Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Tất cả hạnh phúc của mình có đều do hạnh phúc của mình cho.
Sully Prudhomme
Trang 2 / 3 ĐầuĐầu 123 Cuối Cuối
Results 11 to 20 of 30

Chủ Đề: Hãy chăm sóc mẹ

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hãy Chăm Sóc Mẹ

    Tác giả: Shin Kyung Sook

    Dịch giả: Lê Hiệp Lâm, Lê Nguyên Lê




    Giới thiệu nội dung

    Tác phẩm Hãy Chăm Sóc Mẹ của nhà văn Hàn Quốc Shin Kyung Sook mở đầu bằng khung cảnh xáo trộn của một gia đình. Mẹ bị lạc khi chuẩn bị bước lên tàu điện ngầm cùng bố ở ga Seoul. Hai ông bà dự định lên đây thăm cậu con cả. Con gái đầu, Chi-hon, là người đứng ra viết thông báo tìm người lạc thay cho cả gia đình. “Ngoại hình: Tóc ngắn đã muối tiêu, xương gò má cao, khi đi lạc đang mặc áo sơ mi xanh da trời, áo khoác trắng, váy xếp nếp màu be”. Trong tiềm thức của mình, Chi-hon vẫn nghĩ mẹ là người thường “bước đi giữa biển người với phong thái có thể đe dọa cả những tòa nhà lừng lững đang nhìn thẳng xuống từ trên cao”. Trong khi đó, những người qua đường đáp lại thông báo tìm người lạc của cô bằng miêu tả về một “một bà già cứ lững thững bước đi, thỉnh thoảng lại ngồi bệt xuống đường hay đứng thẫn thờ trước cầu thang cuốn”. Liệu đó có phải là người mẹ mà cả gia đình cô đang cất công tìm kiếm?

    Một ngày, một tuần rồi gần một tháng chầm chậm trôi qua. Người chồng và những đứa con hiện đều đã phương trưởng cả không chỉ lo sốt vó mà còn day dứt tâm can vì cảm giác tội lỗi, và rối bời “trong nỗi hoảng loạn như thể tất cả mọi người đều bị tổn thương ở vùng não”. Họ cũng lấy làm băn khoăn tại sao mẹ không biết hỏi đường về nhà cậu con cả cho đến khi phát hiện ra hai sự thật rằng mẹ không biết chữ và bệnh ung thư vú khiến đầu óc mẹ không được minh mẫn như thường.

    Từ đây, những hy vọng tìm lại mẹ càng trở nên mong manh hơn…

    Đôi nét về tác giả:

    Shin Kyung Sook sinh năm 1963 trong một gia đình nghèo sống tại một ngôi làng nhỏ ở miền Nam Hàn Quốc. Không có điều kiện vào trường trung học, mười sáu tuổi cô lên Seoul lao động kiếm sống. Shin Kyung Sook khởi nghiệp viết văn năm 1985 và sớm gặt hái thành công. Các tác phẩm của cô luôn có lượng độc giả lớn và nhận được nhiều giải thưởng văn học trong nước cũng như trong khu vực. Với Hãy Chăm Sóc Mẹ, Shin Kyung Sook trở thành nhà văn châu Á nổi bật nhất năm 2009.

    Nhận định về tác phẩm:

    “Cuốn sách của tác giả nổi tiếng nhất Hàn Quốc này làm độc giả rơi lệ.”

    - Library Journal
    “Cảm động và ám ảnh.”

    - Newsday
    “Phần là câu chuyện về sự chuyển dịch của xã hội Hàn Quốc từ nông thôn ra thành thị, phần là khúc ca về sức mạnh của mối ràng buộc gia đình được hình thành từ sự quên mình của người phụ nữ; đây là một tác phẩm vô cùng cảm động.”

    - Kirkus Reviews

    “Nao lòng… Thấm thía… Người đọc sẽ tìm thấy sự đồng cảm trong câu chuyện về gia đình bán chạy nhất Hàn Quốc từ trước tới nay này.”

    - Publishers Weekly

    Ôi yêu thương, chừng nào còn có thể yêu thương.

    - Franz Liszt

  2. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Anh đọc tờ quảng cáo dán trên cổng:

    100.000 uôn một tháng, đặt cọc 10 triệu uôn. 150.000 uôn một tháng, nếu đặt cọc 5 triệu uôn.

    Rộng 25m2. Có bồn rửa bát đầy đủ. Có vòi sen trong phòng tắm.

    Gần Namsan, đi lại thuận tiện. Có thể đến Kangnam trong 20 phút. Đến Chongno mất 10 phút.

    Điểm hạn chế: nhà tắm hẹp. Tuy nhiên bạn đâu có sống ở trong đó. Có lẽ khó mà tìm được một nơi có giá cả rẻ như vậy ở Yongsan.

    Điều kiện ở đây rất tốt, nhưng tôi phải chuyển nhà vì tôi mới mua một chiếc ô tô nên cần một chỗ đỗ xe. Xin hãy email hoặc gửi tin nhắn cho tôi. Tôi cho thuê chính chủ căn phòng này để tiết kiệm phí môi giới.

    Sau khi đọc số điện thoại di động và địa chỉ email, anh nhẹ nhàng đẩy cánh cổng chính. Cánh cổng mở vẫn giống y như ba mươi năm trước. Anh ngó nhìn vào trong. Ngôi nhà hình chữ U, không khác gì ba mươi năm trước, cửa các phòng hướng vào sân giữa. Căn phòng anh đã từng sống lúc này khóa chặt.

    “Có ai trong nhà không?” Anh gọi to, và hai ba cánh cửa bật mở. Hai cô gái để tóc ngắn và hai chàng trai trạc mười bảy tuổi ngó mặt ra nhìn anh. Anh bước vào sân giữa.

    “Các cô đã từng nhìn thấy người này chưa?” Anh lấy tờ rơi ra đưa cho hai cô gái trước. Rồi anh nhanh tay đưa tờ rơi cho hai cậu con trai đang định đóng cửa lại. Có hai cô bé cũng trạc tuổi mấy cậu con trai này đang ở trong phòng đó. Nghĩ rằng anh đang nhòm ngó vào phòng nên hai cậu bé đóng sầm cửa lại. Bên ngoài trông vẫn y như cũ những hóa ra bên trong đã trở thành một căn hộ đơn thân. Chủ nhà chắc hẳn đã sửa sang lại, tạo ra một không gian rộng rãi, kết hợp cả nhà bếp vào căn phòng. Anh có thể thấy một chiếc bồn rửa bát ở trong góc.

    “Không đâu,” hai cô gái trả lời rồi đưa lại tờ rơi cho anh. Chắc hẳn khi đó hai cô đang ngủ, ghèn còn đọng trên mắt họ. Hai cô quan sát anh quay người bước ra cổng. Anh sắp bước ra ngoài thì cánh cửa phòng của mấy cậu con trai bật mở và một cậu gọi to, “Chờ đã! Hình như mấy ngày trước bà cụ này đã đến ngồi trước cửa ngôi nhà này.”

    Khi anh tiến lại gần, cậu kia ngó đầu ra nói, “Không phải. Tớ đã bảo cậu là không phải bà ấy mà! Bà này trẻ. Bà kia trông già hơn nhiều. Mái tóc cũng không giống thế này… Bà ấy là ăn mày.”

    “Nhưng đôi mắt bà ấy giống hệt còn gì. Hãy nhìn đôi mắt thôi, đôi mắt của bà ấy giống y như đôi mắt này… Nếu chúng tôi tìm được bà ấy thì ông sẽ trả chúng tôi năm triệu uôn thật chứ?”

    “Chắc chắn rồi, kể cả khi không tìm được, chỉ cần các cậu nói chính xác chuyện gì đã xảy ra, tôi sẽ hậu tạ.” Anh đề nghị hai cậu thanh niên ra bên ngoài căn phòng. Hai cô gái đã đóng cửa vừa nãy lại mở cửa nhìn ra chỗ họ.

    “Bà ấy chính là bà già ở quán rượu dưới phố đấy. Bà ấy bị mắc chứng mất trí nhớ, suốt ngày bị nhốt trong nhà, rồi hình như bà ấy trốn ra được và đi lạc. Ông chủ quán rượu đến tìm bà ấy đưa về nhà rồi.”

    “Không phải bà ấy, tôi đã thấy bà này cơ. Bà bị thương ở chân và mưng đầy mủ. Bà ấy cứ đưa tay đuổi ruồi liên hồi… nhưng bà ấy bẩn thỉu và mùi khó chịu lắm nên tôi không nhìn gần.”

    “Rồi sao nữa? Cậu có biết bà ấy đi đâu không?” Anh hỏi cậu bé dồn dập.

    “Không. Chúng tôi vừa mới đến đây. Bà ấy cứ cố vào trong nên tôi đã đóng cổng lại…”

    Không ai khác nhìn thấy mẹ anh nữa. Cậu thanh niên theo anh ra cổng và nói, “Thực sự là tôi đã nhìn thấy bà ấy mà!” Cậu ta nhìn xuôi con ngõ và chạy đến trước mặt anh. Anh đưa cho cậu ta một tấm séc trị giá một trăm nghìn uôn khi anh rời đi. Mắt cậu thanh niên sáng lên. Anh bảo cậu ta nếu nhìn thấy bà cụ một lần nữa thì hãy giữ bà lại rồi liên lạc với anh. Cậu thanh niên chưa kịp nghe rõ lời anh đã hỏi lại ngay, “Lúc đó ông sẽ thưởng năm triệu uôn chứ?” Anh gật đầu. Cậu thanh niên bảo anh đưa thêm mấy tờ rơi nữa. Cậu ta nói sẽ dán ở trạm xăng nơi cậu ta làm thêm. Cậu ta bảo nếu nhờ thế mà Hyong-chol tìm thấy mẹ thì anh cũng nên thưởng năm triệu uôn cho cậu, vì đó là công của cậu. Hyong-chol bảo anh sẽ thưởng.

    Chúng đã phai nhạt đâu rồi – những lời anh tự hứa với bản thân về mẹ, người đã đổi chỗ cho anh trong phòng trực đêm của ủy ban phường để che gió lạnh cho anh, bảo rằng, Nằm sát tường mẹ ngủ ngon hơn. Lời thề anh đã đặt ra rằng mẹ sẽ được ngủ trong một gian phòng ấm áp khi mẹ trở lại thành phố này.

    Anh lấy một điếu thuốc trong túi đưa lên miệng. Anh cũng không biết chính xác từ bao giờ, nhưng từ một thời điểm nào đó xúc cảm của anh đã không còn thuộc về anh nữa. Anh chỉ sống cho riêng mình, hầu như quên bẵng mẹ. Mình đã làm gì khi mẹ rớt lại trên sân ga tàu điện ngầm xa lạ, không lên được chuyến tàu cùng với bố? Anh trở lại ủy ban phường ngó nghiêng một lần nữa rồi quay đi. Lúc đó mình đang làm gì nhỉ? Rồi anh nhớ ra. Hôm trước ngày mẹ đi lạc, anh đi uống rượu với các đồng nghiệp nhưng bữa tiệc kết thúc không vui. Ông K, một đồng nghiệp đáng kính và lịch sự, sau vài chén rượu đã ra lời mai mỉa anh, bảo anh là kẻ khôn ngoan. Ở công ty, anh phụ trách việc bán tòa chung cư gần khu Songdo ở Inchon, còn ông K phụ trách việc bán tòa chung cư ở gần Yongin. Ông K nói anh là kẻ khôn ngoan là nhằm chọc ngoáy chuyện anh đã lấy vé biểu diễn của một ca sĩ được người trung niên rất hâm mộ làm món quà biếu cho những người đến xem căn nhà mẫu. Đó không phải là ý tưởng của anh mà là ý tưởng của cô em gái anh. Lần trước, khi cô đến nhà anh chơi, vợ anh đưa cho cô một tấm thảm phòng tắm làm quà biếu cho đợt bán căn hộ lần trước, cô liền nói, “Em không hiểu sao các công ty đều nghĩ rằng các bà nội trợ thích món quà kiểu này?”

    Anh cũng đang trăn trở không biết lần này phải tặng khách hàng món quà gì nên đã hỏi cô, “Thế theo cô phải tặng món quà gì mới được lưu tâm?”

    “Em cũng không chắc, nhưng người ta nhanh quên những món quà kiểu này lắm. Nghĩ mà xem. Anh nghĩ vợ anh có hạnh phúc không khi anh tặng chị ấy bộ đồ bếp vào ngày sinh nhật? Nếu nhận được một tấm thảm làm quà tặng chào bán chung cư thì người ta quên ngay thôi. Nhưng em nghĩ em sẽ ngạc nhiên thích thú nếu đó là sách hoặc vé xem phim và có lẽ em sẽ nhớ về nó. Nếu em phải lập kế hoạch sử dụng món quà thì em sẽ nhớ nhờ đâu mình có nó. Có phải em là người duy nhất nghĩ như thế không nhỉ?” Nói xong cô em gái nhìn anh vẻ dò xét. Cô bỏ lại tấm thảm khi ra về.

    Trong cuộc họp, khi bàn đến chuyện tặng phẩm, anh đã đề xuất tặng một sản phẩm văn hóa, và không có ai phản đối ý tưởng đó. Tình cờ đúng một ca sĩ được giới trung niên hâm mộ đang tổ chức tour biểu diễn dài ngày, thế là anh chuẩn bị một lượng vé lớn và nhận được lời khen ngợi của ngài Tổng giám đốc. Có lẽ ngài cũng rất yêu thích người ca sĩ ấy. Theo kết quả điều tra, những tấm vé ca nhạc đó đã nâng cao hình ảnh của công ty. Cũng chưa chắc đã là nhờ vào món quà tiếp thị đó, nhưng tòa chung cư ở Songdo do anh phụ trách đã bán gần hết, còn tỷ lệ bán tòa chung cư ở Yongin do ông K phụ trách vẫn chỉ dừng lại ở 60%. Ông K sẽ phải lo lắng rất nhiều nếu dự án này không thành công. Vì vậy khi ông K nhận xét như thế, anh chỉ cười xòa mà nói đó chỉ là nhờ may mắn thôi, nhưng khi uống thêm vài chén rượu, ông K lại bình luận rằng, nếu anh dùng đầu óc khôn ngoan đó vào một chỗ khác thì có lẽ anh sẽ trở thành công tố viên hàng đầu. Ông K biết rằng anh vốn xuất thân từ dân luật nhưng chỉ tranh thủ học thêm vào buổi tối. Ông ta còn nói thêm rằng ông ta không biết anh đã dùng thủ đoạn gì mà có thể thăng tiến nhanh như vậy, khi mà thậm chí anh không tốt nghiệp trường đại học Y hoặc đại học K vốn là những trường cung cấp những nhân sự cấp cao chính yếu trong công ty. Cuối cùng, anh hất ly rượu ông K rót cho mình rồi bỏ về. Buổi sáng hôm sau, vợ anh nói rằng cô ấy muốn đến thăm cậu con trai Chin chứ không ra ga Seoul, anh đã định tự mình đi đón bố mẹ. Bố anh muốn tạt qua nhà cậu em trai anh vì cậu em vừa mới chuyển đến ngôi nhà mới. Anh đã định đến đón bố mẹ rồi đưa sang nhà cậu em, nhưng khi đi làm người anh cứ lạnh run, đầu đau như búa bổ. Bố anh lại cứ nói rằng ông có thể tìm ra đường… Thế là thay vì ra ga Seoul, anh đi đến phòng xông hơi ở gần công ty. Khi anh vã mồ hôi trong phòng xông hơi, nơi anh thường tới sau những hôm quá chén, bố anh lên tàu mà không có mẹ anh.

    Khi còn nhỏ, anh mong muốn trở thành một công tố viên để có thể đưa người mẹ đã phải bỏ nhà ra đi vì thất vọng với bố anh trở về. Bố dẫn về nhà một người phụ nữ có làn da trắng hồng, cơ thể luôn tỏa mùi hương thơm ngát như mùi phấn trang điểm. Khi người phụ nữ đó đi qua cổng chính vào nhà, mẹ lại rời khỏi nhà bằng cửa sau. Cố gắng mua chuộc trái tim lạnh giá của anh, người phụ nữ đó thường làm món trứng rán cho vào cái hộp đựng bữa trưa của anh. Anh chạy ra sân sau với cái hộp cơm ăn trưa mà người phụ nữ đã cẩn thận bọc trong khăn tay, đặt nó lên một cái nắp vại lớn rồi đi đến trường. Mấy đứa em len lén nhìn anh rồi lén lút mang theo cái hộp cơm trưa mà người phụ nữ đã chuẩn bị sẵn cho chúng. Trên đường đến trường, anh tập trung các em lại trước nghĩa trang. Anh đào một cái hố và bắt mấy đứa bỏ hộp cơm vào đó. Cậu em trai không nghe lời anh, cầm lấy chiếc hộp rồi bỏ chạy, nhưng anh tóm được và nện cho một trận. Cô em gái ngoan ngoãn chôn chiếc hộp cơm của mình xuống. Anh nghĩ làm thế thì người phụ nữ kia sẽ không thể làm bữa trưa cho mấy anh em nữa. Nhưng cô ta vào trong thị trấn mua mấy cái hộp đựng bữa trưa mới. Chúng không phải là hộp nhôm màu vàng mà là loại hộp bảo ôn giữ cho cơm không bị nguội. Có lẽ, ai đó đã nói cho mẹ anh biết rằng anh không những không mang hộp cơm mà người phụ nữ kia chuẩn bị sẵn đến trường mà còn không thèm ăn, mẹ đã đến tận trường tìm anh. Hôm đó là ngày thứ mười người phụ nữ kia ở nhà anh.

    “Mẹ ơi.” Nước mắt anh cứ tuôn trào.

    Mẹ anh dẫn anh lên ngọn đồi ở sau trường. Mẹ xắn ống quần của anh lên để lộ bắp chân. Mẹ lấy trong vạt áo ra một cái roi và đánh vào bắp chân anh.

    “Tại sao con không ăn! Con nghĩ mẹ sẽ sung sướng nếu con không ăn cơm sao!” Chiếc roi của mẹ quật vào bắp chân anh thật đau. Anh đã rất bực mình khi lũ em không chịu nghe lời mình, nhưng giờ đây anh không sao hiểu nổi vì đâu mẹ lại đánh anh đau như vậy, thế nên trong lòng anh chất đầy phẫn uất. Anh không biết tại sao mẹ lại nổi giận như vậy.

    “Con có chịu mang cái hộp cơm trưa đi hay không? Có hay không?”

    “Không!”

    “Cái thằng này giỏi thật!”

    Chiếc roi của mẹ quật càng mạnh hơn. Anh không kêu ca rên rỉ dù chỉ một lời, và chẳng mấy chốc mẹ đã thấy mệt nhoài. Anh không bỏ chạy, mà cứ ngậm tăm ngậm bặt, đứng im không nhúc nhích, chịu đựng đòn roi của mẹ.

    “Bây giờ thì thế nào?”

    Vết roi đã chuyển từ đỏ sang bầm tím ở bắp chân anh.

    “Bây giờ vẫn thế ạ!” anh hét to.

    Mẹ quăng cái roi đi rồi gào lên, “Giời ơi, cái thằng này! Hyong-chol ơi!” rồi ôm chặt lấy anh mà khóc òa lên. Một lát sau, mẹ thôi không khóc nữa va bắt đầu dỗ dành anh. Mẹ nói cho dù ai nấu đi nữa thì anh cũng phải ăn. Rồi mẹ nói anh phải ăn cơm đầy đủ thì mẹ mới đỡ buồn. Buồn ư? Đây là lần đầu tiên anh nghe thấy mẹ nói từ “buồn”. Anh không tài nào hiểu tại sao mình phải ăn cơm đầy đủ thì mẹ mới đỡ buồn. Mẹ phải ra khỏi nhà vì người phụ nữ đó thì đáng lẽ mẹ phải rất buồn nếu mấy anh em ăn cơm do cô ta nấu chứ, sao mẹ lại nói với anh điều hoàn toàn trái ngược. Mẹ sẽ đỡ buồn nếu anh ăn, cho dù đó là cơm cô ta nấu. Anh không hiểu được điều đó, nhưng vì không muốn mẹ phải buồn, anh nói với mẹ bằng giọng đầy giận dỗi, “Con sẽ ăn.”

    “Thế mới là con trai mẹ chứ.” Tuy nước mắt giàn giụa, nhưng trong mắt mẹ sáng lên một nụ cười.

    “Thế mẹ hứa với con mẹ sẽ về nhà đi!” anh khăng khăng.

    Đôi mắt mẹ chùng xuống. “Mẹ không thích về nhà.”

    “Tại sao, tại sao chứ?”

    “Mẹ không muốn nhìn thấy bố con nữa.”

  3. #12
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Nước mắt lại chảy xuống má anh. Trông mẹ anh có vẻ thực sự không muốn trở về nữa. Có thể đó là lý do tại sao mẹ dặn anh phải ăn uống đầy đủ, cho dù đó là cơm do ai nấu. Nhỡ mẹ không bao giờ quay về nhà nữa thì sao? Đột nhiên anh thấy hoảng sợ.

    “Mẹ ơi, con sẽ làm tất cả mọi việc. Việc đồng áng con cũng làm, vườn tược con cũng trồng, sân con cũng quét, nước con cũng múc cho mẹ. Con sẽ xát gạo và nhóm lửa. Con sẽ đuổi chuột, con sẽ thịt gà làm cơm cúng. Chỉ cần mẹ quay về nhà thôi!”

    Vào ngày giỗ chạp hay lễ tết, mẹ hay yêu cầu bố hoặc một cậu con trai trong nhà làm thịt gà giúp mẹ. Mẹ anh – người có thể ra đồng sau cơn mưa dữ dội để nâng những cây đậu bị đổ suốt cả ngày, có thể cõng bố anh trên lưng đưa về nhà trong những lần ông say khướt, có thể nện gậy vào mông con lợn khi nó xổng khỏi chuồng để bắt nó trở vào chuồng – lại không thể làm thịt gà. Khi anh bắt được con cá chép ở dưới mương, phải đợi khi nó chết hẳn mẹ mới dám chạm vào. Khi nhà trường yêu cầu tất cả học sinh mang đuôi chuột đến để chứng tỏ rằng mình thực sự đã bắt được chuột ở nhà vào Ngày Bắt Chuột, mẹ của các học sinh khác sẽ bắt chuột, chặt cái đuôi rồi gói trong tờ giấy báo mang đến trường, còn mẹ anh thì chỉ cần nghe thấy chuyện đó thôi đã co rúm cả người lại. Mặc dù rất khỏe mạnh, nhưng mẹ lại không dám bắt chuột. Nếu đi vào nhà kho đong gạo mà vấp phải con chuột, mẹ hét toáng lên rồi chạy vội ra ngoài. Bà bác thường tặc tặc lưỡi tỏ vẻ rất khó chịu khi nhìn thấy mẹ mặt mũi đỏ bừng, hoảng sợ chạy từ trong kho ra. Mặc cho anh hứa sẽ làm thịt gà và đuổi chuột cho mẹ, mẹ không hề nói sẽ quay về nhà.

    “Con sẽ trở thành một người quan trọng,” anh lại hứa thêm.

    “Con sẽ trở thành gì nào?”

    “Công tố viên!”

    Đôi mắt của mẹ anh sáng lên. “Nếu muốn trở thành công tố viên, con phải chịu khó học hành thật chăm chỉ. Cần cù hơn mức con nghĩ rất nhiều. Mẹ biết có người muốn trở thành công tố viên nên đã phải học ngày học đêm nhưng vẫn không thực hiện được giấc mơ và cuối cùng đã hóa điên.”

    “Chỉ cần mẹ quay về, con sẽ làm được…”

    Mẹ trìu mến nhìn vào đôi mắt đầy lo lắng của anh rồi mỉm cười. “Đúng vậy, con sẽ làm được. Khi sinh ra chưa được một trăm ngày, con đã có thể nói được từ ‘Mẹ’. Dù không có ai dạy con học chữ, con đã tự học được cách đọc ngay sau khi đến trường và luôn đứng đầu lớp. Tại sao mẹ lại rời khỏi ngôi nhà ấy khi còn có con ở đó… Tại sao mẹ đã không nghĩ đến điều đó chứ? Mẹ vẫn còn có con ở bên mà.”

    Mẹ nhìn bắp chân bầm tím của anh rồi quay lưng lại ngồi xuống, bảo anh trèo lên lưng mình. Anh ngây người ra nhìn tấm lưng của mẹ. Mẹ ngoái cổ lại. “Ngồi lên lưng mẹ cõng về nhà nào.”

    Mẹ cõng anh trở về nhà rồi đuổi người phụ nữ kia đi và vào bếp nấu cơm. Khi bố anh cùng cô ta chuyển tới một ngôi nhà thuê trong làng để tiếp tục chung sống, mẹ xắn ống tay áo lên, lao đến ngôi nhà đó, mẹ chộp lấy nồi cơm trên bếp lò vứt xuống mương. Để có thể quay về nhà và giữ lời hứa với anh, mẹ gần như đã trở thành người tranh đấu. Khi bố cùng người phụ nữ kia rời hẳn khỏi làng vì không thể chịu đựng được sự lăng mạ của mẹ, mẹ gọi anh đến ngồi xuống trước mặt mình, hai người quỳ đối diện nhau. Trong khi anh đang rất hoảng sợ vì có thể mẹ cũng bỏ nhà ra đi thì mẹ lại hỏi anh bằng giọng điềm tĩnh, “Ngày hôm nay con đã học được nhiều chưa?” Khi biết bài kiểm tra của anh được đúng một trăm điểm, đôi mắt u sầu của mẹ lại sáng lên ngọn lửa. Mẹ ôm chầm lấy anh khi nhìn thấy những vòng tròn bằng bút chì đỏ khoanh kín trên bài kiểm tra.

    “Ôi, con trai mẹ giỏi quá!”

    Mẹ đã rất chiều chuộng anh trong thời gian bố anh không có nhà. Mẹ cho anh đi chiếc xe đạp của bố. Mẹ đưa cho anh cái chiếu bố anh nằm ngủ, đắp cho anh cái chăn bố anh đã đắp. Mẹ còn xới cơm cho anh vào cái bát to mà xưa nay chỉ có bố dùng. Bát canh đầu tiên múc ra mẹ luôn đặt trước mặt anh. Nếu mấy đứa em định ăn, mẹ sẽ mắng, “Anh còn chưa cầm đũa đâu đấy!” Khi người bán hoa quả với chiếc thùng cao su đựng đầy nho đi qua nhà, mẹ xúc nửa bát vừng đang phơi ngoài sân cho họ để đổi lấy mấy chùm nho rồi mang cất đi cho anh, bảo với lũ em rằng, “Cái này chỉ để cho anh các con thôi.” Mỗi lần như thế, mẹ đều nhắn nhủ anh rằng, “Con nhất định phải trở thành công tố viên.”

    Anh đã nghĩ mình phải trở thành công tố viên để giữ được mẹ ở nhà.

    Mùa thu năm ấy, mẹ một mình thu hoạch lúa mang về nhà đập rồi phơi phóng, không có bố. Nếu anh định làm gì đỡ để giúp đỡ mẹ một tay, mẹ sẽ bảo, “Con không phải làm gì cả, nhiệm vụ của con chỉ là học bài,” rồi đẩy anh đến trước bàn học. Mẹ bắt các em anh đi lên cánh đồng trên đồi để dỡ khoai lang, nhưng lại bắt anh ở nhà học bài. Đến tận tối mịt, khi khoai đã chất đầy thùng xe, mẹ và các em mới quay về nhà. Cậu em trai anh, vốn cũng rất muốn ở nhà học bài nhưng mẹ vẫn bắt ra đồng làm việc, cúi lom khom bên giếng để cọ sạch đất cát ở móng tay và nói với mẹ.

    “Mẹ! Chỉ có anh Hyong-chol là quan trọng mẹ nhỉ?”

    “Tất nhiên! Chỉ có anh Hyong-chol là quan trọng thôi.” Mẹ cốc cho cậu em trai anh một cái vào đầu, chẳng nghĩ ngợi thêm gì về câu hỏi đó.

    “Thế mẹ không cần chúng con à?”

    “Đúng vậy! Không cần!”

    “Vậy chúng con đến sống với bố nhé!”

    “Cái gì?” Mẹ lại định đánh vào đầu cậu em, nhưng rồi dừng tay lại. “Ừ! Các con cũng quan trọng mà! Tất cả các con đều quan trọng. Nào, những đứa con quan trọng của mẹ, hãy lại đây với mẹ nào!” Cuối cùng, bên bờ giếng vang lên tiếng cười giòn giã của tất cả mọi người. Ngồi trong phòng trước bàn học, nghe thấy tiếng cười của gia đình từ giếng vọng lại, anh cũng mỉm cười.

    Không nhớ chính xác từ khi nào, mẹ đã thôi không đóng cổng vào các buổi tối. Rồi chẳng bao lâu sau, mỗi khi lấy cơm sáng cho mấy anh em, mẹ bắt đầu xúc một ít vào chiếc bát của bố rồi ủ dưới chăn đặt ở chỗ ấm áp nhất trong phòng. Trong thời gian bố không có nhà, anh lại càng chịu khó học hành hơn. Mẹ không muốn anh phải động chân động tay vào bất cứ việc gì trong nhà. Mỗi khi trời mưa, nếu có gọi các em anh dọn đống ớt khô đang phơi ngoài sân, mẹ cũng hạ giọng xuống vì sợ ảnh hưởng đến việc học tập của anh. Khuôn mặt mẹ luôn nhăn nhó với nỗi u sầu lo lắng, nhưng khi anh đọc bài to lên thì quầng mắt mẹ sáng bừng, như thể mẹ đã trát phấn lên đó. Những lúc anh học bài, mẹ luôn đóng mở cửa thật nhẹ nhàng. Mẹ lặng lẽ mang vào phòng anh mấy củ khoai lang luộc hoặc mấy quả hồng rồi lại lặng lẽ đóng cửa đi ra. Một đêm mùa đông tuyết phủ trắng thềm, bố bước qua cánh cổng vẫn để mở, hắng giọng rồi cởi giày ra đập đập vào tường cho sạch tuyết và mở cửa nhà. Hôm đó trời lạnh quá nên cả nhà ngủ cùng nhau. Qua đôi mắt he hé, anh quan sát bố sờ trán từng đứa và nhìn lũ con chằm chằm, mẹ thì để bát cơm vẫn ủ ở chỗ ấm nhất trong gian phòng lên mâm và lấy một ít rong biển nướng với dầu tía tô đặt bên cạnh bát cơm, rồi lại đặt thêm vào mâm một bát nước cơm mà trước sau chẳng nói câu nào, cứ như bố ra đi vào buổi sáng hôm đó và trở về vào buổi tối chứ không phải ra đi vào mùa hạ và trở về vào mùa đông.

    Khi anh tốt nghiệp đại học và thi đỗ trong kỳ thi tuyển nhân viên của công ty mà anh làm cho tới giờ, mẹ không vui. Mẹ thậm chí không mỉm cười khi mọi người trong làng chúc mừng mẹ vì anh được làm việc ở tập đoàn lớn nhất nước. Khi anh trở về nhà thăm mẹ với món quà truyền thống là bộ quần áo mặc trong mà anh đã dùng tháng lương đầu tiên để mua cho mẹ, mẹ quát, “Con đã nói là con sẽ trở thành người như thế nào chứ hả?”

    Anh nói với người mẹ đang tỏ vẻ lạnh lùng của mình rằng anh sẽ chịu khó làm việc ở công ty này trong khoảng hai năm để tiết kiệm tiền rồi bắt đầu lại việc học hành.

    Khi mẹ còn trẻ, mẹ chính là sự hiện diện thôi thúc anh tiếp tục xây dựng quyết tâm của mình như một người đàn ông, như một con người.

    Mẹ bắt đầu liên tục nói lời xin lỗi với anh khi mẹ dẫn đứa em gái vừa tốt nghiệp trung học lên thành phố sống cùng anh để anh chăm sóc. Mẹ dẫn đứa em gái từ nông thôn lên giao phó cho anh trước khi anh có thể tiết kiệm tiền bạc, trước khi anh có thể thi lại kỳ thi sát hạch lấy chứng chỉ hành nghề luật, thế nên mẹ đã không thể nhìn thẳng vào mắt anh.

    “Em con là con gái nên nó phải được học hành nhiều hơn nữa. Dù gì thì con cũng phải tạo điều kiện cho em gái con được học hành ở thành phố. Mẹ không thể để nó sống cuộc đời như mẹ.”

    Ba mẹ con gặp nhau dưới chân tháp đồng hồ ở ga Seoul, mẹ đặt tay của đứa em gái mười lăm tuổi vào tay người anh hai mươi tư tuổi. Trước khi về, mẹ đưa hai anh em vào ăn cơm với canh thịt bò. Mẹ cứ gắp thịt bò trong bát canh của mẹ sang bát canh của anh. Dù anh nói rằng anh không thể ăn hết tất cả, rằng mẹ hãy ăn đi mấy miếng, nhưng mẹ vẫn gắp thịt bò sang bát anh. Mặc dù chính mẹ đề xuất đi ăn, nhưng mẹ lại không ăn lấy một thìa.

    “Mẹ không ăn ạ?” anh hỏi.

    “Ờ ờ, mẹ đang ăn đấy chứ, mẹ sẽ ăn mà.” Mẹ nói thế nhưng vẫn luôn tay gắp thịt bò sang bát của anh. “Nhưng mà con… con sẽ làm gì?” Mẹ anh bỏ cái thìa dính nước canh xuống. “Tất cả là tại mẹ. Mẹ xin lỗi con, Hyong-chol à.”

  4. #13
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Đứng ở ga Seoul để chờ bắt tàu về nhà, mẹ đút hai bàn tay thô kệch với những chiếc móng cắt cụt vào sâu trong túi áo, đôi mắt mẹ ngấn lệ. Khi đó anh nghĩ, sao đôi mắt mẹ trông giống đôi mắt của con bê đến thế.

    Anh gọi điện cho cô em gái đang ở ga Seoul. Trời đã nhá nhem tối. Cô em im lặng khi nghe thấy giọng anh. Có vẻ như cô muốn anh nói trước. Mặc dù trên tờ rơi có ghi đầy đủ số điện thoại của cả mấy anh em, nhưng cô em anh nhận được nhiều cuộc gọi nhất. Hầu hết trong số đó đều là những thông tin vô giá trị. Có một anh chàng nào đó nói hiện nay mẹ anh đang ở chỗ anh ta. Thậm chí anh ta còn chỉ dẫn tỉ mỉ về nơi anh ra sống. Cô em anh vội vàng bắt taxi đến chỗ chân cầu mà người đó bảo, nhưng ở đó cô chỉ thấy một người say đang ngáy khò khò, một gã đàn ông chứ không phải phụ nữ, ông ta xỉn đến mức nếu có ai vác đi thì ông ta cũng không hề hay biết.

    “Anh không tìm thấy mẹ,” anh nói với cô em gái.

    Cô em anh thở hắt ra.

    “Em vẫn còn ở nhà ga Seoul đấy chứ?”

    “Em sẽ ở đây thêm một lúc nữa… vẫn còn mấy tờ rơi chưa phát hết.”

    “Anh sẽ qua đó. Anh em mình cùng đi ăn tối nhé.”

    “Em không thấy đói.”

    “Vậy, anh em mình đi uống một chút nhé.”

    “Uống rượu ấy ạ?” Cô em gái lặng thinh một lúc. “Em vừa nhận được cuộc gọi từ một ông dược sĩ ở quầy thuốc Sobu trước cổng chợ Sobu phường Yokchon gọi, ông ấy nói đã xem tờ rơi mà cậu con trai ông ấy mang về. Ông ấy nghĩ đã nhìn thấy một người giống mẹ ở phường Yokchon hai ngày trước… nhưng ông ấy bảo người phụ nữ đó đi đôi dép lê màu xanh. Vì đi lại nhiều nên ngón chân cái bị thương, vết thương ăn vào tận móng, ông ấy đã bôi thuốc sát trùng lên đó…”

    Đôi dép lê màu xanh ư? Anh bỏ điện thoại khỏi tai.

    “Anh à!”

    Anh lại đưa điện thoại lên tai.

    “Em sẽ thử đi đến đó xem sao, anh cũng cùng đi với em chứ?”

    “Ở phường Yokchon à? Em định nói là ở chợ Sobu, nơi trước đây chúng ta từng sống gần phải không?”

    “Vâng.”

    “Anh biết rồi.”

    Anh không muốn quay về nhà. Không phải vì anh có chuyện gì đặc biệt cần nói khi gặp cô em. Nhưng khi gọi điện cho em gái, anh lại nghĩ, mình không muốn về nhà. Phường Yokchon sao? Anh giơ tay ra vẫy taxi. Anh không tài nào lý giải nổi. Nhiều người gọi điện bảo rằng họ thấy một người giống mẹ anh, đi đôi dép lê màu xanh. Thật kỳ lạ, tất cả những người đó đều nói họ thấy mẹ anh ở khu vực anh từng sống trước đây. Hình như, tất cả họ đều đã nhìn thấy mẹ anh ở đó. Phường Kaebong, Tearim, Oksu, dưới khu chung cư Naksan ở phường Tongsung, phường Suyu, Singil, Chongnung. Nếu anh tìm đến những nơi đó, họ sẽ nói đã nhìn thấy người phụ nữ đó cách đây ba ngày, vài hôm trước hoặc một tuần gì đó. Thậm chí còn có người nói đã nhìn thấy mẹ anh khoảng một tháng trước thời điểm mẹ anh mất tích. Mỗi khi nhận được những thông tin như vậy, anh lại đến đó, một mình hoặc cùng mấy người em, cũng có khi đi cùng bố. Dù những người gọi điện đó đều bảo đã gặp mẹ, anh không tìm thấy ai giống mẹ, đi đôi dép lê màu xanh. Sau khi nghe lời kể của họ, tất cả những gì anh có thể làm là dán tờ rơi lên bốt điện thoại công cộng, thân cây hoặc cột điện trong khu, chỉ cốt để cho yên lòng. Khi đi qua trước những ngôi nhà ngày xưa anh từng sống, anh dừng bước nhìn vào trong, ở đó giờ đây có những người khác sống. Dù anh sống ở ngôi nhà nào trong thành phố này, mẹ chưa bao giờ tự mình đến đó. Những lần mẹ anh lên thành phố thăm con, thể nào cũng có một người trong gia đình ra ga Seoul hay bến xe buýt để đón mẹ. Ở cái thành phố này, mẹ sẽ không đi đâu chừng nào chưa có người tới đón mẹ đưa đi chỗ khác. Khi mẹ lên nhà cậu em trai anh, cậu ấy sẽ đi đón và chăm sóc mẹ, khi mẹ lên nhà cô em gái, cô ấy sẽ đảm nhận việc đó. Dù không ai nói ra, nhưng trong thâm tâm anh và mọi người trong nhà đều cho rằng mẹ không thể một mình đi đến bất cứ nơi nào trong thành phố này. Chính vì vậy, nếu mẹ lên Seoul, bao giờ cũng phải có người ở bên cạnh mẹ. Sau khi đăng quảng cáo trên báo, phát tờ rơi và đăng tin trên mạng tìm mẹ, anh mới nhận ra rằng, mình đã từng sống ở mười hai ngôi nhà trong cái thành phố này. Giờ đây anh ngồi thẳng người dậy nhìn ra ngoài.

    Phường Yokchon là nơi đầu tiên anh có thể mua được một căn nhà ở thành phố này.

    “Chỉ còn vài ngày nữa là đến tết Trung thu rồi…” Khi ngồi trong xe taxi để đi đến phường Yokchon, cô em gái anh cứ cọ móng tay vào nhau. Anh cũng đang nghĩ đến điều cô vừa nói. Anh hắng giọng và cau mày. Hằng năm cứ đến dịp tết Trung thu, chuyện năm nay có nhiều người muốn ra nước ngoài du lịch vào kỳ nghỉ hơn năm trước lại trở thành vấn đề thời sự của xã hội. Mấy năm trước chuyện đi du lịch vào dịp lễ tết còn bị phê phán mạnh mẽ, nhưng ngày nay thì người ta cứ thoải mái nói, Xin phép các cụ, con sẽ lễ tạ các cụ đầy đủ sau, rồi ra sân bay đi du lịch. Khi mới bắt đầu tình trạng tổ chức ngày lễ tết ở khách sạn trong thời gian đi du lịch, mọi người thường lo lắng không biết linh hồn các cụ có tìm ra được họ không, nhưng giờ thì ai nấy đều vô tư lự nhảy lên máy bay. Sáng nay sau khi xem báo, vợ anh nói cứ như thể đây là tin sốt dẻo, “Xem ra có đến hơn một triệu người sẽ đi nước ngoài dịp này đấy.”

    “Người ta chắc quá lắm tiền nhiều của,” anh đáp.

    “Những người không thể ra nước ngoài du lịch, ừm, họ chẳng tài cán cho lắm,” vợ anh lẩm bẩm.

    Bố anh chỉ lặng lẽ nhìn hai vợ chồng.

    “Từ khi bạn bè của con cái chúng ta đi du lịch nước ngoài vào dịp tết Trung thu, chúng cứ nói suốt rằng, ước gì gia đình mình cũng làm được như họ,” vợ anh nói. Khi anh liếc vợ, không muốn nghe chuyện đó thêm chút nào nữa, vợ anh giải thích, “Anh biết đấy, bọn trẻ rất nhạy cảm với những chuyện như thế.” Bố anh đứng lên khỏi bàn ăn và đi vào phòng.

    “Em điên à? Sao lại nói những chuyện ấy vào lúc này?” anh quát vợ. Vợ anh vặc lại, “Là em nói chuyện rằng con cái chúng nói như vậy, em có nói là em muốn đi du lịch nước ngoài đâu? Không lẽ, em không được phép nói lại lời của bọn trẻ sao? Thật là quá thể. Không được nói câu nào thì sống làm sao được?” Lần này đến lượt vợ anh đứng dậy rời khỏi bàn ăn.

    “Chúng ta không nên tổ chức cúng tết Trung thu à anh?”

    “Em đã quan tâm đến ngày lễ tết từ khi nào vậy? Bình thường, đến ngày nghỉ em còn không về nhà cơ mà, sao bây giờ lại quan tâm đến tết Trung thu thế?”

    “Em thật có lỗi. Đáng lẽ em đã không nên như vậy.”

    Anh quan sát cô em gái thôi không cọ móng tay vào nhau nữa mà cho cả hai tay vào túi áo khoác. Đó là thói quen của cô em gái anh mỗi khi cô thấy căng thẳng trước mặt anh. Đã lâu lắm rồi, thế mà đến giờ cô vẫn chưa bỏ thói quen đó.

    Khi hai anh em còn sống với nhau, khi anh còn phải ngủ cùng cậu em trai và cô em gái trong một phòng, cô em gái luôn nằm sát tường, anh nằm ở giữa và cậu em trai nằm cạnh một góc tường khác. Trong khi ngủ, nếu anh giật mình tỉnh giấc vì bị đánh vào mặt, chắc chắn lúc ấy cánh tay của cậu em anh đang dang ra đè cả vào mặt anh. Anh nhẹ nhàng đặt cánh tay của cậu em xuống rồi lại chìm vào giấc ngủ, nhưng chỉ sau đó, đến lượt cánh tay của cô em gái đập lên ngực anh. Đó là thói quen nằm ngủ ngổn ngang trong một căn phòng rộng ở vùng nông thôn, ai nằm thế nào tùy thích. Một đêm, anh thét lên vì bị đập vào mắt. Hai đứa em anh đang chìm trong giấc ngủ choàng tỉnh dậy.

    “Ê này!”

    Phải mất một lúc lâu sau cô em mới hiểu rõ sự tình, cô vội vã đút hai tay vào túi và cựa người một cách căng thẳng.

    “Nếu mày còn tiếp tục như thế nữa thì cút về quê ngay!”

    Có phải đáng lẽ anh đã không nên nói những lời như thế? Giờ đây, trong taxi, anh quay sang nhìn em gái.

    Thấy thái độ của anh như vậy, ngày hôm sau cô em về với mẹ thật, mang theo tất cả đồ đạc của cô. Mẹ dẫn cô trở lại. Mẹ bắt cô quỳ gối trước anh nhận lỗi và xin anh tha thứ cho. Cô em ương bướng không hề nhúc nhích.

    “Hãy xin anh tha thứ đi con!” mẹ nói, nhưng cô không động đậy.

    Cô em anh trông có vẻ nhu mì, nhưng khi cô đã quyết định cái gì thì không ai lay chuyển được. Có phải chuyện này xảy ra hồi anh học trung học không nhỉ? Có lần, anh bắt cô giặt đôi giày thể thao cho mình mặc dù cô không hề muốn. Thông thường, cô sẽ ngoan ngoãn giặt đôi giày thể thao một cách sạch sẽ. Nhưng hôm đó, cô tỏ ra rất bực tức và mang đôi giày mới của anh ra mương ném xuống dòng nước đang chảy. Anh phải chạy đến tận cuối con mương để tìm lại đôi giày trôi dạt của mình. Khi thời gian trôi qua thì những câu chuyện thế này sẽ trở thành ký ức chỉ anh chị em mới chia sẻ được với nhau, nhưng vào lúc đó, anh tức giận trở về nhà, với chỉ một chiếc giày thể thao, giờ đã biến thành màu xanh vì cặn nước và bám đầy các thứ phế phẩm. Anh quát cho cô một trận. Nhưng ngay cả khi mẹ cầm que cời lửa lên và hỏi cô học ở đâu cái tính không thể chấp nhận được như vậy, cô cũng không nhận lỗi. Trái lại cô đâm nổi cáu với mẹ. “Con đã bảo con không muốn làm! Con đã bảo anh ấy là con không muốn làm! Con sẽ không bao giờ làm việc gì con không muốn!”

    Mẹ ra lệnh cho Chi-hon, “Mẹ bảo con hãy xin lỗi anh đi. Ở cái nhà này, anh cả cũng là bố mẹ. Nếu con không sửa cái thói mang tất cả mọi thứ rồi bỏ đi chỉ vì anh trai mắng mỏ thì nó sẽ theo con suốt cả cuộc đời. Chẳng nhẽ đến khi lấy chồng rồi mà có điều gì đó không vừa lòng thì con cũng cuốn gói đồ đạc và bỏ đi sao?”

    Mẹ càng bắt cô em gái xin lỗi anh thì hai tay cô càng thọc sâu vào túi quần. Mẹ buồn rầu thở dài, “Thế đấy, giờ đây đứa con này sẽ chẳng nghe lời tôi nữa. Đứa con này không nghe lời tôi vì tôi không có cái gì, tôi không được học hành gì…” Nước mắt lăn dài trên mặt mẹ. Phải đến lúc mẹ khóc thành tiếng, cô em gái mới lên tiếng, “Mẹ! Không phải vậy đâu.” Không thể vỗ về được người mẹ đang ngày càng khóc to hơn, cuối cùng cô em gái đành nói, “Con sẽ xin lỗi, con xin lỗi là được chứ gì.” Phải đến lúc ấy, cô mới rút tay ra khỏi túi và nói lời xin lỗi anh. Từ đó về sau, cứ ngủ là em gái anh lại đút tay vào túi. Bất cứ khi nào anh hơi cao giọng là ngay lập tức cô đút tay vào trong túi.

    Sau khi mẹ bị lạc, bất cứ khi nào có ai chỉ ra chuyện gì không hay không phải, dù chỉ là những chuyện nhỏ nhặt, cô em gái bướng bỉnh của anh cũng sẽ tự thừa nhận bằng giọng yếu ớt, “Em có lỗi, lẽ ra em không nên làm như vậy.”

    “Ai sẽ lau cửa sổ nhà mình, anh nhỉ?” Chi-hon hỏi anh.

    “Em nói gì cơ?”

    “Độ này trong năm nếu gọi điện về, chắc mẹ đang lau cửa sổ.”

    “Cửa sổ ư?”

    “Khi em hỏi sao mẹ cứ phải làm vậy thì mẹ nói làm sao mẹ có thể để cửa sổ nhà ta bẩn thỉu khi tết Trung thu sắp đến được chứ?”

    Bao nhiêu cánh cửa sổ ngôi nhà thôn quê của anh chợt bừng lên trong mắt anh. Các phòng trong ngôi nhà mới xây lại mấy năm trước đều có cửa sổ, đặc biệt là trong phòng khách, khác với ô kính duy nhất trên cửa ra vào trong ngôi nhà cũ.

    “Em đã bảo mẹ thuê người đến lau, nhưng mẹ nói rằng, Ai mà đi đến cái xó xỉnh quê mình để lau cửa sổ chứ?” Cô em gái thở dài rồi đưa tay ra gõ vào cửa xe taxi và lau lau cửa kính. Có phải tầm thời gian này trước đây mẹ hay lau cửa kính không nhỉ?

    “Hồi anh em mình còn bé, vào dịp này trong năm mẹ sẽ tháo hết tất cả các cánh cửa ra để lau… chuyện đó anh còn nhớ không?” Chi-hon hỏi.

    “Nhớ.”

    “Có nhớ không?”

    “Anh còn nhớ mà!”

    “Nói dối!”

    “Sao em lại nghĩ rằng đó là lời nói dối? Anh còn nhớ thật mà. Mẹ thường dán lá thích lên cửa. Vì chuyện đó mà bác chúng ta đã gây khó dễ cho mẹ suốt còn gì.”

    “Công nhận là anh nhớ thật. Thế anh còn nhớ chuyện anh em chúng mình đến tận nhà bác để lấy những chiếc lá đó không?”

    “Nhớ chứ.”

  5. #14
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Trước khi xây ngôi nhà mới, vào dịp tết Trung thu, mẹ thường chọn ngày nắng ráo rồi tháo tất cả các cánh cửa trong nhà xuống. Mẹ dùng nước rửa các cánh cửa rồi phơi khô dưới ánh nắng mặt trời, sau đó mẹ quấy một ít hồ rồi dán giấy mới lên cửa. Cứ khi nào nhìn thấy những cánh cửa được nhấc ra, phơi nắng, dựa vào tường nhà, anh lại nghĩ, “A, tết Trung thu đến rồi.”

    Trong nhà đầy đàn ông con trai, sao lúc mẹ dán giấy lên cánh cửa không có ai giúp mẹ một tay nhỉ? Cô em tinh nghịch của anh còn nhúng ngón tay vào cái thùng đựng hồ loãng rồi xoa khắp cánh cửa. Một mình mẹ cầm cây chổi phết hồ lên mặt tờ giấy trông cứ như mẹ đang điêu luyện đưa bút vẽ bức tranh hoa lan truyền thống, rồi khéo léo dán giấy lên khung cửa thật ngay ngắn. Cử chỉ của mẹ tràn ngập vui sướng hân hoan. Mẹ đã làm những việc mà giờ đây anh thậm chí không dám thử, mặc dù bây giờ anh lớn tuổi hơn nhiều so với mẹ anh ngày ấy, và mẹ hoàn thành những việc đó cực kỳ nhanh nhẹn và đơn giản. Bản tính lãng mạn của mẹ thăng hoa khi mẹ dán giấy mới lên cửa. Cầm cây chổi quét hồ trên tay, mẹ yêu cầu cô em gái đang hớn hở nghịch thùng hồ, hoặc yêu cầu anh khi đó đang đứng cạnh hỏi xem có giúp được gì cho mẹ không, là hãy đi nhặt lá thích về Mặc dù nhà anh có rất nhiều cây, cây hồng, cây mận, cây táo, nhưng mẹ đặc biệt yêu cầu lá cây thích, loại cây mà nhà anh không có. Một lần, để có lá thích, anh bắt đầu tìm từ cổng, tìm ra khắp các ngõ ngách, vượt qua con mương rồi đi hết cả con đường mới làm tới tận nhà bác gái, chị của bố anh. Thấy anh nhặt những chiếc lá thích, bác anh hỏi, “Mày lấy mấy cái lá đó làm gì thế? Mẹ mày sai mày đi nhặt lá à? Cái trò lãng mạn vô bổ này của mẹ mày thì được tích sự gì chứ? Vào mùa đông khi mở cánh cửa mà thấy có dán lá thích bên trên thì sẽ có cảm giác lạnh lẽo hơn đấy, nhưng dù tao có bảo đừng làm thế nữa thì mẹ mày cũng vẫn sẽ làm thôi!”

    Khi anh mang về hai vốc lá khô, mẹ sẽ đặt những chiếc lá đẹp đẽ đó đối diện nhau ở ngay sát tay cầm của tất cả mấy cánh cửa kia rồi dán chúng lên trên giấy. Đây là nơi mẹ thường dán nhiều lớp giấy để nó không bị rách khi mọi người cứ liên tục chạm phải vùng đó lúc mở cửa. Trên cánh cửa phòng anh, mẹ dán nhiều hơn ở các cánh cửa khác ba chiếc lá, trải năm chiếc lá ra như những bông hoa, cẩn thận dùng lòng bàn tay miết những chiếc lá, rồi hỏi anh có thích không. Năm chiếc lá khô xòe ra như năm ngón tay của đứa trẻ. Cho dù bác anh có nói gì đi nữa, trong mắt anh những chiếc lá đó vẫn thật đẹp. Khi anh khen những chiếc lá đó rất tuyệt vời, khuôn mặt mẹ nở một nụ cười rạng rỡ như bông hoa mẫu đơn. Vốn không hề thích đón lễ tết với những cánh cửa bị thủng hay bị rách, hỏng hóc vì cứ mở ra đóng vào suốt mùa hè, thế nên với mẹ dán giấy cửa mới chính là sự khởi đầu của mùa thu và là sự chào đón tết Trung thu. Có lẽ cũng bởi mẹ muốn chuẩn bị để mọi người trong nhà không bị cảm cúm trước những cơn gió trở lạnh khi mùa hè đã qua đi. Phải chăng đó là cảm giác lãng mạn nhất mẹ được hưởng trong những ngày tháng ấy?

    Anh cũng đã thọc tay vào túi quần giống như cô em gái từ lúc nào chính anh cũng không biết. Những chiếc lá thích được dán bên cạnh tay cầm của cánh cửa vẫn tiếp tục ở lại cùng cả gia đình trong ngôi nhà đó khi tết Trung thu đã qua đi, qua cả mùa đông và tuyết rơi, cho tới tận khi những chiếc lá thích mới đâm chồi lúc xuân sang.

    Sự mất tích của mẹ đã khơi dậy trong ký ức của anh những câu chuyện anh nghĩ mình đã quên hẳn. Như chuyện những cánh cửa dán lá thích này.

    Phường Yokchon không còn là phường Yokchon ngày xưa mà anh vẫn nhớ. Khi lần đầu tiên anh có được ngôi nhà mang tên mình ở cái thành phố này, đây vẫn là một khu có nhiều ngõ ngách với những ngôi nhà tồi tàn, còn ngày nay nơi đây mọc lên như nấm những tòa chung cư cao tầng và cửa hàng quần áo. Hai anh em đi từ trước ra sau rồi lại từ sau ra trước khu chung cư đến hai lần mà vẫn không tìm được chợ Sobu ngày xưa vốn nằm ở trung tâm phường Yokchon, cuối cùng đành phải hỏi một cô bé học sinh đi ngang qua xem chợ Sobu nằm ở đâu. Hóa ra nó nằm ở hướng ngược lại so với họ nghĩ. Giờ một cửa hàng lớn đã thế chỗ cho cái bốt điện thoại mà trước đây ngày nào anh cũng đi qua. Anh không thể nào tìm thấy cửa hàng bán len sợi, nơi vợ anh thường đến mua len vì muốn đan một chiếc áo len để sau này cô con gái mới sinh lớn lên sẽ mặc.

    “Em nghĩ nó ở đằng kia kìa!”

    Chợ Sobu trong ký ức của anh nằm ngay bên cạnh con đường lớn, nhưng giờ đây nó đã bị bao quanh bởi những con đường mới khiến anh không thể nhìn thấy rõ các tấm bảng hiệu.

    “Ông dược sĩ nói rằng quầy thuốc của ông ấy ở trước cổng chợ…” Cô em gái chạy về phía cổng chợ, vòng đi vòng lại quanh đó để nhìn ngó dãy cửa hàng. “Kia rồi!”

    Anh nhìn theo hướng tay cô em gái chỉ và thấy tấm biển “Hiệu thuốc Sobu”, quầy thuốc nằm giữa một cửa hàng bán đồ ăn nhanh và quán café Internet. Ông dược sĩ đeo kính, tầm khoảng ngoài năm mươi tuổi, ngẩng đầu lên nhìn khi anh và cô em gái bước vào. Cô em gái anh hỏi, “Có phải chú đã gọi điện cho cháu khi nhìn thấy tờ rơi do con trai chú mang về không?” Ông dược sĩ tháo kính ra nhìn hai anh em.

    “Mẹ cô đã bị lạc như thế nào vậy?”

    Kể từ khi mẹ bị lạc, đây là câu hỏi khó trả lời nhất với hai anh em. Mặc dù họ cố gắng không để cho mọi người biết mẹ mình đã bị lạc như thế nào mà chỉ tỏ ra đang cố đi tìm mẹ, song mọi người luôn hỏi chuyện đó đã xảy ra như thế nào. Trong câu hỏi ấy luôn ẩn chứa sự tò mò và trách móc. Hồi đầu mấy anh em thường giải thích tỉ mỉ, Mẹ ở ga tàu điện ngầm Seoul…, nhưng giờ đây họ chỉ trả lời rằng, Chuyện đã xảy ra như vậy đấy. Rồi tỏ vẻ thật thiểu não. Có như vậy họ mới thoát được câu hỏi, “Chuyện đã xảy ra như thế nào?”

    “Hay bà ấy bị mất trí nhớ chăng?”

    Cô em gái anh không trả lời, thế nên anh lên tiếng phủ nhận.

    “Nhưng sao anh lại như vậy khi đang cố gắng đi tìm bà ấy? Tôi đã gọi điện một lúc lâu rồi mà sao giờ anh mới đến?” ông dược sĩ hỏi cứ như thể hai anh em đã có thể tìm thấy mẹ mình nếu đến đây sớm, nhưng giờ đây mẹ đi nơi khác rồi thế nên họ mới đến muộn…

    “Chú nhìn thấy bà ấy khi nào? Trông bà ấy có giống mẹ cháu không?” cô em gái lấy một tờ rơi ra và chỉ vào hình của mẹ.

    Ông dược sĩ nói ông đã nhìn thấy mẹ anh sáu ngày trước đây. Ông dược sĩ kể lại, ông ấy sống ở tầng ba của tòa nhà này, buổi sáng hôm ấy, ông mở cánh cửa chớp của quầy thuốc ra thì nhìn thấy một bà già đang ngủ bên cạnh thùng rác trước cửa tiệm ăn nhanh bên cạnh. Ông dược sĩ còn nói, bà cụ đi đôi dép lê màu xanh, vì đi lại nhiều nên chỗ gần ngón chân cái bị thương sâu hoắm đến mức gần như nhìn thấy cả xương, vết thương đã bị nhiễm trùng và tái nhiễm trùng rất tệ, chừng như chẳng thể làm gì được nữa.

    “Là dược sĩ, khi nhìn thấy vết thương của bà ấy, tôi không thể để như vậy được. Tôi nghĩ ít nhất thì cũng phải sát trùng vết thương cho bà ấy, thế là tôi vào trong lấy thuốc sát trùng và băng gạc ra băng bó vết thương. Bà ấy tỉnh dậy. Mặc dù một người hoàn toàn xa lạ đang sờ nắn bàn chân mình, nhưng bà ấy vẫn không hề động đậy, có lẽ bà ấy đã kiệt sức. Tôi thấy ngạc nhiên vì nếu vết thương nặng đến mức ấy thì lẽ ra khi sát trùng phải kêu lên đau đớn mới đúng, nhưng bà ấy lại không hề có phản ứng gì. Vết thương quá nặng lại để lâu ngày nên mủ cứ chảy ra bốc mùi rất khó chịu. Tôi không nhớ mình đã sát trùng bao nhiêu lần. Sau đó tôi bôi thuốc mỡ lên vết thương, rồi do miếng gạc không đủ rộng nên tôi phải dùng băng quấn vết thương lại. Dù sao đi nữa bà ấy cần phải có ai đó giúp đỡ, vì vậy tôi đi vào trong quầy thuốc gọi điện đến đồn cảnh sát nhưng rồi lại trở ra hỏi xem bà ấy có người thân ở thành phố này không. Lúc đó, chắc vì đói bụng quá nên bà ấy bốc cả nắm kimpap người ta đổ trong thùng rác để ăn. Thấy vậy tôi liền bảo đó là kimpap thừa người ta đổ đi, bà đừng ăn những thứ đó, tôi sẽ lấy cho bà thứ gì đó để ăn tạm, nhưng bà ấy vẫn cứ ăn nên tôi phải giật lấy vứt đi. Mặc dù lúc tôi bảo thì bà ấy không chịu vứt, nhưng khi vứt đi thì bà ấy cũng chẳng phản ứng gì. Tôi bảo bà ấy vào trong quầy thuốc nghỉ tạm, nhưng bà ấy cứ ngồi yên ở đó cứ như không hiểu tôi đang nói gì. Bà ấy bị điếc à?”

    Cô em gái anh vẫn không nói gì, thế nên anh phủ nhận điều đó.

    Ông dược sĩ kể tiếp, “Tôi hỏi bà ấy, Bà sống ở đâu? Bà có nhớ ra ai đó có thể đến đón bà không? Nếu có số điện thoại của ai đó thì tôi sẽ gọi họ cho bà, nhưng bà ấy cứ ngồi bất động, chỉ chớp chớp mắt. Chẳng biết phải làm gì nữa, thế nên tôi đi vào trong quầy thuốc gọi điện đến đồn cảnh sát, và khi tôi quay ra bà ấy đã không còn ở đấy nữa. Thật là một chuyện khác thường. Tôi vào nhà chỉ có vài phút vậy mà bà ấy đã đi rồi.”

    “Mẹ chúng tôi không đi đôi dép lê màu xanh mà đi đôi xăng đan màu be. Chú có chắc đó là đôi dép lê màu xanh không?”

    “Đúng mà. Bà ấy mặc áo sơ mi màu xanh nhạt, cái áo khoác bên ngoài có màu trắng hay màu vàng gì đó, vì nó rất bẩn nên tôi không nhận rõ được. Cái váy có vẻ cũng là màu trắng, nhưng vì bẩn quá nên trông như màu be, hình như đó là một cái váy xếp nếp. Bắp chân bà ấy đầy vết máu bầm, nham nhở vì bị muỗi đốt.”

    Chỉ trừ đôi dép lê màu xanh, còn lại đó chính là bộ quần áo mẹ anh đã mặc khi bị mất tích.

    “Trong bức ảnh của tờ rơi, mẹ tôi mặc bộ hanbok. Kiểu tóc cũng hoàn toàn khác… Trong bức ảnh này mẹ tôi đã trang điểm kỹ càng, chứ khi bị lạc mẹ tôi không giống thế này. Nhìn ảnh của mẹ tôi có gợi chú nghĩ đến hình ảnh bà cụ ấy không?” Dường như cô em gái anh mong rằng bà cụ mà ông dược sĩ đã gặp không phải là mẹ mình, có lẽ bởi theo lời kể của ông ta thì bà ấy quá thảm hại.

    “Đúng là người này rồi. Đôi mắt rất giống mắt con bò. Ngày còn bé tôi đi chăn bò suốt, tôi đã thấy những đôi mắt y hệt đôi mắt này. Tôi nhận ra ngay mặc dù bà ấy trông rất khác, vì đôi mắt của bà ấy không lẫn vào đâu được.”

    Cô em gái anh ngồi phịch xuống cái ghế trong quầy thuốc.

    “Nhưng cảnh sát có đến không ạ?”

    “Tôi đã gọi điện thoại lại cho cảnh sát ngay sau đó và bảo họ không cần phải đến nữa vì bà ấy đi mất rồi.”

    Anh cùng cô em gái đi khỏi quầy thuốc và chia nhau ra để đi tìm mẹ, hai anh em thống nhất sẽ gặp nhau sau hai tiếng nữa ở sân chơi trong một khu chung cư mới. Anh men theo những con đường xung quanh khu chung cư mới xây trên mảnh đất mà dạo anh còn sống ở đây chỉ là những ngôi nhà tồi tàn, còn cô em gái anh đi tìm ở khu vực gần chợ Sobu, nơi đây vẫn còn sót lại mấy con đường cũ. Theo lời kể của ông dược sĩ, người phụ nữ có thể chính là mẹ anh đó đã bốc ăn kimpap từ trong thùng rác gần tiệm đồ ăn nhanh, vì vậy anh tìm rất kỹ ở tất cả các thùng rác quanh tòa nhà. Anh đến tận nơi đặt các thùng rác trong khu chung cư, không bỏ sót một chỗ nào. Vừa tìm kiếm anh vừa tự hỏi không biết căn nhà ngày xưa mình sống vốn nằm ở chỗ nào. Đó là căn nhà áp chót trên con hẻm dài nhất trong khu này. Con hẻm sâu đến mức mỗi lần đi làm về khuya, anh cứ phải quay lại nhìn phía sau ít nhất hai lần trước khi tới được cổng nhà mình. Cô em gái đang ngồi đợi trên chiếc ghế gỗ trong sân chơi, cô đứng dậy khi nhìn thấy đôi vai rũ xuống và bước chân chậm chạp của anh. Đêm đã về khuya, trong sân chơi không còn bóng đứa trẻ nào, mà chỉ có đây đó những người già đi thả bộ ngơi nghỉ chân.

    Có lẽ nào mẹ đã đến đây để tìm ngôi nhà đó?

    Vào ngày đầu tiên đến thăm ngôi nhà đó, mẹ xuống ở ga Seoul, tay xách theo cái ấm đun nước to như cái nồi hấp ở quê đựng đầy cháo đậu đỏ. Thời đó anh chưa có ô tô. Khi ra ga đón mẹ, anh vừa đỡ lấy cái ấm đựng cháo đậu đỏ vừa cáu kỉnh mẹ, “Mẹ ra đây còn xách theo cái thứ nặng thế này làm gì chứ?” Mẹ cứ mỉm cười đầy mãn nguyện. Vừa rẽ vào con hẻm là mẹ chỉ ngay một ngôi nhà mà hỏi, “Nhà này à?” Khi hai mẹ con đi qua ngôi nhà đó, mẹ lại chỉ vào ngôi nhà kế bên và hỏi tiếp, “Nhà kia à?” Lúc anh dừng lại trước cửa nhà mình và bảo mẹ, “Nhà này mẹ ạ,” nụ cười tỏa rộng trên khuôn mặt mẹ. Mẹ nhẹ nhàng đẩy cánh cửa nhìn vào trong, trông mẹ phấn khích như một thiếu nữ đang trong chuyến du lịch đầu tiên trong cuộc đời. “Chà, có cả sân nữa cơ à. Còn có cả cây hồng nữa chứ, cây gì đây, chẳng phải là cây nho sao!” Ngay khi bước vào trong nhà, mẹ rót từ ấm ra một bát cháo đậu đỏ rồi rải cháo khắp nhà. Mẹ nói, “Phải làm như thế này mới xua được mọi điều xui xẻo.” Vợ anh, cũng là lần đầu tiên có được một ngôi nhà trên thành phố này giống như anh, vừa mở cửa một trong ba phòng vừa nói với giọng đầy hào hứng, “Mẹ à, đây là phòng của mẹ, khi nào mẹ lên Seoul, mẹ có thể nghỉ ngơi thoải mái trong căn phòng này.” Mẹ anh bước vào trong nhìn ngắm căn phòng và nói với giọng như đã gây nhiều phiền toái cho hai vợ chồng anh, “Mẹ cũng có phòng riêng à?”

    Đêm hôm đó, quá nửa đêm, nghe thấy tiếng động ngoài sân nên anh tới cửa sổ nhìn ra ngoài. Mẹ đang đi đi lại lại quanh sân. Mẹ sờ lên cánh cổng và vuốt ve dây nho, rồi tới hiên nhà và ngồi xuống bậc thềm nhìn ngắm xung quanh. Mẹ ngước lên bầu trời đêm rồi lại đi đến đứng dưới gốc cây hồng. Lo mẹ sẽ cứ vơ vẩn ngoài sân đến sáng mất, anh mở cửa sổ và nói vọng xuống sân, “Mẹ đi dạo vậy thôi, vào đi ngủ đi mẹ.”

    Mẹ nói, “Sao con còn chưa ngủ?” rồi mẹ ân cần gọi tên anh như thể mẹ được gọi lần đầu, “Hyong-chol à, xuống đây một chút đi con.”

    Khi anh đi ra sân, mẹ móc trong túi áo ra một cái phong bì rồi giúi vào tay anh. “Bây giờ con chỉ còn cần làm tấm biển tên treo ngoài cổng nữa thôi. Hãy dùng số tiền này để làm tấm biển tên nhé.” Anh nhìn mẹ, cái phong bì đựng tiền làm biển tên trong tay anh, và mẹ xoa xoa đôi bàn tay với vẻ có lỗi. “Mẹ xin lỗi vì con mua nhà mà mẹ chẳng giúp được gì.”

    Sáng sớm ngày hôm sau, khi đi ra từ nhà tắm, anh nhẹ nhàng mở cửa phòng mẹ. Mẹ và cô em gái anh đang nằm cạnh nhau, chìm trong giấc ngủ mệt nhoài. Miệng mẹ nở nụ cười và cánh tay cô em gái dang rộng một cách thoải mái.

    Rất lâu sau lần đầu tiên mẹ lên Seoul mà phải ngủ cùng giường ở phòng trực ở ủy ban phường với cậu con trai cả hai mươi tuổi, vẫn không có một nơi thoải mái cho mẹ nghỉ lại Seoul. Có những lần, khi mẹ theo chuyến xe thuê lên Seoul dự đám cưới của họ hàng, anh và các em tới gặp mẹ thì thấy mẹ mang theo bao nhiêu là thứ. Đám cưới còn chưa kết thúc mẹ đã vội vàng giục mấy anh em đưa mẹ đến căn phòng trọ mà họ đang sống. Mẹ vội vã trút bỏ bộ đồ âu mặc dự đám cưới. Bao nhiêu thức ăn được bọc trong giấy báo hoặc ni lông hoặc có khi là lá bí ngô tuồn ra từ trong những cái túi của mẹ. Chẳng mất một phút mẹ đã thay sang chiếc áo rộng, và cái quần hoa mang theo được cuộn lại để tận trong góc túi xách. Sau khi bày những món ăn được bọc trong giấy báo, túi bóng và lá bí ngô ra đĩa và chuyển lên giá bếp, mẹ phủi sạch tay rồi nhanh nhẹn lột mấy cái vỏ chăn mang đi giặt. Mẹ làm kim chi từ chỗ cải bắp muối sẵn mang từ dưới nhà lên, rồi lấy nước rửa chén cọ cái xoong nấu cơm đen sì vì muội than hoặc lau chùi cái bếp lò cho đến khi nó sáng bóng lên, rồi khâu vá những tấm vỏ chăn sau khi chúng khô cong dưới ánh nắng trên mái nhà, rồi mẹ đi vo gạo và nấu canh đậu tương và dọn bàn ăn tối. Trên bàn là bữa ăn thịnh soạn với thịt bò hầm, cá đối chiên, kim chi lá vừng mẹ mang từ nhà lên. Mỗi khi mấy anh em xúc một thìa cơm là mẹ lại đặt lên thìa của mỗi người một miếng thịt bò hầm. Nếu mấy anh em có giục mẹ ăn đi, mẹ thường bảo, “Các con ăn đi, mẹ no bụng rồi…” Ăn xong, mẹ dọn rửa bát đũa rồi vặn đầy nước vào cái thùng cao su đặt dưới vòi, xong xuôi mẹ đi mua một quả dưa hấu về thả vào thùng cho lạnh rồi nhanh chóng mặc lại bộ đồ âu chỉ dành cho những khi đi dự đám cưới và bảo anh, “Con đưa mẹ ra ga Seoul nhé.” Lúc đó, trời đã sẩm tối. Dù mấy anh em có nói, “Mẹ ngủ lại đây một tối rồi mai hãy về,” thì mẹ cũng bảo, “Mẹ phải về, ngày mai mẹ còn có việc phải làm.” Việc mà mẹ phải làm chỉ là việc đồng áng hay vườn tược thôi. Những công việc như thế có thể hoãn lại cho đến khi mẹ về nhà vào ngày hôm sau, nhưng mẹ vẫn nhât quyết ra ga để đón chuyến tàu về nhà ngay trong đêm hôm ấy. Mặc dù thực ra bởi vì ngôi nhà anh thuê chỉ có đúng một phòng, một căn phòng nhỏ nơi ba đứa con đã lớn của mẹ phải ngủ như nêm cạnh nhau chứ chẳng được cựa người thoải mái, mẹ chỉ nói, “Mẹ phải về, ngày mai mẹ còn có việc phải làm.”

    Mỗi lần đưa người mẹ đã mệt trở ra ga Seoul chờ chuyến tàu đêm để về nhà với hai bàn tay không là một lần anh đổi mới những lời hứa quyết tâm của mình. Mình sẽ kiếm tiền để chuyển đến một căn nhà có hai phòng. Mình sẽ thuê một căn nhà lớn. Mình sẽ mua một căn nhà ở thành phố này. Khi đó mình sẽ có một căn phòng cho mẹ ngủ thật thoải mái. Mỗi lần đưa mẹ ra ga bắt tàu đêm về quê, anh đều mua vé tiễn rồi đưa mẹ lên tận tàu. Anh tìm ghế ngồi cho mẹ, rồi đưa cho mẹ một cái túi đựng đồ ăn vặt, thường là chuối hoặc quýt.

    “Mẹ đừng ngủ quên đấy, nhớ xuống ở ga J nhé.”
    Last edited by giavui; 06-27-2012 at 09:20 PM.

  6. #15
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Mẹ luôn dặn dò anh với vẻ mặt u buồn, hoặc đôi khi là cương nghị. “Ở trên này, con là bố của các em đấy, mà cũng là mẹ nữa.”

    Khi cậu con trai cả mới hai mươi mấy tuổi đầu đứng đó vặn vẹo hai bàn tay vào nhau, mẹ sẽ đứng dậy khỏi ghế rồi mở tay anh ra và nắn vai anh cho thẳng thớm. “Người anh cả phải sống cho có phẩm cách. Người anh cả phải làm gương cho em. Nếu anh cả đi sai đường, thì những đứa em cũng sẽ đi theo con đường đó.”

    Khi con tàu chuẩn bị lăn bánh cũng là lúc nước mắt mẹ bắt đầu lã chã rơi. Mẹ nhìn anh với đôi mắt đẫm lệ rồi mỉm cười. Và nói, “Xin lỗi con, Hyong-chol.”

    Mẹ sẽ xuống ga J vào lúc nửa đêm. Để bắt được chuyến xe buýt đầu tiên về làng thì phải đợi đến sau sáu giờ sáng. Vì vậy, sau khi xuống tàu, mẹ cứ đi bộ trong đêm trên con đường vắng vẻ trở về nhà.

    “Giá mà chúng ta mang nhiều tờ rơi hơn để dán quanh đây nhỉ,” anh nói.

    “Mai em sẽ quay lại đây làm việc đó.”

    Ngày mai, anh phải tháp tùng ban giám đốc đến thăm ngôi nhà mẫu ở Hongchon. Đây là việc anh không thể thoái thác được. “Hay để mẹ của Chin đi làm việc đó?”

    “Thôi, để chị ấy nghỉ. Chị ấy cũng đang phải chăm sóc bố còn gì.”

    “Hay là em gọi cho cô út.”

    “Anh ấy sẽ giúp em làm việc này.”

    “Ai?”

    “Bạn trai của em. Khi nào tìm thấy mẹ, em sẽ kết hôn với anh ấy. Chẳng phải mẹ đã rất trông đợi đám cưới của em đó sao.”

    “Nếu chuyện này với em mà dễ quyết định như thế thì em đã kết hôn từ lâu rồi.”

    “Sau khi mẹ bị lạc, em đã nhận ra rằng có một câu trả lời cho mọi điều. Em đã có thể thực hiện được mọi điều mẹ mong muốn ở em. Trước đây điều đó không quan trọng. Giờ em không biết tại sao em lại hay làm mẹ phiền lòng đến như vậy. Em sẽ không đi máy bay lần nào nữa.”

    Cảm thấy mệt mỏi, anh đưa tay vỗ vỗ vào vai cô em gái. Mẹ không thích chuyện cô em gái ngồi máy bay để đi nước ngoài. Mẹ nghĩ rằng thật đáng sợ khi chỉ cần một tai nạn thôi là có đến hơn hai trăm người thiệt mạng cùng lúc. Theo quan điểm của mẹ, nếu trong thời chiến thì chẳng tránh được, nhưng khi bình thường thì ta không thể phó mặc cuộc đời mình cho số phận như vậy được, thật chẳng khác gì không hề quý trọng mạng sống của mình chút nào vậy. Mẹ yêu cầu cô em gái không được đi máy bay nữa, và khi sự can thiệp ấy ngày càng sâu, cô đành phải giấu mẹ đi máy bay một cách bí mật. Dù đi du lịch hay đi công tác, nếu phải đi bằng máy bay, cô sẽ cứ đi mà không nói cho mẹ biết.

    “Những bông hoa hồng của ngôi nhà kia thật đẹp…” cô em gái anh nói.

    Anh đứng trong bóng tối nhìn cô em gái chằm chằm. Chính anh cũng đang nghĩ về những bông hoa hồng đó. Vào mùa xuân đầu tiên sau khi anh có nhà riêng, mẹ lên Seoul và rủ mấy anh em đi mua hoa hồng. Hoa hồng ư? Ngay khi từ “hoa hồng” bật ra từ miệng mẹ, anh đã phải hỏi lại vì tưởng mình đã nghe nhầm, “Ý mẹ nói là hoa hồng ấy à?”

    “Hoa hồng đỏ ấy, sao, ở đây không có chỗ nào bán à?”

    “Không, có bán chứ ạ.”

    Khi anh đưa mẹ đến một vườn ươm, nơi có bán cây giống bày dọc các con đường ở Kupabal, mẹ nói, “Mẹ nghĩ đây là loài hoa đẹp nhất. Mẹ thích loài hoa này nhất đấy.” Mẹ mua về nhiều bụi hồng hơn anh tưởng rồi lom khom đào những cái hố ở gần hàng rào để trồng hoa. Đây là lần đầu tiên anh thấy mẹ trồng cây để ngắm, chứ không phải để thu hoạch sau mỗi vụ gieo trồng như cây đậu hay khoai tây hay ớt hay rau cải hoặc củ cải đỏ. Quan sát cảnh tượng lạ mắt này, anh hỏi, “Mẹ trồng mấy cây hoa hồng sát hàng rào quá đấy,” nhưng mẹ nói, “Phải thế thì mọi người đi qua mới ngắm cùng được chứ.” Cho đến tận khi anh rời khỏi ngôi nhà ấy, những đóa hồng vẫn cứ nở rộ mỗi độ xuân về. Vào mùa hoa hồng nở, mọi người đi qua trước ngôi nhà ấy đều dừng bước cạnh hàng rào để nhìn ngắm và cảm nhận hương thơm tinh khiết của những đóa hồng đang hé nở, đúng như ước nguyện của mẹ khi trồng. Sau trận mưa, những cánh hoa hồng đỏ thắm lại rụng đầy dưới chân hàng rào, bay đi khắp xung quanh.

    Tại quán rượu trong trung tâm thương mại phường Yokchon, cô em gái anh đã uống hai vại bia tươi thay cho bữa tối, rồi lấy trong túi áo ra một cuốn sổ tay, giở đến trang có những hàng chữ được gạch chân và đẩy về phía anh. Mặt cô đỏ bừng lên vì uống bia khi bụng đang trống rỗng. Anh nghiêng cuốn sổ ra chỗ sáng và đọc những dòng chữ đó.

    Tôi muốn đọc sách cho trẻ em khiếm thị.

    Tôi muốn học tiếng Trung Quốc.

    Tôi muốn kiếm được thật nhiều tiền để sở hữu một rạp hát nhỏ.

    Tôi muốn đến Nam cực.

    Tôi muốn hành hương tới thánh địa Santiago.

    Tiếp sau đó còn hơn ba mươi câu bắt đầu bằng từ “Tôi”.

    “Cái gì đây?”

    “Tất niên năm ngoái em đã viết những việc em muốn làm với cuộc đời mình, ngoài việc viết văn. Cho vui thôi. Những việc em muốn làm hoặc sẽ kiên trì theo đuổi trong mười năm tới. Nhưng em đã không định làm bất cứ việc gì cùng với mẹ. Em đã không nhận ra điều đó khi viết danh sách ấy. Nhưng bây giờ đây em nhìn lại nó sau khi mẹ đã mất tích…” Mắt cô em gái long lanh nước.

    Say xỉn, anh ra khỏi thang máy và bấm chuông cửa, nhưng bên trong nhà chẳng có động tĩnh gì. Cả người lảo đảo, anh thò tay vào túi áo tìm chìa khóa rồi mở cửa. Sau khi chia tay với cô em gái, trên đường về nhà, anh còn tạt vào hai quán rượu nữa. Mỗi khi hình ảnh người phụ nữ đi đôi dép lê màu xanh, người phụ nữ có thể là mẹ anh, người phụ nữ đã đi lại quá nhiều tới mức đôi dép cứa sâu vào bàn chân đến lòi cả xương, nhảy múa trước mắt anh, anh lại uống thêm một chén. Đèn trong phòng khách vẫn sáng, tĩnh mịch bao trùm cả căn phòng. Bức tượng Đức mẹ Mary mẹ đặt trong phòng đang nhìn anh chằm chằm. Anh loạng choạng bước về phía phòng ngủ của mình, nhưng rồi anh dừng lại, nhẹ nhàng mở cửa phòng cô con gái, nơi bố anh đang nghỉ. Anh nhìn thấy bố nằm nghiêng, lưng quay ra ngoài, trên cái chiếu trải trên sàn nhà gần giường của cô con gái. Anh bước vào, kéo tấm chăn đã bị tuột xuống đắp lại cho bố rồi lại nhẹ nhàng đóng cửa đi ra. Anh đi xuống bếp, nghiêng bình nước đặt trên bàn rót một cốc đầy rồi vừa uống vừa nhìn quanh. Chẳng có gì thay đối. Tiếng tủ lạnh chạy rù rì vẫn y như cũ, đống bát đĩa mà người vợ vốn ngại việc dọn rửa để bừa trong bồn vẫn không hề suy chuyển. Anh cau mặt bước vào phòng ngủ, nhìn chằm chằm người vợ đang nằm ngủ. Một sợi dây chuyền sáng lấp lánh trên cổ vợ anh. Anh giật tung tấm chăn vợ anh đang đắp ra. Vợ anh vừa dụi mắt vừa lồm cồm ngồi dậy.

    “Anh về khi nào đấy?” Người vợ chỉ thở dài trước sự cộc cằn của anh, sự cộc cằn chứa đựng một lời mắng mỏ hàm ẩn: Sao cô có thể ngủ được cơ chứ! Từ sau ngày mẹ bị lạc, anh bắt đầu thường xuyên nổi cáu với mọi người. Anh càng giận dữ hơn mỗi khi về nhà. Nếu cậu em trai gọi điện để hỏi thăm tình hình tìm kiếm, vừa trả lời được vài câu hỏi là anh nổi giận đùng đùng, “Chú không có gì để thông báo với tôi à? Chú đang làm cái quái gì vậy?” Khi bố nói sẽ về quê vì ở trên này bố cũng không giúp được gì, anh quát ầm lên cả với bố, “Thế bố định về quê làm gì chứ?” Hằng sáng, anh bỏ đi làm mà không thèm để ý đến bữa sáng vợ mình đã chuẩn bị sẵn.

    “Anh uống rượu phải không?” Vợ anh giật cái chăn anh đang nắm trong tay rồi vuốt phẳng.

    “Cô vẫn ngủ được cơ à?”

    Vợ anh khẽ vuốt bộ áo ngủ.

    “Tôi nói là cô vẫn có thể ngủ được sao!”

    “Vậy thì anh bảo em phải làm gì bây giờ chứ? vợ anh cũng thét lên.

    “Tại cô cả đấy!” anh cứ nói vậy dù biết đó chỉ là sự suy diễn.

    “Sao chuyện này lại là tại em?”

    “Đáng lẽ cô phải đi đón bố mẹ chứ!

    “Thì em đã nói với anh là em đi đưa đồ ăn cho Chin còn gì.”

    “Sao cô lại đi đúng vào ngày hôm ấy chứ! Tại sao cô lại đi vào đúng ngày bố mẹ từ quê lên để chúng ta có thể tổ chức sinh nhật cho bố mẹ chứ!”

    “Bố đã nói bố biết đường rồi còn gì! Mà trên thành phố Seoul này đâu phải chỉ có mỗi chúng ta. Bố mẹ đã muốn lên thăm nhà em trai anh vào ngày hôm đó đấy chứ. Cả em gái anh cũng ở đây cơ mà. Bố mẹ cũng có thường xuyên ở lại nhà chúng ta đâu, và em cũng không phải là người duy nhất phải đi đón họ. Đã hai tuần rồi em chưa đến thăm Chin, nó không còn cái gì để ăn, làm sao em có thể không đi xem con thế nào được. Em cũng quá mệt mỏi rồi, em cũng phải chăm sóc cho Chin và làm những việc khác nữa chứ. Hơn nữa, Chin còn đang phải ôn thi… Mà anh thậm chí có biết rằng kỳ thi này quan trọng với nó như thế nào không?”

    “Cô sẽ còn mang thức ăn cho một đứa con đã trưởng thành trong bao lâu nữa, một đứa mà khi biết bà nội mất tích cũng chẳng buồn ghé qua nhà.”

    “Chin có về nhà thì cũng làm được gì? Em đã bảo con không phải về đấy. Chúng ta đã đi tìm mẹ khắp nơi rồi. Đến cả cảnh sát cũng không thể tìm thấy thì chúng ta làm thế nào được? Chẳng lẽ lại bấm chuông cửa từng ngôi nhà ở Seoul này để hỏi xem mẹ có ở đó không hay sao? Đến người lớn còn chịu bó tay thì thử hỏi Chin có thể làm được gì? Học sinh thì phải đi học chứ. Không lẽ vì mẹ không có ở đây nên tất cả chúng ta phải vứt bỏ hết công việc của mình đi hay sao?”

    “Không phải là ‘mẹ không có ở đây’, mà là mẹ bị lạc.”

    “Vậy anh muốn em phải làm gì nào? Cả anh cũng vẫn đến công ty cơ mà.”

    “Cái gì?” Anh nổi khùng lên rồi vơ lấy cây gậy chơi golf để ở trong góc phòng toan ném vào tường.

    “Hyong-chol à!” Bố nghe hết mọi chuyện khi đang nằm ngủ trong phòng cô cháu gái nên liền đi sang đứng trước cửa phòng anh đang mở. Anh đặt cây gậy chơi golf xuống. Bố đứng yên lặng nhìn hai vợ chồng anh cãi nhau rồi quay người đi. Bố đã lên Seoul để con cái tiện tổ chức sinh nhật cho bố. Nếu buổi sinh nhật diễn ra đúng theo dự kiến, mẹ thế nào cũng đứng trước bàn tiệc đầy ắp những món ăn truyền thống của Hàn Quốc mà vợ anh đã đặt trước và nói, “Buổi hôm nay cũng là mừng sinh nhật của mẹ luôn rồi nhé.” Vì mẹ bị lạc nên ngày sinh nhật của bố trôi qua mà không tổ chức gì, và mấy hôm sau ngày sinh nhật của bố anh, cái giỗ ở dưới nhà cũng do bác anh tổ chức.

    Khi anh đi ra theo, bố anh mở cửa phòng cô cháu gái rồi quay lại phía anh.

    “Tất cả là tại bố.”

    Anh không nói gì.

    “Thôi đừng cãi nhau nữa. Bố hiểu lòng của các con nhưng có cãi nhau thì cũng chẳng giải quyết được gì đâu. Mẹ các con đã gặp bố, rồi lấy bố và sống một đời vất vả, nhưng bà ấy là người tốt nên bố tin chắc ít nhất là bà ấy vẫn còn sống. Nếu mẹ các con còn sống, chúng ta sẽ nghe tin thôi.”

    Anh vẫn không nói gì.

    “Bây giờ bố về quê đây.”

    Bố nhìn anh hồi lâu rồi bước vào trong phòng. Anh nhìn theo cánh cửa đã đóng lại, đôi môi mím chặt. Khí nóng bốc lên trong lồng ngực anh. Anh đưa tay lên xoa ngực. Anh định đưa tay lên xoa mặt theo thói quen, nhưng rồi lại hạ tay xuống. Anh có thể cảm nhận được bàn tay thô ráp, dịu dàng của mẹ. Mẹ rất ghét mỗi khi anh xoa xoa tay hoặc so vai. Nếu anh làm thế trước mặt mẹ, mẹ sẽ lập tức vuốt cho thẳng thớm đôi tay và hai vai anh. Còn nếu anh cúi đầu, thế nào mẹ cũng vỗ mạnh vào lưng anh mà nói, “Đàn ông con trai thì phải cho đáng mặt đàn ông chứ.” Anh đã không thể trở thành công tố viên. Mẹ luôn coi đó là ước mơ của anh, nhưng anh đã không nhận ra rằng đó cũng chính là ước mơ của mẹ. Anh chỉ nghĩ đó chỉ là mơ ước không thành của thời tuổi trẻ, chứ chẳng bao giờ thoáng nghĩ mình cũng đã phá hỏng những khát vọng của mẹ. Anh nhận ra rằng suốt cả đời mẹ luôn tin chính mẹ là người đã làm vướng bận khiến anh không đạt được ước mơ. Con xin lỗi mẹ, mẹ ơi, con mới là người phải xin lỗi vì đã không giữ lời hứa. Trái tim anh tràn ngập nỗi khao khát duy nhất là được chăm sóc mẹ khi tìm thấy mẹ. Nhưng anh biết mình đã đánh mất cơ hội ấy rồi.

    Anh khuỵu gối xuống nền phòng khách.
    Last edited by Santafe; 12-14-2010 at 02:27 PM.

  7. #16
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 3: Tôi đã về đây!

    Trước cánh cửa lớn màu xanh đóng chặt, cô gái đang ngó nghiêng nhìn vào trong ngôi nhà.

    “Ai đấy?” Khi nghe ông hắng giọng từ phía sau, cô gái quay lại. Cô có vầng trán mịn màng và mái tóc buộc gọn phía sau, ánh mắt cô sáng lên vẻ mừng rỡ.

    “Cháu chào bác!”

    Ông nhìn cô chăm chăm, và cô mỉm cười thật tươi. “Bác cho cháu hỏi đây có phải là nhà của cô Park So-nyo không ạ?”

    Bảng tên trên cánh cổng của ngôi nhà đã bỏ trống từ lâu chỉ khắc mỗi tên ông. Park So-nyo. Lâu lắm rồi từ khi lấy vợ, hôm nay ông mới nghe có người gọi vợ mình bằng cô chứ không phải là bà.

    “Có việc gì không cô.”

    “Cô Park không có nhà ạ?”

    Ông không nói gì.”

    “Có thật là cô ấy bị mất tích không ạ?

    Ông nhìn cô gái chằm chằm. “Cô là ai?”

    “À, cháu là Hong Tea-hee ở Ngôi nhà Hy vọng của khu Namsan.”

    Hong Tea-hee? Ngôi nhà Hy vọng?

    “Đó là trại trẻ mồ côi ạ. Cháu rất sốt ruột vì đã lâu lắm rồi không thấy cô nhà mình đến, rồi cháu tình cờ đọc được cái này.” Cô gái chỉ cho ông mẩu quảng cáo trên báo mà con trai ông đã đăng. “Băn khoăn không biết chuyện gì đã xảy ra nên cháu đã đến đây vài lần nhưng cửa cổng cứ đóng suốt. Cháu cứ tưởng hôm nay mình cũng lại phải về không… Cháu chỉ muốn hỏi thăm xem tình hình thế nào. Cháu còn phải đọc sách cho cô ấy nghe nữa mà…”

    Ông lật hòn đá đặt trước cổng lên để lấy chìa khóa giấu dưới đó ra mở cửa. Mở cánh cổng ngôi nhà đã bỏ trống từ lâu, ông nhìn khắp nơi lòng đầy hy vọng. Nhưng chỉ có sự im lặng bên trong.

    Ông mời cô gái vừa tự giới thiệu là Hong Tea-hee vào nhà. Phải đọc sách cho bà ấy nghe sao? Cho vợ mình ư? Ông chưa bao giờ nghe vợ đề cập đến Ngôi nhà Hy vọng hay Hong Tea-hee cả. Vừa bước vào sân, Hong Tea-hee đã cất tiếng gọi, “Cô ơi.” Có vẻ như cô ấy không thể tin được chuyện vợ ông đã mất tích. Không có câu trả lời, gương mặt của cô Hong Tea-hee trở nên thận trọng hơn. “Cô ấy đã bỏ nhà đi hả bác?

    “Không, bà ấy bị lạc.”

    “Sao cơ ạ?”

    “Bà ấy bị lạc ở Seoul.”

    “Thật thế sao?” Đôi mắt Tea-hee mở to kinh ngạc. Cô kể rằng mười năm nay vợ ông thường đến Ngôi nhà Hy vọng để tắm rửa, giặt giũ cho lũ trẻ và chăm sóc mảnh vườn trước sân.

    Vợ mình ư?

    Tea-hee bảo rằng vợ ông là người rất đáng kính, mỗi tháng bà quyên góp 450.000 uôn cho Ngôi nhà Hy vọng, đều đặn như thế đã mấy năm rồi.

    450.000 uôn mỗi tháng ư?

    Hằng tháng các con ông ở Seoul chung nhau gửi về cho vợ ông 600.000 uôn. Dường như chúng nghĩ rằng với số tiền đó ở nông thôn thì hai người có thể sống thoải mái. Mà thật, đó không phải khoản tiền nhỏ. Hồi đầu vợ ông chia sẻ khoản tiền đó với ông, nhưng đến một ngày bà bảo bà sẽ sử dụng toàn bộ số tiền đó. Ông băn khoăn không biết sao tự nhiên bà lại thành ra như thế, nhưng vợ ông bảo đừng có hỏi bà dùng số tiền đó vào việc gì. Bà nói bà có quyền sử dụng khoản tiền đó vì bà đã một mình nuôi cả mấy đứa con. Có vẻ như bà đã nghĩ về điều này từ rất lâu rồi. Nếu không, bà đã chẳng bảo, “Tôi thấy mình có quyền sử dụng toàn bộ số tiền đó.” Đó không phải là cách ăn nói của vợ ông. Nó nghe giống như lời thoại trên phim truyền hình. Ông đoán chắc trong mấy ngày liền vợ ông đã một mình tập nói câu đó với không trung.

    Có lần, vợ ông yêu cầu ông sang tên ba mảnh ruộng cho bà ấy. Ông hỏi bà ấy sao lại phải làm vậy, thì bà nói vì cuộc sống của bà có cảm giác như chẳng có ý nghĩa gì. Sau khi tất cả con cái đều thoát ly, bà cảm thấy mình thật vô tích sự. Chuyện này xảy ra ngay sau ngày lễ phụ mẫu mồng tám tháng Năm, chẳng có đứa con nào gọi điện về. Hôm đó, vợ ông tự đến cửa hàng văn phòng phẩm trong thị trấn mua hai bông hoa cẩm chướng, mỗi bông đính một dải ruy băng có ghi dòng chữ, Cảm ơn cha mẹ vì đã sinh thành và nuôi dưỡng con.

    Thấy ông đang đứng trên con đường mới làm, bà giục ông về nhà. “Lỡ ai nhìn thấy chúng ta thì sao?” Dù đã về đến nhà, bà vẫn nài nỉ ông vào trong phòng đóng cửa lại, rồi cài một bông cẩm chướng lên ngạc áo khoác của ông.

    “Mọi người sẽ nói gì khi thấy chúng ta không có hoa cài áo, khi mà ai cũng biết chúng ta có mấy đứa con? Thế nên tôi mua mấy bông hoa này.” Vợ ông cũng cài một bông hoa cẩm chướng lên trước ngực áo khoác của mình. Bông hoa cứ rơi ra khiến bà phải cài lại hai lần mới được. Ông gỡ bỏ bông hoa ngay sau khi ra khỏi nhà, còn bà vẫn đeo bông hoa ấy cho đến hết ngày. Đến ngày hôm sau, bà ốm nằm bẹp trên giường. Bà rên rỉ trằn trọc suốt mấy đêm, rồi bà ngồi phắt dậy và yêu cầu ông sang tên ba mảnh ruộng cho bà. Khi ông giải thích rằng tất cả đất đai của ông cũng đều là đất đai của bà và nếu chỉ có ba mảnh đất sang tên Parl So-nyo thì bà sẽ rất thiệt bởi vì như vậy rõ ràng tất cả phần đất còn lại đều là của ông, bà tỏ ra rất thất vọng và bảo chắc là thế thật.

    Nhưng vợ ông rất cương quyết khi nói bà muốn giữ tất cả số tiền các con gửi về. Ông hoàn toàn không có ý phản đối thái độ của vợ khi bà nói vậy. Vì ông nghĩ nếu ông phản ứng thì hai người sẽ cãi nhau to. Ông đã đồng ý với một điều kiện. Vợ ông có thể giữ toàn bộ số tiền đó, bù lại bà không được giám sát ông. Vợ ông bảo như thế cũng được. Ông không thấy vợ bỏ tiền ra mua sắm quần áo để mặc hay làm việc gì đặc biệt, nhưng có lần bí mật kiểm tra sổ tài khoản ông thấy số tiền 450.000 uôn được rút ra từ tài khoản ngân hàng vào cùng một ngày hằng tháng, rút một cục. Nếu tiền về chậm, bà gọi điện cho đứa con gái chịu trách nhiệm thu tiền của anh chị em rồi gửi về nhà, nhắc nhở nó gửi tiền. Vợ ông tự hồi nào tới giờ có vậy đâu. Tuy không hỏi vợ dùng số tiền đó vào việc gì, ông đã hứa sẽ không hỏi, nhưng ông nghĩ bà đang lấy 450.000 uôn mỗi tháng cất vào tài khoản tiết kiệm, để tạo ra mục đích mới cho cuộc sống. Có lần ông đã cố tìm sổ tài khoản tiết kiệm của bà, tin rằng đó là mục đích của khoản tiền kia, nhưng không tìm thấy gì. Nếu những gì cô Hong Tea-hee nói là thật, vợ ông đã ủng hộ cho Ngôi nhà Hy vọng của khu Namsan 450.000 uôn mỗi tháng suốt thời gian qua. Ông vô cùng ngạc nhiên trước người vợ của mình.

    Cô Hong Tea-hee nói với ông rằng bọn trẻ còn trông ngóng cô Park hơn cả bản thân cô. Cô kể với ông về cậu bé tên là Kyun, vợ ông đã thực sự trở thành mẹ của thằng bé, thế nên Kyun buồn lắm khi vợ ông đột nhiên không đến trại trẻ mồ côi nữa. Thằng bé bị bỏ rơi trước trại trẻ mồ côi khi chưa đầy sáu tháng, ngay đến cái tên cũng không có, chính vợ ông đã đặt tên cho thằng bé là Kyun.

    “Cô bảo bà ấy đặt tên cho nó là Kyun ư?”

    “Vâng, Kyun ạ.”

    Hong Tea-hee kể sang năm Kyun sẽ vào cấp hai. Vợ ông đã hứa rằng đến ngày đó sẽ mua cặp sách và đồng phục cho nó. Kyun. Một nỗi ớn lạnh tràn ngập lòng ông. Ông yên lặng nghe câu chuyện của cô Hong Tea-hee. Ông không tin nổi vợ ông đã thường xuyên lui tới trại trẻ mồ côi của khu Namsan hơn chục năm nay mà ông không hề hay biết. Ông băn khoăn chẳng biết người vợ mất tích của mình có phải chính là người phụ nữ mà cô Hong Tea-hee đang nói đến hay không. Bà ấy đã tới Ngôi nhà Hy vọng từ khi nào? Sao bà ấy không hề nói gì với ông? Ông nhìn chằm chằm vào tấm ảnh người vợ trên mẩu tin quảng cáo rồi lặng lẽ đi vào trong phòng. Ông lấy cuốn album để tận trong góc ngăn kéo, rút ra một tấm ảnh của vợ mình. Đó là tấm ảnh vợ ông chụp cùng cô con gái khi đứng trên con đê ngoài biển, hai mẹ con giữ chặt tà áo bay phần phật trong gió. Ông đưa tấm ảnh cho cô Hong Tea-hee xem. “Có đúng là người cô đang nói đến đây không?”

    “Trời ơi! Đúng là cô Park rồi!” Cô Hong Tea-hee reo lên mừng rỡ như thể gặp được chính vợ ông vậy. Dường như vợ ông trong tấm ảnh, cau mày lại vì nắng, đang nhìn ông.

    “Cô nói đã hứa sẽ đọc sách cho bà ấy, chuyện đó là thế nào?”

    “Cô Park đã tự nguyện gánh vác mọi việc khó khăn ở Ngôi nhà Hy vọng. Cô đặc biệt thích tắm gội cho bọn trẻ. Cô ấy chịu khó lắm, cứ lần nào cô ấy tới thăm là cả trại mồ côi sáng sủa hẳn lên. Khi cháu hỏi cháu có thể làm gì để cảm ơn cô thì cô ấy nói mọi người không cần phải làm gì cả. Thế nhưng một hôm, cô ấy cầm một quyển sách đến bảo cháu rằng mỗi lần cô tới cháu hãy dành một tiếng đồng hồ đọc cho cô nghe. Cô ấy bảo đó là quyển sách cô ấy rất thích, nhưng do mắt ngày càng kém nên cô ấy không đọc được.”

    Ông im lặng.

    “Là quyển sách này đây.”

    Ông nhìn quyển sách mà cô Hong Tea-hee lấy từ trong cặp ra. Cuốn sách của con gái ông.

    “Tác giả của cuốn sách này sinh ra ở vùng này. Cháu nghe nói cô ấy từng học cấp một và cấp hai ở đây. Cháu nghĩ vì thế mà cô nhà mình rất thích nữ tác giả ấy. Cuốn sách gần đây nhất cháu đọc cho cô Park cũng là của tác giả này.”

    Ông cầm lấy cuốn sách do chính cô con gái mình viết. Quyển sách có nhan đề Hoàn thiên tình yêu. Thế là vợ ông đã rất muốn đọc tiểu thuyết của cô con gái. Vợ ông chưa bao giờ nói với ông về chuyện đó. Ông thậm chí không lúc nào nghĩ tới việc đọc sách của con gái cho vợ mình nghe. Liệu có ai khác trong gia đình biết chuyện vợ ông không biết đọc không? Khi ông phát hiện ra vợ ông không biết đọc, bà trông rất tổn thương, như thể ông vừa xúc phạm bà vậy. Vợ ông luôn cho rằng mọi việc ông từng gây ra đều là do ông coi thường bà vì bà không biết chữ – bỏ nhà đi hồi trẻ, to tiếng mắng nhiếc bà nhiều lần, trả lời bà một cách thô lỗ, “Bà muốn biết làm gì chứ?” Đó không phải lý do ông làm những việc đó, nhưng ông càng phủ nhận thì vợ ông lại càng quả quyết đó là sự thực. Giờ đây ông tự hỏi không biết thực ra mình có coi thường bà không, một cách vô thức, như bà vẫn khăng khăng khẳng định. Ông hoàn toàn không ngờ rằng một người lạ đang đọc sách của con gái ông cho vợ ông nghe. Vợ ông hẳn đã phải cố gắng bao nhiêu mới giấu được cô gái này chuyện mình không biết đọc. Khao khát đọc cuốn tiểu thuyết của con gái mình, nhưng vợ ông không thể nói với cô gái này rằng nữ tác giả chính là con gái mình, mà lại nói do mắt mình kém nên mới đề nghị cô ấy đọc to lên cho bà nghe. Mắt ông cay xè. Vợ ông đã phải kiềm chế bao nhiêu để không khoe về con gái mình với cô gái này?”

    “Chà, bà ấy tồi thật đấy!”

    “Sao ạ?” Cô Hong Tea-hee tròn mắt ngạc nhiên nhìn ông.

  8. #17
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    03 Rose Hãy Chăm Sóc mẹ

    Nếu đã muốn đọc đến thế thì đáng lẽ bà ấy phải bảo tôi đọc cho mà nghe chứ? Ông xoa xoa hai bàn tay lên khuôn mặt đã chai sạn. Nếu vợ ông nhờ ông đọc cuốn sách đó thì ông có đọc cho bà nghe không? Trước khi vợ ông bị lạc, dường như ông cứ sống thế mà chẳng nhớ gì tới vợ mình. Còn những lúc ông nghĩ đến bà thì chỉ là khi ông yêu cầu bà làm việc gì đó hoặc đổ lỗi hoặc phớt lờ bà mà thôi. Thói quen quả là thứ đáng sợ. Ông thường ăn nói rất nhã nhặn với người khác, nhưng khi nói với vợ mình thì lời lẽ của ông lại trở nên nặng nề. Đôi khi ông còn chửi rủa vợ. Ông hành động cứ như thể có quy định rằng ông không được ăn nói lịch sự với vợ mình. Ông đã làm như thế đấy.

    “Tôi về đây rồi,” ông cứ lẩm bẩm với ngôi nhà vắng, sau khi cô Hong Tea-hee đã ra về.

    Tất cả những gì ông muốn trong đời là rời khỏi ngôi nhà này – từ khi ông còn trẻ, sau khi đã lập gia đình, và thậm chí sau khi đã có con. Cứ nghĩ đến việc mình sinh ra ở ngôi làng nghèo nàn hiu quạnh ở miền Nam đất nước này, rồi cứ sống như vậy cho đến chết ở trong cùng một ngôi nhà là ông cảm thấy vô cùng chán nản. Mỗi khi như vậy, ông lại bỏ nhà đi phiêu bạt khắp các tỉnh thành, chẳng để lại một lời nhắn nhủ. Mỗi khi sắp đến lễ tết, ông trở về nhà giống như một kẻ lang thang tuân theo mệnh lệnh cài đặt sẵn trong gien. Sau đó, ông lại bỏ nhà ra đi và chỉ bò về nhà khi đã mệt mỏi rã rời. Một hôm, sau khi cơ thể đã bình phục, ông tập đi xe máy. Ông bỏ nhà ra đi lần nữa, đèo theo sau một người phụ nữ không phải vợ ông. Nhiều lần ông đã nghĩ mình sẽ không bao giờ trở về ngôi nhà này nữa. Ông muốn quên hẳn ngôi nhà này, đi đến miền đất lạ và sống cuộc sống mới. Nhưng cuộc sống mới của ông chẳng thể kéo dài được quá ba mùa.

    Khi những điều mới lạ dần trở nên quen thuộc, những thứ vợ ông không tiếc công nuôi trồng và chăm sóc lại lởn vởn trước mắt ông. Lũ chó con, đàn gà, những củ khoai tây đào mãi không hết… rồi các con ông.

    Trước khi ông mất dấu vợ ở ga tàu điện ngầm Seoul, vợ ông đơn thuần chỉ là mẹ của Hyong-chol. Mẹ của Hyong-chol như cái cây lúc nào cũng đứng nguyên một chỗ, cho đến khi ông thay mình đối mặt với thực tế là có thể không bao giờ gặp lại người vợ nữa. Một cái cây sẽ không bao giờ lay chuyển nếu không bị chặt hay nhổ đi. Sau khi mẹ của Hyong-chol bị mất tích, ông mới nhận ra rằng người mất tích chính là vợ mình. Hình ảnh người vợ mà ông đã gần như lãng quên suốt năm mươi năm qua đang hiện lên rõ ràng trong tâm trí ông. Chỉ sau khi vợ ông biến mất, bà mới trở nên hữu hình với ông, như thể cứ đưa tay ra là ông có thể chạm được vào bà.

    Chỉ đến tận bây giờ, ông mới thực sự nhận ra tình cảnh của vợ mình vài ba năm gần đây. Vợ ông đã chìm sâu vào trạng thái vô cảm. Bà thường rơi vào tình trạng không nhớ được bất cứ điều gì. Đôi khi bà ngồi phịch trên con đường làng quen thuộc, không tìm thấy lối về nhà. Cũng có lúc vợ ông cứ nhìn chăm chăm vào cái nồi hay cái chum bà đã dùng suốt năm mươi năm qua, ánh mắt đầy băn khoăn, “Cái này để làm gì thế nhỉ?” Bà không còn quan tâm đến chuyện dọn dẹp nhà cửa nữa, tóc rụng vương vãi khắp nơi cũng chẳng quét đi. Có những lần vợ ông không theo kịp lời thoại của một bộ phim truyền hình ngày nào bà cũng xem. Bà còn quên cả bài hát bà vẫn hay hát mấy chục năm qua, bài hát bắt đầu bằng câu, “Nếu ai hỏi tình yêu là gì…” Cũng có lúc, vợ ông dường như không nhớ nổi ông là ai. Có khi thậm chí quên cả chính mình.

    Nhưng không phải lúc nào cũng thế.

    Vợ ông có thể nhớ một số chi tiết hết sức nhỏ nhặt, như thể bà giành lại được thứ gì đó từ khối nước đã bốc hơi. Một hôm bà kể lại chuyện có lần ông bọc ít tiền vào một tờ báo và cài vào khe cửa nhà kho trước khi ông bỏ nhà ra đi. Vợ ông nói rằng mặc dù khi đó bà không nói gì, nhưng bà rất biết ơn vì ông đã để lại số tiền đó. Bà bảo nếu không phát hiện ra số tiền gói trong tờ báo đó thì không biết bà sẽ phải xoay xở thế nào. Một lần khác, vợ ông nhắc ông phải chụp lại một tấm ảnh mới cho cả nhà. Vì trong bức ảnh gia đình chụp chung lần trước không có đứa con mà cô con gái thứ của ông bà sinh bên Mỹ.

    Phải đến tận bây giờ ông mới đau đớn nhận ra rằng, ông đã thờ ơ trườc tình trạng lẫn lộn của vợ mình.

    Khi những cơn đau đầu khiến vợ ông như ngất lịm đi, phải quấn miếng vải quanh đầu cho đỡ đau, ông vẫn nghĩ rằng bà đang ngủ. Ông ước gì bà đừng có bạ đâu nằm đấy ngủ. Khi vợ ông đang loạng choạng, loay hoay mãi không mở được cửa, ông thậm chí còn to tiếng bảo bà phải mở mắt ra mà nhìn xem mình đi đâu chứ. Chưa bao giờ nghĩ tới việc phải chăm sóc vợ, ông không thể hiểu được rằng ý thức về thời gian của vợ ông đang ngày càng trở nên hỗn độn. Khi vợ ông quấy cám đổ vào cái máng trong chuồng lợn trống trơn rồi ngồi xuống bên cạnh gọi tên con lợn mà ông đã nuôi từ hồi xưa và lẩm bẩm, “Lần này mày phải đẻ ba con đấy nhé, đừng có đẻ một con đấy… được thế thì mày ngoan lắm,” ông chỉ nghĩ vợ mình đang đùa vui vớ vẩn. Cách đây rất lâu rồi, con lợn đó đã đẻ một lứa ba con. Vợ ông đã bán lũ lợn con đi để mua cho Hyong-chol một chiếc xe đạp.

    “Bà ở trong đó à? Tôi về rồi đây!” Ông gọi to về phía ngôi nhà trống rồi lắng tai nghe.

    Ông mong chờ tiếng đáp trả đầy hoan hỉ của người vợ, “Ông về rồi đấy à!” nhưng ngôi nhà trống vẫn hoàn toàn im lặng. Bất cứ khi nào trở về nhà, chỉ cần ông gọi, “Tôi về rồi đây” là ngay lập tức vợ ông sẽ thò đầu ra từ đâu đó trong ngôi nhà này.

    Vợ ông không ngừng chì chiết ông. “Sao ông không bỏ rượu đi? Chẳng có tôi ông vẫn sống được, vậy mà không có rượu là ông không sống nổi hay sao? Mấy đứa con lần nào gọi điện về cho tôi cũng rất lo lắng chuyện ông nghiện ngập rượu chè, thế mà sao ông vẫn không bỏ được cái thói ấy đi chứ!” Vợ ông vừa đay nghiến ông vừa giúi vào tay ông cốc nước lá vừng đun với mấy quả nho khô Nhật Bản. “Nếu ông mà còn say rượu rồi vác cái thân tàn về một lần nữa là tôi sẽ bỏ ông đi đấy… Bác sĩ ở bệnh viện chả nói rồi còn gì, rượu là thứ tối kỵ với ông. Nếu ông không còn muốn thấy cuộc đời đẹp đẽ này nữa thì ông cứ việc uống tiếp đi!”

    Vợ ông luôn thất vọng não nề như thế mỗi khi ông đi ăn trưa với mấy người bạn rồi chén chú chén anh đến say khật khưỡng mới về nhà, cứ như thể trời sắp sụp đến nơi. Ông không hề biết rằng một ngày kia ông lại thấy nhớ những lời đay nghiến của vợ mình, vốn trước đây vừa chui vào tai trái thì đã lọt qua tai phải.

    Nhưng giờ đây ông không thể nghe gì nữa, mặc dù khi xuống tàu trước nhà ga để làm một chén, chỉ để khi về nhà được nghe thấy tiếng chì chiết đó của vợ.

    Ông nhìn cái chuồng chó đặt gần cổng vào sân bên. Đáng lẽ con chó phải sủa chứ, đằng này trong nhà hoàn toàn tĩnh lặng. Ông không thấy sợi dây xích dâu; chắc chị gái ông đã mang con chó sang bên nhà vì thấy mệt khi cứ phải qua cho nó ăn. Ông không đóng ngay cổng lại mà cứ để ngỏ rồi bước qua sân vào ngồi xuống thềm. Những lần vợ ông lên Seoul một mình, ông thường ngồi trên thềm như thế này. Khi vợ ông gọi điện từ Seoul về hỏi, “Ông đã ăn uống gì chưa?” thế nào ông cũng hỏi lại, “Thế bao giờ bà về?”

    “Sao chứ? Ông nhớ tôi à?”

    Ông sẽ trả lời, “Nhớ cái gì mà nhớ, bà không phải lo cho tôi, lần này cứ ở chơi cho chán đi rồi khi nào thích thì hãy về.” Nhưng cho dù ông có nói gì đi nữa, chỉ cần nghe ông hỏi, “Bao giờ bà về?” là vợ ông trở về nhà ngay, bất kể lý do nào đã đưa bà ấy lên Seoul. Khi vợ về, ông lại nói như thể trách móc, “Sao bà về sớm thế? Tôi đã bảo bà cứ ở đấy bao lâu tùy thích mà lại…” Bà vừa lườm ông vừa bảo, “Ông tưởng tôi về vì ông chắc? Tôi về cho con chó nó ăn đấy chứ.”

    Chính những gì vợ ông chăm sóc đã khiến ông vứt bỏ hết mọi thứ ông có được ở những nơi mới lạ để trở về nhà. Mỗi khi mở cổng bước vào nhà, ông lại thấy vợ mình đầu quấn cái khăn cáu bẩn, đang vừa bới khoai lang hay làm men rượu vừa để ý Hyong-chol học bài bên bàn. Chị ông thích nói rằng nguyên nhân khiến ông thích đi lang bạt là do hồi còn trẻ ông thường xuyên không ngủ ở nhà để trốn khỏi phải tham gia quân dịch. Mặc dù thực ra không phải ông muốn trốn tránh nhập ngũ. Một lần ông thậm chí còn đi đến đồn cảnh sát vì đã quá mệt mỏi với việc trốn tránh. Chú ông, một cảnh sát chỉ hơn ông năm tuổi, đã đuổi ông về. Ông chú nói: Dù dòng họ có tàn lụi đi chăng nữa, thì người trưởng tộc vẫn phải sống. Dù cả gia tộc có sa sút thì người trưởng tộc vẫn phải sống để duy trì mồ mả tổ tiên và lo giỗ chạp cúng tế. Nhưng đó xem ra chẳng phải lý do đủ chính đáng để chú ông đặt ngón tay trỏ của ông dưới chiếc liềm rồi xẻo đi một đốt. Bởi vì thực ra việc chăm sóc mồ mả tổ tiên và chuẩn bị cúng tế mỗi mùa trong năm đều do một tay vợ ông làm cả. Đó có phải là lý do không? Có phải ông trở thành một kẻ lang thang là bởi vì trước đây ông phải rời nhà ra ngoài ngủ dưới sương dưới tuyết không? Có lẽ đúng như thế thật. Thói quen ngủ ngoài đường có lẽ chính là lý do tại sao ông cứ lang thang xa nhà. Khi ngủ ở nhà ông luôn thấp thỏm lo sợ sẽ có người nhảy bổ qua cổng vào bắt ông đi. Có lần thậm chí ông còn chạy ào ra khỏi ngôi nhà này vào lúc nửa đêm như thể có ai đó đang rượt đuổi.

    Một đêm đông, ông trở về nhà thấy các con đều đã lớn tướng. Trời lạnh cắt da cắt thịt nên mấy mẹ con tập trung cả vào một phòng ngủ chung với nhau. Vợ ông lặng lẽ đi lấy bát cơm ủ ở cạnh lò sưởi và lôi cá ở bàn ăn phủ khăn ra đặt trước mặt ông. Đó là một đêm bão tuyết rất to. Vợ ông nướng rong biển trên bếp lò. Mùi thơm nức của dầu tía tô đánh thức từng đứa con ông, cả lũ chúng chạy đến ngồi quanh bố. Ông cuốn cơm với rong biển vợ ông vừa nướng rồi đút vào miệng cho từng đứa con một. Ông lần lượt đút cho thằng lớn, sau đó đến thằng thứ hai, rồi đến cô con gái lớn. Cô con gái thứ và đứa con út vẫn chưa được bố đút miếng nào vào miệng thì thằng anh lớn đã lại há miệng chờ bố cuốn cho miếng khác. Tốc độ cuốn cơm rong biển của ông không kịp so với tốc độ ăn của lũ con. Chẳng mấy chốc, ông đã thấy sợ sự háu ăn của chúng. Ông nghĩ thầm không biết làm thế nào nuôi được cả lũ con này. Đó là khi ông quyết định phải quên đi thế giới bên ngoài, ông không thể rời ngôi nhà này lần nữa.

    “Tôi đã về đây!”

    Ông mở cửa phòng ngủ nhìn vào trong. Không có ai trong phòng. Mấy chiếc khăn gập ngay ngắn đặt ở góc phòng, vợ ông đã đặt chúng ở đó trước khi ông đưa bà lên Seoul. Cốc nước ông dùng để uống thuốc vào buổi sáng hôm lên thành phố đặt trên sàn nhà giờ đã khô hết nước. Đồng hồ treo tường chỉ đúng ba giờ chiều, bóng bụi trúc ngả lên cánh cửa phòng hướng ra sân sau.

    “Tôi bảo tôi về rồi đây.” Ông thì thầm một mình với căn phòng trống, đôi vai ông trĩu xuống. Ông đã nghĩ gì vậy? Ông khước từ cậu con trai cả cứ kiên quyết phản đối chuyện ông bỏ về nhà một mình, và đón chuyến tàu sáng về nhà. Một góc nhỏ trong trái tim ông hy vọng rằng, khi ông bước vào nhà và gọi to, “Bà ở trong đó à? Tôi về rồi đây này!” vợ ông sẽ chào đón ông như ngày xưa, “Ông về rồi đấy à!” Có lẽ khi đó vợ ông đang lau sàn hoặc nhặt rau trong kho hoặc đãi gạo ở bếp. Ông cứ nghĩ điều đó có thể sẽ xảy ra. Nhưng ngôi nhà hoàn toàn trống trải. Cảm giác thật hiu quạnh, cứ như nó đã bị bỏ hoang từ rất lâu rồi.

    Ông đứng dậy mở toang tất cả cửa phòng của ngôi nhà trống trải để nhìn vào trong. Ông mở cửa phòng ngủ rồi phòng ngách rồi nhà bếp và cả cửa phòng sưởi để tìm kiếm. Cứ mở một cánh cửa là ông lại hỏi, “Bà ở trong đấy à?” Từ khi sống trong ngôi nhà này, đây là lần đầu tiên ông sốt sắng đi tìm vợ mình như vậy. Vợ ông có tìm ông như thế này mỗi lần ông bỏ nhà ra đi hay không? Ông chớp chớp đôi mắt khô rang rồi mở cánh cửa nhà bếp, nhìn về phía nhà kho mà lẩm bẩm, “Bà có ở trong đó không?” Chỉ có cái phản gỗ đứng trong đó, chơ vơ.

    Trước đây đôi khi ông cũng đứng ở đúng chỗ này quan sát vợ đang luôn tay luôn chân làm việc gì đó trong gian nhà kho, lúc ấy cho dù ông không gọi thì vợ ông vẫn nhìn về phía ông và hỏi, “Gì thế ông? Ông cần cái gì à?” Nếu ông bảo, “Mấy đôi tất của tôi đâu ấy nhỉ, tôi định vào trong thị trấn một lát,” thì vợ ông sẽ vội vàng tháo đôi găng tay cao su ra rồi đi vào trong nhà để lấy quần áo cho ông.

    Ông nhìn chăm chăm vào gian nhà kho trống không và lẩm bẩm, “Này… tôi đói bụng rồi. Tôi muốn ăn cái gì đó!”

    Mỗi khi ông nói muốn ăn cái gì đó, thì cho dù có đang giã hồ tiêu hay xếp lá vừng hay muối cải thảo đi chăng nữa, vợ ông đều dừng ngay lại không chút lưỡng lự, tiến đến chỗ ông mà nói, “Tôi đã hái được một ít lá ba chưởng trên núi đấy, ông có muốn ăn bánh lá ba chưởng không? Ông đợi tôi rán với bột cho mà ăn!” Tại sao lúc đó ông không nhận ra rằng mình đang có một cuộc sống yên bình và may mắn? Chưa bao giờ ông nấu cho vợ mình một bát canh rong biển, vậy mà tại sao ông lại nhận tất cả những gì vợ làm cho một cách thản nhiên như thế? Một lần vợ ông vào thị trấn về có nói chuyện với ông, “Ông này, ông biết ông hàng thịt ở chợ mà ông hay ghé qua chứ? Hôm nay tôi đi ngang qua đó, vợ ông ấy cứ gọi mãi nên tôi vào chơi. Bà ấy mời tôi một bát canh rong biển, thế là tôi hỏi có dịp gì vậy. Bà ấy nói rằng hôm nay là sinh nhật của bà ấy nên ban sáng ông chồng đã nấu cho bà ấy cả một nồi canh rong biển.” Ông chỉ lặng im lắng nghe, và vợ ông nói tiếp, “Nó không ngon lắm. Nhưng đây là lần đầu tiên tôi thấy ghen tị với vợ ông hàng thịt.”

    Đôi mắt khô cằn của ông chớp chớp. Giờ này bà đang ở đâu… Chỉ cần vợ ông có thể trở về ngôi nhà này thì không chỉ món canh rong biển mà ông còn làm cả bánh cho bà ấy nữa. Bà đang trừng phạt tôi ư… Đôi mắt khô cằn của ông đã đẫm lệ.

    Ông bỏ nhà ra đi bất cứ khi nào ông muốn và chỉ trở về nhà lúc ông thích, nhưng ông chưa từng nghĩ rằng vợ mình sẽ là người ra đi trước.

    Phải đến khi người vợ bị lạc, ông mới nhớ lại lần đầu tiên ông gặp vợ mình. Đó là sau khi hai gia đình quyết định hôn sự mà hai người chưa hề biết mặt nhau. Chiến tranh đã kết thúc nhờ thỏa thuận ngừng bắn tại Bàn Môn Điếm giữa chỉ huy của đội quân Liên hiệp quốc và chỉ huy của lực lượng cộng sản, nhưng tình hình xã hội còn lộn xộn hơn cả trong thời chiến. Thời gian đó, quân lính Bắc Triều Tiên đói khát cứ tối đến lại kéo ra khỏi chỗ ẩn náu trên núi rồi tràn xuống cướp bóc làng mạc. Khi màn đêm buông xuống, những gia đình có con gái đến độ tuổi gả chồng lại cuống quýt mang con gái đi trốn. Tin đồn lính tráng từ trên núi tràn xuống bắt cóc các cô gái trẻ lan khắp các làng. Có nhà còn đào cả hầm ở gần đường sắt để giấu con gái ở đó. Những nhà khác thì tụ tập cả lại một nhà và nơm nớp suốt cả đêm. Cũng có nhà vội vàng gả chồng sớm cho con gái. Ngôi làng mà vợ ông sinh ra và sống ở đó cho đến khi lấy ông có tên là Chinmoe. Lúc chị cả của ông nói rằng ông sẽ lấy một cô gái ở làng Chinmoe, ông mới tròn hai mươi tuổi. Chị ông nói rằng, đó là cô gái có số tử vi rất hợp với số tử vi của ông. Làng Chinmoe. Đó là một ngôi làng miền núi cách làng của ông chừng mười dặm. Hồi đó, người ta cứ cưới xin khi chưa hề gặp mặt nhau lần nào. Lễ cưới sẽ được tổ chức vào tháng Mười ở sân nhà cô gái trẻ, một thời điểm nào đó sau khi đã thu hoạch hết lúa ngoài cánh đồng. Sau khi ngày kết hôn được ấn định, cứ thấy ông cười là mọi người lại trêu, bảo rằng chắc ông phải vui lắm vì được lấy vợ. Ông chẳng thích mà cũng chẳng không thích chuyện này. Chị ông phải làm hết mọi việc trong nhà, vì thế mọi người đều nói ông phải nhanh chóng lấy vợ để còn có người chăm sóc gia đình. Mặc dù điều này rất đúng, nhưng ông nghĩ ông không thể chung sống với người phụ nữ mà mình chưa hề gặp mặt dù chỉ một lần.

    Ông không bao giờ muốn làm nghề nông cả đời tại ngôi làng này và kết thúc cuộc đời ở đó. Vào thời điểm mà ngay cả trẻ con cũng phải ra đồng vì nhà thiếu người làm, ông lại thích lang thang trong thị trấn cùng hội bạn. Ông đã lên kế hoạch bỏ làng tới một thành phố khác gây dựng một xưởng ủ bia với hai người bạn tâm đầu ý hợp. Ông mải mê với việc hùn vốn làm ăn chứ không hề quan tâm đến chuyện cưới xin, vậy điều gì đã khiến ông đi sang làng Chinmoe?

    Ngôi nhà của người con gái đã hứa hôn với ông vào tháng Mười này là một túp lều xiêu vẹo, phía sau là một bụi tre rậm rạp bao quanh. Cô mặc chiếc áo choàng bằng vải bông, ngồi ở thềm túp lều thêu hình chim phượng hoàng trên khung thêu. Ánh sáng phủ lên mái lều và sân, nhưng khuôn mặt cô gái vẫn u tối. Thỉnh thoảng cô lại ngước mắt lên nhìn bầu trời. Cô cứ nhìn đàn ngỗng bay thành hàng trên nền trời trong xanh cho đến khi chúng mất dạng. Cô gái đứng dậy đi ra ngoài. Ông theo cô ra ruộng bông phía sau túp lều. Mẹ vợ tương lai của ông đang lom khom hái bông ngoài đó. “Mẹ ơi,” cô gái gọi mẹ từ xa. “Sao thế con?” bà mẹ vợ ông trả lời cô con gái nhưng không quay đầu lại mà vẫn tiếp tục hái bông. Những cục bông trắng xóa cứ bay lượn dập dờn theo cơn gió giữa hai mẹ con. “Mẹ ơi,” cô gái lại gọi mẹ một lần nữa. Bà mẹ vợ tương lai vẫn chỉ đáp lời mà không quay lại, “Sao thế con.”

    “Con không đi lấy chồng có được không hả mẹ?”

    Ông chết điếng người.

    “Cái gì?”

    “Con cứ sống với mẹ thế này không được à?”

    Những cục bông trắng xóa bay vút lên cao theo cơn gió.

    “Không được!”

    “Sao lại không được!” cô gái nói như muốn bật khóc.

    “Chẳng nhẽ mày muốn bọn người trên núi xuống bắt mày đi thì mày mới sướng à?”
    Last edited by giavui; 02-27-2012 at 01:50 AM.

  9. #18
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Vợ tương lai của ông không nói thêm câu gì, ngồi bệt xuống cánh đồng bông, xoãi chân ra rồi òa khóc. Lúc này, cô không còn là cô gái nghiêm trang, e lệ như lúc ngồi thêu trên thềm túp lều nữa. Cô khóc nức nở sầu thảm đến mức chỉ đứng quan sát cô từ phía sau mà ông cũng muốn bật khóc theo. Khi đó bà mẹ vợ tương lai của ông bước ra khỏi ruộng bông và tiến lại chỗ con gái.

    “Nào nào, con có cảm giác như thế là vì con hãy còn trẻ. Nếu không vì chiến tranh, mẹ sẽ giữ con ở lại với mẹ thêm vài năm nữa, nhưng chúng ta có thể làm gì được khi mà thế giới đáng sợ nhường này? Đi lấy chồng không phải là việc xấu xa đâu. Đó là việc con không thể tránh được vì con sinh ra ở vùng sơn cốc này. Mẹ không cho con đi học được, thế nên nếu không lấy chồng thì con có thể làm được gì? Mẹ đã xem bói cho hai đứa rồi, họ bảo hai đứa sẽ có rất nhiều phúc lộc. Con sẽ có đông con cái và không mất một đứa nào, chúng lớn lên đều khôn trưởng và thành đạt. Con còn mong muốn gì hơn nữa? Con người ta đến với thế gian này đều phải kết thành đôi lứa để chung sống hạnh phúc và sinh con đẻ cái rồi nuôi dạy con cái trưởng thành. Mẹ sẽ lấy bông trong ruộng này làm những tấm chăn đặc biệt cho chúng mày, thôi nín đi con.”

    Cô con gái vẫn cứ khóc rưng rức còn bà mẹ đưa tay vỗ vỗ lưng cô. “Thôi nào, nín đi nào…”

    Nhưng cô con gái vẫn không nín, đến lúc đó cả bà mẹ vợ ông cũng bật khóc nức nở.

    Nếu không chứng kiến cảnh hai mẹ con ôm nhau khóc ngoài cánh đồng bông, có lẽ ông đã bỏ nhà ra đi trước tháng Mười. Khi ông nghĩ đến cô gái trẻ ngồi thêu trên thềm căn lều ấy, cô gái đã cất tiếng gọi mẹ ngoài cánh đồng bông rồi ngồi phịch xuống đất khóc lóc thảm thiết, khi ông nghĩ rằng có thể một đêm nào đó cô gái sẽ bị lính trên núi xuống bắt đi mà không để lại dấu vết gì, ông đã không thể cất bước ra đi.

    Trở về ngôi nhà trống sau khi vợ đi lạc, ông ngủ ba ngày liền. Ông đã không tài nào ngủ được ở nhà Hyong-chol, cứ đêm đến ông lại nhắm mắt nằm yên lặng. Đôi tai ông đâm ra rất nhạy, chỉ cần ai đó mở cửa phòng đi vệ sinh ngang qua là ông mở mắt tỉnh ngay. Trong suốt thời gian ở đó, cứ mỗi khi đến bữa là ông đành phải ngồi xuống bàn ăn vì nghĩ đến những người khác, mặc dù ông không thiết ăn mà cũng chẳng thấy đói. Nhưng khi ở trong ngôi nhà trống trải của mình, ông không ăn uống gì mà chỉ ngủ như chết.

    Ông đã nghĩ rằng tình cảm của ông dành cho vợ mình không sâu sắc lắm, vì ông lấy bà sau chỉ đúng một lần gặp mặt, khi bà ngồi thêu chim phượng trên thềm rồi ra khóc nức nở ở ngoài cánh đồng bông. Nhưng mỗi lần bỏ nhà đi lang bạt, cứ sau một thời gian là hình ảnh người vợ lại hiện ra trong suy nghĩ của ông. Vợ ông mát tay nuôi bất cứ thứ gì. Nhà ông vốn không có duyên nuôi súc vật. Trước khi vợ ông về ngôi nhà này, cứ có con chó nào là con ấy chết mà chưa kịp sinh lứa nào. Con thì ăn phải bả chuột, con thì lăn xuống nhà vệ sinh. Có một lần, chẳng hiểu sao không ai để ý thấy con chó lết vào tận trong lò sưởi rồi chết thiêu trong lò. Mãi tới lúc ngửi thấy mùi thối bốc lên, ông mới đi nâng cái nắp lò để kéo xác con chó ra. Dù chị gái ông nói rằng cái nhà này không nuôi được chó, nhưng vợ ông vẫn sang hàng xóm bắt một con chó con mới đẻ, bịt mắt nó mang về nhà nuôi. Vợ ông tin là lũ chó rất thông minh, nếu không bịt mắt nó khi bắt đi, thế nào nó cũng sẽ tìm được đường về với mẹ nó. Vợ ông nuôi con chó ở phía dưới thềm, nó lớn nhanh như thổi và đẻ đến năm sáu lứa. Có những khi dưới thềm nhà ông có tới mười tám con chó con nô đùa. Vào mùa xuân, vợ ông cho lũ gà ấp trứng rồi nuôi ba mươi hoặc bốn mươi con, chỉ trừ mấy con bị diều hâu tha, còn lại đều sống cả. Vợ ông cũng rất mát tay trồng trọt. Khi bà gieo hạt giống ngoài vườn rau, chồi non mơn mởn sẽ tranh nhau đâm ra tua tủa, ăn chẳng kịp. Vợ ông trồng trọt rồi thu hoạch hết khoai tây, cà rốt lại tới khoai lang. Bà mà trồng cà tím thì suốt hè sang thu những trái cà cứ lúc lỉu đầy cành. Bàn tay vợ ông chạm vào cây nào là cây đó lớn nhanh như thổi. Bà bận luôn chân luôn tay, chẳng có cả thời gian để cởi chiếc khăn đẫm mồ hôi trên đầu ra. Cỏ dại ngoài đồng vừa mới nhú lên là đôi bàn tay của vợ ông đã nhổ đi ngay, thức ăn thừa trên bàn ăn sẽ được bà dồn vào bát của lũ chó. Vợ ông bắt ếch mang nấu chín rồi nghiền nhỏ để cho đàn gà ăn, sau đó lại hót phân gà mang ra rắc ngoài vườn rau, cứ như thế và như thế. Dưới bàn tay của bà, mọi thứ đều trở nên phì nhiêu màu mỡ, đâm chồi nảy lộc, ra hoa kết quả trĩu cành. Vợ ông mát tay đến mức ngay cả bà chị gái luôn tỏ ra khó chịu với bà cũng thường xuyên nhờ bà gieo hạt giống ngoài ruộng vườn hay trồng giúp cây hồ tiêu non.

    Đêm thứ ba kể từ khi về nhà, nửa đêm ông chợt tỉnh giấc, nằm im lặng nhìn chăm chăm lên trần nhà.

    “Kia là cái gì thế nhỉ,” ông thầm nghĩ rồi ngồi bật dậy nhìn kỹ cái hòm có vẽ hình lá cờ thái cực đặt trên nóc tủ quần áo. Ông vẫn còn nhớ có một buổi sáng vợ ông thức giấc rất sớm và đánh thức ông dậy. Ông đã tỉnh nhưng vì bực mình với vợ nên ông không thèm trả lời.

    “Chắc là ông vẫn còn đang ngủ.” Vợ ông thở dài thườn thượt. “Ông đừng có chết sau tôi đấy.”

    Ông vẫn không nói gì.

    “Tôi đã sắm sẵn vải liệm rồi. Tôi cất trong cái hòm có vẽ hình cờ thái cực để trên nóc tủ quần áo ấy. Bộ của tôi cũng cất trong đó. Nếu như tôi chết trước thì ông cũng đừng có ầm ĩ lên, nhớ là phải lấy vải liệm xuống trước tiên đấy. Lần này tôi cũng phóng tay một chút, mua loại vải gai dầu tốt nhất đấy. Người bán hàng nói họ tự tay trồng cây gai dầu rồi dệt thành vải. Ông mà nhìn thấy chắc cũng lác mắt cho mà xem. Đẹp lắm!” Vợ ông cứ lẩm bẩm như đọc thần chú mà không cần biết là ông có nghe hay không.

    “Hồi xưa vợ của bác Tamyang mất, bác ấy khóc rống cả lên. Bác ấy kể lại rằng trước lúc mất bác gái đã dặn đi dặn lại bác trai là không được mua vải đắt tiền để liệm. Bác gái bảo rằng bác ấy đã là sẵn bộ hanbok mặc hồi cưới, chỉ cần phủ tấm áo đó lên người bác gái để tiễn sang thế giới bên kia là được. Rồi bác gái còn bảo bác ấy xin lỗi vì ra đi trước, lại còn chưa kịp nhìn thấy con gái lấy chồng, cho nên bác trai không phải tiêu pha tốn kém làm gì. Bác trai cứ gục vào người tôi khi kể lại chuyện đó, bác ấy khóc nhiều đến nỗi ướt hết cả vai áo tôi. Bác ấy bảo bác ấy đã làm cho bác gái khổ nhiều. Thật đau xót khi nhà vừa có điều kiện hơn một chút thì bác gái đã ra đi, mà lại còn bắt bác trai hứa là không được tốn tiền mua lấy một chiếc áo đẹp cho bác ấy cho dù vào lúc bác ấy chết. Tôi thì tôi chẳng muốn như thế đâu! Tôi mà chết thì sẽ mặc áo đẹp đi cơ! Ông muốn ngắm thử không?”

    Thấy ông không nhúc nhích, vợ ông lại thở dài.

    “Ông nên đi trước tôi. Như thế là tốt nhất. Các cụ có bảo là người đến thì lần lượt chứ đi thì chẳng định ai trước ai sau đâu. Nhưng tôi với ông đi theo thứ tự nhé! Ông hơn tôi ba tuổi, vậy ông hãy đi trước tôi ba năm. Nếu còn tiếc nuối gì thì đi trước tôi độ ba bốn ngày cũng được. Tôi thì vẫn cứ sống trong ngôi nhà này thôi, rồi nếu thực sự không thể sống được một mình nữa thì qua nhà thằng cả ở để bóc tỏi hay lau nhà cho nó cũng được, chứ ông mà còn lại một mình thì biết làm gì? Sống đến ngần này tuổi rồi mà ông có biết làm cái gì đâu cơ chứ. Có người đã phục dịch ông cả cuộc đời rồi. Chẳng cần nhìn cũng rành rành ra đấy còn gì! Ông già nói chẳng ra hơi, lại chỉ nằm ườn trong phòng làm dậy mùi dậy mẽ thì ai mà ưa cho được? Tôi với ông giờ là gánh nặng cho mấy đứa rồi, chẳng còn ích gì cho chúng nó nữa. Người ta chả bảo, nhà nào có người già chỉ cần vào đến hiên là đã phát hiện ra ngay. Vì mùi mẽ bay ra chứ sao! Thế nhưng phụ nữ chúng tôi còn rửa ráy tắm táp, chứ mấy ông đàn ông nhà các ông mà còn có một mình thì bừa bãi bẩn thỉu lắm. Ông có muốn sống dai thì cũng đừng có sống lâu hơn tôi. Tôi chôn cất ông xong xuôi đâu đấy thì cũng theo ông ngay thôi… Tôi làm được thế mà.”

    Ông bắc ghế trèo lên để lấy xuống cái hòm có vẽ hình cờ thái cực trên nóc tủ quần áo. Không phải một, mà có đến hai cái hòm. Hình như cái hòm to đặt trước là của ông, còn cái ở đằng sau là của vợ ông thì phải. Kích cỡ của cái hòm trông cũng to hơn nhiều so với lúc ông nằm nhìn nó. Ông mang cái hòm xuống dưới nền nhà và mở nắp ra. Vợ ông bảo từ lúc cha sinh mẹ đẻ chưa bao giờ thấy miếng vải nào đẹp đến thế, bà ấy đã phải đi xa lắm mới kiếm về được. Ông mở nắp hòm ra, đập vào mắt ông là miếng vải trắng lóa, gói bên trong là mấy thứ đồ tang bằng vải gai. Ông mở từng nút buộc, rồi lấy từng thứ ra ngắm. Nào là miếng bọc đệm, bọc chăn, miếng bọc chân, bọc tay, tất cả đều được xếp theo thứ tự ngăn nắp. Bà đã bảo chôn cất tôi xong xuôi rồi mới đi cơ mà… Ông chớp chớp mắt nhìn chằm chằm vào cái túi sẽ đựng ngón tay và ngón chân của ông và vợ sau khi chết.

    “Ông ơi!” Hai đứa bé gái chạy ào qua cổng phụ tới chỗ ông và cất tiếng gọi. Đó là những đứa trẻ nhà Tae-sop sống ở gần con mương. Chẳng mấy chốc hai đứa rời chỗ ông rồi ngó nghiêng quanh nhà. Có lẽ chúng đang tìm vợ ông. Tea-sop bố lũ trẻ mở tiệm đồ Tàu ở Teajon, chẳng hiểu có việc gì không ổn mà lại đem hai đứa trẻ về gửi nhà bà chúng nó. Bà ấy tuổi cao, sức yếu đến chăm sóc cho bản thân còn khó, vậy mà từ hồi gửi chúng nó về chưa thấy bố chúng xuống hỏi thăm lần nào. Vợ ông cứ mỗi lần trông thấy hai đứa trẻ là lại chép miệng lẩm bẩm, Cho dù thằng bố Tae-sop của chúng nó có như thế đi nữa, nhưng con mẹ chúng nó là kiểu người gì mà cũng làm như vậy chứ? Hàng xóm đồn là vợ của Tae-sop phải lòng gã bếp trưởng nên cả hai đã rủ nhau bỏ đi rồi. Vợ ông mới chính là người lo cho hai đứa trẻ ăn uống chứ không phải bà nội chúng. Có lần, vợ ông thấy lũ trẻ không được ăn cơm bèn dẫn về nhà cho ăn sáng, thế là sáng hôm sau, lũ trẻ lại vác khuôn mặt ngái ngủ với đôi mắt đầy nhử kéo sang nhà ông. Vợ ông lấy thêm hai cái thìa và cho bọn trẻ ngồi trước bàn ăn, từ đó cứ mỗi khi đến bữa là lũ trẻ lại tìm sang nhà ông. Những lúc đến mà chưa có gì ăn bọn trẻ thường nằm sấp trên nền nhà chơi với nhau, rồi khi cơm vừa được dọn lên thì chúng liền tranh nhau chạy tới ngồi trước bàn ăn. Chúng phồng mồm trợn má lên ăn trông đến là khổ, cứ như thể chúng sẽ không bao giờ được nhìn thấy thức ăn nữa. Ông nhìn chúng với vẻ ái ngại; nhưng vợ ông lại đến bên chỗ hai đứa trẻ mà bà coi như hai đứa cháu mà xuýt xoa, “Chắc chúng đói lắm nên mới ăn uống như vậy.” Vợ ông còn nói, “Bây giờ đâu phải như thời đói ăn ngày xưa… lũ trẻ tìm đến với chúng ta thì chúng ta cũng bớt cô đơn.”

    Từ khi lũ trẻ bắt đầu sang nhà ông bà ăn cơm, dù là vào bữa sáng, vợ ông cũng sẽ làm thêm một đĩa cà tím và cá thu nướng. Khi con cháu trên Seoul về thăm mang theo hoa quả bánh kẹo, bà sẽ để dành cho đến khi lũ trẻ thò đầu sang nhà bà vào tầm bốn giờ chiều. Chẳng mấy chốc, không chỉ có ba bữa cơm mà lũ trẻ còn trông ngóng cả phần quà vặt nữa, và vợ ông cũng bắt đầu đảm nhiệm việc chăm sóc cho chúng. Đó là thời điểm vợ ông hay được người khác dắt về nhà. Ông không hiểu làm thế nào mà vợ mình có thể nuôi được lũ trẻ trong khi có lần cậu Pyong-sik, chủ cửa hàng tạp hóa ở ngoài thị trấn, phải đưa bà về vì cậu ta thấy bà cứ ngồi thần ra ở trạm xe buýt mà chẳng biết tuyến nào chạy qua nhà. Rồi có lần, vợ ông bảo đi lấy củ cải ở vườn nhưng lại ra tận mảnh ruộng bên kia con đê và ngồi lì ở đấy. Lần ấy, cô Ok-chol tình cờ đi qua phải dẫn vợ ông về nhà. Trong thời gian ông đi vắng, hai đứa bé này đã ăn uống thế nào không rõ? Những ngày ở Seoul ông đã không hề nghĩ đến lũ trẻ.

    “Ông ơi, bà đâu rồi ạ?” Đứa lớn hỏi ông, mãi sau khi tìm kiếm hết quanh giếng, nhà kho, sân sau và thậm chí mở cả cửa các phòng ngủ, nó mới nghĩ ra là vợ ông không ở đây. Trong lúc đứa lớn hỏi, đứa bé đã xán lại gần để đợi câu trả lời của ông. Chính ông cũng đang muốn hỏi điều đó. Thực ra, vợ ông đang ở đâu? Bà ấy có còn sống nữa hay không đây? Ông bảo lũ trẻ đợi ông nấu cơm cho ăn, ông lấy gạo mang ra chậu vo rồi cho vào nồi cơm điện. Lũ trẻ chạy vòng quanh, mở hết cửa phòng này đến phòng kia, cứ như chúng sẽ tìm được vợ ông từ một phòng nào đó. Chưa bao giờ động tay động chân tới chuyện cơm nước, ông cứ đứng ngẩn người ra không biết phải đổ bao nhiêu nước cho vừa, rồi ông đổ thêm khoảng nửa cốc nước nữa rồi ấn nút.

    Hôm đó, trên con tàu rời ga Seoul, phải mất mấy phút ông mới nhận ra mọi chuyện? Phải mất bao nhiêu thời gian sau khi đoàn tàu bắt đầu chuyển bánh ông mới nhận ra rằng vợ mình đã không kịp lên chuyến tàu đó? Ông cứ đinh ninh vợ mình đã lên tàu ngay sau mình. Khi đoàn tàu dừng lại ở ga Namyong rồi nhanh chóng chạy tiếp, ông đột nhiên cảm thấy hoảng sợ. Trước khi ông có thể kiểm tra được nguồn gốc của cảm giác ấy, một điều gì đó tựa hồ như nỗi tuyệt vọng vì đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng không thể sửa chữa giáng xuống tâm trí ông. Tiếng tim đập thình thịch tới mức ông có thể nghe rõ mồn một. Ông sợ không cả dám nhìn lại phía sau. Khoảnh khắc ông phải thừa nhận rằng ông đã bỏ rơi vợ ở nhà ga Seoul, rằng ông đã một mình bước lên tàu và đi qua một ga, khoảnh khắc ông quay lại và lỡ huých vào vai người khách ngồi cạnh, ông mới nhận ra cuộc đời mình đã tan vỡ không thể cứu vãn. Ông chẳng mất đến một một phút để nhận ra rằng cuộc đời ông đã rẽ ngoặt sang hướng khác bởi vì ông đã bước đi quá nhanh. Suốt năm mươi năm kể từ khi lấy vợ, ông luôn đi trước vợ từ ngày cưới, từ khi bà còn trẻ cho tới lúc bà đã già. Nếu ngay khi lên tàu điện ngầm ông cẩn thận quay lại kiểm tra xem vợ đã lên chưa thì mọi chuyện có ra cơ sự này không? Vợ ông đi chậm nên lúc nào vợ chồng đi cùng nhau bà cũng tuột lại phía sau. Mỗi lần như vậy bà lại vừa cằn nhằn sau lưng ông vừa mồ hôi mồ kê nhễ nhại cố bám theo, thế nên câu ca thán suốt nhiều năm qua của vợ ông là, “Tôi chỉ mong ông đi chậm lại một chút thôi, giá như ông đi cùng với tôi thì có phải tốt hơn không… Có việc gì mà ông vội vàng thế?” Nếu thấy ông miễn cưỡng dừng lại để chờ, thế nào vợ ông cũng mỉm cười xấu hổ và nói, “Tôi đi chậm quá phải không?”

    Vợ ông sẽ bảo, “Tôi xin lỗi… nhưng ông cũng phải biết là nếu người khác trông thấy chúng ta thế này thì thể nào họ cũng sẽ nói này nói nọ cho mà xem. Nếu thấy hai người chúng ta tuy sống chung một nhà mà lại người đi trước kẻ đi sau, họ sẽ bảo chắc ông bà ấy ghét nhau lắm nên mới không thể đi cạnh nhau. Người ta trông thấy như thế thì có gì hay ho đâu, ông có công nhận không? Tôi không cần phải nắm tay ông hay gì hết, chỉ cần ông đi chậm lại một chút là được. Ông cứ đi nhanh như thế, nếu lạc mất tôi thì ông tính sao?”

  10. #19
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Ông nghĩ chắc bà biết rồi có ngày chuyện thế này sẽ xảy ra nên đã báo trước cho ông. Trong suốt năm mươi năm qua kể từ lần đầu gặp nhau khi ông mới hai mươi tuổi, câu nói “Ông đi chậm một chút” là câu mà ông nghe nhiều nhất từ vợ mình. Sao ông không đi chậm lại khi mà suốt đời vợ ông luôn bảo ông đi chậm lại một chút cơ chứ? Ông có thể dừng lại đợi vợ mình, nhưng ông chưa bao giờ sải bước đi bên cạnh chuyện trò với bà như bà muốn, chưa bao giờ, dù chỉ một lần.

    Kể từ khi vợ bị lạc, cứ mỗi khi nghĩ đến chuyện mình luôn đi quá nhanh, ngực ông lại như muốn nổ tung…

    Cả đời ông lúc nào cũng đi trước vợ. Có những khi ông rẽ sang đường mà không hề quay đầu lại. Khi vợ ông gọi với theo từ phía sau, thế nào ông cũng càu nhàu, “Sao bà đi chậm thế.” Vậy mà năm mươi năm đã trôi qua. Mỗi khi ông dừng lại đợi, bà sẽ tiến lại chỗ ông, hai má đỏ bừng, vừa cười vừa nói, “Nếu ông đi chậm một chút nữa thì tốt biết mấy.” Ông cứ nghĩ phần đời còn lại của mình sẽ tiếp tục diễn ra như vậy. Thế nhưng kể từ cái hôm ở ga Seoul khi ông lên chuyến tàu điện ngầm, cái ngày mà vợ ông chỉ ở phía sau ông có mấy bước chân, bà vẫn chưa đến bên ông.

    Vừa nhìn lũ trẻ ăn ngấu nghiến bát cơm dở sống dở chín với thức ăn chỉ là đĩa kim chi, ông nhấc cái chân trái đã từng phải phẫu thuật khớp xương đặt lên trên sàn nhà. Sau khi phẫu thuật, chân ông không còn đau hay tê cứng nữa, nhưng nó thành ra không gập được.

    “Để tôi chườm nóng cho ông nhé?”

    Ông tưởng chừng như có thể nghe thấy tiếng vợ vẳng bên tai. Dù ông không trả lời thì đôi bàn tay đồi mồi của vợ ông vẫn thoăn thoắt đặt xoong nước lên bếp ga đun rồi nhúng khăn vào nước nóng, vắt kiệt rồi đắp lên đầu gối cho ông. Mỗi lần nhìn đôi bàn tay chai sần của vợ ấn chiếc khăn lên đầu gối ông, ông lại mong rằng bà sẽ sống lâu hơn mình dù chỉ một ngày. Để sau khi ông chết, chính bàn tay của vợ ông sẽ vuốt mắt cho ông lần cuối cùng, sẽ lau rửa cơ thể đã lạnh ngắt của ông trước mặt các con, và cũng chính bàn tay ấy sẽ đặt tấm vải liệm cho ông.

    “Mấy đứa lại đi đâu rồi?” ông hét lên gọi lũ trẻ. Sau khi ăn xong, lũ trẻ đã chạy biến đi, chỉ còn lại mình ông ngồi duỗi chân trên sàn nhà, người đàn ông lạc mất vợ, người đàn ông cô độc trong ngôi nhà trống trải. Ông hét lên, cố gắng kìm nén không bật khóc thổn thức khi mà cơn nghẹn cứ chực sẵn nơi cổ họng kể từ khi vợ ông bị mất tích. Ông chẳng thể gào thét hay rơi lệ trước mặt con trai hay con gái hoặc con dâu, nhưng giờ đây vì cơn giận dữ hay vì cái gì đó, nước mắt ông cứ tràn ra không sao kìm lại được. Nước mắt đã không hề rơi khi những người hàng xóm chôn cất bố mẹ ông trên núi, bố mẹ ông mất cách nhau có hai ngày khi dịch tả tràn qua làng. Ông không thể khóc cho dù rất muốn. Chôn cất bố mẹ xong, ông đi xuống núi trong cảm giác run rẩy vì lạnh và vì sợ. Nước mắt cũng không hề rơi trên mặt ông trong suốt cả thời kỳ chiến tranh. Hồi đó, nhà ông có một con bò. Ban ngày, khi quân đội quốc gia còn ở trong làng, ông thường dắt bò ra đồng cày ruộng. Thời ấy cứ đêm đến là quân lính Bắc Triều Tiên lại từ trên núi mò xuống làng bắt người và gia súc. Khi mặt trời lặn, ông sẽ dắt con bò vào thị trấn, buộc gần đồn cảnh sát rồi tựa vào bụng nó mà ngủ. Sáng ra, ông lại dắt con bò về làng để đi cày ruộng. Vào đúng cái đêm ông không dắt con bò đến đồn cảnh sát vì nghĩ rằng quân đội Bắc Triều Tiên đã rút khỏi khu vực này, chúng đã kéo vào làng. Chúng ra sức bắt con bò đi. Ông nhất định không chịu thả con bò ra cho dù bị chúng đấm đá thùm thụp. Ông chạy theo để giằng lại con bò, ông gạt sang bên bà chị gái đang cố ngăn ông lại, và ngay cả khi bị chúng đánh bằng báng súng, ông cũng không hề khóc. Ông vốn không rơi một giọt nước mắt khi bị nhốt trong thùng nước gạo cùng với nhiều người khác trong làng do bị quy kết là phần tử phản động vì có người chú làm cảnh sát, ông cũng chẳng hề khóc khi bị cái xiên tre chọc vào cổ, nhưng giờ đây ông đang gào lên nức nở. Cho đến tận bây giờ ông mới nhận ra rằng, mong muốn cho người vợ được sống lâu hơn mình của ông mới ích kỷ biết bao. Chính sự ích kỷ đã khiến ông lờ đi sự thực là vợ ông đã mắc bệnh nặng. Ông cũng biết rằng vợ ông thường ngủ như chết trong những lần ông về nhà vào ban đêm, mắt nhắm nghiền vì cơn đau đầu dữ dội. Chỉ có điều ông không chịu chấp nhận thực tế đó. Ông cũng biết có những lúc vợ ông bảo mang cơm cho chó nhưng không đi tới chuồng chó mà lại ra ngoài sân giếng, hay những khi bà ra khỏi nhà để đi đâu đó nhưng lại đứng ngẩn ngơ trước cổng, không nhớ nổi mình định đi đâu, rồi cuối cùng bà bỏ cuộc và quay vào nhà. Những việc như thế diễn ra thường xuyên. Ông chỉ biết đứng nhìn khi vợ ông lết vào phòng, khó lắm mới tìm được cái gối để ngả lưng, nỗi khắc khổ hằn trên khuôn mặt. Ông lúc nào cũng đóng vai người đau ốm, còn vợ ông là người chăm sóc. Nếu vợ ông có kêu đau bụng, thì ông sẽ nói mình cũng đang đau thắt lưng. Mỗi khi ông đau ốm, vợ ông thường bóp trán, xoa bụng cho ông, rồi ra hiệu mua thuốc và nấu cháo đậu xanh cho ông. Vậy mà khi bà ốm, ông chỉ nói, “Bà uống thuốc đi.”

    Cũng phải đến tận bây giờ ông mới nhận ra rằng, ngay cả khi vợ ông bị bệnh tiêu chảy, không ăn uống gì được trong mấy ngày liền, ông cũng không mang nổi cho bà một cốc nước ấm.

    Chuyện đó xảy ra khi ông còn đang lang thang khắp đất nước, đắm mình trong tiếng trống cổ truyền. Nửa tháng sau ông về nhà thì vợ đã sinh một cô con gái. Bà chị gái của ông, người đã đỡ đứa bé, bảo với ông là mẹ tròn con vuông, nhưng vợ ông đang mắc tiêu chảy. Vợ ông cứ ăn gì vào bụng là ra ngoài hết, da mặt bà khô khốc, gò má hốc hác, nhăn nheo, chẳng hề có dáng một người phụ nữ vừa sinh con. Tình trạng sức khỏe của vợ ông không hề tiến triển. Ông nghĩ nếu cứ để thế thì có lẽ bà không qua khỏi. Ông đã đưa tiền cho chị gái mình đi mua thuốc Bắc về sắc cho vợ ông uống.

    Ông ngồi trên nền ngôi nhà trống trải khóc nức nở, tiếng khóc ngày càng to.

    Đến bây giờ ông mới nghĩ ra đó là lần duy nhất ông bỏ tiền mua thuốc cho vợ mình. Chị cả của ông đã cắt ba thang thuốc về sắc cho vợ ông uống. Sau này, mỗi khi bụng có vấn đề, vợ ông thường rên rỉ, “Hồi đó nếu tôi được uống thêm hai thang thuốc Bắc nữa thì bệnh đã khỏi hẳn!”

    Họ hàng nhà ông đều rất quý vợ ông. Dù khi họ tới thăm, ông chỉ biết nói “Bác đến chơi ạ!” và lúc họ về thì chào “Bác lại nhà ạ!” nhưng rất nhiều họ hàng nhà ông vẫn đến chơi vì có vợ ông. Mọi người đều bảo những món ăn do bà làm luôn đong đầy tình cảm trong đó. Dù tất cả những gì vợ ông làm là ra vườn cắt ít cẩm quỳ vào nấu canh và nhổ một cây cải thảo để làm món rau cải muối đơn giản, mọi người đều ăn rất ngon miệng. Họ không ngớt lời khen canh và cải thảo muối thật tuyệt. Vào dịp nghỉ hè, mấy đứa cháu về quê chơi với ông bà. Khi trở lại thành phố, chúng cứ phàn nàn là chúng tăng cân đến mức không thể cài khuy áo đồng phục được nữa. Mọi người đều bảo cơm do vợ ông nấu có khả năng vỗ béo người ta. Vào vụ cấy, khi ông và những người hàng xóm làm hộ đang gieo mạ trên thửa ruộng nhà ông, vợ ông thường mang cơm trưa có canh cá bao kiếm hầm khoai tây mới dỡ, mọi người sẽ dừng tay và tranh nhau ăn lấy ăn để. Ngay cả những người vô tình đi ngang qua cũng dừng lại ăn chực. Dân làng cứ tranh nhau đến làm việc cho nhà ông. Họ bảo nếu ăn cơm trưa do vợ ông nấu thì phải làm được gấp đôi số việc so với bình thường mới lại thấy đói. Nếu có người bán dưa bở hay bán quần áo nào đó cứ đảo qua đảo lại trước cổng nhà vào đúng giờ ăn trưa của gia đình ông, thế nào bà cũng bảo họ để hàng hóa vào một góc rồi mời cơm mời nước. Vợ ông có thể ăn uống vui vẻ với người lạ nhưng lại không tài nào hòa hợp được với chị gái ông.

    “Khi đó, tôi chỉ cần uống thêm hai thang thuốc Bắc nữa là sẽ khỏi hết bệnh… Ngay đến cả người vô tâm như ông cũng nói với người vợ vừa qua kỳ sinh nở là nên uống thêm hai thang thuốc nữa cho bệnh khỏi hẳn, thế mà bà chị gái của ông lại lườm nguýt và nói rằng, uống thêm hai thang làm cái gì, thế là đủ rồi, không phải sắc siếc gì nữa. Chị ấy đã không mua thêm thuốc cho tôi. Lúc đó mà uống thêm hai thang nữa thì có phải bây giờ đỡ khổ rồi không!” Cứ mỗi khi đau đớn vì căn bệnh đường ruột, bà lại than thở như thể câu chuyện khó chịu ấy vừa mới xảy ra ngày hôm qua, cho dù ông không hề nhớ gì về chuyện đó cả. Và, mặc dù bà nhắc đi nhắc lại chuyện này bao nhiêu lần, ông không bao giờ mua thuốc Bắc về sắc cho vợ khi bà bị tả lị.

    “Phải uống thuốc từ lúc ấy, chứ bây giờ mới uống thì có ích gì đâu!” Mỗi khi bị bệnh tả, vợ ông chẳng ăn bất cứ thứ gì. Ông chẳng hiểu làm sao người ta có thể không ăn gì trong nhiều ngày liền. Hồi còn trẻ thì ông cứ mặc kệ, phải đến khi đã già ông mới hỏi vợ được một câu, “Bà cũng phải ăn cái gì vào chứ.” Những lúc như vậy, vợ ông sẽ trả lời với điệu bộ thật đáng thương, “Tôi thấy loài cầm thú cũng thế đấy thôi. Đến như con bò hay con lợn… nếu chúng mà ốm đau thì cũng bỏ ăn ngay. Ngay cả con gà cũng vậy. Con chó nhà ta cũng thế, nó mà sinh bệnh thì có thiết ăn uống gì đâu! Nó mà bị ốm là nó bỏ ăn, cho dù tôi có cho cơm ngon đến thế nào nó cũng không thèm ngó ngàng, nó chỉ bới một cái hố trước chuồng rồi đặt bụng xuống nằm im ở đấy thôi. Nó cứ nằm như thế mấy ngày rồi tự khỏe dậy. Lúc đấy nó mới ăn cơm. Người cũng có khác gì đâu ông, bụng dạ đang lục cục lên thế này mà ăn thứ gì thì dù có ngon đến mấy cũng thành ra độc đấy ông ạ.”

    Nếu căn bệnh tả không cầm được, vợ ông sẽ giã quả hồng khô rồi ăn một thìa. Bà nhất quyết không đi khám. Cho dù ông có nói, “Hồng khô thì sao có thể làm bà khỏi bệnh được, phải đi viện xem người ta chẩn đoán thế nào rồi mua thuốc về mà uống mới đỡ chứ,” thì vợ ông cũng không nghe. Nếu ông cứ nói đi nói lại, vợ ông sẽ cáu lên, “Tôi đã bảo với ông là sẽ không đi viện rồi còn gì!” và không cho ông nhắc lại chuyện đó nữa. Có một năm, ông bỏ nhà ra đi vào mùa hè và trở về nhà vào mùa đông, ông thấy bên ngực trái của vợ nổi lên một khối u. Ông nói với bà rằng điều đó thật khác thường, nhưng vợ ông chẳng quan tâm. Chỉ đến khi núm vú của bà lõm xuống và có chất dịch rỉ ra, ông mới dẫn vợ đến bệnh viện trong thị trấn để khám, bà vẫn đội cái khăn thấm đẫm mồ hôi ở trên đầu. Người ta không thể ngay lập tức cho ông biết chính xác vợ ông mắc bệnh gì. Họ kiểm tra rồi bảo phải mười ngày sau mới có kết quả. Nghe thấy thế, vợ ông thở dài thườn thượt. Chuyện gì đã xảy ra trong mười ngày ấy? Khi đó, ông đã mải mê với việc gì quan trọng đến mức không đi lấy kết quả cho vợ mình? Sao ông lại chần chừ không quay lại lấy để xem có điều gì không ổn với bà? Cuối cùng, khi núm vú của vợ ông mưng mủ, ông mới dẫn vợ trở lại bệnh viện. Bác sĩ nói rằng bà bị ung thư vú.

    “Bác sĩ bảo tôi bị ung thư vú sao?” Vợ ông nói rằng không thể như thế được. Rằng bà không có thời gian để nằm trên giường vì đau ốm. Rằng bà có quá nhiều việc phải làm. Bác sĩ giải thích rằng vợ ông không thuộc nhóm có nguy cơ cao mắc bệnh ung thư vú. Bà sinh nở sớm, cả năm đứa con đều bú mẹ, bà không hề có kinh sớm vì kỳ kinh nguyệt đầu tiên xuất hiện vào năm lấy ông, và bà cũng không thích ăn thịt, hay nói đúng hơn là không có điều kiện để ăn. Vậy mà tế bào ung thư lại đang phát triển ở bên ngực trái của bà. Nếu ông quay trở lại bệnh viện lấy kết quả ngay lần đầu đi khám thì có lẽ bà đã không phải cắt đi ngực trái. Sau khi phẫu thuật, ngực vẫn còn quấn băng, vợ ông đã ra đồng để trồng khoai tây. Vừa trồng khoai tây trên mảnh ruộng mà ông đã phải bán cho người ta để lấy tiền phẫu thuật, bà vừa tuyên bố, “Kiếp này tôi sẽ không bao giờ đi bệnh viện nữa!” Không chỉ từ chối không đi bệnh viện mà vợ ông còn không để ông lại gần mình.

    Đợt ông sắp lên Seoul để các con tổ chức sinh nhật cho mình, vợ ông đã rất khổ sở với căn bệnh đường ruột. Ông lo lắng không biết bà có lên Seoul cùng mình được không trong lúc đang đau ốm thế này, nhưng bà nhờ ông vào thị trấn mua cho mấy quả chuối vì đã nghe được phương thuốc gì đó. Trước khi ông lên Seoul, vợ ông trộn hai quả hồng sấy khô với nửa quả chuối để ăn trong ba bữa liền. Ngay cả hồi sinh mấy đứa con, vợ ông cũng chưa bao giờ nằm nghỉ trong phòng quá một tuần, vậy mà bà đã phải nằm liệt giường cả mười ngày vì đau bụng. Và vợ ông bắt đầu quên cả những ngày giỗ chạp. Những khi muối kim chi, bà cũng hay ngừng tay ngồi ngẩn ngơ nhìn vào không trung. Khi ông hỏi xem có vấn đề gì không, bà sẽ lẩm bẩm vẻ mệt mỏi, “Để xem nào… tôi không nhớ là đã cho tỏi vào hay chưa.” Có khi vợ ông còn dùng tay không để nhấc cả nồi canh đậu xanh đang sôi sùng sục khiến tay bị bỏng. Những lúc như thế, ông chỉ nghĩ, Vợ mình không còn trẻ nữa. Ông chỉ nghĩ, Đến cả mình giờ cũng bao nhiêu ngày tháng có nhớ nhung gì đến tiếng trống cổ truyền nữa đâu, trong khi ngày xưa đam mê là thế. Ở cái tuổi này, tình trạng sức khỏe đâu còn như trước nữa, kiểu gì chẳng có bệnh này bệnh nọ. Ông cho rằng, đến tuổi này, con người ta phải chấp nhận làm bạn với bệnh tật, vợ ông cũng đang ở trong giai đoạn đó mà thôi, có gì nghiêm trọng đâu.

    “Cậu ở nhà đấy à?”

    Ông choàng mở mắt khi nghe thấy tiếng bà chị gái. Trong một thoáng ông tưởng như nghe thấy tiếng vợ mình, mặc dù ông biết rất rõ rằng sáng sớm tinh mơ thế này đã tìm đến nhà ông thì chỉ có bà chị của ông thôi.

    “Tôi vào nhé!”

    Vừa nói, bà chị gái ông vừa mở cửa bước vào. Chị ông bê một cái mâm có một bát cơm và mấy bát thức ăn đậy miếng vải trắng. Chị đặt cái mâm vào một góc phòng rồi nhìn ông. Chị sống chung với ông trong ngôi nhà này cho đến bốn mươi năm trước, khi chị xây nhà bên cạnh con đường mới, và kể từ đó, chị luôn thức dậy từ sáng sớm, hút một điếu thuốc, chải đầu và kẹp tóc, rồi đứng dậy đi sang bên nhà ông. Chị sẽ đi một vòng quanh nhà ông trong ánh bình minh rồi mới trở về nhà. Vợ ông luôn nhận ra tiếng bước chân của chị, lặng lẽ dạo quanh ngôi nhà từ sân trước sang sân bên ra sân sau. Với vợ ông, riêng bước chân của chị gái ông chính là tiếng đồng hồ báo thức. Vợ ông sẽ trở mình và càu nhàu, “Lại đến rồi đấy,” rồi lồm cồm ngồi dậy. Chị ông chỉ đi một vòng xung quanh nhà ông rồi trở về nhà, có lẽ chị ấy kiểm tra để cho yên tâm rằng nó vẫn nguyên vẹn qua một đêm. Ngày xưa, chị gái ông đã mất hai người anh cùng một lúc, rồi mất cả bố lẫn mẹ chỉ trong hai ngày, và trong cuộc chiến tranh, suýt nữa chị mất nốt cả ông. Chồng chị không phải người làng này, sau khi cưới, anh rể ông đến đây sinh sống chứ chị ông không sang ở bên làng của nhà chồng, nhưng rồi, anh ấy chết trong một vụ cháy nhà. Nỗi đau mất chồng đã đâm rễ sâu trong lòng chị gái ông và trở thành một cây đại thụ. Một cây đại thụ không tài nào đốn được.

    “Sao cậu ngủ mà không buồn đắp chăn thế?” Đôi mắt vốn đầy vẻ dữ tợn và khắc nghiệt từ khi là một góa phụ trẻ không có con của chị giờ đây chùng xuống. Mái tóc bạc như cước, được chải và kẹp gọn gàng. Dù chị ông nhiều hơn ông tám tuổi, nhưng dáng dấp chị trông vẫn ngay ngắn hơn ông. Chị đến ngồi bên cạnh ông, lấy một điếu thuốc ra đưa lên miệng.

    “Chẳng phải chị cai thuốc rồi à?”

    Chị ông không trả lời mà lôi ra chiếc bật lửa có khắc tên một nhà hàng nào đó trong thị trấn rồi châm thuốc. “Con chó nhà cậu đang xích ở nhà tôi. Cậu cứ dắt nó lên đây nếu muốn.”

    “Chị cứ để nó ở đấy… Em nghĩ em phải lên lại Seoul.”

    “Cậu sẽ làm cái gì trên đó?”

    Ông không nói gì.

    “Sao cậu về nhà có một mình? Cậu phải tìm vợ rồi đưa mợ ấy về chứ!”

    “Em có cảm giác như vợ em đang đợi em ở đây.”

    “Nếu mợ ấy mà ở đây thì tôi đã gọi cho cậu ngay rồi chứ?”

    Ông im lặng.

    “Sao cậu lại thành ra như thế chứ, cậu đúng thật là vô dụng! Chồng gì mà lại để lạc mất vợ! Sao cậu có thể vác thân côi về nhà trong khi cái mợ tội nghiệp ấy còn lang thang đâu đó ngoài đường chứ hả?”

    Ông nhìn chằm chằm người chị mái tóc bạc trắng. Ông chưa bao giờ nghe chị gái nói về vợ mình với giọng điệu này. Chị lúc nào cũng chặc lưỡi lắc đầu ra vẻ thất vọng với vợ ông. Bà chị luôn mắng mỏ vợ ông vì vợ ông không đậu thai trong suốt hai năm đầu làm dâu nhà này, nhưng khi có Hyong-chol rồi thì chị ông lại bảo, “Chuyện đó thì có gì ghê gớm, người ta cũng sinh đẻ cả đấy thôi.” Mặc dù sống cùng gia đình ông suốt những năm tháng vợ ông phải giã thóc trong cối gỗ để lấy gạo cho từng bữa cơm, chị ông chưa một lần giã gạo. Tuy thế, chị cũng đỡ đần vợ ông nhiều sau những lần sinh nở.

    “Tôi định là trước khi chết sẽ nói đôi điều với mợ ấy, nhưng mợ ấy không có đây thì tôi nói với ai bây giờ?”

    “Chị định nói về cái gì?”

    “Đâu chỉ là một hai chuyện…”

    “Chị sẽ nói về chuyện chị đã đối xử tệ với vợ em chứ?”

    “Mợ ấy bảo với cậu là tôi đối xử tệ với mợ ấy à?”

    Ông chỉ nhìn chị chằm chằm, thậm chí chẳng cười. Thế sao lúc nào chị cũng bảo chị không như thế? Ở đây, không ai là không biết chuyện chị gái ông đối xử với vợ ông như mẹ chồng chứ chẳng giống chị chồng. Tất cả mọi người đều nghĩ như vậy. Chị gái ông rất ghét phải thừa nhận điều đó. Chị thanh minh rằng phải làm thế vì trong nhà không có người lớn. Chẳng rõ có thật vậy không.
    Last edited by giavui; 07-09-2011 at 06:54 PM.

  11. #20
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chị ông lại lấy một điếu nữa trong bao thuốc đang để trên sàn nhà đưa lên miệng. Ông châm thuốc cho chị. Có vẻ như việc vợ ông mất tích đã khiến chị ông hút thuốc trở lại. Ấy thế nhưng, thật ra cũng khó tưởng tượng ra cảnh chị ông thôi không hút thuốc nữa. Việc đầu tiên chị ông làm khi thức dậy vào buổi sáng là mò tìm bao thuốc, và suốt cả ngày, chị luôn hút một điếu trước khi làm bất cứ điều gì, trước khi đi đâu đó, trước khi ăn cơm, trước khi đi ngủ. Ông nghĩ chị hút quá nhiều nhưng ông chưa một lần khuyên chị mình bỏ thuốc. Đúng ra là không thể nói được. Khi ông nhìn thấy chị ngay sau khi anh rể ông chết cháy trong ngọn lửa, chị ông đang vừa hút thuốc vừa nhìn ngôi nhà đã cháy rụi, Chị cứ ngồi như thế, hút hết điếu này sang điếu khác, không khóc cũng chẳng cười. Chị hút thuốc thay ăn, thay ngủ. Ba tháng sau khi ngôi nhà bị cháy, ông có thể ngửi thấy mùi thuốc lá trên người chị từ xa, thuốc lá ám vào các ngón tay chị.

    “Tôi chẳng sống bao lâu nữa đâu,” chị ông hay làu bàu như thế từ khi bước sang tuổi năm mươi. “Sống bao nhiêu năm qua, tôi nghĩ số phận của mình trong cuộc đời này thật là buồn thảm. Tôi có cái gì chứ? Không con cái, chẳng có gì hết. Khi các anh chúng ta chết, tôi đã muốn chết để cho các anh ấy được sống. Nhưng sau khi đưa tiễn bố mẹ về thế giới bên kia, dù khủng hoảng tinh thần ghê gớm nhưng tôi còn có thể thấy cậu và Kyun. Dường như trên đời này chỉ còn lại có mấy chị em mình. Chồng tôi chết cháy mà chưa được sống trong yêu thương cùng với tôi… thế nên cậu không chỉ là em trai, mà còn là con, là chồng tôi nữa.”

    Có lẽ đúng là như thế.

    Nếu không phải vậy, hồi ông trúng gió bị cấm khẩu phải nằm liệt giường, sao chị ông lại chẳng quản vất vả sáng nào cũng đi hứng sương mang về cho ông uống trong một năm ròng, suốt từ mùa xuân sang mùa hạ đến mùa thu, vì nghe bảo rằng phải uống một bát đầy sương sớm mỗi ngày thì ông mới nói được. Để lấy được một bát sương sớm trước khi mặt trời mọc, chị ông đã dậy từ nửa đêm ngồi đợi trời tờ mờ sáng. Từ dạo đó, vợ ông thôi không kêu ca về chị ông nữa và bắt đầu đối xử tôn trọng với chị, dường như vợ ông đã coi chị ông là mẹ chồng. Vợ ông, với vẻ mặt đầy kính nể, vẫn bảo, “Tôi không nghĩ mình có thể làm được cho ông nhiều thế đâu.”

    “Tôi đã muốn xin lỗi mợ ấy ba điều trước khi tôi chết,” chị ông nói tiếp.

    “Chị đã muốn nói gì?”

    “Tôi đã muốn xin lỗi về chuyện Kyun… và chuyện tôi to tiếng với mợ ấy vì mợ ấy đã chặt cây mơ nhà mình… và chuyện tôi đã không sắc thêm thuốc khi mợ ấy bị bệnh đường ruột…”

    Kyun. Ông mím chặt miệng.

    Chị ông đứng dậy chỉ vào cái mâm phủ tấm vải trắng, “Chị để mâm cơm ở đây, khi nào đói thì cậu ăn đi. Cậu có muốn ăn bây giờ không?”

    “Thôi chị cứ để đấy, vừa mới dậy nên em chẳng thiết cơm nước gì đâu.”

    Ông cũng đứng dậy theo chị mình. Ông theo chị đi một vòng quanh ngôi nhà. Ngôi nhà không có bàn tay chăm sóc của vợ ông nên đầy bụi bặm. Chị ông phủi bụi bám trên các nắp chum khi ngang qua sân sau.

    “Cậu có nghĩ Kyun lên thiên đường rồi không?”

    “Sao chị lại lôi chuyện cậu ấy ra?”

    “Hình như Kyun cũng đi tìm mẹ của Hyong-chol đấy. Tự dưng tôi mơ thấy nó. Nếu còn sống, bây giờ nó sẽ thế nào nhỉ?”

    “Chắc là cũng đã già như chị với em thôi… Chứ còn làm sao nữa!”

    Khi vợ chồng ông lấy nhau, vợ ông mười bảy tuổi, ông hai mươi, còn Kyun đang học lớp sáu. Trong đám bạn cùng trang lứa, Kyun là đứa trẻ thông minh nổi bật. Kyun hiểu biết rộng, hòa đồng với mọi người, học hành giỏi giang, mặt mày lại sáng sủa đẹp trai. Ai gặp Kyun lần đầu cũng phải mải mê nhìn ngắm, tự hỏi không biết nhà nào may mắn thế khi có một cậu con trai như vậy. Nhưng Kyun không thể học tiếp cấp hai vì hoàn cảnh gia đình nhà ông lúc đó vô cùng khó khăn, thằng bé cứ suốt ngày bám lấy anh chị gái xin được tiếp tục đi học. Đến tận bây giờ giọng thằng bé vẫn như văng vẳng bên tai ông. Anh ơi, cho em đến trường đi. Chị ơi, cho em đến trường đi… Ngày nào nó cũng khóc lóc thảm thiết, năn nỉ anh chị cho đi học. Mặc dù chiến tranh đã qua đi mấy năm nhưng hoàn cảnh lúc đó vẫn thật khủng khiếp. Nhà ông nghèo đến không thể tin nổi. Đôi khi ông vẫn nghĩ về thời kỳ đó như một cơn ác mộng. Ông đã sống sót kỳ diệu sau khi bị cái xiên tre đâm vào cổ họng, nhưng ông rơi vào tình cảnh tuyệt vọng khi phải gánh vác trách nhiệm nuôi cả đại gia đình vì ông là con trai trưởng trong một gia đình không có người lớn. Có lẽ đó là lý do khiến ông nhiều lần muốn chạy trốn khỏi ngôi nhà này, trách nhiệm đó quá nặng nề và khó khăn đối với ông. Thời kỳ ấy đến kiếm miếng cơm bỏ vào miệng còn khó, nói gì tới việc cho cậu em trai đi học. Khi ông và chị gái ông không buồn nghe nữa, Kyun quay sang năn nỉ vợ ông.

    “Chị dâu ơi, chị cho em đến trường đi. Hãy cho em tiếp tục học cấp hai. Nếu được đi học, cả đời này em sẽ biết ơn chị.”

    Vợ ông bảo với ông, “Kyun mong mỏi như vậy thì chúng ta cũng nên tìm cách gì đó cho nó đi học chứ ông?”

    “Tôi cũng có được đến trường đâu! Ít ra nó còn được học hết cấp một đấy thôi,” ông vặn lại vợ mình.

    Ông không được đến trường là bởi bố ông. Bố ông là thầy thuốc Đông y, sau khi mất đi hai đứa con trai lớn vì bệnh truyền nhiễm, bố ông không bao giờ cho ông tới chỗ đông người dù đó là trường học hay gì đi nữa. Hai bố con thường quỳ đối diện nhau để bố ông dạy chữ Hán cho ông.

    “Bố Hyong-chol này… hay mình cho chú Kyun đến trường học đi,” vợ ông nói.

    “Lấy gì cho nó đi học chứ?”

    “Mình bán mảnh vườn đi là được chứ gì.”

    Nghe thấy những lời nói đó của vợ ông, chị ông bảo, “Cô này định bán hết của cải nhà người ta đi đấy hả!” rồi chị đuổi vợ ông về bên nhà mẹ đẻ. Mười ngày sau, một buổi tối, ông uống rượu say khướt và khật khưỡng đi đến nhà vợ. Ông đi xuống con đường núi rồi khi đến túp lều nhà vợ, ông dừng bước trước cửa sổ gian phòng hướng ra sân sau um tùm tre pheo. Ông không nghĩ đến đây để đưa vợ về. Chính men rượu đã đưa ông đến đây, bữa rượu ông được mời sau khi giúp một người hàng xóm cày ruộng. Mặc dù ông không phải là người đã đuổi vợ mình về nhà mẹ đẻ nhưng ông cũng không thể cứ thế bước vào nhà vợ như không có gì xảy ra, thế nên ông cứ đứng yên đó. Tiếng vợ ông và người mẹ vợ già vọng ra ngoài. Mẹ vợ ông to tiếng với vợ ông, “Đừng có quay lại cái xó nhà đó nữa, về dọn dẹp đồ đạc rồi đi khỏi nhà đấy đi!”

    Vợ ông sụt sịt, khăng khăng, “Có chết thì con cũng phải về nhà ấy con chết. Đó cũng là nhà của con, tại sao con lại phải ra đi chứ?” Ông đứng dựa vào tường cho đến khi ánh bình minh xuyên qua rừng tre. Ông chộp lấy vợ khi vợ ông ra khỏi phòng đi làm đồ ăn sáng. Vì khóc suốt đêm nên đôi mắt vốn trong sáng, to và đen nhánh của vợ ông lúc này sưng húp và nhỏ như lá răm. Cho dù vợ ông có mở to đôi mắt vì ngạc nhiên thì đôi mắt vẫn bé như sợi chỉ. Ông nắm tay vợ kéo đi qua rừng tre, trở về nhà. Khi đi qua rừng tre, ông bỏ tay vợ ra và bước lên trước. Những hạt sương sớm rơi ướt cả quần ông. Vợ ông, tụt lại phía sau, vừa thở hổn hển bước theo vừa nói, “Ông đi chậm một chút có được không!”

    Vừa về đến nhà, Kyun đã chạy bổ đến chỗ vợ ông và reo lên, “Chị dâu ơi!”

    “Chị dâu ơi, em không đi học nữa đâu, từ giờ chị đừng có bỏ nhà đi như thế nữa nhé!” Mắt Kyun long lanh nước, nó rất khổ tâm vì phải từ bỏ giấc mơ đến trường. Không thể đi học được nữa, Kyun chăm chỉ làm việc nhà giúp đỡ vợ ông. Mỗi khi cùng vợ ông làm việc trên cánh đồng ở sườn đồi, nếu đi vào những đám kê rậm rạp mà không nhìn thấy vợ ông đâu, Kyun sẽ gọi toáng lên, “Chị dâu ơi!” Khi vợ ông trả lời, “Sao thế em?” thế nào Kyun cũng cười vang và gọi tiếp, “Chị dâu ơi!” Kyun cứ gọi và vợ ông lại trả lời, rồi Kyun lại gọi và vợ ông lại trả lời. Hai chị em cứ người gọi người trả lời như thế cho đến khi làm xong việc trên cánh đồng trên núi. Kyun thực sự là người bạn đồng hành chung thủy của vợ ông trong những ngày ông bôn ba đây đó. Khi Kyun cường tráng hơn, nó dắt bò đi cày ruộng vào mùa xuân và cắt lúa trên đồng vào mùa thu sớm hơn bất cứ người nào. Vào cuối mùa thu, để chuẩn bị muối kim chi, nó đi ra vườn rau cải từ sáng sớm để thu hoạch toàn bộ rau cải. Hồi ấy, mọi người thường trải chiếu trên ruộng để đập lúa với cây đòn. Phụ nữ trong làng ai cũng có một cây đòn, hôm nào có nhà ai đập lúa thì tất cả phụ nữ sẽ tập trung trên cánh đồng nhà ấy, mang đòn ra đập giúp một tay. Họ đập lúa cho đến tận khi mặt trời lặn. Một năm, Kyun đi làm ở nhà máy bia trong thị trấn. Khi nhận được thù lao, Kyun mua một cái đòn mới về nhà đưa cho vợ ông.

    “Cái đòn này là gì vậy?”

    Kyun mỉm cười. “Cái đòn đập lúa của chị dâu cũ nhất làng này rồi… Bây giờ, chị có dựng lên chắc gì nó đã chịu đứng.”

    Vợ ông vẫn bảo với ông là cái đòn đập lúa đã cũ thành thử khi đập lúa bà phải tốn sức hơn những người phụ nữ khác, thế nên bà muốn một cái mới. Lời của bà chưa kịp vào tai phải của ông thì đã lọt ra tai trái. Ông nghĩ, cái đòn đập cũ vẫn còn dùng được thì mua cái đòn mới làm gì? Cầm cái đòn đập lúa Kyun vừa đưa, đột nhiên vợ ông nổi nóng với Kyun, mà có lẽ đúng hơn là nổi nóng với ông. “Chú mua cái đòn đập mới thế này để làm gì? Anh chị còn không thể cho chú đi học được cơ mà!”

    “Chị thật là, có gì đâu cơ chứ!” Kyun nói rồi đỏ bừng cả mặt.

    Kyun rất nghe lời vợ ông. Có lẽ nó coi vợ ông như mẹ. Sau khi mua cái đòn đập lúa, hễ có tiền là nó lại mua bao nhiêu thứ về cho gia đình. Tất cả đều là những thứ vợ ông cần. Kyun còn mua về một cái chậu inox. Nó hơi xấu hổ, tủm tỉm cười nói, “Các bà các cô nhà người ta đều dùng đồ này hết rồi, có mỗi chị dâu nhà mình vẫn dùng cái thùng cao su nặng trịch thôi.” Vợ ông làm bao nhiêu kim chi trong cái chậu đó, rồi còn cho cơm trưa vào đấy để mang ra đồng. Sau khi dùng xong, bà lại lau chùi cho sáng loáng rồi đặt lên kệ. Bà dùng cái chậu cho đến khi lớp mạ tróc hết cả và cái chậu biến thành màu trắng.

    Ông bất ngờ đứng dậy đi xuống bếp. Ông mở cánh cửa sau của nhà bếp và nhìn lên cái kệ đựng đồ làm từ mấy cây cọc dựng trong nhà kho. Những cái bàn ăn đã gập chân đặt ngay ngắn ở kệ trên. Kệ dưới cùng là cái chậu inox từ bốn mươi năm trước nằm im ở đó…

    Khi vợ ông sinh đứa con trai thứ hai, ông không có nhà. Chỉ có Kyun ở bên cạnh bà. Về sau ông đã được nghe chuyện xảy ra lúc đó. Khi ấy đang độ mùa đông rét buốt nhưng trong nhà không còn chất đốt. Kyun đã chặt cây mận già ngoài sân, chẻ thành củi để sưởi cho chị dâu vừa sinh cháu mà phải nằm trong căn phòng lạnh giá. Kyun cho củi vào lò sưởi phía dưới phòng chị dâu rồi nhóm lên. Nhìn thấy thế, bà chị ông mở toang cửa phòng vợ ông và quát ầm lên, “Mợ không nghe người ta nói rằng nếu chặt cây trong nhà một cách bừa bãi thì thế nào trong nhà cũng có người chết hay sao mà dám làm như thế hả. Mợ điên rồi à!” Kyun hét toáng lên, “Em làm đấy! Sao chị lại mắng chị dâu!” rồi cãi nhau với bà chị gái. Chị gái ông tóm lấy cổ họng Kyun mà gầm lên, “Chị dâu mày bảo mày chặt có phải không? Cái thằng này! Mày hỏng thật rồi!” Kyun không chịu thua, đẩy vợ ông qua một bên và nói, “Thế chị muốn để chị ấy vừa đẻ con xong đã chết cóng trong căn phòng lạnh lẽo chắc?”

    Cây mận đã bị chặt ấy hồi trước đứng ở chỗ này. Chuyện đó có lẽ xảy ra khoảng hai mươi ngày kể từ hôm Kyun trở về sau khi bỏ nhà đi kiếm tiền. Lúc Kyun về nhà, vợ ông là người vui nhất. Khoảng thời gian xa nhà, Kyun đã thay đổi rất nhiều. Nó thậm chí không cười cả với vợ ông. Ông chỉ nghĩ chắc nó đã gặp phải chuyện gì khó khăn ngoài đời. Một hôm, vợ ông hớt hải chạy đến trước cửa hàng trong thị trấn nơi ông đang chơi trò Yut, khuôn mặt bà trắng bệch. Dù bà nói Kyun trông lạ lắm, ông phải mau mau về nhà xem thế nào, ông vẫn mải mê với trò Yut nên bảo vợ cứ về trước đi. Vợ ông cứ đứng ngây ra một lúc, hồn xiêu phách tán, rồi đột nhiên lật úp chiếc thảm rơm bày những que gỗ của trò Yut và hét lên, “Chú ấy sắp chết rồi kia kìa! Ông có nhanh lên không nào!”

    Hành động của vợ ông thật kỳ lạ khiến ông linh cảm thấy có gì không ổn nên bèn chạy vội về nhà.

    “Ông nhanh lên! Nhanh nữa lên!” Vợ ông giục giã, chạy trước cả ông. Đó là lần đầu tiên vợ ông chạy trước ông. Kyun co rúm người nằm đúng chỗ cây mận đã bị chặt. Nước bọt phì ra trong khoang miệng và cái lưỡi thè cả ra ngoài.

    “Có chuyện gì xảy ra với nó thế này?” Ông nhìn vợ nhưng vợ ông đã thẫn thờ như người mất hồn.

    Là người phát hiện ra Kyun trong tình trạng đó, vợ ông bị cảnh sát gọi lên đồn vài ba lần. Trước khi nguyên nhân cái chết được làm rõ, tin đồn rằng chị dâu cho em chồng uống thuốc sâu đã lan sang tận làng bên. Chị gái ông hai mắt đỏ ngầu, luôn mồm chửi rủa vợ ông, “Cái con dã nhân, mày hại em tao.”

    Vợ ông hết sức điềm tĩnh khi cảnh sát thẩm vấn. “Các ông nghĩ tôi đã giết chú ấy thì không cần dài dòng gì nữa, cứ giam tôi vào cho xong.”

    Có lần cảnh sát đã phải đưa vợ ông về nhà vì bà từ chối không rời khỏi đồn, lại còn yêu cầu cảnh sát nhốt mình vào tù. Khi trở về nhà, vợ ông cứ vò đầu giật tóc rồi đấm ngực thình thịch. Bà mở tung cửa, lao ra ngoài trời mưa, chạy đến bên giếng vục mặt vào nước lạnh cóng. Còn ông, ông hoàn toàn suy sụp. Trong lúc vợ bị thẩm tra, cả ngày ông vừa chạy như điên khắp núi non, đồng ruộng vừa gọi tên người em đã chết, “Kyun ơi! Kyun ơi!” Trong lồng ngực ông như có lửa đốt, cơ thể ông nóng hầm hập không sao chịu nổi. Có một thời khi người chết ra đi không nói được một lời thì người sống hóa điên hóa dại như thế.

    Vợ ông thật đáng thương. Giờ ông mới nhận ra mình đã hèn nhát chừng nào. Cả đời ông lúc nào cũng trút mọi nỗi đau lên vợ mình. Lẽ ra người cần được an ủi nhiều nhất là vợ ông nhưng vì ông cứ im lặng nên đã dồn vợ ông vào chân tường.

    Mặc dù đau đớn đến mụ mị, nhưng lúc đó chính vợ ông đã nhờ người chôn cất Kyun. Nhiều năm trôi qua, nhưng ông không bao giờ hỏi xem Kyun được chôn ở đâu.

    Thỉnh thoảng vợ ông lại hỏi, “Ông không muốn biết chú ấy được chôn ở đâu thật à?”

    Ông không nói gì. Quả thật, ông không muốn biết.

    “Ông đừng giận chú ấy vì đã ra đi như thế nữa… Ông là anh của chú ấy, chú ấy không còn cha mẹ nên ông phải tới thăm chú ấy chứ… Tôi ước gì chúng ta có thể đưa mộ chú ấy về một nơi tử tế trong khu nghĩa trang tổ tiên nhà ta.”

    “Sao tôi lại phải biết bà đã chôn cái thằng hư đốn ấy ở đâu chứ?” ông gào lên với vợ.

    Một lần, khi hai vợ chồng đang đi dọc một con đường, đột nhiên vợ ông dừng bước mà hỏi, “Mộ của chú Kyun ở gần đây, ông không định ra đấy à?” Nhưng ông làm ra vẻ không nghe thấy gì. Tại sao ông lại trút gánh nặng cho vợ mình như thế chứ? Đến tận hai năm trước, cứ vào ngày giỗ Kyun, vợ ông lại làm cơm rồi mang ra mộ Kyun. Mỗi lần từ trên núi trở về, thế nào miệng bà cũng sặc sụa mùi rượu Sochu, hai mắt thì đỏ ngầu.

    Vợ ông thay đổi nhiều từ sau chuyện xảy ra với Kyun. Từ một con người vốn rất lạc quan, bà hầu như không bao giờ cười nữa. Nếu có cười thì đó cũng chỉ là nụ cười nhạt nhẽo, vụt qua nhanh chóng. Trước đây chỉ cần đặt lưng xuống sàn nhà là bà ngủ say như chết, mệt nhoài với công việc vườn tược đồng áng, nhưng từ dạo đó nhiều đêm dài bà cứ thức chong chong. Mãi cho tới khi đứa con gái thứ của ông trở thành dược sĩ và kê đơn thuốc ngủ cho vợ ông thì bà mới lại ngủ sâu giấc được. Vợ ông thật đáng thương, đến giấc ngủ cũng không yên. Có lẽ mấy viên thuốc ngủ người vợ mất tích của ông uống chưa kịp tan hết đã tích tụ cả lại trong não bà. Căn nhà cũ đã được xây lại hai lần từ sau khi Kyun mất. Mỗi lần xây lại nhà, ông lại bỏ những thứ đồ cũ chất thành đống trong một góc nhà ra chỗ khác. Mỗi lần như vậy, vợ ông lại tự mình cất giấu chiếc chậu inox, không cho ai động vào. Có lẽ vợ ông sợ nếu để cái chậu lẫn vào mọi thứ khác thì sẽ không bao giờ tìm thấy được nữa, nên chiếc chậu là thứ đầu tiên bà đưa vào cái lều tạm họ sống trong khi xây nhà. Khi nhà xây xong, bà luôn mang chiếc chậu đặt lên cái kệ trong ngôi nhà mới trước tiên rồi mới làm gì thì làm.

Trang 2 / 3 ĐầuĐầu 123 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Mẹo chăm sóc móng chắc khỏe
    By sophienguyen in forum Thẩm Mỹ Nails
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 08-07-2012, 01:26 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •