Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Ái tình và hạnh phúc là hình với bóng, nếu biết bảo vệ thì hạnh phúc sẽ thành sự thật, ngườc lại nếu không biết bảo vệ thì hạnh phúc chỉ là một hình ảnh ảo tưởng không bao giờ có.
Pascal
Trang 5 / 5 ĐầuĐầu ... 345
Results 41 to 48 of 48

Chủ Đề: Phiên Tòa Dưới Âm Phủ

  1. #40
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    -Những gì trong đoạn văn trích dẫn ở trên đưa chúng ta tới một kết luận. Bị can Hình Chí Mô, bí danh Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy hay bất cứ tên giả mạo nào, cũng là đảng viên trung kiên của cộng sản đệ tam quốc tế và sáng lập viên đảng cộng sản Việt Nam. Bị can được phái tới Quảng Châu tìm cách xâm nhập và biến các đảng phái quốc gia chống Pháp thành cộng sản dưới quyền chỉ đạo của bị can. Hắn đã đạt được kết quả mỹ mãn nhờ vào sự hiểu biết và những thủ đoạn gian manh của một nhân viên tình báo được đào tạo qua các khóa huấn luyện đặc biệt của các cơ quan tình báo Liên Xô. Dấu kín tung tích của một đảng viên cộng sản quốc tế, Hình Chí Mô xuất hiện ở Quảng Châu như một phần tử quốc gia yêu nước thương dân, tranh đấu cho độc lập và tự do của dân tộc. Bằng cái vỏ bọc cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp, bị can móc nối, tuyên truyền, dụ dỗ các thanh niên trẻ đầy nhiệt huyết trong cũng như ngoài nước thành đảng viên của Việt Nam Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội, tiền thân của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Trong suốt thời gian hoạt động ở Quảng Châu từ tháng 11 năm 1924 cho tới tháng 12 năm 1927, không một ai biết Lý Thụy là đảng viên cộng sản. Nếu có ai biết thì người đó sẽ bị bị can thủ tiêu bằng cách bán cho mật thám Pháp. Dịch vụ buôn người quốc gia và bán đồng chí hái ra tiền đủ để cho bị can bành trướng ảnh hưởng của đảng. Không một ai biết Lâm Đức Thụ và Lý Thụy đã bán bao nhiêu thanh niên yêu nước của các đảng phái quốc gia như Quang Phục Hội, Quốc Dân Đảng và vô số phần tử quốc gia không theo đảng phái nào…
    Ngừng lại, hớp ngụm nước cho thấm giọng xong Thôi Phán Quan thong thả tiếp. -Điều mà tôi muốn nhấn mạnh ở đây là bản chất lừa bịp, dối gian và xảo trá của Hình Chí Mô. Bị can lợi dụng lòng tốt, sự tín nhiệm và tình thương yêu tổ quốc của các đồng chí để trục lợi cho bản thân và mẫu quốc cũng như người cha già Lê Nin của bị can. ” Tình cảm anh Nguyễn đối với Lê-nin là lòng hiếu thảo, một đức tính Việt Nam ”. Câu này là một bằng chứng hiển nhiên. Tổ tiên, ông bà, cha mẹ, đất nước Việt Nam của bị can đã bị hủy hoại để nhường chỗ cho mẫu quốc Liên Xô, cha già Lê Nin, Xít Ta Lin và đồng bào Nga xô. Ở trong người của bị can là một trái tim cộng sản, máu Liên Xô và nhung nhúc những con ” vi trùng mác-lê ”, biến bị can thành một quỉ vương tàn bạo vô nhân tính. Hỡi đồng bào cả nước, Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo Hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được: trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lời nói bất hủ ấy trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các Dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng: Dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là lẽ phải không ai chối cãi được… Kính thưa quí vị… Trên đây là những lời nói đầu tiên trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập mà bị can Hình Chí Mô đã đọc ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại Quảng Trường Ba Đình trước sự chứng kiến của hàng trăm ngàn người dân trong nước. Hồ Chí Minh xuất hiện như vị anh hùng yêu nước thương dân. Than ôi… Người ta đã lầm… Độc lập đâu không thấy mà chỉ thấy độc tài, độc đảng. Tự do thì có nhưng lại là đặc quyền của đảng. Đó là tự do giết người, tự do bắt bớ và giam cầm người dân, tự do bán nước và tự do tham nhũng. Độc lập, tự do, dân chủ chỉ là cái bánh vẻ của một đại ma đầu chính trị treo lơ lửng trước mặt mà mọi người không bao giờ được nếm để biết mùi vị. Nó chỉ là một khẩu hiệu tuyên truyền dùng để kích động lòng yêu nước của dân chúng, để cho người ta chết cho bác và đảng. 57 năm đã trôi qua, người dân Việt vẫn sống, gồng mình sống trong chế độ công an trị. Đấu tố, cải cách ruộng đất, cải tạo tư tưởng, thủ tiêu, bắt bớ, giam cầm, lưu đày biệt xứ, nghèo khổ và lầm than vẫn tiếp diễn cho tới ngày hôm nay. Bị can Hình Chí Mô đã dối gạt, lừa bịp dân chúng Việt Nam từ lâu lắm rồi… Thôi Phán Quan ngừng nói. Hướng về chỗ bồi thẫm đoàn ông ta hắng giọng. -Sau đây tôi xin trình bày thêm về những hành động ” cách mạng bịp ” của bị can Hình Chí Mô để cho 9 vị bồi thẫm và mọi người được tận tường về con người ngoài mặt thì nói quốc gia mà lại có trái tim cộng sản… Anh Nguyễn đến Hương Cảng với hộ chiếu mang tên Tống Văn Sơ. Thành phố sắp đón xuân mới. Trên các hè đường, người ta bán hoa đào, mẫu đơn, thủy tiên, cá vàng. Người đi sắm Tết nườm nượp. Anh Nguyễn gặp lại anh Hồ Tùng Mậu, cùng nhau bàn việc chuẩn bị chỗ họp và đón các đại biểu từ trong nước ra. Riêng anh Nguyễn còn bận nghiên cứu, dự thảo những văn kiện cho Hội nghị sắp tới, viết báo cáo về tình hình Đông Dương cho Quốc tế cộng sản trên cơ sở những tin tức anh nắm được ở Thượng Hải và Hương Cảng. Một học sinh Việt Nam ở trường Đại học Phương Đông, Mát-xcơ-va, đã trở về nước. Sắp tới có các học sinh từ trong nước ra Hương Cảng để đi học ở Mát-xcơ-va, anh Nguyễn sẽ phải lo thu xếp cho họ đi. Một đồng chí phụ trách của tổ chức cách mạng Mã Lai vừa từ Xin-ga-po và một đồng chí cộng sản Nam Dương từ đảo Gia-va tới gặp anh Nguyễn để hỏi một số ý kiến. Anh đã gửi về Quốc tế cộng sản một báo cáo về tình hình Mã Lai. Đến Hương Cảng trước tất cả là đoàn đại biểu An Nam Cộng sản Đảng gồm hai đồng chí Châu Văn Liên và Nguyễn Thiệu đáp tàu từ Sài Gòn. Tiếp đến là đoàn đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng gồm hai đồng chì Nguyễn Đức Cảnh và Trịnh Đinh Cửu đáp tàu Liêm Châu từ bến Hải Phòng. Họ phải ngồi bó gối dưới gầm giường một người của tổ chức làm điện báo viên dưới tàu. Hai đoàn đều được người liên lạc của anh Nguyễn đón riêng rẽ, đi tàu điện hai tầng về nhà nghỉ. Riêng Đông Dương Cộng sản Liên đoàn do thành lập chậm không kịp gửi đại biểu đến. Người liên lạc của anh Nguyễn đến nhà nghỉ đón các đại biểu đi phà mười phút qua eo biển sang Cửu Long. Lúc này anh Nguyễn và mọi người đã nhìn thấy bộ mặt xấu của Lâm Đức Thụ, phụ trách tổng bộ “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội”. Thụ ở một ngôi nhà sang trọng lưng chừng núi tại Hương Cảng, sống xa hoa, bệ vệ, kịch liệt chống việc thành lập Đảng Cộng sản. Một số hội viên “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội” từng dự lớp học do anh Nguyễn mở ở Quảng Châu bị thực dân bắt. Họ thấy bọn chúng có trong tay những tấm ảnh chụp lớp học ở Quảng Châu mà hồi đó chỉ có Lâm Đức thụ là người hay đứng ra chụp để “làm kỷ niệm”. Lâm Đức thụ đã sinh bụng khác. Anh Nguyễn bố trí cuộc họp hợp nhất ở xa trung tâm Hương Cảng, cách hẳn một eo biển, để giữ bí mật đối với Thụ. Các đại biểu đi lại về đêm, không ra phố Hương Cảng ban ngày, e gặp Thụ. Cửu Long là một bán đảo đông dân, phần lớn là người lao động. Các đại biểu được dẫn đến một xóm thợ nghèo nàn, chập hẹp, bẩn thỉu, vào ngôi nhà một tầng nhỏ bé, bàn ghế đơn sơ, là gia đình công nhân. Anh Nguyễn gặp nhân dân, chúc mừng năm mới bằng tiếng Quảng Đông : “Cống hỉ ! Cống hỉ !”. Cuộc họp tiến hành trang nghiêm, vì người dự ai cũng nhận thức được tầm quan trọng lớn lao của nó. Đồng chíVương, tức Nguyễn Ái Quốc ngồi giữa, nhân danh Quốc tế Cộng sản tuyên bố lý do Hội nghị. Chỉ có uy tín, cương vị, đạo đức, năng lực, kinh nghiệm và óc tổ chức của anh mới tạo ra được cuộc Hội nghị này, mới làm cho những ý kiến khác nhau cùng ngồi lại được để tìm chân lý và tiếng nói chung, mới chỉ được hướng đi tới cho phong trào. Ngồi bên phải anh là anh Nghĩa (tức Nguyễn Thiệu), và anh Việt (tức Châu Văn Liêm), đại biểu An Nam Cộng sản Đảng. Bên trái là anh Chí (tức Trịnh Đình Cửu), anh Trọng (tức Nguyễn Đức Cảnh), đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng. Ngoài ra còn có anh Lương (tức Hồ Tùng Mậu) và anh Đỗ (tức Lê Văn Phan) là những người chuyên lo bố trí nhà ở, nơi họp, việc đi lại, thỉnh thoảng dự một vài buổi họp để góp báo cáo về tình hình. Anh Nguyễn đề nghị từng đoàn đại biểu phát biểu ý kiến về vấn đề hợp nhất. Các đại biểu trình bày sôi nổi những quan điểm, ý nghĩ và dự định của mình. Sau những buổi lắng nghe các ý kiến, anh Nguyễn kết luận: “Thế là chúng ta đều là những người cách mạng giống nhau cả thôi. Ở Liên Xô, Anh, Mỹ, Pháp, cả đến các nước thuộc địa như Ấn Độ, Nam Dương, mỗi nước chỉ có một Đảng Cộng sản. Vì vậy nước Việt Nam không thể có ba Đảng Cộng sản. Chúng ta phải đoàn giai cấp, đoàn kết toàn dân, đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Để đạt mục đích ấy phải thống nhất tổ chức. Nhân danh Quốc tế cộng sản tôi đề nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng Cộng sản chân chính, thống nhất, các đồng chí có đồng ý không ?”. Tất cả mọi người giơ tay biểu quyết đồng ý. Những lời phân tích, giải thích, chỉ dẫn của anh Nguyễn trước và trong Hội nghị đã làm tan biến những thành kiến, hoài nghi, thắc mắc, lo âu trong các đại biểu. Ai cũng thấy rõ sự bức thiết phải lập một Đảng Cộng sản thống nhất. Khi thảo luận chọn tên Đảng, có ý kiến đền ghị lấy tên An-nam Cộng sản Đảng, có ý kiến nên gọi là Đông Dương Cộng sản Đảng. Anh Nguyễn nói:
    – Không nên lấy tên An-nam mà cũng không lấy tên Đông Dương. Chúng ta nên đặt tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Tất cả mọi người nhất trí tán thành ý kiến của anh Nguyễn, mừng rỡ chào đón Đảng tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam đã ra đời để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đấy là vào ngày 3-2-1930, một trong những ngày sung sướng nhất trong đời anh Nguyễn. Đấy là lúc khắp nơi vang tiếng pháo nổ, đón một mùa xuân mới: Xuân Canh Ngọ, chào mừng sự xuất hiện một Đảng kiểu mới, mác-xít lê-nin-nít chân chính, chấm dứt tình trạng khủng hoảng, rời rạc, thiểu phương hướng rõ trong phong trào chống đế quốc thực dân và phong kiến ở Việt Nam.

    Lễ thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (Tháng 2 năm 1930)
    Duyệt xét đoạn văn trên chúng ta thấy rõ ràng chỗ nào cũng cộng sản, ở đâu cũng cộng sản. Nào là An Nam Cộng Sản Đảng, Đông Dương Cộng Sản Đảng, Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn. Đây là lời phát biểu của anh Nguyễn tức Nguyễn Ái Quốc trong Bác Hồ Trên Đất Nước Lê Nin của Hồng Hà. “Thế là chúng ta đều là những người cách mạng giống nhau cả thôi. Ở Liên Xô, Anh, Mỹ, Pháp, cả đến các nước thuộc địa như Ấn Độ, Nam Dương, mỗi nước chỉ có một Đảng Cộng sản. Vì vậy nước Việt Nam không thể có ba Đảng Cộng sản. Chúng ta phải đoàn giai cấp, đoàn kết toàn dân, đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Để đạt mục đích ấy phải thống nhất tổ chức. Nhân danh Quốc tế cộng sản tôi đề nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng Cộng sản chân chính, thống nhất, các đồng chí có đồng ý không ?”. Thế là Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời đúng như ý nguyện của bị can. Đấy là vào ngày 3-2-1930, một trong những ngày sung sướng nhất trong đời anh Nguyễn. Đấy là lúc khắp nơi vang tiếng pháo nổ, đón một mùa xuân mới: Xuân Canh Ngọ, chào mừng sự xuất hiện một Đảng kiểu mới, mácxít lê-nin-nít chân chính.Ít có người Việt Nam biết ngày 3-2-1930 là ngày Chúa Quỉ Hình Chí Mô lộ mặt. Với sự trợ giúp của các con quỉ nhỏ trong đảng cộng sản Việt Nam, bị can đủ quyền phép để lèo lái cuộc cách mạng chống Pháp đem độc lập và tự do của dân Việt thành cuộc thánh chiến cho một ” Đảng kiểu mới, mác-xít lê-ninnít chân chính ”. Anh viết thư cho các đồng chí đại diện Đảng Pháp ở Quốc tế cộng sản: Các đồng chí thân mến, 1- Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập. về vấn đề tổ chức, tôi đã gửi báo cáo cho Bộ Phương Đông. Do đó, tôi thấy không cần nhắc lại ở đây, các đồng chí sẽ xem báo cáo đó ở Ban Chấp hành Quốc tế cộng sản. 2- Tôi có mấy yêu cầu và câu hỏi sau đây với các đồng chí. Cần giáo dục các đồng chí Việt Nam chúng tôi, vì trình độ tư tưởng, lý luận và kinh nghiệm chính trị của các đồng chí đó còn rất thấp. Tôi yêu cầu các đồng chí : (a) cho chúng tôi một tủ sách (các tác phẩm của Mác và Lê-nin, và các sách khác cần cho việc giáo dục cộng sản chủ nghĩa) ; (b): gửi cho chúng tôi báo Nhân đạo và tạp chí Thư tín Quốc tế và cả Điều lệ, Cương lĩnh của Đảng và Đoàn thanh niên cộng sản. 3- Cách gửi : sách thì đóng vào những gói nhỏ, báo và tài liệu thì cho vào phong bì, giấu vào trong các đầu đề : Điều lệ và Chương lĩnh. 4- Cho tôi vài địa chỉ chắc chắn ở Pa-ri để chúng tôi có thể viết thư cho các đồng chí. Cho chúng tôi biết tên những con tàu chạy đường Pháp – Viễn Đông trên đó các đồng chí Pháp làm việc và cho chúng tôi biết tên các đồng chí đó để chúng tôi có thể bắt liên lạc với họ (chúng tôi ở đây buộc phải thay đổi chỗ ở luôn cho nên không thể cho biết địa chỉ được). 5- Chúng tôi sẽ làm thế nào để sự hợp tác giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Pháp thực sự có hiệu quả. 6- Tôi được biết có những đồng chí Việt Nam ở Pa-ri lợi dụng danh nghĩa đảng viên để nhận (nói đúng hơn là bòn rút) tiền của các công nhân Việt Nam. Tôi đề nghị các đồng chí kiểm soát họ để tránh gây ấn tượng xấu trong công nhân. (B) (nguyên văn có chữ (B) chưa rõ nghĩa) Hoàng là một người tốt nhưng không biết gì về chính trị. Anh đã gửi những người phản cách mạng đến trường Đại học các dân tộc Phương Đông (những người nhiệt tình theo phái Nguyễn Thế Truyền) và đã cử những người đại biểu (đến đại hội lần thứ sáu) đánh lẫn nhau và gây những chuyện tai tiếng. Tôi đề nghị từ nay Trường không nhận các đại biểu hoặc học sinh Việt Nam nào không có sự giới thiệu của Đảng Cộng sản Việt Nam. 7- Coi như bước đầu của sự hợp tác, tôi đề nghị Đảng Cộng sản Pháp công bố một bức thư góp ý kiến với Đảng Cộng sản Việt Nam và ra lời kêu gọi lính pháp ở Đông Dương. Thư và lời kêu gọi đó phải ngắn gọn để chúng tôi có thể dịch và phân phát dưới hình thức truyền đơn (do chúng tôi phải in theo lối cổ sơ). Tôi đề nghị các đồng chí gửi cho tôi bản gốc những tài liệu đó. 8- Địa chỉ gửi cho tôi : Về thư (Gửi cho Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, đề trên phong bì : Ông Vích-to Lơ-bông, 123, đại lộ Cộng hòa, Pa-ri, Pháp). Vềsách báo : Ông Lý, Hương Cảng tiểu dạ báo, 53, phố Uyn-hêm, Hương Cảng. 9- Lúc này tôi chưa biết rõ vị trí của tôi. Tôi hiện là Đảng viên Đảng Cộng sản Pháp hay Đảng Cộng sản Việt Nam ? Cho đến khi có lệnh mới, tôi vẫn phải chỉ đạo công việc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tôi không tham gia Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam vì tôi chưa trở về Đông Dương được, nhất là lúc này, chúng đã ban cho tôi một cái án tử hình vắng mặt. Sự ủy nhiệm công tác của Quốc tế Cộng sản cho tôi đã hết hạn chưa ? Nếu chưa, tôi vẫn tham gia Bộ Phương Đông ở đây ? Tôi đề nghị các đồng chí nhắc Ban Thường vụ Quốc tế cộng sản cho quyết định về việc này. 10. Sau khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam có lời kêu gọi sẽ được phân phát trong cả nước vào khoảng ngày 20/3. Tôi đề nghị các đồng chí:
    a) Công bố trên báo Nhân đạo và tạp chí Thư tín quốc tế lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
    b) Chuyển những thư kèm theo và trả lời cho tôi biết.
    Ngày 27/2/1930
    Lời chào cộng sản thân ái
    NGUYỂN ÁI QUỐC
    Anh Nguyễn còn viết thư cho đại diện Tổng công hội thống nhất Pháp trong Quốc tế Công hội : Đồng chí thân mến, Đề nghị đồng chí hỏi Đảng hộ về việc gửi các báo và tạp chí của Đảng cho chúng tôi để chúng tôi dịch đăng báo của chúng tôi. Đầu đề và tên báo, tạp chí nên gấp vào bên trong. Đồng thời gửi cho chúng tôi một tờ báo tư sản của nước các đồng chí để cãi với cảnh sát nếu chúng phát hiện chúng tôi nhận báo chí cộng sản.
    Lời chào cộng sản
    Thay mặt Đảng Cộng sản Đông Dương
    NGUYỄN ÁI QUỐC
    Ngày 27/2/1930
    Địa chỉ của tôi :
    Ông Lý Hương Cảng tiểu dạ báo Số nhà 53, đường Uyn-hêm, Hương Cảng
    Ngày hôm sau, anh Nguyễn lại viết thư gửi cho Văn phòng đại diện Đảng Cộng sản Anh ở Quốc tế cộng sản : Đồng chí thân mến, Tôi đề nghị đồng chí gửi cho tôi báo Đời sống công nhân và tạp chí của Quốc tế Công hội đỏ. Các báo đó sẽ dán tem Pháp và tên báo giấu ở phía trong. Đồng thời gửi cho chúng tôi bất kỳ một tờ báo tư sản nào (nhận ở báo Đời sống công nhân). Đây chỉ là một cách để cãi với cảnh sát nếu chúng biết chúng tôi nhận các báo “phá hoại”.
    Lời chào cộng sản thân ái
    Thay mặt Đảng Cộng sản Việt Nam (Đông Dương)
    NGUYỄN ÁI QUỐC
    Địa chỉ của tôi :
    Ông Lý Hương Cảng tiểu dạ báo
    Số nhà 53, đường Uyn-hêm,
    Hương Cảng
    Anh Nguyễn ngày đêm lo nghĩ về công việc và tình hình đồng chí, đồng bào trong nước, nhưng anh không quên trách nhiệm Quốc tế cộng sản đã giao cho anh là xây dựng phong trào cách mạng của toàn vùng Đông-Nam châu Á. Để làm việc đó, anh chọn Hương Cảng là căn cứ hoạt động thuận tiện nhất. Từ đây, anh giữ các đầu mối liên lạc với các cơ sở cách mạng và các đồng chí cộng sản trong vùng, với Quốc tế cộng sản qua đường Hương Cảng – Mác-xây – Pa-ri – Mát-xcơ-va và nhất là với trong nước, qua đường Hương Cảng – Hải Phòng – Sài Gòn… Cũng từ đấy, anh liên hệ công tác dễ dàng với các cơ quan quốc tế mà anh tham gia hoạt động : Văn phòng Bộ Phương Đông Quốc tế cộng sản ở Thượng Hải, Văn phòng Tổng công hội Thái Bình Dương, Bộ Phương Đông của Liên đoàn chống đế quốc…

  2. #41
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Từ tháng giêng đến tháng 4-1931, ở Sài Gòn, nơi đóng cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, chúng giăng một mẻ lưới lớn, dựa vào sự phản bội của tên Ngô Đức Trì, bắt nhiều đồng chí lãnh đạo của Đảng, trong đó có đồng chí Tổng bí thư Trần Phú. Lê Văn Kiệt, vừa đi dự Đại hội lần thứ năm Quốc tế công hội họp ở Mát-xcơ-va về tới Sài Gòn cũng bị bắt. Trong khi đó, sớ mật thám Pháp ở Đông Dương phái ba tên ác ôn Pa-ri, Ca-na-vagi-ô và Ri-ni-ê-ri sang tô giới Pháp ở Thượng Hải theo dõi và bắt anh Nguyễn Lương Bằng, Đỗ Ngọc Du, Lê Quang Đạt, Lưu Quốc Long và chị Lý Phượng Đức. Lưu Quốc Long nhảy từ gác ba xuống đường, hy sinh ngay tại chỗ. Tên Nê-rông, phụ trách Vụ chính trị Sở mật thám Bắc Kỳ cùng một bọn ác ôn từ Hà Nội sang Hương Cảng để dò xét và phối hợp với mật thám Anh lùng bắt những người cộng sản Việt Nam. Ngày 21-4, chúng bắt anh Hồ Tùng Mậu, chị Minh Khai tức cô Duy hoặc Trần Thái Lan hoặc Lý Huệ Phượng, đang làm cán bộ liên lạc ở văn phòng chi nhánh Bộ Phương Đông Quốc tế cộng sản đóng tại Hương Cảng do anh Nguyễn phụ trách. Bọn mật thám đế quốc tìm anh Nguyễn nhưng anh đổi chỗ ở luôn và đi đi về về giữa Hương Cảng – Thượng Hải – Xiêm – Mã Lai, chúng khó theo dõi. Chúng đã có kế hoạch : nếu phát hiện anh trên đất Trung Quốc, không thuộc các tô giới của chúng, thì chúng sẽ thuê người bắt cóc anh đưa về tô giới. Có lần, chúng bắt được một tài liệu ở một chi bộ cộng sản Sài Gòn trong đó nói rằng anh Nguyễn sốt ruột trước tình hình các đồng chí trong nước bị bắt nhiều, sẽ về Sài Gòn để kiểm tra công tác của Trung ương Đảng và góp ý kiến. Thế là chúng bố trí một lực lượng mật thám khá đông để đón bắt ở Sài Gòn và Hải Phòng, nhưng không có kết quả.
    Trong khi sục sạo ở Sải Gòn, ngày 30-4-1931, mật thám Pháp bắt được anh Nguyễn Thái từ Hương Cảng mới tới mang thư của anh Nguyễn đề ngày 24-4-1931 gửi Trung ương Đảng. Sau đó, Hồ Lan Sơn, được anh Nguyễn phái từ Hương Cảng về Sài Gòn để tìm liên lạc với Trung ương cũng bị địch bắt ngày 11-5. Địch đã có thể khẳng định : anh Nguyễn đang ở Hương Cảng. Trong khi đó đế quốc bắt ở tô giới Anh tại Thượng Hải một nhân vật quan trọng: Nu-len, tên thật là Ru-éc, phụ trách văn phòng Bộ Phương Đông Quốc tế cộng sản, cơ quan đóng tại Thượng Hải. Từ đó, bọn đế quốc cùng nhau tìm đến một cơ quan khác của Bộ Phương Đông đặt ở Xinga-po. Đấy là văn phòng giao dịch của một hiệu buôn ơ trung tâm thành phố có đăng ký đàng hoàng và có môn bài đầy đủ. Tên chánh mật thám người Anh thuê một ngôi nhà ngay trước cửa văn phòng hiệu buôn để quan sát. Văn phòng mở cửa từ 7 giờ sáng đến trưa. Một người phục vụ trông nom nhà cửa, quét dọn. Từ trưa đến chiều, văn phòng không làm việc, nhưng người chủ văn phòng vẫn tiếp nhiều khách. Sở mật thám bí mật kiểm duyệt toàn bộ các công văn, thư từ của văn phòng này gửi đi Thượng Hải, Hương Cảng, Pa-ri. Thư viết chữ Pháp và chữ Anh, nói về buôn bán, nhưng có hơi hướng của mật mã. Bọn mật thám chụp ảnh người chủ văn phòng, theo nhiều kiểu khác nhau, gửi về Lơn-đơn để điều tra. Trên giấy tờ đăng ký, người chủ đó mang tên Xéc-giơ Lơ-phrăng. – Tôi xin trân trọng giới thiệu với các đồng chí đây là đồng chí Lin, cán bộ của Quốc tế cộng sản. Theo quyết định của Ban bí thư Quốc tế cộng sản, từ nay ngoài công tác ở Bộ Phương Đông, đồng chí Lin nhận thêm nhiệm vụ lãnh đạo nhóm học sinh Việt Nam ở Nin Ca Pê (Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa viết tắt theo tiếng Nga). Quốc tế Cộng sản cho anh Nguyễn biết Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương ba ngưởi và Đảng Cộng sản Xiêm và Mã Lai hai người từ trong nước ra, đi dự Đại hội lần thứ 7 Quốc tế cộng sản đã tới Mát-xcơ-va bằng chuyến xe lửa Vla-đi-vô-xtốc – Mát-xcơ-va. Đấy là nét mới của phong trào, chứng tỏ Đảng ta đã khôi phục được lực lượng sau những năm sống trong bão táp khủng bố và đàn áp. Được sự trợ giúp của Quốc tế cộng sản, Ban lãnh đạo của Đảng ở ngoài nước, đứng đầu là đồng chí Lê Hồng Phong, được thành lập năm 1934 ở Ma Cao. Các cơ sở bị địch phá được lập lại. Các Xứ ủy mới được xây dựng. Đảng vẫn sống và phát triển. Biết ơn những đồng chí, đồng bào trung kiên, bất khuất, giữ trọn niềm tin son sắt ở Đảng, ở tiền đồ dân tộc ; biết ơn những liệt sĩ anh hùng đã ngã xuống trong ngục tù và trên trường bắn vì sự nghiệp cách mạng vẻ vang ; Cảm ơn Quốc tế cộng sản, các Đảng Cộng sản anh em, các tổ cức quốc tế đã đấu tranh bằng mọi hình thức chống bàn tay khủng bố của thuộc địa Pháp ở Đông Dương và đã lên tiếng ủng hộ, cổ vũ những người cộng sản Đông Dương giữ vững ý chí, tiến lên và quyết thắng. Anh dặn tất cả mọi người phải đổi tên trong thời gian ở Liên Xô. Đồng chí Lê Hồng Phong mang tên Hải An, đồng chí Minh Khai là Phan Lan và Đôn Min, đồng chí Tú Hưu là Văn Tân. Anh dẫn một số học sinh đi xem “Ba bài ca về Lê-nin” của nhà đạo diễn nổi tiếng Véc-tốp, chiếu nhân dịp lần thứ 10 ngày Lê-nin từ trần. Anh muốn họ thấy giờ phút đau thương bi tráng mười năm về trước mà anh đã sống ở Mát-xcơ-va, để càng nhớ Lê-nin. Từ năm 1924 ấy anh đã viết : “Chúng tôi tin tưởng rằng Quốc tế cộng sản và các chi bộ của nó, trong đó có các chi bộ của các nước thuộc địa, sẽ thực hiện được những bài học và những lời di huấn mà lãnh tụ để lại cho chúng ta. Làm những điều mà Người ra đi dặn lại, đó chẳng phải là phương pháp tốt nhất để tỏ tình yêu của chúng ta đối với Người hay sao ? Tình cảm anh Nguyễn đối với Lê-nin là lòng hiếu thảo, một đức tính Việt Nam. Để vận dụng tốt chủ nghĩa Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam, tiếp thu thêm kinh nghiệm quốc tế đã được tổng kết và trao dồi thêm lý luận cách mạng, anh ghi tên theo một khóa nghiên cứu lý luận của Trường Quốc tế Lê-nin ở Mát-xcơ-va. Trong bản khai lý lịch gửi trường, anh viết: “Địa vị xã hội : Người cách mạng. Nghề nghiệp chính: làm công tác Đảng”. Trường này được thành lập năm 1926 theo nghị quyết Đại hội lần thứ năm Quốc tế cộng sản mà chính anh Nguyễn đã giơ tay biểu quyết. Trường dành riêng cho các đồng chí lãnh đạo Đảng Cộng sản các nước tư bản và các nước thuộc địa. Trong số giảng viên của trường có đồng chí Xta-lin. Phương pháp học chủ yếu là các nhân tự nghiên cứu sau khi nghe giảng viên giới thiệu đề tài. Trường đặt ở một nơi khá kín đáo, thuận tiện cho việc bảo vệ các đồng chí quốc tế. Đây là một ngôi nhà hai tầng màu vàng, xây từ đầu thế kỷ 19, nguyên là biệt thự của một công tước Nga, mang biển số nhà 25 ở giữa phố Vô-rốp-xcô-vô. Phố này ở trung tâm Mát-xcơ-va mà lại rất yên tĩnh, ít người, ít xe cộ qua lại với những hàng cây cao rợp bóng cùng nhiều lâu đài và dinh thự cũ. Trường Quốc tế Lê-nin, lúc mới lập mang tên Lớp quốc tế Lê-nin, ở phía sau một vường cây rậm, có giậu sắt, người đi ngoài đường không thấy. Ở cửa nhỏ bước vào nhà, hai bên tường đắp phù điêu đầu sư tử và dưới mái hiên treo hai chiếc đèn lồng kiểu cổ. Tại đây, theo nguyên tắc tổ chức chặt chẽ của Quốc tế cộng sản, Ban thẩm tra tư cách các nghiên cứu sinh, gồm 12 người do đồng chí Na-sốp làm trưởng ban, họp ngày 16-9-1934 để xem hồ sơ về anh Nguyễn. Cuộc họp ra quyết định “Nhận đồng chí Lin, Đảng Cộng sản Đông Dương, vào Trường Quốc tế Lê-nin, số hiệu 375, niên khóa 1934-1935”. Cũng như mọi đại biểu dự Đại hội, anh Nguyễn viết bản sơ yếu lý lịch và quá trình hoạt động cách mạng của mình. Làm sao mấy dòng chữ có thể miêu tả đầy đủ lịch sử cuộc chiến đấu hết sức thần kỳ của anh với những chặng đường, đất nước, công việc, cảnh ngộ mà anh đã trải qua. Anh trả lời ngắn gọn tất cả những câu hỏi in sẵn mà theo nguyên tắc và thủ tục thẩm tra tư cách đại biểu người ta đưa anh trong bốn trang giấy : Bản tự khai Tên hoặc bí danh trong Đảng ? : Tống Văn Sơ.
    Tên hoặc bí danh dùng trong Đại hội ? : Lin.
    Thành phần gia đình ? : Nhà nho.
    Trình độ văn hóa ? : Tự học.
    Đồng chí đã học ở trường Đảng nào ?: Tôi đang học ở Trường quốc tế Lê-nin.
    Nghề nghiệp : Tôi làm nghề thủy thủ. 10 năm trời tôi đi làm thuê.
    Phương tiện sinh sống hiện nay ? : Tôi đang học ở Trường quốc tế Lê-nin.
    Đồng chí đã hoặc đang tham gia chi bộ nào của Quốc tế cộng sản, từ năm nào ? : Từ năm 1920 đến năm 1930 : tôi là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp. Từ năm 1930 đến nay : là đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương.
    -
    Đồng chí có tham gia đảng phái nào khác không, và nếu có, từ bao giờ ? : Không.
    Đồng chí đã qua những công tác gì từ Đại hội lần thứ 6 (Quốc tế cộng sản) đến nay ? : Từ năm 1928 : tôi tổ chức phong trào công nhân và nông dân ở Xiêm. Năm 1930-1931: tôi tổ chức Đảng Cộng sản Đông Dương.
    Đồng chí có bị bắt vì hoạt động cách mạng không ? Hoặc bị vào tù, hoặc đi đày, vào ngục bao nhiêu năm ? : Năm 1931 tôi bị bắt. Ngồi tù 2 năm. Năm 1933 tôi trốn thoát.
    Đồng chí đã dự những Đại hội, hội nghị quốc tế nào ? : Tôi đã dự Đại hội lần thứ năm Quốc tế cộng sản. Đại hội lần thứ ba Quốc tế công đoàn.
    Đồng chí từ đất nước mình đến hoặc đang sống ở nước ngoài ? : Tôi đang sống ở nước ngoài.
    Đồng chí có tham gia Nghị viện hoặc hội đồng hành chính nào không ? Không.
    Đồng chí biết những ngoại ngữ gì ? Tôi biết các tiếng Pháp, Anh, Đông Dương, Quảng Đông, Ý và một ít tiếng Nga.
    >Người khai LIN. Đại hội 7 Quốc tế cộng sản thông qua nghị quyết của hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Quốc tế cộng sản năm 1931, quyết định công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một chi bộ chính thức của Quốc tế Cộng sản và bầu đồng chí Lê Hồng Phong là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản. Một vinh dự lớn lao, một trách nhiệm nặng nề của Đảng Cộng sản Đông Dương, một sự cổ vũ mạnh mẽ đối với phong trào cách mạng Đông Dương và phong trào cách mạng toàn thế giới. Tháng 3-1937, Ban Chấp hành Quốc tế cộng sản và anh Nguyễn tích cực chuẩn bị cho các đồng chí Minh Khai và Tú Hưu về nước. Hai người đóng giả là cặp vợ chồng đi du lịch sang Pháp rồi từ đó đi Hương Cảng, về Việt Nam. Việc thu xếp chuyến đ hết sức tỉ mỉ. Phải làm đủ các giấy tờ hợp pháp đi đường, qua nhiều nước tư bản chủ nghĩa và thuộc địa. Lại còn phải mua sắm cho hai người những quần áo, giày dép, va-li mới và sang trọng,đúng “mốt” Tây Âu, vì không được phép mang trên người bất cứ một thứ vật nhỏ gì sản xuất ở Liên Xô. Ngoài ra còn có vé xe lửa hạng nhất, vé trọ ở các khách sạn cũng loại nhất và 5.000 đô-la để tiêu dọc đường. Anh Nguyễn phổ biến kinh nghiệm sống ở các nước tư bản chủ nghĩa, dặn cách giữ bí mật và các ám hiệu cần thiết : trước khi đến Hương Cảng, phải lên bến Xin-ga-po mua sắm quần áo Trung Quốc để thay. Đến Hương Cảng, phải vào ở khách sạn, rồi đến trước cửa Ngân hàng hối đoái Anh, cầm một điếu xì-gà ở tay, chờ một người Pháp đi qua, trao đổi mật hiệu để liên lạc với cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ở nước ngoài. Trong buổi gặp cuối cùng các đồng chí Minh Khai và Tú Hưu ở Mát-xcơ-va, anh Nguyễn dặn một số việc quan trọng và anh đề nghị hai người nhớ kỹ, thuộc nhẩm trong bụng chứ không được ghi chép một chữ nào. Anh Nguyễn nói ôn tồn : – Thắng lợi của Mặt trận bình dân Pháp dịp may hiếm có đối với chúng ta, không nên bỏ lỡ. Điều quan trọng lúc này là cũng cố sự đoàn kết vững chắc trong Đảng, đặc biệt là sự đoàn kết giữa bộ phận ở trong nước và bộ phận ở hải ngoại. Khi về tới Sài Gòn, các đồng chí chuyển cho anh Duy (anh Lê Hồng Phong) mấy ý kiến sau đây : Một là do kết quả thắng lợi của Mặt trận bình dân Pháp, tình hình Đông Dương sẽ thay đổi theo chiều hướng tích cực. Do đó bộ phận Trung ương Đảng ở hải ngoại cần phải trở về nước ngay để trực tiếp lãnh đạo phong trào yêu nước, chỉ để lại ở nước ngoài một nhóm cán bộ rất nhỏ để liên lạc với quốc tế. Hai là, khắp mọi nơi, kể cả Việt Nam, bọn tờ-rốt-kít đã bộc lộ chân tướng phản động của chúng. Đảng ta phải dùng mọi cách để lột mặt nạ chúng làm tay sai cho chủ nghĩa phát xít, phải tiêu diệt chúng về chính trị. Không được có một thỏa hiệp nào, một nhượng bộ nào đối với chúng. Ba là, phải ra sức lập một mặt trận dân tộc dân chủ rộng rãi chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh đế quốc, thu hút tất cả mọi lực lượng yêu nước rộng rãi, tất cả những người nào tán thành đấu tranh cứu nước, cứu dân. Nhưng phải nhớ rằng việc lập mặt trận ấy không được lúc nào đi ngược lại lợi ích của Đảng và giai cấp. Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thật nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đãng mới giành được địa vị lãnh đạo. Tiễn hai đồng chí của mình ở sân ga Bi-ê-lô-rút-xi-a đi Ba Lan trên đường sang Pháp, anh Nguyễn lại nói : – Cố nhớ những lời tôi dặn nhé và kể lại cho anh Duy. Tôi nhắc lại : dứt khoát không được thỏa hiệp với bọn tờrốt-kít đấy ! Những ý kiến chỉ đạo trên đây ít lâu sau anh viết về cho các đồng chí ở Việt Nam, ghi trên những tờ giấy cuốn thuốc lá để giữ bí mật và ký tên P.C. Mọi điều kiện đã chín muồi để anh về nước. Do sự trưởng thành của các Đảng Cộng sản trên thế giới và do những biến đổi mới của phong trào quốc tế, bản thân Quốc tế cộng sản có sự cải tổ lớn về bộ máy làm việc và phương thức hoạt động. Sau Đại hội lần thứ 7, Đoàn chủ tịch Quốc tế cộng sản quyết định tăng thêm tính độc lập, quyền hạn và trách nhiệm của Đảng Cộng sản mỗi nước, thu hẹp phạm vi và quyền hạn chỉ đạo của Quốc tế cộng sản. Từ nay, mỗi Đảng Cộng sản hoàn toàn gánh vác lấy việc lãnh đạo trực tiếp Đảng mình. Các ban phụ trách các cục và bộ của Quốc tế cộng sản, trong đó có Cục phương Nam và Bộ Phương Đông, trước đây lãnh đạo phong trào và các đảng toàn khu vực, nay giải thể. Quốc tế cộng sản cũng bỏ các đại diện của mình đặt ở các Đảng, bỏ đi nhiều ban, bộ, chỉ giữ lại Bộ Cán bộ và Bộ Tuyên truyền và Công tác quần chúng, một văn phòng làm nhiệm vụ phối hợp và hợp tác giữa các Đảng. Tổng bí thư và các ủy viên ban bí thư Quốc tế cộng sản làm chức năng của mình với sự cộng tác của đại diện các Đảng ở cạnh Quốc tế cộng sản là người chịu trách nhiệm thông báo tình hình hoặc góp ý kiến khi thảo những văn kiện, hoặc nghị quyết của Quốc tế cộng sản liên quan đến Đảng mình. Đảng Cộng sản Đông Dương từ nay cũng phải tự quản hoàn toàn công việc lãnh đạo cách mạng nước mình, nếu chiến tranh xảy ra, mất liên lạc với Quốc tế cộng sản, thì càng phải chủ động, kịp thời, sáng tạo, độc lập công tác. Đảng vừa bầu Tổng bí thư mới : đồng chí Nguyễn Văn Cừ người hội viên “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội” lớp đầu tiên, một người cộng sản chân chính, mới 26 tuổi nhưng cuộc đời cách mạng đã chói lọi chiến công, một chiến sĩ anh hùng, bất khuất, đầy năng động tính. Bị địch giam ở nhà tù Côn Đảo đồng chí Nguyễn Văn Cừ vẫn cùng các đồng chí Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng dạy văn hóa, chính trị và chủ nghĩa Mác – Lê-nin cho anh em trong tù. Nhiều đảng viên cộng sản tươi trẻ và xuất sắc như các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng… bị địch đẩy vào các ngục tối và bị tra tấn đã được trả lại tự do nhờ ảnh hưởng của Mặt trận bình dân Pháp và đã lại lao ngay vào cuộc chiến đấu mới. Bộ phận công khai của Đảng ở Bắc Kỳ đã ra báo giữa Hà Nội, báo Tin Tức, do đồng chí Trường chinh làm bí thư chi bộ báo, là cơ quan tuyên truyền và thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương. Dưới sự lãnh đạo của nhóm Tin Tức, một cuộc mít tinh lớn hai vạn rưởi người đã diễn ra tại khu Đấu Xảo Hà Nội đòi “Cơm áo, Hòa bình, Tự do”. Trong khi đó, ở Sài Gòn, cũng có mít tinh lớn hàng nghìn người đủ các tầng lớp nhân dân tham gia. Những đám mây đen chiến tranh phát xít đang ùn ùn kéo tới. Nhưng bão táp cách mạng đã bắt đầu nổi lên phía chân trời. Tình hình và phong trào hơn lúc nào hết rấtcần trên đất Việt Nam sự có mặt của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, ngôi sao sáng dẫn đường, vị lãnh tụ thiên tài và giàu kinh nghiệm chiến đấu. Trung ương Đảng mong ngóng đồng chí về. Dân tộc và lịch sử chờ đợi đồng chí… Đoạn văn trên là đoạn trích dẫn cuối cùng của tôi về quyển Bác Hồ Trên Đất Nước Lê Nin của Hồng Hà. Bỏ qua những hoa ngôn xảo ngữ, lời ca tụng, tâng bốc bác; tác giả cũng hé mở cho ta thấy tính lưu manh, tráo trở, lọc lừa của bị can. A tòng với Lâm Đức Thụ bán cụ Phan Bội Châu và vô số thanh niên không chịu theo cộng sản cho Pháp, thế mà bị can lại trút tội ác đó lên đầu kẻ cộng tác với mình. ” Lúc này anh Nguyễn và mọi người đã nhìn thấy bộ mặt xấu của Lâm Đức Thụ, phụ trách tổng bộ “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội”. Thụ ở một ngôi nhà sang trọng lưng chừng núi tại Hương Cảng, sống xa hoa, bệ vệ, kịch liệt chống việc thành lập Đảng Cộng sản. Một số hội viên “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội” từng dự lớp học do anh Nguyễn mở ở Quảng Châu bị thực dân bắt. Họ thấy bọn chúng có trong tay những tấm ảnh chụp lớp học ở Quảng Châu mà hồi đó chỉ có Lâm Đức thụ là người hay đứng ra chụp để “làm kỷ niệm”. Lâm Đức thụ đã sinh bụng khác…” Đây là hành động ” ăn cháo đá bát ” nói theo kiểu Việt Nam chúng ta. Còn nói theo kiểu cộng sản là ” anh Nguyễn ” bắt đầu máng vào cổ Lâm Đức Thụ bản án ” Việt Gian, phản quốc ” để rồi sau này ra lịnh thủ tiêu người cộng tác biết quá nhiều các hành vi phản dân hại nước của mình. Hình ảnh bị can Hình Chí Mô, vị lãnh tụ của đảng cộng sản Việt Nam gắn liền với bịp-lừa-dốigạt-gian-ác… Ngày mai tôi xin trình bày cùng 9 vị bồi thẫm và tất cả mọi người trong ba tầng chín cõi về nhân vật được coi như một trong những thiên hạ đệ nhất ác.

  3. #42
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    - 26 -
    Đạo Đức Cách Mạng thứ ba của bác:
    ÁC TRÙM THIÊN HẠ

    -Có bao nhiêu người đã chết bởi bị can Hình Chí Mô? Đó là một câu hỏi mà âm phủ cũng chưa có câu trả lời chính xác dù đã bỏ công sưu tầm kể từ khi có người đầu tiên chết bởi tay Quỉ Vương, bí danh mới của Hình Chí Mô, tên đồ tễ lớn nhất và khát máu nhất trong lịch sử của dân tộc Việt Nam. Trần Thủ Độ chôn sống vài trăm tôn thất Lý triều so ra cũng chưa bằng một phần ngàn cuộc tắm máu trong vụ Cải Cách Ruộng Đất, Mậu Thân ở Huế hay Đại Lộ Kinh Hoàng ở Quảng Trị. Biết bao nhiêu người, triệu triệu người, trẻ có, già có, đàn ông có, đàn bà có, nông dân, trí thức, học sinh, sinh viên, thợ thuyền; tất cả là tinh hoa của dân tộc Việt đã bỏ mình trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và viễn chinh sang xứ Chùa Tháp. Có đám người thúi mồm, dơ miệng cố gắng bào chữa cho hành động sát nhân của Quỉ Vương là hắn hy sinh bao nhiêu nhân mạng đó cốt ý giành lại độc lập và tự do cho xứ sở. Sự hy sinh hàng triệu nhân mạng này chỉ có ý nghĩa khi đất nước thực sự độc lập và dân chúng được thực sự hưởng tự do và dân chủ. Điều đó đã không xảy ra. Độc lập không có. Tự do không bao giờ tới. Dân chủ chỉ là danh từ trống rỗng tương tự như cái bao tử của người dân… Ngừng lại giây lát như để cho 9 vị bồi thẫm suy nghĩ về lời nói của mình, Thôi Phán Quan hắng giọng tiếp. -Với phép mầu và những thủ đoạn gian ngoa xảo trá, Quỉ Vương biến những kẻ hiền lành, lương thiện thành những quỉ con, quỉ nhỏ, quỉ lớn, quỉ già, quỉ trẻ, quỉ cái; tất cả bọn họ lãnh lệnh giết người một cách điên cuồng và mù quáng. Họ là những người đã bị cướp mất linh hồn. Tất cả những thứ quỉ đó cũng có tội, nhưng cũng không có tội lớn bằng Quỉ Vương. Bây giờ tôi kính mời quí vị cùng âm phủ đi theo bước chân giết người của Quỉ Vương Hình Chí Mô… Thôi Phán Quan ngừng lời. Thiên hạ đồng quay nhìn về màn ảnh. Tuy nhiên họ lại nghe giọng nói của ông ta vang lên trong bầu không khí im lặng. -Chúng ta đã đi qua một chặng dài 1.000 năm đẹp của lịch sử trước khi đến cảnh ngục tù do Hồ Quỉ Vương xây dựng để tìm gặp nhà sư Tuệ Minh bất hạnh bị giam cầm và tra tấn ở đấy cho đến chết! Nhà sư là nhân vật xuất hiện ở chương chót trong tác phẩm Địa Ngục Sình Lầy của tác giả Trần Nhu. Tác giả cũng là một người tù bất hạnh, bạn đồng tù với nhà sư Tuệ Minh. Sau đây là đôi dòng về tác giả Trần Nhu, trích trang bìa sau quyển Địa ngục sình lầy: “TRẦN NHU sinh năm 1938 tại Tiên Lãng, Hải Phòng, Bắc Việt Nam. Trước 1958 đi học và sáng tác Văn học. Năm 1958 bị tù vì vượt biên qua Lào quốc và sáng tác Văn học. Ra tù năm 1960. Bị bắt lại năm 1961 vì tranh đấu cho nhân quyền. Ra tù 1978. Vượt biên cuối 1981. Định cư tại Hoa Kỳ 1982.Như thế đó, phải vượt thoát khỏi đất Việt và đến tuổi ngũ tuần, Trần Nhu mới được Nữ thần Tự do trao cây viết lại để anh hoàn thành tác phẩm Địa ngục sình lầy. Quyển sách được xuất bản năm 1990 lúc tác giả 52 tuổi! Trong Lời nói đầu, ta đọc được tâm tình thật cảm động của tác giả: Tôi viết để làm dịu đi những gay gắt, cam go ác liệt, để làm nhẹ vơi đi niềm ô nhục, làm yên ổn lương tri bị hành hạ của hàng triệu con người. Tôi viết để gột rửa trong đáy mắt những bà mẹ dòng lệ xót. Tôi viết cho hàng triệu nạn nhân đã chết, tôi viết cho những người còn sống nhưng không được quyền ăn nói, tôi viết cho quê hương đã bị vắt kiệt, tôi viết về quê hương đang bị đè nặng bởi những cái bóng vĩ đại, những cái bóng đã xô đẩy cả Dân tộc tôi xuống vực thẳm, đã đổ bóng tối lên cả một vùng trời. Xin trở lại chuyện người tù là nhà sư Tuệ Minh. Một buổi chiều cuối hạ năm 1965, khi Trần Nhu chuyển từ trại Xuân Giang đến trại Hoàng Xu Phì ở đông bắc tỉnh Hà Giang, thì đã gặp sư Tuệ Minh bị giam ở đấy không biết từ năm nào. Trại Hoàng Xu Phì thật xứng đáng là ngục tù mẫu mực của chế độ Hồ Quỉ Vương. Ở Cổng Hậu sát bìa rừng có Nhà Xác, địa điểm được chọn lựa quá khéo rất thuận lợi cho việc kéo xác tù đi chôn. Nhà Xác lại đối diện với Nhà Giáo Dục, lại một thiết kế rất khôn ngoan. Trong Nhà Giáo Dục bày ngổn ngang những dụng cụ tra tấn như kìm búa, dùi sắt, dùi tre, mũ gò bằng tôn sắt, loại tôn dày, vài cuộn dây rừng, v.v… Về mùa nóng cũng như mùa lạnh, nhà này có một lò than luôn luôn cháy đỏ, dùng để nung dùi và mũ sắt. Mũ này người tù ở trại gọi là “mũ cụ”. Mũ gõ bằng loại tôn sắt giống như chiếc mũ cối của bộ đội, mũ được nung đỏ, rồi trói tù lại chụp lên đầu, làm cho người tù kêu rú, rống lên. Theo tiếng rú khiếp đảm của những người tù xấu số, lũ chuột rừng kéo vào hàng đàn chạy lăng xăng qua lại giữa Nhà Giáo Dục và Nhà Xác chờ được thưởng thức bữa tiệc thịt người do Quản giáo Việt cộng thết đãi! Trong văn phong của Trần Nhu, nhân dáng hình hài của sư Tuệ Minh còn sót lại sau những năm dài trong ngục tù của chế độ Hồ Quỉ Vương như sau: …Chợt tôi thấy một cảnh vệ và hai tù nhân trong ban trật tự của trại, nhưng họ ở bên hình sự, lôi kéo xền xệt trên mặt đất, một người gầy nhom, bẩn thỉu, tanh hôi vào cửa buồng và giao cho Buồng trưởng. Người tù bò bốn chân, quần để tuột xuống hẳn ống cẳng chân, làm cả khoảng bụng, đít phơi trần truồng. Manh áo nhuộm máu đã khô, che không kín lưng, phía dưới để hở rõ bộ xương sườn xám đét, khô đầu trơ sọ tráng loét xuống tận cổ, hai tai bị cắt cụt, đôi mắt trũng sâu như lỗ đáo, dòi bọ bò lêu nghêu khắp thân thể. Tự nhiên một cảm giác ớn lạnh luồn vào cơ thể chạy suốt chân. Tôi nhìn người tù, không còn ra hình dáng con người nữa, nó méo mó biến dạng một cách khủng khiếp.Nhưng thật lạ! Ở nhà sư Tuệ Minh, thân thì những vết rạch ngang dọc trên đầu, trên mặt, cổ và bộ ngực. Tai không còn nghe rõ, miệng không còn đọc kinh niệm Phật, thân thể không còn nguyên vẹn như xưa, lột hết cả áo tu hành, con người trần trụi.Ở nhà sư Tuệ Minh, ở bộ xương còn biết cử động ấy, dường như có một dấu hiệu lạ, toát ra một phong độ kiên hùng, vững chắc. Trần Nhu thuật tiếp rằng sư Tuệ Minh bình tĩnh tưởng như không có chuyện đau đớn thể xác, không rên xiết, hoàn toàn không. Rồi những ngày sống kế tiếp, Sư lẳng lặng ngồi tư thế tụng niệm của đức Phật, vẫn không một tiếng rên xiết, tuyệt nhiên không. Trần Nhu hỏi một lão tù già về sư Tuệ Minh, qua giọng thều thào như nghẹt ở cuống họng, lão kể lể từng câu, ngừng năm, mười phút, rồi thuật tiếp, chuyện kể luôn đứt đoạn, câu nghe được cũng rất khó hiểu: Sư khừ khừ… bị a… khừ khừ… a… kỷ luật a… vì a… khừ khừ… nghỉ ngày a… Phật đản a… Rồi a… Ban Giám thị a… khừ khừ a… cắt tai… khừ khừ… gọt đầu a… khừ khừ… sư… khừ khừ… bằng mảnh chai a… khừ khừ… dùi nung đỏ a… khừ khừ… sư… a… sư!Nhà sư Tuệ Minh chết trong trại giam Hoàng Xu Phì. Mãi sau này, Trần Nhu mới biết rõ pháp danh ngài là Tuệ Minh, quê Thiện Hóa, thuộc xứ Thanh. Ngài xuất gia đầu Phật lúc tuổi mười lăm, với sư cụ Thích Thiện Hòa tại chùa Thiên Phúc bên dòng sông Đáy tỉnh Sơn Tây, nơi mà ngày xưa Thiền sư Từ Đạo Hạnh đắc đạo. Nhắc lại lúc Cách mạng Mùa thu 1945, sư Tuệ Minh có mặt trong đoàn Đại biểu tỉnh Sơn Tây, đến Hà Nội ngày 2-9-1945 để tham dự buổi mừng Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh. Ngài tham gia phong trào Phật tử Yêu nước theo truyền thống của tiền nhân, theo Tự tình Dân tộc. Rồi nhà sư Tuệ Minh bị kết tội “lừa dối nhân dân, tuyên truyền phản cách mạng” và bị bắt giam ở trại Hoàng Xu Phì cho đến chết… Cùng phát biểu y như trên, tác giả Trần Nhu, người tù nhân 20 năm của Việt Cộng, viết trong đoạn kết luận cho quyển Địa Ngục Sình Lầy của ông với lời văn như sau: Ngày ấy, sư Tuệ Minh mang ý niệm tôn kính cụ Hồ như những bậc vĩ nhân yêu mến loài người. Khi cụ nói: -Mọi người đều được dựng lên “bình đẳng” trong đó có quyền sống, quyền được hưởng tự do, quyền tín ngưỡng, và dĩ nhiên không thiếu sót một thứ quyền nào cả… Với lời lẽ trịnh trọng như một Washington, cụ hỏi: - Tôi nói đồng bào nghe rõ không? Tất cả xúc động, đồng thanh: - Thưa cụ, rõ! Nhưng lời hứa… Đó chỉ là lời hứa! Còn phải có thời gian… Rồi thời gian trôi đi. Mười năm sau. Đốt kinh, phá chùa, bắt tăng ni… cũng vẫn bộ mặt ấy! Vẫn ông cụ ấy! Vẫn thằng chọ chọe ấy! Bá ngọ, thằng cuội xứ Nghệ!”… Căn phòng xử rộng thênh thang chứa mấy ngàn người im lặng tới độ hầu như người này nghe được hơi thở của người kia. Thật lâu Diêm Vương mới lên tiếng. -Tên Hình đúng là quỉ nên mới cho người hành hạ và giết cả kẻ tu hành… Đây là một tội ác không thể thứ tha được… Giọng nói trầm hùng của Thôi Phán Quan vang lên ngắt lời của Diêm Vương. -Chưa hết đâu thưa Diêm Vương và 9 vị bồi thẫm. Nạn nhân của Quỉ Vương còn nhiều vô số kể, dài bằng Ải Nam Quan tới tận Mũi Cà Mau. Ở đâu có người là nơi đó có nạn nhân của hắn. Bây giờ tôi mời quí vị nghe tiếp những mẫu chuyện về tội sát nhân của bị can Hình Chí Mô và đảng cộng sản của hắn… -HCM không mang tự do cho Dân tộc cho nên pháo thủ Phạm Đình Sơn phải vượt biên tìm tự do, nhưng một người hùng Điện Biên khác là Trung tá pháo binh HoàngTiến Như không được may mắn như vậy. Ông chết trong trại tập trung Hoàng Xu Phì ở Hà Giang, đã chết rồi mà còn bị tên đại úy quản giáo, giống như loài khỉ vượn chưa kịp hóa kiếp thành người, trong cơn giận dữ, rút dao găm “đâm ngoáy” vào đôi mắt chưa chịu nhắm hẳn. Chuyện kể: sau chiến thắng Điện Biên, người hùng Trung tá Hoàng Tiến Như về thủ đô, ngực mang đầy huy chương, nhưng lại mất niềm tự do lớn nhất của đời mình: ông không cưới được người mình yêu! Nàng là Lê Thị Phượng, sinh viên Đại học Văn khoa năm thứ hai bị đuổi học vì tham gia phong trào Nhân văn -Giai phẩm nên Đảng không cho phép ông cưới nàng! Để đi theo tiếng gọi của con tim, Trung tá Như xin ra khỏi Đảng. Thảmkịch đời ông bắt đầu. Ông bị bắt đưa về trại tâm thần Sơn Tây, bị tra tấn dã man gần một tháng, và tiếp tục bị tra tấn ở trại tập trung Hoàng Xu Phì đến khi lê lết, quằn quại, sống như một cái xác không hồn. Đúng một năm, khi gượng đi lại được, sau mấy tháng lao động đền tội, ông bị rút gân chân, lột từng mảnh da đầu, cắt trụi tai, và để cho cái chết đến từ từ trên tấm thân tàn phế! Câu chuyện bi thảm này được viết lại trong quyển Địa ngục sình lầy (tr.201-264), tác giả Trần Nhu là bạn đồng tù đã nhận xét: “Đời tù! Sống cực hình, chết lại càng cực! Và thê thảm. Tôi chưa hề thấy cái chết nào ghê rợn như cái chết của viên Trung tá Pháo binh Điện Biên Phủ.-Hiện tại anh Phan văn Tuấn là một thuyền nhânđược định cư ở Sydney, Úc Châu. Vào Tết Mậu Thân 1968, cậu bé Tuấn 16 tuổi đang học lớp Đệ tam trường tư thục Nguyễn Du ở Huế. Ngày mồng hai Tết (Thứ năm 12-1968), VC tràn ngập Huế, Tuấn bị bắt cùng với mười mấy thiếu niên khác cùng lứa tuổi với anh. Mấy ngày đầu, VC bắt họ làm dân công đi khuân vác. Sau đó, VC bắt họ đào hầm vào ban đêm ở quanh vùng Gia Hội, những hầm mà Tuấn tưởng rằng chỉ để bọn chúng ẩn núp, không ngờ đó sẽ là những hầm chôn người. Đến bây giờ, tuổi đã gần lục tuần, Phan Văn Tuấn nhớ lại chuyện xưa, thuật lại rằng những người bị VC bắt, bị trói hai tay sau lưng thành từng chùm, mỗi chùm khoảng 15, 16 người, và bị sắp đứng xoay lưng về cái hố. Một tên VC ăn mặc theo lối chính quy với nón cối đọc bản án tử hình. Rồi một tên du kích áo đen ngắn tay, quần đen ngắn, mang dép râu, đội nón tai bèo, dùng súng AK bắn mộttràng vào người đầu tiên. Ông này bị trúng đạn, té ngược ra sau, và lọt xuống hố, kéo theo cả chùm người bị cột chung. Đây, lời tả chân của Phan Văn Tuấn, Nam Dao ghi lại: “Ông té xuống, quý vị biết không, mấy người sau có trúng đạn gì đâu, cũng lăn xuống. Lăn và lộn, lộn vòng xuống, lật ngửa ra. (Tuấn khóc rống lên). Nó bắt tôi lấp! Nó kêu lấp, lấp, lấp lẹ! (Vẫn khóc). Tôi không lấp, nó đánh tôi. Tôi nhìn mấy người đó, tôi khóc, tôi khóc! Không! Người ta còn sống mà! Lấp đi! Không! Thế là nó dọng báng súng vào tôi, súng AK nó dọng, nó dọng đàng sau xương sống tôi (Vừa thở như bị ngộp, vừa khóc). Chưa được, nó quay mũi lưỡi lê nó đâm tôi, nó đâm vào sườn tôi. Trời ơi, máu me! Nó đâm! Mấy thằng bạn, thằng nào cũng khóc! Nó đánh, nó đánh! Tôi phải lấp, phải lấp. Tôi lấp đồng bào tôi (Khóc nức nở). Trời ơi, trời ơi, Thượng Đế coi này! Bây giờ tôi nhớ tôi có tội quá Tôi nhớ mấy con mắt đồng bào, mấy người dưới hố ngó tôi. Trời, trời, trời, trời ơi! VC ơi là VC! Không lấp thì nó đánh! Lấp thì bà con tôi chết! Thôi, thôi, lạy Phật, lạy Trời, lạy Thượng Đế. Chưa có thằng nào nó tàn ác như vậy… (Tiếp tục khóc).” Người phỏng vấn Nam Dao cũng khóc theo và an ủi Tuấn: “Anh không phải là người giết đâu. Tội đó là mấy thằng Cộng sản” Cả hai người Nam Dao và Tuấn đều khóc và người viết hàng chữ nầy đến đây cũng khóc theo, phải lau nước mắt mới viết tiếp được, và lần nào đọc lại bản thảo cũng không cầm được nước mắt, thương cho Đồng bào Huế và thương cho cả Dân tộc VN! Những lần chôn sau, Tuấn thuật tiếp, VC chỉ lấy báng súng AK dộng vào người đứng đầu cho anh ta ngã té xuống kéo theo cả dây người xuống hố, người nào ngoi lên thì VC xoay ngược cuốc đập vào đầu cho bể sọ. Tuấn thuật tiếp rằng suốt mười mấy đêm, họ đã đào mười mấy cái hố và đã chôn mười mấy lần. Đến khi phi cơ trực thăng của Quân Lực VNCH xuất hiện để truy kích, thừa lúc VC lo trốn máy bay, Tuấn cùng ba người bạn cùng xóm bỏ chạy. VC bắn theo, bắn chết một thằng chạy chậm đàng sau. Đến khi Tuấn và hai bạn còn lại gặp lính của Quân lực VNCH, một cảnh vô cùng cảm động diễn ra, ngắn ngủi thôi, nhưng là bức tranh tình cảm tuyệt đẹp đủ sức nói lên tất cả Tình Quân dân như cá với nước và Chính nghĩa của Quân lực VNCH. Trong suốt “Cuộc Chiến tranh của HCM gây ra để đánh Dân tộc”, Quân đội QGVN được thành lập từ thời Quốc trưởng Bảo Đại với mục tiêu ngăn chận làn sóng đỏ của Cộng sản để bảo vệ dân. Quân đội lớn mạnh và đổi tên thành Quân lực VNCH qua Đệ nhất Cộng hòa và Đệ nhị Cộng hòa. Thành tích bảo vệ Dân tộc suốt gần ba mươi năm đó,CHÍNH NGHĨA CỦA QUÂN LỰC VNCH, xin được diễn tả hùng hồn bằng lời thuật của anh Tuấn với chị Nam Dao như sau: “Trời ơi, tôi kể chị nghe : trong tay bọn VC mấy chục ngày, đến lần đầu tiên gặp anh lính Cộng hòa (ảnh cầm khẩu súng, ảnh ngoắc ngoắc tới). Trời ơi, tôi tới tôi ôm ảnh đó chị! Trời ơi, giống như mẹ đi chợ về! Tôi ôm ảnh tôi khóc, khóc nức nở. Ba thằng ôm ảnh khóc nức nở, không bảo nhau gì hết. Tự nhiên cái lòng thương người lính VNCH, một người mà mình thấy có sự bảo vệ… Tôi ôm ảnh khóc! Ảnh vuốt đầu nói: “Không sao đâu! Không sao đâu! Không sao đâu em!” Bắt đầu tôi kể từ đầu đến cuối. Ảnh dắt vô cho ăn. Phía sau có nước, ảnh cho tắm…” Tàn cuộc, trong số mười mấy thiếu niên Huế bị VC bắt đi đào hầm và chôn người trong chiến trận Tết Mậu Thân đó, chỉ có Tuấn và 2 người chạy thoát. Số còn lại bị VC dẫn theo và bắn chết hết khi chúng rút lui khỏi Huế! Mấy ngày sau, khi tìm đặng xác, “Trời ơi, đứa nào cũng lỗ chỗ trên đầu!”, anh Tuấn vừa kể vừa khóc.( Câu chuyện do Thông tín viên Nam Dao của Đài TwoVNR phỏng vấn Phan Văn Tuấn và được viết lại trong bài Vụ thảm sát Tết Mậu Thân (Bns Tự do Ngôn luận số 46 ngày 1-3-2008 ). -Sau đây là câu chuyện nói lên “thành tích đuổi dân đi vùng kinh tế mới” để cướp đoạt nhà cửa ở Sài Gòn. Câu chuyện về một người mẹ trẻ bị đưa đi vùng Kinh tế mới đã tự thiêu và ôm chặt 2 đứa con để cùng chết chung với mình. Thời điểm: người tường thuật là người tù học tập cải tạo Uyên Thao không nhớ rõ mùa đông năm 79 hay 80. Vào lúc đó, Uyên Thao ở Trại tù K6 trên đồi Phượng Vĩ dưới chân núi Chứa Chan, tiếp giáp với khu Kinh tế mới của người mẹ trẻ. Gần đấy có chợ Ngã Ba Đồn. Ba tuần lễ trước đó, Uyên Thao lao động phác cỏ và gặp người thiếu phụ cũng đang dọn đất gần đó. Người mẹ cuốc cỏ và cào cỏ lại, thằng bé 5 tuổi và con chị nó không lớn hơn nó bao nhiêu giúp mẹ ôm những bó cỏ vào góc bờ. “Tôi ở quận Năm, lên đây hơn hai năm rồi. Mười tám tháng nay, ba mẹ con tôi chưa biết hạt gạo là gì. Tội nghiệp thằng bé mới năm tuổi”. Đó là tâm sự của người mẹ, Uyên Thao chỉ nghe được như vậy, chưa kịp nói lời an ủi, thì cán bộ quản giáo võ trang phát hiện khoảng cách quá gần giữa họ nên ôm súng đi tới! “Sự nghiệp giải phóng biến miền Nam thành địa ngục trần gian” hoà hợp hoà giải với “thành tích đuổi dân đi vùng Kinh tế mới” đã đến “trình độ” 3 tuần lễ sau đó. Buổi tối đó, cán bộ giảng dạy về lập trường đấu tranh cách mạng và chỉ trích thói hư tật xấu trong nếp sống cũ của người dân miền Nam. Một điều bất ngờ và cực kỳ hi hữu trong các Trại học tập cải tạo của VC, người thiếu phụ mà chồng không biết lưu lạc phương nào đó, người mẹ trẻ có hai con còn quá nhỏ bị bỏ cho đói khát và thất học đó, người cư dân ở quận Năm Sài Gòn bị Đảng đuổi đi để cướp nhà, “người con gái Việt Nam da vàng” mà Đảng ác nhân đã dồn đến đường cùng đó, chính Người thiếu phụ can cường đó vụt đứng lên giữa lớp học và nói như hét vào mặt người cán bộ: “Tôi khỏi cần nghe ai dạy dỗ. Tôi bị lùa tới cái xó rừng nầy là quá đủ rồi. Tôi chẳng biết Đảng với Cách mạng của các ông là những thứ gì. Bây giờ tôi phải về lo cho mấy đứa con tôi”. Khuya hôm ấy, cơn hoả hoạn nhỏ bùng lên, thiêu rụi túp lều của ba mẹ con. Cả khu Kinh Té Mới đều chạy đến túp lều để cùng đứng chết trân nhìn ngọn lửa hoành hành. Giữa đống tro tàn, xác người mẹ trẻ cháy đen tay còn vòng ôm chặt hai đứa con cũng cháy đen như mẹ. Lời giải thích tìm ra dễ dàng: người mẹ “về lo cho mấy đứa con” đã nổi lửa hoả thiêu và ôm chặt hai đứa con để cùng chết chung với mình!!! Thôi Phán Quan dứt lời. Có tiếng thở dài. Có tiếng sụt sùi. Có tiếng khóc nghẹn ngào. Lát sau Diêm Vương mới quay qua chỗ Hình Chí Mô đang ngồi. -Ngươi đúng là quỉ rồi… Khi nghe Diêm Vương phán, Thôi Phán Quan cười bước về chỗ dãy bàn của nhân chứng và giọng nói rang rảng của ông ta vang lên. -Bị can Hình Chí Mô là tên đồ tễ lớn nhất trong lịch sử Việt Nam. Thế mà có những kẻ có ăn học, tự xưng là thi sĩ lại muối mặt làm thơ hùa theo bị can để ca tụng hành vi giết người. Tôi gọi những kẻ làm thơ đó là thi sĩ-vô liêm sỉ. Mời quí vị nghe qua những vần thơ của thi sĩ-vô liêm sỉ lớn nhất của đảng cộng sản Việt Nam… Diêm Vương và 9 vị bồi thẫm đồng quay nhìn về chỗ Tố Bồi Bút đang ngồi khi nghe Thôi Phán Quan nói câu thi sĩ-vô liêm sỉ lớn nhất của đảng cộng sản Việt Nam.
    -- Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ.
    Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong.
    Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng.
    Thờ Mao Chủ tịch, thờ Xít Ta Lin bất diệt”…

    - Bọn địa chủ cắm vòi hút máu.
    Phải vùng lên mà đấu thẳng tay!
    Thực dân địa chủ một bầy.
    Chúng là thú vật, ta đây là người”
    Vừa nghe xong hai bài thơ Diêm Vương lên tiếng hỏi liền. -Phải thơ của thằng Lành không? Nhẹ gật đầu Thôi Phán Quan hắng giọng. -Bẫm Diêm Vương đúng ạ. Đó là hai vần thơ tuyệt tác của đại thi sĩ-đại vô liêm sỉ họ Tố. Bài thứ nhất có tên là ” Thơ Giết ” còn bài thứ nhì tên ” Tự Khoe Là Người ”… Lắc đầu ông vua âm phủ hướng về chỗ họ Tố đang ngồi. -Thiệt hết biết thằng Lành… Ngươi khoe ngươi là người mà nghe qua hai bài thơ ta nghĩ lũ bây là ” người-cộng sản mất hết tình người…” Bị Diêm Vương xỉ vả Tố Bồi Bút cười làm thinh. -Kính thưa quí vị. Sau đây mời quí vị nghe qua hai bài thơ của đại thi sĩ-đại vô liêm sỉ lớn thứ nhì…
    -Anh em ơi! Quyết chung lưng.
    Đấu tranh tiêu diệt tàn hung kẻ thù.
    Địa hào, đối lập ra tro.
    Lưng chừng phản động đến giờ tan xương.
    Thắp đuốc lên cho sáng khắp đường.
    Thắp đuốc lên cho sáng đình làng đêm nay.
    Lôi cổ bọn chúng ra đây.
    Bắt quỳ gục xuống, đọa đày… chết thôi!”
    Đó là bài ” Thơ Máu ” của Xuân Diệu lấy cảm hứng từ vụ đấu tố của Cải Cách Ruộng Đất. Còn đây là bài ” Thơ Bắn ”…
    -Máu kêu máu trả thù
    Súng đâu anh em đâu
    Bắn nó thủng yết hầu
    Bắn tỉa, bắn dài lâu
    Tôi nghe đồn là sau khi bốn vần thơ này được ra đời thì dân chúng khen nức khen nở, khen tới độ họ đem ” lộng kiến ” bốn bài thơ này… -Thơ gì nghe kinh bỏ mẹ… -Nghe xong bốn áng thơ tuyệt tác này tôi nuốt cơm hổng nổi anh Chín… -Bởi vậy tên Tố mới được cho làm thứ trưởng đặc trách Kinh Té… Dân miền nam sau 75 đọc thơ hắn té xỉu hết trơn. Tao nghe đâu hồi trước 1975, bác và đảng còn tính đem mấy bài thơ này ghi âm và phát thanh vào miền nam để cho lính Việt Nam Cộng Hòa nghe mà kinh sợ bắn giết nên quăng súng đầu hàng… Đợi cho tiếng nói dứt, Thôi Phán Quan cao giọng nói với bồi thẫm đoàn. -Sau đây là một số nhân chứng và nạn nhân kể lại những vụ giết người của bị can Hình Chí Mô và các đồng đảng của hắn đã nhúng tay vào máu… -Tác giả Phạm Văn Liễu, trong quyển Trả Ta Sông Núi, đã tường thuật về tình hình ở miền Bắc như sau: “Suốt cuối tháng 8, đầu tháng 9-1945, những vụ ám sát, thủ tiêu, cắt cổ, mổ bụng, buộc đá thả sông (mò tôm) xảy ra như cơm bữa, từ thành thị tới thôn quê. Nạn nhân phần đông là những người có đôi chút tiếng tăm hay gia sản. Cán bộ Cộng sản chụp cho họ cái mũ “Việt gian” để biện minh cho những vụ thảm sát vô nhân đạo này. Khi bị báo chí chất vấn về những vụ bắt bớ bừa bãi, Phó Chủ tịch Mặt trận Việt Minh kiêm Bộ trưởng Tuyên truyền Trần Huy Liệu trâng tráo đáp: “Tất cả những người bị bắt giữ đều là những người có tội với quốc dân.” Những tội nhân này, theo báo chí Cộng sản, có cả những cựu đồng chí VNQDĐ của Trần Huy Liệu như Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Thế Nghiệp, ông bà Đào Chu Khải, các tu sĩ Phật giáo và một số linh mục, thày giảng, trùm đạo Thiên Chúa Giáo”. “Ngày 5-9-1945, Võ Nguyên Giáp còn nhân danh Bộ Nội vụ Chính phủ Cách mạng Lâm thời đặt đảng Đại Việt và các tổ chức Thanh niên không nằm trong Mặt trận Việt Minh ra ngoài vòng pháp luật. Từ ngày này, các đội tự vệ, du kích địa phương đêm đêm gậy gộc, giáo mác, tăng cường bằng vài khẩu súng lục hay ngựa trời, kéo nhau đi bắt Việt gian và gián điệp cho Tây! Tại miền Bắc, hàng trăm, hàng ngàn người bị bắt, giết…”
    Chuyện kể của Nghiêm Kế Tổ Những câu chuyện về Việt gian thật phổ biến trong thời kỳ đầu cuộc kháng chiến. Sau đây là chuyện kể của Nghiêm Kế Tổ trong quyển Việt Nam máu lửa (trang 128) với đầy đủ chi tiết hơn. “Số dân tản cư ngày mỗi nhiều. Quân đội Pháp càng ngày càng mở rộng mặt trận. Những người tản cư cũ lại xê dịch đi chút nữa và những người tản cư mới bắt đầu rời bỏ quê hương, cứ như thế mãi. Dân chúng với cuộc đời vô định đã làm mồi dần cho muỗi độc, cho lam sơn chướng khí, cho bom đạn, cho các trận càn quét… Những bà đài các ở thành thị vui vẻ khi đặt quang gánh lên vai kĩu kịt thúng xôi chè hay trầm tĩnh bên gia tài chỉ còn vẻn vẹn một quán nước con con. Nhưng, tất cả sản nghiệp mất đi, chưa đủ, ngày ngày giơ đầu hứng bom và đạn, chưa đủ, ngày ngày lên cơn sốt rét, chưa đủ, người dân còn phải hứng một điều đau khổ về tinh thần trên sức chịu đựng: những vụ bắt bớ liên tiếp với lời sỉ vả Việt gian. Nếu quân đội Pháp có bắt được dân tưởng lầm là Việt Minh mà giết đi chăng nữa, sự chết đó cũng không đau lòng lắm bằng theo Chánh phủ mà Chánh phủ lại xử bắn vì tội…Việt gian. Thật là cay đắng, mỉa mai và chua xót! Những người bắt Việt gian thường khi chẳng phải là Công an mà cũng chỉ là dân như những người tản cư. Đấy là những dân quê giữ nhiệm vụ canh gác làng mạc và nếu mặt trận tràn tới, họ cũng sẽ lại tản cư để rồi cũng có thể bị những người dân vùng khác tình nghi và bắt bớ. Những cớ để bắt trên bước đường tản cư vô định của dân chúng thật là thiên hình vạn trạng: Cô tiểu thư vô tình cầm gương soi trong khi có tiếng động cơ máy bay tận phía chơn trời: đúng là Việt gian báo hiệu cho không quân Pháp đến bắn phá. Một cái mũ trắng đội trên đầu, một chiếc nón phe phẩy cho mát trên cánh đồng mênh mông, thậm chí một kẻ ngồi đại tiện trên góc quả đồi trơ trọi cũng bị nghi là Việt gian báo hiệu cho địch. Rồi một vài nén hương châm cắm vô tình trên phần mộ, rồi tờ giấy bạc của bao thuốc lá thơm ném bâng quơ trên bãi cỏ: Việt gian, Việt gian tất… Một học sinh mang theo trong người chiếc bút chì nhiều mầu hay một cụ già mặc chiếc áo sa tanh cũ trong có mép vải viền tam tài: đấy là cờ của Pháp, đấy là dấu hiệu để Việt gian nhận nhau cho dễ. Kinh hoàng của người dân trước việc bắt bớ vì lý do Việt gian lên đến tột bực. Hơn thế nữa, người dân còn luôn luôn bị hoảng hốt, tưởng tượng xung quanh mình ai cũng có thể là Việt gian, có thể bất cứ lúc nào máy bay Pháp cũng nhờ được Việt gian chỉ dẫn bắn phá nơi mình cư ngụ. Số nạn nhân Việt gian lên đến hàng ngàn, hàng vạn. Giam cầm, đầy ải hoặc thủ tiêu? Chẳng ai biết, chẳng ai hay. Được thế, dân quân du kích, Công an, hay Ủy ban kháng chiến cứ việc bắt bớ thẳng tay, không thương tiếc”. -Xác người trôi đầy sông. Một nhân chứng khác là tác giả Vũ Trọng Kỳ trong quyển Bốn Đời Chạy Giặc đã phải bỏ nghề kiểm lâm để mua một thuyền nan nhỏ buôn bán một ít đồ hàng trên sông ở khoảng Đò Lèn và đã chứng kiến (trang 187 sđd): “Bồng bềnh trên mặt nước, tâm thần tôi luôn luôn hồi hộp vì thấy mạng con người buổi loạn ly như treo trên sợi tóc. Hàng ngày thấy những tử thi, đàn ông, đàn bà, con trẻ, nhiều cái không toàn thân, lõa lồ, mất đầu, hay cụt cẳng, có cái chân tay bị trói, hết thẩy chương, sình, nổi lều bều, theo giòng nước cuốn, hoặc bị mắc vào đám bèo đám rong, quang cảnh thật hãi hùng”.

  4. #43
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    - 27 -
    Đạo Đức Cách Mạng thứ tư của bác:
    Ngoài miệng thì niệm nam mô
    Trong bụng thì chứa một bồ dao găm

    -2-9-1945 là ngày ông đọc Bản Tuyên Ngôn Độc Lập trước hàng chục ngàn dân chúng ở Quãng Trường Ba Đình. Tôi nói đúng không?

    Thôi Phán Quan mở màn phiên xử Hình Chí Mô sáng hôm nay bằng câu hỏi này. Họ Hình có vẻ suy nghĩ giây lát mới trả lời.

    -Ông nhớ không sai… Đó là ngày quan trọng của tôi cũng như của toàn dân Việt Nam…

    -Đây là đoạn mở đầu của bản tuyên ngôn độc lập mà ông đã tuyên bố với đồng bào cả nước:

    -Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo Hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được: trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lời nói bất hủ ấy trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ.

    Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các Dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng: Dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

    Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là lẽ phải không ai chối cãi được…

    Đúng không? -Đúng… Ông nhớ không sai một chữ nào… Cười cười Thôi Phán Quan hỏi tiếp. -Ông có thực hành đúng những gì ông hứa hẹn với đồng bào của ông không? Ông có thực thi tự do, dân chủ, no ấm cho họ không?

    Ngần ngừ giây lát Hình Chí Mô cười trả lời.

    -Chưa mà chắc hổng bao giờ tôi làm…

    -Tại sao?

    -Tại vì… tại vì… Mọi người đều hiểu sai ý nghĩa của bản tuyên ngôn mà tôi đã đọc ngày 2-9-1945…

    -Ông có thể cho tòa biết ý nghĩa của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập mà ông đã đọc?

    -Được chứ… Đồng bào trong nước lúc bấy giờ hiểu sai cái ý nghĩa của hai chữ độc lập của tôi. Nó có một ý nghĩa đặc biệt hơn. Độc là độc tài, còn lập là thiết lập. Như vậy hai tiếng ” độc lập ” của tôi là thiết lập một chế độ độc tài chuyên chế, độc tài đảng trị như ở Liên Xô mà đồng chí vĩ đại Lê Nin và XítTa-Lin đã làm hay Mao Chủ Tịch đã lập ở Trung Hoa lục địa. Đồng bào tôi lúc đó, tám mươi năm sống dưới chế độ ngu dân của thực dân Pháp nên hiểu sai ý nghĩa của hai tiếng độc lập mà tôi đã tuyên cáo với quốc dân đồng bào trong ngày 2-91945…

    Từ Diêm Vương cho tới 9 vị bồi thẫm mà luôn cả mấy ngàn người đang hiện diện trong phòng xử đều trợn trắng hai con mắt sau khi nghe Hình Chí Mô giải thích về hai tiếng độc lập. Ông vua âm phủ thở khì.

    -Ngươi đúng là thứ ăn nói ngược ngạo…

    -Bẫm Diêm Vương… Cái này hổng phải lỗi của tôi mà do ở tiếng quốc ngữ của tôi nó có nhiều ý nghĩa sâu xa quá bởi vậy ai muốn nói sao cũng được và hiểu sao cũng được…

    Diêm Vương cứng họng. Ở âm phủ mấy ngàn năm, không có tiếp xúc với thế giới bên ngoài do đó ông ta làm sao cãi lại một người nổi tiếng nói một đàng làm một nẻo, nói như vậy mà hổng phải như vậy. Chi có Thôi Phán Quan là giữ được thái độ bình thản. Hướng về đám đông đang ngồi dưới kia ông ta cao giọng.

    -Kính thưa quí vị… Thủ tiêu các đảng phái đối lập, hạ sát những phần tử quốc gia yêu nước chưa đủ, Hồ Quỉ Vương còn chiếu cố tới hai thành phần mà cộng sản coi như kẻ thù không đội trời chung. Đó là giới trí thức và tôn giáo. Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo đều có tên trong sổ phong thần của quỉ vương. Sau đây tôi kính mời quí vị nghe lời thuật kể về vụ sát nhân ghê tởm của bị can và băng đảng cộng sản…

    -Đúng ngay ngày 19-8-1945, ngày Hồ Chí Minh cướp chính quyền ở Hà Nội, thì ở Hà Đông sư phụ của Thầy Thích Quảng Độ là Hòa thượng Thích Đức Hải bị xử tử.

    Ngày 19-8-1945, vào lúc 10 giờ sáng, Hòa thượng Thích Đức Hải, trụ trì tại chùa Linh Quang, xã Thanh Sam, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông đã bị đánh đập dã man trước khi bị hành quyết tại bãi cỏ trước đình làng Bặt thuộc phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông, cách chùa của hòa thượng hai cây số. Trong bức thư gởi cho Tổng bí thư Đỗ Mười ngày 19-8-1994, Hòa thượng Thích Quảng Độ giãi bày như sau:

    “Nhưng dù có bị giết chăng nữa thì tôi cũng nói lên niềm tin vững chắc của tôi là chủ nghĩa Cộng sản sẽ không tồn tại lâu dài. Không phải bây giờ tôi mới có niềm tin ấy, mà nó đã nảy sinh trong tôi ngay từ lúc 10 giờ sáng ngày 19-8-1945 (hồi đó tôi 18 tuổi) khi tôi nhìn sư phụ tôi, hai tay bị trói bằng dây kẽm quặt về phía sau, cổ đeo hai tấm biển viết mấy chữ Việt gian Bán nước, một tấm trước ngực một tấm sau lưng, đứng giữa sân đình làng Bặt, hai bên một đoàn người tay cầm gậy gộc giáo mác, cu liêm bồ cào đứng canh gác. Một nhóm người mệnh danh là quan tòa của Tòa án nhân dân đứng trên thềm đình để xử án. Họ bắt sư phụ tôi quì xuống sân đình và cúi đầu nghe tòa luận tội. Nhưng sư phụ tôi đã không chịu làm thế. Một người từ trên thềm đình bước xuống đứng trước mặt sư phụ tôi, nói: “Mày là thằng Việt gian Bán Nước mà còn ngoan cố à?”

    “Nói xong, họ đấm vào quay hàm thầy tôi mấy cái, một dòng máu từ trong miệng sư phụ tôi ứa ra, chảy theo cằm nhỏ xuống thấm đỏ tấm biển Việt gian Bán nước ở trước ngực. Lập tức họ tuyên án tử hình rồi đưa sư phụ tôi ra trước bãi cỏ trước đình, máu từ miệng sư phụ tôi tiếp tục chảy ra, thấm vạt áo dài, nhỏ xuống sân đình. Khi đến bãi cỏ, họ vật sư phụ tôi nằm nghiêng xuống rồi một người bắn vào màng tai sư phụ tôi ba phát súng lục, lại một dòng máu đỏ tươi phun lên thẳng tắp và sư phụ tôi chết liền tại chỗ. Dòng máu ấy với hình ảnh sư phụ tôi hai tay bị trói nằm chết trên bãi cỏ máu me đầy mặt, hai tấm biển Việt gian Bán nước thấm máu, vạt áo thấm máu, hai bàn chân thấm máu, máu vương trên bãi cỏ, chỗ nào cũng thấy máu. Tất cả những hình ảnh ấy đến nay đã 49 năm rồi mà tôi vẫn còn nhớ như in và tưởng chừng như mới hôm nào đó thôi. Thật là một cơn ác mộng.”

    “Trong cơn đau đớn tột cùng và hai hàng nước mắt tuôn chảy, ngay từ giờ phút ấy, ngồi trên bãi cỏ nhìn xác sư phụ tôi, tôi đã nghĩ Cộng sản sẽ không tồn tại lâu dài, lí do: Cộng sản chủ trương căm thù đấu tranh giai cấp, đánh và giết người như thế là ác quá, mà cái ác thì thường không bền, lịch sử đã chứng minh điều đó. Bởi lẽ, tâm lí người ta nói chung, tuyệt đại đa số đều yêu cái thiện ghét cái ác, mà cái người ta đã ghét thì khó tồn tại lâu được. Bảy mươi bốn năm tồn tại (1917-1991) của chế độ Cộng sản Liên sô không phải là một thời gian lâu dài nếu so với 215 năm tồn tại của triều đại nhà Lý tại Việt Nam mà, theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn, là một triều đại thuần từ nhất trong lịch sử Việt Nam.”

    Bức thư Hòa thượng Thích Quảng Độ viết ngày 19-81994 gởi cho Tổng bí thư Đỗ Mười là một bức thư lịch sử vô cùng quan trọng, bởi vì đúng vào ngày 19 tháng tám 49 năm trước, tức là ngày Hồ Chí Minh cướp chính quyền 19-8-1945, máu vị chân tu Thích Đức Hải đã chảy thấm tấm biển Việt gian Bán nước, để khởi đầu cho CƠN PHÁP NẠN do Cộng sản vô thần gây ra. Trong bức thư lịch sử đó, hòa thượng Thích Quảng Độ cũng tố cáo Cộng sản đã sát hại vị sư bá và sư tổ của mình.

    Vị sư bá của Hoà thượng Thích Quảng Độ (tức là đạo huynh của Hòa thượng Thích Đức Hải) là Hòa thượng Thích Đại Hải. Ngài trụ trì chùa Pháp Vân (chùa Dâu) thuộc tỉnh Bắc Ninh, cũng đã bị Cộng sản bắt vào năm 1946 và sau đó đã chết vì bị kết tội là đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng.

    Vị sư tổ của Hòa thượng Thích Quảng Độ pháp huý là Thích Thanh Quyết trụ trì chùa Trà Lũ Trung, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Năm 1954, Cộng sản vào chùa bảo ngài có tội dùng tôn giáo chính là thuốc phiện để ru ngủ nhân dân và sẽ bị qui định thành phần đưa ra đấu tố. Ngài quá sợ bèn thắt cổ chết để khỏi bị mang ra đấu tố…

    -Ở miền Trung, chỉ 4 ngày sau khi Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, Việt Cộng xử dụng thủ đoạn mời các nạn nhân Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Huân và Phạm Quỳnh đi họp rồi âm thầm thủ tiêu bằng cách lấy xẻng cuốc đập chết và vùi chôn xác ở một vùng của rừng Hắc Thú thuộc tỉnh Quảng Trị.



    Từ quyển Hồi ký Nguyễn Xuân Chữ

    Trong 5 vị thành lập Ủy ban Kiến quốc ủng hộ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để là Ngô Đình Diệm, Nguyễn Xuân Chữ, Vũ Văn An, Vũ Đình Dy và Lê Toàn (Ngô Đình Diệm làm lãnh tụ, bác sĩ Chữ làm phó) thì có 2 vị đã bị Cộng sản sát hại: Vũ Đình Dy bị Cộng sản xử tử năm 1945 và qua năm sau 1946, Vũ Văn An cũng bị xử tử trong điều kiện tương tự (Hồi k ý Nguyễn Xuân Chữ, trang 18). Hai lãnh tụ quan trọng Quốc dân đảng là Nguyễn Ngọc Sơn và Nguyễn Thế Nghiệp mà Bác sĩ Chữ có được gặp mấy lần trong thời gian trước ngày Việt Minh đảo chính, đều bị cắt tiết ở Trèm Vẽ, xác thả trôi sông. Bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ cũng tường thuật những cách giết người dã man của Hồ Chí Minh vào thời gian đó như sau (Hồi ký Nguyễn Xuân Chữ, trang 303): “Thời kỳ đầu, Việt Minh cầm chính quyền, cán bộ còn thiếu súng đạn. Chôn sống, cắt tiết, đành là những triệu chứng căm thù, cũng còn là những phương pháp tiết kiệm đạn. Ở đây, cắt tiết còn thêm moi gan trong những trường hợp giết vì thù cá nhân. Lại còn một thủ đoạn nữa, tàn nhẫn bội phần, là lấy búa bổ lên đầu người, như đồ tể bổ vào đầu vật…



    Vụ sát hại Tín đồ Cao Đài ở Quảng Nam và Quảng Ngãi

    Trích từ Bạch thư Cao Đài giáo do Giáo hữu Ngọc Sách Thanh phổ biến ở California, Hoa kỳ, ngày 9-41999, các tín hữu Cao Đài ở những tỉnh phía nam Trung phần đã gánh chịu tai ách về Lễ Tế cờ của Hồ Chí Minh như sau:

    “Trong suốt ba tuần lễ từ 19-8-1945, chỉ riêng trong phạm vi tỉnh Quảng Ngãi, đã có 2.791 Chức sắc, Chức việc và Tín hữu Cao Đài đã bị những người Cộng sản Việt Nam sát hại bằng đủ mọi cách, như chém đầu, chôn sống, thả biển và cả hình thức tùng xẻo như thời Trung cổ. Trong đó có các vị Chức sắc cao cấp như Đức Liễu Tâm Chơn Huỳnh Ngọc Trác, Giáo sư Lê Đức, Giáo sư Ngọc Thành Thanh, các Giáo hữu Nguyễn Trân, Lê Đường, Lê Quang Viện, Nguyễn Sử, Nguyễn Kỉnh, Bùi Phụng, Nguyễn Thống, Trần Lương Hiếu, v.v… Giáo sư Nguyễn Hồng Phong cùng năm nhân sĩ khác bị giết tại Làng Bầu, Quảng Nam.

    “Việc sát hại tập thể người Cao Đài này vì lẽ họ không chối bỏ đức tin Thượng Đế, Tự do Tôn giáo và Nhân quyền. Đây là lệnh của Hồ Chí Minh ban ra cho Nguyễn Chánh, Phạm Văn Đồng thi hành sự chém giết tại Quảng Ngãi; còn Hồ Nghinh, Hoàng Minh Thắng thi hành tại Quảng Nam, Đà Nẵng. Hơn thế nữa, họ còn tiêu diệt chôn sống nhà trí thức nổi tiếng Tạ Thu Thâu, quý Nhân sĩ chân chánh quốc gia như các ông Cao Văn Trung, Hồ Hóc, Hồ Nhãn, Hồ Hồng, và hàng loạt những người bất đồng chánh kiến khác cũng bị giết hại tại Quảng Ngãi tháng 8-1945.”



    Vụ sát hại sông Lòng Sông

    Nhắc lại thời điểm 23-9-1945 ngày Nam bộ Kháng chiến, khi quân Pháp trở lại tái chiếm Sài Gòn, nhóm Đệ tứ đã tập hợp các toán võ trang để chống cự. Trong khi nhóm Trần Văn Giàu và Nguyễn Văn Trấn kéo khỏi Sài Gòn đi về phía Bình Chánh, Tân An thì nhóm võ trang Đệ tứ tập trung và lập bản doanh ở vùng suối Xuân Trường, Thủ Đức. Tác giả Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu trong quyển Những ngày qua tường thuật vụ ra tay hèn hạ của nhóm Đệ tam của Trần Văn Giàu như sau (trang 130 sđd):

    “Bộ đội của Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai thay vì lo đánh Pháp lại tìm cách bao vây giải giới nhóm này với chủ trương để thống nhất bộ đội võ trang. Nhiều người trong nhóm võ trang Đệ tứ đã không đồng ý cho giải giới, nhưng nhiều người khác lại không muốn có chuyện đổ máu giữa người Việt với nhau. Cuối cùng 64 người trên 68 có mặt hôm ấy bỏ thăm chịu ở lại, chấp thuận chịu cho giải giới. Những liệt sĩ này không ngờ là họ đã tự trói tay để sau này bị giết tập thể ở sông Lòng Sông ở Phan Thiết.” Trong số 64 người bị giết ở địa điểm sông Lòng Sông này, có 2 người nổi tiếng là Phan Văn Hùm và Trần Văn Thạch.



    Tác giả Hứa Hoành tường thuật

    Bằng cách thu thập tài liệu theo lời kể của những nhân chứng ở miền Nam vào lúc đó, trong bài Việt Minh Cộng sản cướp công kháng chiến chống Pháp ở miền Nam, Hứa Hoành thuật lại những thủ đoạn ám sát khủng bố như sau:

    “Từ ý nghĩa cuộc chiến tranh Vệ quốc, chống lại kẻ thù trở thành xâm lăng là Pháp, bọn Cộng sản chỉ hô hào, tuyên truyền để giành lấy chính nghĩa, rồi đêm đêm tìm cách bắt những người nào chống lại chúng, thủ tiêu. Ban ngày chúng mời đến họp, thành lập ủy ban, ban đêm chúng gõ cửa dẫn đi mất. Mấy ngày sau, xác nạn nhân sình thối trôi nổi trên sông. Thời kỳ đó Việt Minh khủng bố còn hãi hùng hơn cả Thực dân. Chúng bắt người bỏ vào bao bố, trấn nước cho chết gọi là mò tôm, hoặc bắt người mổ bụng dồn trấu, với tội danh mơ hồ Việt gian, hoặc không bao giờ kết tội gì cả.”

    Trong bài Dưa hấu Trà Bang (do Nguyệt san Làng Văn số 101 tháng 1-1993), tác giả Hứa Hoành nói về địa danh Ba Động, vùng đất ven biển của tỉnh Trà Vinh, là do nơi đó có 3 đụn cát gió thổi bồi lên nên dân chúng mới gọi là Ba Động. Tác giả Hứa Hoành viết:

    “Ba Động có một con sông chảy ngang qua, song song với bờ biển. Năm 1936, Pháp cho bắc cây cầu sắt nối liền với nhà nghỉ mát của họ mới xây ngoài bờ biển. Năm 1946, Cộng sản lấy danh nghĩa “tiêu thổ kháng chiến” để phá sụp cầu, đến nay cũng không bắc lại được. Con sông Ba Động từng chứng kiến cảnh giết người man rợ của Cộng sản. Chúng bắt các nhân sĩ yêu nước thuộc Phật giáo Hòa Hảo như Chung Bá Khánh, Đỗ Hữu Thiện, Võ Văn Thời, Lâm Thành Nguyên… đem neo dưới nước cho chết ngộp. Riêng ông Lâm Thành Nguyên may mắn tự mở trói được, trong đêm tối lẩn trốn trong các bụi rậm thoát hiểm.”

    Cách giết người gọi là mò tôm trên đây, có lẽ phổ biến khắp nước. Ở miền Bắc, bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ nghe một người học trò lớp y tá của ông trò chuyện với các bạn học và viết lại trong Hồi ký Nguyễn Xuân Chữ như sau: “Thày mà Quốc dân Đảng, cũng tôm cả thày”. Thời Việt Cộng, nói “Cho thầy đi mò tôm” chi cho dài. Phải nói ngắn gọn “Tôm cả thầy” thì mới “trình độ” hơn!

    -Tham khảo bài viết CSVN đã từng giết tập thể tín đồ PGHH của tác giả Nguyễn Huỳnh Mai, bài đăng ở Thương nghiệp Tuần báo số 106, ngày 12-8-1999.

    Ngày 25-7-1999, một tín đồ Phật giáo Hòa Hảo là cụ Phan Thanh Nhãn, lúc đó 84 tuổi cư ngụ tại Garden Grove, tiểu bang California, đã viết Thỉnh nguyện thơ gởi Quốc hội, các cơ quan Lập pháp và Hành pháp Hoa Kỳ, các cơ quan Nhân quyền và Truyền thông Quốc tế tố cáo tội ác Việt Cộng như sau:

    1- Cộng sản giết người và chôn trong những hầm chôn tập thể. Ở xã Tân An gần nhà cụ có 2 hầm chôn 400 người. Tại xã Mỹ Ngãi, rạch ông Cả Điền quận Cao Lãnh có 4 hầm, trong đó có 3 hầm chứa 180 người chết vì đạo. Hai hầm khác chôn 652 người tại xã Tân Thành quận Tân Hồng (là hai quận cũ Tân Châu và Hồng Ngự nhập lại). Riêng 9 hầm nữa, cụ Nhãn không biết rõ số người, tại đình Long Thuận xã Long Thuận tỉnh Long Xuyên.

    2-Riêng về gia đình cụ có 15 người là cha mẹ, anh em, và bà con ruột thịt trong nhóm bị bắt 115 người. Tất cả bị trói tréo tay sau lưng bằng dây chì và chở trên chiếc ghe cà dom vào rạch Cá Gừa xã Mỹ Ngãi quận Cao Lãnh tỉnh Sa Đéc (cũ), nay thuộc tỉnh Đồng Tháp, đến 3 cái hầm lớn đã đào sẵn. Theo nhân chứng còn sống sót kể lại, thì Cộng sản đem từng người đến miệng hầm, dùng dao găm đâm vào hang cua ở cần cổ rồi đạp cho rớt xuống hầm. Nếu có ai còn sống bò dậy thì chúng lấy chày vồ đập vào đầu rồi xô trở xuống, sau cùng lấp đất lại. Vào lúc cụ Nhãn viết thỉnh nguyện thơ nầy, cụ cho biết hai tên hung thủ tham gia cuộc tàn sát là tên Quắn đã chết và tên Năm Hỉ lúc đó còn sống và ngụ tại chợ Trần Quốc Toản, thị xã Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

    3-Cụ Phan Thanh Nhãn đau lòng nói rằng em gái cụ là người ăn chay trường, mặc y phục màu dà, và tu theo Phật giáo Hòa Hảo, vì xinh đẹp nên bị ba tên thay phiên nhau hãm hiếp! Sau đó chúng mổ bụng lấy gan làm đồ nhậu tại nhà Nguyễn Xuân Vinh, tại xã Tân An Cao Lãnh. Cha mẹ ông vì thương con bị hãm hiếp, đã kêu la nên cũng bị giết luôn!

    Trong Bản Cáo trạng của cụ Phan Thanh Nhãn, chúng ta đếm được tất cả 18 hầm chôn tập thể. Nhưng tổng số nạn nhân bị sát hại thì không thể nào kiểm chứng được!



    Hầm chôn người tập thể ở Mỹ Tho năm 1945

    Luật sư Hình Thái Thông, bạn học của Tạ Thu Thâu ở trường Bổn Quốc, sau có du học ở Pháp, cũng là nạn nhân Lễ Tế cờ của Hồ Chí Minh. Tác giả Phương Lan Bùi Thế Mỹ chỉ viết vài dòng ngắn ngủi (Trích quyển Nhà Cách mạng Tạ Thu Thâu, tr. 90): “Thông làm trạng sư ở Sài Gòn sau về Mỹ Tho, rồi bị giết hại trong Phong trào Thanh niên Tiền phong, 1945, chôn tập thể một hầm gần 100 người tại Quởn Long (Chợ Gạo Mỹ Tho), năm sáu năm sau mới tìm thi hài ra được.”

    Bà góa phụ Hình Thái Thông, sau là giáo sư dạy Pháp văn trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu ở Mỹ Tho, các học sinh vào đầu thập niên 1950 đều có học Pháp văn với bà.



    Đám Giỗ hội ở Gò Công

    Xin nhắc lại một thiên tai xảy ra ở Gò Công vào năm Giáp Thìn cách đây hơn 100 năm, tức là khoảng tháng 31904. Đó là một cơn Sóng thần Tsunami ập vào miền duyên hải tỉnh Gò Công, vùng Vàm Láng và cửa Cần Giờ, gây thiệt mạng rất nhiều, gần như gia đình nào cũng có người bị chết. Vì cơn sóng thần đó, nên ở Nam Kỳ có câu vè truyền tụng “Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc – Gió nào độc bằng gió Gò Công”. Từ đó về sau, vào ngày kỷ niệm Sóng thần, gia đình nào cũng làm đám giỗ. Đi khắp vùng, vì nhà nào cũng cúng giỗ, nên mới có tên là “Đám Giỗ hội”.

    Vào Mùa thu “Kách mệnh” 1945, Lễ Tế cờ của Hồ Chí Minh cũng gây một “Đám Giỗ hội” tương tự như Tsunami 1904 ở Gò Công. Theo lời kể của một vị cao niên quê ở Gò Công là L.T.Q., thì nạn nhân là ông Đốc Phủ Hải và một số nhân viên làm việc ở Tòa Hành chánh khoảng trên 20 người đã bị Việt Minh Cộng sản tố cáo là “Việt gian”. Thế rồi họ bị tàn sát tập thể và chôn trong một hầm ở xã Bình Thành cách tỉnh lỵ 13 cây số. Theo lời kể của vị cao niên ấy, thì vào lúc đó ông Đốc Phủ Hải đã về hưu và là người rất nhân đức nên được người dân Gò Công thương yêu kính trọng!



    Thêm vài vụ xử tử ở Gò Công

    Ông Đốc Phủ Hải bị sát hại vì bị tố cáo là “Việt gian”, nhưng thầy Nguyễn Văn Thành, vị giáo sư dạy môn sử địa ở trường Trung học Trương Vĩnh K ý, thì bị giết vì thuộc thành phần “Trí thức”. Trong quyển Những ngày qua, Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu nhắc đến Trần Thanh Mậu cùng là học sinh nội trú trường Petrus Ký với ông. Về những vụ xử tử nầy, Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu viết như sau (trang 36 sđd):

    “Trần Thanh Mậu là người có nhiệt tâm với đất nước, thường bàn với anh em nội trú về tương lai Việt Nam trong các giờ chiều sau buổi học. Khi Việt Minh cướp chánh quyền ở Miền Nam, anh thuộc những thanh niên đã tiên phong góp sức nhưng đã bị Cộng sản đem ra xử tử ở sân vận động Gò Công cùng hơn mười thanh niên trí thức và thầy Nguyễn Văn Thành, vị giáo sư sử địa trường Petrus K ý. L ý do thầm kín thật ra là vì các anh thuộc thành phần trí thức hăng hái nhưng hay chỉ trích các sai trái của Cộng sản địa phương. Đảng Tân Dân chủ lúc bấy giờ có phái Đặng Ngọc Tốt từ Sài Gòn đến can thiệp cho các anh nhưng không hiệu quả. Tốt chỉ có nước khóc và ôm anh em trước giờ hành quyết mà thôi!”



    Những vụ sát nhân lẻ tẻ

    Việt Minh Cộng sản đã sát hại 2 vị cao niên đạo Cao Đài. Theo lời kể của anh Ng. Đ. L., một thuyền nhân tỵnạn hiện ở Sydney: “Chú Ba Ân và chú Bảy Ri, lúc đó đã trên 60 tuổi, thường cúng tứ thời mỗi ngày. Hôm đó, trong khi 2 người đang cúng kỳ 12g khuya ở bàn Thiên ngoài trời, thì bị chúng bắt dẫn đến bờ sông Cái và giết chết. Ba ngày sau, xác 2 người nổi lên, dân làng mới biết 2 người bị đập đầu chết và vạt áo dài họ mặc lúc làm lễ đã bị cột dính vào nhau.”

    Người tín đồ Cao Đài thứ 3 là bác Ba Chà bị chúng cho đi mò tôm. Khi chân bác chạm đáy sông, bác đạp bung lên nên dây cột sút ra. Khi trồi lên, Bác còn bị đập đầu, nhưng không chết. Bác lặn xuống và lần theo đáy sông lặn đi thật xa. Đến khi hết hơi, bác trồi lên, tấp vào bờ bất tỉnh. May cho bác vì đến đó bọn sát nhân đã bỏ đi. Bác may mắn thoát chết, nhưng không dám ở Long Hựu nữa, bác đành bỏ cả nhà của ruộng vườn, di tản lên Thánh thất Tây Ninh lánh nạn.

    -Câu chuyện anh B. Đ. Ph., người tỉnh Trà Vinh hiện định cư ở Sydney, trốn chạy Cộng sản cũng giống như bác Ba Chà ở Long Hựu, tỉnh Long An. Gia đình anh tất cả đều theo đạo Cao Đài, nhà ở gần thánh thất nhỏ của tỉnh nhà. Cũng vào khoảng 1946, người chú ruột của anh bị Việt Cộng giết! Biết không thể sống ở Trà Vinh được nữa, cha anh mới âm thầm sắp xếp cuộc trốn chạy. Chờ đến nửa đêm, cả nhà lặng lẽ xuống ghe, bỏ lại tất cả tài sản nhà của ruộng vườn, theo đường sông, tìm cách về Tây Ninh để tỵ nạn Cộng sản. Vào lúc đó, anh B. Đ. Ph. còn quá nhỏ nên anh không nhớ phải mất mấy ngày chiếc ghe tỵ nạn của gia đình anh mới đến Tây Ninh và phải đi theo thủy lộ nào. Vào lúc đó, Thánh thất Tây Ninh là vùng an toàn cho tín đồ đạo Cao Đài, và gia đình anh B. Đ. Ph. là những thuyền nhân tỵ nạn Cộng sản đầu tiên, trước đồng bào di cư miền Bắc năm 1954 và những thuyền nhân sau ngày Quốc hận 30-4-1975.

    -Sau đây là câu chuyện của anh L. V. Ng., một thuyền nhân hiện định cư ở Sydney.

    Anh cũng là một tín đồ đạo Cao Đài quê ở ấp Trâm Vàng, làng Thạnh Phước, quận Gò Dầu Hạ, tỉnh Tây Ninh. Một đêm trong năm 1947, Việt Cộng về ấp, đốt nhà và sát hại những tín đồ Cao Đài trong ấp của anh. Lúc đó anh 12 tuổi. Anh còn nhớ núp trong rừng chồi gần đó, anh nhìn thấy nhà của anh, của bác anh, và các nhà khác cháy rực cả góc trời. Bác của anh, một nông dân ròng rặc không biết một chữ Pháp cũng bị giết cùng với một số bạn đạo khác. Nhà ông Ba Mít bị cháy, lửa ăn qua chiếcxe bò là phương tiện làm ăn của ông. Ông bất kể mạng sống, liều chết chạy lại kê vai kéo chiếc xe ra khỏi đám lửa. Một tên Việt Cộng thấy vậy, cũng chạy lại đâm ông chết. Đến sáng, cha anh dẫn đàn con 5 đứa đi lánh nạn, mẹ anh bồng đứa con nhỏ nhất, anh cũng cõng một đứa em, đoàn người lết bết đi đến Châu Vi, một vuông đất trống gần bót Cao Đài. Trên đường đi, ngang qua nhà ông Thàng, họ nhìn thấy xác mẹ ông Thàng nằm chết cong queo trên đống than còn đang bốc khói. Theo lời anh L. V. Ng, tất cả những tín đồ Cao Đài đều bị giết trong đêm đó.



    Mang súng vào lớp xử tử học sinh

    Câu chuyện do một nhân chứng vốn là học sinh và saunầy là đại tá Nguyễn Văn Ánh thuật lại và do giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thanh Liêm là cựu hiệu trưởng của trường Trung học Petrus Trương Vĩnh Ký ghi chép trong quyển Trường Trung học Petrus Ký và nền giáo dục phổ thông Việt Nam (trang 56):

    “Một học sinh Petrus Ký bị xử tử ngay trong lớp học trước sự ghê sợ của giáo sư và học sinh của trường… Hồi năm 1950, một buổi chiều, khoảng 2 hay 3 giờ, trong giờ Pháp văn của giáo sư Nguyễn Văn Hai, có 6 người lạ mặt xông vào trường Petrus Ký. Hai người đi thẳng vào lớp Troisième Année B. Mấy người còn lại đứng canh chừng ở bên ngoài. Hai người vào lớp kêu tên hai học sinh của lớp nầy. Họ bắt một trong hai học sinh đó lên trên chỗ vách tường gần bàn giáo sư. Họ đọc to bản án tử hình cho mọi người nghe. Sau khi đọc xong bản án, một trong hai tên nầy dùng súng lục bắn chết anh học trò kia ngay trước sự chứng kiến của giáo sư Hai và tất cả học sinh của lớp Troisième Année B. Sau khi thi hành xong thủ đoạn, cả bọn cùng chạy ra đường Cộng hòa vừa hô to khẩu hiệu Việt Nam Độc lập muôn năm. Người bị xử tửtên là Minh, mà theo đại tá Ánh thì là một học sinh học hành rất chăm chỉ và là người có phẩm hạnh không có gì đáng chê trách… Bản án kết tội anh Minh là làm mật thám cho Pháp. Dù có hay không, việc xử tử công khai một học sinh ngay tại lớp học, ở trong một trường học lớn, trước sự chứng kiến của giáo sư và học sinh, vẫn là một hành động khát máu và hoàn toàn trái ngược với luân lý giáo dục.”

    Theo lời kể của cụ Nguyễn Trân, thì số nạn nhân bị sát hại trong đại họa Lễ Tế cờ của Hồ Chí Minh là 8000 người trong vòng 40 ngày. Theo giáo sư Stephen Morris thuộc Viện Nghiên cứu Đông Á (Institute of Asean Studies), trường Đại học U. C. Berkeley, thì chỉ trong vòng 6 tháng cuối năm 1945 và đầu năm 1946, Cộng sản Việt Nam đã tàn sát đến 10 ngàn người của phía Quốc gia và phe Đệ IV Quốc tế. Chi tiết nầy được trích từ quyển Việt Nam, cuộc chiến tranh Quốc gia-Cộng sản của Nhóm Nghiên cứu Lịch sử ở Santa Clara, California (trang 281). Nhưng nếu chúng ta làm bản tổng kết của các tác giả vừa tường thuật trên đây, thì số nạn nhân trong Lễ Tế cờ của Hồ Chí Minh không thể dưới con số 20.000 người được…

    Thôi Phán Quan ngừng đọc. Gấp xấp giấy dày cộm lại, hướng về chỗ 9 vị bồi thẫm đang ngồi ông ta cất giọng trầm và buồn.

    -Bị can Hình Chí Mô giết người thì nhiều không kể xiết. Tuy nhiên cái khiến cho hắn trở thành ” ác nhất thiên hạ ” chính là hành hạ và giết chóc trẻ con. Sau đây là những câu chuyện kể thật đau lòng nói về hành động vô nhân của bị can…



    Vung mã tấu chặt ngón tay em học sinh nhỏ tuổi nhất

    Vào một ngày trong niên học 1961-1962, trong địa hạt tỉnh An Xuyên, “Việt Cộng đã chận các em học sinh đang đi đến trường, chọn một em nhỏ nhất trong nhóm rồi vung mã tấu chặt đứt một ngón tay của em và hăm dọa nếu còn tiếp tục đến trường thì các em sẽ chịu hình phạt như thế!”(Trích bài Liên Hoa của tác giả Phan Thịnh, Nguyệt san Làng Văn số 203 tháng 7-2000, trang 26). Tác giả Phan Thịnh kể thêm rằng: “Toàn tỉnh An Xuyên, số học sinh bị sút giảm 20.000 em, 150 trường học phải đóng cửa, khoảng hơn 60 giáo viên bị bắt cóc hoặc bị giết! Trong niên học đó, trên toàn lãnh thổ miền Nam đã có đến 630 trường học phải đóng cửa vì sách lược khủng bố này”.

    Sách lược khủng bố giáo viên và học sinh kể trên gây những hậu quả thảm khốc như thế, đến nỗi Hiệp hội các Tổ chức Sư phạm Thế giới (World Confederation of Organizations of the Teaching Profession) đã phải cử một phái đoàn đến miền Nam Việt Nam để điều tra. Bài viết của ký giả John B. Hubbell tường trình sự việc trên được đăng tải trên Reader’s Digest (số tháng 11-1968) và thành đề tài cho Phan Thịnh viết bài Liên Hoa nói trên.



    Chặt hai bàn tay em bé 7 tuổi

    Cũng từ bài viết đăng trên số Reader’s Digest đó của ký giả John B. Hubbell, bài được Trung tướng TQLC Lewis Walt giới thiệu, chúng ta đọc thêm được tội ác kinh hoàng của Việt Cộng như sau (Bài do anh Thuận một độc giả ở Queensland gởi Diễn đàn độc giả của Tuần báo Saigon Times ngày 28-10-2004):

    “Viên xã trưởng cùng với bà vợ như người điên cuồng, vì một trong các đứa con của họ, một bé trai mới 7 tuổi, đã bị mất tích từ bốn ngày rồi. Họ tìm đến Trung tướng Lewis W. Walt để cầu cứu vì tin rằng đứa bé đã bị VC bắt cóc.”

    “Rồi đột nhiên, thằng bé thoát ra khỏi rừng, chạy băng qua các đồng lúa để trở về làng. Thằng bé vừa chạy vừa khóc. Mẹ nó vội chạy ra, ôm nó vào lòng, và đau xót kinh hoàng khi thấy cả hai bàn tay đứa nhỏ bị chặt đứt và trên cổ nó có đeo một cái bảng, ghi những dòng chữ cảnh cáo cho cha nó.”

    Thì ra VC muốn phá bỏ kỳ bầu cử sắp sửa diễn ra của Việt Nam Cộng Hòa nên mới cảnh cáo ông xã trưởng, hay bất kỳ người nào trong làng, cả gan đi bỏ phiếu, ông sẽ chịu những điều tệ hại hơn nữa cho những đứa con còn lại của ông ta.



    Ném lựu đạn vào đêm lửa trại học sinh Qui Nhơn

    Vào một đêm năm 1972, tại sân vận động Qui Nhơn, trong khi học sinh và hướng đạo sinh trường trung học Cường Để đang vui vầy với lửa trại thì tên Việt Cộng nằm vùng là Vũ Hoàng Hà quăng lựu đạn vào đám lửa trại để tàn sát những học sinh và nhà giáo trong tay không một tấc sắt! Cuộc thảm sát gây 14 học sinh bị mất mạng và một số bị thương. Cô giáo sư Pháp văn Đặng Thị Bạch Yến, có giọng ca thật điêu luyện như ca sĩ chuyên nghiệp, đến để vui lửa trại với các em trại sinh, bị chết ngay tức khắc. Cô chết đi tuổi chỉ vừa 30, để lại ba đứa con 4 tuổi, 2 tuổi và 1 tuổi mồ côi mẹ. Chồng cô là giáo sư Anh văn Tạ Quang Khánh bị thương nặng. Khi xe cứu thương đến, ông chân bước lên xe, tay ôm mớ ruột bị lòi ra ngoài, thân mang đầy vết lựu đạn!

    Một nhân chứng cho biết thủ phạm Vũ Hoàng Hà leo qua nấp ở chùa Long Khánh và được cơ sở nằm vùng của Mặt trận Giải phóng Miền Nam đưa vào mật khu lẩn trốn. Sau khi chiến thắng miền Nam, Vũ Hoàng Hà được phong Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Định kiêm Ủy viên Trung ương Đảng. Mãi sau này, các báo Việt Cộng đổ vấy rằng vụ thảm sát đó là do nhóm Fulro của Đồng bào Thượng gây ra!

    Ba đứa trẻ mồ côi mẹ năm 1972, thì chỉ 5 năm sau lại mang tang cha. Vết thương quá nặng, Giáo sư Tạ Quang Khánh không sống sót được 10 năm theo lời dự đoán của các Bác sĩ điều trị! Nhưng trời cao có mắt. Câu chuyện có hậu. Ba đứa trẻ mồ côi vì sự tàn ác của Việt Cộng năm nào thì bây giờ trở thành những công dân tốt phục vụ cho một xã hội đầy tình người đã giúp đỡ và cưu mang chúng. Tạ Quang Khôi và Tạ Quang Khiêm là kỹ sư điện (EE) và cô em út trong nhà là Tạ Thị Ngân Hà, bị mồ côi mẹ lúc 1 tuổi, trở thành bác sĩ nội khoa phục vụ tại bệnh viện Oklahoma, Hoa Kỳ. Câu chuyện do giáo sư Nguyễn Lý Tưởng tường thuật, ông là bạn học tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế đồng khóa với vợ chồng Giáo sư Tạ Quang Khánh (Theo nguồn tin: Vietnam Library Net).



    Pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy

    Ngày 9-3-1973, một ngày đầy máu và nước mắt đến với trường tiểu học Cai Lậy, tỉnh Định Tường. Thủ phạm là Mặt trận Giải phóng Miền Nam đã dùng súng cối 82 ly, do Trung Cộng sản xuất, bắn vào trường vào lúc 12g55’. Số thương vong theo Tướng Lâm Quang Thi trong quyển The death of South Vietnam: an autopsy (xuất bản năm 1986) là 34 em chết và 70 bị thương, theo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ: 32 tử vong và 55 bị thương. Cuộc thảm sát ở Cai lậy gây thương cảm khắp nơi. Khắp miền Nam, lễ tưởng niệm và lạc quyên được tổ chức để an ủi và giúp đỡ gia đình bị nạn. Nhạc sĩ Anh Bằng viết bài nhạc khóc các em học sinh Cai Lậy có những câu như sau: “Hỡi Bé thơ ơi, sao tội tình gì Em lại bỏ đi, Em lại bỏ đi? Kìa thầy giảng bài tình thương trong lớp. Bạn bè cùng ngồi chăm chỉ lắng nghe. Sao Em vội bỏ mái trường ngày xưa thân mến, vội bỏ ra đi?”



    Tội ác bỏ đói dân để lùa thanh niên vào bộ đội

    Câu chuyện giữa 2 người tù, một già một trẻ, do Ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện thuật lại trong quyển Hỏa Lò (trang 277). Người tù trẻ thuộc thế hệ thiếu nhi sống dưới chế độ hộ khẩu của Hồ Chí Minh. Quê anh ở Thái Bình, mang tiếng là vựa thóc, là “ Quê hương năm tấn ”, nhưng đói lắm. Bình quân, mỗi đầu người hàng tháng chỉ được 9 cân gạo, nên anh ta bị đói từ lúc còn bé. Đến 17 tuổi, anh phải khai man thành 18 để được vào bộ đội. Cuộc đối thoại như sau:

    - Thế mày trúng tuyển bộ đội ngay?

    -Vâng, được biết trúng tuyển, con mừng hơn mẹ con sống lại. Thế là hết cảnh đói mòn, đói mỏi. Mấy đứa gầy yếu quá bị loại, buồn như cha chết. Có đứa khóc.

    -Hồi đó, chúng mày có biết đi B, chết rất nhiều không?

    -Chúng con biết chứ. Trai làng bao đứa đã vong mạng. Hai thằng em họ con cũng đã chết ở Khe Sanh.

    - Chúng mày không sợ chết à?

    -Chẳng đứa nào sợ cả. Cái đói triền miên đáng sợ hơn nhiều. Bố bảo, đi bộ đội, chết chưa thấy đâu, đã thấy no trước mắt. Hai mốt cân gạo, một cân rưỡi thịt, một cân đường, mỗi tháng. Nghe trên thông báo tiêu chuẩn đó, chúng con thèm rỏ rớt, rỏ dãi. Cứ như là giấc mơ ấy. Chiến đấu dũng cảm được thăng chức lên sĩ quan. Tiêu chuẩn còn cao hơn nữa. Hơn đi thanh niên xung phong nhiều.

    Thiên đường XHCN của Hồ Chí Minh rất cần được đối chiếu với đời sống công nhân trong các nước tư bản mà Cộng sản luôn luôn mạt sát là bóc lột công nhân. Không cần đi đâu cho xa, bên nước láng giềng Campuchia, tác giả Nguyễn Văn Khậy trong quyển Kampuchia trong bối cảnh chiến tranh Đông Dương đã diễn tả cảnh sống sung túc của công nhân đồn điền cao su Krek sau năm 1945, khi Đồng Minh thắng Nhật và người chủ Pháp bị Nhật giam trước đây được thả về để cai quản đồn điền. Tác giả Nguyễn Văn Khậy viết (trang 361 sđd):

    “Từ đây cách đối xử với công nhân có chiều tiến bộ hơn so với những năm về trước. Đầu tiên, công nhân được giảm bớt 1/3 số cây cao su được cạo trong ngày, tăng lương, nhà thương có bác sỹ với thuốc men đầy đủ, chăm sóc kỹ lưỡng. Lương tiền phát đầy đủ hơn, nhất là đồn điền phụ trách bán các thứ vải, giày, xe đạp, vỏ xe đạp… thêm vào đó thực phẩm, thịt heo, thịt bò và vô số nhu yếu khác, bán chịu, bán thiếu cho công nhân được khấu trừ vào lương cuối tháng, giá rẻ hơn ngoài thị trường 30%. Đặc biệt cung cấp gạo hoàn toàn miễn phí cho công nhân kể cả gia đình theo tiêu chuẩn người lớn 800 gr, trẻ em dưới 12 tuổi là 600 gr.”

    Đến đây, người viết có thắc mắc mới điện thoại hỏi tác giả Nguyễn Văn Khậy (hiện an cư lập nghiệp ở Sydney) nếu người công nhân có vợ và nhiều con thì sao? Tác giả trả lời rằng:“Vợ và tất cả các con đều có tiêu chuẩn được phát gạo miễn phí, và thường thì công nhân dư gạo, mới đem số gạo dư ra ngoài đồn điền bán lại hoặc trao đổi lấy các món khác với người dân địa phương.”

    Căn phòng xử thật yên lặng. Dường như người ta đang bận tâm suy nghĩ điều gì đó. Lát sau giọng nói của Thôi Phán Quan vang lên.

    -Kính thưa quí vị. Cám ơn quí vị chịu khó ngồi nghe tôi trình bày về tội sát nhân của bị can Hình Chí Mô. Sáng may tôi sẽ trình bày thêm hai tội trạng của bị can. Đó là tội bán nước và phá hoại đất nước…

  5. #44
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    - 28 -
    Đạo Đức Cách Mạng thứ năm của bác:
    BÁN NƯỚC

    Thiên hạ đi dự phiên tòa càng lúc càng đông thêm tới mức âm phủ phải dời phiên xử vào trong đại sảnh đường rộng gấp mấy lần căn phòng cũ. Đợi cho bị can Hình Chí Mô làm xong thủ tục, Thôi Phán Quan mới mời Phạm Văng Vàng làm nhân chứng. Tuy hơi ngạc nhiên song họ Phạm cũng bước lên ngồi vào ghế nhân chứng. Khi hắn làm xong thủ tục, vị biện lý của âm phủ đặt liền câu hỏi. -Trước khi ông đặt bút ký công hàm ngày 14 tháng 9 năm 1958 công nhận nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Cộng thì… Thôi Phán Quan mỉm cười ngừng nói. Ông ta nhận thấy vị thủ tướng của Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam có vấn đề liền khi nghe tới vụ ông ta ký công hàm bán nước ngày 14-9-1958. -Theo như ” lời đồn ” thì trước khi ông ký công hàm đó, bộ chín chị của đảng cộng sản Việt Nam có mở phiên họp kín. Đúng không? Do dự giây lát Phạm Văng Vàng lên tiếng. Dường như muốn lấy điểm với Diêm Vương hoặc bồi thẫm đoàn, hắn vui vẻ giảng giải một cách rành mạch. -Lời đồn của ngài biện lý đúng lắm. Ngay khi cái thông cáo về biển của nước đàn anh Trung Hoa vỉ đại do đồng chí anh minh và sáng suốt Chu Ân Lai ký được gởi cho Việt Nam thì bác gọi tôi vào họp trong phủ chủ tịch. Ngoài tôi còn có anh Thận, anh Ba, anh Sáu và anh Giáp… Ngừng lại giây lát vị thủ tướng thâm niên nhất của nhà nước cộng sản Việt Nam cười tiếp. -Gọi là họp chứ thật ra thì bác đã quyết định rồi. Bác nói với bọn tôi như thế này: ” Trung Quốc giúp chúng ta cuộc kháng chiến chống Pháp chín năm ròng về đủ mọi phương diện. Họ viện trợ cho chúng ta từ cây kim, sợi chỉ, trang bị quân đội ta từ đầu tới chân: mũ Trung Quốc, quần áo Trung Quốc, giầy Trung Quốc… Bây giờ kháng chiến thắng lợi, họ muốn một vài hòn đảo nhỏ, lẽ nào ta từ chối? ” ( Trần Nhu- Tướng Đi Đêm )… -Vậy là bác cúng Hoàng Sa và Trường Sa cho Tàu thực hả anh Chín? -Chứ còn gì nữa. Năm 1958, bác còn mạnh cùi cụi chứ đâu có bịnh hoạn ốm đau gì đâu mà bảo bác không biết. Đang làm chủ tịch nước, chủ tịch đảng kiêm tổng bí thư thì nếu bác không bằng lòng cúng bố bảo thằng Chì Cháy cũng hổng dám ký tên vào cái công hàm bán nước ngày 14-9-1958. Chẳng qua bác sợ nhân dân nói bác bán nước nên mới nắm tay Chì Cháy bắt ký tên… -Làm sao anh biết vậy anh Chín… -Dân họ biết họ nói cho tao nghe… Mày đừng tưởng dân ngu… Dù bác và đảng có giấu dân cũng biết. Bởi vậy mới có mấy câu vè sau đây:
    -Bây giờ chết mẹ đảng ta,
    Đám chệch tràn lan khắp nước nhà,
    Chẳng thà bám đít bu theo Mỹ,
    Thoát cảnh lầm than ôi xót xa.

    Nghe bốn câu thơ Diêm Vương tủm tỉm cười lên tiếng. -Thơ này ta nghe còn hay hơn thơ của thằng Lành. Hắn xưng thi sĩ mà làm thơ nghe điếc con ráy… Như muốn đi thẳng vào chuyện quan trọng hơn nên Thôi Phán Quan nghiêm giọng hỏi. -Trong buổi họp đó bác của ông còn nói thêm điều gì nữa không? Phạm Văng Vàng liếc nhanh Hình Chí Mô đang ngồi nơi ghế bị can rồi lắc đầu trả lời. -Không có… Bác chỉ nói như vậy rồi bảo tôi ký tên vào cái công hàm 14-9-1958 mà thôi… Thôi Phán Quan cười hực. Giơ cao xấp hồ sơ đang cầm trong tay ông ta cao giọng. -Kính thưa bồi thẫm đoàn… Đây là một hồ sơ chứa đựng nhiều hình ảnh về những chuyến đi đêm của bị can Hình Chí Mô sang nước đàn anh vỉ đại để bàn chuyện bán nước trong đó có vụ nhường Ải Nam Quan cho Tàu… Vị biện lý của âm phủ phất tay áo rộng. Mọi người đều thấy trên màn ảnh hiện lên những hình ảnh như là bằng chứng hiển nhiên về hành động bán nước của Hình Chí Mô và băng đảng cộng sản Việt Nam…

    Hình G1. HCM bí mật sang Quảng Tây ngày 16.01.1950
    (HCM là người trùm khăn đứng thứ hai bên phải hình)
    Việc qua lại giữa hai Đảng CS Trung-Việt liên tục diễn ra tại cổng Nam Quan. Tháng 10 năm 1953, Chánh Vụ Viện Trung Cộng đổi tên cổng Nam Quan thành “Mục Nam Quan” (chữ “Mục” có nghĩa là: hòa thuận, hòa hợp, thân mật, thân thiết…), đồng thời cả hai chính phủ Trung-Việt thành lập Ủy Ban Cửa Khẩu Mục Nam Quan. Cùng năm, thỏa thuận theo Chánh Vụ Viện Trung Cộng, Việt Nam mở cửa tự do cho hai cửa khẩu Bình Nhi – Nam Quan. Năm 1953 đã có 276.000 lượt qua lại cổng Nam Quan giữa hai bên.

    Hình G2. HCM bang giao với TC tại cổng Nam Quan trong những năm 1950
    -Tháng 2 năm 1954, hai bên chính phủ Hà Nội – Bắc Kinh soạn ra “Hiệp Định Mậu Dịch Biên Giới”. -Ngày 26.09.1954, Hồ Chí Minh dẫn đầu đoàn đại biểu CSVN xuất phát từ cổng Nam Quan tham dự hội nghị tại Nam Ninh. -Ngày 10.11.1954, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao VN là Phạm Văn Đồng đi từ cổng Nam Quansang Bằng Tường tiếp tục đi Bắc Kinh ra mắt Chu Ân Lai.

    Hình G3. Phạm Văn Đồng ra mắt Chu Ân Lai
    -Ngày 26.02.1955, khánh thành tuyến đường sắt Hà Nội-Trấn Nam Quan. Hồ Chí Minh đọc diễn văn chúc mừng tại cổng Nam Quan.

    Hình G4. HCM và CÂL yến tiệc xa hoa tại Bắc Kinh tháng 06/1955
    -Tháng 12.1958, hai huyện Ninh Minh, Long Tân kết hợp với Bằng Tường (Trấn Bằng Tường) thành lập huyện Mục Nam. -CSVN phản ứng! Ngày 27.04 đến 02.05.1959, TrungViệt hội nghị vấn đề biên giới tại Bằng Tường. Ngày 10.05.1959, chính phủ Trung Cộng quyết định xóa bỏ đơn vị “huyện Mục Nam”. Ninh Minh, Long Tân, Bằng Tường trở về đơn vị hành chính cũ. -Ngày 04.09.1959, Chu Ân Lai đáp máy bay đến Bằng Tường hội đàm cùng Hồ Chí Minh vấn đề biên giới Trung-Việt. -Năm 1960, Phạm Văn Đồng trồng cây si để làm mốc cho Km0 của Việt Nam.

    Hình G5. Cây si do PVĐ trồng (???)
    Cây si do PVĐ trồng (?) nhìn từ bên phía VN. Vị trí tương ứng với khoảng cách của tường thành cổng Nam Quan cũ bên VN)

    Hình G6. Cây si PVĐ nhìn từ bên cổng Hữu Nghị Quan của TC

    Hình G7. Cây si PVĐ nhìn từ trên lầu thành Hữu Nghị Quan.
    Cụm nhà trắng là Hải Quan TC xây lại trên nền “nhà tròn”. Xa thẳm bên kia là cột Km0 hiện tại.
    -Ngày 09.04.1961, Chu Ân Lai và Hồ Chí Minh “hội đàm” tại lầu 2 của cổ thành Mục Nam Quan. “Hội đàm” về nội dung gì thì cả hai bên đều không công bố. Chỉ biết rằng cuộc “hội đàm” mờ ám tại Mục Nam Quan của hai lãnh đạo cộng sản Trung-Việt được viết trong sách giáo khoa của bọn Trung Cộng là “mở ra một trang sử mới cho quan hệ Trung-Việt”.

    Hình G8. Lầu 2 tại Mục Nam Quan với nguyên trạng cuộc”hội đàm” giữa CÂL và HCM

    Hình G9. Bảng vàng ghi lại sự kiện
    -Ngày 05.03.1965, Quốc Vụ Viện Trung Cộng và chính phủ CSVN cử hành lễ đổi tên “Mục Nam Quan” thành “Hữu Nghị Quan”. Tham dự phía bên Việt Nam có Tổng lãnh sự VN trú tại Nam Ninh và đoàn chính phủ VN đến từ Lạng Sơn. Và kể từ sau đó, chính phủ CSVN đã dâng trọn Ải Nam Quan cho Trung Cộng để tiếp nhận viện trợ vũ khí tiến đánh miền Nam-Việt Nam Cộng Hòa.

    Hình G10. Hữu Nghị Quan năm 1965. Biểu ngữ của TC và hình Mao Trạch Đông phơi vào phần lãnh thổ VN

    Hình G11. So sánh với hình ảnh Mục Nam Quan năm 1959. Đoàn đại biểu CSTC lễ phép chụp ảnh tại cổng Nam Quan bên phía VN
    -Ngày 25.08.1978, khoảng trên 200 quân Việt Nam dùng vũ lực bắt buộc Hoa kiều phải hồi hương đi vào khu vực Hữu Nghị Quan. Lúc 17g30 cùng ngày, ngay trước cổng Hữu Nghị Quan, quân Việt Nam đánh chết 6 người, 82 người bị thương, 15 người chạy thoát. Công tác viên phía Trung Cộng lên tiếng cảnh cáo và xung đột đã xảy ra giữa hai bên cán bộ Trung-Việt. Ba ngày sau, quân Việt Nam tiếp tục tràn lên vùng biên giới tìm kiếm những Hoa kiều đang bỏ trốn… Chiến tranh biên giới TrungViệt bắt đầu từ đây, cuộc chiến mà Trung Cộng lấy cớ “tự hào” là “Tự Vệ Phản Kích”. Ải Nam Quan thêm một lần nữa chứng kiến xung đột Trung-Việt. Nhưng từ sau cuộc chiến này, Trung Cộng đã đẩy lui lãnh thổ Việt Nam ra khỏi Ải Nam Quan và bỗng xuất hiện cột mốc có tên gọi “Km0” thần thoại, nằm cách xa cổng Nam Quan hàng trăm thước.

    Hình G23. Phụ ảnh tham khảo “Cột Mốc Số 18″ giả mạo (?)
    Đây là “Cột Mốc Số 18″ mà TC cho rằng đã đặt tại cổng Nam Quan. Khác với “Cột Mốc Số 18″ theo Hiệp ước Pháp-Thanh (đã trình bầy nơi chương I)
    Trên cột mốc này khắc rằng: “BORNE.18 ANNAMCHINE, Đệ Thập Bát Bài, Đại Pháp Quốc Việt Nam, Đại Trung Hoa Dân Quốc Vân Nam”. Lịch sử nào ghi rằng Pháp thay mặt VN ký kết Hiệp ước Biên giới với chính quyền của Tưởng Giới Thạch? Loại cột mốc này là cùng kiểu với cột mốc số 53 tại khu vực Thác Bản Giốc. Những cột mốc thật sự của Hiệp ước Pháp-Thanh đã tiêu biến nơi đâu ? Không ai biết rõ hơn biên giới Trung-Việt bằng Đảng CSVN, nhưng họ có nói gì không về hiện tượng này? Lặng câm! Ta nên nhớ, trong đề cương của Đảng CSVN do HCM soạn ra vào năm 1940 đã chủ trương một cách mù quáng: “Không công nhận bất cứ văn kiện, hiệp ước nào của thực dân Pháp thay mặt VN ký kết với quốc gia khác!” Sự ra đời của “Km 0” cho đến nay vẫn rất khó hiểu. Theo “truyền thuyết”, “Km 0” ra đời vào năm 1960 và Phạm Văn Đồng đã trồng cây si để đánh dấu vị trí. Có thực sự là PVĐ trồng cây si để đánh dấu vị trí biên giới Trung-Việt hay không? Hay chỉ đơn thuần là việc trồng cây kỷ niệm một sự kiện nào đó? (thói màu mè của CSVN). Năm 1958, chính tay PVĐ đã ký văn bản dâng biển cho Trung Cộng, bản đồ Bắc Việt thì Đảng CSVN dâng cho Trung Cộng vẽ, trong thời điểm lệ thuộc sự viện trợ của Trung Cộng thì làm sao nói chuyện căng thẳng biên giới, lãnh hải được. Còn cây si là cây si nào? Cây si thuộc loại cây nhiệt đới có sức tăng trưởng và phát tán rất nhanh. Không thể nào cho rằng cây si mà PVĐ trồng là cây si đứng sau cột “Km0”. Hãy xem hình (so sánh với cây si trước cổng HNQ ở chương II).

    Hình G26. “Km0″ “Km0″ trong những năm đầu 2000, khi đang xây dựng lại cảnh quan “Hữu Nghị” và kế hoạch cao tốc NamHữu .
    Lúc này trên cột còn ghi “Hữu Nghị Quan” và cây si PVD còn đó.

    Hình G27. “Km0″ mất chữ Quan
    “Cây si PVĐ” bị đốn bỏ dã man vào năm 2005. Cột mốc cũng chỉ còn chữ “Hữu Nghị”.
    Đảng CSVN không dám nhận thêm chữ “Quan”. Xóa bỏ vĩnh viễn lịch sử để làm vừa lòng đàn anh TC!
    Màn ảnh mờ dần dần trong lúc giọng nói sang sảng của Thôi Phán Quan vang lên trong căn phòng xử im lặng. -Quí vị đã xem qua một số hình ảnh nói lên phần nào chủ trương bán nước của Hình Chí Mô và băng đảng cộng sản Việt Nam. Nhiều cuộc đi đêm, đàm phán, thương thảo bí mật đã diễn ra giữa bị can và giới cầm quyền Trung Cộng là khởi điểm cho những hiệp ước nhượng đất, nhượng biển, bán rừng, cho thuê quặng mỏ, cho mướn đất của các kẻ kế quyền về sau này…

  6. #45
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    - 29 -
    Đạo Đức Cách Mạng thứ sáu của bác:
    PHÁ HOẠI VĂN HÓA

    Đợi cho Hình Chí Mô làm thủ tục và an vị vào ghế bị can xong xuôi, Thôi Phán Quan mới thong thả cất giọng. -Tôi nghe ông cũng có viết văn và làm thơ? Hình Chí Mô mỉm cười chưa chịu trả lời câu hỏi rất giản dị của Thôi Phán Quan. Có lẽ ông ta sợ lọt vào bẫy. Thật lâu ông ta mới trả lời gọn. -Tôi cũng thích thơ văn nên có làm thơ và viết văn chút chút… Gật gù cười vị đại diện cho luật pháp âm phủ lên tiếng. -Ông có làm thơ vậy chắc ông biết hai câu thơ này:
    -Thằng trời đứng ra một bên
    Để cho thủy lợi tiến lên thay trời…

    Nghe Diêm Vương hừ tiếng nhỏ và thấy đôi mắt lóe hào quang, Đán với Bình biết ông ta giận dữ khi nghe hai câu thơ trên. -Thơ của ai vậy? Ông vua âm phủ hỏi gọn. Thôi Phán Quan lắc đầu cười. -Bẫm Diêm Vương… Thần nghe con nít hát nghêu ngao mà không biết tác giả cũng như nguồn gốc của hai câu thơ này… -Bẫm Diêm Vương con biết ạ… Đang ngồi ở dưới dãy bàn dành cho nhân chứng, Tố Bồi Bút vọt miệng thốt. Diêm Vương gật đầu cười. -Ừ… Thằng Lành là đại thi sĩ thời chắc nó biết ai làm hai câu thơ bất nhơn này… Ngươi lên đây nói cho mọi người nghe đi… Được lệnh của Diêm Vương, họ Tố hớn hở đi lên ngồi vào ghế nhân chứng. Vừa an tọa xong Tố thi sĩ nói liền. -Bẫm Diêm Vương… Số là sau khi gồm thu hai miền nam bắc lại thì với khí thế vươn cao đụng trời, vâng lời bác và đảng các đội thủy lợi ở nam bộ trương cao khẩu hiệu lên khắp nơi, khoe tài làm thủy lợi và kêu TRỜI bằng “ thằng ” bởi vậy tụi cán bộ ngốc nghếch mới rặn ra hai câu: “ Thằng trời đứng ra một bên.
    Để cho thủy lợi tiến lên thay trời ”…
    -Dương thế đúng là đại loạn rồi cho nên mới có đứa nào mất dạy kêu Trời bằng thằng. Ngươi biết ai làm hai câu thơ đó không để ta hỏi thăm sức khỏe của nó? Tố Bồi Bút lắc đầu cười gượng. -Bẫm Diêm Vương dạ con hổng biết đứa nào làm hai câu thơ đó nhưng mà con biết cái nguồn gốc sâu xa ở đâu mà có tiếng ” thằng ”… Số là “ Trong tiếng Việt của ta cách xưng hô thật phong phú. Vào Hỏa Lò tôi mới biết ở đây, hay nói cho đúng trong ngành công an, có lệ bất cứ ai bị bỏ tù đều là thằng hết, còn ai chưa bị bỏ tù, nhưng có thể bị bỏ tù, thì gọi tên không. Cách gọi thằng, con trong ngôn từ chính trị có cội nguồn của nó. Nó xuất hiện vào cuối cuộc kháng chiến chống Pháp. Chính ông Hồ Chí Minh dùng cách gọi này trong những cuộc nói chuyện với cán bộ và trong những bài viết trên báo Cứu Quốc: thằng Mỹ, thằng Pháp, thằng Xihanúc, thằng Lý Quang Diệu, thằng Măng-đét Phrăng. Theo gương ông, về sau người ta gọi kẻ thù nào cũng bằng thằng hết: thằng Bảo Đại, thằng Diệm, thằng Khánh, thằng Kỳ, thằng Thiệu”(Trích Đêm Giữa Ban NgàyVũ Thư Hiên); bởi vậy mà mấy thằng cán ngố mới dám gọi trời là thằng… Nghe Tố Bồi Bút nói xong Diêm Vương cười hực. -Như vậy các ngươi cũng gọi ta bằng thằng Diêm Vương hả? Xanh mặt họ Tố giẫy nẩy lên mếu máo thốt. -Dạ bẫm Diêm Vương… Con đâu có vô lễ như vậy… Con là người có ăn học mà đâu có thói quen mất dạy và hạ cấp đó… Vừa định xì nẹt tiếp song bắt gặp cái nháy mắt làm hiệu của Thôi Phán Quan nên Diêm Vương cố dằn cơn thịnh nộ. Bước tới đứng trước mặt bị can Hình Chí Mô, vị biện lý của âm phủ rắn giọng. -Kính thưa 9 vị bồi thẫm… Quí vị đã nghe tôi trình bày về hành động bán nước của bị can và các đồng chí của ông ta. Sau đây tôi xin trình bày thêm về một tội ác mà theo tôi nó là một đại tội của bị can đối với dân tộc Việt Nam. Đó là tội phá hủy văn hóa, tiêu diệt tín ngưỡng và phá hoại các di tích lịch sử và văn hóa. Tôi xin mời quí vị nghe qua bài viết sau đây có nhan đề: TẠI SAO GIẶC HỒ VÀ ĐỒNG ĐẢNG TRIỆT PHÁ CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ VÀ VĂN HÓA DÂN TỘC, để thấy được dã tâm thâm độc của bị can Hình Chí Mô và băng đảng cộng sản Việt Nam… Giặc Tầu đô hộ nước ta một ngàn năm không ai vong thân, không ai lẫn lộn căn cước. Giặc Pháp đô hộ Việt Nam một trăm năm, dân Việt Nam vẫn là Việt Nam. Giặc Hồ mang học thuyết Cộng Sản vào cai trị nước ta mới có 60 năm, dân bị lẫn lộn căn cước và vong thân. Xã hội Việt Nam từ khi lập quốc cho tới nay chưa có thời nào suy đốn như thời Hồ. Bài này trình bày sự kiện và nguyên nhân vì sao giặc Hồ và Đồng đảng thực thi âm mưu này và hậu quả của kế hoạch ấy đối với dân tộc. Đảng Cộng Sản VN xóa bỏ nền văn hóa truyền thống và hủy diệt các di tích lịch sử và văn hóa.
    1. Xóa bỏ văn hóa truyền thống. Người Cộng Sản chủ trương xây dựng nền văn hóa Mác-Xít Duy Vật để thay nền văn hóa duy tâm truyền thống của dân tộc Việt Nam được xây dựng gần 4.000 năm trên nền tảng: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín và đó cũng là nền tảng của mọi tôn giáo, Cộng Sản hủy diệt luôn tất cả mọi cảm nghiệm tâm linh man mác sâu thẳm trong con người Việt Nam. Học thuyết duy vật, mà Hồ Chí Minh mang vào Việt Nam, nhằm thay con người Việt Nam thành con người Xã Hội Chủ Nghĩa vô gia đình, vô luân, vô đạo, vong bản, vô trách nhiệm, chỉ biết hận thù giai cấp. Vì thế mọi giá trị, biểu tượng thiêng liêng của đạo đức, và trí tuệ tột đỉnh của dân tộc Việt Nam bị coi là đối tượng nguy hiểm, là kẻ thù số một, cần phải đào tận gốc trốc tận rễ. Vậy làm thế nào thực hiện nhiệm vụ kéo sụp đổ cả một vũ trụ tâm linh, tình cảm, tâm lý, ý thức dân tộc của con người cũ? Con người Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học duy vật, phải đánh vào mối quan hệ gia đình trước tiên: mối tương quan liên hệ giữa vợ chồng, giữa cha con, giữa người với người. Đánh vào cả “xác” lẫn “hồn”. Đánh vào những sợi dây vô hình kết hợp cái tinh anh của vũ trụ, của kiếp người, mà gia đình là “tế bào gốc” trở thành mục tiêu đầu tiên bị triệt hạ. Những tế bào hạt nhân họ hàng, gia tộc, làng xã Việt Nam là những thành lũy phòng thủ cuối cùng của nền văn hiến, văn hóa truyền thống chống lại văn hóa “duy vật” của đảng Cộng Sản . Đây là một đòn hết sức hiểm độc. Về phương diện nhân bản, gia đình là cái nôi nuôi dưỡng, nơi nương dựa an toàn êm ấm nhất. Nó là tổ ấm để an ủi con người. Với chính sách phá tan sự “liên lụy”… của sợi dây tình cảm gia đình, Đảng Cộng Sản VN, không cho phép các thành viên trong gia đình đùm bọc, thương yêu hoặc an ủi nhau lúc gặp hoạn nạn, khó khăn… Điều này được bộc lộ hết sức rõ rệt, trong các chiến dịch CCRĐ năm 1954-1956. Gia đình thân nhân được khuyến khích đấu tố công khai, lên án hành hạ, sỉ nhục nhau. Cứ điểm cuối cùng kết liễu tình thân ái vợ chồng, cha con, họ hàng, xóm làng là gia đình bị thanh tóan. Nhiều người vì thế đã tự tử. Hàng triệu triệu gia đình phải đối mặt với tai họa khủng khiếp nhất trong lịch sử loài người. Đảng Cộng Sản VN, đứng đầu là Hồ Chí Minh, theo chỉ đạo của cố vấn Trung Cộng, đã đánh những đòn trí mạng vào nền tảng đạo lý gia đình Việt Nam. Khi con tố cha, vợ tố chồng…, thì không có cách nào chuộc lại được sự phản bội của mình. Một vết thương không thể lành, nhiều người chết ôm hận xuống mồ! Còn những người bị quẳng vào các trại cải tạo khi có cơ may sống sót trở về quê hương, họ rất khổ sở… và không chấp nhận vợ con… Nhưng có điều họ không nhận ra thủ phạm chính đã gây ra thảm kịch này là những con quỷ sáng tạo ra học thuyết “Đấu tranh giai cấp”, và những con quỷ đã lãnh đạo, thực hành việc đấu tranh giai cấp. Ở miền Bắc Việt Nam, những kẻ ấy đã tự nhận là kẻ theo Chủ Nghĩa Xã Hội khoa học, chủ nghĩa duy vật khoa học và tự hào là đã làm “chủ quy luật khách quan, làm chủ thiên nhiên và làm chủ lịch sử” đứng ở “trên đỉnh cao trí tuệ v.v…” Nhưng họ lại hoàn toàn vô ý thức về cái nhân tính của chính họ. Họ đi làm cách mạng để thay đổi thế giới và cải tạo “loài người”. Nhưng họ lại vô ý thức vì cái muôn thuở, bẩm sinh của tình cảm tư hữu, tình cảm quốc gia, gia đình họ hàng. Nếu ba thành tố cơ bản này thiếu vắng một thì đó sẽ là một xã hội suy đồi băng hoại và quốc gia đó không bao giờ vươn lên thành một xã hội văn minh. Cộng Sản chủ trương xóa bỏ cả ba thành tố căn bản đó. Họ chỉ có thể kéo xã hội trở lại thời kỳ đồ đá! Cộng Sản chủ trương “giai cấp vô sản không có tổ quốc”. Họ muốn xóa bỏ ranh giới quốc gia, xóa bỏ văn hóa truyền thống, để chỉ còn một thứ văn hóa vô sản duy nhất. Việc đầu tiên người Cộng Sản thực hiện là xóa bỏ các đơn vị “gia đình”, là những vệ tinh tế bào trong cộng đồng dân tộc, tương tự như những hạt nhân xoay quanh các vòng tròn lớn nhỏ quy tụ gia đình, họ hàng, thân tộc, làng xã đến quốc gia. Muốn xóa bỏ ranh giới quốc gia trước tiên phải xóa bỏ đơn vị nhỏ nhất là “gia đình”. Ở Campuchia, sau chiến thắng của Khờ Me Đỏ năm 1975 dưới sự chỉ đạo và hướng dẫn của cố vấn Trung Quốc, Pol Pot đã vội vã thiết lập Chủ Nghĩa Xã Hội, một xã hội không có giai cấp. Không có cách biệt giữa thành thị và nông thôn, không còn giầu nghèo, không có tiền tệ và thương mại. Các gia đình bị “xóa bỏ”. Và thay vào đó bằng các đội lao động, gần giống như các hợp tác xã nông nghiệp cao cấp, hay nông trường tập thể ở miền Bắc thập niên 70-80. Tất cả đều phải làm việc ăn chung, mặc bộ quần áo đồng phục mầu xanh hoặc đen. Sau khi bị hủy diệt về tinh thần và thể xác đến năm 1978, một phần ba dân số đất chùa Tháp đã bị giết! Ở miền Bắc VN trong thời kỳ Cải Cách Ruộng Đất 1954-1956 cũng do cố vấn Trung Quốc chỉ đạo, Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng giết chóc tùy tiện bừa bãi, để tạo ra sự khiếp sợ tối đa trong dân chúng. Những người lãnh đạo đảng muốn loại bỏ hẳn ý thức hệ cũ (phong kiến). Giáo dục ý thức hệ Xã Hội Chủ Nghĩa để đào tạo con người mới. Hồ Chí Minh thường dạy các đảng viên: “muốn xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa trước hết phải có con người Xã Hội Chủ Nghĩa.” Chiến lược “trồng người” xuất phát từ đó. Trong một xã hội bình thường, mọi người tỏ sự quan tâm và tình cảm với nhau. Tôn kính, hiếu thảo với cha mẹ, thân thiện với người láng giềng như anh em ruột thịt của mình, và hòa đồng với làng xã. Nhưng chủ trương đấu tranh giai cấp của Đảng Cộng Sản VN khuyến khích sự hằn thù, phân chia xã hội thành nhiều loại người và luôn luôn khích lệ nhân dân giết hại lẫn nhau, và nó cố làm cho mọi người trở nên thờ ơ lãnh đạm với nhau, không ai yêu thương ai. Mặc Tử nói: “Kiêm tương ái, giao tương lợi”. Ông cho rằng sở dĩ xã hội đương thời đại loạn nguồn gốc của nó chính là ở chỗ quan hệ giữa con người với con người không yêu mến lẫn nhau! Thời kỳ Cải Cách Ruộng Đất nông dân miền Bắc không còn gì cả. “Ngay cả những quyền quyến luyến yêu thương cũng bị nghiêm cấm, con người sống trơ trọi không có bạn hữu, không có láng giềng, không có quyền cảm mến, quyền làm người bị chối bỏ, tài Sản không được thừa nhận dù chỉ là một túp lều, dù chỉ là một tấc đất, dù chỉ là một nấm mồ [1] ”. Chính sách giết người, đập phá đền miếu… đã trở thành phong trào thi đua của Đoàn thanh niên Hồ Chí Minh, giết chóc đập phá, đào mồ mả ông cha để bày tỏ lòng trung thành tuyệt đối với Bác Đảng. Các cháu ngoan “bác Hồ” hô những khẩu hiệu vang trời dậy đất: Hồ Chí Minh muôn năm. Mao chủ tịch muôn năm”, đả đảo địa chủ cường hào ác bá v.v…” và hát bài:
    Giết, giết nữa bàn tay – không phút nghỉ
    Cho ruộng đồng, lúa tốt – Thuế mau xong
    Cho đảng bền lâu cùng – Rập bước chung lòng
    Thờ Mao chủ tịch, thờ Stalin bất diệt…

    Thiếu nhi cháu ngoan bác Hồ xem cảnh chém giết là bình thường; các cháu trở nên quen với cảnh đổ máu. Một số lớn bắt đầu cảm thấy hứng thú. Thế hệ trẻ bị giáo dục theo tư tưởng vô thần của chủ nghĩa Cộng Sản không còn nể sợ điều gì. Bất luận một con người kia, sinh ra trong một gia đình nông dân thuần phác, hiền lành và hiếu thảo với cha mẹ đến đâu, hễ đã gia nhập vào đoàn thanh niên Hồ Chí Minh, liền biến thành một phần tử trong lực lượng phá hoại, ai càng trong trắng sẽ càng trở thành kẻ phá hoại mạnh. Đảng Cộng Sản VN, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, đã biến con người thành quái vật, bởi bản thân nó tàn bạo hơn bất kỳ một con quái vật nào. Đây là một sự thật, đang được chính các đảng viên phản tỉnh khui ra. Cộng Sản nguy hiểm, kinh khủng hơn bất cứ một thứ bệnh dịch nào mà vi trùng của nó len lỏi khắp các bộ phận cơ thể, gặm nhấm các tế bào, sản sinh độc tố khiến cho các tế bào chung quanh cũng lây nhiễm. Nó khuếch tán bao nhiêu chất độc hại, đầu độc xã hội. Mỗi thế hệ lại đắp lên một tầng về nhiều mặt ác độc, dối trá, lừa phỉnh khác nhau. Kết quả khiến xã hội Việt Nam ngày nay trở nên ô nhiễm, giá trị đạo đức văn hóa ngày càng bị xói mòn. Là một Phật tử, tôi thực lòng muốn xả bỏ quá khứ, vứt hết cho nhẹ, sống hòa hợp. Tổ tiên ta dạy: một điều nhịn, chín điều lành. Chữ HÒA trở thành cốt tủy của văn hóa và đời sống Việt. Nếp sống hòa hợp và bao dung ấy như sợi chỉ vàng rực rỡ xuyên suốt trong dòng lịch sử dân tộc ta. Con người Việt Nam lấy thiện làm gốc, tình nghĩa làm đầu, nên oán thì phải giải, thù thì lại càng cần phải quên. Nhưng không hiểu sao mỗi khi cầm bút viết, lại không sao quên được những thành tích khát máu của Đảng Cộng Sản hồi Cải Cách Ruộng Đất. Tôi mới lớn lên thấy ai cũng sợ hãi quá, trước sự tàn ác vô đạo trong giết chóc liên miên…, mạng sống của mọi người trong xã hội bị đe dọa thường trực, nên không ai dám có phản ứng gì, Đảng Cộng Sản và Hồ Chí Minh đã biến người thành sói, “con người Xã Hội Chủ Nghĩa” do Hồ Chí Minh đào luyện thậm chí còn dữ hơn cả sói. Vì sói chúng không ăn thịt con. Nhưng dưới sự cai trị của Đảng Cộng Sản, cha mẹ, vợ chồng tố cáo lẫn nhau là điều bình thường. Các chiến dịch trên quy mô lớn được thực hiện từ giết chóc ở nông thôn, giết chóc ở thành thị, từ truy lùng các phần tử phong kiến phản động… đến xóa bỏ các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, lịch sử, giáo dục. Chính sách của Đảng Cộng Sản thực hiện, gần bẩy thập niên đất nước bị tàn phá tan hoang ra trăm ngàn mảnh vụn như hiện nay, với bao nhiêu hệ quả tang thương không sao kể xiết, mà hậu quả hàng đầu là làm liệt kháng sức sống dân tộc trước họa xâm lăng của Trung Quốc. Nguy hiểm hơn nữa ban lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam theo lệnh của Bắc Kinh đã biến lực lượng công an thành công cụ của Trung Quốc, chúng đàn áp bắt bớ những chiến sĩ yêu nước. Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với đồng bào, chúng là loại người “ân đoạn nghĩa tận”.
    2. Hủy diệt di tích văn hóa lịch sử. Triệt phá các công trình văn hóa, đập phá đình chùa, miếu mạo và các văn chỉ, được thực hiện trong một kế hoạch quy mô có tính toán trên cả nước, gồm cả mở những chiến dịch đào mồ mả tổ tiên trong đó có nhiều vị anh hùng dân tộc. Tới thời kỳ “mở cửa” trong bài ký sự “Tiếng kêu cứu một vùng văn hóa”, Ông Võ Văn Trực một đảng viên kỳ cựu, đã mô tả nỗi kinh hãi, đau xé ruột gan khi thấy những di tích văn hóa như đình chùa miếu mạo, các nhà thờ họ ở khắp quê ông bị đập phá, cùng với những chiến dịch đào bới mồ mả tổ tiên, do đám thanh niên mới lớn lên trong thời kỳ Cải Cách Ruộng Đất, vào thời kỳ chúng sửa soạn bước vào thế giới thù nghịch, ngay chính đối với ông cha mình! Về việc phá hoại các đình chùa, một chuyên gia Ba Lan đã phát biểu: “Hiếm có một đất nước như Việt Nam, làng nào cũng có đình chùa, miếu mạo, là một mặt biểu hiện của nền văn hiến dân tộc. Lạ thay, Nền văn hiến ấy đang bị hủy hoại [2] .” Cũng là Cộng Sản, nhưng người Cộng Sản Ba Lan không u tối cuồng tín như Hồ Chí Minh và đám lãnh đạo Đảng Cộng Sản VN. Sự đập phá ấy diễn ra từ trong lòng thủ đô Hà Nội, nơi Hồ Chí Minh và những người lãnh đạo Đảng đang sống. Nó lan ra toàn quốc. Ở Nghệ An, thời kỳ “cởi trói” cho văn nghệ sĩ năm 1987, một cán bộ văn hóa của tỉnh nói mỉa mai rằng: “Về cơ bản, tỉnh nhà đã phá xong những di tích lịch sử [3] ”. Đó là lời nói của một cán bộ Cộng Sản làm công tác văn hóa. Trước năm 1945 ở Miền Bắc, làng nào cũng có đình chùa, miếu mạo. Sau 1945, dù trải qua chiến tranh, hàng vạn ngôi chùa với di sản vô giá, nhiều pho tượng hay đồ Phật sự được lưu truyền từ thời nhà Lý, nhà Trần, nhà Lê và Nguyễn vẫn còn nguyên vẹn. Trong thời gian Cải Cách Ruộng Đất, đình chùa, miếu mạo và các cổ vật ấy bị phá sạch vì đó là tàn dư của phong kiến. Chim có tổ, người có tông. Hồ Chí Minh và bè đảng đã phá sạch những di tích lịch sử được tạo dựng lên hàng ngàn năm, phá sạch sẽ những đình, chùa, miếu mạo, biểu tượng của nền văn hóa dân tộc. Hủy diệt truyền thống đạo lý, nhân nghĩa, làm biến dạng những khuôn mặt phúc hậu chốn đồng quê. Đồng quê Việt Nam là cơ sở bền vững để bảo tồn sức sống và văn minh dân tộc mà bao thế hệ đã đổ xương máu, mồ hôi để vun đắp. Bao nhiêu tầng cao văn hóa được xếp lên với chiều cao bốn ngàn năm lịch sử đầy kiêu hãnh bỗng đổ vỡ tan tành! Hèn hạ hơn cả là việc lén lút giấu mặt để bè đảng đào mồ, phá đền thờ các vị vua, những cuộc tấn công đầu tiên nhắm vào các vị anh hùng dân tộc, nổi tiếng như vua Trần Nhân Tông, Lê Đại Hành, Hai Bà Trưng v.v… Để hiểu rõ nhiều khía cạnh và góc độ của việc thẩm định những vấn đề lịch sử, được khách quan hơn, chúng ta phải đọc các tập sách và nghiên cứu văn học trong thập niên 60 ở miền Bắc. Trước hết là chúng ta nghe những buổi nói chuyện với giáo sư Nguyễn Huệ Chi trên đài RFI tháng 7/2005, với bà Thụy Khê được ghi lại trên “thế kỷ XXI” tháng 9/2005. Giáo sư Nguyễn Huệ Chi nguyên là Chủ Tịch Hội Đồng Khoa Học của Viện trong bẩy năm, nguyên là Trưởng Ban Văn Học cổ cận đại của viện trong gần 30 năm ở Hà Nội chắc những bài viết và ý kiến của giáo sư này mang một ý nghĩa trung thực và công tâm đối với lịch sử. Dưới đây tôi xin trích dẫn một số câu hỏi của bà Thụy Khuê và trả lời của giáo sư Nguyễn Huệ Chi về vấn đề phá hoại các di tích lịch sử. “Thụy Khuê: Việc đốt phá sách, dường như đi đôi với việc phá phách các di tích lịch sử và anh cũng đã từng chứng kiến nhiều lần. Vậy có thể nói, chúng ta rút ra được những kinh nghiệm gì về những vụ tàn phá di sản văn hóa này? Nguyễn Huệ Chi: “Trong mấy chục năm đi điền dã để làm bộ Thơ Văn Lý – Trần, chúng tôi đã thấy không biết bao nhiêu di tích bị tàn phá một cách vô tội vạ, mà cái người chủ trương tàn phá, phải nói, hoặc là, biểu hiện của một thứ cực đoan không thể chấp nhận được nữa; hoặc nữa là, có một sự thù hằn gì ghê gớm đối với lịch sử, hay cũng có thể là hách dịch đối với lịch sử, cho nên họ đã đập phá tàn bạo. Chẳng hạn như di tích nơi vua Trần Nhân Tông tịch ở Am Ngọc Vân phía Tây núi Yên Tử, một ông Vua anh hùng khoáng đạt như thế có tội tình gì để họ phá cho tan tành? Hay vì đã không “cực quyền” như họ? Lại chẳng hạn như việc phá đình phá chùa trong chủ trương “hộ tụ” năm 1948 đã làm mất bao nhiêu di tích văn hóa quý giá từ lâu đời ở Nghệ Tĩnh, ấy thế mà việc đó lại được lập lại với quy mô rộng rãi ở hầu khắp miền Bắc trong những năm 60 thế kỷ XX. Tôi còn nhớ là vào ngày 9/5/1966, tôi đến thăm cụ Lê Thước, một học giả nổi tiếng ở Chợ Hôm thì gặp lúc nghệ sĩ nhiếp ảnh Nguyễn Bá Khoản cũng đến và ông ấy đã trình bày với cụ việc một ngôi đền thờ nữ tướng của Hai Bà Trưng ở Mai Động tức Hà Nội ngày nay, bây giờ là trong “nội thành” đã bị cán bộ chỉ đạo đem hoành phi câu đối và cỗ kiệu ra làm bàn ghế và xe phân cho hợp tác xã. Ông Nguyễn Bá Khoản đã chụp trộm được mấy tấm ảnh và suýt nữa thì bị dân quân tự vệ bắt và tịch thu máy nhiếp ảnh. Khi ông ấy đã chạy thoát rồi vẫn còn nghe văng vẳng ông Bí thư đảng ủy: “Hãy bắt gông nó lại, tội vạ gì tôi chịu”. Ông Khoản kể lại với tất cả cái thảng thốt và bất bình của mình. [4] Ở đây ta thấy giáo sư Nguyễn Huệ Chi, tuy không chỉ đích danh người chủ trương đó và thù hằn lịch sử ghê gớm đối với lịch sử đó là ai? Nhưng ai cũng biết rõ đó là Hồ Chí Minh. Đọc tới đây tôi lại chợt nhớ tới chuyện đào mồ tổ tiên trong bài ký sự “Tiếng kêu cứu của một vùng văn hóa” của Võ Văn Trực, thời mở cửa đã miêu tả như sau: “Ba năm sau một đoàn thanh niên khác lại được huy động để đào kỳ được hài cốt của Võ Tướng Hùng Lê Bá. Do lòng kiên nhẫn, lần này họ đã tìm được. Mấy bô lão ôm hài cốt, nước mắt chảy ròng ròng, rồi kéo nhau lên gặp ông chủ nhiệm hợp tác xã xin một ít tiền mua tiểu sành đựng hài cốt. Ông Chủ Nhiệm trừng mắt nói như đinh đóng cột: Mộ vua chúa, mộ thượng thư cũng đập thành đất, mộ ông tướng của các cụ đã ra cái gì? [5] Được đào luyện trong lò “trồng người” của Hồ Chí Minh – tên Bí Thư Đảng Ủy ở Hà Nội và tên cán bộ chủ nhiệm hợp tác xã ở Nghệ An giống nhau như đúc. Trong một bài khác trên trang WEB http://www.talawas.org GS Nguyễn Huệ Chi kêu gọi rằng: “Việc xây dựng chiếc cầu nối giữa văn hóa truyền thống với thế hệ hôm nay là điều hết sức cần kíp.” G.S nói rằng các di tích cổ VN đã bị đối xử tệ hại: “… Tại sao đi thăm viếng di tích của các nước, thấy người ta chăm chú, trân trọng từng hiện vật rất nhỏ, rồi trở về nhìn lại cung cách tu bổ chăm nom di tích của nước mình thì lại có tâm trạng xấu hổ đến chán ngán? Hầu như khắp đất nước, đâu đâu cũng tôn tạo lại đình, chùa, miếu mạo mà một thời đã từng bị đập phá tan nát, nhưng than ôi tôn tạo theo cái kiểu bôi xanh bôi đỏ lòe loẹt, chữ Hán viết đã xấu lại sai, bẩn và cứ đến đình miếu nào cũng chỉ thấy rặt một vài câu sáo rỗng (…) (dùng tiền LHQ, UNESCO để vụ lợi)” [6] …. Ở một đoạn khác GS viết: “Trèo lên Ngọa Vân Am ở phía tây hòn Yên Tử, ở độ cao khoảng 1.000 mét, nơi người anh hùng kia lãnh đạo cả nước chống giặc Nguyên cũng là vị Tổ Của Nền Phật Giáo Thống Nhất đời Trần: dòng Thiền Trúc Lâm – Trần Nhân Tông – an tịch, người ta thấy choáng váng đến sững sờ: ngôi Tháp Phật Hoàng tức tháp Vua Trần Nhân Tông cao sừng sững, bị đào rỗng ruột, đứng vật vờ trước gió, bài vị bằng một tấm đá đen và một tấm đá bán nguyệt rất lớn khắc mấy chữ “Phật Hoàng Tháp” thật đẹp trong niên hiệu Minh Mạng (1839) bị đập thành nhiều mảnh. Một tấm bia cao lớn đề năm 1689 do chúa Trịnh Căn cho khắc để ghi nhớ việc ông dẫn các con vương tử và quận chúa, trèo lên đây chiêm bái người anh hùng, cũng bị đập thành năm bẩy mảnh.

  7. #46
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Bên cạnh đó, ở một ngọn núi khác có động Hồ Thiên nằm ở độ cao khoảng 800 mét, cũng là nơi Trần Nhân Tông tu Phật. Có nhiều ngôi tháp rất đẹp phía dưới bằng đá xanh phía trên bằng đá đỏ gắn khít với nhau không hề thấy dấu vết vôi vữa, đều bị phạt ngang hết cả. Một ngôi thạch thất được kiến tạo bằng những tấm đá xẻ mỏng rất to lớn nguyên phiến không chắp. Kể cả hai mái cũng bằng đá, cũng bị đào rỗng phía dưới và đập vỡ mất một bên vách, mà ở trong còn đựng một tấm bia chạm khắc tinh xảo vào thế kỷ XVIII (tấm bia sẽ đổ bất cứ lúc nào).”
    Xem đoạn văn trên ta thấy các vua chúa sau Trần Nhân Tông, đều đến Ngọa Vân khắc bia và chiêm bái người anh hùng dân tộc. Đến cả người phương Bắc cựu thù địch thủ, không thể không kính phục và nể trọng những con người như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo. Chỉ Hồ Chí Minh và đồng đảng lại phỉ báng tiền nhân, lên án tiền nhân là phong kiến… Là người dân Việt Nam ai cũng biết chiến công đáng ca ngợi nhất, vinh quang nhất và khó khăn nhất là cuộc chiến giữa quân dân nhà Trần và giặc Nguyên. Và đây còn là một cuộc chiến vô ngã… Cái hùng khí và tính bất khuất không chỉ có một vài người mà tất cả toàn dân: đã đem máu, nước mắt, mồ hôi, trí huệ nhiệm mầu để thay thế cho thành quách và gươm đao để ngăn ngừa vó ngựa Thành Cát Tư Hãn, mạnh như những cơn gió lốc đã cuốn đi hàng trăm những thành trì kiên cố khắp thế giới… Ngăn lại mà không hủy diệt, phóng thích 6 vạn quân Mông Cổ, đại xá cho tất cả những kẻ phản bội, ngăn lại mà vẫn nở những nụ cười nhân ái với kẻ cựu thù địch thủ. Đau khổ mà không nuôi dưỡng oán thù. Phẫn nộ nhưng vẫn chính trực và không độc ác. Kiên cường mà vẫn nhân từ. Ngày nay nhìn lại những trận đánh cách đây trên bẩy trăm năm, ai yêu nước thương nòi không khỏi kính trọng ông cha mình. Thế mà bọn Hồ Chí Minh đã cho đồng đảng đập phá mộ phần và đền thờ các vị anh hùng dân tộc. Và nay thì sao? Đến đây xin dừng lại để bạn đọc xem tiếp bài viết của GS Nguyễn Huệ Chi về hiện trạng. “Không thể không nhắc lại rằng từ hơn 50 năm lại đây, văn hóa truyền thống đã trải qua một “đại nạn”. Vì nghĩ rằng là những tàn tích phong kiến, chúng ta đã công nhiên lên án chúng, thẳng tay “đàn áp”, “xử tội” chúng; đã để cho bao nhiêu đình chùa, bia mộ, sách vở quý giá ở khắp mọi vùng bị đốt phá, hoặc mất mát hư hỏng mà không một chút động tâm, như nhiều thế hệ đã tận mắt nhìn thấy” … Tuy nhiên, một chi tiết cho thấy tấm lòng trong sáng của các sử gia và khảo cổ Việt Nam khi ra sức gìn giữ di tích. Đặc biệt, các vị đã cứu được ngôi chùa Diên Hựu khỏi bị phá sập để xây lăng Hồ, như tiết lộ sau: “Nhân nói về Hồ Chí Minh, tôi nhớ lại có nhiều lần đưa khách nước ngoài đi thăm một số di tích ở Hà Nội, nhưng cứ hễ đến ngắm cảnh quan chùa Một Cột hiện nay là ai cũng ngao ngán lắc đầu. Bảo tàng Hồ Chí Minh đã choán hết không gian của cụm chùa Diên Hựu và chùa Một Cột, đến nỗi mới nhìn tưởng đâu như cụm di tích này là một thứ công trình phụ, nép vào bảo tàng, hoặc được mọc lên từ một đáy giếng … (…)” Sau khi tìm địa điểm làm bảo tàng Hồ Chí Minh người ta không thèm hỏi gì giới chuyên môn, để cho một di tích vào loại cổ nhất Thăng Long và là một biểu tượng của Thăng Long ngàn năm văn vật, nên nhớ là vào năm 1954 khi người Pháp rút khỏi nơi đây có kẻ nào đó muốn phá biểu tượng kia đi đã manh tâm giật sập chùa Một Cột. ( Kẻ nào manh tâm giáo sư không vạch mặt chỉ tên, nhưng ai cũng biết là Hồ Chí Minh): phải lâm vào tình trạng bị “cớm” một cách tệ hại mà khách nước ngoài cũng phải thấy là bất nhẫn? Chẳng lẽ với cơ chế này trí thức chẳng một ai có cơ hội bộc lộ chính kiến thật của mình hay sao? Hay người ta có hỏi mà không ai dám trả lời? Không giải đáp nổi thắc mắc cho mình, tôi bèn cất công đi tìm, thì hỡi ôi, lại còn biết thêm một sự thật bàng hoàng hơn! Khi xây bảo tàng, thấy chùa Diên Hựu đứng đó làm vướng víu công trình tưởng niệm Bác. Một chức sắc cao cấp trong ngành xây dựng chịu trách nhiệm thi công đã ngấm ngầm lệnh cho thợ xây phun nước liên tục vào chùa cho nó sập quách đi, may mà về sau có người – GS Trần Quốc Vượng – tìm mọi cách “rỉ tai” nên trước nguy cơ ngàn cân treo sợi tóc, ngôi chùa vẫn còn giữ được “cái mạng” già lão. Nghe rồi bần thần mất một lúc, lại liên tưởng đến bọn Taliban đã phá hại tượng Phật khổng lồ ở Afghanistan hóa ra mọi cái đầu độc tôn giáo bản chất đều giống nhau, chỉ khác về tầm mức… Trên đây là một phần bài viết của GS Nguyễn Huệ Chi. Còn nhiều bài viết về vấn đề triệt phá các di tích lịch sử. Không thể nêu hết. Thời “mở cửa” báo Văn Nghệ năm 1990 có bài phóng sự, ký sự của tác giả Xuân Ba “Huyện hai vua ở Thọ Xuân xứ Thanh góp cho triều Tiền Lê một Lê Hoàn và Hậu Lê là Lê Lợi khởi đầu cho 30 vị vua sau này.” Lê Hoàn và Lê Lợi đều là những vị anh hùng dân tộc. Nhưng đền thờ các vị vua đó đã bị tàn phá và biến thành trại chăn nuôi. Bài phóng sự khá dài chỉ xin dẫn ra đây một đoạn: “Làng Trung Lập sinh ra Lê Hoàn, chẵn ngàn năm rồi mà tên làng vẫn không thay đổi từ thời Đinh! Phong thủy hiểm yếu đắc địa như thế nào chẳng biết nhưng Trung Lập như một cái gò lớn được bồi tích bởi phù sa của sông Cầu Chày trước có tên là Trùy Chày Giang và sông Chu (xưa có tên là Lương Giang). Đợt khảo cổ năm 1985 đã tìm thấy ở Trung Lập trống đồng, bình thạp, mũi tên giáo mác bằng đồng có niên đại cách đây 2500 năm. Cách đây 3000 năm đã có người Việt cổ sinh sống ở bãi bồi hai con sông lớn này như bây giờ dân Trung Lập cư trú vậy! Năm Ất Tý 1005 vua Lê Đại Hành mất. Làng Trung Lập chỉ có một ngôi miếu nhỏ ngay trên túp lều ngày trước mẹ con Lê Hoàn từng sống. Đầu thời Lý, vua Lý Thái Tổ cho xây dựng đền thờ theo hình chữ công. Lạ nữa, qua từng ấy năm, những tao loạn trận mạc lẫn sức tàn phá của thời gian mà ngôi đền thiêng liêng này vẫn được giữ gìn cho đến ngày nay! Hiềm nỗi cũng cách đây chả lâu mấy, ngôi đền thiêng gồm nhà tiền đường năm gian, trung đường ba gian, hậu cung năm gian mà dân Trung Lập quen gọi là Nghè bị coi là tàn dư của đế quốc phong kiến một thời gian dài hết thành trại chăn nuôi rồi nhà kho. Đồ thờ tự trong nội cung bị thất tán bị phá khá nhiều. Nhưng may gần đây đã được tôn tạo bổ sung nên vẫn giữ được vẻ nghiêm ngắn khang trang như bây giờ. Đây là công trình kiến trúc cổ độc đáo vào loại bậc nhất còn lại ở đất Thọ Xuân. Hậu thế rồi phải biết ơn những người có tên lẫn vô danh ở làng Trung Lập đã từng cất giữ những hiện vật tỷ như chiếc đĩa đá, dân còn gọi là đĩa Ngọc do vua Tống Thái Tông là Triệu Khuông Nghĩa tặng vua Lê Đại Hành năm Canh Dần (990). Đĩa đường kính 47,5 cm giờ vẫn rõ nét hai hàng chữ Giang Nam nhất phiến tuyết, Tác Khí vạn niên trân (Giang Nam có phiến đá sắc trắng tựa tuyết làm thành vật quý vạn năm). Dưới dòng lạc khoản đã mờ là chiếc chĩnh chiện quốc ấn của vua Tống. Rồi còn những đạo sắc phong nữa chứ! Trong âm thanh chói gắt trống kẻng của khí thế hừng hực truy lùng tàn dư phong kiến vào những năm khó khăn ấy, những ai đó đã đủ tỉnh trí lẫn lanh khôn đút vội chúng vào đòn tay ống luồn rải rác ở một số nhà. Thất thoát bao nhiêu chả biết nhưng bây giờ giữa điều may mắn có 14 đạo sắc phong của các triều đại. Cổ nhất là triều vua Lê Gia Tông (năm Giáp Dần 1674(?)). Mới nhất là Đồng Khánh nhị niên (1888). Rồi còn chiếc chậu men lam thời Hậu Lê kia, một báu vật thờ cúng của đền may sao không đem đi muối cà hay đựng mắm hoặc rơi vào tay bọn bất lương chuyên săn lùng đồ cổ! (…)” Về vua Lê Đại Hành, Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi: “Lê Đại Hành giết Đinh Điền, bắt Nguyễn Bặt đánh Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân, Quân xâm lược nhà Tống dễ như lùa trẻ con, như sai nô lệ, chưa đầy vài năm mà bờ cõi đã yên tĩnh. Cái công đánh dẹp ấy tuy nhà Hán, nhà Đường cũng không hơn được.” Những người anh hùng có công lớn với Tổ quốc Lê Đại Hành, đã bị Hồ Chí Minh và đồng đảng Cộng Sản của y “truy lùng gắt gao” tác giả bài ký sự mô tả bọn Cộng Sản “khí thế hừng hực” chắc trong lòng dạ bọn chúng phải căm giận ông cha ta lắm, bọn chúng rất xa lạ với tiền nhân. Trong cái thời khắc nghiệt gắt gao đó nhân dân đã phải bỏ cả ngày kỷ niệm các vị anh hùng dân tộc. Thời trước, vào những năm chẵn, dịp mồng tám tháng ba âm lịch đúng ngày mất của Lê Hoàn (vua Lê Đại Hành) có lễ ở đền rất trọng gọi là Quốc Lễ: “Nếu không có quan ở triều đình về trực tiếp lễ tế, thì quan đầu tỉnh phải làm phận sự ấy”.
    o O o
    Truyền thống thờ cha kính mẹ đã được chuyển hóa từ mỗi gia đình Việt Nam ra đến ngoài quốc gia xã hội, đều là nền móng cơ bản của các mối dinh dưỡng, hỗ tương trong đời sống xã hội, từ thế hệ này qua thế hệ khác trong xã hội Việt Nam. Đây là một sợi dây vô hình đã liên kết và thống nhất được tất cả các sinh mệnh, tính mệnh của văn hóa, văn hiến trong suốt 4000 năm lịch sử. Cuộc sống Đạo lý và văn hóa nẩy sinh ra những chồi non và cứ thế nối tiếp. Tinh thần ấy đã tỏ lộ rất rõ ràng khi toàn thể quốc dân Việt Nam tưởng đến những cổ nhân của mình, mà tất cả các triều đại, cùng con dân thời đại nào cũng bảo vệ và trùng tu những Tông Miếu, Xã Tắc để thờ kính Trời Đất, Tổ Tiên, Tiền Nhân và các vị anh hùng liệt nữ có công dựng nước và giữ nước. Nên họ đã trở về với đời sống vĩnh hằng trường cửu, bất sinh, bất diệt để làm thành HỒN THIÊNG NÚI SÔNG cho muôn ngàn thế hệ con cháu Tôn Kính và thờ lạy trong Tông Miếu. Chỉ bọn vô đạo Hồ Chí Minh không chấp nhận. Như GS Nguyễn Huệ Chi nói: “Chúng có một sự thù hằn gì ghê gớm đối với lịch sử”. Chúng thù hằn cả những người đã sinh ra chúng. Hồ Chí Minh bôn ba hải ngoại, đến lúc về nước tranh đấu, khi công thành danh toại làm Chủ Tịch Đảng, Chủ Tịch nước, Ông Phó Bảng Nguyễn Sinh Huy không có một nén hương trên mộ, cũng không có lễ cúng cha mẹ mình. Ông làm gương cho toàn đảng, toàn dân nên chỉ có cúng Mác Lênin, thờ Stalin, thờ Mao Trạch Đông. Còn ông cha tiền nhân bị lên án là phong kiến, nên đã cho bọn lâu la phá sạch! Trong khi người Việt Nam coi Tổ Quốc là Đất Mẹ, từ trên 4000 năm qua vẫn thờ Mẹ như bóng dáng của những gì khả kính nhất, nhân từ nhất, nhẫn nhục nhất, thánh thiện nhất, bao dung nhất và tinh thần ấy đã tỏ lộ rất rõ ràng khi toàn thể quốc dân Việt Nam, từ thời vua Hùng đến nay đều gọi quê hương là Đất Mẹ với tất cả lòng tôn kính và yêu thương nồng nàn. Chỉ có Hồ Chí Minh và đồng đảng của y là không thừa nhận. Nên nhớ rằng mãi đến năm 2000 quốc hội Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa mới nhìn nhận Tổ Hùng Vương. Bởi xuất phát từ triết học vô thần, lại được những kẻ lãnh đạo u mê cuồng tín thực hiện thì tai họa khó lường. Đối với nhân dân, chúng chỉ dựa vào các cực hình sắt đá là bắt hàng loạt, giết hàng loạt với mục đích làm cho dân chúng ở trong nước hoảng sợ. Khổng Tử nói: “Ái dân trị quốc năng vô vị hồ” nghĩa là yêu dân cai trị mới không thể không theo lẽ tự nhiên ư? Thuận theo tự nhiên thì không có hành động xấu xa tàn ác. Các vị vua ta coi ý dân là ý trời. Chính vì thế mà các ngài chủ trương văn trị dân chủ hiến định, các ngài không làm theo ý riêng của các ngài. Người ta thường nghe nói: “Thế thiên hành đạo” là trong ý nghĩa đó, còn loại vua hạ đẳng như Hồ Chí Minh là loại người chuyên dùng thủ đoạn dối trá làm cho nhân dân ngu muội, lấy ngụy trá để lừa đảo nhân dân. Đã gọi là chính quyền thì phải “chính khí vương quyền và chính quyền là bất chính thì gọi là tiếm quyền, tà quyền, bạo quyền Cộng Sản .” Các tư tưởng trị quốc của vua ta, đều lấy “ngay thẳng” làm cơ sở, lấy “chính” để an dân, lấy chân tình để sống với người, lấy đạo đức để cảm hóa người. Còn Hồ Chí Minh “lấy tà ngụy” làm cơ sở trị quốc. Chúng không tin vào Trời Phật, trong khi các tôn giáo truyền thống tin vào thần thánh, đạo Phật tin vào luân hồi và quy luật nhân quả, trái lại triết học Cộng Sản hoàn toàn phủ nhận thần thánh. Đảng Cộng Sản chỉ tin vào thuyết vô thần, nên tất cả chủ trương đường lối của họ hoàn toàn đi ngược lại và mâu thuẫn với văn hóa Việt Nam. Đảng Cộng Sản Việt Nam phủ nhận dân tộc, “giai cấp vô sản không có tổ quốc” . Văn hóa truyền thống đề cao sự thương yêu đùm bọc đồng bào trong khi Cộng Sản chủ trương đấu tranh giai cấp, xui đồng bào giết lẫn nhau như thú vật. Trong khi tinh thần dân tộc và văn hóa truyền thống đề cao lòng tốt, từ bi, bác ái, dung hòa, hòa đồng giữa đời sống nội tại và thiên nhiên, hòa đồng giữa gia đình, xã hội và đồng loại, dung hòa, bác ái.
    Bầu ơi thương lấy bí cùng
    Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn

    hay:
    Anh em bốn bể đều là nhà
    Đó là mối giao cảm sâu sắc giữa người và người, đó là thứ hương hoa của nhân bản và văn minh hóa viết thành chữ. Ôi! Mầu nhiệm thay, trong cái rừng ca dao, tục ngữ kia lẫn lộn vào đó bao nhiêu là thánh thư suốt chiều dài lịch sử, cũng như về khả năng dung hòa văn hiến, văn hóa trước những thử thách cam go ghê gớm của lịch sử thăng trầm ngàn năm. Đến hôm nay Đảng Cộng Sản còn muốn bức tử và chà đạp lên sinh mệnh văn hiến, văn hóa dân tộc ta. Thông thường ai cũng hiểu rằng sự phát triển của nền văn hóa làm ra lịch sử của nền văn minh của một đất nước. Sự phá hủy hoàn toàn văn hóa dân tộc sẽ dẫn tới sự diệt vong của dân tộc đó, thí dụ những dân tộc cổ xưa có nền văn minh cao như Andes ở Nam Mỹ và nền văn minh của người Maya và Aztec ở Trung Mỹ, những dân tộc sáng tạo ra nền văn minh huy hoàng đó bị coi như đã biến mất, khi văn hóa của họ bị hủy diệt. Ở Việt Nam sau khi đảng Cộng Sản đã phá phách các di tích văn hóa, các di tích lịch sử bằng các chiến dịch truy lùng tàn dư phong kiến kéo dài nhiều thập niên. Nó lại lừa dối nhân dân và cộng đồng quốc tế là nó “kế thừa và phát huy văn hóa truyền thống và phát triển lên một mức cao hơn, sâu sắc hơn toàn diện hơn ở thời đại mới.” Nòi giống Tiên Rồng đã xây dựng sự nghiệp gian nan trên oan khiên nghiệt ngã: đã từng thất bại và uống những chén đắng không thể nuốt nổi (một ngàn năm giặc Tầu đô hộ). Dân tộc này biểu lộ trọn vẹn cái dũng khí, thần khí, chí khí, hùng khí…, và đã vác những gánh nặng tưởng như không thể vác nổi trên đôi vai (ba lần chống quân Nguyên) để sản sinh ra những con người như Bà Trưng, bà Triệu, Lê đại Hành, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ v.v… Nhưng con người da vàng, gan sắt, đã chịu đựng những cơn giông bão triền miên để chứng minh về nguồn gốc Tiền Nhân của mình. Những vị anh hùng ấy, hôm nay bị Hồ Chí Minh và đồng đảng, đào mồ, phá đền thờ. Tội bọn chúng không thể tha thứ! Nhưng đời sống thiên thu của những con người đã sáng tạo ra lịch sử dựng nước còn đó. Sự sống thiêng liêng mầu nhiệm của họ luôn luôn tác động ngấm ngầm suốt dòng lịch sử để giúp cho dân tộc này tiến hóa và trường tồn. Qua sự việc nhiều sử gia, khảo cổ gia Việt Nam đã tìm mọi cách để cứu được ngôi chùa Diên Hựu ở Hà Nội khỏi bị bọn Cộng Sản đập phá, đến việc những người dân làng Trung Lập, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa. “Trong âm thanh chói gắt trống kẻng của khí thế hừng hực truy lùng tàn dư phong kiến vào những năm khó khăn ấy đã cất giấu được các bảo vật vô giá” chứng tỏ rằng con cháu Lạc Hồng không ai nhạt lòng với Tiền Nhân. Chỉ có Hồ Chí Minh và đồng đảng là những kẻ vong ân bội nghĩa. Lương tri của mỗi người chúng ta vốn có từ trước khi chúng ta sinh ra và sẽ tồn tại đến thiên thu vĩnh cửu nếu chúng ta biết bảo vệ duy trì và phát huy nó, thì nó sẽ tương ứng đồng điệu hay đồng thanh tương ứng với một chân lý, Chân Thiện Mỹ, mà cái lương tri của người nông dân thôn Trung Lập là một thứ Ngọc Quý trong những hòn đá sần sùi, xấu xí. Đó là những tinh báu vô tì vết. Ai hằng quan tâm đến lịch sử cũng biết từ khi Hồ Chí Minh và đồng đảng của y cướp được chính quyền, chúng đã tận dụng mọi thời cơ vào việc triệt phá nền văn hóa truyền thống Việt Nam. Ác ý này, tuyệt đối không phải là vì cán bộ “cấp dưới làm sai”. Chính sách của Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản VN, như bọn chúng thường tuyên truyền để bao che tội ác trong bao nhiêu thập niên qua, mà nó xuất phát từ sự “đối nghịch” về ý thức hệ giữa chủ nghĩa Cộng Sản với văn hóa truyền thống của dân tộc. Chính vì thế việc phá hoại văn hóa và các di tích lịch sử đã được lập kế hoạch có tổ chức kỹ lưỡng, có tính toán, có hệ thống được chỉ đạo từ Bộ Chính Trị. Bây giờ họ lại âm mưu biến tên đồ tể sát nhân trở thành vị bồ tát được đem vào trong chùa thờ. Ở đây không phải chuyện “vứt dao đồ tể để thành Phật” mà là một chuyện phỉ báng lịch sử, bôi nhọ Phật Giáo. Biến nơi thờ phụng trang nghiêm thanh tịnh trở thành ô uế! Nên hiểu rõ rằng, không có một tấc đất nào của Tổ Quốc dành cho kẻ phản bội lại dân tộc. Lịch sử nhân loại cũng không hề có một đất nước nào thờ kẻ sát nhân. Đây là một xúc phạm nặng nề nhất đối với cả dân tộc Việt Nam. Thiết tưởng ở đây cũng cần nói qua về tình trạng văn học miền Bắc dưới thời Hồ. Cách mạng tháng 8, kế đó việc đưa đẩy sự thường trực của bạo lực chuyên chế… Sự đeo đẳng căng thẳng cùng sự nhọc nhằn của đời sống lý lịch, tem phiếu… Sự thâm nhập của chính trị được đẩy bằng bạo lực trở lên ngày càng khủng khiếp, thêm vào đó là sự biến cải tâm lý xã hội và sự xuống dốc của đạo đức từ các chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất … Đứng trước những thù nghịch của đấu tranh giai cấp quyết liệt, hăm hở ấy, nhà văn chỉ còn rắp nữa là chờ dịp may, có cơ hội… “Thế rồi. Một ảnh hưởng quốc tế do bài diễn văn của Krushev đọc tại Đại hội Ðảng Cộng Sản Liên Xô lần thứ 20, hạ bệ thần tượng Stalin gây nên. Nguyên nhân đã cho phép phong trào Nhân Văn khai hỏa thái độ đối kháng với chế độ. Hai là ảnh hưởng trực tiếp của chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất mà giới trí thức miền Bắc lúc bấy giờ gọi là một cuộc “ám sát tập thể! Phải nhận rằng sự định hướng này cũng là kết quả của nhiều yếu tố khác dồn dập mang lại do một hoàn cảnh bùng vỡ về chính trị, mà cụ Phan Khôi có thể được coi như người chủ xướng phong trào Nhân Văn. Trường hợp của cụ đáng được chú ý nhất là vì ngay trong thời kỳ ở vùng kháng chiến, cùng sống chung với người Cộng Sản, cụ thấy rõ tim đen của họ. Ngay trong Đại hội văn nghệ ở khu vực Bắc 1951, cụ đã tỏ thái độ bất bình, khi thời cơ đến đã mạnh mẽ khai triển tư tưởng chống cộng, một cách khác thường. Nói chung văn nghệ sĩ họ đã tổ chức tấn công, phòng thủ chủ động,chống chủ nghĩa Cộng Sản bằng chính vũ khí của Mác Lenin. Trường hợp GS Trần Đức Thảo chẳng hạn. Ta có thể thấy đủ các hình thức phản kháng, bằng lý luận, bằng nghệ thuật. Sự độc đáo là sự trốn núp trong thơ, trong truyện và ta cũng nên thông cảm những điều rất khó đối với những người trong cuộc. Nhưng phải thừa nhận rằng họ biết diễn giải với một nghệ thuật tuyệt diệu… Một sự sáng suốt, thận trọng, một sự suy cứu vững vàng, mà đành lòng chấp nhận những giới hạn. Vì những kẻ cầm mã tấu đứng bên cạnh họ…Văn học hơn bao giờ hết trở thành chứng liệu, những công việc sáng tác với họ vẫn là điều bí mật kéo dài. Truyện “Cái Bình Vôi” của Lê Đạt, “Thằng người máy” của Trần Dung v.v… giải thích những bí hiểm ấy. Tờ Đất Mới của sinh viên bị cấm chỉ sau một số đầu tiên. Tuy nhiên nó vẫn còn để lại một cái gì chưa đi đến kết thúc… Tôi hy vọng ở thế hệ sinh viên ngày nay sẽ kết thúc. “Tờ Đất Mới đã gây chấn động cho thế hệ 60. Nó được lôi cuốn bởi thế hệ đàn anh. Ở thời kỳ ấy những nhà văn, nhà thơ có tài như Trần Dần, Phùng Quán, Minh Hoàng, Nguyễn Tuân, Văn Cao… không hiếm, nhưng sau này hoàn toàn bị tê liệt vì những hà khắc do ý thức hệ và bộ máy mật vụ. Nhưng ở phương diện khác, ta cũng phải nhận rằng nó hãy còn chưa cho phép nảy nở những tác phẩm lớn có tầm cỡ quốc tế, ngoại trừ trong lĩnh vực truyện ngắn, tiểu thuyết thì còn đang ở trong giai đoạn thai nghén đã bị bóp chết. Nhà văn đương đầu một cách trực tiếp với vấn đề chính trị, xã hội của thời đại. Trong bối cảnh của lịch sử về phương diện này, tâm lý của nhà văn liên quan đến hoàn cảnh của con người sống trong xã hội đó, bao giờ họ cũng nắm vai trò chủ động, những ước vọng về sự cải tạo xã hội, mà luôn luôn văn học nắm bắt được, trong mối liên hệ giữa nhà văn với thế giới giữa con người và lịch sử. Bằng sự dấn thân, hoặc khước từ dấn thân trong cuộc sống. Bằng hành trang sống với người Cộng Sản trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, với di sản quá lớn, quá đớn đau trước mặt là cuộc Cải Cách Ruộng Đất. Lòng khao khát rửa thù cho những oan hồn còn nặng nề hơn cả mối thù thực dân, họ tiếp xúc thẳng với những “cái thực độc ác”. Đó là những chứng liệu hết sức ác liệt, tàn bạo, vô luân. Một mạch nguồn rộng lớn liên đới đến nỗi thống khổ của người dân miền Bắc. Thương tích trong thân xác và tâm hồn bị dìm trong sắt máu, mê muội, cuồng tín tràn trề, một tình trạng phi dân tộc, phi văn hóa. Có lẽ những tác phẩm lớn cỡ đó đã bị tuột khỏi tầm tay thế hệ trước. Sau sự vùng dậy can đảm thể hiện lần đầu tiên vào mùa Xuân 1956 trong không khí bốc cháy, xác nhận một cách tàn nhẫn, lẩy bẩy vì phẫn nộ bởi máu thịt đồng bào trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất, rồi đến lượt họ, phần lớn vào trại cải tạo, phần thì bị kềm kẹp không lối thoát. Văn học chấm dứt! Văn học sau này bị thu vào một chuỗi độc điệu gồm toàn tác phẩm truyền giáo tư tưởng Mao Trạch Đông, Mác-Lê với những khuôn mặt nghèo nàn, tối tăm cũ kỹ. Sự yếu kém của văn học miền Bắc không lạ gì với ai. Kể cả giới phê bình, họ mất khả năng diễn đạt “độc lập” dù là những nhà phê bình có tài năng đích thực thì cũng phải diễn tả bằng những công thức tương tự, và đồng giá trị, để giữ được “Sổ lương thực”, mà cái nòng cốt của bản chất nghệ thuật nguyên thủy là sự đa dạng, thì làm sao có thể theo công thức? Sự thực cái gọi là “khuynh hướng hiện thực Xã Hội Chủ Nghĩa” nhuộm mầu sắc, Mác Lênin này thâm nhập vào mọi địa hạt văn học lộ rõ tính chất phi dân tộc. Ngay cả lớp trẻ sau này nhiều người cũng không thoát khỏi tâm trạng ấy! Âu cũng là một cái luật chung cho giới cầm bút nhất là những thập niên thời Hồ. Văn học toàn là thứ cầu nguyện Bác Đảng đến thời Nguyễn Văn Linh “mở”, “đóng”, “trói”, “cởi”, hoặc khép kín trong giáo điều lý luận Mác Lê. Nguồn gốc sinh ra không biết bao nhiêu là thứ quái thai dị dạng! Tôi nghĩ đã đến lúc nhà văn phải thoát khỏi mọi ràng buộc của nghi lễ chế độ nhất thời, tự giải thoát để đi vào hiện thực. Không ai ban phát tự do dân chủ cho các anh. Nếu các anh không tự mình giành giật lấy, chẳng bao giờ có cả. Chúng ta không nên hy vọng vào sự tự tỉnh ngộ của những người lãnh đạo Đảng Cộng Sản. Kỳ vọng vào sự tỉnh ngộ của họ chẳng khác nào mong chó sói đừng ăn thịt. Đó là chuyện nằm mơ giữa ban ngày. Chúng ta chỉ có thể sửa đổi chế độ chính trị bằng cách áp lực quần chúng buộc họ phải từ bỏ chế độ độc tài, độc đảng, rằng không phải ban lãnh đạo Đảng Cộng Sản VN sẽ thay đổi thời cuộc, mà nhân dân Việt Nam sẽ thay đổi. Con đường trước mặt mà chúng ta phải dẫn đầu trong cuộc xuống đường tràn vào Ba Đình, ngoài con đường đó chẳng còn con đường nào khác. Thông điệp mà tác giả muốn gởi đến mọi người Việt Nam. Thông qua cuốn sách này trước hết là các chiến sĩ dân chủ, thanh niên, sinh viên. Những người đầu tiên đã xuống đường chống Trung Quốc chiếm Hòang Sa, Trường Sa. Ngày 14 tháng 9 năm 2008 trước Sứ quán Trung Quốc, 46 Hoàng Diệu – Hà Nội. Hành động của anh chị em hôm nay sẽ là những bước đi vĩ đại trong vận mệnh dân tộc ngày mai. Công lý, sự thật sẽ trở thành sức mạnh đạp đổ sợ hãi, tiêu diệt cường quyền và áp bức. Chiếu sáng niềm tin đến mọi con đường, và mọi nơi chốn. Tất cả đồng lòng, đồng thanh, đồng hành động cùng toàn thể đồng bào. Tổ quốc kêu gọi sự thức tỉnh của từng cá nhân chúng ta, nếu mọi người đều hiểu rõ giá trị của quyền làm người, thấy được rõ bộ mặt thật của những nhân vật lãnh đạo Đảng Cộng Sản VN. Cho dù là mới hay cũ, cũng chỉ là một thứ “dối trá”, phản bội đồng bào, phản bội tổ quốc và xa lạ với cội nguồn.
    Hãy đứng dậy! Hỡi anh chị em!
    Đây là mệnh lệnh lương tâm của chúng ta.
    Nếu chúng ta muốn trở thành người chân chính.
    Hãy hành động chân thật và ngay thẳng.

    Tiền nhân ta từ những người phụ nữ, như bà Trưng Trắc, Trưng Nhị, bà Triệu là đàn bà đến Lê Đại Hành, Ngô Quyền, Lý Thái Tổ, Lý Nhân Tông, Lý Thường Kiệt, Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ… những bậc anh hùng đã chiến đấu để bảo tồn giống nòi, xứ sở, làm nên những trang sử vẻ vang cho dân tộc Việt Nam, mà chất liệu của bản trường ca anh hùng ấy không phải là những bậc thánh siêu phàm. Có khi họ xuất phát từ những người nông dân hiền lành, làm ruộng, chất phác, nhân hậu. Nhưng không biết sống cuộc đời nô lệ, không biết khuất phục, không khiếp nhược và đã tự mình làm ra số phận của mình bằng thái độ đấu tranh không nản lòng với các thế lực xâm lăng phương Bắc. Đó là hình tượng những người đi tiền phong cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Tiền nhân ta đã phải trải lắm gian truân nguy hiểm suốt chiều dài lịch sử mấy ngàn năm, đã chiến thắng những gian truân nguy hiểm ấy, để bảo tồn non sông gấm vóc và xây dựng cuộc đời hạnh phúc phong phú có trí tuệ. Hãy ngẩng cao đầu, hãnh diện về tiền nhân của mình.
    Trân trọng. Trần Nhu. Thôi Phán Quan ngừng đọc. Gian phòng xử im lặng thật lâu. Lát sau vị đại diện cho luật pháp của âm hắng giọng. -Kính thưa bồi thẫm đoàn. Mấy ngày nay 9 vị đã nghe, thấy tôi trình bày về tội ác của bị can Hình Chí Mô. Đại diện cho dân tộc Việt Nam đòi hỏi công lý, tôi hi vọng rằng quí vị sẽ đưa ra một hình phạt tương xứng với tội ác mà bị can Hình Chí Mô đã làm. Xin cám ơn quí vị… Đán bước tới thì thầm với Diêm Vương những gì không ai nghe được, chỉ thấy ông vua âm phủ gật đầu cười tỏ vẻ hài lòng xong tuyên bố ngày mai bồi thẫm đoàn sẽ đưa ra hình phạt cho bốn bị can la Võ Khôi Nguyên, Ba Duân, Sáu Búa và Hình Chí Mô. Thiên hạ lục tục ra về. Họ vừa đi vừa bàn ra tán vào cố đoán xem bồi thẫm đoàn sẽ có hình phạt gì.

  8. #47
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,756
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    - 30 –
    Gian phòng xử không còn một chỗ trống nào. Người tham dự phải đứng ngoài hành lang và ngoài sân nữa. Tất cả đều nôn nóng chờ nghe bồi thẫm đoàn tuyên bố hình phạt dành cho bốn bị can cuối cùng là Võ Khôi Nguyên, Ba Duân, Sáu Búa và Hình Chí Mô. 9 giờ. Mọi người đứng lên chào đón Diêm Vương khi ông ta xuất hiện. Ra lệnh cho mọi người an tọa, ông vua của âm phủ gõ búa ba tiếng báo hiệu phiên xử bắt đầu. Nhân danh chủ tịch bồi thẫm đoàn, Đán đứng lên tuyên bố: -Kính thưa Diêm Vương… Kính thưa Thôi Phán Quan… Kính thưa quí vị khán thính giả tham dự phiên tòa cũng như toàn thể dân chúng Việt Nam trong nước và ngoài nước… Sau khi bàn thảo với nhau, 9 vị bồi thẫm chúng tôi đã tìm ra hình phạt dành cho bốn bị can Võ Khôi Nguyên, Ba Duân, Sáu Búa và Hình Chí Mô. Đầu tiên tôi kính mời bồi thẫm Quá đứng lên tuyên bố cho mọi người biết hình phạt dành cho Võ Khôi Nguyên… Phòng xử im lặng như tờ. Mọi người chăm chú nhìn bồi thẫm Quá. -Kính thưa quí vị. Đảng cộng sản Việt Nam là một tai họa lớn cho đất nước và dân tộc Việt Nam. Do đó bị can Võ Khôi Nguyên cũng có tội với đất nước. Xét rằng, Võ Khôi Nguyên làm đến chức đại tướng mà vô dũng vô mưu để thân bại danh liệt, lại thêm vô tình vô nghĩa với anh em, thấy đồng chí bị hoạn nạn mà không cứu giúp. Lúc còn sống ông ta là tướng nên tôi sẽ cho ông ta làm ông tướng trên bàn cờ… -Tôi chịu ý kiến này anh Chín… -Chắc tôi phải học đánh cờ tướng để rượt Võ đại tướng… Ai ai cũng đều im lặng khi thấy bồi thẫm Trung và Vui đứng lên cùng một lúc. Họ đồng tuyên bố cho Ba Duân và Sáu Búa đầu thai lên dương thế thành hai con dê cụ bị thiến. Diêm Vương truyền lệnh cho lục sự ghi vào hồ sơ của hai bị can. Mấy ngàn người như nín thở khi thấy bồi thẫm Bình đứng dậy. Họ biết ông ta sẽ có hình phạt cho bị can cuối cùng là Hình Chí Mô. -Kính thưa Diêm Vương… Kính thưa quí đồng bào… Tôi nghĩ thật là khó khăn để có một hình phạt tương xứng với tội ác mà bị can Hình Chí Mô đã làm. Thể theo đức hiếu sanh của trời đất thêm giáo lý từ bi của Phật và luân lý của tổ tiên, tôi đề nghị với Diêm Vương cho Hình Chí Mô đầu thai làm một người Việt Nam… -Cha này cộng sản thứ thiệt rồi anh Chín ơi… -Trời ơi… Ông nói gì kỳ vậy ông… -Ông này bị đút lót rồi… -Chắc ổng bị tụi nó rỉ tai… -Ông có nói lộn thì nói lại đi ông ơi… Thiên hạ la rầm lên phản đối ý kiến của bồi thẫm Bình khiến cho Diêm Vương phải gõ búa lia lịa để cho mọi người im lặng. Chính Diêm Vương và Thôi Phán Quan cũng tỏ vẻ không bằng lòng về hình phạt của bồi thẫm Bình. Tuy nhiên cả hai không có lời nào phản đối vì tôn trọng phán quyết của bồi thẫm đoàn. -Hổng được đâu… Ông cho hắn làm người Việt Nam rồi mai mốt hắn lên làm sếp lớn nữa thì chết mẹ dân Việt… -Cho hắn làm cái gì khác đi ông ơi… Thiên hạ cứ la rầm lên phản đối mặc dù Diêm Vương gõ búa mấy lần. Bỗng lúc đó có tiếng khóc hù hụ cùng với giọng nói vang lên. -Bẫm Diêm Vương… Ngài làm ơn làm phước cho con làm dân xứ khác đi… Thì ra người khóc chính là Hình Chí Mô. Ngạc nhiên khi nghe bị can van xin, Diêm Vương cau mày thốt. -Ngươi nói chi lạ. Ngươi tội lỗi lút đầu mà bồi thẫm đoàn thương tình cho ngươi làm dân Việt Nam thì tại sao lại xin làm dân xứ khác. Đâu ngươi nói lý do tại sao ngươi không muốn làm dân Việt Nam cho ta nghe đi. Nếu nghe lọt lỗ tai thì ta sẽ xét lại… Hình Chí Mô mếu máo lên tiếng. -Bẫm Diêm Vương… Ngài ở dưới âm phủ nên hổng có biết chứ làm dân Việt Nam khổ lắm. Khổ đủ điều. Khổ trăm chiều. Đói triền miên. Con già cả ốm yếu như vầy thì làm sao sống nổi. Lạng quạng còn bị công an đạp vào mặt. Con thì thích nói về tự do độc lập, nhân quyền, dân chủ mà làm dân thì tụi nó đâu có cho con nói… Nếu ngài muốn cho con làm dân Việt Nam thì ngài cho con làm chủ tịch nước, chủ tịch đảng kiêm tổng bí thư… Diêm Vương lắc đầu. -Đâu có được… Ngươi tội lỗi lút đầu thì ta đâu có cho ngươi làm cha thiên hạ được. Cho ngươi làm dân Việt là quá lắm rồi. Mấy đồng chí của ngươi đều thành con này con nọ chứa đâu có được làm người như ngươi… -Dạ bẫm Diêm Vương… Như vậy con xin ngài cho con làm con chó ở xứ Mỹ đi… Trợn mắt nhìn Hình Chí Mô giây lát, Diêm Vương phán một câu. -Ngươi đừng có giỡn mặt ta khó làm việc… -Bẫm Diêm Vương… Dạ con hổng có dám giỡn mặt với ngài đâu. Để con giải bày cho ngài và bồi thẫm đoàn nghe. Hồi xửa hồi xưa lúc còn làm cách mạng con đã làm chó săn cho Liên Xô, cho Tàu, cho thực dân Pháp và cho đế quốc Mỹ rồi nên con biết làm con chó Mỹ còn sướng hơn làm dân Việt Nam dưới chế độ cộng sản. Chó Mỹ có cơm ăn ngày ba bữa, mà thức ăn lại hợp vệ sinh thêm đủ tiêu chuẩn dinh dưỡng; trong khi dân nước Việt Nam con phải ăn cơm độn khoai, thịt thì chỉ có xương, tôm thì chỉ có đầu vì thịt để dành xuất khẩu. Con chó Mỹ còn được nhiều quyền tự do hơn dân ở xứ Việt Nam… -Chó mà cũng có tự do… Ngươi nói chi lạ… -Bẫm Diêm Vương… Trong thời gian ở âm phủ con đã đọc sách báo Mỹ nên biết rõ về tụi tư bản Mỹ lắm. Ở Mỹ có Hội Bảo Vệ Nhân Quyền đã đành mà còn có Hội Bảo Vệ Chó, Hội Bảo Vệ Súc Vật, Hội Bảo Vệ Chó Quyền nữa. Chó Mỹ muốn sủa là tự do sủa, trong khi dân con muốn tự do nói mà nhà nước đâu có cho nói. Ra trước tòa, dân con muốn nói mà công an bịt miệng đâu cho nói… Ở Mỹ, người nào mà đánh đập, hành hạ, bỏ đói chó mèo là sẽ bị đưa ra tòa và lãnh án tù. Trong khi ở xứ của con, nhà nước tha hồ bỏ đói dân, mạ lỵ dân, tra tấn, hành hạ dân mà đâu có bị trừng phạt. Ngay cả Hội Bảo Vệ Dân còn chưa có huống hồ gì hội bảo vệ chó. Chó của Mỹ, được ăn ngon, được ngồi chễm chệ trên ghế nệm xem truyền hình. Chó của Mỹ được mặc quần áo đẹp trong khi con nít ở Việt Nam vì cha mẹ bị bóc lột nên trần truồng quanh năm suốt tháng. Chó của Mỹ được ngồi xe hơi dạo mát buổi chiều. Bịnh thì có sẵn bác sĩ và bệnh viện đầy đủ thuốc men và dụng cụ để chữa bịnh, còn dân con hể bịnh thì chỉ có nằm chờ chết mà thôi. Nói tóm lại dưới sự cai trị của đảng và nhà nước thì thân phận của người dân Việt Nam còn tệ hơn, còn thua con chó của Mỹ. Bởi vậy nếu Diêm Vương và bồi thẫm đoàn có thương con thì cho con làm con chó Mỹ để đỡ khổ cái thân già côi cút của con… Nghe Hình Chí Mô nói tới đó, Ba Duân vội vọt miệng. -Bác nói nghe ngon quá vậy con cũng xin với Diêm Vương cho con làm con dê của Mỹ đi… Diêm Vương xì tiếng dài. -Đâu có được… Ta nghe đồn ngươi ghét Mỹ lắm mà sao bây giờ lại xin làm con dê Mỹ… -Bẫm Diêm Vương… Theo lời bác con nói thì ở bên Mỹ người ta cưng súc vật lắm. Nếu con được đầu thai thành con dê Mỹ thì con tha hồ dê mà hổng có ai dám làm gì con hết… -Con nữa… Con cũng xin làm con dê xòm của Mỹ để tha hồ dê… Tới phiên Sáu Búa lên tiếng. Phạm Văng Vàng cũng hùa vào. -Con nữa… Bẫm Diêm Vương con xin được đầu thai làm con sâu đo Mỹ… Con nghe nói tư bản Mỹ có kỹ thuật đo đạc tối tân, đo bằng tia sáng la-se… Xứ con nghèo, lạc hậu đo bằng chân tay mệt lắm… Cái gì của Mỹ cũng hay cũng đẹp hết. Bác bảo với con như thế… Bác bảo trăng của Mỹ cũng tròn cũng đẹp hơn trăng của Trung Quốc. Đồng hồ Mỹ cũng đẹp hơn đồng hồ Trung Quốc… -Bẫm Diêm Vương… Tiền Mỹ cũng thơm hơn tiền của Trung Quốc nữa… Diêm Vương cười lắc đầu khi nghe cựu tổng bí thư Liêu Khả Phê phụ họa. Không biết nghĩ sao mà Diêm Vương nói với Hình Chí Mô và các đồng chí của ông ta. -Chuyện các ngươi xin làm chó, dê và sâu bọ của Mỹ thì với ta không có rắc rối gì. Tuy nhiên đây là thẩm quyền của bồi thẫm đoàn. Vậy để ta bàn bạc với Thôi Phán Quan và 9 vị bồi thẫm rồi sau đó sẽ quyết định… Nói xong Diêm Vương cùng với bối thẫm đoàn và Thôi Phán Quan vào họp kín. Trong lúc ngồi chờ, thiên hạ bàn ra tán vào một cách sôi nổi và hào hứng để đoán xem kết qua của buổi họp kín giữa Diêm Vương, Thôi Phán Quan và 9 vị bồi thẫm. Tới lúc thấy Diêm Vương xuất hiện, họ mới im lặng chờ nghe. -Sau khi bàn luận với Thôi Phán Quan cũng như với 9 vị bồi thẫm ta có quyết định như sau. Xét rằng bị can Hình Chí Mô đã gây ra nhiều đau thương và thống khổ cho đất nước và dân tộc. Xét rằng âm phủ tôn trọng tự do và dân chủ, do đó với sự gợi ý của Thôi Phán Quan và sự chấp thuận của bồi thẫm đoàn, nhân danh âm phủ ta sẽ mở ra cuộc trưng cầu dân ý để cho toàn dân Việt Nam quyết định số phận của bị can Hình Chí Mô. Chuyện cho Hình Chí Mô làm người Việt Nam hay làm chó Mỹ tùy thuộc vào ý muốn của dân tộc Việt Nam… Dứt lời Diêm Vương tuyên bố phiên tòa dưới âm phủ chấm dứt.

    2-2012

Trang 5 / 5 ĐầuĐầu ... 345

Chủ Đề Tương Tự

  1. Âm Mưu Ngày Tận Thế
    By giavui in forum Truyện Dài Audio
    Trả Lời: 1
    Bài Viết Cuối: 03-16-2016, 12:54 PM
  2. Thẩm phán rút súng trong phiên tòa
    By duyanh in forum Tin Tức Quốc Tế
    Trả Lời: 1
    Bài Viết Cuối: 02-28-2012, 02:40 PM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-07-2012, 12:16 PM
  4. Âm 38,1 độ C, châu Âu rối loạn
    By duyanh in forum Tin Tức Quốc Tế
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-05-2012, 12:45 PM
  5. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-02-2012, 12:18 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •