mà bảo đó là goulag Việt Nam! Thời đại của chúng ta, sau khi nhân danh tự do, dân chủ thì người ta nhân danh nỗi khổ. Kẻ nhân danh nỗi khổ để làm anh hùng tù ngục, để khỏa lấp sự đê tiện của chính y và để nhục mạ người khác. Kẻ nhân danh nỗi khổ để bước vào chính trường, để khua môi múa mỏ về lòng yêu nước và để tự mở đường làm tôi tớ cho ngoại nhân.
Nỗi khổ không bao giờ là đồ trang sức tiến thân, không bao giờ là món hàng rêu rao gạ đổi danh vọng. Nỗi khổ giúp con người tự nhìn y một cách chính xách, giúp con người biết thông cảm với tha nhân, biết sống cao thượng, biết chiến đấu. Nói tóm lại, nỗi khổ giúp con người truy nã bản thân mình, cả cái xấu lẫn cái tốt. Và, sau cuộc truy nã, con người có thể tự hào mình xứng đáng con người nếu mình loại bỏ nổi những nhỏ mọn, ti tiện, đố kỵ, chụp mũ thường hằng. Những kẻ thích nhân danh nỗi khổ là những kẻ chưa bao giờ trực diện nỗi khổ vàng mười, hoặc là những kẻ rỗng tuếch không thể nhìn thấy niềm bí ẩn trong nỗi khổ. Cũng vậy, những kẻ thích nói xấu người khác, thích bôi bẩn người khác đều là những kẻ tồi tệ nhất, dơ bẩn nhất; những kẻ bệnh hoạn không một chút tài năng hoặc chỉ có một dúm tài mọn; những tên sa đích núp trong bóng tối rình mò làm việc tồi bậy. Cuối cùng, nỗi khổ giúp con người khôn lớn, trang trải, thừa thãi thương yêu và dư dả tha thứ.
Đã có mấy ngày đầu tiên thử thách và chiến thắng nỗi khổ, chàng coi thường cachot FG Chí Hòa. Hạnh phúc cho chàng là các thứ lãnh đạo không còn quấy rầy chàng bằng những buổi mạn đàm tẻ nhạt. Ngày hai bữa, công an đưa cơm nước nuôi chàng qua ô cửa gió. Không có nước trà, thuốc lá, dĩ nhiên. Không có cả thịt cá, rau đậu nữa. Mỗi bữa, chàng được cấp một lưng ca cơm và lưng ca canh rau muống già nấu vơí muối. Người ta phát cho chàng ba cái ca nhựa, một cái muỗng nhựa. Ăn uống xong, chàng được phép giữ ca lại, chờ bữa sau có đồ nhận cơm, canh, nước. Ca, muỗng không có nước rửa, không có giấy lau. Tù nhân sống như thời ăn lông ở lỗ! Ca nước uống, chàng không dám uống hết, phải để dành cho việc rửa đít sau khi đi ỉa. Chàng đo thời gian bằng những tiếng kẻng tù. Một ngày, Chí Hòa đánh kẻng bốn lần. Lần thứ nhất: Báo thức sáng. Lần thứ hai: Báo ngủ trưa. Lần thứ ba: Báo thức trưa. Lần thứ tư: Báo ngủ tối. Hàng tuần, người ta dẫn chàng xuống phía sân khu FG đổ xô, rửa xô và tắm gội. Người ta dẫn chàng xuống vào nửa đêm khi tù nhân đã ngon giấc. Chàng mang chân xích xách xô phân tiểu lết xuống và leo lên bốn tầng lầu. Vẫn chân xích, chàng đổ xô phân, rửa xô rồi tắm gội, giặt giũ bộ quần áo không xà phòng. Chàng giặt quần áo, vắt hết nước rồi mặc vào mình. Đêm tắm là đêm chàng không ngủ. Chàng đứng cho quần áo khô và nghe từ trong hiu quạnh một nỗi niềm ray rứt khôn nguôi.
Chàng không sợ chết nhưng chàng thèm sống, khao khát sống vô cùng. Chàng thèm sống và ao ước được trở lại Paris một lần, một lần thôi. Để chàng nói cho bằng hữu và người yêu nỗi niềm ray rứt khôn nguôi chàng đã nghe từ trong hiu quạnh của tù ngục quê hương. Nếu nỗi niềm ray rứt có được ở những đêm cachot không ngủ, không thể ngủ, đứng cho quần áo khô mà mọi người cảm thấm, sự nghiệp giải thoát dân tộc khỏi ách thống trị nghiệt ngã của cộng sản sẽ không còn là của người trong nước hay người ngoài nước, sẽ không còn của phe này nhóm nọ, sẽ không còn là của ngoài Bắc trong Nam. Sẽ là của tất cả những người Việt Nam lương thiện từng ôm những mũi tên cộng sản rướm máu tim oan. Chàng khao khát sống, vì thế. Một người tuổi trẻ Việt Nam tự nguyện rời bỏ cuộc sống phồn hoa đất khách, rời bỏ tương lai tốt đẹp của mình để trở về quê mẹ vào tù, chân mang xích đứng trong bóng tối mù mịt và cô đơn mênh mông không ngủ, mặc quần áo ướt, chia sẻ nỗi đau sót và niềm tủi nhục với dân tộc mình, người tuổi trẻ đó xứng đáng là một biểu tượng gì nhỉ? Hãy hình tưởng chàng rồi cố ví chàng với thánh nhân cam chịu khổ một mình cho hạnh phúc dân tộc sẽ chẳng ai nỡ kết tội lộng ngôn. Thời đại của chúng ta rặt những anh hùng, liệt sĩ bất xứng, những anh hùng, liệt sĩ làm sai lạc định nghĩa anh hùng, liệt sĩ, chàng mới rõ mặt anh hùng. Chàng là thần tượng của tuổi trẻ hôm nay. Chàng là bó đuốc dẫn lối. Chàng là ánh lửa nhận đường.
Với dinh dưỡng đốn mạt, với đầy đọa tinh thần và thể xác cùng cực, chàng phờ phạc, rã rời. Cachot biệt lập FG Chí Hòa, quan tài xi măng cho người sống, đã làm hao mòn chàng. Đôi chân chàng mang xích lỏng lẻo. Xích đã hết nghiến cổ chân chàng rồi! Tóc chàng rậm bù. Râu ria chàng tua tủa. Mắt chàng suy yếu dần dần. Một tháng. Hai tháng. Năm tháng. Bẩy tháng... Chàng quên đếm mấy trăm bữa cơm, mấy chục lần đổ xô phân tiểu, mấy chục bận tắm giặt và đứng thâu đêm chờ quần áo khô. Bỗng một đêm, đèn pin chiếu qua ô cửa gió rọi thẳng vào mặt chàng. Cánh cửa sắt mở rộng. Người ta bảo chàng đứng dậy. Mắt chàng lại bị bịt chặt. Tay chàng lại bị siết còng. Người ta điệu chàng đi nơi khác. Nơi khác chẳng mới lạ gì với chàng. Đó là căn phòng > chàng đã ở, đã mạn đàm vơí các nhà lãnh đạo của chế độ. Người ta hớt tóc, cạo râu cho chàng. Người ta cấp xà phòng thơm tắm gội. Người ta phát quần áo mới. Người ta cho ăn cơm tiêu chuẩn cũ. Người ta tặng thuốc lá. Chàng đã mượn cái gương của người công an hớt tóc soi gương mặt mình. Mắt chàng trũng sâu, thâm quầng. Da chàng trắng bệch. Thịt chàng mềm nhũn. Chàng nhìn mọi vật lờ đờ. Cộng sản không tra tấn. Phải, cộng sản không tra tấn. Nếu không sống bằng ước mơ, chàng đã gục ngã trong quan tài xi măng.
Lần này, người ta đưa cho chàng một tờ giấy và yêu cầu chàng thú nhận tội lỗi. > Chàng chưa viết. Người ta không dục. Chàng ăn rồi ngủ. Ngủ rồi tắm. Rồi chàng bỗng tương tư cái quan tài xi măng FG Chí Hoà, chàng bỗng thèm đứng không ngủ thâu đêm cho quần áo khô và nghe từ trong hiu quạnh cái nỗi niềm ray rứt. Nhờ hỏi ngày tháng người công an bảo vệ, chàng biết mình đã nằm trong quan tài xi măng 11 tháng. Mười một tháng chân mang xích, sống trong bóng tối cô quạnh, ăn ngủ chung với phân và nước đái, không nghe tiếng người nói, cười, khóc, chỉ nghe tiếng kẻng gầm gừ dọa nạt, chàng chưa điên là nhờ chàng biết ước mơ. Chàng vừa khám phá một niềm bí ẩn mới. Sức chịu đựng của con người đã chế ngự hình phạt của thù hận.
-
Chương 13
- Chắc anh không lạ gì về tôi cả?
- Vâng, ông thật sự nổi tiếng từ ngày được cưa đôi giải thưởng hòa bình Nobel với Kissinger.
- Anh nghĩ thế nào về giải thưởng ấy?
- Tôi thấy Hàn Lâm Viện Thụy Điển có tinh thần trào lộng thật cao.
- Tại sao?
- Vì ông là đại diện phe gây chiến tranh, Kissinger là đại diện lái buôn bom đạn.
Lê Đức Thọ mỉm cười. Nhân vật kỳ bí của Bộ chính trị trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, lá bài tẩy của nhóm Hà Nam Ninh sẽ lật ngửa trong ván bài theo Mỹ bỏ Liên xô tương lai, người sẽ nắm gọn quyền bính trong tay nếu Mỹ bật đèn xanh bang giao. Khai thác triệt để châm ngôn > người cộng sản tinh quái hơn người quốc gia và họ binh chính trị năm bảy đường. Người quốc gia thờ có một chủ nên khi bị chủ bỏ rơi là rã đám. Nam Việt Nam và Nicaragua là hai chứng minh cụ thể và nóng hổi. Là anh của Mai Chí Thọ, Đinh Đức Thiện, cả ba đều là con trai ông tổng đốc Nam Định Phan Đình Hoè, cả ba đều khước từ gia phả, thay tên đổi họ. Lê Đức Thọ gia nhập đảng cộng sản từ thuở còn làm học sinh trung học. Năm 1945, phát xít Nhật tin tưởng Thọ, giao cho Thọ một triệu bạc Đông Dương để Thọ lo giùm vụ trong đấy. Lê Đức Thọ ẵm triệu bạc trốn lên chiến khu Việt Bắc. Rất thông minh và kiến thức rộng nhưng Thọ không được Hồ Chí Minh yêu. Hồ Chí Minh chỉ tin yêu dân Nghệ Tĩnh. Bởi vậy, sửa sai cải cách ruộng đất năm 1956 là cai cớ để Hồ Chí Minh loại bỏ Trường Chinh thủ đoạn mà thay thế Lê Duẩn dốt nát, thiếu phẩm chất cách mạng. Bởi vậy, Tố Hữu, tên văn nghệ hạng bét đã chỉ đạo văn nghệ những Nguyễn Tuân, Thế Lữ, Huy Cận, Thanh Tinh, Trần Đức Thảo, Nguyễn Đình Thi, Phan Khôi. Sau vụ thảm bại Mậu Thân 1968, Hồ Chí Minh phát điên mà chết. Lúc trăng trối, không có Lê Đức Thọ. Và Hồ Chí Minh phều phào hỏi quần thần > Đến chết, Hồ Chí Minh vẫn lo ngại Lê Đức Thọ và vẫn coi Thọ là thứ > của Đảng cộng sản Việt Nam.
Lê Đức Thọ vang danh từ những cuộc > với Kissinger ngoài lề Hội Đàm Paris. Rồi cưa đôi giải thưởng hòa bình Nobel với Kissinger. Sau khi thôn tính miền Nam, Lê Đức Thọ ít xuất hiện trong những lễ lạc quan trọng. Mặc dù, Trường Chinh đang là nhân vật nổi bật của phe Hà Nam Ninh nhưng đầu óc của phe nhóm vẩn chỉ là Lê Đức Thọ. Thọ không hề tuyên bố gì về những đổ vỡ bang giao giữa Việt Nam với Trung quốc, giữa Trung quốc với Liên xô. Ông ta khẩu như bình, > nói chuyện với Hoa Kỳ một ngày nào đó. Hoa Kỳ đã chọn Lê Duẩn, Trung quốc chọn Hoàng Văn Hoan. Chàng không ngờ gặp gỡ Lê Đức Thọ.
- Anh can đảm lắm, người tuổi trẻ à!
- Cảm ơn ông.
- Cái gì đã làm anh can đảm?
- Ông muốn biết?
- Phải, tôi quý trọng những người thẳng thắn, can đảm dù những người thẳng thắn, can đảm chống tôi, muốn tiêu diệt tôi. Sự kiêu ngạo của người chiến đấu là biết chọn lựa kẻ đương đầu xứng đáng. Nào, người tuổi trẻ, cái gì đã làm anh can đảm?
- Cái quan tài xi măng!
- Tôi không hiểu.
- Ông Mai Chí Thọ hiểu.
- Anh nói rõ ràng đi.
- Cái cachot đốn mạt ở khu FG khám Chí Hòa.
- Tôi không hề biết nó ra sao.
- Ông nói đúng, vì có bao giờ ông quan tâm tới nơi nhốt những người Việt Nam cùng giòng giống với ông. Nơi ấy bóng tối âm u, ngày như đêm, tanh nồng, hôi hám, những người Việt Nam đang tay bị còng, chân bị xích, ngủ trên nền phân đóng lớp; ăn, uống, thở, mơ ước, thổn thức bên cạnh xô phân tiểu ruồi bò nhung nhúc. Nơi ấy, phẩm cách của con người bị xếp dưới hạng chuột bọ. Nơi ấy, tôi đã chết 11 tháng ròng rã và tôi sống còn. Và đó là cái đã làm tôi can đảm.
- Tôi biểu dương sự can đảm của anh. Tôi gặp anh vì anh can đảm. Đã chẳng hề có một can phạm nào được gặp gỡ nhiều nhân vật lãnh đạo như anh. Tôi được báo cáo rằng, nhiều thằng tướng ngụy đã miễn lao động mà vẫn than khổ; nhiều thằng đại tá cuốc đất vớ vẩn đã tưởng mình ở đáy địa ngục. Bọn đó, công an 17, 18 tuổi quản lý và giáo dục đủ rồi. Tôi ít thì giờ lắm, chúng ta không nên rong dài.
- Tôi cũng nản mạn đàm vô tích sự rồi.
- Anh có tin tôi đầy đủ thẩm quyền trả tự do cho anh và dễ dàng đưa anh trở lại Paris không?
- Tôi tin.
- Anh có muốn tự do không?
- Tự do hay là chết, tôi chọn lựa tự do của tôi và cái chết của tôi.
- Anh không cần chọn lựa.
- Tôi phải chọn lựa.
- Được, tùy anh. Tôi đã đọc Cuộc chiến đấu của tôi của anh rồi, bây giờ tôi hỏi anh vài điều. Tại sao anh chiến đấu?
- Thưa ông, tại sao ông chiến đấu?
- Vì hạnh phúc của dân tộc.
- Tôi cũng chiến đấu vì hạnh phúc của dân tộc.
- Chúng ta cùng mục đích.
- Khác. Tôi quốc gia chân chính, ông cộng sản.
- Thật khó nói chuyện với anh. Sự khẳng khái của anh không làm nên đại sự đâu.
- Bản chất của tôi là thế.
- Anh không biết lùi khi cần lùi à?
- Tôi chỉ biết tiến.
- Tiến vào chỗ chết là dại dột, là bất trí. Kiến thức của anh đâu?
- Trong tim tôi.
- Tim chưa đủ, cần óc nữa. Tim đi với não, anh hiểu chưa? Nếu tôi là anh, không bao giờ tôi bị nằm trong quan tài xi măng.
- Nhưng ông không bao giờ là tôi cả. Bởi vậy, có nhiều điều ông không khôn.
- Người cộng sản không sợ chết mà cần sự tồn tại. Anh hãy cố gắng nghe kinh nghiệm tù ngục của lãnh tụ cộng sản: Tất cả lãnh tụ cộng sản, từ chủ tịch Hồ Chí Minh đến tổng bí thư Lê Duẩn, nằm tù thực dân, phong kiến đều hèn hạ và chấp thuận bất cứ điều gì thực dân yêu cầu. Cứu cánh biện minh cho phương tiện. Không hèn hạ thì không có ngày làm lãnh tụ để đánh vô mặt kẻ thù. Người có chí lớn phải biết nuôi thù. Muốn mưu đại sự, cần gạt bỏ tiểu tiết. Ai cũng can đảm như anh, kẻ thù nó chặt hết. Có ai dám nói chủ tịch Hồ Chí Minh hèn hạ trong tù đâu? Khi đã trở thành lãnh tụ, cái xấu nhất sẽ biến thành cái đẹp nhất, và toàn dân tung hô.
- Ông nói hay lắm.
- Anh có đọc Đông chu liệt quốc không?
- Có.
- Anh nhớ tên họ kẻ cứu giòng máu cuối cùng họ Triệu đời Tần Lê Công không?
- Tôi quên.
- Vì quên nên anh không hiểu lẽ sống chết. Công Tôn Chử Cữu hỏi Trình Anh> Trình Anh đáp:> Công Tôn Chử Cữu nói:> Bèn nhận con mình là con chủ và xúi Trình Anh đi tố cáo để Đỗ Ngân Gia giết mình và con mình. Nhờ thế; Trình Anh mới cứu nổi Triệu Vũ và sau này mà chọn cái chết thì quá là bất trí.
- Ông luận lẽ sống chết làm tôi mở mang kiến thức.
- Anh mê Sử Ký của Tư Mã Thiên không?
- Tôi rất hâm mộ.
- Tư Mã Thiên vì khẳng khái bênh Lý Lăng mà chịu tội thiến, cái tội nhục nhã thời ấy. Nếu có tiền chuộc thì vua tha. Tư Mã Thiên nghèo mà đám văn hữu thì ngó lơ, chẳng đứa nào giúp. Tư Mã Thiên đành thọ nhục. Đám văn hữu chê trách đủ điều. Sau này, Sử Ký biện minh cho sự chịu nhục của Tư Mã Thiên thì đám văn hữu bèn ngoác miệng mà khen. Nếu Tư Mã Thiên tự tử thay vì chịu nhục, làm gì nhân loại có bộ Sử Ký tuyệt diệu đó. Anh vỡ lẽ sống chết chưa?
- Cám ơn ông.
- Anh có cảm nỗi Hàn Tín không?
- Tôi phục tài ông ấy.
- Còn ngàn vạn dẫn chứng về lẽ sống khó, chết dễ.
- Nhưng, thưa ông, tại sao ông lại mở mang kiến thức cho tôi về lẽ sống chết và kinh nghiệm tồn tại của người cộng sản?
- Vì cuộc chiến đấu của anh cũng là cuộc chiến đấu của tôi. Đó là lời tâm huyết và tôi tin anh không phản bội tôi. Tất cả những điều tôi nói với anh đều là tâm huyết. Anh đủ kiến thức, thừa thông minh, chịu khó suy nghĩ cho chín chắn. Tôi sẽ dồn mọi nỗ lực, tạo điều kiện đưa anh ra Tòa Án Nhân Dân công khai xử anh. Tôi nhắc lại: Lùi để tiến là kẻ có mưu trí. Sống để cứu dân tộc là bậc đại trí. Tiến vào chỗ chết là kẻ vô dụng. Chết khi chưa vận động xong cách mạng Tây Sơn là cái chết của cây cỏ.
Lê Đức Thọ vỗ vai chàng rồi chào tạm biệt. Công an bảo vệ đưa chàng về căn biệt thự ngoại ô bằng xe du lịch Peugeot 404. Khi đến và khi về đều không bị bịt mắt, xích chân, còng tay. Và đi, về ban ngày nắng vàng rực rỡ. Chàng nằm ngửa mở mắt, nhìn lên trần phòng. > ông già tóc bạc phơ, tuổi để chừng hơn cả tuổi thân phụ của chàng, đã khuyên chàng thế. Ông già ấy, Lê Đức Thọ, Ủy viên Bộ chính trị trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, kẻ kế nghiệp Hồ Chí Minh một ngày thật gần, đã truyền dạy chàng lẽ sống và kinh nghiệm ở tù của người cộng sản. Chàng rất cảm kích thái độ kẻ cả của Lê Đức Thọ. Ông ta đã phóng tới tấp vào tâm não chàng những đòn nhân nghĩa khiến chàng không kịp đỡ, không kịp phản ứng. Ông ta đưa chàng lên ngọn đỉnh núi cao rồi, bất thần, bỏ đi. Một nhà văn mà chàng gặp ở Paris năm xưa đã nói với chàng: > Nhà văn đưa ra một thí dụ cụ thể: Ý đang phô diễn trên nhật báo Nhân Dân. Hễ báo Nhân Dân ca ngợi khoai mì đầy rẫy pô rô tê in thì y rằng mấy tháng sau nhân dân cả nước ăn khoai mì trừ cơm. Vân Vân Ông Lê Đức Thọ đã nói với chàng rất nhiều những điều nhân nghĩa, ông ta giăng cái bẫy gì để chàng lọt, ông ta muốn gì ở chàng? Và tại sao lại phải Lê Đức Thọ tiếp chuyện một tên >? Tại sao lại phải Lê Đức Thọ > đưa chàng ra Tòa Án Nhân Dân xử công khai?
Chàng ngồi vụt dậy. Chàng hiểu rồi. Bây giờ chàng mới thấm lời của Chúa Giê Xu. Cửa hẹp dẫn chàng vào cachot, vào cô đơn, hiu quạnh, vào ý nghĩa sống rực rỡ. Cửa rộng dẫn chàng vào văn phòng của Lê Đức Thọ, vào dụ dỗ, cạm bẫy của Satan, vào sự hư hỏng. Chàng ghê sợ cộng sản. Thủ đoạn cộng sản tinh vi đến độ họ có thể huyền hoặc được cả ma quỷ. Cơ hội nào đã đến với họ để họ phải đưa chàng ra Tòa Án Nhân Dân xử công khai? Tất nhiên, đó là cơ hội tốt đẹp của họ. Cũng là cơ hội tốt đẹp của chàng. Bạn hữu và gia đình chàng sẽ hiểu những ngày vắng mặt chàng ở đâu. Và chàng sẽ được nói công khai với dân tộc, với thế giới mục đích chiến đấu của chàng. Chàng sẽ là người chiến đấu đại diện của bao nhiêu người Việt Nam yêu nước đã chiến đấu chống cộng sản 30 năm ở miền Bắc; đã chiến đấu chống cộng sản ở miền Nam từ sau 30-4-1975, đã sa cơ thất thế, đã sống nhục nhã trong các nhà tù, trại tập trung, đã chết dần chết mòn hoặc vẫn còn đang sống quằn quại hoặc đã bị thủ tiêu bí mật mà thế giới không hề biết. Chàng sẽ nhân danh những chiến sĩ vô danh nói lên tiếng nói từ địa ngục. Cửa hẹp dẫn chàng vào nỗi đau khổ và gửi gắm chàng một sứ mạng thiêng liêng. Không, chàng không thể lui. Với vị thế của chàng, lui là đầu hàng, là tự diệt nhục nhã, là vào bẫy kẻ thù một cách ngu xuẩn. Trên trận tuyến tư tưởng không có lui. Tư tưởng đã phồng lên là phải tỏa ra, chiếu sáng cùng khắp. Chàng muốn trả lời Lê Đức Thọ:>
Hôm sau, người công an bảo vệ đưa chàng ra gặp lãnh đạo. Lãnh Đạo 7, chàng đặt ngay tên cho ông ta.
- Tôi đến thăm sức khỏe của anh.
- Cám ơn ông. Và mừng anh.
- Thưa ông, mừng một tù nhân đặc biệt là có ý nghĩa gì?
- Ý nghĩa rao một tin mừng.
- Phúc Âm?
- Không, sự khoan hồng của Đảng. Anh sẽ ra thăm quê hương của Tây Sơn, sẽ ra thăm chổ gục ngã của Nhượng Tống. Rồi ở lại hay qua Paris tùy ý anh.
- Tôi hiểu rồi.
- Tốt lắm.
- Anh ở lại quê hương hay anh ra đi?
- Tôi ở lại.
- Anh dứt khoát giã từ phồn hoa, vật chất?
- Vâng, tôi muốn xin được đổ máu tưới luống cây chung với máu và mồ hôi của dân tộc.
- Anh có ý nghĩ lạ.
- Đâu có lạ, thưa ông Lãnh Đạo. Khi đã chấp nhận về là chấp nhận ở lại và đã ở lại là chấp nhận hy sinh, dù bị bắt hay không bị bắt, dù thảnh thơi ngoài đời hay mòn mỏi trong tù. Hạnh phúc của dân tộc, theo tôi, cần phải được tưới bằng những giòng máu tự nguyện của người công chính thì mới thăng hoa, kết trái ngọt.
- Anh vừa mới ý thức được lẽ sống đó.
- Điều này thì ông chủ quan quá đáng và nhận xét sai lầm. Đã không ai giúp tôi ý thức lẽ sống của tôi cả. Mảnh vải bịt mắt tôi, cái còng khoá tay tôi, sợi xích ràng chân tôi, những đêm thao thức trong quan tài xi măng cạnh xô phân tiểu trong bóng tối, trong nỗi cô đơn mênh mông dàn trải dạy tôi đầy đủ ỷ nghĩa của sống và chết.
- Anh đã viết chưa?
- Viết gì?
- Ý nghĩa ấy.
- Một trang giấy sao viết đủ. Cần một pho sách dầy.
- Tôi muốn nói ý nghĩa của sự chọn lựa sống và chết.
- Không cần viết.
- Anh nên viết.
- Tôi nói đã đủ rồi, tôi công khai nói. Như thế, sẽ không ai bảo tôi bị áp lực phải viết, bị đe dọa phải viết.
- Anh nói ở đâu?
- Ông thừa hiểu tôi sẽ nói ở đâu rồi. Tôi nhắc lại lời một người đã dạy tôi: > Tôi không thích chết dại dột.
Chàng đã nói đúng tim gan Lãnh Đạo 7, đã thỏa mãn sự mong muốn của những kẻ bắt chàng. Đừng bao giờ tự ti mặc cảm với lãnh tụ cộng sản, đừng bao giờ phong thánh phong thần cho lãnh tụ cộng sản, đừng bao giờ nghĩ lãnh tụ cộng sản là ưu việt khi chiến đấu chống họ. Cũng đừng bao giờ nghĩ lãnh tụ cộng sản là anh bộ đội nói ngông hay chú công an coi tù. Họ tài ba và thủ đoạn nhưng không phải là vô địch. Không phải là chúng ta không tài ba và thủ đoạn. Muốn chiến đấu để thắng họ, điều tiên quyết là chúng ta phải biết họ và biết cả cái hay lẫn cái dở của họ. Không biết gì về lãnh tụ cộng sản mà cứ chống chế độ cộng sản là đấm đá không khí.
Lãnh Đạo 7 hớn hở:
- Tôi tin người như anh không thích chết dại dột.
Chàng nói:
- Chết dại dột là chết ngu, phải không, thưa ông Lãnh Đạo? Tôi đã suy nghĩ kỷ rồi và tôi chọn lựa cái chết có ý nghĩa. Tội gì tôi phải chết dại dột, chết âm thầm như cây cỏ. Cuộc đời còn bao nhiêu hứa hẹn.
- Đúng thế. Anh chuẩn bị tư tưởng đi.
- Tôi đã chuẩn bị.
- Anh sẽ nói công khai điều gì?
- Những gì các ông muốn. Tôi bầy tỏ lòng thành khẩn của tôi là tôi muốn về đất Tây Sơn.
- Về đất, chàng chơi chữ. Trong bài Tây Tiến của Trần Quang Dũng, để diễn tả cái chết đẹp, cái chết giữa chiến trường của người lính chiến đấu chống thực dân bảo vệ độc lập, có câu > Vậy thì về đất Tây Sơn mà chàng nói có nghĩa là chàng muốn chết khỏi ô danh những người đã, đang và còn chiến đấu chống kẻ thù của dân tộc.
- Anh sẽ ra Toà Án Nhân Dân, ngày gần đây.
- Tôi mong về quê càng sớm càng tốt.
- Anh sẽ về quê thôi, anh hoàn toàn tự do.
- Về quê, chàng lại chơi chữ và Lãnh Đạo 7 không hiểu. Chàng nhớ chứ nghĩa của Phạm Duy diễn tả Phạm Phú Quốc hy sinh trên vùng trời quê hương. >
- Chúng tôi tin anh giữ lời hứa.
- Tôi giữ lời hứa.
- Chúng tôi phấn khởi lắm, anh Bá ạ!
- Tôi cũng phấn khởi lắm, thưa ông Lãnh Đạo.
- Anh cần gì bây giờ?
- Cần gì ạ?
- Cần bất cứ thứ gì, tôi sẽ chỉ thị cho đồng chí bảo vệ thoả mãn yêu cầu của anh.
- Tôi cần một thứ thôi.
- Gì?
- Hỏi ông một câu?
- Anh cứ hỏi.
- Ông nói thật?
- Luôn luôn tôi nói thật.
- Tại sao các ông ưu ái tôi thế?
- Giản dị thôi, vì anh là tên phản động hải ngoại xứng đáng, đầy đủ tư cách.
- Các ông cũng biết sợ người có tư cách?
- Không sợ mà nể. Bởi vì tiếng nói của người tư cách có trọng lượng cả hai mặt: chống đối và đầu hàng.
- Cám ơn ông. Tôi cần nghỉ ngơi.
Lãnh Đạo 7 đích thân đưa chàng về phòng với người công an bảo vệ. Cạm bẫy đã giăng và kẻ giả hình chờ người công chính sa hố thẳm.
-
Chương 14
Vài chi tiết quan trọng
Sau khi thôn tính miền Nam, cộng sản Việt Nam bắt buộc phải chọn lựa một quan thầy: Liên xô hay Trung quốc. Và họ đã chọn quan thầy Liên xô. Ròng rã ngót hai mươi năm phát động chiến tranh xâm lăng miền Nam, Trung quốc đã trang bị võ khí cho Việt cộng từ móng chân lên đến sợi tóc. Bị phản bội. Trung quốc uất ức đòi hết nợ nần viện trợ. Việt cộng bắt dân ăn khoai, ăn sắn trả nợ >. Việt cộng chọn Liên xô vì:
Liên xô ở xa Việt Nam. Nếu nay mai trở mặt tôn xưng Mỹ làm quan thầy, sẽ không bao giờ bị Liên xô can thiệp như Liên xô đã can thiệp ở Ban lan, Hung gia lợi, Tiệp khắc bằng xe tăng. Việt cộng lúc nào cũng thèm làm đầy tớ Mỹ. Để quyền bính được củng cố vững vàng.
Trung quốc ở gần và vốn là kẻ thù truyền kiếp. Trung quốc đã chơi Việt cộng nhiều vố đau điếng. Tình hữu nghị trước đây chỉ thắm thiết trên khẩu hiệu. Trung quốc viện trợ Việt cộng để thủ lợi mọi mặt và để mặc cả với Mỹ.
Giao hảo xong với Trung quốc rồi, lại thấy bọn tướng lãnh Sàigòn thối nát, tham nhũng, Mỹ giao nhiệm vụ phú lít Đông Nam Á cho Việt cộng và thêm nhiệm vụ chặn nút không cho Trung quốc đã thử lửa với Việt cộng và không dám tiến đánh sâu thêm. Mỹ cho rằng Việt cộng thừa khả năng ngăn chận Trung quốc. Cuối năm 1981, Liên xô viện trợ cho Việt cộng hai phi đội Mig 25. Tướng không quân hoàng gia Anh quốc bình luận: > Do đó, Đặng Tiểu Bình chỉ dọa cho sướng miệng. Tuy nhiên, Liên xô vẫn không nắm nổi toàn quyền chi phối Việt cộng. Lý do: Bộ chính trị trung ương Đảng cộng sản Việt Nam chia rẽ nặng nề. Có ba phe nhóm rõ rệt. Phe thân Liên xô và do Liên xô đào tạo. Phe thân Trung quốc và do Trung quốc đào tạo. Phe không do Liên xô hay Trung quốc đào tạo. Phe này gồm các lãnh tụ Hà Nam Ninh như Trường Chinh, Lê Đức Thọ... và phe này mạnh nhất lấn át quyền hành của Lê Duẩn thân Liên xô. Đại hội đảng kỳ 5 hoãn đi hoãn lại vì phe Trường Chinh phá bĩnh. Cuối cùng, phe này nhượng bộ Liên xô để Lê Duẩn ở lại chức Tổng bí thư. Năm 1982, một chiếc phản lực cơ dân dụng của hàng không Aeroflot tự ý bay từ phi trường Tân Sơn Nhất sang Nam Vang, không hỏi ý kiến Việt cộng, bị Việt cộng bắt nằm ỳ ở Nam Vang ba tháng. Liên xô trả đũa không đại tu bổ một số phi cơ chở khách của Việt cộng và cũng cho nằm ụ ở Moscou.
Liên xô muốn tái lập quan hệ ngoại giao với Trung quốc. Điều kiện của Trung quốc trước sau như một là Liên xô phải bỏ rơi Việt cộng, phải bắt Việt cộng rút quân khỏi Cambodge. Liên xô lơ là vì thấy Việt cộng còn được việc. Nhưng thấy Mỹ, Nhật Bản kiếm chác béo bổ ở Trung quốc, Liên xô xích gần Trung quốc hơn. Cuối năm 1984, phó thủ tướng Liên xô sang Trung quốc hội đàm với các nhà lãnh đạo Trung quốc về mối tình xưa nghiã cũ. Đánh hơi được sự bất lợi cho mình, và để chứng tỏ mình không sợ sức ép của Liên xô, không ngán Trung quốc, Việt cộng lập toà án công khai xử những người Việt Nam hải ngoại về nước chiến đấu và kết tội những người này là gián điệp, là tay sai của Trung Quốc. Đồng thời, Việt Cộng hạ lệnh tấn chiếm đồn Ampil là chiến khu kháng chiến vững vàng nhất của người quốc gia Cambodge. Hai vụ xẩy ra cùng một thời điểm và cùng được Bộ chính trị trung ương Đảng nghiên cứu kỹ lưỡng.
Năm 1982, khi đưa Võ Đại Tôn ra trình diện báo chí quốc tế, Việt cộng đã phong tước vị anh hùng cho Võ Đại Tôn, đã gây cảm hứng dạt dào cho những người Việt Nam hải ngoại chống cộng. Với Việt cộng, tất cả những ai chống họ, bằng vũ khí thì họ gọi là phỉ, bằng tư tưởng thì họ gọi là phản động. Họ, bằng mọi giá, mọi thủ thuật, bưng bít dư luận thế giới những phong trào chống đối họ trong nước và đặc biệt, những người ngoài nước về hoạt động thì họ nhốt riêng một chỗ, hoặc thủ tiêu sớm sau khi đã tra tấn khai thác, hoặc để chết dần chết mòn ở nhà tù. Là lái buôn xác chết chuyên nghiệp, khi thấy lãi nhiều lỗ ít, họ lôi tù nhân quan trọng ra, chụp lên đầu tội nhân những tội không phải là tội yêu nước. Võ Đại Tôn được làm ồn ào là vì Nguyễn Cơ Thạch cần có tí > chiếm đóng Cambodge. Trần văn Bá ra Tòa Án Nhân Dân vì Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghiã Việt Nam thách thức Liên xô.
Chàng khước từ viết lời thú tội. Chàng khước từ ghi tiếng nói của mình vào băng nhựa. Chàng đòi hòi được phát biểu công khai trước nhân dân và báo chí quốc tế.
- Anh sẽ phát biểu gì, anh Bá? Lãnh Đạo 8 hỏi.
- Những gì các ông mong muốn. Chàng đáp.
- Chúng tôi đã nghiên cứu tường tận về anh. Và đây là kết luận: Đảng cộng sản Việt Nam quanh vinh và Nhà nưởc cộng hòa xã hội chủ nghiã Việt Nam sẽ chỉ khoan hồng cho anh nếu anh thành khẩn ăn năn sám hối. Sự thành khẩn được đánh giá cao bằng những gì chính anh viết trên giấy trắng mực đen rồi chính anh đọc những gì anh viết để ghi vào băng nhựa. Chúng tôi sẽ cho phát thanh. Và đó là anh phát biểu công khai. Anh nhớ điều này: Người cộng sản khôn hơn anh. Anh đừng hòng qua mặt chúng tôi, đừng hòng chơi chữ, đừng hòng, đừng hòng...
- Thưa ông Lãnh Đạo, các ông đã soi kính hiển vi vào mỗi lời nói của tôi và thấu triệt ý nghĩ của tôi rồi. Tôi không khôn hơn các ông nhưng tôi không ngu. Tôi chẳng có tội gì mà phải ăn năn sám hối. Chỉ có kẻ thù của người Việt Nam mới dám hỗn láo kết tội những người Việt Nam yêu nước là tội lỗi. Tôi trân trọng nhờ ông chuyển lời của tôi tới ngài Lê Đức Thọ. Rằng, thuật tiến, thối chỉ có thể áp dụng trong hai lãnh vực quân sự và chính trị thôi. Trên trận tuyến tư tưởng, người chiến sĩ không biết lùi. Và tư tưởng đối nghịch thẳng thừng với tư tưởng mác xít mà lùi tức là bị nhuộm đỏ, bị băng hoại, tàn tạ. Tôi biết, dẫu tôi có >, các ông vẫn nhốt tôi cho đến khi tôi chết. Và nếu các ông tha tôi thì, ở Việt Nam hay ở Paris tôi sống mà như đã chết nhục. Tôi không thích chết dại dột, ngu xuẩn, vì thế, thưa ông!
Từ Toà Án Nhân Dân, người ta chở chàng về biệt giam khu FG khám Chí Hoà. Chàng lại nằm trong cái quan tài xi măng mỗi ngày sống là một lần chết. Chàng muốn được chết ngay không thèm hưởng lệnh ân xá cuả Chủ tịch Trường Chinh. Lệnh ân xá chỉ là sự giằng co giữa cộng sản và tử thần. Thế giơí mãi mãi bị huyễn hoặc bởi danh từ cộng sản ban cho kẻ dám chống họ và bị kết án tử hình. Người ta không thể sáng mắt nhìn rõ sự vô vọng của những dân tộc bị khống chế bằng quyền lực cộng sản. Người ta càng không thể sáng mắt nhìn rõ nơi chốn dành cho tử tù cộng sản và cung cách hành quyết tử tù. Người cộng sản bần tiện lắm. Thù hận luôn luôn réo sôi trong bộ máy tuần hoàn của họ và họ mất hết cả lòng trắc ẩn dành cho những ai sắp bị đưa ra bãi bắn. Vẫn thế thôi, ngài hai bữa cơm hẩm ăn với canh rau muống già, hai ca nước không dám uống hết phải dành dụm rửa đít sau khi đi ỉa, tuần lễ đổ xô phân tiểu, tắm giặt một lần, đứng thâu đêm với chân mang xích chờ quần áo khô và ngủ trên nền nhớp nhúa bên cạnh xô phân tiểu trong quan tài xi măng. Nếu Chủ tịch Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghiã cộng sản mà ban lệnh ân xá thì có nghiã là tử tù sẽ sống thoi thóp trong quan tài xi măng năm này qua năm khác cho đến khi chết rũ. Và khi ấy, tử thần ngao ngán cộng lần chết của tử tù. Một ngày sống là một lần chết! Hãy nhớ kỹ điều này. Ở chế độ cộng sản, con người ham chết hơn ham sống và tử tù thèm chết sớm hơn thèm đợi lệnh ân xá. Rất đông con người không biết chết là gì bởi họ chưa biết sống ra sao, chưa hề được sống.
Chàng đã chết thêm nhiều lần ở quan tài xi măng khu FG Chí Hoa. Cho đến một đêm, cánh cửa cachot mở, nhiều ngọn đèn pin soi sáng quan tài. Người ta dựng chàng dậy, bắt chàng đứng nghiêm nghe đọc lệnh hành quyết. Rồi người ta bảo chàng há miệng ra, tống trái chanh và nhét đầy miệng chàng. Người ta dán miếng băng keo lớn kín miệng chàng rồi bịt chặt mắt chàng, trói tay chàng lại. Người ta tháo xích chân chàng ra, xách hai bên nách chàng, dẫn chàng bước xuống bốn tầng lầu và dìu chàng đi, đi mãi...Chân chàng dẵm lên đá sỏi, đá răm rồi đạp lên cỏ ngậm sương. Chàng biết mình đã tới bãi hành quyết. Người ta cởi giây trói cổ tay chàng và buộc hai cánh tay chàng vào cái cột. Lưng chàng sát khít cột gỗ. Khi chàng thấy những bước chân của đồ tể bước ra khỏi chỗ mình, chàng dang hai chân ra. Chúa Giê xu bị quân dữ căng tay đóng đinh trên thập giá, hai chân chụm lại, đầu hơi nghiên xuống. Chàng bị cộng sản trói ghì tay, chân dang ra và đầu ngẩng lên. Một thánh nhân vì nhân loại, một chiến sĩ vì dân tộc. Hai hình ảnh cùng tuyệt vời, cùng rực rỡ. Một băng đạn nổ ròn rã trong đêm u tịch của quê hương. Trần văn Bá rũ đầu xuống. Chàng đã thỏa mãn. Máu cuả chàng, máu của người tuổi trẻ, máu của người quốc gia chân chính đã đổ xuống thấm đất quê hương. Hoa hạnh phúc dân tộc sẽ nở từ chỗ đó.
Chương 15
Phục sinh mang một ý nghĩa khôn cùng. Có phải tất cả mọi người trên trái đất chết đi rồi sẽ sống lại không nhỉ? Chẳng phải thế đâu. Nếu thế thì ý nghiã của phục sinh tầm thường quá. Chúa Giê xu phục sinh không bao giờ vì phép tích của Thượng Đế mà vì những gì Ngài đã để lại sau khi chết. Những gì Chúa Giê xu đã để lại là gì? Là những cao cả của đời sống Ngài, là những hy sinh tuyệt diệu của Ngài, là trí tuệ sáng chói của Ngài cống hiến cho nhân loại muôn thuở...Bằng những cái đó, Chúa Giê xu đã phục sinh. Ngài chết để mời gọi nhân loại gần gũi, cảm thông, thương yêu nhau. Ngài chết đã 2.000 năm, nhân loại vẫn đến bên Ngài, vẫn được bình yên tâm hồn, vẫn thấy những bí ẩn linh thiêng của đời sống, vẫn xưng tụng Ngài là Đấng Cứu Thế, vẫn bỏ cái xấu theo cái tốt, vẫn xa cái giả tìm cái chân tức là Ngài vĩnh cửu, Ngài phục sinh. Phật Thích Ca đã phục sinh trong cung cách đó. Cũng vậy, Khổng Tử, Lão Tử, Nguyễn Du, Mozart, Bach, Victor Hugo, Léon Tolstoi, Hemingway vân vân...Chỉ có một Phật Thích Ca, một Chúa Giê xu. Không được phép so sánh bất cứ ai với thánh nhân, vĩ nhân. Nhưng bất cứ ai, hễ để lại cho đời sống kế tiếp một ý nghĩa cao cả vì lẽ sống thì sau khi chết đều được phục sinh và bất tử.
Trần văn Bá đã được phục sinh và bất tử.
Hết