Ngô tỉnh dậy và thấy mình nằm trong một vòm hang hẹp. Dưới lưng anh lá khô được lùa thành một lớp dày như đệm. Bên phải, ngang người anh là bếp lửa đang cháy. Chao ôi, gần mười ngày ở chốn hoang dã nay mới được nhìn thấy bếp lửa.
Cách xa chỗ Ngô nằm một đoạn, một người đàn bà đang ngồi cho con bú. Thoáng nhìn anh cứ tưởng người đàn bà hôm nọ ở đám ma. Nhưng nhìn kỹ thì không phải. Chị này có vẻ trẻ hơn. Ngô khẽ cựa mình muốn co chân ngồi dậy. Nhưng cơn đau đột ngột xói lên làm mặt anh nhăn nhúm lại. Mình làm sao thế này? Ngô khẽ nhấc hai cánh tay rồi áp bàn tay vào người sờ dần từng chỗ. Không...không sao cả. Anh lại định ngồi lên. Cơn đau lại buốt óc. Bình tâm một chút anh khẽ động đậy hai chân. Ôi!..Cái chân trái làm sao thế này? Không còn có cảm giác gì cả. Chỉ thấy đau buốt.
Thấy anh tỉnh, người đàn bà ngước lên hỏi:
- Khi lung áp tả, hi?
Ngô lắc đầu. Anh biết trong tình cảnh này không nói thật thì khốn nạn. Người đàn bà vẫn tròn mắt nhìn anh. Ngô băn khoăn không biết chị ta có biết tiếng xuôi không? Anh nói lưỡng lự:
- Tôi người xuôi...
- Ô, người xuôi.
Chị ta kêu lên vẻ sửng sốt. Một lúc sau lại hỏi:
- Lên đây làm chi?
Ngô buột miệng:
- Tìm trầm.
- Ô, tìm trầm - Chị kêu lên rồi lại bất ngờ toét miệng cười - Vì răng trông thấy lũ ta lại chạy?
Đã lỡ nói dối, Ngô cứ phải theo đà huyên thuyên:
- Tôi sợ
- Ô, sợ lũ ta. Nhưng đi tìm trầm răng lại đi một mình?
- Tôi bị lạc.
- Ô, lạc, trách chi!
Chị lại bế con lên tay, nhấc người lại gần bếp. Một tay đun lửa, một tay ẵm con. Có vẻ chị thích hỏi chuyện.
- ở xuôi có xa đây không?
- Xa lắm.
- Phía nào?
- Phía đông.
- Phía đông là phía nào?
- Phía mặt trời mọc.
- Ô... mặt trời mọc là biển.
Ngô kinh ngạc mở tròn hai mắt. Tại sao chị ta lại biết biển?
- Chị thấy biển rồi à?
- Chưa.
- Răng biết?
- Nghe cha kể.
- Tức là cha chị đã thấy biển?
- ồ, chưa đâu. Nhưng cha nghe ông kể...
Bất giác Ngô thầm nghĩ, hình như người dân ở đây thích kể chuyện, và hình như bất kỳ chuyện gì của tổ tông cũng được truyền kể lại cho đời sau, không bỏ sót chuyện nào!
Thấy người đàn bà vừa hiền hậu lại vừa vui tính, Ngô hỏi thăm dò:
- Ai dạy tiếng xuôi cho chị?
- Cha dạy.
- Rứa các em chị có biết tiếng xuôi không?
- Biết hết chớ. Biết nói là được dạy. Dạy cả tiếng Rạc lẫn tiếng xuôi.
- Vì răng phải dạy tiếng xuôi.
- Không biết. Cha ta bảo là phải dạy cho con. Ta không biết.
Ngần ngại một lúc Ngô lại hỏi:
- Vậy, cha có kể chuyện tượng đồng đen một chân không?
Người đàn bà chợt nhíu lông mày lại nhìn Ngô chằm chằm. Anh hoảng hốt tự trách mình ngu dốt, vạ miệng.
- Có chớ. Đó là thuỷ tổ của bọn ta. Nhưng mi cũng biết à?
- Tôi lên trên này mới nghe kể.
Người đàn bà đẩy thêm mấy que củi nữa vào bếp. Ngọn lửa bốc cao hơn, khói tuôn ra phía cửa hang. Chị nhìn theo làn khói, ánh mắt vẫn trở nên xa xăm.
- Cha ta nói trên đời này, có cái sinh ra để mà ăn, có cái sinh ra để mà thờ. vật ăn mà đem thờ thì không thiêng, vật thờ mà đưa ra ăn thì loạn. Tượng Mẹ Đất là vật thờ tổ, thế mà bọn xấu cứ cố giành nhau để ăn. Thế nên sinh loạn. Người với người mà cứ đâm chém nhau. Khi nào tượng Mẹ Đất được đặt lên để thờ thì người ta mới thương nhau được...
Ngô không hiểu hết những điều người đàn bà vừa nói. Nhưng anh cũng mang máng thấy rằng có lẽ chị nói đúng. Ngày nay người ta tham ăn quá mới sinh ra hư.
- Ồ, ta quên, chồng ta dặn khi mô mi tỉnh thì lấy xôi cho mi ăn. Cứ nhìn cái bụng lép kẹp kia là biết mi đói...
Người đàn bà đặt đứa con đã ngủ lên trên một đống lá khô rồi với tay keó một chiếc nồi đất lại gần. Chị cho tay vào trong nồi vắt xôi đưa cho Ngô. Một lần nữa Ngô định chồm dậy.
- ồ, đừng dậy. Cái chân mi gẵy mất rồi.
Ngô sững người, hốt hoảng hỏi:
- Gãy à? Chết cha tôi rồi...
- Chồng ta dặn phải bắt mi nằm im. Chồng ta đi tìm thầy thuốc.
Ngô hốt hoảng hơn:
- Tìm thầy mo à?
- ừ
- Không.
- ồ, phải chữa. Thầy mo nhiều phép tài lắm. Chữa khỏi liền.
Biết làm thế nào. Giá mình đừng ngất đi thì hay biết bao. Bây giờ cái người chồng tốt bụng ấy đã đi rồi, lát nữa chắc chắn thầy mo sẽ đến. Cứ nhớ lại những khuôn mặt dữ tợn ấy là Ngô cảm thấy lạnh người. Chao, cũng là những người ấy, sao cái nhà chị này lại hiền dịu và tốt bụng đến thế, mà những lão mo thì gớm ghiếc làm vậy?
Vừa lúc ấy có tiếng rầm rì ngoài cửa hang. Ngô đoán chắc là thầy mo đã đến. Người anh hâm hấp như lên cơn sốt. Lạy trời, mong sao cái thằng này đừng hung dữ như những cái thằng mà anh đã gặp.
Một người đàn ông bước vào. Ngô nhìn thấy và đoán ngay là chủ nhà tốt bụng. Vì nét mặt anh coi bộ hiền lắm. Nhìn thấy Ngô tỉnh táo anh toác miệng cười
Một người nữa khom khom bước tới. Hắn ngẩng lên. Ngô bỗng há miệng ra, tắc nghẹn cổ không kêu thành tiếng được: Thằng Phu Sẩu!
Phu Sẩu bước thẳng tới đứng sát vào mặt Ngô. Hắn có vẻ không lấy chi làm ngạc nhiên cho lắm. Phu Sẩu cúi xuống, giọng khàn khàn.
- Nghe Cà Tiềng kể, tau đoán ra là Tệ Ngô. Vì răng mà mi lạc về đây?
Không còn cách nào khác, Ngô phải trổ tài nói dối.
- Tôi tưởng Phu Sẩu đã chết, sợ quá bỏ chạy.
Phu Sẩu đột ngột phá lên cười.
- Định phản phải không?
- Không không! Ngô hoảng hốt kêu lên - Nếu phản răng tôi lại tìm vô bản?
- Hừ, chết được ta khó lắm. Ta bị độc của hắn, nhưng đã có thuốc kháng trong người. Chỉ cần ta luyện độ năm ngày nữa là thoát hết.
Nghe hai người nói chuyện với nhau, cặp vợ chồng người chủ nhà cứ tròn mắt mà nhìn. Một lúc Phu Sẩu quay lại phía họ nói một tràng dài bằng thứ tiếng riêng. Thế là đột ngột, ánh mắt người đàn bà bỗng trở lên lạ lẫm, còn người chồng thì quay ra ngoài hang. Từ đó đến tối không thấy anh ta về nữa.
Phu Sẩu thụt lùi lại một bước và ngồi xuống bên chiếc chân gãy của Ngô. Hắn đưa tay nắn nắn. Cơn đau nhói lên nhưng Ngô cắn răng lại không dám kêu. Phu Sẩu lôi từ trong lưng quần ra một tý vỏ cây bỏ vào mồm nhai, rồi hắn rút trong túi áo ra một be rượu nhỏ. Hắn tợp một ngụm rượu sau đó cúi mặt xuống chân gãy của Ngô và bắt đầu thổi phù phù.
Ngô sởn cả gai ốc. Trong phút chốc anh nhớ lại cái cây bị héo chết bên bờ suối, nhớ lại toàn cảnh sát phạt nhau ở đám ma. Những tiếng phù phù chết người kia như bóng tử thần lởn vởn quanh anh.
Nhưng cả cơ thể anh bắt đầu biến chuyển. Trước hết là một cảm giác mát lạnh. Sự mát lạnh cứ râm ran chuyển động từ cẳng chân truyền lên da bụng truyền lên ngực, lên cổ, rồi lên mặt, ra tận từng chân tóc. Dẫu sao cũng thấy dễ chịu. Nhưng chỉ được một lúc, thay cho sự mát lạnh là một cơn nóng hâm hấp, cũng từ cẳng chân truyền đi. Cả cơ thể anh phút chốc nóng bừng lên như một cục than hồng. Thế rồi bắt đầu đau. Đau buốt, đau nhức nhối, đau như có ai cầm lấy cái chân mà vặn. Không thể chịu đựng được nữa, Ngô kêu lên. Thoạt đầu là tiếng kêu khe khẽ, sau đó là kêu to, la oai oái, kêu như bị cắt cổ.
Phu Sẩu đã ngừng thổi nhưng cơn đau vẫn chưa ngừng. Mồ hôi vã ra đầy trán Ngô. Phu Sẩu uống nốt chỗ rượu còn lại, nói với người đàn bà một câu gì đó bằng tiếng riêng rồi hắn bước ra. Ngô vẵn nửa tỉnh, nửa mê trong cơn đau như muốn đứt ruột.
Đến quá trưa thì cơn đau đã dịu lại. Da thịt anh mát dần. Anh cố với bàn tay xuống dưới sờ vào bắp đùi. Vẫn sưng to, nhưng cảm giác có vẻ nhẹ nhõm hơn.
Nhưng lại có một sự nặng nề phía khác. Đấy là đôi mắt bỗng trở nên xa lạ và sẩm tối của chủ nhà. Ngô đã hiểu ra nguyên nhân. Anh suy từ những câu nói của người đàn bà ở chỗ đám ma để hiểu. Tất cả những người dân lương thiện đều không có thiện cảm với bọn thầy mo. Chắc thằng Phu Sẩu ấy đã giới thiệu mình là anh em.
Có nên nói thật ra không? Nhưng cái chân gãy còn cần đến hắn. Dù sao cũng phải lành chân đã. Còn nằm dài ở đây thì mạng sống vẫn còn trong tay hắn. Suy đi tính lại, Ngô dành thở dài nằm im.
Phu Sẩu lui tới năm lần. Cái chân của Ngô đã không còn sưng nữa. Rồi cái đau cũng hết. Anh có thể ngồi dậy sau lần thổi thứ năm, Phu Sẩu dặn.
- Từ mai ta không làm thuốc nữa. Nhưng mi phải tập đứng dậy, tập đi. Nhớ đừng để ngã lại. Khi nào khỏi hẳn ta sẽ đón về.
Hắn đi ra được vài bước thì chợt dừng lại, quay lui nới:
- Đừng có phản ta. Dù mi có về đến tận nhà mi ta chỉ cần cắm một nhành cây xuống dấu chân mi thì mi lăn đùng ra chết liền, nhớ nghe!
Một viễn cảnh u tối bao trùm lấy trí não Ngô. Nếu quả thật hắn có phép thư ấy thì coi như cuộc đời từ nay hoàn toàn nằm trong tay hắn rồi!
Sự tuyệt vọng đè bẹp Ngô nằm dài trên đống lá. Đã qua thêm một ngày nữa mà anh không hề trở mình, không hề đứng dậy. Suốt cả thời gian đó, vợ chồng chủ nhà cũng không hề nói với anh một câu. Đến bữa ăn, có vẻ như bắt buộc, họ kéo nồi xôi sát lại mặt anh để anh tự bốc lấy. Ngô chán nản không muốn động tay. Thêm một ngày nữa, Ngô vẫn năm im. Có lẽ quá sốt ruột người chồng buộc miệng hỏi:
- Mi không tập đi à?
- Không.
- Thì mi sẽ không khi nào đi được nữa.
Ngô thở dài:
- Đi được mà làm chi!
- ồ... Hoá ra mi không ưng đi à? Mi cứ ưng nằm vậy à?
Nước mắt Ngô bất ngờ ùa ra.
- Tao muốn đi, muốn chạy trốn khỏi tay hắn. Nhưng chừ tau chịu rồi. Hắn bảo, dù tao có về đến nhà hắn thư vẫn chết.
Người chồng nhíu mày lại;
- Nhà mi ở đâu?
- Xa lắm.
- Vì răng mi lại lên đây? Vì răng lại Phu Tệ với mo Sẩu?
Ngô lật hẳn người lại, nhìn người đàn ông chủ nhà đầy căm tức:
- Tao mà anh em với cái thứ phù thuỷ ấy à? Tao đang ở nhà với vợ con tao. Tao cũng có vợ, có con trai, còn lớn hơn cả con đầu của mày đó! Tao nào có quen biết chi hắn, nào có thù oán chi hắn. Rứa mà bỗng dưng hắn tới giở phép ra bắt tao theo, giam tao gần nửa tháng rồi. Cái lũ người rừng chúng bay sao lại ác thế. Tao căm thù chúng bay!
Cả hai vợ chồng người chủ nhà quay lại nhìn nhau. Rồi bất ngờ người vợ thở dài, chị ngước nhìn Ngô đầy vẻ thương cảm:
- Bọn ta không biết ác đâu. Bọn ta cũng không ưa loại người như Phu Sẩu!
Người chồng ngồi sát lại bên Ngô, cầm tay anh lắc lắc:
- Nếu đúng như vậy thì ta giúp mi tập đi. Cứ tập đi đã. Khi nào đi vững, chạy mau, ta sẽ tính cách.
- Cách chi? Có chạy về được cũng chết mà!
Người chồng đột ngột đứng lên:
- Không, nếu có được thuốc kháng độc thì không chết.
- Nhưng mi có thuốc ấy không?
- Ta không có, nhưng ta sẽ nghĩ cách kiếm cho mi.
Chưa dám tin hẳn vào điều hứa hẹn ấy, nhưng dù sao Ngô cũng thấy chan chứa hy vọng, Và bỗng dưng anh ứa nước mắt. Run rủỉ làm sao trời lại cho anh gặp được cặp vợ chồng tốt bụng đến mức này!
°
°
Ngô ở lại nhà vợ chồng Cà Tiềng thêm nửa tháng nữa. Cà Tiềng đã giúp anh đứng lên và tập đi. Trong thời gian ấy Phu Sẩu không hề đến.
Cho đến một đêm Cà Tiềng bàn với Ngô cách trốn . Sau đó Cà Tiềng tìm lên già bản Linh Linh xin thuốc. Cà Tiềng dẫn Ngô tranh thủ ngủ một giấc cho thật no để lấy sức mai đi xa. Cà Tiềng vừa ra khỏi nhà một lúc thì bất ngờ Phu Sẩu đến.
- Mi phải theo ta về chừ.
Ngô sợ hãi kêu lên:
- Chân tôi đi chưa mạnh. Mà đi ban đêm thì sợ lắm...
Phu Sẩu cười
- Chân chưa mạnh thì ta cõng. Còn đi ban đêm là để cho mi không nhớ được đường. Nào, đứng lên! Đừng có dại mà cãi ta.
Ngô ngước mắt nhìn vợ Cà Tiềng. Người đàn bà cũng nhìn anh thương cảm. Họ đều là những kẻ bất lực trước thầy mo.
Ngô chậm rãi bước ra khỏi hang. Trăng lờ mờ sáng. Rừng dày sương và lạnh buốt. Bất giác Ngô rùng mình. Anh có cảm giác mình đang đi vào cõi chết.
Họ đi chậm. Ngô lấy cớ chân còn đau, anh đi thất thểu từng bước. Phu Sẩu kiên nhẫn chờ đợi. Hắn cố tình ba hoa cho Ngô khuây khoả nỗi buồn.
- Mi thấy thuốc ta có tài không?
- Tài.
- Cả một cái chân gãy như rứa mà ta chỉ thổi có năm lần. Nếu mi không phải là Phu Tệ với ta thì phải cúng đó. Mỗi lần ta chữa thuốc xong, người được chữa phải cúng gà một con, rượu một chai, xôi một chõ. Nếu không cúng ta làm cho đau lại.
Ngô sởn tóc gáy. Anh rủa thầm sao hôm nọ hắn không trúng độc thằng Mu Thoòng mà chết rấp đi luôn. Bất giác anh gợi chuyện:
- Phu Sẩu đã giải hết độc Mu Thoòng chưa?
- Rồi, vì phải đi chữa cho mi nên ta phải luyện tới bảy ngày.
- Thế còn... những mo khác? Họ có chết không?
- Thằng Kình chết. Cái thằng có lông mày rất rậm ấy. Nó là đứa cao phép hơn bọn kia nhưng không có thuốc kháng được độc Mu Thoòng. Còn bọn mo bị độc của ta với của thằng Kình thì đều được già Linh Linh giải cho hết.
Ngô dừng hẳn lại, hỏi:
- Thầy Linh Linh có phải ông già ngồi trên đá sát chỗ các thầy mo ngồi không?
- Phải!
- Vì răng khi đó ông già lại lắc lắc cái lục lạc và dân bản bỏ chạy?
- à, đó là hiệu lệnh để cho dân bản chạy đi để già làng làm phép giải độc. Thuốc độc của thầy Linh Linh là một thứ bột rất mịn bay được trong gió. Người đang bị độc của ta ngửi vào thì giải độc, nhưng kẻ đang bình thường ngửi vào thì rụng hết tóc; sau đó phát điên. Gia Linh Linh luyện phép đó nên già cũng rụng hết tóc. Già không dạy cho ta, cũng không dạy cho ai thuốc đó cả.
Những câu chuyện lạ lùng của Phu Sẩu quả thật đã làm cho Ngô quên mất tình cảnh bi đát của mình. Họ vượt qua hai vùng rẫy, lội một con suối. Sau đó đi ngược dốc một đoạn dài. Ngô mệt quá, thở hổn hển. Cuối cùng hai người cùng bước xuống một khe sâu dày đặc đá. Họ lội ngược chiều nước chảy. Đi thêm một đoạn dài nữa thì Ngô đã nhìn thấy lèn đá! Trăng và sương đang nhuộm lên đỉnh lèn một màu sáng quái dị. Phu Sẩu dắt tay Ngô leo lên mấy bậc đá cao. Chừ thì Ngô đã có thể nhận ra chỗ cũ, chỗ luyện phép của Phu Sẩu và cũng là nơi đã giam hãm anh gần mười ngày.
Khác với lần trước, lần này Phu Sẩu tự nhóm lửa. Những gốc củi to và khô được đưa vào lèn từ lúc nào. Bếp lửa cháy rần rật hắt sáng lên hai vách núi đá. Hơi ấm phả ra. Ngô cảm thấy bình tĩnh trở lại. Hai người ngồi xa nhau và cũng xa bếp lửa.
Sau một hồi im lặng khá lâu, Phu Sẩu bắt đầu nói:
- Chừ thì mi phải nói thiệt Tệ Ngô ạ. Mi phải nói cho ta về pho tượng Mẹ Đất. Hiện tại mi cất giữ nó ở đâu? Còn nguyên vẹn không? Mi nói thật thì mi được sống. Còn không thì chẳng bao giờ mi nhìn thấy lại được mặt vợ con mi cả.
- Nếu mi chết thì pho tượng ấy có ích chi cho mi nữa? Một pho tượng dù là đồng đen hay vàng mười thì nó cũng chỉ có ích cho người sống thôi, còn khi mi đã thành ma thì dù có đến mười pho cũng chẳng để làm chi. Nếu ta là mi, ta chẳng dại chi đem mạng sống của mình để đổi cái cục đồng đen ấy cả. Nó có thiêng đến mấy cũng không thiêng bằng cái sống của mình... Đó, ta nói hết bụng rồi, mi cứ nghĩ đi. Dù sao ta với mi cũng đã thề độc nhau. Ta không muốn hại đến người anh em mình, Tệ Ngô ạ!
Ngô vẫn ngồi im, nhưng thực ra trong lòng đã lay chuyển. Mà quả thật, pho tượng ấy với anh chỉ là một huyền thoại, nào đã được nhìn thấy tận mắt đâu. Mà cho dù nó có thật thì anh cũng chẳng được chấm mút tí gì. Anh bây giờ đã trở thành kẻ tha phương. Toàn bộ cuộc sống của anh, cơ nghiệp của con cái anh chỉ cậy nhờ vào những con rối. Đã vậy thì việc gì phải dấu, việc gì phải lấy mạng sống của mình để đánh đổi! Tình thế này xem ra không còn hy vọng bỏ trốn được nữa. Thôi thì hãy kể đi, biết sao kể vậy, may ra có thể thoát khỏi chỗ này!
Thế là Ngô kể. Anh kể tất cả những gì mà anh được nghe qua lời kể của mẹ La thủa còn bé. Rồi anh kể về cái gia đình đặc biệt của anh. Cái gia đình mà cũng vì pho tượng đồng đen kia nên bảy chị em phải lấy chung một chồng. Câu chuyện mang lại cho anh một nỗi buồn da diết.
Nhưng Phu Sẩu đã không để cho anh kịp ngấm nỗi buồn, hắn hỏi trong hơi thở gấp gáp:
- Từ đó đến ni mi không về lại nhà?
- Không.
- Mi có dám chắc rằng pho tượng vẫn còn chôn không?
- Chắc.
- Lỡ bố mi đã bán?
- Không thể bán được. Thời trước nếu đem ra thì sẽ bị cướp giật ngay. Còn thời này, chắc Nhà nước sẽ trưng mua chứ chẳng ai để cho mình tự do buôn bán thứ ấy. Vì rứa, ta tin bố ta sẽ không dám đưa ra.
Phu Sẩu lặng im, gật gật đầu. Rồi bất ngờ hắn phá lên cười, tiếng cười đột ngột trong đêm khiến những con chim đang ngủ trong lá hoảng hốt bay loạn lên. Ngô ngơ ngác và sợ hãi nhìn Phu Sẩu. Hắn cười chán chê rồi đột ngột bá lấy cổ Ngô, lắc lắc:
- Ta với mi sắp giàu to rồi. Ta là anh sẽ lấy từ háng Đất Mẹ trở lên. Mi là em, ta cho nốt cái chân còn lại của Mẹ. Được không?
Ngô nhăn mặt:
- Nhưng làm răng lấy được?
- Với ta không khó. Nhưng ta không về dưới ấy được. Ta là người Rạc, về đó họ nghi liền. Hơn nữa, ta không biết mặt bố mi. Nếu bố mi chết rồi, thì chắc chắn sẽ có một đứa vợ hay đứa con nào đó cất giữ. Muốn biết đứa nào giữ thì phải ở lâu, hỏi dò đã mới biết. Mà ta không ở lâu nơi đó được. Vì rứa mà ta sẽ cho mi về. Chỉ có mi mới làm được việc đó.
- Nhưng lỡ bố không nói?
- Phải bắt nó nói. Ta sẽ dạy cho mi một phép thư bắt người tỉnh phải nói mê. Phép này chỉ cần học một tuần là được. Ngày mai ta bắt đầu dạy. Bảy ngaỳ nữa là mi được về nhà, ưng không?
°
°
Hai người cùng ngồi chung trên một phiến đá, chân xếp bằng, tay đặt lên đầu gối, mắt nhìn thẳng về phía trước cửa lèn. Ngô thì hồi hộp, còn Phu Sẩu lại vẻ như đang mơ màng. Hắn bắt đầu nói, giọng lầm rầm như dân đạo cầu kinh, Ngô cứ lắng tai nghe. Đây là bài học vỡ lòng đầu tiên của nghề thầy mo.
- Tệ Ngô hãy nhớ, phép thư của ta hay của bất cứ thầy mo nào là phép đánh người bằng thuốc độc. Thuốc độc thì có nhiều loại. Nhưng không phải hễ ai có thuốc là dùng được. Muốn sử dụng được loại thuốc độc nào, trước hết tự mình phải kháng được chất độc đó. Phải cho chất độc nhiễm vào xác thịt mình rồi sau đó mình sẽ phun cái độc đó ra để hại kẻ khác! Như vậy, phép thư là phép biến chính mình thành một thứ thuốc độc!
- Tệ Ngô hãy nhớ, trong xác thịt mình cái có lợi nhất để cho mình giàu có và đồng loại đến được với mình, gần gũi với mình chính là hai bàn tay và lỗ miệng. Nhưng cũng chính hai thứ đó, bàn tay với lỗ miệng cũng chính là nơi phát độc mạnh nhất, là thứ giết đồng loại mình dễ nhất. Cho nên phép thư của ta chủ yếu là phép luyện độc ở hai bàn tay và thổi hơi từ trong miệng. Ta chữa bệnh cũng bằng phép ấy. Lỗ miệng với bàn tay là phương tiện sống của thầy mo, là vũ khí của thầy mo, là thiện ác của một con người.
Tệ Ngô hãy nhớ, thuỷ tổ mình sinh ra từ trong bọt nước và cây cỏ, đó là những thứ đẻ ra đất trời và con người. Người ta sống không ai không nhờ đến nước và cây. Nhưng cái thứ nuôi sống được người thì lúc nào cũng có đủ sức mạnh giết chết con người. Vì vậy, thuốc độc mạnh nhất cũng là thuốc độc lấy từ trong nước và cây cỏ mà ra. Từ nay về sau, khi đã có phép thư trong người, dù đi đâu, ở đâu Tệ Ngô cũng phải nhìn cây cỏ, sông nước bằng hai con mắt. Một con thấy đó là thức ăn , một con thấy đó là thuốc độc. Có vậy mới đủ sức làm cho mình có ăn và kẻ khác thì không có ăn.
Tệ Ngô hãy nhớ, con người ta có cái đầu và cái bụng thường hay nghĩ ngợi lung tung lắm thứ. Nghĩ ác, nghĩ thiện, nghĩ lành, nghĩ dữ, nghĩ mình và nghĩ tới người khác. Cái sự nghĩ ngợi lung tung ấy làm cho con người vừa khôn ngoan lên vừa ngu dốt đi, vừa dũng cảm lên lại vừa hèn nhát , đôi khi vừa muốn đứng lên lại vừa muốn cúi xuống, vừa đi tới lại vừa thụt lùi. Vì thế phép luyện thư của ta trước hết phải ngồi im, tập trung, nghĩ về một điểm. Chỉ được nghĩ một điểm mà thôi. Phải gạt hết trong đầu, trong bụng những sự nghĩ lui nghĩ tới, phải tâm tâm niệm niệm rằng tất cả là mịt mù, tối đen bịt kín chỉ có một điểm trước mắt, chỉ có một mục đích phải tới. Ví dụ khi luyện, Tệ Ngô có thể nghĩ tới pho tượng Đất Mẹ. Chỉ chằm hăm vào cái tượng ấy thôi, trên trời dưới đất không còn thứ chi khác, trên tất thảy cuộc đời này không có thứ chi nữa hết, chỉ có pho tượng cụt chân ấy, không có nó là trái đất này tan biến thành cát bụi. Phải nghĩ như vậy mới đủ sinh khí để phát độc ra.
Những lý lẽ ghê gớm ấy được phun ra từ miệng Phu Sẩu cũng có tác dụng gần như phun thuốc độc khiến Ngô cảm thấy choáng váng. Phu Sẩu ngừng lại uống liền hai hớp rượu. Còn Ngô thì cố định thần để nhẩm lại những điều cao cả vừa được nghe.
Sau đó, Phu Sẩu rút trong lưng quần ra một đoạn rễ cây. Hắn cấu một tý bằng mẩu tăm bảo Ngô cho vào miệng nhai, còn lại nhét vào cạp quần Ngô. Hắn dặn:
- Mỗi ngày, sau khi ngồi yên, tập trung nghĩ về một điểm thì nhai một tý rễ. Nhớ không được nhai nhiều mà độc. Còn lại phải luôn nhớ nhét ở thắt lưng trong cạp quần. Sau năm ngày, chất độc ngấm được vào da thịt, ta sẽ dạy cho cách phun ra mồm.
Ngô vẫn còn hoang mạng lo sợ, anh nhìn Phu Sẩu dè dặt hỏi:
- Nhưng mà... liệu xác thịt ta có chịu được thuốc độc này không? Lỡ ra...
Phu Sẩu phá lên cười
- Đừng lo. Trong hang có hàng trăm thứ thuốc độc của ta, đây là loại nhẹ nhất . Cứ làm đúng lời ta dặn thì không việc chi đáng sợ cả.
Ngô bắt buộc phải bỏ mẩu rễ cây vào mồm. Có vị đắng làm anh lợm cổ. Ngô định nhổ ra nhưng vì Phu Sẩu vẫn ngồi sát bên cạnh nên anh không dám. Chợt nhớ đến lời dạy cao siêu của Phu Sẩu, Ngô quyết định tập trung nghĩ về pho tượng đồng đen một chân, may ra có thể làm cho vị đắng trong cổ không còn gây nên sự buồn nôn nữa.
"Nào, pho tượng đồng đen một chân! Pho tượng đồng đen một chân! Mi là cái chi? Mi ở đâu? Mi to hay nhỏ? Mi hãy hiện ra, hiện ra trước mặt ta để ta tập trung nhìn vào mi ..
Nào pho tượng cụt chân kia, mi là cái thứ để ăn hay thứ để thờ mà người ta lại khao khát mi đến vậy. Cả đời tao khao khát, đời bố tao khao khát. Cả đời mẹ tao, cả các dì tao, cả ông bà tao nữa tất cả đều bu vào mày. Rồi thằng Phu Sẩu, thằng Mu Thoòng, với hết thảy đám người rừng ở đây ai cũng hau háu chực ôm lấy mi. Mi là nguồn hy vọng không tắt của sự sống, mi cũng là vực sâu của hận thù và tội lỗi. Mi là thức ăn mà cũng là chất độc. Tội của mi to lắm. Nếu lôi cổ được mi ra thì tao không chỉ chặt nốt cái chân mi ra thôi đâu, mà tao sẽ vặn cổ mi. Tội mi đáng vặn cổ. Bố tao nếu còn sống sẽ xẻo tai mi. Các em tao chắc chắn sẽ bẻ quặp tay mi. Rồi cái lũ người rừng sẽ băm xác mi ra. Phải trừng trị mi như thế mới hả dạ. Nhưng tất nhiên sau khi đã tùng xẻo mi ra từng mảnh rồi thì lũ người ấy, kể cả tao nữa, không ai dại gì mà chôn những mẩu ấy xuống đất. Chúng tao sẽ dành nhau từng cái đốt ngón tay, từng vùng tai, lỗ mũi của mi. Ô hô, lúc ấy chắc sẽ vui lắm. Lũ người tha hồ thả cửa chửi mắng nhau, xô ập vào nhau mà cắn xé, sẽ phun thuốc độc vào nhau, vác cuốc xẻng mà phang lên đầu nhau. Thế là sau khi băm được xác mi ra, lũ tao sẽ băm vằm nhau cũng tả tơi không kém gì xác mi, nhưng sau đó nữa thì có ai giành nhau để nhặt xác chúng tao không? Có thể có lũ chó, lũ quạ!... Và có thể cái lũ súc sinh ấy cũng sẵn sàng xé xác nhau ra...".
°