Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Những luyến tiếc về tình yêu vẫn còn tạo nên hạnh phúc.
Lermontov
Trang 3 / 5 ĐầuĐầu 12345 Cuối Cuối
Results 21 to 30 of 48

Chủ Đề: Phiên Tòa Dưới Âm Phủ

  1. #20
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    -15-
    Nhất tướng công thành vạn cốt khô

    Phiên xử hôm nay còn đông hơn ngày hôm qua. Theo như công bố của tòa thì hôm nay bồi thẫm đoàn sẽ tuyên án Tố Bồi Bút, Trườn Chui và Phạm Văng Vàng. Điều này khiến cho nhiều kẻ hiếu kỳ rủ rê nhau tới xem đông hơn gấp bội. Thiên hạ ngồi, đứng chật căn phòng xử thật rộng. Nhiều người đến trễ hết chỗ ngồi họ phải đứng hành lang hay ngoài sân. Năm phút trước khi phiên xử bắt đầu, chín vị bồi thẫm lần lượt ngồi vào ghế của mình. Họ có vẻ thư thái và vui vẻ hơn, nhất là Huyền. Đêm hôm qua trong lúc ăn tối với nhau, cô ta năn nỉ Bình giúp ý kiến về hình phạt dành cho Phạm Văng Vàng. Không biết Bình đã nói gì mà hôm nay mặt mũi của cô nàng không còn lo lắng và ủ dột nữa.

    Đúng 9 giờ sáng Diêm Vương xuất hiện. Đợi cho ông vua âm phủ an vị xong xuôi, Đán, chủ tịch của bồi thẫm đoàn mới bước tới thì thầm vào tai Diêm Vương xong trao mảnh giấy gấp làm đôi. Diêm Vương mở ra liếc nhanh rồi trả lại cho Đán. Cầm lấy cái búa gõ ba tiếng thật lớn để gây chú ý của mọi người, vị vua của âm phủ lớn giọng.

    - Hôm nay, trước khi phiên xử của bị can Võ Khôi Nguyên bắt đầu, ta mời quí vị lắng tai nghe bồi thẫm đoàn tuyên bố về hình phạt dành cho các bị can Tố Bồi Bút, Trườn Chui và Phạm Văng Vàng.

    Hướng về hàng ghế của bồi thẫm đoàn ông ta cười tiếp.

    - Trước hết ta kính mời bồi thẫm Bằng đứng lên tuyên bố về hình phạt dành cho Tố Bồi Bút.

    Cả căn phòng rộng lớn chứa hơn mấy ngàn người đều chú mục vào vị bồi thẫm tên Bằng. Họ cố đoán xem ông ta có hình phạt gì cho bị can mang cái tội bút nô.

    - Kính thưa Diêm Vương. Kính thưa toàn thể quí vị. Quí vị cũng như tôi đều biết tội ác của tên Tố Bồi Bút lớn vô cùng. Tuy nhiên tuân theo đạo làm người tôi đề nghị với toà cho hắn trở lại dương gian.

    - Nữa. Ông này chắc là đồng chí với tên Tố rồi.

    - Cho hắn trở lại dương thế làm gì ông ơi. Nó là đồ sâu dân mọt nước mà.

    - Cha này chắc làm ở Bộ Ăn Quá của tụi cộng sản nên chả binh vực tụi nó.

    Nghe những lời nói của khán giả song Bằng không có cử chỉ gì khác lạ. Mỉm cười anh tiếp tục nói.

    - Lưu hắn lại âm phủ để cho Diêm Vương quản lý hắn thì cũng được nhưng mắc công họ phải cho người nuôi ăn và giam giữ hắn. Như vậy lại thêm tốn hao công quỹ của âm phủ. Chả bằng ta trả hắn về lại nơi đất nước của hắn để làm những việc hữu ích cho đồng bào của hắn đang sống trong lầm than và đói khổ.

    - Ông cho hắn làm dân Việt hả. Hổng được đâu. Hắn lại theo cộng sản nữa.

    Nhẹ lắc đầu Bằng tiếp tục thốt.

    - Hắn là thứ sâu dân mọt nước do đó tôi sẽ cho hắn làm con mọt sách. Để chuộc lại tội ác hùa theo băng đảng cộng sản, là con mọt sách hắn phải ăn, phải cạp, phải gặm, phải nhai nuốt hết các sách báo, hình ảnh tuyên truyền về cộng sản. Hắn phải ăn sách vở của Tàu, của Nga, của Việt Nam, Cuba, Triều Tiên hay bất cứ nước nào có tàng trữ sách báo nói về cộng sản.

    - Cái này tui coi bộ được à Anh Năm. Cho hắn gặm đã luôn.

    Thiên hạ gục gặt đầu như công nhận về hình phạt của bồi thẫm Bằng dành cho Tố Bồi Bút. Diêm Vương cũng tỏ ra ưng thuận đồng thời ra lịnh cho lục sự ghi vào hồ sơ của Tố Bồi Bút. Tiếp theo là bồi thẫm Linh đứng lên tuyên bố hình phạt của Trườn Chui.

    - Kính thưa Diêm Vương và toàn thể quí vị. Đối với bố mẹ của mình, Trườn Chui là đứa con bất hiếu. Đối với đồng bào vô tội của mình hắn là kẻ đại ác. Đối với tổ quốc của mình hắn là tên phản quốc. Hắn như đứa mù, câm điếc. Người như hắn không xứng đáng nhìn thấy mặt người khác và ánh sáng mặt trời. Đáng lẽ hắn phải bị giam trong ngục tối của âm phủ đời đời kiếp kiếp. Tuy nhiên lòng người lúc nào cũng độ lượng và thứ tha, vì vậy tôi cho hắn được trở về dương thế làm con bọ hung, sống chui rúc trong đống phân trâu bò.

    Thiên hạ đều gật gù khen cho bồi thẫm Linh có một hình phạt tương xứng với tội ác mà tên Trườn Chui đã làm. Kế đó mọi người đều chăm chú vào bồi thẫm Huyền để chờ nghe cô ta tuyên bố hình phạt dành cho Phạm Văng Vàng.

    - Kính thưa Diêm Vương và toàn thể mọi người dưới cõi âm cũng như trên trần thế. Mãi quốc cầu vinh là tội lớn nhất của một người đối với nước non của họ. Vốn là kẻ có học, khôn ngoan và hiểu biết, nhưng chỉ vì mê quyền lực và lợi danh Phạm Văng Vàng đã hạ bút ký giấy bán nước, khiến cho các kẻ kế nhiệm của hắn theo gương xấu đó mà tiếp tục bán nước. Bán rừng, bán biển, bán núi, bán sông, bán quặng mỏ và bán cả dân nghèo vô tội. Hành vi của kẻ có chức có quyền như hắn thật làm xấu hổ tổ tiên và làm nhục cả dân tộc ta nữa. Hôm nay tôi sẽ cho hắn trở thành con sâu đo, muôn đời muôn kiếp làm con sâu đo. Nó sẽ đo đi đo lại ranh giới của hai nước từ vùng Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn xuống tới Vịnh Bắc Việt, đảo Hoàng Sa và Trường Sa để xem bao nhiêu tấc đất, tấc biển mà hắn và cái băng đảng của hắn đã bán cho Tàu.

    - Cái này tui chịu. Cho hắn đo mệt nghỉ.

    Bồi thẫm Huyền hơi mỉm cười khi nghe có người khen hình phạt mà cô ta đã dành cho Phạm Văng Vàng. Ngay cả Diêm Vương và Thôi Phán Quan cũng tỏ ra hài lòng về hình phạt mà bồi thẫm đoàn đã tuyên bố cho ba bị can. Đợi cho mọi người im lặng Diêm Vương mới gõ búa ba tiếng long trọng tuên bố khai mạc phiên xử Vỏ Khôi Nguyên bắt đầu. Vị đại diện cho công tố viện của âm phủ thong thả bước ra. Giọng nói trầm và nghiêm nghị của ông ta vang vang khắp nơi.

    - Kính thưa Diêm Vương. Kính thưa chín vị bồi thẫm. Kính thưa toàn thể 80 triệu người dân Việt Nam đang sống dưới chế độ cộng sản độc tài vô nhân thất đức. Sở dĩ Hình Chí Mô và băng đảng của hắn thống trị nước Việt là do công cán của các đảng viên cuồng tín, tàn ác và vô lương tâm, trong số đó có một người mà hôm nay, vì muốn đòi hỏi cho công lý của những kẻ đã chết oan ức từ khi có cộng sản và nhất là trong 20 năm nội chiến tương tàn giữa hai miền Nam bắc từ 1955 cho tới 1975, tôi phải đưa hắn ra trước vành móng ngựa. Với chức vụ bộ trưởng đặc trách công an, bộ trưởng quốc phòng kiêm tổng tư lệnh quân đội miền Bắc, Võ Khôi Nguyên, đã đẩy hàng triệu thanh niên và thiếu nữ yêu nước vào cuộc chiến tranh tương tàn đẫm máu nhất dân tộc nhằm mục đích thực hiện tham vọng bá chủ toàn cầu của cộng sản quốc tế. Tuân lệnh các cố vấn Nga Tàu, với chiêu bài Sinh Bắc Tử Nam, hắn đã xô đẩy hàng triệu thanh thiếu niên nam nữ đi B, đi mở đường mòn dưới cơn mưa đạn bom của B52. Dù trực tiếp hay gián tiếp, hắn cùng các đồng chí của hắn đã chôn sống mấy ngàn đồng bào vô tội ở Huế trong Tết Mậu Thân. Hắn nướng mấy chục ngàn binh sĩ trong Tổng Công Kích Đợt 2, Mùa Hè Đỏ Lửa. Tội của hắn đối với dân tộc Việt nói sao cho hết. Hôm nay, Thôi Phán Quan tôi, thừa mệnh của đất trời, đại diện cho các oan hồn đang vất vơ vất vưởng, đứng ra vạch trần tội giết người tập thể của hắn và băng đảng cộng sản Việt Nam để cho mọi người biết. Sau đây tôi mời bị can Võ Khôi Nguyên lên trình diện trước tòa.

    Thiên hạ xôn xao khi thấy họ Võ từ hàng ghế dành cho các nhân chứng thong thả đi lên. Đó là một quân nhân, dáng lùn tịt, tóc bạc, trên cầu vai có gắn 4 ngôi sao bạc. Hắn đi tới đâu thiên hạ xì xầm tới đó.

    - Võ Khôi Nguyên hả anh Ba?

    Một người lên tiếng hỏi và giọng ồm ồm vang lên.

    - Ừ… Võ đại tướng đó. Cựu bộ trưởng quốc phòng kiêm tổng tư lệnh của Quân Đội nhăn răng Việt Nam Cộng Sản.

    - Có phải hắn được đàn em nâng bi gọi là người hùng Điện Biên hả anh Ba?

    - Chính hắn. Thiên hạ đua nhau ca tụng hắn là người hùng Điện Biên chứ họ đâu biết vì tuân lệnh các cố vấn Tàu mà hắn đã nướng hơn trăm ngàn mạng bộ đội và dân công vào trận Điện Biên Phủ. Phải gọi hắn là tên đồ tể Điện Biên thì đúng hơn. Cũng như cái đám truyền hình và báo chí phản chiến Mỹ đã bốc thơm bốc thúi gọi hắn là kẻ làm rung rinh đế quốc Mỹ. Rung ở đâu tao hổng thấy mà tao chỉ thấy đám cán bộ của Trung Ương Cục Miền Nam chạy vắt vò lên cổ qua Miên vì bị B52 trải thảm… Hắn làm bộ trưởng quốc phòng giỏi quá nên sau này đảng của hắn mới cho hắn làm cái chức Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Gia Dân Số Và Sinh Đẻ Có Kế Hoạch kiêm Trưởng Xưởng Đẻ Từ Dũ bởi vậy dân miền Nam của mình mới có mấy câu thơ này:

    - Người ta đại tướng cầm quân
    Thân ông đại tướng cầm quần chị em…

    hay:

    - Người ta đại tướng cầm quân
    Còn ông đại tướng rặn dùm chị em…

    Nghe mấy câu thơ trên Thôi Phán Quan mỉm cười thích thú như trong đầu vừa nãy ra ý nghĩ gì mới mẻ và hay ho. Giọng của vị lục sự đọc về tiểu sử của Võ Khôi Nguyên vang đều đều trong căn phòng rộng.

    - Họ Võ, bí danh Văn và Dương Hoài Nam, sinh năm 1910 tại Quảng Bình. 1924 ra học ở Huế, gia nhập Tân Việt Cách Mạng Đảng. 1930 bị kết án hai năm tù. 1931 được tạm tha, chỉ định cư trú tại quê. Lúc này Louis Marty là Giám đốc Nha Chính Trị Đông Dương, tức mật vụ thời đó nhận Võ làm con nuôi cũng như đỡ đầu cho Đặng Thái Mai và Đào Duy Anh.

    Có tiếng người xì xầm to nhỏ.

    - Cái gì lạ vậy ta. Hắn theo cộng sản mà lại là con nuôi của chánh mật thám tây. Người ta đồn hắn là chỉ điểm cho mật thám tây đúng không anh Chín?

    - Hổng có lửa làm sao có khói mậy. Bởi vậy sau này đám thằng Ba Duân, thằng Sáu Búa lục lọi ở đâu đó tờ đơn xin vào học trường Chasseloup Laubart của Võ đại tướng với lời lẽ thúi hoắc toàn nâng bi và bợ hòn thực dân.

    Tiếng vị lục sự đều đều đọc tiếp về tiểu sử của Võ Khôi Nguyên.

    - Năm 1932 tên chánh mật thám Marty mang họ Võ ra Hà Nội học và giới thiệu cho dạy tại trung học tư thục Thăng Long, do Tôn Thất Bình, con rể Phạm Quỳnh làm chủ. Khôi Nguyên gia nhập Đông Dương Cộng Sản Đảng trong thời kỳ này. (Đông Dương Cộng Sản Đảng do Hồ Chí Minh tuân chỉ thị Đệ Tam Quốc Tế thành lập tại Hương Cảng, ngày 3-2-1930, sát nhập ba đảng cộng sản Trung Nam Bắc, đặt dưới quyền bảo trợ của đảng Cộng Sản Pháp, mỗi tháng lĩnh 5000 phật lăng).

    Họ Võ người thấp lùn, dạy Sử Địa, có thể coi là một giáo sư nổ bậy, nói năng ú ớ và tính tình cộc cằn. Nhờ học trường tây hắn đậu được bằng cử nhân luật nhưng không có chứng chỉ pháp chế nên không được vô ngạch quan lại. Sau này báo chí ngoại quốc cho hắn có bằng tiến sĩ. 1936¬1939, thời kỳ Mặt Trận Bình Dân tả khuynh cầm quyền tại Pháp, Đông Dương Cộng Sản Đảng hoạt động công khai, Võ Khôi Nguyên là một trong những lãnh tụ của Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương (cộng sản), viết báo Le Travail với Trần Huy Liệu, Trường Chinh. Lấy Nguyễn Thị Quang Thái, em Nguyễn Thị Vịnh (tức Nguyễn Thị Minh Khai). Cả hai chị em cùng là cộng sản, chết về tay thực dân Pháp. 1940 hắn xích mích với Tôn Thất Bình, thôi dạy học, qua Trung Hoa với Phạm Văn Đồng, gặp Hồ Chí Minh lần đầu. Năm 1941 trở về nước bí mật hoạt động ở vùng Cao Bằng. Năm 1944 Hồ Chí Minh giao cho Võ Khôi Nguyên chỉ huy đoàn vũ trang tuyên truyền của Việt Minh. 29-8-1945 giữ chức Bộ trưởng nội vụ của nhà nước cộng sản. Về Hà Nội và nắm quyền trong tay, Võ Khôi Nguyên thủ tiêu Tôn Thất Bình để rửa hận mối xích mích và bà mẹ nuôi góa Louis Marty để ếm chuyện liên hệ với thực dân Pháp. Bà Louis Marty, một người hết sức có cảm tình với người Việt và nhận Việt Nam làm quê hương, nhất định không về Pháp sau khi chồng mất, đến lúc chết bà này vẫn tin tưởng vào công lao chăm nom dìu dắt của mình và lòng biết ơn của tên khuyển tử!

    2- 3-1946, Võ Khôi Nguyên làm chủ tịch ủy ban liên hiệp kháng chiến. 3-11-1946, bộ trưởng quốc phòng. Tháng 7-1947, tổng tư lịnh quân đội Việt Minh. Tháng 1¬1948 được phong đại tướng. 1955, ủy viên bộ chính trị, phó thủ tướng kiêm bộ trưởng quốc phòng, tổng tư lệnh quân đội. Tháng 9-1960, bí thư quân ủy trung ương. Đầu năm 1980, họ Võ mất chức bộ trưởng quốc phòng và bí thư quân ủy trung ương vào tay Văn Tiến Dũng. Tháng 3¬1982, hắn bị loại khỏi bộ chính trị, chỉ còn giữ hư vị phó thủ tướng đặc trách khoa học và kỹ thuật.

    Đợi cho vị cựu bộ trưởng quốc phòng của nước Việt Nam Dân Chửi Cười Trừ kiêm tổng tư lệnh quân đội ngồi xuống ghế bị can, Thôi Phán Quan mới thong thả tới đứng trước mặt.

    - Ngài là cựu đại tướng kiêm cựu bộ trưởng quốc phòng kiêm cựu tổng tư lệnh. Vậy ngài muốn tôi xưng hô với ngài như thế nào. Đại tướng hay bộ trưởng quốc phòng hoặc tổng tư lệnh?

    Võ Khôi Nguyên trả lời liền.

    - Thưa ngài biện lý. Ngài muốn gọi đại tướng cũng được, bộ trưởng quốc phòng cũng hổng sao mà tổng tư lệnh thì tôi cũng không phàn nàn.

    Cười cười Thôi Phán Quan gật đầu hỏi tiếp.

    - Theo như chỗ tôi biết thì đại tướng không theo học bất cứ một trường quân sự nào cũng như các khóa huấn luyện quân sự nào.

    Vị đại tướng cười nhẹ điềm đạm trả lời.

    - Thưa ngài biện lý đúng như vậy. Tuy nhiên trong lịch sử nước tôi có rất nhiều vị tướng lừng danh không hề thụ huấn bất cứ trường quân sự nào như vua Quang Trung chẳng hạn. Là một danh tướng bách chiến bách thắng song không hề tới trường để học về cách đánh giặc. Tôi nghĩ nếu là thiên tài hoặc nhân tài quân sự thì không cần phải học mới biết ” cầm quần…” ủa. tôi già cả lẫn lộn nên xin chữa lại là cầm quân.

    Thôi Phán Quan gật gù cười.

    - À. Hai tiếng cầm quần của ngài làm tôi nhớ tới mấy câu thơ sau đây: - Người ta đại tướng cầm quân
    Thân ông đại tướng cầm quần chị em…

    Phải chăng hai câu thơ này thiên hạ nói về ông?

    Võ đại tướng hơi đổi sắc mặt khi nghe hai câu thơ trên song vài giây sau lấy lại vẻ thản nhiên.

    - Người ta nói sao cũng được… Phần tôi lịch sử sẽ phán xét…

    Thôi Phán Quan gật đầu cười.

    - Ngài nói chí lý. Có một điều tôi hơi thắc mắc là không học ở bất cứ trường quân sự nào, không chỉ huy một đơn vị chiến đấu nào.

    - Có chứ. Năm 1944 tôi được bác giao chỉ huy Đội Vũ Trang Tuyên Truyền.

    Họ Võ ngắt lời. Thôi Phán Quan cười tiếp.

    - Đội này có bao nhiêu người. Chắc đông lắm?

    - Thưa ngài được 34 mạng, vũ trang tầm vông vạt nhọn và vài khẩu súng bắn chim cu của tụi Lê Dương mà anh em trong đội tuyên truyền chôm được.

    - Trong vòng 4 năm từ năm 1944 tới năm 1948, chỉ huy đội vũ trang tuyên truyền này ông có đánh trận nào chưa?

    Võ Khôi Nguyên lắc đầu quầy quậy.

    - Đánh gì với đám lính đó. Hù dân họ còn chưa sợ huống gì lính Pháp. Nó bắn chạy tóe khói.

    Nhếch nụ cười vị biện lý buông câu nói.

    - Không học trường quân sự nào, không theo khóa huấn luyện nào, chỉ huy toán lính tầm vông vạt nhọn, không đánh một trận nào mà năm 1948, tức lúc 38 tuổi, ông được bác của ông phong chức đại tướng.

    Có tiếng xì xầm nho nhỏ từ hàng ghế bị can mà người nghe đều biết là giọng nói của Hình Chí Mô.

    - Thằng cha biện lý của âm phủ nó dốt tiếng Việt. Nó hổng có biết đại tướng là tướng đại hay là tướng mà ta phong đại cho cái chức. Thằng Văn mà đánh đấm cái gì.

    Không biết có nghe câu nói của lão Hình Chí Mô không mà Thôi Phán Quan bình tịnh tiếp tục cuộc hỏi cung.

    - Bác Hình của ông dựa vào tiêu chuẩn nào hoặc yếu tố nào để phong cho ông chức đại tướng?

    Liếc nhanh xuống dãy bàn bị can, Võ Khôi Nguyên cười nhẹ.

    - Tôi có hỏi bác về chuyện này thì bác nói: ” Người nào đánh thắng đại tá thì phong đại tá, đánh thắng thiếu tướng thì phong thiếu tướng, đánh thắng trung tướng thì phong trung tướng, đánh thắng đại tướng thì phong đại tướng…”. Ngài thấy bác của tôi khôn ngoan và biết dùng người không. Cách phong chức của ổng cũng ngon lành lắm. Không những tôi mà cùng đợt thụ phong có Nguyễn Bình được phong trung tướng; Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Trần Tử Bình được phong thiếu tướng.

    - Theo những tài liệu mà âm phủ sưu tầm được thì từ năm 1944 cho tới 1948, bộ đội Việt Minh của ông chỉ tham dự có một trận đánh.

    Thôi Phán Quan bỏ lững câu nói của mình ở đó. Dường như ông ta muốn để cho bị can tự nói.

    - Ngài biện lý nói đúng. Đó là chiến dịch Việt Bắc hay còn gọi là chiến dịch Sông Lô. Đúng ra thì tụi Pháp nó đánh trước nhằm bắt toàn bộ các đồng chí cấp cao của đảng. Lãnh lệnh của bác, tôi chỉ huy lính án binh bên bờ Lô Giang chờ cho tàu chiến của thực dân Pháp cắm mũi vào để đổ lính lên là tôi ra lịnh nổ súng. Hàng chục khẩu bazoka nã vào khiến cho tàu bốc cháy. Chiến thắng sông Lô này các anh em tự vệ thành Hà Nội chiến đấu rất anh dũng, đã giết hơn 3000 lính Pháp. Ngoài ra các mặt trận khác như ở đèo Bông Lau, Chợ Mới, Chợ Đồn, Chợ Rã, Ngân Sơn, Bạch Thông, các anh em vệ quốc đoàn đã đẩy lui cuộc tấn công của thực dân và buộc chúng phải rút lui. Binh sĩ dưới quyền chỉ huy của tôi đã lấy được nhiều súng ống và đạn dược của địch quân bỏ lại trên đường rút lui.

    Thiên hạ im lặng nghe vị đại tướng của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam tường thuật vắn tắt về tài chỉ huy của mình. Riêng Thôi Phán Quan cười cười nói đùa một câu.

    - Ủa tôi tưởng là ông với bác của ông đang nằm dưới hầm trong chiến khu Việt Bắc để tránh máy bay của Pháp mà. Có người kể với tôi là ngài đại tướng có cái tật bị nhức tim khi nghe tiếng máy bay oanh tạc hoặc tiếng đạn đại bác réo qua đầu.

    Nói dứt câu Thôi Phán Quan mỉm cười khi thấy nét mặt của vị đại tướng bỗng trở nên cau có và giận dữ. Có lẽ ông ta biết vị đại diện của công tố viện của âm phủ nói xỏ mình. Từ lâu ông ta bị nhiều người chê bai và cười cợt vì cái tính chết nhát hay lạnh cẳng. Họ kháo với nhau rằng ông ta ít khi nào dám theo sát binh sĩ dưới quyền ra mặt trận vì sợ bị lạc đạn hay đạn đại bác rơi lầm.

    - Xin mời đại tướng cho nghe tiếp về những chiến dịch quan trọng mà ngài đã chỉ huy để đánh nhau với thực dân Pháp.

    Thôi Phán Quan lên tiếng. Được gãi đúng vào chỗ mình đang ngứa, Võ Khôi Nguyên cất giọng. Ông ta nói một hơi dài lưu loát như một học sinh thuộc bài.

    - Chiến Dịch Biên Giới Thu Đông năm 1950 là một chiến dịch cực kỳ quan trọng nhằm mục đích phá vỡ cái thế biệt lập của chiến khu Việt Bắc để mở một hành lang vận chuyển vũ khí và tiếp liệu từ các nước anh em trong khối cộng sản quốc tế như Liên Bang Sô Viết, Đông Âu và nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc. Ngoài ra nó cũng được tôi coi như là một giai đoạn thực tập và thử nghiệm để cho các tướng tá trong quân đội học hỏi đồng thời rút tỉa kinh nghiệm về những trận đánh lớn mà từ nào tới giờ chúng tôi ít có dịp thực nghiệm. Đây là lần đầu tiên tôi áp dụng một hình thái chiến tranh mới hay chiến thuật mới gọi là vận động chiến, đòi hỏi sự phối hợp của nhiều đơn vị cấp lớn cở trung đoàn, đại đoàn với sự tham dự của đơn vị pháo binh cơ động hay vũ khí nặng.

    - Như vậy đại tướng nhìn nhận từ nào tới giờ quân đội do đại tướng chỉ huy chưa có đánh trận nào lớn hơn cấp trung đoàn.

    Bình với Đán nhận thấy Dương Hoài Nam tỏ ra suy nghĩ và lưỡng lự trước khi trả lời câu hỏi của Thôi Phán Quan.

    - Thưa ngài biện lý. Tôi nhìn nhận là quân đội do tôi chỉ huy chưa đánh trận nào lớn hơn cấp trung đoàn trước khi chiến dịch biên giới được mở ra.

    Thôi Phán Quan ngắt lời liền.

    - Thế thì tại sao bác của đại tướng lại vin vào câu nói ” Người nào đánh thắng đại tá thì phong đại tá, đánh thắng thiếu tướng thì phong thiếu tướng, đánh thắng trung tướng thì phong trung tướng, đánh thắng đại tướng thì phong đại tướng…”. Trước khi chiến dịch biên giới được mở ra thì đại tướng đâu có đánh thắng ông đại tướng nào của địch đâu.

    Vị ” thiên tài quân sự ” của đảng cộng sản Việt Nam cười cười điềm đạm thốt.

    - Thưa ngài biện lý. Cái đó là bác nổ bậy. Bác hứng sảng bác nổ cho vui vậy mà. Ngài cũng biết là bác cũng như chúng tôi ở trong rừng lâu quá, hổng có dịp tiếp xúc với người nữ để giải tỏa tâm sự riêng nên nhiều khi cái hứng nó lên bất ngờ hổng có kiềm giữ được do đó phải nổ. Không nổ chỗ này thì phải nổ chỗ nọ. Hổng nổ ở dưới thì phải nổ ở trên. Hổng nổ là mất lập trường, chưa đả thông tư tưởng.

    Thôi Phán Quan mỉm cười khi nghe Võ đại tướng giải thích.

    - Tôi mời ngài đại tướng thuyết trình sơ qua cho tòa nghe về chiến dịch biên giới do ngài chỉ huy.

    - Theo như sở kiến của tôi, vào thời điểm mà chiến dịch biên giới được khai diễn, thì quân đội thực dân Pháp xem Bắc Việt như là một chiến trường chính. Chúng đã đề ra chiến lược và chiến thuật như mở rộng vùng kiểm soát vùng đồng bằng, cũng cố các cứ điểm vùng biên giới Việt Hoa, kiện toàn quân đội quốc gia bản xứ để xử dụng nó như là một đối đầu với Quân Đội Nhân Dân do tôi chỉ huy. Để giành lại thế chủ động trên chiến trường, địch thành lập các binh đoàn lưu động, di chuyển nhanh và nhảy vào trận địa một cách thình lình. Ngoài ra chúng cũng cố gắng thiết lập các cứ điểm quan trọng để bảo vệ và kiểm soát đường số 4 hầu cô lập chiến khu Việt Bắc với đồng bằng Bắc Bộ. Biết được ý đồ của thực dân Pháp, tôi và thiếu tướng Hoàng Văn Thái tổng tham mưu trưởng, phó tổng tham mưu trưởng Đào Văn Trường, dưới sự chỉ đạo và cố vấn của bác đã điều nghiên và phác họa một chiến lược và chiến thuật để bẽ gãy thế công của địch.

    - Ủa bác của ông cũng biết cầm quân nữa à?

    Thôi Phán Quan hỏi và Vỏ Khôi Nguyên đáp không do dự.

    - Biết chứ. Cầm quân bác cũng biết mà cầm quần phụ nữ bác còn giỏi hơn nữa. Bác thường nói ” đánh giặc thì có khó khăn gì đâu. Đánh giặc giống như vật lộn với đàn bà con gái vậy mà.’‘ Mấy cái chiến thuật như ” công đồn đả viện “, ” tứ khoái nhất mạn “ là do bác nghĩ ra sau nhiều đêm vật lộn với các nữ đồng chí. Cái chuyện bác đánh vật còn dài lắm, vậy tôi xin phép ngài nói tiếp về chiến dịch biên giới do tôi chỉ huy. Ngày 16 tháng 9 năm 1950, trung đoàn 174 và trung đoàn 209 của quân Việt Minh do tướng Hoàng Văn Thái chỉ huy đánh chiếm cứ điểm Đông Khê với mục đích cô lập Cao Bằng, uy hiếp cứ điểm Thất Khê và phá thế trận phòng thủ của quân Pháp trên đường số 4, mở đầu cho chiến dịch biên giới thu đông 1950. Đông Khê do hai đại đội thuộc tiểu đoàn 2 trung đoàn 3 bộ binh lê dương trấn giữ. Đến ngày 18, cứ điểm Đông Khê hoàn toàn thất thủ. Mặc dù được yểm trợ tối đa về hỏa lực của máy bay, căn cứ này cũng không chịu nổi sức tấn công kiên cường và tinh thần chiến đấu cao độ của bộ đội.

    Tằng hắng tiếng nhỏ như ra hiệu cho Võ đại tướng ngừng nói, Thôi Phán Quan hỏi liền.

    - Hai đại đội lính lê dương có bao nhiêu người. Vì không có cầm quân nên tôi không rõ.

    - Thưa ngài biện lý. Hai đại đội lính lê dương có khoảng 200 người.

    - Ạ. Ngài đại tướng đem hai trung đoàn để đánh hai đại đội. Như vậy ngài thắng là lẽ đương nhiên. Xin hỏi ngài dùng chiến thuật gì để đánh đồn Đông Khê?

    Võ Khôi Nguyên mỉm cười thong thả đáp.

    - Tôi dùng chiến thuật biển người. Đây là chiến thuật mới của quân đội nhân dân Trung Quốc mà tôi học lóm được. Với lại nước tôi cũng có câu nói tương tự là ” Mười thằng đánh một, hổng chột cũng què.’‘. Bởi vậy địch có hai trăm tôi đem hai ngàn, địch có hai đại đội tôi đem hai trung đoàn đánh cho chắc ăn. Bây giờ tôi xin nói tiếp về chiến dịch biên giới.

    Bộ tham mưu quân đội Pháp mở cuộc hành quân với hai đơn vị chủ lực tạo thành thế gọng kềm với hai mục đích là tái chiếm Đông Khê, tái lập lưu thông quốc lộ 4 và dụ các đại đơn vị của chúng tôi vào một chiến địa do chúng dàn ra trước. Đơn vị thứ nhất từ Thất Khê tiến lên Đông Khê, còn đơn vị thứ nhì từ Cao Bằng kéo xuống Đông Khê. Chúng không ngờ là tôi đã bố trí các đại đơn vị để chờ đợi. Đại đoàn 308 chiếm cao điểm ở núi Ngọc Trà và núi Khâu Luông để khống chế Đông Khê và trục lộ số 4. Ngày 1 tháng 10 năm 1950, các đơn vị chủ lực của đại đoàn 308 đã liên tục phục kích và gây thiệt hại nặng cho cánh quân từ Thất Kê kéo lên. Ngày 4 tháng 10, tiểu đoàn dù Lê Dương số 1 và Tabor phải rút chạy khỏi Khâu Luông về cố thủ ở Cốc Xá, cách Đông Khê chừng 6 cây số về hướng tây Nam để đợi viện binh từ Cao Bằng. Cùng lúc đó tôi điều động trung đoàn 209 hay Trung Đoàn Sông Lô tới Quang Liệt, làm thành thế gọng kềm đánh ép vào hướng bắc của Đông Khê sau khi cánh quân của địch từ Cao Bằng kéo xuống và hội với cánh quân ở Cốc Xá.

    Ngày 5 tháng 10, đại đoàn 308 vây Cốc Xá và cao điểm 477 của địch. Trung đoàn Sông Lô chặn phía bắc Đông Khê, còn trung đoàn 174 đóng chốt ở Cốc Phồn và Khâu Bia chặn cứng đường rút lui của địch. Sáng sớm ngày 6 tháng 10, trung đoàn 36 của đại đoàn 308 tấn công Cốc Xá. Khoảng xế chiều thì các cứ điểm của địch đã bị tràn ngập. Cả binh đoàn của địch gồm có 2500 người chỉ còn lại 600 cho nên phải tháo lui về cao điểm 477. Cùng lúc đó, 5 tiểu đoàn thuộc đại đoàn 308 đã tấn công và giao tranh ác liệt với địch tại cao điểm 477. Không chịu nổi sự tấn công dữ dội và liên tục của quân đội nhân dân Việt Nam, các đơn vị địch phải mở đường máu về Nà Cao. Tính đến ngày 8 tháng 10, chúng tôi đã đánh tan 8 tiểu đoàn địch cũng như thu nhặt được nhiều vũ khí và quân dụng đủ trang bị cho một đại đoàn.

    Ngay khi vị đại tướng dứt lời Thôi Phán Quan cười thốt.

    - Ngài đại tướng kể chuyện đánh giặc thật hay làm tôi tưởng mình đang ở trong lớp trường trung học Thăng Long nghe ngài giảng về sử ký mấy chục năm trước, đúng như câu nói ‘‘ Giap, il fait laguerre sur le tableau…”

    Vị đại tướng thiên tài quân sự đỏ mặt tía tai khi nghe câu nói bằng tiếng tây của Thôi Phán Quan. Nhìn trừng trừng vào mặt vị biện lý ông ta sẳng giọng.

    - Ai nói với ông như vậy? Tôi…

    Bắt gặp nụ cười mỉa của Thôi Phán Quan, vị đại tướng vội ngưng nói.

    - Chắc đại tướng còn nhớ viên thượng sĩ thuộc binh đoàn Lê Dương tên Ersnt Frey mà bác của đại tướng đã đặt tên cho ông ta là Nguyễn Dân và phong cho ông ta chức đại tá. Tôi nghĩ là đại tướng phải nhớ ông thầy quân sự của mình. Viên thượng sĩ này từng là thầy của nhiều sĩ quan trong quân đội của đảng cộng sản, từng là chỉ huy trưởng Quân Khu 9, Ủy Viên Dự Khuyết Bộ Chính Trị và phụ tá cho thiếu tướng Nguyễn Sơn, Tư Lệnh Liên Khu 5. Đại tướng chắc không xa lạ gì với tướng Nguyễn Sơn?

    Vị thiên tài quân sự của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam nín lặng không trả lời. Thôi Phán Quan cười tiếp.

    - Đại tá Nguyễn Dân là người đã phát biểu câu: ” Giap, il fait la guerre sur le tableau…” mà tướng Nguyễn Sơn dịch ra tiếng Việt ” Đồng chí Văn, hắn chỉ biết đánh giặc trên bàn giấy.”. Tôi nghĩ đại tướng đã nghe câu nói này nhiều lần. Nếu đại tướng quên thì tôi sẽ nhờ họ lên đây làm nhân chứng.

    Có tật thì giật mình. Võ đại tướng nín thinh trước lời hăm dọa của Thôi Phán Quan. Không bỏ lỡ dịp may vị biện lý bồi thêm.

    - Nhiều người viết sách báo ca tụng ông là một tướng giỏi, chuyên áp dụng nghệ thuật lấy ít đánh nhiều, lấy yếu chế mạnh. Trái lại đối với đại tá Nguyễn Dân và tướng Nguyễn Sơn, một người từng là thầy và một người từng quen biết nhiều với ông, họ có nhận định về tài chỉ huy của đại tướng. Họ nói ông không chỉ điều binh dở mà còn có cái tội ” nướng quân ” hay thí quân một cách tàn nhẫn.

    Liếc thấy đồng hồ trên tường chỉ quá 5 giờ chiều, Thôi Phán Quan cười nói với bồi thẫm đoàn.

    - Biết chín vị đã đã mệt nhọc và nhức đầu vì nghe chuyện đánh giặc của vị đại tướng thiên tài quân sự của đảng cộng sản Việt Nam nên tôi xin tạm ngưng phiên xử ở đây. Sáng mai tôi kính mời bồi thẫm đoàn và mọi ngưới nghe tiếp vị đại tướng kể về chiến dịch Trung Du để thấy rõ tài đánh giặc của ông ta.

  2. #21
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    -16-
    Nhà thơ làm kinh tế
    Thống chế đi đặt vòng

    - Ông Thôi Phán Quan sẽ lôi ai ra làm nhân chứng hôm nay hả anh Bảy?

    Một người ngồi nơi cuối phòng xử lên tiếng hỏi. Một giọng nói khàn khàn và già nua vang lên trong phòng xử ồn ào.

    - Làm sao tao biết được. Vị thiên tài quân sự của đảng cộng sản Việt Nam có nợ máu với nhân dân và các phe phái của người quốc gia nhiều lắm. Hồi còn làm Bộ Trưởng Đặc Trách Công An, Võ đại tướng giết hàng loạt các đảng viên của Quốc Dân Đảng. Chỉ nội vụ Ôn Như Hầu không cũng đủ làm hắn rủ xương trong tù rồi.

    Người nói vội ngưng bặt khi thấy ông vua âm phủ từ sau cửa riêng bước ra. Thiên hạ không hẹn đứng lên chào đón. Giơ tay ra hiệu cho mọi người ngồi xuống xong Diêm Vương hắng giọng.

    - Ta trân trọng mời Thôi Phán Quan tiếp tục phiên xử tên Võ Khôi Nguyên.

    Tằng hắng tiếng nhỏ, vị đại diện cho công tố viện của âm phủ thong thả bước tới đứng trước mặt Võ Khôi Nguyên đang ngồi trên ghế bị can.

    - Chào đại tướng. Chắc sáng nay sức khỏe của ngày phải khá hơn hôm qua.

    - Cảm ơn ngài biện lý. Hôm nay tôi xin tường thuật cho tòa nghe về thêm vài trận đánh do tôi chỉ huy.

    Thôi Phán Quan cười nhẹ.

    - Xin mời đại tướng. Tôi rất hân hạnh được nghe ngài đại tướng đánh giặc trên bàn giấy.

    Vị thiên tài quân sự của đảng cộng sản Việt Nam dựng mặt vì câu nói mỉa của Thôi Phán Quan. Định lên tiếng sừng sộ song liếc về phía Diêm Vương, thấy ông ta đang chiếu tướng mình, Võ đại tướng cười gượng gật đầu. Mọi người im lặng lắng nghe Võ đại tướng bắt đầu mở chiến dịch bằng miệng.

    - Chiến dịch Trần Hưng Đạo hay chiến dịch Trung Du là một trong những cuộc tiến công lớn của quân đội nhân dân Việt Nam vào phòng tuyến trung du bắc bộ của quân Pháp. Đây là một trong 3 chiến dịch lớn trong đông-xuân 1950-1951. Lợi dụng tình trạng xuống tinh thần sau khi thất bại trong chiến dịch biên giới của thực dân Pháp, tôi ra lệnh mở cuộc tiến công vào vùng trung du, tạo áp lực bắt buộc địch quân phải điều động một phần lực lượng tại đồng bằng bắc bộ lên tiếp cứu, tạo điều kiện cho các đơn vị bộ đội địa phương, đặc biệt là lực lượng các trung đoàn 48, 42… phối hợp với dân quân tại địa phương phát động chiến tranh du kích tại khu vực này mà từ lâu bị hạn chế do các cuộc càn quét liên tiếp của Pháp. Trong đợt 1 của chiến dịch, quân cách mạng tạo được nhiều thắng lợi lớn tại cả hai mũi tiến công ở Vĩnh Phúc và Hải Ninh. Do đó, bộ chỉ huy chiến dịch do tôi làm tư lệnh quyết định giải phóng Vĩnh Yên, một thị xã quan trọng chỉ cách Hà Nội có 55 km. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm có các đơn vị chủ lực là đại đoàn 308 với 3 trung đoàn 102, 88 và 36; đại đoàn 312 gồm 2 trung đoàn 209 và 141; hai trung đoàn biệt lập là trung đoàn 98 và trung đoàn 174. Ngoài ra còn có 4 tiểu đoàn bộ đội địa phương và 4 đại đội pháo binh 75 ly. Tổng cộng quân số của chiến dịch gần 30 ngàn binh sĩ, đó là chưa kể đám dân công hơn trăm ngàn người. Sau đây tôi xin được phép kể một cách chi tiết hơn.

    Ngừng lại đưa tay nhấc lấy ly nước lạnh uống một ngụm cho thông cổ xong vị đại tướng già nua hắng giọng.

    - Nhờ vào các tin tức cung cấp bởi các tổ tình báo nhân dân, tôi và bộ tham mưu chiến dịch biết rất rõ về lực lượng của địch ở ba tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Ninh và Bắc Giang. Chúng có khoảng 15 ngàn binh sĩ, gồm 9 ngàn lính Lê Dương, 5 ngàn lính người Việt và một ít lính của chánh phủ Bảo Đại. Điều đáng quan tâm là chúng có nhiều binh đoàn cơ động Bắc Giang, Bắc Ninh, Đông Triều. Riêng binh đoàn cơ động số 3 đóng tại Việt Trì và Vĩnh Yên. Chiến dịch Trung Du được chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn 1 xảy ra vào ngày 25 tháng 12 năm 1950 khi binh đoàn cơ động số 3 cùng với tiểu đoàn Mường mở cuộc hành quân Bécassine vào vùng Lập Thạch và Tam Dương thuộc Vĩnh Yên, Phú Thọ đúng vào nơi đại đoàn 312 đang đóng giữ. Đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn báo cáo và tôi ra lệnh tấn công. Cùng ngày, tiểu đoàn 10 dù thuộc địa và tiểu đoàn Mường chia làm hai cánh tiến vào Liễn Sơn, Xuân Trạch thuộc huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Được báo cáo tôi lập tức cho trung đoàn 141 chặn đánh, buộc địch phải lui về cố thủ ở Liễn Sơn chờ cứu viện.

    Ngày 26, tiểu đoàn Senegal lên ứng cứu cũng bị chặn đánh, phải lui về Xuân Trạch. Ngày 27, đại đoàn 312 tiến công mạnh vào Xuân Trạch-Xuân Hoà thuộc huyện Lập Thạch, xoá sổ tiểu đoàn 24 của địch, bắt sống tiểu đoàn trưởng Piscard với 300 quân, đồng thời đánh tan tiểu đoàn 10 Dù thuộc địa. Từ ngày 26 đến ngày 29, dưới sự điều động của tôi quân đội cách mạng lần lượt đánh chiếm các vị trí chiến thuật như Hữu Bằng, Thằn Lằn, Tứ Tạo, Đồi Cà Phê. Tuy nhiên trung đoàn 209 tấn công Chợ Vàng không thành công vì gặp phải sức kháng cự mạnh mẽ của địch.

    Nhân lúc Võ đại tướng ngừng lại để uống nước cho thông cổ sau khi tường thuật một cách chi tiết và mạch lạc các trận đánh trong giai đoạn đầu của chiến dịch Trung Du, Thôi Phán Quan cười hỏi.

    - Trong lúc các chiến sĩ đang đánh nhau với địch thì ngài đại tướng ở đâu và làm gì?

    Nhờ ngồi gần nên Bình thấy nét mặt của Võ đại tướng ưng ửng đỏ và thái độ của ông ta có chút ngượng ngùng và do dự khi trả lời câu hỏi của Thôi Phán Quan.

    - Tôi thì lúc đó. lúc đó tôi cũng có mặt ở chiến trận đểchỉ huy anh em. Tôi cũng theo anh em…

    - Ngài đại tướng theo anh em mà theo gần hay xa. Nếu gần thì gần bao nhiêu, còn xa thì xa bao nhiêu. Giả dụ như một cây số hay năm ba cây số.

    Suy nghĩ giây lát vị đại tướng, thiên tài quân sự của đảng cộng sản Việt Nam tặc lưỡi trả lời chầm chậm.

    - Bây giờ già cả, tuổi gần đất xa trời nên tôi không nhớ rõ lắm song đoán chừng non cây số. Là kẻ chỉ huy mình phải ở xa xa cho chắc ăn vì nếu mình ăn đạn chết thì lấy ai chỉ huy anh em binh sĩ. Tôi phải ở ngoài tầm bắn của cà nông địch chứ. Tôi mà ngủm thì lấy ai săn sóc cho cô vợ trẻ đẹp, hấp dẫn và lãng mạn của tôi.

    Diêm Vương chợt lên tiếng xen vào câu chuyện giữa bị can và Thôi Phán Quan.

    - Vậy à. Ngươi có mấy vợ?

    - Bẩm Diêm Vương. Con có hai vợ. Người vợ thứ nhất bị tụi thực dân Pháp bắt bỏ tù rồi qua đời trong tù. Sau đó con mới cưới vợ khác.

    Diêm Vương gật gù.

    - Như vậy thì được. Ta nghe đồn là mấy thằng bây đứa nào cũng vợ chính vợ bé, vợ lẽ vợ mọn, đào nhí bồ trẻ. Như tên hình thằng hồ gì đó, nó có bồ Tây, vợ Việt vợ Tàu, Nga đủ thứ. Đi làm cách mạng như nó sướng thật.

    - Bẩm Diêm Vương ngài nói đúng. Đi làm cách mạng sướng lắm nhưng phải làm ông lớn thì mới sướng.

    Quay qua Thôi Phán Quan, ngài đại tướng cười cười.

    - Thiên hạ đồn đại là tôi nhát khi chỉ huy binh sĩ đánh nhau thì tôi ở xa xa và ở dưới hầm núp. Số là trước khi tôi ra trận thì vợ có dặn bảo phải cẩn thận, đừng có làm anh hùng mà chết bỏ vợ bỏ con. Bả còn dặn dò thêm cà nông, đại bác và mọt chê của Pháp bắn xa lắm do đó tôi phải ở xa và núp dưới hầm kiên cố, chớ có dại dột mà ra mặt trận, rủi bị thương cưa giò cưa cẳng thì uổng đời trai trẻ. Nàng còn hăm he là anh phải giữ gìn, mất cẳng nào chứ đừng có làm mất cái cẳng giữa của em.

    Thiên hạ bật cười khi nghe ” thiên tài quân sự của đảng cộng sản Việt Nam “ thố lộ tâm tình. Diêm Vương nở nụ cười ý nhị. Liếc nhanh Thôi Phán Quan cũng đang mỉm cười, ông ta hắng giọng.

    - Hóa ra ngươi là người chồng tốt, biết nghe lời vợ dạy. Ít có người nào được như ngươi.

    - Bẩm Diêm Vương thông cởm… Con có vợ trẻ mà vợ của con lại hay thích nắm đầu chồng mà con thì có tính chiều vợ nên vợ bảo sao con làm vậy. Dân của con có nói câu ” Nhất vợ nhì trời” thưa Diêm Vương.

    Vị vua âm phủ gật gù. Võ đại tướng cao giọng.

    - Sau khi giai đoạn 1 của chiến dịch Trung Du vừa chấm dứt, không để cho địch có dịp bổ sung quân số và điều động thêm quân tiếp viện, tôi lập tức mở ra giai đoạn 2 bằng cách cho ba trung đoàn 36, 88 và 102 của đại đoàn 308 phối hợp với hai trung đoàn 141 và 209 của đại đoàn 312 và hai tiểu đoàn du kích của tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc cộng thêm ba liên đội sơn pháo 75 ly cùng lúc tiến công vào thị xã Vĩnh Yên. Hướng phụ từ Đông Bắc sẽ chuyển về Bắc Giang với 2 trung đoàn 174 và 98 cùng với 3 tiểu đoàn địa phương Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Yên và 1 liên đội sơn pháo 75 ly. Hướng phối hợp là mặt trận Sơn Tây do đại đoàn 320 và tiểu đoàn địa phương Sơn Tây – Hà Đông phụ trách. Đại đoàn 304 và lực lượng địa phương chịu trách nhiệm mặt trận Ninh Bình. Mặt tả ngạn giao cho trung đoàn 42 và lực lượng địa phương. Đêm 12 tháng 1, trên hướng thứ yếu ở phía bắc, trung đoàn 98 và 174 nổ súng trước. Trung đoàn 174 tiêu diệt đồn Đồng Kế. Trung đoàn 98 đánh Cẩm Lý không thành công. Đêm 13, trung đoàn 141 tấn công Bảo Chúc, vị trí cách Vĩnh Yên 11 km về phía Tây Bắc. Trận đánh kết thúc vào trưa ngày 14. Sáng ngày 14, Pháp cho quân lên cứu Bảo Chúc. Tiểu đoàn Mường tới Thuỷ An thì bị trung đoàn 209 chặn đánh, lui về Cẩm Trạch. Các tiểu đoàn khác cũng bị chặn đánh khiến cho Paul Vanuxen phải lui về Vĩnh Yên cố thủ. Ở hướng phối hợp thì đại đoàn 320 tiêu diệt 9 vị trí nhỏ của địch nằm trên đường số 11 Sơn Tây – Trung Hà; tiêu diệt 1 đại đội Âu Phi, thu 1 khẩu pháo. Đại đoàn 304 tiêu diệt 6 vị trí nhỏ ở Ninh Bình. Bộ đội địa phương 5 tỉnh trung du phối hợp tác chiến từ ngày 20 tháng 12 năm 1950 đến ngày 11 tháng 1 năm 1951 thu được một số kết quả. Riêng bộ đội địa phương ở Vĩnh Tường tiêu diệt 1 đồn, 9 tháp canh, rồi tràn ngập Chợ Vàng mà trong đợt 1, trung đoàn 209 đánh hai lần không thành công. Tại Hà Nội, tướng Salan lập tức điều binh đoàn cơ động số 1 tiến lên Phúc Yên để thọc vào bên hông của quân cách mạng. Một tiểu đoàn dù khác nhảy xuống Đồng Đau cách Vĩnh Yên 5 km. Bay từ Sài Gòn ra Hà Nội, De Lattre chỉ thị cho Salan và Redon tới Vĩnh Yên, cùng lúc tung binh đoàn cơ động số 2 từ Lục Nam vào Vĩnh Yên đồng thời ra lệnh cho tham mưu trưởng Allard lấy 5 tiểu đoàn ở miền Nam đưa ra bắc tăng viện cho mặt trận Vĩnh Yên. Sau đó, De Lattre chỉ thị cho đại tá chỉ huy không quân Maricourt sử dụng bom napalm do tàu chiến của Hoa Kỳ vừa cập cảng Hải Phòng và huy động toàn bộ máy bay dội bom vào các đơn vị của quân cách mạng tại Vĩnh Yên. Lo sợ Vĩnh Yên chỉ là nghi binh để mở cuộc tiến công từ Tam Đảo về Hà Nội, De Lattre ra lệnh tập trung một lực lượng bộ binh quan trọng và xe tăng án ngữ tại mạn Bắc thành phố về phía cầu sông Đuống. Sáng ngày 15, binh đoàn cơ động số 1 tiến lên giải vây Vĩnh Yên. Đụng phải trung đoàn 102 ở Ngoại Trạch (Bình Xuyên), Khai Quang, Mậu Thông (Tam Dương), binh đoán số 1 phải triệt thoái về Hương Canh sau những trận giao tranh đẫm máu. Áp dụng chiến thuật biển người, thí quân, tôi chỉ thị cho quân cách mạng tấn công bất chấp thiệt hại để tiêu diệt 2 đại đội của tiểu đoàn 3 trung đoàn 1 bộ binh Algérie. Binh đoàn số 1 bị lâm vào tình thế chống đỡ. Tướng De Lattre sử dụng máy bay ném bom xăng đặc vào những vị trí của quân cách mạng. Đụng phải thứ bom lửa kỳ cục quân cách mạng bị đốt cháy và tử thương rất nhiều. Tên tướng De Lattre quả là tay liều mạng và chơi bạo. Hắn cho máy bay ném bom lửa vào ngay trận địa bất kể bạn hay thù. Lúc đó tôi ở cách trận địa cây số mà còn bị lửa đốt nóng mặt huống hồ gì anh em binh sĩ ở ngay mặt trận. Nhiều người bị dính xăng nóng quá nhảy xuống nước để lập tắt lửa rồi khi nhảy trở lên bờ xăng lại bốc cháy trở lại. Nhận được báo cáo tôi tức tốc tới thị sát mặt trận rồi sau đó ra lịnh rút lui.

    - Đánh trận này ngươi thắng hay bại?

    Diêm Vương hỏi gọn. Ngập ngừng giây lát vị đại tướng, cựu bộ trưởng quốc phòng kiêm tổng tư lệnh của quân đội nhân dân Việt Nam trả lời.

    - Bẩm Diêm Vương. Con hổng dám nói dối ngài. Con bị thằng De Lattre dạy cho bài học quân sự nhớ hoài hổng có quên. Không những chiến dịch Trung Du mà hai chiến dịch sau là Hoàng Hoa Thám và Quang Trung con đều bị nó đánh xiểng niễng.

    Hơi mỉm cười Thôi Phán Quan chuyển cuộc thẩm cung của mình sang đề tài khác.

    - Sau khi Nhật lật đổ Pháp ở Việt Nam ngày 9 tháng 3 năm 1945, lợi dụng thời cơ đảng cộng sản liền cướp lấy chính quyền và thiết lập nội các. Hình như ông được bác của ông giao cho giữ chức vụ Bộ Trưởng Đặc Trách Lực Lượng Công An. Đúng không?

    Võ đại tướng nín thinh. Im lặng có nghĩa là nhìn nhận. Dĩ nhiên ông ta biết Thôi Phán Quan đã nắm trong tay những tài liệu mật liên quan tới đời hoạt động cách mệnh của mình, thành ra có mở miệng chối cũng chỉ làm trò cười cho thiên hạ. Cách tốt nhất là không nói. Giọng nói của vị đại diện công tố vang vang ai cũng nghe rõ.

    - Theo những tài liệu mà âm phủ thu lượm được thì khi lên làm bộ trưởng, ông đã tuyển dụng nhân viên gồm toàn kẻ lưu manh, những tên ăn cướp, những thằng giết người để khủng bố dân lành hay tàn sát những thành phần quốc gia chống cộng sản. Với chủ trương ” bắt lầm hơn tha lầm, thà giết lầm 10 người còn hơn tha lầm 1 người” đám công an sát nhân của ông đã tổ chức nhiều cuộc ” thanh lọc” để tàn sát tất cả những ai tỏ dấu chống cộng sản hay nghi ngờ họ có liên hệ với Pháp. Vì thế, chỉ cần một vài mẫu vải, các loại chỉ may có màu sắc xanh đỏ khác nhau đám công an sát nhân của ông có thể kết tội người ta là ” Việt gian phản động” . Mà Việt gian phản động có nghĩa là tử hình. Nói chung thời gian ông làm trùm công an quả là thời kỳ đen tối và kinh hoàng cho toàn thể dân chúng VN, đâu đâu cũng xảy ra các vụ bắt cóc, thủ tiêu và ám sát mà thủ phạm đều là nhân viên công an của ông. Một số đông các nhân vật tên tuổi như Cung Đình Vận, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Tạ Thu Thâu đều bị sát hại trong thời gian ông làm Bộ Trưởng Đặc Trách Công An. Xin ông vui lòng kể cho tòa nghe với chức vụ Bộ Trưởng Đặc Trách Lực Lượng Công An ông đã làm gì mà sau này nhiều người ta cho rằng ông độc ác lắm.

    Ngừng lại giây lát Thôi Phán Quan buông câu hỏi.

    - Hình như có lúc ông làm Bộ Trưởng Quốc Phòng kiêm nhiệm Bộ Trưởng Nội Vụ thay thế cho ông Huỳnh Thúc Kháng vắng mặt ở Hà Nội. Đúng không?

    Hỏi để mà hỏi vì chính Thôi Phán Quan đã có câu trả lời.

    - Hẳn ông còn nhớ vụ án Ôn Như Hầu? Ông dính líu như thế nào trong vụ giết người đó? Ông là chính phạm hay tòng phạm?

    Thôi Phán Quan gằn giọng. Võ Khôi Nguyên gật gật đầu thay cho lời nói. Tuy nhiên vị biện lý không bằng lòng về cái gật đầu của bị can. Nhìn thẳng vào mặt Võ Khôi Nguyên, ông ta gằn giọng.

    - Tôi muốn ông khai sự thực trước tòa về vụ Ôn Như Hầu cho 9 vị bồi thẫm nghe.

    Im lặng giây lát Võ Khôi Nguyên quay qua nói với Diêm Vương.

    - Bẩm Diêm Vương. Con có phải khai sự thực không. Ở một nước dân chủ và tự do như nước con thì con hổng bị bắt buộc phải nói nếu con không muốn nói. Như ở xứ tư bản Mỹ dân chủ và tự do thì con lấy điều số 5.

    Diêm Vương xì tiếng dài.

    - Lũ chúng ngươi mở miệng hô hào dân chủ tự do mà lại bắt bớ tù đày dân lành. Dân chủ gì mà bịt miệng không cho người ta nói trước tòa. Có thứ dân chủ tự do nào mà công an lại đạp vào mặt dân.

    Liếc nhanh xuống chỗ Hình Chí Mô đang ngồi, Võ Khôi Nguyên mỉm cười nói đùa.

    - Bẩm Diêm Vương. Đó là tự do dân chủ của những kẻ có chức, có quyền và có tiền.

    Đôi mắt của ông vua âm phủ rực lửa giận khi nghe Võ Khôi Nguyên nói câu trên. Thái độ xem thường luật pháp của hắn khiến cho ông ta giận cũng phải.

    - Ngươi không chịu nói thời ta sẽ ra lệnh chích thuốc cho ngươi nói.

    Hai tiếng ” chích thuốc ” thoát ra từ Diêm Vương khiến cho Võ Khôi Nguyên xanh mét mặt mày. Trong đời cách mạng hắn từng ” chích thuốc ” để thủ tiêu đối lập. Hắn cũng biết các đồng chí cũng dùng cách chích thuốc để giết hại lẫn nhau trong mưu đồ tranh chiếm quyền lực. Ba Duân và Sáu Búa hay Sáu Lừa đã cho thủ hạ bỏ thuốc độc vào trong chai nước ngọt để Dương Bạch Mai uống vừa xong là sùi bọt mép rồi lăn đùng ra chết. Nhiều tướng tá trong quân đội như Hoàng Văn Thái, Chu Văn Tấn, Lê Trọng Tấn bị hai thằng Ba Duân và Sáu Búa chích thuốc chết một cách bí mật. Cả ba ông tướng này đang mạnh cùi cụi bỗng nhiên lăn đùng ra chết một cách ngon lành chỉ vì bị nghi là ” theo chủ nghĩa xét lại “.

    - Khi vụ tiêu diệt trụ sở của Quốc Dân Đảng ở phố Ôn Như Hầu thì tôi bị bệnh nên không biết. Tới chừng tôi biết thì chuyện đã xảy ra rồi.

    Thôi Phán Quan cười khẩy.

    - Để tôi mời một nhân chứng lên đây kể cho tòa nghe về vụ Ôn Như Hầu. Lúc đó chúng ta sẽ biết rõ ai chủ mưu giết người.

    Quay về dãy bàn dành cho nhân chứng ngồi, Thôi Phán Quan cao giọng thốt.

    - Tôi kính mời ông Trần Tấn Nghĩa.

    Thiên hạ không có phản ứng nào khi nghe tên Trần Tấn Nghĩa. Có lẽ họ không biết nhân chứng là ai, dính líu như thế nào trong vụ Ôn Như Hầu.

    Đợi cho nhân chứng hoàn tất thủ tục của tòa xong Thôi Phán Quan mới bước tới đứng trước mặt nhân chứng cùng với câu hỏi bật ra.

    - Xin ông vui lòng cho biết ông giữ chức vụ gì của nhà nước cộng sản trước khi ông về hưu?

    - Thưa ngài biện lý. Tôi là đại tá, chuyên viên của Vụ Pháp Chế thuộc Bộ công an trước khi tôi về hưu.

    Khẽ gật đầu vị biện lý của âm phủ hỏi tiếp.

    - Khi vụ Ôn Như Hầu xảy ra thì ông giữ chức vụ gì?

    Liếc nhanh Võ Khôi Nguyên đang ngồi, Trần Tấn Nghĩa trả lời chậm và rõ ràng.

    - Lúc đó tôi là Đội Trưởng của Đội Trinh Sát Đặc Biệt thuộc Sở Công An Bắc Bộ.

    - Ai là thượng cấp của ông lúc đó?

    - Thưa lúc đó thì Sở Công An Bắc Bộ nằm dưới quyền chỉ huy của Bộ trưởng đặc trách Lực Lượng Công An, kiêm bộ trưởng quốc phòng kiêm bộ trưởng nội vụ là đại tướng Võ Khôi Nguyên.

  3. #22
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    - Xin ông vui lòng kể chi tiết về chuyện ông tham gia vào vụ bắt bớ các đảng viên Quốc Dân Đảng cho tòa nghe.

    Liếc nhanh vị đại tướng đang ngồi nơi ghế bị can, Trần Tấn Nghĩa cất giọng đều đều.

    - Cuối tháng 6 năm 1946, lãnh đạo Nha Công an Trung ương nhận được thông tin nghiêm trọng: Các đảng phái phản động cấu kết với quân Pháp đang ráo riết thực hiện kế hoạch gây rối, lật đổ Chính phủ Hồ Chí Minh. Nguồn tin được phối kiểm và giao cho hai điệp viên H120 và C3 của ta cài trong hàng ngũ địch làm rõ.

    Theo đó, nhân ngày Quốc khánh Pháp, tức ngày 14 tháng 7, phía thực dân Pháp tổ chức diễu binh trên một số đường phố Hà Nội. Quốc Dân Đảng sẽ bố trí người ném lựu đạn vào tốp lính da đen đang diễu binh. Nhân đó, phía Pháp đổ lỗi cho Việt Minh khiêu khích, không giữ được trật tự trị an và dùng quân đội đang diễu binh tấn công vào các vị trí trọng yếu của chính quyền cách mạng, vây bắt tất cả cán bộ cao cấp của Chính phủ; đồng thời thành lập một chính quyền tay sai…

    Cùng thời gian này, điệp viên C3 báo tin: Tại trụ sở của Quốc dân đảng tại 132 phố Duvigneau (nay là Bùi Thị Xuân – Hà Nội), bọn phản động đang in truyền đơn. Đến ngày 11/7/1946, C3 báo tiếp một tin quan trọng: Từ ngày 12/7, Quốc dân Đảng sẽ phân tán lực lượng, rút vào bí mật, không còn trụ sở công khai; chuẩn bị tiến hành bạo động tại Hà Nội và một số thị xã, thành phố…

    Trước tình hình đó, lãnh đạo Nha Công an Trung ương quyết định chọn trụ sở 132 Duvigneau là điểm tập kích đầu tiên. Rạng sáng 12/7, lực lượng Công an mưu trí đột nhập vào trụ sở này, khống chế tất cả các đối tượng có mặt, thu được nhiều tang vật gồm vũ khí, truyền đơn phản động kêu gọi lật đổ chính quyền cách mạng, máy in. Từ những chứng cứ này, lệnh tổng trấn áp các trụ sở của bọn phản động được ban hành.

    Đội trinh sát đặc biệt do tôi làm Đội trưởng được giao nhiệm vụ vây bắt bọn phản động tại trụ sở số 7 Ôn Như Hầu (nay là phố Nguyễn Gia Thiều – Hà Nội).

    Trần Tấn Nghĩa ngừng kể. Hớp ngụm nước lạnh cho thông cổ ông ta hắng giọng tiếp.

    - Khoảng 7 giờ sáng 12/7, tôi và nhân viên trinh sát dưới quyền đến trụ sở số 7 Ôn Như Hầu… Bọn lính gác chỉ cho mình tôi vào sau khi đã giữ lại vũ khí của tôi. Chúng đưa tôi đến sảnh đường và Phan Kích Nam đón tôi ở đây. Hắn to cao, đeo súng ngắn và mang kiếm dài lê thê theo kiểu nhà binh Nhật, mắt đeo kính trông rất hung dữ. Phan Kích Nam tự giới thiệu: ” Tôi, Phan Kích Nam, đại biểu Quốc hội, Trung ương Ủy viên Quốc dân Đảng, Tư lệnh đệ nhất chiến khu…”; rồi hỏi tôi: ” Vậy tôi được vinh dự đang nói chuyện với ai đây?” . Tôi ôn tồn xưng tên, đưa lệnh khám xét và nói rõ mục đích đến gặp Phan Kích Nam. Nhìn qua lệnh khám xét, Nam cười ngạo nghễ và nói giọng kẻ cả: ” Chú em ngây thơ ơi… Chú Đội trưởng trinh sát đặc biệt ơi… tại sao các người ký lệnh bắt, khám xét trụ sở của một đảng. Ta là đại biểu Quốc hội, là bất khả xâm phạm mà người ký lệnh bắt ta lại là Phó Chủ sự Việt Minh, là cái thá gì mà có sự lạ đời như vậy… Thôi chú em về đi “. Tôi bực lắm nhưng nhớ chỉ thị của cấp trên, nếu có gì vướng mắc phải thỉnh thị nên nhân cơ hội hắn nói vậy, tôi tỏ ra nghe lời và nói sẽ về báo cáo lại, có gì sẽ quay lại sau. Phan Kích Nam tỏ ra đắc chí: ” Có thế chứ, có thế mới đúng cách xử sự của người Nhà nước chứ” rồi hắn gọi vệ sĩ đưa trả súng cho tôi và tiễn tôi ra về.

    Sau khi xin ý kiến lãnh đạo Nha Công an Trung ương, chúng tôi trở lại số 7 Ôn Như Hầu lần thứ hai nhưng vẫn chưa có thời cơ ra tay. Đến lần thứ ba, khoảng trưa ngày 12/7, sau khi được lãnh đạo Nha Công an Trung ương đồng ý phương án khống chế, bắt Phan Kích Nam, chúng tôi quyết tâm thực hiện bằng được… Khi thấy chúng tôi lại tới, bọn lính gác trụ sở tỏ ra chủ quan; một tên đưa tôi vào gặp Phan Kích Nam. Tôi chủ động tháo thắt lưng đeo súng đặt lên bàn. Phan Kích Nam rót nước mời tôi, thái độ hắn tỏ ra tự mãn… Hắn sung sướng ra mặt và nói ” Có thế chứ, phải nể mặt Phan Kích Nam này chứ “. Sau khoảng 10 phút, tôi đứng dậy cáo biệt ra về và vờ quên súng. Phan Kích Nam liền cầm khẩu súng của tôi và đi theo nhắc: ” Này chú em, quên súng à? “. Biết địch đã trúng kế rồi, tôi rút khẩu súng Colt giấu trong người, chĩa thẳng vào Nam và quát: ” Đứng im, động đậy tao bắn vỡ sọ “ và bằng động tác nhanh gọn ra đòn khiến Nam lảo đảo khụy xuống. Tôi bẻ quặt tay hắn ra đằng sau và ra lệnh cho bọn lính gác còn đang ngỡ ngàng chưa kịp hiểu điều gì xảy ra, ” Phải bỏ súng không được chống cự “... Việc bắt được Phan Kích Nam đã mở đầu cho cuộc tổng trấn áp các tổ chức phản động, đập tan âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng.

    Ngừng kể nhìn Thôi Phán Quan giây lát, Trần Tấn Nghĩa nói nhỏ.

    - Tôi chỉ biết vậy thôi. Lệnh cấp trên bảo sao tôi làm vậy.

    Thôi Phán Quan gật đầu cười.

    - Nghe chuyện ông kể tôi tưởng như tôi đang đọc tiểu thuyết gián điệp Z28 Tống Văn Bình hay xem phim Jame Bond 007. Dù sao tôi cũng cám ơn ông đã ra trước tòa khai những gì ông đã làm.

    Đợi cho nhân chứng Trần Tấn Nghĩa rời chỗ ngồi xong Thôi Phán Quan mới cười nói với Võ Khôi Nguyên.

    - Tôi cho đại tướng một phút đồng hồ suy nghĩ. Nếu đại tướng không chịu khai sự thật thì tôi sẽ yêu cầu tòa chích thuốc.

    Võ Khôi Nguyên làm thinh rồi lát sau mới thở hắt hơi dài.

    - Thôi để tôi kể. Chuyện xảy ra mấy chục năm rồi, tôi có kể chắc cũng không làm hại tới đảng đâu. Vụ Ôn Như Hầu đầu đuôi như sau.

    Võ Khôi Nguyên ngừng lại nhìn xuống dãy bàn bị can ngồi. Ngước mắt lên trông thấy Thôi Phán Quan đang nhìn mình trừng trừng, hắn gượng cười bắt đầu cất giọng kể.

    - Bác trước khi đi thăm hữu nghị nước Pháp đã giao quyền chủ tịch nước lại cho cụ Huỳnh Thúc Kháng, lúc đó đang giữ chức vụ Bộ Trưởng Nội Vụ. Đêm hôm trước khi lên máy bay bác có dặn kín tôi như vầy. ” Chú cũng biết là đám đảng phái quốc gia còn nguy hiểm hơn ba thằng Tây nữa. Tụi quốc gia nó không ưa mình vì mình coi đảng trọng hơn đất nước. Vì vậy khi tôi đi rồi chú hãy tìm cách triệt đám Quốc Dân Đảng và những thằng nào không theo mình. Giầ… giết hết tụi nó bởi vì không giết tụi nó thì có ngày mình cũng chết với nó…” Ngài biện lý cũng biết phao tin đồn thất thiệt, vu cáo là nghề của tụi tôi mà. Tôi cho người loan truyền tin là đúng ngày 14 tháng 7, Việt Nam Quốc Dân Đảng sẽ đưa quân cảm tử đến hành thích các nhân viên chính phủ tham dự lể duyệt binh của Pháp. Dựa vào chứng cớ đó, tôi nhắm vào địa điểm số 9 đường Ôn Như Hầu để tấn công. Đây là Trụ sở Ban Tuyên huấn Đệ Thất Khu Đảng Bộ VNQDĐ từ Quảng Ngãi mới thuyên chuyển ra đóng lầu trên, còn lầu dưới dùng làm nơi huấn luyện cho các cán bộ từ các nơi đưa về.

    Ngày 12-7-46, sở Quân Vụ Thành Phố Hà Nội ra lệnh giới nghiêm toàn thành, rồi lợi dụng giờ giới nghiêm vắng người qua lại, Sở Công An Bắc Bộ xuống các bệnh viện Bạch Mai và Phủ Doãn, chở một số xác chết vô thừa nhận đem vứt trong trụ sở của Việt Nam Quốc Dân Đảng đồng thời cho mai phục vũ khí quanh rồi bắt đầu mở cuộc đột kích vào trụ sở bắt tất cả những người có trách nhiệm tại đó và bí mật đưa đi giam. Trong số có Phan Kích Nam, một đảng viên Việt Quốc lỗi lạc, cùng với tài liệu quan trọng liên quan đến kế hoạch định lật đổ chính phủ của Hồ Chí Minh.

    Sáng ngày 13-7 tôi cho công an khai quật các hầm chôn xác chết mà bọn chúng tôi vừa vứt vào tối hôm trước, rồi mời báo chí, quần chúng và một số người ngoại quốc tới xem, chụp hình quay phim; tuyên truyền và tố cáo trước dư luận, trụ sở của Việt Nam Quốc Dân Đảng, là một ổ hắc điếm chuyên cướp của giết người, bắt cóc và thủ tiêu thường dân vô tội. Ai ai cũng tin vì có bằng chứng rõ ràng. Trước bằng cớ ngụy tạo đó, ông già lẩm cẩm và ngây thơ Huỳnh Thúc Kháng chỉ biết dậm chân than: ” Không ngờ bên Việt Quốc lại có những hành động tàn ác dã man như vậy.”

    Chẳng cần đợi lệnh Bộ Nội Vụ, tôi ” cương quyết trị tội “ những kẻ làm việc phi pháp. Chiều ngày 13-7, tôi bí mật ra lệnh cho bộ đội và công an các địa phương được phép tấn công triệt hạ các chiến khu của Việt Nam Quốc Dân Đảng, trừ trụ sở trung ương ở Hà Nội. Chỉ trong vòng một tháng tôi đã tàn sát hết người của các đảng phái quốc gia và chiến sĩ yêu nước liên hệ. Cái này đúng là chỉ cần dùng kế mọn mà tôi diệt gọn đảng Việt Quốc và hàng trăm nhà cách mạng của phe quốc gia. Được tin này bác khen tôi nức nở vì sau vụ Ôn Như Hầu hổng còn ai đủ sức đủ lực chống đối với bác và đảng nữa.

    Tiếng nói sau cùng của Võ Khôi Nguyên rơi vào bầu không khí im lặng trong căn phòng xử hơn mấy ngàn người ngồi. Lát sau Diêm Vương gõ búa ra hiệu tạm ngừng phiên xử để cho mọi người ăn trưa xong sẽ tiếp tục lúc 14 giờ.

    Đợi cho bị can Võ Khôi Nguyên ngồi vào ghế xong xuôi Thôi Phán Quan cất giọng.

    - Chiến tranh nào cũng tàn nhẫn ngay cả những cuộc chiến tranh tự vệ, chống xâm lăng hoặc giải phóng dân tộc khỏi sự cai trị của ngoại bang. Nói tới chiến tranh là nói tới sự đổ vỡ, tàn phá và hủy hoại. Tuy nhiên người chết mà đa số là dân lành vô tội mới chính là điều mà tôi muốn nêu ra ở đây.

    Thôi Phán Quan ngừng nói. Nhìn thẳng vào mặt Võ Khôi Nguyên đang ngồi trên ghế bị can ông ta trầm giọng.

    - Đại tướng là người chỉ huy cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân?

    Lắc đầu quầy quậy vị cựu tổng tư lệnh nói một hơi dài như cố gắng bào chữa cho mình.

    - Bẩm Diêm Vương. Oan cho con lắm. Con hổng có muốn mở cuộc tổng công kích đâu.

    Diêm Vương hừ tiếng nhỏ.

    - Oan gì mà oan. Bác của ngươi đọc bài thơ chúc tết làm ám hiệu ra lịnh cho cuộc tổng công kích bắt đầu đêm giao thừa. Ngươi cũng biết là Tết là ngày thiêng liêng của đất nước và dân tộc để cho người ta vui mừng và hội hè đình đám. Có đâu cái đám ác ôn côn đồ của tụi bay, nhằm vào giờ phút thiêng liêng mà nổ súng giết người vô tội.

    Võ Khôi Nguyên nín thinh khi bị Diêm Vương xỉ vả. Đợi cho ông vua âm phủ dứt lời hắn mới nhỏ nhẹ lên tiếng.

    - Bẩm Diêm Vương. Hai thằng Ba Duân và Sáu Búa mới chính là tác giả của cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân năm 1968. Để con trình bày đầu đuôi câu chuyện cho ngài và bồi thẫm đoàn nghe xong rồi ngài sẽ biết sự thực. Thằng Ba Duân là thằng dốt, học chưa xong tiểu học là bỏ học đi làm thằng bẻ ghi tàu hỏa rồi sau đó theo cách mạng đặng có cơm mà ăn. Đã dốt mà nó lại ham quyền lực và đàn bà con gái. Tất cả đảng viên ở ngoài bắc ai cũng biết nó thuộc thành phần hiếu chiến, có quyền có chức là nhờ vào chiến tranh. Bởi vậy nó mới chủ trương phải thôn tính miền Nam bằng vũ lực. Sau khi lên làm tổng bí thư đảng, nắm hết quyền hành trong tay, nó lớn tiếng chê bai bác và con là đám chết nhát không dám dùng bạo lực giải phóng miền Nam và thống thất đất nước. Ai ai cũng đều nghe biết nó nói một câu như thế này: ” Bác còn do dự, chứ khi rời miền Nam tui đã chuẩn bị hết cả rồi. Với tui chỉ có uýnh thôi, uýnh cho tới thắng lợi cuối cùng…”

    Từ năm 1959, bộ chín chị của tụi con đã chia làm hai phe. Phe chủ hòa có bác, anh Tô và con cùng với một số đảng viên kỳ cựu, muốn dồn hết mọi nổ lực xây dựng miền Bắc giàu mạnh để đánh bại miền Nam bằng chính trị, kinh tế và ngoại giao. Trong khi phe chủ chiến thì có thằng Ba, Sáu Búa, Sáu Vi và Năm Thận. Bọn chúng muốn dùng vũ lực thôn tính miền Nam. Thằng Ba Duân khi từ nam ra bắc đã soạn sẵn một bản Đề Cương Giải Phóng Miền Nam. Bởi vậy nó mới là chính phạm trong vụ tổng công kích Mậu Thân. Bẩm Diêm Vương, tụi nó đã soạn kế hoạch sẵn sàng hết rồi.

    Khẽ gật gù Thôi Phán Quan hắng giọng.

    - Khi cuộc tổng công kích bắt đầu thì ông đang ở đâu?

    - Thưa ngài tôi đang ở bên nước Hung Gia Lợi để chữa bệnh?

    - Ngài đại tướng bị bệnh gì?

    - Bệnh gì đâu. Tôi bị hai thằng Ba Duân và Sáu Búa chơi sát ván. Tụi nó phao tin đồn thất thiệt, rỉ tai với nhau đề quyết tôi làm mật thám cho tây, tôi hủ hóa, tôi lẹo tẹo với vợ của nhà văn Đào Vũ khi bà này dạy dương cầm tại nhà tôi.

    - Mà chuyện ngươi lẹo tẹo có thật không?

    Diêm Vương ngắt lời. Võ Khôi Nguyên ấp úng hồi lâu mới lên tiếng.

    - Bẩm. Bẩm. Diêm Vương. Con với bà ta chỉ quan hệ tình cảm chút chút thôi.

    Dường như không muốn nhắc tới chuyện đó nữa nên Võ đại tướng nói lảng.

    - Hai thằng Ba Duân và Sáu Búa cô lập bác, triệt hạ anh em thân tín với bác. Nó chích thuốc giết hại các tướng tá thân cận với tôi, bỏ tù các anh em đồng chí của tôi. Nó tước mất binh quyền của tôi rồi sau đó đẩy tôi lên máy bay qua nước Hung cho tôi đi chữa bệnh. Trong lúc tôi vắng mặt thì nó ra lệnh tổng công kích Mậu Thân. Nó là thằng dốt lại ngu, tưởng lợi dụng ba ngày tết và yếu tố bất ngờ để làm nên chiến thắng vỉ đại. Nó đoán là khi bộ đội ta về thành thì dân chúng sẽ nổi dậy chống lại Mỹ Ngụy. Bộ đội vào thành rồi mới ngã ngửa ra là chẳng có ai theo mình hết. Bộ đội đi tới đâu dân chạy hết ráo. Bởi vậy mà cuộc tổng công kích đợt 1 không thành công lại hao mất mấy chục ngàn binh sĩ của miền Bắc và Mặt trận giải phóng miền Nam. Bị Mỹ Ngụy dũa tà mỏ nó mới chịu đem máy bay đón tôi về chỉ huy tổng công kích đợt 2.

    - Chỉ huy tổng công kích đợt 2 mà ngươi thắng hay bại?

    Diêm Vương xen vào câu chuyện. Võ Khôi Nguyên cười nhẹ.

    - Bẩm Diêm Vương. dạ thua. Lợi dụng yếu tố bất ngờ lại lấy nhiều đánh ít trong đợt 1 mà bộ đội còn thua xiểng niễng thì đợt 2 này còn thua nặng hơn nữa. Biết địch đã chuẩn bị rồi nên con không muốn đánh mà thằng Ba Duân ép con phải đánh. Nó bảo thắng hay thua gì cũng đánh, chết bao nhiêu cũng đánh, nướng vài chục ngàn bộ đội nữa cũng đánh. Để con kể cho Diêm Vương, ngài biện lý và bồi thẫm đoàn nghe câu chuyện sau đây thì biết. Năm 1971, còn gọi là chiến dịch đỏ lửa tại thành cổ Quảng Trị. Khi đó, con vẫn lấy phương châm tiến công như mọi khi: ” Lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh, lấy yếu tố bất ngờ để tạo thế chủ động khiến địch trở tay không kịp “. Cứ dùng chiến tranh du kích tiêu diệt hàng ngày, hàng giờ, hết đêm này sang đêm khác để địch suy tổn lực lượng rồi đánh cấp tập một trận giải phóng dứt điểm thành cổ như mọi trận khác vẫn diễn ra từ trước đến nay…

    Không ngờ quan điểm của con bị thằng Ba Duân bác bỏ không thương tiếc. Giữa hội nghị, nó đập tay xuống bàn, quát:

    - ” Thế là giảm sút ý chí chiến đấu. Phải cho địch biết thế nào là quả đấm chủ lực của quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Vì vậy tôi yêu cầu: ” Cứ đánh vỗ mặt thành cổ Quảng Trị cho tôi. Sống chết, đúng sai tôi chịu trách nhiệm… “

    Kết quả trong suốt 60 ngày đêm của chiến dịch thành cổ, cứ 5 giờ 30 phút chiều, khi trời bắt đầu nhập nhoạng tối, một đại đội của con có mặt ở bên này bờ sông Thạch Hãn, lặng lẽ bơi sang để đánh vỗ mặt thành, 8 giờ 30 phút bơi trở về chỉ còn được mươi, mười lăm người. Lần nhiều nhất là 35 đồng chí (cả lành lặn, cả bị thương). Lần ít chỉ còn 5, 7 đồng chí thương tích đầy người, thậm chí có lần cả một khúc sông, không một bóng người, chỉ có tiếng gió hú ghê rợn như những âm hồn vọng vang khắp đáy sông. Như vậy, trung bình mỗi ngày quân đội của con tiêu hao một đại đội chủ lực (khoảng 135 đồng chí), và 60 ngày đêm tấn công thành cổ cũng là 60 ngày đêm bộ đội mất gần một vạn người, biến thành cổ Quảng Trị thành nấm mồ chôn thanh niên, sinh viên trí thức Việt Nam.

    Gian phòng xử im lặng như tờ sau khi Võ Khôi Nguyên dứt lời. Đưa tay cầm lấy ly nước lạnh uống ngụm nhỏ, vị cựu đại tướng của nước Việt Nam Dân Chửi Cười Trừ cất giọng khàn đục.

    - Ngay từ cuối năm 1979, khi biết Pol-Pot gây ra hoạ diệt chủng ở Cao Miên, trong một buổi họp tôi đã phát biểu là: ” Trong hai thằng Lào và Miên, chỉ có thằng Lào là anh em với mình thôi, còn thằng Miên sẽ phản lại Việt Nam mình đó, không nên đưa quân sang giúp nó, khi chưa có sự lên tiếng của quốc tế”.

    Nhưng Ba Duân nhận định: Việt, Miên, Lào là 3 nước láng giềng, như 3 thế chân kiềng kê trên mảnh đất Đông Dương nên phải giúp nó, sau đó sẽ có kế hoạch thôn tính nó sau…

    Kết quả, sau hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ, dân tộc đã mất cả triệu người con ưu tú; nay thanh niên trai tráng, rường cột quốc gia lại bị bắt lính vô tội vạ và bị đưa sang chiến đấu tại chiến trường Cao Miên. Bởi cùng học thầy Trung Quốc nên lối đánh của chúng rất khó chơi, cũng thiên về quấy rối du kích, đánh không theo bài bản nào, chỉ nghi binh, đánh cấp tập rồi rút lui, đồng thời rải mìn vô tội vạ, khiến cho bộ đội thương vong nhiều không kể xiết. Tôi nhớ lần tới thăm một trạm phẫu thuật của trung đoàn. Trung bình một ngày anh em bác sĩ phải cưa 40 chân chiến sĩ do bị mìn cài, mìn đặt… Trong điều kiện thuốc men thiếu thốn, thuốc giảm đau cũng như gây mê đều hạn chế, anh em kêu khóc như ri. Chỉ sau một tuần là số chân bị cưa xếp cao như núi, hơn hẳn đầu người một tầm tay với. Mùi thịt cháy, mùi máu tanh, mùi thối rữa toả ra khắp vùng, đi cách xa trạm cả 7, 8 km rồi mà mùi hôi thối vẫn xông lên nồng nặc…”. Diêm Vương thấy chưa, thằng Ba Duân là thằng lớn lên và có quyền hành nhờ chiến tranh do đó nó phải nuôi dưỡng chiến tranh. Nó với Sáu Búa chủ trương đánh Miên chứ lúc đó con đâu có chút quyền hành nào để chỉ huy ai nữa.

    Ngay khi vị cựu đại tướng vừa dứt lời Thôi Phán Quan cười hỏi.

    - Tôi có một câu hỏi, tuy nhiên câu hỏi này chỉ là một thắc mắc nhỏ thôi. Gần đây tôi có đọc được một câu là: ” Nhà thơ làm kinh tế còn thống chế đi đặt vòng…”. Dường như hai câu này có chút gì liên hệ tới đại tướng.

    Từ khi phiên xử bắt đầu cho tới lúc này, Bình nhận thấy Thôi Phán Quan có chút chút biệt nhãn đối với vị cựu đại tướng họ Võ này. Ông ta chất vấn bị can bằng lời lẽ mềm mỏng và lịch sự hơn so với các bị can như Trần Nước Hòn, Tố Bồi Bút, Trườn Chui và Phạm Văng Vàng.

    Nhìn xuống chỗ bàn dành cho bị can nơi có Hình Chí Mô, Ba Duân và Sáu Búa đang ngồi, vị đại tướng già nua cất giọng khàn khàn.

    - Cái này là dân chúng mỉa mai tôi và Tố Bồi Bút. Số là trong đại hội đảng lần thứ 5, hai thằng Ba Duân và Sáu Búa cho thằng Tố làm phó thủ tướng đặc trách kinh tế.

    Đang ngồi lim dim Diêm Vương chợt ngắt lời.

    - Thằng Tố Bồi Bút biết cái gì mà làm phó thủ tướng đặc trách kinh tế. Nó làm thơ thúi hoắc mà đặc trách về kinh tế thì dân chắc chết đói hết trơn.

    Võ Khôi Nguyên mỉm cười gật đầu.

    - Bẩm Diêm Vương. Ngài phán đúng bong. Năm 1985, Tố Bồi Bút ban bố lệnh đổi tiền. Cái lệnh quái gở và ngu xuẩn này làm lạm phát tăng 700% cũng như giá cả hàng hóa trong nước tăng vọt một cách khủng khiếp. Nước con là một nước nông nghiệp chuyên sản xuất lúa gạo thế mà dưới sự cai trị độc tài và ngu dốt của hai thằng Ba Duân và Sáu Búa, dân đói phải ăn bo bo. Cũng vì nạn bè phái mà thằng Tố mới được làm phó thủ tướng đặc trách kinh tế. Còn con thì hai thằng họ Lê cho đi làm chủ tịch ủy ban cai đẻ. Bởi vậy mới có câu: ” Nhà thơ làm kinh tế, thống chế đi đặt vòng.”

    Diêm Vương lắc đầu than nhỏ.

    - Hai thằng Ba Duân và Sáu Búa đúng là đầu óc tối tăm. Thằng Tố Bồi Bút mà cho đi làm phó thủ tướng đặc trách kinh tế.

    Đợi cho Diêm Vương dứt lời xong Thôi Phán Quan bước tới ngay chỗ Đán, chủ tịch bồi thẫm đoàn đang ngồi. Mọi người đều biết ông ta sắp sửa nói lên lời buộc tội của mình.

    - Kính thưa Diêm Vương. Thưa 9 vị bồi thẫm… Sau khi nghe những lời khai của bị can cũng như những tài liệu mà tôi đã dẫn ra trong phiên xử của Võ Khôi Nguyên, chín vị đều biết là tên Võ Khôi Nguyên có tội. Tuy nhiên tội của hắn nặng hay nhẹ thì tùy theo ý kiến của quí vị. Tôi xin chấm dứt phiên xử của Võ Khôi Nguyên ở đây. Ngày mai tôi sẽ bắt đầu phiên xử của hai bị can mà tôi gọi là cặp bài trùng họ Lê. Hai tên này có ” nợ máu với nhân dân Việt Nam ‘‘ vì đã tù đày mấy trăm ngàn quân dân cán chính của Việt Nam Cộng Hòa vào trại cải tạo cũng như đẩy hai trăm năm chục ngàn người lính vô tội vào cuộc chiến tranh xâm lược nơi xứ Cao Miên mà kết quả hơn năm mươi ngàn người phải hy sinh một cách vô ích.

  4. #23
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    -17-
    Hai con dê họ Lê

    Thôi Phán Quan đã làm cho bồi thẫm đoàn và tất cả người dự khán kinh ngạc khi gọi cùng một lúc hai người lên ngồi vào ghế bị can. Ai ai cũng chăm chú nhìn hai người tuổi khoảng từ bốn tới năm mươi. Người đi sau là một tráng niên tóc muối tiêu, vóc dáng cao lớn và khuôn mặt dài như ngựa, khiến cho ai gặp hắn một lần cũng không thể quên được.

    - Thằng cha mặt dài xọc là ai vậy anh Bảy?

    Câu hỏi vang lên từ cuối phòng. Giọng nói già nua trả lời chậm và rõ ràng.

    - Lê Đứt Thụi… Dân kháng chiến Nam bộ hồi 45 đặt cho hắn cái tên Sáu Lừa vì mặt của hắn dài như mặt ngựa. Ngoài ra nó còn chỉ tới cái tính hay lừa gạt mấy cô gái miền Nam theo kháng chiến. Năm 1948 hắn từ ngoài bắc vào nam làm Phó bí thư cho Ba Duân. Lúc đó hắn đã ngoài bốn mươi mà gặp đàn bà con gái hắn nói chửa vợ… Thằng Sáu Lừa còn có tên là Sáu Búa, ý chỉ cái tính độc ác, gian xảo và quỷ quyệt của hắn…

    Bình với Đán xầm xì bàn tán trong lúc gọng đọc của vị lục sự vang vọng khắp phòng xử.

    - Bị can thứ nhứt là Lê Văn Nhuận hay Lê Văn Duân, bí danh Anh Ba nên còn được gọi là Ba Duân. Hắn sinh ra ở Quảng Trị. Nhà nghèo nên chỉ học tới lớp năm là nghỉ học để đi làm thợ hỏa xa. Năm 21 tuổi, bị can gia nhập Việt Nam Thanh Niên Đồng Chí Hội là tiền thân của đảng cộng sản Việt Nam. Ngày 3 tháng 2 năm 1930, đảng cộng sản Việt Nam chính thức thành lập ở HongKong và Ba Duân được cử làm Ủy Viên Xứ Ủy Bắc Kỳ. Sau vụ nổi dậy Sô Viết Nghệ Tỉnh, hắn bị thực dân Pháp bắt giam ở Hỏa Lò rồi đày lên nhà tù Sơn La. Sau khi ra khỏi tù, Duân lại hoạt động ở miền trung và năm 1937 được cử làm Ủy Viên Xứ Ủy Trung Kỳ. Năm 1939 lại được đề cử vào ban chấp hành trung ương đảng rồi được phái vào Sài Gòn hoạt động dưới quyền của tổng bí thư đảng cộng sản là Nguyễn Văn Cừ. Ngày 17 tháng 1 năm 1940, mật thám Tây bắt được Ba Duân với Nguyễn Văn Cừ, Võ Đình Hiệu và Vũ Thiên Tân đang hội họp. Duân bị kêu án 10 năm và bị đày đi Côn Đảo. Sau chiến tranh thứ hai, Duân được phóng thích rồi năm 1946 được cho nắm chức vụ Bí thư xứ bộ nam Kỳ. Năm 1956 được Hình Chí Mô gọi ra bắc và được đề cử chức vụ bí thư thứ nhất rồi tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam cho tới khi chết.

    Bị can thứ hai là Phan Đình Khải tự Lê Đứt Thụi, bí danh Sáu Búa, sinh năm 1911 tại tỉnh Nam Định. Hoạt động cho cộng sản với chức vụ Xứ Ủy Bắc Kỳ, Phó bí thư trung ương cục miền Nam rồi Trưởng Ban tổ chức trung ương đảng cộng sản Việt Nam và nhiều chức vụ khác cho tới khi chết.

    Đợi cho hai bị can ngồi vào ghế xong xuôi, Diêm Vương mới phán một câu.

    - Tướng thằng Ba Duân này mà làm tới chức bí thư à. Tướng của nó đi cày ruộng còn bị đuổi nữa…

    Bước tới đứng trước mặt Sáu Búa, Thôi Phán Quan cười hỏi.

    - Dường như trong lúc hoạt động ở trong nam, các đồng chí của ông đặt cho ông cái tên Sáu Lừa ông có một cái tên khác?

    Lê Đứt Thụi tự Sáu Lừa cười nhẹ.

    - Các đồng chí trong đảng từng hoạt động với tôi còn gọi một cách thân mật là Sáu Búa.

    Diêm Vương hừ tiếng nhỏ.

    - Ngươi đúng là thằng trật búa thứ thiệt. Một búa cũng đủ chết thiên hạ rồi mà ngươi lại có tới sáu búa.

    Liếc nhanh Ba Duân đang ngồi im, Thôi Phán Quan cười hỏi Sáu Lừa.

    - Ông có mấy vợ?

    - Thưa ngài một.

    Vành môi hơi nhếch thành nụ cười có chút mỉa mai và khinh miệt, Thôi Phán Quan quay qua hỏi Ba Duân.

    - Ông có mấy vợ?

    - Tui có một vợ.

    Thôi Phán Quan lập lại câu hỏi của mình.

    - Dựa theo câu trả lời thì ngài tổng bí thư chỉ có một vợ. Đúng không?

    Hơi do dự giây lát rồi sau cùng Ba Duân cũng mạnh dạn trả lời.

    - Tui chỉ có một vợ.

    Khẽ gật đầu, Thôi Phán Quan nhìn Ba Duân.

    - Căn cứ vào giấy tờ thì bà Cao Thị Khê là vợ chánh của ông. Điều này đúng không?

    - Tui xác nhận điều đó.

    - Bà Đổ Thị Sanh là gì của ông?

    Ba Duân làm thinh thật lâu mới trả lời. Giọng của bị can nhỏ như tiếng thì thầm.

    - Là vợ nhỏ của tui.

    - Sao hồi nãy ngươi nói ngươi chỉ có một vợ?

    Ba Duân ấp úng trước câu vặn hỏi của Diêm Vương.

    - Hồi nãy con nói con chỉ có một vợ. Thưa đó là vợ lớn.

    Hừ tiếng nhỏ Diêm Vương lại vặn.

    - Vây chứ ngươi có mấy vợ?

    - Bẩm hai.

    Thôi Phán Quan xen vào.

    - Còn bà Đỗ Thị Thúy Nga là gì của ông?

    - Thưa ngài đó là vợ bé.

    Gật gật đầu Thôi Phán Quan hỏi tiếp.

    - Còn bà Hồ Thị Nghĩa?

    - Thưa đó là vợ lẽ.

    - Thế tại sao ông nói chỉ có một vợ?

    - Ngài biện lý không hiểu ý của tôi. Tui nói chỉ có một vợ nghĩa là một vợ lớn, một vợ nhỏ, một vợ bé, một vợ lẽ.

    Diêm Vương hừ tiếng nhỏ.

    - Làm lãnh tụ như ngươi sướng thật. Tha hồ lấy vợ lớn, vợ nhỏ, vợ bé và vợ lẽ. Còn tình nhân thì sao?

    - Bẩm Diêm Vương… Con chỉ có một nhân tình, một bồ nhí và một đào tơ…

    Diêm Vương hừ tiếng nhỏ hỏi gọn.

    - Còn hết?

    - Bẩm Diêm Vương… Còn chút chút… Con chưa kể thêm mấy cô ” cần vụ ấy ” của con…

    - Sao mà nhiều vậy?

    Ba Duân cười cười.

    - Bẫm Diêm Vương. Đó là con noi theo cái gương đạo đức của bác. Không những con mà các đồng chí trong bộ chín chị đều có vợ bé, vợ nhỏ, vợ lẽ, nhân tình, bồ nhí hay đào trẻ. Đồng chí Phạm Hùng có bồ. Đồng chí Phạm Văn Trà có ba vợ. Còn đồng chí Sáu Lừa đây cũng có chút ít…

    Sáu Búa nhăn mặt lẩm bẩm.

    - Thằng cha này hổng đánh mà khai.

    Khẽ lắc đầu Thôi Phán Quan nhìn Sáu Lừa.

    - Theo ông thì bị can Ba Duân có mấy vợ?

    Liếc nhanh người ngồi bên cạnh Sáu Lừa cười trả lời.

    -Tôi cũng không biết rõ lắm. Tôi ít khi xía vào chuyện gia đình của kẻ khác. Thú thật với ngài biện lý tôi không có tính tò mò.

    Một giọng nói từ cuối phòng vang lên mà mới nghe qua ai ai cũng biết đó là giọng của một người đàn bà miền Nam đã có tuổi.

    - Phải rồi. Mày đâu có tò mò mà mày có cái tật tò với mò thôi. Thấy con gái trẻ đẹp là mày theo tò tò sau đít rồi đợi tới đem tối mày mò dô mùng.

    Diêm Vương trừng mắt nhìn Sáu Búa.

    - Có chuyện đó à… Ngươi là lãnh tụ mà cũng làm chuyện tồi bại đó à. Vậy mà hở ra chút là khoe vì dân vì nước.

    Vừa định giảng ” morale ” cho Sáu Búa song bắt gặp cái liếc mắt của Thôi Phán Quan nên ông vua âm phủ bèn ngưng nói.

    - Bẩm Diêm Vương. Hổng có đâu. Con đâu có làm cái chuyện kỳ cục đó. Chẳng qua là mấy đảng phái quốc gia và đám người Việt phản động nó tuyên truyền để nói xấu con.

    - Ông nói thật là ông không có dê gái hả?

    Sáu Búa gật đầu một cách quả quyết.

    - Ông không có mò mấy cô nữ sinh hả? Ông không có dùng quyền lực và thủ đoạn để hiếp dâm phụ nữ hả?

    Thôi Phán Quan hỏi liền một lúc hai câu hỏi và Sáu Búa cả quyết là mình không có làm chuyện đó. Cười hực Thôi Phán Quan bước tới thì thầm với Diêm Vương điều gì không ai nghe được. Họ chỉ thấy Diêm Vương gật đầu nói lớn.

    - Ta cho phép công tố viện làm bất cứ chuyện gì để tìm ra sự thật.

    Được phép của tòa Thôi Phán Quan cao giọng thốt.

    - Kính thưa bồi thẫm đoàn. Kính thưa quý vị khán thính giả. Sau đây tôi sẽ lần lượt mời các nhân chứng ra trước tòa để khai sự thực về việc hai bị can Ba Duân và Sáu Búa đã dùng quyền lực hay thủ đoạn đê tiện và tồi bại để cưỡng hiếp đàn bà con gái.

    Ngừng lại nhìn hai bị can giây lát xong ông ta cao giọng thốt.

    - Kính thưa Diêm Vương và bồi thẫm đoàn, sau đây tôi mời một người lên đây làm chứng. Kính mời bà Ba Kem.

    Sáu Búa hay Sáu Lừa ngồi bật dậy như bị ong vò vẽ chích khi nghe Thôi Phán Quan kêu tới tên bà ”Ba Kem ”.

    Đợi cho nhân chứng làm thủ tục và ngồi vào ghế xong xuôi, Thôi Phán Quan mới đặt câu hỏi.

    - Bà Ba biết ông này không?

    Nhìn theo tay chỉ của Thôi Phán Quan, bà Ba Kem hứ tiếng nhỏ.

    - Cái bản mặt thằng cha đó ai mà hổng biết. Ông biết hông hắn là con dê xồm của đảng đó.

    Nhìn thấy Ba Duân đang ngồi phía bên kia bà ta lớn giọng.

    - Còn thằng cha kia cũng vậy. Thấy con gái trẻ đẹp là mắt hắn sáng lên như xe nhà binh mười bánh. Hắn theo tò tò như chó tháng bảy.

    Quay qua Sáu Búa đang ngồi im với nét mặt tẽn tò bà Ba Kem nói một hơi thật dài.

    - Hắn mê con bé Hoàng, chạy lanh quanh theo con nhỏ như chó rượn đực. Nhờ Hội Phụ Nữ Cứu Quốc làm mai không được nên hắn mới năn nỉ ông chồng tôi. Nể tình hắn là ông lớn.

    - Lúc đó Sáu Lừa làm tới chức gì bà nhớ không?

    - Hổng có tham gia kháng chiến hay chín chị chín em gì nên tui hổng rành. Chỉ nghe mấy đứa nhỏ gọi Sáu Lừa là Quỉ Viên Xứ Ủy Nam Kỳ gì gì đó. Nể hắn là quan lớn của cụ Hồ nên chồng tôi mời hắn tới ghe ăn cơm. Đâu dè Sáu Lừa là thằng dê cụ. Thấy con gái tôi tên Anna, trạc tuổi con Bé Hoàng là hắn trổ mòi liền. Hắn nói với tôi như vầy: ” Chị Ba, tui muốn kêu chị bằng má được không chị Ba? “ Ông nghĩ coi có tức không. Sẵn đang nấu ăn cầm chiếc đũa bếp trong tay tôi mới trả lời: ” Tui thì được rồi chỉ sợ chiếc đũa bếp này không đồng ý thôi đồng chí trung ương ạ…” Nghe tui nói vậy hắn ê mặt vội thụt lui ra chỗ chồng tôi ngồi. Tưởng vậy rồi chuyện được êm xuôi. Ai ngờ hắn lòng dạ hẹp hòi thêm có tình thù vặt nên khi có chức có quyền hắn đày đọa chồng tôi dữ lắm rồi sau năm 1975 thì hai vợ chồng tôi nghèo khổ lắm. Biết vậy hồi đó tôi quất vào đầu hắn mấy cái đũa bếp cho hả giận.

    Sau khi Bà Ba Khem dứt lời, Thôi Phán Quan nhìn xuống chỗ đám đông đang ngồi đoạn cao giọng thốt.

    - Để chứng tỏ cái tính dê của Sáu Búa và Ba Duân tôi xin mời thêm hai nhân chứng. Đó là hai cô Đào và Thanh lên đây kể cho mọi người nghe về đạo đức cách mạng của hai vị bí thư và phó bí thư Xứ Ủy Nam Kỳ.

    Có tịch thì nhúc nhích. Nhờ ngồi gần ghế của bị can nên Đán và Bình nhận thấy Ba Duân và Sáu Lừa có vấn đề lớn khi nghe tới tên Đào và Thanh. Cả hai càng thêm bối rối và ngường ngượng khi thấy hai cô gái bước tới gần. Đợi cho hai nhân chứng làm thủ tục xong xuôi Thôi Phán Quan mới cười hỏi.

    - Xin hai cô vui lòng cho tòa biết hai cô tên gì?

    Cô gái mặc áo bà ba trắng, có nét mặt trái soan, da trắng và môi đỏ như thoa son vui vẻ trả lời.

    - Dạ cháu tên Đào, còn bạn cháu tên Thanh.

    - Hai cháu là nữ sinh?

    Cô gái tên Thanh nhỏ nhẹ lên tiếng.

    - Dạ hai cháu là học sinh của trường trung học Nguyễn Văn Tố.

    - Năm nay cháu Thanh mấy tuổi?

    - Dạ mười bảy.

    - Còn cháu Đào?

    - Dạ mười sáu.

    Liếc Sáu Búa và Ba Duân đang ngồi ngó lơ ra cửa sổ, Thôi Phán Quan cười cười hỏi tiếp.

    - Cháu Đào và Thanh biết hai người đang ngồi phía bên kia không?

    Đào liếc Thanh. Thấy bạn gật đầu cô ta đáp nhỏ.

    - Dạ biết.

    - Họ là ai vậy?

    - Dạ đó là Bác Ba và Bác Sáu.

    - Cháu biết Bác Ba và Bác Sáu làm chức gì không?

  5. #24
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Đào là cô gái lanh lẹ và vui vẻ hơn trong lúc Thanh lại ít nói và trầm lặng. Liếc hai ông già đang ngồi bên kia Đào liếng thoắng trả lời câu hỏi của Thôi Phán Quan.

    - Dạ. Bác Ba là Bí Thư Xứ Ủy Nam Kỳ. Còn Bác Sáu là Phó Bí Thư. Hai bác ấy làm lớn lắm.

    Thôi Phán Quan gật đầu mỉm cười. Ông ta biết Đào vẫn còn ngây thơ, khờ khạo và thành thật. Muốn cho cô gái kể đầu đuôi câu chuyện thì ông ta phải mớm lời và nhất là làm cho cô gái thôi sợ hãi Ba Duân và Sáu Lừa.

    - Tôi nghe mấy chị em trong Hội Phụ Nữ Cứu Quốc đồn Bác Ba và Bác Sáu của cháu thích đàn bà con gái lắm. Chuyện này có thật không?

    Đào mím môi. Miệng của cô bé mấp máy định nói song rốt cuộc lại im lặng. Dường như cô ta mắc cỡ hoặc e ngại chuyện gì.

    - Cháu đừng sợ. Ở đây là âm phủ. Hai bác ba và bác sáu không có quyền gì hết. Họ không có quyền cấm cháu nói sự thật.

    Thôi Phán Quan cất giọng dỗ dành đồng thời nháy mắt ra hiệu cho Diêm Vương. Hiểu ý ông vua âm phủ hắng giọng.

    - Cháu bé cứ việc khai hết sự thực đi. Thằng nào mà hăm he, hù dọa hay sai công an bịt miệng cháu là ta còng đầu nó liền…

    Liếc nhanh Diêm Vương rồi liếc qua chỗ Ba Duân và Sáu Lừa đang ngồi xong Đào mới thỏ thẻ.

    - Lúc đầu người ta dụ dỗ chị Thanh với cháu xây dựng với hai ông già…

    Gật gù Thôi Phán Quan hỏi.

    - Cháu nói người ta vậy người ta là ai?

    - Dạ người ta là mấy ông trong Chi Bộ Đảng…

    - Ạ… Ta hiểu rồi… Còn ” xây dựng” là nghĩa gì hả cháu?

    Khuôn mặt trắng của Đào chợt hồng lên. Nhìn xuống hai bàn chân của mình cô ta thì thầm. Dù cô ta thì thầm song nhờ căn phòng xử im lặng và hệ thống khuếch đại âm thanh của âm phủ rất tối tân do đó ai ai cũng đều nghe rõ lời của Đào.

    - Dạ… Xây dựng là ngủ với mấy ổng… là làm vợ mấy ổng…

    Vừa nghe tới đó Diêm Vương lắc đầu quầy quậy rồi cất tiếng than dài.

    - Loạn… Dương thế loạn rồi… Cái xứ Việt Nam thật là đại bất hạnh mới có mấy thằng làm lớn, già hai thứ tóc mà lại muốn chuyện xây dựng với con gái vị thành niên. Ta phải tâu lên trời hầu có biện pháp chế tài thích nghi với mấy thằng có chức, có quyền và có tiền mà làm chuyện tồi bại… Thôi cháu kể tiếp đi…

    - Thưa Diêm Vương… Ngài nghĩ coi mấy ổng nói với con và chị Thanh như vầy: ” Dẫu biết Bác Ba và Bác Sáu đã có gia đình ở ngoài bắc nhưng do yêu cầu của cách mạng các bác phải ra đi. Vì vậy mà đảng có nhiệm vụ phải lo cho các bác phải có người đàn bà trong nhà. Hai đồng chí là đảng viên, từng được dạy dỗ về đạo đức cách mạng. Bác Hồ đã nói: ” Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của đảng lên trên hết. Nếu khi lợi ích của đảng và lợi ích của cá nhân mâu thuẫn với nhau thì lợi ích cá nhân phải tuyệt đối phục tùng lợi ích của đảng…” Con với chị Thanh chống cự lại thì họ tìm cách chia rẻ chúng con. Đầu tiên họ tách chúng con ra làm hai, mỗi người về phục vụ văn phòng khác nhau. Chị Thanh về văn phòng Bác Sáu còn con về văn phòng ông Lưu Quý Kỳ. Chi bộ đảng cứ tiếp tục dụ dỗ cháu và chị Thanh phải xây dựng với Bác Sáu và ông Kỳ. Tuy nhiên cháu và chị Thanh nhất quyết không chịu. Thấy dụ không được họ bèn dùng bạo lực của đám vũ phu vô học. Phần cháu về làm với ông Chín Kỳ được ba ngày, ổng biểu cháu đi công tác với ổng. Một đêm ổng biểu cháu ngủ dưới tam bản với ổng. Ổng kéo, ổng níu, ổng ôm rồi ổng đè cháu tính làm ẩu. Cháu chống cự, cháu đạp ổng văng ra rồi phóng xuống nước lội vào bờ, chạy vô nhà dân trốn và cầu cứu…

    Đợi cho cô Đào kể xong Thôi Phán Quan mới quay qua hỏi cô Thanh.

    - Cô về làm với Bác Sáu của cô như thế nào?

    - Dạ… Cháu về làm việc được hơn tuần lễ thì các đồng chí trong cơ quan nói với cháu là chiều nay Bác Sáu đến ăn cơm và ở lại sinh hoạt. Bác Sáu ngồi nói chuyện cà kê dê ngỗng chẳng có chủ đề gì hết. Ngồi nghe bác nói mà chán còn hơn ăn cơm nếp mắc mưa, cháu ngáp vắn ngáp dài vì buồn ngủ. Ổng vừa nói vừa ngó cháu chăm chăm, lâu lâu lại hỏi một câu làm như là để nói với cháu mà thôi. Đồng chí ngồi cạnh cháu cứ rót trà vô tách hoài mời cháu uống. Cháu chỉ bưng tách lên làm bộ uống rồi lại để tách xuống. Dòm nước trà trong tách cháu vẫn còn đầy, anh ấy cứ giục cháu uống trong lúc Bác Sáu ngó cháu lom lom. Đến 9 giờ cháu buồn ngủ quá cứ ngáp lia lịa. Thấy cháu che miệng ngáp bác Sáu nói.

    - Thôi các đồng chí đi ngủ. Sáng mai công tác tỉnh táo hơn…

    Thường thường cháu với chị Đào ngủ chung để có gì giúp đỡ lẫn nhau. Nhưng tối nay chị Đào đi công tác nên cháu phải ngủ một mình. Giăng mùng xong cháu chui vô nằm. Lát sau cháu cảm thấy mí mùng được tấn dưới chiếu ở chân xê dịch như có bàn tay ai nhè nhẹ kéo. Cháu tỉnh liền. Bên ngoài tối mò chẳng thấy gì hết. Mí mùng bị kéo mạnh và lẹ hơn. Một bàn tay thọc vào đụng chân cháu, cùng lúc cả góc mùng dưới chân cháu được vén lên để lộ cái đầu đàn ông. Người đó nói nhỏ trong lúc tính chui hẳn vô mùng.

    - Tôi đây mà đồng chí đừng làm ồn…

    Đúng là giọng của Bác Sáu. Chẳng còn hồn vía nào, cháu bật dậy chui ra khỏi mùng rồi phóng ra ngoài sân và la lớn lên.

    - Bớ người ta… Cứu tôi với…

    Bốn anh bảo vệ chạy tới. Họ vừa bắn vừa hô.

    - Đứng lại… Không chúng tôi bắn…

    Cháu nghe Bác Sáu ra lịnh.

    - Đừng bắn… Vào ngủ hết đi…

    Thanh dứt lời. Nét mặt của cô bé vẫn còn chút ngơ ngác và hoảng hốt như không tin là người mà cô kính nể và kêu bằng Bác Sáu lại có thể mò vô mùng của mình.

    Mỉm cười Thôi Phán Quan bước tới đứng trước mặt Sáu Lừa đang ngồi ngó lơ ra cửa sổ.

    - Ngài Phó Bí Thư Xử Ủy Nam Kỳ có ý kiến gì về lời của cô Thanh kể?

    Ai cũng nhận ra cái giọng mỉa mai trong câu hỏi của Thôi Phán Quan. Sáu Lừa chưa kịp trả lời vị biện lý hỏi tiếp.

    - Ông có mò cô Thanh không? Mò mấy lần?

    Liếc nhanh Thanh đang ngồi ngó mình lom lom, Sáu Lừa trả lời nước đôi.

    - Tôi nghĩ là có mà chỉ có chút chút thôi…

    Thôi Phán Quan gằn giọng.

    - Có hay không?

    Liếc thấy Diêm Vương đang chiếu tướng mình, Sáu Lừa biết hắn phải trả lời. Không trả lời thì âm phủ sẽ có trăm phương ngàn cách để làm cho hắn thú nhận.

    - Có… Tôi có mò vô mùng cô Thanh. Nhưng chưa có sơ múi gì được là cô ấy đã la làng chói lọi… Tuy nhiên.

    Sáu Lừa bỏ lửng câu nói ở đó và Thôi Phán Quan cười nhạt tiếp.

    - Tuy nhiên mò lần đầu không được ông thử lần thứ nhì, thứ ba và tới khi nào được mới thôi. Phải vậy không?

    Sáu Lừa cười hè hè.

    - Ngài biện lý ở âm phủ xa xôi mà sao rành chuyện mò con gái của tôi quá vậy. Chắc tôi phải theo hầu ngài để học thêm kinh nghiệm.

    Làm lơ lời nói của Sáu Lừa, Thôi Phán Quan bước tới chỗ của Ba Duân ngồi.

    - Có người khai với tôi là họ bị ông hiếp dâm. Điều này có thật không?

    Vị bí thư Xứ Ủy Nam Kỳ, lãnh tụ đứng nhất của kháng chiến Nam bộ tỏ vẻ bối rối trước câu hỏi của Thôi Phán Quan. Dù chỉ học hết tiểu học, hắn cũng đủ thông minh để hiểu vị đại diện cho công tố viện của âm phủ đã nắm được bằng chứng hoặc nhân chứng về chuyện mình cưỡng hiếp những phụ nữ phục vụ dưới quyền chỉ huy. Nhận thì có tội. Như vậy là sai. Đảng không bao giờ sai lầm cũng như lãnh tụ không bao giờ làm gì bậy bạ. Chi bằng chối phứt. Tới đâu thì tới.

    - Tui là lãnh tụ mà… Lãnh tụ như tui thì không thể làm chuyện bậy bạ được…

    Thôi Phán Quan cười gằn buông một câu.

    - Được rồi… Ngươi đã nói như vậy thì ta mời nhân chứng…

    Ba Duân có vẻ lo ra khi nghe Thôi Phán Quan mời nhân chứng ra đối chất. Vị biện lý bước tới thì thầm vào tai Hắc Y Sứ Giả. Lát sau mọi người thấy vị sứ giả áo đen đi song song với một người đàn bà còn trẻ, ăn mặc khá tươm tất. Ngay khi thấy người đàn bà này, Ba Duân có thái độ không được thoải mái lắm.

    Đợi cho nhân chứng ngồi xuống ghế và làm thủ tục xong, Thôi Phán Quan mới đặt câu hỏi.

    - Xin bà vui lòng cho biết bà là ai?

    - Dạ… Hồi còn kháng chiến thì anh em quen gọi tui là Chị Mười. Tui là đại diện Hội Phụ Nữ Cứu Quốc Xã Long Mỹ. Chồng của tui là Chỉ Huy Phó Phân Đội 5 đã hy sinh cho cách mạng…

    - Xin bà vui lòng kể cho tòa nghe chuyện bà bị tên Ba Duân cưỡng hiếp?

    Khẽ gật đầu Chị Mười cất giọng nghèn nghẹn.

    - Một bữa nọ tôi được tên Phó Bí Thư cử đi dự Đại Hội Phụ Nữ Nam bộ. Sau khi tới nơi tui được giới thiệu với chị Nguyễn Thị Thập là Hội Trưởng Hội Cứu Quốc Nam bộ và bà gì đó tôi không nhớ tên, chỉ biết bà này là Hội Trưởng Hội Phụ Nữ Cứu Quốc tỉnh Cần Thơ. Bà Hội Trưởng của tỉnh Cần Thơ nắm tay tui cười nói.

    - Chị coi bộ em hơi mệt… Chắc là tại đi đường xa… Để chị lấy nước cam vắt cho em uống đặng khỏe lại mà vui chơi chứ. Đi dự đại hội mà xìu như vậy đâu được em…

    Lát sau bà ta trở lại với ly nước cam vắt cầm trên tay. Đi bên cạnh bà ta là một người đàn ông sồn sồn chừng 50. Chị Nguyễn Thị Thập thấy người đó vội đứng dậy khúm núm chào.

    - Thưa anh Ba, khỏe không?

    Chẳng trả lời, người đó nhìn tui lom lom như mèo thấy chuột. Vẫn nhìn tui, ổng nghiêng đầu về bà hội trưởng Hội Phụ Nữ Cần Thơ hỏi một câu mà tui nghe giọng Nghệ rặc.

    - Vợ đồng chí Chỉ Huy Phó Phân Đội 5 đấy hỉ?

    - Thưa anh Ba dạ đúng…

    - Xin chia buồn cùng chị. Tôi đã ký quyết định truy tặng anh Mười, chồng của chị là anh hùng liệt sĩ kèm quyết định cấp dưỡng và xác nhận con cái của anh là con liệt sĩ…

    - Xin cám ơn đồng chí…

    Nói xong tui mới quay qua hỏi bà Hội trưởng Hội Phụ Nữ Cần Thơ.

    - Anh Ba là ai vậy?

    Bà ta trả lời với vẻ kính cẩn.

    - Bí Thư Xứ Ủy Nam bộ…

    Trả lời xong bà ta đưa cho tui ly nước cam. Đang khát nước tôi ực một hơi cạn sạch. Chừng vài phút sau là tui thấy mắt hoa đầu váng, lơ mơ nửa tỉnh nửa thức. Tui thấy người ta rinh tui đi đâu đó, đặt tui lên giường rồi có người đàn ông từ từ cởi quần áo tui ra xong hắn leo đè lên người của tui. Ráng mở mắt tui thấy thằng cha đang đè mình là anh Ba Bí Thư Xứ Ủy Nam bộ. Hắn làm hùng hục như con chó rượng đực. Không biết tui uống nhằm cái gì mà nửa tỉnh nửa mê, tay chân tê liệt muốn giãy giụa hay chống cự cũng hổng được đành phải nằm yên cho hắn thỏa mãn thú tính…

    Ngay sau khi Chị Mười dứt lời, Thôi Phán Quan đặt câu hỏi liền.

    - Như vậy bà xác nhận là tên Ba Duân, Bí Thư Xứ Ủy Nam Kỳ đã hiếp dâm bà. Đúng không?

    - Thưa đúng… Tui thấy rõ mặt mày của hắn. Cái bản mặt dâm dục của hắn tui hổng quên. Hắn là con quỉ dâm dục. Xuống tỉnh, xuống huyện, về làng, tui nghe hắn ăn nói huyên thiên toàn đạo đức cách mạng. Đâu có dè hắn với thằng Sáu Lừa, tụi nó cả bầy như chó đực tháng tám…

    Ba Duân và Sáu Lừa làm thinh trước lời mắng nhiếc của Chị Mười. Ngay cả Diêm Vương cũng mặc cho nhân chứng chưởi bới. Ông ta hiểu tâm trạng đau khổ cũng như sự uất ức của người đàn bà bị cưỡng hiếp. Sau khi ba nhân chứng rời khỏi ghế của họ, Thôi Phán Quan cười hỏi hai bị can.

    - Hai ông có điều gì phản biện lại lời khai của ba nhân chứng không?

    Hai vị Bí Thư và Phó Bí Thư Xứ Ủy Nam Kỳ làm thinh không trả lời. Hướng về chỗ ngồi của chín vị bồi thẫm, Thôi Phán Quan cao giọng.

    - Kính thưa chín vị bồi thẫm… Sau thời gian sưu tầm, công tố viện của âm phủ đã tìm được thêm một chuyện làm bậy bạ của Ba Duân mà tôi tạm gọi là vụ án cô Nga. Vì nhiều uẩn khúc nên nạn nhân đồng thời cũng là nhân chứng không thể xuất hiện trước tòa được. Tuy nhiên những điều mà công tố viện thu lượm được là do lời kể của những người thân cận với cô Nga lúc vụ án xảy ra…

    Bước tới đứng trước mặt Ba Duân, Thôi Phán Quan hỏi gọn.

    - Năm 1948, ông và Sáu Lừa có tham dự phiên họp của các đại biểu Phụ Nữ Cứu Quốc Nam bộ tại một mật khu ở tỉnh Cà Mau. Ông xác nhận điều này?

    Sau một hồi do dự Ba Duân lên tiếng.

    - Tui xác nhận là tui với đồng chí Sáu Lừa có mặt trong buổi họp đó…

    - Trong buổi hội họp này ông có gặp cô Đỗ Thị Thúy Nga. Đúng không?

    - Đúng… Cô Nga là Chủ Tịch Ban Chấp Hành Hội Phụ Nữ tỉnh Cần Thơ…

    - Cô Nga đẹp lắm hả ông?

    Ba Duân chưa kịp trả lời vị biện lý của âm phủ cao giọng thốt trong lúc hướng về chỗ bồi thẫm đoàn ngồi.

    - Kính thưa 9 vị bồi thẫm. Duyệt qua các tài liệu mà âm phủ đã sưu tầm được, Thôi Phán Quan tôi biết nhiều về Ba Duân, từ lý lịch cá nhân và quá trình hoạt động trong đảng cộng sản, nhất là những bí mật mà vị bí thư xứ ủy nam kỳ và cuối cùng là tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam cố tình che giấu không cho dân chúng biết. Hắn dốt chữ, học chưa qua cấp tiểu học, do đó hắn có cái mặc cảm đối với giới trí thức miền Nam. Cái mặc cảm bị dân có học Nam bộ chê là ‘‘ bí thư rặn ra chữ ” khiến cho hắn ghét những người có học hơn mình. Tuy không lộ ra mặt song hắn ghét cay ghét đắng đám trí thức nổi tiếng ở miền Nam tham gia cộng sản như Dương Bạch Mai, Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Trấn, Bùi Công Trừng. Bốn tay cộng sản gộc từng tốt nghiệp trường Lao Động Đông Phương của miền Nam được dân kháng chiến biết nhiều hơn cả Hồ Chí Minh.

    Tuy nhiên đối với cô Nga thì lại khác. Gặp mặt cô Nga là hắn mê tít thò lò. Điều này cũng không lạ vì cô ta còn son trẻ, duyên dáng, quyến rũ lại nữ sinh trường đầm, đỗ bằng tú tài và nói tiếng Pháp như gió. Có thể nói Ba Duân so sánh với cô Nga chẳng khác gì con chim cú đứng trước phượng hoàng. Xí trai, học vấn kém, tướng tá cục mịch, tính tình thô lỗ, ăn nói như dùi đục chấm mắm nêm, nên Ba Duân tán tỉnh, ỉ ôi cách mấy cô Nga chẳng thèm để mắt tới hắn. Không nản chí, Ba Duân nhờ bà Lê Đoàn, Chủ Tịch Ban Chấp Hành Hội Phụ Nữ Cứu Quốc Nam bộ tới động viên tinh thần của cô Nga để cô ta ưng Anh Ba. Nhưng cô Nga là cô gái cứng đầu nên thẳng thừng từ chối. Cô nói như tát nước vào mặt bà Đoàn: ” Bộ hết người sao mà tôi lại lấy ông già vừa dốt lại nhà quê đó…”. Nhờ bà Lê Đoàn không có kết quả, Ba Duân lại nhờ Hà Huy Tập, Ủy Viên Trung Ương Đảng. Cũng không xong, hắn nhờ giáo sư Đặng Minh Trứ, Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến tỉnh Cần Thơ tới nhà nói chuyện với ba má cô Nga. Tất cả đều vô hiệu quả. Khi mọi vận động đều đi tới chỗ bế tắc, Ba Duân phải dùng tới đòn phép ma giáo. Hắn ra lịnh cho ban bảo vệ mời cô Nga tới dự mít tinh trong một căn nhà bên dòng sông Trẹm, chỗ giáp ranh U Minh Thượng và U Minh Hạ rồi cưỡng hiếp cô Nga.

    Nói tới đó Thôi Phán Quan quay sang hỏi Ba Duân.

    - Những điều tôi nói đúng sự thật không?

    Ngần ngừ giây lát vị bí thư xứ ủy Nam Kỳ năm 1948 và tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam từ từ lên tiếng.

    - Tôi có cưỡng hiếp cô Nga nhưng để đền bù thiệt hại tôi lấy cô ta làm vợ ba.

    Thôi Phán Quan cười nhạt.

    - Âm phủ chỉ xử tội hiếp dâm của ông, còn chuyện ông lấy cô Nga làm vợ là chuyện riêng của ông…

    Liếc thấy đồng hồ chỉ quá 12 giờ, Diêm Vương tuyên bố tạm ngưng phiên xử cho mọi người ăn trưa. Vài người ra về muộn thấy Thôi Phán Quan với Diêm Vương còn đứng nói chuyện khá lâu với 9 vị bồi thẫm.

  6. #25
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    -18-
    Thi sĩ ‘ ấy ‘

    - Kính thưa Diêm Vương và 9 vị bồi thẫm… Quí vị đã nghe tôi trình bày về tội cưỡng hiếp phụ nữ của hai tên Ba Duân và Sáu Lừa. Tuy nhiên tội cưỡng hiếp chỉ là tội ác nhỏ nhoi so với tội ác mà tôi sắp sửa trình bày. Chỉ đạo, dàn dựng và phát động một cuộc xâm chiếm Việt Nam Cộng Hòa bằng súng đạn; Ba Duân, lúc đó là bí thư thứ nhất rồi tổng bí thư đảng cộng sản; còn Sáu Lừa, lúc đó là Trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương Đảng, đã đẩy hàng triệu nam nữ của cả hai miền Bắc nam vào cuộc chiến tranh ngu xuẩn và đẫm máu nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam chỉ nhằm thực hiện mộng xâm lăng của cộng sản quốc tế. Nào là Tổng Công Kích Tết Mậu Thân, với hành động giết mấy ngàn người dân vô tội ở Huế cũng như nướng cả trăm ngàn bộ đội của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Nào là chiến trận ở Khe Sanh với tổn thất cả trăm ngàn nhân mạng. Nào là mùa hè đỏ lửa năm 1972. Nào là đại thắng mùa xuân vào tháng 4 năm 1975 để dẫn tới cuộc tắm máu hơn nửa triệu quân dân cán chính của VNCH và hơn một triệu người phải bỏ nước ra đi tìm tự do và chết trên biển cả. Chưa hết. Hai tên đồ tể Sáu Lừa và Ba Duân còn xua gần nửa triệu lính và dân công vào cuộc xâm lăng nước Cao Miên mà kết quả hơn 50 ngàn quân bị tử trận, đồng thời làm kiệt quệ tài nguyên quốc gia, gây đói khổ, lầm than và tang tóc cho một dân tộc vốn phải hứng chịu nhiều chinh chiến điêu linh. Hai tên Ba Duân và Sáu Lừa là thứ tội phạm chiến tranh của dân Việt Nam nói riêng và nhân loại nói chung. Tiếc thay. Mỉa mai thay. Tên Sáu Búa lại được một tổ chức đui mù trao tặng cho giải Nobel Hòa Bình thay vì đem hắn ra xét xử về tội giết người tập thể. Bất hạnh thay. Xấu hổ thay. Ba Duân và Sáu Lừa, lại được những kẻ kế thừa xưng tụng là anh hùng, viết sách viết sử để ca tụng công đức và đặt tên đường để tưởng nhớ.

    Căn phòng xử chứa mấy ngàn người lặng trang lắng nghe lời buộc tội của Thôi Phán Quan.

    - Hôm nay, thừa mệnh lệnh của Trời và luật pháp của âm phủ; tôi, Thôi Phán Quan sẽ lần lượt trình bày cho mọi người khắp ba tầng chín cõi thấy, nghe, biết những hành vi ”
    vô ác bất tác ” của Ba Duân và Sáu Lừa.

    Dứt câu Thôi Phán Quan phất tay áo rộng báo hiệu phiên xử hai tên Ba Duân và Sáu Búa được tiếp tục. Đợi cho hai bị can làm xong thủ tục, vị biện lý của âm phủ cao giọng trong lúc nhìn xuống chỗ đám đông đang ngồi.

    - Tôi xin mời các người có tên sau đây lên ngồi vào ghế nhân chứng. Thứ nhất là Võ Khôi Nguyên, thứ nhì là Phạm Văng Vàng, thứ ba Trườn Chui.

    - Nhân chứng thứ tư là Hình Chí Mô.

    Trong lúc ba nhân chứng lục tục đi lên, thiên hạ xầm xì to nhỏ khi nghe vị biện lý xướng danh nhân chứng cuối cùng. Đây là lần đầu tiên ông ta gọi một lúc bốn nhân chứng, mà người nào cũng nắm giữ chức vụ quan trọng của đảng và nhà nước cộng sản. Hai bị can và bốn nhân chứng cộng lại thành sáu người. Họ đại diện cho quyền lực vô song của đảng. Cũng chính họ chỉ đạo, điều khiển một guồng máy khổng lồ với những đảng viên cuồng tín đã kềm kẹp mấy chục triệu dân Việt vào con đường phục vụ cho chủ nghĩa cộng sản và làm nô lệ cho những kẻ có chức, có quyền và có tiền. Họ bắt, bỏ tù, lưu đày, thủ tiêu kẻ chống đối hoặc bất cứ ai không theo họ. Họ chỉ biết có đảng. Đảng là họ và họ là đảng, là thứ quyền lực tuyệt đối.

    Trái với ý nghĩ của mọi người, Thôi Phán Quan hỏi nhân chứng Trườn Chui trước nhất.

    - Nếu tôi không lầm thì ông là lý thuyết gia hàng đầu của đảng?

    Được bốc thơm vị cựu tổng bí thư cười hì hì lên tiếng.

    - Tôi nghĩ ngài biện lý không lầm đâu.

    Cười nhẹ Thôi Phán Quan tiếp lời.

    - Có người gọi ông là chủ gánh xiếc ngôn ngữ của đảng cộng sản Việt Nam. Ông nghĩ sao?

    Chắc khoái chí vì từ ” chủ gánh xiếc ngôn ngữ ” do đó Trườn Chui vui vẻ trả lời.

    - Tôi nghĩ điều này cũng đúng chút chút. Tôi không ngờ ngài biện lý cũng là kẻ hay chữ.

    Thôi Phán Quan cười nhẹ lắc đầu.

    - Là người của âm phủ nên tôi không thông thạo tiếng Việt lắm. Tôi chỉ lập lại lời của người khác mà thôi.

    Nhìn thẳng vào mặt Trườn Chui, ông ta hỏi gọn.

    - Ông là người đã viết ra Nghị Quyết 9?

    Liếc nhanh Ba Duân và Sáu Búa đang ngồi trên ghế bị can nơi phía bên kia, Trườn Chui cười nhẹ.

    - Chính tôi viết ra tuy nhiên anh Ba và anh Sáu cũng có thêm vào vài ý kiến.

    - Ông có thể tóm tắt cho tòa nghe về nghị quyết 9.

    Trườn Chui gật đầu liền vì biết không nói cũng không được, với lại chuyện cũ mấy chục năm rồi nên có khai trước tòa thì cũng chẳng hại tới đảng.

    - Điểm chính yếu của nghị quyết 9 là đường lối đối nội và đối ngoại của đảng và nhà nước Việt Nam là thống thất về cơ bản với đường lối đối nội và đối ngoại của đảng cộng sản Trung Quốc. Những kẻ nào không đồng tình với đường lối của đảng là phản động, là thuộc phe xét lại. Cũng vì vậy mà trong đảng chúng tôi mới chia thành hai phe. Một phe đòi thực hiện chủ nghĩa dân chủ pháp trị và kiến tạo một xã hội tôn trọng dân quyền. Một phe kia chủ trương đảng phải cầm quyền để giữ vững chủ nghĩa xã hội chuyên chế. Đại loại tôi có thể nói tình trạng của đảng lúc đó chia làm 2 phe; chủ hòa và chủ chiến. Phe chủ hòa gồm có bác, anh Nam và anh Tô. Phe chủ chiến thì có anh Ba, anh Sáu, anh Thanh.

    - Ông theo phe nào?

    Thôi Phán Quan ngắt lời. Trườn Chui cười hì hì.

    - Tôi thì tôi đi hàng hai nhưng sau đó thì tôi ngã về phe chủ chiến vì phe đó mạnh hơn.

    Gật gật đầu Thôi Phán Quan bước qua chỗ Hình Chí Mô đang ngồi.

    - Ông có thể cho tòa biết lý do nào ông chọn Ba Duân làm bí thư thứ nhất thay vì chọn ông đại tướng lùn?

    Chín vị bồi thẫm đều chăm chú lắng nghe Hình Chí Mô trả lời câu hỏi của Thôi Phán Quan. Họ Hình vốn là người sáng lập ra đảng cộng sản Việt Nam, do đó lão phải nắm bắt nhiều bí mật trọng đại ít người biết được.

    - Có nhiều lý do khiến cho tôi chọn chú Ba thay vì chọn chú Nam vào chức bí thư thứ nhất. Lý do đầu là chú Ba dốt chữ. Mà hể thằng dốt thì thường thường nó ngu hơn thằng có học. Chú Nam có bằng cử nhân, học cao còn hơn tôi, lại đang là thần tượng của quân đội và nhân dân. Chú ấy giống như con hổ, mà bây giờ cho chú ấy chức bí thư thì chẳng khác nào hùm thêm vi hổ thêm cánh. Nếu chú ấy dùng quân đội đảo chánh thì kể như tôi rớt đài là cái chắc. Trong khi đó chú Ba, dù đang làm Bí Thư Xứ Ủy Nam bộ, nhưng tiếng tăm và phe đảng chưa có. Chọn một nhân vật vô danh và cô thân độc mã để lên kế vị thì mình hổng sợ nó lật cái ghế chủ tịch của mình.

    Thôi Phán Quan mỉm cười. Ông ta chưa kịp lên tiếng, Diêm Vương đã mở miệng trước.

    - Thằng này khôn ơi là khôn. Quả là danh bất hư truyền.

    Hình Chí Mô hơi nhếch môi cười khi nghe Diêm Vương khen.

    - Ai cũng nghĩ như tôi song sau khi thằng Ba lên làm bí thư thời gian thì tôi biết mình lầm, cái sai lầm tai hại cho chính bản thân tôi. Tôi biết mình đã nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà. Chú Ba tuy dốt mà hổng có ngu đần và khờ khạo như tôi tưởng. Mưu mô, thủ đoạn, xảo quyệt, gian manh của chú Ba chẳng sút Tào Tháo.

    Đang ngồi Ba Duân bật lên tiếng cười ngắn khi nghe Hình Chí Mô nói tới câu sau cùng.

    - Bây giờ bác mới biết à.

    Sáu Búa cũng phụ họa.

    - Hì. hì. Bác lừa nhiều người mà rốt cuộc lại bị đàn em gạt. Bởi vậy ông Mác có nói thằng dốt mà lưu manh thì nó lưu manh hơn thằng có học gấp mười lần.

    Diêm Vương xen vào câu chuyện bằng câu hỏi.

    - Đâu ngươi nói cho ta nghe thằng Ba Duân và Sáu Búa nó gạt ngươi bằng cách nào?

    - Bẩm Diêm Vương. Con cũng cẩn thận lắm khi giao quyền lại cho chú Ba. Trước hết con cho chú làm phụ tá của con với cái chức Bí Thư Thứ Nhất. Điều mà con hổng có ngờ là trước mặt con thì dạ dạ vâng vâng, tỏ ra dễ bảo dễ sai như học trò, mà sau lưng thì chú ấy đâm sau lưng đồng chí, âm thầm tạo bè lập đảng cũng như tìm mọi cách triệt hết tay chân bộ hạ hoặc những người thân tín của con. Chú Ba nói với con như vầy: ” Em thì dốt và chưa có quen biết nhiều các đồng chí trung ương vì vậy mà khó nói chuyện với họ lắm. Em xin bác cho chú Sáu làm trưởng ban tổ chức trung ương đảng. Ai mà chống đối bác và đảng là em sai thằng Sáu nó xách búa tới hỏi thăm sức khỏe liền.”

    Nói tới đó Hình Chí Mô quay lại như muốn phân bua với Diêm Vương.

    - Bẩm Diêm Vương. Con thì cả tin và ngây thơ ngờ nghệch nên làm theo lời chú Ba nó tâu.

    Diêm Vương hừ tiếng nhỏ khi nghe lão Hình nói ” ngây thơ ngờ nghệch”.

    - Sau đó chú Ba còn xin cho chú Thanh làm chủ nhiệm Tổng cục chính trị quân đội nhân dân Việt Nam. Cơ quan này có nhiệm vụ kiểm soát chặt chẽ các cấp chính ủy trong quân đội, đặt quân đội dưới quyền chỉ huy và lãnh đạo tuyệt đối của đảng. Chú ba còn ton hót là dùng chú Thanh để kềm thằng lùn, kiểm soát và chia bớt quyền hành cũng như ảnh hưởng của thằng tướng lùn trong quân đội. Cũng sợ thằng ” đại tướng lùn ” lật đổ mình nên con mới bằng lòng cho chú Thanh làm chủ nhiệm và thăng chức đại tướng cho chú ấy.

    Thôi Phán Quan lên tiếng ngắt lời Hình Chí Mô.

    - Ông giữ chức vụ gì trước khi và sau khi cho Ba Duân làm bí thư thứ nhất?

    - Tôi làm đủ thứ hết. Chủ tịch đảng Lao Động kiêm Tổng bí thư đảng Lao Động kiêm Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chửi Cười Trừ kiêm Chủ tịch quân ủy.

    Diêm Vương xì tiếng dài.

    - Cái gì mà kim kim chỉ chỉ nhiều vậy. Thôi kể tiếp cho ta nghe chuyện hai thằng bất nhơn họ Lê ăn hiếp ngươi đi.

    - Bẩm Diêm Vương. Thằng Sáu Búa đúng là trật búa. Nó điêu ngoa, xảo quyệt, đã khôn lại ác vô cùng. Sau khi ngồi vào chức Trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương Đảng, nó đã biến cái tổ chức bàn giấy này thành một cơ quan siêu quyền lực trong bóng tối với những trò ma giáo.

    - Trò ma giáo là trò gì vậy ông?

    Thôi Phán Quan ngắt lời Hình Chí Mô. Ngập ngừng giây lát lão thở hơi dài lên tiếng.

    - Nó lập ra sáu ban mà tôi gọi là sáu đảng. Đó là thứ đảng trong đảng. Mỗi ban tượng trưng cho một cái búa bởi vậy thiên hạ mới cho nó cái tên Sáu Búa. Sáu ban này là sáu cái búa đập đầu những kẻ chống lại nó; là sáu sợi dây thòng lọng xiết cổ, trói tay chân tôi, thủ hạ của tôi và tất cả các đảng viên cao cấp trong bộ chín chị và luôn cả cấp bí thư tỉnh nữa. Như Ban Kiểm Tra Trung Ương Đảng thời Sáu Búa cho Trần Quyết trông coi. Ban Nội Chính Trung Ương Đảng thì thằng Hoàng Thao làm trưởng ban. Ban Bảo Vệ Bộ Chín Chị thì thằng Nguyễn Đình Hưởng làm xếp. Ban Chỉ Đạo Trung Ương Đảng dành cho Nguyễn Đức Tâm. Thằng Nguyễn Trung Thành đứng đầu Ban Bảo Vệ Đảng. Riêng Cục Chính Trị Trung Ương Đảng để cho thằng Kim Chi làm xếp. Sáu ban này có nhiệm vụ thường xuyên theo dõi, giám sát chặt chẽ mọi hành vi của các ủy viên trung ương đảng. Nó có quyền thẩm tra các ủy viên bộ chín chị. Nó xem xét tư tưởng và quan điểm chính trị của các đảng viên được chọn vào ban chấp hành trung ương đảng, vào bộ chính trị, vào quốc hội và các cơ quan của nhà nước. Riêng trong quân đội thằng Sáu còn đặt ra Ban Bảo Vệ Cục Chính Trị trực thuộc Cục An Ninh Bộ Nội Vụ để giám sát tư tưởng và hành vi mọi sĩ quan cao cấp ở bộ quốc phòng, bộ tổng tham mưu xuống tới quân khu, sư đoàn và luôn cả trung đoàn nữa.

    Kể lể một hơi thật dài lão Hình ngừng lại uống ngụm nước cho thông cổ. Nhân cơ hội Thôi Phán Quan bước tới chỗ Sáu Búa đang ngồi.

    - Ông có phản biện những gì bác của ông nói không?

    Sáu Búa lắc đầu cười.

    - Tôi cũng như thiên lôi vậy mà. Xếp bảo tôi búa ai tôi búa người đó liền.

    - Xếp của ông là ai?

    Liếc nhanh Ba Duân đang ngồi bên cạnh vị trưởng ban tổ chức trung ương đảng cười cười.

    - Thưa ngài biện lý tôi được bác đặt dưới quyền chỉ đạo trực tiếp của anh Ba.

    Ba Duân cười hực.

    - Tui chỉ đạo nó hay nó chỉ đạo tui. Nó là xếp của tui đó. Mới đầu tui cho nó làm trưởng ban tổ chức trung ương đảng rồi nó tổ chức làm sao mà tới chừng biết ra tui chỉ biết cắn răng và bóp hai hòn bi của mình cho khỏi tức tối. Nó tổ chức người của nó giám sát cả tôi nữa. Nó đưa đàn em, tay chân bộ hạ của nó vào làm ủy viên trung ương đảng.

    Phạm Văng Vàng vọt miệng xen vào.

    - Có lần Anh Ba than với tôi như vầy: ” Nhân sự trung ương khóa 4, khóa 5 tôi chỉ biết một phần ba còn hai phần ba ở đâu ra tôi chẳng biết cái gì.”

    Đợi cho Phạm Văng Vàng dứt lời, Ba Duân mới thong thả thốt.

    - Nói đúng ra thì chú Sáu làm việc có lợi cho chú ấy và cho tui nữa. Có lợi cho cả hai.

    - Sáu Búa làm cái gì lợi cho ông?

    Thôi Phán Quan gằn giọng hỏi. Thấy Ba Duân dụ dự không chịu trả lời ông ta cười.

    - Ông biết điều nên khai thật trước tòa. Tôi nắm bắt được bằng chứng và nhân chứng về các điều mà ông với Sáu Búa đã làm.

    Liếc nhanh Diêm Vương thấy ông ta đang soi mói nhìn mình, vị bí thư thứ nhất thở dài thốt.

    - Sáu Búa nói với tôi như vầy: ” Tôi làm là vì lợi lộc của anh và tôi.”

    - Hắn làm cái gì lợi cho ông?

    Thôi Phán Quan lập lại câu hỏi của mình. Ba Duân cười cười.

    - Biết tôi thích ” ấy ” nên chú Sáu luôn luôn thỏa mãn nhu cầu của tôi. Hổng biết chú ấy kiếm ở đâu mà tuyển vào cung của tôi nhiều cô ” cần vụ ” ngon ơi là ngon. Mới đầu vì thể diện của đảng nên tôi thoái thác thì chú Sáu nói là để anh Ba thoải mái hầu sống lâu đặng phục vụ nhân dân. Mấy cô cần vụ chuyên nghề đấm, bóp này thiệt giỏi, đụng tới đâu tê tới đó.

    Cười mím chi Thôi Phán Quan hắng giọng.

    - Tôi có nghe đồn ông được một cô đấm, bóp làm cho ngất ngây, sướng tê người nên ông đã ký giấy tặng cho cô đấm bóp này hai căn nhà ở tại thủ đô Hà Nội. Điều này có thực không?

    - Hổng có đâu…. hổng có đâu. Tui đâu có làm chuyện kỳ cục đó.

    Thôi Phán Quan cười hực.

    - Cô Hồng đấm, bóp cho ông làm chủ hai căn nhà một ở Kim Liên và một ở Bách Khoa đang ngồi dưới kia. Ông muốn tôi kêu cô ta lên đây đối chất?

    Ba Duân ú ớ rồi làm thinh. Bỏ bị can Ba Duân, vị biện lý bước tới chỗ Hình Chí Mô ngồi.

    - Tôi nghe đồn khi đề cử Ba Duân vào chức bí thư thứ nhất thì ông rảnh rang lắm.

    Hình Chí Mô cười cười không nói gì hết. Thật lâu lão mới thong thả lên tiếng.

    - Chú Ba và chú Sáu nó nói tôi một đời bôn ba cách mạng, gian khổ nhiều rồi, nên lúc này rảnh rang tôi hãy hưởng thụ tuổi già còn lại trước khi về với ông Mác. Bởi vậy mà hai chú ấy ít khi cho tôi tham dự các cuộc họp của bộ chín chị. Họa hoằn lắm tôi mới được đi họp mà trong các buổi họp hể tôi mở miệng định nói thì chú Sáu ngồi kế bên lại lên tiếng rầy: ” Bác nói nhiều rồi nên để người khác nói…” Tuy nhiên chú Sáu cũng điệu nghệ lắm. Biết tôi tuổi già mà còn sung sức, còn ham cái vụ ấy nên chú săn sóc kỹ lắm. Nắm chức trưởng ban tổ chức trung ương đảng, chú Sáu cử vệ sĩ bảo vệ tính mạng cũng như bác sĩ chăm sóc sức khỏe và tẩm bổ cho tôi hằng ngày. Biết tôi ở tuổi hồi xuân nên chú ấy phái mấy cô cần vụ vào phủ chủ tịch đấm bóp để giải tỏa bầu tâm sự.

    Đang ngồi bên kia Phạm Văng Vàng chợt lên tiếng nói với Thôi Phán Quan cốt ý ngắt lời Hình Chí Mô.

    - Bác của tôi bây giờ già rồi. Nhiều lúc nói năng kể lể lẩm cẩm lắm. Chúng tôi muốn cho ông ta sống để vui thú thê nhi và được nhìn thấy đất nước thống nhất, nhưng chúng tôi cố gắng giấu không cho ông ta biết càng nhiều chi tiết chừng nào càng tốt chừng đó.

    - Ông nói chúng tôi là ai?

    Liếc nhanh Ba Duân và Sáu Búa, Phạm Văng Vàng cười trả lời câu hỏi của Thôi Phán Quan.

    - Thưa ngài biện lý. Chúng tôi là anh Ba, anh Sáu, anh Năm, ông Tố và tôi.

    Ngồi dưới bàn bị can Tố Bồi Bút chợt chỏ miệng lên nói lớn.

    - Ông cụ bây giờ lẩm cẩm rồi nên ngoài cái chuyện ấy ông cụ dành thì giờ viết văn và làm thơ.

    Đang ngồi lim dim ngủ nghe nói tới chuyện văn thơ, Diêm Vương chợt mở mắt ra và sắm nắm hỏi.

    - Thế à. Thằng Hình mà cũng viết văn làm thơ nữa à. Nó quả là một nhân tài hiếm có. Đâu ngươi lên ghế nhân chứng ngồi kể chuyện văn chương của bác ngươi cho ta nghe coi.

    Được Diêm Vương cho phép, Tố Bồi Bút cười hể hả lên ngồi vào ghế nhân chứng.

    - Bẩm Diêm Vương. Bác của con là một thi sĩ đại tài. Vì mãi lo chuyện cách mạng nên không có dịp làm thơ, chứ nếu mà bác chịu khó làm thơ thì không sút Lý Bạch hay Đỗ Phủ đâu. Bác của con mà làm thơ và viết văn thì sẽ được người ta khen như vầy: ” Văn hơn Siêu Quát, hơn Tiền Hán. Thi sụp Tùng Tuy, nát Thịnh Đường.”

    Thôi Phán Quan nhếch môi cười khi nghe ông văn nô họ Tố nâng bi lãnh tụ. Còn Diêm Vương thì lên tiếng.

    - Ngươi đúng là thằng chuyên môn bợ. Đâu ngươi đọc văn của thằng Hình cho ta nghe xem có lọt lỗ tai không mà ngươi dám nói là ” văn hơn Siêu Quát, hơn Tiền Hán.”

    Được Diêm Vương cho phép Tố Bồi Bút cao giọng kể.

    - Một bữa nọ bác cho bảo vệ mời con vào trong phủ chủ tịch ăn cơm và sẵn đó bác đem khoe bản thảo một tập hồi ký kể lại thời hoạt động cách mạng. Con đọc lướt qua và có nhớ một truyện ngắn như thế này. Trong lúc đi kháng chiến bác tình cờ quen với một cô nữ sinh ở trong Nam ra thăm viếng bác. Không biết mối quan hệ tình cảm giữa bác với cô nữ sinh đó như thế nào mà thời gian sau bác nhận được lá thư của cô nữ sinh từ trong nam gởi ra. Nguyên văn của lá thư như thế này: ” Hôm ấy, bác đòi thảo luận với con về chuyện ấy. Tuy nhiên sau khi đả thông tư tưởng để kiên định lập trường, bác muốn ấy mà con thì con chưa sẵn sàng chuyện ấy nên con hổng có muốn ấy. Bây giờ con muốn ấy rồi. Nếu bác muốn ấy thì xin bác vô trong Nam mà ấy…” Bẩm Diêm Vương ngài nghe có lọt lỗ tai không?

    Diêm Vương gật gù cười.

    - Không những lọt lỗ tai mà điếc con ráy của ta nữa. Ngươi với thằng Hình sao giống nhau quá. Ngươi làm thơ thì có chữ chục chữ ” thương ” còn thằng Hình viết văn thì cũng ngần tiếng ” ấy “…

    Hỏi xong thấy Hình Chí Mô giơ tay lên xin nói, Diêm Vương chưa kịp cho phép lão ta nói thì Sáu Búa, ngồi bên cạnh đã lên tiếng trước.

    - Bác nói nhiều rồi nên để cho người khác nói.

    Nói xong câu đó thấy Hình Chí Mô vẫn mấy máy môi, Sáu Búa vội vàng đưa tay ra bịt mồm của lão ta lại. Thấy cử chỉ ” tôn trọng quyền ăn nói ” của Sáu Búa, Diêm Vương chỉ cười liếc Thôi Phán Quan trong lúc giọng của Tố Bồi Bút vang đều đều.

    - Bẩm Diêm Vương. Cái đó tiếng Việt của con gọi là hai tâm hồn đồng chí gặp nhau trong ánh sáng của xã hội chủ nghĩa.

    - Ủa mà sao ta hổng nghe ngươi nói cái tựa của tập hồi ký của thằng Hình.?

    - Bẩm Diêm Vương. Bác vốn tính khiêm nhường lắm. Con hỏi mấy lần bác mới chịu nói. Bác bảo tựa của tập hồi ký là ” Cái Ấy Của Bác Vừa Đi Vừa Gật Gù “. Tuy nhiên vì cảm thấy cái tựa quá duy vật và quá hiện thực, con đề nghị bác đổi cái tựa thành Vừa Đi Vừa Gật Gù. Như vậy có vẻ văn chương và lãng mạn hơn.

    Cười cười Diêm Vương hỏi lại họ Tố.

    - Ủa. lãng mạn là của tụi tiểu tư sản bày ra mà sao lại có trong văn thơ bác ngươi vậy?

    Tố Bồi Bút đớ người khi bị Diêm Vương đá giò lái. Hắn ta chưa kịp lên tiếng, Thôi Phán Quan cười cười xen vào câu chuyện.

    - Bác của ông đúng là nhà văn siêu thực và siêu duy vật. Thật đúng với câu ” Văn hơn Siêu Quát, hơn Tiền Hán “… Thế rồi bác có viết thư hồi âm cô nữ sinh miền Nam không?

    Tố Bồi Bút nhanh nhẩu đáp.

    - Có chứ. Thư hồi âm của bác dài lắm. Bác viết rồi mà chưa gởi vì lúc đó tình hình trong Nam sôi động lắm nên thư từ đi lại khó khăn. Vì vậy mà con mới có dịp để đọc lá thư tình đẫm lệ của bác. Thư hồi âm của bác như thế này.

    - Cháu ấy.

    Thấy Diêm Vương nhìn mình, Tố Bồi Bút hiểu ý cười giải thích.

    - Bẩm Diêm Vương. Chính con cũng théc méc về từ ” Cháu ấy ” này. Số là mấy chục năm bôn ba cách mạng, bác quen biết nhiều phụ nữ quá nên bác hổng nhớ hết tên. Vả lại bác bảo đối với ” cháu gái miền Nam “ này vì thảo luận chuyện ấy chưa sâu nên bác quên tên rồi. Ngoài ra cô em gái miền Nam viết thư chỉ nói về chuyện ấy nên bác phải viết ” Cháu ấy ” cốt ý nhắc nhở cho cô ta về chuyện ấy.

    Diêm Vương hừ tiếng nhỏ.

    - Bác của ngươi làm cách mạng gì mà tối ngày ta cứ nghe nói toàn chuyện ấy. Ta đề nghị đổi tên bác của ngươi ra Bác Ấy hay Cụ Ấy. Thôi bỏ qua chuyện viết văn. Ta muốn ngươi đọc thơ của bác ngươi cho chín vị bồi thẫm nghe.

    - Bẩm Diêm Vương. Ngài mà nghe con đọc thơ của bác xong ngài tưởng như mình đang ở trên thiên đường xã hội chủ nghĩa. Số là hồi lúc mới qua bên Tây làm cách mạng, bác của con hành nghề thợ nháy.

    - Nó nói cái gì vậy tụi bây?

    Diêm Vương ngơ ngác hỏi nhỏ mấy người đang ngồi chung quanh kể cả bốn nhân chứng và hai bị can. Phạm Văng Vàng lên tiếng trước nhất.

    - Bẩm Diêm Vương. Thợ nháy là phó nháy hay phó nhòm là thợ chụp hình đó.

    Vị vua âm phủ hừ tiếng nhỏ.

    - Lũ ngươi thiệt là lắm chuyện. Chụp hình thì nói đại đi còn chế ra nào thợ nháy, phó nháy, phó nhòm. Thôi thằng Tố kể tiếp chuyện bác của ngươi làm thơ đi.

    - Bẩm Diêm Vương. Lúc mới qua tây chẳng có nghề ngỗng gì hết nên bác đi làm thợ chụp ảnh… dạ chụp hình. Rồi bác quen một cô đầm tên Marie Bière. Hai người hò hẹn với nhau và con nghĩ chắc có quan hệ luyến ái nên bác mới làm bài thơ tặng cho cô đầm đó. Bài thơ dài lắm mà vì đọc thoáng qua nên con chỉ nhớ có đoạn đầu. Bẩm Diêm Vương bài thơ như vầy:

    - Marie ơi!!!
    Anh thấy trong mắt em
    Một thân hình thiên tả
    Anh thấy giữa đùi em
    Một cái gì quá đã…

    Em Marie ơi
    Nhìn vào mắt em
    Anh thấy
    Chiều Paris mưa rơi tầm tả
    Nhìn sâu xuống chút nữa
    Anh chợt cười ha hả
    Ôi giai cấp vô sản
    Ôi xã hội chủ nghĩa
    Cũng chưa bằng” cái ấy của em ” đâu.

    Có tiếng Đán cười sằng sặc dù anh đã bụm miệng cố không cho tiếng cười phát ra. Quay qua Huyền, Bình lại thấy cô bạn gái đỏ mặt tủm tỉm cười một mình. Trông lên anh thấy Diêm Vương lắc đầu quầy quậy, còn Thôi Phán Quan thì quay mặt sang chỗ khác để giấu nụ cười.

    - Bẩm Diêm Vương. Ngài nghĩ sao về bài thơ hiện thực và tả chân cẳng của bác con. Bác có đáng liệt hàng thi bá như Nguyễn Du không?

    Hỏi xong thấy Diêm Vương đang trợn mắt nhìn mình, Tố Bồi Bút cười phang một câu.

    - Bác con còn làm nhiều bài thơ khác hay lắm.

    Diêm Vương lắc đầu quầy quậy.

    - Thôi cám ơn. Bác của ngươi viết văn thì viết chuyện ấy, còn làm thơ thì cũng có cái ấy của em… Ta mà nghe thơ tình thiên tả của thằng Hình riết chắc ta sẽ mắc bệnh thổ tả.

    Nói xong thấy đã tới giờ ông ta ra lệnh ngưng phiên xử cho mọi người đi ăn trưa xong sẽ tiếp tục đúng hai giờ chiều.

  7. #26
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    -19-
    Vô ác bất tác

    - Muốn thay thế bác lên làm tổng bí thư nên tui với chú Sáu vẽ ra cái vụ xét lại chống đảng. Nửa đêm chú Sáu cho công an bắt Vũ Đình Huỳnh, Hoàng Minh Chính, Đặng Kim Giang và nhiều người lắm mà chính tui cũng chả biết họ có tội gì nữa. Ngoài ra chú Sáu sai đàn em lục lạo trong văn khố của thực dân Pháp tìm ra được lá thư của ” thằng lùn ” hồi còn nhỏ làm đơn xin với tụi thực dân cho đi học trường tây. Thế là tụi tui phao truyền để bêu xấu ” đại tướng lùn “. Sau một cuộc bỏ phiếu mật tụi tui loại Võ đại tướng ra khỏi bộ chín chị và cho ông ta ở nhà nựng cô vợ trẻ. Không có mặt ông tướng lùn, tui với Sáu Búa, anh Năm Thận và tướng Dũng, từ năm 1963 bắt đầu phác họa cuộc Tổng Công Kích Mậu Thân .

    Thôi Phán Quan lên tiếng ngắt lời Ba Duân.

    - Ông xác nhận chính ông, Sáu Búa, Năm Thận và đại tướng Dũng chính thức chỉ đạo cuộc tổng công kích Mậu Thân.

    Quay đầu nhìn về phía Diêm Vương đang ngồi chênh chếch sau lưng của mình, Ba Duân hỏi.

    - Bẩm Diêm Vương. Con có phải trả lời câu hỏi này?

    Vị vua của âm phủ mỉm cười buông giọng lửng lơ.

    - Ngươi nói ra thì tốt, nhược bằng không nói cũng hổng có vấn đề.

    Ba Duân hơi có vẻ suy nghĩ về câu nói chứa ẩn ý của Diêm Vương. Liếc qua phía bên kia thấy 9 vị bồi thẫm đang chăm chú nhìn mình để chờ nghe câu trả lời, hắn biết là sớm muộn gì cũng phải nói ra.

    - Chủ trương thôn tính miền Nam bằng súng đạn nên tui đã lập một ủy ban gồm nhiều đồng chí thân tín. Phe dân sự thì có tui, chú Sáu, anh Năm, anh Tô và anh Tố. Còn phe quân sự thì có tướng Dũng và bộ tham mưu của ông ta. Phải mất thời gian dài, ủy ban mới đúc kết được một kế hoạch tổng công kích và tổng nổi dậy vào đầu năm 1968. Lực lượng tham chiến đa số gồm Giải phóng quân miền Nam và một ít bộ đội chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tất cả cộng lại khoảng 100 tiểu đoàn, tức độ 100 ngàn người, đồng loạt mở cuộc tấn công vào 36 thủ phủ, 5 thành phố và 64 tỉnh lỵ của tụi ngụy.

    Nói tới đó Ba Duân ngừng lại uống ngụm nước cho thấm giọng rồi cười nói với Thôi Phán Quan.

    - Một điều buồn cười là đám lãnh tụ của ngụy quá khờ khạo, tin vào chuyện hưu chiến. Nó quên mất câu ” binh bất yểm trá ” nên quan lớn, quan nhỏ, lính tráng đều lo ăn tết và say sưa nhậu nhẹt tưng bừng. Bởi vậy khi bộ đội vào thành chúng hoảng hồn la làng chói lọi. Phải nói tướng Dũng với bộ tham mưu của ông ta đã vẽ kế hoạch và thực hiện cuộc tổng công kích và tổng nổi dậy đúng như ý của tui muốn.

    Ba Duân ngừng lại như để suy nghĩ và sắp xếp lời nói. Phòng xử im lặng như tờ vì mọi người hầu như nín thở để nghe những chi tiết chưa hề được tiết lộ từ cửa miệng của nhân vật nắm quyền lãnh đạo hai mươi ba năm ở miền Bắc từ năm 1963 cho tới 1986.

    - Lực lượng tham chiến chính gồm 100 tiểu đoàn của quân giải phóng miền Nam được điều động như sau. 35 tiểu đoàn và 18 đại đội tấn công Vùng 1; 28 tiểu đoàn đánh Vùng 2; 15 tiểu đoàn đồng loạt tập kích Vùng 3 và 19 tiểu đoàn quấy phá Vùng 4 chiến thuật của ngụy. Triệt để lợi dụng yếu tố bất ngờ, tụi tui giữ bí mật tới giờ phút chót cũng như dùng kế dương đông kích tây giả vờ pháo kích Khe Sanh và xử dụng bộ đội chính qui tấn công cứ điểm này để đánh lạc hướng của tụi Mỹ Ngụy.

    - Tôi nghe nói là chính các ông đề nghị hưu chiến ba ngày tết. Đúng không?

    - Đúng. Tụi tui tuyên bố hưu chiến trước và tụi Mỹ Ngụy khờ quá nên tin tưởng vào lời tuyên bố này. Cho tụi nó học bài học mới khôn ra. Sau này Thiệu nói được một câu nghe lọt lỗ tai lắm. ” Đừng có tin những gì tụi tui nói mà hãy nhìn những gì tụi tui làm.”

    Ba Duân cười hì hì nhìn Thôi Phán Quan giây lát xong tiếp lời.

    - Tui chỉ đạo cuộc tổng công kích nhưng điều động các đơn vị chiến đấu thì thuộc phần của tướng Dũng. Ông muốn biết chi tiết thì phải hỏi ông ta.

    Liếc nhanh Diêm Vương thấy ông ta gật đầu, Thôi Phán Quan bèn mời tướng Dũng lên ngồi vào ghế nhân chứng.

    - Theo như lời của Ba Duân thì ông là người chịu trách nhiệm về phần quân sự của cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân?

    - Chính tôi.

    Văn đại tướng trả lời gọn.

    - Xin hỏi ông lúc đó Võ đại tướng đang ở đâu?

    - Ổng đang chữa bịnh ở nước Hung.

    Khẽ gật đầu Thôi Phán Quan nói bằng giọng lịch sự.

    - Tôi nghe đồn các ông dùng mật lệnh.

    Nhẹ gật đầu Văn đại tướng hắng giọng.

    - Đúng đêm trừ tịch trước giờ giao thừa, bài thơ chúc Tết của bác được phát thanh trên đài Hà Nội. Nó chính là mật lịnh được truyền đi khắp hai miền Bắc Nam báo hiệu cuộc tổng công kích bắt đầu.

    - Ông còn nhớ bài thơ?

    - Thưa tôi nhớ chứ. Đó là bài thơ 28 câu như vầy:

    - Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
    Thắng trận tin vui khắp nước nhà
    Nam bắc thi đua đánh giặc Mỹ
    Tiến lên toàn thắng ắt về ta…

    Nghe xong hướng về chỗ 9 vị bồi thẫm đang ngồi Diêm Vương nói với Đán.

    - Hình Chí Mô cũng dính dáng vào vụ thảm sát thường dân vô tội Tết Mậu Thân à. Vậy mà ta hỏi nó thì nó chối leo lẻo, bảo rằng không biết gì. Nếu không biết thì tại sao nó lại ra mật lệnh tổng tấn công bằng cách đọc bài thơ chúc tết. 9 vị bồi thẫm nên ghi nhớ điều đó khi thảo luận về hình phạt dành cho Hình Chí Mô.

    Nói xong Diêm Vương ra lệnh cho Thôi Phán Quan tiếp tục phiên xử. Bước về bàn của mình, cầm lấy xấp hồ sơ dày cộm, vị biện lý của âm phủ tới đứng trước chỗ 9 vị bồi thẫm ngồi. Giọng nói của vị đại diện cho luật pháp của âm phủ vang rền trong phòng xử chứa mấy ngàn người.

    - Kính thưa 9 vị bồi thẫm. Âm phủ chúng tôi, sau thời gian tìm kiếm đã sưu tập và đúc kết một hồ sơ về tội ác của đảng cộng sản Việt Nam vào thời gian mà hai tên Ba Duân và Sáu Búa cầm quyền. Tội ác của chúng nếu kể ra thì nhiều vô số kể, cho nên tôi tạm thời qui vào năm biến cố của lịch sử Việt Nam. Đó là vụ thảm sát Tết Mậu Thân năm 1968, vụ bắn giết thường dân ở Quảng Trị được mọi người biết tới qua tên Đại Lộ Kinh Hoàng. Thứ ba là sau khi cưỡng chiếm được miền Nam bằng súng đạn, hai tên Ba Duân và Sáu Búa cùng với các đồng chí thân cận đã bỏ tù, đày ải hơn nửa triệu người vào các trại tập trung và cải tạo. Ăn cướp của dân lành, lưu đày dân chúng đi Vùng Kinh Tế Mới, bọn chúng đã khiến cho hàng trăm ngàn người chết vì đói và bệnh tật. Thứ tư là với tham vọng điên cuồng, hai tên Ba Duân và Sáu Búa cùng với đám tướng tá trong quân đội đã nướng hơn 50 ngàn binh sĩ vào cuộc chiến tranh xâm lược nước láng giềng Cao Miên. Thứ năm với chủ trương ăn cướp miền Nam sau năm 1975, với tiêu đề đánh tư sản mại bản, chúng xua, chúng đuổi một triệu dân lành ra đại dương để đi tìm tự do vì họ không thể sống dưới chế độ độc tài vô nhân của cộng sản. Không ai biết đích xác bao nhiêu người đã chết trên biển cả. Danh từ ” thuyền nhân ” trở thành một thảm họa kinh khiếp đồng thời cũng là một vết nhơ cho dân tộc Việt Nam. Hơn bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước và mở nước, dân Việt Nam chưa bao giờ phải bỏ nước ra đi một cách ồ ạt và sợ sệt như khi cộng sản thôn tính cả ba miền Nam trung bắc. Nói tới cộng sản trước tiên người ta phải nhắc tới tội ác, không phải của cá nhân mà là một ” tập thể các đồng chí” xem sự giết người như một phương tiện để thực hiện mục đích và tham vọng thống trị của mình. Để dễ dàng cho bồi thẫm đoàn cũng như tất cả mọi người theo dõi, tôi xin nêu ra đây tội ác thứ nhất của hai tên Ba Duân và Sáu Búa.

    Ngừng lại giây lát, Thôi Phán Quan cao giọng tiếp.

    - Thứ nhất trong vụ tổng công kích đợt 1, 2 và 3, có hơn 100 ngàn người chết bao gồm thường dân vô tội và binh sĩ của hai phe. Đó là tôi chưa kể tới những người bị thương tật và tài sản của dân chúng đã bị hủy hoại.

    Ngừng lại uống ngụm nước, Thôi Phán Quan nhìn hai bị can rồi hỏi một câu.

    - Tôi nghe đồn là hai ông ghét người miền Nam lắm. Đúng không?

    Ba Duân và Sáu Búa nhìn nhau. Dĩ nhiên chúng biết mặc dù nói ” nghe đồn “ song Thôi Phán Quan đã biết rõ điều đó. Cuối cùng Ba Duân lên tiếng.

    - Tôi nhìn nhận là tôi không ưa dân Nam bộ trừ…

    - Trừ cái gì?

    Thôi Phán Quan gằn giọng hỏi. Ba Duân cười nhẹ.

    - Trừ đàn bà con gái. Phụ nữ Nam bộ đẹp, hiền, ngây thơ và thành thật. Họ hổng có lém lỉnh nên mình dễ gạt họ hơn. Nói đúng ra thì dân Nam bộ hổng có thủ đoạn nên dễ bị tui gạt.

    - Trong cuộc tổng công kích năm 1968, hy sinh hơn 100 ngàn bộ đội Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, ông nghĩ là ông thắng hay bại. Ông gặt hái được kết quả gì?

    Trầm ngâm giây lát Ba Duân thong thả trả lời.

    - Chuyện này xảy ra đã lâu rồi nên tôi cũng chẳng muốn giấu diếm hoặc che đậy làm gì. Tui đã tính kỹ lắm khi mở ra cuộc tổng công kích năm 68. Đó là một mũi tên bắn ba con chim. Đầu tiên là nướng hết bộ đội chủ lực của phe Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

    - Ông nướng hết các đồng chí Nam bộ của ông với mục đích gì?

    Ba Duân cười cười liếc nhanh Hình Chí Mô rồi từ từ lên tiếng.

    - Tui sợ tụi nó làm loạn với lại đòi chia quyền sau khi lấy được miền Nam. Bởi vậy tui với chú Sáu phải tiên hạ thủ vi cường. Sau khi tổng công kích đợt 3 xong là tui đưa quân miền Bắc vào thay thế và giám sát chặt chẽ đám Nguyễn Hữu Thọ. Thằng nào lạng quạng là bị chích thuốc chết liền. Thứ nhì là quân của ngụy đánh với quân giải phóng thì đứa nào cũng ngất ngư còn tụi tui đứng ngoài vỗ tay mừng chiến thắng. Phần đế quốc Mỹ thì sau vụ Mậu Thân, phong trào phản chiến lên cao khiến cho dân chúng chán nản chiến tranh không còn muốn chánh phủ Mỹ tiếp tục theo đuổi cuộc chiến tranh xâm lược nữa.

    Ngồi bên kia Sáu Búa chợt bật lên tiếng cười thích thú lẫn mỉa mai.

    - Mấy thằng Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam khờ ơi là khờ. Còn tụi lính ngụy cũng dễ tin mà tụi đế quốc Mỹ lại còn ngây thơ hơn nữa. Để tôi nói cho ông nghe như thế này. Mặt trận giải phóng miền Nam có hơn 100 ngàn quân. Nếu tụi nó đòi ly khai, đòi độc lập với bác và đảng hoặc khi lấy được miền Nam rồi tụi nó đòi chia ghế chia quyền thì chúng tôi đâu có làm gì được. Bởi vậy chúng tôi mới dàn dựng ra vụ tổng công kích để nướng hết bộ đội miền Nam rồi sau đó gởi quân miền Bắc vào kiểm soát hết hổng cho tụi nó cục cựa gì được. Còn tụi ngụy thì tuy chúng tôi không gây thiệt hại nặng về quân lực song cũng làm cho nó bị khó khăn nhiều về mặt kinh tế và tinh thần. Ngoài ra vụ tổng công kích đã gây tiếng vang lớn trong dân Mỹ khiến cho họ thôi ủng hộ chính phủ kéo dài cuộc chiến tranh xâm lược phe xã hội chủ nghĩa. Ông thấy cách một mũi tên bắn ba con chim của chúng tôi có kết quả mỹ mãn chưa, mặc dù chúng tôi phải thí hơn 100 ngàn bộ đội của Mặt trận. Cá nhân tôi với anh Ba không ưa mấy thằng Nam bộ, do đó dù phải nướng hơn trăm ngàn thằng mà thu được lợi lớn thì tội gì chúng tôi không làm.

    Khẽ gật đầu Thôi Phán Quan quay qua hỏi Ba Duân.

    - Chắc ông biết vụ Đại Lộ Kinh Hoàng?

    Ba Duân cười cười xì tiếng dài.

    - Kinh cái gì mà kinh. Tụi ngụy nó thổi phòng lên đó ông ơi. Bộ đội chỉ bắn chết có chừng chục ngàn dân mà tụi nó la om xòm.

    - Theo như tôi biết thì chục ngàn dân đó là dân Quảng Trị, đồng hương với ông.

    Ba Duân lắc đầu.

    - Tôi hổng có quê hương, tổ quốc, đồng bào, đồng hương gì hết. Tui chỉ biết có đảng. Đám dân đó đáng lẽ khi bộ đội về thành thì họ phải ở lại hợp tác và ủng hộ bộ đội. Đằng này bộ đội chưa tới họ đã chạy về phía ngụy. Như thế là họ ủng hộ mỹ ngụy. Bởi vậy bộ đội mới bắn họ. Riêng vụ tù cải tạo thì như thế này. Ông nghĩ coi có ai khờ khạo và ngây thơ như đám quân dân cán chính của ngụy không. Đi ở tù mà tụi nó còn mang theo quần áo, chăn chiếu và tiền bạc. Bộ tụi nó tưởng đi nghỉ hè à.

    - Tôi nghe một tin đồn là khi có người hỏi ông xử trí cách nào với những kẻ thua trận của miền Nam thì ông làm như vầy.

    Thôi Phán Quan đưa tay lên cứa ngang cổ của mình xong nghiêm giọng hỏi.

    - Dấu hiệu đó có ý nghĩa gì?

    Ba Duân làm thinh giây lát mới cười thốt.

    - Tui đùa cho vui vậy mà.

    Không cười, Thôi Phán Quan lập lại câu hỏi của mình.

    - Tôi hỏi ông dấu hiệu đó có ý nghĩa gì?

    Liếc nhanh Diêm Vương đang hầm hè nhìn mình, Ba Duân gắng gượng trả lời câu hỏi.

    - Dấu hiệu đó có nghĩa là cắt cổ, là giết chết.

    Diêm Vương hừ tiếng nhỏ.

    - Giết chết mấy trăm ngàn người. Bộ ngươi điên à?

    Liếc nhanh Sáu Búa đang ngồi im suy nghĩ, Ba Duân lắc đầu.

    - Bẩm Diêm Vương… Con hổng có điên mà con làm đúng theo lời bác và đảng đã dạy. Chẳng thà giết lầm hơn tha lầm. Chẳng thà bỏ tù lầm một triệu thằng ngụy còn hơn tha lầm mấy chục ngàn. Với lại tụi nó sống tự do và no ấm hai chục năm rồi thì ở tù vài năm đâu có sao…

    Nghe Ba Duân nói Diêm Vương lắc đầu ngao ngán. Hướng về phía chín vị bồi thẫm ông ta nói lớn.

    - Lũ bây toàn ăn nói ngược ngạo. Ở âm phủ của ta đây thì ‘‘ thà tha lầm mười người còn hơn bỏ tù lầm một người “. Còn ở cái xứ độc tài đảng trị của lũ bây thì lại nói ” chẳng thà bỏ tù lầm mười người còn hơn tha lầm một người ”. Ngươi với thằng Trật Búa hay Sáu Búa gì đó thì tội ác ngập đầu. Tiếng người ta nguyền rủa, than oán về hai ngươi đã động tới thiên đình. Ông trời nghe hoài nhức đầu quá khiến ổng nổi giận mới ra lệnh cho ta bắt ngươi và thằng Sáu Búa xuống âm phủ sớm hơn mười lăm năm…

    Tuy muốn nói nữa song bắt gặp cái nháy mắt ra hiệu của Thôi Phán Quan, Diêm Vương cười nhẹ gật đầu phán.

    - Sau đây ta xin nhường lời lại cho Thôi Phán Quan…

    Hướng về chỗ bồi thẫm đoàn đang ngồi vị biện lý của âm phủ cao giọng.

    - Theo luật lệ của âm phủ thì tội giết người được chia ra hai loại. Đó là cố sát và ngộ sát. Ngộ sát hay giết người vì tự vệ hoặc lầm lỡ mà làm thiệt mạng của người khác, tội này tuy bị phạt song cũng được luật pháp giảm án nặng nhẹ tùy theo tội trạng và hoàn cảnh. Riêng tội cố sát hay cố ý giết người thì âm phủ có hình phạt rất khắt khe dành cho những kẻ nào chủ mưu giết người…

    Quay nhìn về phía bồi thẫm đoàn, Thôi Phán Quan cao giọng.

  8. #27
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    - Thú dữ còn không ngoảnh mặt với đồng loại của nó. Như con khỉ, khi con cái chết nó còn biết thương xót. Người xưa có câu ” Con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ…”. Hai bị can Ba Duân và Sáu Búa, là người có ăn học; tuy nhiên chỉ vì tuân thủ theo các giáo điều của cộng sản đâm ra mất nhân tính; vì vậy đã dàn dựng cũng như chủ mưu cuộc Tổng Công Kích Mậu Thân gây tang tóc và đau thương cho hàng triệu người khắp hai miền Nam bắc. Chúng ra lịnh cho những kẻ thuộc quyền sát hại hàng chục ngàn đồng bào vô tội ở Huế. Căn cứ vào những tài liệu mà âm phủ đã thu thập được, chỉ riêng ở Huế, trong vòng 24 ngày chiếm đóng, hai bị can đã truyền lịnh bắn tại chỗ hai ngàn người. Ngoài ra người ta còn tìm được hơn hai ngàn tử thi thường dân trong những hố chôn tập thể rải rác khắp nơi trong thành phố Huế. Các hố chôn tập thể có từ năm ba người, có hố chôn hơn 400 nạn nhân như ở Khe Đá Mài. Những nạn nhân nầy bị cột chùm lại với nhau và đốt cháy bằng xăng, bị bắt ngồi trên mìn rồi cho nổ tan xác, bị chặt đầu, bị bắn vào ót, bị đập chết bằng bá súng, bị đóng cọc từ dưới bàn tọa lên đến cổ, bị trói tay chân thành từng chùm rồi xô xuống hố chôn sống… Cách giết người dã man như vậy thật xưa nay chưa từng thấy…

    - Cái này là đám lính của Mặt Trận hoặc đám cộng sản nằm vùng làm càn chứ hai đứa tui đâu có ra lịnh như vậy…

    Ba Duân lên tiếng ngắt lời của Thôi Phán Quan. Cười hực, vị biện lý gằn giọng hỏi.

    - Ông nói là ông với Sáu Búa không có ra chỉ thị hả. Ông muốn tôi kêu người lên đây làm chứng…

    Ba Duân nín thinh. Thôi Phán Quan hắng giọng tiếp.

    - Điều tôi đưa ra đây sẽ chứng minh vụ thảm sát thường dân vô tội là do lệnh của hai bị can Ba Duân và Sáu Búa. Một đảng viên huyện ủy huyện Phú Vang thuộc tỉnh Thừa Thiên, có bí danh Sơn Lâm bị bắt trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân đã khai rằng, việc thảm sát tất cả dân lành vô tội trong vụ Tết Mậu Thân năm 1968 là do lệnh của Quân Ủy Trị-Thiên-Huế và cơ quan này nhận lệnh từ trung ương đảng. Ngoài ra một quản giáo trong trại cải tạo đã huênh hoang tuyên bố với các tù nhân: ” Các anh may mắn được cách mạng khoan hồng tha tội chết, vào đây thì phải biết ăn năn, học tập tốt để sớm trở về sum họp với gia đình. Tôi nói cho các anh biết, nếu năm Mậu Thân, chúng tôi thắng trận thì ba triệu ngụy quân, ngụy quyền và gia đình các anh đã bị giết theo lệnh của Hồ chủ tịch rồi… “

    Nghe tới đó Hình Chí Mô giẫy nẩy lên.

    - Hổng có đâu… Oan cho tôi quá… Tôi đâu có ra lịnh bất nhơn như vậy… Chú Ba và chú Sáu ra chỉ thị hết trơn. Tôi nói mà nó còn bịt miệng hổng cho tôi nói thì sức mấy mà nó để cho tôi ra lịnh bắt giết ai… Ngay cái bài thơ chúc Tết mà tôi đọc trên đài phát thanh cũng của thằng Sáu làm đó…

    Quay qua chỗ Diêm Vương đang ngồi, lão Hình nói với giọng như phân trần.

    - Bẫm Diêm Vương… Năm 1969 thì con theo ông Mác về thiên đường. Đầu năm 1968, thì con đã già lắm, lú lẫn thêm bịnh hoạn, cho nên con đâu có biết hai chú ấy làm cái gì… Hai chú ác lắm… Ngay cả con mà hai chú còn chích thuốc cho chết sớm thì mấy chục ngàn quân dân của ngụy ở Huế bị hai chú ấy thảm sát thì con nghĩ chuyện ấy cũng không có gì lạ…

    Mọi người trong phòng xử nhao nhao lên khi nghe Hình Chí Mô hé mở một vài bí mật.

    - Đáng cái đời nhà ngươi…

    - Quả báo nhãn tiền mà…

    - Hắn giết không biết bao nhiêu đồng chí của hắn thì bây giờ đồng chí em út của hắn chích thuốc cho hắn sớm lên thiên đường cộng sản là phải rồi…

    Thiên hạ mỗi người nói một câu ồn ào cả phòng xử khiến cho Diêm Vương phải gõ búa ra lệnh cho mọi người im lặng. Đợi cho trật tự được vãn hồi xong Thôi Phán Quan mới bước tới đứng trước mặt Ba Duân cùng với câu hỏi bật ra.

    - Tôi nghe đồn là sau khi cưỡng chiếm được miền Nam năm 1945, ông và Sáu Búa có đề ra một chính sách mới lạ. Đúng không?

    Ba Duân gật gật đầu cười.

    - Chính sách này là một sáng tạo ưu việt của tui. Cái này tui gọi là chính sách Ba Xin…

    Nhìn Tố Bồi Bút, Diêm Vương hỏi gọn. Bình nhận xét thấy đối với tám bị can thì ông vua âm phủ có cử chỉ thân thiện với họ Tố hơn bảy người kia.

    - Lành… Hắn nói cái gì vậy?

    Cười cười họ Tố bắt đầu huênh hoang tuyên truyền.

    - Bẫm Diêm Vương… Dưới ánh sáng của tư tưởng Mác Lê cũng như dưới sự chỉ đạo nổi bật của đảng, anh Ba đã đề ra chính sách Ba Xin, áp dụng cho dân Nam bộ sau năm 1975… Cái xin thứ nhất là Xin Đi Ở Tù; thứ nhì Xin Đi Vùng Kinh Té Mới và thứ ba Xin Vượt Biên…

    Thôi Phán Quan và Diêm Vương nhìn nhau rồi sau đó vị biện lý của âm phủ mới lên tiếng hỏi.

    - Xin Đi Vùng Kinh Té Mới… Ông nói lầm hay tôi nghe lầm…

    Cười tủm tỉm như có điều gì đắc ý, Tố Bồi Bút thong thả đáp.

    - Thưa ngài biện lý… Tôi không nói lầm mà ngài cũng không nghe lầm đâu… Sở dĩ tôi nói Vùng Kinh Té Mới là có cái lý do của nó… Tuy nhiên ngài biện lý hãy để cho tôi nói về cái Xin Đi Ở Tù trước nhất. Dưới sự chỉ đạo anh minh và khôn ngoan của anh Ba và anh Sáu, đồng chí Mười Cút đã ra một thông cáo là tất cả quân dân cán chính của ngụy phải trình diện để đi học tập ” mươi ngày ” xong sẽ được cho về xum họp với gia đình…

    Ai ai trong phòng xử cũng nghe tên Lành nhấn mạnh hai tiếng ” mươi ngày “. Ngừng nói hắn bật cười hì hì như có vẻ thích thú điều gì.

    - Thông cáo vừa ra xong là đám quân dân cán chính ùn ùn rủ nhau đi ở tù…

    Trên môi vẫn còn nguyên nụ cười, Tố Bồi Bút nhỏ nhẹ thưa.

    - Bẫm Diêm Vương… Ngài thấy sự khôn ngoan và sáng suốt của anh Ba và anh Sáu chưa. Cái thông cáo của đồng chí Linh đã phỉnh gạt được luôn cả mấy thằng trí thức có h19ai ba cái bằng tiến sĩ nữa. Ngài cũng biết nếu muốn bắt bỏ tù hết hai ba triệu quân dân cán chính của ngụy không phải dễ. Lộ ra là tụi nó trốn hết bằng không cũng họp nhau làm loạn. Như thế sẽ có đánh nhau to. Để tránh tình trạng ngụy quân, ngụy quyền hô hào nổi dậy chống lại cách mạng, dưới sự chỉ đạo khôn ngoan của anh Ba và anh Sáu, đồng chí Mười Cút chỉ cần ra cái thông cáo nho nhỏ là tụi lính ngụy cụ bị tiền bạc, quần áo, cơm nước xin đi ở tù…

    Diêm Vương lắc đầu ngắt lời Tố Bồi Bút.

    - Như thế là chúng mày gạt gẫm người ta. Mày hổng có xấu hổ à?

    Diêm Vương hỏi. Họ Tố cười hì hì.

    - Bẩm Diêm Vương… Gạt gẫm là nghề của đảng con mà. Tụi con gạt người ta nhiều quá rồi riết thành ra mặt dầy hổng có mắc cỡ, xấu hổ hay lương tâm cắn rứt gì hết. Bác đã dạy như thế. Nói láo, nói dóc, nói xạo, lường gạt, chôm chỉa, đối với bác là một nghệ thuật…

    Ông vua âm phủ lắc đầu than dài.

    - Thằng Lành mày nói chi lạ… Sống mấy ngàn tuổi mà ta chưa bao giờ nghe cái thứ nghệ thuật kỳ cục như bác của ngươi nói… Thôi để cho Thôi Phán Quan tiếp tục phiên xử hai thằng Ba và Sáu…

    Được lệnh của Diêm Vương, vị biện lý của âm phủ hướng về Ba Duân hỏi một câu.

    - Có bao nhiêu tù cải tạo chết vì cái dấu hiệu cứa cổ của ông?

    - Tôi không biết rõ lắm. Đối với tôi chuyện bỏ tù gần nửa triệu ngụy là cái chuyện nhỏ. Tụi nó sống hay chết là điều hổng đáng quan tâm. Tuy nhiên tôi có đọc bản báo cáo của đồng chí Mười Cút thì sơ sơ chắc cũng phải vài chục ngàn… Một số chết vì bệnh tật, một số chết vì kiệt sức do đói khổ hay nhiễm sơn lam chướng khí, còn một số bị bắn bỏ vì chống đối lại đảng và nhà nước… Thằng nào ngoan ngoãn thì tui ra lệnh các anh em đồng chí trực tiếp thụ lý vụ tù cải tạo cho tụi nó ở tù hai ba năm, thằng nào cứng đầu thì nhốt vô khám tối, còn cứng đầu nữa thì bắn bỏ…

    Diêm Vương hừ tiếng nhỏ chưa kịp lên tiếng thì Thôi Phán Quan đã nói thay.

    - Tôi có nghe người ta kể chuyện ông ra lịnh tử hình những người tù cải tạo…

    Hướng về chỗ 9 vị bồi thẫm, vị biện lý của âm phủ cao giọng như muốn nói cho họ nghe.

    - Sau đây tôi kính mời Diêm Vương cùng 9 vị bồi thẫm và mọi người nghe một câu chuyện thuật lại những hành động tàn ác của những người trông coi các trại cải tạo dưới thời hai tên Ba Duân và Sáu Búa cầm quyền. Chuyện này do một người tù cải tạo tên Nguyễn Thiếu Nhẫn ghi lại và sẽ được vị lục sự của tòa đọc cho mọi người nghe…

    Thôi Phán Quan bước tới trao xấp hồ sơ cho vị lục sự. Giọng nói trầm bổng của ông ta vang vang trong phòng xử khiến mọi người đều nghe rõ.

    - Đó là một buổi chiều ảm đạm vào khoảng tháng 06/1977 ở trại giam Suối Máu thuộc thành phố Biên Hoà. Vào khoảng tuần lễ cuối tháng 03/1977, trung đoàn 775 tổ chức đợt học tập chính trị cho toàn thể trại viên Suối Máu. Giảng viên là tên trung tá chính uỷ với khuôn mặt xương xương, cặp mắt láo liên, đôi môi xám xịt che kín hàm răng ám khói thuốc lào. Năm ngày đầu tuần với những lên lớp, xuống lớp, thảo luận, thu hoạch làm cho những tù binh mệt mỏi, đầu óc trống rỗng. Những luận điệu một chiều cũ rích : « Ta nhất định thắng, địch nhất định thua. Lao động là vinh quang. Bàn tay ta làm nên tất cả. Với sức người sỏi đá cũng thành cơm » lúc bổng, lúc trầm mà chính người nói cũng không hiểu mình định nói cái gì. Nhưng mà có cần gì, bởi lẽ tên trung tá chính uỷ cũng chỉ là một con ốc trong cái guồng máy cộng sản sắt máu. Ngày cuối tuần là ngày giải đáp thắc mắc về bài học vùng kinh tế mới. Dưới cái nóng hầm hập phả ra từ mái tôn, các tù binh mệt mỏi ngồi im như những pho tượng, mặc tình tên chính uỷ múa may hò hét, khoa tay khoa chân. Với điệu bộ lấc cấc, gương mặt đầy vẻ tự mãn, tên chính uỷ nhìn xuống đám đông qua chiếc kính đeo trễ gọng trên sóng mũi, rồi cất giọng the thé :

    - Thế này nhé : Trong thời gian gần 20 tháng qua các anh đã được đảng và nhà nước khoan hồng tạo điều kiện cho các anh học tập, lao động cải tạo, các anh cũng đã được gia đình thăm viếng, mỗi ngày các anh được xem « ti-di », sách báo. Nói tóm lại các anh đã được tiếp xúc và đã biết được phần nào về chủ nghĩa xã hội tốt đẹp. Là nguỵ quân, các anh đã lớn lên và sống trong chế độ tư bản xấu xa thối nát của miền Nam. Nay qua các bài học, các anh đã được sáng mắt, sáng lòng. Nếu anh nào còn có điều gì thắc mắc nêu lên tôi sẽ giải đáp…

    Toàn thể hội trường im phăng phắc. Tên chính uỷ thụp xuống chiếc bục. Mọi người nghe rõ tiếng sòng sọc của chiếc nõ cầy. Khói thuốc bay lên mù mịt. Tên chính uỷ đứng lên cho lệnh giải lao. Một sợi khói thuốc lào còn sót bay qua kẽ răng lúc y nói.

    Qua giờ thứ hai, khi lớp học tập hợp xong, bỗng từ phía cuối hội trường có tiếng xầm xì. Tên chính uỷ đứng trên bục giảng, gương mặt rạng rỡ như cô gái giang hồ đêm khuya ế khách bỗng chợp được một khách làng chơi say rượu thèm tình, y ngúc ngúc cái đầu với vẻ tự đắc :

    - Anh nào có gì thắc mắc thì cứ tự do phát biểu. Thế mới dân chủ bàn bạc. Tôi cho phép các anh nêu thắc mắc về mọi vấn đề ngoài bài học.

    Y đưa tay chỉ thẳng vào một người tù đang đưa tay che mũi:

    - Anh gì đấy, có gì thắc mắc cứ đưa thẳng tay lên xin phát biểu, có gì mà phải rụt rè thế. Nào, thắc mắc gì thì cho biết ?

    Người tù vừa được nói tới lúng túng đứng dậy, gương mặt anh ta nhăn nhó rất là khó coi :

    - Thưa cán bộ tôi không có gì thắc mắc. Nhưng…

    Tên chính uỷ khuyến khích :

    - Cứ mạnh dạn phát biểu, chả ai bắt tội anh đâu.

    Người tù đưa tay gãi gãi đầu, khịt khịt mũi, nói:

    - Thưa cán bộ thiệt tình là tôi không có điều gì thắc mắc. Nhưng tôi có điều muốn trình bày nếu cán bộ cho phép…

    Tên chính uỷ cười hể hả :

    - Cứ nói đi, có gì mà phải phép tắc.

    Người tù lại gãi gãi đầu :

    - Thưa cán bộ, tôi nghĩ là cán bộ hiểu lầm tôi đưa tay xin phát biểu ý kiến. Sự thực là tôi đưa tay che mũi vì không biết có anh nào chột bụng hay sao đã đánh rắm thối quá, chịu không nổi.

    Cả hội trường cười một cái rần. Tên chính uỷ tẽn tò nhưng y cũng không nín được cười. Y lầm bầm : « Thật chẳng ra làm sao cả ».

    Đợi hội trường yên lặng, anh ta lại hát bài hát cũ :

    - Thế nào ? các anh chẳng có gì thắc mắc cả sao ? Sĩ quan cả, có ăn học cả, chắc chắn các anh phải biết phân biệt tốt xấu giữa hai chế độ. Đảng ta là đảng chủ trương dân chủ bàn bạc. Các anh cứ nêu những ý kiến, thắc mắc. Giải đáp được tôi sẽ giải đáp. Không giải đáp được tôi sẽ trình lên trên. Cần thiết tôi sẽ gặp đồng chí Lê Duẫn xin ý kiến để giải đáp cho các anh. Với danh dự của một người cộng sản, tôi xin hứa sẽ không có sự trù ếm, trả thù…

    Mặc y lải nhải, cả hội trường vẫn im phăng phắc. Tên chính uỷ vừa định ngồi thụp xuống bục gỗ kéo điếu thuốc lào, bỗng từ cuối hội trường một người đứng dậy và một giọng nói cất lên :

    - Tôi xin có ý kiến…

    Mọi người đều quay lại nhìn người vừa lên tiếng. Tên chính uỷ thở phào như người vừa trút xong gánh nặng:

    - Thế chứ. Thế nào, mời anh lên đây phát biểu…

    Người tù chậm rải tiến lên bục hội trường với vẻ mặt tự tin. Anh ta nhìn tên chính uỷ, nhìn khắp hội trường, rồi quay sang nhìn tên chính uỷ :

    - Tôi xin tự giới thiệu tôi là Nguyễn Ngọc Trụ, Tiến sĩ Công Pháp Quốc Tế, cấp bậc: Trung Uý, chức vụ: giảng viên trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, một vợ, hai con, thân sinh tôi là một Trung Tá trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà hiện đang bị tù cải tạo tại miền Bắc…

    Anh ta ngừng nói. Cả hội trường im phăng phắc. Tên chính uỷ nhìn anh ta gật gù :

    - Anh có ý kiến gì cứ nêu lên. Với danh dự của một người cộng sản tôi xin hứa là sẽ không bắt tội anh đâu, dù tôi không trả lời được những ý kiến, thắc mắc của anh…

    Nói xong, y quay về đám đông :

    - Thế mới dân chủ chứ, phải không nào ?

    Cả hội trường vẫn im phăng phắc trong cái im lặng đầy bất trắc. Nguyễn Ngọc Trụ hắng giọng, lên tiếng. Giọng nói của anh rõ ràng, mạch lạc:

    - Như cán bộ đã trình bày, cá nhân tôi đã sống và lớn lên trong sự cưu mang của chế độ tư bản miền Nam. Tôi cũng đồng ý với cán bộ là xã hội miền Nam đầy dẫy những xấu xa, bất công, thối nát, những kẻ lãnh đạo bất tài tham quyền cố vị…

    Nguyễn Ngọc Trụ ngừng nói. Cả hội trường vẫn im phăng phắc. Tên chính uỷ gật gù với ý nghĩ trong đầu: « Có thế chứ ! ».

    Giọng nói của người tù trên bục lại vang lên:

    - Cũng như cán bộ đã trình bày, qua gần 20 tháng, tôi đã tiếp xúc với xã hội chủ nghĩa miền Bắc. Tôi đã được gia đình thăm nuôi nên biết được phần nào đời sống thực tế bên ngoài. Tôi cũng đã được đọc sách báo, được xem vô tuyền truyền hình. Thậm chí, tôi còn được sống gần gũi với những con người của chủ nghĩa xã hội miền Bắc là các cán bộ …

    Cả hội trường vẫn im phăng phắc. Những người ngồi kế bên như nghe rõ tiếng nín thở của người bên cạnh. Tên chính uỷ bắt đầu đi qua, đi lại. Giọng nói rõ ràng, mạch lạc của người tù trên bục giảng vang lên như một mũi dao nhọn xoáy vào một vết thương đang sưng tấy:

    - Qua tiếp xúc giữa hai chế độ, tôi thấy chế độ xã hội chủ nghĩa miền Bắc cũng không tốt đẹp gì hơn chế độ tư bản miền Nam …

    Tên chính uỷ há hốc mồm. Cả hội trường im phăng phắc, sững sờ.

    Giọng nói người tù trên bục giảng lại vang lên:

    - Tôi không tin tưởng là đất nước sẽ tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội với những cái gọi là cách mạng giáo dục đi dôi với cách mạng khoa học kỹ thuật.

    Anh ta nhìn thẳng vào mặt tên chính uỷ:

    - Tôi xin tạm mượn một hình ảnh để thí dụ: Con ngựa và chiếc xe. Người đánh xe đã tước đoạt mất tự do của con ngựa. Ông ta đã đóng móng vào chân ngựa, đã bịt mắt ngựa, tra hàm thiếc vào miệng ngựa, buộc ngựa vào xe và dùng roi quất vào mông ngựa để ra lệnh kéo cái xe. Chúng tôi và những người dân bây giờ cũng giống như những con ngựa. Đó là ý kiến của tôi về hai chế độ. Xin hết.

    Tên chính uỷ xanh mặt. Y thọc mạnh hai bàn tay đang run lên vì tức giận vào hai túi quần màu cứt ngựa. Y nghiến răng lẩm bẩm một điều gì đó không phát ra thành tiếng. Cả hội trường có tiếng xì xào, rì rầm. Nguyễn Ngọc Trụ bình tĩnh trở về chỗ ngồi. Một người nào đó nói nhỏ với anh ta:

    - Anh nói làm chi những điều như vậy…

    Nguyễn Ngọc Trụ mỉm cười trả lời:

    - Tôi phải nói những Sự Thật dù biết là sẽ nguy hiểm đến tính mạng của mình.

    Tên chính uỷ ra lệnh giải tán lớp học mặc dù còn phải 2 giờ nữa mới hết giờ. Y hấp tấp quảy cái sắc-cốt lên vai, đi như chạy ra khỏi hội trường với cái dáng đi hai hàng của y.

    Ngay sáng hôm sau, Nguyễn Ngọc Trụ được hai tên vệ binh có võ trang vào gọi anh lên trình diện Bộ Chỉ huy Trung Đoàn. Và ngay buổi chiều hôm đó anh bị biệt giam vào conex.

    Ba tháng sau. Vào một buổi chiều, một vài người tù đang thơ thẩn ở sân cát cạnh hàng rào kẽm gai bỗng kêu lên :

    - Thằng Trụ ra kìa.

    Tin tức lan nhanh. Mọi cắp mắt đều đổ xô về chiếc conex. Nguyễn Ngọc Trụ đôi mắt trũng sâu trên đôi má hóp, tóc phủ ót, phủ mang tai, râu ria tua tủa. Hai ống chân ốm tong teo chỉ còn da bọc xương, đứng không nổi phải vịn tay vào thành conex.

  9. #28
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Tên chính uỷ quảy cái sắc-cốt, bên hông lủng lẳng khẩu K.54, đứng hỏi Nguyễn Ngọc Trụ những điều gì đó rất lâu. Kế bên là hai tên vộ binh cầm súng trong tư thế nhả đạn. Có lúc Trụ ngã xuống rồi lại cố gắng vịn thành conex đứng lên. Mọi người đều thấy sau mỗi lần tên chính uỷ hỏi một điều gì đó Trụ lại lắc đầu. Những câu trả lời chỉ là những cái lắc đầu.

    Tên chính uỷ có vẻ hằn học, quay lại ra lệnh gì đó với hai tên vệ binh và bỏ đi với cái dáng đi hai hàng của y. Trụ nhích từng bước, từng bước rồi khuất hẳn vào conex. Một tên vệ binh đóng sầm cửa conex, khoá lại rồi cũng bỏ đi.

    Sáng hôm sau kẻng báo động, còi tập hợp vang lên. Ban chỉ huy trại ra lệnh tập hợp tất cả tù nhân ở hội trường. Người chủ tọa không phải là tên trung tá chính uỷ mà là tên thiếu tá chính trị viên tiểu đoàn. Y nhe răng cười một cách rất vô duyên rồi đi thẳng vào vấn đề:

    - Các anh biết đó, hôm nay trại mời các anh lên về chuyện của anh Nguyễn Ngọc Trụ. Thực hết biết anh này. Trung tá chính uỷ đã nhiều lần thuyết phục, yêu cầu anh ta nhận những điều phát biểu trong buổi học là sai. Vậy mà anh ta vẫn khăng khăng không nhận. Anh ta nhất định giữ vững ý kiến và không chịu ra trước mặt anh em nhận là mình sai lầm. Cái chết là anh ta đã nói những điều đó trước mặt anh em để tuyên truyền. Phải chi anh ta chỉ trình bày những ý kiến đó với chúng tôi thì cũng còn được đi…

    Tất cả mọi tù nhân ở hội trường đều sững sờ trước sự gian trá, lật lọng của tên thiếu tá chính trị viên nhưng không một ai dám lên tiếng. Và mọi người đều đau nhói khi nghe tên chính trị viên tiểu đoàn tuyên bố :

    - Vì anh Nguyễn Ngọc Trụ tiếp tục ngoan cố, chống đối lại đảng và nhà nước nên bộ tư lệnh quân khu quyết định xử tử hình anh ấy. Lệnh sẽ được thi hành chiều nay…

    Đó là một buổi chiều tháng Sáu ảm đạm. Nguyễn Ngọc Trụ bị bịt mắt, miệng bị nhét chanh trái, hai tay trói ké ra sau, hai tên vệ binh kéo thốc anh ra pháp trường. Anh ngã quỵ xuống khi được tháo băng bịt mắt, cởi dây trói và lấy quả chanh ra khỏi miệng. Tên sĩ quan Việt Cộng phụ trách việc hành quyết hỏi anh có điều gì yêu cầu không, anh chỉ nói:

    - Tôi đã nói lên những Sự Thực và không còn có điều gì yêu cầu…

    Anh quay lại mỉm cười với các tù nhân bên trong hàng rào kẽm gai:

    - Vĩnh biệt anh em !

    Và bình tĩnh chờ dợi. Mười hai tên vệ binh nhắm mắt bắn xối xả những tràng đạn AK vào người Nguyễn Ngọc Trụ, người tù dũng cảm, người đã dám nói lên Sự Thực ngay trong ngục tù cộng sản và mỉm cười bước vào cõi hư vô…

    Căn phòng xử chứa mấy ngàn người lặng trang rồi sau đó có tiếng thở dài hòa lẫn trong tiếng khóc nghẹn ngào của vài người nào đó. Có thể là những chiến hữu của anh cũng đã bỏ mình trong trại cải tạo. Có thể họ là cha mẹ, vợ con hoặc anh em của người lính tù cải tạo bất khuất và anh hùng đã chọn cái chết để mắng vào mặt lũ cán bộ cộng sản vô nhân tính. Ông ta đã chọn ‘‘ Ta thà làm ma của nước Việt Nam Cộng Hòa hơn là làm người dân trong xứ cộng sản ‘‘. Hành động của người lính Nguyễn Ngọc Trụ tương tự như Trần Bình Trọng hét vào mặt Thoát Hoan câu nói bất hủ ” Ta thà làm quỉ nước Nam còn hơn làm vương đất bắc…”

    Thật lâu Diêm Vương mới lên tiếng.

    - Chuyện kể thật buồn mà cũng thật hào hùng. Người như vậy mà lại chết sớm trong lúc mấy thằng trật búa như thằng hình thằng hồ, thằng lành, thằng thận, thằng vàng thì lại sống lâu làm chi cho chật đất… Thôi thằng Ba hãy nói tiếp về kế hoạch ngủ luôn của ngươi đi…

    Được lịnh của Diêm Vương, Ba Duân hớp ngụm nước lạnh xong hắng giọng tiếp.

    - Sáng tạo ưu việt khiến cho tui ưng ý nhất chính là làm cho đám dân ngụy Xin Đi Vùng Kinh Té Mới…

    Thấy Thôi Phán Quan mấp máy môi định nói, Ba Duân biết ý nên tiếp liền.

    - Đám ngụy quân ngụy quyền xin đi ở tù rồi thì ở nhà vợ con nheo nhóc, đói khổ nên đâm ra ta thán đủ điều. Tuy nhiên đảng và nhà nước đâu có ngu mà lo cho đám dân ngụy này. Dân miền Bắc còn bị nhà nước bỏ đói dài dài thì sức đâu mà tụi tui lo cho mười triệu dân Nam bộ, nhất là dân ở thành phố lớn như Sài Gòn, Đà Nẳng, Huế, Nha Trang, Cần Thơ. Phải thức đêm với mấy bà vợ lớn, nhỏ, bé và bồ nhí tui mới nghĩ ra cái vụ Xin Đi Vùng Kinh Té Mới… Với lại bộ đội về thành chưa có đủ chỗ ở nên nếu dụ dỗ hoặc ép uổng đám dân ngụy ở thành thị đi vùng kinh té mới thì tui giải quyết được hai trở ngại lớn. Thứ nhất là đày ải dân ngụy đi vào vùng hoang vu để tăng gia sản xuất. Thứ nhì là cứ mỗi gia đình dân ngụy đi là bộ đội nhào vô xí chỗ liền. Ngài biện lý thấy tui dốt mà khôn không?

    Thôi Phán Quan gật gù cái đầu tóc bạc rồi hắng giọng.

    - Ông tuy dốt, khôn mà còn thêm ác nữa… Hồi nãy ông Lành có nói về từ ngữ Vùng Kinh Té Mới, rồi bây giờ ông cũng có nhắc tới Vùng Kinh Té Mới. Xin ông vui lòng giải thích cho tòa rõ…

    - Muốn làm cho đám dân ngụy tin tưởng và tình nguyện hiến nhà dâng của cho đảng, tui phải chỉ đạo cho cơ quan của nhà nước tuyên truyền là bất cứ gia đình nào đi vùng kinh té mới, họ sẽ được nhà nước cấp phát nhà cửa mới, ruộng đất và dụng cụ để họ tự canh tác và tăng gia sản xuất. Nông phẩm của họ làm ra sẽ được nhà nước mua lại với giá cao…

    - Rồi ngươi có mua lại không?

    Diêm Vương xen vào. Ba Duân lắc đầu cười.

    - Bẩm Diêm Vương… Ngu sao mua… Vả lại nhà nước tiền đâu mà mua… Sau chiến tranh tụi con nợ còn hơn chúa chổm… Đám dân ngụy cũng khờ nên hồ hởi ới nhau đi vùng kinh té mới. Tới nơi họ mới biết thì đã muộn rồi… Hai tiếng kinh té có ý nghĩa đặc biệt của nó thưa ngài biện lý. Kinh là kinh sợ, còn té là té xỉu. Đám dân thành thị của ngụy quen hưởng thụ tiện nghi tư bản, ăn ngon mặc đẹp, bây giờ đối mặt với vùng đất mới hoang vu chúng kinh sợ quá té xỉu hết trơn nên mới gọi là Vùng Kinh Té Mới…

    - Tổ cha nó… Thằng đó với thằng Sáu Lừa nói láo như Vẹm… Cái quân cộng sản là cái đồ ăn cháo đá bát, gian xảo lọc lừa… Nhà tui ba đời ủng hộ cách mạng với mặt trận mà khi chiếm được miền Nam rồi bọn chúng nó bắt tui đi cái cùng kinh té chết đói…

    Tuy nghe những lời mắng chửi trên song Ba Duân làm lơ. Hớp ngụm nước lạnh cho thông cổ hắn tiếp liền.

    - Nhiều gia đình không chịu được kham khổ, bệnh hoạn lại lén lút trở về thành thì nhà cửa đã bị bộ đội xí rồi nên chúng Xin Làm Ăn Mày…

    - Ta chưa đi Vùng Kinh Té Mới mà chỉ nghe ngươi kể không cũng đủ kinh sợ mà té xỉu rồi…

    Diêm Vương lên tiếng. Cười cười Ba Duân nói tiếp.

    - Diêm Vương mà nghe con nói về kế hoạch ‘‘ ngủ niên “thời ngài sẽ nín tè luôn…

    Tới phiên Thôi Phán Quan vì không dằn được tánh tò mò nên vội xen vào.

    - Tôi nghe có người gọi kế hoạch ngũ niên của ông là kế hoạch ngủ luôn. Tại sao họ lại gọi như vậy?

    Ba Duân cười hực lên tiếng.

    - Chỉ có mấy thằng Việt Kiều phản động và dân Nam bộ chống đối chế độ mới gọi như thế…

    Ngừng lại giây lát Ba Duân nói nhỏ.

    - Nghĩ đi nghỉ lại thì mấy thằng phản động nói cũng đúng phần nào. Hổng biết tại sao mà tụi nó lại đoán ra cái ý của tui. Khi đề ra kế hoạch ngũ niên là tui muốn bỏ đói dân Nam bộ để tụi nó khỏi làm loạn. Bị đói dài người ra thì tụi nó lo chạy gạo đổ mồ hôi còn hơi sức đâu mà chống đối. Thằng nào đói quá thì ngủ luôn hổng dậy nữa

    - Tôi nghe đồn về kế hoạch ngũ niên 2 do ông ban hành từ năm 1976 tới 1980 mà chưa được tận tường lắm…

    Căn phòng xử chứa mấy ngàn người im phăng phắc lắng nghe vị tổng bí thư của đảng cộng sản Việt Nam nói về kế hoạch ngũ niên, một thành quả mà dân miền Nam nghe tới đều đổ mồ hôi vì phải chạy gạo ăn mỗi ngày.

    - Ngài biện lý cũng như mọi người hổng có hiểu cái ý của tui. Tên của nó là ngủ niên chứ không phải ngũ niên. Ngũ niên là năm năm còn ngủ niên của tui là ngủ nguyên năm… Hết năm này dang năm khác…

    - Ngươi nói sao nói lại cho ta nghe coi…

    Diêm Vương lên tiếng. Tủm tỉm cười Ba Duân giải thích.

    - Bẫm Diêm Vương. Cái kế hoạch ngủ niên của con chủ ý bỏ đói dân Nam bộ làm cho tụi nó đói triền miên rồi ngủ nguyên năm luôn để quên cái đói cái khổ…

    - Ông làm cách nào để bỏ đói mười mấy triệu dân miền Nam?

    Thôi Phán Quan lên tiếng hỏi. Ba Duân cười cười trả lời.

    - Dễ ợt… Kinh tế của chủ nghĩa xã hội đặt nặng vào kỹ nghệ để hổ trợ cho nông nghiệp gia tăng sản xuất từ đó nông nghiệp sẽ giúp ngược lại để kỹ nghệ nặng được phát triển. Con tính là trong kế hoạch ngủ luôn này kỹ nghệ sẽ phát triển từ 16 đến 18% mỗi năm, còn nông nghiệp sẽ tăng từ 8% tới 10%. Lợi tức của dân Nam bộ hàng năm sẽ tăng từ 13% tới 14%…( Trích Sau Bức Màn Đỏ- Hoàng Dung )

    - Xạo ke…

    - Nói láo như Vẹm…

    - Thằng cha đó xạo Diêm Vương ơi…

    - Tôi nghe lời của thằng chả chết để lại vợ con hổng ai nuôi…

    - Sau năm 75, tiền của già Hồ chùi đít hổng ai thèm…

    Thiên hạ la rầm trời. Nghe giọng nói Bình biết mấy người đó là dân miền Nam. Họ là nạn nhân của kế hoạch ngủ luôn hoặc vùng kinh té mới của đảng cộng sản Việt Nam mà hai tên cầm đầu chính là Ba Duân và Sáu Lừa. Có lẽ thông cảm cho sự uất ức của các nạn nhân do đó Diêm Vương cũng không gõ búa bắt họ im lặng. Lát sau mọi người mới ngưng khi giọng nói của Ba Duân cất lên.

    - Tui giao cho đồng chí Mười Cút biến kinh té miền Nam rập theo khuôn mẫu của miền Bắc. Dụ dỗ nông dân vào hợp tác xã mà hổng có ai chịu vào, cuối cùng cán bộ cưỡng bách bằng cách tịch thu ruộng đất, dụng cụ nghề nông thì họ giết hết trâu bò để ăn, còn cày bừa thì phè phè, chơi nhiều làm ít hay chỉ làm đủ ăn mà thôi. Vì vậy mà miền Nam bị đói vào năm 1978 và 1979. Mới đầu còn có cơm trắng, sau đó độn khoai rồi sau nữa ăn độn với bo bo…

    - Bây giờ ta mới biết là tại sao dân Việt Nam xuống đây đứa nào đứa nấy ốm hơn cò ma, toàn xương bọc da… mở miệng là đòi cơm cơm tối ngày… Hóa ra họ bị xuống đây là vì kế hoạch ngủ luôn của ngươi…

    Diêm Vương lên tiếng. Ba Duân cười hì hì tiếp.

    - Vì kế hoạch ngủ luôn làm cho dân Nam bộ đói quá nhưng mà con với anh Sáu cũng chưa thỏa dạ… Anh Sáu bảo con cho đồng chí Lành lên làm chức phó thủ tượng đặc trách kinh té…

    - Trời đất… Bộ hết người sao mà hai đứa bây lại cho thằng Lành làm phó thủ tượng đặc trách kinh té… Ta nghe còn té ngửa té ngang huống chi dân miền Nam…

    - Bẫm Diêm Vương… Con biết đồng chí Lành mà đặc trách về kinh té thì dân miền Nam sẽ té dài dài, té đủ kiểu, như ông già bà lão sẽ té xuống mồ, con nít té xuống sàn, đàn bà té chổng mông, đàn ông té ngửa té xấp… Nhưng cái này là chủ ý của con với anh Sáu và luôn cả các anh em đồng chí trong bộ chín chị. Trong kế hoạch ngủ luôn 2, con với anh Sáu còn bày thêm cái gọi là đánh tư bản và mại sản. Nó là cách lấy của nhà giàu chia cho các anh em đồng chí xài…

    - Rồi thằng Lành ở chức vụ phó thủ tượng đặc trách kinh té mà nó có làm được cái gì không?

    Nghe Diêm Vương hỏi, Thôi Phán Quan quay nhìn về ghế Tố Bồi Bút đang ngồi. Biết ý, vị phó thủ tượng đặc trách kinh té của nước Việt Nam Dân Chửi Cười Trừ cười hí hí.

    - Bẫm Diêm Vương… Với sự hội ý của hai Ba và anh Sáu, sau khi nắm chức phó thủ tượng con ra cái kế hoạch ngủ niên 3 mà mấy thằng phản động đầy ác ý gọi là kế hoạch ngủ khò…

    Thiên hạ bật cười cái rần. Ngay cả Thôi Phán Quan vốn tính nghiêm nghị mà cũng phải tủm tỉm cười. Nhẹ lắc đầu Diêm Vương phán.

    - Lại nữa… Thằng Hình viết văn thì chữ nào cũng ấy… Ngươi làm thơ thì có chục tiếng thương rồi bây giờ đi làm kinh té lại lòi ra tiếng ngủ… Tụi bây là quan lớn nhà nước mà tối ngày cứ lo ba cái vụ thương, ấy, ngủ thì làm sao mà lo cho nước cho dân được… Bởi vậy mà dân của ngươi nghèo càng nghèo thêm; nước đã yếu càng thêm yếu…

    Bị Diêm Vương lên lớp, Tố Bồi Bút cố gắng bào chữa.

    - Bẫm Diêm Vương… Cái này hổng phải lỗi của con đâu ạ… Trước khi con nhận chức đặc trách kinh té, thì anh Ba đã rỉ tai dặn con là cứ làm cho tụi dân Nam bộ kinh với té thì nó mới sợ mà bán nhà cửa và của cải để tìm đường vượt biên. Như thế thì tụi con mỗi đứa chia nhau được vài ngàn cây vàng để dưỡng già… Mấy chú ba ở Chợ Lớn vàng cây nhiều chọi lổ đầu người ta. Biết được chú ba có vàng, nên anh Ba, anh Sáu và tất cả quan lớn của bộ chín chị và nhà nước tìm cách tống cổ chú ba về nước… Đó là kế hoạch quan trọng mà tụi con gọi là phương án 2 mà mấy thằng phản động gọi là phương án ăn cướp 2…

    Nghe tới đó Diêm Vương lắc đầu than dài.

    - Thôi để cho mọi người dùng cơm chiều chứ nghe tụi bây nói riết chắc họ kinh với té hết trơn mắc công âm phủ kêu xe cứu thương chở họ vào nhà thương…

    Nói xong Diêm Vương tuyên bố tạm ngưng phiên tòa cho mọi người nghỉ ngơi và sáng mai sẽ tiếp tục.

  10. #29
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,747
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Tên chính uỷ quảy cái sắc-cốt, bên hông lủng lẳng khẩu K.54, đứng hỏi Nguyễn Ngọc Trụ những điều gì đó rất lâu. Kế bên là hai tên vộ binh cầm súng trong tư thế nhả đạn. Có lúc Trụ ngã xuống rồi lại cố gắng vịn thành conex đứng lên. Mọi người đều thấy sau mỗi lần tên chính uỷ hỏi một điều gì đó Trụ lại lắc đầu. Những câu trả lời chỉ là những cái lắc đầu.

    Tên chính uỷ có vẻ hằn học, quay lại ra lệnh gì đó với hai tên vệ binh và bỏ đi với cái dáng đi hai hàng của y. Trụ nhích từng bước, từng bước rồi khuất hẳn vào conex. Một tên vệ binh đóng sầm cửa conex, khoá lại rồi cũng bỏ đi.

    Sáng hôm sau kẻng báo động, còi tập hợp vang lên. Ban chỉ huy trại ra lệnh tập hợp tất cả tù nhân ở hội trường. Người chủ tọa không phải là tên trung tá chính uỷ mà là tên thiếu tá chính trị viên tiểu đoàn. Y nhe răng cười một cách rất vô duyên rồi đi thẳng vào vấn đề:

    - Các anh biết đó, hôm nay trại mời các anh lên về chuyện của anh Nguyễn Ngọc Trụ. Thực hết biết anh này. Trung tá chính uỷ đã nhiều lần thuyết phục, yêu cầu anh ta nhận những điều phát biểu trong buổi học là sai. Vậy mà anh ta vẫn khăng khăng không nhận. Anh ta nhất định giữ vững ý kiến và không chịu ra trước mặt anh em nhận là mình sai lầm. Cái chết là anh ta đã nói những điều đó trước mặt anh em để tuyên truyền. Phải chi anh ta chỉ trình bày những ý kiến đó với chúng tôi thì cũng còn được đi…

    Tất cả mọi tù nhân ở hội trường đều sững sờ trước sự gian trá, lật lọng của tên thiếu tá chính trị viên nhưng không một ai dám lên tiếng. Và mọi người đều đau nhói khi nghe tên chính trị viên tiểu đoàn tuyên bố :

    - Vì anh Nguyễn Ngọc Trụ tiếp tục ngoan cố, chống đối lại đảng và nhà nước nên bộ tư lệnh quân khu quyết định xử tử hình anh ấy. Lệnh sẽ được thi hành chiều nay…

    Đó là một buổi chiều tháng Sáu ảm đạm. Nguyễn Ngọc Trụ bị bịt mắt, miệng bị nhét chanh trái, hai tay trói ké ra sau, hai tên vệ binh kéo thốc anh ra pháp trường. Anh ngã quỵ xuống khi được tháo băng bịt mắt, cởi dây trói và lấy quả chanh ra khỏi miệng. Tên sĩ quan Việt Cộng phụ trách việc hành quyết hỏi anh có điều gì yêu cầu không, anh chỉ nói:

    - Tôi đã nói lên những Sự Thực và không còn có điều gì yêu cầu…

    Anh quay lại mỉm cười với các tù nhân bên trong hàng rào kẽm gai:

    - Vĩnh biệt anh em !

    Và bình tĩnh chờ dợi. Mười hai tên vệ binh nhắm mắt bắn xối xả những tràng đạn AK vào người Nguyễn Ngọc Trụ, người tù dũng cảm, người đã dám nói lên Sự Thực ngay trong ngục tù cộng sản và mỉm cười bước vào cõi hư vô…

    Căn phòng xử chứa mấy ngàn người lặng trang rồi sau đó có tiếng thở dài hòa lẫn trong tiếng khóc nghẹn ngào của vài người nào đó. Có thể là những chiến hữu của anh cũng đã bỏ mình trong trại cải tạo. Có thể họ là cha mẹ, vợ con hoặc anh em của người lính tù cải tạo bất khuất và anh hùng đã chọn cái chết để mắng vào mặt lũ cán bộ cộng sản vô nhân tính. Ông ta đã chọn ‘‘ Ta thà làm ma của nước Việt Nam Cộng Hòa hơn là làm người dân trong xứ cộng sản ‘‘. Hành động của người lính Nguyễn Ngọc Trụ tương tự như Trần Bình Trọng hét vào mặt Thoát Hoan câu nói bất hủ ” Ta thà làm quỉ nước Nam còn hơn làm vương đất bắc…”

    Thật lâu Diêm Vương mới lên tiếng.

    - Chuyện kể thật buồn mà cũng thật hào hùng. Người như vậy mà lại chết sớm trong lúc mấy thằng trật búa như thằng hình thằng hồ, thằng lành, thằng thận, thằng vàng thì lại sống lâu làm chi cho chật đất… Thôi thằng Ba hãy nói tiếp về kế hoạch ngủ luôn của ngươi đi…

    Được lịnh của Diêm Vương, Ba Duân hớp ngụm nước lạnh xong hắng giọng tiếp.

    - Sáng tạo ưu việt khiến cho tui ưng ý nhất chính là làm cho đám dân ngụy Xin Đi Vùng Kinh Té Mới…

    Thấy Thôi Phán Quan mấp máy môi định nói, Ba Duân biết ý nên tiếp liền.

    - Đám ngụy quân ngụy quyền xin đi ở tù rồi thì ở nhà vợ con nheo nhóc, đói khổ nên đâm ra ta thán đủ điều. Tuy nhiên đảng và nhà nước đâu có ngu mà lo cho đám dân ngụy này. Dân miền Bắc còn bị nhà nước bỏ đói dài dài thì sức đâu mà tụi tui lo cho mười triệu dân Nam bộ, nhất là dân ở thành phố lớn như Sài Gòn, Đà Nẳng, Huế, Nha Trang, Cần Thơ. Phải thức đêm với mấy bà vợ lớn, nhỏ, bé và bồ nhí tui mới nghĩ ra cái vụ Xin Đi Vùng Kinh Té Mới… Với lại bộ đội về thành chưa có đủ chỗ ở nên nếu dụ dỗ hoặc ép uổng đám dân ngụy ở thành thị đi vùng kinh té mới thì tui giải quyết được hai trở ngại lớn. Thứ nhất là đày ải dân ngụy đi vào vùng hoang vu để tăng gia sản xuất. Thứ nhì là cứ mỗi gia đình dân ngụy đi là bộ đội nhào vô xí chỗ liền. Ngài biện lý thấy tui dốt mà khôn không?

    Thôi Phán Quan gật gù cái đầu tóc bạc rồi hắng giọng.

    - Ông tuy dốt, khôn mà còn thêm ác nữa… Hồi nãy ông Lành có nói về từ ngữ Vùng Kinh Té Mới, rồi bây giờ ông cũng có nhắc tới Vùng Kinh Té Mới. Xin ông vui lòng giải thích cho tòa rõ…

    - Muốn làm cho đám dân ngụy tin tưởng và tình nguyện hiến nhà dâng của cho đảng, tui phải chỉ đạo cho cơ quan của nhà nước tuyên truyền là bất cứ gia đình nào đi vùng kinh té mới, họ sẽ được nhà nước cấp phát nhà cửa mới, ruộng đất và dụng cụ để họ tự canh tác và tăng gia sản xuất. Nông phẩm của họ làm ra sẽ được nhà nước mua lại với giá cao…

    - Rồi ngươi có mua lại không?

    Diêm Vương xen vào. Ba Duân lắc đầu cười.

    - Bẩm Diêm Vương… Ngu sao mua… Vả lại nhà nước tiền đâu mà mua… Sau chiến tranh tụi con nợ còn hơn chúa chổm… Đám dân ngụy cũng khờ nên hồ hởi ới nhau đi vùng kinh té mới. Tới nơi họ mới biết thì đã muộn rồi… Hai tiếng kinh té có ý nghĩa đặc biệt của nó thưa ngài biện lý. Kinh là kinh sợ, còn té là té xỉu. Đám dân thành thị của ngụy quen hưởng thụ tiện nghi tư bản, ăn ngon mặc đẹp, bây giờ đối mặt với vùng đất mới hoang vu chúng kinh sợ quá té xỉu hết trơn nên mới gọi là Vùng Kinh Té Mới…

    - Tổ cha nó… Thằng đó với thằng Sáu Lừa nói láo như Vẹm… Cái quân cộng sản là cái đồ ăn cháo đá bát, gian xảo lọc lừa… Nhà tui ba đời ủng hộ cách mạng với mặt trận mà khi chiếm được miền Nam rồi bọn chúng nó bắt tui đi cái cùng kinh té chết đói…

    Tuy nghe những lời mắng chửi trên song Ba Duân làm lơ. Hớp ngụm nước lạnh cho thông cổ hắn tiếp liền.

    - Nhiều gia đình không chịu được kham khổ, bệnh hoạn lại lén lút trở về thành thì nhà cửa đã bị bộ đội xí rồi nên chúng Xin Làm Ăn Mày…

    - Ta chưa đi Vùng Kinh Té Mới mà chỉ nghe ngươi kể không cũng đủ kinh sợ mà té xỉu rồi…

    Diêm Vương lên tiếng. Cười cười Ba Duân nói tiếp.

    - Diêm Vương mà nghe con nói về kế hoạch ‘‘ ngủ niên “thời ngài sẽ nín tè luôn…

    Tới phiên Thôi Phán Quan vì không dằn được tánh tò mò nên vội xen vào.

    - Tôi nghe có người gọi kế hoạch ngũ niên của ông là kế hoạch ngủ luôn. Tại sao họ lại gọi như vậy?

    Ba Duân cười hực lên tiếng.

    - Chỉ có mấy thằng Việt Kiều phản động và dân Nam bộ chống đối chế độ mới gọi như thế…

    Ngừng lại giây lát Ba Duân nói nhỏ.

    - Nghĩ đi nghỉ lại thì mấy thằng phản động nói cũng đúng phần nào. Hổng biết tại sao mà tụi nó lại đoán ra cái ý của tui. Khi đề ra kế hoạch ngũ niên là tui muốn bỏ đói dân Nam bộ để tụi nó khỏi làm loạn. Bị đói dài người ra thì tụi nó lo chạy gạo đổ mồ hôi còn hơi sức đâu mà chống đối. Thằng nào đói quá thì ngủ luôn hổng dậy nữa

    - Tôi nghe đồn về kế hoạch ngũ niên 2 do ông ban hành từ năm 1976 tới 1980 mà chưa được tận tường lắm…

    Căn phòng xử chứa mấy ngàn người im phăng phắc lắng nghe vị tổng bí thư của đảng cộng sản Việt Nam nói về kế hoạch ngũ niên, một thành quả mà dân miền Nam nghe tới đều đổ mồ hôi vì phải chạy gạo ăn mỗi ngày.

    - Ngài biện lý cũng như mọi người hổng có hiểu cái ý của tui. Tên của nó là ngủ niên chứ không phải ngũ niên. Ngũ niên là năm năm còn ngủ niên của tui là ngủ nguyên năm… Hết năm này dang năm khác…

    - Ngươi nói sao nói lại cho ta nghe coi…

    Diêm Vương lên tiếng. Tủm tỉm cười Ba Duân giải thích.

    - Bẫm Diêm Vương. Cái kế hoạch ngủ niên của con chủ ý bỏ đói dân Nam bộ làm cho tụi nó đói triền miên rồi ngủ nguyên năm luôn để quên cái đói cái khổ…

    - Ông làm cách nào để bỏ đói mười mấy triệu dân miền Nam?

    Thôi Phán Quan lên tiếng hỏi. Ba Duân cười cười trả lời.

    - Dễ ợt… Kinh tế của chủ nghĩa xã hội đặt nặng vào kỹ nghệ để hổ trợ cho nông nghiệp gia tăng sản xuất từ đó nông nghiệp sẽ giúp ngược lại để kỹ nghệ nặng được phát triển. Con tính là trong kế hoạch ngủ luôn này kỹ nghệ sẽ phát triển từ 16 đến 18% mỗi năm, còn nông nghiệp sẽ tăng từ 8% tới 10%. Lợi tức của dân Nam bộ hàng năm sẽ tăng từ 13% tới 14%…( Trích Sau Bức Màn Đỏ- Hoàng Dung )

    - Xạo ke…

    - Nói láo như Vẹm…

    - Thằng cha đó xạo Diêm Vương ơi…

    - Tôi nghe lời của thằng chả chết để lại vợ con hổng ai nuôi…

    - Sau năm 75, tiền của già Hồ chùi đít hổng ai thèm…

    Thiên hạ la rầm trời. Nghe giọng nói Bình biết mấy người đó là dân miền Nam. Họ là nạn nhân của kế hoạch ngủ luôn hoặc vùng kinh té mới của đảng cộng sản Việt Nam mà hai tên cầm đầu chính là Ba Duân và Sáu Lừa. Có lẽ thông cảm cho sự uất ức của các nạn nhân do đó Diêm Vương cũng không gõ búa bắt họ im lặng. Lát sau mọi người mới ngưng khi giọng nói của Ba Duân cất lên.

    - Tui giao cho đồng chí Mười Cút biến kinh té miền Nam rập theo khuôn mẫu của miền Bắc. Dụ dỗ nông dân vào hợp tác xã mà hổng có ai chịu vào, cuối cùng cán bộ cưỡng bách bằng cách tịch thu ruộng đất, dụng cụ nghề nông thì họ giết hết trâu bò để ăn, còn cày bừa thì phè phè, chơi nhiều làm ít hay chỉ làm đủ ăn mà thôi. Vì vậy mà miền Nam bị đói vào năm 1978 và 1979. Mới đầu còn có cơm trắng, sau đó độn khoai rồi sau nữa ăn độn với bo bo…

    - Bây giờ ta mới biết là tại sao dân Việt Nam xuống đây đứa nào đứa nấy ốm hơn cò ma, toàn xương bọc da… mở miệng là đòi cơm cơm tối ngày… Hóa ra họ bị xuống đây là vì kế hoạch ngủ luôn của ngươi…

    Diêm Vương lên tiếng. Ba Duân cười hì hì tiếp.

    - Vì kế hoạch ngủ luôn làm cho dân Nam bộ đói quá nhưng mà con với anh Sáu cũng chưa thỏa dạ… Anh Sáu bảo con cho đồng chí Lành lên làm chức phó thủ tượng đặc trách kinh té…

    - Trời đất… Bộ hết người sao mà hai đứa bây lại cho thằng Lành làm phó thủ tượng đặc trách kinh té… Ta nghe còn té ngửa té ngang huống chi dân miền Nam…

    - Bẫm Diêm Vương… Con biết đồng chí Lành mà đặc trách về kinh té thì dân miền Nam sẽ té dài dài, té đủ kiểu, như ông già bà lão sẽ té xuống mồ, con nít té xuống sàn, đàn bà té chổng mông, đàn ông té ngửa té xấp… Nhưng cái này là chủ ý của con với anh Sáu và luôn cả các anh em đồng chí trong bộ chín chị. Trong kế hoạch ngủ luôn 2, con với anh Sáu còn bày thêm cái gọi là đánh tư bản và mại sản. Nó là cách lấy của nhà giàu chia cho các anh em đồng chí xài…

    - Rồi thằng Lành ở chức vụ phó thủ tượng đặc trách kinh té mà nó có làm được cái gì không?

    Nghe Diêm Vương hỏi, Thôi Phán Quan quay nhìn về ghế Tố Bồi Bút đang ngồi. Biết ý, vị phó thủ tượng đặc trách kinh té của nước Việt Nam Dân Chửi Cười Trừ cười hí hí.

    - Bẫm Diêm Vương… Với sự hội ý của hai Ba và anh Sáu, sau khi nắm chức phó thủ tượng con ra cái kế hoạch ngủ niên 3 mà mấy thằng phản động đầy ác ý gọi là kế hoạch ngủ khò…

    Thiên hạ bật cười cái rần. Ngay cả Thôi Phán Quan vốn tính nghiêm nghị mà cũng phải tủm tỉm cười. Nhẹ lắc đầu Diêm Vương phán.

    - Lại nữa… Thằng Hình viết văn thì chữ nào cũng ấy… Ngươi làm thơ thì có chục tiếng thương rồi bây giờ đi làm kinh té lại lòi ra tiếng ngủ… Tụi bây là quan lớn nhà nước mà tối ngày cứ lo ba cái vụ thương, ấy, ngủ thì làm sao mà lo cho nước cho dân được… Bởi vậy mà dân của ngươi nghèo càng nghèo thêm; nước đã yếu càng thêm yếu…

    Bị Diêm Vương lên lớp, Tố Bồi Bút cố gắng bào chữa.

    - Bẫm Diêm Vương… Cái này hổng phải lỗi của con đâu ạ… Trước khi con nhận chức đặc trách kinh té, thì anh Ba đã rỉ tai dặn con là cứ làm cho tụi dân Nam bộ kinh với té thì nó mới sợ mà bán nhà cửa và của cải để tìm đường vượt biên. Như thế thì tụi con mỗi đứa chia nhau được vài ngàn cây vàng để dưỡng già… Mấy chú ba ở Chợ Lớn vàng cây nhiều chọi lổ đầu người ta. Biết được chú ba có vàng, nên anh Ba, anh Sáu và tất cả quan lớn của bộ chín chị và nhà nước tìm cách tống cổ chú ba về nước… Đó là kế hoạch quan trọng mà tụi con gọi là phương án 2 mà mấy thằng phản động gọi là phương án ăn cướp 2…

    Nghe tới đó Diêm Vương lắc đầu than dài.

    - Thôi để cho mọi người dùng cơm chiều chứ nghe tụi bây nói riết chắc họ kinh với té hết trơn mắc công âm phủ kêu xe cứu thương chở họ vào nhà thương…

    Nói xong Diêm Vương tuyên bố tạm ngưng phiên tòa cho mọi người nghỉ ngơi và sáng mai sẽ tiếp tục.

Trang 3 / 5 ĐầuĐầu 12345 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Âm Mưu Ngày Tận Thế
    By giavui in forum Truyện Dài Audio
    Trả Lời: 1
    Bài Viết Cuối: 03-16-2016, 12:54 PM
  2. Thẩm phán rút súng trong phiên tòa
    By duyanh in forum Tin Tức Quốc Tế
    Trả Lời: 1
    Bài Viết Cuối: 02-28-2012, 02:40 PM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-07-2012, 12:16 PM
  4. Âm 38,1 độ C, châu Âu rối loạn
    By duyanh in forum Tin Tức Quốc Tế
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-05-2012, 12:45 PM
  5. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-02-2012, 12:18 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •