Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Tình yêu chân thật không phân biệt giai cấp tuổi tác, địa vị danh vọng... Nó sang bằng tất cả. Nó là vị thần của tình cảm.
Lope De Vegas
Trang 5 / 6 ĐầuĐầu ... 3456 Cuối Cuối
Results 41 to 50 of 54

Chủ Đề: Hắc Bạch Hương Hồ Ký

  1. #40
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 14

    Tạng Tăng Nhất Xuất Nhân Gian Tiếu
    Tú Sĩ Đăng Đàn Khiếp Võ Lâm.
    Khoảng giữa tháng mười, quần hùng tràn ngập thành Đăng phong, chở tham dự đại hội võ lâm. Chẳng một ai than phiền vì phái chờ đợi cả tháng trời.
    Cổ Quí Sinh đã mở cửa bảy tòa trang viện trong thành Lạc Dương, mời họ vào trú ngụ và bao luôn ngày ba bữa cơm ngon lành. Sáng mười một, mười hai họ mới rời những tổ ấm ấy để đi Đăng Phong, Cách Lạc Dương trăm dặm. Dĩ nhiên, quần hào hết lời ca ngợi tính hào phóng của Hí Nhân Cư Sĩ.
    Nhưng Cổ Quí Sinh lại chẳng hề có mặt ở Lạc Dương mà túc trực tại thành Đăng Phong từ hồi đầu tháng mười.
    Họ Cổ đã thuyết phục được hội đồng võ lâm rằng lão thanh y bịt mặt kia là đại họa của võ lâm, cần phải bị tiêu diệt bằng mọi cách, kể cả hoả dược.
    Và chắc chắn rằng lão quỷ ấy có liên quan với Kỳ Lân Bang đúng như lời của Giả Đan Quỳnh đã tiết lộ. Có thể lão ta sẽ để lộ chân diện mục thượng đài tranh chức Minh Chủ, hoặc hóa thân dưới lai lịch khác. Dẫu cho không phải hai điều ấy thì sự tồn tại của một Huyền Băng Thần Quân thứ hai, sau lưng Kỳ Lân Bang, cũng vô cùng tai hại cho võ lâm Trung Nguyên.
    Hí Nhân Cư Sĩ, tức Tây Môn Giới được sự ủng hộ của Trương Thiên Sư, Hắc Bì Cái và Hạo Dương Chân Quân nên ba vị còn lại cũng phải xuôi theo.
    Lần này, Tây Môn Giới cho khoét sâu ba lỗ tròn, đường kính nửa sải tay trên mảnh đất dưới gầm lôi đài. Lão thả xuống mỗi lỗ một chiếc thùng bằng đồng rất dầy, miệng thùng ngửa lên, trong chứa ba mươi cân thuốc nổ.
    Nhờ có những chiếc thùng bằng đồng ấy mà sức công phá sẽ tập trung vào đúng vị trí, không hề gây hại cho Ban giám đài lẫn khán giả.
    Tây Môn Giới đã thừa hưởng của Cổ Quí Sinh quyển Hỏa Dược Thần Kinh nên giờ đây rất lành nghề.
    Hố chôn hỏa dược được lấp từ đầu tháng nên đến rằm thì mặt cỏ bên trên đã xanh trở lại, chẳng ai có thể phát hiện ra. Tây Môn Giới đã mua cả toà khách sạn bốn tầng ớ thành Đăng Phong để làm mới trú ẩn cho mình và cả thủ hạ.
    Tầng trên cùng dành riêng cho người nhà, hai tầng giữa là phòng trọ còn tầng trệt là quán ăn kiêm tửu điếm.
    Tây Môn Giới còn nuôi hy vọng mơ hồ rằng biết đâu kẻ thù tình cờ dẫn xác đến trọ trong Đăng phong Đệ nhất khách điếm, lúc đó hung thủ giết Tư Đồ Sảng sẽ được nếm chất độc tuyệt thế của Bát Tý Độc Vương.
    Không phải Tây Môn Giới chỉ căm ghét mình lão áo xanh, mà cả Kỳ Lân Bang lẫn Hải Hoa Bang nữa. Ông thề sẽ tiêu diệt họ bằng bất cứ thủ đoạn nào.
    Sau Đại hội võ lâm, Tây Môn Giới sẽ đưa lực lượng xuống Hồ Nam để sống mái với Kỳ Lân Bang, rồi đến Hải Hoa Bang. Hạo Thiên Cung thì đã im hơi lặng tiếng sau cái chết của Cung chủ Lãng Song Tường.
    Bẩy gã Thất Tinh Hình Sứ và một số kiếm thủ nhà Tư Đồ đã trở thành tiểu nhị trong khách điếm, có nhiệm vụ chính là phát hiện lai lịch người vào trọ hoặc ăn uống.
    Tây Môn Giới, Mạc Chiêu Hương, Huyết Báo và Trại Tôn Tử thì ru rú trên tầng chót, uống rượu, đánh cờ hoặc xót thương người đã khuất.
    Mạc Chiêu Giương đã bình tâm trở lại với ý nghĩ rằng mình phải sống để báo thù chồng. Nàng chăm chỉ đọc quyển Bát Tý Độc Kinh, cố học cho được nghệ thuật giết người vô ảnh. Xế chiều ngày mười hai, Tây Môn Lục, gã thứ sáu trong Thất Tinh Hình Sứ hộc tốc chạy lên, mặt mày tái mét, run giọng báo cáo:
    - Bẩm lão gia! Có một lão đeo kiếm đến mướn phòng trọ khai tên là Tề Thanh Tuyệt, sau mươi ba tuổi, quê quán huyện Thanh Oai, phủ Hứa Xương.
    Gã leo một mạch lên tầng bốn bốn nên khát khô cả cổ, vòi chụp lấy rượu trên bàn nốc cạn rồi nói tiếp:
    - Bẩm lão gia! Dung mạo của lão họ Tề ấy giống hệt Thiếu chủ, thân hình lão cũng cao lớn, tráng kiện!
    Cả nhà giật bắn mình vì một viễn ảnh mơ hồ nào đấy! Tây Môn Giới nóng nẩy hỏi:
    - Ngươi thứ nói rõ ta xem nào! Có dấu hiệu gì của sự hóa trang hay không?
    Tây Môn Lục gãi đầu đáp:
    - Bẩm lão gia, Tề Thanh Tuyệt tóc bạc như mây xoã dài dài chứ không búi, râu quai nón bó cằm cũng trắng phau. Da mặt, da cổ, da tay dều nhăn và trổ đồi mồi rất tự nhiên! Bọn đệ tử đà quan sát kỹ càng mà không hề phát hiện điều trá ngụy.
    Tây Môn Giới hiểu rõ khả năng của học trò nên hơi thất vọng:
    - Vậy chắc là người giống người! Thế ngươi bố trí phòng lão ở đâu?
    Tây Môn Lục kính cẩn đáp:
    - Bẩm lão gia! Đệ tử đã đưa họ Tề lên tầng ba. Lãc đặt một mâm cơm chay và sẽ ăn tại phòng.
    Tây Môn Giới gật gù:
    - Tốt lắm! Ngươi xuống dưới làm nhiệm vụ đi! Lát nữa lão phu sẽ thử quan sát đối phương!
    Tây Môn Lục đi rồi. Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Tuệ lên tiếng:
    - Lão phu đã bấm thử một quẻ bói xem hung cát của Tư Đồ Thiếu hiệp! Tượng quẻ rất kỳ lạ , c ó cả quỉ khí lẫn sinh khí. không sao hiểu nổi.
    Tây Môn Giới nóng ruột đứng phắt dậy:
    - Để lão phu xuống nhìn là rõ ngay!
    Lão đang cải trang thành chủ nhân khách điếm nên có thể ung dung xuất hiện trước mọi người. Tầng ba ngay sát tầng chót. Tây Môn Giới chỉ xuống hết cầu thang gỗ là đến căn phòng đang mở rộng cửa. Tấm lưng rắn chắc quen thuộc làm lão chấn động tâm thần, rảo bước vào chào hỏi:
    Lão phu họ Hoàng, là chưởng quỹ của khách điếm này rất vinh hạnh được tiếp đón ngọc giá! Dám hỏi tôn huynh là cao nhân của giáo phái nào mà lại ăn chay?
    Tư Đồ Sảng nghe giọng nói biết ngay là nghĩa phụ của mình, liền giả vờ lạnh lùng đáp:
    - Tại hạ là người của Thánh Hoả giáo, tôn giá hài lòng chưa?
    Thánh Hỏa Giáo tức Ma giáo, một Giáo phái đã từng một thời hùng mạnh nhất võ lâm. Đến giữa thời nhà Minh thì yếu đi, chỉ còn lại vài ngàn giáo chúng ở quanh vùng núi Hoàng Sơn, thuộc phủ An Khánh.
    Tây Môn Giới nghe giọng đối phương khàn khàn, già nua rất chân thực và cũng đủ thơi gian nhìn ngắm kỹ lưỡng nên chăng còn nghi hoặc, lặng lẽ bỏ lên lầu
    Bọn Chiêu Hương xúm lại hỏi han thì lão bực bội bảo:
    - Lão họ Tề này đúng là hình dánh của Sảng nhi sau bốn mươi năm nữa! Tổ bà nó, chẳng lẽ Tư Đồ lão Trang chủ có con rơi?
    Lúc này Tư Đồ Sảng đã ăn xong, đóng chặt cửa, đi qua tấm bình phong gỗ vào chỗ đặt giường ngủ.
    Trên giường có một nữ lang áo trắng đang ngồi bó gối đợi chờ. Bạch Phụng cười khúc khích:
    - Tướng công đóng địch giỏi đấy!
    Tư Đồ Sảng ngồi xuống giường thở dài bảo:
    - Nhìn đôi mắt đỏ ngầu và dáng đi thiểu não của can gia, ta biết người đã rất thống khổ nên chỉ muốn thú thực.
    Bạch Phụng ôn tồn can gián:
    - Tướng công hãy cố ẩn nhẫn thêm một thời gian nữa. Gia phụ bảo rằng vận hạn chàng đang hồi u ám, nếu gần gũi người thân sẽ mang tai họa đến cho họ.
    Tư Đồ Sảng cười buồn:
    - Nàng chẳng phải ái thê của ta đấy sao?
    Bạch Phụng dịu dàng đáp:
    - Thiếp đã ở ngoài luân hồi, khác với loài người. Chàng quên thiếp là chồn sao?
    Dường như có chút gì cay đắng, xót xa thân phận trong câu nói ấy khiến Tư Đồ Sảng bất nhẫn. Chàng kéo nàng ngồi vào lòng mình rồi hôn hít, Bạch Phụng yêu chàng say đắm, khao khát được trở thành người bình thường để làm vợ Tư Đồ Sảng mà không được nên xem trọng từng phút giây gần gũi. Nàng thè chiếc lưỡi thơm tho mềm mại, liếm mắt môi tình quân, mời gọi ái ân.
    Xiêm y rơi vãi trên sàn phòng và thân thể mượt mà, tuyệt diệu của Bạch Phụng hiện ra trọng mùi hương thơm quyến rũ.
    Tư Đồ Sảng từng có ba cô vợ đẹp nên không mê đắm vì nhan sắc của Bạch Phụng mà là vì tấm lòng chân thành của nàng, cũng như sắc mầu huyền ảo của mối tình yêu mị. Chàng thức ngộ rằng mình ngày càng thêm yêu mến ả hồ ly tinh này.
    Chàng biết sự gần gũi, ôm ấp lâu ngày sẽ giúp Bạch Phụng đủ dương khí mà lột xác ngay cả lúc ban ngày, nên không hề tiếc sức cho những cuộc mây mưa liên tiếp, thường xuyên. Hơn nữa, Tư Đồ Sảng lại là một nam nhân có bản năng tính dục rất mạnh mẽ, xem giao hợp là điều tự nhiên, không thể thiếu.
    Chàng rất biết ơn Bạch Phụng khi nàng luôn biến hóa thành Phi Tuyết hoặc Phi Hồng để chàng thỏa lòng thương nhớ.
    Và đêm nay, khi tỉnh giấc vu sơn, chàng lại nghe Bạch Phụng nói:
    - Tướng công! Thiếp chắc rằng Mạc Chiêu Hương đang có mặt ở tầng trên, cuối canh ba, thiếp sẽ dùng phép Mộng Du Thần Pháp đưa nàng xuống đây tương hội với chàng.
    Tư Đồ Sảng băn khoăn đáp:
    - Ta cũng rất nhớ Hương muội, song chỉ sợ có ai phát hiện thì lộ chuyện mất. Vả lại, vận mạng ta đang hồi xui xẻo, liệu có nên gần gũi Chiêu Hương hay không?
    Bạch Phụng gạt bàn tay chàng khỏi ngực mình rồi ngồi lên, nói với giọng tự tin:
    - Tướng công chớ lo! Thiếp đã ra tay thì không thể sơ xuất được! Còn việc vạ lây thì gặp nhau vài lần cũng không đến nỗi nào!
    O0o
    Sáng ngày rằm tháng mười, nửa vạn hào kiệt Trung Thổ lại hội ngộ trên bình đài đỉnh núi Thấp Vô Danh Sơn, bên cạnh núi Ngũ Nhũ.
    Trời Thu tháng mười không đẹp như ngày Trùng cửu. Trên cao lững lờ mây xám, cúc dại nơi bãi cỏ đã héo tàn, thôi nở hoa.
    Lôi đài đã được dựng lại như mới và không còn tấm ván bít quanh chân. Quần hùng yên tâm, cho rằng chẳng ai có thể gài hỏa dược được nữa. Tuy nhiên, nếu họ chú tâm quan sát một chút sẽ nhận ra hàng ghế đầu tiên, của các bô lão, nhân sĩ, đã lùi xa lôi đài hơn trước nửa trượng.
    Qua đầu giờ Thìn, quần hùng xôn xao vì sự xuất hiện của Hạo Thiên Cung. Đi đầu đoàn người là một lão nhân áo vàng, râu ba chòm đen nhánh, ngũ quan đoan chính, anh tuấn và đầy nét văn nhã.
    Những hào kiệt Tứ Xuyên nhận ra ngay Thiên Thư Tú Sĩ Lăng Quân Vĩnh, bậc danh sư ở núi Thiên Thư, phía Bắc Phủ Quảng Nguyên, gần ranh giới Thiểm Tây.
    Họ Lăng tính tình thanh đạm, lấy sách vở và cầm kỳ thi họa làm lẽ sống, nổi tiếng là người tài ba, uyên bác nhất vùng Tây Thục. Nhưng lão chưa hề giao đấu với ai nên thiên hạ không biết rõ bản lãnh võ công cao cường đến đâu.
    Giờ đây, cứ xem cách đối xử cung kính của đám đệ tử Hạo Thiên Cung thì người ta cũng đoán ra rằng Lăng Quân Vĩnh đã trở thành Cung chủ Hạo Thiên Cung. Quần hùng vô cùng thắc mắc và có người không chịu nổi đã bước đến hỏi ngay khi Thiên Thư Tú Sĩ vừa an tọa:
    - Này Lăng thí chủ! Ba năm trước bần đạo vân du đất Quảng Nguyên, từng ghé núi Thiên Thư quấy quả thí chủ mấy ngày, lòng vẫn cứ áy náy mãi! Hôm nay, thấy lại tôn nhan, bần đạo vui mừng khôn xiết, vội đến để vấn an!
    Lăng Quân Vĩnh đã sớm đứng lên thủ lễ. Lão vòng tay vui vẻ đáp:
    - Vài chén rượu nhạt chẳng đáng để Chân Nhân phải bận tâm! Sau này có dịp, kính thỉnh Chân Nhân ghé qua Hạo Thiên Cung để cùng nhau đối ẩm!
    Tam Dương Chân Nhân giả vờ kinh ngạc:
    - Sao lại là Hạo Thiên Cung? Chẳng hay Lăng thí chủ quan hệ thế nào với họ?
    Lăng Quân Vĩnh lộ sắc buồn, ôn tồn giải thích:
    - Tại hạ chính là tình lang của cố Cung chủ Lăng Song Tường và là thân phụ của Lăng Khải Trạch. Do Môn qui khắc nghiệt của Hạo Thiên Cung nên tại hạ phải xa lìa thê tử, và không được nhìn nhận mối quan hệ ấy! Nay nghe tin vợ con đều chết thảm, tại hạ đành phải xuất đầu lộ diện, đảm đương cơ nghiệp Hạo Thiên Cung để vong thê nơi chín suối được an lòng!
    Quần hùng xôn xao bàn tán và tỏ vẻ thông cảm hoàn cảnh đáng thương của Thiên Thư Tú Sĩ. Nhưng Hí Nhân Cư Sĩ lại đứng lên hỏi với giọng diễu cợt:
    - Này Lăng Tú sĩ! Bí mật này chỉ có Tôn giá và Lăng Cung chủ biết! Vậy tôn giá lấy gì để chứng minh thân phận ấy với đệ tử Hạo Thiên Cung? Hay là Lăng Cung chủ đã viết cho tôn giá giấy chứng nhận Nhất dạ Trượng phu!
    Cử tọa cười ồ lên tán thành mặc dù câu nói của Cổ Quí Sinh hơi tàn nhẫn. Sau cuộc phát chẩn Thủy tai sông Hoài, danh tiếng của Hí Nhân Cư Sĩ và Trương Thiên Sư đã nổi như cồn, người người ca tụng.
    Thiên Thư Tú Sĩ không hề lộ sắc giận điềm đạm đáp:
    - Cổ lão huynh thắc mắc cũng phải! Nhưng thực ra việc chứng minh mối quan hệ kia chẳng hề khó khăn vì tại hạ chính là kẻ đã dạy cho vong thê công phu Lô Hoả Thần Chỉ!
    Toàn trường kinh ngạc, không ngờ Lăng Quân Vĩnh lại khéo giấu bản lãnh như vậy! Lão dám dạy nghề cho Lăng Song Tường thì bản thân phải đạt trình độ cao hơn!
    Đúng lúc này, phái đoàn Hải Hoa Bang tiến vào khiến mọi người chú ý mục tiêu mới. Họ hơi ngạc nhiên khi chỉ thầy một mình Bang Chủ Giáp Vô Yên thống lĩnh đệ tử chứ không có Nam Hải Tiên Ông Ninh Hoàng Lạc.
    Tây Môn Giới, trong vai Hí Nhân Cư Sĩ muốn nắm rõ cục diện võ lâm nên bước đến chào và vui vẻ hỏi:
    - Giáp Bang Chủ! Vì sao Lệnh sư không có mặt ở thịnh hội này? Phái chăng Tiên Ông pháp thể bất an sau lần chạm trán lão thanh y Mông Diện ở Đại Hồ Sơn?
    Giáp Vô Yên nghiêm nghị đáp:
    - Đa tạ Cổ cư sĩ đã có dạ quan hoài! Gia sư vẫn khang kiện nhưng chán cảnh hồng trần nên tìm đảo hoang yên tịnh và ẩn tu rồi!
    Hí Nhân Cư Si nói giả lả:
    - Thiện tai! Thiện tai!
    Rồi ông quay về chỗ ngồi, lòng thắc mắc vì sao Kỳ Lân Bang chưa đến, dù đã đến giờ khai mạc Đại hội?
    Đàm Vân Tử, Trưởng lão phái Võ Đang, thượng đài nói qua loa về mục đích của đại hội võ lâm và công bố danh sách ban giám khảo. Lần này, ngoài sáu vị chưởng môn còn có thêm bậc danh sĩ đất Tín Dương là Hí Nhân Cư Sĩ Cổ Quí Sinh, ân nhân của mấy chục vạn tai dân vùng phía Bắc sông Hoài! Tất nhiên, quần hùng đồng thanh tán thành và còn cất lời ca ngợi bậc Đại thiện nhân!
    Bẩy vi giám đại cúi chào khán giả rồi tựu vị. Sau đó, Đàm Vân Tử tiến hành thủ tục đăng ký danh sách ứng cử viên. Người đầu tiên lên báo danh Hải Hoa Bang Chủ Giáp Vô Yên, kế đến là Tân Cung chủ Hạo Thiên Cung, Thiên Thư Tú Sĩ Lăng Quân Vĩnh.
    Quần hùng rất phấn khởi, cho rằng cuộc chạm trán giữa hai đại cao thủ này sẽ vô cùng quyết liệt và hấp dẫn.
    Nhưng người thứ ba đã làm cho họ phải ôm bụng cười bò ! Ứng viên này là một nhà sư áo vàng cao lêu nghêu, đầu đội mũ dẹp, chóp mũ viền những chùm tơ, trông như bờm lừa! Nhờ vậy, người ta mới biết vị Hoà Thượng ấy là một nhà sư Tây Tạng!
    Ông ta tuổi độ bốn mươi, da đen sạm, mang đủ tướng Ngũ lộ, song không có nét gì thông thái trí tuệ, như đức Khổng Phu Tử và ngược lại, nghĩa là kẻ ngốc nghếch hiện ra lỗ lộ!
    Nhưng chẳng ai nhẫn tâm cười cợt những người có dung mạo khờ khạo như thế. Quần hùng cười vì hành vi của vị khách phương xa.
    Thay vì đường bệ nện gót trên những cầu thang gỗ mà thượng đài thì nhà sư Tây Tạng ấy lấy đà, tung mình nhẩy lên để khoe tài! Khổ thay, khi đáp xuống sàn gỗ, nhà sư lại ngã chỏng gọng, dơ bốn vó lên trời, trước cái cảnh vẽ Hổ thành Chó ấy ai mà chẳng tức cười?
    Vị tạng tăng xui xẻo ấy gượng ngùng đứng dậy xoa mông, toét miệng cười hề hề và phân bua bằng tiếng Bắc Kinh ngượng nghịu nhưng giọng nói vang rền như chuông đống:
    - A di đà Phật! Bình thường bần tăng chẳng bao giờ bị ngã cả! Song hôm nay, bần tăng quên mình là đang cõng cái của nợ nặng hai mươi cân trên vai nên bị nó làm cho mất thăng bằng.
    Nói xong, ông ta tháo tay nải nơi vai trái xuống, đưa lên cao để chứng minh. Đương nhiên, quần hùng chẳng hề biết trong bọc hành lý bằng vuông vải màu đen ấy có cái gì và nặng hay nhẹ? Họ chỉ nhìn thấy bàn tay như nải chuối cùng với đoạn cẳng tay to khoẻ. Té ra nhà sư này có khung xương rất lớn nên dù người không béo mập mà dáng vóc vẫn lực lưỡng. Xương to là biểu hiện của một sức khoẻ bẩm sinh.
    Quần hùng đang định đòi nhà sư thích khoe mẽ kia trương ra cái gọi là của nợ nhưng Đàm Vân Tử đã lên tiếng trước, ông tủm tỉm bảo:
    - Phiền Đại sư báo danh tính, niên kỷ và sư thừa để bần đạo ghi chép.
    Vị Tạng tăng lộ vẻ đắc ý, thay vì nói với Đàm Vân Tử thì lại quay xuống nhìn cử toạ:
    - A di đà Phật ! Kính cáo toàn thể anh hùng hào kiệt Trung Nguyên, bần tăng chính là một thiền sư đạo hạnh cao thâm của chùa Bố Đà La Thành Lã Sa. Năm nay bần tăng vừa tròn tứ thập và xuất gia đã hơn bốn mươi năm.
    Nghe đến đây, cử tọa không còn nhịn nổi, vừa cười vừa thét lên:
    - Nói láo!...
    Vị tạng tăng ngơ ngác hỏi lại:
    - Bần tăng suốt đời không dám vong ngữ, sao chư vị thí chủ lại nói oan cho bần tăng như thế?
    Một người ngồi ở hàng ghế đầu bực bội đứng lên mắng:
    - Con bà nó! Hòa thượng ngươi bảo rằng mới tròn tứ thập thì sao lại có thể xuất gia đã hơn bốc chục năm?
    Nhà sư Tây Tạng thản nhiên giải thích:
    - Té ra chư vị thí chủ thắc mắc về điểm ấy! Bần tăng dám nói như thế vì gia phụ là hòa thượng còn gia mẫu là ni cô, họ lấy nhau mà sinh ra bần tăng. Do đó, ngay từ lúc còn là bào thai, bần tăng đã ở đong chùa rồi, có thể gọi là xuất gia từ trong bụng mẹ.
    Quần hùng ôm bụng cười đến nôn ruột, chẳng khác gì Đại hội năm ngoái có gã dốt Triển Phi Hoan.
    Đàm Vân Tử cố nín cười, tằng hắng rồi bảo:
    - Phiền Đại sư báo ngay danh tính và pháp hiệu, đừng làm mất thì giờ của Đại hội nữa.
    Như kẻ háo danh có cơ hội đứng trước đám đông, nhà sư Tây Tạng chẳng hề gấp gáp, tiếp tục dài dòng huênh hoang với cử tọa:
    - Kính cáo chư vị thí chủ! Bần tăng tu hành từ trong bụng mẹ nên không có tục danh, chi có pháp danh là Thiện Đề đại sư. Nhưng là người võ nghệ cao cường nên bần đăng đã chọn cho mình một mĩ hiệu là “Thần Phủ Lang Quân!”.
    Lập tức, mấy ngàn hào kiệt trẻ tuổi đùng đùng nổi giận, ngoác miệng chửi rủa Thiện Đề. Sau khi giết Hạo Thiên Cung chủ Lăng Song Tường và bị ám toán chết oan dưới vực sâu. Tư Đồ Sảng đã trở thành thần tượng của lớp thanh niên trong võ lâm. Họ ca ngợi chàng và vô cùng thương tiếc! Nay có kẻ đám xúc phạm đến Tư Đồ Sảng, bằng cách chiếm đoạt danh hiệu bảo sao mọi người không tức tối!
    Thiên Đề sợ hãi và hoang mang. Chẳng hiệu vì sao, cứ trố đôi mắt lồi ra nhìn cứ tọa với vẻ ngạc nhiên tột độ?
    Đàm Vân Tử vội ra hiệu cho quần hùng im tiếng rồi nghiêm nghị hỏi Thiện Đề:
    - Bần đạo muốn biết vì sao đại sư lại chọn mĩ hiệu “Thần Phủ Lang Quân”?
    Thiện Đề thản nhiên đáp:
    - Bần tăng đùng búa làm vũ khí! Dứt lời, gã mở tay nải, lấy ra chiếc túi da hươu hình tròn, trong chứa một khối thép đen sì. Gã loay hoay một lúc thì khối thép hóa thành một cây búa hai lưỡi rồi dơ cao lên.
    Đàm Vân Tử thảng thốt hỏi lớn:
    - Vì sao đại sư lại có cây Giáng Ma Phủ này?
    Quần hùng cũng nghe rõ nên rất kinh ngạc, lắng nghe nhà sư Tây Tạng giải thích. Thiện Đề dường như đã lấy lại sự tự tin, nói oang oang:
    - Kính cáo chư vị thí chủ? Thanh Giáng Ma Thần Phủ này vốn là bảo vật của Bố Đà La Tự, bị một cao thủ người Hán là Trung Nguyên Nhất Kiếm Võ Hồng lấy trộm đã hơn trăm năm. Sau này, Thần Phủ thuộc về cháu ngoại năm đời của Võ Hồng là một vị thí chủ họ Tư Đồ! Trưởng lão Bổn tự, Trát Thập Thiền sư, nhờ Phật Tổ giáng mộng mà biết được việc ấy, vào Trung Thổ truy tìm và gặp được Tư Đồ thí chủ. Vị thí chủ nọ là người chính trực nên đã hoàn trả Thần Phủ cho bổn tự.

  2. #41
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Trương Thiên Sư liền ngắt lời Thiện Đề:
    - Bần đạo xác nhận là có chuyện đó ! Nhưng ngày ấy Trát Thập thiền sư bảo rằng Pháp bảo của nhà Phật phải được đem về gắn vào bàn tay của pho tượng Kim Cương, đặt cạnh cửa chính đại điện. Vậy, nay vì lẽ gì mà Đại sư mang vào Trung Nguyên làm vũ khí tùy thân?
    Quần hào nghe xong càng bội phần cảm phục nhân cách của Tư Đồ Sảng. Trăm năm là quãng thời gian khá dài, đủ để chàng từ chối không hoàn trả bảo vật. Trong khi, Thần Phủ lại là vũ khí thành danh của chàng!
    Thiên Đễ lộ vẻ bẽn lẽn, ấp a ấp úng:
    - Bẩm lão Đạo trưởng! Bần tăng bị đuổi khỏi Bố Đà La Tự, chẳng biết đi đâu nên lần vào Trung Thổ. Bần tăng rất uất ức vì bị kết án oan nên lấy trộm thanh Giáng Ma Thần Phủ, đem giao lại cho Tư Đồ thí chủ để kiếm vài trăm lượng làm vốn mưu sinh! Nào ngờ, khi đến Lạc Dương thì nghe tin y đã từ trần, lòng vô cùng thương xót. Bần tăng liền nẩy ra ý định kế nghiệp Tư Đồ thí chủ mà giáng ma vệ đạo. Sẵn dịp có đại hội võ lâm này, bần tăng quyết lên làm Minh chủ để thanh danh của Thần Phủ Lang Quân được rạng rỡ.
    Sắc diện của Thiện Đề rất thành thực khiến mọi người cảm động, không còn ghét gã nữa.
    Đàm Vân Tử cười hỏi:
    - Thế Đại sư đã phạm lỗi gì mà bị Bố Đà La Tự trục xuất vậy?
    Thiện Đề bị hàm oan nên giờ đây tức tối biện bạch:
    - Bẩm lão Đạo trưởng! Bần tăng làm phúc mà phải tội! Hôm rằm tháng ba, khách thập phương đến lễ chùa rất đông, xả rác bừa bãi. Bần tăng thấy thế liền mang chổi ra quét sân. Nào ngờ, có một nữ thí chủ đi ngang qua, vô ý vấp phải chổi mà ngã xuống, bần tăng sợ nạn nhân bể đầu, vì sàn chùa lát toàn đá núi, nên buông chổi đỡ lấy! Chỉ có thế mà các tăng lữ trong chùa kết tội bần tăng phạm sắc giới, thế có ức không chứ?
    Đàm Vân Tử cau đôi mày bạc:
    - Lạ thực ! Chẳng lẽ chư tăng ở quí tự lại hẹp hòi đến thế sao?
    Ông chợt nhận ra vẻ lấm lét của đối phương, liền hỏi thêm:
    - Đại sư hãy kể rõ xem đã đỡ người bị nạn như thế nào?
    Thiện Đề khổ sở đưa hai tay đặt lên vú mình rồi ngượng ngùng biện bạch:
    - Bần tăng chẳng hề cố ý nhưng không hiểu sao song chưởng lại chụp trúng phóc hai quả tuyết lê to tướng của vị nữ thí chủ ấy.
    Nửa vạn người phá lên cười sặc sụa, không sao nín được. Cả những bậc trang nghiêm, đạo mạo cỡ phương trượng Thiếu Lâm Tự hay chưởng môn nhân phái Võ Đang cũng vậy.
    Đàm Vân Tử ôm bụng thở hổn hển, vừa cười vừa nói đứt đoạn:
    - Được rồi! Đại sư có... thể hạ ...đài!
    Thiện Đề xuống rồi, những thí sinh khác tiếp tục đăng ký. Đến giữa giờ Thìn thì Ban giám khảo đã chọn ra được ba mươi tám đối thủ đủ tư cách đạo đức chưa hề có tiếng xấu. Người thứ ba mươi tám chính là Tề Thanh Tuyệt, một kẻ vô danh tiểu tốt chưa hề được ai biết đến.
    Hí Nhân Cư Sĩ, tức Tây Môn Giới vô cùng thất vọng khi nhận ra trong ba mươi tám ứng viên kia không ai có thể là lão áo xanh bịt mặt cả. Tuy nhiên, phải chờ đến lúc họ giao đấu thì mới có thể khẳng định được. Kẻ nào thi triển Ngưng Huyết Huyền Băng Thần Chưởng sẽ chính là hung thủ! Sự xuất hiện bất ngờ của Thiên Thư Tú Sĩ Lăng Quân Vĩnh có vẻ đáng nghi. Nhưng lão ta lại giỏi môn Lô Hoả Thần Chỉ, một loại công phu hoàn toàn trái ngược với Huyền Băng Chân Khí! Hơn nữa, người áo xanh đã từng bị lăng Song Tường và bốn vị Thiên Long vây đánh chí chết ở Đại Hồ Sơn!
    Riêng Tư Đồ Sảng, tức Tề Thanh Tuyệt, nghĩ gì mà lại đăng ký thượng đài? Phải chăng chàng muốn trở thành Minh chủ võ lâm? Thực ra, nguyên nhân là Tư Đồ Sảng đã sinh lòng nghi ngờ Thiên Thư Tú Sĩ. Trước khi rơi xuống vực thẳm chàng đã đối diện với Thanh y nhân và suốt đời không quên được cặp mắt của lão ta!
    Giờ đây, vóc dáng và cặp mắt của Lăng Quân Vĩnh cũng tương tự khiến chàng phải cảnh giác? Hơn nữa, chàng đã từng được nghe sư phụ là Ly Giang Tiên Ông nhận xét về Thiên Thư Tú Sĩ: “Gã họ Lăng này thông minh tuyệt thế, cơ trí thâm trầm như biển lớn, có thể trở thành bậc kỳ nhân, nhưng cũng có thể là một đại ác nhân! Sau này, nếu ngươi thấy y xuất đầu lộ diện thì phải tiểu tâm đề phòng!”
    Tiên Ông một lòng vì sự thanh bình của võ lâm nên trước khi tọa hoá đã điểm mặt những tai họa tiềm ẩn cho học trò được rõ. Ông biết rằng khi mình vắng bóng thì tà ma sẽ nhất tề trỗi dậy.
    Tư Đồ Sảng đăng ký xong bước xuống đất. Chàng nhận ra chiếc ghế dựa bên cạnh Huyết Báo không người ngồi liền thản nhiên an tọa! Mé bên kia họ Liễu chính là Mạc Chiêu Hương.Với danh phận là vợ góa của Thần Phủ Lang Quân, nàng được mọi người trọng vọng, dành cho một ghế danh dự. Huyết Báo là sư huynh kiêm vệ sĩ của nàng nên cũng chiếm một ghế. Còn vị trí mà Tư Đồ Sảng đang chễm chệ là của Hí Nhân Cư Sĩ. Lão được mời làm giám khảo nên ghế bỏ trống.
    Liễu Mộ Hào đã mấy lần chạm mặt Tề Thanh Tuyệt trong Đăng Phong Đệ Nhất khách điếm nên cũng có thể gọi là quen. Có lẽ vì họ tề giống Tư Đồ Sảng nên huyết báo bất giác có cảm tình, mặc dù song phương chưa hề nói chuyện hoặc cười đùa với nhau. Tề Thanh Tuyệt mặt lạnh như tiền, chẳng bao giờ cười cả.
    Hôm nay, thấy họ Tề ngồi bên cạnh mình, Huyết Báo lặng thinh, không lưu ý đến. Vả lại, trận đấu khai mạc đại hội đã bắt đầu. Cũng như năm ngoái, ban giám khảo đã cho hai đấu thủ sừng sỏ nhất đánh trận đầu. Đó là Cung chủ Hạo Thiên Cung Lăng Quân Vĩnh và Hải Hoa Bang Chủ Giáp Vô Yên.
    Họ Lăng áo vàng, họ Giáp áo đen, đôi bên đều đẹp lão, râu ba chòm oai vệ, ra dáng quân sư. Quân Vĩnh dùng kiếm, Vô Yên sử dụng đao, hai loại vũ khí đứng đầu trong làng binh khí.
    Lăng Quân Vĩnh sáu mươi lăm tuổi còn Giáp Vô Yên sáu mốt nên họ Giáp được quyền xuất thủ trước.
    Quần hùng rất hồi hộp, không hiểu công phu Tán Kình Trảo Pháp ở tay tả Vô Yên có chống lại được Lô Hoả Thần Chỉ hay không? Năm ngoái, tuyệt học của Định Phương Chân Nhân đã gần như vô hiệu hóa được Ngưng Huyết Thần Băng Chưởng của Tần Cốc Lý. Và lần ấy, nếu không có vụ nổ hỏa dược thì họ Giáp đã trở thành Minh chủ rồi.
    Nhưng hiện tại, Thiên Thư Tú Sĩ vẫn chưa thi thố thần chỉ mà dùng một pho kiếm pháp ảo diệu và lạ mắt để đối phó với Cửu Huyền Đao Pháp của Vô Yên.
    Lạ mắt vì bảo kiếm của Lăng Tú Sĩ mạ vàng sáng như gương. Kiếm quang rực rỡ dưới nắng thu, chớp lên những vệt kiếm ảnh thon dài tựa lá liễu vậy.
    Chỉ có Tư Đồ Sảng và các bậc cao niên mới biết đấy là pho Kim Liễu kiếm pháp của Diệp tiên sinh đất Giang Nam, thời Bắc Tống. Tuyệt học này đã thất truyền trước khi quân Mông Cổ chiếm được Khai Phong, vậy mà, không hiểu sao Lăng Quân Vĩnh lại học được. Hậu thế chẳng thể biết Kim Liễu kiếm pháp lợi hại đến dường nào, chỉ nghe truyền thuyết rằng thuở ấy Hoàng Diệp tiên sinh chưa hề gặp kiếm thủ xứng tay.
    Giờ đây, khi xem Lăng Quân Vĩnh thi triển, mọi người mới hiểu cha ông nói chẳng hề sai. Kim Liễu kiếm pháp không chỉ đẹp mắt nhờ ánh hoàng kim chói lọi mà còn lợi hại phi thường.
    Những chiếc lá liễu vàng óng như bị gió thu thổi bay vế phía Giáp Vô Yên, bao trùm cả thượng hạ tả hữu, chẳng chỗ nào không có! Chúng liên tục chạm vào màn đao quang xanh biêng biếc, tìm một chỗ sơ hở mà len qua!
    Quần hùng ngây ngất chiêm ngưỡng, thứ kiếm sang cả mà diễm lệ ấy miệng trầm trồ tán thưởng. Bọn tiền bối cao niên, kiến văn uyên bác, càng bội phần thán phục Lăng Quân Vĩnh vì nhận ra rằng phép khoái kiếm của họ Lăng đã đến mức thượng thừa. Đường gươm của lão ta phải thật nhanh mới dệt nên được màn kiếm ảnh dầy đặc đến thế!
    Nhưng ngược lại, người ta cũng phải tắc lưỡi khen dồi trước đao pháp thần sầu quỉ khốc của Giáp Vô Yên. Rõ ràng là họ Giáp đã đạt đến tinh túy của Cửu Huyền Đao Pháp, trình độ chẳng kém gì Nam Hải Tiên Ông.
    Đường đao của lão ta trầm ổn, kín đáo và mãnh liệt như sóng dữ biển Nam. Giáp Vô Yên ung dung giải phá những chiêu kiếm diêm dúa của đối thủ, khiến muôn ngàn chiếc lá liễu rụng rơi như chạm phải bức tường thành kiên cố vậy!
    Đao nặng nề và chỉ sắc một bề nên tư thế của người đánh đao uyển chuyển, hơn người cầm kiếm. Đao thủ thường phải uốn mình, dùng cả sức của vai và lưng thì lực đạo của đường đao mới xứng với lời khen tặng của TàoThực, con trai Tào Tháo thời Tam Quốc. Trong bài Ngọc Đao Phú. Tào Tử Kiến đã có câu tả uy lực của Đao như sau : “Trên bộ chém được voi, tê giác. Dưới nước chặt được cả thuyền rồng!”
    Do đó, tư thế, dáng điệu của người đánh đao rất oai vệ, dũng mãnh, tấn công thì như rống thiêng múa vuốt, phòng thủ thì tựa mãnh hổ thu mình.
    Việc Giáp Vô Yên tăng tiến về mặt đao pháp không làm cho Hội đồng võ lâm kinh ngạc bằng lớp cương khí xanh nhạt đang bao quanh cơ thể lão ta! Hiện tượng ấy chứng tỏ tu vi của họ Giáp còn cao hơn cả Nam Hải Tiên Ông.
    Lần này, để phá kế thay mận đổi đào Ban giám khảo đã thực hiện thủ tục khám xét các ứng viên lâm trận. Về danh nghĩa thì là kiểm tra, xem họ có lén mặc bảo y, áo giáp hay không, song đồng thời tạo điều kiện để Tây Môn Giới, trong vai Hí Nhân Cư Sĩ, giáp mặt quan sát mà tìm dấu vết hóa trang! Tây Môn Giới là tổ sư trong nghề dịch dung, đã khẳng định rằng Giáp Vô Yên là thực.
    Nhưng việc Nam Hải Tiên Ông đột ngột ẩn cư đã khiến Tây Môn Giới nghi ngờ, ông xuất thân Hắc Đạo nên hiểu rõ lòng dạ và thủ đoạn của kẻ ác. Ông suy nghĩ một lúc rồi nói nhỏ với sáu vị Chướng môn:
    - Lão phu đoán rằng Nam Hải Tiên Ông tự lượng không địch lại người áo xanh bịt mặt nên đã hi sinh tính mạng, truyền cho Giáp Vô Yên vài chục năm công lực, chỉ có giả thuyết ấy mới giải thích được lý đo vì sao hiện nay họ Giáp sở hữu đến hơn hoa giáp tu vi.
    Trương Thiên Sư nghi hoặc hỏi lại:
    - Lẽ nào một kẻ tham lam danh vọng và quyền lợi như Ninh Hoàng Lạc lại dám hi sinh vì người khác như thế?
    Tây Môn Giới mỉm cười:
    - Lão phu đã điều tra ra một bí mật kinh người! Giáp Vô Yên là cháu gọi Ninh Hoàng Lạc là cậu ruột, nhưng Vô Yên còn là con của Nam Hải Tiên Ông. Thủ hạ lão phu tình cờ gặp được nhũ mẫu của Vô Yên mới biết rằng Ninh lão quỉ loạn luân với bào muội.
    Sáu vị chưởng môn lắc đầu thở dài, ngao ngán cho luân thường đạo lý suy đồi.
    Nhắc lại, Thiên Thư Tú Sĩ đã đem hết pho Kim Liễu Kiếm Pháp ra sử dụng mà không thắng nối Giáp Vô Yên nên bắt đầu thi triển Lô Hoả Thần Chỉ.
    Từ trong đám kiếm ảnh hình lá liễu vàng vọt kia bỗng bắn ra một đạo chỉ phong xanh biếc tựa lửa lò rèn. Nghĩa là, Lăng Quân Vĩnh đã đạt đến cảnh giới Lô Hoả Thuần Thanh, chỉ kình từ đỏ chuyến thanh xanh, có thể làm mềm cả sắt.
    Tuy đã cảnh giác đề phòng từ đầu trận mà Hải Hoa Bang Chủ vẫn thất cơ! Theo bản năng, Giáp Vô Yên dùng bàn tay tả thi thố Tán Kình Trào Pháp đế hoá giải đạo Lô Hoả Thần Chỉ của đối phương, che chở cho vùng ngực trái. Nào ngờ, bản lãnh họ Lăng cao thâm hơn cố Cung chủ Hạo Thiên Cung Lăng Song Tường vài bậc nên luồng chỉ phong này như mũi dùi thép nóng bỏng, phá vỡ lực tán kình, xuyên thủng lòng bàn tay Vô Yên.
    Cảm giác đau đớn khủng khiếp đã khiến Giáp Vô Yên choáng váng, khiếp sợ phải tung mình nhẩy về phía sau. Nhưng lão chẳng cam tâm nhận bại, quyết lợi dụng ưu thế vế vũ khí mà chiến đấu đến cùng. Pho Cửu Huyền Đao Pháp của lão có uy lực hơn hẳn Kim Liễu Kiếm Pháp của đối phương.
    Lúc này, Thiên Thư Tú Sĩ đã bám theo và tấn công quyết liệt, kiếm quang sáng loè và chỉ kình bay ra liên tục.
    Giáp Vô Yên không còn dám sử dụng đến bàn tay tả bị thương mà dùng bảo đao đón đỡ những luồng chỉ phong độc ác! Đồng thời, lão thực hiện chiến thuật du đấu, đảo lộn, di chuyển không ngừng để đối thủ không thể nhắm trúng mục tiêu. Kết hợp với chiến thuật ấy là những chiêu đao mãnh hệt như chẻ núi, sẵn lòng đổi mạng với kẻ địch.
    Trong võ học dũng khí là yếu tố quan trọng hàng đầu. Do vậy, những người không sợ chết luôn có ưu thế. Giáp Vô Yên sở hữu hơn hoa giáp công lực trừ khi tim, não, hay các tử huyệt bị tổn thương, kỳ dư đều thừa sức lấy mạng Lăng Quân Vĩnh trong một đòn đồng ư qui tận! Cửu Huyền Đao có trọng lượng khá nặng nên vết thương do nó gây ra dễ khiến nạn nhân phải tử vong!
    Ban giám đài và quần hùng rợn tóc gáy trước lối đánh cương mãnh và liều lĩnh của Hải Hoa Bang Chủ, tự hỏi vì sao Vô Yên lại xem trọng chức Minh chủ hơn cả sinh mạng như vậy?
    Họ không biết rằng Tây Môn Giới đã đoán trúng? Nam Hải Tiên Ông có mẹ là người mông Cổ nên khi được móc nối đã nuôi ảo vọng trở thành Vương Hầu, cai quản các tỉnh Duyên Hải Đông Nam Trung Hoa, từ Chiết Giang đến Quảng Đông, theo như lời hứa của vua Mông.
    Tiên Ông muốn con trai mình được hưởng cảnh vinh hoa phú qui ấy chứ phần mình thì đã quá già! Sau lần bị thương dưới tay Thanh y nhân ở Đại Hồ Sơn, Ninh lão đã quyết định hi sinh để thành toàn cho ái tử.
    Chính vì tấm lòng cao cả của phụ thân mà Giáp Vô Yên thà chết chứ không chịu bỏ cuộc! Lão khôn khéo tránh né Lô Hoả Thần Chỉ và phản kích bằng những đường đao sấm sét. Mỗi lần như thế, thép chạm thép vang rền, Thiên Thư Tú Sĩ đã phải thoái bộ để tránh cảnh đổi mạng bất đắc dĩ.
    Họ Lăng mới vừa khởi đầu sự nghiệp, chẳng dại gì mà chết chung với kẻ dưới cơ! Đấu pháp của Giáp Vô Yên rất tiêu hao sức lực nên sẽ chẳng kéo dài được lâu. Lúc ấy, Tú Sĩ kết liễu đối phương cũng không muộn!
    Những bản thân Giáp Vô Yên cũng hiểu điều ấy nên đã “Tiên hạ thủ vi cường”, xuất chiêu Cửu Cửu Tận Dương gồm tám mươi mốt thức. Lăng Quân Vĩnh cử kiếm đón chiêu, lòng thầm mừng rỡ vì lúc này họ Giáp đã từng thi triển qua. Lão là người thông minh đĩnh ngộ, ký ức cường kiện phi thường, dù cho không thể ghi nhận hết các thức trong chiêu đao song cũng nhớ được rằng chiêu này có một thức lia ngay cổ họng!
    Do đó, Thiên thư Tú Sĩ ung dung múa kiếm chống đỡ và chờ đợi cơ hội! Quả nhiên, Giáp Vô Yên đã hành động đúng như thế!
    Lăng Quân Vĩnh không dùng kiếm gạt đi mà lập tức đảo bộ sang mé trái để né tránh và tả thủ xạ ngay một đạo Thần Chỉ vào sườn phải đối phương. Đòn này rất hiểm vì Vô Yên không thể dùng tay tả hay bản đao để hứng chịu. Lưỡi đao của họ Giáp đang ở vi trí nằm ngang và khá cao, không tài nào hạ xuống kịp. Biết trước thế thức của đối thủ là một lợi thế vô cùng quí giá!
    Ngờ đâu, đấy chỉ là cái bẫy của Giáp Vô Yên. Đường đao vừa đi được một nửa thì lão thu đao và chân trái bước sang tả để tránh đạo chỉ phong.
    Sau đó, Vô Yên rùn thấp, chân phải thả tấn dài về phía trước, rướn người đâm một nhát cực kỳ thần tốc vào bụng dưới đối thủ. Thiên Thư Tú Sĩ đang ở vị trí người gài bẫy bỗng trở thành kẻ sa bẫy, hốt hoảng phiêu thân né tránh.
    Lão giữ được tính mạng song bẹ xương sườn trái bị đâm gãy hai nhánh chót.
    Quần hùng thấy Giáp Vô Yên chuyển bại thành thắng thì vô cùng thán phục, hoan hô vang dội. Họ Giáp cũng rất phấn khởi, bám theo tấn công tới tấp không để đối thủ có thời gian điểm huyệt chỉ huyết.
    Giáp Vô Yên khổ luyện đao pháp đã năm mươi năm, lại được sự hướng dẫn tận tình của sư phụ kiêm thân phụ nên trở thành một trong những đao thủ số một thiên hạ!
    Ngược lại, Thiên Thư Tú Sĩ học kiếm pháp theo bí kíp, không thầy chỉ dẫn nên thành tựu có phần hạn chế! Thanh Kim kiếm của lão ta hoàn toàn bị hạ phong trước Cửu Huyền Đao.
    Bị lão già lìeu mạng kia đẩy lùi mãi, Lăng Quân Vĩnh điên tiết gỉơ đến tuyệt học thủ thân. Thiên Thư Tú Sĩ xạ một đạo Chỉ phong cực kỳ hiểm ác khiến Giáp Vô Yên phải nhảy chếch sang bên tả để tránh đòn! Lăng Quân Vĩnh thừa cơ hội này đề khí tung mình lên cao hai trượng rồi sa xuống đầu họ Giáp! Hành động này có thể gọi là bất trí vì họ Lăng sẽ không còn điểm tựa như trên mặt đất để xoay chuyển. Và lão sẽ không tránh được việc đối đầu trực diện với đường đao sấm sét của đối phương, đưa đến cảnh lưỡng lưỡng bại câu thương!
    Nhưng không ngờ, Lăng Quân Vĩnh lại nhắm người họ Giáp mà phóng bỏ trường kiếm rồi múa tít song thủ giáng liền năm đạo chưởng kình xanh biếc.
    Giáp Vô Yên bị lưới chưởng vây chặt, chẳng còn phương đào tẩu, đành múa đao che chở đầu và thân trên!
    Màn đao lệnh mãnh liệt do lão tạo ra đã chịu đựng được ba đạo chưởng phong của họ Lăng nhưng đường đao bị lệch đi nên trúng hai chưởng cuối cùng. Một chưởng đánh gẫy chân phải và chưởng kia đập vỡ xương bả vai bên trái của Vô Yên!
    Không chỉ có thế, y phục nạn nhân bốc cháy ngùn ngụt và da thịt cũng đau đớn khôn cùng bởi sức nóng khủng khiếp của Lô Hoả Thần Chưởng!
    Giáp Vô Yên thức ngộ rằng mình sẽ chết nếu không mau nhận bại hoặc rời khỏi lôi đài. Nhưng Lăng Quân Vĩnh muốn diệt từ hậu họa nên đã bồi thêm hai chưởng khi vừa hạ thân xuống sàn gỗ!
    Trúng đòn vào ngực và bụng, Giáp Vô Yên văng đi, máu phun thành vòi lăn lông lốc trên sàn lôi đài và bốc cháy! Lão lăn lộn, rên siết một lúc rồi đoạn khí!
    Cái chết thê thảm của Hải Hoa Bang Chủ Giáp Vô Yên đã khiến toàn trường kinh hãi và sinh lòng khiếp sợ Thiên Thư Tú Sĩ !
    Hội đống võ lâm nhìn nhau thở dài rầu rĩ, lo cho chính khí giang hố? Trong lúc các đạo sĩ Võ Đang và tăng lữ Thiếu Lâm lo việc chữa lửa, nhặt xác và tẩy uế lôi đài, Đàm Vân Tử lạnh lùng tuyên bố Cung chủ Hạo Thiên Cung Lăng Quân Vĩnh là người chiến thắng?
    Họ Lăng nhặt bảo kiếm, thi lễ với Ban giám đài và cử tọa rồi đi xuống!
    Lão biết mình đã thất nhân tâm khi đánh thêm hai chưởng để giết Giáp Vô Yên. Nhưng Lăng Quân Vĩnh cho rằng việc ấy không quan trọng, sau này có thể sửa chữa được! Khi lão đã trở thành Minh chủ võ lâm thì sẽ chẳng còn ai dám hó hé bình phẩm hoặc nhắc lại chuyện cũ nữa! Thiên Thư Tú Sĩ xem Giáp Vô Yên là kình địch số một trong đời nên không thể để lão ta sống sót.
    Đã gần giữa giờ Tỵ, Ban giám đài tuyên bố nghỉ trưa, giữa giờ Mùi sẽ đến trận thứ hai!
    Quần hùng uể oải hạ sơn để dùng cơm trong những quán lá dưới chân núi, một số chủ quán là kẻ đã từng dựng lều ở Đại Hồ Sơn hồi giữa tháng năm. Đại hội võ lâm lần này chính là cơ hội béo bở để họ hốt bạc. Tuy nhiên, đây là đất Phật nên các nàng kỹ nữ chẳng dám đến hành nghề.
    Thực ra, có gần nửa số hào khách lấy ngựa đi thẳng đến thành Đăng Phong, cách đấy vài dặm, để được ngon miệng!
    Tư Đồ Sảng đang rối trí nên không để ý đến việc cơm canh ngon hay dở. Chàng vào ngay một quán cơm chay, gọi một mâm lớn. Đồ chay thường thiếu năng lượng nên chàng phải ăn thật nhiều mới có sức mà chiến đấu! Chàng đang đóng vai một người theo Ma Giáo nên không thể ăn mặn được.
    Tư Đồ Sảng rất phân vân trước thân phận của Lăng Quân Vĩnh. Chàng chẳng thể khẳng định lão ta có phải là Thanh Y nhân hay không? Thiên Thư Tú Sĩ tinh thông Lô Hoả Thần Chỉ, một công phu đối kháng với Huyền Băng Chưởng Pháp, và trong lịch sử võ lâm chưa hề có ai kiêm luyện một lúc cả hai tâm pháp âm Dương tương phản cả! Chàng càng thêm bối rối khi họ Lăng đem Lô Hoả chân khí phổ vào chưởng pháp, một việc cổ kim chưa hề nhắc đến! Xem ra, Thiên Thư Tú Sĩ đáng được tôn xưng là bậc kỳ nhân đương đại!
    Nhưng việc Lăng Quân Vĩnh cố tình sát hại Hải Hoa Bang Chủ biểu lộ một tâm địa tàn nhẫn, gian ác phi thường! Lão ta đã thực hiện rất đúng phương châm “Trảm thảo trừ căn”! Và một kẻ như thế sẽ là đại họa cho võ lâm khi lên ngôi Minh chủ.
    Nhớ lời căn dặn của ân sư, Tư Đồ Sảng quyết định ngăn chặn mưu đồ tranh danh đoạt lợi của Thiên Thư Tú Sĩ. Nhưng khi nghĩ đến việc vợ con của Tú Sĩ đều chết bởi tay mình, Tư Đỗ Sảng lại do dự. Trong giao đấu, nhân từ với kẻ địch là tự giết mình, mà chàng thì chưa muốn chết. Bởi vậy, khi thượng đài, chàng có thể vì bản lăng sinh tồn mà hạ sát họ Lăng! Làm như thế quả là nhẫn tâm! Tư Đỗ Sảng buồn bã thở dài, chẳng biết tính sao, tự nhủ rằng cứ ăn cho no cái đã rồi hạ hồi phân giải.
    Chợt Tư Đố Sảng nhận ra nhà sư Tây Tạng Thiện Đề đang thận trọng cúi đầu bước vào quán. Ông ta còn cao hơn chàng nửa gang nên đầu có thể va vào thanh ngang phía trên của khung cửa gỗ tạm bợ.
    Nhà sư chất phác, ngây ngô ấy không vội ngồi dù vẫn còn bàn trống. Ông đảo mắt nhìn khắp lượt thực khách như để tìm người quen. Khi nhìn thấy Tư ĐồSảng Thiện Đề lộ sắc mừng, rảo bước đến chắp tay lên ngực và nói:
    - A di đà Phật! Chẳng hay lão thí chủ có thể bố thí cho bần tăng một bữa cơm chăng? Thú thực là giờ đây trong người bần tăng không có đến một hào!
    Tư Đồ Sảng đặc biệt có cảm tình với những người mộc mạc, lão thực nên vui vẻ chìa tay:
    - Thỉnh Đại Sư an tọa! Lão phu hoan hỉ được cúng dường bậc cao tăng! Đại sư cứ việc tùy tiện dừng bữa!
    Thiện Đế mừng rỡ ngồi xuống ngay, toét miệng cười để lộ hàm răng ngựa ố vàng:
    - Gia sư thật chí lý! Người đã dạy bần tăng rằng những người có sống mũi Thông Thiên Đình giống như cố thí chủ Tư Đồ Sảng, đều nhân hậu và rộng lượng! Vì thế nên bần tăng mới chọn lão thí chủ đây mà quyên giáo?
    Tư Đồ Sảng hiếu kỳ hỏi:
    - Chẳng hay lệnh sư là bậc cao tăng nào của Bố Đà La Tự vậy?
    Thiện Đề thực thà đáp:
    - Gia sư chính thị Đại Trưởng lão Trát Thập Thiền Sư! Người rất yêu mến bản tính chính thực và nhân hậu của vị thí chủ họ Tư Đồ kia nên cứ nhắc đến mãi! Toàn thể tăng lữ bổn tự khi nghe gia sư kể lại chuyện người giả bệnh để thử lòng Tư Đồ Sảng thì đều sinh lòng kính phục!
    Thiện Đề bỗng lộ sắc buồn:
    - Thâm ý của bần tăng khi vào Trung Thổ là muốn nhờ Tư Đồ thí chủ dùng uy tín của minh mà xin cho bần tăng được trở lại chùa! Nào ngờ vị thí chủ ấy vắn số khiến bần tăng không còn dám quay về Tây Tạng nữa!

  3. #42
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Tư Đố Sảng nhìn dáng vẻ thất vọng của Thiện Đề mà bất nhẫn! Ông ta đã lặn lội suốt nửa năm ròng để đi tìm chàng, chắc là bữa đói bữa no, mưa nắng dãi dầu biết bao cơ cực! Chàng liến an ủi:
    - Đại sư hãy an lòng! Lão phu vốn có giao tình mật thiết với Thổ Ty Tây Tạng, thừa sức đưa Đại sư quay lại Bố Đà La Tự!
    Dù chàng chỉ nói suông như thế mà Thiện Đề vẫn ngây thơ tin tưởng, chắp tay vái dài:
    - Thiện tai! Thiện tai! Nếu được vậy thì bần tăng nguyện suốt đời cầu khấn Phật Tổ hộ trì cho lão thí chủ!
    Lúc này, tiểu nhị đã mang thêm chén đũa và thức ăn. Thiện Đề khoan khoái động đũa, chén như rồng cuốn nước biển Đông! Tư Đồ Sảng thấy thế liến gọi thêm cơm canh thật dồi dào và cùng nhà sư chết đói kia thi tài phạn lượng! Tư Đồ Sảng phục lăn khi thấy đối phương ăn một hơi mười chén cơm và vét sạch tám đĩa đậu hũ, mì căn, rau luộc!
    Xong bữa, hai người ngồi uống trà và trò chuyện! Tư Đồ Sảng cười hỏi:
    - Sau khi chứng kiến bản lãnh võ công của Thiên Thư Tú Sĩ Lăng Quân Vĩnh Đại sư còn giữ ý định thượng đài nữa không?
    Thiện Đế rùng mình đáp:
    - Bần tăng thấy lão ta thiêu chết Giáp thí chủ thì sợ đến nổi da gà, tất nhiên chẳng dại gì mà thượng đài! Bần tăng không thể hiểu vì sao Lăng Cung chủ đã thắng trận mà còn phải giết đối thủ làm gì?
    Tư Đồ Sảng chua chát bảo:
    - Kiếp giang hồ vốn mang bản chất bất nhân, xem cái chết của kẻ địch là phương cách để mình được sống sót. Giả như có người muốn giết Đại sư để cướp Giáng Ma Phủ thì Đại sư sẽ xử sự như thế nào?
    Thiện Đề thản nhiên đáp:
    - Bần tăng sẽ bỏ chạy! Nhưng nếu chạy khống thoát thì bần tặng sẽ chống trả, lỡ có giết chết ai cũng chẳng sao vì cái tâm của bần tăng vốn chẳng tồn tại sát niệm! Và đã vô niệm thì không tạo nghiệp, không gánh chịu nhân quả!
    Tư Đồ Sảng bàng hoàng như người vừa tỉnh cơn mê. Chàng chắp tay vái Thiện Đề và nói:
    - Cảm tạ bậc cao tăng đã chỉ điểm cho lão phu thoát khỏi bến mê!
    Thiện Đễ cười hì hì:
    - Lão thí chủ đừng làm bần tăng xấu hổ! Bần tăng nghe gia sư nói sao thì lập lại đúng như vậy thôi!
    Và ông ta hào hứng kể lể:
    - Gia sư tuổi đã chẵn trăm, tinh thông Thiền học và còn giỏi Thiên văn địa lý. Người từng chiêm nghiệm thiên tượng hướng Đông và bảo rằng khí sắc Trung Nguyên rất u ám, Âm Dương hỗn độn, tất sẽ có Quỷ Vương xuất thế, khuynh đảo võ lâm và xã tắc!
    Tư Đồ Sảng giật mình gạn hỏi:
    - Lệnh sư có dạy thế nào là Âm Dương hỗn độn không?
    Thiện Đề gật đầu:
    - Bần tăng cũng thắc mắc câu ấy nên gia sư giải thích rằng: “Tốt xấu, lửa nước, nóng lạnh ở chung với nhau mà không tương khắc, thì gọi là Âm Dương hỗn độn!”.
    Và đột nhiên nhà sư Tây Tạng rùng mình nói với giọng sợ hãi:
    - A di đà phật! Chằng hiểu sao khi bần tăng nhìn thấy cảnh Thiên Thư Tú Sĩ giết người là nghĩ ngay lão ta là Quỷ Vương mà gia sư đã nói đến!
    Tư Đỗ Sảng linh cảm rằng Thiện Đế nói có lý! Phải chăng Lăng Quân Vĩnh thông tuệ tuyệt luân, đã tìm ra bí quyết Âm Dương tương sinh nên mới có được hoa giáp rưỡi tu vi dù tuổi chi mới ngoài sáu chục.
    Thấy thực khách lục tục đứng lên rời quán cơm, Tư Đồ Sảng cũng gọi tiểu nhị tính tiền rồi lên núi. Thiện Đề ngoan ngoãn đi theo chàng, mặt hớn hở vì no bụng và niềm tin tương lai!
    Đến nơi, chàng cố tình bước thẳng lên hàng ghế đầu, thấy cạnh Mạc Chiêu Hương còn hai ghế trống mé hữu liền kéo Thiện Đề cùng ngồi xuống. Liễu Mộ Hào thì đang ớ bên tả nàng!
    Từ ngày nghe tin trượng phu rơi xuống vực thẳm Đại Hồ Sơn. Lúc nào Chiêu Hương cũng mặc mầu trắng tang ma, không trâm cài lược giắt, không điểm phấn trang hồng, mặt hoa hốc hác và buồn rười rượi. Lúc ra ngoài nàng còn dùng sa trắng che ngang mặt như muốn giữ gìn đung nhan ấy cho riêng chỉ một người. Nàng đã quyết tự sát ngay sau khi báo xong thù chồng!
    Chiều nay, khi Tề Thanh Tuyệt ngồi xuống bên cạnh, Chiêu Hương không cảm thấy khó chịu vì lão đã quá già, đáng tuổi cha chú! Nhưng một lúc sau, nàng phát hiện từ cơ thể Tề Thanh Tuyệt tỏa ra một hương thơm dìu dịu rất quen thuộc!
    Trái tim rạn nứt của Chiêu Hương sợ hãi đập nhanh vì liên tưởng đến những giấc mộng đẹp đẽ trong ba đêm vừa qua!
    Nàng mơ thấy trượng phu ngồi trong một gian phòng nhỏ mà đợi chờ. Và dang rộng vòng tay khi nàng đến. Nàng nhớ rằng mình đã muốn khóc thật nhiều nhưng chẳng thành lời!
    Tư Đồ Sảng bịt miệng nàng và bảo:
    - Ta vẫn còn sống tại sao nương tử lại khóc?
    Rồi chàng lặng lẽ đưa nàng vào giấc vu sơn, chẳng nói thêm một lời nào nữa! Tư Đồ Sảng vẫn dũng mãnh và dịu dàng như xưa. Thân thể ấm áp, nồng nàn, khiến Chiêu Hương tin là thực, hân hoan đón nhận những hạnh phúc ngút ngàn để bù đắp cho chuỗi ngày dài khao khát, nhớ nhung!
    Sáng ra, khi tỉnh giấc, Chiêu Hương còn nghe nhột nhạt nơi đầu vú, chẳng hiểu chuyện đêm qua là mộng hay thực! Nhưng rồi hai đêm mười ba, mười bốn kế tiếp nàng đều có cùng giấc mơ ấy, lòng càng bội phần hoang mang! Giờ đây cái duy nhất còn lại trong tâm trí nàng là một mùi hương là lạ, không giống mùi nước hoa của nữ nhân, và việc khám phá ra mùi hương ấy ở lão già họ Tề đã khiến nàng lo lắng, sợ hãi! Phải chăng lão ta là người của Ma giáo nên giỏi tà pháp, đã dùng yêu thuật để chiếm đoạt nàng?
    Chiêu Hương len lén liếc nhìn đối phương, bắt gặp nét mặt trung hậu, cương nghị và ánh mắt trong sáng, giống hệt chồng mình! Nàng tự nhủ rằng dung mạo ấy chẳng bao giờ thuộc về kẻ ác! Và Chiều Hương đành phải kết luận rằng vong linh trượng phu đã hiện về, cũng như khi đã từng báo mộng cho Tây Môn nghĩa phụ!
    Lúc này đã là giữa giờ Mùi, Ban giám khảo an tọa đủ mặt sau chiếc bàn dài và Đàm Vân Tử bước ra. Ông tằng hắng, nói:
    - “Kính cáo đồng đạo! Trong giờ nghỉ trưa đã có hai mươi hai thí sinh xin rút tên khỏi danh sách ứng cử. Việc này đã khiến Ban giám khảo phải họp lại để bàn bạc và nhất trí rằng Thiên Thư Tú Sĩ Lăng Quân Vĩnh là người duy nhất đủ khả năng trừng trị lão áo xanh bịt mặt, hung thủ đã sát hại nguyên Minh chủ võ lâm Tư Đồ Xán và Thần Phủ Lang Quân Tư Đồ Sảng! Do đó, đại hội chiều nay sẽ thay đổi phương thức tranh tài để tiết kiệm thời gian! Nghĩa là Cung chủ Hạo Thiên Cung sẽ làm thủ đài, thắng thêm ba trận nữa thì sẽ trở thành Minh chủ võ lâm! Bần đạo tha thiết nhắc nhở chư vị hãy tự lượng sức mình, đừng vì chút hư đanh mà uổng mạng, tổn hại đến đức hiếu sinh của trời đất!”.
    Trong lúc quần hùng xôn xao bàn luận kẻ thất vọng, người tán thành, thì Thiên Thư Tú Sĩ đường bệ bước lên lôi đài mặt tươi tắn, thái độ khiêm tốn song ánh mắt đầy vẻ tự tin! Lăng Quân Vĩnh thi lễ với Ban giám đài và quần hùng rồi đứng sangn một bên chờ đợi!
    Nửa khắc sau vẫn chưa thấy ai thượng đài, bọn đệ tử Hạo Thiên Cung hoan hỉ hô vang:
    - Lăng Minh chủ ! Lăng Minh chủ!
    Nhưng bất ngờ, lẫn trong tiếng cổ vũ ồn ào ấy có một giọng nữ nhân cao vút:
    - Ngụy quân tử! Ngụy quân tử!
    Câu thứ hai tắc nghẽn nửa vời vì đường như bà ta bị ai đó bịt miệng lại!
    Tư Đồ Sảng chấn động tâm thần, suy nghĩ rất nhanh:
    - Hay là Can gia và các chưởng môn đã nhìn lầm người? Nếu Lăng Quân Vĩnh đúng là Thanh y nhân thì võ lâm nguy mất! Ta mà lưỡng lự không hành động thì sau này sẽ hối hận suốt đời!
    Nghĩ thế nên chàng quay sang bảo Chiêu Hương:
    - Ta sẽ thượng đài, phiền nàng búi tóc lên giùm! Và chàng nở nụ cười hoà ái, thân thiết, khiến cho Chiêu Hương choáng váng ! Nàng rơi vào trạng thái mơ hồ, máy móc đứng lên làm theo yêu cầu của lão già cổ quái!
    Tư Đồ Sảng xoay người ngồi nghiêng sang phía Thiện Đề để ái thê tiện thao tác. Chiêu Hương đã hành động y như ngày trước, vuốt cho mái tóc bạc như mây kia gọn lại và dùng mảnh khăn tay trắng của mình cột thắt lại nơi vùng xoáy. Tư Đồ Sảng thích như thế hơn là quấn tóc thành một búi giữa đỉnh đầu!
    Trong lúc ấy, Thiện Đề sợ hãi hỏi:
    - Tề lão thí chủ có chắc thắng nổi Thiên Thư Tú Sĩ hay không mà lại thượng đài?
    Tư Đố Sảng lắc đầu:
    - Lão phu không chắc thắng nhưng cũng chẳng thể chết được! Đại sư cứ yên tâm! Nếu không địch lại, lão phu sẽ bỏ chạy!
    Thấy Chiêu Hương đã cột xong tóc cho mình, Tư Đồ Sảng đứng lên, kéo Thiện Đề theo và dặn nhỏ:
    - Đại sư hãy giữ giùm tay nải cho lão phu! Trong ấy có nằm trăm lượng vàng ngân phiếu, đủ lộ phí để Đại sư quay lại Tây Tạng! Nếu lão phu chẳng may bỏ mạng, Đại sư hãy giữ lấy thanh bảo kiếm, mang về Bố Đà La Tự, tất sẽ được thu nạp lại!
    Thiện Đề chẳng hiểu gì cả, chỉ biết nhận lấy túi hành lý nhỏ, ngơ ngác nhìn theo dáng vóc oai vệ của Tề Thanh Tuyệt!
    Quần hùng cũng rất kinh ngạc khi thấy có người không sợ chết, dám thượng đài so tài với Đại sát tinh!
    Đàm Vân Tử có trí nhớ tốt, nhận ra thí sinh thứ ba mươi tám, danh tính là Tề Thanh Tuyệt. Ông cau mày hỏi:
    - Tề thí chủ đã suy nghĩ kỹ chưa?
    Tư Đồ Sảng gật đầu, vòng tay thi lễ với Ban giám đài và cử tọa rồi nghiêm nghị bảo Thiên Thư Tú Sĩ:
    - Lão phu tự lượng không địch lại tà công Lô Hoả của tôn giá. Nhưng về kiếm thuật thì lão phu đảm bảo rằng trong vòng nửa khắc sẽ khiến tôn giá phải đổ máu!
    Lời tuyên bố chắc nịch này đã khiến quần hùng phấn khích, ồn ào hẳn lên.Đại đa số đồng tình với,Tề Thanh Tuyệt, cho rằng thủ thắng bằng loại tà công ác độc thì chẳng có gì là hay ho cả! Kiếm thuật mới đích thực là võ học chân chính. Họ liền lên tiếng đốc thúc Cung chủ Hạo Thiên Cung nhận lời tỷ kiếm!
    Nhưng Lăng Quân Vĩnh gian hùng cai thế, xảo quyệt có thừa, đâu dại gì mà bỏ sở trường để vuột mất ngôi Minh chủ. Lão điềm nhiên đáp:
    - Võ công vốn không có chính tà, tù theo cái cách sử dụng của người võ sĩ mà thành thiện ác ! Lão phu rất tiếc không thể chiề ý tôn giá!
    Tư Đồ Sảng càng ngán sợ tâm cơ của Thiên Thư Tú Sĩ, cố gài cho đối phương sa bẫy bằng lời khích tướng:
    - Tôn giá sở hữu đến hơn hoa giáp công lực, lại được chân truyền pho Kim Liễu Kiếm Pháp, sao lại sợ một kiếm thủ vô danh như lão phu?
    Quần hùng đồng thanh tán thành:
    - Đúng vậy!
    Tư Đồ Sảng hờ hững nói tiếp:
    - Lão phu thượng đài vì muốn chứng minh rằng mình là Đệ nhất kiếm thủ, chứ chẳng phải vì ngôi Minh chủ. Nếu lão phu thắng thì ngôi vị ấy sẽ bỏ trống đến tiết Trùng Cửu sang năm để hào kiệt võ lâm lại có dịp tranh tài. Lúc ấy tôn giá lên làm Minh chủ cũng không muộn !
    Quần hùng và Ban giám đài vô cùng sửng sốt, không hiểu mục đích chân thực của Tề Thanh Tuyệt là gì? Dường như lão ta không chỉ muốn ngăn không cho Thiên Thư Tú Sĩ trở thành minh chủ mà thôi!
    Tây Môn Giới có cảm giác rằng phong thái xả thân vô vụ lợi, cũng như thủ đoạn khích tướng non nớt của Tề Thanh Tuyệt rất giống Tư Đồ Sảng. Và phải chăng họ Tề biết một điều gì về bản chất thực của Lăng Quân Vĩnh?
    Tây Môn Giới bỗng chột dạ sợ rằng mình đã tính sai khi muốn Thiên Thư Tú Sĩ trở thành Minh chủ và thách đấu với Thanh Y nhân, để lão có cơ hội mai phục, trả thù cho nghĩa tử! Nếu Lăng Quân Vĩnh là kẻ đại ác thì sao? Lão linh cảm rằng mình nên ủng hộ Tề Thanh Tuyệt, gác thù riêng lại một năm để điều tra nhân cách của Thiên Thư Tú Sĩ!
    Đã có chủ ý như thế nên Tây Môn Giới lên tiếng:
    - Lão phu cho rằng Lăng Cung chủ nên nhận lời tỷ kiếm kẻo sau này bị đồng đạo võ lâm chê cười rằng thiếu dũng khí, khó mà đảm đương được cương vị Minh chủ! Tôn giá đeo kiếm mà không dám so tài kiếm thuật thì chẳng nực cười lắm sao?
    Hí Nhân Cư Sĩ được quần hùng yêu mến nên cử tọa nhất tề tán dương, có người còn thét lớn mỉa mai:
    - Nhát như thỏ đế mà cũng đòi làm Minh chủ? Thật là nhục nhã cho Tông môn nhà họ Lăng!
    Chúng khẩu đồng từ thì sư ông cũng chết! Lăng Quân Vĩnh là người cao ngạo, không chịu nổi những lời nhục mạ ấy nhưng vẫn sáng suốt tính toán và tìm ra lượng sách.
    Lão cố nặn ra một nụ cười rồi hòa nhã nói:
    - Chư vị đồng đạo đã muốn xem tỷ kiếm thì lão phu cũng xin chiều ý! Nhưng trộm nghĩ rằng nửa khắc quá ngắn để lão phu cống hiến hết cái hay của Kim Liễu Kiếm Pháp! Vì vậy, lão phu đề nghị tăng lên gấp bốn! Nghĩa là, sau nửa canh giờ, đấu thủ còn đứng vững trên lôi đài thì xem như thắng!
    Quần hùng hoan hô tán thành, cho rằng như thế mới bõ công họ lặn lội ngàn dặm đến đây!
    Riêng các bậc thức giả lão thành thì hiểu rõ thâm ý của Thiên Thư Tú Sĩ. Lão ta ỷ vào công lực thâm hậu, kéo dài trận đấu đến lúc đối phương kiệt sức mới hạ thủ. Nhưng Tề Thanh Tuyệt đã gật đầu đồng ý ngay, bước ra đứng ở mé lôi đài hướng Đông mà chờ đợi! Cây hương thời gian mới được thắp lên và Đàm Vân Tử cao giọng tuyên bố:
    - Mời nhị vị thí chủ vào trận! Tề thí chủ kém hai tuổi được quyền xuất thủ trước!
    Tư Đồ Sảng, tức Tề Thanh Tuyệt rút thanh kiếm có lưỡi đen sì bên hông ra dựng trước mặt, tay tả bất kiếm ấn, sắc mặt an hòa thư thái, ánh mắt nhân từ chẳng hề có chút sát khí nào cả! Và chàng lướt đến tấn công họ Lăng bằng một chiêu kiếm rất nhẹ nhàng!
    Thiên Thư Tú Sĩ cũng giữ phong độ tôn sư, điềm đạm giải phá, thủ nhiều hơn công. Về nguyên tắc, Lăng Quân Vĩnh chỉ cần thủ hòa và giữ cho thân thể toàn vẹn là xem như thắng cuộc? Do vậy trước khi bị rách áo, lão chẳng cần phải vội!
    Tư Đồ Sảng thì khác, chàng ước lượng Kim Ngư đã đem lại cho mình độ hai mươi năm công lực, tổng cộng chưa đầy Hoa Giáp và vẫn còn kém xa đối phương. Do vậy, khi cuộc chiến kéo dài chàng sẽ không chi trì nổi. Bản lãnh của Tú Sĩ vốn cao siêu hơn Lăng Song Tường vài bậc! Hiện nay, Tư Đồ Sảng đã có năm thành hoả hầu của công phu Khô Mộc Tâm Pháp, có thể liều mạng chịu đựng chưởng Lô Hoả mà giết họ Lăng. Nhưng chàng chưa muốn chết và cũng không muốn lấy mạng Thiên Thư Tú Sĩ. Bởi thế chàng mới cố ép Quân Vĩnh so ueul, để có thể nhẹ nhàng đả bại lão mà chẳng cần phải nặng tay!
    Giờ đây Tư Đồ Sảng đã giảm được số thế thức trong chiêu “Thượng Thiên Nhược Thủy” xuống còn hơn trăm, tiến một bước dài trên kiếm đạo. Đạt cảnh giới vô chiêu nên chàng không sợ người thân nhận ra sở học, nhất là khi chàng đã nhuộm đen thanh Từ Tâm Kiếm! Còn về thân pháp thì cũng thế, Tư Đồ Sảng hoán vị, di chuyển nhanh đến mức chẳng ai có thể nhìn được lộ số của bộ pháp!
    Tư Đồ Sảng tự nhủ rằng cách chiến thắng không đổ máu sẽ tốt hơn và chàng quyết định dồn cho đối phương phải rời lôi đài.
    Chàng liền thi triển phép khoái kiếm đến độ chót tấn công tựa bão táp mưa sa, mũi gươm uy hiếp toàn những tử huyệt để Lăng Quân Vĩnh sợ hãi mà thoái bộ!
    Thiên Thư Tú Sĩ bị luồng kiếm quang đen mờ, hắc ám kia bủa vây và hơi thép lạnh làm rợn cả da thịt thì lòng vô cùng kinh hãi. Lão không ngờ đường kiếm của Tề Thanh Tuyệt lại nhanh hơn mình và biến hóa tuyệt luân.
    Thiên Thư Tú Sĩ cắn răng chống trả bằng những chiêu kỳ tuyệt nhất trong pho Kim Liễu Kiếm Pháp. Tiếc thay, những chiếc lá liễu vàng óng, quí phái đã tan tác trước đám mây kiếm ảnh đen đủi.
    Đường gươm của Tề Thanh Tuyệt ảo diệu phi thường, dễ dàng hóa giải những chiêu thức của pho Kim Liễu Kiếm Pháp. Trong chớp mắt, mũi gươm đen sì kia có thể điểm liền ba thức, thọc qua chỗ sơ hở mà tìm đến các yếu huyệt trên thân trước họ Lăng.
    Những lúc ấy, Thiên Thư Tú Sĩ chẳng còn cách nào khác là phải lùi lại để tránh đòn. Sáu hơn nửa khắc lão chỉ còn cách mép lôi đài nửa trượng.
    Quần hùng ngây ngất trước nghề đánh kiếm vô song của Tề Thanh Tuyệt, hoan hô như sấm dậy!
    Ban giám đài cũng sững người vì kinh ngạc, không ngờ họ Tề lại có bản lãnh kiếm thuật cao siêu hơn cả Tư Đồ Sảng, kẻ được xem là Trung Nguyên Đệ Nhất Kiếm Thủ!
    Tiếng reo hò ca ngợi Tề Thanh Tuyệt đã làm cho Thiên Thư Tú Sĩ giận đến điên người. Lão tức tối vì đã sa bẫy của họ Tề, sắp sửa vuột mất ngôi Minh chủ!
    Lăng Quân Vĩnh chẳng cam tâm chịu thất bại, liền sử dụng chiến thuật của Hải Hoa Bang Chủ Giáp Vô Yên!
    Họ Lăng dồn hết chân lực vào tay hữu, đánh một chiêu toàn những thức công, lộ rất nhiều sơ hở. Những đường gươm của lão mãnh liệt tựa những nhát búa của lôi thần, có thể đánh văng vũ khí của đối phương, hoặc chẻ dọc thân xác Tề Thanh Tuyệt chỉ bằng một nhát!
    Tư Đồ Sảng không dám đổi mạng với kẻ chẳng oán thù nên đành phải tháo lui, tay xiết chặt chuôi gươm mà đối phó!
    Thiên Thư Tú Sĩ tưởng họ Tề sợ chết, mừng rỡ tấn công quyết liệt bằng những chiêu cương mãnh và liều lĩnh, liên tiếp đẩy lùi đối thủ. Cuối cùng, đến lượt Tề Thanh Tuyệt sắp rơi đài!
    Bọn đệ tử Hạo Thiên Cung hân hoan rống lên, cổ vũ cho thượng cấp, còn những người ủng hộ cho Tề Thanh Tuyệt thì im bặt. Chỉ một mình nhà sư Tây Tạng nói rất lớn:
    - Giữ lòng nhân ái với Quỉ Vương là bất nhân với chúng sinh đấy?
    Tư Đồ Sảng giật mình nhận ra nét mặt Lăng Quân Vĩnh đầy vẻ ác độc và ánh mắt lạnh lùng, tàn nhẫn chẳng khác gì Thanh Y nhân! Lửa giận bùng lên, Tư Đồ Sảng dồn toàn lực vào Từ Tâm Kiếm, ra đòn như bão táp, phong tỏa đường gươm của đối phương rồi thọc một nhát nhanh như điện vào tâm thất!
    Chàng chưa khởi sát niệm nên không thọc kiếm quá sâu, chỉ vừa đâm gẫy xương ức họ Lăng là thu kiếm về. Xương ức rất cứng rắn nên lực phản chấn đã đẩy Thiên Thư Tú Sĩ lùi lại Lão vô cùng đau đớn nhưng biết rằng phủ tạng vẫn chưa bị tổn thương, liền hung hãn xông vào, kiếm kình nặng như núi đổ! Lão có hơn Hoa giáp tu vi nên vết thương kia chẳng có nghĩa lý gì!
    Tư Đồ Sảng thấy lão vẫn chưa tỉnh ngộ lòng rất chán ngán. Chàng tiếp tục xuất kỳ chiêu, kiếm ảnh mịt mờ như làn sương đen, hoá giải đòn phản kích vũ bão của Lăng Quân Vĩnh rồi thọc thêm một nhát vào sườn trái!
    Lần này, mũi kiếm đâm gẫy sườn non và xuyên thủng dạ dày khiến cho Thiên Thư Tú Sĩ đau tới mức phải rú lên và nhẩy lùi hơn trượng. Lão tức tối đến phát run nhưng còn đủ tỉnh táo để hiểu rằng mình sẽ chết nếu còn tiếp tục so kiếm với họ Tề? Kẻ đại gian hùng thường hiểu rõ lẽ tiến thoái, nên Lăng Quân Vĩnh cắn răng nuốt hận, tra gươm vào vỏ nhận bại! Lão tự nhủ rằng sẽ phanh thây Tề Thanh Tuyệt ngay sau khi bình phục!
    Quần hùng phấn khởi reo hò khi Đàm Vân Tử tuyên bố rằng tiết Trùng Cửu sang năm sẽ tổ chức Đại hội lần nữa! Họ càng cao hứng bởi lời hứa của Hí Nhân Cư Sĩ là Đại hội lần sau lão sẽ cho bày ngàn mâm rượu thịt để quần hùng vừa nhâm nhi vừa xem tỷ võ! Và bất cứ ai thiếu lộ phí quay về cố quận thì Cổ Quí Sinh sẵn sàng cung cấp!
    Nửa vạn hào kiệt chưa kịp quay bước thì nghe Đàm Vân Tử dõng dạc nói:
    - Kính cáo toàn thể chư vị đồng đạo! Hội đồng võ lâm đã quyết định trao chức quyền Minh chủ cho lão thí chủ Tề Thanh Tuyệt, đến ngày Trùng Cửu sang năm thì mãn nhiệm!
    Quần hùng tán thành ngay vì vô cùng kính phục bản lãnh kiếm thuật và nhân phẩm của lão Tề. Ông ta có thể đâm chết Thiên Thư Tú Sĩ nhưng đã không làm. Và ngay từ đầu, Tề Thanh Tuyệt đã từ chối chức Minh chủ, chứng tỏ tính cách cao thượng, nhạt mùi danh lợi

  4. #43
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 15

    Nhạc Dương Hảo Hán Tru Gian Tế
    Sa Địa Quần Hùng Tảo Ác Ma
    Họ đi cả rồi, bình đài đỉnh núi trở nên cực kỳ tĩnh lặng, dưới ánh chiều tà mùa thu vàng võ!
    Tư Đồ Sảng vô cùng bối rối trước quyết định bất ngờ của Hội đồng võ lâm. Chàng ngượng ngùng bước lên bình đài để nhận cờ cùng Kiếm ấn Minh chủ và nghiêm trang lập thệ!
    Mộc Chân Nhân, Chưởng môn phái Hoa Sơn cao hứng nói:
    - Hoàng hôn trên rặng Tung Sơn thật là diễm lệ phi thường. Hay là chúng ta bày tiệc trà ngay chốn này để vừa thưởng lãm vừa trò chuyện!
    Vị địa chủ đất này là Giám Tuệ thiền sư, phương trượng chùa Thiếu Lâm, vui vẻ chiều lòng khách, bảo đệ tử nấu trà!
    Tính cả Tề Thanh Tuyệt, Thiện Tề đại sư, Mạc Chiêu Hương, Trại Tôn Tử và Huyết Báo Liễu Mộ Hào thì có tổng cộng mười ba người, ngồi quanh chiếc bàn Giám khảo, trên lôi đài!
    Hí Nhân Cư Sĩ, tức Tây Môn Giới, nóng nẩy hỏi ngay:
    - Này Tề lão đệ! Ông không tham chức Minh chủ thì tại sao lại khổ công ngăn cản Thiên Thư Tú Sĩ đăng quang?
    Tề Thanh Tuyệt nghiêm nghị đáp:
    - Cái cách giết người ngã ngựa của Lăng Quân Vĩnh đã chứng tỏ một tâm địa bất nhân, độc ác! Kẻ có nhân phẩm như thế không xứng làm Minh chủ Võ lâm!
    Cổ Quí Sinh cười nhạt:
    - Nếu Tôn giá đã nghĩ thế thì sao không giết quách họ Lăng đi để trừ họa? Sang năm lão ta lại thượng đài, giết thêm ai đó rồi trở thành Minh chủ thì tôn giá sẽ làm gì?
    Tề Thanh Tuyệt khẳng khái đáp:
    - Nếu họ Lăng đúng là đáng chết thì sang năm lão phu sẽ thí mạng mà giết lão ta, Cư Sĩ cứ yên tâm!
    Câu nói đầy chính khí này đã khiến Cổ Quí Sinh và những người khác phải sinh lòng ngưỡng mộ!
    Hạo Dương Chân Quân đặt chén trà xuống, thủng thẳng nói:
    - Hàng trăm năm nay, Thánh Hỏa Giáo không hề nổi tiếng về kiếm thuật, cớ sao Tề thí chủ lại giỏi nghề đánh kiếm như thế? Dám hỏi lệnh sư là vị trưởng lão nào trong quí Giáo vậy?
    Tề Thanh Tuyệt lạnh lùng đáp:
    - Lão phu chỉ là con của một gia đình giáo chúng, không có quan hệ với các cao thủ Thánh Hỏa Giáo! Còn sở học của lão phu là do một bậc Dị nhân ở núi Cửu Hoa Sơn truyền thụ cho!
    Và lão hỏi ngược lại:
    - Chẳng hay chư vị phong cho lão phu cương vị quyền Minh chủ nhằm mục đích gì?
    Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Tuệ lên tiếng:
    - Hiện nay, hai nhà Khuất, Giả ở thành Trường Sa bị Kỳ Lân Bang dùng độc dược uy hiếp, cướp sạch gia sản. Lão phu là thân thích của một trong hai gia đình nạn nhân nên tha thiết mong mỏi tôn giá dùng quyền Minh chủ mà bắt Kỳ Lân Bang phải gíải trừ cấm chế và trả lại tự do cùng tài sản cho hai họ ấy!
    Tề Thanh Tuyệt cau mày:
    - Sao lão phu nghe nói Bang chủ Kỳ Lân Bang là nam tử của Giả Tài Thần?
    Trại Tôn Tử lắc đầu:
    - Giả Bạch Hổ chỉ là cháu ruột được Giả Tài Thần nhận làm con nuôi, Bạch Hồ biết Đại Tiểu thư Giả Đan Quỳnh sẽ thừa kế tất cá nên đã âm mưu với cố Bang chủ Kỳ Lân Bang Tần Cốc Lý để chiếm đoạt gia sản nhà họ Giả. Họ còn uy hiếp cả Khuất gia trang và bức hôn điệt nữ của lão phu là Khuất Thúy Lan!
    Nói đến đây Hồ lão đau lòng sa lệ, không sao trình bày tiếp được nữa!
    Tề Thanh Tuyệt đăm chiêu suy nghĩ, mấy ngón tay của bàn tay hữu vô tình lần lượt gõ xuống mặt bàn! Mạc Chiêu Hương và Huyết Báo rúng động, nhìn nhau vì cùng nhận ra thói quen của Tư Đồ Sảng!
    Lát sau, Tề Thanh Tuyệt đưa ra chủ ý:
    - Kỳ Lân Bang thế lực hùng mạnh, lại không tham dự Đại hội nên sẽ không công nhận quyền Minh chủ của lão phu và chống cự lại. Vì vậy, cách tốt nhất là chúng ta phải đưa được cả nhà họ Khuất họ Giả ra ngoài để dâng sớ kiện Giả Bạch Hổ! Sau đó, chúng ta sẽ phối hợp với quân binh Trường Sa để tiêu diệt Kỳ Lân Bang, giải thoát cho những người còn lại!
    Trại Tôn Tử hoan hỉ đứng lên vái dài:
    - Không ngờ Tề Minh chủ lại nghĩ ra việc huy động quân Triều đình khiến vấn đề này trở nên dễ dàng như lật bàn tay! Lão phu đề nghị sáng mai chúng ta khởi hành ngay?
    Hí Nhân Cư Sĩ trầm ngâm bảo:
    - Lão phu xin giao phó hai trăm kiếm thủ để minh chủ sử dụng. Trước đây họ là tùy tùng của cố Minh chủ Tư Đồ Sảng!
    Bạch Trúc Tử tiếp lời:
    - Bần đạo và Ngũ Trưởng lão Đàm Vân Tử cũng sẽ dẫn theo trăm đệ tử Võ Đang để Minh chủ sai khiến!
    Trại Tôn Tử có mối giao tình rất thâm hậu với Võ Đang nên phái này nhiệt tình hỗ trợ!
    Tóm lại, sáu phái đều cử người tham gia cuộc Nam chinh xuống Trường Sa! Song tổng số chỉ độ ba trăm rưỡi vì các phái Hoa Sơn, Thiên Sư Giáo, Toàn Chân không mang theo nhiều đệ tử! Thiếu Lâm tự cử Giám Vân thiền sư và Thập Bát La Hán! Cái Bang thì chỉ có một mình Bang chủ Hắc Bì Cái!
    Nhà sư Tây Tạng pháp hiệu Thiện Đề cũng hăng hái đòi tham gia và thản nhiên nói:
    - Bần tăng đã nguyện đem tài ra phò tá Tề lão thí chủ? Mong chư vị phong cho bần tăng cái chức phó Minh chủ võ lâm để bần tăng tự hào khi quay về Bố Đà La Tự! Chà! Chà! Lúc ấy chắc là bần tăng sẽ được các sư huynh sư đệ ngưỡng mộ và không còn dám đem chuyện phạm giới ra mà bêu riếu nữa.
    Khi nói đến hai chữ phạm giới, Thiện Đề minh họa bằng cách đưa hai tay lên bóp vú mình, khiến cả bàn cười nôn ruột. Đàm Vân Tử ngao ngán bảo:
    - Thì đại sư cứ xem mình là phó minh chủ, chẳng ai phản đối cả!
    Thiện Đề tưởng thật, hoan hỉ đứng lên vái tạ hội đồng võ lâm và bắt chước Tề Thanh Tuyệt mà thề thốt:
    - Bần tăng nguyện một lòng vì chính nghĩa võ lâm, dẫu phải xả thân cũng không quản ngại.
    Sáu vị chưởng môn bối rối, chẳng ngờ Thiện Đề lại ngây thơ đến mức không biết rằng Đàm Vân Tử nói chơi. Nhưng chẳng ai nỡ làm Thiện Đề cụt hứng nên đành im. lặng hoặc nói lảng sang chuyện khác.
    o0o
    Gần giữa tháng mười một, đoàn quân viễn chinh có mặt ở Trường Sa. Dĩ nhiên, họ không đi thành một đoàn rầm rộ, cờ xí rợp trời mà phân tán làm nhiều nhóm nhỏ. Hòa thượng trọ ở chùa, đạo sĩ thì tìm đạo quán, kỳ dư chia nhau vào các khách điếm ở trong và ngoài thành Trường Sa.
    Số nhân thủ vào thành chỉ độ ba mươi người, thuộc đội cận vệ minh chủ, vì Giả Gia Trang chỉ là mục tiêu thứ yếu, còn Tổng đàn Kỳ Lân Bang thì ở ngoài cửa Tây, cạnh bờ sông Tương.
    Tuy cố bang chủ Kỳ Lân Bang, là Môn Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý, chết dưới tay Trương giáo chủ. Nhưng đạo quán Thiên Sư vẫn bình yên tồn tại ở giữa thành Trường Sa chẳng hề bị Kỳ Lân Bang đụng đến.
    Có ba nguyên nhân tạo nên hiện tượng này. Thứ nhất là vì chẳng có ai nghĩ đến việc báo thù cho Tần Cốc Lý cả. Hai là, đụng đến Thiên Sư Giáo sẽ gặp rắc rối với quan nha. Ba là Tư Đồ Sảng đã chết.
    Vì vậy, hôm nay Kỳ Lân Bang và Thiên Sư Giáo ở trong cái thế “Nước sông nước giếng chẳng phạm nhau.” Bởi thế cho nên Trương giáo chủ đã cùng vài người nữa vào ở trong đạo quán Trường Sa. Họ đã cẩn thận đi lối cửa hông. Lúc trời tối hẳn, để đề phòng tai mắt của phe đối phương.
    Toán người này gốm có Trương Thiên Sư, Trại Tôn Tử, Hí Nhân Cư Sĩ, Mạc Chiêu Hương, Liễu Mộ Hào và quyền minh chủ võ lâm Tề Thanh Tuyệt.
    Quán chủ đạo quán là Linh Tâm Tử, đồ đệ thứ tư của Trương Thiên Sư. Ông ta vui mừng trước sự giá lâm bất ngờ của giáo chủ song lại băn khoăn khi biết mục đích của đoàn quân viễn chinh.
    Linh Tâm Tử nghiêm nghị bảo:
    - Bẩm giáo chủ! Đệ tử e rằng kế hoạch mượn tay quân triều đình để tiêu diệt Kỳ Lân Bang sẽ khó mà thực hiện được. Giả Bạch Hổ đã khôn ngoan hối hộ hàng ngàn lượng vàng cho tri phủ và tổng binh thành Trường Sa. Vì thế,dẫu cho chư vị có đưa được Giả trang chủ và Khuất trang chủ đến công đường dâng sớ kiện cáo thì cũng vô ích và rất nguy hiểm. Kỳ Lân Bang sẽ sớm biết tin và tập trung lực lượng sát nhân diệt khẩu, ém nhem vụ án lại. Tổng số nhân thủ của Kỳ Lân Bang 1ên đến gần ngàn, chư vị chỉ có hơn ba trăm, thắng thua đã rõ.
    Nghe xong, ai nấy đều thất vọng, Trại Tôn Tử ngậm ngùi than:
    - Quan lại cấu kết với cường hào ác bá chính là tệ nạn bao đời của Trung Hoa. Vậy thì chúng ta chỉ còn cách âm thầm cứu lấy sinh mạng hai nhà Giả.Khuất rồi rút lui.
    Hí Nhân Cư Sĩ gật đầu tán thành và mỉa mai:
    - Lão phu cũng đã tiên liệu tình hình ấy. Chỉ vì Tề minh chủ quá ngây thơ, tin vào vương pháp nên mới có cái cảnh “Đầu voi đuôi chuột” này.
    Tề Thanh Tuyệt, tức Tư Đồ Sảng, vô cùng hổ thẹn trước lời trách móc của nghĩa phụ, lặng người suy nghĩ. Chàng hiểu rằng bọn tham quan Trường Sa đã ăn tiền quá đậm tất sẽ không vì chút oai Đại Lý Tự của chàng mà hy sinh hũ vàng. Không chừng họ còn giả vờ vâng dạ để hoãn binh và báo cho Kỳ Lân Bang biết mà đối phó.
    Cứu người là việc dễ nhưng sau đó Giả Bạch Hổ sẽ dùng tài sản khổng lồ của hai họ mà chiêu binh mãi mã, bành trướng thế lực, hùng mạnh đến mức võ lâm có muốn tiêu diệt cũng không đủ sức.
    Đang lúc bối rối, Tư Đồ Sảng chợt nhớ đến ả hồ ly Bạch Phụng “thần thông quảng đại” lòng có chút phấn khởi, liền nói với vẻ tự tin:
    - Lão phu đã có chủ ý song cần phải cân nhắc thêm. Sáng mai lão phu sẽ trình bày để chư vị được rõ. Giờ xin cáo biệt vì lão phu cần ra ngoài để tìm một người quen.
    Tư Đồ Sảng rời đạo quán mà không biết rằng mình bị Huyết Báo bám theo. Chàng chẳng đi đâu xa, vào ngay khách điếm gần đấy mà mướn phòng trọ. Đạo quán là chốn linh thiêng, Bạch Phụng sẽ không dám hiện hình cùng chàng tương hội.
    Tư Đồ Sảng mướn phòng và đặt một mâm cơm mặn. Tắm gội xong chàng khoan khoái thưởng thức rượu thịt, tự nhủ rằng mình không có căn tu nên thích mặn hơn chay.
    Sau đó, Tư Đồ Sảng tĩnh tọa hành công cho đến tận đầu canh ba rồi mới khêu nhỏ đèn mà đi ngủ.
    Huyết Báo Liễu Mộ Hào rình rập ngoài vườn hoa, thấy thế chán nản bỏ về đạo quán, bực bội báo cáo:
    - Bẩm tam vị tiền bối! Té ra là họ Tề vào trọ trong một lữ điếm nhỏ ở gần đây, no say rượu thịt rồi ngủ khì, chẳng liên hệ với ai cả.
    Trương giáo chủ mỉm cười:
    - Y ăn mặn là phải, nếu gọi món chay sẽ gây nghi ngờ. Hơn nữa, Tề thí chủ chẳng phái chức sắc của Thánh Hỏa Giáo, không bắt buộc phải trường trai.
    Trại Tôn Tử bỗng nhíu đôi mày bạc phếch, thở dài bảo Hí Nhân Cư Sĩ:
    - Này Tây Môn lão đệ! Con người ta có thể già đi nhưng thần khí thì không hề thay đổi. Lão phu đã từng xem tướng cho lệnh lang nên rất phân vân khi nhận ra những nét tương đồng giữa Tư Đồ Sảng và Tề minh chủ.
    Tây Môn Giới cười buồn:
    - Lão phu cũng đã âm thầm hoài nghi Tề Thanh Tuyệt là hóa thân của Sảng nhi song không dám chắc. Lẽ nào một kẻ rơi xuống vực thẳm trăm trượng mà lại sống sót. Và lẽ nào trên đời lại có người đột ngột già đi vài chục tuổi như thế? Và tại sao Sảng nhi không nói ra sự thực để người thân không còn phải khóc thương?
    Trương Thiên Sư nghiêm giọng:
    - Bần đạo linh cảm rằng sự xuất hiện đột ngột của Tề Thanh Tuyệt rất đáng ngờ. Đêm nay, bần đạo sẽ dùng phép kim tiền để thỉnh ý Tam Thanh.
    Trong lúc ấy, căn phòng trọ của Tư Đồ Sảng sực nức mùi hương kỳ diệu tỏa ra từ một thân thể mỹ nữ nuột nà. Bạch Phụng đã hiện về sau gần tháng cách xa, kể từ hôm đại hội võ lâm.
    Tư Đồ Sảng nghẹn ngào dang tay ôm lấy người thương. Trong phút chốc. cả ba dung mạo Phi Tuyết, Phi Hồng, Bạch Phụng lần lượt đổi thay khiến chàng vừa mừng, vừa đau lòng khôn xiết. Tuy biết đấy là yêu pháp của Bạch Phụng song Tư Đồ Sảng vẫn hân hoan, âu yếm gọi:
    - Tuyết muội! Hồng muội!
    Chàng hôn họ mà nước mắt tuôn như suối. Cuối cùng, gương mặt mỹ nhân trở lại là Bạch Phụng, ả hồ ly tinh xinh đẹp và quyến rũ. Nàng thè chiếc lưỡi dài ướt át liếm những giọt lệ trên mặt Tư Đồ Sảng rồi dịu dàng an ủi:
    - Ngày phu thê đoàn tụ chẳng còn lâu, xin tướng công chớ nên bi lụy nữa. Thiếp nghe gia phụ kể rằng cuộc chẩn tế thủy tai sông Hoài đã làm cho âm đức của chàng thêm đầy đặn, không chừng ra giêng có thể đảo mệnh cho hai song thê.
    Tư Đồ Sảng lộ sắc mừng nhưngrồi lại bâng khuâng hỏi:
    - Còn duyên nợ của chúng ta thì sao? Chẳng lẽ những kẻ yêu nhau tha thiết lại phải cách chia?
    Bạch Phụng nhìn chàng say đắm song giọng nói rất buồn:
    - Thiếp đã xin từ chức Hồ Ly Tổng Thần để đi theo tướng công. Tuy nhiên, việc nên duyên e rằng suốt kiếp chẳng thành. Thiếp chỉ có thể lén lút đến với chàng khi màn đêm buông xuống mà thôi.
    Nói xong, nàng khóc nức nở, cảm khái cho thân phận của chính mình. Tư Đồ. Sảng thương tâm vô hạn, cố nén lòng mà an ủi Bạch Phụng:
    - Thế sự vô thường! Nhân gian lắm cảnh đoạn trường, nên có biết bao nhiêu chinh phụ tựa cửa trông chồng, tuổi xuân trôi đi lúc nào không biết. Nay ta cùng nàng đêm đêm được đoàn tụ cũng là hạnh phúc lắm rồi.
    Bạch Phụng thấy chàng nói thế liền gượng vui để tình quân yên dạ.
    Nàng cười đáp:
    - Tướng công nói chí phải! Thiếp đã hiểu ra, không còn buồn nữa.
    Và nàng chứng tỏ bằng cách háo hức mời gọi ái ân, cởi áo Tư Đồ Sảng. Thân hình Bạch Phụng không nẩy nở bằng Mạc Chiêu Hương nhưng bát ngát u hương, dễ làm đắm say lòng quân tử. Tư Đồ Sảng mê muội chìm vào hoan lạc mây mưa đến tận cuối canh ba mới chịu rời xác thân kiều diễm, nồng nàn của Bạch Phụng. Tư Đồ Sảng không biết rằng đầu canh ba đã có người rình rập ở phía sau phòng mình. Huyết Báo đã quay lại nhưng lát sau bỏ đi khi cứ phải nghe tiếng rên khoái lạc của Bạch Phụng. Gã chửi thầm trong bụng, chê Tề Thanh Tuyệt là phường dâm đãng.
    Tàn chiến trận, chàng kể cho nàng nghe những khó khăn trong việc tiêu diệt Kỳ Lân Bang. Bạch Phụng cười khúc khích bảo:
    - Thiếp không thể dùng yêu pháp mà giết kẻ thù hộ tướng công song khả dĩ chỉ cho chàng lối thoát. Hiện nay tam ty tỉnh Hồ Quảng đang ở thành Nhạc Dương, trong các vị quan lớn ấy thì ngài Đô chỉ huy sứ Đường Tôn Niệm là người thanh liêm, “khẳng khái” nhất. Tướng công đưa Giả đại tiểu thư đến Nhạc Dương dâng sứ kiện cáo tất họ Đường sẽ kéo đại quân về Trường Sa tiêu diệt Kỳ Lân Bang.
    Tư Đồ Sảng băn khoăn:
    - Tuy đô chỉ huy sứ ty là nơi thống lĩnh ba quân của tỉnh. Song muốn xuất quân thì phải bàn bạc với Thừa Tuyên Bố Chính sứ ty và Đề Hình Án Sát sứ ty. Ta chỉ sợ hai ty kia không đồng ý. Vả lại, chắc gì Đường Tôn Niệm đã chịu vì một tờ sớ kiện mà đụng đến binh đao?
    Bạch Phụng vui vẻ đáp:
    - Tướng công cứ yên tâm! Thiếp sẽ có cách khiến cho Đường Tôn Niệm phải tận tâm giúp đỡ và tác động đến hai ty kia. Họ Đường là cháu ruột của đương kim Hoàng Hậu nên oai phong nhất tam ty, không ai dám cãi lời.
    Tư Đồ Sảng nghe nói Đường Tôn Niệm là anh em cô cậu với Tam Hoàng Tử Chu Tải Hậu thì rất yên lòng. Chàng cùng Bạch Phụng bàn bạc kế hoạch rất kỹ lưỡng để ngày mai báo lại với nghĩa phụ.
    Giữa canh tư, Bạch Phụng biến mất, thực ra là đi đến Giả Gia Trang để gặp Giả Đan Quỳnh, thi triền Mộng Du Đại Pháp bắt nàng viết sớ kiện Giả Bạch Hổ và Kỳ Lân Bang.
    Từ Trường Sa đến Nhạc Dương, đi về cũng phải mất bốn ngày đường và sự vắng mặt của Giả Đan Quỳnh sẽ khiến phe đối phương nghi ngờ. Vì vậy, Bạch Phụng sẽ giả làm nàng ta mà vào dinh quan đô chỉ huy sứ dâng sớ.
    Sáng ra, Tư Đồ Sảng đã có đơn kiện trong tay, sang Thiên Sư đạo quán để gặp các trưởng bối. Chàng hơi ngạc nhiên khi thấy ánh mắt họ nhìn mình với vẻ thiếu thiện cảm. Và Tây Môn Giới đã lạnh lùng mỉa mai:
    - Mời Tề minh chủ an tọa, cùng bọn lão phu dùng điểm tâm. Đêm qua túc hạ phải khổ cực phá thành đoạt lũy nên chắc giờ này rất đói bụng.
    Tư Đồ Sảng chợt hiểu ra rằng nghĩa phụ đã đem dạ hoài nghi nên sai Liễu Mộ Hào đi do thám. Chàng mừng vì Huyết Báo đã đến không đúng lúc, chẳng nghe được cuộc đàm đạo của chàng với Bạch Phụng, trước và sau trận ái ân. Nếu không, giờ đây thái độ của mọi người đã khác hẳn.
    Tư Đồ Sảng tự lượng không địch lại Thanh y nhân hoặc Thiên Thư Tú Sĩ nên chưa muốn để lộ thân phận thực. Nếu kẻ thù biết chàng còn sống thì sẽ dùng thủ đoạn hiểm độc mà đối phó. Việc Lăng Song Tường bắt cóc Mạc Chiêu Hương và Huyết Báo là một ví dụ điển hình. Hơn nữa, chàng tin lời Bạch Phụng, sợ vận xui xẻo của mình làm người thân phải bị vạ lây.
    Chính vì thế mà Tư Đồ Sảng càng yên tâm khi bị nghĩa phụ trách móc. Tây Môn Giới tưởng chàng ngủ với kỹ nữ, tất sẽ không giống tính cách con nuôi của ông.
    Tư Đồ Sảng thản nhiên đáp:
    - Lão phu có quyền hưởng một chút thú vui sau khi xâm nhập Giả Gia Trang để lấy sớ kiện. Mời chư vị xem thư sẽ rõ.
    Đọc xong, ba lão già nhìn chàng bằng ánh mắt khâm phục. Trại Tôn Tử vui vẻ bảo:
    - Tề minh chủ quả là bậc kỳ nhân tài ba quán thế, ra vào hang hùm chẳng chút khó khăn, khiến lào phu phải đê đầu bái phục.
    Rồi lão chỉnh sắc hỏi:
    - Nhưng nay không có nguyên đơn là Giả Đan Quỳnh cùng đi, liệu tam ty Hồ Quảng có chịu thụ lý vụ án này hay không? Lão phu mong minh chủ hãy cân nhắc kỹ trước khi đi Nhạc Dương.
    Tư Đồ Sảng dõng dạc đáp:
    - Lão phu xin đảm bảo rằng chỉ trong vòng bốn năm ngày, đại quân của Hồ Quảng sẽ đến Trường Sa trong thời gian ấy, mong chư vị cố liên lạc với các nạn nhân, giải độc cho họ. Lão phu ước tính rằng trễ lắm là chiều ngày mười bẩy, hoặc mười tám sẽ đưa quân về tới, cùng quần hùng tiêu diệt Kỳ Lân Bang.
    Tuy chàng đã đoán chắc như thế mà ba vị lão thành vẫn chẳng yên tâm. Trương Thiên Sư vuốt râu bàn:
    - Không phải bần đạo dám nghi ngờ lời hứa của Tề minh chủ song nếu chẳng may sự việc không như ý, mong minh chủ đến chùa Thanh Liêm Tự ở phía Đông Bắc thành Trường Sa. Bọn bần đạo và hai gia đình Khuất Giả sẽ chờ ở đấy để rút lui cho thuận lợi.
    Tư Đồ Sảng mĩm cười dễ dãi:
    - Lão phu xin tuân mệnh giáo chủ!

  5. #44
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chàng cáo từ mọi người rồi lấy ngựa đi ngay. Chàng đã được Tây Môn Giới hóa trang cho từ trước lúc đến địa phận Hồ Nam nên chẳng sợ Kỳ Lân Bang nhận mặt. Tuy Giả Bạch Hổ không tham dự đại hội nhưng chắc chắn sẽ cho thủ hạ đến nghe ngóng, biết quyền minh chủ là ai? Tây Môn Giới bắt chàng phải nhuộm tóc và mang mặt nạ.
    Tề Thanh Tuyệt đi rồi, Trại Tôn Tử bâng khuâng bảo:
    - Người này lượng rộng như biển, chẳng hề để bụng việc gì. Nếu là kẻ nhỏ hẹp tất đã chạnh lòng vì thái độ thiếu tin tưởng của Trương giáo chủ.
    Huyết Báo bực bội lên tiếng:
    - Vãn bối thì lại hoài nghi nhân cách của họ Tề. Lão ta tuổi đã quá lục tuần mà còn ham gái hơn cả bọn thanh niên. Đêm qua...
    Gã sực nhớ ra sự hiện diện của Mạc Chiêu Hương nên không dám nói tiếp nữa.
    Tây Môn Giới hừ nhẹ:
    - Tề Thanh Tuyệt không đưa Giả đại tiểu thư theo cũng là hợp lý nhưng lão phu e rằng y sẽ thất bại, chúng ta chẳng còn cách nào khác đành lo việc cứu người trước, rồi rút về Thanh Liêm Tự.
    o0o
    Xế chiếu ngày mười bốn, Tư Đồ Sảng đến Nhạc Dương.
    Thành Nhạc Dương xưa kia có tên là Ba Lăng, nằm ở phía Đông Bắc Hồ Nam, nơi có một nửa Động Đình Hồ đổ vào Trường Giang.
    Nhạc Dương có lịch sứ lâu đời, nổi tiếng thiên hạ với câu “Động Đình thiên hạ thủy. Nhạc Dương thiên hạ lâu.” Trong hàng ngàn năm, Nhạc Dương là nơi tụ hội của các thi hào văn nhân, là đất tranh hùng của các nhà cầm quân.
    Nhạc Dương có con sông Mịch La, một chi nhánh của sông Tương, nơi Khuất Nguyên tự trầm.
    Nhưng thắng tích lừng lẫy nhất Nhạc Dương chính là Nhạc Dương lâu, lầu Nhạc Dương đứng sừng sững ở phía Tây thành, quay mặt ra Động Đình Hồ.
    Lầu có hình chữ nhật, chính điện ba gian, xung quanh có hành lang, ba tầng ba mái hiên, cao hơn sáu trượng, mười tám phẩy bốn mươi bẩy mét. Đỉnh lầu là bốn đỉnh tròn vồng lên, bề mặt của lầu trên lồi, dưới lõm, là kiến trúc có đỉnh tròn lớn nhất Trung Hoa. Mái lầu được ốp ngói lưu ly mầu vàng, các góc bên cong vút lên.
    Hai mặt bên phải và trái phía trước lầu cùng với nó đứng tạo thành hình chữ Phẩm, có đình Tam Túy và đình Tiên Mai làm nền.
    Nhạc Dương lâu vốn là lầu duyệt binh, do danh tướng Lỗ Túc của Đông Ngô thời Tạm Quốc xây dựng. Đến thời nhà Đường mới có tên Nhạc Dương lâu. Các thi hào như Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Đỗ Phủ... đều đã đến đây ngâm vịnh, đề thơ. Nhưng từ khi có tác phẩm “Nhạc Dương lâu ký” của Phạm Trọng Yên thời Tống thì danh tiếng của Nhạc Dương lâu càng được truyền xa, nổi tiếng khắp thiên hạ.
    Tư Đồ Sảng đã không thể bỏ qua cơ hội hiếm có, đến thưởng lãm danh thắng lầu Nhạc Dương cả Bạch phụng cũng thế, chui ra khỏi tay nải, nằm vắt vẻo trên vai chàng, giương đôi mắt chồn tinh quái mà ngắm cảnh.
    Tư Đồ Sảng ngây ngất bước lên tầng hai để xem bút tích của những nhà thơ huyền thoại. Chàng đứng trước bài thơ “Đăng Nhạc Dương Lâu” của Đỗ Phủ, cao hứng khẽ ngâm nga cho Bạch Phụng nghe. Bỗng Tư Đồ Sảng phát hiện có ba người vừa lên đến. Chàng giật mình nhận ra Giả Bạch Hổ, đổng hành với Tiên Nhân Động chủ Tất Linh Kỳ đã bị chàng đả thương ở núi Lư Sơn. Người thứ ba là một lão nhân phương phi, quắc thước, mái tóc và bộ râu năm chòm đầu bạc tuồng như mây. Ông ta không khép kín áo choàng lông cừu và Tư Đồ Sảng thấp thoáng thấy áo trong là đạo bào, vạt trước có thêu hình Bát Quái.
    Đông đã về, ngoài trời tuyết rơi nhè nhẹ, ai cũng mặc áo ngự hàn. Tư Đồ Sảng khoác áo lông cừu trắng muốt nên người ngoài khó mà nhìn thấy con chồn trắng trên vai chàng. Tuy nhiên, Bạch Phụng đã mau mắn chui vào ngực áo chàng đi tránh những cặp mắt tò mò.
    Bọn Giả Bạch Hổ không hề chú ý đến người khách đơn độc đang say mê thưởng thức những câu thơ Đỗ Phủ. Họ đứng tựa lan can trước mà ngắm cảnh hoàng hôn đầu Đông trên Động Đình Hồ và trò chuyện.
    Họ nói rất nhỏ nhưng âm thanh không thoát khỏi thính lực tinh tường của Tư Đồ Sảng. Qua cuộc đối thoại ấy chàng biết rằng Giả Bạch Hổ đến Bạch Dương để cầu hôn với ái nữ của ngài đô chỉ huy sứ Đường Tôn Niệm.
    Đường tiểu thư đã hai mươi sáu xuân xanh, dung nhan chẳng xấu nhưng ế chồng vì mang tuổi Canh Dần. Nữ nhân tuổi Dần bị xem là cao số, sát phu nên các nhà quyền quý đều kiêng kỵ, không dám rước về làm dâu. Còn như gả con cho hạng thường dân thì Đường đại nhân không cam tâm. Cuối cùng thì người thiệt thòi nhất là tiểu thư Đường Thiên Trang, phơi vò võ phòng không mà tiếc nuối tuổi thanh xuân.
    Tư Đỗ Sảng thầm lo ngại, không ngờ Giả Bạch Hổ lại nghĩ đến chuyện trở thành rể nhà họ Đường để củng cố thế lực. Chắc chắn là Đường chỉ huy sứ sẽ mau mắn gả phứt đứa con gái xấu xí ế ẩm cho chàng công tử giầu có nhất Hồ Nam, dù Thiên Trang chỉ được làm thiếp. Lúc ấy thì Kỳ Lân Bang như hổ thêm cánh, chẳng ai dám đụng đến hay kiện cáo nữa.
    Khi nghe nói tối nay Giả Bạch Hổ sẽ đến tư dinh của Đường Tôn Niệm để cầu hôn, Tư Đồ Sảng vô cùng bối rối và nẩy ra ý định giết gã. Chỉ có hạ sách ấy mới ngăn cản được âm mưu của kẻ đứng sau lưng Giả Bạch Hỗ là Thanh Y Nhân.
    Nhưng Tư Đồ Sảng vẫn còn do dự vì hiểu rằng Giả Bạch Hổ chỉ là con rối trong tay người khác, liệu có đáng chết hay không? Chàng đang phân vân thì nghe lão đạo sĩ tóc bạc kia nói:
    - Sau khi hôn sự đã thành, bần đạo hy vọng công tử cố khống chế cho được Đường Tôn Niệm và cả Tam Ty Hồ Quảng. Mùa thu sang năm, khi quân Mông Cổ vượt Vạn Lý Trường Thành tiến đánh Du Lâm thì công tử có thể xưng vương và chinh phạt các phủ huyện giáp giới. Triều đình nhà Minh ở thế lưỡng đầu thọ địch, phải phân tán lực lượng tất sẽ rất yếu.
    Tư Đồ Sảng cố nén lửa giận sôi sục trong lòng, lắng nghe tiếp câu chuyện. Lúc này, Giả Bạch Hổ đang đáp lời lão đạo sĩ, gian tế của Mông Cổ. Gã cau mày lộ vẻ e ngại:
    - Tuy Minh triều đang suy yếu nhưng quân đội vẫn còn đông hàng trăm vạn. Tại hạ có thể chiếm được Trường Sa nhưng không cầm cự nổi khi quý quốc chiếm được Bắc Kinh, đừng nói việc chinh phạt các vùng lân cận. Lúc ấy, tại hạ chẳng được gì mà còn mất mạng nữa.
    Lão đạo sĩ kia lắc đầu trấn an:
    - Bần đạo cam đoan chỉ trong vòng ba tháng là Hoa Bắc sẽ lọt vào tay người Mông Cổ. Nội gián của chúng ta ở Bắc Kinh sẽ ám sát Gia Tỉnh Hoàng Đế và Tam Hoàng Tử Chu Tải Hậu. Gã bất tài, nhút nhát là nhị hoàng tử Chu Cát sẽ lên ngôi và rút quân về cố thủ Hà Bắc. Gã đã bị chúng ta mua chuộc và uy hiếp tự lâu rồi. Chu Cát bằng lòng làm vua một lãnh thổ nhỏ bé là Hà Bắc và Sơn Tây. Bằng chứng của sự hợp tác ấy là có thư làm mai công tử cho tiểu thư Đường Thiên Trang.
    Giả Bạch Hổ nghe xuôi tai, mặt mày hớn hở, nghĩ đến viễn cảnh huy hoàng. Nhưng gã vẫn thận thận trọng hỏi lại:
    - Vậy chân nhân có mang theo sắc chỉ của Đại Hãn Mông Cổ đấy không? Tại hạ muốn nắm chắc cam kết giấy trắng mực đen, đóng dấu ấn tín.
    Lão đạo sĩ mỉm cười vỗ ngực:
    - Tất nhiên là có sẵn ở đây! Lát nữa về đến khách điếm bần đạo sẽ trao tờ sắc chỉ phong công tử làm Giang Nam Quốc Vương, cai trị toàn bộ vùng lãnh thổ phía Nam Trường Giang.
    Nghe xong, Tư Đồ Sảng chợt thức ngộ rằng cơ hội tiêu diệt Kỳ Lân Bang đã đến, với điều kiện chàng đoạt được bản sắc chỉ trong người lão đạo sĩ kia.
    Lúc này, bọn Giả Bạch Hổ đã rời lan can phía trước lầu, đi về hướng cầu thang. Tư Đồ Sảng nhẫn nại đứng im, tay xiết chặt chuôi gươm giả như đang mê mải đọc bài thơ trên vách.
    Khi phe đối phương vượt qua hẳn, phơi lưng trống trải, Tư Đồ Sảng ập đến như cơn lốc, bủa lưới kiếm vào lão đạo sĩ tóc bạc và Trung Nguyên Quảng Đỗ Tất Linh Kỳ. Hai người này đang sát cánh chuyện trò, đi phía sau Giả Bạch Hổ. Tất nhiên đường gươm của Tư Đồ Sảng tập trung phần lớn thế thức vào mục tiêu chính là lão tạo sĩ.
    Sau khi thụ dụng Kim Ngư, Tư Đồ Sảng đã có tổng cộng gần hoa giáp công lực. Giờ đây, chàng dồn hết sức vào chiêu Cuồg Phong Đoạn Mộc nên khí thế dời non lấp biển, dầu nạn nhân có đối diện đương cự cũng không chống nổi. Nhưng vì tầm quan trọng sống còn của bản sắc chỉ nên Tư Đồ Sảng quyết định ám tập để nắm chắc thành công.
    Hai đối tượng của chàng đều là bậc lão thành, tu vi thâm hậu, nên chỉ nghe không khí xao động cũng phát hiện ra có người đánh lén. Họ lập tức rút gươm quay lại chống chọi chứ không dám tránh né vì lo sợ cho Giả Bạch Hổ.
    Từ ngày bị Kỳ Hoa chân nhân đả thương, Tiên Nhân Động chủ Tất Linh Kỳ đã khổ công rèn luyện để chờ ngày báo phục, nhờ vậy mà bản lãnh kiếm thuật của lão ta đã tăng tiến thêm. Trong chớp mắt, họ Tất đã rút gươm khỏi vỏ, dệt nên màn kiếm ảnh cực kỳ kín đáo và kiên cố, chặn được những thức kiếm mãnh liệt của Tư Đồ Sảng. Lão thành công vì chẳng phải mục tiêu chính của chàng.
    Ngược lại, lão đạo sĩ tóc bạc hoàn toàn lãnh đủ, dù đã tận lực múa gươm bảo vệ thân già.
    Cuồng Phong Đoạn Mộc là một chiêu trong pho Giáng Ma kiếm pháp, chủ về lực đạo, thế kiếm nặng như núi đổ trường kiếm của lão đạo sĩ lập tức bị đánh bạt đi và Tư Đồ Sảng thọc liền một nhát vào mắt trái, đâm thủng não đối phương. Vết thương ở mắt sẽ không chảy nhiều máu, làm hỏng tờ sắc chỉ tang vật.
    Lão Hán gian rú lên thảm thiết, ôm mặt quỵ xuống sàn lầu. Tư Đồ Sảng không thể lấy tờ sắc chỉ trong áo nạn nhân vì Tất Linh Kỳ và Giả Bạch Hổ đã tấn công ráo riết.
    Giả Bạch Hổ quát bảo:
    - Tất lão! Chúng ta phải đạt được tờ sắc chỉ trong người Bạch Lộc Chân Nhân trước khi quan quân đến.
    Và gã bất ngờ xạ một đạo Ngưng Huyết Huyền Băng Chưởng, cố đẩy Tư Đồ Sảng rời xa thi thể của lão đạo sĩ Bạch Lộc.
    Cùng lúc ấy, Tiên Nhân Động Chủ Tất Linh Kỳ cũng tung ra một chiêu như vũ bão.
    Tư Đồ Sảng đảo bộ tránh phát chưởng Huyền Băng và vung kiếm hóa giải chiêu kiếm của họ Tất. Ở thế lưỡng đầu thọ địch, và không thể rời xa xác chết của Bạch Lộc Chân Nhân. Tư Đồ Sảng phải dồn toàn lực vào từng chiêu kiếm để đẩy lùi đối thủ và lập tức đối phó với kẻ phía sau. Đường gươm của chàng nhanh như thiểm điện và hiểm ác phi thường. Chỉ va chạm vài lần đã lăm le đâm vào yếu huyệt Tất Linh Kỳ khiến lão bở vía nhảy lùi.
    Tư Đồ Sảng không bám theo mà quay ngoắt lại đón chiêu kiếm của Giả Bạch Hổ và hoán vị ngay để. tránh đạo chưởng phong từ tay trái gã. Chàng thừa sức chịu một chưởng để lấy mạng Bạch Hổ song vì đại kế lâu dài mà giả như sợ hãi. Trước sau gì Tư Đồ Sảng cũng chạm trán Thanh Y Nhân và Khô Mộc Thần Công là yếu tố bất ngờ để giành thắng lợi. Hơn nữa, mục đích của chàng là cầm cự chờ quân binh Nhạc Dương xuất hiện.
    Do vậy, Tư Đồ Sảng thi triển Trung Tinh Bộ Pháp, di chuyển quanh xác Bạch Lộc Chân Nhân mà đối phó với hai kẻ địch. Lầu Nhạc Dương rất gần cửa Tây thành nên chắc chắn bọn linh gác cổng thành sẽ đến can thiệp.
    Thời gian là bạn của Tư Đồ Sảng song lại là tai họa cho phe địch. Tất Linh Kỳ và Giả Bạch Hổ nghe lòng nóng như lửa đốt, điên cuồng xông vào cố giết cho được lão già lạ mặt kia.
    Tất Linh Kỳ dồn hết tu vi hơn hoa giáp vào thân kiếm mà xuất những chiêu ác độc nhất trong pho Hỗn Nguyên Kiếm Pháp. Hai thanh thép chạm nhau, không ngớt bắn ra những tia lửa nhỏ, âm thanh chát chúa ghê người, song lần nào Tiên Nhân Động Chủ cũng là người thoái bộ để bảo toàn mạng sống. Mũi kiếm của lão già cao lớn kia luôn tìm ra sơ hở mà uy hiếp những tử huyệt trên cơ thể lão.
    Phần Giả Bạch Hổ đã tra kiếm vào vỏ dùng cả song thủ để thi triển pho Ngưng Huyết Huyền Băng Thần chưởng. Bản lãnh Phách Không Chưởng của gã còn kém Từ Long Chính và Thanh Y Nhân song cũng khá lợi hại. Giả Bạch Hỗ liên tiếp đánh hụt vì đối phương có bộ pháp quá ư ảo diệu. Những phát chưởng lạc địa chỉ đôi lúc giáng vào vách hay sàn gỗ khiến lầu Nhạc Dương rung chuyển, bụi rơi mù mịt. Thi hài của Bạch Lộc Chân Nhân cũng bị vạ lây, trúng vài ba chưởng.
    Rốt cuộc, quân binh Nhạc Dương cũng đã đến nơi, đông độ ba chục người. Họ vây chặt chân lầu và quát tháo, yêu cầu ba kẻ cuồng đồ kia đình thủ, bó tay chịu trói.
    Tư Đồ Sảng nghiến răng đánh văng Tiên Nhân Động Chủ và đề khí bốc lên cao. Đồng thời, chàng quát lớn bằng giọng uy nghiêm:
    - Mau bắt nội gián Mông Cổ!
    Trước thời Gia Tĩnh, rợ Mãn Châu vẫn còn yếu ớt, song rợ Mông đã hùng mạnh trở lại, đánh phá vùng quan ải phía Bắc và còn bắt nhà Minh phải triều cống. Nghĩa là, sau gần tám mươi năm bị đánh đuổi, Mông Cổ lại là hiểm họa của Trung Hoa. Thậm chí, vào năm Kỷ Tỵ, tức năm chính thống thứ mười bốn, vua Anh Tông nhà Minh đem quân lên phía Bắc chinh phạt rợ Mông đã thua to và bị bắt sống ở đồn Thế Lộc, Tĩnh Sát Cáp Nhĩ. Quân Mông Cổ đã giam Anh Tông bẩy tám năm mới thả về.
    Bởi vậy, khi bọn quân binh Nhạc Dương nghe nói đến “nội gián Mông Cổ” thì lạnh cả gáy, gõ chiêng vang trời để gọi viện binh.
    Giả Bạch Hổ và Tất Linh Kỳ chua chát hiểu rằng có đánh nữa cũng không sao thắng nổi đốí phương và sẽ khó thoát thân khi đại quân Nhạc Dương vây chặt. Hai người ấy hậm hực rủ nhau đào tẩu. Họ dễ dàng vượt qua vòng vây thừa thớt của bọn lính tuần.
    Tư Đồ Sảng thở phào, ngồi xuống lục ngực áo Bạch Lộc Chân Nhân tìm thấy hai phong thư dán kín. Chàng để lại chỗ cũ chờ bọn quan quân. Lát sau, một toán kỵ binh đông độ gần trăm đã đến nơi và ùa lên lầu vây lấy Tư Đồ Sảng. Chàng liền đưa cao kim bài Bá Tước và dõng dạc nói:
    - Bổn tước là người của Đại Lý Tự Bắc Kinh đi điều tra phản tặc. Các ngươi mau đưa ta và tử thi tên nội gián này đến công đường của Tam Ty Hồ Quảng.
    o0o
    Ngay tối hôm ấy, quan đô chỉ huy sứ Đường Tôn Niệm thống lĩnh năm ngàn quân giáp kỵ tiến về Trường Sa. Trưa hôm sau họ đã vây chặt Tổng đàn Kỳ Lân Bang bên bờ sông Tương, tức Khuất Gia Trang.
    Bạch Phụng đã quay về trước, giả làm Tư Đồ Sảng mà báo mộng cho Trương Thiên Sư lúc giữa canh ba nên quần hùng biết mà chận đường Giả Bạch Hổ cùng Tất Linh Kỳ. Tuy họ không bắt được hai người ấy song cũng khiến cho chúng thọ thương đào tẩu, chẳng dám về Trường Sa thông tri cho bọn ở Tổng đàn biết nguy cơ.
    Kết quả là gần ngàn tên bang chúng Kỳ Lân đều bị giết hoặc bắt sống, không sót ai. Bọn đầu lĩnh và những đao thủ Quỷ Ảnh Hội, Thập Điện Diêm Cung đã liều mạng phá vầy nhưng đều chết dưới tay quần hùng.
    Qua trận này người ta mới biết rõ bản lãnh của Thiện Đề đại sư. Cánh tay dài ngoằng, mạnh mẽ của ông múa tít Giáng Ma Phủ, đánh văng những thanh đao và đả thương đối thủ thật dễ dàng. Nhưng không giết một ai và miệng luôn niệm Phật, xót xa cho nạn nhân của mình. Thỉnh thoảng, Thiện Đề còn quát vang:
    - Bần tăng là phó minh chủ võ lâm đây, các người mau bó tay quy hàng để khỏi uổng mạng.
    Các chưởng môn đều phì cười nhưng thầm công nhận Thiện Đề đủ tài làm phó cho Tề Thanh Tuyệt.
    Tư Đồ Sảng đã một mình xông thẳng vào khu hậu viện Khuất Gia Trang để tìm Triển Phi Hoan và Thập Tự Thần Kiếm. Chàng không gặp họ Triển song lại tìm ra Phan Tứ Mỹ.
    Lão ngốc ấy đang thản nhiên đứng ở hàng hiên dãy phòng mé Nam vườn hoa lớn, nói chuyện với một con chim Anh Vũ bị nhốt trong lồng. Tất nhiên con chim kia chẳng nghe được gì vì không gian tràn ngập tiếng reo hò, quát tháo, tiếng binh khí chạm nhau căng thẳng. Thế mà Thập Tự Thần Kiếm vẫn như kẻ điếc đặc, không biết gì cả.
    Tư Đồ Sảng thận trọng lướt đến, đình bộ ở khoảng cách một trượng rồi lên tiếng:
    - Phan Tứ Mỹ!
    Họ Phan quay lại, chẳng hề sợ hãi trước ánh mất đầy sát khí và thanh gươm tuốt trần. Trái lại, lão hân hoan nở nụ cười tươi rói và nói:
    - Tư Đồ đại ca đấy ư? Sao Tần Cốc Lý bảo rằng đã giết chết đại ca rồi! Năm ấy, Bá Đao có rủ tiểu đệ đi Hàm Dương tìm đại ca trả thù nhưng Mỹ này nhớ ơn cứu mạng nên không xem chuyện đại ca đoạt mất Vu Sơn Ma Nữ là mối hận. Nàng ta yêu thương ai thì đi theo người ấy, nào phải bị đại ca ép buộc?
    Tư Đồ Sảng bàng hoàng, không hiểu đối phương thực tình hay giả vờ. Chẳng lẽ cha chàng với họ là huynh đệ kết nghĩa và Tư Đồ Quát đã từng chiếm đoạt thần tượng của họ là Vu Sơn Ma Nữ Triển Thương Thu? Và phải chăng Thập Tự Thần Kiếm không phải là hung thủ đã giết mẫu thân chàng?
    Tư Đồ Sảng cố mỉm cười và dịu giọng hỏi:
    - Này Phan hiền đệ! Thế hơn hai năm trước ai đã cùng đi với Tần Cốc Lý đến Hàm Dương?
    Tử Mỹ cười khà khà:
    - Còn ai vào đấy nữa ngoài gia biểu huynh Thiên Thư Tú Sĩ Lăng Quân Vĩnh. Lão ta cũng thầm ái mộ Triển Thương Thu nên rất hậm hực khi biết đại ca giành được nữ nhân.
    Tư Đồ Sảng giật bắn mình sực nhớ ra rằng dung mạo của Lăng Tú Sĩ khá giống Thập Tự Thần Kiếm. Thì ra họ Lăng là anh em với Phan Tử Mỹ.
    Bỗng Phan lão hạ giọng khẩn cầu:
    - Tư Đồ đại ca! Nay Tần nhị ca đã chết, tiểu đệ không ai bầu bạn, chuyện trò nên rất cô độc. Hay là đại ca cho tiểu đệ về ở chung với nhé. Tiểu đệ học được nghề trồng hoa và nuôi chim, sẽ tô điểm cho Tư Đồ gia trang thêm rực rỡ.
    Ánh mắt lão vô cùng tha thiết, buồn rầu khiến Tư Đồ Sảng chạnh lòng. Chàng tra kiếm vào vỏ rồi nói:
    - Được! Phan hiền đệ hãy về sống với lão phu.
    Rồi chàng dồn Khô Mộc Thần Công bảo vệ châu thân và bước đến đưa tay ra cho Phan Tử Mỹ nắm lấy. Nếu lão giả trá thì đây là cơ hội tốt nhất để hạ thủ. Nhưng Thập Tự Thần Kiếm đã không ám toán mà hoan hỉ nắm lấy bàn tay chàng, xiết chặt rồi cười khanh khách.

  6. #45
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 16

    Giả nứ Giá Vong Phu
    Tây Môn Hoan Nghĩa Tử
    Gần giữa tháng chạp, đoàn quân viễn chinh về đến Lạc Dương, mang theo cả lão khùng họ Phan.
    Sau chiến công tảo trừ Kỳ Lân Bang, thanh danh quyền minh chủ Tề Thanh Tuyệt lẫy lừng bốn biển. Nhưng bản thân Tư Đồ Sảng lại rơi vào hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan, không dám nhận lại thân phận đích thực.
    Qua những lời khai thiếu sót, lúc nhớ lúc quên của Phan Tử Mỹ, Tư Đồ Sảng đã xác định được kẻ giết mẹ mình là Thiên Thư Tú Sĩ Lăng Quân Vĩnh. Nhưng lão ta lại không biết Thanh Y Nhân, kẻ đã dạy Ngưng Huyết Huyền Băng Thần Chưởng cho Từ Long Chính là ai.
    Cả Giả Đan Quỳnh và Đàm Châu đại hiệp Khuất Kỳ cũng vậy. Họ kể rằng khi đến tìm Môn Xuyên Bá Đao để bàn bạc thì người áo xanh luôn mang một gương mặt giả vô hồn, lạnh lẽo.
    Nếu đúng vậy thì Tư Đồ Sảng có đến hai kẻ thù vô cùng lợi hại. Và với bản lãnh hiện tại chàng có thể thí mạng mà giết được Thanh Y Nhân nhưng sẽ thọ thương trầm trọng và không kịp phục hồi trước ngày Trùng Cửu sang năm để gặp Thiên Thư Tú Sĩ.
    Nhưng khổ nỗi, Tây Môn Giới không hiểu điều ấy. Ông căm thù Thanh Y Nhân đến tận xương tủy nên sẵn sàng thí mạng Tề Thanh Tuyệt để có cơ hội báo thù cho nghĩa tử.
    Cuộc chinh phạt Kỳ Lân Bang cũng nằm trong kế hoạch của Tích Dịch Quỷ. Ông tưởng rằng sẽ gặp được Thanh Y Nhân ở Trường Sa, không ngờ lão ta lại chẳng có mặt tại Khuất Gia Trang.
    Giờ đây, Tây Môn Giới âm thầm huy động hàng ngàn thủ hạ Hắc Hiệp Hội vào một chiến dịch tuyên truyền sách động. Kết quả là đến giữa thượng tuần tháng giêng thì hàng trăm lá thư bay về Tổng đàn võ lâm. Những nhân vật thành danh, các môn phái, bang hội nhỏ, đã yêu cầu quyền minh chủ võ lâm Tề Thanh Tuyệt phải khiêu chiến với Thanh Y Nhân và giết lão ta để đòi lại công đạo cho Thần Phủ Lang Quân Tư Đồ Sảng.
    Lúc này, Tổng đàn võ lâm tạm thời đặt tại một tòa trang viện trong thành Lạc Dương. Chỉ có vị minh chủ chính thức mới được quyền đến cư ngụ trong thánh địa võ lâm trên núi Hương Sơn. Nghĩa là Tư Đồ Sảng đang ở chung với nghĩa phụ và ái thê Mạc Chiêu Hương. Tất nhiên là có cả Huyết Báo, Thiện Đề, Thập Tự Thần Kiếm và Trại Tôn Tử. Hồ lão tri ân Tề Thanh Tuyệt nên đã tự nguyện theo phò tá.
    Trại Tôn Tử lại trở thành quân sư của võ lâm, và lão rất lo lắng khi đọc những phong thư của quần hùng.
    Trưa mùng bẩy Tết, Tổng đàn võ lâm bày tiệc hạ nêu, có mời bang chủ Cái Bang và phương trượng chứa Thiếu Lâm đến chung vui.
    Trại Tôn Tử liền đưa những bức thư ra và trình bày nguyện vọng của quần hùng.
    Giám Tuệ thiền sư hiền hòa bảo :
    - Việc này thuộc quyền quyết định của minh chủ. Nhưng lão nạp cho rằng nếu Tề lão thí chủ nắm chắc phần thắng thì hãy khiêu chiến, đừng vì chút hư danh mà lụy đến thân.
    Tư Đồ Sảng trầm ngâm đáp :
    - Thanh Y Nhân tuy ác độc song đã ở thế đối lập với võ lâm nên không đáng sợ bằng Thiên Thư Tú Sĩ, kẻ sẽ có cơ hội trở thành minh chủ võ lâm. Qua việc Lăng Quân Vĩnh tham gia giết hại song thân Tư Đồ thiếu hiệp, chúng ta đã thấy rõ bản chất hung tàncủa lão ta. Do vậy, lão phu quyết định dành sức lực cho đại hội võ lâm sắp tới, liều mạng mà ngăn chặn mưu đồ bá chủ của họ Lăng.
    Tây Môn Giới đã tiết lộ lai lịch thực với hội đồng võ lâm, cũng như Đàm Vân Tử và Trại Tôn Tử, song lại giấu Tề Thanh Tuyệt. Lúc nào ông cũng mang mặt nạ Hí Nhân Cư Sĩ Cổ Quý Sinh.
    Lúc này, khi nghe Tề Thanh Tuyệt từ chối khiêu khích, Cổ Cư Sĩ vô cùng thất vọng, gượng cười giả lả và hỏi :
    - Nhưng nếu Thanh y Nhân lại tự ý đòi so tài với Tề túc hạ thì sao ?
    Tư Đồ Sảng thản nhiên đáp :
    - Lão phu sẽ nhận lời nhưng thời hạn phó ước sẽ phải sau ngày Trùng Cửu. Nếu lão phu không chết bởi Lô Hoả Thần Chỉ.
    Câu trả lời của chàng rất hợp đạo lý khiến Tây Môn Giới không sao bắt bẻ được. Song Hắc Bì Cái Từ Long Chính đã làm cho cả bàn giật mình. Ông nghiêm nghị bảo :
    - Lão phu đã vì sự tồn vong của võ lâm Trung Thổ mà tiến hành điều tra lai lịch của Tề túc hạ. Đệ tử bổn bang ở An Khánh đã lên núi Quang Minh Đỉnh hỏi thăm và được Thánh Hỏa Giáo trả lời rằng họ không hề có giáo chúng nào mang tên Tề Thanh Tuyệt! Và phân đà Cái Bang ở Hứa Xương cũng đã đến huyện Thanh Oai kiểm chứng thì tìm thấy ngôi mộ của túc hạ. Nghĩa là Tề Thanh Tuyệt đã chết được ba năm rồi ! Vậy lão phu xin hỏi thực ra túc hạ là ai và đang âm mưu việc gì ? Tuy túc hạ đã lập công lớn với võ lâm, và chưa có biểu hiện gì đáng ngại, song một kẻ lai lịch bất minh không thể làm minh chủ được, dù chỉ một ngày.
    Tư Đồ Sảng choáng váng, chẳng ngờ lai lịch của mình lại bị lộ sớm như vậy. Bạch Phụng đã trộm được giấy tờ của Tề Thanh Tuyệt, một kẻ đã chết, để chàng sử dụng. Ngờ đâu, Tư Đồ Sảng lại được hội đồng võ lâm trao chức quyền minh chủ nên Cái Bang đã tiến hành thẩm tra.
    Tư Đồ Sảng bối rối suy nghĩ, chẳng biết có nên nói ra sự thực hay không ? Chàng tuyệt đối tin tưởng Bạch Phụng nên sợ rằng kiếp vận của mình sẽ mang tai họa đến cho người thân. Hơn nữa, Bạch Phụng lại mới tiên đoán rằng chàng sẽ có lần bị hại bởi sự phản bội của một người thân cận nên việc lộ diện sẽ vô cùng nguy hiểm.
    Tư Đồ Sảng nghĩ mãi không ra ai là kẻ xấu song vẫn phải nghe lời Bạch Phụng. Giờ đây, đứng trước sự tra vấn của Hắc Bì Cái, chàng cắn răng dứt áo ra đi.
    Tư Đồ Sảng hờ hững đáp :
    - Bang chủ quả là người thông minh, thận trọng nên lão phu đành phải thú thực rằng mình không phải là Tề Thanh Tuyệt. Thực ra, lão phu có mối hiềm khích với Thiên Thư Tú Sĩ nên mới tìm cách phá vỡ mưu đồ của lão ta. Lão phu có một quá khứ không tốt đẹp nên chẳng dám nói ra lai lịch. Giờ thì lão phu xin trao trả danh vị quyền Minh chủ cho chư vị. Lão phu chỉ mong rằng hội đồng võ lâm sẽ cho phép lão phu thượng đài đấu với Thiên Thư Tủ Sĩ vào ngày đại hội sắp đến. Lão phu chỉ muốn vì võ lâm trừ hại chứ không quan tâm đến thức Minh chủ.
    Nói xong, chàng đứng lên thi lễ, cáo biệt mọi người, Thiện Đề đại sư hốt hoảng nói :
    - Này Tề lão thí chủ ! Ông bỏ đi rồi thì bần tăng sẽ ra sao ?
    Tư Đồ Sảng mỉm cười an ủi :
    - Đại sư là phó Minh chủ võ lâm tất sẽ ở lại đảm đương trọng trách. Với cương vị cao quý ấy, việc trở lại Bố Đà La Tự sẽ rất dễ dàng.
    Thiện Đề nghe xuôi tai, yên tâm nói :
    - Thế cũng được ! Chánh phó đều đi thì võ lâm nguy mất, bần tăng sẽ cố sức thay thí chủ mà gánh vác võ lâm.
    Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Tuệ ngậm ngùi than :
    - Lão phu nghiên cứu tướng pháp đã hơn năm mươi năm mà còn nhìn lầm người ư ? Lão phu xin bỏ cái danh Trại Tôn Tử, về Trường Sa ẩn dật. Ơn sâu của tôn giá lão phu nguyện kiếp sau sẽ đáp đền.
    Dứt lời, ông vái tạ Tư Đồ Sảng, rời bàn tiệc về phòng soạn hành lý. Tư Đồ Sảng cũng lén nhìn Mạc Chiêu Hương với ánh mắt chan chứa ân tình rồi quay bước.
    Chàng đi rồi, Giám Tuệ thiền sư thở dài bảo :
    - Có lẽ chúng ta đã sai lầm khi quá xét nét lai lịch của vị thí chủ ấy. Dẫu cho quá khứ của ông ta xấu xa đến đâu thì nhân phẩm hiện tại vẫn khiến lão nạp ngưỡng mộ.
    Hắc Bì Cái nhăn nhó :
    - Lão phu cũng biết câu “Buông dao đồ tể có thể thành Phật.” Nhưng tiếc rằng y không chịu khai thực lai lịch để hội đồng võ lâm cân nhắc mà lại khẳng khái bỏ đi ngay.
    Tây Môn Giới cười nhạt :
    - Lòng người hiểm trá khôn lường. Biết đâu lão ta đã khéo đóng vai một kẻ nhạt mùi danh lợi nhưng sẽ vui vẻ nhận ngôi Minh chủ sau khi giết được Thiên Thư Tú Sĩ. Lúc ấy chẳng lẽ quần hùng lại chịu để bậc anh hùng cái thế về tay không và võ lâm ba lần cử hành đại hội mà vẫn chẳng tìm ra Minh chủ.
    o0o
    Nhắc lại, Tư Đồ Sảng thu xếp hành lý, lấy ngựa rời khỏi tòa trang viện trước ánh mắt lưu luyến của bọn kiếm thủ nhà Tư Đồ. Bọn họ nghe ả nữ tỳ hầu trà rỉ tai nên biết rằng Tề Minh chủ và Trại Tôn Tử' đã từ nhiệm. Họ ôm quyền cúi người kính cẩn đưa tiễn bậc anh hùng bị xua đuổi. Sau cuộc Nam chinh, tảo trừ Kỳ Lân Bang, Tề Thanh Tuyệt đã trở thành thần tượng của đám kiếm thủ. Họ Tề võ công cái thế, tính tình lại hiền hòa, độ lượng, nghiêm nghị, nhưng ân cần, đã khiến cho bọn thủ hạ tôn kính và yêu mến.
    Tư Đồ Sảng cũng ôm quyền từ tạ bọn hảo hán đất Phúc Châu rồi lên ngựa. Chàng để mặc tuấn mã chậm rãi bước đi lững thửng, lòng miên man suy nghĩ, chẳng biết phải về đâu.
    Bạch Phụng đã rời xa chàng từ hồi giữa tháng chạp để đi Kỳ Liên Sơn chúc tết Hồ Ly Đế Quân, vua của tất cả cáo chồn trong thiên hạ. Đáng lẽ giờ này nàng đã về đến như dự tính nhưng không hiểu sao lại chưa thấy âm hao ?
    Tư Đồ Sảng chẳng phải lo cho nội tổ mẫu vì Bạch Phụng đã sớm báo mộng trấn an rằng chàng vẫn còn sống và tin đồn kia chỉ là thất thiệt. Tư Đồ lão thái là một tín đồ trung thành của Đạo giáo nên sẽ rất tin tưởng vào mộng triệu, không còn lo lắng cho cháu nội nữa.
    Cuối cùng, Tư Đồ Sảng quyết định đi Đại Hồ Sơn xem nàng có về đến hay chưa, nếu không gặp sẽ ở đấy đợi chờ.
    Tư Đồ Sảng rời cửa Nam thành Lạc Dương, ra roi nước đại, nhờ vậy đến kịp Đăng Phong lúc giữa canh hai. Chàng ngủ lại đấy một đêm, sáng hôm sau đi Đại Hồ Sơn.
    Tư Đồ Sảng gửi ngựa ở thôn nghèo nơi bìa rừng rồi tiến vào núi. Năm nay rét đậm nên dù đã mùng tam Tết mà tuyết vẫn còn rơi lất phất, khiến cây cối trong thung lũng đá, giữa hai dãy núi vẫn chưa giũ bỏ được hết tấm khăn liệm trắng toát. Đêm qua, những chồi xuân đã nẩy mầm đâu đó và tuyết bắt đầu tan bởi ánh dương quang.
    Tư Đồ Sảng đứng cạnh bờ vực thẳm, ngẩn người trước cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ. Tuyết tan khiến lượng nước dồi dào nên những dòng thác chảy mạnh, tuôn đổ xuống đáy vực, phát ra những âm thanh hùng tráng tựa vó câu. Và hơi nước bốc lên mù mịt, tạo thành mấy mống cầu vồng rực rỡ bởi bình minh.
    Tư Đồ Sảng bồi hồi vận công quát lớn:
    - Bạch Phụng ! Bạch Phụng !
    Tiếng gọi hùng mạnh của chàng lồng lộng khắp vùng núi non và vang vọng trở lại nhiều lần. Lũ chim hốt hoảng rời cành, quần đảo trên không trung, chẳng dám đáp xuống.
    Tư Đồ Sảng ngồi xuống tảng đá cạnh bờ vực mà chờ đợi rất lâu rồi thấtvọng tìm đến hang Thiên Tùng, nơi Tư Đồ Xán đã tìm ra.
    Cửa hang vẫn rộng mở vì chẳng ai dại gì đóng cửa tự nhốt mình. Hơn nữa, cánh cửa đá này nặng khủng khiếp, không phải ai cũng xô nổi.
    Tư Đồ Sảng đi hết đoạn đường hầm, vào đến hang đá trung tâm, chàng phát hiện bộ hài cốt của Thiên Tùng Chân Nhân vẫn còn nằm lây lất trên giường đá liền bất nhẫn mà suy nghĩ rằng :
    - Cửa hang mở thế này tất lũ thú nhỏ sẽ ra vào, mạo phạm đến di cốt của Chân Nhân. Có lẽ ta phải chôn xuống đất mới xong.
    Chàng bèn đi khắp hang thạch nhũ, tìm khoảng nền hang có đất mềm. Cuối cùng, chàng phát hiện vách tả của đường hầm dẫn ra vực thắm có thể đào bới được. Tư Đồ Sảng dùng Từ Tâm Kiếm đào khoét một lỗ rộng độ ba gang rồi quay ra gom nhặt những khúc xương mục nát mà chôn dấu.
    Xong xuôi, chàng quỳ xuống lạy nấm mộ sơ sài trên vách ba lạy, bùi ngùi khấn :
    - Vãn bối chính là kẻ đã khai động, quấy nhiễu nơi an nghỉ của Chân Nhân, song cũng cũng vì hoàn cảnh. Mong anh linh người lượng thứ. Tài sản của Đoàn hoàng Gia vãn bối đã nhờ nghĩa phụ bố thí cả cho tai dân. Còn Đảo Mệnh Linh Kỳ khi sử dụng xong sẽ hoàn lại cho Tĩnh Minh Phái. Chút lòng thành này mong Chân Nhân chứng giám cho.
    Chàng vừa khấn xong thì một cơn gió lạnh từ hướng cửa hang thông với vực thẳm thổi vào lồng lộng. Tư Đồ Sảng đã chặt hết bụi rậm ở cửa hang để ánh dương quang ấm áp có thể rọi vào được.
    Tư Đồ Sảng trở ra hang chính dùng cành lá phủi sạch giường đá để có chỗ nghỉ ngơi trong những ngày chờ đợi Bạch Phụng. Chàng sẽ trở ra bìa rừng mua gạo và thực phẩm khô. Vả lại, nơi đây có rất nhiều thỏ. Với bản lãnh khinh công hiện tại, chàng thừa sức đuổi theo những con thú nhanh nhẹn ấy. Chàng đặt bẫy rất giỏi song lại sợ hại lầm bọn cáo, chồn, thủ hạ của Bạch Phụng.
    Khi mặt tảng đá bằng phẳng kia hoàn toàn sạch sẽ, Tư Đố Sảng phát hiện một đường khe rất nhỏ hình vuông, mỗi cạnh chỉ rộng độ nửa gang. Chàng hồi hộp cúi xuống quan sát thật kỹ và nhìn thấy hàng chữ nét mảnh như đầu kim: “Mai cốt khả khai.” Thì ra, Thiên Tùng Chân Nhân đã để lại phần thưởng cho ai có lòng chôn cất bộ xương khô của mình.
    Tư Đồ Sảng an tâm tìm cách mở hộc đá bí ẩn kia. Chàng lưu chuyển chuyển chân khí theo tâm pháp Bích Hổ Du Tường, tạo hấp lực ở bàn tay hữu, bám chặt lấy ô vuông ấy rồi nhấc lên. Quả nhiên mảnh đá rời vị trí để lộ một hốc sâu gần gang, trong chứa chiếc hộp đồng nhỏ.
    Tư Đồ Sảng mở hộp, tìm được mảnh lụa trắng viết đầy chữ và một viên ngọc tròn đen tuyền, lớn cỡ quả nhãn, có lỗ xỏ dây tơ xanh để đeo vào cổ. Chàng hiếu kỳ đọc thử di thư :
    “Hậu sinh nhã giám ! Bản đạo là Thiên Tùng Chân Nhân, Thái Y nước Đại Lý, được quốc vương Thiện Địch, Đoàn Hưng Trí giao trọng trách khôi phục lại nước Đại Lý. Nhưng bần đạo chờ mãi mà không thấy con cháu họ Đoàn đến tìm, liền trai tịnh bẩy ngày để gieo quẻ.
    Khi biết rằng số nước Đại Lý đã tuyệt, bần đạo cũng chẳng còn lưu luyến hồng trần nên đến Đại Hồ Sơn tìm nơi ẩn dật. Tình cờ, bản đạo lại khám phá ra hang động này nhưng không rõ là của bậc thần tiên hay vị kỳ nhân cổ đại nào.
    Bần đạo tu luyện ở đây được bẩy năm thì đắc đạo, nhìn thấu chuyện vị lai. Do vậy, khi tịch diệt, bần đạo lưu lại một món quà nhỏ cho kẻ hậu sinh có lòng nhân từ. Viên Hắc Ngọc này chính là Nội đan của một con mãng xà tinh ngàn năm. Khi đeo Hắ Ngọc nơi cổ, người ta có thể linh cảm được những mối nguy hiểm đang rình rập. Còn khi ngậm vào miệng thì có thể nhịn đói hàng tháng và nhìn xuyên đêm tối. Bằng như muốn có thêm ba chục năm công !ực thì hãy nuốt Hắc Ngọc mà tĩnh tọa đủ chín ngày đêm. Hắc Ngọc còn có tác dụng trị thương, cầm máu, làm liền miệng những vết thương đứt trên da thịt. Dẫu bị nội thương nơi phủ tạng thì cũng mau chóng binh phục khi uống rượu ngâm Hắc Ngọc.
    Nếu túc hạ cũng là người tìm thấy rương châu báu thì xin hãy rộng lòng bố thí một nửa cho bần dân. Phần Đảo Mệnh Linh Kỳ, xin túc hạ đem đến núi Nam Xương, trả lại cho Vạn Thọ Cung. Túc hạ làm được hai việc ấy thì sẽ nhận quả phúc không nhỏ ! Thiên Tùng ChânNhân di bút ?”
    Đọc xong di thư, Tư Đồ Sảng vui mừng khôn xiết, chạy trở lại chỗ lúc nãy vái tạ nấm mộ của Chân Nhân. Chàng đeo ngay Hắc Ngọc vào cổ và đến xế trưa thử ngậm để chống đói. Kỳ diệu thay, viên ngọc đen ấy có vị ngọt thơm và lập tức khiến cho chàng cảm thấy thư thái, sung mãn và no nê như vừa thưởng thức một bữa ăn ngon.
    Tư Đồ Sảng yên lòng bắt tay vào việc luyện võ, cả kiếm thuật lẫn Khô Mộc Thần Công. Đêm xuống, chàng phát hiện diệu dụng thứ hai của Hắc Ngọc vì chẳng cần đốt lửa mà thấy chung quanh vẫn sáng sủa.
    Ba ngày sau, Tư Đồ Sảng còn nhận ra việc thính giác và khứu giác của chàng cũng tinh tường hơn trước rất nhiều. Chàng có thể nghe được tiếng lá rụng ở khoảng cách ba trượng. Đây là một ưu thế rất quan trọng cho người võ sĩ. Từ nay, khó ai có thể đánh lén chàng từ phía sau lưng.
    Và đến chiều hôm ấy, khi chuẩn bị tĩnh tọa luyện công, Tư Đồ Sảng chợt nghe được tiếng khóc nỉ non của nữ nhân từ xa vọng lại.
    Tư Đồ Sảng giật mình xách kiếm rời khỏi hang Thiên Tùng, chạy về hướng đã phát ra những âm thanh não lòng ấy. Và khi còn cách bờ vực thẳm sáu bẩy trượng, chàng nhìn thấy Mạc Chiêu Hương, toàn thân bạch y, tóc xõa dài, đầu quấn khăn tang đang quỳ cách bờ vực một trượng mà nức nở:
    - Tướng công ! Thiếp là thân liễu yếu đạo tơ võ công kém cỏi, chẳng thể nào báo thù cho chàng được. Mỗi ngày trôi qua đối với thiếp dài tựa ba năm. Nỗi nhung nhớ, xót thương đã khiến thiếp mỏi mòn không còn muốn sống nữa. Thiếp sẽ xuống suối vàng để phu thê sớm được sum vầy.
    Dứt lời, nàng loạng choạng đứng lên, bước đến phía trước để gieo mình xuống vực sâu.
    Tư Đồ Sảng kinh hoàng, lao vút đến như làn gió, ôm chặt ái thê vào lòng mà nhẩy lùi lại.
    Chàng nghẹn ngào nói :
    - Hương muội ! Ta vẫn còn sống đây !
    Giọng nói già nua của chàng là của Tề Thanh Tuyệt nên chỉ khiến Chiêu Hương kinh hãi, dẫy dụa và thét lên :
    - Lão mau buông ta ra !
    Tư Đồ Sảng vội điểm vào hai huyệt Phục Thố trên đùi nàng và đặt xuống mặt cỏ. Chàng cũng ngồi đối diện Chiêu Hương và nghiêm nghị nói :
    - Hương muội hãy trấn tĩnh mà nghe ta kể rõ nguồn cơn.
    Chiêu Hương thấy Tề Thanh Tuyệt đã chịu buông mình ra tức không có ý làm bậy, thì cũng hơi yên dạ, giương đôi mắt hoang mang mà lắng nghe. Tư Đồ Sảng liền nhắc lại việc mình cứu con chồn hương lông trắng năm trước. Chiêu Hương đã biết chuyện này nên ánh mắt le lói niềm tin.
    Khi nghe xong nhữg tao ngộ từ lúc chàng rơi xuống vực thắm, Chiêu Hương bán tín bán nghi hỏi :
    - Thế túc hạ có biết trên người ta có dấu vết gì đặc biệt không ?
    Tư Đồ Sảng mỉm cười :
    - Nàng có một bớt son nhỏ hình trăng khuyết ở bụng dưới, ngay huyệt Tung Cực. Ta vẫn thường nói đùa rằng nếu bớt son ấy ở trên trán thì thiên hạ sẽ có một nữ Bao Thanh Thiên.
    Bí mật phòng the này chỉ có nàng và Tư Đồ Sảng biết được nên Mạc Chiêu Hương chẳng còn nghi ngờ gì nữa, bật khóc vì niềm vui quá lớn lết đến ôm chàng :
    - Tướng công ! Sao chàng lại nhẫn tâm giấu giếm để thiếp phải đau khổ suốt mấy tháng qua ?
    Nàng tức tưởi đấm vào ngực chàng, nước mắt tuôn như suối. Tư Đồ Sảng vô cùng ân hận, cúi xuống hôn nàng để tạ lỗi. Chàng giải huyệt cho Chiêu Hương và bồng nàng quay lại hang Thiên Tùng. Họ chuyện trò một lức lâu thì Chiêu Hương đòi đi tắm.
    Tư Đồ Sảng liễn đưa nàng đến một suối nước trong veo, cách cửa hang không xa. Hai người tắm táp rất nhanh vì nước lạnh ngắt khiến Chiêu Hương run cầm cập.
    Họ trở về thạch động, đỡ lòng bằng cách ngậm Hắc Ngọc rồi gầy cuộc mây mưa, dưới ánh lửa bập bùng của đống củi mà Tư Đồ Sảng đã gom góp được.
    o0o
    Về Lạc Dương sớm thì sẽ chẳng còn cơ hội gần gũi nhau, Chiêu Hương ở lại Đại Hồ Sơn với Tư Đồ Sảng, để chờ Bạch Phụng. Nàng rất hiếu kỳ muốn biết cái ả hồ ly tinh đã quyến rũ chồng mình. Thực ra, Chiêu Hướng chẳng hề ghen vì Tư Đố Sảng còn sống sót cũng là nhờ nàng ta.
    Tối mười bốn, nàng tủm tỉm hỏi Tư Đồ Sảng :
    - Tướng công ! Nhan sắc Bạch Phụng so với thiếp và hai tiểu thư họ Lăng thì hơn hay kém ?
    Tư Đồ Sảng bật cười, xiết chặt thân hình mịn màng, gợi cảm của nàng và trả lời :
    - Ta yêu cả bốn nàng nên không thể phân biệt hơn kém được.
    Chiêu Hương có vẻ không hài lòng trước câu phúc đáp chung chung ấy!
    Song Tư Đồ Sảng đã khoả lấp bằng đôi môi nóng bỏng.
    Sáng hôm sau, hai người rời Đại Hồ Sơn để vế Lạc Dương vì rằm này Trương Thiên Sư sẽ có mặt và mọi người sẽ tiến hành việc xuống vực nhặt xác Tư Đồ Sảng. Do vậy, chàng phải tiết lộ thân phận cùng Tây Môn Giới và Trương giáo chủ để họ khỏi phải uổng công.
    Đôi uyên ương phóng ngựa như bay nên lúc xế chiếu đã gần vế trấn Y Xuyên, chỉ cách chừng vài dặm. Y Xuyên chính là địa phương có thắng cảnh Long Xuân Phật Động và núi Hương Sơn, nơi Tổng đàn võ lâm tọa lạc. Trấn này nằm cạnh bờ sông Y Thủy nên mới có tên như thế.
    Y Xuyên nằm ngay trên đường quan đạo, xa Lạc Dương độ hai mươi sáu dặm. Vậy là chỉ còn chừng ba mươi dặm nữa là vợ chồng Tư Đồ Sảng về đến nơi.

  7. #46
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    o0o
    Cảnh hoàng hôn rơi trên hai ngọn Long Môn và Hương Sơn vô cùng diễm lệ, khiến đôi uyên ương phải ghì cương cho ngựa đi chậm lại để thưởng thức.
    Nhưng khi tiếng vó câu lắng xuống, gió thôi thổi vù vù bên tai, Tư Đồ Sảng liền nghe được tiếng sắt thép chạm nhau và tiếng reo hò quát tháo. Chàng giật minh bảo Chiêu Hương :
    - Dường như phía trước có cường đạo chặn đường lữ khách. Chúng ta mau đến đấy xem thử !
    Hai người quất ngựa phi nước đại, khi vừa qua khỏi khúc quanh cách chỗ cũ hơn dặm thì phát hiện một cuộc chiến khốc liệt đang diễn ra trên mảnh đất cằn cỗi, đầy sỏi đá mấp mô ở mé hữu quan đạo. Hàng trăm tên đao thủ bịt khăn ngang mặt, y phục không đồng nhất đang vây đánh một toán người đông độ bốn mươi. Phe cô thế chính là Thiên Sư Giáo chủ và các đệ tử Trương Hàn Vũ đang trên đường đến Lạc Dương để nhặt xác và cử hành lễ mai táng cho ngũ sư đệ thì gặp phục binh tại đoạn đường vắng vẻ này.
    Tư Đồ Sảng và Mạc Chiêu Hương lập tức rời yên ngựa, tấn công vào lưng bọn bịt mặt.
    Chiêu Hương tuổi đã ba mươi luyện võ hơn hai mươi năm nên võ nghệ rất cao cường. Thuở nhỏ nàng lại được mẫu thân dùng bí phương bồi bổ cho nên nhan sắc lâu phai tàn và công lực cũng thêm phần thâm hậu. Nàng còn là đệ tử chân truyền của cô ruột là Tỳ Bà Tiên Nương, sở đắc pho Tỳ Bà kiếm pháp cực kỳ hiểm độc và lợi hại. Cộng với pho khinh công Truy Tinh Thân Pháp mà Tư Đồ Sảng đã dạy cho, bản lãnh Chiêu Hương chỉ kém Huyết Báo Liễu Mộ Hào một bậc.
    Giờ đây Chiêu Hương hiển lộng thần oai, đường kiếm vun vút bay lượn, mũi kiếm như đầu độc xà mổ những cú chết người và thần tốc.
    Trong chốc lát nàng đã giết liền bốn tên đao thủ và ung dung tả xung hữu đột giữa đòng vây mặt hoa đỏ bừng vì phấn khích. Đây là lần đầu tiên được sát cánh với trượng phu mà chiến đấu, Chiêu Hương vô cùng cao hứng và có ý định khoe tài với Tư Đồ Sảng.
    Hơn nữa, Chiêu Hương đã nhận ra sự hiện diện của Giả Đan Quỳnh. Nàng ta cũng đang phóng tay chém giết bằng một thứ kiếm pháp linh diệu và hữu hiệu. Chiêu Hương hậm hực tự hỏi vì sao cô ả kia lại đi chung với phái đoàn Thiên Sư Giáo ? Ghen tuông là cố tật của mọi nữ nhân trên đời, Chiêu Hương bỗng có ác cảm với Giả Đan Quỳnh, một ả tiểu thư xinh đẹp và giầu nhất Hồ Nam. Nay Tư Đồ Sảng vẫn còn sống, biết đâu nhà họ Giả sẽ mượn cớ trả ưu mà gả ả cho chàng!
    Cơn ghen bóng ghen gió ấy đã biến thành lửa giận, trút xuống đầu bọn đao thủ. Chiêu Hương nghiến răng phóng kiếm, thi tài sát nhân với tình địch. Nàng giết được một thì Tư Đồ Sảng hạ xong bốn năm mạng. Nhưng chàng chỉ đả thương hoặc chặt đứt cánh tay cầm đao của kẻ địch chứ không sát hại. Bản lãnh càng cao siêu Tư Đồ Sảng càng cố thực hiện lời dạy bảo của Trát Thập Thiền Sư, vị trưởng lão trăm tuổi của Bố Đà La Tự.
    Tư Đồ Sảng tiến nhanh như gió, Từ Tâm Kiếm loang quanh thân và liên tục phóng ra những thế thức diệu kỳ. Đường kiếm của chàng nhanh và chuẩn xác, không một thanh đao nào có thể cản nổi. Kẻ bị thương thường la to hơn người sắp chết nên đấu trường cực kỳ huyên náo, khiến bọn bịt mặt bấn loạn tinh thần, còn phe Thiên Sư Giáo thì phấn chấn.
    Tư Đồ Sảng loại hơn mười hai kẻ địch, vào đến rốn trận. Chàng lập tức tung mình nhẩy xổ vào đối thủ của Trương giáo chủ. Họ Trương đã tiến bộ nhiều nhờ chăm luyện Huyền Nguyên Kiếm Pháp, nếu không ông đã sớm bại vong dưới tay lão già áo đen bịt mặt kia. Không hiểu hắc y nhân là ai mà công lực và kiếm pháp đều rất lợi hại. Nhưng có lẽ lão ta muốn bắt sống Trương Hàn Vũ nên đã bỏ qua nhiều cơ hội tốt. Trương Thiên Sư biết thế cứ liều mạng chiến đấu, không hề sợ hãi.
    Lúc Tư Đồ Sảng đến nơi thì lão hắc y đang xuất kỳ chiêu, kiếm ảnh mịt mù trông rất đáng sợ. Song thực chất là nhắm vào huyệt Liệt Khuyết trên cổ tay hữu Trương Hàn Vũ. Nếu trúng đòn vào vị trì này, Trương giáo chủ sẽ rơi kiếm và sa vào tay địch.
    Nhưng hắc y nhân phải bỏ dở chiêu ấy, tung mình lên đón đánh kẻ mới xuất hiện. Lão ta đã sớm nhận ra quyền Minh chủ võ lâm Tề Thanh Tuyệt, chẳng dám xem thường, thi triển ngay thủ đoạn độc ác. Khi hai thanh kiếm còn chưa đúng tầm với, tả thủ của hắc y nhân đã phóng ra hàng trăm mũi kim thép xanh lè vì tẩm độc.
    Thủ pháp phóng châm của lâo ta điêu luyện phi thường nên toàn thân Tư Đồ Sảng bị trận mưa chết chóc ấy bao trùm.
    Và trong khoảng cách gần như thế thì không ai có thể tránh nổi.
    Nào ngờ, Từ Tâm Kiếm từng hứng chịu hàng chục tia sét nên có từ tính khá mạnh, hút lấy hơn nửa số độc châm, cả những mũi đã bay xuyên qua kiếm ảnh, không chạm vào lưỡi kiếm. Nhờ vậy mà vùng mặt và ngực của Tư Đồ Sảng được an toàn, chi có tả thủ và hai đùi bị trúng đòn. Khô Mộc Thắn Công tập trung nhiều ở tứ chi, nơi có nhiều cơ bắp luôn hoạt động. Hơn nữa, đối phương dùng lực đạo ở cổ tay để phóng hàng trăm cây kim nên sức bay tương đối nhỏ, không đâm thủng nổi lớp da thịt bền chắc tựa gỗ Thiết Mộc của tay chân Tư Đồ Sảng.
    Tóm lại là chàng hoàn toàn vô sự trước đòn ám tập bằng độc châm ấy và thản nhiên chạm kiếm với kẻ thù. Tư Đồ Sảng đã xuất chiêu Lực Phách Nga Mi trong pho Giáng Ma kiếm pháp, đường gươm mãnh liệt như bão tố, kiếm ảnh trùng điệp tựa mây đen.
    Hắc y nhân đã bôi lên mũi những cây châm loại chất độc vô song của loài rắn biển nơi Đông Hải. Nọc của loài rắn bụng vàng này độc gấp ngàn lần nọc của rắn hổ mang, xứng danh Kiến Huyết Phong Hầu. Nghĩa là nạn nhân chỉ cần bị kim đâm chảy máu thì lập tức vong mạng.
    Đinh ninh rằng Tề Thanh Tuyệt không thoát nổi độc châm, hắc y nhân đắc ý múa kiếm thọc liền tám thức để kết liễu. Ngờ đâu, màn kiếm quang đen sì kia không hề tan biến mà cứ hung hãn ập đến đánh bạt đường gươm của lão và liếm vào cơ thể.
    Hắc y nhân gào lên ghê rợn vì ngực thủng ba lỗ và vai tả bị chặt rời khỏi thân, mang theo cánh tay.
    Trương Thiên Sử mừng rỡ hô hoán :
    - Cảm tạ Tề minh chủ !
    Lão chỉ nói có thế vì phải tiếp tức đỡ đòn của bọn đao thủ.
    Tư Đồ Sảng mỉm cười với Giáo chủ sư huynh rồi lao vút về hướg của Giả Đan Quỳnh. Nàng đang kém thế trước lão một hắc y khác. Mái tóc của lão này bạc hơn nạn nhãn của Tư Đồ Sảng và bản lãnh kiếm thuật cũng cao hơn. Nhưng lão ta cũng chỉ muốn bắt sống Giả Đan Quỳnh nên nàng mới cầm cự đến lúc này. Thực ra còn phải kể tới công lao của ả tỳ nữ Tiểu Thu. Cô gái lanh lợi ấy đã sát cánh với chủ nhân, giải nguy cho Đan Quỳnh bằng những đòn táo bạo và quyết liệt.
    Thấy Tư Đồ Sảng xuất hiện, lão hắc y tóc bạc giận dữ đẩy lùi chủ tớ Đan Quỳnh và quát vang :
    - Tề lão tặc ! Mau đền mạng cho tứ đệ của ta !
    Dút lời, lão ập đến tấn công dữ dội, ánh mắt đầy vẻ hận thù. Tư Đồ Sảng đã đạt đến tinh túy của kiếm đạo nên không hề lúng túng trước bất cứ pho kiếm nào trong thiên hạ. Chàng ung dung giải phá và uy hiếp ba tử huyệt Thiên Đột, Đản Trung, Thần Khuyết trên mạch Nhâm, khiến lão hắc y kinh hãi lùi mau.
    Tư Đồ Sảng xấn tới, dùng lực đạo cánh tay mà xuất chiêu và mở miệng hỏi:
    - Chư vị thuộc bang hội nào mà lại dám mạo phạm đến giáo chủ Thiên Sư Giáo ?
    Đối phương không trả lời và nhân cơ hội chân khí chàng gián đoạn mà phản kích, hy vọng sẽ đánh văng được Từ Tâm Kiếm. Nhưng hắc y nhân đâu biết rằng lực đạo ở cánh tay Tư Đồ Sang cực kỳ mạnh mẽ, không dồn chân khí cũng có thể nâng nổi bốn trăm cân.
    Lão ta lại bị văng ra và phát hiện trên lưỡi gươm của Tề Thanh Tuyệt dính đầy độc châm. Lão cho rằng họ Tề đã dùng đá nam châm vuốt lên thân kiếm nên phá được tuyệt kỹ phóng kim thép của em mình.
    Hắc y nhân càng chán nản hơn khi nghe tiếng vó ngựa dồn dập chạy đến và tiếng người quát tháo vang rền :
    - Bớ bọn thảo khấu kia ! Bần tăng là phó Minh chủ võ lâm đây, các ngươi mau xếp giáo quy hàng !
    Sau đó, mạn hướng Bắc đấu trường vang dội tiếng kêu rên, chứng tỏ toán cao thủ mới đến rất lợi hại.
    Cuối cùng, một tiếng còi sắt rú lên cao vút, ra hiệu thu quân. Lão hắc y thở dài, bỏ Tư Đồ Sảng mà đào tẩu. Đúng ra, lão ta không thể thoát chết song Tư Đồ Sảng đã vì mái tóc bạc trên đầu lão mà nương tay.
    Phe Thiên Sư Giáo cũng chẳng truy đuổi, lo việc băng bó và trị thương cho nhau. Nhờ mấy tháng luyện pho Huyền Nguyên Kiếm Pháp giản lược mà bọn đạo sĩ trẻ đã bảo toàn được tính mạng nhưng đều thọ thương.
    Trong toán viện binh, ngoài Thiện Đề còn có cả Tây Môn Giới, Huyết Báo và Trại Tôn Tử. Hồ Sĩ Tuệ tuy giận mà có ý định bỏ về Trường Sa song không nỡ để Thiện Đề ngập đầu trong sự vụ Tổng đàn nên đành nén lại.
    Trương Thiên Sư hân hoan hỏi Tây Môn Giới :
    - Vì sao lão thí chủ lại biết bọn bần đạo lâm nguy mà đến đây tương trợ ?
    Tây Môn Giới quắc mắt nhìn Mạc Chiêu Hương và lạnh lùng đáp :
    - Do Mạc nha đầu lén bỏ đi mấy ngày không về nên bọn lão phu phải bủa ra tìm kiếm. Nhờ tài bói toán của Hồ lão huynh nên bọn ta xuôi Nam để đi Đại Hồ Sơn. Chiều nay, bọn lão phu vừa định nghỉ ngơi ở trấn Y Xuyên thì Hồ lão huynh nghe tâm cơ máy động, liền gieo thử quẻ rồi thúc giục mọi người lên đường ngay. Nhờ vậy mà đến kịp !
    Trương Thiên Sư cười khà khà :
    - Thực ra, nếu không có Tề Minh chủ và Mạc hiền điệt nữ xuất hiện đúng lúc thì Cổ thí chủ cũng chẳng còn thấy mặt bần đạo.
    Tây Môn Giới nhìn Chiêu Hương với ánh mắt tóe lửa, song chưa kịp phát tác thì phát hiện Giả Đan Quỳnh đến quỳ trước mật mình. Còn Trương Hàn Vũ thì nghiêm nghị bảo :
    - Này Tây Môn thí chủ ! Năm xưa Ngũ sư đệ của bần đạo, tức nghĩa tử của thí chủ đã tặng một viên Luân Hồi Thần Đan để cứu mạng ái nữ nhà họ Giả. Mới đây, thí chủ lại mang quân tiêu diệt Kỳ Lân Bang, giải thoát cho họ. Chính vì thế mà Giả lão trang chủ đã đích thân đến Long Hổ Sơn, xin được gả Giả Đan Quỳnh cho Tư Đồ Sảng, dù y đã chết. Nghĩa là Đan Quỳnh tiểu thư sẽ chịu tang chồng ba năm rồi mới xuất giá. Bần đạo từ chối mãi không được đành phải nhận lời, mong lão thí chủ nể mặt mà chấp thuận cho.
    Tây Môn Giới đang còn ngẩn người suy nghĩ thì Mạc Chiêu Hương hốt hoảng lên tiếng :
    - Xin can gia đừng ưng thuận.
    Tây Môn Giới động nộ nạt :
    - Câm ngay !
    Rồi lão ngửa cổ cười bi thiết :
    - Sảng nhi ơi Sảng nhi ? Lòng dạ nữ nhân như biển khôn dò khiến lão phu không sao hiểu nổi.
    Và lão nghiêm nghị hỏi Đan Quỳnh :
    - Nếu lão phu không lầm thì cô nương tuổi đã gần tam thập, nay cư tang thêm ba năm e lỡ làng tuổi thanh xuân. Cô nương và Sảng nhi hội ngộ chỉ một lần, cớ sao cô nương lại phải nặng lòng như thế ?
    Đan Quỳnh nghẹn ngào thỏ thẻ :
    - Bẩm lão gia ! Tiện nữ là một kẻ có tính tình quái dị, lúc đầu chỉ tri ân cứu mạng song dần dà hình bóng của lệnh lang ngày càng khắc sâu. Nếu Tư Đồ thiếu hiệp còn sống chưa chắc tiện nữ đã dám thổ lộ tâm tình. Nhưng nay chàng đã qua đời, tiện nữ muối mặt thú nhận, cầu xin lão gia nhủ lòng thương xót, cho kẻ bạc mệnh này được một lần chít khăn tang khóc thương người trong mộng.
    Nói xong, nàng úp mặt xuống đất khóc nức nở. Tiếng khóc ấy thê lương não nuột khiến ai cũng mủi lòng. Cả Chiêu Hương cũng phải cảm động trước mối chân tình ấy, thở dài suy nghĩ :
    - Cùng là phận hổng nhan, lẽ nào ta lại hẹp hòi với một nữ nhân chung tình rất mực như thế. Có lẽ đây là duyên nợ từ kiếp trước, ta chẳng nên buồn làm gì.
    Tây Môn Giới gật gù bảo :
    - Hảo nhi nữ ? Mối chân tình của ngươi có thể làm lay động được cả trời cao. Lão phu đồng ý nhận ngươi làm dâu.
    Giả Đan Quỳnh mừng rỡ nhưng vẫn sụt sùi, kính cẩn lạy chín lạy và gọi tiếng can gia.
    Thiện Đề đại sư ngơ ngác gãi đầu lẩm bẩm :
    - Mô Phật ! Cái gã Tư Đồ Sảng này mặt mũi thế nào mà chết rối cũng có người đẹp đến xin làm vợ ? Trong khi bần tăng còn sống sờ sờ đây mà chẳng ma nào thèm để ý đến ?
    Tư Đồ Sảng đứng bên cạnh Thiện Đề nên nghe thấy hết. Chàng ngao ngán thở dài buột miệng bảo :
    - Đại sư tưởng nhiều vợ thì sung sướng lắm hay sao ? Mai đây họ cắn xé nhau thì ta chỉ còn cách trốn vào chùa tu cho yên thân.
    Thiện Đề ngơ ngác hỏi lạ :
    - Ủa ? Bần tăng đâu có nói về Tề thí chủ ?
    Tư Đồ Sảng sực tỉnh, ngượng ngùng đáp :
    - Lão phu chỉ nói chung chung thế thôi mà !
    Trời đã sắp tối, đoàn người lên ngựa phi thắng về Lạc Dương, đến nơi lúc đầu canh hai.
    Tắm rửa xong, họ quây quần dùng bữa. Tây Môn Giới bảo bọn gia nhân dọn riêng một mâm trong phòng khách cho ông và các bậc cao niên. Ăn xong họ dùng trà và trò chuyện. Hai người vợ góa của Tư Đồ Sảng đứng hầu.
    Tây Môn Giới nghiêm nghị hỏi con dâu :
    - Hương nhi ! Ngươi đi đâu mấy hôm nay và vì sao lại đồng hành với Tề minh chủ ?
    Chiêu Hương thản nhiên đáp, ánh mắt trong veo chẳng chút tội lỗi :
    - Bẩm can gia ! Hài nhi thương cho vong phu cô độc trong những ngày xuân nên tìm đến Đại Hồ Sơn bầu bạn. Lúc trở về, tình cờ gặp được Tề Minh chủ khi còn cách nơi Trương giáo chủ bị mai phục chừng chục dặm.
    Và nàng nghiêm trang thề thốt :
    - Hài nhi thề có lôi thần chứng giám rằng thân thể này chưa ai chạm đến ngoài trượng phu. Tây Môn Giới tạm yên lòng, cau máy trách móc :
    - Chỉ còn vài ngày nữa là chúng ta đi Đại Hồ Sơn thu nhặt hài cốt Sảng nhi. Ngươi đi không báo khiến cá nhà phải lo lắng và tốn công tìm kiếm.
    Trương Thiên Sư khề khà đỡ đòn cho em dâu :
    - Không sao ! Không sao ! Cũng nhờ Ngũ tức muội bỏ đi mà bọn bần đạo mới thoát chết, xem ra công lớn hơn tội.
    Tây Môn Giới quay sang hỏi Tư Đồ Sảng :

  8. #47
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    - Này Tề Minh chủ ? Vì sao ông đã từ nhiệm bỏ đi mà lại quay về ?
    Chàng ung dung đáp :
    - Lão phu tình cờ gặp lại cố hữu, được người ấy tặng cho báu vật nên tự tin có thể hạ sát Thanh Y nhân mà vẫn an toàn. Bởi vậy, lão phu quay lại nhờ Cổ Cư Sĩ loan tin khiêu chiến với tên ác nhân kia !
    Tây Môn Giới vui mừng khôn xiết và hiếu kỳ hỏi :
    - Chẳng hay bảo vật ấy là gì mà lại khiến cho tôn giá tự tin như thế ?
    Tư Đồ Sảng liền tháo dây tơ treo Hắc Ngọc khỏi cổ, đưa cho Tây Môn Giới và giải thích những diệu dụng của nó.
    Tây Môn Giới tò mò ngậm thứ vào miệng thì thấy cảnh vật ngoài sân, trong phòng sáng rõ và có mầu hồng nhạt.
    Ông vô cùng kinh ngạc, hết lời ca ngợi đặc tính diệu kỳ của Hắc Ngọc, rồi trao cho Trương Thiên Sư thử nghiệm. Trương Hàn Vũ cũng ngạc nhiên không kém, đưa qua cho Trại Tôn Tử. Thử xong, Hồ lão trầm ngâm bảo :
    - Lão phu từng đọc qua một quyển cổ thư, trong ấy có nói về viên ngọc quý này, song giờ chỉ nhớ mang máng rằng nó xuất xứ từ đất Vân Nam.
    Lão vừa nói vừa nhìn Tư Đồ Sảng với ánh mắt dò xét. Chàng thầm khâm phục kiến văn của vị quân sư già nhưng ngoài mặt vẫn giữ vẻ thản nhiên.
    Đêm ấy, Tư Đồ Sảng tìm đến phòng nghĩa phụ. Thấy Tây Môn Nhị và Tây Môn Ngũ đứng gác, chàng nghiêm nghị bảo :
    - Lão phu và Cố Cư Sĩ có chuyện tối mật cần bàn bạc. Hai ngươi hãy cảnh giới thật chu đáo, không cho bất cứ ai vào, trừ Trương Thiên Sư. À ! Tốt nhất là Tây Môn Nhị đi gọi thêm vài huynh đệ trong Thất Tinh Hình Sứ đến hỗ trợ mặt sau, nhưng tuyệt đối không để ai biết.
    Tây Môn Nhị ngớ người ngơ ngác không hiểu vì sao Tề Minh chủ lại biết họ là Thất Tinh Hình Sứ của Hắc Hiệp Hội. Cho rằng sư phụ đã tiết lộ vì tin tưởng họ Tề, gã ngoan ngoãn thi hành ngay. Chờ Tây Môn Nhị đưa thêm ba người nửa đến Tư Đồ Sảng mới vào phòng nghĩa phụ.
    Tây Môn Giới vẫn chưa ngủ, ngồi cạnh giá nến nhâm nhi bầu rượu nhỏ, mắt đỏ hoe vì sầu muộn. Ông giật mình khi thấy khách bước vào và cau này hỏi:
    - Vì sao Tề túc hạ lại đến tìm lão phu vào giờ này ?
    Tư Đồ Sảng dịu giọng đáp :
    - Lão phu có chuyện cực kỳ hệ trọng, xin Cư Sĩ cố bình tâm, đừng vì kinh ngạc mà đánh động người ngoài.
    Tây Môn Giới gật đầu :
    - Tôn giá cứ yên tâm. Định lực của lão phu rất thâm hậu, dẫu núi đổ trước mặt cũng chàng động lòng.
    Tư Đồ Sảng liền vén áo quỳ xuống khấu đầu lạy và nghẹn ngào nói :
    - Can gia ! Hài nhi chính là Tư Đồ Sảng đây !
    Tây Môn Giới trợn mắt sửng sốt, lắp bắp hỏi lại :
    - Tôn giá vừa nói gì ? Lão phu nghe chẳng rõ !
    Tư Đồ Sảng không đáp mà đọc nhỏ khẩu quyết của công phu Bích Hổ tâm pháp. Nỗi hân hoan rạng rỡ dồn trong ánh mắt Tây Môn Giới. Lão lẩm bẩm:
    - Sảng nhi đấy ư ? Lão phu không thể tin được !
    Và lão cúi xuống ôm đầu đứa con nuôi yêu dấu mà khóc. Tư Đồ Sảng vội bịt miệng ông lại thì thầm :
    - Xin can gia bớt bi lụy. Trong trang có nội gián nên không thể để lộ việc hài nhi còn sống.
    Tây Môn Giới gật đầu đáp :
    - Để lão phu ra dặn bọn Tây Môn Nhị mấy câu kẻo chúng hiểu lầm mà vọng động.
    Ông bước ra ngoài và trở vào ngay, quạt tắt nến giả như đã đi ngủ. Hai cha con lên giường trò chuyện, một canh giờ sau Tư Đồ Sảng mới trở về phòng mình.
    Phần Tây Môn Giới thì đi tìm Trương giáo chủ để báo tin mừng và bàn kế hoạch đánh lạc hướng nội gián.
    Sáng hôm sau, trong bữa điểm tâm, Trương Thiên Sư lộ vẻ xót xa nói rằng:
    Đêm qua, bần đạo đã đối chiếu lại Bát Tư Niên Canh của Ngũ sư đệ với Lịch phả thì phát hiện ra rằng trong năm nay chỉ có ngày rằm tháng chín là thích hợp để cải táng cho Ngũ sư đệ. Có như thế thì vong hồn y mới sớm được siêu sinh tịnh độ hoặc đầu thai vào chỗ hiển vinh.
    Người Trung Hoa cổ đại cho rằng có thể đoán trước cát hung, hoặc diễn biến trong vận mệnh của mình, nên đã sáng tạo ra thuật bói toán, gọi chung là “số thuật !”
    Theo sách Hán Thư - Nghệ Văn Chí, có thể chia “số thuật” làm sáu loại: Thiên Văn, Lịch phả, Ngũ hành, Thi qui, Tạp chiêm và Hình Pháp ! (tức xem Phong thủy và tướng mặt người cùng gia súc, gia cầm).
    Tuy phân chia như thế song khi bói người ta đều dựa trên sự tương sinh, tương khắc của Âm Dương, Ngũ Hành để tính toán !
    Theo cách tính mà Trương Thiên Sư nói thì ông ta đã dùng phép Lịch Phả phối hợp với phép Bát Tự Toán Mệnh mà tìm ra ngày tốt xấu !
    Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Tuệ là bậc thầy trong nghề số thuật, tinh thông không sót một môn nào, nên biết ngay là Trương Thiên Sư tính sai. Chính ngày mười tám tháng giêng sắp tới, ngày mà hai người đã chọn, mới là ngày tốt nhất. Hồ lão hiểu rằng trong việc thay đổi bất ngờ này có ẩn tình. Ông không vội phản bác mà nhìn Trương Giáo chủ dò hỏi và nhận được một cái nháy mắt kín đáo !
    Trại Tôn Tử rất giỏi tướng pháp, lập tức nhận ra thần sắc của Trương Thiên Sư sáng nay tươi nhuận chứ không u ám như hôm qua. Nghĩa là trong lòng ông ta đang vui ! Một ý niệm kỳ lạ lóe lên trong cái đầu thông tuệ của Trại Tôn Tử và ông khề khà tán thành :
    - Trương Giáo chủ thận trọng xem xét lại lịch phả như thế là phải đạo ? Lão phu cũng ngờ ngợ cho rằng tháng giêng không tốt, nhưng do chẳng có Lịch phả trong tay nên không dám khẳng định !
    Tây Môn Giới thở dài thườn thượt :
    - Nhị ví đểu nói thế thì lão phu đành cắn răng chờ đợi cho đến rằm tháng chín vậy ! Thực là tội nghiệp cho Sảng nhi !
    Huyết Báo bỗng cười nhạt :
    - Chư vị đã già nên sợ hãi đủ thứ, khiến cho người chết không được yên mồ yên mả. Liễu mỗ suốt đời không tin chuyện quỉ thần, kiêng kỵ hung cát mà vẫn sống nhăn, chẳng hề bị trời đánh hay ma ám !
    Tây Môn Giới nổi giận bác ngay :
    - Phế ngôn ! Nếu không có ma quỉ thì sao Sảng nhi lại hai lần hiện về báo mộng rất linh ứng, lần là thủy tai sông Hoài, lần sau là lộ trình của Giả Bạch Hồ và Truy Nguyên Qui Đổ Tất Linh Kỳ ?
    Huyết Báo cứng họng chẳng dám nói nữa. Tây Môn Giới quay sang bảo Giả Đan Quỳnh :
    - Quỳnh nhi ! Còn tám tháng nữa mới được ngày cải táng cho Sảng nhi, con cứ về phụng dưỡng song thân, giữa tháng chín hãy có mặt ?
    Đan Quỳnh khép nép đáp :
    - Bẩm Can gia ! Song thân của tiểu tức vẫn khang kiện và được sự hầu hạ, chăm sóc của sáu diệt nữ nên không cần đến đứa con gái vụng về này nữa. Vả lại, gia phụ đã lệnh cho tiểu tức phải ở lại phụng dưỡng Can gia, đủ ba năm mới được về !
    Tây Môn Giới nghe mát ruột, khoan khoái gật gù :
    - Tốt lắm ! Quỳnh nhi quả là đứa con dâu hiếu thảo và lệnh huyên đường cũng là những người biết trọng lễ nghĩa !
    Mạc Chiêu Hương giận đến xám mặt, lửa ghen lại bừng lên hừng hực :
    - Con quỉ cái kia thực là đáng sợ, biết cách lấy lòng nghĩa phụ khiến ta bị ra rìa ? Sau này, không chừng ả sê được tướng công yêu thương nhất bọn nhờ những thủ đoạn vô cùng lợi hại ấy !
    Ghen tuông là thứ tình cảm phức tạp mãnh liệt nhất thế gian và có trong không sót nữ nhân nào, dù là một ả rất hiền lành, thùy mị. Lửa ghen chỉ tạm lịm đi khi các tay chèo yêu thương nhau và đấng trượng phu giữ được đạo công bằng.
    Tuy Chiêu Hương cũng biết xót thương Đan Quỳnh song khi kém cạnh thì lại sinh lòng đố kỵ !
    o0o
    Sau khi nghĩa tử trở về, Tây Môn Giới đã sáng suốt như xưa, hiểu rằng Thiên Thư Tú Sĩ mới là mục tiêu chính của Tư Đồ Sảng. Ông không còn muốn chàng tử đấu với Thanh Y nhân ngay nữa, mà chờ đến sau Tiết Trùng Cửu, khi Tư Đồ Sảng, trong vai Tề Thanh Tuyệt, giết được Lăng Quân Vĩnh và lên ngôi Minh chủ.
    Hiện tại, Tây Môn Giới tập trung sức lực vào việc truy tìm nội gián trong trang. Qua sự thoát chết diệu kỳ của Tư Đồ Sảng và những lời chàng kể về tài biến hóa của Bạch Phụng, ông rất tin tưởng vào sự tiên đoán của ả Hồ ly tinh.
    Tây Môn Giới hợp sức cùng Trại Tôn Tử, dùng phương pháp loại suy mà tìm gian tế. Một mặt, Tây Môn Giới cho điều thêm trăm đao thủ ở Cổ gia trang đến Lạc Dương. Đám võ sĩ ấy được Hí Nhân Cư Sĩ đào tạo rất chu đáo, bản lãnh khá cao và rất trung thành. Hơn nữa, chắc chắn là đối phương không thể cài người trong lực lượng này !
    Sau khi thế chân họ Cổ, Tây Môn Giới đã hậu đãi đám đao thủ, tăng lương gấp đôi, khiến họ vô cùng cảm kích, sẵn sàng xả thân !
    Cổ Quí Sinh chỉ là kẻ đạo đức giả, ngoài mặt tỏ ra rộng rãi để thu phục nhân tâm và mua lấy tiếng thơm, nhưng bên trong lại rất keo kiệt với thủ hạ. Tây Môn Giới thì ngược lại, không cần thanh danh và luôn hào phóng với những kẻ phục vụ mình ! Sau này, dẫu cho đám cao thủ biết chủ mình là ai thì vẫn vui vẻ, tiếp tục phò tá ?
    Một trăm tay đao ấy, dưới sự chỉ huy của Thất Tinh Hình Sứ, làm nhiệm vụ dò xét đội ngũ kiếm thủ nhà Tư Đồ và bọn gia nhân, tỳ nữ trong trang !
    Trương Thiên Sư đã đi Bắc Kinh để lập đàn cầu an cho Thái Hậu nên đám người già chỉ còn Tây Môn Giới, Trại Tôn Tử và Thập Tự Thần Kiếm Phan Từ Mỹ.
    Phan lão suốt ngày ở ngoài hoa viện chăm sóc cây cảnh và lũ chim, tối đến thì tìm Tư Đồ sảng mà uống rượu và trò chuyện !
    Lão ta chẳng nhớ được nhiều việc cũ chỉ huyên thuyên những câu chuyện không đầu không đuôi, rất khó hiểu. Tư Đồ Sảng kiên nhẫn lắng nghe và dọ hỏi từ từ, cuối cùng đã có thể chắp vá lại đoạn quá khứ của cha mình !
    Nghĩa là, hơn ba mươi năm trước, Mân Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý và Thập Tự Thần Kiếm Phan Từ Mỹ vì tranh giành Vu Sơn Ma Nữ Triển Thương Thu mà đánh nhau một trận quyết liệt trên núi Vu Sơn, trước sự chứng kiến của Vu Sơn Ma Nữ.
    Cuối cùng, cả hai trúng đòn trí mạng của nhau mà ngã lăn xuống vực thẳm. Vu Sơn Ma Nữ vô cùng hối hận nên cũng nhẩy xuống theo hai kẻ đã vì mình mà chết oan.
    Trận chiến ấy chỉ có ba bốn người chứng kiến, trong đó có Tư Đồ Quát. Ông liền hạ sơn mua dây chão và xuống vực do thám !
    May thay, mùa đông năm ấy trời rét đậm, tuyết dưới đáy vực dầy hàng trượng nên cả ba nạn nhân đều sống sót. Tư Đồ Quát lần lượt mang họ lên và đưa về nhà của Triển mỹ nhân tĩnh dưỡng.
    Sau khi hồi phục, hai lão Tần, Phan đã vái Tư Đồ Quát làm Đại ca và hứa không tranh giành vợ với nhau nữa mà để cho Triển Thương Thu tự quyết định.
    Bốn người chung sống trên núi Vu Sơn được hơn hai tháng thì mỹ nhân sinh lòng yêu thương ân nhân là Tư Đồ Quát ! Hai người âm thầm trốn đi, để lại bức thư tạ lỗi !
    Còn sau đó, việc gì đã xây ra với Tư Đồ Quát và Vu Sơn Ma Nữ thì Phan Từ Mỹ không biết được !
    Tư Đồ Sảng cố ôn lại quá khứ song cũng không có manh mối nào vì cha chàng chưa bao giờ hé lộ cuộc tình cũ ! Chàng đã hỏi ý kiến Tây Môn Giới và Trại Tôn Tử song họ cũng bó tay !
    Tư Đồ Sảng đành tạm gác lại, chú tâm vào việc luyện võ và chỉ dạy thêm cho hai ái thê !
    Giả Đan Quỳnh cũng chưa được phép biết việc Tề minh Chủ là Tư Đồ Sảng ? Và điều này đã khiến Chiêu Hương đắc ý, cho rằng mình được xem trọng hơn ! Nàng vui vẻ nghe lời trượng phu, đem pho Truy Tinh Thân Pháp dạy cho Giả Đan Quỳnh ?
    Thực ra. Chiêu Hương ngày càng yêu mến tình địch hơn trước vì Đan Quỳnh luôn kính cẩn xem nàng như chính thất, còn mình chỉ là nhị phòng ! Đan Quỳnh đã lo toan mọi thứ, từ việc dọn giường chiếu cho đến giặt giũ y phục bẩn hay nước trong bồn tắm chẳng để Chiêu Hướng phải mở miệng sai phái bọn nữ tỳ ! Đan Quỳnh đã bảo gia nhân thực hiện chu đáo cả rồi !
    Đan Quỳnh còn tự tay chải tóc cho Chiêu Hương và làm bạn đàm đạo lúc thư nhàn !
    Phần Tư Đồ Sảng thì chẳng được vui. Chàng nhớ thương và lo lắng cho Bạch Phụng vì yêu và cũng vì hy vọng tái sinh cho chị em họ Lăng ! Chàng đã lần đến núi Thanh Phong tìm Linh Hồ Động mà không thấy, gọi khan cả cổ cũng chẳng một con chồn nào xuất hiện !

  9. #48
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 17

    Chính Tâm Tái Đắc Thanh Xuân Tuế,
    Đảo Mệnh, Hoàn Dương, Phu Phụ Hoan.
    Đầu trung tuần tháng hai, Tư Đồ Sảng bỗng nằm mộng thấy một lão nhân áo trắng, tóc bạc, râu dài. Dung mạo hao hao giống Bạch Phụng. Ông ta nghiêm nghị bảo :
    - Này Tư Đồ hiền tế! Lão phu chính là Bạch Hòa, phụ thân của Bạch Phụng đây! Hồ Ly Đế Quân phản đối mối duyên ngang trái của hai ngươi nên đã bắt Bạch Phụng giam ở Trường Giới Động trên núi Đại Ba Sơn, thuộc rặng Tần Lệnh. Đế Quân không tin loài người có thể thực lòng yêu thương một ả Hồ Ly tinh! Song Phụng nhi đã hết lời biện bạch nên Đế Quân cho gọi hiền tế đến, hạn chót là ngày hai mươi tám tháng hai này! Đường đi sẽ đầy dẫy cạm bẫy và mai phục nhưng hiền tế chỉ được phép độc hành.
    Bạch lão dừng lại lấy hơi rồi buồn rầu nói tiếp :
    - Thú thực là Đế Quân có ý thu nạp Phụng nhi làm thứ Phi nên sẽ tận lực ngăn trở hiền tế bằng mọi thủ đoạn. Lão phu sợ rằng ngươi sẽ không vượt qua nổi mà còn uổng mạng! Và dẫu cho hiền tế có cứu được Phụng nhi ra khỏi Đại Ba Sơn thì hai người cũng chỉ suốt đời lén lút tương hội chứ không thành phu thê đường đường chính chính được! Hay là hiền tế đừng đi nữa và tiến hành việc Đảo Mệnh cho hai vị tiểu thư họ Lăng. Lão phu sẽ mở cửa Linh Hồ Động và chỉ dẫn phương thức hồi sinh!
    Tư Đồ Sảng khẳng khái đáp :
    - Bẩm nhạc phụ! Tiểu tế yêu thương Phụng muội bằng cả tấm chân tình, quyết chẳng vì sợ chết mà bỏ rơi nàng! Dầu sau này chỉ được sum họp trong bóng đêm thì tiểu tế cũng mãn nguyện rồi! Nếu chẳng may tiểu tế táng mạng thì cũng là số mệnh! Lúc ấy xin nhạc phụ giúp Trương Thiên Sư tiến hành việc Đảo Mệnh cho Phi Tuyết, Phi Hồng!
    Bạch Hòa lộ vẻ hài lòng trước sự chung thủy của chàng rể quí! Ông mỉm cười dặn dò :
    - Giữa giờ Ngọ ngày kia hiền tế hãy xuất hành và nhớ mang theo Giáng Ma Phủ!
    Bạch lão biến mất và Tư Đồ Sảng cũng giật mình thức giấc! Chàng làm vệ sinh thật nhanh và tìm đến phòng của nghĩa phụ. Lúc này mới là đầu canh năm nhưng Tây Môn Giới đã dậy để uống trà với Trại Tôn Tử!
    Từ ngày con nuôi trở về, lòng ông vui vẻ nên bỏ tật nhậu khuya, dễ dàng ngủ sớm và dậy sớm! Bọn Thất Tinh Hình Sứ thay phiên nhau gác phòng sư phụ, túc trực ngày đêm, lúc nào cũng có ít nhất là hai người! Họ cũng đã biết Tề Thanh Tuyệt là Thiếu Chủ của mình, kính cẩn chào hỏi và mời ông vào trong!
    Thấy mặt nghĩa tử, ông hoan hỉ bảo :
    - Sao sáng nay Sảng nhi đến tìm ta sớm như vậy? Mau ngồi xuống đây uống trà!
    Và ông mỉm cười giễu cợt :
    - Hay là ngươi nhớ vợ nên trằn trọc đến sáng? Tối nay lão phu sẽ cho mượn mật thất để ngươi và Hương nhi sử dụng? Lão phu chỉ sợ bụng nó phưỡn ra, khó mà giải thích với thiên hạ!
    Tư Đồ Sảng đỏ mặt hổ thẹn vì quả thực là chàng cũng khó ngủ lúc đầu hôm vì khao khát ái ân! Một nam nhân đã quen với thân xác đàn bà thì ân ái trở thành một nhu cầu. Hơn nữa, Chiêu Hương là một vưu vật hiếm có, ngực nở eo thon, da dẻ mịn màng, trắng muốt, ánh mắt đầy tình tứ mê hoặc, khiến lòng quân tử đắm say, không sao quên được! Nàng biết mình lớn tuổi nên nỗ lực chăm chút nét đẹp cơ thể và hết lòng chiều chuộng trượng phu, đem lại cho Tư Đồ Sảng vô vàn hoan lạc!
    Nhắc lại, Tư Đồ Sảng bị nghĩa phụ nhìn thấu tâm can nên thẹn thùng bối rối, ngồi xuống ghế bưng chén trà nhấp một hớp!
    Tây Môn Giới khề khà nói :
    - Sảng nhi! Ta và Hồ lão huynh đang tìm hiểu lai lịch của bọn người bịt mặt đã chặn bắt Trương Thiên Sư và Giả Đan Quỳnh, ở gần Y Xuyên, hồi đầu tháng giêng. Hồ lão huynh cho rằng đám lâu la là thủ hạ Hải Hoa Bang, còn mấy lão Hắc y sử dụng trường kiếm thì thuộc về Song Tuyệt Môn ở Phủ Du Lâm, miền Bắc Thiểm Tây!
    Hồ Sĩ Tuệ đỡ lời bạn già :
    - Song Tuyệt Môn tồn tại đã ba chục năm nay, Môn chủ là Hầu Diện Thư Sinh Dư Nam Nghiệp, năm nay độ chừng bẩy mươi lăm tuổi! Họ Dư giỏi kiếm thuật và nghề phóng kim thép, bản lãnh đứng đầu vùng Thiểm Bắc, đã từng xưng là Song Tuyệt Thần Quân. Khổ thay, người võ lâm lại không thèm nhớ đến danh hiệu đẹp đẽ ấy mà cứ gọi một cách giễu cợt là “Chàng học trò mặt khỉ!” Dư Nam Nghiệp phẫn chí xây nhà ở chân núi Nguyệt Sơn, cách Du Lâm mười lăm dặm về hướng Bắc và thu nạp đệ tử, thành lập Song Tuyệt Môn! Do dung mạo quá xấu xí nên Hầu Diện Thư Sinh bằng lòng với vai trò bá chủ Thiểm Bắc, không hề bước chân vào Trung Nguyên!
    Tây Môn Giới tiếp lời :
    - Lão phu đã xem xét kỹ mấy cây độc châm còn dính trên áo lông cừu của Sảng nhi, phát hiện dấu khắc nửa vầng trăng rất nhỏ. Đấy chính là Chiêu bài của núi Nguyệt Sơn! Và chất độc tẩm ở đầu mũi kim có lẽ là nọc của loài hải xà bụng vàng, tuyệt thế vô song, giết người trong chớp mắt và không có thuốc giải! Trong pho Độc Kinh của Bát Tý Độc Vương cũng chú thích rằng : Do chưa lần nào bắt được hải xà để nghiên cứu nên Hàn Cổ Mộc đành bó tay!
    Ông lộ vẻ lo lắng bảo :
    - Sảng nhi! Có lẽ Song Tuyệt Môn bị quân Mông Cổ mua chuộc và làm tay sai cho chúng, giống như Nam Hải Tiên Ông và Giáp Vô Yên lúc trước vậy! Ngươi là trụ cột của võ lâm, sớm muộn gì cũng phải đối đầu với Song Tuyệt Môn và chất độc kia khiến lão phu rất băn khoăn.
    Tây Môn Giới tháo sợi tơ trên cổ, đặt Hắc ngọc xuống bàn và nghiêm nghị bảo :
    - Sảng nhi hãy nuốt viên nội đan Mãng Xà tinh này để tăng hỏa hầu pho Khô Mộc Thần Công thì mới có thể toàn mạng trước độc châm của Hầu Diện Thư Sinh!
    Tư Đồ Sảng đã trao báu vật cho nghĩa phụ sử dụng để tăng cường sức khỏe của ông! Võ công Tây Môn Giới không cao nên có thể bị lão hóa theo qui luật tự nhiên. Nhờ Hắc Ngọc mà mắt ông bớt mờ, tai nghe rõ hơn và phủ tạng cũng hoạt động tốt! Không chỉ mình Tây Môn Giới mà cả Trại Tôn Tử cũng được hưởng lợi ích này!
    Nay, nếu Tư Đồ Sảng dung hoà Hắc ngọc thành công lực thì chỉ mình chàng đắc lợi còn người thân thì thiệt thòi. Do vậy, Tư Đồ Sảng quyết giữ lại để những người chàng yêu thương được khỏe mạnh và sống lâu.
    Tư Đồ Sảng cố tỏ vẻ lạc quan, vui vẻ đáp :
    - Nghĩa phụ yên tâm! Với hỏa hầu hiện tại hài nhi cũng đủ sức chống lại độc châm, bằng chứng là trận chạm trán cao thủ Song Tuyệt Môn hôm trước! Hơn nữa, diệu dụng báo trước nguy cơ của Hắc ngọc còn quí giá hơn mấy chục năm công lực!
    Chàng lập luận rất hữu lý vì dẫu cho hỏa hầu có cao đến mức nào thì Khô Mộc Thần Công cũng chỉ phát huy tác dụng khi người võ sĩ vận khí! Nhưng không lẽ cả ngày chàng cứ phải làm việc ấy? Cho nên, khả năng cảm nhận được nguy hiểm là một lợi thế phi thường!
    Tuy nhiên, cái đầu sắc xảo của Tây Môn Giới đã không bị lừa. Ông cảm động nói :
    - Chứ không phải là ngươi sợ lão phu chết sớm đấy sao? Thôi được, xét ra, Sảng nhi cũng có lý!
    Hồ Sĩ Tuệ cười khà khà :
    - Tây Môn lão đệ phúc phận sâu dầy nên cuối đời có được đại hiếu tử! Lão phu làm bạn ông mà được hưởng lộc không còn sợ phải chết trong cảnh bệnh hoạn lây lất. Gần đây, lão phu nghe trong người thư thái, khỏe mạnh, tựa như trẻ lại mười tuổi vậy!
    Tây Môn Giới mỉm cười đắc ý, lòng vô cùng cao hứng. Ông dịu giọng hỏi nghĩa tử :
    - A! Dường như Sảng nhi có việc gì muốn bày tỏ nên mới đến đây sớm như vậy?
    Tư Đồ Sảng gật đầu, điềm đạm thuật lại giấc mơ! Nghe xong, Trại Tôn Tử lập tức bấm tay dùng phép bói Lục nhâm mà tính toán cát hung!
    Lục Nhâm là một loại Chiêm bốc thuộc loại Ngũ Hành, dựa vào sự khác nhau của Can Chi Ngũ Hành và số giờ mà chia “khóa”rồi căn cứ vào khóa nghĩa mà suy đoán lành dữ. Hai phép bói Thái ất, Tuần Giáp cũng tương tự như Lục nhâm!
    Môn Lục nhâm rất cao siêu, vi diệu, chẳng cần phải gieo quẻ, chỉ dựa vào thời khắc hiện tượng xảy ra mà phán đoán tương lai! Thuở xưa Khổng Minh Gia Cát Lượng nhờ phép Lục nhâm mà nắm cả thiên cơ trong lòng bàn tay!
    Còn hiện nay, Trại Tôn Tử là Tổ sư trong nghề bói Lục nhâm. Ông cau mày bảo :
    - Giờ Giáp Ngọ tháng hai năm nay thuộc khoá Kê Minh, Giáp Ngọ xuất hành là điềm rồng xanh ở phía Tây. Đức tại Thổ, Hình tại Kim, báo hiệu nguy cơ trùng điệp. May thay, Sảng nhi lại đúng tuổi Giáp Ngọ nên tiền hung hậu cát.
    Tây Môn Giới gật gù :
    - Tiền hung hậu cát là tốt rồi! Nhưng dẫu sao thì chuẩn bị càng chu đáo sinh cơ càng nhiều! Hai người hãy theo lão phu xuống mật thất!
    Ông rời bàn, đi vào phòng ngủ ở phía sau bức vách, ấn nút bí mật nào đó trên thành giường! Chín viên gạch bằng đá Đại Lý trước giường ngủ lập tức sụp xuống, để lộ cửa vào mật thất!
    Hầm ngầm này vuông vức mỗi bề hai trượng, được soi sáng bằng tám ngọn đèn tọa đăng đế đồng trên vách. Tư Đồ Sảng lần đầu xuống đây, ngơ ngẩn trước bức tượng giống hệt mình. Và trong tay hữu của pho tượng là thanh Giáng Ma Phủ.
    Tây Môn Giới bùi ngùi nói :
    - Sau khi Sảng nhi bị Thanh Y nhân đánh rơi xuống vực thẳm Đại Hồ Sơn lão phu đã chế tác pho tượng này để nhớ đến nghĩa tử. Phía trong bộ võ phục viền lam kia là một chiếc áo chẽn bằng da bò Tây Tạng. Còn thanh Giáng Ma Phủ chính là thần vật mà lão phu đã tráo đổi của Thiện Đề đại sư! Cây búa mà Thiện Đề đang sử dụng chỉ là vật giả!
    Tư Đồ Sảng cảm động đến rớt nước mắt trước lòng yêu thương vô bờ bến của nghĩa phụ!
    Tây Môn Giới bước đến gỡ Giáng Ma Phủ ra khỏi bàn tay của pho tượng, trao cho Tư Đồ Sảng. Ông nghiêm nghị bảo :
    - Sảng nhi! Con hãy hóa trang để đến núi Tần Lĩnh, may ra thoát được vài chặng mai phục của Hồ Ly Đế Quân! Ngươi mà có mệnh hệ gì thì chắc lão phu không sống nổi!
    o0o
    Trưa ngày hai mươi tháng hai, Tư Đồ Sảng bí mật rời cơ sở tạm thời của Tổng đàn võ lâm bằng cách vượt tường sau. Ngựa và hành lý đã được Tây Môn Tứ đưa ra ngoài cửa Tây thành từ trước. Chàng ra roi phi nước đại, những mong đến Đại Ba Sơn càng sớm càng tốt.
    Đại Ba Sơn là ngọn núi cao nhất rặng Tần Lĩnh, khoảng một ngàn hai trăm bốn mươi bốn trượng (4.107m). Đấy là tính theo thước đo thời nhà Minh, còn như dùng thước thời nhà Thương thì số lượng sẽ gấp đôi. Đời Thương một thước chưa đến gang tay (16,95cm) nên so ra chiều cao cơ thể con người ước chừng khoảng trên dưới một trượng, bởi thế mà có từ “Trượng phu”. Sau này, chiều dài của trượng tăng dần song người ta vẫn dùng chữ trượng phu để chỉ một đấng nam nhi!
    Nhưng giờ đây Tư Đồ Sảng chưa có mặt ở Đại Ba Sơn. Sáu ngày sau chàng mới đến Thiểm Huyện. Tuy mang tên Thiểm song địa phương này lại thuộc Hà Nam, cách ranh giới Thiểm Tây đến hơn trăm dặm. Thiểm Huyện nằm sát bờ sông Hoàng Hà và trên quan đạo chính Đông Tây.
    Tư Đồ Sảng qua đêm trong thành, mờ sáng đã khởi hành. Cách cửa Tây hơn chục dặm, hai bên đường là rừng dã lê um tùm, cành nặng trĩu những quả vàng óng. Bìa rừng mé hữu có một quán rượu vách gỗ, mái ngói, phía trước quán cắm sào cao, trên phất phới lá tửu kỳ, và dựng một tấm bảng gỗ dán giấy vàng, viết nguệch ngoạc hai chữ “điểm tâm!”
    Lúc này, vầng dương đã rạng rỡ đằng đông, Tư Đồ Sảng chưa ăn sáng nên ghé vào. Chàng không ngờ mình là người khách đầu tiên, ngoài ra chẳng còn ai khác. Tiểu nhị là một hán tử tuổi tứ tuần phốp pháp : Gã nhìn chàng rồi gượng cười mời mọc :
    - Bẩm đại gia! Bổn quán có cả cơm lẫn bánh hấp, bánh bao, mằn thắn, mì nước! Dám hỏi đại gia dùng những món nào?
    Các loại bánh mà người Trung Hoa ăn chủ yếu là bánh làm bằng bột mì... Thường thấy nhất là loại “bánh mì hấp” (Man đầu)... Man đầu có từ thời nhà Tấn...
    Và bánh bao là một loại bánh mì hấp có kẹp nhân, đến thời Tống mới gọi là “bánh bao”. Thời ấy về sau, bánh bao là một loại thực phẩm rất phổ biến, không những của người miền Bắc ưa thích mà người miền Nam cũng rất chuộng.
    Mẫu thân Tư Đỗ Sảng là người miền Bắc, sinh trưởng ở Hàm Dương nên cũng rất khoái bánh bao. Bánh bà làm rất ngon khiến chàng chẳng thể quên!
    Buổi sáng ăn cơm thì nặng bụng, bánh bao thích hợp hơn! Tư Đồ Sảng gọi chục cái bánh bao khiến gã tiểu nhị trung niên mừng hết lớn!
    Tư Đồ Sảng ăn đến cái thứ sáu thì có bốn kỵ sĩ mang kiếm ghé vào quán, ngồi ở bàn ngoài cùng. Lát sau lại có thêm một tốp năm người nữa dừng cương, chiếm lấy bàn sau lưng Tư Đồ Sảng!
    Bốn ngày qua, chàng không hề gặp phục binh nên nghĩ rằng nhờ ngày đi đêm nghỉ mà thoát được cạm bẫy của Hồ Ly Đế Quân. Dẫu pháp thuật cao cường thì đám thủ hạ của Đế Quân cũng không thể lộng hành lúc thanh thiên bạch nhật!
    Thiểm Tây là lãnh địa của Hạo Thiên Cung nên Tây Môn Giới đã bắt con nuôi phải bang mặt nạ hóa trang thành một người tuổi ngũ tuần, râu ba chòm đen nhánh!
    Tư Đồ Sảng lại rời Lạc Dương một cách bí mật, chỉ có vài người thân thiết nhất là biết được. Do vậy, không không sợ phe đối phương phát hiện ra!
    Chín người khách mới vào quán không hề lưu ý đến Tư Đồ Sảng, thản nhiên gọi những món điểm tâm, vừa ăn vừa trò chuyện rôm rả!
    Tư Đồ Sảng chàng hề nghi ngờ, ung dung ăn cái bánh bao thứ mười. Lúc này, gã tiểu nhị trung niên mang bình trà mới ra đổi bình trà cũ sắp cạn! Gã giả lả nói :
    - Đây là trà Long Tĩnh thượng hạng do quán chủ chiêu đãi! Nhờ đại gia mở cửa hàng mà khách đến đông!
    Gã vừa nói vừa rót vào chén sứ cho chàng! Tư Đồ Sảng nghe mùi thơm ngào ngạt mỉm cười gật đầu tỏ ý hài lòng rối bưng chén trà lên uống! Đúng lúc ấy viên Hắc ngọc trên ngực chàng rung động báo nguy cơ! Chàng giả đò thổi cho trà bớt nóng và âm thầm liếc nhanh bốn kẻ đang ngồi ở bàn ngoài cửa, nhận ra họ cũng nhìn mình chờ đợi!
    May thay, Tư Đồ Sảng có thói quen ngồi bên cửa sổ nên giờ đây không phải húc đổ bức vách gỗ của tửu quán. Chàng hất ngay chén trà nóng hổi vào người gã tiểu nhị rồi chụp lấy tay nải và nhẩy qua cửa sổ, lao về hướng tuấn mã!
    Nào ngờ, từ khu rừng lê đối diện, mấy chục gã kiếm thủ ùa ra chặn đường Tư Đồ Sảng. Chàng nhanh tay tháo sợi dây cương khỏi cành cây rồi rút gươm xông lên, mở đường máu thoát thân. Chàng ngờ ngờ đoán phe địch có thể là Song Tuyệt Môn nên thận trọng xuất chiêu Dương Hóa Điểm Điếm, dệt nên màn kiếm ảnh dầy đặc, công thủ có đủ!
    Quả nhiên, bốn gã trước mặt chàng nhất tề vung tả thủ, dùng phép Mãn Thiên Hoa Vũ mà tạo ra trận mưa độc châm, bao phủ thân hình Tư Đồ Sảng!
    Họ tấn công từ khoảng cách một trượng, dùng cả lực đạo cánh tay nên sức Kim thép bay khá mạnh. Tuy nhiên, Tư Đồ Sảng đã cẩn thận mặc áo choàng lông dài phủ gối, hai bàn tay mang găng da hươu thuộc.
    Lưu vực sông Hoàng Hà thời ấy thuộc khí hậu ôn đới nên mùa xuân khá lạnh, việc mặc áo ngự hàn là bình thường.
    Áo lông cừu không chống nổi gươm đao song lải có thể làm giảm lực công phá của những mũi kim thép nhỏ và nhẹ, hỗ trợ cho Khô Mộc Thần Công! Tư Đồ Sảng đã phát hiện ra tác dụng ấy sau lần chạm trán đầu tiên với Song Tuyệt Môn!
    Giờ đây, chàng thản nhiên xông qua đám mây độc châm nhờ những trang bị ít ỏi ấy và lực từ tính của bảo kiếm! Muốn giấu thân phận Minh ChủTề Thanh Tuyệt nên Tư Đồ Sảng đã nhờ bọn Thất Tinh Linh Sứ cạo sạch lớp sơn đen và mài cho lưỡi gườm sáng loáng. Tất nhiên, từ tính không vì thế mà mất đi.
    Chiêu Dương Hoa Điểm Điếm lại khá kín đáo, đầy những vệt sáng mỏng manh như lá liễu, và Từ Tâm Kiếm đã hút được rất nhiều độc châm. Tư Đồ Sảng ập đến trong sự kinh ngạc tột cùng của phe địch. Chúng liên thủ chống đỡ, hai gã trực diện còn hai gã kia uy hiếp tả hữu!
    Nhưng những chấm nho nhỏ tựa hoa liễu trên màn kiếm ảnh của Tư Đồ Sảng đã biến thành hàng trăm thức đâm nhanh tựa sao sa, trổ lỗ trên ngực hai gã đối diện chàng và đẩy lùi hai tên kia!
    Tư Đồ Sảng không hề dừng bước, lướt qua xác nạn nhân mà xông vào hàng ngũ đối phương. Trong đám đông, kẻ thù sẽ không dám phóng độc châm sợ hại lây đồng đảng. Đường kiếm của Tư Đồ Sảng cực kỳ nhanh nhẹn, chuẩn xác và mãnh liệt khiến những kẻ chặn đường không phải khốn đốn!
    Giết xong hai mạng, lòng Tư Đồ Sảng đã có phần áy náy, liền nhắm vào cánh tay cầm kiếm của đối thủ mà đâm chém. Tay hữu luôn chuyển động nên là mục tiêu rất khó chạm đến. Hơn nữa, địch thủ của chàng đều là những tay kiếm lão luyện, tuổi trên bốn mươi. Họ liên thủ tấn công ráo riết, chặn đứng được Tư Đồ Sảng!
    Và chàng trai nhân từ của chúng ta đã nhận ra những chiêu kiếm quen thuộc của Hạo Thiên Cung! Chàng giật mình e ngại, tự hỏi rằng chẳng lẽ Hạo Thiên Cung cũng bị rợ Mông mua chuộc, nên mới liên thủ với Song Tuyệt Môn?
    Lứa giận bùng lên, Tư Đồ Sảng chẳng còn có thể nương tay với những kẻ mưu toan bán đứng sơn hà, xã tắc! Chàng xuất chiêu Toàn Phong Nhất Nộ, kiếm kình cuồn cuộn như lốc xoáy cuốn lấy hai gã kiếm thủ Hạo Thiên Cung!
    Giáng Ma Kiếm Pháp chủ về lực đạo và Từ Tâm Kiếm thì khá nặng! Đường gươm của nạn nhân lập tức bị đánh bạt và để lộ sơ hở chết người. Tư Đồ sảng lạnh lùng đâm thủng ngực và bụng của hai kẻ xấu số ấy rồi xấn tới tìm mục tiêu khác?
    Tiếng thép chạm nhau ghê người nhưng không làm át nổi tiếng rên la thảm thiết của những kẻ trúng đón, sắp lìa đời. Tư Đồ Sảng thi triển phép khoái kiếm đến độ chót, chỉ vài thế thức đã đắc thủ, khiến thây người liên tiếp đổ xuống. Chàng hạ một hơi mười sáu kẻ địch, phá thủng vòng vây, chạy về hướng Đông!
    Tuấn mã của Tư Đồ Sảng cũng cất vó phóng theo, nhờ không người cởi nên cước lực nhanh như gió! Con ngựa này có tên là Hồng nhi, lông hung đỏ, dáng vóc bình thường và chẳng mang đặc điểm gì khác lạ. Nghĩa là người cỡi không sợ vì nó mà bị nhận dạng!
    Hồng nhi giống hệt như chủ cũ của nó là Tích Dịch Quỉ Tây Môn Giới! Ông có thể hòa lẫn trong đám đông, thật tầm thường và khó nhận biết!
    Tuy thế, Hồng nhi rất thông minh, luôn bám sát chủ nhân. Khi Tư Đồ Sảng chiến đấu, nó lảng vảng phía ngoài đấu trường mà chờ đợi chứ không vì sợ hãi những âm thanh ồn ào của trận chiến mà bỏ chạy!
    Hồng nhi quen với Thiếu chủ từ lúc Tư Đồ Sảng còn ở Thúy Phong Cốc nên giờ đây ngoan ngoãn phục vụ chàng!
    Nhắc lại, phe địch thấy con mồi thoát bẫy liền cuống cuồng bảo nhau lấy ngựa đuổi theo. Đương nhiên tốc độ của lũ ngựa này không cao vì phải cõng thêm người trên lưng. Trong khi ấy, Hồng nhi được thảnh thơi, cùng chủ đua tài nên phi nhanh như gió, trong chốc lát đã bỏ xa truy binh vài dặm. Lúc này Tư Đồ Sảng mới nhẩy lên yên, tiếp tục bôn hành.
    Chiều ngày mười chín tháng hai, Tư Đồ Sảng đến ải Hàm Cốc, một trong hai cửa ngõ chính dẫn vào đất Tần thời Chiến Quốc, tức Thiểm Tây!
    Địa hình nước Trung Hoa rất nhiều núi non hiểm trở. Các dãy núi lớn ở phía Tây thường chạy theo hướng Bắc Nam. Ngoài một chút là những rặng núi nhỏ, thấp hơn, nằm theo hướng từ Tây sang Đông. Những sơn lộ này chia Trung Hoa thành nhiều miền cách biệt, chỉ thông với nhau bằng những con đèo! Ví dụ như Hà Nam và Thiểm Tây chỉ có thể qua lại bằng hai lối duy nhất là đèo Hàm Cốc và đèo Vũ Quan!
    Thuở xưa, nước Tần đã xây dựng quan ải kiên cố trên hai cửa ngõ này! Khi đất nước đã thống nhất thì cánh cửa ải không còn, và hàng hóa, ngựa xe tấp nập qua lại ải Hàm Cốc!
    Thiểm Tây nằm trên cao nguyên Hoàng Thổ nên địa hình cao hơn Hà Nam. Nghĩa là đoạn đường đèo hướng Đông khá dài và ải Hàm Cấc nằm ở đỉnh.
    Địa thế Hàm Cốc hiểm tuấn phi thường, xứng với câu “Nhất phu đương quan vạn nhân nan quá.” Đường đèo có độ dốc khá lớn, hai bên là vách đá sừng sững, nên những đạo quân từ hương Đông tiến vào sẽ chẳng khác gì bầy gia súc bị lùa đến lò sát sinh!
    Ải Hàm Cốc được xây dựng vô cùng kiên cố, nối liền hai vách đá chắn ngang đường đèo. Bức tường của quan ải dầy bốn năm trượng nên mặt bằng nóc ải rất rộng, có thể bố trí hàng ngàn quân cung nỏ!
    Cửa ải hình vòm, cao và rộng rãi, đủ cho vài cỗ xe sánh vai qua lọt. Hiện tại thì cánh cổng quan ải đã không còn và cũng chẳng có quân binh canh gác. Đã mất vai trò ải địa đầu trọng yếu nên công trình đồ sộ ấy trớ thành hoang phế, tiêu điều, loang lổ rong rêu song vẫn hiên ngang thi gan cùng tuế nguyệt.

  10. #49
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chiều nay, đường đèo vắng tanh, chỉ có một người kỵ sĩ áo lông cừu đen lẻ loi. Tư Đồ Sảng đã lên được quá nửa con dốc, say mê ngắm dáng vóc lừng lẫy một thời. Vầng dương buổi hoàng hôn ở cuối trời tây đã rải nắng khắp rìa phố Tích khiến nó nổi bật trên nền trời xanh, có những đám mây trắng nhuốm hồng!
    Nhưng khi còn cách cửa ải vài chục trượng, Tư Đồ Sảng chợt cảm thấy cảnh vật kia dường như thiếu vắng một nét nào đó? Chàng đã vài lần qua đây, từng nhìn thấy bầy quạ.đen bay lượn và quang quác trên nóc ải. Chúng đã chọn Tòa Địch lâu tróc ngói để làm tổ ấm. Và buổi chiều chính là lúc lũ chim ồn ào ấy quay về tổ.
    Tư Đồ Sảng chột dạ cho ngựa bước chậm, chú tâm quan sát. Quả nhiên, lát sau, có một cánh quạ bay đến nhưng không đáp xuống mái Địch Lâu mà vội vã bay đi ngay!
    Tư Đồ Sảng thở dài, hiểu rằng kẻ thù đã chọn địa thế hiểm ác của ải Hàm Cốc để mai phục. Trên nóc và phía sau quan ải chắc là có rất nhiều người đang chờ đợi chàng! Và cái bẫy này sẽ phải đáng sợ hơn chặng mai phục lần trước ở gần Thiểm Huyện!
    Nhưng chàng bắt buộc phải vượt ải Hàm Cốc vì không còn thời gian để quay lại, xuống phía Nam để đi đường ải Đồng Quan, tức Vũ Quan nhưng mà trễ kỳ hạn thì sẽ mãi mãi không được nhìn thấy Bạch Phụng!
    Tư Đồ Sảng không hiểu tại sao Hạo Thiên Cưng và Song Tuyệt Môn luôn phát hiện ra chàng và tìm được thời cơ thích hợp mà giăng bẫy? Phải chăng chính Hồ Ly Đế Quân đã mượn tay họ mà ngăn trở cuộc hành trình của chàng?
    Tư Đồ Sảng là người can trường, bất khuất nhưng không phải hạng “Hữu dũng vô mưu!” Chàng suy nghĩ một lúc, cân nhắc thiệt hơn, rồi quyết định vượt ải lúc màn đêm bao phủ! Khi ấy, chàng sẽ chiếm được ưu thế nhờ nhãn lực phi thường! Ưu thế càng lớn thì sinh cơ càng nhiều!
    Nghĩ vậy nên Tư Đồ Sảng quay ngựa đi ngược xuống chân đèo hướng Đông? Hành động này sẽ khiến đối phương hoang mang, không hiểu chủ ý của chàng. Có thể chúng sẽ đoán rằng Tư Đồ Sảng chờ đến sáng, hòa cùng đoàn lử hành đông đảo mà qua ải!
    Chân đèo phía Đông có một trấn nhỏ, tập trung nhiều khách điếm, tửu quán và nhà thổ, để phục vụ những lữ khách, thương lái lỡ độ đường, đến đâu khi trời vừa tối nên chồng dám qua đèo!
    Tư Đồ Sảng xuống đến trấn sơn cước ấy thì cảnh vật đã nhá nhem. Chàng ghé vào Thái Hòa lữ điếm mướn phòng trọ, khi bị gã tiểu nhị lực lưỡng níu kéo, mời mọc. Nhìn gâ, Tư Đồ Sảng bỗng nảy ra một ý hay!
    Khoảng gần đến canh một, chàng gọi gã tiểu nhị họ Trần ấy vào phòng và nghiêm nghị bảo :
    - Này Tiểu huynh đệ! Ngươi có muốn kiếm trăm lượng bạc hay không?
    Và chàng đặt hai đĩnh bạc năm mươi lượng lên bàn khiến đôi mắt của Trần Khoát sáng rực lên. Gã nuốt nước miếng đáp :
    - Bẩm lão gia! Chẳng hay người muốn tiểu nhân làm việc gì?
    Tư Đồ Sảng từ tốn đáp :
    - Lão phu có việc gấp phải đi Trường An song lại bị kẻ thù chặn ở cửa ải Hàm Cốc! Lão phu muốn nhờ ngươi thi hành kế nghi binh để lão phu có cơ hội vượt ải!
    Trần Khoát nghe nói đến ân oán giang hồ liền tỏ ý lo ngại :
    - Bẩm lão gia! Nghì binh như thế nào và liệu có nguy hiểm hay không?
    Tư Đồ Sảng mỉm cười trấn an :
    - Chẳng có gì đáng lo cả! Lão phu sê khởi hành trước và đúng một khắc sau ngươi sẽ cỡi con ngựa của lão phu và lên đèo. Và khi còn cách cửa ải năm sáu chục trượng thì ngươi quay ngựa trở về. Chỉ có vậy thôi! Tất nhiên, sau đó ngươi phải chăm sóc Tuấn mã mà chờ lão phu đến lấy lại!
    Trần Khoát suy nghĩ rất kỹ lưỡng, tự nhủ rằng việc này quá ngon ăn, chẳng có chi đáng lo ngại cả! Hơn nữa, với trăm lượng bạc kia gã có thể cưới vợ và dư vốn để thoát khỏi cảnh tôi đòi trở thành một chủ quán trọ nho nhỏ.
    Trần Khoát thò tay chụp lấy hai đỉnh bạc và cười hì hì :
    - Tiểu nhân xin liều mạng phục vụ lão gia!
    Tư Đồ Sảng dặn dò họ Trần thêm vài câu rồi vượt tường sau của lữ điếm. Trăng mười chín còn khuất sau đỉnh núi Hàm Sơn nên đường đèo rất tối tăm. chàng hài lòng hiểu rằng phe đối phương sẽ không thể nào phát hiện ra mình!
    Tư Đồ Sảng ngậm Hắc Ngọc vào miệng, bước đi như gió thoảng vì cảnh vật trước mắt đã trở nên rất rõ ràng. Khoảng gần khắc sau, Tư Đồ Sảng chỉ còn cách cửa ải hơn chục trượng. Chàng nằm phục xuống bãi cỏ bên vệ đường mà quan sát và chờ đợi.
    Đỉnh tường quan ải thường được xây theo hình răng lược, xen kẽ giữa những khu trống và ụ gạch, cao đến ngực để những cung thủ ẩn mình xạ tiến. Giờ đây, qua những khe ấy, Tư Đồ Sảng thấy thấp thoáng bóng người. Họ đang căng mắt nhìn xuống đoạn quan đạo gần cửa ải. Nghĩa là, nếu chàng liều mạng chạy qua cửa sẽ bị phát hiện vì khoảng cách quá gần!
    Lát sau, tiếng vó ngụp lọc cọc khua động đêm trường, mỗi lúc một gần, khiến phe địch nhốn nháo, chuyển thị tuyến ra xa.
    Tư Đồ Sảng biết đã đến lúc hành động, liền bò nhanh trên mặt đất mà tiến lên! Chiếc áo lông cừu đen đã là vật ngụy trang rất tốt!
    Bọn cung thủ trên Địch Lâu nghe tiếng vó ngựa nên cho rằng đối phương còn ở xa, không chú ý đến khoảnh đất gần cửa ải nữa. Nhờ vậy, Tư Đồ Sảng đã an toàn đến được chân tường quan ải di chuyển về mé tả, đứng sát cạnh cửa vòm, thò đầu vào xem xét!
    Thấy không có người, Tư Đồ Sảng men theo vách gạch mà lần đến mặt sau cửa ải! Chàng nhận ra hàng trăm cung thủ đang ngồi đầy trên hai cầu thang gạch ở hai bên đường. Đôi cầu thang này vốn được xây dựng để quân Tần trèo lên mặt quan ải.
    Xa hơn một chút là chốt chặn của toán phục binh thứ hai. Nghĩa là, khi qua khỏi cửa ải là chàng sẽ trở thành ba ba trong rọ, vô phương tiến thoái?
    Tư Đồ Sảng than thầm trong bụng, thi triển Bích Hổ Công bò lên nóc cửa vòm, treo mình chờ đợi!
    Lát sau, tiếng vó ngựa của Trần Khoát xa dần vì gã đã quay trở xuống. Bọn cung thủ bực bội chửi thề ỏm tỏi. Xếp cung tên, rời vị trí tìm chỗ tiêu tiểu hoặc ngả lưng?
    Tư Đồ Sảng thận trọng buông mình xuống đất, len lén bước ra, hoà vào bọn Hắc Y.
    Trăng đã lên nhưng do đường đèo nằm lọt giữa hai vách đá cao nên không gian tranh tối, tranh sáng, khó nhìn rõ mặt người! Hơn nữa, trời đêm ở vùng núi non rất lạnh lẽo và có sương mù khiến phe đối phương phải mặc áo bông hoặc áo lông cừu, đa số là mầu đen!
    Tư Đồ Sảng thản nhiên tiến về hướng trận địa mai phục của toán Hắc y thứ hai, cách cửa ải mười mấy trượng. Bọn này cũng đã uể oải tan hàng, kẻ đứng ngươi ngồi, miệng lầm bầm chửi rủa.
    Tư Đồ Sảng hồi hộp bước đến cuối chặng mai phục, lòng thầm mừng rỡ. Từ vị trí này chàng có thể đào tẩu rất thuận lợi và không ai có thể theo kịp.
    Nhưng dường như dáng vóc cao lớn của Tư Đồ Sảng đã khiến tên Hắc y sinh nghi, nhẩy ra quát hỏi :
    - Này gã kia! Ngươi đi đâu thế? Mật khẩu?
    Tất nhiên là Tư Đồ Sảng không biết mật khẩu của bọn chúng. Chàng chỉ nhận ra giọng nói và dung mạo của kẻ chặn đường. Lão ta chính là Tiên Nhân Động Chủ Tất Linh Kỳ!
    Tư Đồ Sảng biết mình đã bị bại lộ liền rút gươm thần tốc, tấn công ngay. Tất Linh Kỳ lão luyện giang hồ nên đã sớm vận khí đề phòng. Giờ đây, lão kịp thời múa kiếm chống đỡ bằng một chiêu cực kỳ mãnh liệt, chủ yếu là chặn bước con mồi để đồng đảng vây lại!
    Tiếc thay, lão đã không biết rằng nhãn lực Tư Đồ Sảng lại có thể nhìn xuyên đêm tối tựa loài cú vọ! Chàng dễ dàng hóa giải đường gươm ác độc và thọc một nhát vào ngực đối phương. Tất Linh Kỳ rú lên thảm thiết, ôm ngực gục ngã.
    Nếu là ban ngày, Tư Đồ Sảng muốn giết được lão ta cũng phải trầy vi tróc vẩy. Nhưng đêm nay, chàng là kẻ sáng mắt còn họ Tất thì mù dở!
    Tiếng thét lìa đời ghê rợn của Tiên nhân Động Chủ Tất Linh Kỳ đã làm chấn động đêm trường. Bọn Hắc y ùa đến thì đã muộn vì Tư Đồ Sảng như mũi tên rời dây cung, lão vút vào màn đêm!
    Thủ lĩnh thứ hai của chặng mai phục này chính là Giả Bạch Hồ. Gã giận dữ quát tháo :
    - Mau lấy ngựa đuổi theo!
    Lát sau, tiếng vó ngựa khua vang, Giả Bạch Hồ dẫn quân phi mau! Nửa canh giờ sau vẫn chẳng thấy bóng dáng của Tề Thanh Tuyệt họ đành phải bỏ cuộc vì lũ ngựa đã sùi bọt mép, kiệt lực!
    o0o
    Chiều ngày hai mươi ba, Tư Đồ Sảng đến Trường An. Chàng không dám vào thành, đi vòng qua khu ngoại ô phía Tây, tìm nhà dân xin nghỉ trọ.
    Mờ sáng, Tư Đồ Sảng đã lên đường, lòng thầm lo Hồ Ly Đế Quân cạn tàu ráo máng đến mức báo cho Hạo Thiên Cung biết mà bày binh bố trận ngay chân núi Đại Ba Sơn, lúc ấy thì mạng của chàng khó mà vẹn toàn!
    Trưa hai mươi sáu, Tư Đồ Sảng đã vào được sơn vực Tần Lĩnh nhưng còn cách Đại Ba Sơn hơn một ngày đường. Tần Lĩnh là một trong những dãy núi lớn nhất Trung Hoa, mạch núi kéo dài hàng mấy trăm dặm theo hướng Tây Đông!
    Tư Đồ Sảng gởi con ngựa mới mua cho một nhà tiều phu, mang theo túi nước và ít lương khô mà tìm đến chân hướng Nam Đại Ba Sơn!
    Tần Lĩnh được bao bọc bằng những cánh rừng bạt ngàn, nhờ tiết xuân mà cành lá um tùm, xanh tốt. Tư Đồ Sảng thi triển khinh công lướt nhanh trên những lối mòn và luôn thận trọng căng mất quan sát phía trước, đề phòng cạm bẫy!
    Xế chiều, Tư Đồ Sảng đã đi được hai chục dặm. Chàng bỗng nghe có tiếng nữ nhân rú thất thanh phát ra từ mé hữu đường mòn. Những âm thanh ấy vô cùng quen thuộc giống hệt lúc Bạch Phụng thét lên sợ hãi những tiếng sét kinh hồn.
    Trái tim Tư Đồ Sảng đập mạnh vừa mừng vừa sợ. Chàng lao vút về hướng ấy, tuốt kiếm trần để chặt cành, phạt gai mở lối.
    Chỉ lát sau chàng đã đến một con suối nhỏ, bề ngang chỉ độ hơn trượng, hai bờ ngổn ngang đá núi. Và trên một tảng đá tương đối bằng phẳng, sát mép nước, có một thân hình trắng trẻo dang nằm sóng sượt.
    Tư Đồ Sảng kinh hãi nhẩy ào đến, kịp nhận ra phần đuôi của một con rắn vừa bò xuống suối. Chàng hiểu ngay rằng Bạch Phụng đang tắm giặt thì bị độc xà cắn trộm.
    Chàng vội lật ngửa nạn nhậm lên và phát hiện nàng ta không phải là Bạch Phụng! Tư Đồ Sảng vô cùng bối rối trước thân hình trần truồng, không mảnh vải của người bị nạn! Cơ thể nàng ta còn đẹp và quyến rũ hơn cả Chiêu Hương, khiến Tư Đồ Sảng nóng cả mặt!
    Chàng cố trấn tĩnh xem xét và tìm ra dấu răng độc xà ở huyệt Thiên Trì gần đầu vú bên trái!
    Tư Đồ Sảng càng bội phần chí ngại, nhét vào miệng nạn nhân một viên giải độc đan. Thuốc này do nghĩa phụ chàng dựa theo Độc Kinh của Bát Tý Độc Vương mà bào chế, có thể hóa giải hàng trăm loại độc dược, chỉ trừ nọc của loài hải xà bụng vàng!
    Đồng thời chàng nắm cổ tay nữ lang ấy, truyền chân khí vào huyệt Nội Quan, theo kinh thủ Quyết Âm Tâm Bào, dồn chất độc ra khỏi cơ thể qua miệng vết thương ở huyệt Thiên Trì!
    Lạ thay, kinh mạch của nạn nhân lại bị bế tắc nơi huyệt Thiên Truyền trên bắp tay gần vai, khiến luồng chân khí của chàng không qua được! Và lúc này da mặt nữ lang đã xám lại, mắt trợn trắng. Tư Đồ Sảng kinh hãi cúi xuống, dùng miệng hút máu độc ra, tay hữu luồn xuống lưng, áp vào huyệt Mệnh Môn, truyền công lực để bảo vệ tâm mạch kẻ bị nạn.
    Môi miệng tiếp xúc với ngọn ngọc phong ngồn ngộn, và mũi ngập tràn mùi hương da thịt nồng nàn, nên lửa dục trong lòng Tư Đồ Sảng bùng lên! Nhưng chàng mang cốt cách của bậc anh hùng, mau chóng kìm chế được dục vọng, chú tâm chữa trị cho nạn nhân!
    Máu độc được hút ra hết và giải dược cũng đã phát huy tác dựng nên nữ lang kia thoát chết, sắc mặt tươi lại, nhịp tim điều hòa. Nàng ta vẫn chưa hồi tỉnh, mắt nhắm nghiền nằm thiêm thiếp.
    Tư Đồ Sảng thở dài rầu rĩ cởi áo lông mặc cho nàng ta rồi ngồi chờ đợi. Chàng không thể nhẫn tâm bỏ đi được dù lòng nóng như lửa đốt. Lát sau, bệnh nhân cựa quậy khiến vạt áo lông cừu phanh rộng, để lộ đôi chân dài khêu gợi! Nàng ta rên rỉ vì mê sảng, lăn lộn không yên. Có lúc nàng làm bung cả phần áo phía trên, phơi bày trọn vẹn đôi gò bồng đăo no tròn, mơn mởn tựa quả tuyết lê!
    Tư Đồ Sảng bấm bụng khép áo lại cho kín đáo và cố lay gọi bệnh nhân lai tỉnh. Dần dà, chàng bị gương mặt tuyệt đẹp của nàng ta thu hút, thầm công nhận thê thiếp của mình không ai sánh nổi.
    Gần khắc sau nữ lang mới mở mắt và ngồi dậy. Nàng nhìn chàng say đắm và cười bảo :
    - Tướng công quả là bậc kỳ nam tử hiếm có, thiếp vô cùng kính phục!
    Và gương mặt nàng bỗng biến thành dung nhan của Bạch Phụng khiến Tư Đồ Sảng vui mừng khôn xiết, ôm chặt lấy mà hôn. Chàng hân hoan đến ứa nước mắt, nghẹn ngào nói :
    - Phụng muội! Nàng không hiểu lòng ta hay sao mà lại bày trò thử thách như vậy!
    Bạch Phụng mỉm cười không nói, thè lưỡi liếm mặt chàng tỏ ý mời gọi ái ân! Tư Đồ Sảng cũng đang khao khát nên nồng nhiệt đáp ứng ngay, không để ý đến việc thân hình ái thê nẩy nở khác thường!
    Chàng đắm mình trong những trận mây mưa cho tỏ lòng nhung nhớ. Bạch Phụng liên tiếp bồng bềnh trên đỉnh sóng tình, rên rỉ ngợi ca hoan lạc, xiết chặt mãi thân hình cường tráng của tình lang. Nàng đòi hỏi nhiều hơn thường lệ, cử như sắp phải chia tay vậy!
    Hàng canh giờ sau đôi uyên ương mãn nguyện nằm bên nhau trên chiếc áo choàng lông. Theo thói quen, Tư Đồ Sảng vuốt ve đôi nhũ phong ái thê và sực nhớ ra rằng chúng lớn hơn trước! Chàng ngơ ngác hỏi :
    - Phụng muội! Vì sao cơ thể nàng giờ đây lại nẩy nở và đẹp hơn!
    Bạch Phụng bật cười khúc khích, ngồi lên và thổi một luồng hơi thơm tho vào mặt chàng. Tư Đồ Sảng bỗng nghe toàn thân tê liệt, không sao cử động được nữa. Chàng còn kinh hãi hơn khi thấy gương mặt Bạch Phụng hóa thành nữ nhân lúc nãy! Nàng ta cười chúm chím, tình tứ bảo :
    - Thiếp không phải Bạch Phụng mà chính là Vương Phi của Hồ Ly Đế Quân, được lệnh gài bẫy chàng. Nếu chàng nổi tà tâm trước nhan sắc của thiếp thì sẽ bỏ mạng! Nào ngờ, chàng lại giữ được lòng thanh bạch, thoát khỏi cạm bẫy, khiến thiếp vô cùng ngưỡng mộ, biến thành Bạch Phụng để dâng hiến cho bậc anh hùng!
    Tư Đồ Sảng buồn rầu đáp :
    - Nếu Đế Quân biết được việc này mà nổi ghen thì tại hạ khó hội ngộ với Bạch Phụng!
    Hồ Ly nữ nhân vui vẻ trấn an :
    - Chàng đừng lo! Thiếp đã bủa thiên la địa võng quanh đây nên Đế Quân chẳng thể nào biết được!
    Nàng ta âu yếm nói tiếp :
    - Để kỷ niệm duyên tương ngộ, thiếp xin tặng chàng một bảo vật. Viên ngọc nhỏ này sẽ giúp chàng lột xác, trở lại tuổi thanh xuân!
    Nói xong, nàng vuốt mặt Tư Đồ Sảng, giải tỏa yêu pháp để chàng có thể cử động được. Rồi nàng nhả ra bàn tay một viên ngọc màu xanh Phi Thúy, nhỏ cỡ hạt lạc.
    Hồ Ly Vương Phi nhét ngọc vào miệng Tư Đồ Sảng và bảo chàng nuốt. Lát sau, Tư Đồ Sảng nghe cơ thể nóng ran, da dẻ ngứa ngáy khủng khiếp. Chàng gãi đến đâu thì lớp da nơi ấy bong ra. Hồ Ly Vương Phi giúp chàng lột bỏ vùng lưng thái độ dịu dàng, ân cần.
    Tư Đồ Sảng ngắm nghía làn da mịn màng của tuổi thanh xuân mà lòng ngập tràn cảm kích. Chàng vươn tay kéo Hồ Ly Vương Phi vào lòng và thì thầm :
    - Ơn này kiếp sau ta sẽ báo đền!
    Hồ Ly Vương Phi cười khúc khích :
    - Thiếp là Hồ Ly Tinh, đứng ngoài luân hồi nên không còn kiếp lai sinh! Chỉ có chàng mới phải đầu thai thôi!
    Và nàng liếm mặt chàng, ánh mắt đầy vẻ khát khao. Tư Đồ Sảng hiểu ý hôn lên đôi môi chín mọng của nàng!
    Sau trận ái ân tiễn biệt, Hồ Ly Vương Phi biến mất. Tư Đồ Sảng bâng khuâng như người vừa đánh mất bảo vật, lững thững xuống suối tắm gội. Chàng ăn vội vài miếng thịt dê sấy rối lên đường, mặc dù trời đã về chiều!
    Nỗi vui được trẻ lại đã khiến chàng vô cùng biết ơn Hồ Ly Vương Phi và bất giác sinh lòng yêu mến. Chàng còn thầm cao hứng vì đã cắm sừng cái lão Hồ Ly Đế Quân chết tiệt kia! Lão định cướp vợ của chàng không ngờ lại bị mất trước!
    o0o

  11. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Album Ngày Nào Em Đi Lấy Chồng








    Ngày nào em đi lấy chồng

    Bước tình Hồng

    Em lễ chùa nầy

    Xuân vui ca

    Em đã thấy mùa xuân chưa

    Mộng ban đầu

    Mừng Xuân

    Như giọt sầu rơi

    Tiễn bước sang ngang

    Gọi anh mùa Xuân



    Last edited by giavui; 05-13-2020 at 05:10 PM.

Trang 5 / 6 ĐầuĐầu ... 3456 Cuối Cuối

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •