Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Ái tình và hạnh phúc là hình với bóng, nếu biết bảo vệ thì hạnh phúc sẽ thành sự thật, ngườc lại nếu không biết bảo vệ thì hạnh phúc chỉ là một hình ảnh ảo tưởng không bao giờ có.
Pascal
Trang 2 / 8 ĐầuĐầu 1234 ... Cuối Cuối
Results 11 to 20 of 73

Chủ Đề: Chân Dung hay "Chân Tướng" Nhà Văn ?

  1. #1
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết

    Chân Dung hay "Chân Tướng" Nhà Văn ?

    .

    Chân Dung hay "Chân Tướng" Nhà Văn ?
    Nhật Tuấn
    Kỳ 1





    Năm 1992 một sự kiện ầm ĩ nổ ra trong giới xuất bản. Chuyện bắt đầu từ tập thơ “Lên chùa” của nhà thơ Xuân Sách vốn được sáng tác lai rai từ 30 năm trước. Vào một dịp thăm Xuân Sách ở Vũng Tàu, tướng Trần Độ ghi âm Xuân Sách đọc gần 100 bài thơ này. Cuối năm 1992, nhà văn Hoàng Lại Giang lúc đó là Trưởng Chi nhánh NXB Văn Học tại TPHCM được nghe cuốn băng này và đề nghị Xuân Sách cho xuất bản với tên “ CHÂN DUNG NHÀ VĂN”.

    Mặc dầu NXB Văn học đã phải rào trước đón sau trong lời nói đầu :

    Chúng tôi chỉ coi đây là những nét tự trào của giới cầm bút Việt Nam. Cười đấy nhưng cũng tự nhận ra những xót xa, hạn hẹp của chính mình, những gì chưa vượt qua được trên chặng đường quanh co của lịch sử và thời đại. Tự soi mình hoặc hiểu mình thêm qua cái nhìn của người cùng hội, cùng thuyền lắm khi cũng hữu ích. Cái cười trong truyền thống dân gian vốn là vũ khí. Ngày nay còn có thể là sức mạnh thúc đẩy đi tới phía trước.Với ý nghĩ ấy, chúng tôi mong bạn đọc và các nhà văn thông cảm cho những gì bất cập hoặc chưa lột tả được thần thái của từng chân dung.Dù sao đây cũng là 100 bức tranh nhỏ về những người có công trong văn học, những người nổi tiếng trong làng văn, trong bạn đọc, bằng chính những tác phẩm có giá trị của mình. Bạn đọc và thời gian đã là người đánh giá chính thức và công bằng nhất đối với họ. Rất mong độc giả và các nhà văn nhận ra mối chân tình trong cuộc vui của làng văn, và lượng thứ cho những khiếm khuyết. “

    Nhưng khi sách in xong, chưa kịp phát hành, nhà văn Hoàng Lại Giang cho biết :

    ” Phản ứng của nhà văn rất lớn, và đấy là điều tôi không ngờ đến.Những nhà văn lớn có bản lĩnh, họ chịu đựng nổi, im lặng. Nhưng những nhà văn tầm tầm, lồng lộn, rất gay gắt yêu cầu Bộ Văn hóa kiểm điểm và thu hồi.”

    Một cuộc họp của Bộ Văn hóa diễn ra, với năm đại diện: Ba thứ trưởng (Phan Hiền, Huy Cận, và Nông Quốc Chấn), đại diện Hội Nhà văn Vũ Tú Nam, cùng Giám đốc NXB Văn học Lữ Huy Nguyên quyết định không thu hồi nhưng niêm phong số bản in 3000 cuốn. 20 năm sau, cho tới tận bây giờ, số sách này vẫn bị chôn dưới hầm cầu thang chi nhánh NXB Văn Học tại 290/20 Nam kỳ Khới nghĩa Q3 TP HCM, chắc đã làm mồi cho mối.

    Trước hết, hãy nghe nhà thơ Xuân Sách tâm sự về cái “cảm hứng chủ đạo” khi viết tập thơ “Lên chùa” sau đổi thành “Chân dung nhà văn “ :

    “Trước đây khi còn là lính ở địa phương, cái xã hội nhà văn đối với tôi đầy thiêng liêng bí ẩn. Đây là những con người dị biệt rất đáng ngưỡng mộ, rất đáng yêu mến, dường như họ là một siêu tầng lớp trong xã hội. Mỗi cử chỉ, mỗi hành động, lời nói của họ có thể trở thành giai thoại, và cả tật xấu nữa dường như cũng đứng ngoài vòng nhận xét thông thường... Tóm lại đó là thế gìới đầy sức hấp dẫn đối với người say mê văn học và tấp tểnh nuôi mộng viết văn như tôi. “
    Nhưng rồi khi tiếp cận với họ, ông cảm thấy “vỡ mộng “:

    Khi tôi được về Hà Nội vào cơ quan văn nghệ dù là ở quân đội (hoàn cảnh nước ta quân đội có vị trí đặc biệt trong xã hội kể cả lĩnh vực văn chương), tôi bắt đầu đi vào cái thế giới mà trước kia tôi mơ ước.

    Điều tôi nhận ra là, ngoài cái phần tôi hiểu trước đây, thì thế giới nhà văn còn có những chuyện khác. Đó là cái mặt đời thường, cái mặt rất chúng sinh, và chúng cũng góp phần quan trọng làm nên các tác phẩm và tính cách nhà văn…Khi tôi đã tìm hiểu được những ứng xử, những tính cách của những nhà văn, ngoài những tác phẩm mà tôi thường ngưỡng mộ, tôi cứ băn khoăn tự hỏi: ''Sao thế nhỉ, với bề dầy tác phẩm như thế, với vị trí trong xã hội như thế, trong lòng người đọc như thế, sao họ còn ham muốn những thứ phù phiếm đến thế... Một chức vụ, một quyền lực, một chuyến đi nước ngoài... Mà đã ham muốn thì phải mưu mẹo, phải dối trá và nhất là phải sợ hãi'' . Vì vậy chân dung của họ không thể bỏ qua. Hơn nữa, nếu ''Vẽ'' được chính xác những chân dung đó, thì bộ mặt xã hôi thời đại mà họ đang sống cũng qua đó mà hiện lên.”

    Và thế là Xuân Sách đặt bút viết tập thơ “Lên chùa” hàm ý gặp 100 pho tượng tức 100 chân dung ở đó. Nhà thơ Xuân Sách kể lại :

    Hồi đó Hồ Phương đã là tác giả in nhiều tác phẩm đã được giải thưởng các cuộc thi sáng tác văn học. Tôi dùng tên các tập truyện ngắn của anh ''Trên biển lớn''; ''Xóm mới''; ''Cỏ non'' và tên cái truyện đầu tay được nhắc đến: ''Thư Nhà''. Tôi viết bài thơ ra mẩu giấy :

    Trên Biển lớn lênh đênh sóng vỗ
    Ngó trông về xóm mới khuất xa
    Cỏ non nay chắc đã già
    Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem.

    Tôi đưa bài thơ cho Nguyễn Khải. Anh đọc xong trên mặt có thoáng chút ngạc nhiên và nghiêm nghị chứ không cười như tôi chờ đợi. Anh bỏ bài thơ vào túi chứ không chuyển cho người khác. Đến giờ giải lao chúng tôi ra ngồi cạnh gốc cây sấu già, Nguyễn Khải mới đưa bài thơ cho Hồ Phương. Mặt Hồ Phương hơi tái và cặp môi mỏng của anh hơi run, Nguyễn Khải nói như cách sỗ sàng của anh :

    - Thằng này (chỉ tôi) ghê quá, không phải trò đùa nữa rồi !

    Tôi hơi hoảng, nghĩ rằng đó chỉ là trò chơi chữ thông thường. Sau rồi tôi hiểu ngoài cái nghĩa thông thường, bài thơ còn chạm vào tích cách và đánh giá nhà văn. Mà đánh giá nhà văn có gì quan trọng hơn tính cách, và tác phẩm. Bài thơ ngụ ý, Hồ Phương có viết nhiều chăng nữa cũng không vượt được tác phẩm đầu tay và vẫn cứ ''Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem''!

    Bài thơ về Hồ Phương đã trở thành bài đầu tiên mở đường cho vệt thơ “Lên Chùa” trong suốt 30 năm của Xuân Sách.
    Mùa xuân năm Nhâm Thân (1992) ,vào dịp lần đầu tiên xuất bản tập thơ ông phát biểu :

    “ Nói về đồng nghiệp cũng là nói về mình. Cái hay cái dở của một người cũng là của một thời. Câu thơ “Từ thủa tóc xanh đi vỡ đất. Đến bạc đầu sỏi đá chưa thành cơm” đâu chỉ là số phận của một nhà thơ. Hơn ai hết, tôi nghĩ, nhà văn là đại diện của một thời, là lương tri của thời đại. Đã đành là khó ai vượt được thời đại mình đang sống, không dễ nói hết, nói công khai những điều suy nghĩ. Nhưng cũng thật đau lòng và xấu hổ khi những nhà văn bán rẻ lương tâm, còng lưng quỳ gối trước quyền uy, mê muội vì danh lợi. Có lẽ đó là động cơ thúc đẩy tôi viết, nếu có nói quá cũng dễ hiểu. Cái con quỷ ám nếu có thì cũng là ảnh hưởng những cảm xúc ấy, nỗi đau chung ấy. Nhiều nghịch lý vốn tồn tại trong cuộc đời cũng như nghệ thuật. Tiếng cười nhiều khi xuất phát từ nỗi đau ! Những bài thơ chân dung đã có cuộc sống riêng của nó. Không phải kỳ lạ nhưng cũng độc đáo. Nó được lan truyền đến nay đã 30 năm. Đã có nhiều bài ''khảo dị'', nhiều bài ‘’ngoài luồng’’ cũng được gán cho tác giả, bây giờ in ra cũng coi như một sự đính chính. Nó cũng là ''một cái gì đó'', như có người đã nói nên mới tồn tại được, nếu có ích thì tác giả lấy làm mãn nguyện.”

    Và chính với “cảm hứng chủ đạo” có phần thất vọng về phẩm chất nhà văn, tuy Xuân Sách gọi là viết “chân dung” mà thực ra ông đã vạch trần “chân tướng “ nhà văn vậy.

    Ông tên thật là Ngô Xuân Sách, sinh ngày 4-7-1932 tại Trường Giang, Nông Cống, Thanh Hoá. Năm 1960, ông bắt đầu công tác tại tạp chí Văn Nghệ Quân Đội. Từ năm 1981 đến năm 1986, ông làm Phó Giám đốc Nhà xuất bản Hà Nội. Năm 1987, ông chuyển vào làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Bà Rịa – Vũng Tàu đến năm 1997. Đầu năm 2008, nhà thơ Xuân Sách chuyển ra Hà Nội sống với con gái để có điều kiện chữa bệnh suy gan và suy thận. Thế nhưng, do tuổi cao sức yếu, sau mấy ngày nằm ở bệnh viện, khuya ngày 2-6 nhà thơ Xuân Sách đã lặng lẽ từ biệt cõi đời .

    Đọc Xuân Sách trước tiên ta cảm phục lòng dũng cảm của ông. Văn học Việt Nam vào những năm “trời đất nổi cơn gió bụi”, những năm thập kỷ 1970, xã hội còn chìm đắm trong nền kinh tế bao cấp, văn hoá văn nghệ bị “quản lý” đến nghẹt thở vậy mà Xuân Sách cả gan vạch trần chân tướng của tất cả những văn thi sĩ đang cúc cung tận tuỵ hiến dâng tài năng và tâm huyết cho …Đảng, cho chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa”.

    Đầu sổ là nhà thơ Tố Hữu, chủ soái của văn hoá nghệ thuật của Đảng, Xuân Sách vẫn không sợ , vẫn xỏ xiên :

    “Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng
    Mắt trông về tám hướng phía trời xa
    Chân dép lốp bay vào vũ trụ
    Khi trở về ta lại là ta

    Từ ấy tim tôi ngừng tiếng hát
    Trông về Việt Bắc tít mù mây
    Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt
    Máu ở chiến trường, hoa ở đây…”

    Với nhà thơ Chế Lan Viên, thi sĩ “nghĩ trong những điều Đảng nghĩ”, Xuân Sách thằng tay ra đòn :

    Điêu tàn ư ? Chả phải điêu tàn đâu
    Anh đã tính “Vàng Sao” từ độ ấy
    Chim báo bão gió chiều nào che chiều nấy
    Lựa ánh sáng trên đầu mà đổi sắc phù sa

    Trưước 1945, nhà phê bình Hoài Thanh nổi tiếng với cuộc tranh luận “ nghệ thuật vị nghệ thuật , nghệ thuật vị nhân sinh ?”, từ sau cách mạng chỉ còn là một anh hề đồng “ca ngợi cấp trên”, bởi thế Xuân Sách hạ bút :

    “ Vị nghệ thuật nửa đời người
    Nửa đời sau lại vị người cấp trên
    Thi nhân còn một chút duyên
    Lại vò cho nát lại lèn cho đau
    Bình thơ tới thủa bạc đầu
    Vẫn chưa thể tất nổi câu nhân tình
    Tàn canh tỉnh rượu bóng mình cũng tan”

    Nhà văn Nguyễn Tuân trước cách mạng nổi đình đám với “ Vang bóng một thời”, nhưng từ sau cách mạng ông tự tước bỏ gai góc, xù xì để trở thành một nhà văn chỉ “ngợi ca chế độ” :

    Vang bóng một thời đâu dễ quên

    Sông Đà cũng muốn đẩy thuyền lên
    Chén rượu tình rừng cay đắng lắm
    Tờ hoa lại chút lệ ưu phiền”

    Nhà thơ Lưu Trọng Lư, “con nai vàng “ đã thành “vờ ngơ ngác” để leo lên tới chức Vụ trưởng Vụ văn nghệ :

    “ Em không nghe mùa thu
    Mùa thu chỉ có lá
    Em không nghe rừng thu
    Rừng mưa to gió cả
    Em thích nghe mùa Xuân
    Con nai vờ ngơ ngác
    Nó ca bài cải lương…”

    Nhà thơ Huy Cận ngày xưa với “Lửa thiêng", từ sau khi đi theo cách mạng, thơ ông cũng “nói dối” :

    “ Các vị La hán chùa Tây Phương
    Các vị gầy quá còn tôi thì béo
    Năm xưa tôi hát vũ trụ ca
    Bây giờ tôi hát đất nở hoa
    Tôi hát chiến trường như trảy hội
    Đừng nên xấu hổ khi nói dối
    Việc gì mặt ủ với mày chau
    Trời mỗi ngày lại sáng có sao đâu ?”

    Nhà thơ Xuân Diệu ngày xưa có "Thơ thơ", nay thì :

    "Hai đợt sóng dâng, Một khối hồng
    Không làm trôi được chút Phấn thông
    Chao ơi Ngói mới, nhà không mới
    Riêng còn chẳng có, có gì Chung"

    Nhà văn Nguyễn Đình Thi tuy làm quan cách mạng nhưng vẫn viết “con nai đen” ngụ ý xỏ xiên :

    Xung kích tràn lên nước vỡ bờ
    Đã vào lửa đỏ hãy còn mơ
    Bay chi mặt trận trên cao ấy
    Quên chú nai đen vẫn đứng chờ…”

    Nhà văn Tô Hoài chỉ được “con dế mèn” từ thời trước cách mạng, sau đó “tàn phai” trong những tác phẩm viết phục vụ cách mạng :

    Dế mèn lưu lạc mười năm
    Để o chuột phải ôm cầm thuyền ai
    Miền Tây sen đã tàn phai
    Trăng thề một mảnh lạnh ngoài đảo hoang

    Nhà văn Nguyên Hồng nổi tiếng với Bỉ vỏ , đi với cách mạng viết khá nhiều tiểu thuyết “đồ sộ’ về số trang nhưng chẳng mấy giá trị :

    “ Bỉ vỏ một thời oanh liệt nhỉ
    Sóng Gầm sông Lấp mấy ai hay
    Cơn bão đã đến dộng rừng Yên Thế
    Con hổ già uống rươụ giả vờ say…”

    Nhà văn Nguyễn Công Hoan ngày xưa với Kép Tư Bền từ sau cách mạng thì …hết lộc trời, còn lại chỉ viết truyện lăng nhăng :

    “ Bác Kép Tư Bền rõ đến vui
    Bởi còn tranh tối bác nhầm thôi
    Bới trong đống rác nên trời phạt
    Trời phạt chưa xong bác đã cười..”

    Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh ngày xưa nổi tiếng làm thơ bí hiểm với câu thơ “nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm”. Than ôi từ ngày đi theo cách mạng, ông “làm công tác Hội” nhiều hơn làm thơ :

    “ Xưa thơ anh viết không người hiểu
    “Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà”
    Nay anh chưa viết người đã hiểu
    Sắp sáng thì nghe có tiếng gà…”

    Nhà văn Ngô Tất Tố sau cách mạng thời gian cầm bút ngắn ngủi cũng chưa làm nên dấu mốc nào sau “Tắt đèn” :

    “ tại ba thằng mõ cỡ chuyên viên
    Chia xôi chia thịt lại chia quyền
    Việc làng việc nước là như vậy
    Lộn xộn cho nên phải tắt đèn..”

    Cứ như vậy, không chừa một ai, từ những cây đại thụ trong rừng văn chương cách mạng cho tới những thế hệ sau, chỉ bằng một khổ thơ ngắn, bằng những cái tựa sách, Xuân Sách đã tạc nên bức chân dung chân thực hơn bất cứ một luận đề tâng bốc nào của mấy anh phê bình văn học “ăn theo nói leo”.
    (còn tiếp)
    Last edited by khieman; 04-04-2014 at 08:32 PM.

  2. #11
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)




    ĐỖ CHU

    Mở đầu thập kỷ 1960, thập kỷ của “sóng Duyên Hải, gió Đại Phong, trống Bắc Lý , cờ Ba Nhất” , thập kỷ “hồ hởi”,”phấn khởi”, sắn tay xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn miền Bắc, ông trùm thơ cách mạng Tố Hữu khoái trá hạ bút:

    Chào 61! Đỉnh cao muôn trượng
    Ta đứng đây, mắt nhìn bốn hướng
    ……

    Đời trẻ lại. Tất cả đều cách mạng!
    Rũ sạch cô đơn, riêng lẻ, bần cùng”

    Thi sĩ Chế Lan Viên cũng cao giọng hùa theo :

    Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm!
    Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?

    ….
    Mặt trời đến mỗi ngày như khách lạ,
    Gặp mỗi mặt người đều muốn ghé môi hôn…


    “ Lạc quan cách mạng” đến thế là hết cỡ . Các văn sĩ tất nhiên không chịu kém cũng múa bút , căng ngực, hít hơi thổi cho những con chữ bay bổng chín tầng mây.

    Trong dàn kèn đồng khí thế “nuốt Ngưu đẩu” đó, bỗng xuất hiện một tiếng sáo véo von góp vào dàn tụng ca. Đó là nhà văn Đỗ Chu , xuất hiện năm 1962 với những truyện ngắn “Ao làng”, “Thung lũng cò”, “Hương cỏ mật”, “Mùa cá bột” … khác lối viết của các bậc đàn anh Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu…bằng sự tươi tắn, mới lạ trong những chi tiết gần gũi đời sống như “mùi bùn”, “mùi đất”,”mùi cỏ” quê anh và lập tức được báo chí tôn vinh là một tiếng nói tươi tắn, mới lạ kể lại những ước ao, khát vọng, cách sống của thế hệ mình!

    Thử đọc lại trích đoạn “Hương cỏ mật” mở đầu sự nghiệp Đỗ Chu :

    “Sau làng em có trái núi Voi, núi Voi đối với tụi nhỏ chúng em như người bạn lớn tuổi hiền từ. Voi cho chúng em bao nhiêu thứ: những cụm cỏ mật khô thơm ngào ngạt, những viên đá cuội trắng nõn, tối tối mang đập vào nhau, lửa toé ra, một thứ lửa có mùi thơm như mùi mật ong cháy. “Vòi Voi” là một bãi cỏ tươi tốt quanh năm, đất ở đây mềm như đất ruộng màu, ngày xưa có chỗ chân trâu ngập móng. Chúng em thường lên đó chăn trâu. Trong các bạn cùng xóm, em thân nhất với Phương. Chính cái Phương đã bảo em cách làm cho cỏ mật còn xanh hết mùi hắc. Chỉ cần buộc túm những cụm cỏ xanh ấy lại, đem phơi nắng rồi hong gió, cỏ héo vàng đi, toả hương thơm dìu dịu (...) “

    Hương cỏ mật” được tôn vinh là áng văn chương đẹp, mê hoặc người đọc nhiều thế hệ. Tuy nhiên, các 8x,9x ngày nay mà viết lách dễ dãi thế thì khó lòng lọt được vào mắt bạn đọc, nói gì tới chuyện trở thành mẫu mực văn chương. Mới đây nhà thơ Trần Mạnh Hảo viết trên Dân Luận ngày 8-9-2011 :

    Đỗ Chu mê “Bông hồng vàng”, “Lẵng quả thông” của Pautopxki (do Vũ Thư Hiên dịch đầu những năm sáu mươi của thế kỷ trước). Giọng văn đầy chất thơ, lãng mạn và tươi mát như suối nguồn, như ánh trăng của nhà văn Nga này mê hoặc Đỗ Chu và các nhà văn trẻ thời đó. Đỗ Chu đã viết các truyện đầu tay như “Phù sa”, “Hương cỏ mật”, “Thung lũng cò” …khá hấp dẫn như một ông Pautopxki con con…Nay cái thời ấy xa rồi, thưở ban đầu ấy xa rồi, lối viết lãng mạn kiểu Pautopxki qua rồi, nhường hiện thực dữ dội cho những cây bút dữ dội. …”

    Mặc dầu vậy tác phẩm của Đỗ Chu vẫn xuất hiện và vẫn được ca ngợi , khen thưởng đều đều. Năm 1963 giải thưởng cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ quân đội ,2001 giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật , 2002 giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam,2004 Giải thưởng ASEAN , 2011được đề cử Giải thưởng Hồ Chí Minh . Chẳng những “ cha thiên hạ “ về giải thưởng, Đỗ Chu còn là một thứ…” già làng ” ở Hội nhà văn.

    Nguyên ở Hội nhà văn có một nơi gọi là “vạn đại dung thân” cho các cán bộ viết văn ( từ của Nguyễn Khải) – đó chính là…”Tổ sáng tác”. Một nhà văn khi được chọn về đây thì coi như được Đảng nuôi cả đời, bao cấp cả đời, kể cả bao cấp tư tưởng, khỏi lo bon chen, đấu đá , khỏi lo giành giật tem phiếu, con cá lá rau như người ngoài đời. Từ rất
    sớm Đỗ Chu được chọn về “tổ sáng tác”, 35 năm liền cho tới khi hưu như một nhà báo đã viết :

    Thế là ông về Hội Nhà văn, không làm gì khác, ngoài ăn rồi cứ ngồi viết văn.Và thế rồi đã 35 năm qua người ta quen có một Đỗ Chu ở Hội, quen đến mức thật khó hình dung ở cơ quan Hội lại không có Đỗ Chu ra ra vào vào, không nắm một chức vụ cụ thể, nhưng thật quan trọng. Quan trọng đến mức, có người đã nói, không có Đỗ Chu thì cơ quan Hội Nhà văn sẽ giông giống một Bộ, một Tổng cục nào đó.

    Tuy không giữ chức vụ gì nhưng quan chức trong các cơ quan cấp 1, cấp 2 cũng đều nể sợ “già làng”, có chân giò, xỏ lợn, mâm xôi gì chia chác bất kỳ lớn nhỏ cũng không được quên . Thời mồ ma nhà văn Trần Hoài Dương, có lần anh kể với tôi :

    Danh sách BCH Hội nhà văn Khoá 6 lẽ ra không có tên nhà thơ Y Phương . Thế rồi Ban trù bị đại hội đang họp thì Đỗ Chu ở đâu bổ tới lớn tiếng :” Các anh đã nghe ý kiến đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh vừa gọi tới chưa ? Đồng chí hỏi Ban chấp hành Hội nhà văn khoá này có đại biểu dân tộc không ?” Mọi người xanh mắt, Hữu Thỉnh lập tức bổ sung ngay Y Phương vào Ban chấp hành”.

    Chuyện thực hư chẳng biết sao nhưng qua đó thấy cái uy “già làng” của Đỗ Chu đối với quan chức Hội Nhà văn là có thực.

    Được Đảng nuôi suốt đời , trách gì Đỗ Chu chẳng hết lòng với Đảng, có lần ông nửa đùa nửa thật với bạn bè :

    Tớ là một nhà văn nên tớ rất thích câu thơ Việt Phương: “Cuộc đời yêu như vợ của ta ơi”. Cuộc đời thì rộng lớn lắm. Cuộc đời thì trong đó có đảng. Nên tớ yêu đảng như yêu vợ. …Tớ coi đảng là vợ. Đảng bẩn thì tớ mua xà phòng cho đảng tắm. Mua nước hoa cho đảng thơm. Đảng nói thì không được cãi. Đảng bảo ăn là ăn. Đảng bảo uống là uống. Đảng bảo nằm là nằm. Đảng bảo lên giường là lên giường. Đảng bảo ra đường là ra đường. Đừng có mà léng phéng. ….Cho nên tớ cũng không thể rời hội nhà Văn được. Tớ thề sẽ sống mãi với hội nhà Văn để tận tâm tận lực viết văn ca ngợi vợ. “Cuộc đời yêu như vợ của ta ơi”. Việt Phương vẫn làm thơ chung chung quá. Cứ như tớ, tớ sẽ viết thế này: “Đảng thương yêu ấy vợ của ta ơi”.

    Tuy nhiên chứng kiến các đàn anh như Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khải…trước khi nhắm mắt cũng có đôi lời “phản tỉnh”, Đỗ Chu khi về hưu cũng có “tâm sự” với Văn Chinh :

    “ Không biết nên phải hiểu từ lúc nào mà chúng ta đã bước từ chủ nghĩa dân tộc vào CNXH, rồi từ lúc nào từ Dân chủ Cộng hoà thành XHCN? Vì đâu mà có rất nhiều khái niệm hết sức hệ trọng bỗng nhiên bị đánh tráo. Bên dưới lòng yêu nước liệu còn có những gì đang nhân danh nó và đang được nó nguỵ trang?

    Nhìn lại, không biết tại làm sao khi chúng ta học những cái tồi tệ của thiên hạ thì dễ thế, mà đến khi cần học những cái tốt đẹp thì khó quá. Rồi lại không biết bởi đâu mà khi người ta không ra gì, khi người ta mù mịt đảo điên thì người ta sẵn sàng kết anh em với mình, còn tới khi người ta tỉnh táo ra một chút là y như rằng người ta có ý khinh rẻ mình thì phải…”

    Tất nhiên lời tâm sự của Đỗ Chu cũng chỉ là xa xôi , bóng gió, nhưng liệu có phải sau khi về hưu ông đã bắt đầu nghĩ…khác như “thời thượng” hiện nay.

    Nhà thơ Xuân Sách dường như cũng không mấy “ngưỡng mộ” Đỗ Chu nên làm thơ chân dung có ý mỉa mai:

    Đám cháy ở sau lưng
    Đám cháy ở trước mặt
    Than ôi mày chạy đâu
    Dưới vòm trời quen thuộc
    Đốt bao nhiêu cỏ mật
    Không bay mùi thơm tho
    Càng hun càng đỏ mắt
    Quay về thung lũng cò
    (còn tiếp)

  3. #12
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    .




    NGUYỄN QUANG SÁNG


    Khoảng năm 1982 nhà thơ Dương Tường vào TP Hồ Chí Minh trọ khách sạn Bông Sen đường Đồng Khởi, sang trọng bậc nhất Sàigòn. Trước khi ra Hànội, ông đã kịp giới thiệu tôi làm quen cô tiếp tân . Từ đó sáng nào tôi cũng trốn cơ quan, lẻn tới khách sạn, đứng sát bên cô để "phụ việc " sau quầy. Cô là người Sàigon cũ, xinh đẹp, tiếng Anh làu làu, thỉnh thoảng lại dúi cho tôi bia Sàigòn, thuốc lá Du Lịch đầu lọc lúc đó là của hiếm.

    Một sáng trò chuyện đang tíu tít , bất chợt từ ngoài cửa bước vào một khách nam và một khách nữ. Nhận ra hai người, tôi vội ngồi thụp xuống chân cô tiếp tân, im thít. Lát sau, cô vỗ vỗ lên đầu tôi :

    “ Khách lên phòng rồi…anh đứng dậy đi !”

    Tôi cứ nấn ná chờ “máy bay địch đã bay xa” mới đứng lên làm cô tiếp tân phì cười :

    “ Sếp anh sao anh sợ vậy ?”

    “Sếp đâu ? Nhưng anh không muốn ổng nhìn thấy bất lợi cho em …”

    Cô gái lắc đầu :

    “ Hổng sao, ông Nguyễn Quang Sáng đó …nghe nói ổng là nhà văn cách mạng …”

    Tôi phì cười :

    “ Nhà văn cách mạng thì sao ?”

    “ Kính nhi viễn chi thôi…”

    Tôi ưỡn ngực :

    “ Anh cũng nhà văn cách mạng nè, sao em không kính nhi viễn chi ?”

    Cô gái bĩu môi :

    “ Anh mà cách mạng gì ? Du đãng thì có…”

    Tôi rối rít khen em gái có con mắt tinh đời nhận ra "anh hùng" giữa trần ai. Rồi cô kể chuyện giám đốc khách sạn là ông Tám Muộn, thân với nhà văn Nguyễn Quang Sáng và nhạc sĩ Trịnh Công Sơn lắm nên đặc cách cho mỗi người một phòng miễn phí thường xuyên. Tôi xuýt xoa :

    “ Mấy cha sướng thiệt…tha hồ trốn vợ dẫn bồ bịch tới …”

    Cô gái lắc quày quạy :

    “ Chuyện đó em hổng biết đâu nha. Đó là chuyện riêng của mấy ổng.”

    Người Sàigòn xưa là vậy, không tò mò chuyện người khác nên cũng không hỏi chị phụ nữ kia là ai ? Nhưng tôi biết, đó là nữ văn sĩ quân đội nổi tiếng hồi đó. Đừng ai "suy diễn bậy bạ" nha. Chắc hai nhà văn lớn đưa nhau lên phòng riêng để bàn luận văn chương thôi. Tuy vậy có làm thêm chuyện gì khác thì với nhà văn cũng chẳng là gì, văn chương mới là quan trọng. Mà với Nguyễn Quang Sáng thì văn chương thuộc loại chiếu nhất làng văn Nam bộ kháng chiến rồi.

    Mấy năm sau, tôi bỏ cô tiếp tân lấy vợ, chịu cảnh “chó nằm gầm trạn” ở phố Trần Khánh Dư, TP HCM. Một hôm nhà làm cơm mời nhà văn Nguyễn Quang Sáng và nhà văn Nguyên Ngọc mới Hànội vào. Ông nguyên bố vợ vốn dân cách mạng Bến Tre, gặp Nguyễn Quang Sáng tay bắt mặt mừng , hồ hởi :

    “ Anh quan tâm dìu dắt thằng rể nhà tôi với…”

    Nhà văn Nguyễn Quang Sáng giãy nảy :

    “ Í…thằng này là thày tôi đó…”

    Chẳng hiểu ông nhà văn nói thày “văn chương” hay thày …”em út”.

    ***
    Năm 1946, Nam Bộ chống Pháp ác liệt. 14 tuổi, Nguyễn Quang Sáng đã vào bộ đội, làm liên lạc . Năm 16 tuổi học bổ túc văn hoá trường trung học kháng chiến Nguyễn Văn Tố. Năm 18 tuổi làm cán bộ nghiên cứu tôn giáo tại Bộ Tư lệnh phân khu miền Tây . Năm 1955 tập kết ra Bắc, làm ở phòng văn nghệ Đài Tiếng nói Việt Nam. Năm 1966, trở lại chiến trường miền Nam, làm cán bộ sáng tác Hội Văn nghệ Giải phóng, năm 1972, trở ra Hà Nội, làm tại Hội Nhà văn . Năm 1975 trở lại TP HCM , giữ chức Tổng thư ký Hội Nhà văn thành phố khóa l, khóa 2 và khóa 3, ông còn là ủy viên ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khoá 2, khoá 3 và là Phó tổng thư ký Hội Nhà văn khoá 4.

    Suốt đời quan chức vậy đủ thấy văn chương Nguyễn Quang Sáng luôn sáng ngời tinh thần cách mạng, bám sát chủ trương đường lối của Đảng, dứt khoát không chịu ảnh hưởng của những biến động trong giới cầm bút như phong trào Nhân văn-Giai phẩm, sự kiện xét lại…Chỉ có điều , cả đời bận rộn làm cách mạng vậy, không hiểu ông nhà văn sau khi học bổ túc văn hóa trung học còn thời gian đâu học hành quy củ ? Nhưng mà chuyện đó chẳng là gì ? Văn nghệ quần chúng, phục vụ công nông binh cần gì văn hóa cao ?

    Nguyễn Quang Sáng viết khá nhiều : Từ những truyện vừa, tiểu thuyết như Đất lửa, Nhật ký người ở lại (1962), Cái áo thằng hình rơm, Mùa gió chướng (1975), Dòng sông thơ ấu (1985)…; từ những truyện ngắn Con chim vàng (1957), Chiếc lược ngà (1968), Bông cẩm thạch (1969),Người con đi xa (1977), Bàn thờ tổ của một cô đào (1985), 25 truyện ngắn (1985) đến những kịch bản phim…tất cả đều mang tính sử thi, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và vạch trần những mặt tàn ác, xấu xa của kẻ địch.

    Cùng với nhà văn Anh Đức, hai ông đã trở thành một “cặp đôi hoàn hảo”, không tì vết, luôn đứng vững trên lập trường chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa , làm rạng danh cho văn học cách mạng Nam Bộ.

    Thành tích Nguyễn Quang Sáng lớn vậy nên ông cũng được Đảng và Nhà nước tưởng thưởng đích đáng như :

    Ông Năm Hạng - giải thưởng cuộc thi truyện ngắn báo Thống Nhất (1959)

    Tư Quắn - giải thưởng cuộc thi truyện ngắn (1959) Tạp chí Văn Nghệ Quân đội

    Dòng sông thơ ấu - giải thưởng Hội đồng văn học thiếu nhi Hội Nhà văn (1985)

    Con mèo của Fujita - tập truyện ngắn, giải thưởng
    Hội Nhà văn Việt Nam[/COLOR] 1994

    Cánh đồng hoang (kịch bản phim) Huy chương vàng liên hoan phim toàn quốc (1980), Huy chương vàng liên hoan phim ở Moskva (1981)

    Mùa gió chướng (kịch bản phim) Huy chương bạc liên hoan phim toàn quốc (Hà Nội 1980)

    Đặc biệt
    Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt II năm .

    Sự nghiệp văn chương Nguyễn Quang Sáng như vậy cũng đã hiển hách. Tuy nhiên, nhà thơ Xuân Sách còn muốn ông sáng tác sao đó cao hơn nữa chứ không chỉ dừng ở “thằng nộm hình rơm”, bởi vậy đã làm thơ chân dung Nguyễn Quang Sáng :

    Ông Năm Hạng trở về đất lửa
    Với chiếc lược ngà vượt Trường sơn
    Bỗng mùa gió chướng vừa nổi dậy
    Ông biến thành thằng nộm hình rơm”.

    Chẳng biết nhà thơ Xuân Sách còn muốn điều gì ở nhà văn Nguyễn Quang Sáng ngoài “thằng nộm hình rơm” nữa đây ?

    (còn tiếp)

  4. #13
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)



    HOÀNG CẦM

    Ngày đó tôi ở phố Ấu Triệu (Hànội), nhà thơ Hoàng Cầm phố Lý Quốc Sư, cách nhau nửa con phố ngắn nhưng ít khi tôi mò sang quán rượu số 43 của ông. Gọi là quán cho sang, ngang dọc lối chừng 5-6 mét, mấy chiếc ghế gỗ, bàn nhỏ. Một lần nhà thơ Lê Xuân Đố cùng ca sĩ Trần Khánh ghé tôi rủ sang quán rượu Hoàng Cầm. Quán chỉ có hai người “phục vụ” : chị Yến , phu nhân Hoàng Cầm làm đồ nhậu lạc rang, thịt bò khô…nhà thơ “phụ trách “ rót rượu. Ngồi nhấm nháp chốc lát rồi cả bọn kéo nhau lên gác xép. Lê Xuân Đố bảo anh Hoàng Cầm đọc thơ. “ Em ơi buồn làm chi ? Anh đưa em về bên kia sông Đuống…”, nhà thơ đọc chưa hết nửa bài nước mắt đã ròng ròng. Chợt bên tai vang lên hồi chuông nhà thờ Lớn gọi con chiên lễ chiều. Trong này nỗi buồn sông Đuống , ngoài kia nô nức vây quanh tượng Đức mẹ Hòa Bình giữa sân nhà thờ Lớn. Tôi cũng không biết nên buồn hay vui ?

    Năm 1980 trước khi chuyển vào Sàigòn tôi ghé chào nhà thơ. Ông chép tặng tôi bài “U gì ?”. Rất tiếc tôi không còn giữ bản chép tay, đành trích theo Hoàng Hưng :

    “Lỗ chỗ chín chậu nắng tóe mắt võng rách tụt cân đai yên ngựa què kéo đen ngòm cỗ xe bánh vuông (không thấy mui) sa lầy bãi sông thu bùn lũ ngược vẫy sen tàn (đi hoang ư) ngậm miệng nghỉm gió thốc lốc cung rê-ma-giơ quắt nhức ba cạnh nhung gai lì ái ân gì dài thon mười búp lóa kim cương trắng sữa đầu vú núi cao ngất lùm cỏ ngọt ước ao...”

    Bài này đã vượt khỏi âm hưởng “kinh Bắc”, đậm chất avant-garde như “ Ô mai” của Đặng Đình Hưng, “Ngàn lẻ một mùi hương “ của Dương Tường, “ Gốc gió”, “Con ngựa vào thành phố “ của Hoàng Hưng..

    Năm 1982, một Việt kiều tên “Hùng Canada” ( sau nghe nói là nhà văn Nam Dao) về nước tính mang tập thơ “Về kinh Bắc “ ra hải ngoại , từ đó đẻ ra vụ án Về Kinh Bắc “lưu truyền văn hóa phẩm phản động”.

    Tháng 8-1982 nhà thơ Hoàng Cầm bị bắt, 16 tháng sau mới được tha. Trong vụ này nhà thơ vốn nhát sẵn lại thêm nàng tiên nâu hối thúc nên đã khai tuốt luốt , nhanh chóng nhận tội nói xấu chế độ và tỏ lòng ăn năn hối lỗi.

    Sau khi ra tù được ít lâu, trên báo Tuổi Trẻ có đăng bài thơ của Hoàng Cầm với lời đề :” Kính tặng anh Phạm Hùng”, ông này lúc đó là Bộ trưởng Bộ nội vụ tức Bộ công an sau này.

    Tôi không tin vào mắt mình, lập tức gọi điện cho nhà thơ Dương Tường :

    “ Sao Hoàng Cầm lại tặng thơ cho kẻ đã ký lệnh bắt mình ?”

    Dương Tường rền rĩ :

    “ Thôi Tuấn ơi…cậu phải thông cảm với Hoàng Cầm…”

    Thực ra người đọc cũng đã thông cảm với Hoàng Cầm từ hồi đại hội văn nghệ tháng 8/1950 tại Việt Bắc, Đảng chủ trương đề cao kịch nói và loại trừ Tuồng, Chèo, Cải lương, Kịch thơ . Hưởng ứng chủ trương này, Hoàng Cầm đã đứng dậy, trịnh trọng bưng ghế ra đặt ở giữa hội trường, lấy ở trong túi ra sợi dây dài buộc tập kịch thơ, xong leo lên ghế đẩu, giơ tập thơ vừa mới bị trói chặt lên thật cao, tuyên bố:

    - "Tôi xin treo cổ Kịch Thơ. Bắt đầu từ ngày hôm nay" (...)

    Tất nhiên không phải ai cũng “thành khẩn” như Hoàng Cầm , nhiều văn nghệ sĩ khác đã bỏ của chạy lấy người , âm thầm bái biệt cách mạng, "dinh tê" về Hànội như Phạm Duy, Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Võ Phiến... sau này đều là cây bút trụ cột của miền Nam.

    “Thông cảm với Hoàng Cầm” - tất nhiên là tôi hết sức “thông cảm” nhưng chắc thơ của ông thì…không, nó mang theo những dấu vết đó.

    Năm 2005, tôi gặp nhà thơ Hoàng Cầm tại Đại hội nhà văn 7 ở Hội trường Ba Đình. Giờ nghỉ tôi đứng ngoài hành lang , chợt nhà thơ Hoàng Cầm ghé tới xin lửa. Sau này tôi cứ ân hận vì không tay bắt mặt mừng với ông.

    Năm 2007 Hoàng Cầm nhận giải thưởng Nhà nước với tác phẩm :“ Bên kia sông Đuống (thơ 1993), Lá diêu bông (thơ 1993), 99 tình khúc (thơ 1995) với lời phát biểu :

    Tôi cảm ơn Nhà nước vì về cuối đời được nhận giải thưởng xứng đáng của mình. Tôi chỉ thấy tiếc cho những anh đã qua đời như Trần Dần, Phùng Quán. Chỉ có gia đình các anh được nhận chứ bản thân các anh không được nhìn thấy.Giải thưởng đánh dấu một giai đoạn phát triển của văn nghệ, và đáng vui mừng, dù chậm. Tôi nghiệm rằng trong văn nghệ cái gì có giá trị thì có thể trong một thời gian bị vùi lấp hoặc bị hiểu nhầm nhưng rồi sự thật vẫn là sự thật….được Nhà nước trao giải tôi thấy yên tâm, không có gì phải ân hận với cuộc đời.”

    Thực ra trong vụ Nhân Văn Giai phẩm ít ai bị “hiểu nhầm” , trao giải thưởng trước hết là ghi nhận sự trở về với Đảng của những đứa con sau những "bước đường lầm lạc" (sic) . Lại cũng phải “thông cảm” với Hoàng Cầm, tuy vậy, không biết có phải vì thế vụ này ông nhà thơ mất khá nhiều phiếu của một cộng đồng không nhỏ các fan hâm mộ ông.

    Ca ngợi Hoàng Cầm có nhiều người, Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội, trong tọa đàm ngày 22-4 tại Hà Nội về nhà thơ Hoàng Cầm nhân ngày giỗ đầu của ông (6-5-2010) bốc thơm :

    Lê Đạt ra đi, Hoàng Cầm đã mất… nhưng vẫn còn lại đây con mắt thời gian nhìn xuyên lịch sử”

    Xin hỏi ông Phạm Xuân Nguyên ,” con mắt thời gian nhìn xuyên lịch sử “ liệu có thấu những thảm cảnh trong cải cách ruộng đất, hợp tác hóa nông nghiệp, tết Mậu Thân ở Huế …?

    Một thời có người suy diễn “ lá diêu bông” là tự do sáng tác Đảng hứa hẹn cho văn nghệ sĩ mà tìm hoài không thấy. Thực ra Hoàng Cầm làm bài thơ này năm 1959 chỉ là nhớ về một chị Vinh ngày xưa ở quê nhà. Cái mẹo “vẽ rắn thêm chân” này không ngờ về sau được nhiều nhà phê bình sử dụng bình thơ Hoàng Cầm.

    Trong “Hồ sơ Nhân Văn Giai Phẩm” lưu tại RFI, nhà phê bình văn học Thụy Khuê đã bỏ ra rất nhiều công phu viết về Hoàng Cầm. Mặc dầu bà thừa nhận “ Kiều Loan, là vở kịch thơ hay nhất của Hoàng Cầm, của thời tiền chiến. Khởi thảo cuối xuân 1942 đến giữa năm 1943, đã tạm xong…”, nhưng khi phân tích tập thơ “Về kinh Bắc “ bà lại sử dụng nó như tác phẩm sáng tác sau thời Nhân Văn Giai phẩm.

    Kiều Loan là kịch thơ viết về con gái một cựu thần Tây Sơn, đi tìm chồng là Vũ Văn Giỏi vốn theo Nguyễn Ánh, tàn bạo càn quét những người chống lại nhà Nguyễn. Kiều Loan giả điên đến Phú Xuân, bị giam trong ngục rồi uống thuốc độc tự vẫn,trước khi chết, nàng chém người chồng phản bội….”

    Có thể nói năm 1942, viết vở này Hoàng Cầm không mảy may “tiên tri” chuyện sau này để Thụy Khuê có thể liên hệ nó với thời cải cách ruộng đất :

    “Thà giết oan trăm mạng lương dân
    Hơn để thoát một tên phản nghịch

    Hoặc với phong trào Nhân Văn Giai Phẩm:

    “Mà trước mắt, cuộc xoay vần thời thế
    Gạt ra ngoài hầu hết bậc tài danh”

    Cũng như vậy, không thể căn cứ căn cứ vào Kiều Loan để kết luận :

    “Về Kinh Bắc là bản hùng ca bi tráng, vào đêm. Đêm của người thất trận, nhưng không thoái gót. Về Kinh Bắc là về đất mẹ Luy Lâu (Kinh Bắc), kinh đô văn hoá đầu tiên của nước Việt, để dâng sớ kể tội "triều đình" đàn áp tư tưởng, càn quét nhân tài. Nội dung ấy được giấu trong những câu thơ kín đáo, rồi lại đảo lộn thứ tự như sấm Trạng Trình. Đọc qua không thể hiểu. Hoàng Cầm trả lời mọi thanh trừng bức bách. Nhưng kẻ ra lệnh bắt Hoàng Cầm đã hiểu.”
    hoặc :

    Về Kinh Bắc lần này, là khúc tráng ca, xuyên sa mạc, của một hồn cọp dữ, gào thét những vấn nạn buổi đổi đời, "rực lửa Phong Châu", "Diêm Vương mở hội". Cọp về hỏi lại Luy Lâu đất tổ, hỏi Ba Vì, hỏi gái Cầu Lim, hỏi trai Yên Thế.Bởi Hoàng Cầm, người, có thể ngã ngựa, có thể van xin đảng tha tội. Nhưng Hoàng Cầm, thơ, chưa bao giờ khuất phục….”

    hoặc :

    Về đây là cáo ấn từ quan, về ẩn dật. Về đây còn là về mách mẹ, về khấn tổ tiên, về báo cáo với thánh hiền những lăng loàn của chuyên quyền hiện tại. Về Kinh Bắc…”

    “Vẽ” thêm chất “bi tráng,”, “hồn cọp dữ , “gào thét những vấn nạn buổi đổi đời”, “trả lời mọi thanh trừng bức bách””dâng sớ kể tội "triều đình" đàn áp tư tưởng, càn quét nhân tài…” . Chắc lúc còn sống thi sĩ Hoàng Cầm đọc những nhận định này cũng phải toát mồ hôi hột sợ đến tai…an ninh văn hóa.

    Thực ra thơ Hoàng Cầm thiên về "thơ huê tình" hơn là "thơ phản kháng", thiên về tính “âm”, tính “nữ”, tính ôn hòa hơn là hừng hực ngọn lửa phản kháng đến mức trở thành “tráng ca”.

    Trong “Chân dung tự thú năm 1994”, ông viết :

    Gọi chiều xưa trở lại
    Đẩy chiều nay về xa
    Thường trò chuyện với ma
    Như với người đang sống.”

    Nhà thơ Hoàng Hưng vốn biết rất rõ Hoàng Cầm đã nhận xét rất hay về “Về kinh Bắc:’

    .. Kinh Bắc huê tình non tơ (Chũm cau căng nứt mạch tằm/ Yếm may ba ngày mẹ vá lạiGió ra hồng da trinh nữ… ong bay vai áo tiểu thon mình), Kinh Bắc bi tráng (Chợt mê thét giữa sân/ Nét mác chữ thiên toạc lưng trâu mộng), Kinh Bắc ma mị (Châu chấu ma vờn cổ yếm xây…Trò chuyện gì ai đâu/, mồ tháng giêng mưa ướt sũng…), Kinh Bắc của những sinh hoạt văn hóa dân gian giàu bản sắc ( Gió mất chồi xuân đay nghiến luỹ tre dầy… Đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu…)... Có thể nói Về Kinh Bắc... là kết tinh vùng văn hóa nghìn năm Kinh Bắc, là thi sĩ của đất quan họ, chẳng khác thi sĩ Tây Ban Nha Federico Garcia Lorca với quê hương Andalusia qua những khúc cante hondo (trầm ca) romance….”

    (HH- Bài giới thiệu tập thơ Mưa Thuận Thành, báo Lao Động 1991)

    Đúng vậy, nhà thơ Hoàng Cầm từng tự giới thiệu :

    “Có lẽ khi được sinh ra trên cõi dương gian, tôi đã được Mẹ Kinh Bắc cho tôi ăn những giọt sữa tinh khôi chắt chiu từ những câu hát quan họ ngọt say như mật, nên từ nhỏ tôi đã chọn thủ pháp khai thác triệt để tính nhạc của ngôn ngữ và đặc biệt là chất say của thơ. ”

    Bởi thế thơ Hoàng Cầm là kết tinh của văn hóa vùng miền Kinh Bắc, như F.G. Lorka với quê hương Andalusia, và cũng có thể ví như Nguyễn Ngọc Tư với quê hương Cà Mâu….Khác với những nhà thơ cùng thời không đậm chất “vùng, miền” , họ có được sự đồng cảm rộng rãi từ dân quê miệt vườn cho tới thị dân đô thị như Thanh Tâm Tuyền, như Trần Dần…

    Sau cùng , trả lời nhà báo Thu Hồng (báo Thanh niên) , nhà thơ Hoàng Cầm cho biết :

    “Hầu hết những bài thơ của tôi được độc giả ưa thích bao giờ cũng bắt đầu một cách vi diệu từ thế giới xa xăm, vô hình nào đó. …”

    Lá diêu bông là bài thơ duy nhất tôi viết trong trạng thái vô thức. Đó là mùa rét năm 1959, đêm nào khi lên giường, tôi cũng cầm sẵn một tập giấy trắng bên tay trái và cây bút chì bên tay phải, phòng khi không ngủ được thì làm thơ. Chợt vẳng bên tai một giọng nữ nhỏ nhẹ độc chậm rãi, có tiết điệu, nghe như từ thuở xa xưa nào vọng đến: "Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng...". Sáng hôm sau, tôi phải mất nửa giờ mới tách được ra các câu thơ theo thứ tự mà người phụ nữ kỳ diệu nào đó đã đọc cho tôi. Tôi gọi những giây phút vô thức ấy là "xuất thần", đó là phần tinh tuý của tinh thần bật ra.”

    Thực ra vô thức theo Sigmun Freud ví như phần chìm của tảng băng tâm linh, là vùng chứa những ẩn ức bị dồn nén từ xa xưa, bị ngăn chặn , chỉ vượt được lên tầng
    ý thức phần nào trong giấc mơ và phần lớn trong các chứng loạn thần kinh (névroses). Các bác sĩ phân tâm học phải thôi miên bệnh nhân họ mới nói ra được những ẩn ức chìm trong vô thức, nhà thơ Apollinaire cũng đã từng ngồi đồng để làm thơ “inconscience”…Vậy cái chuyện Hoàng Cầm nói về “vô thức” có thể chỉ là trong cơn say với nàng tiên nâu hoặc với hoàn cảnh nào đó. Chính vì vậy ông tiếp tục trả lời nhà báo :

    “ Thủ pháp quan trọng nhất là phải khéo sử dụng âm thanh và nhịp điệu theo chủ đề của bài thơ. “

    Thao tác đó phải thực hiện trong ý thức chứ không phải trong những giây phút “vô thức xuất thần” hoặc “một cách vi diệu từ thế giới xa xăm, vô hình” như nhà thơ nói.

    Điều này cũng chứng tỏ trong thời “bao cấp tư tưởng” những kiến thức phương Tây hiện đại là khá xa lạ với các nhà văn, nhà thơ miền Bắc.

    Dẫu thế nào, thơ và kịch thơ Hoàng Cầm về nỗi bất hạnh - hạnh phúc xa xôi của kiếp người cũng đã lay động con tim hàng triệu người Việt.

    Nhà thơ Xuân Sách dựng chân dung Hoàng Cầm với lời lẽ chua chát :

    “Em ơi buồn làm chi
    Em không buồn sao được
    Quan họ đã vào hợp tác
    Đông hồ gà lợn nuôi chung
    Bên kia sông Đuống em trông
    Tìm đâu thấy lá diêu bông hỡi chàng.”
    (còn tiếp)

  5. #14
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)




    NGUYỄN KHOA ĐIỀM

    Vào những ngày Đại hội nhà văn VN lần thứ 7, tháng 4 năm 2005 tại Hà Nội, trong các cuộc nhậu có nhà thơ , nhà văn Trần Ninh Hồ, Nguyễn Hồ, Mường Mán…thường “buôn chuyện” về nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm khi đó đang là Trưởng ban tư tưởng văn hóa trung ương.

    Chuyện “buôn” rằng đồng chí Nguyễn Khoa Điềm thông minh dĩnh ngộ từ nhỏ. Hồi năm 7 tuổi, trong bếp có “trách” * cá nục kho. Bé Điềm thèm quá, đành ăn vụng, sau sợ bị mắng nên rắc vài mẩu cá từ chỗ để cái “trách” tới gầm trạn để vu cho…con mèo ăn vụng cá. Dựng “ hiện trường giả” từ tuổi nhi đồng vậy, quả nhiên sau này làm nên nghiệp lớn.

    Chuyện “buôn rằng” hồi chiến tranh chống Mỹ ở trên rẫy A Sầu, A Lưới mọi thứ đều thiếu thốn, cán bộ đói lắm , nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thường cùng nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đốt rẫy bắt con “rít” ( rết) nướng ăn , ngon không thua gì ..tôm nướng. Một hôm hai đồng chí phát hiện ra cái…hang chuột. Eureka…một bữa chuột nướng tuyệt vời . Thế là nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tương quạt lửa hun khói một đầu hang, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lăm lăm cầm con rựa ( dao) đứng chờ cuối hang, chuột chạy ra là…chém. Hai nhà bác cứ chờ, chờ mãi chẳng thấy con chuột nào chạy ra. Sau cùng một ông già Vân Kiều đi qua vỗ vai Nguyễn Khoa Điềm :

    “ Họ đi rồi…họ còn ở đó thì không tìm được nhà của “họ” đâu…”

    Ý cụ muốn nói chuột đã chạy rồi, đi chỗ khác chơi thôi, không bắt được nó đâu. Chuyện này có lẽ ám vào đồng chí Nguyễn Khoa Điềm khiến suốt cả thời kỳ giữ chức Trưởng ban văn hóa tư tưởng đồng chí chẳng chém được con “chuột” nào, chúng nó lẩn hết đâu mất.

    Thời nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm làm trùm tư tưởng văn hóa, không khí sáng tác không được “hồ hởi, phấn khởi” lắm, khiến ngay trong Đại Hội Nhà Văn Việt Nam lần thứ VII , tại Hội Trường Ba Đình - Hà Nội chiều ngày 23-4-2005, nhà thơ Trần Mạnh Hảo nhảy lên diễn đàn than thở :

    “ Vâng, tự do sáng tác là khi ngồi trước trang giấy, nhà nghệ sĩ là Chúa Trời sáng thế. Anh tuyệt nhiên không được phép để một ám ảnh sợ hãi nào quấy nhiễu mình. Ví như anh còn phải day dứt viết thế này, viết thế nọ mới được duyệt in; rằng đang có bao nhiêu đôi mắt soi mói vô hình kiểm duyệt anh từ xa ví như viết xong một câu văn là cứ phải mắc bệnh tương tư, nhớ đến anh Khổng Minh Dụ ( thiếu tướng công an- Cục trưởng Cục Bảo vệ tư tưởng văn hoá ( A 25 Bộ Công An), Đỗ Kim Cuông ( Vụ trưởng Vụ Văn Nghệ Ban tư tưởng văn hoá Trung Ương), Trịnh Đình Khôi ( chuyên viên cao cấp Ban Tư tưởng Văn Hoá Trung Ương phụ trách theo dõi Hội Nhà Văn VN), Nguyễn Đình Nhã ( Cục trưởng Cục xuất bản – Bộ Văn hoá Thông tin), Vũ Duy Thông ( Cục trưởng Cục báo chí Ban Tư Tưởng Văn hoá Trung Ương) , nhớ mấy anh canh cửa phê bình, nhớ anh giám đốc duyệt bài, anh biên tập viên cầm hai tay hai cái kéo, nhớ anh duyệt lưu chiểu hồi này với máy dò câu chữ nghe đồn còn kỹ hơn máy dò hành lý hải quan; thì than ôi, bằng ấy cơ chế kiểm duyệt đè nặng lên tâm lý sáng tạo của anh, nên “vừa viết vừa run” như thế; nghĩa là anh vừa viết vừa tự thiến đứa con tinh thầm của mình, cho khi ra đời nó không được có cơ hội cuồng lên vì phát dục, xóa hết bản năng sinh tồn bùng sôi của nó đi, đẽo gọt chân nó sao cho vừa với đôi giày “chính trị” đi, thì nhà văn ơi, tự do sáng tác ơi, ta chào mi, vì mi quá nhiêu khê, quá rách việc, quá nhiều cơ quan và nhiều cá nhân quyết định việc sống còn của ngòi bút mi theo kiểu nhiều cha con khó lấy chồng. Quá nhiều người gác cửa, có thể bất cứ lúc nào vui thì cho anh qua, buồn thì giữ anh lại khám xét, lục vấn, xử lý cấm cản tuỳ tiện vô nguyên tắc như từng thô bạo xử lý bao nhiêu nhà văn, bao nhiêu tác phẩm chết oan vì vừa ra đời đã bị bóp mũi.”

    Một tổng kết về “tự do sáng tác” như vậy hẳn rát mặt ngài trưởng ban tư tưởng văn hóa. Vào khoảng năm 1994 , tôi cùng ông anh định cư tại Mỹ, nhà văn Nhật Tiến, ra chung tập truyện ngắn “Quê nhà, quê người” – Nhật Tiến viết phần “Quê người”, tôi viết “Quê nhà”. Bản thảo gửi NXB Văn Học, trầy trật mãi không xin được giấy phép. Nghe nói có ông lãnh đạo chửi “ Mẹ nó, thằng Việt kiều ( ý nói Nhật Tiến) thì viết y như Việt cộng, còn thằng Việt cộng ( ám chỉ tôi) thì lại viết như…Việt kiều (!)".

    Cuốn sách tưởng bế tắc, không xuất bản được. Sau nghe nói đồng chí Nguyễn Khoa Điềm có ý kiến sao đó, cuốn sách lại có giấy phép tuy nhiên kèm theo yêu cầu là sách được xuất bản nhưng cấm không được tuyên truyền trên các báo. Báo hại phóng viên một số tờ báo sửa soạn phỏng vấn nhà văn Nhật Tiến đều phải rụt lại hết.

    Thế rồi sang năm 2000, khi Nguyễn Khoa Điềm trúng cử Ủy viên Bộ chính trị , Trưởng ban tư tưởng văn hóa thì liền sau đó cuốn “Chuyện kể năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn bị cấm, phải xay thành giấy vụn.

    Cùng lúc với “Chuyện kể năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn, một cuốn sách khác cũng bị dìm chết tức tưởi khi mới xuất xưởng in mà dư luận dường như không hề biết tới : cuốn “Những người con của đất” – NXB Văn học của Đỗ Bàn.

    Cuốn sách viết về thời kỳ đổi mới những năm tám chín mươi ở một tỉnh miền núi nghèo đói. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã gây nên tình trạng đấu đá tranh giành quyền lực trong Đảng. Ông Duy đại diện cho phái tân tiến, có học, cần phải đổi mới gấp, chịu làm, năng động muốn phá vỡ cơ chế hiện tại. Ông Bí thư Tỉnh phái ôn hoà, làm hay không làm cũng chưa chết ai, cứ đợi đấy. Ông Trịnh Giám đốc công an Tỉnh ở phái bảo thủ cơ hội, chờ thời tiêu diệt những người coi thường mình.

    “Tao vô học nhưng tao phải là tao, chúng mày thích “tự cởi trói cho mình trước khi trời trói”, thì hãy đợi đấy !

    Một xã hội lùng nhùng, một nền kinh tế lùng nhùng, chỉ có thằng nói không có thằng dám làm ? Nghị quyết, chỉ thị, nghị định, quy chế… chỉ là những văn bản cho bọn cơ hội bóp chết người trung thực dám làm và dám chịu trách nhiệm. Văn bản chỉ thị của Tỉnh thay đổi xoành xoạch : bắt dân phá rau, hoa, chè, cà phê trồng khoai lang, cao lương… khi thất bại đành bán rừng đổi gạo cứu đói và một loạt sai phạm đó lại dội vào đầu những người thực hiện.

    Trong một thời gian ngắn, Giám đốc công an Trịnh đã bắt ngót trăm giám đốc của các đơn vị kinh tế trong tỉnh, từ ngành chè, cà phê, lâm nghiệp, thương nghiệp…có người đáng bậc cha chú, đàn anh của mình, có người đồng chí trong những ngày Trịnh truy quét Fulrô… bắt và bắt làm cho cả tỉnh rúm ró lại. Những người như ông Duy chỉ còn biết thở dài ngao ngán, còn ông bí thư thì như bù nhìn “rằm cũng ừ mười tư cũng gật”. Một xã hội công an trị đến ngộp thở, bị bưng bít tới cùng đường thì còn gì là cuộc sống.

    “Những người con của đất “ là tiếng nói cảnh tỉnh của những con người trung thực thẳng thắn, sống hết mình vì nhân dân, đã bị hào quang của đảng qua những kẻ dối trá làm mờ mắt mà hy sinh tính mạng một cách vô ích. Nhưng đất vẫn là đất, ai cũng phải sống rồi chết trên mảnh đất này, những kẻ độc ác, cơ hội, tham lam rồi sẽ bị đất huỷ hoại không thương tiếc.

    Khi cuốn sách được phát hành cùng thời với cuốn “ Chuyện kể năm 2000” của nhà văn Bùi Ngọc Tấn,Giám đốc Trịnh đã tìm mọi cách cấm phát hành, làm việc với các ngành pháp luật của tỉnh để truy tố người viết… Lúc đó tôi là Trưởng Chi nhánh phía Nam Nhà xuất bản Văn Học, đành phải im lặng tiến hành thủ tục “thu hồi sách”. Sách bị giam cầm, người viết như tù giam lỏng trong thời ông Nguyễn Khoa Điềm ngồi chót vót trong ngành văn hóa tư tưởng.

    Sang năm 2003 lại một vụ “cấm sách” nữa dưới triều ông Nguyễn Khoa Điềm. Lần này động trời hơn vì tác giả bị cấm lại là ông nhà văn nổi tiếng ca ngợi cách mạng : nhà văn Nguyễn Khải, lúc đó là Phó Chủ tịch Hội nhà văn VN, đại biểu quốc hội khóa 8. Hơn thế nữa, cuốn sách đã được đăng nhiều kỳ trên tạp chí Nhà văn, nhưng đến khi in thành sách thì lại bị…cấm phát hành. Thực ra cuốn “Thượng đế thì cười” chẳng chửi đảng hay bôi xấu cách mạng gì ghê gớm, nó chỉ có mỗi tội kể chuyện đại biểu quốc hội …ngủ gật”

    Chương 22 cuôn sách, Nguyễn Khải huỵch toẹt chuyện hậu trường quốc hội :

    “Trong suốt một nhiệm kỳ Quốc hội khoá 8 hắn chỉ phát biểu có một lần về những điều bổ sung cho Luật Báo chí. Hắn đề nghị Quốc hội xem xét cho ra báo tư nhân và nhà xuất bản tư nhân để đảm bảo quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản của một xã hội văn minh. Hắn vừa ngồi xuống thì bà T. cũng là đại biểu của thành phố Hồ Chí Minh, nguyên là một nữ luật sư danh tiếng của Sài Gòn trước đây, một thượng nghị sĩ trong phe đối lập với chính quyền Thiệu, đứng lên phản đối liền. Bà nói, đại ý, rằng hắn chưa từng sống trong xã hội tư bản nên mới ngộ nhận là ở đó có tự do báo chí! Không có đâu! Danh nghĩa là báo của tư nhân nhưng nguồn tài trợ thường xuyên để nuôi sống nó luôn luôn là của các tổ chức chính trị, tôn giáo, nghề nghiệp đầy quyền lực. … Bà vừa dứt lời tiếng vỗ tay đã vỡ ra vang dội và kéo dài khắp hội trường. Ông chủ quyền lực bắt đầu ghét hắn từ ngày ấy, đã muốn đuổi hắn ra khỏi cơ quan quyền lực từ ngày ấy. Rồi hắn lại ngủ gật nữa. Trong những phiên họp tranh cãi sôi nổi về một từ, một câu trong những điều luật bổ sung của Bộ luật Hình sự, thì hắn ngủ gục, đầu vẫn ngay, lưng vẫn thẳng nhưng đầu óc đã trống rỗng, mờ mịt, người ngồi cạnh phải hích nhẹ hắn mới bừng tỉnh. Một ông nghị gật như các báo vẫn chế giễu các ông nghị bản xứ thời Pháp thuộc. …”

    Sách in xong bị cấm phát hành nhưng cũng còn may không bị đốt thành tro như “Chuyện kể năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn, sau một năm nằm kho, cấp trên mới ra điều kiện cho Nguyễn Khải muốn “giải tỏa” cuốn sách thì phải cắt bỏ cái đoạn “đại biếu quốc hội ngủ gật” đó.

    Nguyễn Khải tâm sự :

    “Tôi thấy đoạn kể chuyện ngủ gật ở Quốc hội cũng chỉ là chuyện nói vui, còn nhiều chuyện khác có ý nghĩa hơn, chỉ vì đoạn này mà cuốn sách không thể tới được tay bạn đọc thì cũng tiếc nên tôi đồng ý cắt một trang. Anh em bảo thế là không hay, cái ông Khải này lúc nào cũng nhân nhượng. Thật sự tôi thấy điều ấy cũng không phải là quan trọng nhất, cắt bỏ đi cũng chả ảnh hưởng gì đến quyển sách.”

    Trong mấy ngày giáp tết Ất Dậu, ông Nguyễn Khoa Điềm làm một việc xưa nay một ông Trưởng ban văn hoá tư tưởng của Đảng chưa bao giờ làm là tới tận nhà riêng chúc tết một số… nhà báo. Và cũng trong một cuộc Hội thảo về công tác phê bình lý luận , tháng 11 năm 2004 tại Hà Nội ông Nguyễn Khoa Điềm có những phát biểu mới mẻ xưa nay các ông Trưởng ban văn hoá tư tưởng của Đảng chưa từng dám nói bao giờ.

    Nói thế nào thì nói, dẫu sao qua những hành động đó người ta thấy một sự cải thiện hình ảnh ông trùm văn hoá văn nghệ Việt Nam xưa nay vốn vẫn bị coi là một “ông kẹ” luôn luôn cầm roi uốn nắn tư tưởng cho khắp bàn dân thiên hạ.

    Ấy vậy rồi xảy ra một việc động trời cũng chưa bao giờ thấy “trên mặt trận văn hoá và tư tưởng “, một nhà “phê bình lý luận “ nổi tiếng Mao-ít ở TP Hồ Chí Minh là Giáo sư Trần Thanh Đạm, trên tạp chí “Văn” số Tết Ất Dậu của Hội nhà văn TP Hồ Chí Minh đã viết một bài nảy lửa đả phá một số quan điểm mới mẻ của ông Nguyễn Khoa Điềm làm người đọc bật ngửa về sự mạo phạm cấp trên, cả gan vuốt râu hùm, công khai phê phán lãnh đạo Đảng ngay trong dịp kỷ niệm 75 năm ngày thành lập Đảng.

    Ngay trong phần mở đầu dài dòng đầy những nguyên tắc mácxít cứng nhắc , ông Trần Thanh Đạm đã khen xỏ đồng chí Trưởng ban văn hoá tư tưởng :

    ”Diễn giả (tức NKĐ) không chỉ nói lên các ý kiến của mình với tư cách một nhà thơ, một người nghệ sĩ, ngoài các tư tưởng có tính cách chỉ đạo , còn có những ý tưởng riêng có tính cách cá nhân…làm bài phát biểu bớt đi tính áp đặt mà tăng thêm tính gợi mở , khuyến khích suy nghĩ và thảo luận…”

    Như vậy có nghĩa rằng phàm đã là lãnh đạo Đảng trên bất cứ trận địa nào, khi phát biểu trước quần chúng lúc nào cũng phải mang tính cách huấn thị và chỉ được nói những quan điểm của Đảng mà thôi, sao “đồng chí” dám phá lệ gài “ý kiến cá nhân” vào đó ? Thật là một câu phê bình chết người đối với lãnh tụ Đảng và chính vì lo cho Đảng, vì “bảo vệ Đảng” nên một quần chúng cách mạng như Giáo sư Trần Thanh Đạm phải “thí mạng cùi” nhảy ra vạch trần “ những ý kiến cá nhân sai trái” của đồng chí Trưởng ban tư tưởng văn hoá để bảo vệ đường lối mác xít của Đảng. Tinh thần của Giáo sư Trần Thanh Đạm thật dũng cảm ghê gớm chưa ?

    Trong bài phát biểu của mình, ông Nguyễn Khoa Điềm thẳng thắn thừa nhận :

    “ Đúng là lý luận văn học của ta còn nhiều bất cập và thiếu hụt . Do hệ thống lý luận văn học này được sản sinh trong môi trường của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây…”

    Trần Thanh Đạm cãi lại thủ trưởng :

    “ Đúng là lý luận văn học của chúng ta trước đây chịu ảnh hưởng của các thành tựu lý luận văn học từ các nước xã hội chủ nghĩa ( trước hết là Liên xô)…song nói rằng lý luận văn học của ta sản sinh ra trong môi trường đó thì chỉ đúng có một phần…”

    Rồi ộng ta cho rằng :

    “ Nền lý luận văn học của ta…sản sinh ra từ đường lối lý luận và thực tiễn của cách mạng dân tộc , dân chủ và xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam từ 1930 và sớm hơn, từ đầu thế kỷ 20, thể hiện trong các văn kiện của Đảng : Trường Chinh , Lê Duẩn,, Phạm văn Đồng, Tố Hữu qua các đại hội văn nghệ và đại hội nhà văn , các tác phẩm lý luận của các nhà văn, nhà thơ lớn của chúng ta trong thế kỷ 20 như : Hải Triều, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Đặng Thai Mai, Hoài Thanh…và các nhà lý luận ưu tú khác …”

    Trưng ra các cây đa cây đề trong “ nền phê bình lý luận cách mạng” theo cái lối mang ngoáo ộp ra doạ con nít , Trần Thanh Đạm có ý hạch tội rằng nói như Nguyễn Khoa Điềm thì còn đâu là tính sáng tạo và tính độc lập tự chủ của đảng ta xưa nay vẫn được tuyên truyền rầm rĩ ra cả thế giới nữa . Sau khi trưng ra ý kiến phát biểu của Nguyễn Khoa Điềm về lý luận văn học :

    “ Hệ thống lý luận văn học của ta do phải tập trung cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội mà phần nào bỏ quên hoặc tránh đi những đặc trưng văn học, những vấn đề rộng lớn của văn chương và của con người …”

    Ông Trần Thanh Đạm dám lên giọng “xách mé” :

    “ Có lẽ khó quan niệm một chủ nghĩa xã hội gì mà văn học lại bỏ quên hoặc tránh né các vấn đề rộng lớn của văn chương và con người ?… Một chủ nghĩa xã hội như vậy còn xứng đáng được gọi là chủ nghĩa xã hội được hay không ?…Thực tế nước ta mới quá độ lên chủ nghĩa xã hội, còn phải “ tập trung cho giải phóng dân tộc, đánh thắng đế quốc xâm lược “ không thể phát triển và xây dựng một nền văn học như trong hoà bình”…thế nhưng nói rằng chúng ta né tránh hoặc bỏ quên các vấn đề đó thì không đúng…”

    táo tợn hơn, Trần Thanh Đạm phê phán sếp lớn :

    “ Tôi cho rằng lý giải các yếu kém thiếu hụt của lý luận văn học chúng ta như diễn giả đã làm là có phần hời hợt , sơ lược, chủ quan , không trên cơ sở một nhận thức lịch sử thật chu đáo , thận trọng…”

    rồi cả doạ nạt :

    “ Kết cục của diễn biến hoà bình trong lĩnh vực tư tưởng văn hoá là bạo loạn lật đổ trên lĩnh vực chính trị xã hội. Những người cầm cờ , cầm lái không thể mơ hồ trong nhận thức của mình…”

    Quả thực xưa nay , chưa ai dám công khai dạy dỗ “lãnh đạo đảng “ trên phương tiện báo chí của đảng nặng nề thế này. Trong bài phát biểu của Nguyễn Khoa Điềm có một luận điểm khá mạnh dạn, mới mẻ :

    “ Lâu nay trong quan hệ giữa nội dung và hình thức chúng ta chỉ chú trọng những mặt nội dung mà xem nhẹ yếu tố hình thức , như vậy là chúng ta mới đề cập mặt xã hội của văn chương mà chưa thấy yếu tính của văn học là ngôn ngữ nghệ thuật …”

    Sự thực, đây là một sự thừa nhận rất đáng biểu dương đối với một nhà lãnh đạo văn hoá văn nghệ cộng sản . Tuy nhiên đối với các lý luận gia “mao ít" hơn cả "mao nhiều” như Trần Thanh Đạm thì sự thừa nhận đó là đi chệch đường lối văn hoá văn nghệ của Đảng cần kéo còi báo động :

    “ Diễn giả đã “vơ đũa cả nắm” khi dùng đại từ “chúng ta “ ở đây, nếu nói “một số người trong chúng ta “ thì còn nghe được. Đó là những kẻ cơ hội, giáo điều , thậm chí ngu dốt trong văn học nghệ thuật …”

    Ô hô, nói vậy khác nào chửi sếp lớn là cơ hội, giáo điều, ngu dốt ?

    * trách : một loại niêu đất .
    (còn tiếp)
    Last edited by khieman; 04-10-2014 at 03:18 AM.

  6. #15
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Hẳn ai cũng biết, những cây bút “quốc doanh” đặc biệt lý luận phê bình cả đời chỉ quyết làm cháu ngoan bác Mao, sống chết với tinh thần văn nghệ Diên An chẳng mấy thiện cảm với nhà văn Nguyễn Huy Thiệp - người cứ thích nói ngược những gì thiên hạ nói xuôi. Trong con mắt các lý luận gia mác xít hơn cả cộng sản như Mai Quốc Liên, Trần Trọng Đăng Đàn, Trần Thanh Đạm…, Nguyễn Huy Thiệp như một kẻ có tội, một con chiên ghẻ cần phải rút phép thông công, một kẻ “ngoại tình” cần phải ném đá, một tên “ăn cơm cộng sản thờ ma Việt kiều”…

    Vì sao Thiệp trở thành “phần tử nổi cộm”, cái gai trong con mắt giới lý luận bảo thủ cực đoan như vậy ?

    Thưa rằng xưa nay Thiệp vốn “ăn lộc” tối đa của Nhà nước, suốt một thời đổi mới cho đến nhiều năm sau, cả một bộ máy tuyên truyền của Đảng và Nhà nước “bốc thơm” Nguyễn Huy Thiệp lên mây xanh, đã trao ‘cây bút vàng” cho Thiệp trên khắp các mặt báo chí, sách, điện ảnh, truyền hình làm lu mờ cả những giá trị văn chương “cây đa cây đề “ . Ăn “lộc Đảng” nhiều vậy mà xem ra Thiệp không chịu ca ngợi Đảng lấy một câu gọi là ghi nhận mình cũng từ cái nôi văn hoá xã hội chủ nghĩa ra.

    Đã không “trả nghĩa” cho Đảng thì chớ, Thiệp ngày càng ngoa ngoắt xỏ xiên . Bỏ qua những lỗi bôi bác lịch sử hoặc bôi đen xã hội như chuyện con dâu ông tướng hưu nhét cả thai nhi nấu cho chó ăn, trong vở kịch “ Suối nguồn êm dịu” vốn được bà Thuỵ Khuê ở đài RFI “tôn vinh” là “nhà thạch học”, tức sử gia không viết lên giấy mà khắc vào đá, Thiệp đã chơi lại cái mẹo “biểu tượng hai mặt’ của Nhân Văn ngày trước, bôi bác nhân vật lãnh tụ trong một xã hội “toàn trị” và bóng gió đề cao “Ông 2000” dễ thấy là biểu tượng của “ông” “Hiến chương năm 2000” mấy năm trước được phát động rầm rộ ở Paris đòi dân chủ, đa nguyên .

    Không kể chuyện “đánh võ mồm” như trả lời phỏng vấn ở Pháp “ói mửa vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, trong truyện vừa “Tuổi 20 yêu dấu” , ông Thiệp chửi tuốt luốt cả từ nhà trường tới quốc hội, và trong “Chuyện trò với hoa thuỷ tiên” , Thiệp gọi đám nhà văn trong nước là bọn “giặc già” vừa bất tài, vừa tham lam vừa thất học…

    Bị chửi ông chửi cha vậy mà Hội nhà văn Việt Nam vẫn im thin thít, ngay cả ông Tổng thư ký Hội Hữu Thỉnh vào những dịp đăng đàn diễn thuyết cũng…”ngó lơ”. Tình trạng nuông chiều , e nể Nguyễn Huy Thiệp làm các phê bình lý luận gia "mao ít" ngồi đầy trong các Viện nghiên cứu và các trường Đại học tức lộn ruột chỉ mong một ngày “hoàng đạo” nào đó sẽ tay dao tay thước xúm vào đánh đòn hội chợ. Nào ngờ, ngày ấy chưa đến, đã thấy Nguyễn Huy Thiệp chơi luôn một tiểu phẩm “ Mổ xẻ nhà văn” xỏ xiên các nhà phê bình chỉ muốn tiến thân bằng xác các nhà văn. Hành động đổ dầu vào lửa của Nguyễn Huy Thiệp càng nung nấu thêm “lòng căm thù” của giới lý luận “mác xít tới bến” chỉ chờ cấp trên gật đầu là xúm vào “bề hội đồng ”.

    Vậy mà có ai ngờ, đồng chí Trưởng ban văn hoá tư tưởng Nguyễn Khoa Điềm chẳng những không phát lệnh “giết chết thằng Thiệp” lại còn khen ngợi Thiệp thì còn trời đất nào nữa hở …trung ương Đảng ?

    Lẽ ra là người cầm cân nảy mực giữ gìn, bảo vệ tư tưởng của Đảng, ông Nguyễn Khoa Điềm phải nghiêm khắc “lên án” và vạch ra những tội lỗi của Thiệp, đằng này ngược lại đưa ra những luận điểm khá mới mẻ so với cái vốn có của Đảng khi khen ngợi và có ý “tha bổng” cho Thiệp :

    ” Có người đã nói anh Thiệp đã viết những điều trước nay chưa ai viết . Tôi thấy điều ấy không quan trọng lắm. Về mặt nội dung, có những điều anh Thiệp sai nhưng về mặt đổi mới ngôn ngữ nghệ thuật thì anh Thiệp lại có nhiều đóng góp…Ở vào thời điểm mang tính chuyển đổi thì nhiều lúc hình thức lại mang tính cách mạng của nó…”

    Vậy là những điều Nguyễn Huy Thiệp viết dù xưa nay chưa ai dám viết cũng chẳng là cái gì phải làm ầm ĩ lên, cái chính là Thiệp đổi mới ngôn ngữ nghệ thuật. Ông trùm văn hoá đã nói vậy tức là đã “tha bổng” Nguyễn Huy Thiệp. Lập tức Trần Thanh Đạm dám xổ toẹt quan điểm của đồng chí Trưởng ban tư tưởng :

    “ Không cần phải là nhà lý luận uyên thâm gì cũng có thể thấy nhận định của tác giả về Nguyễn Huy Thiệp là không chính xác, là tách rời nội dung với hình thức, tách rời ngôn ngữ nghệ thuật với tư tưởng nghệ thuật…”

    Và to gan lớn tiếng mắng mỏ ông Ủy viên Bộ chính trị dốt lý luận :

    “ Có lẽ do chưa nhận thức rõ về mặt lý luận cũng như thực tiễn nên diễn giả đã tiếp cận các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp một cách siêu hình , tách rời máy móc nội dung và hình thức…”

    Rôi bằng một giọng đay nghiến, khinh khỉnh hoàn toàn ngược với giọng giữa cấp dưới với cấp trên, Trần Thanh Đạm tuôn ra liên hồi những lời lẽ đả phá mạnh mẽ ý kiến của Nguyễn Khoa Điềm :

    “ Há rằng “ phi anh hùng hoá “ một ông tướng về hưu , “ phi thần tượng hoá một anh hùng dân tộc vv…chỉ là đổi mới và đóng góp cho ngôn ngữ nghệ thuật hay sao ? “

    Táo tợn hơn , đây là lần đầu tiên trong lịch sử Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, một ông Trưởng ban văn hoá tư tưởng bị kết tội công khai trên báo :

    “ Trong khi một số nhà văn, nhà phê bình lên án những ngôn luận xằng bậy của anh Thiệp đối với các văn hữu trong Hội nhà văn thông qua các bài như : Hoa thuỷ tiên, Mổ nhà văn, Tuổi 20 yêu dấu v…v…thậm chí xúc phạm đến cuộc kháng chiến dân tộc thì đồng chí Nguyễn Khoa Điềm hình như có ý muốn che chắn cho Nguyễn Huy Thiệp …”

    Hơn thế nữa ông Nguyễn Khoa Điềm còn có một bước tiến đổi mới khá xa so với những người tiền nhiệm khi ông phát biểu :

    “ Người nghệ sĩ có tư chất và thẩm quyền của họ , không nên buộc họ lệ thuộc quá nhiều vào thực tại…”

    Nghĩa là không nên ép uổng nhà văn viết “người thực việc thực”,”người tốt việc tốt”, không nên bắt buộc nhà văn phải “đi thực tế” để dựng nên “bức tranh hào hùng về cuộc sống sản xuất và chiến đấu của nhân dân ta “ . Vậy là lần đầu tiên Đảng đã “cởi trói’ cái nghĩa vụ “phi sáng tạo “ cho nhà văn, đồng thời còn thừa nhận cái “thẩm quyền” của người cầm bút.
    Vớ được câu này, Trần Thanh Đạm mừng rỡ chẳng khác hải quan khám ra hàng lậu. Lẽ ra mang danh là nhà nghiên cứu, Trần Thanh Đạm phải nhiệt liệt ủng hộ những tín hiệu đổi mới của ông Nguyễn Khoa Điềm, ngược lại còn đưa ra những lời phản đối cũ rích :

    “ Người nghệ sĩ không phải lệ thuộc quá nhiều vào thực tại , song tôi nghĩ người nghệ sĩ chân chính nào cũng quan tâm đến con người và cuộc sống, có trách nhiệm với thực tại chứ không chỉ biết có tư chất và thẩm quyền của mình…”

    nghĩa là Trần Thanh Đạm vẫn đề cao cái “nghĩa vụ xã hội” , cái trách nhiệm “tổ chức quần chúng của Đảng” vốn là tôn chỉ của Hội nhà văn Việt nam. Nguy hiểm cho ông Nguyễn Khoa Điềm hơn nữa khi ông nói :

    “ cần tránh khuynh hướng cực đoan khi xem xét văn học chỉ như một sáng tạo nghệ thuật thuần tuý và văn học chỉ như một vũ khí chính trị …”

    ngay lập tức, Trần Thanh Đạm mang cả “lời Bác dậy” ra để dằn mặt :

    “ Văn hoá nghệ thuật không ở ngoài mà ở trong kinh tế và chính trị”.

    Vậy đừng có tơ lơ mơ, chính trị bao giờ cũng là ‘thống soái” và Trần Thanh Đạm lớn tiếng mắng mỏ Nguyễn Khoa Điềm:

    “ chưa bao giờ văn học và chính trị rời xa nhau nửa bước, chỉ những kẻ tự lừa dối mình hoặc lừa dối người khác mới không trông thấy hoặc giả vờ không trông thấy …”

    Rồi đao to búa lớn, Trần Thanh Đạm khẳng định lại cái “vòng kim cô” vẫn úp trên đầu các nhà văn :

    “Khẩu hiệu của Hội nhà văn Việt Nam và của báo Văn Nghệ là :” Vì Tổ quốc , vì Chủ nghĩa xã hội” là một cam kết chính trị trung thực , thẳng thắn và đẹp đẽ. Theo tôi đó là ngọn cờ chính trị và chính nghĩa của văn học Việt Nam hiện đại…”

    Và sau hết Trần Thanh Đạm nổi còi báo động :

    “ Mưu mô “diễn biến hoà bình “ khởi đầu từ trận địa văn hoá tư tưởng trong đó có văn học nghệ thuật , truyền bá và thẩm thấu các các quan niệm sai trái về nghệ thuật , nhân danh cái đẹp mơ hồ , trừu tượng để nguỵ trang sự lừa dối , cái ác , cái xấu , nhằm làm hủ bại đạo đức tư tưởng của chúng ta và con cái chúng ta…”

    Suốt bài viết của Trần Thanh Đạm không hề nhắc tới chức vụ Uy viên Bộ chính trị, Trưởng ban tư tưởng văn hoá của Đảng của ông Nguyễn Khoa Điềm làm người ta không thể không đặt câu hỏi :

    ” Ai đang đứng sau Trần Thanh Đạm và tạp chí Văn của Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh , nhất trong hình hình cuộc đấu đá ngày càng gay cấn khi Đại hội Đảng đang tới gần ?”

    Tất nhiên nếu đồng chí Trưởng ban tư tưởng văn hóa Nguyễn Khoa Điềm vẫn ngồi vững trên ghế ngay cả khóa sau thì Trần Thanh Đạm có uống cả ký “mật gấu” cũng không dám “mó dái ngựa” . Cả cái tạp chí “Văn” của Hội nhà văn TP Hồ Chí Minh cũng vậy, nếu không đánh hơi thấy sếp cũ sắp đi, sếp mới sắp về thì dù có lệnh của tuyên huấn thành ủy cũng không dám “cãi cấp trên” vốn là điều tối kỵ trong “sổ tay phóng viên”.

    Vì sao đồng chí Trưởng ban tư tưởng văn hóa Nguyễn Khoa Điềm lại “đốc chứng” vậy ngay khi còn tại vị ? Ngày nay trong kinh tế người ta hay nói tới thuật ngữ “tái cấu trúc” tức là sắp xếp, tổ chức lại để xí xóa mọi chuyện tham ô, tham nhũng. Các nhà văn, nhà lý luận văn học vào cuối đời cũng có một” “tái nhận thức “ kiểu như Chế Lan Viên với “ Bánh vẽ”, Nguyễn Khải với “ Đi tìm cái tôi đã mất”, Nguyễn Đình Thi với “bài thơ gửi lại “…có tính cách “phản tỉnh”, “nghĩ lại những điều đã nghĩ”.

    Khác với họ, Nguyễn Khoa Điềm sớm “tái nhận thức” vào cuối nhiệm kỳ và chắc cũng đã biết ngày trở về cố đô Huế cũng sắp tới.

    Qua trường hợp Nguyễn Khoa Điềm, người ta thấy được cái khó của các “nhà lãnh đạo tư tưởng “ Việt Nam . Giữa một biển cán bộ mênh mông, ý thức hệ còn sặc mùi ''mao-ít'', ông Nguyễn Khoa Điềm có muốn đổi mới, rũ bỏ những cái cũ kỹ và lỗi thời, thực sự ông phải đương đầu với cơn bão bảo thủ ghê gớm cả trong Đảng lẫn ngoài xã hội, đòi hỏi ở ông một lòng dũng cảm và một tâm huyết thật sự vì dân vì nước là cái chưa thấy ở ông .

    Từ dạo quay về làm dân ở Huế, tuy nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm - sống rất lặng lẽ và kín tiếng. “Bây giờ tôi chỉ còn chường cái mặt tôi ra trong thơ”, nhưng ông vẫn tiếp tục “tái nhận thức”. Tháng 6 -2011, trả lời phóng viên báo Lao Động, ông nói những câu khối anh phải giật mình :

    Bài trừ tất cả các loại văn hoá liên quan tới phong kiến, thực dân... chúng ta đã cắt đứt quá khứ, cắt đứt sâu chừng nào thì được cho là có quan điểm lập trường tốt chừng đó. Đó là một thái độ rất nguy hại.”

    “ Thơ thì phải nói thật lòng mình, không thể giấu mình, không thể nói dối... Việt Nam chúng ta lại quan niệm văn học là đạo lý, trách nhiệm... nên gò bó sự sáng tạo cũng như hạn chế sự thổ lộ. Trong khi văn chương phải thể hiện cái đẹp nội tâm của con người

    “Vì vậy tôi đã nghỉ hưu, nhưng nhiều người lãnh đạo mong tôi phải thế này thế kia, phải làm thơ ngợi ca, phải hô hào tiến lên... Vừa rồi khi tôi công bố một số bài thơ trên báo sau khi về Huế, có rất nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí có người chê trách tôi “đổi giọng”, nhưng tôi không quan tâm...''...


    Tuy nhà thơ không quan tâm nhưng chắc độc giả thì chờ đợi ông tiếp tục “đổi giọng” như thế. Nhà thơ Xuân Sách dường như chưa nhận ra quá trình “tái nhận thức” của Nguyễn Khoa Điềm nên viết chân dung khá đơn giản :

    Một mặt đường khát vọng
    Cuộc chiến tranh đi qua
    Rồi trở lại ngôi nhà
    Đốt lên ngọn lửa ấm
    Ngủ ngoan A kai ơi
    Ngủ ngoan A kai ời...

    8-2-2012
    Nhật Tuấn

  7. #16
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)




    Hồi năm 1978, ông bạn họa sĩ Trịnh Tú, lúc đó là thư ký bác sĩ Tôn Thất Tùng, GĐ bệnh viện Phủ Doãn Hànội, một hôm rủ tôi :

    “ Tới thăm vợ chồng Hoàng Phủ Ngọc Tường đi !”

    Tôi ngần ngại :

    “ Có việc gì cần không ? Nếu không thì ngồi quán bà Dậu làm chén rượu chẳng hơn à ?’

    Hồi đó tôi ở phố Ấu Triệu sát ngay bệnh viện Phủ Doãn nên Trịnh Tú thưởng lẻn sang rủ tôi uống rượu ở quán bà Dậu ngay đầu phố . Nguyên là ông bạn vàng này mới nhờ tôi đưa bồ hắn từ Sàigòn ra đi thăm nuôi chồng vốn là sĩ quan quân đội cộng hòa đang cải tạo mãi tại vùng rừng núi heo hút Thanh Hóa. Vì không phải thân nhân nên tôi không được vào trại, lại thêm mấy ông cai tù xua đuổi, đành ngủ rừng một đêm muỗi cắn gần chết, sởn tới già. Sợ ông bạn lại “sai” việc nữa , tôi giao hẹn trước :

    “ Tới chơi thôi, còn có việc thì thôi nhé !”

    Trinh Tú cười cười :

    “ Tới giúp bà Mỹ Dạ, vợ ông Tường đi khám bệnh…”

    Tôi gật gật:

    “ Vậy thì được…”

    Tôi tưởng vợ chồng nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường phải ở một căn hộ nào đó ở khu hồ Tây hoặc khu nghỉ dưỡng Quảng Bá, không ngờ Trịnh Tú đưa tôi lên đường đê La Thành vào trường viết văn Nguyễn Du tới một căn buồng mái tranh, vách đất, trống huếch trống hoác, giữa nhà trải chiếc chiếu, một người đàn ông gày guộc, ngồi xệp, hai đầu gối qúa tai.

    Chắc đã hẹn trước, nhà văn vồn vã mời ngồi, còn chị vợ - nhà thơ Lâm thị Mỹ Dạ thì xin phép vào bếp rang…lạc đãi khách. Trịnh Tú vội xua tay :

    “ Thôi thôi…tôi tới coi sức khỏe chị sao ? Liệu có giúp được gì rồi phải về ngay…”

    Trong lúc Trịnh Tú hỏi chuyện chị vợ thì tôi ngắm nhà văn. Ôi chao ôi , người đàn ông gày gò, ốm đói kìa lại là người viết ra bút ký “ Rất nhiều ánh lửa “đăng trang nhất báo Văn Nghệ ư ? Điều kiện sống tối tăm và ẩm thấp thế này ông lấy đâu ra lửa ?

    Trên đường về tôi la oai oái. Thật không thể tưởng tượng được, một “nhà văn viết bút ký hay nhất của văn học ta hiện nay” ( Nguyên Ngọc) , hồi Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 ở Huế là tổng thư ký Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hoà bình Thành phố Huế , soạn “Lời hiệu triệu” kêu gọi quần chúng nổi dậy, thu băng phát đi khắp các nẻo đường, phố phường Huế Tết Mậu Thân , có thành tich lớn trong phong trào “diệt ác, trừ gian”, theo đồn đại đã từng ngồi ghế Chủ tọa Tòa án Nhân dân tại trường Gia Hội . Năm 1972 được điều ra làm Trưởng Ty Văn hoá tỉnh Quảng Trị ở Đông Hà (vùng mới giải phóng của Mặt trận Giải phóng), 17 năm kiên trì làm “đối tượng Đảng” rồi được kết nạp…

    Một người đã bỏ đô thị “lên xanh” theo cách mạng với thành tích lớn thế sao ra Bắc lại bị “đãi ngộ” nghèo nàn đến vậy.
    Ra khỏi nhà Hoàng phủ Ngọc tường, tôi lo lắng hỏi bệnh tật chị Mỹ Dạ, Trịnh Tú gạt đi :

    “Bệnh tật gì đâu…bệnh thiếu…protide ấy mà…ăn uống thiếu thốn, kham khổ nên sinh bệnh thế thôi.”

    Tôi nổi cáu :

    “ Một cặp nhà văn –nhà thơ có nhiều đóng góp cho cách mạng thế sao giờ lại đối xử vậy ?”

    Trinh Tú cười hề hề :

    “ Cậu đi hỏi mấy ông trên, sao hỏi tớ ? Thôi, ghé quán bà Dậu làm chén “cuốc lủi” , mặc mẹ sự đời .”

    Sau này vợ chồng Hoàng Phủ Ngọc Tường rời Hà Nội trở về Huế và nghe nói được “đãi ngộ” khá hơn. Ở Đại hội Nhà văn lần thứ V (1995), văn phòng Tổng Bí thư Đỗ Mười đưa xe đến mời nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường tới gặp riêng Tổng bí thư. Dịp tết Ất Dậu, ông Đinh La Thăng, giờ là Bộ trưởng Bộ Giao Thông Vận Tải nổi tiếng vụ “trảm tướng” sân bay Đà Nẵng, đòi đánh thuế cả xe máy dân nghèo, lúc đó là Phó bí thư thường trực Tỉnh ủy đến tận nhà, tặng vợ chồng nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường một dàn máy tính xịn.

    Năm 1980-1981, được Giải thưởng Văn học Hội Nhà văn Việt Nam với tập “Rất nhiều ánh lửa” (1979).

    Năm 2007, được Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, cùng đợt với vợ là nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.

    Ông từng làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương và Tạp chí Cửa Việt.

    Tháng 7-1997, Hoàng Phủ Ngọc Tường sang thăm Paris. Khi được bà Thụy Khuê (RFI) hỏi :

    “Nhìn từ phía những dữ kiện lịch sử mà anh nắm bắt được, diễn biến Mậu Thân đã xẩy ra trong một trình tự như thế nào"

    Ông đã trả lời :

    “ Điều quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng…”

    Phải chăng vì những oan hồn đó, sau này trên giường bệnh, ông làm những câu thơ đậm chất “tâm linh” :

    Những chiều Bến Ngự dâng mưa
    Chừng như ai đó mơ hồ gọi tôi
    Tôi ra mở cửa đón người
    Chỉ nghe tiếng gió thổi ngoài hành lang.

    Hoặc :

    “Nợ người một khối u sầu
    Tìm người tôi trả ngày sau luân hồi ……”





    Cũng trên giường bệnh, trả lời nhà báo, Hoàng Phủ Ngọc Tường thành thực :

    “ Nhà văn phải nói lên sự thật…”

    Qúa đúng, với ông , có lẽ trước hết là sự thật về cuộc Tổng tiến công nổi dậy năm Mậu Thân ở Huế.

    Nhà thơ Xuân Sách có lẽ hiểu khá thấu đáo Hoàng Phủ Ngọc Tường nên đã hạ bút :

    “Trăm năm ông phủ... Ngọc Tường ơi
    Cái nợ lên xanh giũ sạch rồi
    Cửa Việt tung hoành con sóng vỗ
    Sông Hương lặng lẽ chiếc thuyền trôi
    Sử thi thành cổ buồn nao dạ
    Chuyện mới Đông hà tái nhợt môi
    Từ biệt chốn xưa nhiều ánh lửa
    Trăm năm ông phủ... Ngọc Tường ơi!”

    N.T.

  8. #17
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)




    PHẠM TIẾN DUẬT


    Vào những năm 1973-74, cuộc chiến tranh chống Mỹ đã kéo quá dài, khó khăn kinh tế ngày càng trầm trọng, tâm lý chán nản, “hòa bình chủ nghĩa” đã xuất hiện trong một bộ phận quân đội và nhân dân .

    Vào đầu năm 1974, tại một đỉnh dốc Trường Sơn ngang đoạn bốt Đỏ Mỹ , gần sông A Vương, tôi cùng nhóm trinh sát công binh đang ngồi nghỉ, bất chợt một chiếc xe quân dụng bịt bạt từ Bắc vào, qua chỗ chúng tôi ngồi, xe dừng lại, anh lái nhảy từ trên xe xuống chửi toáng :

    “ Mẹ kiếp…thằng miền Bắc làm thằng miền Bắc ăn, thằng miền Nam làm thằng miền Nam, đánh nhau làm đ….gì cho khổ chúng ông…”

    Tôi trợn tròn cả mắt. Í chết chết…câu nói này mà đến tai chính trị viên thì thằng cha này ra Tòa án binh là cái chắc. Vậy mà cả đám ngồi đó chẳng ai nói gì, còn cười hô hố .

    Tâm lý “mệt mỏi vì chiến tranh kéo dài” đó không thể không ảnh hưởng tới văn học. Hồi còn Hà nội, nhà thơ Định Nguyễn tức Bá, biên tập Tạp chí Thanh Niên vẫn hay tới nhà tôi nhậu nhẹt, đưa tôi coi bài thơ “ Vòng trắng” của Phạm Tiến Duật :

    Khói bom lên trời thành một cái vòng đen
    Trên mặt đất lại sinh bao vòng trắng
    Tôi với bạn tôi đi trong im lặng
    Cái im lặng bình thường đêm sau chiến tranh.

    Có mất mát nào lớn bằng cái chết
    Khăn tang vòng tròn như một số không
    Nhưng bạn ơi, ở bên trong vòng trắng
    Là cái đầu bốc lửa ở bên trong.


    Í chết, thơ sặc mùi “phản chiến”, bi quan, “hòa bình chủ nghĩa” thế này sao mà đăng. Không ngờ sang tháng 1-1974, Định Nguyễn uống thuốc liều sao đó, cả gan cho đăng trên Tạp chí Thanh niên và lập tức ăn đòn hội chợ. Cũng may anh là học sinh miền Nam nên cũng đỡ không thì đi đập đá là cái chắc.

    Sau “Vòng trắng “ của Phạm Tiến Duật đến lượt “Sẹo đất” của Ngô văn Phú bị “lên đĩa” :

    Cái hố bom nằm trên vạt ruộng
    Dẫu san bằng vẫn cứ nhận ra
    Đến mùa bừa chân bước nhấp nhô
    Lúa cấy kín, vệt tròn còn đấy
    Tưởng trên da thịt mình mới sẹo
    Ai ngờ đất cũng sẹo như người


    Trong chiến tranh đạn cắm tay tôi
    Trong chiến tranh hố bom dầy đất
    Hết chiến tranh, tôi về hợp tác
    Đất chuyển vần, vụ lúa vụ khoai


    Ái chà, cả nước đang nêu cao khí thế anh hùng cách mạng, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, thơ thẩn gì bi quan, than vãn như thế ? Lập tức ông trùm văn nghệ Tố Hữu kéo còi báo động :

    "Tà khí đang bốc lên ...",

    Nhà thơ chính thống Chế Lan Viên phải đẻ ra một từ mới : "bọn bàng thống" , để chỉ những cây bút "chân đất" đang khởi màu phản kháng, và nhà thơ Dương Tường khi được hỏi về "đặc điểm của thời đại chúng ta", đã buông một tiếng thở dài:
    "L'angoisse" - sự lo âu.

    Vâng, những năm đó bầu trời Hà Nội lúc nào cũng ong ong một màu tai ương, mỗi sáng anh em cầm bút thường hỏi nhau, hôm nay, báo Văn Nghệ làm thịt thằng nào đây, danh sách "cấm bút" có thêm thằng nào.

    Tâm trạng bất an thường trực trong những cây bút "bàng thống" khiến chẳng còn lòng dạ đâu nghe một bản giao hưởng, coi một tranh tĩnh vật. Tháng Tư năm 1975, nếu không có sự kiện ngày 30, cái tâm trạng bất an đó còn trĩu nặng biết chừng nào, bởi lẽ, mừng rỡ về "đại thắng mùa Xuân", Đảng đã "tha" hết, bỏ qua những bắt bẻ, những suy diễn, giảm thiểu đi rất nhiều cái tâm lý bất an thường trực kia.

    May mắn thay, trong suốt thời gian đó, Phạm Tiến Duật lại đang “chiến đấu” trong Trường Sơn, sáng tác những bài rung động cả nước “ Tiểu đội xe không kính”, “Vầng trăng quầng lửa”,” Gửi em cô thanh niên xung phong”, “ Trường Sơn đông, Trường Sơn tây”…Nhiều bài đã trở thành “tiếng đàn muôn thủa” mà không phải ai cũng “tri âm”. Có trải qua những năm tháng Trường Sơn mới “thấm “ hết thế nào là “ Muỗi bay rừng già cho dài tay áo”,”Nước khe cạn bướm bay lèn đá”,” Hết rau rồi em có lấy măng không?”…

    Cứ mỗi lần đọc lại thơ Duật, tôi thấy nghèn nghẹn trong lòng, dội lại cả một thời đã qua. Quả thực , “ Lửa đèn” như nhạc cổ điển vậy, lâu lâu nghe lại vẫn thấy bồi hồi.

    Khoảng tháng 3 năm 1975, tôi gặp nhà thơ – nhạc sĩ Nguyễn Thuỵ Kha ở sông A Vương (Quảng Đà) trên đường anh vào B. Tay bắt mặt mừng. Kha hỏi tôi có gặp Duật không ? Tôi bảo tuy cùng lính “ Năm năm chán” (559) nhưng Duật ở Cục chính trị mãi ngoài Vĩnh Mốc, còn tôi ở tiểu đoàn trinh sát tít trong này sao mà gặp ?

    Mãi tháng 9 -1975 tôi mới ngồi xe commăngca , mặc đồ lính chạy vào Sàigon ở chơi ít ngày nhà ông anh là nhà văn Nhật Tiến tại Tòa soạn báo Thiếu Nhi phố Thiệu Trị.

    Một buổi sáng có một cô gái xinh đẹp tới xin gặp . Áo dài trắng, người mình rây, tóc ngang vai…thoạt nom biết ngay là nữ sinh Sàigon.

    Cô hỏi tôi có quay ra Hà Nội không ? Tôi bảo chắc chắn sẽ quay ra. Cô rụt rè :

    “ Vậy thì anh chuyển giúp em cuốn sách này cho…nhà thơ Phạm Tiến Duật…”.

    Tôi giật mình, hóa ra ông bạn vàng đã lẻn vào Sàigon trước tôi và sau này nghe nói Duật phải kiểm điểm về tội bỏ đơn vị quá lâu .

    Cô gái có vẻ buồn và ngơ ngác. Hóa ra cô nhờ tôi chuyển cho Duật cuốn “Con chim trốn Tuyết…” , truyện của Gallico viết về Rhayader, một hoạ sĩ tật nguyền, phải tìm nơi ẩn dật ở một hải đăng hoang phế ven biển và chết bên dưới vòng cánh lượn đầy tình nghĩa của "con chim trốn tuyết".

    Nội dung cuốn truyện chẳng dính dáng gì tới Duật mà sao cô gái cứ khẩn khoản tôi chuyển cho anh. Bất ngờ, bằng những kinh nghiệm tình trường, tôi chợt nghĩ ra :

    “ Phải tên cô là Tuyết không ?”

    Cô gái gật đầu e thẹn :

    “ Dạ vâng, em tên Tuyết…”

    Tôi bật cười :

    “ Con chim của Gallico thì trốn tuyết, còn Duật thì trốn…cô à ?”

    Cô gái đỏ bừng mặt nhưng sự im lặng đã là câu trả lời. Ít lâu sau ra Hànội tôi nhắn Duật tới “nhận quà Sàigon”. Hồi đó dân gian có câu “ miền Bắc nhận hàng, miền Nam nhận họ”. Tất nhiên Duật không rơi vào trường hợp đó nên cứ thắc mắc không biết ai gửi quà cho anh ? Tôi đưa ra cuốn “con chim trốn Tuyết “ :

    “ Sao ? Đã nhận ra ai gửi chưa ?”

    Nhìn cái tựa sách, dường như Duật đã hiểu ra, mặt đỏ bừng, buồn buồn. Tôi nhắc :

    “ Thế nào…định trốn …Tuyết à ?’

    Duật khó khăn :

    “ Cái gì đã qua thì thôi cho qua luôn…”

    Hồi đó Duật vẫn đang ở với chị Vân, tôi giằng cuốn sách lại :

    “ Thôi đừng cầm về…bà Vân biết thì rắc rối…”

    Duật lắc đầu :

    “ Không sao…không sao đâu…”

    Anh vẫn cầm cuốn sách về , thẫn thờ như người mất hồn và không nói gì thêm. Nhiều năm sau gặp lại Duật ở phòng làm việc của Tùng Điển, Phó chủ tịch Hội liên hiệp VHNT. Thì ra Duật đã về tạp chí của Hội,lương bổng bằng cái “móng tay” so với quan chức Hội nhà văn. Chẳng hiểu sao Duật cứ buồn buồn, tất nhiên không phải vì chuyện “con chim trốn Tuyết” – nghe nói cô gái đã định cư ở Mỹ. Thời gian này chắc để kiếm thêm do thu nhập eo hẹp Duật đang làm MC trong tiết mục “Cây cao bóng cả” trên tivi.

    Nhìn vẻ mặt buồn và khắc khổ, tôi nhói lên thương anh. Bằng vào sự nghiệp thơ, lẽ ra Phạm Tiến Duật phải được cấp villa ven hồ Tây, phải được dựng tượng ở nghĩa trang Trường Sơn và đặt tên cho một phố lớn Hànoi.. Nhưng mà nghĩ lại , những cái đó để làm gì ?

    “Anh cùng em sang bên kia cầu
    Nơi có những miền quê yên ả
    Nơi có những ngọn đèn thắp trong kẽ lá
    Quả cây chín đỏ hoe
    Trái nhót như ngọn đèn tín hiệu
    Trỏ lối sang mùa hè…”

    Đọc lại dưng dưng muốn khóc. “Lửa đèn”, “ Gửi em cô thanh niên xung phong…”, đó mới là “tượng đài” Phạm Tiến Duật.

  9. #18
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)




    BẰNG VIỆT


    Tôi không quen ông Bằng Việt, cũng chưa một lần “diện kiến”, bởi lẽ tôi và ông là hai giai tầng khác nhau.

    Ông là con gia đình cách mạng, từ Huế sau khi ra Bắc, cụ thân sinh thoát ly lên Việt Bắc tham gia kháng chiến, mẹ tham gia hội phụ nữ, bởi vậy sau ngày Đảng, chính phủ về Hà nội, ông được đi Liên xô học luật. Còn tôi là học sinh “Hànội tạm chiếm”, những năm 60 khó vào đại học, phải đi lao động Tây Bắc. phấn đấu thành “thanh niên tích cực lao động XHCN” . Nếu ông là công dân hạng nhất thì tôi hạng ba, bởi vậy khó gặp nhau.

    Tuy nhiên cũng có lần tôi vinh dự được ông nói tới. Đó là vào năm 1979, nhà thơ Nông Quốc Chấn về làm GĐ NXB Văn học thay nhà phê bình Như Phong.

    Sếp cũ vừa đi, sếp mới chưa về tôi đã “vạ miệng” làm sếp mới nổi trận lôi đình ký quyết định chuyển tôi lên Cao Bằng công tác. Vì tính chất “trù úm” quá rõ, tôi cương quyết chống lệnh không nhận quyết định.

    Lúc đó nhà văn Nguyên Ngọc mới về làm Bí thư Đảng đoàn Hội nhà văn lóc cóc đạp xe lên Vụ tổ chức Bộ văn hóa xin chuyển tôi về tổ sáng tác, nhà văn Đào Vũ cũng xin tôi về báo Văn Nghệ…Thật hiếm khi nào Hội nhà văn “bệnh vực” hội viên mình tích cực như vậy. Tuy nhiên mọi can thiệp đó chỉ làm sếp mới nổi giận đùng đùng :” Vận động…anh Nhật Tuấn vận động, lôi kéo Hội nhà văn…” và khăng khăng không rút lại quyết định.

    Những ngày đó chuyện này thành cửa miệng tại các cơ quan xuất bản, báo chi. Tại NXB Tác phẩm mới, vào một buổi sáng nhà văn Nguyễn Khải kể chuyện này, nghe xong nhà thơ Bằng Việt buông một câu lạnh tanh:

    ” Đi Cao Bằng thì có gì phải làm rối chuyện lên thế ?”.

    Lập tức Nguyễn Khải trỏ mặt Bằng Việt mắng :

    ” Vậy mai anh đi nhá ! “.

    Tất nhiên nhà thơ cười hề hề.

    Nhà thơ Bằng Việt hồi trẻ rất đẹp trai, nho nhã như nhà giáo, nói chuyện nhỏ nhẹ , có duyên làm nhiều cô chết mệt nên “tình sử” cũng phong phú có khi còn hơn Vũ Quần Phương. Tuy nhiên, chuyện đó cứ để trong dân gian, chưa nói tới.

    Thường thường, bác sĩ bỏ nghề y sang làm thơ thì chỉ được lộc thơ, riêng Bằng Việt bỏ nghề luật vẫn ăn lộc cả “lộc thơ” lẫn “lộc quan” là thứ “nghề luật” góp phần. Ông đã từng giữ chức Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân TP Hà Nội, một chức to ở cái thành phố oai nhất nước. Nghe nói khi hay tin nhà thơ làm Phó Chủ tịch HĐND TP, dân oan kéo đến xin gặp ông nhiều lắm khiến tan sở ông phải “chuồn” cửa sau. Chuyện đó thời nay là chuyện thường ngày ở cửa quan, ngày xưa cha ông nói “quan thấy kiện như kiến thấy mỡ”, chắc nay phải đổi thành “quan thấy …dân kiện như lươn thấy rắn”. Câu này chỉ có nghĩa quan giống như lươn tiết chất nhờn lủi mất mỗi khi gặp dân oan chứ tuyệt nhiên không dám ví dân là…rắn.

    Ngoài chức bên chính quyền, nhà thơ Bằng Việt còn làm Chủ tịch Hội đồng thơ Hội nhà văn VN .Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội , Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam.

    Cùng với nhà thơ Hữu Thỉnh, ông là một trong hai hạt giống đỏ của Đảng trên mặt trận quản lý và lãnh đạo giới nhà văn, nhà thơ vốn là thành phần phức tạp nhất trong giới trí thức. Chẳng thế mà bất kỳ cuộc hội thảo thơ nào ở xứ ta, hai ông đều tới cầm càng hội nghị.

    Mang trọng trách Đảng tin cậy vậy, Bằng Việt phải “mẫu mực” cho giới cầm bút noi theo, nghĩa là suốt từ thủa cho ra lò “Bếp lửa”, ông đã làm không biết bao nhiêu thơ :

    Những gương mặt - Những khoảng trời (Some faces and pieces of sky; 1973) - Đất sau mưa (1977)- Khoảng cách giữa lời (1984) - Cát sáng (1985) –Bếp lửa - Khoảng trời (Tập thơ) (1986) - Phía nửa mặt trăng chìm (1995) -Ném câu thơ vào gió (Tập thơ; Flying a verse with the wind; 2001)- Thơ trữ tình (2002) - Thơ Bằng Việt (Tập thơ), (2003)…

    Làm nhiều vậy nhưng thơ ông tuyệt nhiên không một chút “tà khí” tức “bàng thống”, “phi chính thống” như nhà văn Huy Phương đã tổng kết :” tuyệt nhiên không nghe một tiếng thở dài”. Ngược lại, đôi khi thơ ông còn quá đà “mácxit hơn cả Đảng”.

    Trong bài thơ “ Rượu của Nguyễn Cao Kỳ “ có một chai rượu ông này gửi tới. Tất cả mọi người đều uống kể cả một ông tướng công an, trừ một anh lính phòng không :

    “Đám đông ồn ào của chúng tôi cứ uống
    Anh bạn chỉ ngồi im, cũng chẳng nói thêm gì,
    Và bữa rượu bỗng dưng thành đắng đót”

    Khơi ra chuyện này, người ta thấy nhà thơ có thông cảm với anh lính “ thù Mỹ ngụy muôn đời muôn kiếp không tan” , cứng ngắc hơn cả chủ trương hòa hợp dân tộc của Đảng.

    Chính vì “phò chính thống” , nhà thơ phải”tỉnh táo” như Y Nguyên phỏng vấn Bằng Việt trên báo Thanh Niên .
    “Thường thì người sáng tác ít khi “tỉnh” để có thể phân tích một cách rành rẽ về quá trình sáng tạo của mình, nhưng ông thì ngược lại, tỉnh táo, thận trọng, khôn ngoan...”

    Kết luận vậy thì đau cho nhà thơ biết bao. Tuy nhiên chính vậy nên ông nhận được khá nhiều giải thưởng :

    “Giải nhất về thơ của Hội Văn học nghệ thuật Hà Nội (1968)
    “Giải thưởng dịch thuật văn học quốc tế và giao lưu văn hóa quốc tế do Quỹ Hòa bình
    Liên Xô trao tặng năm 1982.”
    Giải thưởng Nhà nước về văn học (do Chủ tịch nướcCộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trao tặng, 2001)”
    “Giải thưởng thơ của Hội nhà văn Việt Nam (2002)
    Giải thưởng văn học ASEAN 2003 cho tập thơ "Ném câu thơ vào gió"
    "Giải thành tựu trọn đời" của Hội Nhà văn Hà Nội (2005) cho Thơ trữ tình thế giới thế kỷ XX”

    Tuy làm “ thơ cung đình” nhưng không phải Bằng Việt không có thơ hay. Từ “Bếp lửa” còn tỏa nóng đến tận bây giờ tới những bài thơ tình lãng mạn một thời được chép trong sổ tay nhiều cô cậu sinh viên tổng hợp và sư phạm văn, được sử dụng nhuần nhuyễn các kỹ thuật điệp ngữ, ẩn dụ và nhân cách hóa :

    “Sương nơi ấy như triền mây trắng đặc
    anh vẫn chờ em trắng một bến sương.

    (Nơi Một Thủa Mùa Xuân Còn Ở Ðó)

    ”Anh vẫn đợi một buổi em về thay áo,
    đợi một niềm vui sắc nhọn như mũi kim.”

    (Tình Em Ðẹp Mãi Một Bài Thơ)

    Nói anh nghe cuộc tình nào đã lỡ.
    con đường nào nức nở tiếng mưa rơi!
    (Nét Buồn Mang Dấu Vết Thời Gian)

    Tuy nhiên tính lãng mạn “kiểu Pautopski” nhạt dần theo tuổi tác, thơ Bằng Việt ngày càng đậm tính “suy tưởng triết học” , có thể do con người “luật học” trong ông đã lên tiếng.

    Ngày sống vội, tuần sống vội, năm sống vội
    Tuổi hoa niên, trung niên, kế tiếp tuổi già
    Chong chóng quay, rút cuộc được gì?
    Được chuyển động – làm bù nhìn của gió…”
    (Nhớ Trịnh)

    Các nhà văn ta,về cuối đời như Nguyễn Khải, Nguyễn Đăng Mạnh…hoặc cuối chức như Nguyễn Khoa Điềm…thường “tái nhận thức” tức “nhận thức lại” để xí xóa đi phần nào “tính Đảng” quá đà trước đây. Trong Hội thảo thơ ở Hải Phòng, Bằng Việt nhắc các nhà thơ không thể thoát lý xã hội :

    “ Tôi nghĩ, đã là một thành viên, đồng cam cộng khổ với cộng đồng loài người, thì nhà thơ không thể thoát ra khỏi xã hội, vì vậy, khó có thể tuyệt đối hóa thiên chức của thơ mà chỉ nói đến thiên nhiên thôi sao?”

    Tuy nhiên cái yếu tố “xã hội” trong thơ ông không mang những trăn trở, vấn nạn lớn của dân tộc mà lại lại giống như Y Nguyên đã phỏng vấn :

    Người ta vẫn nghĩ thi sĩ thường lãng đãng, vẩn vơ trên mây trên gió, nhưng ông lại rất cập nhật thời sự. Cập nhật đến độ có thể biến những cái tưởng như không thơ thành thơ, như chuyện ô nhiễm môi trường khu du lịch sinh thái, chuyện xây cầu vượt, chuyện cấm đăng ký xe máy, chuyện làm phim kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long...?”

    Mới đây hồi tháng 8- 2011, ông phát biểu trên mạng một câu động trời :

    Nếu không tha bổng cho Cù Huy Hà Vũ thì đấy là một sự ngu xuẩn

    Tất nhiên nếu cán bộ thường nói ở bàn nhậu thì chẳng sao, nhưng đây hẳn một ông “quan văn” cỡ bự. Nghe nói sau đó cán bộ an ninh đã gặp ông. Tất nhiên nhà thơ sẽ giải thích cho nhà an ninh vì sao phát biểu vậy. Chắc đồng chí an ninh đã quán triệt tình thế của nhà thơ đứng giữa Đảng và dân không thể không thông cảm với lời phát biểu của ông Chủ tịch Hội LH VHNT Hà nội . Có thể thấy Bằng Việt cũng như thơ ông luôn bị kéo co giữa một bên là nàng thơ và một bên là đồng chí chính trị viên.

    Trên blog của mình, nhà thơ Thủy Hướng Dương có kể lại cuộc nhậu sau ngày bầu Bằng Việt làm Chủ tịch Hội LHVHNT Hànội, nhà thơ có ứng tác :

    Anh biết anh là người đến muộn
    Bia uống vừa xong, bưởi vẫn còn thèm
    Em đừng nghĩ là anh thất bại
    Bia anh còn liếm được nữa là em!”

    Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến có mặt lúc đó đề nghị đổi chữ” bia” thành chữ “thơ” :

    “Thơ anh còn liếm được nữa là em…”

    Vậy là “thơ anh” quá…sạch…, sạch đến nỗi có thể …liếm được. Tới đây chợt nhớ bài “ Mùa sạch” của thi sĩ Trân Dần:

    Anh vẫn tìm em qua phòng triển lãm sạch
    Qua khu sứ quán sạch
    Qua sớm mai trường Đảng sạch
    Qua Bộ Công nghiệp nặng sạch…”

    Nay thì xin thêm :” thơ sạch”.

    Nhà thơ Xuân Sách đã dựng chân dung Bằng Việt :

    “Nhen lên một bếp lửa
    Mong soi gương mặt người
    Bỗng cơn giông nổi đến
    Mây che một khung trời
    Đất sau mưa sụt lở
    Mầu mỡ trôi đi đâu
    Còn trơ chiếc guốc vàng
    Trăng mài mòn canh thâu.”
    (còn tiếp)

  10. #19
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)



    VŨ QUẦN PHƯƠNG

    Ở ta có hai ông bác sĩ bỏ nghề chuyển sang nghiệp văn chương. Một là bác sĩ Trần Quán Anh tác giả vở kịch “ Tiền tuyến gọi”, khuấy động sân khấu Hà Nội một thời, dân gian đổi tên vở diễn thành…“ Tiền gọi”. Hai là bác sĩ Vũ Quần Phương , trong giới gọi chệch là Vũ Quần…Phăng – tức quần nữ cắt theo lối quần tây.

    Hồi đó, nữ sĩ Xuân Quỳnh đang sống với chồng là nhạc công “Tuấn violon”, thế rồi một ngày đẹp trời gặp chàng thi sĩ đang có vợ, nổ ra tiếng sét ái tình. Đôi thi nhân chỉ non thề biển, hẹn nhau cùng rũ bỏ gia đình, lấy lại tự do xây dựng trăm năm hạnh phúc.

    Y hẹn, nữ sĩ Xuân Quỳnh ly dị chồng và chờ chàng thi sĩ bỏ vợ thực hiện mộng ước “có nhau”. Than ôi, năm này qua năm khác, nữ sĩ cứ nhóng cổ chờ hoài, chờ hoài chẳng thấy chàng nhúc nhích , ngày đi làm, tối về vẫn hú hí vợ con. Chờ mãi , chờ mãi, nữ sĩ nổi cáu :

    ” Tôi không thèm cái mặt anh nữa. Tôi sẽ lấy một “thằng nhóc”, tài năng hơn anh, trẻ hơn anh…”.

    Quả nhiên ít lâu sau, Xuân Quỳnh trở thành vợ nhà viết kịch Lưu Quang Vũ. Còn chàng thi sĩ “vợ đẹp, con khôn, vui thú điền viên tới tới tuổi xế chiều trong ngôi biệt thự sang trọng, rộng rãi, nội thất hiện đại” làm sao bỏ được vợ theo người tình làm thơ ? Chàng thi sĩ đó là ai xin hỏi nhà thơ Vũ Quần Phương . Ông có lần trả lời báo chí :

    “Ngày tôi học cấp hai tôi may mắn được học thầy Nguyễn Xuân Huy là một giáo viên dạy văn rất hay. Có thể nói, thầy là người đầu tiên truyền cảm hứng văn thơ vào tôi. Đó là những ngày mà tôi không thể nào quên, cho đến năm tôi lên cấp ba thì có thầy Nguyễn Tường Phượng, Đình Phong, Đoàn Nồng và thầy Đoái Xuân Minh, Bạch Năng Thi. Có thể nói các thầy đã là cầu nối để tôi đến với thơ ca. Vì từ những bài giảng của thầy mà tôi học được cái mạch lạc khi viết văn, làm thơ sau này”.

    Các thày trên đều dạy học Hà Nội trước 1954, bởi vậy Vũ Quần Phương thấm nhuần văn hóa phương Tây nên thơ khác hẳn các bác xuất thân bổ túc văn hóa công nông. Chẳng thế mà đọc khổ thơ đầu trong bài thơ “Đợi” rất nổi tiếng của Vũ Quần Phương :

    Anh đứng trên cầu đợi em
    Dưới chân cầu nước chảy ngày đêm
    Ngày xưa đã chảy, sau còn chảy
    Nước chảy bên lòng, anh đợi em…”


    người ta nhớ tới khổ cuối trong bài thơ Cầu Mirabeau ( Le pont Mirabeau ) của thi sĩ Pháp Apollinaire :

    “Sous le pont Mirabeau coule la Seine
    Vienne la nuit sonne l'heure
    Les jours s'en vont je demeure”


    dịch nghĩa :

    “ Dưới cầu Mirabeau sông Seine chảy
    Đêm đến giờ đã điểm
    Ngày qua ngày anh vẫn đứng đây…”

    Không ai nói Vũ Quần Phương “cóp” thơ Apollinaire nhưng ảnh hưởng thì khá rõ. Suốt mấy chục năm , ông không chỉ làm thơ , còn làm “cán bộ” : Chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội, Chủ tịch Hội đồng thơ Hà Nội, Ủy viên Hội đồng thơ Hội nhà vănVN 20 năm liền, nguyên Chủ tịch Hội đồng thơ khóa VII, chuyên gia thơ của Hội Nhà văn VN, …Chức tước lớn và lâu năm vậy tất nhiên ông phải…”phò chính thống” theo cách nói nhà văn Phạm Thị Hoài trên tạp chí Cánh Én năm 2000..

    Ông như “cây kiểng” quý của Hội nhà văn, khi cần mang trưng . Mấy năm trước , ông tham dự Hội nghị các nhà văn trẻ toàn quốc lần thứ VIII tổ chức tại Tuyên Quang (9/2011) với tư cách khách mời, rồi ngày 2-2-2012 , Liên hoan Thơ Châu Á - Thái Bình Dương tại Hạ Long (Quảng Ninh) với 71 nhà thơ thuộc 24 quốc gia, đoàn nhà thơ Việt Nam có những tên tuổi lớn như Hữu Thỉnh, Nguyễn Quang Thiều, Giang Nam, Bằng Việt và tất nhiên có Vũ Quần Phương.

    Ngoài làm thơ ông còn …nói thơ. Mấy năm gần đây ông hay đi Mỹ thăm con , cứ chân ướt chân ráo về nước ông lại lên tivi nói chuyện thơ. Tất nhiên ông phải nói theo ý đảng chứ đâu có “trật đường rày” bao giờ. Được nhà đài tin tưởng 30 năm qua số lần ông nói chuyện thơ đã lên đến con số hơn …2.000 - đáng đưa vào kỷ lục Guiness Việt Nam, vượt xa nhà văn Chu Lai vốn cũng thường đăng đàn nói..”văn”.

    Thoát từ bác sĩ làm thơ,Vũ Quần Phương đôi khi có vẻ “nhớ nghề”:

    “Tôi được thấy tim tôi, các buồng tim đang co bóp
    Mình khảo sát tim mình... kể cũng hơi hoang mang
    Nó vất vả thế ư? Suốt một đời người. Ghê thật!
    Cái luồng huyết cuộn dòng xuôi xuống, trườn lên ...
    Ta nhìn nó nhỏ nhoi mà đời bao nhiêu nỗi
    Nó là mình mà mình biết gì đâu.”

    Là “cán bộ thơ” nên đi Mỹ có vào thư viện đại học Princetone Vũ Quần Phương cũng chỉ tìm sách của những Lê Lựu, Nguyễn Khải, Ma văn Kháng…và Tết đến đóng cửa không “hội nhập” , không ra ngoài”giao lưu “ với cánh nhà thơ hải ngoại , và bầy tỏ lòng …yêu nước :

    “Trong căn nhà này là nước Việt
    Là đèn nhang, con cháu, giao thừa
    Ngoài căn nhà này là nước Mỹ
    Ngày giữa tuần, phố đã vào trưa.
    Thiên hạ đi làm yên tĩnh quá
    Nhà ta đón Tết với riêng mình.”

    Định vị trong tư cách cán bộ khiến thơ Vũ Quần Phương cũng mực thước, chỉn chu, “lề phải” chưa bao giờ “trật đường rầy” sang..lề trái. Thơ ông thường nói “lý”, các nhà phê bình nói cho sang là “thơ trí tuệ”:

    “Em ơi em ! Biển sâu rộng nhường kia
    Ai biết được tự nơi nào biển mặn
    Ôi hạt muối mang cho đời vị đặm
    Tự bao giờ biển đã biết thương ta “

    (Trước biển)

    Tóc xanh, tóc bạc không xanh lại
    thì hồn cứ căng với gió mây
    cứ đỏ màu sông, xanh sắc núi
    cứ thâm u như cánh rừng dày”

    (Hành trình)

    Như vậy đó, toàn biển sâu, sông đỏ, núi xanh , cánh rừng …những nỗi niềm dân tộc, những nỗi đau thời thế…không mong tìm thấy trong thơ Vũ Quần Phương.

    Nhà thơ Xuân Sách đã dựng chân dung Vũ Quần Phương :

    Anh đứng thành tro… em có biết
    Hôm qua lại gặp chuyến xe bò
    Vẫn anh đi trong vầng trăng cũ
    Áo đỏ bên cầu đợi ngẩn ngơ.”
    N.T.
    (còn tiếp)

  11. #20
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)



    Nguyễn Khải

    Tôi có cơ may gặp nhà văn Nguyễn Khải từ thời lý tưởng cộng sản còn mê hoặc lòng người đến mức tôi đang là học sinh tốt nghiệp lớp 10 , họcsinh cá biệt, hạnh kiểm 3 vì nói năng nhăng nhít, cấm cửa đại học phải lên rừng núi Tây Bắc lao động dài hạn, ấy vậy mà chỉ hai năm sau, tôi đã trở thành“chiến sĩ thi đua toàn quốc”, được bác Hồ tặng bằng khen, được cử đi dự Đại hội liên hoan chiến sĩ thi đua toàn quốc lần 3 ở Hànội, và ở đây tôi vinh dự được gặp nhà văn Nguyễn Khải.

    Hồi đó tôi ngồi hàng ghế gần Chủ tịch đoàn, ngồi hàng ghế sát tôi là hai ông trạc 30, trắng trẻo, đẹp trai, đang ghé tai nhau thì thào chuyện gì đó. Sau mới biết đó là nhà thơ Việt Phương, thư ký Thủ tướng Phạm Văn Đồng đang nhờ nhà văn Nguyễn Khải góp ý bản nháp “Thư gửi đồng bào miền Nam” của đại hội.

    Họp xong, tôi lại lên Tây Bắc làm thằng thợ rừng còn Nguyễn Khải vẫn ở Hà nội trong hào quang nhà văn quân đội danh nổi như cồn.

    Trong đoàn “lực sĩ” chạy marathon trên “đường cách mệnh” nhằm tới cái đích xa vời là chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa : Vũ Tú Nam, Hồ Phương, Nguyễn văn Bổng, Nguyễn Trọng Oánh, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu, Anh Đức …có một “đại kiện tướng” vừa bền bỉ không mệt mỏi vừa khôn ngoan luồn lách qua mọi chướng ngại vật, vừa “nhát sợ” phòng thân để về đích lĩnh ân sủng của Đảng : Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật – đó là nhà văn Nguyễn Khải .

    Ông sinh năm1930, ở Hà Nội , cha là tri huyện, mẹ là vợ bé, thủa nhỏ sống nhiều với mẹ ở quê ngoại Hưng Yên . 17 tuổi làm y tá cho một đơn vị bộ đội địa phương. 19 tuổi làm phóng viên báo tỉnh Hưng Yên. 21 tuổi làm báo “chiến sĩ” Quân khu 3. Sau hoà bình, 26 tuổi về công tác ở tạp chí Văn Nghệ Quân đội. Nhiều năm là Uỷ viên chấp hành Hội nhà văn.
    Cứ xem quá trình ‘công tác” đủ thấy suốt đời ông là một thư lại, lính văn phòng, đeo chữ thọ sau lưng , chưa một ngày đặt chân vào chiến trường khiến ông trở nên nổi tiếng trong hai câu thơ dân gian khi ông viết “Bút kýHoà Vanglấy tài liệu từ các bản thành tích thi đua từ trong Nam gửi ra :

    “ Hoà Vang nào ở đâu xa
    Hoà Vang là ở ngay nhà đó em..”

    Truyện ngắn đầu tay của Nguyễn Khải là “ Ra ngoài”, “Xây dựng” chẳng có giá trị gì. Năm 1956 viết tiểu thuyết “ Người con gái quang vinh” nữ anh hùng Mạc thị Bưởi chìm nghỉm ngay khi mới xuất bản. Chỉ đến tiểu thuyết “Xung đột “ – phần 1 năm 1956 và phần 2 năm 1960, danh tiếng Nguyễn Khải mới nổi lên rầm rĩ trên bầu trời văn học cách mạng vốn còn rất thưa thớt sao.

    Sau “Xung đột” , Nguyễn Khải viết chừng hơn 20 đầu sách khác nữa, nhưng nhắc tới ông người ta vẫn chỉ nhắc tới “Xung đột” như là một trong những đỉnh cao trong sự nghiệp được nhà phê bình chính thống “gạo cội”, Giáo sư Phan Cự Đệ tâng bốc :

    Từ nhiều năm nay , với tư cách là một nhà văn quân đội, Nguyễn Khải luôn luôn có mặt ở những vị trí hàng đầu của cuộc sống. Tác phẩm của anh phản ánh những mảng hiện thực mang tính thời sự nóng bỏng, đồng thời vẫn nêu lên được những vấn đề triết học, đạo đức có tầm khái quát cao. Tài năng và phong cách Nguyễn Khải bắt đầu hình thành và khẳng định từ khi Xung đột – tập I được giới thiệu lần đầu tiên trên tạp chí Văn Nghệ Quân đội năm 1957…”

    “ Xung đột” – tập 1 viết về cải cách ruộng đất và sửa sai tại một làng công giáo toàn tòng – thôn Hỗ thuộc Giáo phận Bùi Chu. Xưa nay viết về đề tài cải cách ruộng đất, thông thường các nhà văn miền Bắc có hai chọn lựa :

    - Hoặc diễn tả nó như là cuộc đấu tranh giai cấp với mâu thuẫn đối kháng, địch ta : một bên là nông dân, một bên là địa chủ, cường hào đại gian đại ác. Cuộc đấu tranh này là “một mất một còn” , ranh giới địch – ta rõ ràng và tuyệt đối. Viết theo lối này các nhà văn được đeo chữ thọ sau lưng, rất an toàn và được “bảo hiểm” bởi lẽ họ thả sức bôi xấu phe địch – tức địa chủ và thoải mái ca ngợi phe ta – tức nông dân được Đảng phóng tay phát động. Tuyệt đại đa số các nhà văn cây đa cây đề đều theo lối viết này :
    Nông dân với địa chủ” của Nguyễn Công Hoan,
    Con trâu” của Nguyễn Văn Bổng,
    Mẹ con đồng chí Chanh” của Nguyễn Đình Thi.

    Mặc dù được báo chí của Đảng khen “kịp thời, kịp thời” nhưng tất cả đều đi vào bến lú sông quên chỉ vài tháng sau khi xuất bản.

    - Hoặc diễn tả nó như là một cuộc đấu tranh “nội bộ nhân dân” –tức đi sâu vào chuyện “nhất đội nhì trời”, chuyện “con tố cha, vợ tố chồng”, chuyện “án oan biết oán ai” ….Viết theo lối này nhất định dễ “ăn đòn” bởi tội “nói xấu cách mạng”, chê Đảng lúc nào cũng tự nhận sáng suốt mà sai be sai bét.. Đi theo con đường dễ vỡ nồi cơm này có rất ít người và thường là “thân tàn ma dại” như Vũ Bão với “Sắp cưới” , Hoàng Tích Linh với “Cơm mới”, Nguyễn Khắc Dực với “Chuyến tàu xuôi”. Gần đây có cởi mở hơn,viết về cải cách ruộng đất theo kiểu “mâu thuẫn nội bộ” như “ Dòng sông mía” của Đào Thắng còn được tặng thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 2005.

    Tất nhiên khôn lõi đời như Nguyễn Khải chẳng dại gì chọn kiểu viết thứ hai – tức diễn tả cải cách ruộng đất như là cuộc đấu tranh “nội bộ”nhân dân – tức mâu thuẫn để đi tới thốngnhất – dễ bị quy chụp, dễ bị ăn đòn là thứ Nguyễn Khải tránh cho thật xa.

    Vậy thì tốt nhất chọn lối viết thứ nhất tức diễn tả mâu thuẫn đối kháng, có tao không có mày, ta nhất định thắng, địch nhất định thua, và để an toàn hơn thế nữa, Nguyễn Khải không chọn chiến tuyến đối lập địa chủ với nông dân như các nhà văn cây đa cây đề mà chọn tuyến đối lập có tính đối kháng : một bên là bọn phản động đội lốt tôn giáo với bên kia là những nông dân nòng cốt cách mạng, trung kiên, một lòng theo Đảng.

    Bởi thế tiểu thuyết Xung đột – Tập 1 của Nguyễn Khải thực ra là chuyện đấu tranh “địch ta” kiểu “câu chuyện cảnh giác“ được vẽ vời công phu bằng văn chương câu khách.

    Xung đột – Tập I xảy ra vào năm 1956, cuộc cải cách ruộng đất vừa hoàn thành với bao sai lầm và làng thôn bắt đầu sửa sai theo hướng dẫn của cấp trên. Tuy nhiên cái sai lầm cải cách ruộng đất ở đây không phải do Đảng nhắm mắt học theo kinh nghiệm Trung Quốc, quy định tỷ lệ địa chủ để cố ép tìm ra cho đủ số – viết như vậy dễ “vỡ nồi cơm”, Nguyễn Khải lái thủ phạm gây nên bao sai lầm trong cải cách sang các …cha cố.

    Ông lu loa rằng khi Đội cải cách về làng , cha xứ đã ngầm gài người cho đội “bắt rễ” và trở thành chỗ dựa cho Đội, từ đó tố oan cho những cán bộ cốt cán của Đảng để đến nỗi họ bị xử trí như Môn, xã đội trưởng, Thuỵ, cán bộ xã…có người còn bị xử tử như Rỹ , Bí thư Chi bộ… Bao nhiêu tội lỗi đều do…nhà thờ gây ra cả, cách mạng chỉ có…mất cảnh giác chút thôi.

    Thực chất trong Xung đột – tập I Nguyễn Khải đã bẻ queo sự thực lịch sử, chạy tội cho Đảng trong việc bắn giết cả những đồng chí của mình, trút tội giết người đó sang… âm mưu thâm độc của Nhà thờ chứ không phải do sự ngu dốt sai lầm trong đường lối cải cách ruộng đất .

    Trên cái “bệ đỡ an toàn” đó, Nguyễn Khải tha hồ phóng bút trách gì nhà phê bình Phan Cự Đệ chẳng tấm tắc khen :

    Người đọc như bị hút vào những sự kiện nóng bỏng trong những năm khôi phục và cải tạo kinh tế : cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh trong nội bộ nhân dân diễn ra căng thẳng , ác liệt và vô cùng phức tạp vào khoảng cuối năm 1956 ở một số vùng đạo gốc tỉnh Nam Định, khi Đảng ta tiến hành sửa chữa những sai lầm trong cải cách ruộng đất và bắt đầu cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp”.

    Chơi trò lập lờ đánh lận con đen, xuý xoá sai lầm của Đảng trong cải cách ruộng đất, trách gì Xung đột – tập I chẳng được cả một hệ thống tuyên truyền của Đảng kéo lên mây xanh ngay trong thời gian Đảng đàn áp văn nghệ sĩ, khét lẹt nhất qua vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Trong khi những tác phẩm phản ánh được chút ít hiện thực khách quan như những truyện ngắn và thơ trong nhóm Nhân văn Giai phẩm , tiểu thuyết “Vào đời” của Hà Minh Tuân, “ Phá Vây” của Phù Thăng, kịch của Hoàng Tích Linh, Nguyễn Khắc Dực… bị đòn vọt thì hàng loạt tác phẩm của Nguyễn Khải cứ nối đuôi nhau ra đời trong sự reo mừng, tâng bốc của cả một bộ máy các nhà phê bình văn học của Đảng.

    Mở đầu “Xung đột” – Tập1, Nguyễn Khải chơi trò “giật gân” miêu tả một “sự kiện động trời” ngay khi làng xã mới bước vào đợt “sửa sai” sau cải cách ruộng đất. Đó là “ Đại hội công giáo tám xứ toàn miền” vớiđủ các gương mặt của “phe đối nghịch”tức toàn bộ các gương mặt “phản động” của nhà thờ cũng các con chiên bị dụ dỗ và mê hoặc họp thành một mặt trận, một chiến tuyến chống lại chính quyền cách mạng. Đánh vào trí tò mò của độc giả vậy, trách gì cuốn sách không hấp dẫn ?

    Bộ chỉ huy của lựclượng chống đối này gồm toàn những người khoác áo choàng thâm. Trước hết là tu sĩ Thịnh , “hoạt động phần đời nhiều hơn là phần đạo…Thầy không phải là người tu tầm thường mà là một người hoạt động chính trị xuất sắc. Năm nay thầy mới hai mươi tám mà năm hai mươi bốn đã làm tới trưởng khu Cao Mại, một tay xây dựng hai mươi bảy ban xã uỷ, lãnh tụ liên tôn diệt cộng toàn khu…”.

    Rồi đến cha Vinh là người đã “mang quân từ Phát Diệm về đốt trụi xóm, lấy thóc của nhà xứ, thóc của dân đổ đầy hàng trăm chiếc thuyền đậu kín như lá tre ở cống Cả, đã quay điện con ông Thiềm bây giờ nửa sống nửa chết,đã ngủ với cô Mến có thai ba tháng, thuốc độc chết ông trùm Thuý…Rồi thì cha Thịnh dẫu được “ đi Hà Nội họp, ăn một ngày bảy tám cân *, được gặp cả Hồ Chủ tịch” ấy vậy mà khi trở về giáo xứ lại dấu mặt tổ chức đại hội công giáo, xui con chiên :

    Bây giờ các nơi công giáo đều nổi dậy cả rồi, chúng ta phải đòi công giáo tự trị…chiến tranh tàn khốc, chế độ đổi thay , chỉ có đạo Chúa là không gì diệt nổi…”.

    Tóm lại các tu sĩ đều là loại núp áo choàng thâm làm việc xấu xa, bỉ ổi, gây hoạ cho dân cả. Chẳng hiểu khi bôi bác nhà thờ như vậy, Nguyễn Khải có khi nào nghĩ một thời mình cũng từ đó mà ra ?

    (còn tiếp)
    Last edited by khieman; 04-14-2014 at 01:05 AM.

Trang 2 / 8 ĐầuĐầu 1234 ... Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-31-2014, 12:23 PM
  2. Châu Á "nghiện" thức ăn nhanh hay muốn sành điệu ?
    By duyanh in forum Văn Hóa-Xã Hội-Kinh Tế
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-14-2014, 01:03 PM
  3. Loài cá có "cánh bướm", "chân cua"
    By giahamdzui in forum Animals
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-01-2013, 03:55 AM
  4. Những loài cây "chờ cả đời người" mới ra hoa
    By giahamdzui in forum Chuyện Lạ Đó Đây
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 09-09-2013, 02:33 AM
  5. Đàn ông châu Á thua xa các "anh Tây" khoản việc nhà
    By sophienguyen in forum Xóm Nhỏ Thương Yêu
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 08-05-2013, 04:47 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •