Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Muốn được hạnh phúc đến mức độ nào, ta phải có đau khổ đến mức độ đó.
Edgar Poe
Trang 1 / 4 123 ... Cuối Cuối
Results 1 to 10 of 36

Chủ Đề: Âm Thanh và Cuồng Nộ

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    03 Rose

    Âm Thanh và Cuồng Nộ

    William Faulkner

    Dịch giả: Phan Đan và Phan Linh Lan

    Lời giới thiệu

    Nguyên tác: The Sound and the Furry



    http://www.mediafire.com/file/vznoeu...hvacuongno.pdf



    William Faulkner (1897 – 1962) là một trong những gương mặt sáng chói của văn học hiện đại. Ngày nay, ở khắp nơi trên thế giới, tên tuổi ông được nhắc đến với niềm kính trọng sâu xa. Ông là một nhà cách tân táo bạo và là một tiểu thuyết gia lỗi lạc bậc nhất. Trong lĩnh vực tiểu thuyết, ông có thể sánh ngang những tượng đài bất diệt như F. Dostoervsky…và trong lĩnh vực khám phá sáng tạo văn học, ông cùng hàng ngũ với những người tiên phong như F. Kafka, J.Joyce, M. Proust…
    William Harrison Faulkner sinh ngày 25 tháng 9 năm 1897 tại Mississipi (Hoa Kỳ) và mất ngày 6 tháng 7 năm 1962. Đang học ở Đại học Mississippi, ông gia nhập Không lực Hoàng gia Canada năm 1918, sang châu Âu năm 1925 – 1926, rồi làm đủ nghề để mưu sinh trước khi trở thành một văn hào. W. Faulkner đã đoạt nhiều giải thưởng văn học lớn như giải Pulitzer, giải National Book và giải Nobel (1950).
    Cuốn tiểu thuyết thứ tư của W. Faulkner là The Sound and The Fury được ấn hành lần đầu tiên vào ngày 7 tháng 10 năm 1929 đã mang đến cho ông danh tiếng lẫy lừng, đầu tiên là trong giới văn học, sau đó là trong quảng đại quần chúng. Tuy nhiên, đến tận bây giờ, cuốn sách vẫn là một thách đố đầy quyến rũ cho bất kỳ độc giả nào muốn thâm nhập vào thế giới âm u, náo động, mãnh liệt và thấm đẫm tình người của W. Faulkner. Nhan đề cuốn sách được trích từ một câu thơ của W.Shakespeare, trong vở bi kịch Macbeth, cảnh 5 hồi 5; đó là một định nghĩa về cuộc đời "It is a tale told bắt an idiot, full of sound and fury, signifying nothing" (Đó là câu chuyện do một thằng ngốc kể, đầy những kêu la và cuồng nộ, chẳng có ý nghĩa gì).Thật vậy, phần thứ nhất của Âm thanh và Cuồng nộ là độc thoại nội tâm của một người đần độn bẩm sinh, gào khóc và điên giận, với những ý nghĩ rời rạc, mù mờ, chắp nối, hỗn độn, những hồi ức, liên tưởng nhảy cóc từ thời đỉêm này sang thời điểm khác, xuôi ngược trên dòng thời gian, lẫn lộn quá khứ, hiện tại, tương lai.
    Để độc giả có thể theo dõi câu chuyện mà không nhất thiết phải tìm hiểu những kỹ thuật mới mẻ và phức tạp trong bút pháp của W. Faulkner như kỹ thuật dòng ý thức hay thời gian đồng hiện, chúng ta dựa theo lời giới thiệu của Maurice E. Coindreau trong bản dịch tiếng Pháp Le Bruit et la Fureur (Editions Gallimard, 1949) để cung cấp một chìa khoá giải mã những ẩn ngữ của W. Faulkner.
    Câu chuyện diễn ra ở bang Mississippi, nước Mỹ, vào khoảng đầu thế kỷ XX, giữa các thành viên của một gia đình quý tộc miền Nam từ chỗ giàu sang và kiêu kỳ đã trở nên nghèo khổ và sa đoạ. Những nhân vật chính của gia đình quý tộc này gồm ba thế hệ: ông Jason Compson v bà vợ Caroline (tên thời con gái là Caroline Bascomb), cô con gái Candace (hay Caddy) và ba cậu con trai: Quentin, Jason và Maury (sau này gọi là Benjamin hay Benjy để khỏi làm ô danh ông cậu Maury Bascomb), sau cùng là cô cháu gái Quentin, con của Caddy. Sống với họ cũng có ba thế hệ những người hầu da đen: bà Dilsey và chồng là Roskus, với ba đứa con: T.P., Frony, Versh và sau cùng là Luster, con trai của Frony. Như vậy là có hai Jason và hai Quentin.
    Theo dõi ngày tháng của chương sách, độc giả sẽ thấy một sự đảo lộn trật tự thời gian. Chương đầu tiên là chuyện xảy ra ngày 7 tháng 4 năm 1928. Chương thứ hai lùi lại mười tám năm, ngày 2 tháng 6 năm 1910. Chương thứ ba lại là ngày 6 tháng 4 năm 1928 và chương thứ tư là hai ngày sau đó, 8 tháng 4 năm 1928. Ba chương đầu là độc thoại nội tâm của ba nhân vật: Benjy – thằng khùng, Quentin và Jason, chỉ có chương cuối mới được kể ở ngôi thứ ba. Trong những độc thoại nội tâm của ba nhân vật này, chuỗi hồi ức và liên tưởng sẽ cung cấp dần dần cho độc giả các sự kiện xảy ra ở thì hiện tại hay quá khứ, và dần dần, những sự kiện đó sẽ dính kết, chắp nối, làm sáng tỏ câu chuyện cũng như chân dung các nhân vật.
    Bố cục cuốn sách thường được các nhà nghiên cứu W. Faulkner so sánh với một bản giao hưởng thuộc trường phái ấn tượng mà các chủ đề xuất hiện, biến mất, tái hiện rồi lại biến mất cho đến khi bùng nổ trọn vẹn. các khó khăn ban đầu dường như đầy rẫy và khiến những độc giả thiếu kiên nhẫn sẽ chóng nản chí. Tuy nhiên, không cần phải hiểu cặn kẽ từng câu trong kiệt tác này mới có thể cảm nhận vẻ đẹp và sức quyến rũ của nó. Chính những vùng mờ tối, những mặt trái sáng, những mơ hồ lấp lửng sẽ dẫn dắt trí tưởng tượng của người đọc vào thế giới của W. Faulkner, một thế giới xao xuyến, chấn động và đầy bí ẩn như chính cuộc đời này vậy.
    Và bây giờ, chúng ta sẽ phác hoạ sơ đồ từng chương:
    - Chương thứ nhất (7/4/1928) Moderato.
    Độc thoại nội tâm của Benjy. Hôm đó là sinh nhật lần thứ ba mươi của Benjy. Hắn đang ở ngoài sân với Luster, đứa trẻ da đen, mười bảy tuổi. Luster đánh mất đồng hai mươi lăm xu và đang đi tìm. Benjy bị đần dộn từ nhỏ, chỉ có những cảm giác sinh vật như ngửi, sờ..vvkg biết gì hơn. Nhưng hắn có một thế giới riêng đầy ấn tượng và cảm xúc mà hắn không bao giờ cảm thấynhững ngăn cản của khái niệm không gian và thời gian. Chuỗi ý nghĩ của Benjy không có logic mà chỉ được gợi lên từ những cảm giác ngẫu nhiên. Nghe tiếng gọi "caddie" ccz người chơi golf, Benjy nhớ đến người chị Caddy mà hắn rất yêu quý và hắn thét lên đau khổ. Khi chui qua hàng rào bị vướng, Benjy đột ngột lùi vào quá khứ - lúc còn nhỏ hắn cũng bị vướng rào như thế khi cùng chị Caddy mang lá thư tình của cậu Maury cho bà Patterson. Từ torng mớ hỗn mang những hồi ức, liên tưởng của anh khùng Benjy, hai sự kiện được lộ ra dần: đám tang bà nội, lúc Caddy lên bảy và đám cưới Caddy (25/4/1910). Độc thoại nội tâm mơ hồ, lộn xộn của Benjy làm xuất hiện những chủ đề sẽ xuyên suốt tác phẩm, có khi chỉ vài chữ hoặc một hình ảnh, một âm thanh…và độc giả sẽ nhớ lại ở những chương sau, khi chúng tái hiện với một ý nghĩa sáng tỏ hơn.
    - Chương thứ hai (2/6/1910) Adagio.
    Độc thoại nội tâm của Quentin Compson, ngày anh tự tử ở Harvard. Quentin ở trong trạng thái bị ám ảnh điên cuồng, bởi những ý nghĩ loạn luân và tự sát. Quentin ghen vì quá yêu cô em gáiCaddy, khi Caddy lấy Sidney Herbert Head vào ngày 25/4/1910. (Trước đó, Caddy đã có người tình là Dalton Ames, và khi Caddy cảm thấy mình có mang, cũng là lúc Caddy theo mẹ tới nghỉ ở vùng suối nước nóng French Lick để kiếm một người chồng). Những ý nghĩ bệnh hoạn điên cuồng dồn dập trong tâm trí Quentin cùng những hồi ức êm dịu mà đau đớn về Caddy làm Quentin hoảng sợ và cố bóp nghẹt (dòng thời gian trôi đi vĩnh viễn mà anh cố níu giữ bằng cách đập nát đồng hồ, sức hút mơ hồ của mặt nước rình rập trong chuyến đi cuối cùng của anh) và kết cục là Quentin đã tự buộc hai chiếc bàn ủi vào chân để trầm mình.
    -Chương thứ ba (6/4/1928) Allergro.
    Độc thoại nội tâm của Jason hôm hắn phát hiện ra cô cháu gái Quentin (Caddy bị chồng xua đuổi đã bỏ lại cho cha mẹ đứa con gái mới sinh đặt tên là Quentin để tưởng nhớ anh trai) theo một gã kép ở gánh hát rong. Jason săn lùng cháu khiến Quentin phải trốn nhà đi. Những ý nghĩ thù hận cay đắng của Jason quyện quanh những mảng dĩ vãng: đám tang ông bố Jason, sự phá sản của gia đình Compson, không khí nặng nề phủ lên cuộc sống của cô cháu gái Quentin, trên phông nền những sự kiện đời sống thị trấn nơi gia đình Compson cư trú và tại cửa hàng đồ sắt nơi Jason làm thuê.
    - Chương thứ tư (8/4/1928)
    Kể chuyện trực tiếp: Mở đầu chương này là tiết tấu Allegro Furioso đầy hằn học với sự kiện cô cháu gái Quentin trốn theo trai đã cuỗm theo ba nghìn đô la của ông cậu Jason, khiến Jason phải săn đuổi và rồi bị đánh. Tiếp theo là tiết tấu Andante Religioso đượm màu tôn giáo với buổi lễ Phục sinh ở nhà thờ của người da đen, rồi đến tiết tấu nhanh Allegro Barbaro và tận cùng bình yên trong tiết tấu chậm rãi Lento.
    Bản giao hưởng The Sound and the Fury chỉ thiếu nét linh hoạt, vui tươi của một Scherzo. Từ đầu đến cuối vang rền tiếng kêu của Benjy từ âm vực thấp (rên rỉ, sướt mướt) tới âm vực cao (gào, rống, rú), đóng vai trò bộ trống trong dàn nhạc của W.Faulkner. còn nền hình tượng, đo 'là những khuôn mặt da đen, chứng nhân cho tấn bi kịch của gia đình Compson. Trong số đó, nổi bật gương mặt cao cả và nhẫn nại của Dilsey, bà vú nuôi đã cầm bánh lái con thuyền tan nát của gia đình Compson. Hình ảnh bà Dilsey ở đầu chương thứ tư, mộc mạc và kỳ vĩ, với một lương tri sáng láng, chính là hình ảnh tuyệt đẹp của CON NGƯỜI mà W. Faulkner đã sáng tạo và ngợi ca.
    Để nói về những gian nan trong việc đọc W. Faulkner, độc giả có thể dẫn ra hàng trang sách không có dấu chấm câu, những đại từ nhân xưng ngôi thứ ba không rõ chỉ vào ai, những ẩn dụ rắc rối, bí hiểm… nhất là độc thoại nội tâm của Benjy. Anh chàng khùng này sống với thế giới cảm giác riêng, cảm nhận những sự kiện xảy ra như một con thú, ngửi thấy và sờ thấy các biến cố. Benjy ngửi thấy Caddy "có mùi như cây" khi Caddy còn trinh, và trong đám cưới của Caddy, Benjy đã đuổi theo chị tới tận phòng tắm, bắt chị đi tắm để khi trở ra lại có "mùi như cây" và sự tươi mát trinh nguyên như xưa. Khi Benjy cảm nhận sự bình an và hạnh phúc, hắn thấy những mảng sáng êm đềm trôi lướt qua và vạn vật được an bài "vật nào chỗ nấy". Benjy phản ứng với thời gian chỉ bằng chuỗi âm thanh mơ hồ và đau đớn trải trên nhiều cung bậc, và tiếng kêu khóc triền miên, bất tận của Benjy – con người gần với cỏ cây, muông thú hơn hết – vang dội như thể kết tinh "mọi nỗi thống khổ dưới ánh mặt trời".
    Tác phẩm này của W. Faulkner, mặc dù đặt ra cho độc giả không ít khó khăn khi lĩnh hội, nhưng giá trị tự thân và ảnh hưởng lớn lao của nó đối với văn học hiện đại đã được khẳng định ngày càng mạnh mẽ.
    Cùng với The Sound and the Fury, các tác phẩm khác của W. Faulkner như Sanctuary (Thánh đường), Light in August (Nắng tháng Tám), Absalom, Abasalom!.. đã để lại cho kho tàng văn học nhân loại những di sản vô giá. Giá trị của tác phẩm W. Faulkner không chỉ là những sáng tạo về kỹ thuật hay bút pháp mà chính là ở thông điệp nhân bản của ông gửi đến các thế hệ sau.
    Trong quá trình dịch tác phẩm này, chúng tôi đã hết sức cố gắng để giữ được nhiều nhất không khí W. Faulkner trong văn phong, tuyệt đối tôn trọng cách viết của tác giả, từ những cung cách chấm câu đến lối nói lấp lửng…Tuy nhiên, việc đưa vào bản dịch tiếng Việt những biến âm trong lối nói của người Mỹ da đen là không thể, và điều đó sẽ làm nặng nề thêm tác phẩm vốn đã không dễ đọc.
    Những dịch giả như M. E. Coindreau, khi chuyển tác phẩm này sang Pháp ngữ, mặc dù đã có may mắn được đích thân W. Faulkner bình luận những điểm "tối tăm" nhất trong cuốn sách, vẫn cố làm cho bản dịch của mình được trong sáng và phần nào dễ hiểu hơn, vì nhận thức rõ những khó khăn khi chuyển ngữ một tác phẩm như The Sound and the Fury. Các chú thích trong bản dịch tiếng Việt, chúng tôi cũng tham khảo từ bản Pháp ngữ của M.E. Coindreau. Phần phụ lục của Âm thanh và Cuồng nộ do W. Faulkner viết cho cuốn The Portable Faulkner và được đưa vào tác phẩm từ ấn bản năm 1946 (bản dịch Pháp ngữ lược bỏ phần này).
    Những sai sót khi chuỷên một tác phẩm như The Sound and the Fury sang Việt ngữ là điều không thể tránh khỏi, nhưng chúng tôi hy vọng rằng, độc giả vẫn có thể thưởng thức được vẻ đẹp độc đáo của bản giao hưởng văn xuôi này, dù là đọc qua một tấm gương ít nhiều mờ tối.
    Người dịch.
    Last edited by giavui; 10-16-2020 at 06:12 PM.

  2. #2
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    - 1 -

    Mùng bảy tháng tư 1928
    Qua hàng rào, giữa những vạt hoa lượn sóng, tôi thấy họ vụt. Họ đến chỗ lá cờ và tôi men theo hàng rào. Luster đang tìm trong cỏ cạnh cây hoa. Họ rút cờ ra, và họ vụt. Rồi họ cắm cờ vào và đi tới sân, và anh ta vụt và người kia vụt. Rồi họ đi tiếp, và tôi men theo hàng rào. Luster rời khỏi cây hoa và chúng tôi men theo hàng rào và họ dừng lại và chúng tôi dừng lại và tôi nhìn qua hàng rào trong khi Luster sục tìm trong cỏ.
    "Lại đây, caddie![1]" Anh ta vụt. Họ đi ngang qua bãi cỏ. Tôi bám lấy hàng rào và nhìn theo họ.
    "Nào, cậu nói tôi hay" Luster nói. "Ba mươi ba tuổi rồi, cậu tưởng cậu còn bé lắm à. Tôi đã phải ra mãi ngoài tỉnh mua bánh ngọt cho cậu. ThôI đừng rền rĩ nữa. Tìm giúp tôi đồng hai mươi lăm xu để tối nay tôi còn đi xem hát".
    Họ vụt khẽ, qua bãi cỏ. Tôi men theo hàng rào đi trở lại chỗ lá cờ. Nó phần phật trên cỏ sáng và đám cây.
    "Đi nào", Luster nói. "Mình tìm ở đấy rồi. Bây giờ họ không tới chỗ ấy nữa đâu. Mình phải lội xuống suối tìm đồng xu ấy trước khi bọn đen chúng tìm thấy".
    Nó đỏ, phần phật trên bãi cỏ. Rồi một con chim làm nó nghiêng đi và đu đưa trên nó. Luster ném. Lá cờ phần phật trên cỏ sáng và đám cây. Tôi bám lấy hàng rào.
    "Thôi cái trò rền rĩ ấy đi mà", Luster nói. "Họ không đến thì tôi làm sao bắt họ đến được. Cậu mà không nín, mammy[2] không làm sinh nhật cho cậu nữa. Cậu mà không nín, cậu biết tôi sẽ làm gì không? Tôi sẽ ăn hết chỗ bánh ngọt ấy. Ăn cả nến luôn. Ăn hết ba mười ba cây nến. Đi nào, chúng mình xuống suối. Tôi phải tìm đồng xu của tôi. Mình có thể tìm được một quả banh của họ cũng nên. Đấy, họ kia kìa. Chỗ ấy đấy. Nhìn xem!" Nó tới hàng rào và giơ tay chỉ. "Nhìn họ kìa! Họ đâu có lại đây nữa. Đi nào!"
    Chúng tôi men theo hàng rào và tới hàng rào khu vườn, nơi in bóng chúng tôi. Bóng tôi cao hơn cả bóng Luster trên hàng rào. Chúng tôi đến chỗ hàng rào bị gãy và chui qua.
    "Khoan đã" Luster nói. "Cậu lại vướng vào cái đinh ấy rồi. Hễ cứ chui qua đây là cậu lại vướng vào cái đinh ấy".
    Caddy gỡ cho tôi và chúng tôi chui qua. Cậu Maury bảo đừng để ai nhìn thấy mình, vậy tốt nhất là mình khom người xuống. Caddy nói. Cúi xuống, Benjy. Trông này, như thế. Chúng tôi khom người xuống và băng qua vườn, nơi những đóa hoa sột soạt và quất ràn rạt vào chúng tôi. Đất cứng. Chúng tôi leo qua rào, chỗ đàn lợn ủn ỉn và khụt khịt. Chắc là chúng rầu rĩ vì một con vừa bị làm thịt sáng nay, Caddy nói. Đất cứng, tung toé và lổn nhổn.
    Em cho tay vào túi đi, Caddy nói. Không thì cóng đấy. Đừng để cóng tay trong đêm Giáng sinh.
    "Ngoài kia lạnh lắm" Versh nói. "Cậu đừng có đòi ra ngoài ấy".
    "Lại cái gì nữa?" mẹ nói.
    "Cậu ấy đòi ra ngoài", Versh nói.
    "Để nó đi" cậu Maury nói.
    "Con, Benjamin" mẹ nói "nếu không ngoan, con sẽ phải xuống bếp".
    "Mammy bảo hôm nay đừng để cậu ấy xuống bếp", Versh nói. "Mammy bảo phải nấu nướng cho xong đã".
    "Cứ để cho nó đi, Caroline" cậu Maury nói. "Chị sẽ phát ốm vì nó mất thôi".
    "Tôi biết" mẹ nói. "Trời quả báo tôi mà. Đôi khi tôi cũng tự hỏi".
    "Thôi, thôi" cậu Maury nói. "Chị phải cố khoẻ lên. Để tôi làm cho chị một ly toddy (rượu mạnh hoà với đường và nước nóng)".
    "Nó chỉ làm cho tôi mệt hơn thôi" mẹ nói. "Cậu không biết thế sao?"
    "Chị sẽ thấy khoẻ hơn" cậu Maury nói. "Mặc áo ấm cho cậu ấy, nhóc, rồi đưa cậu ấy ra ngoài một lát".
    Cậu Maury đi ra. Versh đi ra.
    "Nín đi con" mẹ nói. "Con sẽ được đi ra ngoài ngay bây giờ đây mẹ không muốn con bị ốm mà”.
    Versh xỏ giày và mặc áo khoác cho tôi, và chúng tôi lấy mũ rồi đi ra. Cậu Maury lấy cái chai trong tủ rượu ở phòng ăn.
    “Đưa cậu ấy ra ngoài độ nủa giờ thôi nghe không, nhóc” cậu Maury nói “Chơi ở sân ấy nhé.”
    Chúng tôi ra ngoài. Nắng lạnh và chói.
    “Cậu định đi đâu đấy?” Versh nói. “Tưởng ra tỉnh đấy hả?” chúng tôi đi qua đám lá xào xạc. Cánh cổng lạnh ngắt.
    “Cậu đút tay vào túi đi” Versh nói. “Sờ vào cổng cậu bị cóng tay cho mà xem. Sao không ngồi ở nhà mà chờ họ?” Nó nhét tay tôi vào túi áo của tôi . Tôi nghe thấy nó loạt xoạt trong đám lá. Tôi ngửi thấy cái lạnh. Cánh cổng lạnh ngắt.
    “Có mấy hạt dẻ đây này. Suỵt! Nhìn lên cây kìa! Thấy con sóc không, Benjy?”
    Tôi không cảm thấy cánh cổng nữa, nhưng tôi ngửi được cái lạnh sáng chói.
    “Cậu phải đút tay vào túi cơ mà”.
    Caddy đang đi. Rồi chị chạy, cái cặp sách lúc lắc lóc xóc sau lưng.
    “Ê Benjy” Caddy nói. Chị mở cổng đi vào và cúi xuống. Caddy có mùi lá cây. “Em đón chị phải không?” chị nói. “Em đón Caddy phải không? Sao mày để tay cậu ấy lạnh cóng thế này, Versh?”
    “Cháu đã bảo cậu ấy đút tay vào túi rồi” Versh nói. “Lại cứ bám lấy cổng kia”.
    “Em đón Caddy phải không?” chị nói và chà xát tay tôi. “Gì nào? Em muốn nói gì với Caddy nào?” Caddy có mùi cây như lúc chị bảo mình đi ngủ nào.
    Cậu lại rền rĩ cái nỗi gì nữa, Luster nói. Mình đến suối rồi lại thấy họ mà. Cậu cầm cây hoa cà này. Nó đưa tôi cây hoa. Chúng tôi chui qua hàng rào vào trong khu đất.
    “Gì nào?” Caddy nói . “Em định bảo gì Caddy nào? Ở nhà bảo đưa cậu ra à, Versh?”
    “Ai mà giữ được cậu ấy ở trong nhà” Versh nói. “Cậu ấy cứ rền rĩ đến khi được đi là đi thẳng xuống đây, ngóng qua cổng.”
    “Gì nữa nào?” Caddy nói. “Em tưởng chị đi học về là Giáng sinh chứ gì? Em tưởng thế phải không? Ngày kia mới Giáng sinh mà. Ông Già Tuyết ấy, Benjy à. Ông Già Tuyết. Nào, mình cùng chạy vào nhà để sưởi đi!” Chị nắm tay tôi và chúng tôi chạy qua đám lá xạc xào sáng chói. Chúng tôi chạy lên các bậc thềm và ra khỏi cái lạnh sáng, vào cái lạnh tối. Cậu Maury đang cất chai vào tủ rượu. Cậu gọi Caddy. Caddy nói:
    “Đưa cậu ấy lại sưởi đi, Versh. Đi với Versh” chị nói. “Chị sẽ đến ngay.”
    Chúng tôi tới ngọn lửa. Mẹ nói:
    “Cậu ấy bị cóng à, Versh?”
    “Dạ không ạ” Versh nói.
    “Cởi áo khoác với giày cho cậu ấy”. Mẹ nói “Đã bảo bao nhiêu lần là tháo giày cho cậu ấy rồi hãy đưa vào nhà”.
    “Dạ vâng ạ” Versh nói. “Yên nào!” Nó tháo giày và cởi khuy áo khoác cho tôi. Caddy nói:
    “Khoan, Versh. Cho em ra ngoài một lát nữa được không mẹ? Con muốn em đi với con.”
    “Cháu nên để em ở nhà” cậu Maury nói. “Hôm nay nó ra ngoài thế là đủ rồi”.
    “Theo mẹ thì cả hai con ở nhà,” mẹ nói. Trời mỗi lúc một lạnh hơn. Dilsey bảo thế”.
    “Nào mẹ!” Caddy nói.
    “Vớ vẩn” cậu Maury nói. “Nó học suốt ngày rồi. Nó cần khí trời. Đi chơi đi, Candace.”
    “Cho em đi nữa, mẹ!” Caddy nói. “Mẹ ừ đi. Kéo nó lại khóc".
    “Vậy sao con lại nói chuyện đó trước mặt nó?” mẹ nói. “Sao các con còn ở đây? Để nó lại làm khổ mẹ. Hôm nay các con ra ngoài thế là đủ rồi . Tốt hơn là con ngồi xuống đây chơi với em”.
    “Cho chúng nó đi đi, Caroline” cậu Maury nói. “Lạnh một chút không sao đâu. Chị phải nhớ làm sao cho chị khoẻ lên”.
    “Tôi biết rồi” mẹ nói. “Chẳng ai hiểu rằng tôi sợ Giáng sinh đến mức nào. Chẳng ai hiểu cả. Tôi không phải là loại đàn bà can trường. Tôi chỉ ước gì được khoẻ hơn để lo cho Jason và lũ trẻ.”
    “Chị hãy làm điều gì tốt nhất cho chính chị và đừng để chúng nó làm khổ chị mãi”. Cậu Maury nói. “Đi chơi đi, cả hai đứa. Nhưng đừng ở ngoài ấy lâu quá. Kẻo mẹ các cháu lại lo”.
    “Vâng, thưa cậu”. Caddy nói. “Đi nào Benjy. Chúng mình ra ngoài đi!”. Chị cài khuy áo cho tôi và chúng tôi đi ra cửa.
    “Con lại đưa em đi mà không đi giày cho nó rồi” mẹ nói . “Con muốn làm cho nó ốm để rồi cả nhà toàn những người bệnh hay sao?”
    “Con quên mất” Caddy nói. “Con cứ tưởng em đi giày rồi “
    Chúng tôi quay lại. “Con phải để ý chứ “ mẹ nói. Yên nào, Versh nói . Nó mặc áo khoác cho tôi . “Rồi đến ngày mẹ không còn nữa, con phải lo lắng cho em”. Lập cập đi nào, Versh nói . “Lại đây hôn mẹ đi, Benjamin”.
    Caddy dẫn tôi lại ghế của mẹ và mẹ ôm mặt tôi trong hai bàn tay rồi siết tôi vào lòng.
    “Con khốn khổ của mẹ” bà nói. Bà buông tôi ra. “Con và Versh trông nom em cẩn thận nhé?”
    “Dạ vâng ạ” Caddy nói . Chúng tôi đi ra. Caddy nói
    “Mày khỏi cần đi, Versh. Để tao trông cậu ấy cho.”
    “Cũng được.” Versh nói. “Trời lạnh thế này, ra ngoài cũng chẳng thú gì.” Nó bỏ đi và chúng tôi dừng lại ở phòng khách và Caddy quỳ xuống ôm choàng lấy tôi và áp khuôn mặt mát lạnh sáng ngời của chị vào mặt tôi. Chị có mùi như cây.
    “Em đâu phải là thằng bé khốn khổ, phải không? Em có Caddy của em mà. Có phải em có Caddy của em không?”
    Cậu thôi cái trò rền rĩ sướt mướt ấy đi không nào, Luster nói . Cậu không thấy xấu hổ hay sao mà cứ khóc rống lên mãi. Chúng tôi đi qua nhà xe, nơi chiếc xe đậu. Nó có một cái bánh xe mới.
    “Nào, ngồi vào, và ở yên đó cho tới khi má cậu ra.” Dilsey nói . Bà đỡ tôi vào xe. T.P.[3] cầm dây cương. “Tôi thật không hiểu tại sao Jason không mua quách một cái xe mới”. Dilsey nói . “Cái thứ xe này rồi có ngày long ra từng mảnh cho mà xem. Cứ nhìn những cái bánh xe kia”.
    Mẹ tới, buông mạng che mặt . Bà cầm mấy bông hoa.
    “Roskus đâu rồi?” bà nói .
    “Hôm nay Roskus không nhấc nổi cánh tay nữa.” Dilsey nói . “T.P. Đánh xe cũng được mà”.
    “Tôi sợ lắm” mẹ nói. “Các người chỉ lo cho tôi một người đánh xe mỗi tuần một lần thôi mà. Tôi có đòi gì nhiều đâu. Trời ơi!”
    “Cô Caroline, cô cũng biết là Roskus bị tê thấp khổ sở, đâu có làm được “ Dilsey nói. “Cô vào xe đi nào, T.P. Đánh xe có thua gì Roskus đâu”.
    “Tôi sợ lắm” mẹ nói . “Còn cả thằng bé nữa”.
    Dilsey bước lên thềm. “Như thế mà cô gọi là thằng bé à?” bà nói . Bà nắm cánh tay mẹ. “Lớn bằng T.P. rồi đấy. Nào, cô có ý định đi hay không?”
    “Tôi sợ lắm “ mẹ nói . Họ bước xuống thềm và Dilsey đỡ mẹ vào xe. “Có sao thì cũng là điều hay hơn cả cho mọi người”, mẹ nói.
    “Cô nói thế mà không xấu hổ sao?” Dilsey nói. “Cô không biết là chả cần đến một thằng nhãi đen mười tám tuổi cũng có thể làm cho con Queenie không chạy tế lên à? Nó còn già hơn cả thằng này với Benjy cộng lại. Nghe đây. T.P., mày đừng có mà thúc co Queenie lồng lên đấy. Mày mà không đánh xe cẩn thận cho cô Caroline, tao sẽ bảo Roskus cho mày một trận. Ông ấy sẽ không nhẹ tay khi làm điều đó đâu”.
    “Vâng ạ,” TP nói .
    “Tôi chắc là mình sẽ có chuyện không hay” mẹ nói. “Thôi nào, Benjamin”.’
    “Cho cậu ấy cầm một bông hoa,”Dilsey nói . “Cậu ấy đòi đấy.” Bà thò tay vào xe.
    “Đừng, đừng” mẹ nói. “Chị làm tung hết cả hoa mất”.
    “Cô lầm lấy”, Dilsey nói . “Tôi chỉ rút một bông cho cậu ấy thôi”. Bà đưa cho tôi một bông hoa và rút tay ra khỏi xe.
    “Thôi đi nào, không có Quentin thấy lại đòi đi theo” Dilsey nói.
    “Nó đâu rồi?” mẹ nói.
    “Nó xuống nhà dưới chơi với Luster” Dilsey nói. “Đi đi, T.P., đánh cái xe này như Roskus đã bảo mày, nào!”
    “Vâng ạ” T.P. Nói. “Tế lên, Queentie!”
    “Quentin” mẹ nói. “Đừng để …”
    “Được rồi” Dilsey nói.
    Chiếc xe ngựa xóc nảy lên và kêu răng rắc. “Tao sợ đi mà để Quentin ở nhà” ,mẹ nói. “Đừng đi còn hơn. T.P.” chúng tôi đi qua cổng, xe không còn xóc nữa. T.P. Quất Queenie một roi.
    “Kìa, T.P.” mẹ nói.
    “Vậy nó mới chịu đi” T.P. Nói. “Để nó tỉnh táo tới khi quay về chuồng”.
    “Quay về đi”, mẹ nói. “Tao sợ đi mà để Quentin ở nhà.”
    “Quành chỗ này đâu được ,” T.P. Nói . Rồi nó đánh một vòng rộng hơn.
    “Chỗ này quành được không?” mẹ nói.
    “Dạ được.” T.P. Nói. Chúng tôi quay xe lại.
    “Kìa, T.P.” mẹ nói, túm chặt lấy tôi.
    “Cháu đang quành xe mà”, T.P. Nói . “Hu, Queenie!” chúng tôi dừng lại.
    “Mày làm lật xe mất thôi”, mẹ nói.
    “Vậy bà bảo cháu làm sao?” T.P. Nói.
    “Mày quay xe thế tao sợ lắm”, mẹ nói.
    “Chạy nào, Queenie!” T.P. Nói. Chúng tôi lại đi.
    “Tao chắc là Dilsey lại để xảy ra chuyện không hay cho Quentin lúc tao đi vắng,” mẹ nói. “Mình phải về gấp”.
    “Tế lên, thế” T.P. Nói . Nó quất con Queenie một roi.
    trạm gác cao màu trắng có anh lính. Còn phía bên kia, chúng vẫn lướt qua êm ả và đều đặn, nhưng chậm hơn một chút.
    “Mẹ định thế nào?” Jason nói. Anh thọc tay vào túi, một cây bút chì gài sau tai.
    “Mẹ tới nghĩa trang” mẹ nói.
    “Được rồi” Jason nói. “Tôi có cản mẹ đâu? Mẹ chỉ yêu cầu tôi như vậy, chỉ định bảo tôi thế thôi à?”
    “Mẹ biết là con không muốn đi”, mẹ nói. “Mẹ yên lòng hơn nếu con đi”.
    “Yên lòng cái gì?” Jason nói. “Bố và Quentin làm gì mẹ được?”
    Mẹ quệt khăn tay bên trong mạng che mặt. “Thôi nào, mẹ”, Jason nói. “Mẹ định để cái thằng khùng khốn kiếp này rống lên giữa đường giữa chợ hay sao? Đánh xe đi, T.P.”
    “Tế lên, Queenie”, T.P. Nói.
    “Trời quả báo tôi”, mẹ nói. “Nhưng mẹ cũng chẳng còn được bao lâu nữa đâu”.
    “Lại thế nữa”, Jason nói.
    “Hu”, T.P. Nói.
    Jason nói:
    “Cậu Maury lại rút của mẹ năm chục đấy. Mẹ định sao việc đó?”
    “Sao con hỏi mẹ?” mẹ nói. “Mẹ chẳng có gì để nói cả. Mẹ cố không làm phiền con và Dilsey. Mẹ chẳng còn bao lâu nữa đâu, rồi con”.
    “Đi nào, T.P.” Jason nói.

  3. #3
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    “Tế lên, Queenie,” T.P. Nói. Những hình thể lại chập chờn, ở phía bên kia, chúng lại bắt đầu lướt qua, sáng loáng, vùn vụt mà êm ả, như khi Caddy bảo mình đi ngủ nào.
    Gào lên đi, ông mãnh, Luster nói. Cậu không thấy xấu hổ à? Chúng tôi đi qua chuồng ngựa. Các ngăn chuồng đều mở toang. Bây giờ thì cậu chẳng còn con Khoang mà cưỡi nữa đâu, Luster nói. Sàn chuồng khô ráo và đầy bụi. Mái dột nát. Những lỗ thông hơi phủ đầy mạng nhện vàng. Cậu định đi đâu mà đi lối này. Muốn vỡ đầu vì những quả banh của họ hay sao?
    “Em cho tay vào túi đi” Caddy nói. “Không thì cóng mất. Em không muốn bị cóng tay trong đêm Giáng sinh đấy chứ?”
    Chúng tôi đi quanh chuồng ngựa. Con bò cái lớn và con bò cái nhỏ đứng sau cửa, và chúng tôi nghe thấy con Prince với con Queenie và con Fancy gõ móng lộp cộp trong chuồng. “Trời không lạnh thế này, mình đã cưỡi con Fancy”, Caddy nói. “Nhưng hôm nay thì lạnh quá không làm được”. Rồi chúng tôi nhìn thấy con suối, nơi khói bốc lên. “Họ làm thịt lợn ở đấy”, Caddy nói. “Chúng mình quay lại chỗ ấy xem họ làm”. Chúng tôi đi xuống đồi.
    “Em cầm thư nhé”, Caddy nói. “Em cầm được mà”, Chị lấy lá thư ra khỏi túi chị và nhét vào túi tôi. “Quà Giáng sinh đấy” Caddy nói. “Cậu Maury định làm cho bà Patterson ngạc nhiên. Mình đưa lá thư cho bà ấy mà đừng để ai thấy. Cho tay vào túi được mà, nào!” Chúng tôi đến con suối.
    “Nó đóng băng mất rồi”, Caddy nói. “Xem này!” chị đập vỡ mặt nước và cầm một mảnh giơ về phía tôi. “Băng. Thế mới biết trời lạnh đến mức nào”. Chị giúp tôi qua suối và chúng tôi leo lên đồi. “Mình không nói ra cho mẹ và bố biết . Em biết chị nghĩ gì không. Mình sẽ làm cho mẹ và bố và cả ông Patterson ngạc nhiên, vì ông Patterson có gửi kẹo cho em. Em có nhớ ông Patterson đã gửi kẹo cho em hồi hè mới rồi không?”
    Có một hàng rào. Giàn nho đã khô, và gió xào xạc trong đó.
    “Chỉ có điều chị không rõ tại sao cậu Maury không gửi Versh”, Caddy nói. “Versh cũng không nói ra đâu”. Bà Patterson nhìn ra ngoài cửa sổ. “Em chờ đây nhé”, Caddy nói. “Chờ chỗ này này. Chị quay lại ngay. Đưa chị lá thư!” Chị lấy lá thư trong túi tôi. “Đút tay vào túi áo đi!” Chị leo qua hàng rào, tay cầm thư và đi qua những cây hoa màu nâu kêu ràn rạt. Bà Patterson đi ra mở cửa và đứng ở đấy.
    Ông Patterson đang chặt những cây hoa xanh. Ông ngừng chặt và nhìn tôi. Bà Patterson chạy qua vườn. Nhìn thấy đôi mắt bà, tôi oà khóc. Thằng ngốc này, bà Patterson nói, tao đã bảo ông ấy đừng sai mày đến một mình nữa kia mà. Đưa đây tao! Mau lên! Ông Patterson vội vàng tới, tay cầm cuốc. Bà Patterson nhoài người qua hàng rào, chìa tay ra. Ông Patterson leo qua rào. Ông lấy bức thư. Áo của bà Patterson vướng trên rào. Tôi lại nhìn thấy đôi mắt bà và tôi chạy xuống đồi.
    “Họ không có ở đó đâu, toàn là nhà thôi”, Luster nói. “Mình đi xuống suối”.
    Họ đang giặt ở dưới suối. Một người đang hát. Tôi ngửi thấy mùi quần áo phần phật và khói bốc trên suối.
    “Cậu ở lại đây” Luster nói. “Cậu chẳng có việc gì đàng kia cả. Người ta đánh cho đấy”.
    “Nó muốn gì vậỷ”
    “Cậu ấy cũng chẳng biết mình muốn gì nữa “ Luster nói. “Chắc là cậu ấy muốn tới đàng kia, chỗ người ta đập bóng. Cậu ngồi đây mà chơi với cây cà. Muốn xem gì thì xem bọn nhóc chúng nghịch ở dưới suối kia kìa. Mà sao cậu không giống như người ta được nhỉ?” Tôi ngồi xuống bên bờ, nơi họ đang giặt, và khói bốc xanh.
    “Có ai thấy đồng hai mươi lăm xu nào rơi ở đây không?” Luster nói.
    “Đồng hai mươi lăm xu nào?”
    “Đồng xu tôi đánh rơi ở đây hồi sáng”, Luster nói. Tôi đánh rơi ở đâu đây, nó rơi qua lỗ thủng này ở túi tôi. Không tìm thấy thì tối nay tôi hết đi xem hát”.
    “Mày lấy đâu ra đồng hai mươi lăm xu hả nhóc? Lại thó trong túi dân trắng lúc người ta sơ sểnh chứ gì?”
    “Lấy đâu chả được”Luster nói. “Thiếu gì chỗ có xu. Có điều là tôi phải tìm cho ra đồng xu ấy. Có ai thấy nó không?”
    “Tao chẳng biết đồng xu nào hết. Tao còn khối việc phải lo đây này”.
    “Lại đây” Luster nói. “Giúp tôi tìm đồng xu đi”.
    “Có thấy, nó cũng chẳng biết đấy là đồng hai mươi lăm xu”.
    “Cậu ấy có thể tìm giùm tôi được chứ” Luster nói. “Tối nay có ai đi xem hát không?”
    “Đừng có nói đến chuyện xem hát. Cứ giặt cho xong cái chậu vật này tao cũng đã không nhấc nổi tay lên rồi, còn làm gì được nữa”.
    “Tôi cuộc là các người sẽ tới”. Luster nói. “Tôi cuộc là các người đã đi xem hát tối hôm qua. Ngay từ lúc mở màn là các người đã có mặt đông đủ ở đó.”
    “Đủ mặt dân đen, ngoại trừ tao. Đêm qua ấy”.
    “Tao nghĩ tiền của dân đen thì khác quái gì tiền của dân trắng”.
    “Bọn trắng chi tiền cho dân đen vì biết rằng bất kỳ đứa trắng nào dẫn một gánh hát tới là lại thu hết tiền bạc về, và dân đen vẫn cứ nai lưng ra mà kéo cày”.
    “Thì ai bắt mày đi xem hát nào?”
    “Chẳng ai bắt. Tao chẳng thèm nghĩ đến chuyện đó nữa”.
    “Làm gì mà mày ghét bọn trắng thế?”
    “Tao chẳng có việc gì ghét họ. Tao làm việc tao còn họ làm việc họ. Tao không thiết xem hát, thế thôi”.
    “Có một thằng cha chơi nhạc bằng cái cưa. Chơi y hệt đàn banjo”.
    “Tối qua các người đi rồi”, Luster nói. “Tối nay tôi đi. Nếu như tôi tìm được chỗ đánh rơi đồng xu”.
    “Chắc là mày đưa cả nó đi theo”.
    “Tôi ấy à?” Luster nói. “Chẳng lẽ các người tưởng lúc nào tôi cũng kè kè với cậu ấy, lúc cậu ấy rống lên sao?”
    “Nó rống lên thì mày làm gì nào?”
    “Tôi cho ăn đòn”, Luster nói. Nó ngồi xuống và lột áo ngoài qua đầu. Chúng đùa nghịch dưới suối.
    “Các người có tìm được quả banh nào không?” Luster nói.
    “Mày làm gì mà hét tướng lên thế? Tao cuộc là mày đố dám nói với bà nội mày cái giọng ấy”.
    Luster nhào xuống suối chỗ chúng đang nô đùa. Nó mò mẫm dưới nước, dọc theo bờ.
    “Sáng nay lúc bọn tôi xuống đây, tôi vẫn còn đồng xu mà”. Luster nói.
    “Mày mất chỗ nào?”
    “Đúng là nó lọt qua cái lỗ thủng ở túi này đây” Luster nói. Chúng mò mẫm dưới suối. Đoạn chúng đứng vụt dậy và sững lại, rồi chúng té nước và giằ ng nhau dưới suối. Luster giành được và chúng ngồi thu lu dưới nước nhìn lên ngọn đồi qua những bụi cây.
    “Họ ở đâu?” Luster nói.
    “Không thấy đâu cả”.
    Luster nhét cái đó vào túi. Họ đi xuống đồi.
    “Có quả bóng nào rơi xuống đây không?”
    "Chắc ở dưới nước. Bọn nhóc này có trông thấy hay nghe thấy nó rơi không?"
    "Chẳng nghe thấy cái gì rơi xuống đây cả" Luster nói. "Nghe như có cái gì đập vào cây ở chỗ kia. Rồi chẳng biết nó đi đàng nào".
    Họ nhìn xuống lòng suối.
    "Quái quỷ. Nhìn dọc suối ấy. Nó rơi xuống chỗ này. Tôi thấy mà".
    Họ nhìn dọc theo con suối. Rồi họ quay trở lên đồi.
    "Chúng mày có lấy quả bóng ấy không?" Gã bồi nói.
    "Tôi lấy nó làm gì?" Luster nói. "Tôi chẳng thấy quả bóng nào cả."
    Gã bồi lội xuống nước. Gã lội tiếp. Gã quay lại và nhìn Luster lần nữa. Gã lội xuôi dòng suối.
    Tiếng đàn ông gọi "Caddy" trên đồi. Gã bồi ra khỏi suối và đi lên đồi.
    "Lại khóc, sao lúc nào cậu cũng nhè thế?" Luster nói. "Im đi!"
    "Nó rền rĩ cái gì thế?"
    "Trời mà biết" Luster nói. "Chỉ lè nhè vậy thôi. Cứ thế cả buổi sáng. Chắc là tại hôm nay sinh nhật cậu ấy đấy".
    "Nó bao nhiêu tuổi rồi?"
    "Cậu ấy ba mươi ba" Luster nói "Ba mươi ba tuổi đúng sáng hôm nay".
    "Mày bảo là nó ba mươi ba tuổi à?"
    "Thì mammy bảo vậy" Luster nói. "Tôi đâu biết. Những ba mươi ba cây nến trên cái bánh ngọt, cắm sao thì cắm. Bánh lại nhỏ. Khó thật đấy chứ. Im đi nào! Quay lại đây!" Nó tới và nắm cánh tay tôi. "Này ông khùng già" nó nói. "Ông muốn tôi đánh đòn không?"
    "Tao cuộc là mày cóc dám".
    "Tôi đánh rồi. Im ngay!" Luster nói. "Tôi đã bảo cậu là không lên đấy được. Họ sẽ đập bóng vỡ đầu cậu ra. Đi nào, đây này!" Nó kéo tôi trở lại. "Ngồi xuống!" tôi ngồi xuống và nó cởi giày xắn quần cho tôi. "Nào, lội xuống nước mà chơi, xem cậu có thôi ngay cái trò rền rĩ sướt mướt ấy không?"
    Tôi nín và lội xuống nước và Roskus tới bảo về ăn chiều và Caddy nói:
    Đâu phải giờ ăn chiều. Tôi không về.
    Chị ướt nhẹp. Chúng tôi chơi dưới suối và Caddy ngồi sụp xuống làm ướt hết áo và Versh nói:
    "Má cô đánh đòn cô vì tội làm ướt áo đấy".
    "Bà chẳng đánh đâu" Caddy nói.
    "Sao em biết?" Quentin nói.
    "Em cam đoan là thế" Caddy nói. "Vậy sao anh biết?"
    "Mẹ bảo" Quetin nói. "Vả lại anh lớn hơn em".
    "Em bảy tuổi rồi", Caddy nói "Em biết chứ".
    "Anh còn lớn hơn" Quentin nói. "Anh đi học rồi. Đúng không, Versh?"
    "Sang năm em cũng đi học", Caddy nói. "Ngay đầu năm. Phải không, Versh?"
    "Cô biết là bà sẽ đánh đòn cô nếu cô làm ướt áo chứ?" Versh nói.
    "Có ướt đâu" Caddy nói. Chị đứng lên dưới nước và nhìn áo mình. "Tao sẽ cởi áo ra" chị nói. "Rồi nó sẽ khô".
    "Anh cuộc là em sẽ không cởi" Quentin nói.
    Caddy tới chỗ Versh và tôi và quay lưng lại.
    "Cởi khuy áo đi, Versh" chị nói.
    "Mày đừng làm, Versh" Quentin nói.
    "Đâu phải áo tôi", Versh nói.
    "Mày cởi khuy áo đi, Versh" Caddy nói "Nếu không tao mách Disley hôm nay mày đã làm gì". Thế là Versh cởi khuy áo.
    "Em cởi áo ra xem nào!" Quentin nói. Caddy cởi phăng áo và ném lên bờ. Thế là chị chỉ mặc quần lót và Quentin vỗ vào người chị và chị trượt chân lăn tòm xuống nước. Lúc đứng lên được chị té nước vào Quentin và Quentin cũng té nước vào Caddy. Nước bắn cả vào Versh và tôi và Versh kéo tôi dậy đưa tôi lên bờ. Nó nói sẽ mách Caddy với Quentin, và thế là Quentin và Caddy té nước vào Versh. Nó nấp sau một bụi cây.
    "Tôi về mách mammy cho mà xem", Versh nói.
    Quentin leo lên bờ đuổi bắt Versh, nhưng Versh bỏ chạy và Quentin không bắt được. Khi Quentin quay về, Versh đứng lại và hét tướng rằng nó sẽ mách. Caddy bảo nếu nó không mách, họ sẽ cho nó trở lại. Thế là Versh nói nó sẽ không mách, và họ để nó trở lại.
    "Giờ thì đã đời nhé" Quentin nói. "Rồi sẽ ăn đòn cả lũ".
    "Em cóc sợ" Caddy nói. "Em sẽ trốn".
    "Ờ cứ trốn đi" Quentin nói.
    "Em sẽ trốn và không về nữa" Caddy nói. Tôi bật khóc.
    Caddy quay lại và nói "Nín". Thế là tôi nín. Rồi họ chơi đùa dưới suối. Jason cũng đùa. Anh chơi một mình phía dưới xa hơn. Versh vòng qua bụi cây và đỡ tôi xuống nước lần nữa. Caddy ướt nhẹp và dính đầy bùn sau lưng, và tôi bật khóc và chị tới ngồi xổm dưới nước.
    "Nín ngay" chị nói. "Chị không trốn đâu ". Thế là tôi nín. Caddy có mùi cây trong mưa.
    Cậu làm sao thế, Luster nói. Cậu không thể nào thôi rền tĩ mà chơi dưới suối như mọi người được hay sao?
    Sao không thể để cậu ở nhà? đã bảo là đừng đưa cậu ấy đi xa quá mà.
    Cậu ấy vẫn tưởng họ còn ở cánh đồng cỏ này. Luster nói. Liệu có ai từ trên nhà nhìn được ra tận đây không nhỉ, chả ai thấy được đâu
    Mình thì nhìn được. Người ta không ưa thấy một anh khùng. Xui xẻo lắm.
    Roskus tới bảo về ăn chiều và Caddy nói đâu phải giờ ăn chiều.
    "Đến giờ rồi" Roskus nói. "Dilsey bảo tất cả về nhà ngay. Đưa các cô cậu ấy về, Versh!" Ông đi lên đồi, chỗ con bò cái đang rống.
    "Có lẽ về tới nhà là mình kịp khô", Quentin nói.
    "Chỉ tại anh thôi" Caddy nói. "Cứ là ăn đòn cả lũ".
    Chị mặc áo và Versh cài lại khuy.
    "Chẳng ai biết cô bị ướt đâu" Versh nói. "Trông cô chẳng thấy ướt tí nào. Đấy là nếu như tôi và cậu Jason không mách".
    "Mày sẽ mách chứ Jason?" Caddy nói.
    "Mách ai mới được?" Jason nói.
    "Nó không mách đâu" Quentin nói. "Mày sẽ không mách, phải không Jason?"
    "Em cuộc là nó sẽ mách" Caddy nói. "Nó sẽ mách bà nội".
    "Nó không mách bà đâu" Quentin nói. "Bà bị ốm. Nếu mình đi thật chậm, trời sẽ tối hẳn, chẳng ai thấy gì".
    "Em chẳng cần ai thấy hay không thấy" Caddy nói. "Nó sẽ mách đấy. Mày cõng cậu ấy lên đồi đi, Versh".
    "Jason không mách đânhư". Quentin nói. "Này, Jason, mày nhớ là tao đã làm cung tên cho mày chứ?"
    "Nó gãy rồi" Jason nói.
    "Cho nó mách" Caddy nói. "Em chẳng thèm để tâm. Cõng Maury lên đồi đi, Versh!" Versh ngồi xuống và tôi trèo lên lưng nó.
    Tối nay mình gặp nhau ở chỗ xem hát nhé, Luster nói. Lại đây nào. Mình phải tìm cho được đồng xu ấy.
    "Mình đi thật chậm, tới nhà là vừa tối"Quentin nói.
    "Em không đi chậm" Caddy nói. Chúng tôi lên đồi, nhưng Quentin không lên. Chúng tôi tới chỗ có mùi những con lợn mà anh vẫn còn ở dưới suối. Chúng ủn ỉn khụt khịt nơi máng ăn ở góc chuồng. Jason đến sau chúng tôi , hai tay đút túi. Roskus đang vắt sữa con bò cái ở cửa chuồng.
    Lũ bò cái nhảy ra khỏi chuồng.
    "Cứ việc" T.P. Nói. "Hú nữa đi. Tôi cũng hú đây này. Hu". Quentin lại đá T.P. Anh đá T.P. Ngã vào cái máng mà đám lợn vừa ăn và T.P. Nằm trong đó. "Đồ bị thịt" T.P. Nói. "Rồi xem ngữ ấy làm gì được tôi. Bà con lại mà xem ông mãnh trắng ấy đá tôi đây này. Hu".
    Tôi không khóc nhưng không thể dừng lại được. Tôi không khóc, nhưng đất chao đảo, và thế là tôi khóc. Đất cứ dềnh mãi lên và đàn bò chạy lên đồi. T.P. Cố gượng dậy. Nó lại ngã xuống và những con bò chạy trở xuống. Quentin nắm cánh tay tôi và chúng tôi đi đến chuồng gia súc. Rồi cái chuồng không còn ở đấy nữa và chúng tôi chờ tới khi nó trở lại.
    Tôi không thấy nó trở lại. Nó đến sau lưng chúng tôi và Quentin đặt tôi xuống một cái máng những con bò vừa ăn. Tôi nắm chặt lấy nó. Nó cũng đi khỏi v tôi bám lấy nó. Đàn bò lại chạy xuống đồi, qua cửa. Tôi không thể dừng lại được . Quentin và T.P. Leo lên đồi, đánh nhau. T.P. Ngã lăn xuống và Quentin lôi nó lên đồi. Quentin đấm T.P. Tôi không thể dừng lại được.
    "Đứng dậy" Quentin nói. "Mày ở nguyên đấy. Cấm đi đâu tới khi tao trở lại".
    "Tôi với Benjy về chỗ đám cưới đây" T.P. Nói. "Hu".
    Quentin lại đấm T.P. Rồi anh bắt đầu giúi T.P. Vào tường. T.P. Cười phá lên. Mỗi lần Quentin giúi nó vào tường nó lại cố kêu hu, nhưng vì cười quá, nó không kêu được. Tôi không khóc nữa, nhưng không thể dừng lại được. T.P. Ngã đè lên tôi và cửa chuồng đi mất. Nó đi xuống đồi và T.P. Tự đánh nhau với mình và lại ngã xuống. Nó vẫn cười sằng sặc, và tôi không thể dừng lại được, tôi cố đứng dậy và ngã xuống, và tôi không thể dừng lại được. Versh nói:
    "Cậu sắp nhè đấy hả? cậu mà không im, tôi sẽ cho cậu biết. Thôi ngay cái trò khóc ré ấy đi!"
    T.P. Vẫn cười sằng sặc. Nó giúi giụi vào cửa và cười. "Hu" nó nói. "Tôi với Benjy về chỗ đám cưới đây. Rượu thuốc!" T.P. Nói.
    "Khẽ thôi", Versh nói. 'Anh lấy ở đâu?"
    "Ở hầm rượu ấy" T.P. Nói. "Hu".
    "Khẽ thôi chứ", Versh nói. "Ở chỗ nào trong hầm rượu?"
    Nó cười dữ hơn. "Đâu chả có." T.P. Nói. "Cả trăm chai là ít. Cả triệu chai luôn. Coi chừng, thằng nhóc đen, tao hú lên đây này".
    Quentin nói "Kéo cậu ấy dậy!"
    Versh kéo tôi dậy.

  4. #4
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    "Uống cái này đi Benjy" Quentin nói. Cái ly nóng bỏng. "Im nào!" Quentin nói . "Uống đi!"
    "Rượu thuốc" T.P. Nói. "Cho tôi uống vừa cậu Quentin".
    "Anh im cái mồm đi" Versh nói. "Cậu Quentin tuốt xác anh ra bây giờ".
    "Giữ chặt cậu ấy, Versh!" Quentin nói.
    Họ túm lấy tôi. Nó nóng bỏng trên cằm và trên áo sơ mi của tôi. "Uống đi" Quentin nói. Họ ghì đầu tôi. Nó nógn bỏng bên trong tôi, và tôi lại oà khóc. Giờ thì tôi khóc, và có cái gì đang bùng lên bên trong tôi và tôi khóc dữ hơn, và họ giữ chặt tôi đến khi nó không bùng lên nữa. Rồi tôi nín. Nó vẫn quanh quẩn đâu đấy, và rồi những hình thể hiện ra. "Mở thùng ra, Versh!" Chúng lướt chậm rãi. "Trải các bao tải không lên sàn!" Chúng lướt nhanh hơn, khá nhanh. "Nào, nhấc chân cậu ấy lên!" chúng lướt qua, êm dịu và sáng ngời. Tôi nghe thấy T.P. Cười. Tôi lướt đi với các hình thể, lên ngọn đồi rực sáng.
    Tới đỉnh đồi, Versh đặt tôi xuống. "Tới đây này, cậu Quentin" nó gọi, ngoái cổ nhìn xuống chân đồi. Quentin vẫn đứng ở bờ suối. Anh chìm vào bóng râm trên dòng nước.
    "Mặc con ó già ấy ở đấy" Caddy nói. Chị nắm tay tôi, chúng tôi đi ngang qua chuồng gia súc và vào cổng. Có một con nhái trên lối đi lát gạch, ngồi chồm chỗm giữa đường . Caddy bước qua nó và kéo tôi theo.
    "Đi nào, Maury" chị nói. Nó vẫn ngồi chồm chỗm ở đó đến khi Jason lấy ngón chân chọc nó.
    "Nó sẽ làm cậu mọc mụn đấy" Versh nói. Con nhái nhảy đi mất.
    "Đi nào Maury" Caddy nói.
    "Tối nay nhà đầy khách" Versh nói.
    "Sao mày biết?" Caddy nói.
    "Đèn đóm thắp sáng trưng kìa" Versh nói. "Cửa sổ nào cũng sáng".
    "Chẳng có khách mà thích thắp đèn thì cứ thắp chứ sao?" Caddy nói.
    "Tôi cam đoan có khách" Versh nói. "Tốt hơn là các cô cậu vào cửa sau và lẻn lên gác".
    "Tao cóc cần" Caddy nói. "Tao sẽ đi thẳng vào phòng khách chỗ có họ".
    "Tôi cam đoan là cô mà làm thế, ông sẽ đánh đòn cô" Versh nói.
    "Tao cóc cần" Caddy nói. "Tao sẽ đi thẳng vào phòng khách. Tao vào luôn phòng ăn và chén bữa chiều".
    "Cô ngồi ở đâu?" Versh nói.
    "Tao ngồi ở ghế bà nội" Caddy nói. "Bà ăn trên giường".
    "Tôi đói rồi" Jason nói. Anh vượt qua chúng tôi và chạy lên ngõ. Anh vẫn cho tay vào túi và ngã phịch. Versh đi tới nâng anh dậy.
    "Cậu đừng có đút tay vào túi thì mới khỏi ngã" Versh nói. "Cậu làm sao kịp rút tay ra để đỡ, cậu lại mập thế nữa".
    Bố đang đứng trên thềm nhà bếp.
    "Quentin đâu?" ông nói.
    "Cậu ấy đang lên ngõ" Versh nói. Quentin chậm chạp di tới. áo sơ mi của anh là một mảng trắng mờ.
    "Ờ" bố nói. Ánh đèn đổ xuống các bậc thềm, trên người ông.
    "Caddy và Quentin té nước vào nhau" Jason nói. Chúng tôi đứng im.
    "Thế hả?" Bố nói. Quentin đi tới và bố nói "Tối nay các con có thể ăn tối trong bếp" ông ngừng nói và nhấc tôi lên, ánh đèn đổ nhào trên những bậc thềm và trên người tôi, và tôi nhìn xuống thấy Caddy và Jason và Quentin và Versh. Bố quay lại thềm. "Các con không được làm ồn đấy" ông nói.
    "Sao không được làm ồn hả bố?" Caddy nói. "Nhà mình có khách à?"
    "Ừ" bố nói.
    "Tôi đã bảo là có khách mà" Versh nói.
    "Mày nói đâu" Caddy nói. "Tao nói là nhà có khách đấy chứ. Tao bảo là tao định nói".
    "Im" bố nói. Mọi người im lặng và bố mở cửa và chúng tôi đi qua lối sau vào bếp. Dilsey ở đó, và bố đặt tôi vào ghế, buộc khăn ăn và đẩy ghế tới cạnh bàn, nơi bữa chiều đã dọn. Nó đang bốc hơi nghi ngút.
    "Bây giờ các con phải nghe lời Dilsey" bố nói. "Đừng để chúng làm ồn quá đấy, Dilsey".
    "Vâng, thưa ông" Dilsey nói. Bố đi khỏi.
    "Nhớ là phải vâng lời Dilsey" ông nói sau lưng chúng tôi. Tôi cúi mặt xuống bàn ăn. Nó bốc hơi lên mặt tôi.
    "Bảo tất cả phải nghe lời con tối nay đi bố" Caddy nói.
    "Tôi không nghe" Jason nói. "Tôi sẽ nghe lời Dilsey".
    "Bố bảo là mày phải nghe" Caddy nói. "Bảo tất cả nghe lời con đi bố".
    "Tôi không nghe" Jason nói. "Tôi không phải vâng lời chị".
    "Im" bố nói. "Được, các con nghe lời Caddy. Lúc nào chúng ăn xong, đưa chúng lên cầu thang sau, nghe không Dilsey?"
    "Vâng, thưa ông" Dilsey nói.
    "Đấy" Caddy nói. "Bây giờ tôi yêu cầu tất cả nghe lời tôi".
    "Im hết cả đi nào" Dilsey nói. "Đêm nay không ai được làm ồn".
    "Tại sao đêm nay lại không được làm ồn?" Caddy thì thào.
    "Không phải việc của cô" Dilsey nói. "Khi nào Chúa cho biết khắc biết" bà mang bát tôi lại. Hơi nóng từ bát phả vào mặt tôi. "Lại đây, Versh!" Dilsey nói.
    "Khi nào Chúa cho biết hả Dilsey?" Caddy nói.
    "Tối Chủ nhật" Quentin nói. "Em không biết à?"
    "Suỵt" Dilsey nói. "Ông Jason bảo tất cả không được làm ồn kia mà. Nào, ăn cho xong đi. Đây này, Versh. Xúc cho cậu ấy!" Tay Versh cầm thìa thò vào trong bát. Cái thìa đưa lên miệng tôi. Hơi nóng chích trong miệng tôi. Rồi chúng tôi ngừng ăn và nhìn nhau im lặng, và rồi tôi lại nghe thấy và oà khóc.
    "Gì nào?" Caddy nói. Chị đặt tay lên tay tôi.
    "Mẹ đấy" Quentin nói. Cái thìa đưa lên miệng tôi và tôi ăn, rồi tôi lại khóc.
    "Nín" Caddy nói. Nhưng tôi không nín và chị tới ôm choàng lấy tôi. Disley đi đóng cả hai cửa lại và thế là chúng tôi không nghe thấy gì nữa.
    "Nín đi nào" Caddy nói. Tôi nín và ăn. Quentin không ăn còn Jason ăn.
    "Mẹ đấy" Quentin nói. Anh đứng dậy.
    "Ngồi xuống" Dilsey nói. "Ngoài đó có khách, mà quần áo cậu thì bẩn thỉu thế này. Cả cô cũng ngồi xuống. Caddy, ăn cho xong đi nào!"
    "Mẹ đang khóc" Quentin nói.
    "Có người đang hát" Caddy nói. "Phải không Dilsey?"
    "Tất cả ăn đi nào, ông Jason đã nói thế mà" Dilsey nói.
    "Khi nào Chúa cho biết khắc biết " Caddy trở lại ghế.
    "Tôi đã bảo nhà có tiệc mà" chị nói.
    Versh nói "Cậu ấy ăn hết rồi".
    "Đưa bát cậu ấy đây" Dilsey nói. Cái bát đi khỏi.
    "Dilsey" Caddy nói. "Quentin không ăn kìa. Anh ấy không chịu nghe lời".
    "Ăn đi Quentin, " Dilsey nói. "Tất cả ăn cho xong rồi ra khỏi bếp".
    "Tôi không muốn ăn nữa" Quentin nói.
    "Em bảo ăn là anh phải ăn " Caddy nói. "Đúng không, Dilsey?"
    Cái bát bốc hơi lên mặt tôi, và tay Versh chọc thìa vào trong bát và hơi nóng chích trong miệng tôi.
    "Tôi không muốn ăn nữa" Quentin nói. "Bà nội ốm sao lại làm tiệc?"
    "Tiệc ở dưới nhà mà" Caddy nói. "Bà nội có thể ra đầu cầu thang nhìn xuống. Mặc áo ngủ xong em cũng ra xem".
    "Mẹ đang khóc" Quentin nói. "Phải mẹ khóc không, Dilsey?"
    "Đừng quấy rầy tôi , ông nhóc". Dilsey nói. "Đợi các cô cậu ăn xong, tôi còn phải dọn bữa cho mọi người nữa".
    Một lát sau Jason cũng ăn xong và anh bắt đầu khóc.
    "Bây giờ cả cậu cũng nhè" Dilsey nói.
    "Từ hôm bà nội ốm, nó không được ngủ với bà nội nữa nên đêm nào nó cũng thế" Caddy nói. "Nhè đi em bé".
    "Tôi sẽ mách chị cho mà xem" Jason nói.
    Anh khóc. "Mày mách rồi thôi" Caddy nói. "Giờ thì còn mách gì nữa?"
    "Tất cả đi ngủ" Dilsey nói. Bà tới nhấc tôi xuống ghế, lau mặt lau tay cho tôi bằng một cái khăn ấm. "Versh, đưa các cô cậu ấy lên cầu thang sau thật khẽ. Còn cậu, Jason, thôi cái trò rền rĩ ấy đi".
    "Ngủ bây giờ thì sớm quá" Caddy nói. "Có bao giờ đi ngủ sớm thế này đâu?"
    "Thì tối nay" Dilsey nói. "Ông bảo là các cô cậu phải lên gác khi nào ăn xong. Các cô cậu nghe thấy ông nói chứ?"
    "Bố bảo phải nghe lời tôi" Caddy nói.
    "Tôi không nghe lời chị" Jason nói.
    "Mày phải nghe" Caddy nói. "Đi nào! làm như tao bảo".
    "Bảo tất cả phải yên lặng, Versh!" Dilsey nói. "Không ai được làm ồn, nghe không?"
    "Sao tối nay không được làm ồn?" Caddy nói.
    "Bà không được khoẻ" Dilsey nói. "Bây giờ tất cả đi theo Versh".
    "Tao đã bảo là mẹ đang khóc mà" Quentin nói. Versh cõng tôi lên và mở cánh cửa ra ngõ sạu chúng tôi đi ra và Versh khép cánh cửa màu đen. Tôi ngửi thấy Versh và sờ nó. "Tất cả phải yên lặng nào. Mình đừng lên gác ngay. Ông Jason bảo các cô cậu phải lên gác. Ông bảo phải nghe lời tôi. Tôi thì không phải nghe lời các cô cậu. Nhưng ông nói chung tất cả mọi người. Phải không, cậu Quentin?" Tôi ngửi thấy đầu Versh. Tôi nghe thấy chúng tôi. "Phải bố nói thế không, Versh? Ờ, mà đúng đấy. Vậy theo tao mình cứ ra ngoài kia một lát. Đi nào!" Versh mở cửa và chúng tôi ra ngoài.
    Chúng tôi xuống cầu thang.
    "Hay là mình xuống nhà, Versh, như thế mình sẽ không làm ồn" Caddy nói. Versh đặt tôi xuống và Caddy nắm tay tôi và chúng tôi đi xuống lối đi lát gạch.
    "Đi nào" Caddy nói. "Con nhái ấy đi rồi. Bây giờ chắc nó nhảy ra tận ngoài vườn. Mình sẽ lại thấy một con khác cũng nên". Roskus tới với những xô sữa. ông đi thẳng. Quentin không đi với chúng tôi. Anh ngồi lại trên thềm nhà bếp. Chúng tôi đi xuống nhà Versh. Tôi thích mùi nhà Versh. Có một ngọn lửa ở trong lò và T.P. Ngồi lên đuôi áo ở trước lò, cời nó sáng rực.
    Rồi tôi dậy và T.P. Mặc áo cho tôi và chúng tôi đi vào bếp để ăn. Dilsey đang hat và tôi bật khóc và bà ngừng hát.
    "Đưa cậu ấy ra ngoài kia đi" Dilsey nói.
    "Không đi lối ấy được" T.P. Nói.
    Chúng tôi chơi ở suối.
    "Mình không được lại đàng kia đâu" T.P. Nói. "Mammy bảo không được đi, cậu biết chứ?"
    Dilsey đang hát trong bếp và tôi bật khóc.
    "Nín" T.P. Nói. "Đi nào! Mình xuống chuồng gia súc".
    Roskus đang vắt sữa trong chuồng. ông vắt sữa bằng một tay, và rên rỉ. Mấy con chim đậu ở cửa chuồng ngó nghiêng nhìn ông. Một con nhảy xuống tìm ăn ở chỗ những con bò. Tôi xem Roskus vắt sữa trong lúc T.P. Cho con Queenie và con Prince ăn. Con bê ở trong chỗ nhốt lợn. Nó sục mõm vào đám dây rợ, rống lên.
    "T.P." Roskus nói. T.P. Kêu "Dạ" ở trong chuồng ngựa. Con Fancy thò đầu ra ngoài cửa chuồng, vì T.P. Chưa cho nó ăn. "Xong chưa?" Roskus nói. "Mày ra vắt sữa đi này. Tay phải của tao làm hết nổi rồi".
    T.P. Tới và vắt sữa.
    "Sao không đi bác sĩ?" T.P. Nói.
    "Bác sĩ thì làm cái quái gì?" Roskus nói. "Nhất là ở cái nhà này".
    "Cái nhà này thì làm sao?" T.P. Nói.
    "Cái nhà này xui xẻo lắm" Roskus nói. "Làm xong thì cho con bê vào".
    Cái nhà này xui xẻo lắm. Roskus nói. Ngọn lửa bùng lên và ngã xuống sau lưng ông và Versh, lướt qua trên mặt ông và Versh. Disley đặt tôi vào giường xong xuôi. Cái giường có mùi như T.P. Tôi thích nó.
    "Ông biết gì về cái nhà này?" Dilsey nói. "Ông lú lẫn rồi đấy".
    "Chẳng cần phải lú lẫn" Roskus nói. "Chứ không phải cái nghiệp chướng đang nằm chềnh ềnh trên giường kia à? Chứ không phải cái nghiệp chướng sờ sờ ở đây trước mắt bàn dân thiên hạ mười lăm năm nay rồi à?"
    "Cho là thế đi" Dilsey nói. "Thì đã tổn hại gì đến ông, đến vợ con ông chưa? Thằng Versh đã làm lụng được, con Frony lấy chồng đâu cần ông lo, thằng T.P. Đủ lớn khôn để làm thay ông khi mà cái bệnh phong thấp ấy nó khiến ông rồi đời".
    "Hai rồi đấy" Roskus nói. "còn nữa kia. Tôi đã thấy điểm gở. Mà bà cũng thấy đấy thôi".
    "Đêm qua nghe con cú kêu" T.P. Nói. "Con Dan không dám đến ăn. Chẳng dám lại gần chuồng gia súc nữa. Chập tối đã hú. Versh cũng nghe thấy".
    "Thì cứ hết người này lại tới người khác" Dilsey nói. "Thử hỏi ai không phải chết, lạy Chúa".
    "Đâu phải chỉ có chết?" Roskus nói.
    "Tôi biết ông nghĩ gì rồi" Dilsey nói. "Ai cũng ngại xui xẻo khi nói cái tên ấy ra, trừ phi các người phải dỗ nó lúc nó khóc".
    "Ở cái nhà này ai mà chả xui" Roskus nói. "Tôi thấy từ đầu, nhưng đến khi họ đổi tên nó là tôi hiểu ngay".
    "Im cái mồm" Dilsey nói. Bà kéo chăn lên. Nó có mùi như T.P." Tất cả im đi, để nó ngủ".
    "Tôi thấy cái điềm".
    "Cái điềm là T.P. Phải làm mọi việc thay ông" Dilsey nói. Đưa cậu ấy với Quentin xuống dưới nhà chơi với Luster, để Frony trông chừng, T.P. Đi mà giúp bố mày một tay.
    Chúng tôi ăn xong, T.P. Nhấc Quentin dậy và chúng tôi đi xuống nhà T.P., Luster đang nghịch đất, T.P. Đặt Quentin xuống và nó cũng nghịch đất. Luster có mấy cái thìa và nó với Quentin giằng nhau và Quentin giằng được. Luster khóc và Frony tới đưa cho Luster một cái lon thiếc để nó chơi, và rồi tôi lấy mấy cái thìa và Quentin đánh tôi và tôi khóc.
    "Nín" Frony nói. "Rõ không biết xấu. Giành đồ chơi của con nít" Nó lấy lại những cái thìa và đưa cho Quentin.
    "Nín đi nào" Frony nói. "Nín, tôi đã bảo".
    "Nín ngay!" Frony nói. "Phải cho cậu một trận đòn mới được". Nó nhấc Luster và Quentin dậy. "Lại đây!" nó nói. Chúng tôi tới chuồng gia súc. T.P. Đang vắt sữa bò. Roskus ngồi trên cái hòm.
    "Nó lại làm sao thế?" Roskus nói.
    "Bố giữ cậu ấy chơi ở đây" Frony nói. "Cậu ấy lại giằng nhau b những đứa này. Lấy đồ chơi của chúng nó. Bây giờ ở đây chơi với T.P., xem cậu có im đi một lát được không nào".
    "Rửa sạch cái vú ấy đi" Roskus nói. "Mùa đông vừa rồi, mày vắt kiệtcon bò non kia. Mày vắt kiệt cả con này nữa, chúng sẽ chẳng có sữa nữa đâu".
    Dilsey đang hát.
    "Đừng lại đàng ấy" T.P. Nói. "Cậu không nghe mammy bảo là không được lại đàng ấy hay sao?"
    Họ đang hát.
    "Đi nào" T.P. Nói. "Mình đến chơi với Quentin và Luster. Nào!"
    Quentin và Luster dang nghịch đất trước nhà T.P. Có một ngọn lửa chập chờn trong nhà, với bóng Roskus ngồi phía trước.
    "Thế là ba, lạy Chúa" Roskus nói. "Tôi đã bảo bà từ hai năm trước. Cái nhà này xui xẻo lắm".

  5. #5
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    2 -

    "Im!" T.P. Nói. "Họ nghe thấy mất. Xuống mau!" nó kéo tôi. Caddy. Tôi bám tay vào tường. Caddy. T.P. Kéo tôi.
    "Im!" nó nói. "Im! Lại đây mau lên!" nó kéo tôi đi. Caddy. "Im ngay, Benjy. Cậu muốn người ta nghe thấy à? Đi nào, mình uống vài chai rượu thuốc nữa rồi mình quay lại nếu cậu nín khóc. Mình đi kiếm chai nữa kẻo cả hai đứa cùng hú lên mất. Mình bảo là con Dan uống. Ông tướng Quentin lúc nào cũng khen nó khôn, mình thì bảo nó là con chó rượu thuốc, thế đấy".
    Ánh trăng rọi xuống bậc thềm hầm rượu. Chúng tôi uống thêm mấy chai rượu thuốc nữa.
    "Cậu biết tôi ước gì không?" T.P. Nói. "TG ước có con gấu đi vào cửa hầm kia. Cậu biết tôi làm gì không? tôi đi thẳng đến nó và nhổ vào mắt nó. Đưa tôi cái chai để tôi nút miệng tôi lại kẻo tôi hú lên mất".
    T.P. Ngã xuống. Nó bắt đầu cười, và cửa hầm rượu cùng ánh trăng nhảy đi mất và có cái gì đánh tôi.
    "Im ngay" T.P. Nói, cố nhịn cười. "Chúa ơi, họ nghe thấy chúng mình mất. Dậy đi!" T.P. Nói. "Dậy mau, Benjy!" Nó lắc lư và cười và tôi cố gượng dậy. Những bậc thềm hầm rượu chạy lênđồi trong ánh trăng và T.P. Ngã trên đồi, ngã vào ánh trăng, và tôi chạy va vào hàng rào và T.P. Chạy sau tôi nói "Nín ngay, nín ngay!" rồi nó ngã xuống đám hoa, cười sặc sụa và tôi xô vào cái hòm. Nhưng khi tôi cố trèo lên nó có nhảy đi mất và đánh vào gáy tôi và cổ họng tôi rên lên. Nó rên lên và tôi không gượng dậy được nữa, rồi nó lại rên và tôi bật khóc. Cổ họng tôi không ngớt rền rĩ trong lúc T.P. Kéo tôi. Nó cứ rền rĩ và tôi không thể nói là mình có khóc hay không và T.P. Ngã đè lên tôi, cười sằng sặc, và nó cứ rền rĩ và Quentin đá T.P. Và Caddy ôm choàng lấy tôi, và tấm voan ngời sáng của chị, tôi không còn ngửi thấy mùi cây nữa và tôi oà khóc.
    Benjy, Caddy nói, Benjy. Chị lại ôm choàng tôi, nhưng tôi bỏ đi. "Sao thế, Benjy?" Chị nói. "Tại cái mũ này phải không?" Chị bỏ mũ ra và lại tới, và tôi bỏ đi.
    "Benjy," chị nói. "sao vậy Benjy? Caddy đã làm gì nào?"
    'Nó không thích cái áo diêm dúa ấy" Jason nói . "Chị tưởng mình là người lớn rồi đấy hả? Chị tưởng chị hơn hết thảy mọi người đấy hả? Diêm dúa!"
    "Mày câm cái mõm lại" Caddy nói. "Con thú ranh bẩn thỉu. Benjy."
    "Mới mười bốn tuổi đã tưởng mình là người lớn rồi hả?" Jason nói. "Chị tưởng mình là cái thá gì rất đấy. Phải không?"
    'Nín đi Benjy" Caddy nói. "Cứ bảo Caddy. Chị sẽ làm mà. Nói xem!"
    "Candace" Mẹ nói.
    "Dạ" Caddy nói.
    "Sao con cứ trêu em thế?" mẹ nói. "Đưa nó lại đây!"
    Chúng tôi tới phòng mẹ, một mình bà nằm đó trong cơn bệnh, khăn đắp trán.
    "Có chuyện gì nào?" mẹ nói. "Benjamin".
    "Benjy" Caddy nói. Chị lại đến, nhưng tôi bỏ đi.
    "Chắc con đã làm gì nó" mẹ nói. "Sao con không để mặc nó, cho mẹ được yên? Mang cho em cái hộp rồi con đi đi, để mặc nó".
    Caddy lấy cái hộp để xuống sàn và mở ra. Đầy những ngôi sao. Khi tôi đứng yên, chúng đứng yên. Khi tôi động đậy, chúng long lanh lấp lánh. Tôi nín khóc.
    Rồi tôi nghe Caddy bước đi và tôi bật khóc.
    "Benjamin" mẹ nói. "Lại đây!" tôi đi tới cửa. "Con à, Benjamin" mẹ nói.
    "Gì thế nào?" bố nói. "Con đi đâu đấy?"
    "Đưa nó xuống dưới nhà và bảo ai đó trông nó, Jason", mẹ nói. "Ông biết là tôi ốm, mà ông".
    Bố khép cửa sau lưng chúng tôi.
    "T.P." ông gọi.
    "Dạ" T.P. Nói dưới thang gác.
    "Benjamin xuống đấy" bố nói. "Đi với T.P.!"
    Tôi đi tới cửa phòng tắm. Tôi nghe thấy tiếng nước.
    "Benjy" T.P. Nói dưới thang gác.
    Tôi lắng nghe tiếng nước.
    Tôi không nghe tiếng nước nữa và thấy Caddy mở cửa.
    "Sao vậy, Benjy?" chị nói. Chị nhìn tôi và tôi đến và chị choàng tay ôm tôi . "Em lại tìm thấy Caddy phải không ?" chị nói. "Em tưởng Caddy đi mất rồi phải không?" Caddy có mùi cây.
    Chúng tôi tới phòng Caddy. Chị ngồi xuống trước tấm gương. Chị dừng tay và nhìn tôi.
    "Sao vậy Benjy?" Gì nào?" chị nói. "Em không được khóc. Caddy có đi đâu? Nhìn đây này". Chị nói. Chị lấy cái lọ, mở nút và đưa vào mũi tôi. "Thơm không? ngửi đi! Hay lắm!"
    Tôi bỏ đi và vẫn khóc, và chị cầm cái lọ trong tay, nhìn tôi.
    "À" chị nói. Chị đặt cái lọ xuống và tới ôm tôi.
    "Thì ra thế. Em cố nói với Caddy mà không nói được. Em muốn nói mà không được, phải không? Caddy không đi đâu mà. Caddy không đi đâu. Chờ chị mặc áo đã".
    Caddy mặc áo và lại cầm lấy cái lọ và chúng tôi xuống bếp.
    "Dilsey" Caddy nói. "Benjy tặng chị món quà" chị cúi xuống nhét cái lọ vào tay tôi. "Bây giờ đưa cho Dilsey". Caddy chìa tay tôi ra và Dilsey lấy cái lọ.
    "Ngoan quá nhỉ" Dilsey nói. "Thì ra bé tặng Dilsey lọ nước hoa. Nhìn đây này, Roskus!"
    Caddy có mùi như cây. "Chúng em không thích nước hoa", Caddy nói.
    Caddy có mùi như cây.
    "Đi đi nào" Dilsey nói. "Cậu lớn lắm rồi, ngủ chung đâu có được. Bây giờ cậu đã là thiếu niên. Mười ba tuổi đầu. Đủ lớn để ngủ một mình trong phòng ông Maury được rồi" Dilsey nói.
    Cậu Maury ốm. Mắt cậu ốm, miệng cũng ốm. Versh bưng bữa chiều lên cho cậu trên cái khay.
    "Maury doạ bắn cái thằng vô lại ấy" Bố nói. "Tôi bảo cậu ấy cứ lẳng lặng mà làm, khỏi cần tuyên bố trước với Patterson" ông uống.
    "Jason" mẹ nói.
    "Bắn ai hả bố?" Quentin nói. "Sao cậu Maury lại định bắn người ta?"
    "Bởi vì cậu ấy không biết đùa" bố nói.
    "Jason" mẹ nói. "Làm gì đi chứ? ông cứ ngồi yên mà nhìn Maury bị rình bắn và cười hay sao?"
    "Vậy thì Maury đừng để cho người ta rình bắn mình nữa" bố nói.
    "Bắn ai hả bố?" Quentin nói. "Cậu Maury định bắn ai?"
    "Chẳng có ai cả" bố nói. "Bố làm gì có súng".
    Mẹ bật khóc."Nếu ông khó chịu vì Maury ăn bám, sao ông không nói thẳng với cậu ấy, lại đi nhạo báng trước bọn trẻ, lúc cậu ấy không có mặt".
    "Dĩ nhiên là không" bố nói. "Tôi ngưỡng mộ Maury. Cậu ấy là vô giá đối với ý tưởng của tôi về tính ưu việt của dòng giống. Tôi sẽ không đánh đổi Maury dù là lấy một cỗ ngựa xứng đáng. Và con biết tại sao không, Quentin?"
    "Dạ, không ạ" Quentin nói.
    "Et ego in arcadia – và tôi trong thời hạnh phúc. Bố quên mất cỏ khô trong tiếng Latin là gì nhỉ?" Bố nói. "Đấy đấy" ông nói. "Tôi đùa thôi mà" Ông uống và đặt ly xuống rồi tới để tay lên vai mẹ.
    "Đâu phải chuyện đùa" mẹ nói. "Họ bên tôi nào phải thua kém gì bên ông. Chỉ vì Maury ốm yếu".
    "Dĩ nhiên rồi" bố nói. "Ốm đau là lý do hàng đầu. Sinh ra từ bệnh hoạn, sống với thối rữa, rồi đến chỗ tiêu vong. Versh!"
    "Dạ thưa ông" Versh nói sau ghế của tôi.
    "Lấy bình nước và đổ đầy vào!"
    "Và bảo Dilsey tới đây đưa Benjamin đi ngủ" mẹ nói.
    "Cậu lớn rồi" Dilsey nói. "Caddy không muốn ngủ chung với cậu nữa. Nín ngay, rồi ngủ đi" Căn phòng đi khỏi, nhưng tôi không nín, rồi căn phòng trở lại và Dilsey tới ngồi trên giường, nhìn tôi.
    "Cậu không thể ngoan và nín đi được hay sao?" Dilsey nói. "Cậu không nín phải không? Thôi được, chờ một lát".
    Bà bỏ đi. Chẳng có gì trong cửa. Rồi Caddy vào.
    "Nín đi!" Caddy nói. "Chị tới đây".
    Tôi nín và Dilsey gấp lại khăn trải giường. Caddy nằm vào giữa tôi với khăn trải giường và chăn. Chị không cởi áo choàng mặc trong nhà.
    "Nào" chị nói. "Chị đây thôi." Dilsey mang tới một cái chăn đắp lên người chị rồi quấn quanh chị.
    "Lát nữa là cậu ấy ngủ" Dilsey nói. "Tôi để đèn bên phòng cô".
    "Vâng" Caddy nói. Chị rúc đầu cạnh đầu tôi trên gối. "Ngủ ngon nhé, Dilsey".
    "Ngủ ngon, nghe cưng" Dilsey nói. Căn phòng tối lại. Caddy có mùi như cây.
    chúng tôi nhìn lên cây chỗ chị đứng.
    "Cô ấy có thấy gì không, Versh?" Frony thì thào.
    "Suỵt" Caddy nói trên cây. Dilsey nói:
    "Chúng mày lại đây!" bà đi vòng qua góc nhà. "Sao chúng mày không lên gác, như ông bảo, lại cứ lẩn sau lưng tao? Caddy và Quentin đâu rồi?"
    "Tôi đã bảo chị ấy không được trèo lên cái cây kia" Jason nói. "Tôi sẽ mách cho mà xem".
    "Đứa nào leo cây nào?" Dilsey nói. Bà tới và nhìn lên cây. "Caddy" Dilsey nói. Những cành cây lại bắt đầu rung.
    "Thật là đồ quỷ sứ" Dilsey nói. "Xuống ngay!"
    "Khẽ chứ" Caddy nói. "Bố dặn đừng làm ồn mà". Chân chị thò ra và Dilsey túm lấy lôi chị ra khỏi cây.
    "Mày làm cái trò gì để các cô cậu ấy quanh quẩn ở đây? " Dilsey nói.
    "Con chẳng nói được cô ấy" Versh nói.
    "Chúng mày làm gì ở đây?" Dilsey nói. "Ai bảo chúng mày lên nhà trên?"
    "Cô ấy bảo" Frony nói. "Cô ấy bảo chúng con lên".
    "Ai bảo chúng mày là phải làm theo lời cô ấy?" Dilsey nói. "Về nhà ngay!" Frony và T.P. Đi về. Chúng tôi không nhìn thấy chúng luc chúng vẫn còn đang đi.
    "Nửa đêm rồi còn ra đây" Dilsey nói. Bà cõng tôi lên và chúng tôi đi về bếp.
    "Lẩn sau lưng tôi" Dilsey nói. 'Mà đã biết là quá giờ ngủ rồi".
    "Suỵt, Dilsey" Caddy nói . "Đừng nói to thế. Mình không được làm ồn mà".
    "Vậy cô hãy ngậm miệng lại và nín thít đi" Dilsey nói. "Quentin đâu rồi?"
    "Quentin nổi khùng vì tối nay anh ấy phải nghe lời em" Caddy nói. "Anh ấy vẫn cầm chai đom đóm của T.P.".
    "T.P. Không có cái đó cũng chẳng sao" Dilsey nói. "Mày đi tìm Quentin về d , Versh! Roskus bảo là thấy cu ấy di về phía chuồng gia súc". Versh đi ra. Chúng tôi không thấy nó nữa.
    "Trên nhà chẳng thấy làm gì cả" Caddy nói. "Chỉ thấy ngồi ở ghế và nhìn".
    "Người ta làm gì cũng chẳng việc gì đến các cô cậu" Dilsey nói. Chúng tôi loanh quanh trong bếp.
    Cậu muốn đi đâu nào, Luster nói. Lại muốn về xem họ vụt bóng hả. Mình tìm khắp chỗ đó rồi thôi. À này. Khoan đã. Cậu cứ đợi ở đây để tôi quay lại tìm quả bóng ấy. Tôi nghĩ ra rồi.
    Bếp tối om. Những ngọn cây đen sì trên trời. Con Dan lững thững đi ra từ gầm cầu thang và gặm mắt cá chân của tôi. Tôi đi quanh bếp, chỗ có trăn. Con Dan lết theo sau, vào trăng.
    "Benjy" T.P. Nói trong nhà.
    Cây hoa cạnh cửa sổ phòng khách không tối, nhưng những cây rậm thì tối. Cỏ rì rầm trong ánh trăng khi bóng tôi bước đi trên cỏ.
    'Này Benjy" T.P. Nói trong nhà. "Cậu trốn đâu thế? Lại lẩn đi rồi. Biết ngay mà".
    Luster trở lại. Khoan, nó nói. ở đây. Đừng lại chỗ đó. Cô Quentin đang ngồi với bố ở cái đu đàng ấy đấy. Đi lối này này. Quay lại đây, Benjy.
    Trời tối mịt dưới bóng cây. Con Dan không chịu đi. Nó đứng lại trong ánh trăng. Rồi tôi nhìn thấy cái đu và tôi oà khóc.
    Đi khỏi chỗ đó, Benjy, Luster nói. Cậu biết là cô Quentin sẽ nổi khùng lêN chứ?
    Bây giờ là hai, rồi còn một ở cái đu. Caddy vội vã đi tới, trắng mờ trong bóng tối.
    "Benjy" chị nói. "Em lẩn ra đây cách nào thế? Versh đâu?"
    Chị ôm tôi và tôi nín khóc và nắm lấy áo chị cố kéo chị đi.
    "Sao thế Benjy?" chị nói. "Chuyện gì thế này, T.P.?" chị gọi.
    Người ở cái đu đứng dậy đi tới, và tôi khóc và kéo áo Caddy.
    "Benjy" Caddy nói. "Charlie đấy mà. Em có biết Charlie không?"
    "Thằng đen của nó đâu rồi?" Charlie nói. "Chúng làm gì mà để nó đi lung tung thế này?"
    "Nín đi Benjy" Caddy nói. "Đi chỗ khác đi, Charlie. Nó không thích anh". Charlie đi khỏi và tôi nín. Tôi kéo áo Caddy.
    "Sao thế Benjy?" Caddy nói. "Sao em không đi chơi để chị ở đây nói chuyện với anh Charlie một lát?"
    "Gọi thằng đen ấy đi" Charlie nói. Anh ta trở lại. Tôi khóc ầm lên và kéo áo Caddy.
    "Đi chỗ khác đi, Charlie" Caddy nói. Charlie tới đặt tay lên Caddy và tôi càng khóc. Tôi khóc rống lên.
    "Không mà, không mà" Caddy nói. "Không mà, không mà".
    "Nó có nói được đâu" Charlie nói. "Caddy!"
    "Anh điên à?" Caddy nói. Chị bắt đầu thở hổn hển. "Nó thấy đấy. Đừng ! Đừng!" Caddy giằng ra. Họ cùng thở hổn hển. "Thôi anh, thôi anh" Caddy thì thào.
    "Đưa nó đi chỗ khác đi" Charlie nói.
    "Em sẽ đưa" Caddy nói. "Buông em ra đã nào!"
    "Em sẽ đưa nó đi chỗ khác chứ?" Charilie nói.
    "Vâng" Caddy nói. "Buông em ra!" Charlie quay đi.
    "Nín" Caddy nói. "Anh ấy đi rồi" Tôi nín khóc. Tôi nghe thấy chị và cảm thấy ngực chị phập phồng.
    "Em sẽ đưa nó về nhà" Caddy nói. Chị nắm tay tôi. "Em sẽ tới" Chị thì thầm.
    "Khoan đã" Charlie nói. "Gọi thằng đen đi".
    "Không" Caddy nói. "Em sẽ trở lại. Đi nào, Benjy!"
    "Caddy" Charlie thì thào lớn hơn. Chúng tôi đi. "Em trở lại nhé. Em có trở lại không?" Caddy và tôi chạy.

  6. #6
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    "Mày không động gì đến những cây hoa của cậu ấy chứ?" Dilsey nói.
    "Con chẳng động đến bãi tha ma của cậu ấy" Luster nói. "Con hơi đâu động đến cái xe thồ của cậu ấy làm gì. Con chỉ tìm đồng xu của con thôi."
    "Mày đánh mất rồi à?" Dilsey nói. Bà thắp những ngọn nến trên cái bánh. Có mấy cây nến nhỏ. Mấy cây nến lớn đã được cắt ngắn đi. "Tao đã bảo mày là cất nó đi. Bây giờ mày lại muốn tao xin con Frony cho mày đồng khác chứ gì?"
    "Con phải đi xem hát, mặc kệ Benjy" Luster nói. "Con chẳng phải lẽo đẽo theo cậu ấy cả ngày lẫn đêm như thế".
    "Cậu ấy đòi thế nào mày phải làm thế ấy, thằng nhãi kia" Dilsey nói. "Mày nghe tao nói chứ?"
    "Con vẫn làm thế thôi" Luster nói. "Cậu ấy đòi gì mà con chả chiều. Phải không, Benjy?"
    "Cứ thế mà làm" Dilsey nói. "Đưa cậu ấy lại đây, cứ khóc ông ổng để bà cũng sụt sùi theo. Nào chúng mày ăn cái bánh này đi, trước khi Jason về. Tao không muốn cậu ấy cằn nhằn day dứt tao về cái bánh mà tao phải bỏ tiền túi ra mua. Tao có làm bánh thì cậu ấy đếm từng quả trứng trong bếp. Mày có để cậu ấy yên không, hay mày không muốn đi xem hát tối nay?"
    Dilsey đi ra.
    "Cậu không thổi tắt nến được đâu" Luster nói. "Xem tôi thổi tắt này". Nó ngả người, phồng má lên. Nến tắt. Tôi oà khóc. "Nín!" Luster nói. "Đây này. Nhìn lửa đi để tôi cắt bánh."
    Tôi nghe thấy đồng hồ, và nghe thấy Caddy đứng sau lưng tôi và tôi nghe thấy mái nhà. Trời vẫn mưa.Caddy nói. Tôi ghét mưa. Tôi ghét mọi thứ. Và rồi chị gục đầu vào lòng tôi và chị khóc, ôm lấy tôi, và tôi oà khóc. Rồi tôi lại nhìn ngọn lửa và những hình thể êm ái sáng ngời lại di động. Tôi nghe thấy đồng hồ và mái nhà và Caddy.
    Tôi ăn mấy miếng bánh. Tay Luster đưa tới miếng khác. Tôi nghe thấy nó ăn. Tôi nhìn ngọn lửa.
    Một đoạn dây thép dài thò qua vai tôi. Nó tới cánh cửa và rồi ngọn lửa đi mất. Tôi bắt đầu khóc.
    "Cậu làm gì mà tru lên thế?" Luster nói. "Nhìn kìa!" ngọn lửa ở đó. Tôi nín. "Cậu không thể ngồi nhìn lửa và yên lặng như mammy bảo hay sao?" Luster nói. "Cậu không biết xấu hổ à? Này. Miếng bánh nữa của cậu đây".
    "Mày vừa làm gì cậu ấy đấy?" Dilsey nói. "Mày không để cậu ấy yên được sao?"
    "Con chỉ cố dỗ cậu ấy nín để khỏi làm phiền cô Cahline" Luster nói. "Có gì đâu mà cậu ấy cứ nhè mồm ra".
    "Tao biết có cái gì đâu ấy rồi" Dilsey nói. "Tao sẽ bảo thằng Versh quật cho mày một trận khi nó về. Mày ráng mà chịu. Suốt ngày giở trò. Mày đưa cậu ấy xuống suối phải không?"
    "Đâu nào?" Luster nói. "Cả ngày bọn con chỉ chơi quanh sân này, như mammy dặn thôi mà".
    Tay nói với tới một miếng bánh nữa. Dilsey đập vàotay nó. "Cứ thò vào đi, tao sẽ chặt phăng bằng con dao này", Dilsey nói. "Tao cam đoan là cô jaa chưa được lấy một miếng".
    "Cậu ấy ăn đấy chứ." Luster nói. "Cậu ấy ăn gấp đôi con. Hỏi cậu ấy mà xem".
    "Thử thò tay ra nhón lần nữa xem" Dilsey nói. "Thò tay ra xem".
    Đúng thế đấy, Dilsey nói. Tôi nghĩ cũng sắp đến lúc tôi khóc rồi. Thế nào Maury cũng để cho tôi khóc một lần.
    Bây giờ tên nó là Benjỵ Caddy nói.
    Sao lại thế, Dilsey nói. Cậu ấy có làm hỏng cái tên cha sinh mẹ đẻ hồi nào đâu.
    Benjamin là tên trong Kinh Thánh, Caddy nói. Tên ấy tốt cho nó hơn là tên Maury.
    Sao lại thế, Dilsey nói.
    Mẹ bảo vậy, Caddy nói.
    Hừ, Dilsey nói. Tên cũng chẳng ích gì cho cậu ấy. Cũng chẳng hại gì. ĐổI tên chẳng làm cho người ta may mắn hơn. Tên tôi là Dilsey từ hồi nảo hồi nào và vẫn cứ là Dilsey cho tới lúc người ta quên hẳn tôi.
    Đã quên hẳn thì làm sao biết là Dilsey nữa, hả Dilsey, Caddy nói.
    ở trong Sổ Cái ấy, cưng ạ. Dilsey nói. Viết ra mà.
    chị đọc được không, Caddy nói.
    Chẳng phải đọc, Dilsey nói. Người ta đọc cho mình. Mình chỉ việc nói "Có tôi".
    Đoạn dây thép dài thò qua vai tôi, và lửa tắt. Tôi oà khóc. Dilsey và Luster giằng nhau.
    "Tao thấy mày rồi" Dilsey nói. "À, tao thấy mày rồi" Bà kéo Luster ra khỏi góc nhà, lắc nó. "Chẳng có cái gì trêu chọc cậu ấy phải không? Mày cứ đợi ông mày về. Tao ước gì được mạnh khoẻ chântay như xưa để nện tuốt xác mày ra. Tao sẽ nhốt mày vào hầm rượu, cho mày khỏi đi xem hát tối nay".
    "Ối mammy," Luster nói. "Ối mammy!"
    Tôi thò tay vào chỗ lúc nãy có lửa.
    "Giữ cậu ấy" Dilsey nói. "Giữ cậu ấy kìa".
    Tay tôi rụt lại và tôi đưa tay vào miệng và Dilsey túm lấy tôi. Tôi vẫn nghe tiếng đồng hồ giữa những tiếng la thét của tôi. Dilsey với tay ra đàng sau và đập lên đầu Luster. Tiếng la của tôi mỗi lúc một lớn.
    "Đi lấy soda" Dilsey nói. Bà kéo tay tôi ra khỏi miệng.
    Tôi la to hơn và cố đút tay vào miệng, nhưng Dilsey giữ chặt. Tôi la lớn nữa. Bà rưới soda lên tay tôi.
    "Tìm trong chạn và xé một miếng giẻ móc trên cái đinh ấy" , bà nói. "Nín ngay! Cậu định làm má cậu ốm thêm hay sao? Đây này, nhìn lửa đi! Dilsey làm tay cậu hết đau ngay bây giờ. Nhìn lửa kìa!" Bà mở cánh cửa lò. Tôi nhìn ngọn lửa nhưng tay tôi không hết đau và tôi không thôi khóc. Tay tôi cố đưa lên miệng nhưng Dilsey giữ chặt.
    Bà quấn vải quanh nó. Mẹ nói.
    "Gì thế? Tôi ốm cũng không được yên. Hai thằng đen lớn xác trông nom nó mà tôi còn phải bò dậy khỏi giường để xuống với nó nữa hay sao?"
    "Cậu ấy không sao đâu" Dilsey nói. "Cậu ấy thôi ngay mà. Chỉ bỏng tay một tí thôi".
    "Đã hai thằng đen lớn xác trông nom nó mà còn đưa nó vào trong nhà làm ầm ĩ lên" mẹ nói. "Các người biết tôi ốm nên các người cố tình làm nó gào đấy mà". Bà tới và đứng bên tôi. "Nín đi!" bà nói. "Thôi ngay đi nào! Chị làm bánh cho nó đấy à?"
    "Tôi mua đấy" Dilsey nói. "Tôi chẳng lấy chút gì trong chạn đồ ăn của Jason cả. Tôi làm sinh nhật cho nó đấy".
    "Có phải chị định làm cho nó ngộ độc với cái thứ bánh ngọt rẻ tiền mua ngoài tiệm ấy không?" Mẹ nói. "Chị định làm thế đấy à, tôi không được yên lúc nào nữa hay sao?"
    "Cô lên gác nằm nghỉ đi" Dilsey nói. "Cậu ấy sẽ hết đau và nín ngay thôi. Đi đi nào!"
    "Và để nó dưới này cho các người làm gì nó nữa đây" mẹ nói. "Tôi nằm yên sao được nếu nó cứ gào lên như thế. Benjamin, Nin ngay con!"
    "Chúng nó biết đưa cậu ấy đi đâu nữa?" Dilsey nói. "Nhà mình làm gì còn phòng trống? Cũng không thể để cậu ấy khóc lóc ngoài sân cho xóm giềng người ta nhìn".
    "Tôi biết, tôi biết" Mẹ nói. "Lỗi tại tôi cả. Tôi cũng chẳng còn bao lâu nữa, cả chị và Jason rồi sẽ đỡ hơn". Bà bắt đầu khóc.
    "Cô nín đi nào" Dilsey nói. "Cô lại làm mình ốm thêm mất thôi. Cô lên gác đi. Để Luster đưa cậu ấy tới phòng sách chơi đến khi tôi làm xong bữa chiều".
    Dilsey và mẹ đi ra.
    "Nín ngay!" Luster nói. "Nín ngay! Cậu muốn tôi đốt cả cái tay kia đi không ? có đau lắm đâu. Nín đi!"
    "Nào!" Dilsey nói. "Đừng khóc nữa!" bà đưa tôi chiếc dép, và tôi nín khóc. "Đưa cậu ấy đến phòng sách" bà nói. "Tao mà thấy cậu ấy gào lên nữa, tao sẽ cho mày một trận".
    Chúng tôi đến phòng sách. Luster bật đèn. Những cửa sổ đen lại, và mảng tối lớn trên tường hiện ra và tôi tới sờ vào nó .nó giống như một cái cửa chỉ có điều không phải là cửa.
    Ngọn lửa đến sau lưng tôi và tôi tới chỗ ngọn lửa và ngồi phệt xuống sàn, tay cầm chiếc dép. Ngọn lửa bùng cao hơn. Tôi tới ngồi vào tấm nệm trên ghế của mẹ.
    "Nín đi" Luster nói. "Cậu không thể im đi một lát được hay sao? Tôi nhóm lửa cho cậu, cậu cũng chẳng thèm nhìn".
    Tên em là Benjy, Caddy nói. Em nghe không nào. Benjy, Benjy.
    Đừng bảo em chuyện ấy, mẹ nói. Đưa em lại đây .
    Đứng lên, mau! – À không, Benjy, chị nói.
    Đừng cố cõng em, mẹ nói. Con không dắt em lại đây được hay sao? có thế mà cũng phải nghĩ.
    "Con cõng em được mà, Caddy nói. "Để em cõng, Dilsey".
    "Thì làm đi, cô bé" Dilsey nói. "Đập một con ruồi còn chẳng nổi nữa là. Cô cõng đi và chớ có làm ồn lên, ông Jason dặn rồi đấy".
    Có ánh đèn ở đầu cầu thang. Bố đứng đó, mặc sơ mi trần. Bố nhìn như bảo im ngay. Caddy thì thào:
    "Mẹ ốm phải không?"
    Versh đặt tôi xuống và chúng tôi đi vào phòng mẹ. Có ánh lửa. Nó chập chờn trên những bức tường. Có một ngọn lửa khác trong gương. Tôi ngửi thấy mùi ốm đau. Đó là một cái khăn đắp trên trán mẹ. Tóc bà xoã trên gối. Lửa không vờn đến đây nhưng ánh sáng trên tay bà, nơi những chiếc nhẫn của bà nhảy nhót.
    "Tới và chúc mẹ ngủ ngon đi!" Caddy nói. Chúng tôi đi tới giường. Ngọn lửa đi ra ngoài tấm gương. Bố đứng thẳng dậy bên giường và bế tôi lên và mẹ đặt tay lên đầu tôi.
    "Mấy giờ rồi?" mẹ nói. Mắt nhắm nghiền.
    "Bảy giờ kém mười" bố nói.
    "Còn sớm thế đã cho nó đi ngủ", mẹ nói. "Tinh mơ nó đã thức, thế rồi cứ như hôm nay, tôi không sao chịu đựng nổi một ngày nữa đâu".
    "Đấy, đấy" bố nói. Ông sờ mặt mẹ.
    "Tôi biết tôi chỉ là gánh nặng cho ông" mẹ nói. "Nhưng tôi chẳng còn bao lâu nữa đâu. Rồi ông sẽ được giải thoát". "Thôi nào" Bố nói. "Để tôi đưa nó xuống dưới nhà một lát". Ông bế tôi lên. "Đi nào ông tướng. Mình xuống nhà một lát. Mình sẽ không làm ồn lúc Quentin học bài".
    Caddy tới và cúi xuống giường và tay mẹ đưa ra trong ánh lửa. Những chiếc nhẫn của bà nhảy nhót trên lưng Caddy.
    Mẹ ốm, bố nói. Dilsey sẽ đưa con đi ngủ. Quentin đâu rồi.
    Versh đi tìm cậu ấy rồi, Dilsey nói.
    Bố đứng và nhìn chúng tôi đi qua. Chúng tôi nghe thấy tiếng mẹ trong phòng bà. Caddy nói "Im nhé". Jason vẫn đang leo cầu thang. Anh đút tay vào túi.
    "Đêm nay các con phải thật ngoan" bố nói. "Và thật yên lặng để khỏi làm phiền mẹ".
    "Chúng con sẽ yên lặng" Caddy nói. "Mày đừng làm ồn, Jason" chị nói. Chúng tôi đi nhón chân.
    Chúng tôi nghe thấy mái nhà. Tôi cũng nhìn thấy ngọn lửa ở trong gương. Caddy lại kéo tôi dậy.
    "Đi nào," chị nói. "Rồi em lại được nhìn lửa. Im ngay!"
    "Candace" mẹ nói.
    "Nín, Benjy" Caddy nói. "Mẹ muốn thấy em một lát. Em phải ngoan nhé. Rồi về ngay mà, Benjy!"
    Caddy đặt tôi xuống, và tôi nín.
    "Con để nó ở đây mẹ nhé. Lúc nào nó chán nhìn lửa rồi mẹ hãy bảo nó".
    "Con chiều nó quá" mẹ nói. "Cả con và bố. Con đâu biết rằng mẹ là người chịu khổ vì cái đó. Bà nội cũng làm hư thằng Jason như thế mất hai năm mới bỏ được, còn mẹ làm sao đủ sức chịu đựng ngần ấy năm với Benjamin?"
    "Mẹ chẳng phải khổ sở thế" Caddy nói. "Con thích được săn sóc em. Thật thế không, Benjy?"
    "Candace" mẹ nói. "Mẹ đã dặn con đừng có gọi em như thế. Bố con gọi con bằng cái tên quê kệch ấy cũng đủ tệ rồi, và mẹ không muốn em bị gọi như vậy. Gọi tên tục nghe thô lắm. Chỉ có dân hạ lưu mới gọi như vậy . Benjamin" bà nói.
    "Nhìn mẹ này!" mẹ nói.
    "Benjamin" bà nói. Bà ôm mặt tôi và quay nó về phía bà.
    "Benjamin" bà nói. "Mang cái nệm đi, Candace".
    "Nó khóc đấy" Caddy nói.
    "Mang cái nệm đi, mẹ đã bảo mà". Mẹ nói. "Nó phải tập cho quen".
    Cái nệm biến mất.
    "Nín đi, Benjy!" Caddy nói.
    "Con lại đàng kia và ngồi xuống" mẹ nói. "Benjamin" Mẹ kéo mặt tôi lại sát mặt bà.
    "Thôi nào" bà nói. "Thôi đi mà!"
    Nhưng tôi không thôi và mẹ ôm tôi trong tay và bắt đầu khóc và tôi vẫn khóc. Rồi cái nệm trở lại và Caddy giơ nó trên cao đầu mẹ. Chị đỡ mẹ ngồi vào ghế và mẹ nằm tựa vào cái đệm đỏ vàng mà khóc.
    "Đừng khóc mẹ" Caddy nói. "Mẹ lên gác nằm đi, kẻo ốm mất. Con sẽ kêu Dilsey". Chị dẫn tôi tới chỗ ngọn lửa và tôi nhìn những hình thể sáng ngời, êm dịu. Tôi nghe thấy lửa và mái nhà.
    Bố bế tôi lên. Ông có mùi như mưa.
    "Nào, Benjy" ông nói. "Hôm nay con có ngoan không?"
    Caddy và Jason đánh nhau trong tấm gương.
    "Kìa, Caddy" bố nói.
    Họ đánh nhau, Jason oà khóc.
    "Caddy" bố nói. Jason khóc. Anh không đánh nữa nhưng chúng tôi thấy Caddy đánh trong gương và bố đặt tôi xuống và đi vào trong gương và cũng đánh. Ông lôi Caddy dậy. Chị đánh. Jason nằm trên sàn, khóc. Anh cầm cái kéo trong tay. Bố giữ chặt Caddy.
    "Nó cắt nát hết những con búp bê của Benjy" Caddy nói. "Con sẽ phá đồ chơi của nó".
    "Candace" bố nói.
    "Con sẽ phá" Caddy nói. "Con sẽ phá". Chị đánh. Bố giữ chặt chị. Chị đá Jason. Anh lăn vào trong góc, ra ngoài gương. Bố đưa Caddy đến chỗ ngọn lửa. Mọi người ra hết ngoài gương. Chỉ còn ngọn lửa trong đó. Như thể ngọn lửa cháy trong một khuôn cửa.
    "Thôi nào" bố nói. "Con muốn mẹ ở phòng bên ốm nặng hơn à?"
    Caddy dừng lại. "Nó cắt nát hết những con búp bê Mau – Benjy và con làm". Caddy nói. "Nó làm thế chỉ vì thói ti tiện".
    "Con không cắt" Jason nói. Anh ngồi dậy và khóc. "Con không biết đấy là búp bê của em. Con tưởng là giấy bỏ đi".
    "Mày không làm nhưng mày biết" Caddy nói. "Chính mày cắt".
    "Nín" bố nói. "Jason!"
    "Mai chị sẽ làm cho em con khác" Caddy nói. "Mình sẽ làm thật nhiều. Em còn được nhìn cả tấm nệm nữa này".
    Jason đi vào.
    Tôi đã bảo cậu nín đi mà, Luster nói.
    Lại cái gì thế, Jason nói.
    "Cậu ấy lại kiếm chuyện để khóc nhè" Luster nói. "Suốt ngày cậu ấy như thế".
    "Vậy sao mày không để mặc nó?" Jason nói. "Nếu mày không dỗ được nó nín thì mày đưa nó xuống bếp. Chúng tao làm sao có thể ở ẩn trong phòng như mẹ được".
    "Mammy bảo phải giữ cậu ấy ở ngoài bếp đến khi mammy làm xong bữa chiều", Luster nói.
    "Vậy thì chơi với nó và đừng để nó làm ầm ĩ lên" Jason nói. "Tao làm lụng quần quật cả ngày để rồi về một cái nhà điên thế này à?" Anh giở tờ báo ra đọc.
    Em nhìn lửa nhìn gương nhìn cả đệm nữa này, Caddy nói. Em phải chờ đến bữa chiều mới được nhìn tấm nệm. Chúng tôi nghe thấy mái nhà. Chúng tôi nghe thấy cả Jason khóc lóc ầm ĩ bên kia tường.
    Dilsey nói "Cậu vào nhà đi, Jason. Còn mày, để cậu ấy yên, nghe không?"
    "Vâng ạ" Luster nói.
    "Quentin đâu?" Dilsey nói. "Sắp ăn chiều rồi đấy".
    Chúng tôi nghe thấy mái nhà. Quentin cũng có mùi như mưa.
    Jason làm gì thế, anh nói.
    Nó cắt nát hết búp bê của Benjy, Caddy nói.
    Mẹ bảo đừng gọi em là Benjy mà, Quentin nói. Anh ngồi trên thảm cạnh chúng tôi. Anh ước gì trời đừng mưa, anh nói. Chẳng làm được việc gì cả.
    Anh vừa đánh nhau, Caddy nói. Phải không?
    Chút xíu thôi, Quentin nói.
    Anh kể đi, Caddy nói. Thế nào bố cũng sẽ biết .
    Anh chẳng sợ. Quentin nói. Anh ước gì trời đừng mưa.
    Quentin nói "Có phải Dilsey bảo sắp ăn chiều không?"
    "Vâng" Luster nói. Jason nhìn Quentin. Rồi anh lại đọc báo.
    Quentin đi vào. "Mammy bảo sắp dọn bữa" Luster nói.
    Quentin nhảy vào ghế của mẹ. Luster nói:
    "Cậu Jason!"
    "Cái gì?" Jason nói.
    "Cho cháu hai đồng!" Luster nói.
    "Làm gì?" Jason nói.
    "Tối nay cháu đi xem hát" Luster nói.
    "Tao tưởng Dilsey xin Frony cho mày đồng hai mươi lăm xu rồi?" Jason nói.
    "Có cho rồi" Luster nói. "Nhưng cháu đánh mất. Cháu với Benjy tìm đồng xu ấy cả ngày. Cậu hỏi cậu ấy mà xem".
    "Vậy thì đi mà mượn cậu ấy" Jason nói. "Tao đi làm là để cho tao chứ" Anh đọc báo. Quentin nhìn lửa. Lửa trong mắt nó và trên miệng nó. Miệng nó đỏ chót.
    "Tôi đã cố giữ cậu ấy đừng tới chỗ đó" Luster nói.
    "Câm cái mồm!" Quentin nói. Jason nhìn nó.

  7. #7
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    "Tao bảo cho mày biết tao sẽ làm gì nếu tao còn thấy mày đi với cái thằng kép hát ấy lần nữa" Anh nói. Quentin nhìn ngọn lửa. "Mày có nghe tao nói không?" Jason nói.
    "Tôi nghe rồi" Quentin nói. "Vậy sao cậu không làm đi?"
    "Mày khỏi lo" Jason nói.
    "Tôi chẳng lo gì hết" Quentin nói. Jason lại đọc báo.
    Tôi nghe thấy mái nhà. Bố ngã người về phía trước nhìn Quentin.
    Thế nào, ông nói. Ai thắng?
    "Chẳng ai cả" Quentin nói. "Người ta can chúng con. Các thầy giáo ấy".
    "Đứa nào vậy?" bố nói. "Kể cho bố nghe được không?"
    "Được ạ" Quentin nói. "Nó lớn bằng con".
    "Khá đấy" bố nói. "Chuyện thế nào?"
    "Cũng chẳng có gì" Quentin nói. "Nó bảo nó sẽ để một con nhái lên bàn cô và cô sẽ chẳng dám phạt nó".
    "À" bố nói. "Cô giáo. Rồi sao nữa?"
    "Dạ" Quentin nói. "Rồi con nện nó".
    Chúng tôi nghe thấy mái nhà và lửa, và tiếng sụt sịt bên ngoài cánh cửa.
    "Đang tháng Một mà nó lấy đâu ra nhái?" bố nói.
    "Con không biết, bố à." Quentin nói.
    Tôi nghe thấy chúng.
    "Jason" bố nói. "Lại đây và thôi đi".
    Chúng tôi nghe thấy mái nhà và lửa và Jason.
    "Thôi đi nào" bố nói. "Con muốn bố đánh đòn nữa không?" Bố nhấc Jason lên đặt vào ghế bên cạnh ông. Jason sụt sịt. Chúng tôi nghe thấy lửa và mái nhà. Jason sụt sịt to hơn một chút.
    "Vẫn chưa thôi?" bố nói. Tôi nghe thấy lửa và mái nhà.
    Dilsey nói, được rồi. Mọi người vào ăn bữa chiều đi.
    Versh có mùi như mưa. Nó cũng có mùi của một con chó. Tôi nghe thấy lửa và mái nhà.
    Chúng tôi nghe thấy Caddy bước vội vã. Bố và mẹ nhìn ra cửa. Caddy đi qua, rảo bước . Chị không nhìn. Chị bước vội.
    "Candace!" mẹ nói. Caddy dừng chân.
    "Dạ thưa mẹ" chị nói.
    "Thôi, Caroline!" bố nói.
    "Lại đây!" mẹ nói.
    "Thôi, Caroline!" bố nói. "Kệ nó!"
    Caddy tới cửa và đứng ở đó, nhìn bố và mẹ. Mắt chị lướt qua tôi rồi nhìn đi chỗ khác. Tôi oà khóc. Tôi khóc to và đứng dậy. Caddy vào và đứng quay lưng vào tường, nhìn tôi . Tôi đi tới chị, khóc, chị lùi sát tường và tôi nhìn mắt chị và khóc lớn hơn rồi kéo áo chị. Chị chìa tay ra nhưng tôi kéo áo chị. Mắt chị chạy đi.
    Versh nói, tên cậu bây giờ là Benjamin. Cậu biết tại sao tên cậu là Benjamin không? Người ta biến cậu thành yêu răng xanh (Blue gum negroes: những người dữ tợn và hung ác). Mammy nói ngày xưa ông nội cậu đổi tên dân da đen, rồi ông trở thành người truyền giáo, và khi họ nhìn ông, ông cũng thành yêu răng nanh. Ông vốn không phải là yêu răng xanh. Đàn bà có mang nhìn vào mắt ông lúc trăng tròn, con họ đẻ ra là yêu răng xanh. Rồi một buổi tối, có khoảng mươi đứa trẻ yêu răng xanh chạy quanh nhà, ông không trở về nữa. Cánh thợ săn tìm thấy ông trong rừng, bị ăn hết thịt. Cậu biết ai ăn thịt ông không? Lũ trẻ yêu răng xanh đấy.
    Chúng tôi ở trong phòng lớn. Caddy vẫn đang nhìn tôi . Tay chị để lên miệng tôi và tôi thấy đôi mắt chị và tôi khóc. Chúng tôi lên thang gác. Chị dừng lại, dựa vào tường nhìn tôi và tôi khóc và chị đi tiếp và tôi đi theo, khóc, và chị lùi sát tường, nhìn tôi. Chị mở cửa phòng chị, nhưng tôi kéo áo chị và chúng tôi đi tới phòng tắm và chị đứng tựa cửa, nhìn tôi . Rồi chị quàng tay ôm tôi và tôi đẩy chị ra, khóc.
    Mày làm gì cậu ấy thế, Jason nói. Sao mày không để cậu ấy được yên.
    Cháu đâu có đụng đến cậu ấy, Luster nói. Suốt cả ngày cậu ấy nhè như vậy đấy. Cậu ấy muốn ăn đòn mà.
    Cậu ấy muốn được gửi đến Jackson. Quentin nói. Ai mà sống nổi trong một cái nhà như thế này.
    Này bà trẻ, nếu bà không thích, bà nên xéo đi thì hơn. Jason nói.
    Tôi sắp đi rồi, Quentin nói. Cậu khỏi lo.
    Versh nói "Cậu xích ra nào, để tôi hơ chân". Nó đẩy tôi lùi lại một chút. "Đừng có mà rống lên. Cậu vẫn nhìn thấy đấy thôi. Cậu thì chỉ có thế. Cậu đâu có phải dầm mưa như tôi? Cậu tốt số mà chẳng biết". Nó nằm ngửa trước ngọn lửa.
    "Giờ thì cậu biết tại sao tên cậu là Benjamin chứ?" Versh nói. "Má cậu quá kiêu hãnh về cậu. Mammy bảo thế".
    "Cậu ngồi yên đấy để tôi hơ chân", Versh nói. "Nếu không tôi sẽ làm gì cậu biết không? Tôi sẽ lột da cậu như thỏ ấy ".
    Tôi nghe thấy lửa và mái nhà và Versh.
    Versh nhỏm dậy và rụt chân lại. Bố nói "Được mà, Versh!"
    "Tối nay qcon cho em ăn" Caddy nói. "Versh cho em ăn, thỉnh thoảng em lại khóc".
    "Mang cái khay này đi" Dilsey nói. "Rồi quay lại ngay cho Benjy ăn".
    "Em không muốn Caddy cho em ăn à?" Caddy nói.
    Cậu ấy cứ phải thượng cái dép rách bẩn thỉu ấy lên bàn mới được hay sao, Quentin nói. Sao không cho cậu ấy ăn ở trong bếp. Cứ như ăn với một con lợn.
    Nếu mày không thích cái kiểu chúng tao ăn, mày đừng ngồi vào bàn thì hơn, Jason nói.
    Hơi nóng bốc ra từ Roskus. Ông đang ngồi trước lò. Cửa lò mở và Roskus cho chân vào trong đó. Hơi nóng bốc lên từ bát. Caddy nhẹ nhàng đưa thìa vào miệng tôi. Có một cái chấm đen bên trong bát.
    Nào, nào, Dilsey nói. Cậu ấy sẽ không quấy rầy cô nữa đâu.
    Nó xuống dưới cái ngấn. Rồi bát trống rỗng. Nó đi khỏi. "Tối nay em có vẻ đói" Caddy nói. Cái bát trở lại. Tôi không thấy cái chấm. Rồi tôi thấy. "Tối nay em đói khiếp" Caddy nói. "Xem em ăn nhiều chưa này".
    Phải, cậu ấy sẽ không quấy rầy. Quentin nói. Các người sai cậu ấy rình mò tôi. Tôi ghét cái nhà này. Tôi sẽ đi khỏi đây.
    Roskus nói "Mưa suốt đêm mất".
    Mày sẽ đi thật lâu, cho tới tận giờ ăn kia, Jason nói.
    Rồi xem tôi có đi không, Quentin nói.
    "Thật tôi không còn biết làm sao nữa" Dilsey nói. "Nó làm tôi bại cả hông chẳng còn nhúc nhích gì được. Suốt buổi tối leo cầu thang".
    Ồ, tao chẳng ngạc nhiên, Jason nói. Mày làm gì tao cũng chẳng ngạc nhiên đâu.
    Quentin ném khăn ăn lên bàn.
    Im mồm đi, Jason. Dilsey nói. Bà tới và choàng tay ôm Quentin. Ngồi xuống đi cưng, Dilsey nói. Cậu ấy thật không biết xấu hổ, giận cá chém thớt.
    "Bà ấy lại dỗi phải không?" Roskus nói.
    "Im mồm đi" Dilsey nói.
    Quentin đẩy Dilsey ra. Nó nhìn Jason. Miệng nó đỏ chót. Nó cầm ly nước và vung tay ra đàng sau, nhìn Jason. Dilsey tóm tay nó. Họ giằng nhau. Cái ly vỡ trên bàn, và nước chảy lênh láng. Quentin chạy đi.
    "Mẹ lại ốm" Caddy nói.
    "Bà ấy vẫn vậy mà" Dilsey nói. "Thời tiết này ai mà chả ốm. Bao giờ cậu mới ăn xong đây, ông mãnh?"
    Đồ chết tiệt, Quentin nói, đồ chết tiệt. Chúng tôi nghe thấy nó chạy trên cầu thang. Chúng tôi tới phòng sách.
    Caddy đưa cho tôi cái nệm, và tôi được nhìn cái nệm và gương và lửa.
    "Mình không được làm ồn lúc Quentin học bài" bố nói. "Con làm gì đấy, Jason?"
    "Có gì đâu ạ" Jason nói.
    "Con tới đây làm xem nào!" bố nói.
    Jason rời khỏi góc nhà.
    "Con nhai cái gì đấy?" bố nói.
    "Có gì đâu ạ" Jason nói.
    "Nó lại nhai giấy" Caddy nói.
    "Lại đây, Jason" bố nói.
    Jason ném vào lửa. Nó xèo xèo, quăn queo, đen lại. Rồi màu xám. Rồi mất. Caddy và bố và Jason ngồi trong ghế của mẹ. Mắt Jason nhắm phồng lên và miệng anh chép chép, như đang nếm. Đầu Caddy ở trên vai bố. Tóc chị như ngọn lửa, và trong mắt chị có những đốm lửa nhỏ, và tôi tới và bố cũng nhấc tôi vào ghế, và Caddy ôm tôi. Chị có mùi như cây.
    Chị có mùi như cây. Trong góc nhà tối om, nhưng tôi nhìn thấy cửa sổ. Tôi ngồi xổm ở đó, cầm chiếc dép. Tôi không nhìn thấy nó nhưng tay tôi thấy nó, và tôi nghe được đêm xuống, và tay tôi thấy chiếc dép nhưng chính tôi không thấy, và tay tôi thấy được chiếc dép, và tôi ngồi xổm ở đó, nghe trời đổ tối.
    Cậu ở đây à, Luster nói. Nhìn xem tôi có cái gì đây này. Nó chìa ra cho tôi. Cậu biết vớ được ở đâu không? Cô Quentin cho tôi đấy. Tôi biết mà, người ta không cho tôi đi đâu có được. Cậu làm gì mà ra tận đây? Tôi cứ tưởng cậu lẩn ra ngoài rồi. Hôm nay cậu rên rỉ sướt mướt chưa đủ sao, lại còn trốn vào cái phòng trống này để lẩm bẩm ngơ ngác. Lại đây đi ngủ đi, để tôi còn kịp tới đó trước khi mở màn. Hôm nay tôi không thể rồ dại cùng cậu suốt buổi tối được. Họ mà thổi kèn chỉ cần hồi đầu là tôi chuồn liền.
    Chúng tôi không tới phòng của chúng tôi .
    "Chỗ này là nơi chúng mình bị lên sởi" Caddy nói. "Sao đêm nay mình lại phải ngủ ở đây nhỉ?"
    "Ngủ ở đâu mà chẳng được" Dilsey nói. Bà đóng cửa và ngồi xuống và bắt đầu cởi áo cho tôi. Jason oà khóc. "Nín" Dilsey nói.
    "Tôi ngủ với bà nội cơ" Jason nói.
    "Bà bị ốm" Caddy nói. "Khi nào bà khỏe mày lại được ngủ với bà. Phải không, Dilsey?"
    "Nín ngay" Dilsey nói. Jason im.
    "Quần áo ngủ của chúng mình ở đây, đủ mọi thứ" Caddy nói. "Y như dọn nhà ấy".
    "Cô thay đồ đi thì hơn" Dilsey nói. "Cởi khuy ao cho Jason".
    Caddy cởi khuy áo cho Jason. Anh bắt đầu khóc.
    "Cậu muốn ăn đòn à?" Dilsey nói. Jason nín.
    Quentin. Mẹ nói trong phòng lớn.
    Dạ, Quentin nói bên kia tường. Chúng tôi nghe thấy mẹ khoá cửa. Bà nhìn vào phòng chúng tôi và đi vào và cúi xuống giường và hôn lên trán tôi.
    Lúc nào mày cho cậu ấy ngủ xong, đi hỏi Dilsey xem liệu có cho tao một chai nước nóng được không, mẹ nói. Bảo bà ấy là nếu bà ấy không bằng lòng, tao sẽ cố chịu đựng. Bảo là tao chỉ muốn chết thôi.
    Vâng ạ, Luster nói. Nào, cậu cởi quần dài ra.
    Quentin và Versh đi vào. Quentin quay mặt đi. Sao em khóc?" Caddy nói.
    "Nín!" Disley nói. "Cởi quần áo ra! Mày về đi, Vesh!"
    Tôi cởi quần áo và nhìn mình, và tôi oà khóc. Nín, Luster nói. Nhìn họ thì được cái quái gì. Họ đi rồi. Cậu cứ thế. Chẳng ai làm sinh nhật cho cậu nữa đâu. Nó mặc áo ngủ cho tôi. Tôi nín và chợt Luster ngừng tay, quay đầu về phía cửa sổ. Rồi nó tới cửa sổ và nhìn ra ngoài. Nó trèo qua cửa sổ ở chỗ Quentin và vào cái cây. Chúng tôi nhìn cây rung. Chỗ rung trên cây xuống thấp, rồi ra khỏi cây và chúng tôi thấy nó đi ngang qua bãi cỏ. Rồi chúng tôi không thấy nó nữa. Nào, Luster nói. Đấy. Nghe họ thổi kèn không? cậu vào giường kia để chân tôi còn chạy chứ.
    Có hai cái giường. Quentin bên giường kia. Anh quay mặt vào tường. Disley đặt Jason vào với anh. Caddy cởi áo ra.
    "Thử nhìn quần lót của cô xem nào" Dilsey nói. "May mà mẹ cô không thấy đấy".
    "Tôi mách rồi" Jason nói.
    "Tôi biết chắc là cậu sẽ mách mà" Dilsey nói.
    "Xem rồi mày mách thì được cái gì" Caddy nói. "Lẻo mép".
    "Tôi mách thì được cái gì ấy à?" Jason nói.
    "Sao không mặc áo ngủ vào" Dilsey nói. Bà tới và giúp Caddy cởi quần lót. "Thử nhìn cô xem" Dilsey nói. Bà cuộn cái quần lót lại và lau lưng Caddy. "Ướt đẫm khắp người" bà nói.
    "Được rồi" Caddy nói. "Tối nay mẹ không đến" chị nói. "Vậy mọi người vẫn phải nghe lời tôi".
    "Phải" Dilsey nói. "Ngủ đi nào!"
    "Mẹ ốm" Caddy nói. "Cả mẹ và bà nội cùng ốm".
    "Im!" Disley nói. "Ngủ đi!"
    Căn phòng tối đen, ngoại trừ cửa ra vào. Rồi cửa tối đen. Caddy nói "Nín đi, Maury" và đặt tay lên tôi. Thế là tôi im bặt. Chúng tôi nghe thấy mình. Chúng tôi nghe thấy bóng tối.
    Nó đi khỏi và bố nhìn chúng tôi. Ông nhìn Quentin và Jason rồi ông đến và ôm hôn Caddy và đặt tay lên đầu tôi.
    "Mẹ ốm nặng à?" Caddy nói.
    "Không" bố nói. "Con trông nom Maury cẩn thận được chứ?"
    "Vâng" Caddy nói.
    Bố đi tới cửa lại nhìn chúng tôi. Rồi bóng tối trở lại, và ông đứng đen sì trong khung cửa, và rồi cửa trở lại tối đen. Caddy ôm lấy tôi và tôi nghe thấy tất cả chúng tôi, và bóng tối, và những gì tôi ngửi thấy. Và rồi tôi nhìn thấy các cửa sổ, nơi cây cối rì rầm. Rồi bóng tối bắt đầu biến thành những hình thể êm ả, sáng ngời, như nó luôn luôn thế, ngay cả khi Caddy nói rằng chị ngủ rồi.

  8. #8
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    3 -

    MÙNG HAI THÁNG SÁU, 1910
    Khi bóng khung cửa kính hiện lên trên những tấm rèm ở vào khoảng giữa bảy và tám giờ và thế là tôi trở lại với thời gian, nghe chiếc đồng hồ quả quýt. Nó là của ông nội và khi bố đưa nó cho tôi, ông nói, Quentin, bố cho con nấm mồ của mọi hy vọng và ước muốn, điều đáng suy tư hơn là con sẽ dùng nó để lĩnh hội cái mô hình phi lý của toàn bộ Kinh nghiệm nhân sinh có thể chẳng thích hợp với những nhu cầu cá nhân của con cũng như của ông nội hay cụ nội. Bố cho con không phải để con nhớ thời gian mà để con có thể đôi lúc quên nó đi và đừng có kiệt sức tàn hơi cố gắng chinh phục nó. Bởi vì không có trận đánh nào từng gọi là thắng cả, ông nói. Ngay cả trận đánh cũng không có. Bãi chiến trường chỉ khải thị cho con người sự điên rồ và tuyệt vọng của chính họ, và chiến thắng chỉ là một ảo tưởng của các triết gia và những thằng ngốc.
    Nó tựa vào cái hộp cổ cồn và tôi lắng nghe nó. Nghe nó, thế thôi. Tôi chắc chẳng có ai để ý lắng nghe một cái đồng hồ quả quýt hay một cái đồng hồ treo tường. Chẳng ai làm như vậy. Người ta có thể lãng quên cái âm thanh ấy thật lâu, rồi trong một tích tắc nó tạo ra trong tâm tưởng triền miên chuỗi thu giảm dằng dặc của thời gian mà người ta đã không nghe. Như bố nói trượt theo những tia sáng dài dặc và lẻ loi, người ta có thể thấy Jesus đang bước đi, vậy đấy. Và cả thánh Francis nhân hậu nói Cô Em Tử Thần dẫu chẳng hề có chị em gì.
    Tôi nghe bên kia tường tiếng lò xo giường của Shreve và rồi tiếng dép của nó lệt xệt trên sàn. Tôi nhỏm dậy tới chỗ cái kệ và lướt tay trên đó tìm chiếc đồng hồ, lập úp xuống rồi trở lại giường. Nhưng bóng khung cửa kính vẫn ở đó, và tôi đã tập để nói đúng từng phút, nên tôi quay lưng lại, cảm thấy như những con thú có mắt ở sau đầu khi lưng ngứa ngáy tột độ. Những thói quen vô ích người ta có được luôn luôn là cái người ta sẽ hối hận. Bố nói thế. Rằng Christ không bị đóng đinh, ông chỉ bị bào mòn bởi tiếng tích tắc của những bánh xe bé xíu. Cái đó chẳng có chị em gì.
    Và ngay khi biết mình không thấy nó, tôi tự hỏi là mấy giờ rồi. Bố nói rằng thắc mắc thường trực về vị trí của những cây kim máy móc trên một mặt số tuỳ tiện chính là triệu chứng của bệnh thần kinh chức năng. Cứt bố nói giống như sự tra tấn. Và tôi nói Đúng. Thắc mắc. Cứ sống và thắc mắc.
    Nếu trời xấu tôi có thể nhìn ra cửa sổ, nghĩ tới những gì ông nói về các thói quen vô ích. Thời tiết như thế này mà xuống New London thì thật là thú.sao lại không nhỉ? Tháng của cưới xin, của giọng nói thì thào. Nàng chạy khỏi tấm gương, khỏi làn hương ướp. Những đóa hồng. Những đóa hồng. ông bà Jason Richmond Compson thông báo lễ thành hôn của những đóa hồng. Không phải các trinh nữ như cây sơn thù, cây bông tai. Tôi nói con đã phạm tội loạn luân, bố a, tôi nói. Những đóa hồng. Quyến rũ và thanh thản. Nếu người ta vào Harvard một năm mà không đi xem đua thuyền thì sẽ được bồi hoàn. Để Jason hưởng cái đó. Cho Jason một năm Harvard.
    Shreve đứng ở cửa, đeo cổ cồn, mắt kính lấp lánh màu hồng, cứ như nó đã rửa kính bằng gương mặt của nó. "Mày lại bỏ học sáng nay?"
    "Muộn rồi à?"
    Nó nhìn đồng hồ. "Hai phút nữa là chuông".
    "Tao không biết đã muộn đến thế". Nó vẫn nhìn đồng hồ, miệng nhệch ra. "Tao phải phóng đi đây. Tao không thể bỏ học buổi nữa được. Thầy trưởng khoa đã rầy tao tuần vừa rồi". Nó nhét đồng hồ vào túi. Vậy nên tôi không nói nữa.
    "Tốt hơn là mày xỏ quần dài vào và chạy" nó nói. Nó đi ra.
    Tôi dậy, đi đi lại lại, lắng nghe nó qua tường. Nó vào phòng khách, tới cửa.
    "Mày chưa xong à?"
    "Chưa. Chạy đi. Tao đi sau".
    Nó đi ra. Cửa đóng lại. Chân nó đi xuống hành lang rồi tôi lại nghe thấy chiếc đồng hồ. Tôi sững lại rồi đi tới cửa sổ kéo rèm và nhìn chúng chạy tới ngôi giáo đường, những kẻ hệt nhau chen lấn những vai áo khoác nhấp nhô hệt nhau, những quyển sách và những chiếc cổ áo lật phật hệt nhau bập bềnh trôi qua như những mảnh ván trên dòng nước lũ, và Spoade. Gọi Shreve là chồng. Ồ, mặc kệ nó, Shreve nói, nếu nó thích chạy theo mấy con ranh con bẩn thỉu thì đấy là việc của nó. Ở miền Nam này, người ta xấu hổ vì còn trinh. Bọn choai choai. Bọn người lớn. Đều nói láo về chuyện đó. Bởi vì chuyện đó chẳng mấy ý nghĩa với đàn bà, bố nói. Ông bảo là bọn đàn ông bày đặt ra chuyện trinh tiết chứ không phải đàn bà. Bố nói chuyện đó cũng như cái chết: chỉ là một trạng thái được dành cho kẻ khác và tôi nói, Nhưng tin chuyện đó có sao đâu và ông nói, Đấy là điều đáng buồn của mọi sự, chẳng riêng gì trinh tiết, và tôi nói, Tại sao không phải là con mà lại là em con mất trinh, và ông nói, Đó cũng là lý do làm mọi sự thành đáng buồn, có thay đổi điều ấy cũng chẳng đáng gì, và Shreve nói, nếu nó thích chạy theo mấy con ranh con bẩn thỉu và tôi nói, Mày có đứa em gái nào không? có không? có không?
    Spoade ở giữa chúng như một con rùa trên nẻo phố đầy lá rụng cuồn cuộn, cổ áo dựng lên tận tai, bước đi đủng đỉnh như lệ thường. Hắn an từ nam Carolina, là sinh viên năm cuối. Hội của hắn khoác lác là hắn chẳng bao giờ chạy đến nhà thờ, chẳng bao giờ tới đó đúng giờ, chẳng bao giờ vắng mặt suốt bốn năm học và chẳng bao giờ tới dự lễ hay dự bài giảng đầu tiên mà mặc sơ mi và đi tất. Khoảng mười giờ hắn ghé vào qúan Thompson'sợ, gọi hai tách cà phê, ngồi xuống và lấy tất ra khỏi túi, tháo giày rồi xỏ tất vào, trong lúc cà phê nguội. Khoảng trưa nó nta thấy hắn lại sơ mi cổ cồn như bất kỳ ai. Những đứa khác hối hả chạy vượt qua hắn nhưng hắn chẳng bao giờ rảo bước. Một lúc sau sân trường vắng tanh.
    Một con sẻ bay chéo qua tia nắng, đậu lên bậc cửa sổ, và nghiêng đầu nhìn tôi. Mắt nó tròn xoe và sáng ngời. Đầu tiên nó nhìn tôi bằng một mắt, rồi vụt một cái nó nhìn bằng mắt bên kia, cổ họng phập phồng nhanh hơn cả mạch đập. Đồng hồ bắt đầu điểm chuông. Con sẻ thôi đổi mắt và nhìn tôi chăm chú bằng một bên mắt đến khi tiếng chuông ngưng, như thể nó cũng đang lắng nghe. Rồi nó bay vút khỏi bậc cửa sổ đi mất.
    Một lúc sau, tiếng chuông cuối cùng mới hết rung động. Nó ngưng trong không khí, cảm thấy hơn là nghe thấy, một hồi lâu. Giống như tất cả những quả chuông đã từng rung và còn ngân vang trong những tia sáng dài dặc tắt dần và Jesus và Thánh Francis nói về em gái mình. Vì nếu như chỉ đoạ địa ngục, nếu như đó là tất cả. Hết. Nếu như mọi sự chỉ là hết. Không một ai khác ở đó ngoài em và tôi. Nếu như chúng tôi thực đã làm một điều xấu xa đến nỗi mọi người phải bỏ chạy khỏi địa ngục ngoại trừ chúng tôi . Con đã phạm tội loạn luân tôi nói. Bố ạ, đó là con chứ không phải Dalton Ames. Khi anh ta đặt khẩu súng vào tay tôi tôi đã không. Đó là lý do tôi không. Anh ta sẽ ở đó và em và tôi. Dalton Ames. Dalton Ames. Dalton Ames. Nếu như chúng tôi thực đã làm một điều xấu xa như vậy và bố nói Cái đó cũng đáng buồn, con người không thể làm một điều gì xấu xa như thế nếu họ không thể làm bất kỳ một điều gì quá đỗi xấu xa ngày mai họ không thể ngay cả nhớ lại cái điều mà hôm nay họ coi là xấu xa và tôi nói, Người ta có thể lẩn tránh mọi sự và ông nói, Ồ người ta có thể lẩn tránh được hay sao. Và tôi sẽ nhìn xuống và thấy những lóng xương thì thầm của tôi và nước thẳm sâu như gió, như một mái nhà của gió và rất lâu sau này người ta không còn phân biệt nổi những lóng xương trên nền cát hoang vu cô quạnh. Cho đến Ngày Phán xử khi Người truyền Đứng dậy sẽ chỉ có chếic bàn ủi nổi lên. Không phải là khi người ta nhận thức rằng chẳng có gì cứu giúp được mình – tôn giáo, niềm kiêu hãnh, bất cứ điều gì – mà là khi người ta nhận thức rằng người ta chẳng cần cái gì cứu giúp. Dalton Ames. Dalton Ames. Dalton Ames. Nếu tôi là mẹ anh ta nằm với thân thể mở phơi cất lên tiếng cười, tay tôi nắm lấy tay bố anh ta kìm lại, nhín và thấy anh ta chết trước khi chào đời. Một thoáng em đứng trong khung cửa.
    Tôi đến chỗ cái kệ và cầm đồng hồ lên, mặt kính vẫn úp xuống. Tôi đập mặt kính vào góc kệ và nhặt những mảnh kính vỡ bỏ vào cái gạt tàn và vặn cả mấy cây kim vứt lên khay. Chiếc đồng hồ vẫn chạy. Tôi lật nó lại, mặt số trống trơn với những bánh xe tích tắc đàng sau, không biết điều gì hơn. Jesus bước đi ở Galilee và Washington không nói dối. Bố mang một cái kính vạn hoa từ Hội chợ Saint Louis về cho Jason, một ống thiếc gắn gương, nhắm một mắt lại ta thấy một toà nhà chọc trời, một vòng đu quay như mạng nhện. Thác Niagara trên mũi kim. Có một vết đỏ trên mặt nó. Khi tôi thấy nó thì ngón tay cái của tôi bắt đầu đau. Tôi đặt chiếc đồng hồ xuống và đi vào phòng Shreve, lấy iod bôi lên chỗ tay đứt. Tôi lấy khăn mặt lau sạch cái vành gắn mặt kính.
    Tôi lấy ra hai bộ quần áo lót, tất , sơ mi, cổ cồn, cà vạt và thu xếp vali. Tôi nhét tất cả vào ngoại trừ bộ đồ mới và một bộ cũ, hai đôi giày, hai cái mũ và sách vở. Tôi ôm sách ra phòng khách và xếp đứng trên bàn, những cuốn tôi mang ở nhà đến và những cuốn Bố nói trước kia để đánh giá một con người cứ xem những cuốn sách mà anh ta có, còn bây giờ để đánh giá một con người cứ xem những cuốn sách mà anh ta mượn và không trả lại và khoá vali rồi ghi địa chỉ. Chuông mười lăm phút vang lên. Tôi ngừng tay lắng nghe cho đến khi tiếng chuông dứt…
    Tôi tắm và cạo râu. Nước làm ngón tay tôi hơi xót, thế là tôi lại bôi thuốc. Tôi mặc bộ đồ mới, móc đồng hồ vào và xếp bộ đồ kia cùng những đồ lặt vặt với dao cạo và bàn chải vào túi xách tay, gói chìa khoá vali trong một tờ giấy, nhét vào phong bì và ghi địa chỉ bố, viết hai lá thư rồi niêm phong tất cả.
    Bóng râm chưa rời hàng hiên. Tôi dừng lại bên trong cửa sổ, nhìn bóng râm xê dịch. Nó xê dịch gần như thấy được, bò giật lùi bên trong cửa, đẩy vạch tối lùi về phía cửa. Chị là em chạy mất khi tôi nghe thấy. Trong tấm gương em đang chạy trước khi tôi kịp hiểu gì. Nhanh thoăn thoắt, đuôi áo vắt lên cánh tay em chạy khỏi gương như một áng mây, tấm voan cuộn từng dải lấp loáng gót chân em mỏng mảnh và tay kia em kéo vội áo lên vai, chạy khỏi gương làn hương những đoá hồng, những đóa hồng, giọng nói thì thào bên trên vườn Địa Đàng! Rồi em băng qua ngõ, tôi nghe thấy những gót chân em rồi trong ánh trăng như một áng mây, cái bóng bập bềnh của tấm voan chạy qua thảm cỏ vào tiếng gào khóc. Em chạy ra khỏi tấm áo, giữ chặt vòng hoa cưới chạyvào tiếng gào khóc nơi T.P. Trong sương Hu Rượu thuốc Benjy rống lên dưới cái hòm. Bố có một mảnh giáp bạc hình chữ "V" trên lồng ngực phập phồng.
    Shreve nói "Chà, mày không…Đám cưới hay nghỉ hè đấy?"
    "Không có chuyện ấy đâu" tôi nói.
    "Không mà diện oách thế? Chuyện gì vậy? mày tưởng hôm nay là Chủ nhật hẳn?"
    "Tao nghĩ chẳng đến nỗi vì mặc bộ đồ mới mà bị cảnh sát bắt" tôi nói.
    "Tao nghĩ đến bọn sinh viên ký túc xá. Mày kiêu hãnh đến mức không thèm tới lớp nữa à?"
    "Tao đi ăn cái đã" Bóng râm trên hàng hiên đã biến mất. Tôi bước vào ánh nắng, tìm lại bóng tôi. Tôi bước xuống các bậc thềm ngay trước nó. Chuông nửa giờ điểm. Rồi tiếng chuông ngưng và tắt lịm.
    Lão Trợ tế cũng không thấy ở bưu điện. Tôi dán tem hai cái phong bì, gửi một cái cho bố và bỏ cái của Shreve vào túi áo trong, và rồi tôi nhớ ra nơi tôi thấy lão Trợ tế lần gân đây nhất. Đó là vào ngày Tuyên dương công trạng (Memorial Day: ngày lễ tưởng niệm chiến sĩ trận vong) trong bộ đồ đồng phục G.A. R (Grand Army of Republic: Đại quân Cộng hoà), giữa đoàn diễu hành. Nếu chịu khó đợi ở một góc đường, thế nào người ta cũng thấy lão trong một đoàn diễu hành nào đó kéo qua. Lần trước là lễ sinh nhật Columbus hoặc Garibaldi hoặc ai đó. Lão ở trong khốii Những Người Quét Đường, đội mũ ống khói, cầm lá cờ Italy dài hai mét, hút xì gà giữa đám chổi và xẻng. Nhưng lần chót là đoàn G.A.R. Vì Shreve nói:
    "Trông kìa! Thử nhìn xem ông nội mày làm lão già đen khốn khổ kia thành cái gì".
    "Ừ" tôi nói. "Bây giờ lão có thể đi diễu hành hết ngày này sang ngày khác. Nếu chẳng nhờ ông nội tao, lão đã phải quần quật như dân trắng".
    Tôi không thấy lão ở đâu cả. Nhưng ngay cả một gã da đen cày cuốc người ta cũng khó mà tìm ra lúc cần đến huống hồ một kẻ gặp may không phải trông vào đất cát để sống. Một chiếc xe đi qua. Tôi tới thị trấn, vào quán Parker's chén một bữa sáng ngon lành. Trong lúc ăn tôi nghe thấy chuông đồng hồ điểm một giờ. Nhưng tôi tính phải mất ít nhất một thời gian dài hơn cả lịch sử để thâm nhập vào tiến trình máy móc của nó.
    Xong bữa sáng, tôi mua một điếu xì gà. Cô bán hàng nói loại ngon nhất giá năm mươi xu, nên tôi lấy một điếu, châm lửa và đi ra phố. Tôi đứng đó rít vài hơi, rồi tay cầm xì gà đi tới góc đường . Tôi đi qua ô cửa một hiệu đồng hồ, nhưng nhìn lảng đi. Ở góc đường, hai thằng bé da đen đánh giày túm lấy tôi, mỗi đứa một bên, the thé khàn khàn, như những con chim sáo. Tôi cho một đứa điếu xì gà, còn đứa kia một đồng kền. Rồi chúng để tôi yên. Đứa được điếu xì gà gạ bán nó cho đứa kia để lấy đồng kền.
    Có một chiếc đồng hồ, cao tít trong nắng, và tôi nghĩ, khi người ta không muốn làm một điều gì, tại sao cơ thể người ta lại cứ cố dụ dỗ để làm điều đó, một cách vô thức. Tôi cảm thấy những thớ thịt trên gáy tôi, và rồi tôi nghe thấy chiếc đồng hồ của tôi kêu tích tắc trong túi và trong chốc lát, tôi đã gạt bỏ mọi âm thanh khác, chỉ giữ lại tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ trong túi. Tôi trở lại phố, đến trước ô cửa. ông thợ đang cắm cúi trên bàn, sau ô cửa. Đầu ông đã hói. Có một cái kính ở mắt ông – một cái ống kim loại xoáy vào mặt. Tôi bước vào cửa hiệu.
    Nơi đây đầy ắp những tiếng tích tắc, như dế kêu trong cỏ tháng Chín, và tôi nghe thấy tiếng một chiếc đồng hồ lớn trên tường, ngay trên đầu tôi. ông nhìn lên, con mắt lớn, mờ mờ và hấp háy sau kính. Tôi lấy chiếc đồng hồ của tôi đưa cho ông.
    "Tôi đánh vỡ nó".
    Ông lắc lắc nó trong tay. "Chắc chắn là thế rồi. Cậu còn dẫm lên nữa".
    "Vâng, thưa ông. Tôi đánh rơi nó từ trên kệ và dẫm lên nó trong bóng tối. Vậy mà nó vẫn chạy".
    Ông mở nắp sau và nheo mắt nhìn vào bên trong. "Hình như chưa sao. Nhưng tôi cũng phải xem kỹ rồi mới nói được. Chiều nay tôi sẽ xem".
    "Vậy lát nữa tôi sẽ mang lại" tôi nói. "Ông làm ơn cho biết chiếc đồng hồ nào trong cửa hiệu chỉ đúng giờ?"
    Ông cầm chiếc đồng hồ của tôi trong lòng tay và ngước lên nhìn tôi bằng con mắt mờ hấp háy.

  9. #9
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    "Tôi đánh cuộc với một người bạn" tôi nói. "Và sáng nay tôi lại để quên kính".
    "Không sao, được mà" ông nói. Ông đặt chiếc đồng hồ xuống và nhổm khỏi ghế nhìn qua rào ngăn. Rồi ông liếc lên tường . "Mười hai".
    "Không cần" tôi nói. "thưa ông, ông chỉ cần bảo tôi cái nào trong số đó đúng giờ thôi".
    Ông lại nhìn tôi. ông ngồi xuống ghế và đẩy kính lên trán. Nó để lại một vòng tròn màu đỏ quanh mắt ông và khi không có kính, toàn bộ khuôn mặt của ông như bị bóc trần. "Hôm nay cậu ăn mừng gì vậy?" ông nói. "Tuần tới mới đua thuyền kia mà?"
    "Không, thưa ông. Đây chỉ là dịp mừng riêng tư. Lễ sinh nhật. Cái nào đúng giờ vậy ông?"
    "Chẳng cái nào cả. Tất cả đều chạy thử và phải lấy lại giờ. Nếu cậu định mua cái nào thì…"
    "Không, thưa ông. Tôi không cần mua. Ở nhà đã có một cái treo trong phòng khách. Tôi sẽ sửa cái này vào lúc khác". Tôi chìa tay ra.
    "Cậu để nó lại thì hơn".
    "Tôi sẽ mang lại sau" Ông đưa cho tôi chiếc đồng hồ. Tôi nhét vào túi. Tôi vẫn nghe thấy nó trên tất cả những cái khác. "Tôi làm phiền ông quá. Hy vọng là tôi đã không làm ông mất nhiều thời gian".
    "Không sao. Khi nào cần thì cậu cứ mang lại đây. Và cậu nên dời dịp lễ mừng này đến khi mình thắng cuộc đua thuyền".
    "Vâng, thưa ông. Tôi cũng nghĩ vậy".
    Tôi đi ra, khép lại cánh cửa trước những tiếng tích tắc. Tôi nhìn lại ô cửa. ông nhìn theo tôi qua rào ngăn. Có khoảng một tá đồng hồ trong cửa hiệu, chỉ một tá giờ khác nhau, và chỉếc nào cũng đoan chắc một cách đầy mâu thuẫn, với sự quả quyết như nhau, y hệt chiếc đồng hồ chẳng còn cây kim của tôi, kêu tích tắc trong túi, dù chẳng ai thấy nó, dù nó chẳng chỉ được gì nếu như có ai thấy đi nữa.
    Và tôi tự nhủ hãy giữ chiếc này. Bởi vì bố nói những chiếc đồng hồ đã giết thời gian. Ông nói những bánh xe nhỏ xíu còn kêu tích tắc thì thời gian còn chết, chỉ khi nào đồng hồ ngừng chạy, thời gian mới bắt đầu sống. Những cây kim xoãi ra, chênh chếch khỏi đường chân trời một góc mờ, như cánh chim âu chao trong gió, ôm giữ tất cả những gì ta thường hối tiếc như trăng non giữ nước, bọn đen nói vậy. Người thợ đồng hồ lại cắm cúi gập mình trên bàn, cái ống ăn sâu vào khuôn mặt. Tóc ông rẽ ngôi giữa. Một bên tóc chải vắt lên mảng hói, như một cái đầm lầy cạn nước vào tháng Chạp.
    Tôi thấy một cửa hàng ngũ kim ở bên kia đường. Tôi không biết người ta mua những chiếc bàn ủi theo trọng lượng.
    Người bán hàng nói "Những cái đó nặng mười pound".
    Có điều chúng lớn hơn tôi tưởng. Cho nên tôi lấy hai chiếc nhỏ sáu pound, vì khi gói lại chúng trông như một đôi giày. Cả hai chiếc cộng lại cũng khá nặng, nhưng tôi lại nghĩ tới điều bố đã nói về cái mô hình phi lý của kinh nghiệm nhân sinh, nghĩ tới cơ hội độc nhất tôi đã có thể áp dụng ở Harvard. Có lẽ là năm tới, mà cũng có thể phải mất hai năm ở trường để học làm điều đó một cách xứng đáng.
    Nhưng chúng dường như chỉ đủ nặng trong không khí. Một đoàn tàu chạy tới. Tôi leo lên. Tôi không thấy tấm bảng phía trước. Toa đầy ắp, hầu hết những người có vẻ khá giả đang đọc báo. Chỗ trống duy nhất bên cạnh một gã da đen. Gã đội mũ quả dưa và đi đôi giày bóng lộn, tay cầm một mẩu xì gà đã tắt. Tôi thường nghĩ là một anh chàng miền Nam thì luôn luôn bận tâm về dân da đen. Tôi đinh ninh rằng những người miền Bắc nhìn nhận anh ta như vậy. Lần đầu tiên tới miền Đông, tôi luôn tự nhủ: Mày phải nhớ họ là những người da màu chứ không phải bọn mọi đen và nếu như tôi đã không ăn chung ở lộn với vô số người da đen, tôi sẽ phải mất rất nhiều thời gian để học cách cư xử với tất cả mọi người, dù đen hay trắng, là để mặc họ, họ nghĩ họ là gì cũng được. Đó là khi tôi nhận thức rằng một gã da đen là một cung cách ứng xử hơn là một con người, một kiểu đảo gương của dân da trắng mà gã chung sống. Nhưng thoạt đầu tôi đinh ninh rằng tôi cảm thấy thiếu đám da đen xung quanh là vì tôi cũng ở tâm trạng mà những người miền Bắc gán cho tôi, mãi đến buổi sáng hôm ấy ở Virginia, tôi mới biết rằng tôi thực sự cảm thấy thiếu Roskus và Dilsey và họ. Con tàu đứng lại khiến tôi tỉnh dậy và tôi kéo tấm mành cửa sổ nhìn ra ngoài. Tàu dừng ở một ngã tư đường, nơi có hai hàng rào trắng chạy xuống một quả đồi rồi xoè ra và lượn xuống như bộ khung của một cây kèn, và một gã da đen trên con lừa beg những vệt lún bánh xe khô cứng, chờ con tàu chuyển bánh. Gã ở đó đã bao lâu tôi không biết, ngồi thõng chân trên lưng lừa, đầu trùm tấm chăn, như thể người ta đã dựng lên ở đó cùng với hàng rào và con đường, hoặc với quả đồi, chạm khắc vào chính quả đồi như một tấm biển đặt ở đó ghi Ngươi lại về nhà. Gã không có cả một cái yên và hai bàn chân thõng gần sát đất. Con lừa trông như một con thỏ. Tôi kéo cửa sổ lên.
    "Này lão", tôi nói. "Làm ăn vậy hả?"
    "Ông?" gã nhìn tôi, rồi nới lỏng tấm chăn và kéo nó ra khỏi tai.
    "Quà Gíang sinh đây!" tôi nói.
    "Phải mà, ông chủ. ông không gạt tôi chứ?"
    "Tôi tha cho lão lần này". Tôi lôi chiếc quần dài ra khỏi cái võng nhỏ và lấy một đồng hai mươi lăm xu. "nhưng liệu lần sau. Tôi sẽ về qua đây ngày mùng 3 Tết, và coi chừng đấy". Tôi ném đồng xu ra ngoài cửa sổ. "Mua lấy mấy món quà Giáng sinh".
    "Vâng, thưa ông" gã nói. Gã leo xuống nhặt đồng xu và chùi vào chân. "Cám ơn, cậu chủ. Cám ơn". Rồi con tàu bắt đầu chuyển bánh. Tôi vươn người ra ngoài cửa sổ, vào không khí lạnh lẽo, nhìn trở lại. Gã đứng đó bên con lừa còm nhom trông như một con thỏ, cả hai tiều tuỵ, bất động và bình thản. Con tàu lắc lư qua khúc quanh, đầu máy phụt những luồng hơi ngắn nặng nhọc, và họ khuất lấp êm ả sau cảnh vật, với tất cả những phẩm chất của tiều tuỵ, kiên nhẫn phi thời gian và bình thản đến tĩnh tại; nó pha trộn giữa thơ ngây và dốt nát vốn dĩ với sự đáng tin đầy nghịch lý là những gì đã cưu mang và che chở họ để yêu hết lòng và trộm cắp thường xuyên và trốn trách nhiệm cùng bổn phận một cách trơ tráo đến độ không thể gọi là lẩn tránh và khi trộm cắp hay đào nhiệm mà bị tóm cũng cứ hồn nhiên và chất phác thán phục kẻ thắng như một bậc chính nhân quân tử bái phục bất cứ ai đánh bại mình trong một cuộc quyết đấu ngay thẳng, hơn nữa còn trìu mến và khoan dung, đầy nhẫn nại đối với những thói hư tật xấu của người da trắng như thể một người ông đối với lũ cháu phiền nhiễu và trái chứng, điều mà tôi đã quên lãng. Và suốt ngày hôm đó, trong lúc con tàu hổn hển trườn qua những đoạn đèo gấp khúc đột ngột và men theo những bờ vực chỉ có âm thanh nặng nhọc của đầu máy phụt hơi và bánh xe nghiến và những ngọn núi vĩnh cửu mờ trên nền trời đầy mây, tôi nghĩ về nhà, về cái nhà ga heo hút với bùn với những người da đen và dân quê túm tụm uể oải trên sân ga, nghĩ về những con khỉ đồ chơi và những toa xe với những túi kẹo và dãy nến cắm, và lòng tôi xốn xang như mỗi lần ở trường nghe tiếng chuông rung.
    Tôi chưa bắt đầu đếm, tới khi đồng hồ điểm chuông ba giờ. Rồi tôi bắt đầu, đếm đến sáu mươi lại gập một ngón tay và nghĩ tới mười bốn ngón tay nữa đang đợi để gập xuống rồi mười ba rồi mười hai rồi tám rồi bảy, cho đến hết, rồi bỗng nhiên tôi nhận thấy sự im lặng và những ý nghĩ căng thẳng và tôi nói "Thưa cô?" "Tên em là Quentin phải không?" cô Laure nói. Rồi im lặng tiếp và những ý nghĩ căng thẳng tàn nhẫn và những bàn tay rụt vào trong im lặng. "Nói cho Quentin ai đã phát hiện ra sông Mississippi, Henry!" "De Soto". Rồi các ý nghĩ đi mất, và một lúc sau tôi sợ mình bị chậm trễ và tôi đếm nhanh hơn và gập xuống một ngón tay nữa, rồi tôi lại sợ là nhanh quá và tôi đếm chậm lại, rồi tôi lại sợ và lại đếm nhanh. Cứ thế tôi không thể nào đếm khớp với tiếng chuông, và sự cồn cào giải thoát của những bàn chân đang di chuyển, cảm nhận mặt đất trên sàn tàu chật chội, và ô cửa kính hắt ra một ánhs áng, ngọn gió sắc, và lòng tôi xao động, tôi vẫn ngồi yên. Xao động vẫn ngồi yên. Một thoáng em đứng trong khung cửa. Benjy. Gào rống. Benjamin đứa trẻ bằng tuổi tôi đang gào rống. Caddy! Caddy!
    Chị sẽ đi khỏi đây. Nó oà khóc. Em tới và vuốt ve nó. Nín. Chị không đi đâu. Nín. Nó nín. Dilsey.
    Nó ngửi thấy cái gì người ta nói với nó khi nó muốn. Chẳng cần lắng nghe hay trò chuyện.
    Nó ngửi thấy cái tên mới người ta đặt cho nó không? Nó ngửi thấy nỗi bất hạnh không?
    Nó cần gì phải ưu tư về số phận? số phận không thể nào làm nó tổn thương.
    Vậy họ đổi tên cho nó làm gì nếu như không phải là cố giúp cho số phận của nó?
    Con tàu dừng lại, chạy, rồi lại dừng. Bên ngoài cửa sổ, tôi thấy lố nhố những đầu người qua lại dưới những chiếc mũ rơm mới còn chưa bạc màu. Bây giờ trên toa có cả những người đàn bà, với giỏ đi chợ, vvz người đàn ông mặc quần áo lao động bắt đầu nhiều hơn giày bóng cổ cồn.
    Gã da đen chạm khẽ vào đầu gối tôi. "Xin lỗi" gã nói.
    Tôi xoay chân ra ngoài để gã đi qua. Chúng tôi đi bên cạnh một bức tường trống trơn, tiếng động lách cách dội vào trong toa, đến những người đàn bà với giỏ đi chợ đặt trên đầu gối và một người đàn ông đội chiếc mũ bạc phếch với cái tẩu gài trên băng mũ. Tôi ngửi thấy mùi nước, và qua một mảng vỡ trên tường, tôi thấy ánh lấp lánh của nước và hai cột buồm, và một con hải âu bất động trên không trung như trên một sợi dây vô hình giăng giữa hai cột buồm, tôi nhắc tay lên và qua lần áo khoác, sờ những lá thư tôi vừa viết. Khi tàu dừng lại, tôi xuống.
    Cầu đã mở để một chiếc tàu buồm lớn đi qua. Nó được đẩy đi, chiếc tàu đẩy thúc bên mạn khoang một phần tư phút dưới, nhưng chiếc tàu buồm như tự chuyển động bằng cách nào đó không thấy. Một anh chàng cởi trần trùng trục đang cuộn một sợi dây đàng mũi. Người anh ta cháy nắng màu lá cây thuốc lá. Một người khác đội chiếc mũ rơm mất chỏm đang cầm lái. Chiếc tàu cắt qua cầu, lừ đừ đi với những cây cột trơ trụi như một bóng ma giữa thanh thiên bạch nhật, với ba con hải âu lởn vởn đàng đuôi tàu như những con chim đồ chơi treo trên một sợi dây vô hình.
    Khi cầu đóng lại tôi điqua sang bờ bên kia và cúi mình trên lan can nhìn xuống những nhà thuyền. Bến trống trơn và các cửa đã đóng. Bây giờ đội đua chi tập vào buổi chiều muộn, trước đó họ nghỉ. Bóng cây cầu, dãy lan can, bóng tối ngả dài trên mặt nước, tôi lừa nó quá dễ nên nó chẳng rời tôi. ít nhất cũng khoảng năm mươi bộ, và giá như tôi có cái gì đó để dìm nó xuống nước, giữ tới khi nó chìm nghỉm, bóng cái bọc như một đôi giày gói lại nằm trên mặt nước. Bọn da đen bảo rằng bóng một kẻ chết đuối lúc nào cũng rình rập họ ở dưới nước. Nó long lanh và lấp loáng, như đang thở, bến thuyền dập dềnh chậm rãi như cũng đang thở, và những mảnh ván nhấp nhô, cuốn nhau ra biển cả và những hang động của nước. Nước dịch chuyển làm mọi vật bình đẳng. Cái mô hình phi lý của toàn bộ kinh nghiệm nhân sinh, và hai chiếc bàn ủi sáu pound nặng hơn một cái bàn ủi cổ ngỗng của thợ may. Dilsey sẽ bảo hoang phí là phải tội. Benjy biết cái đó khi bà nội chết. Nó khóc. Nó ngửi đúng. Nó ngửi đúng.
    Chiếc tàu đẩy quay trở lại xuôi dòng, nước cuộn vào những trục lăn dài, đu đưa bến thuyền ở cuối hành trình bằng tiếng vang của nó, bến thuyền lảo đảo trên trục lăn với một âm thanh bập bềnh và tiếng ồn chói tai kéo dài như tiếng cửa được kéo lại và hai người đàn ông nhô ra, khiêng một chiếc xuồng. Họ đặt xuồng xuống nước và một lát sau Bland ra, mang những mái chèo. Hắn mặc bộ đồ flannel, áo khoác xám, đội mũ rơm cứng. Hoặc hắn hoặc bà mẹ hắn đọc được ở đâu đó rằng sinh viên Oxford khi bơi thuyền phải mặc đồ flannel và đội mũ cứng, thế là ngay từ đầu tháng Ba người ta sắm cho Gerald một đôi xuồng và hắn diện bộ đồ flannel, đội mũ cứng, rồi chèo xuồng ra sông. Những nhân viên nhà xuồng doạ gọi cảnh sát nhưng hắn đã chèo đi mất. Mẹ hắn tới trong một chiếc xe hơi thuê, mặc áo lông thú kín mít như một nhà thám hiểm Bắc cực, nhìn hắn chèo đi trong một ngọn gió hai mươi lăm dặm và những tảng băng đều đều trôi như đàn cừu bẩn.
    Kể từ đó tôi tin rằng Thượng Đế không chỉ là một kẻ hào hoa và một nhà thể thao, Ngài còn là một người Kentucky nữa. Khi hắn đã ra xa, bà ta vòng xe lại và xuôi theo dòngsông song song với hắn, chiếc xe chạy chầm chậm. Người ta nói chẳng ai có thể bảo là họ đã quen biết nhau từ trước, như ông hoàng bà chúa, không cả nhìn nhau nữa, chỉ đi bên nhau băng qua Massachusetts trên một hành trình songsong như một cặp sao đôi vậy.
    Hắn vào xuồng và chèo đi. Bây giờ hắn chèo điệu nghệ lắm. Thế là phải. Người ta nói mẹ hắn đã thử thuyết phục hắn gác chèo để làm một việc gì khác mà những kẻ cùng trang lứa với hắn không làm nổi hoặc không muốn làm, nhưng lần này hắn tỏ ra ương ngạnh. Nếu người ta có thể gọi là ương ngạnh cái phong thái ngồi uể oải vương giả của hắn, với mái tóc vàng lượn sóng và đôi mắt màu tím và hàng mi dài và bộ đồ New York, trong lúc mẹ hắn khoe với chúng tôi nào là những con ngựa của Gerald, nào những người hầu da đen của Gerald, nào những tình nhân của Gerald. Những đức ông chồng và các bậc phụ mẫu ở Kentucky hẳn phải thở phào nhẹ nhõm khi bà ta đưa Gerald đi Cambridge. Bà có một căn hộ ở ngoài thị trấn, Gerald cũng có một căn hộ ở đó không kể những phòng của hắn ở trường. Bà chấp nhận việc Geral giao du với tôi, ít ra vì tôi cũng để lộ cái ý tưởng ngớ ngẩn về con nhà nòi bởi mình đã sinh ra với những cái họ Maxon và Dixon, và một vài cái họ khác mà môn địa lý đã đáp ứng sự đòi hỏi (tối thiểu). ít ra đã tha thứ. Hoặc đã bào chữa. Nhưng kể từ lần bà gặp Spoade ở nhà thờ ra, hắn nói bà chẳng phải là phu nhân, làm gì có phu nhân nào ở ngoài đường vào cái giờ khuya khoắt ấy, bà không bao giờ có thể tha thứ cho hắn về việc hắn dùng những năm cái họ, kể cả họ của một quận công Anh quốc đương thời. Tôi chắc là bà tự an ủi bằng cách thuyết phục mình rằng một gã vô lại Maingault hoặc Mortemar hắn đã chung chạ với con gái lão chủ qúan trọ. Cái đó cũng đúng thôi, cho dù bà có đơm đặt hay không, Spoade quả là vô địch thế giới về môn nịnh đầm, phóng đãng và sở khanh.
    Chiếc xuồng giờ đây là một cái chấm, những mái chèo loang loáng gạt nắng, như thể thân chiếc xuồng đang nhấp nháy. Mày có đứa em gái nào không? Không nhưng chúng nó toàn bọn điếm. Mày có đứa em gái nào không? Một thoáng em. Bọn điếm. Không phải điếm một thoáng em đứng trong khung cửa. Dalton Ames. Dalton Ames. Dalton Shirts![1]. Trước nay tôi cứ tưởng chúng là vải kaki, hàng kaki quân nhu cho tới khi tôi biết chúng là hàng lụa thô Trung Hoa hoặc flannel cực mịn vì chúng làm gương mặt anh ta nâu đến thế, mắt anh ta xanh đến thế. Dalton Ames. Thiếu hẳn sự trang nhã. Trang phục sân khấu. Đúng là hàng mã, sờ mà xem. Ồ. Amiăng. Đâu phải là đồng. Nhưng sẽ không gặp anh ta ở nhà.
    Hãy nhớ rằng Caddy cũng là một người đàn bà. Em cũng hành động với những lý lẽ của đàn bà.
    Sao em không đưa anh ta vào nhà, Caddy? Sao em làm như một mụ đàn bà da đen ngoài đồng ngoài rãnh trong bụi trong bờ lén lút mê cuồng nơi rừng tối?
    Và một lát sau tôi thỉnh thoảng lại nghe tiếng chiếc đồng hồ của tôi và tôi cảm thấy bức thư sột soạt qua lần áo khoác, ép vào lan can, và tôi cúi mình trên lan can, nhìn bóng tôi, thử lừa nó. Tôi xê dịch dọc theo lan can, vả lại bộ đồ của tôi sẫm quá và tôi có thể chùi tay, nhìn bóng tôi, thử lừa nó. Tôi dẫn nó lẫn vào bóng của bờ kè. Rồi tôi đi về hướng đông.
    Harvard đứa trẻ Harvard của tôi Harvard Harvard. Thằng nhóc mặt mụn mà em gặp ở cuộc hội họp ngoài sân với những dải băng màu. Thập thò dọc hàngrào như một con chó con cố huýt sáo gọi em ra. Bởi vì người ta không thể dụ hắn vào phòng khách được. Mẹ tin là hắn có bùa mê, hắn sẽ bỏ bùa mê em khi hắn tóm được em một mình. Cái thằng cha căng chú kiết. Nó đang nằm cạnh cái hòm dưới cửa sổ mà rống có thể lái một chiếc Limousine với ho cài trên khuyết áo. Harvard Quentin à đây là Herbert. Đứa trẻ Harvard của tôi. Herbert sẽ là một người anh lớn đã hứa cho Jason chỗ làm ở ngân hàng.
    Săn đón, dai dẳng như một gã chào hàng. Mặt chỉ thấy đầy những răng trắng nhờn nhưng không có một nụ cười. Cháu đã nghe nói về anh ấy ở trường. Chỉ thấy răng, chẳng thấy một nụ cười. Em cầm lái à?
    Lên xe đi Quentin.
    Em cầm lái.
    Xe của nó đấy con có hãnh diện không em gái của con là người đầu tiên ở trong tỉnh có xe hơi quà tặng của Herbert đấy. Sáng nào Louis cũng dạy nó tập lái con có nhận được thư nhà không. ông bà Jason Richmond Compson thông báo lễ thành hôn của ái nữ là cô Candace với ông Sydney Herbert Head vào ngày hai mươi lăm tháng Tư năm một nghìn chín trăm mười tại Jefferson Mississipi. Tiếp khách tại tư gia sau ngày mùng một tháng Tám năm Cái gì Đó Gì Đó Đại lộ South Bend Indiana. Shreve nói Mày chẳng thèm bóc thư ra nữa à? Ba ngày. Giờ. Ông bà Jason Richmond Compson. Chàng Lochinvar phóng ra khỏi miền Tây hơi sớm quá, phải không?
    Tôi là người miền Nam. Anh thật hài hước.
    Ồ vâng, tôi biết vài nơi ở nông thôn.
    Anh thật hài hước, phải không? anh nên vào một gánh xiếc.
    Tôi đã từng làm. Tôi bị hỏng mắt cũng do phun nước bắt rận cho voi. Ba lần. Bọn con gái nông thôn ấy mà. Chẳng biết kể gì về họ cả, phải không? Ừ dù sao Byron cũng chưa khi nào thoả nguyện, ơn Chúa. Nhưng không đánh một kẻ đeo kính. Mày chẳng thèm bóc thư ra nữa à? Nó nằm trên bàn mỗi góc bàn thắp một ngọn nến hai đoá hoa giả trên chiếc phong bì buộc dải băng hồng vấy bẩn. Không đánh một kẻ đeo kính.
    Người dân quê khốn khổ chẳng hề thấy một chiếc xe hơi đến khi chúng nhan nhản bóp còi kìa Candance. Em không muốn nhìn tôi họ sẽ tránh đường không muốn nhìn tôi bố con sẽ phiền lòng nếu con cán phải một ai đó chắc là trước sau gì ông ấy cũng tậu một chiếc tôi thật ân hận là cậu đã mang xe lại Herbert à tôi thích nó lắm dĩ nhiên là có xe ngựa nhưng hễ tôi muốn đi đâu đó là ông Compson lại sai mấy thằng đen làm việc này việc nọ tôi có đòi bằng được thì ông ấy nhắc đi nhắc lại là Roskus lúc nào cũng sẵn sàng đợi tôi gọi đến nhưng tôi biết thừa là thế nào rồi tôi biết là người ta chỉ hứa hẹn để lương tâm khỏi cắn rứt rồi cậu có đối xử với con bé nhà tôi như thế không Herbert nhưng tôi biết chả đời nào cậu làm thế Herbert đã cướp mất của gia đình mình đến suốt đời Quentin à có phải mẹ đã viết cho con rằng cậu ấy định đưa Jason vào làm ở ngân hàng của cậu ấy khi nào Jason tốt nghiệp Json sẽ là một nhà tài chính sáng giá nó là đứa duy nhất trong mấy đứa nhà tôi có đầu óc thực tiễn cậu có thể cảm ơn tôi vì điều đó nó giống bên họ tôi còn những đứa khác đều là họ Compson. Jason cung cấp hồ dán. Chúng làm diều ở ngã sau và nó bán cho chúng cứ mỗi chiếc một đồng kền, nó và thằng con nhà Patterson. Jason là thủ quỹ.
    Không còn một người da đen nào trên chuyến tàu này và những chiếc mũ rơm còn chưa ngả màu trôi qua dưới cửa sổ. Đến Harvard. Chúng tôi đã bán của Benjy. Nó nằm lăn trên đất dưới cửa sổ, rống lên. Chúng tôi đã bán đồng cỏ của Benjy để Quentin có thể đi học ở Harvard một đứa em của cậu. Đứa em út của cậu.

  10. #10
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Có một chiếc xe hơi thật tiện lợi vô cùng anh nghĩ sao Quentin cháu gọi anh ấy là Quentin ngay bác thấy không cháu đã nghe Candace kể nhiều về anh ấy.
    Cậu gọi thế là phải tôi muốn cậu với nó thân thiết phải đấy Candace với Quentin thân nhau lắm. Bố à con đã phạm cậu thật đáng thương chẳng có em trai em gái gì Không em gái Không emgái không có em gái Đừng hỏi Quentin nó với ông Campson cứ như bị xúc phạm khitg đủ sức xuống cầu thang dùng bữa ở bàn ăn bây giờ tôi đâm ra khó tính chắc sau này tôi sẽ gánh chịu mọi chuyện và cậu đã cướp mất của tôi đứa con gái bé bỏng Đứa em gái bé bỏng của con đâu còn. Nếu con nói được mẹ à. Mẹ.
    Trừ phi tôi làm điều mà tôi bị xúi giục là đòi cậu thế vào chỗ đó tôi cũng nghĩ là ông Compson có thể bắt kịp xe.
    Ồ Herbert Candace con có nghe thấy không Em không nhìn tôi nơi góc hàm dịu dàng ương bướng không hề ngoảnh lại Con chẳng cần phải tị cậu ấy đang muốn làm đẹp lòng một bà già có con gái đến tuổi gả chồng tôi không tin đâu.
    Chả lẽ nào trông bác còn như thiếu nữ trẻ hơn cả Candace nữa má hồng như con gái thế kia. Một gương mặt trách móc đẫm lệ một mùi hương của long não và của nước mắt một giọng thổn thức đều đều và êm dịu bên kia cánh cửa mập mờ cái hương thơm màu hoàng hôn của hoa kim ngân. Đưa những chiếc hòm không xuống cầu thang xép chúng âm vang như những chiếc quan tài. French Lick? [2] không phải là đi tìm cái chết ở bãi liếm muối.
    Mũ rơm thô và không mũ. Suốt ba năm tôi không thể nào đội được một cái mũ. Tôi không thể. Đã là. Phải chăng đó sẽ là những cái mũ kể từ lúc tôi không còn và rồi cũng không còn Harvard. Những tư tưởng hay nhất bố nói bám ở đâu đó như những dây nho chết bám trên phế tích xưa. Vậy là không có ở Harvard. Dù sao cũng không ở tôi. Lại nữa. Buồn hơn. Buồn tột cùng. Lại nữa.
    Spoade mặc áo sơ mi, phải thế thôi. Khi tôi có thể thấy lại cái bóng của mình nếu không chú ý lừa nó xuống nước tôi sẽ lại dẫm lên cái bóng không thấm nước ấy. Nhưng không có em gái. Lẽ ra tôi không làm điều đó. Tôi không muốn con gái tôi bị theo dõi. Lẽ ra tôi không.
    Làm sao tôi có thể điều khiển được chúng khi lúc nào ông cũng dạy chúng không tôn trọng tôi và những ý muốn của tôi tôi biết ông coi thường họ hàng nhà tôi nhưng đấy không phải là lý do để ông dạy các con tôi con của chính tôi mà tôi mang nặng đẻ đau không tôn trọng tôi Dẫm c'cô lóng xương của bóng tôi xuống mặt bê tông bằng những gót chân tàn nhẫn và rồi tôi nghe thấy chiếc đồng hồ, và tôi sờ lá thư qua lần áo khoác.
    tôi sẽ không để ông hay Quentin hay bất kỳ ai theo dõi con gái tôi nó làm gì không phải là chuyện các người để làm.
    Ít ra bà cũng đồng ý là có lý do để canh chừng nó chứ.
    Lẽ ra tôi không lẽ ra tôi không. Tôi biết lẽ ra bà không tôi không định nói thẳng như vậy nhưng đàn bà thường ít tôn trọng lẫn nhau và tôn trọng chính mình.
    Nhưng tại sao mẹ Chuông bắt đầu điểm lúc tôi dẫm lên cái bóng của tôi, nhưng đó là chuông mười lăm phút. Không thấy lão Trợ tế ở đâu cả nghĩ là con làm hoặc có thể làm.
    Bà ấy không có ý như thế đó là cái lối của đàn bà vì bà ấy thương Caddy.
    Những ngọn đèn đường đi xuống đồi rồi leo lên về phía thị trấn. Tôi dẫm lên giữa bóng tôi. Tôi có thể xòe bàn tay ở bên ngoài nó, cảm thấy bố sau lưng tôi bên kia bóng tôi xào xạc của mùa hè và tháng Tám những ngọn đèn đường. Bố và tôi che chở những người đàn bà người này khỏi người kia và khỏi chính họ những người đàn bà của chúng tôi. Đàn là như vậy họ không chịu hiểu người khác còn chúng ta sống cho cái đó họ sinhra với sự phong nhiêu thực tiễn của ngờ vực thương chín rộ từng vụ gặt họ có một quan hệ thân thuộc với các ác cung ứng tất cả những gì cái ác còn khiếm khuyết lôi kéo cái ác theo họ một cách bản năng như người ta kéo khăn trải giường trong cơn mê ngủ bồi bổ ý tưởng cho các ác đến khi cái ác đạt mục đích của nó cho dù mục đích ấy tồn tại hay không. Lão đang đi giữa hai chàng lính mới. Lão chưa hết ngây ngất từ cuộc diễu hành, vì lão chào tôi rất mực chính quy.
    "Tôi muốn gặp bác một chút" tôi nói và dừng lại.
    "Gặp tôi? được thôi. Tạm biệt nhé, các chú em" lão nói, dừng bước rồi quay lại. "hân hạnh được hầu chuyện cậu" Đó chính là lão Trợ tế, hoàn chỉnh. Lại nói đến những nhà tâm lý học tự nhiên. Họ bảo rằng lão không hề bỏ lỡ một chuyến tàu ngày khai trường nào suốt bốn mươi năm, rượu lão chỉ liếc mắt cũng có thể chỉ ra một anh chàng người miền nam. Lão không bao giờ lầm, và chỉ cần nghe anh ta nói, lão có thể biết anh ở tiểu bang nào. Lão mặc bộ đồng phục chuyên để đi đón tàu, thuộc loại Túp lều của bác Tom, vá víu đủ kiểu.
    "Vâng ạ. Đi lối này, cậu chủ, đây ạ" rồi xách túi cho anh. "Này nhóc, lại đây mang mấy thứ này đi!" Ngay lúc đó một núi hành lý di động hé ra một thằng bé da trắng khoảng mười lăm tuổi, và lão Trợ tế treo cái túi nữa lên người nó rồi đẩy nó đi. "Nào, nào, đừng có đánh đổ. Vâng, thưa cậu chủ, cậu đưa số phòng của cậu cho lão khọm này, kẻo rồi lúc cậu tới, phòng cứ là lạnh cóng".
    Từ đó trở đi lão suốt ngày quanh quẩn ra vào phòng anh, nhòm nhỏ và ba hoa, quần áo càng tươm tất thì cung cách của lão càng có vẻ miền Bắc hơn, và rồi chinh phục được anh hoàn toàn, lão bòn rút anh tới khi anh mở mắt ra lão gọi anh là Quentin hay bất cứ tên gì, và lần sau anh đã thấy lão diện bộ đồ Brooks phế thải với một cái mũ có dải băng Hội Princeton tôi không nhớ là băng gì mà một người nào đó đã cho lão làm lão rất mực khoái trá và tin chắc như đinh đóng cột đấy là một mảnh của dải băng quân công của Abe Lincoln. Người ta kháo nhau cách đây vài năm, khi lão chẳng rõ từ đâu xuất hiện lần đầu tiên ở trường, rằng lão đã tốt nghiệp ở một trường thần học. Và khi lão hiểu cái đó có nghĩa là gì, lão liền vớ lấy, tô vẽ thêm câu chuyện, rốt cuộc lão đâm ra tin mình thực sự đã có như vậy. Lão móc nối những giai thoại dây cà dây muống về thời sinh viên của lão, kể một cách thân hữu về những giáo sư đã chết hay đã thuyên chuyển bằng tục danh của họ, tên nọ xọ tên kia. Nhưng lão đã là hướng đạo tinh thần và bạn chí cốt của vô số lứa lính mới ngây thơ ngơ ngác. Và tôi thiết tưởng với tất cả những mánh khóe nhỏ nhen và đạo đức giả của lão, lão cũng chẳng bốc mùi thối tha hơn bất kỳ ai trong những lỗ mũi của thiên đàng.
    "Ba bốn hôm nay sao chẳng thấy cậu đâu?" lão nói, nhìn tôi chăm chú với vẻ nhà binh cứng nhắc. "Cậu ốm à?"
    "Không, tôi vẫn khoẻ. Bận thôi. Nhưng tôi thấy bác".
    "Vậy hả?"
    "Trong buổi diễu hành hôm nọ".
    "À, ra thế. Phải, tôi có đi. Tôi chẳng quan tâm gì lắm đến cái trò đó, cậu biết đấy, nhưng bọn trẻ chúng thích có tôi đi với chúng, cựu chiến binh mà. Các bà thì muốn tất cả những tay cựu trào góp mặt, cậu biết đấy. Vậy mình đi để chiều ý họ".
    "Và ở ngày hội Wop[3] nữa. Bác chiều ý cả W.C.T.U[4] nữa à?"
    "Cái đó hả? tôi đi hôm ấy là vì thằng con rể. Nó định xin việc ở Sở Công chánh. Một chân quét đường. Tôi bảo nó là liệu đời mày chỉ ước một cái chổi để ngủ thôi sao. Cậu thấy tôi à?"
    "Vâng, cả hai lần".
    "Chắc là mặc đồng phục. Trông tôi thế nào?"
    "Oách lắm. Trông bác oách hơn hết thảy. Lẽ ra người ta phải phong bác làm đại tướng, bác Trợ tế ạ".
    Lão sờ cánh tay tôi, nhẹ nhàng, bàn tay lão có cái phẩm tính hiền diệu của những bàn tay da đen. "Nghe này cậu. Đây là chuyện chúng mình với nhau. Tôi nói với cậu vì cậu với tôi là chỗ cánh hẩu, có trước có sau". Lão hơi nghiêng người về phía tôi , mắt nhìn đi chỗ khác. "Tôi đang chuẩn bị một vố, sẵn sàng cả rồi. Chờ đến sang năm. Cứ chờ đi. Rồi thấy tôi diễu hành ở đâu. Chả cần nói với cậu là tôi thu xếp cách nào. Tôi bảo cứ chờ xem, anh bạn trẻ ạ". Rồi lão nhìn tôi, vỗ nhẹ lên vai tôi và lắc lư người trên những gót chân, lão gật đầu với tôi. "Vâng, thưa ngài, tôi trở thành đảng viên Dân chủ đã ba năm nay chẳng để làm gì sao? Thằng con rể tôi ở Sở Công Chánh, còn tôi – Vâng, thưa ngài, chỉ cần trở thành đảng viên dân chủ là thằng chó đẻ ấy có việc làm…Còn tôi, cậu cứ đứng ở góc đường ấy sau một năm nữa kể từ hôm kia, và nhìn xem".
    "Tôi mong như vậy. Bác xứng đáng lắm, bác Trợ tế ạ. Và nhân thế" tôi lấy lá thư trong túi "bác cầm cái này lại phòng tôi ngày mai và đưa cho Shreve. Nó sẽ có chút quà cho bác. Nhưng nhớ là đến ngày mai đấy".
    Lão cầm thư và ngắm nghía "Niêm phong rồi".
    "Phải. Trong có thư. Đến mai hãy đưa".
    "Hừm" lão nói. Lão nhìn cái phong bì, miệng mím lại. "Cậu bảo là có quà cho tôi?"
    "Phải. Một món quà tôi biếu bác".
    Rồi lão nhìn tôi, chiếc phong bì trắng trong bàn tay lão đen nhẻm, ở giữa nắng. Mắt lão dịu dàng, không có lòng đen cả màu nâu, và bỗng nhiên tôi thấy Roskus nhìn tôi từ đàng xa tất cả những trò phô trương của dân trắng nào đồng phục nào chính trị nào cung cách Harvard, cái nhìn khiêm nhường, lừa đảo, mơ hồ và buồn bã. "Cậu không đùa cợt lão già này đấy chứ?"
    "Bác biết là tôi không làm thế. Đã có một người miền Nam nào đùa cợt bác như thế chưa?"
    "Cậu nói đúng. Họ là những người tử tế. Nhưng mình không thể sống với họ được".
    "Bác đã thử chưa?" tôi nói. Nhưng Roskus đã biến mất. Một lần nữa lão lại là cái con người mà lão tự có, tự dạy mình phải có cái vẻ ở trước mắt bàn dân thiên hạ, huênh hoang, giả tạo, và phần nào thô kệch.
    "Tôi sẽ làm theo ý cậu, cậu bé ạ".
    "Đến ngày mai, bác nhớ nhé."
    "Nhất định" lão nói. "Tôi hiểu, cậu bé ạ. À…"
    "Tôi mong là" tôi nói. Lão nhìn tôi hạ cố, ân cần, thâm thuý. Bỗng nhiên tôi đưa tay ra và chúng tôi bắt tay nhau , lão trịnh trọng từ đỉnh cao huênh hoang của giấc mơ dô thị và binh nghiệp của lão. "Bác là một người bạn tốt, bác Trợ tế ạ. Tôi mong là..Bác đã giúp đỡ biết bao nhiêu bạn trẻ, ở bất kỳ đâu".
    "Tôi đã cố gắng ăn ở phải chăng với mọi người" lão nói. "Tôi đâu quản ngại việc chung. Đối với tôi, một con người là một con người, dù tôi gặp họ ở đâu đi nữa".
    "Tôi mong là lúc nào bác cũng có nhiều bạn bè như bác đã có xưa nay".
    "Bọn trẻ à? Tôi cùng cảnh với họ mà. Có sao họ cũng chẳng quên tôi" lão nói, vung vẩy lá thư.
    Lão nhét nó vào túi và cài khuy áo khoác. "Vâng, thưa ngài" lão nói. "Tôi có nhiều bạn tốt".
    Chuông lại bắt đầu điểm nửa giờ. Tôi đứng giữa bóng tối và lắng nghe từng hồi chuông đều đặn và êm đềm trải dài trong nắng, giữa đám lá non mỏng mảnh. Đều đặn, thanh bình và trong sáng, ngay cả giữa tháng cưới xin, tiếng chuông vẫn luôn luôn mang đầy những đặc tính của mùa thu. Nằm lăn trên đất dưới cửa sổ rống lên. Hắn liếc nhìn em và chợt hiểu. Từ miệng bọn trẻ con nói ra. Những ngọn đèn đường. Tiếng chuông ngưng. Tôi quay lại nhà bưu điện, dẫm bóng tôi trên mặt hè đường. Đi xuống đồi rồi leo lên về phía thị trấn như những chiếc đèn lồng treo trên tường cái nọ trên cái kia. bố nói bởi vì bà ấy thương Caddy bà ấy thương người dù họ có thiếu sót. Cậu Maury dạng chân trước lò sưởi phải với dài tay để uống Giáng Sinh. Jason vẫn chạy, tay cho vào túi ngã phịch xuống và nằm ở đó như con gài bị buộc chặt để đem quay đến khi Versh nâng nó dậy. Sao cậu không thể để tay ở ngoài lúc chạy nếu ngã cậu mới có thể đứng dậy được . Lăn đầu cậu ấy trong nôi lăn ở phía gáy. Caddy bảo Jason Versh nói là sờ đi cậu Maury không làm được việc gì vì hồi nhỏ cậu hay lăn đầu ở trong nôi.
    Shreve trên lối đi, lóng ngóng, sốt sắng một cách ngờ nghệch, đôi mắt kính lấp lánh dưới vòm lá sáng như hai vũng nước nhỏ.
    "Tao đưa lão Trợ tế một lá thư dặn vài việc. Chiều nay có thể tao không về, mày đừng đưa cho lão cái gì cả, mai hẵng hay nghe không?"
    "Được" nó nhìn tôi. "Nói tao hay, hôm nay mày làm những gì, mày sao vậy? đóng bộ vào rồi đi loanh quanh như sắp đọc diễn từ ở lễ hoả thiêu. Sáng nay mày có dự giờ Tâm lý không?"
    "Tao chẳng làm gì cả. Đến mai hẵng hay nhé?"
    "Mày định làm gì thế?"
    "Chẳng có gì. Đôi giày tao đóng lại đế. Đến mai hẵng hay, nghe không?"
    "Yên trí, được mà. À nhân tiện, sáng nay mày có cầm lá thư ở trên bàn không?"
    "Không".
    "Ở đấy mà. Thư từ Semiramis. Có xe đưa tới lúc trước mười giờ".
    "Được. Tao sẽ xem. Chẳng hiểu bà ta muốn gì nữa".
    "Chắc lại hoà nhạc. Thằng Gerald sẽ lại tò tí te. Trống lớn hơn tí nữa. Quentin. Ơn Chúa, tao sung sướng vì cóc phải làm quý tộc". Nó bỏ đi, cắp quyển sách , sốt sắng một cách ngốc nghếch và hơi kỳ cục. Những ngọn đèn đường con có nghĩ thế không bởi vì các cụ tổ bên nội có thống đốc và ba vị tướng còn bên mẹ lại chẳng có ai.
    Một người còn sống thì hơn một người đã chết nó không một người còn sống nào hơn một người còn sống khác hoặc không một người chết nào hơn một người chết khác. Dù sao mẹ cũng nghĩ thế. Hết. Hết. Thế là tất cả chúng ta đã bị đầu độc con lẫn lộn tội lỗi với đạo lý đàn bà họ không làm như vậy mẹ của con ưu tư về đạo lý còn có là tội lỗi hay không bà ấy không bận tâm.
    Jason tôi phải đi thôi ông giữ lấy mấy đứa con kia còn tôi sẽ mang thằng Jason đến nơi nào không ai biết mẹ con tôi để nó có cơ hội trưởng thành và quên đi những chuyện này những đứa kia không thương tôi chúng nó chẳng bao giờ yêu thương bất cứ cái gì với cái thói ích kỷ và sĩ diện hão của họ Compson chỉ có Jason là đứa duy nhất tôi thương hết lòng mà không phải e sợ.
    Vớ vẩn Jason có sao đâu tôi nghĩ rằng ngay khi bà cảm thấy đỡ hơn bà với Caddy có thể đến French Lick.
    Và để Jason lại đây chẳng có ai ngoài ông với bọn đen con bé rồi sẽ quêN đi và mọi chuyện đàm tiếu rồi cũng hết không phải đi tìm cái chết ở bãi liếm muối.
    Có lẽ tôi phải gả chồng cho nó không phải cái chết ở bãi liếm muối.
    Chiếc xe tới và dừng lại. Chuông nửa giờ vẫn đang rung. Tôi đếm và nó lại điểm, quá nửa giờ. Không: bốn mươi lăm phút. Rồi chỉ còn mười phút nữa. Rời bỏ Harvard giấc mơ của mẹ ngươi để bán đồng cỏ của Benjy – để.
    Tôi đã làm gì để phải có những đứa con như thế Benjamin chưa đủ là hình phạt hay sao mà bây giờ lại đến nó không cần biết tới tôi đến mẹ đẻ của nó tôi khổ sở vì nó ước ao lo lắng hy sinh cho nó đến mòn mỏi thân tôi mà chưa bao giờ kể từ khi nó mở mắt đến nay nó thực lòng nghĩ đến tôi một đôi lần tôi nhìn nó mà tự hỏi liệu nó có phải là con tôi hay không chỉ có thằng Jason là chưa khi nào làm tôi buồn khổ ngay từ lần đầu tiên bế nó trên tay tôi đã biết ngay rằng nó là nguồn vui của tôi nguồn cứu rỗi của tôi tôi nghĩ là Benjamin đã đủ để trừng phạt mọi tội lỗi tôi đã phạm tôi nghĩ nó là sự trừng phạt đối với tôi về cái tội đã gạt sang một bên lòng kiêu hãnh để lấy một người đã đặt mình cao hơn tôi tôi cũng chẳng phàn nàn tôi đã yêu người ấy hơn bất cứ ai vì điều đó và vì bổn phận mặc dù Jason ông lúc nào cũng làm lòng tôi đau đớn nhưng bây giờ tôi hiểu rằng tôi khổ sở còn chưa đủ bây giờ tôi hiểu rằng tôi phải trả giá cho những tội lỗi của ông cũng như của tôi ông đã làm gì dòn ghọ cao sang của ông đã phạm những tội lỗi gì khiến tôi phải gánh chịu nhưng rồi ông sẽ phải nhận lấy chúng lúc nào ông cũng biện bạch cho dòng họ của ông chỉ có thằng Jason là tồi tệ bởi vì nó là Bascomb nhiều hơn là Compson trong khi chính đứa con gái của ông đứa con gái bé bỏng của tôi con bé cưng của tôi nó đấy nào nó có hơn gì đâu khi tôi còn con gái tôi không may chỉ là một Bascomb tôi được dạy rằng một người đàn bà hoặc là một mệnh phụ hoặc không chứ không thể nửa đời nửa đoạn nhưng tôi chẳng bao giờ tưởng tượng thấy khi tôi ôm nó trong tay rằng con gái tôi lại có thể là đứa bỏ đi ông biết không tôi có thể nhìn vào mắt nó mà nói ông nghĩ là nó đã nói với ông nhưng nó đâu có nói với ông những gì nó giữ kín ông không biết nó còn tôi biết những gì nó đã làm mà đến chết tôi cũng không để ông biết ông cứ mắng thằng Jason cứ kết tội tôi sai nó canh chừng con bé như thể đấy là một tội ác trong khi chính con gái ông có thể phạm tôi biết ông không thương gì thằng bé ông muốn dổ cho nó những lỗi lầm mà ông chưa khi nào thấy nhạo báng nó như ông vẫn nhạo báng Maury ông chẳng thể làm tôi đau đớn hơn bất kỳ điều gì các con ông đã làm và rồi tôi sẽ đi còn Jason sẽ không một ai thương nó che chở nó nữa ngày ngày tôi nhìn nó mà lo sợ cái dòng máu Compson rốt cục lại bắt đầu lộ ra ở nó với con chị nó sa đoạ để xem ông gọi cái đó là gì rồi liệu ông có để mắt đến thằng ấy không liệu ông có để tôi thử tìm xem nó là đứa nào không chẳng phải cho tôi đâu tôi làm sao chịu đựng nổi việc gặp nó đấy là vì lợi ích của ông để che đỡ cho ông nhưng ai mà cưỡng lại nổi cái dòng máu xấu xa sao ông không để tôi thử xem mình cứ ngồi yên thúc thủ trong khi con bé chẳng những lôi tên tuổi ông xuống bùn nhơ mà còn đầu độc cả không khí các con ông thở Jason ông phải để tôi đi còn ông giữ những đứa khác chúng đâu phải máu thịt của tôi như nó chúng là những kẻ xa lạ chẳng có gì là của tôi cả và tôi sợ chúng tôi có thể mang Jason đi đến nơi nào không ait biết mẹ con tôi tôi sẽ quỳ xuống và cầu xin ơn trên tha thứ cho những tội lỗi của tôi để nó có thể thoát khỏi sự nguyền rủa này cố quên rằng những đứa kia là
    Nếu đó là bốn mươi lăm phút thì còn không quá mười phút nữa. Một chuyến xe vừa rời khỏi và đã lại có người chầu chực chuyến kế tiếp. Tôi hỏi, nhưng ông ta cũng không rõ đến trưa còn có chuyến nào nữa không bởi vì cậu biết đấy, xe liên tỉnh mà. Vậy là chiếc xe đầu tiên tới sau đó là xe điện. Tôi lên. Người ta có thể cảm thấy buổi trưa. Không biết những người thợ mỏ ở dưới lòng đất sẽ còn đến thế nào. Đó là nguyên do của tiếng còi tầm: bởi vì có người đổ mồ hôi, và nếu đủ xa khỏi mồ hôi người ta không nghe thấy còi tầm và ở Boston chỉ trong tám phút người ta sẽ rời xa mồ hôi. Bố nói con người là tổng số những nỗi bất hạnh của hắn. Một ngày nào ta nghĩ nỗi bất hạnh của ta bối nói. Một con hải âu lơ lửng trên một sợi dậy vô hình giăng ngang qua không trung. Người ta mang cái biểu tượng về thất vọng của mình vào vĩnh cửu. Rồi đôi cánh lớn hơn bố nói chỉ những ai biết chơi đàn thụ cầm.
    Cứ lúc nào xe ngừng tôi lại nghe thấy chiếc đồng hồ của tôi nhưng không thường xuyên người ta đã ăn rồi ai có thể chơi Sự việc ăn bên trong người ta cả không gian nữa không gian và thời gian lẫn lộn. Dạ dày nói buổi trưa trí não nói ăn giờ Được tôi tự hỏi thời gian là cái gì có cái gì. Người ta xuống xe. Bây giờ chiếc xe điện không dừng luôn nữa, rỗng đi bởi sự ăn.

Trang 1 / 4 123 ... Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Nộ Kiếm Cuồng Sa - 20 Tập [DVDRIP USLT]
    By duckhai in forum Phim HK-TVB
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-21-2012, 04:34 AM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-01-2012, 12:54 PM
  3. Âm thanh kỳ lạ ở nơi linh thiêng nhất nước Anh
    By giahamdzui in forum Chuyện Lạ Đó Đây
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-21-2012, 03:49 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •