Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Tình yêu chân thật không phân biệt giai cấp tuổi tác, địa vị danh vọng... Nó sang bằng tất cả. Nó là vị thần của tình cảm.
Lope De Vegas
Trang 1 / 4 123 ... Cuối Cuối
Results 1 to 10 of 33

Chủ Đề: Hắc Bạch Hương Hồ Ký Ưu Đàm Hoa

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Hắc Bạch Hương Hồ Ký


    Hắc Bạch Hương Hồ Ký



    Tác giả :Ưu Đàm Hoa






    MỤC LỤC [−]

    1. Thiên Sinh Phu Tiểu Sinh Thê Đại
    2. Xuất Đạo Tầm Hung Phùng Lưỡng Xú
    3. Lộ Bán Phùng Mai Phục
    4. Đại Lượng Đắc Minh Sư
    5. Khuất Gia Vô Quí Tế
    6. Đồng Quan Lâu Thượng Nhan Như Ngọc
    7. Trùng Dương Bán Vạn Nhân Hoan Tiếu
    8. Tây Khứ Hồi Cố Thổ
    9. Lâm Biên Phóng Hương Hồ
    10. Kinh Sư Truy Án Long Ân Tứ
    11. Lư Lăng Sát Đại Cừu
    12. Quật Cốc Tầm Thi Nhan Mãn Lệ
    13. Thượng Sơn Diệt Ma Nữ
    14. Tạng Tăng Nhất Xuất Nhân Gian Tiếu
    15. Nhạc Dương Hảo Hán Tru Gian Tế
    16. Giả nứ Giá Vong Phu
    17. Chính Tâm Tái Đắc Thanh Xuân Tuế
    18. Hiếu Tử Tầm Di Cốt







    Hồi 1

    Thiên Sinh Phu Tiểu Sinh Thê Đại,
    Loan Phụng Hoà Minh Xuất Nhất Long





    Chương 1 - Thiên Sinh Phu Tiểu Sinh Thê Đại, Loan Phụng Hoà Minh Xuất Nhất Long


    Xuân về mang lại mầu xanh tươi, đầy sức sống cho mọi ngọn núi Cửu Tuấn ở phía Bắc thành Hàm Dương. Những cánh rừng bạt ngàn, dầy đặc trên sườn núi đang đâm chồi nảy lộc rũ bỏ lớp tuyết trắng lạnh lùng của mùa đông. Tuy nhiên, tiết trời vẫn còn giá rét khiến khách lữ hành phải khép kín vạt áo cừu.
    Ngay cả bọn nam nhân nát rượu đang ngồi nhâm nhi trong tửu điếm vệ đường kia cũng co ro, cúm rúm, nốc từng bát lớn để ngự hàn. Thế mà, trên con đường mòn dẫn đến cánh rừng chân núi ra quan đạo có một người tiều phu chỉ ăn mặc phong phanh áo vải mỏng, quẩy một gánh củi thật to, thoăn thoắt bước về phía quán rượu ở ngã ba đường.
    Cảnh tượng này đập vào mắt một lữ khách là lão đạo sĩ tuổi ngũ tuần áo xanh, râu tóc đen nhánh, gương mặt tuấn tú nhưng thân hình nhỏ nhắn, không được cao lớn cho lắm. Lão ta trợn mắt, há hốc miệng khi nhận ra cái người đang gánh củi kia là một nữ nhân vóc dáng khôi vĩ.
    Nàng ta không hề to béo, thân thể đầy đủ ba vòng khêu gợi. Chẳng qua, ở nàng cái gì cũng to gấp rưỡi, gấp đôi một nữ nhân bình thường. Riêng về chiều cao thì tiều nương kia hơn cả một gã đàn ông trung bình, nghĩa là lão đạo sĩ áo xanh chỉ đứng đến cằm của nàng.
    Nhưng sự chênh lệch thước tấc ấy chẳng hề khiến bậc chân nhân giảm sút sự ngưỡng mộ trước bộ ngực và đôi mông đồ sộ đang đong đứa nhún nhảy theo nhịp chân và tiếng kẽo kẹt của chiếc đòn gánh bằng tre già. Thanh ý đạo sĩ nuốt nước miếng lẩm bẩm:
    - Mẹ kiếp! Thế mới đáng gọi là đàn bà. Xem ra ý nguyện cải tạo giòng giống họ Tư Đồ của ta đã đến ngày thành tựu rồi.
    Thì ra vị đạo sĩ nhỏ bé này mang họ Tư Đồ. Lão ta hớn hở đi về phía tửu quán, nơi cô ả gánh củi hấp dẫn nọ dừng chân. Có lẽ nàng ta đem củi đến bán.
    Tư Đồ bước vào quán, nhận ra đối tượng đang đứng trước quầy quỹ chuyện với lão điếm chủ, ông liền xăm xăm tiến đến chiếc bàn trống gần đấy để dễ bề quan sát.
    Tiều nương đã lột chiếc nón tre cũ kỹ, để lộ gương mặt trái xoan thanh thoát với ngũ quan đoan chính, mắt to, mũi thẳng. Nhưng hỡi ôi, những nét đẹp ấy bị che mờ bởi một vết thẹo dài, y như vuốt mèo cào vậy.
    Lão đạo sĩ hơi thất vọng song mắt chợt sáng rực niềm hân hoan khi nghe giọng nói trong trẻo thánh thót êm ái của cô ả mặt thẹo. Không ai có thể ngờ rằng những âm thanh du dương, ngọt ngào ấy lại phát ra từ đôi môi của một người con gái to lớn quá khổ. Nàng nói với chú quán:
    - Lý Tứ thúc! Ngày kia là đám giỗ của tiên phụ, mong Tứ thúc chớ quên.
    Lão chủ quán họ Lý cười khà khà đáp:
    - Hoa nhi, an tâm! Làm sao lão phu có thể quên ngày giỗ của vị nghĩa huynh thân thiết nhất trên đời.
    Cô nàng tên Hoa nhi tươi cười cáo biệt Lý chưởng quỹ, nhận tiễn bán củi rồi rời tửu quán. Nụ cười của nàng làm rạng rỡ gương mặt xấu điêu tàn, càng khiến Tư Đồ đạo sĩ đắm say.
    Trong phép xem tướng của người Trung Hoa thì giọng nói có một vai trò rất quan trọng. Nữ lang này mang tướng đàn ông nhưng lại có được một nét son rất quý là giọng nói trong như ngọc. Vả lại tuy thân thể khôi vĩ, to lớn dềnh dàng, song ngũ quan của nàng ta lạị chẳng hề thô kệch. Nếu không có những vết thẹo ấy thì Hoa nhi sẽ rất xinh đẹp.
    Vị đạo sĩ họ Tư Đồ ngồi nhấm nháp chén rượu, suy nghĩ rất lung rồi khéo léo hỏi thăm gã tiểu nhị về lai!ịch của cô ả to đùng kia.
    Ông ta hài lòng khi biết nàng chưa chồng dù tuổi đã gần ba chục, tên gọi là Võ Xuân Hoa. Võ cô nương là con gái của một cặp vợ chồng tiều phu, ở bên cánh rừng phía nam chân núi Cửu Tuấn.
    Xuân Hoa sức mạnh như thần, mười bẩy tuổi đã thay cha vào rừng đốn củi. Một hôm, nàng xui xẻo chạm trán con cọp vằn hung dữ, liền vác búa đương cự. Nàng chém vỡ sọ con ác thú nhưng cũng bị nó cào nát mặt.
    Xuân Hoa hiện đã mồ côi cả song thân, sống một mình nơi nhà cũ. Nàng rất hiền lành nhưng vì quá to xác và mặt đầy thẹo nên ế chồng.
    Tư Đồ đạo sĩ nghe xong, quyết định cưới Võ Xuân Hoa làm vợ, ông là người văn võ toàn tài, dung mạo anh tuấn nhưng cơ thể thiếu thước tấc, y như mấy đời họ Tư Đồ, nên lòng rất uất ức. Ông thề se lấy cho được một nữ nhân cao to để con cháu phổng phao hơn tổ tiên.
    Tuy nhiên, đàn bà mà to xác thì thường mang nét phá cách ở ngũ quan và giọng nói thi ồ ồ như vịt đực. Tướng ấy chẳng thể nào vượng phu ích tử được. Do vậy, sau hơn chục năm tìm kiếm mỏi mòn, vị đạo sĩ nhỏ con tên Tư Đồ Quát kia mới gặp được một nàng hộ pháp mang quý tướng là Võ Xuân Hoa.
    Sau khi nắm rõ gia cảnh ý trung nhân, Tư Đồ Quát hỏi thăm đường đi nước bước rồi tìm đến nhà Võ cô nương.
    Xuân Hoa đã tắm táp, thay y phục khác, đang ngồi chải tóc trước cửa căn nhà tranh mộc mạc.
    Tư Đồ Quát cố ý đi nhẹ nhàng, nấp sau một thân cây phía ngoài hàng dậu tre để quan sát cảnh vật.
    Tuy chỉ là nhà tranh vách đất đơn sơ nhưng cơ ngơi của Võ cô nương gọn gàng, ngăn nắp và sạch sẽ. Mảnh sântrước nhà được tô điểm bằng những luống hoa rực rỡ, còn bên hông và phía sau là vườn cây ăn trái đang nặng trĩu quả.
    Tất cả những điều ấy chứng tỏ rằng Xuân Hoa là người siêng năng chăm chỉ chứ chẳng phải kẻ lười chảy thây. Tư Đồ Quát nghe lòng ấm áp vững dạ bước qua cổng rào.
    Xuân Hoa nhận ra lão đạo sĩ đã có mặt trong tửu điếm lúc nãy. Nàng đứng lên, hòa nhã nghiêng mình chào hỏi:
    - Chẳng hay đạo trưởng tìm tiểu nữ vì việc gì?
    Tư Đồ Quát lúng túng, ấp a ấp úng mãi mới nói ra được mục đích của đời mình và ngỏ lời cầu hôn.
    Võ Xuân Hoa tủm tỉm đáp:
    - Tiện nữ vô cùng cảm kích trước sự chiếu cố của đạo trưởng. Tuy nhiên, đũa lệch khó so, đạo trưởng ốm yếu thế kia chỉ e không thọ nổi.
    Tư Đốt Quát đỏ mặt cười nhạt:
    - Bần đạo luyện võ từ năm bốn tuổi, sức cử ngàn cân. Nàng dù lớn xác cũng chẳng thể hơn được ta!
    Dứt lời, Tư Đồ Quát chứng minh ngay bằng cách lướt đến, xuống tấn, ôm đùi Xuân Hoa mà nhấc bổng lên dễ dàng. Và lão bất ngờ tung mạnh tấm thân ngà ngọc nặng hơn trăm rưỡi cân của nàng lên không trung, rồi hứng lấy rất nhẹ nhàng.
    Xuân Hoa phục sát đất, thẹn thùng trách móc:
    - Sao đạo trưởng lại dám sỗ sàng với tiện nữ?
    Song ánh mắt nàng lại đầy vẻ tình tứ nồng nàn; khiến Tư Đố Quát ngất ngây.
    Lão khoan khoái bồng nàng chạy xộc vào nhà, tiến hành ngay việc cải tạo nòi giống. Nhưng Võ Xuân Hoa chẳng phải hạng gái lẳng lơ, dịu dàng trấn áp lửa tình của họ Tư Đồ, bàn bạc cụ thể việc sống chung.
    Sau đám giỗ lão tiều phu họ Võ, một bữa tiệc nhỏ được bày ra để mừng cho mối lương duyên. Khách mời chỉ gồm Lý chưởng quỹ và vài người thân quen.
    Tư Đồ Quát đã trút bỏ áo đạo sĩ, cạo sạch râu ria nên khá trẻ đẹp. Trông lão rất giống em hay là con trai Võ Xuân Hoa.
    Đêm hợp cẩn, cảnh thằn lằn ôm cột đình ái ân say đắm, nồng thắm đến mức không bút mực nào tả xiết.
    Nhưng dẫu sao khi nằm thì sự chênh lệch về chiều cao không đáng kể. Gia dĩ, thân thể Tư Dỗ Quát cuồn cuộn những bắp thịt rắn như thép, kết quả của mấy chục năm chuyên cần luyện võ. Xuân Hoa cũng chẳng kém, da thịt săn chắc nhờ lao động cật lực, chẳng chút mỡ thừa, đẹp tựa một pho tượng mỹ nhân hơi quá khổ.
    Kích thước trường thương và độ bền bỉ của nam nhân không phụ thuộc vào chiêu cao của cơ thể. Do đó, Tư Đồ Quát thừa kiêu dũng để làm hài lòng người vợ khôi vĩ của mình. Đến sáng thì Xuân Hoa hoàn toàn tâm phục khẩu phục và hết lòng tôn kính, yêu thương lão chống già.
    Tư Đồ Quát rời quê hương Phúc Châu với trăm lượng vàng trong tay nải nên giờ đây có thể cho vợ tạm nghỉ nghề đốn củi, chuyên tâm vào việc sản xuất một thế hệ Tư Đồ tốt giống.
    Xuân Hoa có lần lo ngại thỏ thẻ:
    - Tướng công? Lỡ như con của chúng ta vẫn nhỏ bé như chàng thì sao?
    Tư Đồ Quát bực bội đáp:
    - Làm gì có việc ấy? Muối pha với đường dù không được ngọt hẳn thì cũng lờ lợ chớ làm sao lại mặn chát được? Nàng cứ yên tâm!
    Té ra lão cũng có lý! Mùa xuân năm sau Võ Xuân Hoa sinh hạ một nam hài bụ bẫm khoe mạnh, nặng đến sáu cân và dài gần ba gang tay.
    Tư Đồ Quát mừng đến phát cuống, cười ha hả bảo:
    - Mẹ kiếp! Họ Tư Đồ nhà ta trước đây chỉ đẻ ra toàn những hài nhi ngắn dưới hai gang tay, lớn lên thua thiệt mọi điều. Nay mới thòi ra được một đứa bé đáng mặt đàn ông.
    Lão đặt tên cho con trai là Tư Đồ Sảng. “Sảng” đây có nghĩa là trong sáng, rõ ràng, lấy chữ trong câu “Sảng Nhược Nhật Tinh” (sáng rõ tựa mặt trời và tinh tú) ý chỉ phong thái quang minh của bậc quân tử.
    Sảng nhi bú rất khỏe, ngày nào cũng vắt kiệt hai bầu vú to như cặp dưa hấu của mẹ nên lớn nhanh như thổi. Năm bốn tuổi nó đã cao to bằng một đứa lên sáu.
    Tư Đồ Quát rất cao hứng vì đứa con kháu khỉnh và khỏe mạnh, quyết định dạy võ cho Sảng nhi.
    Thừa kế nòi thần lực cũng như tính siêng năng, cần mẫn nên Sảng nhi học võ rất tốt, và dường như nó có căn cơ của một người võ sĩ.
    Nhưng hai năm sau, khi được cha dạy chữ thì Sảng nhi bộc lộ khuyết điểm của mình. Cậu ta khá vất vả khi phải ngồi một chỗ vật lộn với chữ nghĩa. Tuy nhiên, nhờ bản tính chăm chỉ kiên trì nên kết quả cũng không quá tệ.
    Tư Đỗ Quát hiểu rằng con mình hợp võ hơn văn, chẳng thể trở thành trạng nguyên hay bảng nhãn được. Do đó, ông quyết tâm tài bối ái tử trở thành bậc anh hùng cái thế, dương danh bằng võ nghiệp.
    Tư Đồ Quát vốn là đệ tử chân truyền của Du Long Chân Nhân Bộc Trung Tiêu ở núi Cổ Sơn, nghĩa là núi Trống, vì trên núi có một tảng đá rất lớn hình dạng như cái trống.
    Tư Đồ gia trang nằm gần chân núi Cổ Sơn nên năm lên sáu tuổi Tư Đồ Quát đã được Bộc Chân Nhân dạy võ. Bộc Trung Tiêu là bằng hữu chí thân của Tư Đồ lão trang chủ.
    Nhờ nhập môn từ thuở ấu thơ nên năm hai mươi lăm tuổi Tư Đỗ Quát đã được học hết nghề của sư phụ. Lão tinh thông cả ba pho tuyệt học kiếm pháp, quyền pháp và khinh công.
    Giờ đây, Tư Đỗ Quát vét túi truyền hết lại cho con trai. Sảng nhi tuy không hợp với việc sách đèn, thi phú, song cũng là đứa bé thông minh đĩnh ngộ chứ chẳng phải phường đần độn.
    Nhân sinh nhược đại mộng, sống chết khó lường nên Tư Đồ Quát vượt lẽ thường, không tuần tự từng bậc mà bắt con mình học thuộc lòng tất cả. Sau này, nếu lão có lỡ đoản mệnh thì Sảng nhi cũng có thể tự rèn luyện được.
    Kết quả là đến năm mười hai tuổi thì Sảng nhi đã học hết nghề của cha, thuộc lòng khẩu quyết và lộ số, chỉ kém phần tinh túy.
    Tám năm rèn luyện pho tâm pháp đạo gia là Ngọc Thanh Chân Khí đã phát huy thêm thần lực bẩm sinh trong cơ thể Sảng nhi. Cậu ta khỏe đến mức có thể múa tít cây búa đốn củi nặng hơn hai chục cân một cách nhẹ nhàng.
    Lúc này, Võ nương mới nhu mì, thỏ thẻ cùng chồng:
    - Tướng công! Tiện thiếp xin phép được đem sở học tổ truyền của giòng họ Võ truyền thụ cho Sảng nhi.
    Tư Đồ Quát ra vẻ độ lượng:
    - Sao nàng lại đa lễ như thế. Tất nhiên Sảng nhi phải kế thừa cả tuyệt học bên ngoại. Vả lại, lão phu còn gì để dạy cho nó nữa đâu.
    Tuy không nói ra song trong thâm tâm Tư Đồ Quát cho rằng phép đánh búa của bên vợ chẳng đáng một xu. Tự cổ chí kim có bậc anh hùng nào dùng búa mà thành danh vô địch bao giờ đâu, kể cả hai lão Trình Giảo Kim và HắcToàn Phong Lý Quỳ.
    Với tâm lý khinh bạc ấy, Tư Đồ Quát mỉm cười nói bỡn:
    - Sau này Sảng nhi xuất đạo hành hiệp mà vác theo cây búa đốn củi thì quả là một giai thoại.
    Võ Xuân Hoa là người đàn bà rất mực hiền thục, ôn nhu, dẫu biết trượng phu xỏ xiên cũng không hề nổi nóng. Bà dịu dàng nói:
    - Tướng công chớ lo! Vũ khí tổ truyền bốn đời của họ Võ là cây Giáng Ma Thần phủ bằng thép rất tốt và có hình dáng rất đẹp, ai thấy cũng phải trầm trồ khen ngợi.
    Tư Đồ Quát ngượng ngùng cau mày:
    - Thế ư? Sao mười mấy năm nay nàng không cho lão phu xem?
    Võ nương nghiêm nghị đáp:
    - Thần phủ là một vật linh thiêng, được cất giấu trên sườn núi Cửu Tuấn, chỉ truyền cho nam chứ không truyền cho nữ. May mà Sảng nhi là nam tử nên thiếp mới dám trao.
    Tư Đồ Quát bực bội nghĩ thầm:
    - “Mẹ kiếp! Trong vòng trăm năm qua võ lâm đâu có gã cao thủ chết tiệt nào cầm búa mà nổi tiếng? Xem ra bên vợ ta chỉ bày trò thần bí chứ thắng ra đám ôn gì cả!”
    Tư Đồ Quát nhếch mép cười đểu, hờ hững nói:
    - Này nương tử! Lệnh tiên phụ có được Thần Phủ sao không dương danh thiên hạ mà lại ẩn dật ở xó rừng này?
    Võ nương buồn bã đáp:
    - Khôg phải chỉ mình tiên phụ mà cả các cụ tổ cũng vì cảnh nhà khốn khó đành phế bỏ mộng giang hố, lo cơm áo cho vợ con.
    Tư Đố Quát gật gù thông cảm:
    - Nàng nói phải! Người nghèo dù giỏi võ cũng chẳng thể thành danh, chẳng lẽ bỏ vợ con nheo nhóc mà đi lo chuyện bá vơ để tìm chút hư danh?...
    Song lão nghi hoặc nói tiếp:
    - Vậy thì chẳng lẽ họ Võ nhà nàng không có ai từng nổi danh thiên hạ?
    Xuân Hoa cười rạng rỡ, gật đầu:
    - Có chứ, cao tằng tổ của thiếp chính là Trung Nguyên Đệ Nhất Kiếm Khách Võ Hồng, đại cao thủ cuối thời Nam Tống.
    - Nàng nói nhăng gì thế? Lão ấy sử dụng kiếm cơ mà?
    Xuân Hoa thản nhiên gật đầu rồi giải thích:
    - Đúng vậy! Gia tổ theo Tể tướng Lục Tú Phu phò tá vị vua cuối cùng của nhà Tống chạy ra đảo Nhai Sơn Quảng Đông. Khi quân Mông Cổ tiến đánh Nhai Sơn, vua quan nhà Tống đều tự tử chết sạch, gia tổ thì thọ thương. Người vì tông mạch nhà họ Võ nên cố phá vây, tìm đến núi Cửu Tuấn này ẩn cư.
    Tư Đố Quát chẳng thấy nói gì về cây Giáng Ma Thần Phủ liền nóng nẩy gắt:
    - Việc ấy thì lão phu đã nghe truyền tụng. Tuy nhiên, vì cớ gì mà lại lòi ra cây búa Giáng Ma?
    Suốt mười mấy năm làm vợ, Xuân Hoa chưa bao giờ cau mặt với chồng. Bà luôn tươi cười, dịu giọng, ngay cả những lúc Tư Đồ Quát gắt gỏng. Thỉnh thoảng lão rơi vào tâm trạng xấu vì những kỷ niệm trong dĩ vãng. Còn thường thì Tư Đồ Quát rất ân cần, hòa nhã.
    Hôm nay cũng thế, Võ nương nhỏ nhẹ nói:
    - Thiếp kém phần chữ nghĩa nên không thể nói năng minh bạch được. Trưa nay chúng ta sẽ lên núi lấy Thần Phủ và chân kinh, tướng công xem trong ấy sẽ rõ nguồn cơn.
    Lời nói khiêm tốn và ánh mắt nhu thuận của bà đã khiến Tư Đồ Quát chạnh lòng hổ thẹn. Lão biết mình đã cư xử không đúng với vợ hiền, liến gượng cười phân bua:
    - Trời chớm lạnh, những vết thương cũ hành hạ khiến lão phu trở nên cáu bẳn, mong nương tử lượng thứ.
    O0o
    Sau bữa cơm trưa, Võ nương đưa chồng con lên núi Cửu Tuấn. Trên một bình đài cao mười trượng là nghĩa trang của giòng họ Võ. Mộ của Trung Nguyên Đệ Nhất Kiếm Võ Hồng cũng ở đây nhưng trên bia không ghi danh hiệu nên Tư Đố Quát từng đến tảo mộ mà không biết, cứ tưỏng kẻ vô danh.
    Sẵn dịp thượng sơn, Võ nương thắp hương cho những người đã khuất. Sau đó bà dẫn chồng con đi tiếp lên cao.
    Con đường ruột dê này đã lâu không người qua lại nên cỏ dại mọc đầy, phải rất quen thuộc mới nhận ra lối cũ.
    Vài khắc sau, ba người dừng chân trước một vách đá dựng đứng ở lưng chừng núi. Võ nương bảo Sảng nhi dùng kiếm phá mớ dây leo chằng chịt trên vách, để lộ một thạch môn hình chữ nhật phủ đầy rêu. Rồi bà xuống tấn đẩy mạnh cánh cửa đá dầy để khai động. Thấy thế, cha con Sảng nhi cũng vội phụ một tay.
    Thạch môn đóng chặt đã hai mươi năm, kể từ ngày ông ngoại Sảng nhi qua đời. Giờ đây, cánh cửa nặng nghìn cân kia cáu kỉnh phát ra những âm thanh ken két ồn ào rỗi mới chịu mở toang.Tư Đồ Quát đốt hương rồi đứng cạnh bệ thờ tượng Võ Hồng, chứng kiến cảnh con trai lạy lục thọ nhận Thần Phủ và chân kinh. Lão tò mò quan sát pho tượng đá và nhận ra rằng dung mạo của Trung Nguyên Đệ Nhất Kiếm rất oai vũ, uy nghiêm. Bất giác, Tư Đỗ Quát sinh lòng kính cẩn đối với cụ tổ bên vợ.
    Thạch môn tuy nhỏ nhưng lòng động vô cùng rộng rãi, sáng sủa. Trần hang cao vút và trên vách trước có hàng chục khe thông sáng, thông gió nên không gian thoáng đãng, chẳng hề hôi hám.
    Đây vốn là một hang đá vôi nên thạch nhũ buông rèm, có chỗ nước nhỏ xuống đọng thanh vũng. Tuy nhiên, hơn nửa nền động còn lại rất khô ráo, tiện lợi cho việc cư trú và luyện võ.
    Lúc này Xuân Hoa đã đỡ Sảng nhi đứng dậy và bà tháo lớp vải sơn, lấy thanh Giáng Ma Thần Phủ ra trao cho ái tử.
    Tư Đồ Quát choáng váng trước hình dáng tân kỳ, cũng như nước thép đen bóng của của cây búa cổ kính.
    Chữ Phủ có nghĩa là cây rìu, một loại búa lớn, cán dài, chuyên dùng để chặt cây, đốn gỗ. Dịch là rìu thì chính xác hơn song lại hơi khó nghe và kém phần hoa mỹ. Cao thủ võ lâm mà vác rìu thì còn ra thể thống gì nữa. Do vậy, chúng ta sẽ dùng chữ “Búa” cho thêm phần oai vũ.
    Vả lại, thanh Giáng Ma Thần Phủ này cũng chẳng giống rìu cho lắm vì nó có đến hai lưỡi và đoạn thép dài nhọn hoắt ở đầu. Nghĩa là, ngoài tác dụng chém, Thần Phủ còn có thể sát địch bằng những thức đâm.
    Lưỡi búa có hình nửa bầu dục, mép lưỡi là một cung dài độ hơn gang. Cán búa cũng được làm bằng cùng một thứ thép với lưỡi, cộng với mũi nhọn ở chót thì Thần phủ dài độ ba xích rưỡi, hơn trường kiếm nửa xích.
    Tư Đồ Quát không dằn được óc hiếu kỳ liền bảo con trai:
    - Sảng nhi! Con đưa Thần phủ cho ta xem thử!
    Cậu bé vâng lời và vui vẻ nói:
    - Cha à! Cây búa này nặng khủng khiếp, hài nhi đến gẫy tay mất.
    Tư Đồ Quát nhận lấy, giật mình vì trọng lượng của Giáng Ma Thần Phủ mặc dù cán búa là ống thép rỗng mà Thần Phủ vẫn nặng đến hai chục cân.
    Lão chăm chú quan sát những hoa văn kỳ lạ khắc chìm trên thân búa, nhận ra hàng ngàn chữ Phạn nhỏ li ti ẩn trong những hình rồng phượng. Lão thầm đoán cổ vật này xuất xứ từ Thiên Trúc hoặc Tây Tạng chứ chẳng phải của Trung Hoa.
    Tư Đồ Quát còn phát hiện việc cán búa là ba đoạn ống thép lồng mối vào nhau. Nghĩa là cán búa có thể rút ngắn lại chỉ còn độ hơn gang. Cả đoạn mũi thép nhọn cũng thụt được vào trong lòng cán rỗng. Lão vô cùng thán phục bàn tay tài hoa của người đã chế tạo nên Thần Phủ và mỉm cười khi nghĩ đến cảnh Sảng nhi giắt khối thép hai chục cân này vào giải thắt lưng. Nụ cười tắt lịm ngay khi lão nghe giọng nói ngọt ngào trong trẻo của vợ âu yếm cất lên:
    - Tướng công hãy thử dùng Giáng Ma Thần Phủ thi triển pho Du Long kiếm pháp xem nào.
    Sau này, khi xen xong đoạ cuối của quyển “Giáng Ma Chân Kinh”, Tư Đồ Quát mới hiểu rằng Trung Nguyên Đệ Nhất kiếm Võ Hồng muốn khắc chế Đao Vương Bạch Hán Từ nên đã sang Tây Tạng, vào Bố Đà La Tự trộm cây Thần Phủ. Võ Hồng thua Đao Vương ở trận Nhài Sơn biết kiếm không địch lại thanh đao quý nên nghĩ ra việc dùng Giáng Ma Thần Phủ mà thi triển kiếm thuật, tất nhiên, lão ta phải thay đổi sở học để tạo ra pho phủ pháp kỳ lạ. Cuối cùng, Võ Hồng đã nhờ Thần Phủ mà giết được Đao Vương.
    O0o
    Kể từ hôm ấy, Sảng nhi bắt đầu khổ luyện tuyệt học của giòng họ Võ. Lần này, sư phụ cưa cậu là người mẹ thân yêu.
    Được Xuân Hoa cưng chiều nên Sảng nhi rất nhõng nhẽo với mẹ. Tròn ba tuổi mới dứt sữa và đến tuổi lên tám cậu bé vẫn còn thói quen sờ vú mẹ. Tư Đồ Quát bị cạnh tranh liền nóng mũi mắng con:
    - Ngươi thực không biết xấu hổ, đã cao bằng ta mà cứ làm như con nít lên ba.
    Chủ quán Lý Tứ cũng có mặt, đang đối ẩm với cháu rể, liền lên tiếng phủ dụ Sảng nhi:
    - Phụ thân cháu nói đúng đấy! Nay Sảng nhi đã đến tuổi điều niên không được sờ vú mẹ nữa!
    (Theo cách tính tuổi của người Trung Hoà thì bé gái bảy tuổi và bé trai tám tuổi được gọi là tuổi điều niên).
    Sảng nhi nghe cha và ông răn đe, ngăn cấm như thế liền buồn rười rượi. Đối với cậu đôi bầu vú mẹ là tạo vật xinh đẹp và thân yêu nhất. Thỉnh thoảng, cậu cảm thấy nhớ chúng vô hạn, phải chạy đi tìm mẹ.
    Thực ra, tật xấu này có ở hầu hết những đứa trẻ được nuông chiều, nhất là khi chúng không có em kế tiếp.
    Vả lại cuộc sống cô quạnh nơi cánh rừng vắng này thiếu thốn niềm vui cho một đứa bé, vì vậy, Sảng nhi luôn bám lấy mẹ.
    Giờ đây, sắp bị tước đoạt phúc hiếm hoi ấy, cậu bé ứa nước mắt, ấp úng biện minh với Lý Tứ. Cậu hi vọng Lý lão sẽ bênh vực mình:
    - Thúc công? Tiểu tôn tuy đã tám tuổi nhưng vẫn nhỏ hơn gia phụ. Nay gia phụ đã gần sáu mươi mà còn sờ được thì tại sao lại cấm tiểu tôn?
    Thì ra Tư Đố Quát âu yếm vợ hiền bị con trai nhìn thấy.
    Lý lão ôm bụng cười lăn cười lóc, còn vợ chồng Xuân Hoa thì đỏ mặt tía tai, xấu hổ đến mức chỉ muốn độn thổ.
    Tư Đồ Quát thẹn quá hóa giận, trợn mắt quát:
    - Tiểu quỷ kia! Ngươi nói nhăng gì thế?
    Sảng nhi sợ khiếp vía, chạy đến núp sau lưng mẹ. Tuy nhiên, sau lần ấy cậu bé cũng bỏ được tật xấu, tìm niềm vui trong việc học võ.
    Đấy là chút kỷ niệm vui ngày cũ, giờ thì Sảng nhi đã mười hai, đang phải cố công khổ luyện tám mươi mốt chiêu Giáng Ma phủ pháp, thoát thai từ pho Giáng Ma kiếm pháp.
    Tư Đồ Quát hiểu rằng pho Du Long kiếm pháp của mình không lợi hại bằng sở học nhà vợ. Song ông không buồn vì Du Long Quyền mới là sở trường của núi Cổ Sơn.
    Hình dáng của Giáng Ma Phủ hoàn toàn khác với trường kiếm, chi giống ở chức năng là có thể đâm và chém. Điểm phức tạp nhất chính là việc trọng lượng dồn vế phần lưỡi búa cho nên cánh tay người võ sĩ phải rất khoẻ mạnh mới điểu khiển nổi. Ngược lại, cũng vì điểm đặc biệt ấy mà những đòn chém của Thần Phủ sẽ cực kỳ mãnh hệt hơn cả cương đao.
    Trong pho bí kíp còn có cả nguyên bản của Giáng Ma kiếm pháp nên Tư Đồ Quát đã tham khảo và đay lại cho con trai.
    Song song với việc luyện võ, Tư Đồ Sảng còn được phụ thân dậy cho một nghề để mưu sinh: Thuở xưa, cái nghề đốn củi là mạt hạng và mạt rệp, không giống như các ngài “Lâm tặc” giầu nứt đố đổ vách ngày nay. Chính vì thế Tư Đồ Quát không để con trai nối nghiệp họ Võ mà dạy cho Sảng nhi cái nghề gia truyền của họ Tư Đồ. Đấy là nghề điêu khắc tượng.
    Ở một xứ sở mà bách tính thờ phụng đủ loại thần thánh như Trung Hoa thì nghề khắc tượng luôn phát đạt. Tượng Phật, tượng Tam Thanh, tượng các vị thần trong đạo giáo, hay thậm chí là cả những nhân vật trong tiểu thuyết như Quan Công, Tễ Thiên...May thay, Sảng nhi vốn là một cậu bé thông minh và khéo tay nên đã không phụ lòng kỳ vọng của cha già, hấp thụ hết tinh hoa của nghệ thuật ấy.
    O0o
    Tư Đồ Quát chẳng bao giờ đưa vợ con về thăm quê hương phúc Châu của lão cả. Lý do là vì Tư Đồ Quát bị chính bào đệ của mình truy sát.
    Tư Đồ Xán kém anh trai năm tuổi song võ nghệ lại cao cường hơn. Tính tình lão ta lại ác độc phi thường nên Tư Đố Quát đành phải trốn đi để tránh cảnh nồi da xáo thịt. Thực ra, nếu có ở lại thì Tư Đố Quát cũng khó sống vì lão đã từng bị em trai đánh trọng thương.
    Tư Đố Quát sợ mẹ già vỡ tim mà chết nên đã giậu kín việc huynh đệ tương tàn, lẳng lặng bỏ nhà đi phiêu bạt, chịu tiếng bất hiếu nhi.
    Do vậy. Tư Đồ Xán chẳng hề bị tai tiếng và còn trở thành Minh chủ võ lâm.
    Tư Đồ Quát có được gia đình ấm cúng nên đã quên mối hận cũ, chi kể sơ cho vợ con biết mà thôi.
    Năm Sảng nhi mười bẩy tuổi Tư Đồ Quát quyết định bỏ hẳn nghề tiều phu, xoay qua nghề khắc tượng. Rừng Cửu Tuấn có rất nhiều loại cây long não, nguyên liệu tốt nhất để chế tác tượng Phật. Lũ mối mọt chẳng bao giờ dám xúc phạm đến những vị thần thánh có mùi thơm the the của long não.
    Hữu xạ tự nhiên hương. Với tài nghệ của cha con Tư Đồ Quát thì những pho tượng do họ làm ra đã sớm nổi tiếng đất Hàm Dương. Không những thế, chúng còn được du khách phương xa mến chuộng.
    Khổ thay, chính những pho tượng ấy đã tố cáo tung tích của Tư Đỗ Quát và tai họa ập đến.
    Một ngày mùa thu năm Quý Sửu, Tư Đồ Sảng vào rừng đốn cây long não, lúc trở về thi thấy song thân bị giết chết rất thê thảm. Mẹ chàng thần lực kinh nhân nên đối phương phải đâm đến bẩy nhát mới giết được. Cha chàng thì bị rơi đầu, mắt vẫn mở trừng trừng vì oán hận.
    Tư Đồ Sảng khóc lóc thảm thiết, chôn cất xong huyện đường là xách búa đi tầm thù.
    Ngoài sự nghi ngờ dành cho minh chủ võ lâm Tư Đồ Xán, manh mối duy nhất là chữ “Quỷ” viết bằng máu. Trước khi từ trần, Võ nương vẫn còn đủ sức cáo giác với con trai mình.
    Tư Đồ Sảng đã tròn nhị thập và tài sản nhà chàng cũng đã tăng lên kha khá được chủ quán Lý Tứ quản lý. Chàng cũng là người thừa kế duy nhất của Lý chưởng quỹ vì lão cũng chẳng có con cháu nào cả.
    Thuở còn trai trẻ, Lý Tứ từng là tay đạo tặc lão luyện giang hồ nên giờ đây hết lời khuyên nhủ, dặn dò cháu trai. Lão dạy chàng phải ẩn nhẫn và thận trọng vì lực lượng kẻ thù quá hùng mạnh.
    Tư Đỗ Sảng nhất nhất tuân lời thúc công bí mật rời ngay Hàm Dương.


    Last edited by giavui; 05-19-2020 at 03:25 PM.

  2. #2
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 2 - XUẤT ĐẠO TẦM HUNG PHÙNG LƯỠNG XÚ, HƯƠNG SƠN THẦN PHỦ TẢO TÀ MA
    Giữa tháng mười năm ấy, trong thành Lạc Dương xuất hiện lột chàng kỵ sĩ võ phục gấm xanh diêm dúa, ngoài khoác áo khinh cừu dài đến gối. Chàng trai này có thân hình cao lớn, tay dài quá gối, trồng rất oai vệ. Trên gương mặt anh tuấn điềm tĩnh kia có hàng ria mép phong nhã, được tỉa tót cẩn thận.
    Do Tư Đỗ Sâng chỉ quanh quẩn trong cánh rừng Cửu Tuấn để luyện võ nên rất ít người nhẵn mặt. Vì vậy, chắc chắn là kẻ thù cũng không thể biết được. Về mặt vũ khí và võ công thì cũng không đáng ngại vì những thứ ấy chưa hề xuất hiện trên giang hồ.
    Giờ thì chúng ta hãy cùng chàng trai tội nghiệp kia thưởng thức rượu thịt của tòa tửu quán số một đất Lạc Dương.
    Mùa thu Hoa Bắc se lạnh nên mới đầu giờ Tỵ mà số người uống rượu đã khá đông. Đa số khách giang hồ là vua nhậu. Rượu được tôn là thánh thủy của trời đất, chỉ trừ các nhà sư ra, kỳ dư đều không kiêng kỵ, kể cả giới đạo sĩ.
    Tư Đồ Sảng cũng biết uống rượu vì mùa đông dưới chân núi Cửu Tuấn rất khắc nghiệt. Từ năm mười bốn tuổi chàng đã đủ sức thay cha mẹ vào rừng đốn củi. Trước khi đi, chàng thường được mẫu thân rót cho một chung lớn để ngự hàn.
    Lần đầu xuất đạo, chàng trai sơn dã, quê mùa vô cùng bỡ ngỡ, hoang mang. Những chỉ dẫn gấp gáp của Lý Tứ chẳng thể biến chàng thành kẻ lịch duyệt ngay được. Cách đối phó với đời hữu hiệu nhất là ít nói và chịu khó quan sát. Do vậy, Tư Đồ Sảng lặng lẽ ăn uống và lắng nghe.
    Thế chàng ta đến Lạc Dương để làm gì? Xin thưa rằng tổng đàn võ lâm tọa lạc ở chốn này, tất nhiên là ở ngoại thành, trên sườn núi Hương Sơn, cạnh bờ sông Y Thủy.
    Thành Lạc Dương nằm trong bồn địa, giữa sông y Thủy và Lạc Thủy, từng là kinh đô của chín triều đại Trung Hoa, được ca ngợi là “Cửu Triều Danh Đô”. Những triều đại ấy gồm: Đông Chu, Đông Hán, Tào Ngụy, Tây Tấn, Bắc Ngụy, Tùy (đời Tùy Dạng Đế), Đường (đời võ Tắc Thiên), Hậu Lương, Hậu Đường. Các triều đại khác khi đóng đô ở Trường An thì luôn luôn chọn:Lạc Dường là kinh đô phụ.
    Lạc Dương có rất nhiều di tích danh thắng nổi tiếng, song lẫy lừng nhất chính là quần thể Long Môn Phật Đôpngj trên núi Long Môn ở bờ bên kia sông Y Thủy, đối diện với Hương Sơn.
    Công trình điêu khắc vĩ đại này khởi đầu từ thời Bắc Ngụy kéo dài bốn trăm năm, kiến tạo liên tục.
    Núi Long Môn có nhiều hang đá tự nhiên, rất thuận lợi cho việc tạc tượng, lớn nhất là các động Cổ Dương, Tân Dượng, Liên Hoa. Tổng cộng trên núi Long Môn có đến hơn hai ngàn một trăm Khám Phật, mười vạn bức tượng Phật lớn nhỏ và hơn ba ngàn bia ký. Tróng đó có bức tượng phật cao to nhất được tạo vào thời Võ Tắc Thiên nhà Đường, gọi là Đại Cô Xá Phật tượng. Tượng này cao gần năm trượng hai xích (mười bẩy phẩy mười bốn mét) riêng đầu tượng đã cao đến hơn một trượng hai xích.
    Nhưng liệu quần thể Long Môn Phật Động có liên quan gì đến câu chuyện của chúng ta hay không? Thưa rằng có! Nơi ấy chứa đựng một bí mật trọng đại của võ lâm. Hơn trăm năm nay vẫn lưu truyền lời đồn đại rằng núi Long Môn cất giấu tuyệt học của Vạn Tùy lão nhân.
    Vạn Tùy lão nhân là một bậc cao tăng phái Thiền Tông của thời Kim và Nguyên, ông có pháp hiệu là Hành Tú, vốn quê ở Hà Nội Giải, phía nam Lạc Dương. Chính vì thế mà võ lâm Trung Nguyên cho rằng vị cao thủ số một kia giấu tuyệt học trên núi Long Môn.
    Sau khi tồ sư phái Toàn Chân Vương Trùng Dương tọa hoá thì Vạn Tùy lão nhân là thiên hạ đệ nhất cao thủ. Chính Phúc Châu Thần Kiếm Tư Đồ Xán, chú ruột của Tư Đồ Sảng, cũng vì việc ấy mà dựng Tổng đàn võ lâm trên núi Hương Sơn.
    Thế tại sao lão ta không chiếm quách núi Long Môn cho tiện? Bởi thực ra những động Phật kia có cả ở núi Hương Sơn. Nghĩa là phần lớn các động ấy được đục trên vách đá của núi Long Môn và Hương Sơn, dọc theo hai bờ sông Y Hà.
    Lý do thứ hai là vì núi Long Môn là thánh địa Phật giáo, được quần triều đình canh gác, chăm sóc, làm sao Tư Đồ Xán lên đấy dựng nhà được?
    Hương Sơn vắng vẻ, hoang vu hơn nên chẳng ai chú ý đến trừ những người tìm kiếm di học của cổ nhân. Năm năm qua, trong cương vị Minh chủ, Tư Đồ Xán đã xây dựng tổng đàn thành một cơ ngời khang trang, rộng rãi. Tất nhiên tiền bạc là do các phái trong thiên hạ đóng góp lại.
    Hương Sơn ở phía Nam thành Lạc Dương, cách độ hơn hai chục dặm, và Lạc Dương chính là cửa ngõ của Tổng đàn võ lâm. Tư Đồ Xán chiếm Hương Sơn để độc quyền điều tra khu Long Môn Phật Động, chứ thực ra mọi sinh hoạt của lão đều ở trong thành Lạc Dương.
    Ngoài tòa gia trang đồ sộ Tư Đồ Xán còn sở hữu một võ trường rất lớn tên gọi Võ Lâm Học Hiệu. Cả hai cơ ngơi ấy đều nằm trên phế Vĩnh Ninh. Phố này mang tên như thế vì có chùa Vĩnh Ninh, một kiến trúc cổ kính thời Bắc Ngụy.
    Trước đây, Thiếu Lâm Tự là lò võ lớn nhất Trung Nguyên, mỗi năm đào tạo hàng trăm cao thủ tục gia. Nhưng từ khi Phúc Châu Thần Kiếm khai trương Võ Lâm Học Hiệu thì chùa Thiếu Lâm bị ế ẩm, chẳng mấy người theo học. Lý do rất đơn giản là vì Tư Đồ Xán đã từng đả bại cao thủ số một của Thiếu Lâm tự mà giành lấy ngôi Minh chủ. Tung Sơn đại hiệp Bàng Nam Sách, đệ tử tục gia đời thứ nhất, sư đệ của phương trượng chưởng môn Giám Tuệ đã bị Tư Đồ Xán đâm thủng ngực phải nhưng không chết.
    Lệ phí của Võ Lâm Học Hiệu rất cao nên chỉ có bọn con cái nhà giầu là vào được. Nhưng Võ Lâm Học Hiệu lúc nào cũng đông nghịt học sinh vì tính hiệu quả của sự giảng dạy. Ai cũng khen rằng học ở đây một năm võ nghệ sẽ tăng tiến bằng học hai năm trên núi Thiếu Thất!
    Vậy phải chăng Tư Đồ Sáng đến Lạc Dương để do thám Tư Đồ gia trang hoặc trà trộn vào Võ Lâm Học Hiệu? Xin thưa rằng hai việc ấy đều không cần thiết vì sẽ chẳng mang lại kết quả gì? Chàng trai mồ côi của chúng ta đến đây tìm một nhân vật có tên là Tích Dịch Quỷ (Ma Thằn Lằn) Tây Môn Giới. Lão ta tuổi độ lục thập, vốn là bào đệ của chưởng quữ Lý Tứ.
    Tây Môn Giới lừng danh trong làng đạo tặc Trung Nguyên với công phu Bích Hổ Du Tường có một không hai. Cái mỹ danh Tích Dịch Quỷ chính là sự ca ngợi của anh em trọm cướp.
    Song Tây Môn Giới không chỉ giỏi nghề trèo tường mà còn là kẻ đa mưu túc trí, xảo quyệt tuyệt luân. Lý Tứ biết rằng chỉ có gã bào đệ quỷ sứ này là đủ tài giúp đỡ Tư Đổ Sảng. Tích Dịch Quỷ có thói quen ăn nhậu ở Lạc Thành Đại tửu điếm nên Lý lão đã bảo cháu mình đến đấy tìm.
    Tây Môn Giới có tài biến hóa vô song, lúc nào cũng cải trang, vì vậy, dẫu Tư Đồ Sảng có nhìn thấy cũng chẳng thể nhận ra. Nghĩa là chàng phải chờ lão tự động tìm đến khi nhìn thấy chiếc trâm bạc trên búi tóc chàng.
    Chiếc ngân trâm này có đuôi khắc hình thằn lằn, vốn là tín vật của Tây Môn Giới tặng cho Lý Tứ. Bọn đàn em của Tích Dịch Quỷ nhìn thấy ngân trâm ất sẽ thông báo ngay cho chủ tướng.
    Lạc Dương chính là sào huyệt của Tích Dịch Quỷ. Quả nhiên, Tư Đồ Sảng vừa ăn xong bữa thì có gã hán tử áo gấm đen sang trọng đi ngang bàn và nói mau:
    - Trước cổng chùa Bạch Mã!
    Nói xong, gã rời tửu điếm ngay và không hề ngoái lại. Tư Đồ Sảng mừng rỡ gọi tiểu nhị tính tiền. Hai khắc sau, chàng đến chỗ hẹn, gặp lại hán tử áo đen và được nghe chỉ thị thứ hai:
    - Công tử hãy vào trọ trong toà Xuân Phong lữ điếm bên kia đường và chờ ở đấy, không được ra ngoài.
    Tư Đồ Sảng ngoan ngoãn vâng lời đối phương. Chàng tắm gội xong lên giường nằm suy nghĩ, tưởng nhớ đến song thân mà lệ thảm tuôn ướt gối.
    Quá ngọ mới có người gõ cửa phòng Tư Đồ Sảng nhưng không phải gã áo đen lúc trước. Người khách này có vóc dáng mảnh khảnh, tuổi độ bốn mươi, mặc áo xanh học trò, đầu đội nho cân mầu đen.
    Ông ta thản nhiên ngồi xuống chiếc ghế đẩu cạnh bàn rồi lạnh lùng hỏi:
    - Vì sao ngươi có được cây Tích Dịch ngân trâm kia?
    Tự Đồ Sảng điềm đạm đáp:
    - Tại hạ là Tư Đồ Sảng, cháu củaTứ Xuyên Đại Đạo Lý Khởi Tập.
    Thì ra chưởng quỷ Lý Tứ lại chính là cao thủ khét tiếng vùng Tây Thục.
    Nghe xong, ánh mắt của khách sáng lên niềm vui nhưng gã vẫn hỏi lại:
    - Thế ngươi có biết cách nhận dạng Tích Dịch Quỷ hay không?
    Tư Đố Sảng gật đầu:
    - Có! Gia thúc công bảo rằng phía dưới rốn của Tích Dịch Quỷ có một nốt ruồi son lối lớn bằng hạt đậu.
    Gương mặt của vị khách giãn ra, ã cười rất tươi:
    - Chính ta là Tây Môn Giới đây! Chẳng hay Lý đại ca có gửi thư cho ta không?
    Tư Đố Sảng hoan hỉ đáp:
    - Bẩm có!
    Sau khi đọc xong thư của Lý Tứ, Tây Môn Giới hỏi han Tư Đồ Sảng rất kỹ. Lão cau mày suy nghĩ rồi nói:
    - Lão phu cũng đồng ý với Lý đại ca rằng hung thủ không phải là Phúc Châu Thần Kiếm Tư Đồ Xán. Hiện nay uy quyền của lão ta bao trùm võ lâm, không hề sợ lời tố cáo của lệnh tôn. Vả lại, chuyện ấy đã quá xa xưa rồi. Do đó, lão phu thiên về giả thuyết rằng phe đối phương là người hay một tổ chức mang chữ “Quỷ” hoặc đeo mặt nạ ma quái cho nên lệnh đường mới di ngôn lại như thế.
    Tích Dịch Quỷ nhấp hớp trà rồi nói tiếp:
    - Lão phu còn đoán rằng trước đây lệnh tôn từng va chạm hoặc gia nhập tổ chức ma quỷ ấy. Vậy thì, có lẽ rằng khi ly khai họ lệnh tôn đã mang theo một bí mật kinh người nào đó nên đã hơn hai mươi năm mà vẫn không thoát khỏi sự truy tầm.
    Trước giờ, Tư Đồ Sảng cứ đinh ninh kẻ thù là chú ruột mình. Giờ nghe Tây Môn Giới phân tích, chàng rất hoang mang, bối rối, liền thở dài bảo:
    - Tây Môn đại thúc! Thế thì tiểu điệt phải tìm hung thủ ở đâu?
    Tây Môn Giới nghiêm giọng:
    - Hiện nay trong võ lâm có đến mấy chục cao thủ mang chiêu bài chữ “Quỷ” Còn bang hội thì có những nơi như Quỷ Cung ở Giang Tây, Quỷ Cốc ở Tứ Xuyên, Quỷ Bang ở Sơn Đông. Tuy nhiên, khả nghi nhất là một tổ chức khủng bố thần bí mang tên “Quỷ Ảnh Hội”. Ba chục năm nay, “Quỷ Ảnh Hội” đã giết chết hàng ngàn người, cướp đi mấy trăm vạn lượng vàng. Khổ thay, hành tung của họ cực kỳ bí mật nên không ai biết được chút lai lịch nào. Hiện nay, Tổng đàn võ lâm đã treo giải thưởng năm trăm lượng vàng cho bất cứ ai cung cấp tin tục về sào huyệt của “Quỷ Ảnh Hội”!
    Tư Đồ Sảng càng thêm thất vọng, đau đớn nói:
    - Nếu hung thủ đúng là “Quỷ Ảnh Hội” thì mối thù này lại càng vô phương báo phục! Chúng ẩn hiện như ma quỷ làm sao tiểu diệt tìm ra được?
    Chàng bỗng ngẩn người vì kinh ngạc khi nghe Tích Dịch Quỷ nói:
    - Lão phu có cách giúp ngươi tìm ra “Quỷ Ảnh Hội”!
    Tư Đồ Sảng mừng đến ứa nước mắt, chắp tay vái dài:
    - Nếu được vậy thì tiểu điệt nguyện suốt đời ghi tâm khắc cốt ơn trọng của đại thúc.
    Tây Môn Giới xua tay cười nhạt:
    - Võ nghệ của ngươi được bao nhiêu mà dám tìm “Quỷ Ảnh Hội” đòi nợ máu? Bản lãnh của mỗi tên sát thủ ấy đều tương đương với một cao thủ nhất lưu trong võ lâm, chưa kể đến bọn thủ lĩnh.
    Tư Đồ Sảng chỉnh sắc đáp:
    - Đại thúc cứ yên tâm! Tiểu điệt thừa kế nòi thần lực của gia mẫu, sức cử ngàn cân, lại tinh thông quyền chưởng, kiếm thuật và cả phủ pháp của Trung Nguyên Đệ Nhất Kiếm Võ Hồng. Tiểu điệt từng bị gia phụ và Lý thúc công vây đánh mà vẫn chiếm thượng phong.
    Tư Đồ Sảng cố tạo niềm tin cho đối phương chứ chẳng phải có ý khoe khoang, mặt chàng buồn rười rượi.
    Nhưng Tích Dịch Quỷ thì chấn động vì hiểu rõ bản lãnh của Tứ Xuyên Đại Đạo cũng như của Tư Đồ Quát. Trước khi bị em ruột đuổi chạy khỏi Phúc Châu, Tư Đồ Quát từng nổi danh là Du Long Thần Quyền.
    Tây Môn Giới gật gù:
    - Tốt lắm? Nếu đúng là võ nghệ của ngươi cao siêu như thế thì lão phu rất an lòng. Bí mật của quỷ ảnh Hội là trên mặt của các hội viên đều có đúng ba nốt ruồi. Mặt giả hay thực thì cũng vậy. Bí mật thứ hai là Quỷ Ảnh Hội có thói quen tiếp cận những người trẻ tuổi, anh hùng để dụ dỗ thu phục. Do đó, hiền điệt cứ việc dương oai diễu võ rong chơi khắp chốn đô hội, tất có ngày sẽ chộp được một tên tò mò? Sau đó ngươi dùng cực hình tra tấn thì sẽ tìm ra sào huyệt “Quỷ Ảnh Hội”. Hoặc giả, chính gã đó sẽ dẫn ngươi về tổ quỷ.
    Đúng là chuyện mò kim đáy biển song Tư Đồ Sảng không còn cách nào khác, đành phải làm theo kế hoạch của Tây Môn Giới. Lạc Dương có Tổng đàn võ lâm nên chắc là Quỷ Ảnh Hội không dám bén máng đến. Do đó, Tư Đỗ Sảng quyết định sáng mai rời Lạc Dương đi đến Hứa Xương.
    Nhưng ngay tối hôm ấy, Tây Môn Giới đã quay lại, đưa chàng về nhà của lão trong một trang viện cổ kính, tao nhã gần cửa đông thành.
    Trong vòng một tháng, Tích Dịch Quỷ dạy cho Tư Đồ Sảng công phu Bích Hổ Du Tường và những mánh khóe trong nghề đạo thích. Dù không muốn chàng vẫn phải học để lão vui lòng.
    Giữa tháng mười một, khi những bông tuyết đầu tiên rơi xuống thì Tư Đồ Sảng đã rời xa Lạc Dương được vài dặm. Chàng bỗng nẩy ra ý nghĩ đến thăm Tổng đàn võ lâm để biết mặt chú ruột. Cha chàng đừng kể rằng hai người khá giống nhau, chỉ khác ở chỗ Tư Đồ Xán mang chiếc mũi ưng gồ cong xấu xí.
    Hơn nữa, cách thành danh dễ dàng, mau lẹ nhất là giật những giải thưởng mà võ lâm treo giá thủ cấp những tên cùng hung cực ác.
    Tuy Minh chủ có dưới trướng hai trăm thủ hạ thân tín và còn có quyền huy động cao thủ các phái song cũng không thể nào tiêu diệt được hết bọn ác nhân trong thiên hạ. Chúng chẳng dại gì ở yên một chỗ chờ Minh chủ đến hỏi tội.
    Bởi thế cho nên một phần ngân sách của võ lâm được dùng đế khuyến khích các bậc hiệp sĩ ra sức trừ gian diệt bạo. Chỉ cần họ mang được thủ cấp và vũ khí của kẻ bị truy nã về đến núi Hương Sơn là có ngay số tiền thưởng. Tùy theo võ nghệ của tên ác ôn mà giải thưởng cao hay thấp.
    Từ đó mà trên giang hồ sinh ra một nghề lạ lùng, nghề săn người. Nghề này lạ ở chỗ là những kẻ chuyên nghiệp không bao giờ vỗ ngực xưng. Họ âm thầm theo dõi, hạ thủ con mồi rồi lặng lẽ đem về lãnh thưởng. Tư Đồ Sảng không muốn trở thành kẻ săn người chuyên nghiệp mà chỉ muốn dương danh để dẫn dụ kẻ thù.
    Tây Môn Giới đã chọn cho chàng một cái biệt hiệu rất kêu để lòe thiên hạ: “Thần Phủ Lang Quân”.
    Tư Đồ Sảng là người trung hậu nên rất ngượng miệng khi phải tự xưng, tự phong.
    Tích Dịch Quỷ bèn an ủi chàng rằng người võ sĩ nào cũng phải làm như thế, tuy không được khiêm tốn xong lại tránh được cảnh bị đặt cho những danh hiệu oái oăm như: “Miêu Quyền”, “Phục Cẩu Thần Kiếm”, “Kê Chuỷ Lang Quân”... lúc ấy thì dở khóc dở cười, nạn thận không còn chút hùng tâm tráng chí nào nữa cả.
    Xế trưa, Tư Đồ Sảng đi ngang cánh rừng đào, cách sông Y Thủy ba bốn dặm. Con đường này tương đối vắng vẻ vì gần đến núi Hương Sơn, nơi là Phật Động chỉ có ở phần sườn núi dọc bờ sông, phần còn lại không có quái gì, ngoài Tổng đàn võ lâm. Thông thường, du khách lên núi Long Môn sau đó dùng thuyến đi dọc sông Y Thủy để tham quan.
    Đường vắng thì rừng cũng vắng và vì thế mà xảy ra huyết án, một việc không thể ngờ được bởi rừng đào rất gần thánh địa võ lâm.
    Thực ra thi bọn ác ôn kia hành sự rất kín đáo, tít sâu trong rừng chẳng hề lộ liễu. Xui cho chúng là nhĩ lực của Tư Đồ Sảng rất thính nhậy, nghe được tiếng sắt thép va chạm và tiếng rú thất thanh, lảnh lót của nữ nhân.
    Tư Đồ Sảng rung động tâm hồn, tưởng như mẹ hiền đang kêu cứu. Chàng dừng phắt lại nghe ngóng rối rẽ ngựa vào lối mòn xuyên rừng. Tán đào không cao nên cản trở người kỵ sĩ. Tư Đồ Sảng liền bỏ ngựa khoác bọc hành lý phi thân đi tiếp. Thanh Giáng Ma Thần Phủ lúc nào cũng nằm gọn ở hông được áo choàng lông che kín.
    Đấu trường chỉ cách bìa rừng hơn dặm. Đấy là một tòa đạo am nhỏ nhưng thanh nhã, trước cứa am là sân cỏ rộng rãi, bằng phẳng. Nhưng giờ đây cỏ xanh lấm tấm phủ tuyết và bị dầy xéo bởi những bàn chân thô bạo. Có tám gã áo xanh bịt mặt, sử dụng loan đạo đang vây chặt hai nữ nhân tóc dài buông xõa.
    Hai nữ lang này có thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn, chập chờn tựa bóng u linh. Trường kiếm trên tay họ lợi hại phi thường, đánh ra toàn những đòn hiểm ác, nhờ vậy mà họ vẫn còn đứng vững trước sự vây đánh của tám cao thủ. Tuy nhiên, hai nàng đã bị thương, thỉnh thoảng rú lên vì đau đớn và giận dữ.
    Tư Đồ Sảng tuy nhân hậu song lại là người cương liệt, ghét ác như kẻ thù. Cái chết thê thảm của song thân đã khiến chàng càng bội phần nóng nẩy. Nay chứng kiến cảnh ỷ chúng hiếp cô, lửa giận bốc lên tâm trí chàng trai trẻ. Tư Đồ Sảng rút Giáng Ma Phủ, bấm nút cơ quan cho mũi thép ló ra và kéo dài cán búa.
    Rồi chàng lướt đến tấn công bọn thanh y. Có hai tên lập tức quay lại chống cự với màn nhấc quang dày đặc đang ào ào ập đến.
    Lần đầu xuất thủ, Tư Đổ Sảng không lượng được sức mình, chỉ sợ không đủ, nên đã dồn toàn lực vào Chiêu “Thần Phủ Khai Lâm”. Thần lực kinh hồn của chàng đã làm cho lưỡi búa thép nặng hai chục cân bay với tốc độ của trường kiếm nên đòn đánh nặng tựa ngàn cân. Hai lưỡi đao bị đánh bạt và mũi thép nhọn ở đầu Thần Phủ trổ ngay vài lỗ trên người nạn nhân.
    Tiếng rú thảm khốc của họ đã khiến sáu gã thanh y còn lại phải giật mình. Bốn gã bỏ hai nữ lang, nhẩy đến vây đánh tiểu tử cầm búa đáng ghét kia.
    Kết quả mỹ mãn của chiêu búa đầu tiên đã khiến Tư Đồ Sảng rất tự tin vào bản lãnh, bình thản đối phó với bốn thanh đao cuồng nộ. Chàng vũ lộng thanh Giáng Ma Thần Phủ tạo thành giải lụa đen mờ quanh thân dũng mãnh ngăn chặn, giải phá những đường đao độc ác của phe đối phương.
    Đao nặng gần gấp đôi kiếm nhưng Giáng Ma Thần Phủ lại nặng gấp đôi thanh đao của bọn Thanh y. Bởi vậy, khi va chạm, Tư Đỗ Sảng luôn có lợi thế. Hổ khẩu của các đao thủ rách toạc, rỉ máu tươi và họ vô cùng kinh ngạc, tự hỏi chàng trai trẻ kia lấy đầu ra sức lực mà điều khiển cây búa cổ quái nặng nề nhanh hơn đao của họ?
    Chính bản thân Tư Đồ Sảng cũng không biết vì sao sức lực của mình lại đáng sợ như vậy. Đây là một bí mật, một món quà kỳ diệu mà mẫu thân chàng đã di tặng cho con trai ngay trong những ngày còn trứng nước và ba năm bú mớm.
    Giờ đây, Tư Đồ Sảng kiêu dũng như sở Bá Vương, biến thanh Giáng Mạ Phủ thành lưỡi búa sấm sét của thiên lôi. Chàng lại là người cương liệt vô úy nên công nhiều hơn thủ, dũng khí ngút trời khiến kẻ thù phải khiếp đảm.
    Càng đánh càng quen tay, Tư Đồ Sảng hứng chí thi triển pho Du Long thân pháp, giả như tấn công mé tả song lại đảo người sang hữu, lưỡi búa phủ kín một gã bạc mệnh, loan đao của gã gầy rời và thân hình thì đứt đoạn bởi lưỡi búa sắc như dao cạo. Giáng Ma Phủ là thần vật trấn sơn của chùa Bố Đà La nên có nước thép rất tốt.
    Xong xuôi, Tư Đồ Sảng lập tức đề khí bốc cao, lộn người tấn công gã thứ hai. Chiêu Hắc Vân Áp Đỉnh này mãnh liệt như núi đổ, Thần Phủ hóa thành đám mây thép đen mờ sa thẳng xuống đầu đối thủ.
    Lối đánh cương mãnh, vũ bão của Tư Đồ Sảng đã hoàn toàn khắc chế được bọn đao thủ áo xanh. Nạn nhân bị rơi vũ khí và vỡ sọ.
    Bên kia, hai nữ lang áo trắng cũng đã giết được kẻ địch. Và họ ập đến chặn đứt sinh lộ của hai gã cuối cùng, đang đối diện Tư Đồ Sảng. Một nàng liến láu nói:
    - Không được để chúng thoát thân.
    Nhưng Tư Đồ Sảng cũng không có ý định đó. Tích Dịch Quỷ Tây Môn Giới cũng như Tứ Xuyên Đại Đạo Lý Tứ đã bắt chàng phải thuộc lòng câu: “Nhổ cỏ nhổ tận gốc”. Chỉ cần một tên chạy thoát là chàng sẽ trở thành mục tiêu săn đuổi của phe đối phương. Do vậy, Tư Đố Sảng nghiến răng xuất chiều “Toàn Phong Nhất Nộ”, Phủ ảnh cuồn cuộn, xoay tít như con trốt, cuốn lấy cả hai mục tiêu. Hai gã này đang sát cánh để đối phó với chàng nên rơi gọn vào lưỡi búa. Chúng rú lên thê lương, thân hình rách toang, máu hồng văng tung tóe.
    Hai ả áo trắng cũng phải rùng mình trước thảm cảnh ấy. Một ả le lưỡi tỏ vẻ sợ hãi và nói:
    - Chiêu búa này tàn bạo thực!
    Ngược lại, ả kia thì hớn hở khen:
    - Thế mới đúng là sở học của bậc anh hùng!
    Té ra, hai nàng này có tính cách khác nhau, chỉ giống ở chỗ xấu như ma lem, trán và má loang lổ chỗ đen chỗ trắng. Trên những bớt đen ấy còn có cả những sợi lông kỳ dị.
    Loại dị tật này được xem là dấu hiệu của sự luân hối. Kiếp trước bệnh nhân là súc vật, kiếp này thành người xong lột da chưa hết.
    Tuy nhiên, hai ả mặt lông dê này đôi mắt rất tinh anh, sống động, biểu lộ một tính cách ranh mãnh nghịch ngợm.
    Có lẽ họ là hai chị em ruột vì mũi cũng thẳng dọc dừa, môi anh đào đỏ tựa thoa son.
    Giờ đây, dù trên vai và đùi đang có những vết thương rỉ máu mà hai ả cứ nhoẻn miệng cười đắc ý thì thầm với nhau.
    Trong lúc ấy, Tư Đồ Sảng mở khăn bịt mặt của bọn áo xanh, xem chúng có mang ba nốt ruồi của Quỷ Ảnh Hội hay không? Chẳng thấy gì, chàng đứng lên ngượng ngùng nói:
    - Dám hỏi nhị vị cô nương vì sao lại va chạm với bọn đao thủ này, và thực rà họ thuộc bang phái nào?
    Chàng có thói quen nhìn thẳng khi đối thoại nên hai nữ lang cổ quái kia nhận ra ánh mắt chàng không hề có chút ghê sợ họ.
    Một ả tủm tỉm cười hỏi lại:
    - Dường như dung mạo xấu xí như quỷ của bọn ta không làm cho công tử ghế sợ.
    Tư Đồ Sảng thực thà đáp:
    - Tiên mẫu có gương mặt bị thú dữ cào nát một bên mà tại hạ vẫn không thấy xấu.
    Hai ả thích thú nháy nhó nhau rồi bất ngờ lướt đế như tia chớp, mỗi người một bên giữ chặt cánh tay của Tư Đồ Sảng, họ nũng nịu xin chàng nhận mình làm nô tỳ. Họ còn sa cả lệ kể lể rằng mẹ ruột mới lìa trần, cha lấy kế mẫu và đuổi họ ra khỏi nhà, chầng biết nương tựa vào ai!
    Tư Đồ Sảng không dám vùng vẫy vì sợ đụng chạm da thịt nõn nà của hai con quỷ cái. Chàng càng bối rối đến mụ cả người khi hai ả chẳng chút ý tứ cứ dán sát đôi bồng đảo vào người chàng.
    Mặt khác, vì nghĩ đến mẫu thân nên Tư Đồ Sảng cám cảnh, bất nhẫn cho hai ma lem. Chàng bấm bụng gật đầu chấp thuận để sớm thoát khỏi sự kiềm giữ khó coi này.
    Hai ả mừng rỡ nghiêng mình thi lễ:
    - Tỷ muội nô tài là Lăng Phi Tuyết và Lăng Phi Hồng xin ra mắt công tử!
    Tư Đồ Sảng rầu rĩ đáp:
    - Ta là Tư Đồ Sảng, hai mươi tuổi, quê ở Hàm Dương. Nhưng xin hai cô nương hãy giấu kỹ điều ấy.
    Lăng Phi Tuyết là chị và cũng là cô ả dữ dằn. Nàng ta thích thú tròn mắt hỏi:
    - Nhưng vì sao công tử lại phải che giấu lai lịch?
    Tư Đồ Sảng ngao ngán đáp:
    - Chuyện rất dài dòng, nhị vị hãy chăm sóc thương tích xong rồi tại hạ sẽ kể cho nghe.
    Hai ả gật đầu, quay bước lủi ngay vào toà đạo am, thân pháp nhanh như điện.
    Tư Đồ Sảng thầm khen ngợi và tự an ủi rằng đã tìm được hai trợ thủ đắc lực võ nghệ cao cường. Tuy nhiên, chàng vẫn rầu thúi ruột khi nghĩ đến cảnh mình được hộ tống bởi hai nữ nhân cổ quái. Với chàng thì họ không xấu nhưng tất nhiên là khác thường.
    Tư Đồ Sảng rú lên gọi tuấn mã. Lát sau, con vật thông linh tìm đến cọ chiếc mõm ướt vào ngực chàng mà hí lên nhè nhẹ. Nó có tên là Bạch nhi, món quà mà cha chàng đã tặng khi chàng tròn mười lăm tuổi. Năm năm gần gần gũi đủ để khiến cho người với vật hiểu ý nhau và rất thân thiết.
    Cơn giận trôi qua, lòng nhân trỗi dậy, Tư Đồ Sảng bùi ngùi nhìn tám cái xác áo xanh. Kiếp giang hố quả là phi lý khi người ta chém giết nhau, dù chẳng hận thù. Họ với chàng hoàn toàn xa lạ và có lẽ rằng những kẻ đã vây đánh cha mẹ chàng cũng chỉ làm theo mệnh lệnh mà thôi.
    Tư Đố Sảng thở dài thườn thượt, bước đến bên rào trúc mé hữu nhặt cây mai đào đất. Chàng quyết định chôn cất tám nạn nhân xấu số kia.
    Tư Đồ Sảng hì hục kéo lê những xác chết vào rừng đào bên trái đạo am rồi chuẩn bị đào lỗ: Nhưng Lăng Phi Tuyết đã như cơn gió ập đến, cười toe toét:
    - Công tử bất tất phải nhọc công! Tiểu tỳ đã có cách phi tang rất hữu hiệu.
    Nói xong ả mở nút trái bầu khô, trút phấn trắng bên trong vào từng xác chết. Tư Đồ Sảng nghe lông tóc dựng ngược khi nhìn thấy khói bốc nghi ngút và xương thịt bọn Thanh y tan thành nước vàng. Chàng biết đây là loại bột Hủ Thi Tán mà giới độc môn vẫn thường sử dụng.
    Xong việc, Lăng Phi Tuyết hớn hở kéo tay chủ nhân:
    - Mời cồng tử vào tắm rửa rồi dùng bữa trưa. Gia muội nấu nướng sắp xong rồi.
    Hàm răng răng như ngọc của Phi Tuyết nhờ một chiếc khểnh mà mà nụ cười thêm duyên dáng. Đấy cũng là điểm để Tư Đồ Sảng nhận ra nàng. Răng của Phi Hồng đều như bắp.
    Tư Đồ Sảng vừa ngượng ngập gật đầu thì Phi Tuyết đã lướt đi trước để chuẩn bị bồn tắm.
    Chàng bật cười lẩm bẩm:
    - Lạ thực? Sao hai ả này lúc nào cũng nhẩy nhót như nai, không đi chậm bao giờ cả?
    Phía sau đạo am có giếng nước và nhà tắm riêng. Gần đấy chính là nhà bếp có Lăng Phi Hống đang tất bật nấu nướng. Phi Tuyết mở cửa nhà tắm lôi xệch Tư Đồ Sảng vào trong và nhanh tay cởi giải thắt lưng của chàng.
    Tư Đỗ Sảng ngượng chín người, ấp úng nói:
    - Ta đã lớn có thể tự tắm được! Cô nương ra ngoài đi! _
    Phi Tuyết cười khanh khách:
    - Bổn phận của nô tỳ là hầu hạ chủ nhân, xin công tử chớ ngại!
    Tư Đỗ Sảng cười buồn:
    - Ta là con nhà tiều phu, không quen để người khác hầu hạ!
    Lăng Phi Tuyết sững người, mắt chớp nhanh rồi thỏ thẻ:
    - Tướng mạo của chàng trân quý như rồng phượng, tuy xuất thân thanh bạch nhưng sau này vinh hiển tột bậc. Vả lại, bậc quân tử tuỳ ngộ nhi an, sao lại vì chút tiểu tiết mà khiến cho nô tỳ lỗi đạo?
    Tư Đồ Sảng giật mình, không ngờ cô ả này lại đầy bụng kinh luân, nói năng như bậc nho gia lão thành. Chàng cười mát:
    - Nàng nói hay lắm nhưng sao không nghĩ câu nam nữ hữu biệt, đưa ta vào cảnh thất lễ?
    Phi Tuyết thản nhiên cười khì:
    - Chẳng lẽ nô tỳ xấu như quỷ thế này mà cũng có thể khiến cho công tử nổi tà tâm, đưa đến thất lễ được sao?
    Tư Đổ Sảng cứng họng vì đuối lý, nhưng không hề giận. Chàng vốn là một đứa trẻ bị ép buộc phải trưởng thành vì cái chết của song thân. Cách đây không lâu chàng vẫn còn lẩn quẩn bên váy mẹ, chỉ ngủ ngon khi nghe tiếng mẹ ru. Mẫu thân chàng thương con bằng tấm lòng như trời biển, cùng con nô đùa chẳng kể gì tuổi tác. Do vậy, dù cô độc nơi cánh rừng hoang vắng mà tuổi thơ của Tư Đồ Sảng luôn đầy ắp tiếng cười và những trò tinh nghịch.
    Giờ đây, gặp phải cô ả ranh mãnh, Tư Đồ Sảng chẳng chịu thua, tìm cách phản đòn. Chàng nhếch mép cười đầy ẩn ý rồi để mặc cho Phi Tuyết hành động.
    Lát sau, thân hình cường tráng đầy nam tính của chàng hiện ra khiến ngón tay Phi Tuyết run rẩy và ánh mắt nàng lộ vẻ ngượng ngùng. Những mảnh da trắng trên gương mặt nàng cũng đỏ rực lên.
    Tư Đồ Sảng hiểu ngay cô ả này chỉ giỏi nghề chọc ghẹo chứ bản chất thì nhút nhát. Chàng khoái chí trầm giọng ra lệnh:
    - Phiền nàng kỳ cọ cho ta vậy!
    Rỗi chàng bước vào bồn gỗ đầy nước nóng và nhìn nàng với vẻ chờ đợi.
    Phi Tuyết lỡ phóng lao phải theo lao, lóng ngóng dùng khăn vải thô cọ lưng và vai chủ nhân. Tư Đỗ Sảng bỗng khịt mũi chê bai:
    - Nàng hôi quá! Sao không vào tắm chung với ta cho vui.
    Phi Tuyết choáng váng, chưa kịp phản ứng gì thì đã bị Tư Đồ Sảng vươn tay nhấc bổng đặt vào bồn gỗ. Rồi chàng giả vờ cởi áo đối phương, Phi Tuyết hồn vía lên mây, lắp bắp van lạy:
    - Xin công tử đừng làm thế!
    Tư Đố Sảng phì cười:
    - Té ra nàng chi là cọng giấy!
    Phi Tuyết hồ thẹn đấm thùm thụp vào lồng ngực vạm vỡ của chàng. Nàng phụng phịu đứng lên rời bồn tắm, bỏ chạy ra ngoài.
    O0o

  3. #3
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Sau bữa cơm trưa, cơm tối thì hai ả họ Lăng đã hiểu rõ gia thế và mối huyết thù của Tư Đồ Sảng. Họ khẳng khái đòi đi theo để giúp chàng dương danh thiên hạ cũng như báo hận.
    Tư Đồ Sảng băn khoăn bảo:
    - Ta định gửi hai nàng về Lạc Dương nương tựa Lý thúc công, cũng là để nhang khói cho cha mẹ ta. Chốn giang hồ sắt máu này vốn chẳng phải là chỗ của nữ nhi.
    Lăng phi Hồng cười ngất:
    - Công tử sai rồi. Chính một kẻ không chút kinh nghiệm giang hồ như chàng mới không nên dấn bước. Còn chị em bọn nô tỳ là kẻ lão luyện, xảo quyệt, sẽ giúp chàng đạt được mục tiêu.
    Tư Đồ Sảng đỏ mặt công nhận nàng nói đúng. Chàng chỉ là một chú cừu non giữa thảo nguyên đầy lang sói.
    Lăng phi Tuyết ỏn ẻn phân trần:
    - Bọn nô tỳ tuy võ nghệ không bằng công tử nhưng thủ đoạn có thừa để đối phó với tà ma. Nô tỳ giỏi nghề thuốc, thiện dụng độc, còn nhị muội thì đa mưu túc trí, tinh thông thuật kỳ môn trận thế. Bấy nhiêu tài mọn sẽ giúp ích được công tử.
    Phi giồng chúm chím cười và nói thêm vào:
    - Nô tỳ còn có tài nấu ăn thượng hạng, biết hàng ngàn món ăn lạ trong thiên hạ.
    Tuy dung mạo xấu xí nhưng giọng nói của hai ả họ Lăng rất thanh tao, trong trẻo và ngọt lịm, gợi cho Tư Đồ Sảng nhớ đến từ mẫu. Chàng bồi hồi xúc động, nhìn họ trìu mến và nói:
    - Nhị vị đã có lòng như thế, Sảng tôi xin cung kính tuân mệnh. Từ nay sinh tử có nhau.
    Sáng hôm sau, trong đại sảnh của Tổng đàn võ lâm xuất hiện một bộ ba vô cùng cổ quái. Nam thì anh tuấn, oai phong, xứng danh là Thần Phủ Lang Quân, còn hai nữ tỳ thì xấu cỡ Chung Vô Diệm.
    Tuy chưa biết bản lãnh Thần Phủ Lang Quân Lý Thu cao cường đến đâu nhưng mấy chục hào kiệt đều phải e dè trước thân pháp nhanh như điện của hai ả lọ lem. Cứ như con nít lên năm, hai ả chạy lung tung, miệng cười toe toét. Có người cho rằng hai ả bị điên.
    Lúc đầu, mọi người cảm thấy bực bội nhưng khi Lý Thu ra lệnh cho bọn tỳ nữ ngồi im thi quần hào lại thấy tiêng tiếc, thực ra thân hình thon thả nõn nà của hai con bé kia quả là đáng để ngắm nhìn. Ngoài trời tuyết rơi song trong sảnh có lò sưởi nên hai nàng đã cởi áo cừu để lộ bộ võ phục lụa vàng được cắt khéo, tôn vinh những đường cong cơ thể.
    Nghe gọi, Phi Tuyết và Phi Hồng lướt đến ngồi hai bên chủ nhân, trố mắt nhìn viên quản sự của tổng đàn.
    Lý Thu là cao thủ mới xuất hiện nên Hồ quản sự đích thân đón tiếp. Hồ lão tài trí tuyệt luân, nổi danh thiên hạ với mỹ hiệu Trại Tôn Tử.
    Tuy danh nghĩa chỉ là quản sự nhưng Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Tuệ chính thực vị quân sư của võ lâm. Trải qua ba đời Minh chủ, Hồ lão vẫn chưa được nghỉ ngơi dù tuổi đã bảy mươi hai. Tư Đồ Xán đã khẩn khoản mời Trại Tôn Tử ở lại Tổng đàn giúp mình.
    Tóm lại, Hồ quản sự đã giải quyết toàn bộ những cuộc tranh chấp trên giang hồ, thông qua miệng của minh chủ. Ông mớm ý cho những bậc anh hùng tứ chi phát triển, đầu óc còn non.
    Hôm nay, Trại Tôn Tử vô cùng thích thú trước chàng trai họ Lý. Bằng vào tài trí siêu việt của mình ông đã phát hiện ra đóa kỳ hoa của võ lâm. Hồ lão tò mò gạn hỏi nhưng Lý Thu chỉ phúc đáp rất hạn chế.
    Lăng Phi Hồng đã bịa ra một thiên cố sự đơn giản và rất đáng tin cậy. Tư Đỗ Sảng đã trình bày với Hồ lão như sau:
    - Bẩm Hồ lão tiền bối! Vãn sinh học nghệ trên núi Đại Thê Sởn từ nhỏ, bốn tháng trước về thăm nhà thì mới biết song thân bị cường đạo thảm sát. Các bộ đầu ở Hán Trung cho biết rằng đấy có thể là hành vi của Quý Ảnh Hội vì thế, vãn sinh đến đây xin được chỉ giáo đôi điều để có thế tìm ra kẻ thù.
    Lúc nói, chàng tưởng nhớ đến tử trạng của cha mẹ nên lòng đau như xé, nước mắt ứa ra, tạo niềm tin cho Trại Tôn Tử. Thế là Hồ Sĩ Tuệ vô cùng cảm động, bảo chàng rằng:
    - Lão phu đã âm thầm huy động nhân lực điều tra suốt mười mấy năm nên dã tìm ra chút manh mối. Nhưng lão phu phải được sự đồng ý của Minh Chủ thì mới có thề tiết lộ cho Lý công tử biết. Vì vậy, cuối giờ Thìn sáng mai, công tử hãy quay lại đây để nghe phúc đáp.
    Tư Đồ Sảng hoan hỉ vái dài, rời Hương Sơn quay về tòa đạo am trong rừng đào. Lăng Phi Hồng là đầu bếp lão luyện, chỉ cần hai khắc đã nấu xong bữa trưa, gồm ba món. Tư Đồ Sảng thầm khen ả nấu vừa miệng mình ăn. Chàng chợt thắc mắc:
    - Hồng muội! Làm thế nào mà ngươi vừa học võ vừa học được nghề bếp núc?
    Tư Đồ Sảng giống mẹ nên giọng nói ấm áp ngọt ngào và rất truyền cảm. Dù chàng nói năng tự nhiên, không hề kiểu cách song từng câu như mật rót vào tai người nghe. Trái tim nữ nhân lại dễ bị rung động trước âm thanh hơn là thị giác nên họ luôn say đắm những chàng trai ăn nói có duyên. Nghĩa là tuy Tư Đồ Sảng không cố ý tán tỉnh mà hai ả họ Lăng vẫn tái tê khi nghe gọi đến tên mình.
    Phi Hồng nhũn cả người nhoẻn miệng cười tươi như hoa nở. Hàm răng trắng đều và đôi môi đỏ mọng đã làm rạng rỡ gương mặt quái dị của nàng:
    - Bẩm công tử! Gia sư là Táo Gia Cát Bùi Thế Trực, nổi tiếng giang hồ về hai nghề nấu bếp và binh pháp. Bởi vậy nô tỳ học được cả hai tuyệt học dù chỉ có một thầy.
    Mắt Tư Đồ Sảng lóe lên những tia nghi hoặc. Chàng quay sang hỏi Phi Tuyết:
    - Còn Tuyết muội học nghệ của ai?
    Phi Tuyết sung sướng đáp ngay:
    - Bẩm công tử! Gia sư chính là Y Độc Thần Quân Tạ Đắc Hòa.
    Tư Đồ Sảng thoáng giật mình cau mày nói:
    - Phải chăng hai ngươi xuất thân từ Hạo Thiên Cung?
    Hai ả họ Lãng run bắn, kinh ngạc đến tròn mắt, không ngờ chàng trai ngốc nghếch, thiếu kinh nghiệm này lại đoán ra lai lịch bí mật của mình.
    Tư Đồ Sảng thấy vậy thì hiểu ngay rằng hôm qua đối phương đã nói dối khi kể là họ xuất thân từ một nhà đại phú đất Tứ Xuyên. Chàng là người cương trực và chất phác, không quen với việ ủy khúc, nên có cảm giác bị xúc phạm. Chàng cười nhạt bảo:
    - Đã không thực lòng với nhau thì bất tất phái đồng hành. Tại hạ xin cáo từ!
    Hai ả hồn phi phách tán chồm đến níu chặt tay chàng, mếu máo van xin. Phi Hồng khóc nói:
    - Chị em bọn nô tỳ quả đúng là tỳ nữ trong Hạo Thiên Cung, phạm lỗi đánh vỡ chén ngọc, sợ chết nên trốn ra ngoài. Nếu công tử không thương tình thu nạp thì hai kẻ xấu xí đáng thương này biết nương tựa vào ai? Hay là công tử giết quách bọn nô tài cho xong. Hai ả đồng thanh khóc rống lên thảm thiết khiến Tư Đồ Sảng mềm lòng, dịu giọng:
    - Thôi được! Ta bỏ qua việc ấy nhưng sau này hai nàng tuyệt đối không được lừa dối ta nữa.
    Chị em họ Lăng mừng rỡ gật đầu lia lịa, miệng cười mà nước mắt nhòe nhoẹt gương mặt cổ quái. Phi Tuyết nhìn Tư Đồ Sảng với ánh mắt khâm phục, ỏn ẻn hỏi:
    - Vì sao công tử lại phát hiện ra xuất xứ của bọn nô tài?
    Tư Đồ Sảng buồn rầu đáp:
    - Nhị vị lệnh sư vốn là bằng hữu của gia sư tổ Du Long Chân Nhân. Hơn hai mươi năm trước, khi họ chuẩn bị đến Hạo Thiên Cung dự hội bàn đào thì có ghé từ biệt gia sư tổ. Chính vì thể ta mới biết hai ngươi là ai.
    Mắt chàng buồn vời vợi vì nhớ đến cha già, người đã kể cho chàng nghe cố sự ấy.
    Hạo Thiên Cung là một tổ chức thần bí, tồn tại đã gần trăm năm nhưng không ai biết đích xác địa điểm. Võ lâm chỉ nghe đốn đại rằng nó nằm đâu đó trong vùng núi rừng bạt ngàn hiểm trở của đất Tứ Xuyên.
    Cứ mỗi ba năm một lần, nhằm các năm Dần, Thân, Tỵ, Hợi, Hạo Thiên Cung cho sứ giả mang thiếp đi mời vài đại nhân vật trong võ lâm dự hội bàn đào. Có người ở lại Hạo Thiên Cung và có người trở về. Nhưng tất cả những kẻ quay lại cố hương đều câm lặng, dẫu chết cũng không mở miệng tiết lộ điều gì. Tuy nhiên bản lãnh của những người ấy đột ngột tăng tiến, dường như đã học được thêm vài ngón nghề ở Hạo Thiên Cung.
    Cái tên Hạo Thiên Cung xuất phát từ đạo giáo, ám chỉ nơi cư trú của Hạo Thiên Kim Khuyết Ngọc hoàng Đại Đế. Nhưng thực ra, cái mụ Tây Vương Mẫu trần gian này lại goá chồng, một mình cai quản Hạo Thiên Cung. Vấn đề trở nên khó hiểu là làm thế nào mà mụ ta lại đẻ ra được người kế nghiệp, tức vị cung chủ đương nhiệm?
    Bí mật này cũng như phần còn lại nằm trong đầu chị em họ Lăng song hai ả chưa sẵn sàng tiết lộ. Tư Đồ Sảng tuy tò mò nhưng chẳng tiện dò hỏi. Chàng là kẻ vô úy nên không hề nghĩ đến hậu quả khi giết hại tám gã cao thủ Hạo Thiên Cung và bảo bọc hai ả trọng phạm.
    O0o
    Giữa giờ Thìn hôm sau, Tư Đồ Sảng và hai ả tỳ nữ đã có mặt ở Hương Sơn. Cả ba vô cùng ngạc nhiên khi thấy quần hào tụ tập khá đông tại sân gạch rộng phía trước Tổng đàn võ lâm.
    Họ chia làm hai phe đứng đối diện nhau ra vẻ thù địch. Và giọng ai gay gắt vang lên:
    - Nhai Sơn tuy là hải đảo song cũng thuộc lãnh thổ của triều đình. Lão phu là Minh chủ có sắc phong, cớ sao Hải Hoa Bang các ngươi lại dám không tuân phục?
    Bọn Tư Đồ Sảng đã lên đến tận nơi và chàng nhận ra ngay người vừa nói là chú của mình, Phúc Châu Thần Kiếm Tư Đồ Xán. Lòng chàng bỗng se lại vì dung mạo của lão ta quả rất giống cha chàng.
    Trong phe khách có người cười ha hả đáp:
    - Tất nhiên Nhai Sơn là đất của Đại Minh nhưng lão phu cho rằng võ công của túc hạ không xứng với chức Minh chủ. Bởi vậy, nếu hôm nay túc hạ mà thủ hòa với lão phu thì Hải Hoa Bang xin khấu đầu quy phục.
    Lão đạo sĩ áo xanh này có râu tóc trắng như bông, ngũ quan thanh tú, mắt sáng như sao, trông khá tiên phong đạo cốt. Vài nếp nhăn trên trán và khoe mắt khó giúp người ngoài đoán được lão bao nhiêu tuổi. Nhưng vị quân sư lão thành của võ lâm Trung Nguyên là Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Tuệ thì không lạ gì lai lịch đối phương. Hồ lão cười nhạt mỉa mai:
    - Tôn giá tuổi đã tám mươi tư, thuộc hàng bô lão của võ lâm sao lại ăn nói hồ đồ như vậy? Tư Đồ Minh chủ tuổi chưa tới thất tuần tất không thể so với Nam Hải Tiên Ông, hậu duệ của Đao Vương. Vả lại, tôn giá chỉ là Thái Thượng chứ dâu phải bang chủ Hải Hoa Bang?
    Quần hào Trung Nguyên nhiệt liệt tán thành luận cứ của Hố Sĩ Tuệ. Nhưng Nam Hải Tiên Ông Ninh Hoàng Lạc đã nhếch mép cười gian xảo:
    - Hay lắm! Thế thì phiền Tư Đồ Minh chủ đấu với đồ đệ của lão phu vậy.
    Thì ra, dụng ý của lão ta là ép Tư Đồ Xán giao đấu cho được dù với ai cũng tốt. Trại Tôn Tử chẳng hề mắc mưu, thản nhiên đáp:
    - Giáp Vô Yên thành lập Hải Hoa Bang trước khi đại hội Minh chủ cử hành mà không tham dự nên giờ đây không có tư cách khiêu chiến với Tư Đồ Minh chủ.
    Đấy là quy chủ võ lâm nên ai nấy đều tán thành, không thể chê trách Tư Đồ Xán khiếp nhược.
    Nam Hải Tiên Ông vẫn không hề bối rối, ngạo nghễ nói:
    - Năm ấy, Vô Yên chưa luyện xong Thần Công nên không thể đứng ra tranh cchức Minh chủ, lòng rất nuối tiếc. Nếu vì thế mà không còn cơ hội so tài thì chỉ xin ấn chứng hai chiêu. Tư Đồ minh chủ chỉ cần hơi được một thức là xem như đại thắng!
    Khẩu khí ngông cuồng này đã khiến mọi người nổi giận và đưa Tư Đồ Xán vào thế bí, lão mà từ chối thì thanh danh bị tổn hại, không còn uy tín để lãnh đạo võ lâm.
    Tư Đồ Xán vẫn tự hào mình là đệ nhất cao thủ trong lớp tuổi dưới thất thập, chỉ e dè mấy lão bất tử như Nam Hải Tiên Ông mà thôi. Chính vì thế, Tư Đồ Xán cho rằng Hải Hoa Bang chủ Giáp Vô Yên không đủ bản lãnh thắng mình, ông cười nhạt, dõng dạc đáp:
    - Được! Nể lời Tiên Ông, tại hạ đồng ý tiếp hai chiêu.
    Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Tuệ đánh hơi được độc kế, định ngăn cản Tư Đỗ Xán song không còn kịp nữa. Minh chủ đã nói thì không thể tùy tiện sửa lời. Hồ lão thở dài, ghé tai thượng cấp dặn dò:
    - Minh chủ phải hết sức thận trọng khi đối phó với chiêu đao đầu tiên. Lão phu tin rằng thắng bại là ở đấy, đối phương được quyền xuất thủ trước tất sẽ tận dụng ưu thế.
    Tư Đồ Xán nghe giọng nghiêm trọng lòng cũng hơi lo nhưng ngoài mặt, vẫn thản nhiên, trấn an vị quân sư già:
    - Hồ lão yên tâm! Với chiêu “Loạn Điểm Đào Khê”, công thủ vẹn toàn, thì ta không thể thua được!
    Trại Tôn Tử yên lòng vì biết Tư Đổ Xán từng dùng chiêu này đả bại cao thủ Thiếu Lâm tự là Tung Sơn đại hiệp Bàng Nam Sách. Trong số quần hùng quan chiến có hai nhân vật quan trọng, đó là một nhà sư già râu ba chòm bạc phếch và một lão ăn mày đen nhẻm. Thiếu Lâm tự và Cái Bang đều thuộc địa phận phủ Lạc Dương nên hai vị chưởng môn đã được Tư Đồ Xán mời đến hỗ trợ. Phương trượng chùa Thiếu Lâm là Giám Tuệ thiền sư, còn chúa ăn mày là Hắc Bì Cái Từ Long Chính.
    Nãy giờ, hai vị long đầu lặng lẽ quan sát diễn biến và thì thầm bàn bạc. Họ cũng đã phát hiện mối hiểm nguy đang đe doạ Tư Đồ Xán, thì thầm lo cho lão ta và cục diện võ lâm.
    Nam Hải Tiên Ông tuổi đã tám tư. nhiều năm không vào Trung Thổ, nay đột nhiên đưa Hải Hoa Bang đến đây chắc cũng vì miếng mồi quyền lực.
    Nghĩa là, sau trận này Tư Đồ Xán phải chết hoặc đại bại, từ bỏ ngôi Minh chủ. Và khi võ lâm tổ chức đại hội thì Giáp Vô Yên sẽ đăng quang. Nhưng đấy chỉ là những suy luận không chắc chắn nên Giám Tuệ thiền sư bối rối bảo Hắc Bì Cái:
    - A di đà phật! Lão nạp quả không thể hiểu nổi vì sao Nam Hải Tiên Ông lại muốn bang chủ Hải Hoa Bang trở thành Minh chủ võ lâm. Thực ra thì uy quyền của Minh chủ không lớn lắm, lợi lộc cũng chẳng nhiều, đâu bằng việc làm bá chủ biển Nam và các phủ vùng duyên hải?
    Hắc Bì Cái nghe chí lý nên lúng ta lúng túng, lắc đầu đáp:
    - Ừ nhỉ! Làm Minh chủ thì được quái gì?
    Lúc này, Phúc Châu Thần Kiếm Tư Đồ Xán và Hải Hoa Bang chủ Giáp Vô Yên đã đứng tối diện nhau, cách xa hai trượng, chuẩn bị trao đổi chiêu đầu.
    Họ Giáp là khách và nhỏ tuổi hơn nên đương nhiên có quyền xuất thủ trước, còn Tư Đồ Xán sẽ có lợi ở chiêu sau. Tuy nhiên, chắc gì Tư Đồ Xán còn sống hoặc còn đủ sức lực để đánh chiêu thứ hai.
    Sánh nay trời rất đẹp nhưng giờ đây tuyết bất ngờ rơi lất phất đọng trên tóc và vai của hai đấu sĩ. Họ đã cởi bỏ áo choàng lông để không bị vướng víu khi giao tranh. Thân hình nhỏ nhắn thâm thấp của chú ruột làm cho Tư Đồ Sảng nhớ cha vô hạn.Nhưng lão ta là kẻ từng truy sát cha chàng đế giành gia sản nên tình ruột thịt không còn nữa.
    Tư Đồ Sảng được Lăng Phi Hồng thỏ thẻ phân.....tích cục diện trước mặt nên cũng hiểu được dã tâm của Hải Hoa Bang. Chàng thầm nghĩ:
    - Bọn này đáng ghét thật! Nếu nhị thúc thất thủ ta sẽ xin được đánh một trận.
    Giáng Ma Phủ pháp là khắc tinh của pho Cửu Huyền đao pháp nên Tư Đồ Sảng chẳng hề úy kỵ. Ngay cả Nam Hải Tiên Ông cũng không biết việc sư tổ của lão là Đao Vương Bạch Hán Từ đã bị Trung Nguyên Đệ Nhất kiếm Võ Hồng hạ sát. Lão cứ đinh ninh rằng Đao Vương đã tìm nơi núi sâu mà tu tiên. Ngày ấy, Trung Nguyên Đệ Nhất Kiếm đã bất ngờ xuất hiện, rủ Đao Vương tái chiến trong cánh rừng vắng trên đảo Nhai Sơn, không người chứng kiến. Họ đã hứa với nhau rằng dẫu ai thắng cũng không được tiết lộ ra ngoài. Rốt cuộc xác của Đao Vương được vùi sâu nơi chiến địa hoang vu, không mộ chí.
    Chính vì thế mà Nam Hải Tiên Ông cũng như Giáp Vô Yên hoàn toàn tin rằng Cửu Huyền đao pháp là vô địch. Giờ đây, bang chủ Hải Hoa Bang đắc ý dồn hết công lực vào chiêu Mông Lung Ám Bích, quyết lấy máu Tư Đồ Xán.
    Cũng giống như Nam Hải Tiên Ông, Giáp Vô Yên có dung mạo khá anh tuấn, mặt trắng mày dài, mũi huyền đảm, môi mỏng, cằm vuông. Đôi mắt họ Giáp hơi nhỏ, lấp loáng hàn quang dưới cáp mày chữ nhất xanh đen. Tuy tuổi đã sáu mươi mà mái tóc và bộ râu ba chòm của Giáp Vô Yên vẫn chưa hề điểm bạc.
    Đao khá nặng nên các đao thủ phải là người cao to thì mới phát huy được thế mạnh. Giáp Vô Yên cao gần bằng Tư Đồ Sảng, nghĩa là hơn Tư Đồ Xán cả một cái đầu. Tuy nhiên, dù nhỏ con nhưng thần thái của vị Minh chủ võ lâm cũng rất oai phong, trường kiếm dựng xéo trước mặt, tỏa đầy sát khí.
    Giáp Vô Yên đã động thủ, hóa thành đạo hào quang xanh biếc, lao vút về phía đối phương. Chỉ chậm hơn một cái chớp mắt, Tư Đồ Xán cũng đã vung kiếm dệt nên màn lưới thép lấm tấm sắc hồng. Lão ta nương theo kiếm quang mà bay đi và gặp đối thủ ở giữa đường.
    Tư Đồ Xán vốn ỷ vào công lực thâm hậu vì lớn hơn họ Giáp năm tuổi, nhưng khi hai thanh thép chạm nhau lão mới biết mình lầm to, không hiểu Giáp Vô Yên ăn được kỳ trân gì mà tu vi lại cao hơn tuổi tác và hơn cả Tư Đồ Xán? Luồng chân nguyên hùng hậu ấy đã biến thanh bảo đao thành cơn bão cuồng mãnh, nuốt chửng lấy trường kiếm của đối phương.
    Tư Đồ Xán kiên cường đánh trọn chiêu thức, mũi kiếm công phá tựa mưa rào vào lưới đao, cố tìm sơ hở mà hạ địch. Khổ thay, đao của họ Giáp tuy chậm hơn kiếm song lại cương mãnh phi thường, mỗi lần va chạm đều đẩy bạt mũi kiếm đi khiến đường gươm lỗi nhịp. mất cả uy lực. Và rồi lưỡi đao ấy hung hãn áp đảo trường kiếm, liếm vào người Tư Đồ Xán.
    Vị Minh chủ nhỏ bé kia chỉ còn cách đào bộ lùi mau để bảo toàn tính mạng. Bộ pháp kỳ ảo ấy đã có hiệu quả nên Tư Đồ Xán thoát chết, chỉ bị một vết đao vắt ngang thân trước. Lão rú lên thảm khốc vì vài nhánh xương lồng ngực và xương sườn đứt rời.
    Hai vị chưởng môn nhân vội lướt đến đỡ lấy Tư Đồ Xán, đặt xuống đất và tiến hành việc trị thương, quần hào gồm cả tám cận vệ Tổng đàn trợn mắt nhìn Giáp Vô Yên và Nam Hải Tiên Ông với ánh mắt căm hờn song không dám vọng động.
    Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Tuệ lạnh lùng bảo:
    - Này Ninh lão quỷ! Lão đừng tưởng rằng Giáp Vô Yên thắng nổi Tư Đồ lão đệ thì sẽ trở thành Minh chủ trong đại hội kỳ tới. Nhân tài Trung Nguyên nhiều như lá mùa thu, không để cho thầy trò lão sính cường đâu.
    Bị Hồ lão khinh thị, Nam Hải Tiên Ông bực bội cười dài và cuồng ngạo nói:
    - Trừ phi trưởng lão các phái xuất quan, không cao thủ nào ở Trung Thổ có thể thắng được Giáp Vô Yên.
    Lần này đi theo Giám Tuệ thiền sư còn có thủ tòa Đạt Ma Viện và La Hán Đường khổ thay, Võ nghệ của họ không bằng Tư Đồ Xán nên chẳng thể đwngs ra rửa nhục cho võ lâm Trung Nguyên. Mặt mũi quần hào xám ngoét lại vì nhục nhã, miệng đắng như ngậm Hoàng liên.
    Nhưng bất ngờ có hai bóng xanh từ ngoài bay vào trận địa, quần hùng ồ nên vì nhận ra hai con bé mặt lông dê, tỳ nữ của Thần Phủ Lang Quân. Chỉ chúng mới có cái lối đi lại tất bật, vội vã như thế, dường như chỉ biết chạy nhẩy chứ chẳng biết đi. Một ả nhoẻn miệng cười, thản nhiên bảo Nam Hải Tiên Ông:
    - Này Nam Hải lão nhi! Nếu có người tiếp nổi chiêu đao lúc nãy của Giáp Vô Yên thì lão tính sao?
    Nghe giọng hỗn xược, Tiên Ông giận tái mặt, song lão là kẻ thâm trầm nên không phát tác, thận trọng hỏi lại:
    - Thế kẻ ấy là ai, niên kỷ bao nhiêu?
    Ả lọ lem thứ hai chính là Lăng Phi Tuyết. Cô nàng cướp lời em mà đắc ý đáp:
    - Vị anh hùng ấy chính thị Thần Phủ Lang Quân Lý Thu, tuổi mới tròn nhị thập!
    Khách quan chiến nhất tề ồ lên vì kinh ngạc hoặc nực cười. Lẽ nào có kẻ háo danh đến mức đâm đầu vào lửa đỏ?
    Nhưng có một người lại suy nghĩ khác, đó là Trại Tôn Tử, ông mừng rỡ thì thầm với hai vị chưởng môn:
    - Nhị vị hãy thử quan sát chàng thanh niên mặc võ phục trắng, áo lông cừu đen ở mé bên kia xem. Hắn ta chính là Thần Phủ Lang Quân đấy. Lão phu đã tận dụng phép Ma Y Thần Tướng nhận ra hắn là bậc anh hùng cái thế, sau này danh lưu muôn thuở.
    Hắc Bì Cái cười mát:
    - Nếu hắn có thành đạt thì cũng phải nhiều năm nữa. Nay hắn liều lĩnh đấu với Giáp Vô Yên thì chỉ chết oan thôi.
    Lúc này, Nam Hải Tiên Ông cũng đã biết mặt Lý Thụ, lão cười khanh khách bảo:
    - Nếu đúng là gã tiểu tử họ Lý ấy thì Hải Hoa Bang xin tặng ngàn lượng bạc để mai táng.
    Lăng Phi Hồng lắc đầu nguây nguẩy:
    Bọn ta không cần vàng bạc mà chỉ muốn lấy chiếc hồ lô ngọc đỏ mà lão đang đeo trên ngực. Tất nhiên là gồm cả những viên Luân Hối Thần Đan ở trong đấy.
    Nam Hải Tiên Ông biến sắc hỏi:
    - Tiểu a đầu kia! Vì sao ngươi lại biết được bần đạo sở hữu Luân Hồi Thần Đan?
    Quần hào xôn xao bàn tán, nhìn vào chiếc hồ lô nhỏ cỡ quả quít, bằng ngọc đỏ, trên ngực Tiên Ông. Tương truyền rằng Luân Hồi Thần Đan của Vạn Thực Y Vương có thế cứu được người sắp chết, nối xương liền thịt cực kỳ thầ n diệu Người võ 1âm mà được linh đan ấy để phòng thân thì xem như có thêm vài mạng sống.
    Lâng Phi Tuyết cười tươi. Khoe chiếc răng khểnh duyên dáng:
    - Bọn ta là tiên giáng trần nên chuyện gì cũng biết. lão chẳng cần thắc mắc. Nếu lão sợ thua thì cứ tạ lỗi với võ lâm Trung Nguyên rồi trở về Nhai Sơn mà giải tán Hải Hoa Bang.
    Nghe nàng tự xưng mình là tiên giáng trần, vài gã trẻ tuổi bật cười hô hố và chế giễu:
    - Mẹ kiếp! Tiên mà xấu đến thế thì ta thà chết xuống địa ngục còn hơn được lên trời.
    Nhưng cũng có người không để ý đến việc xấu đẹp, đồng thanh ủng hộ ý kiến của Phi Tuyết, quát lên:
    - Cút về Nhai Sơn!
    Nam Hải Tiên Ông bực tức nghĩ thầm:
    - Hai con bé này có lẽ tình cờ biết được bí mật của ta, lên tiếng hù dọa thế thôi, chứ cái gã tiểu tử kia làm sao hơn được Tư Đồ Xán.
    Và lão gằn giọng hậm hực:
    - Được! Lão phu đồng ý với điều kiện của bọn ngươi.
    Hai ả họ Lăng mừng rỡ lao vút về phía chủ nhân, vòng tay vui vẻ nói:
    - Thỉnh công tử xuất trận. Bọn nô tài đã thương lượng xong!
    Thân pháp nhanh như gió của hai ả đã khiến Tiên Ông chột dạ, tự hỏi bọn cổ quái này xuất thân từ cửa nào?
    Giám Tuệ thiến sư cũng cau đôi mày bạc hỏi Trại Tôn Tử:
    - Hồ thí chủ có biết lai lịch của bọn họ không?
    Hồ Sĩ Tuệ ngượng ngùng đáp:
    - Thú thực là lão phu cũng mù tịt. Hằng trăm năm nay chưa có cao thủ nào sử dụng búa mà nổi tiếng cả.
    Họ ngưng bàn luận vì Thần Phủ Lang Quân Lý Thu đã trao áo choàng lông cho tỳ nữ, đủng đỉnh tiến vào đấu trường. Mọi người chú mục vào cây búa hai lưỡi đen bóng, tinh xảo và đẹp mắt, trên tay Lý Thu. Họ tự hỏi lúc nãy nó nằm ở đâu mà họ không thấy.
    Rỗi họ quan sát đến dung mạo và phong thái của chàng dũng sĩ vô danh. Gương mặt anh tuấn của Lý Thu toát ra vẻ thuần hậu, điềm đạm dễ thân cận, ánh mắt chàng trong vắt không chút sợ hãi và cũng không sát khí.
    Giáp Vô Yên đã rút bảo đao đứng thủ thế, mặt lạnh như tiền. Song trong lòng dàn dụa sát cơ. Lão quyết không tha cho tiểu tử ngông cuồng kia.
    Lý Thu cầm búa bằng chỉ một tay, dựng đứng trước mặt tay kia bắt kiếm ấn. Tư thể này vốn là của người cầm kiếm.
    Trại Tôn Tử đã bước ra làm trọng tài ông nghiêm nghị nói:
    - Giáp bang chủ có quyến xuất thủ trước nhưng bắt buộc phải sử dụng chiêu đao lúc nãy. Dứt một chiêu là song phương đình thủ để phân thăng bại. Nếu Lý công tử còn đứng vững được thì xem là thắng trận.
    Không ai phản đối nên Hồ lão lui xa trận địa địa để cuộc chiến bắt đầu.
    Giáp Vô Yên không tấn công ngay mà đứng im nhìn đối thủ như mèo nhìn chuột. Lão tin rằng chỉ nửa khắc sau gã oắt con kia sẽ toát mô hôi, tay run rẩy vì cây búa nặng nề.
    Thủ đoạn này không qua được mắt bậc lão thành. Giám Tuệ thiên sư liền lên tiếng:
    - A di đà phật! Việc thi thố định lực chỉ thực hiện khi song phương cùng có quyền ra tay trước. Nay Giáp thí chủ làm như thế e không phải đạo.
    Thiền sư vừa dứt lời thì Giáp Vô Yên động thân ngay, thi triển chiêu “Mông Lung Ám Bích” (cây cỏ rậm xanh) đao quang xanh màu thép, đao ảnh trùng điệp tựa cành lá sum suê, bao phủ đấu trường.
    Tư Đồ Sảng tức Lý Thu cũng lao đi bốc chếch lên cao rồi phủ lưỡi búa xuống trái cầu đao ảnh. Chàng đã sử dụng chiêu “Lâm Thượng Liêm Chiêu” (Rèm lầu phe phẩy gọi mời) vì tin rằng nó khắc chế được chiêu đao của họ Giáp. Đây là chỗ sở cậy duy nhất bởi công lực chàng thua xa đối phương.
    Lăng Phi Hồng đã nhận xét rằng Giáp Vô Yên phải sở hữu đến năm mươi năm chân khí, trong khi Tư Đồ Sảng dù có thần lực thiên sinh cũng không đủ bốn mươi năm tu vi.
    Quả đúng như thế, khi hai màn lưới thép chạm nhau. Tư Đồ Sảng biết ngay mình kém sức. Thanh Giáng Ma Phủ chấn động mạnh khiến hổ khẩu chàng đau rát. Hai thanh thép nặng tạo nên những âm thanh chát chúa vang rền nhưng không kéo dài vì chiêu thức đánh ra với tốc độ kinh hồn. Và Thần Phủ đã phát huy diệu dụng, do sức nặng dồn cả về phía đầu búa, nên lực đạo mãnh liệt tựa chẻ núi, không bị Cửu Huyền Đao đánh bạt đi. Điều này đã khiến Giáp Vô Yên phải kinh hãi vì mất đi ưu thế.
    Cửu Huyền Đao Pháp chủ ở lực đao cương mãnh và tốc độ, khai thác những sơ hở của đối phương lộ ra khi vũ khí chạm nhau.
    Song đâu chỉ có thế, đường đao Cửu Huyễn còn biến hóa tuyệt luân, hiểm ác phi thường, khống chế một lúc nhiều tử huyệt. Nhưng lạ thay, Giáng Ma Thần Phủ lại gồm nhiều thức đâm như chớp giật, trái hẳn lẽ thường tình. Giáp Vô Yên có cảm giác rằng đối phương đang cầm kiếm chứ không phải cầm búa...
    Đáng sợ ở chỗ là mũi thép nhọn hoắt của đầu búa luôn nhắm vào những sơ hở nhỏ bé của lưỡi đao. Diễn tả thì lâu xong sự việc xảy ra rất nhanh, song phương đổi đòn rồi văng ngược trở lại và máu bỗng tung tóe không gian. Có kẻ đã rú lên đau đớn nhưng không rõ là ai.
    Cuối cùng thì quần hùng cũng nhận ra kẻ chiến bại là Giáp Vô Yên. Lão lảo đảo rồi ngã quỵ vì bụng và hai đùi thọ thương rất nặng. Thân trước cuat Thần Phủ Lang Quân cũng đẫm máu, võ phục rách toang vì hai nhát đao vắt chéo từ vại đến hông. Tuy nhiên Lý thu vẫn hiên ngang đứng vững, mắt sáng ngời niềm vui chiến thắng.
    Toán cận vệ Tổng đàn nhẩy cẫng lên reo hò nhiệt liệt, cả hai vị chưởng môn cũng không giấu được vẻ vui mừng. Thần Phủ Lang Quấn đã oanh liệt rửa hận cho võ làm Trung Thổ.
    Trại Tôn Tử tinh mắt nhận ra Lý Thu thọ thương không nhẹ, ông vội lên tiếng:
    - Giáp Vô Yên đã thua! Phiền Tiên Ông trao hồ lô thuốc cho người thắng trận.
    Nam Hải Tiên Ông chết điếng cả người, không ngờ sự thể lại tệ hại đến thế. Lão lắng lặng tháo dây đeo ngọc Hồ Lô, ném cho Hồ Sĩ Tuệ, rồi bước đến xem xét thương thế học trò. Lão cay đắng hiểu rằng Giáp Vô Yên rất cần một viên Luân Hồi Thần Đan nhưng không thể muối mặt mở miệng xin lại được.
    Bên kia, hai ả họ Lăng tíu tít trị thương cho chủ nhân. Phi Tuyết cởi ngay áo Lý Thu, điểm huyệt chỉ huyết, lau sạch máu rồi băng bó bằng vải sạch và thuốc kim sang. Phi Hồng thì nhận ngọc Hồ Lô từ tay Hồ lão, mở nút trút ra ba viên dược hoàn đỏ rực, nhỏ cỡ lạt lạc, nàng ta định cho Lý Thu uống thì Phi Tuyệt cản lại:
    - Không cần lãng phí thần đan, thương tích của công tử ngu tỷ có thể lo liệu được.

  4. #4
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 3 - LỘ BÁN PHÙNG MAI PHỤC, TUYẾT HẠ THU LƯỠNG THÊ
    Chẳng bao lâu sau, uy danh của Thần Phủ Lang quân đã vang dậy Hoa Bắc. Chàng ta được tôn xưng là võ lâm đệ nhất cao thủ vì đả thương được Bang Chủ Hải Hoa Bang Giáp Vô Yên, kẻ đã đánh bại Minh chủ võ lâm.
    Giới giang hồ còn kháo nhau việc Phúc Châu Thần Kiếm Tư Đồ Xán đã từ nhiệm và đại hội bầu tân Minh chủ sẽ được tổ chức vào tiết Trùng Cửu sang năm. Ai cũng cho rằng Thần Phủ Lang Quân là kẻ đăng quang vì những cao thủ quá bẳy mươi không được thượng đài.
    Nhưng Thần Phủ Lang Quân thì hiểu rằng mình không phải là địch thủ của Giáp Vô Yên. Lần này Tư Đồ Sảng chiếm ưu thế là nhờ biết trước chiêu thức của đối phương. Lần sau gặp lại chàng không còn ưu thế ấy thì sẽ thảm bại vì công lực của họ giáp quá thâm hậu. Hôm ở Lương Sơn hổ khẩu chàng đã rách toạc. chỉ va chạm thêm vài lần nữa là rơi búa.
    Tư Đồ Sảng không buồn, không mặc cảm vì biết đấy là quy luật tất yếu trong nghề võ. Kẻ dày công tu luyện bao giờ cũng mạnh hơn. Chàng đạt thành tựu thế này cũng là nhờ vào khí chất bẩm sinh, thừa hưởng của mẫu thân, nếu không cũng chỉ thuộc hàng nhị lưu.
    Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Huệ đã tiết lộ rằng sào huyệt Quỷ Ảnh Hội có thể ở vùng Hồ Nam, vì vây chàng cùng hai tỳ nữ lên đường xuôi Nam.
    Tư Đồ Sảng rất muốn trở về quê để tế mộ song thân nhưng không dám. Chưởng quỹ Lý Tứ đã cấm chàng để lộ việc mình là người họ Tư Đồ. Có thể phe hung thủ đang ráo riết truy tìm đứa con trai củc Du Long Thần Quyền Tư Đố Quát. May là chúng không biết mặt chàng và cũng không biết việc họ Võ sở hữu nghề đánh búa. Hôm bị hại, Võ Xuân Hoa mẹ chàng đã sử dụng trường kiếm vì Giáng Ma Phủ đã được chàng mang theo.
    Đông này trời rét đậm, tuyết phủ đầy Hoa Bắc, nhưng càng về Nam tuyết lại nhẹ hơn. Đường thiên lý lạnh lùng gian khổ đã làm cho ba lữ khách gần gũi thân thiết nhau. Cô đơn từ nhỏ, không anh em, Tư Đồ sảng rất vui khi được kề cận hai cô gái tinh ranh, vui vẻ. Tuy danh phận chủ tớ nhưng chàng thương yêu họ như em gái vậy.
    Thực ra, hai cô ả ma lem chẳng hề lão luyện giang hồ như đã tự xưng, nhưng kiến văn của họ rất uyên bác, cơ trí tinh minh, khôn ngoan như chồn nên rất lợi hại.
    Đấy là vì trong Hạo Thiên Cung có hàng trăm đại cao thủ từ bốn phương quy tụ lại là kho báu về kiến thức và kinh nghiệm để chị em họ Lăng học hỏi.
    Tư Đồ Sảng không bao giờ mở miệng điều tra bí mật của Hạo Thiên Cung vì tôn trọng hai nàng và cũng vì tâm hồn chàng đầy ắp nỗi thống khổ, nhớ thương cha mẹ, chẳng còn chỗ cho những việc khác.
    Tư Đố Quát, cha chàng, vì trốn tránh kẻ thù nên cùng vợ con ở rịt nơi bìa rừng vắng, không dám cư trú chốn đô hội. Do vậy, cả quãng đời thanh thiếu của Tư Đồ Sảng chỉ có song thân là bạn. Thỉnh thoảng chưởng quỹ Lý Tứ mới vào thăm họ. Nay đột nhiên mất đi tất cả bảo sao chàng trai chất phác kia không đau khổ.
    Chị em họ Lăng hiểu được tâm tình của Tư Đồ Sảng nên tìm đủ mọi cách để an ủi chàng. Những tràng cười trong như ngọc và giọng nói thanh tao, thánh thoát của họ quả thực đã giúp được Tư Đồ Sảng. Nếu không có họ, chàng sẽ vùi đầu trong men rượu, hoặc trở thành hung hãn như quỷ dữ.
    Một trưa nọ, ba người dừng chân nơi bìa rừng cạnh quan đạo, dùng bữa bằng lương khô. Dọc dường thiên lý, nhiều khi hàng trăm dặm không có quán ăn, cho nên, người lữ khách luôn phải thủ sẵn thực phẩm. Cơm nếp và thịt hun khói để được khá lâu, đã trở thành bạn đồng hành của người lữ thứ, kèm theo một túi da đựng nước hoặc rượu ngon.
    Ăn xong, thấy trảng cỏ phía trong lác đác vài cây mai dại nở hoa sớm, hai nàng mừng rỡ chạy lăng xăng để ngắm nghía. Họ bẻ một nhánh chạy về khoe với Tư Đồ Sảng. Nhìn hai ả tung tăng như trẻ nhỏ hiếu động chàng tò mò hỏi:
    - Vì sao hai người lại không đi bình thường mà luôn phải thi triển khinh công như thế?
    Phi Tuyết cười khì và đáp:
    - Đây chính là pho tuyệt học Truy Tinh thân pháp thất truyền đã lâu, phải khổ luyện liên tục ba năm mới thành thục. Bọn nô tỳ đã quen chân nên sau này không đi chậm được nữa.
    Tư Đồ Sảng bật cười:
    - Chẳng lẽ đến già mà các nàng cứ nhẩy nhót mãi như vậy hay sao?
    Phi Hồng đỡ lời chị, tủm tỉm đáp:
    - Giờ còn trẻ trung, lòng đầy nỗi hân hoan thì không phải giữ gìn, nhưng khi đã có chồng con rồi tất nhiên phải đi đứng cho dịu dàng, khoan thai.
    Tư Đỗ Sảng cười thầm, tự hỏi ai là người đủ can đảm để lấy họ? Và chàng chợt sững người nhớ đến việc tôn tự họ Tư Đồ, ý nguyện tâm huyết của cha chàng. Nếu chàng chết trong cuộc chiến với Quỷ Ảnh Hội thì liệu Tư Đỗ Quát có vui chăng khi tông mạch tuyệt đường? Nho gia rất chú trọng đến việc thừa tự nên Tư Đồ Sảng không khỏi băn khoăn.
    Phi Tuyết bỗng nói:
    - Hay là công tử hãy học pho Truy Tinh thân pháp này để tăng cường bản lãnh? Chàng có sẵn nguồn chân nguyên thâm hậu và thần lực bẩm sinh tất sẽ không phải khổ sở như bọn nô tỳ.
    Quả thực như vậy, Tư Đồ Sảng vốn là người chăm chỉ kiên trì và hiếu võ, nhiều năm luyện tập khinh công trên núi Cửu Tuấn, ngày ngày cõng đá lên xuống vài trăm trượng. Giờ đây hai chân chàng đầy những bắp thịt rắn như thép, có thể chạy đua với tuấn mã hàng trăm dặm mà không thua sút. Vậy thì, nếu chàng luyện pho Truy Tinh thân pháp tất sẽ chẳng mất bao công sức. Pho khinh công này hơn hẳn Du Long thân pháp của cha chàng về độ biến ảo trong bộ pháp cũng như tốc độ khi hoán vị.
    Phi Hồng nũng nịu van nài:
    - Công tử hãy vì mối huyết thù mà bỏ quá tiểu tiết, tiếp thu chút nghề mọn của bọn nô tỳ.
    Ánh mắt thiết tha của hai ả đã khiến Tư Đồ sảng rất xúc động. Chàng gượng cười:
    - Cung kính bất như tuân mệnh! Ta xin cảm tạ hảo ý của hai nàng. Nhưng liệu ta có phải suốt ngày chạy nhẩy tất bật hay không?
    Hai ả che miệng cười rũ rượi. Phi Tuyết lắc đầu:
    - Làm gì có việc ấy? Chẳng qua bọn nô tỳ tính tình hiếu động, nghịch ngợm nên mới chạy lăng xăng thế thôi.
    Thế là bắt đầu từ hôm ấy, Tư Đồ Sảng rèn luyện pho Truy Tinh thân pháp. Chàng chỉ chú trọng đến phần di hình hoán vị nên học rất nhanh. Mỗi lần dừng cương nơi hoang vắng là Tư Đồ Sảng thực hành hàng canh giờ không nghỉ ngơi. Kết quả rất khả quan vì chàng có sẵn sức lực cũng như căn cơ võ học sáng láng.
    O0o
    Giữa tháng chạp, bọn Tư Đồ Sảng vượt ải Vũ Thắng Quan và còn cách thành Tín Dương chục dặm. Tuy đã vào địa phận vùng Hoa Trung, phía Nam sông Hoài, nhưng trời đột nhiên rét đậm, tuyết rơi nặng hạt. Đường quan đạo cực kỳ vắng vẻ vì cái lạnh cắt da khiến ít người dám bôn ba. Ngay cả sắc hồng của cánh rừng đào cạnh đường cũng nhạt đi bởi mầu trắng của những bông tuyết.
    Mặt đường cùng đóng một lớp tuyết loang lổ dầy cỡ lóng tay nên trơn trượt làm chậm vó câu. Bất ngờ, từ bìa rừng hai bên ùa ra hàng trăm gã đao thủ áo mũ lông trắng toát. Chúng chẳng nói chăng rằng lướt đến tấn cồng ba kỵ sĩ đơn độc. Trước tiên, bọn Bạch y đánh phủ đầu bằng một trận mưa phi đao. Lăng Phi Hồng cơ trí tuyệt luân lập tức quát to:
    - Nhẩy lên cao!
    Ba người nhất tề ấn vâo yên ngựa, bốc cao hơn trượng thoát khỏi lưới ám khí. Tư Đồ Sảng đã kịp rút Giáng Ma Thần Phủ, kéo dài cán búa và bấm nút cho mũi kiếm thép đầu búa ló ra.
    Chàng phẫn nộ trước hành vi ám muội, đê tiện của bọn phục binh nên quát vang như sấm rồi sa xuống hàng ngũ đối phương mà chém giết. Chàng lại đinh ninh rằng bọn này có thể là lực lượng của kẻ đại thù theo truy sát mình nên lửa hận bấc cao ngùn ngụt, phủ mở lòng nhân hậu.
    Sau khi giết mấy gã thanh y để cứu chị em họ Lăng, Tự Đồ Sảng đã mất ngủ nhiều đêm vì bất nhẫn. Cảm giác của kẻ nhúng tày vào máu đồng loại quả chẳng dễ chịu chút nào. Nhưng giờ đây, khi lâm trận, tử trạng thảm khốc của song thân lại hiện ra khiên máu chàng sôi lên. Thanh Giáng Ma Thần Phủ là khắc tinh của đao vì nó nặng hơn và nhanh hơn đao. Kiếm luôn nhanh hơn đao nhưng lại nhẹ và mỏng manh nên hai bên ở thế tương trì thắng bại phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa. Song Giáng Ma Phủ lại không có những khuyết điểm của trường kiếm.
    Với thần lực kinh hồn, Tư Đố Sảng vũ lộng cây Thần Phủ nặng hại chục cân, ra những đòn sấm sét đánh bạt những thanh đao và làm hổ khẩu kẻ thù rách toạc. Nếu lưỡi búa không thừa thế chẻ vụn xtrơng cốt thì mũi đoản kiếm ở đầu bùa cũng trổ một lỗ sâu hoắm trên ngực nạn nhân.
    Pho Giáng Ma Phủ Pháp lại ảo diệu phi thường, công thủ vẹn toàn, biến hoá tuyệt luân, vì xuất xứ từ pho Giáng Ma kiếm pháp, tuyệt học đã khiến Võ Hồng được tôn là Trung Nguyên Đệ nhất kiếm khách.
    Thế cho nên màn phủ ảnh giăng mắc quanh thân, Tư Đồ Sảng đánh bật mọi ngoại lực, tiêu diệt tất cả những gì nó chạm đến.
    Tiếng thép vang rền, tiếng thét lìa đời cất lên không ngớt và xác bọn bạch y phơi đầy trên lớp bùn nhầy nhụa. Máu nhuộm hồng những chiếc áo cừu trắng muốt và cả những nắm tuyết trinh nguyên, chưa bị chân người dẫm đạp.
    Trong nửa khắc đã có hơn hai chục gx bạch y táng mạng, thành quả này có sự góp sức của hai ả lọ lem. Họ luôn bám sát để bảo vệ phía sau Tư Đồ Sảng. Với thân pháp Truy Tinh nhanh như điện, hai ả thay phiên xuất kích vì lúc nào cũng phải có một người che chắn hậu tâm chủ nhân. Thu hoạch của họ không nhiều nhưng nhờ thế mà Tư Đồ Sảng yên tâm phá vây. Chàng lo lắng cho hai ả nữ tỳ nên không ham chiến, chỉ mong an toàn thoát khỏi trận địa mai phục này.Tư Đồ Sảng thần dũng như Hạng Võ đánh thốc về hướng Nam mà mở đường máu, thây người liên tục ngã xuống. Bọn bạch y thấy đồng đảng chết rất chóng vánh liền sinh lòng sợ hãi, mất cả nhuệ khí. Nhưng tên đầu lĩnh, một lão người râu đen dài đến ngực, đã quát tháo:
    - Không được để bọn chúng đào tẩu! Thập Nhị Kim Cương sắp đến rồi?
    Té ra bọn chúng còn một toán viện binh nữa và cái tên Thập Nhị Kim Cương nghe cũng đáng sợ.
    Bọn bạch y vững dạ lao vào, cả lão râu đen cũng thế. Với độ tuổi lục tuần, công lực của lão ta trên dưới bốn mươi nằm tu vi, đao kình rất mãnh hệt. Và dĩ nhiên đao pháp của lão lợi hại hơn hẳn đám thủ hạ nên bước tiến của Tư Đồ Sảng bị chặn đứng.
    Chàng phẫn nộ và lo sợ vì biết hai ả họ Lăng đang phải cật lực chống đỡ, chủ yếu là đánh bạt những mũi phi đao đang nhắm vào thân sau của chàng. Tư Đồ Sảng cố bình tâm đối phó với cường địch, song nhất thời không sao đẩy lùi được lão râu đen.
    Chợt cô tiếng Lăng phi Hồng rú khẽ vì đau đớn, có lẽ nàng đã trúng một mũi phi đao. Tư Đồ Sảng nghe lòng nhói lên, biết không thể kéo dài được nữa. Chàng giận dữ xuất chiêu “Lực Phách Nga Mi”, thức đầu tiên là nhát chém xéo vào màn đao ảnh của đối phương. Nhát búa này nhanh như điện và nặng như núi đổ nên lập tức đánh bạt thanh đao quý của đối phương, đẩy lùi lão ta vài bước. Rồi chàng thi triển Truy Tinh thân pháp ập đến điểm, chém liền ba mươi sáu thức.
    Đặc điểm của chiêu này là chỉ có công mà không có thủ. Thế thức ít nhưng đòn nào cũng thực và trí mạng. Tất nhiên vì vậy mà chiêu “Lực phách Nga Mi” nhiều sơ hở để đối phương khai thác, song vấn đề ở chỗ vũ khí của ai phạm mục tiêu trước. Và đấy cũng là điểm ảo diệu của chiêu này vì Giáng Ma Phủ dài hơn cả đao lẫn kiếm.
    Lão râu đen phát hiện ngực bụng đối phương lộ ra đến ba chỗ sơ hở, liền thọc đao vào để giải phá. Lão tin rằng khi tử huyệt bị uy hiếp thì Thần Phủ Lang Quân sẽ phải thoái bộ, không dám đánh trọn chiêu.
    Lão chưa kịp mừng vì mũi đao của mình đánh trúng da thịt Lý Thu thì nghe ngực trái nhói đau khủng khiếp. Cái đau đột ngột ấy đã khiến lão phải rú lên thảm thiết, mắt trợn trừng vì ngạc nhiên.
    Tư Đồ Sảng bị thương nhẹ ở ba chỗ nhưng mũi đoản kiếm nơi đầu Giáng Ma Phủ đã kịp vươn đến trái tim kẻ địch.
    Chàng lập tức rút búa về, quay phắt lại chụp lấy thân hình đang lảo đảo của Lăng Phi Hồng. Chàng đưa lưng cõng nàng và quát bảo Phi Tuyết:
    - Đi thôi!
    Vài gã bạch y chờn vờn phía trước nhưng sớm dạt ra chứ không dám liều mạng. Chúng chỉ hung hăng tống tiễn hai người bằng những mũi phi đạo còn sót lại. Nhưng Lăng Phi Tuyết và Tư Đồ Sảng đánh bạt hết và lao vút đi.
    Bỗng có tiếng vó ngựa rầm rập đuổi theo. Đấy chính thị là mười hai gã to như hộ pháp, tay cầm đoản côn khí thế rất oai vũ. Tư Đồ Sảng nói mau:
    - Nàng hãy cõng Hồng muội chạy về Tín Dương, ta ở lại chặn bước bọn Kim Cương.
    Phi Tuyết lắc đầu, mắt lộ hung quang rồi móc ra một trái cầu mầu đỏ, lớn cỡ quá quít. Nàng vận công ném về phía đoàn người ngựa đang còn cách chừng năm trượng.
    Trái cầu ổ ngay trước mặt phe địch, tiếng không lớn nhưng khói bốc mù mịt. Bọn Kim Cương lỡ trớn lao thẳng vào luồng khói rú lên kinh hãi, ngã lăn khỏi mình ngựa.
    Tư Đỗ Sảng mừng rỡ bảo:
    - Nàng giỏi thực! Thế sao lúc nãy không sử dụng bửu bối ấy?
    Vừa chạy, Phi Tuyết vừa trả lời:
    - Đoạt Phách Yên Cầu là vật quý hiếm, lúc nguy cấp nô tỳ mới dám dùng đến.
    Tư Đồ Sảng nắm lấy tay nàng để trợ lực rồi chạy như vó câu. Trên đường trừơng thì Du Long thân pháp linh diệu hơn Truy Tinh vì phối hợp với tâm pháp nội công Ngọc Thanh chân khí. Nếu Tư Đồ Sảng rảnh rang một mình thì không vó ngựa nào đuổi kịp. Khi tuấn mã sùi bọt mép thì chàng vẫn ung dung chạy thêm được vài chục dặm.
    Là đạo sĩ nên Tư Đò Quát sở đắc câu: “Tiên Bảo Kỳ Thân”, chú tâm dạy con trai nghề khinh công để đào thoát khỏi hiểm nguy.
    Được vài dặm, biết không còn bị truy đuổi chàng dừng chân ghé vào tòa Trường Đình cạnh đường để xem xét thương thế Phi Hồng:
    Ngày xửa, dọc theo đường quan đạo chính, triều đình cho xây dựng nơi nghỉ chân cho lữ khách, năm dặm một cái gọi là Đoản Đình còn mười dặm là Trường đình. Công trình này rất đơn sơ, chỉ gồm mái ngói và cột gỗ chứ không có tường, vây quanh bởi hàng lan can gỗ thâm thấp thay cho ghế ngồi, nền bằng đất nện hoặc lót đá phiến.
    Chất độc ở đầu mũi phi đao đã làm vết thương nơi ngực phải Phi Hồng sưng vù, tím đen và nạn nhân mê man bất tỉnh: Nhưng Phi Tuyết là đệ tử của Y Độc Thần Quân Tạ Đắc Hòa nên mau chóng cứu mạng em gái bằng ba viên giải dược. Rồi nàng vạch áo Phi Hồng, dùng mũi kiếm rạch thêm vào vết thương nặn máu độc ra.
    Tư Đồ Sảng cau mày, nói:
    - Năm xưa ta từng bị độc xà cắn phải, được gia phụ dùng miệng hút hết chất độc. Người bảo rằng có như thế mới mau hồi tỉnh. Sao nàng không làm vậy?
    Phi Tuyết rùng mình ngượng ngùng đáp:
    - Nô tỳ cũng biết thế nhưng không dám làm, đành phải nặn từ từ vậy. Hay là phiền công tử giúp cho!
    Thương tích nằm ở phía trên vú một lóng tay cũng là cấm địa của nữ nhân, nhìn thì được chứ đặt miệng vào đấy là không xong. Thế mà chẳng hiểu sao Phi Tuyết lại dám yêu cầu Tư Đồ Sảng thực hiện?
    Như đã nói ở phần đầu, Tư Đồ Sảng được cha dạy cho phần tinh túy của Khổng Mạnh chứ không dạy những lễ nghi vụn vặt, ông luôn đề cao nhân nghĩa đức Trung Dung như nền tảng cho mọi hành vi nên Tư Đồ Sảng suy nghĩ khoáng đạt. Chàng yêu thương Phi Hồng như em gái, nhất là sau lần vào sinh ra tử này, lên chỉ thoáng băn khoăn một chút và gật đầu nhận lời.
    Đôi mắt đẹp của Phi Tuyết thoáng hiện những ánh vui mừng và tinh quái.
    Khi Tư Đồ Sảng ngồi xuống chuẩn bị hút máu độc thì nàng kéo hẳn vạt áo Phi Hồng xuống đê lộ cả bầu vú thanh tân, mơn mởn như quả tuyết lê.
    Tư Đồ Sảng choáng váng bối rối đến sững sờ vì hiểu rằng Phi Tuyết đang trêu chọc mình. Chàng có thể kéo vạt áo che kín quả đồi nhỏ kia trở lại như cũ song đã không làm. Chàng nhớ mẹ vô cùng và khát khao được chạm vào cái tạo vật kỳ diệu ấy.
    Tư Đồ Sảng đặt miệng vào vết thượng, hút mạnh dòng máu đen tanh tưởi cảm nhận được mùi thơm cũng như sự mềm mại tuyệt vời của da thịt Phi Hồng. Và bỗng nhiên nước mắt chàng tràn ra, rơi xuống từng giọt đau thương.
    Phi Tuyết ngớ người, chẳng hiểu vì sao trò đùa tai quái của mình lại khiến chàng trai thực thà này sa lệ.
    Đến lần thứ chín thì hết máu đen, vết thương cũng xẹp xuống. Tư Đồ Sảng thôi không hút nữa. phi Tuyết ngậm ngùi đưa khăn tay lau những giọt nước mắt trên mặt chàng và hỏi nhỏ:
    - Vì sao công tử khóc?
    Tư Đồ Sảng cười buồn:
    - Ta nhớ tiên mẫu!
    - o O o -
    Tĩnh dưỡng ở Tín Dương vài ngày ba người mới lên đường. Vết thương không sâu nên Phi Hồng đã bình phục hoàn toàn. Nàng đã nghe bào tỷ kể lại cuộc trị thương nên rất xấu hổ ngượng đến nỗi chẳng dám nhìn thẳng vào mắt Tư Đồ Sảng. Nàng ta trở nên e ấp, thẹn thùng như gái mới về nhà chồng, đi đường khoan thai chứ không nhảy nhót nữa.
    Phi Hồng đã thế thì Phi Tuyết tung tăng với ai, cũng đành học thói đoan trang, ả không có cái tâm tình như em gái nên cảm thấy rất cuồng cẳng, bực bội.
    Phần Tư Đỗ Sảng cũng đã qua cơn xúc cảm, thầm hổ thẹn khi nhớ lại cảnh ôn nhu ấy. Do vậy, chàng cũng nhìn Phi Hồng với ánh mắt khác xưa.
    Khổ thay, phi Tuyết lại tưởng rằng chàng bắt đầu phát sinh tình ý với Phi Hồng, yêu nàng ta hơn mình. Nỗi ghen tuông làm héo những nụ cười của cô ả răng khểnh.
    Gần giữa tháng chạp, ba người chỉ còn cách thành Vũ Xương vài dặm thi bị chặn lại, lúc dừng chân nơi bìa rừng. Đoàn ky sĩ ấy gồm tám người áo tía, toàn những kẻ già nua, râu tóc bạc phơ. Tư Đồ Sảng đang định rút búa thì nghe hai ả họ Lăng đồng thanh gọi vang:
    - Sư phụ!
    Thì ra họ là lực lượng củs Hạo Thiên Cung và có cả Y Độc Thần Quân lẫn Táo Gia Cát.
    Táo Gia Cát Bùi Thế Trực, đúng như danh hiệu, có nước da đen nhẻm, tương phản với râu và tóc. Ông giận dữ quát lên:
    - Hai con a đầu kia hãy mau quỳ xuống chịu tội! Hai ngươi trốn đi khiến bọn lão phu bị Cung chủ trách mắng thậm tệ, bắt phải xuất cung đi tìm suốt mấy tháng nay.
    Phi Hồng đã kịp nói nhỏ với Tư Đồ Sảng:
    - Công tử! Tám người này là Bát Đại Thiên Long của Hạo Thiên Cung, mong chàng cố nhẫn nại, đừng xúc phạm họ mà nguy đến tính mạng.
    Hai ả nhảy xuống đất, chạy đến trước mặt bọn trưởng bối nghiêng mình thi lễ. Phi Hồng níu chân Táo Gia Cát run rẩy van nài nho nhỏ:
    - Sư phụ! Chị em đồ nhi chỉ muốn thưởng lãm các danh thắng trong thiên hạ nên mới rời cung, định sẽ về trước tháng tám sang năm. Xin sư phụ và chư vị Thiên Long bẩm với Cung chủ như thế.
    Khẩu khí này không hề giống những kẻ bị truy nã mà cứ như con cưng luôn được nuông chiều, biết mẹ cha sẽ không nỡ nặng tay vậy.
    Táo Gia Cát lạnh lùng lắc đầu:
    - Không được! Tám người chúng ta sẽ rơi đầu nếu không đưa được hai ngươi về.
    Và ông giận dữ chỉ Tư Đồ Sảng:
    - Phải chăng hai ngươi bị gã mặt trắng kia dụ dỗ nên quên cả đường về? Để lão phu giết gã đi là xong.
    Thật là tức cười khi lão cho rằng chàng xinh đẹp như thế lại dụ dỗ hai ả Chung Vô Diệm.
    Phi Hồng biến sắc, hớt hải nói:
    - Xin sư phụ chớ hiểu lầm! Lý công tử chính là người ơn của đồ nhi và đại tỷ. Chàng đã giết sáu gã Vô Thường sứ giả của Thập Điện Diêm Cung để cứu bọn đồ nhi.
    Tư Đồ Sảng cau mày, thức ngộ rằng hai ả này đã nói láo mình về lai lịch của bọn Thanh y. Nhưng do tình cảm song phương đã sâu đậm hơn trước rất nhiều nên chàng không nổi giận mà chi thắc mắc. Vả lại, chàng đang lo sợ họ bị bắt vế Hạo Thiên Cung để chịu phạt.
    Cả Bát Đại Thiên Long đều ngạc nhiên, nhìn Tư Đồ Sảng chăm chú. Họ không tin rằng chàng trai tuổi đôi mươi kia lại có bản lãnh cao siêu đến thế. Một người lên tiếng hoài nghi:
    - Tuyết nhi! Có thực là tiểu tử họ Lý kia võ nghệ khá dường ấy chăng?
    Nghe xưng hô thân mật, Tư Đồ Sảng đoán lão già đầu bóng ấy là Y Độc Thần Quân, sư phụ của Lăng Phi Tuyết. Quả đúng vậy khi Phi Tuyết nũng nịu đáp:
    - Bẩm sư phụ! Lý công tử đây là bậc anh hùng cái thế, dang lừng danh Hoa Bắc với biệt hiệu Thần Phủ Lang Quân. Chàng đã đả bại Hải Hoa Bang chủ Giáp Vô Yên, kẻ đã truất phế Minh chủ võ lâm Tư Đồ Xán.
    Dường như Bát Đại Thiên Long có nghe giang hồ đồn đại nên đều giật mình và cười ranh mãnh.
    Y Độc Thần Quân cười khà khà:
    - Thì ra thế! Thảo nào hai con nha đầu này chẳng chịu về!
    Rồi ông chỉ mặt Tư Đồ Sảng và bảo:
    - Nể ngươi là người ơn của hai con bé này nên bọn lão phu tha cho. Hãy đi đi!
    Tư Đồ Sảng băn khoăn hỏi lại:
    - Bẩm tiền bối! Hai nàng này bị bắt về Hạo Thiên Cung thì sẽ phải chịu hình phạt gì?
    Thần Quân đảo mắt, xảo quyệt đáp bằng giọng nghiêm trang:
    - Tất nhiên là chúng sẽ bị phế võ công, giam trong ngục thất mười năm.
    Tư Đỗ Sảng chết điếng, nghe lòng quặn đau vì thướng xót. Chàng phẫn nộ nói:
    - Quý cung thực là tàn nhẫn! Chén ngọc dù quý giá đến đâu cũng không bằng tuổi xuân của con người! Sao chư vị lại có thể nhẫn tâm như thế được?
    Tám lão Thiên Long ngẩn người, không ngờ gã tiểu tử đẹp trai này lại chí tình với hai ả xấu như quỷ thế kia. Thần Quân cố nín cười, lạnh lùng đáp:
    - Đấy là việc riêng của bổn Cung, chẳng can gì đến người ngoài.
    Rồi lão vuốt chồm râu cằm, ỡm ờ nói tiếp:
    - Nhưng nếu người thực tình quan tâm đến họ thì lão phu cũng có cách giúp đỡ...
    Tư Đồ Sảng mừng rỡ vòng tay:
    - Xin tiền bối chỉ giáo!
    Thần Quần tủm tỉm bảo:
    - Ngươi hãy lấy hai con a đầu này làm vợ. Cung chủ có được rể quý tất sẽ rộng lượng bỏ qua lỗi lầm của họ.
    Hai ả thẹn đến đỏ mặt tía tai, cúi gầm xuống nhưng vẫn liếc xem phản ứng của Tư Đồ Sảng thế nào.
    Chàng trai trung hậu suy nghĩ một lúc rồi đáp:
    - Vãn bối vinh hạnh được kết duyên với họ nhưng xin hẹn ba năm sau mới đến dâng sính lễ. Vãn bối mang nặng mối huyết thù, chưa thể thành hôn được.
    Cả tám lão trừng mắt kinh ngạc, khẽ ồ lên. Y Độc Thần Quân gật gù khen:
    - Giỏi lắm! Ngươi quả là bậc kỳ nam tử hiếm có. Nhưng bọn lão phu chỉ tạm nhận lời cầu hôn vì còn phải thỉnh ý Cung chủ. Ngươi hãy quỳ lạy chín lạy để ra mắt trưởng bối bên vợ, thay cho lời giao ước.
    Tư Đồ Sảng đã xuống ngựa từ trước vì thủ lễ, giờ bước đến và hành lễ, ngay trên mặt cỏ phủ tuyết.
    Nhận lễ xong, Táo Gia Cát cười dài bảo:
    - Hai con a đầu kia sao không đến nhận lang quân?
    Phi Hồng, Phi Tuyết ngượng chín người, bẽn lẽn chấp tay, nghiêng mình mà ấp úng gọi:
    - Tướng công!
    Tư Đồ Sảng mỉm cười hòa ái nhưng quay sang thưa với Bát Đại Thiên Long:
    - Bẩm chư vị tiền bối! Tiểu tế vốn tên thực là Tư Đồ Sảng, hai mươi tuổi, quê đất Hàm Dương, vì muốn che mắt kẻ thù nên phải đổi tên.
    Táo Gia Cát cau mày hỏi ngay:
    - Ngươi có quan hệ gì với Du Long Thần Quyền Tư Đồ Quát hay không?
    Chàng cung kính đáp:
    - Người ấy chính là tiên phụ! Năm xưa, tiên phụ từng kể cho tiểu tế biết vế mối giao tình giữa nhị vị tiền bối và gia sư tổ Du Long Chân Nhân.
    Táo Gia Cát kinh hãi hỏi:
    - Chẳng lẽ Tư Đồ Quát đã bị hại rồi sao? Hung thủ là kẻ nào?
    Tư Đồ Sảng rầu rĩ kể lại khúc nôi, cả mối nghi ngờ ma chàng dành cho Quỷ Ảnh Hội.
    Táo Gia Cát trầm ngâm một lúc rồi hỏi:
    - Ngươi có nhớ vị trí, hình dạng những vết thương trên người của cha mẹ ngươi không?
    Tư Đồ Sảng gật đầu, nghẹn ngào:
    - Bẩm có! Gia phụ chết bởi đao, ngực bụng rách ba đường, xéo thành hình chữ Xuyên và cổ bị cắt đứt. Gia mẫu bị giết bằng kiếm, bẩy vết thương. Năm vết nằm dọc từ cổ họng đến rốn, hai vết kia đúng vào đôi huyệt Ốc, Ế trên ngực trái phải, tựa như chữ thập.
    Y Độc Thần Quân thảng thốt nói:
    - Lạ thực! Sao hai phe này lại hợp tác vớ nhau nhỉ?
    Tư Đồ Sảng phấn khởi hỏi ngay:
    - Xin tiền bối chỉ giáo lai lịch hung thủ!
    Thần Quân nghiêm giọng giới thích:
    - Ba mươi năm trước, trong giới hắc đạo võ lâm xuất hiện hai đại cao thủ là Thập Tự Thần Kiếm Phan Tửu Mỹ và Môn Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý. Nếu họ còn sống thì tuổi đã gần bảy mươi! Hai kẻ trung niên tài ba này đều ái mộ một tuyệt đại hồng nhan tà phái là Lê Sơn Ma Nữ Triển Thương Thu. Do vậy, họ thù ghét nhau, tỉ thí mấy chục trận để giành người đẹp mà đều bất phân thắng bại. Trong trận cuối cùng, cả hai rơi xuống vực thẳm cạnh núi Vu Sơn mà vong mạng. Lê Sơn Ma Nữ cũng đồng thời biến mất. Tuy nhiên, sau này bổn cung đã điều tra ra được rằng Môn Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý không chết mà trở thành thủ lĩnh của Thập Đại Diêm Cung. Còn Thập Tự Thần Kiếm chẳng rõ hạ lạc ra sao. Nhưng giờ đây, qua vụ án song thân ngươi, lão phu phát hiện sở học của cả hai người ấy.
    Tư Đồ Sảng nghiến răng kèn kẹt:
    - Vãn bối sẽ tìm đến Thập Điện Diêm Cung rồi tính sau!
    Táo Gia Cát cườm khổ:
    - Hiện giờ, chính bọn lão phu cũng không biết sào huyệt của Tần Cốc Lý ở nơi nào. Mười năm trước, lão phát hiện ra nội gián của bổn Cung liền sát hại và lập tức rút vào bí mật.
    Thần Quân thấy Tư Đồ Sảng lộ vẻ thất vọng liền an ủi:
    - Có thể Quỷ Ảnh Hội chính là vây cánh của Diêm Cung. Ngươi cứ tiến hành theo kế hoạch cũ, trong lúc ấy, bổn Cung sẽ dốc sức truy tầm, có tin tức mới sẽ thông báo cho ngươi biết.
    Tư Đỗ Sảng chỉ còn cách cảm tạ và tuân mệnh. Táo Gia Cát cùng Y Độc Thần Quân vì mối thâm giao với Du Long Chân Nhân mà sinh lòng yêu mến Tư Đồ Sảng, hết lời dặn chàng cẩn trọng.
    Cuối cùng Táo Gia Cát nói:
    - Đúng ra, lão phu để cho hai con bé này theo giúp đỡ ngươi. Nhưng vì Cung chủ đang lâm bệnh nên chúng phải sớm có mặt mà chăm sóc, hầu hạ. Sáng rằm tháng tám sang năm ngươi hãy đến chân núi Chung Nam, sẽ có người đưa ngươi vào cung ra mắt Cung chủ. Lúc ấy ngươi sẽ biết mình có trở thành rể Hạo Thiên Cung hay không!
    Chị em họ Lăng nghe biến sắc nói ngay:
    - Gia...Cung chủ bệnh tình thế nào?
    Táo Gia Cát nạt họ:
    - Cũng bởi hai ngươi mà Cung chủ ăn ngủ không yên, bệnh cũ tái phát. Phen này nếu không nhờ lấy được Tư Đố Sảng thì hai ngươi ăn đòn nát mông!
    Táo có nghĩa là nóng nẩy. Cho nên thật khó hiểu vì sao kẻ nóng tính lại là kẻ đa mưu túc kế được? Có lẽ lão ta chỉ giả vờ quát tháo mà thôi chứ lòng thâm trầm như biển cả. Nếu không thế thì Bùi lão chằng thể trở thành quân sư của Hạo Thiện Cung.

  5. #5
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 4 - ĐẠI LƯỢNG ĐẮC MINH SƯ, TRƯỜNG SA ĐẢ QUỶ ẢNH
    Còn lại một mình, Tư Đồ Sảng lững thững thúc ngựa đi vào thành Vũ Xương. Cảm giác trống vắng, cô đơn choáng ngợp hồn chàng khi không còn nghe được tiếng nói tiếng cười của hai ả tỳ nữ. Và gương mặt tật nguyền. xấu xí của họ bỗng trở nên thân thiết lạ kỳ. Nghĩ đến hôn ước và cái hẹn rằm tháng tám sang năm chàng thoáng mỉm cười, tự nhủ rằng mình đã có vợ.
    Đã quen với dung mạo tàn phá của mẹ hiền nên chàng không hề cho rằng mình bị thiệt thòi, mặc dầu trên đường phiêu bạt, chàng đã nhìn thấy rất nhiều mỹ nữ.
    Đêm ấy, Tư Đồ Sảng nghỉ trọ trong Thái Bình khách điếm. Sáng hôm sau, chàng ra bến đò, vượt sông Trường Giang để đi Trường Sa. Tư Đồ Sảng đến nơi vào đúng ngày hai mươi ba tháng chạp, ngày mà các vị Táo Quân về thiên đình.
    Nhà nhà trong thành cúng kiếng mùi nhang thơm, mùi giấy tiền khét lẹt thoang thoảng khắp nơi khiến người lữ thứ nhớ nhà vô hạn. Nhất là khi ngoài trời tuyết bay lất phất, điểm trắng cả cây, nhà cửa và làm lạnh cóng cả người lẫn ngựa.
    Đi ngang Tương Giang Đệ Nhất tửu điếm, Tư Đồ Sảng lập tức bị hai gã tiểu nhị mặc áo bông chặn đường mời mọc. Quán rượu khá vắng vì bách tính bận rộn đưa tiễn Táo Quân rồi cùng vợ con đánh chén, chẳng đến đây làm gì. Do đó, toà tửu điếm khang trang, lộng lẫy này chỉ được vài bàn khách khứa. Có lẽ họ cũng là lữ khách như Tư Đồ Sảng...
    Chàng trai của chúng ta cũng đang đói bụng và thèm vài chén để dìm chết nỗi sầu lữ thứ trong lòng. Vì vậy, chàng xuống ngựa.
    Nhận ra tửu khách toàn là hào kiệt võ lâm, Tư Đồ Sảng không đến quá gần mà tìm một bàn xa xa trong góc. Dù vậy, với thính lực linh mẫn, chàng vẫn có thể nghe được hết những lời đàm thoại của họ.
    Cơm rượu mau chóng được mang đến, Tư Đồ Sảng vừa ăn uống vừa lắng nghe. Thì ra, bọn hào khách ấy đang bàn bạc một việc sống còn là có nên đến Khuất Gia Trang ở Tây thành, để hỗ trợ Đàm Châu đại hiệp Khuất Kỳ hay không? Tư Đồ Sảng vui mừng khôn xiết khi biết kẻ thù của Khuất Kỳ chính thị Quỷ Ảnh Hội. Tổ chức khủng bố này đã gửi thư đòi Khuất Trang chủ dâng nạp viên Ty Hoả Châu, bảo vật trị giá liên thành. Đại hiệp là người cương trực nên không chịu khuất phục, kêu gọi sự hỗ trợ của đồng đạo.
    Đàm Châu là tên của Trường Sa đời nhà Đường nên Khuất Kỳ lấy danh hiệu như thế. Còn lai lịch của lão thì cũng rất xa xưa và danh giá. Lão ta chính là hậu duệ của bậc danh sĩ Khuất Nguyên, người đã trầm mình xuống sông Mệnh Hà, một phụ lưu của sông Tương. Người Trung Hoa tiếc thương Khuất Nguyên nên cứ đúng ngày mùng năm tháng năm là cúng tế. Trong lịch thì gọi ngày ấy là Tiết Đoan Ngọ.
    Tư Đồ Sảng không ngờ mình lại may mắn đến thế, vừa đến nơi đã có được đầu mối để điều tra hạ lạc của kẻ thù. Chàng định bụng sẽ đi theo đám hào khách đến Khuất Gia Trang, thừa cơ bắt sống một gã sát thủ Quỷ Ảnh Hội mà khai thác tin tức. Chàng nóng ruột ăn thật nhanh, thế mà mười mấy gã giang hồ kia cứ bàn bạc, cân nhắc mãi, chưa quyết định đánh hay chuồn.
    Trong lúc ấy, tửu quán có thêm thực khách. Tiếng vó ngựa dừng trước cửa đã khiến Tư Đồ Sâng nhìn ra. Thấy khách là hai nữ nhân chàng vội quay đi.
    Hai vị nữ khách cũng tránh đám đông nên chọn bàn gần với Tư Đồ Sảng. Gọi là gần chứ cứng cách bốn năm chiếc bàn trống.
    Lát sau, tiếng ho rũ rượi của một nàng đã làm cho Tư Đồ Sảng giật mình, liếc sang. Người vừa ho là nữ lang cao gầy mặc áo cừu dầy sụ. Nàng bệnh hoạn nên vào đến trong quán rồi mà vẫn không lột mũ lông. Gương mặt nàng ta xanh xao, vàng vọt, dường như không còn chút thịt nào nên đôi mắt nhung huyền lồ lộ tựa mắt trâu. Môi nàng tái nhợt nhưng chiếc mũi dọc dừa vẫn còn giữ được nét kiêu xa.
    Ngồi cạnh cô gái ho lao sắp chết ấy là một ả tuổi độ mười bẩy, mười tám, tóc thắt bím, mặt mũi xinh xắn. Ả này đang ra sức đấm lưng người bệnh, miệng thì rầu rĩ nói:
    - Tiểu thư đừng uống rượu nữa! Mỗi lần tiểu thư ho, nô tỳ đau xé ruột gan.
    Nữ lang cười buồn:
    - Ta chẳng còn sống được bao lâu nữa, ngươi chiều ta một chút không được sao?
    Ả tỳ nữ ứa nước mắt mếu máo nói:
    - Vậy thì chủ tớ chúng ta sẽ cùng uống! Sau này tiểu thư cưỡi hạc, nô tỳ cũng xin theo hầu!
    Tư Đồ Sảng rùng mình bất nhẫn, hiểu rằng ả tỳ nữ sẽ tự sát chết theo chủ, ánh mắt kiên quyết của ả đã biểu hiện điều ấy.
    Nhưng nữ lang kia đã lắc đầu phản đối. Giọng nàng tuy yếu nhưng vẫn chứa đựng vẻ uy nghiêm kỳ lạ:
    - Tiểu Thu! Ta bỏ nhà phiêu bạt giang hồ sáu năm, chịu tiếng bất hiếu nhi. Nay ta sắp chết nên đưa ngươi về Giả Gia Trang, thay ta hầu hạ nhị vị lão nhân gia. Tâm nguyện ấy của ta lẽ nào ngươi không hiểu mà còn đòi chết theo...
    Tiểu Thu gật đầu tuân mệnh mà nước mắt tuôn như suối.
    Nghe đén đây Tư Đồ Sảng đoán rằng nữ lang bệnh hoạn kia mang họ Giả, nhà ở thành Trường Sa này. Hai bọc hành lý nhỏ chứng tỏ họ chưa về đến Giả Gia Trang. Nhưng vì sao vậy?
    Giả tiểu thư đã lên tiếng giúp Tư Đồ Sảng hiểu ra:
    - Thu nhi! Gia mẫu vốn mang tâm bệnh, nếu nhìn thấy hình dung ta thế này tất sẽ rất thương tâm. Và cái chết của ta không chừng sẽ khiến bà chết theo. Vì vậy, ngươi sẽ một mình mang thư đến Giả Gia Trang rồi ở lại đấy. Còn ta sẽ mướn một phòng trong khách điếm nằm chờ chết. Được chết ở nơi chôn nhau cắt rốn là ta vui rồi.
    Âm hưởng thê lương cũng như nội dung của câu nói đã làm cho Tư Đồ Sảng mủi lòng. Chàng chợt tưởng tượng ra cảnh đôi vợ chồng họ Giả tựa cửa mong con, trong khi nữ lang này chờ chết ở một nơi chỉ cách nhà mấy bước. Chàng tự hỏi rằng liệu Luân Hồi Thần Đan có giúp gì được cho người con gái đáng thương kia không?
    Nền y học của Trung Hoa ngày xưa bó tay trước bốn loại bệnh, gọi là tứ chứng nan y. Chúng gồm: Phong, Lao, Lở, Lại (Điên, ho lao, mù, cùi). Nếu vị Giả cô nương kia bị ho lao thì Thần đan không có tác dụng.
    Muốn biết rõ, Tư Đồ Sảng liền đứng lên bước đến trước bàn của Giả tiểu thư và nữ tỳ. Hai người này lộ vẻ kinh ngạc và nghi kỵ, dù gương mặt anh tuấn, rắn rỏi của chàng trai áo cừu đen kia đầy vẻ thuần hậu, nhân từ.
    Tư Đồ Sảng vòng tay thi lễ và nói:
    - Tại hạ là Lý Thu, mạo muội xin được hầu chuyện nhị vị.
    Ả tỳ nữ Tiểu Thu thấy đối phương cùng tên với mình nên ánh mắt hiền lại, bàn tay nắm chuôi thanh kiếm cũng lỏng duỗi ra. Giả tiểu thư thì ra hiệu mời khách ngồi.
    Tư Đồ Sảng an tọa, hạ giọng bảo:
    - Dám hỏi Giả tiểu thư ho nhiều vì chứng bệnh gì?
    Giả cô nương cau đôi mày liễu, hiểu rằng đối phương đã nghe lén câu chuyện của mình với tỳ nữ. Nàng thầm phục họ Lý vì gã phải có công lực rất thâm hậu mới nghe được từ khoảng cách xa như thế.
    Nhưng là một kẻ sắp chết nên Giả tiểu thư chẳng hơi đâu mà nổi giận. Nàng hoà nhã đáp:
    - Tiện thiếp là Giả Đan Quỳnh, đa tạ công tử đã quan hoài. Tiện thiếp không bị lao mà bị trúng chưởng của kẻ thù, phổi trái bị dập, dịch phổi tràn ra ngoài.
    Tư Đồ Sảng băn khoăn hỏi lại:
    - Tại hạ có vài viên Luân Hồi Thần Đan, không hiểu có giúp gì cho bệnh của cô nương hay không?
    - Ánh mắt ảm đạm của Đan Quỳnh chợt lóe sáng nỗi hân hoan, còn tỳ nữ Tiểu Thu thì đưa tay bịt miệng để cố ngăn tiếng rú vui mừng.
    Đan Quỳnh bàng hoàng hỏi:
    - Phải chăng công tử là Thần Phủ Lang Quân?
    Tư Đồ Sảng gật đầu xác nhận và móc ra chiếc hồ lô bằng ngọc đỏ. Giả đan Quỳnh từ phương Bắc xuống nên đã nghe kể rất chi tiết về cuộc chiến ở Lương Sơn. Nàng nhận ra Hồng Ngọc hồ lô liền thở phào, biết rằng mạng mình đã được cứu vãn.
    Giả Đan Quynh vốn chính thực là Đồng Diện Tiên Cơ, võ công thuộc hàng nhất lưu, lừng danh võ lâm đã năm sáu năm nhưng hành tung thần bí, chẳng ai biết mặt thực. Nữ nhi mà giỏi võ thì tính nết thường kiêu kỳ, nhất là một kẻ chưa từng gặp đối thủ ngang tài. Do vậy, cà cuống chết đến đít còn cay, Đan Quỳnh dẫu mừng hết lớn vẫn thận trọng hỏi:
    - Vì sao Lý công tử lại dễ dàng ban bảo vật cho người xa lạ như thế?
    Tư Đồ Sảng thản nhiên đáp:
    - Thần Đan chỉ quý giá khi cứu được mạng người. Vả lại, nó vốn chẳng phải là của tại hạ. Nói xong, chàng mở nút ngọc hồ lô trút ra một viên Luân Hồi Thần Đan. Chàng đặt viên thuốc đỏ rực ấy vào chiếc đĩa sứ trống trước mặt Giả Đan Quỳnh rồi nói:
    - Vật này do tại hạ đoạt của người khác mà có, vì vậy, cô nương bất tất phải cảm tạ.
    Chàng đứng lên vòng tay cáo từ rồi trở về bàn, gọi tiểu nhị tính tiền để kịp bám theo bọn hào khách đến Khuất Gia Trang.
    Mọi người đi cả rồi tỳ nữ Tiểu Thu mới khấp khởi hỏi chủ nhân:
    - Tiểu thư! Liệu đây có phải Luân Hồi Thần Đan không? Lẽ nào trên đời này lại có một nam nhân tốt bụng đến thế?
    Giả Đan Quỳnh cầm viên linh đan lên ngửi và nếm thử. Chợt nàng sa lệ bảo:
    - Đúng là ta đã đem dạ tiểu nhân đo lòng người quân tử, thật đáng thẹn!
    Tiểu Thu hoan hỉ đốc thúc:
    - Tiểu thư uống ngay đi! Chỉ cần còn sống là sau này thiếu gì dịp đáp đền ơn tái tạo của họ Lý.
    Và bỗng cười khúc khích:
    - Nô tỳ cho rằng tiểu thư lấy quách gã cho xong. Thần Phủ Lang Quân vừa giỏi võ, vừa anh tuấn vừa đức độ, trên đời còn ai hơn được nữa?
    Giả Đan Quynh hổ thẹn quắc mắt đe doạ thủ hạ, song trong lòng nàng ta nghĩ gì thì chẳng rõ.
    - o O o -
    Nhắc lại, Tư Đồ Sảng rời Tương Giang Đệ Nhất tửu điếm, đi theo bọn hào khách. Họ rời thành Trường Sa bằng cửa Tây, đi thêm vài dặm nữa thì đến bờ sông Tương Giang. thuở xưa, thành Trường Sa nằm ở bờ sông Tương. Và cái tên Trường Sa vốn xuất xứ từ việc ở giữa dòng sông có một doi cát rộng độ ba chục trượng và dài chừng mười dặm. Cát sông chứa đầy phù sa phì nhiêu nên người ta đã trồng trên ấy một rừng quít, trái lớn và ngon ngọt phi thường.
    Khuất Gia Trang tọa lạc ngay cạnh bờ sông, hướng Tây là mặt nước còn cổng chính ở hướng Đông Nam.
    Dòng họ Khuất định cư ở Hồ Nam hơn nghìn năm, cha của Đàm Châu đại hiệp là Khuất Vy dựng nhà ở đây cũng đã bẩy chục năm. Do vậy, cây cối trong trang đều già nua, cao lớn, đa số là loài thông Đồng tiền.
    Tam Lư đại phu Khuất Nguyên là văn nhân, thi hào nhưng cháu chắt mấy chục đời của ông lại nổi danh nhờ võ nghệ. Khuất Kỳ không biết làm thơ, chi giỏi nghề múa kiếm. Trong việc kinh doanh, Khuất Kỳ cũng là tay cự phách, sở hữu đến bẩy tòa lữ điếm, tửu lâu đồ sộ và một tòa tiền trang lớn nhất thành Trường Sa. Lão được xem là người giầu thứ hai của phủ Hồ Nam, chỉ thua có nhà họ Giả mà thôi.
    Tấu xảo thay, Giả Thiên Minh cũng là cháu nhiều đời của một danh nhân thời Hán. Giả Nghị là một nhà văn, nhà chính tri đại tài, bị vua Hán Văn Đế bãi chức, đày đến Trường Sa. Do đó, hậu thế đã gọi Trường Sa là “Khuất Giả chi hương” (Quê hương của Khuất Nguyên và Giả Nghị). Tất nhiên, Giả Nghị không được lê thứ Trung Hoa ái mộ bằng Khuất Nguyên. Có điều, hậu duệ của họ Giả lại giỏi buôn bán hơn họ Khuất. Giả Gia Trang ở trong cửa Đông thành giầu nhờ nghề khai thác mỏ vàng và mỏ đá quí
    Không giống như Vương Khải - Thạch Sùng, hai nhà Khuất - Giả chẳng tranh hơn thua mà còn có giao tình khá thâm hậu. Thế cho nên, khi Tư Đồ Sảng đến cổng Khuất Gia Trang thì chứng kiến cảnh viên tổng quản nhà họ Khuất hoan hỉ đón chào người vừa bước xuống kiệu:
    - Giả nhị công tử giá lâm là đại hạnh cho bổn trang!
    Vị thượng khách này là một chàng trai tuổi độ hai mươi lăm, hai mươi sáu, dung mạo cực kỳ anh tuấn và lịch lãm. Gã ăn mặc kiểu thế gia, trường bào gấm xanh-tay hẹp, ngoài khoác áo cừu trắng mỏng. Nhưng hông gã lại lủng lẳng thanh trường kiếm có vỏ bằng bạc, nạm đầy ngọc quý.
    Thấy mặt gã quen quen, Tư Đồ Sảng chợt thức ngộ rằng gã chính là bào đệ của Giả Đan Quỳnh.
    Lúc này, vị Giả công tử kiêu sa ấy nở nụ cười hoà ái:
    - Tề tổng quản chớ quá lời! Hai nhà tình thân như ruột thịt, nay Khuất Gia Trang gặp nạn lẽ nào Giả thị lại làm ngơ?
    Gã ta, cùng tên hộ vệ đường bệ đi vào dưới sự đưa rước của một ả nữ tỳ Khuất Gia Trang. Tư Đồ Sảng có cảm giác rằng mặt gã họ Giả sáng rực lên và dán chặt vào gương mặt xinh xắn của cô gái, ánh mắt nóng bỏng của Giả nhị công tử đã khiến cho ả nữ tỳ hổ thẹn và lúng túng. Dù ít kinh nghiệm Tư Đồ Sảng cũng nhận ra gã họ Giả là người hiếu sắc.
    Tư Đồ Sảng nối gót bọn hào khách Hồ Nam nên Tề tổng quản tưởng chàng chung đám, không hỏi han danh tính làm gì cả.
    Khuôn viên Khuất Gia Trang rất lớn. Tư Đổ Sảng ước lượng chiều ngang của nó phải rộng đến ba chục trượng. Còn chiều dài thì chàng không rõ vì nhà cửa, cây cối dầy đặc, chẳng thể nhìn thấu đến đằng sau.
    Phần phía trước của Khuất Gia Trang là sân gạch rộng mênh mông, ngự trị bởi một tòa khách sảnh và mấy chục gốc thông già. Đây là loài thông đồng tiền, loại cây đặc hữu của Trung Hoa, sống ở phía Nam sông Trường Giang. Thông đồng tiền là loài cây gỗ lớn rụng lá, thuộc họ thông thân cây thẳng, cao từ sáu bẩy trượng đến mười hai trượng (hai mươi mét đến bốn mươi mét) cành thông mọc vòng nằm ngang, có phân biệt loài cành dài, cành ngắn. Loài cành dài lá mọc lá theo hình xoắn ốc. Loài cành ngắn lá mọc chùm và tỏa bốn phía tựa chòm sao, có dạng tròn như đồng tiền cổ. Cuối mùa thu lá trở màu vàng tươi, được gọi là thông đồng tiền hoặc thông vàng.
    Nhưng giờ đang là mùa đông nên lá rụng nhiều, trơ những cành đọng tuyết trông rất ảm đạm. Thỉnh thoảng, những nắm tuyết ấy bị gió Bắc xô ngã khỏi cành, rơi xuống đầu người đi ngay bên dưới. Cây cối thì tiêu điều như thế song căn khách sảnh thì vẫn không mất đi vẻ diễm lệ, sang cao.
    Kiến trúc này chỉ có một tầng, mái lợp ngói lưu ly vàng. Nền sảnh cao hơn mặt sân vài gang, chung quanh đều có bậc tam cấp. Vành đầu tiên là lan can gỗ thấp nối liền những cây cột tròn sơn son. Hàng cột bằng gỗ quý này đỡ lấy mái hiên của dãy hành lang rộng hơn nửa trượng. Nền hành lang lát đá Đại Lý vân vàng.
    Tường vây của khách sảnh có cửa vào ở cả bốn mặt, song cửa hướng Nam rộng nhất. Còn cửa sổ thì rất nhiều, mỗi cái cách nhau chỉ một sải tay. Đặc biệt là các cánh cứa đều bằng kính pha lê Hà Lan nên trong sảnh rất sáng sủa.
    Tuyết rơi nhưng gió bấc không mạnh nên cửa nẻo hai hướng Nam và Tây được mở toang để nội sảnh được thông thoáng. Khí than rất độc nên dù đã có ống đồng dẫn khói lò sưởi ra ngoài, người ta cũng cảm thấy ngột ngạt khi đóng hết các cửa. Nhất là khi giờ đây trong khách sảnh có đến vài trăm khách.
    Khuất Kỳ giầu có và rộng rãi nên bằng hữu rất nhiều. Thói đời là thế, kẻ phú quý như cây cổ thụ tàn lá rậm rạp được nhiều người đến nương nhờ bóng mát. Chỉ có bậc chính nhân quân tử mới tự lực tự cường, an bần lạc đạo, không mong chờ gì ở người khác.
    Khuất Kỳ lại từng ngang dọc võ lâm hai chục năm, người quen chốn giang hồ chẳng thiếu. Lão có giao tình với các phái lớn, thỉnh thoảng biếu xén, cúng dường vài trăm lượng nên giờ đây hòa thượng, đạo sĩ có mặt đông đủ. Chí ít họ cũng có thể tụng kinh siêu độ cho khổ chủ vì nạn nhân của Quỷ Ảnh Hội thường chết rất thê thảm khi chống cự.
    Trong sảnh ấm áp nên khách đều lột nón tre hoặc mũ lông. Không ai nhận ra Thần Phủ Lang Quân vì tin tức về trận đánh ở Hương Sơn có bay đến đây thì cũng không mang theo nhân dạng của ngôi sao mới tỏa sáng. Kẻ mau nổi tiếng nhất chính là những gã cường đạo bị triều đình truy nã. Dung mạo của họ được dán đầy các cổng thành trong nước.
    khách sảnh này là nơi con cháu họ Khuất tụ tập mỗi hồi cúng giỗ nên rộng đến mức có thể chứa được vài trăm người. Hiện tại, một nửa số của ba mươi chiết bàn bát tiên đã có người ngồi.
    Bữa cơm trưa đã qua nên giờ đây trên bàn chỉ bày trà rượu và đĩa lạc rang nhỏ, hoặc một đĩa thịt khô nướng.
    Cuối sảnh, tức phần nền hướng Bắc dành cho phe chủ nhà và những vị khách danh giá nhất. Người võ lâm rất biết quy củ nên tùy theo vai vế, thân phận mà tìm lấy chỗ ngồi thích hợp. Tư Đố Sảng lặng lẽ bắt chước bọn hào khách Trường Sa, chọn một bàn ở vòng ngoài, nghĩa là giữa sảnh. Những người đến sau sẽ lần lượt rải dài tới cửa sảnh.
    Có lẽ khi dòng họ họp mặt cũng phân chia chỗ ngồi theo bối phận nên nền nhà cuối sảnh được tôn cao hơn mặt bằng chung hai gang. Việc này giúp cho việc con cháu phía dưới dễ dàng nhìn thấy dung mạo bậc trưởng thượng lắng nghe lời giáo huấn. Đàm Châu đại hiệp Khuất Kỳ là trưởng tộc và ông luôn tận dụng những lần giỗ chạp để cao giọng dạy dỗ bọn hậu sinh dòng họ Khuất. Khi ông nói, bọn trẻ phải luôn nhìn thẳng vào mặt ông, thành kính như uống lấy từng lời thanh nghị. Cụ tổ Khuất Nguyên lưu danh hậu thế cũng là vì thích nói, thích dạy bảo vua nước Sở. Và cũng chính vì thế mà ông bị lưu đày cuối cùng phẫn chí mà gieo mình xuống sông Mịch La.
    Nho gia tán dương Khuất Nguyên là người trung liệt, một lòng một dạ vì xã tắc. Song đạo gia thì chê họ Khuất ngoan cố, hủ lậu, không biết lẽ sáng, tối của đạo trời nên chết oan. Hơn nữa, người trí giả can vua chẳng cần nặng lời chỉ dùng ẩn dụ hoặc ngụ ngôn, cũng đủ thành công. Bằng như lão hôn quân kia mê muội không nghe thì bậc chân nhân cười xòa bỏ đi, chẳng lý đến nữa. Khổng Gia có câu “Giáo đa thành oán” (khuyên bảo người ta quá nhiều, không có kết quả mà còn mang oán). Trang Tử thì nói “Cố gắng làm việc thiện thì gần như khoe khoang”.
    Lúc này Khuất Kỳ không đóng vai trưởng tộc, đang nhũn nhặn đàm đạo với trưởng lão phái Võ Đương, Đàm Vân Tử. Và phương trượng chùa Kỳ Viên Tự, Giám Hải thiền sư. Chùa Kỳ Viên là chi nhánh của Thiếu Lâm tự ở Trường Sa, còn Giám Hải chính thực là sư đệ của chưởng môn phái Thiếu Lâm.
    Núi Võ Đang ở ngay Hồ Bắc nên Đàm Vân Tử sớm có mặt, ông mang theo bẩy tay kiếm trẻ, lừng danh thiên hạ với mỹ hiệu Võ Đang Thất Tinh. Họ là đệ tử đời thứ ba, tuổi tác độ trên dưới ba mươi, võ nghệ cao siêu, nhất là khi bày Thất Tinh Bắc Đẩu kiếm trận. Bảy gã đạo sĩ trẻ tuổi ngồi ngay hàng đầu của dãy bàn thấp sát với khu dành cho trưởng bối.
    Thế cho nên họ hơi bất mãn khi thấy Khuất trang chủ hân hoan bước xuống đón chào Giả nhị công tử và đưa lên ngồi chung. Gã ta là cái quái gì mà được trọng vọng như thế?
    Khuất Kỳ hồ hởi giới thiệu chàng công tử họ Giả với hai lão nhân:
    - Bẩm phương trượng và trưởng lão! Người này chính là Hồ Nam Tiểu Tài Thần Giả Bạch Hổ, nam tử của Giả Tài Thần.
    Hai vị cao nhân vui vẻ mỉm cười thân thiện. Đàm Vân Tử xua tay:
    - Khuất thí chủ khỏi giới thiệu. Bần đạo nào có lạ gì y. Năm ngoái chính y đã mang năm trăm lượng vàng lên núi Võ Đang cúng dường, để bổn phái trùng tu Thuần Dương Cung.
    Khuất Kỳ hơi ê mặt, không ngờ cánh tay nhà họ Giả lại vươn dài đến thế và rộng rãi hơn mình nhiều. Lão chưa bao giờ dám biếu phái Võ Đang số vàng lớn như vậy.
    Phương trượng Kỳ Viên Tự tiếp lời:
    - Mời Giả thí chủ cùng ngồi cho vui. Lão cũng đang định đến quý trang để cảm tạ về số vàng mà lệnh tôn đã cúng dường tam bảo.
    Mùi vàng bốc lên ngậm ngụt khiến Khuất Kỳ chóng mặt, cả Võ Đương Thất Tinh và toàn bộ thực khách cũng vậy.
    Đàm Châu đại hiệp gượng cười nói giả lả:
    - Đã là chỗ quen biết, mời Giả hiền diệt an tọa. Vả lại, ngươi đại diện cho Giả lão ca cũng xứng ngồi chung với trưởng bối.
    Giả Bạch Hổ thản nhiên ngồi xuống, nghiêm nghị hỏi chủ nhà:
    - Khuất đại thúc! Phải chăng Quỷ Ảnh Hội sẽ đến đây đoạt bảo vào đêm nay?
    Khuất Kỳ rầu rĩ gật đầu:
    - Đúng vậy! Nửa tháng trước Quỷ Ảnh Hội gửi thư, đòi lão phu giao nộp Tỵ Hỏa Châu, hạn chót là trước giờ Tý, giữa giờ Hợi, lão phu phải mang bảo vật đặt giữa vườn hoa lớn sau trang để bọn Câu Hồn sứ giả đến lấy. Tuy nhiên, việc Khuất Gia huy động bằng hữu giang hồ chắc đã lọt vào tai đối phương nên không tránh khỏi việc giao tranh.
    Giả Bạch Hổ gật gù bảo:
    - Theo tiểu điện được biết thì Quỷ Ảnh Hội có quy củ rằng khổ chủ được quyền cho người bảo vệ bảo vật nhưng số người không được quá năm, vì bọn Câu Hồn sứ giả cũng chỉ từng ấy. Chúng ta mà cầm cự được đến hết giờ Tý là thắng lợi.
    Khuất lão cười khổ:
    - Lão phu cũng biết điều này nhưng võ công bọn sứ giả Câu Hồn kia rất lợi hại. Chúng có thân pháp nhanh như điện, đao thuật cao siêu, thủ đoạn phóng ám khí lại hiểm ác phi thường. Năm ngoái, Hồ Viên Ngoại ở Giang Tây đã mời đến cả Lư Sơn Ngũ Hiệp mà còn thất bại. Năm vị đại cao thủ ấy tuổi đều trên sáu mươi, công lực thâm hậu, kiếm pháp điêu luyện, thế mà bị chết sạch. Trận ấy, Hồ Viên Ngoại bị mất bức tượng Ngọc Di Đà và còn phải nộp thêm ngàn lượng vàng nữa.
    Thì ra Quỷ Ảnh Hội có máu cờ bạc, cho phép nạn nhân tự bảo vệ. Song nếu thua thì phải mất tiền cược là ngàn lượng hoàng kim.
    Nhận ra ánh mắt chế giễu của Giả Bạch Hổ, Khuất lão vội chữa thẹn:
    - Lão phu không tiếc ngàn lượng vàng mà chỉ sợ chẳng tìm ra đủ năm cao thủ. Tạm thời chúng ta mới chỉ có ba người là lão phu, Đàm Vân Tử trưởng lão và Giám Hải thiền sư đây thôi.
    Giả Bạch Hổ cười mát:
    - Tiểu diệt xin được phép tham gia, đại thúc chỉ cần tìm thêm một người nữa là đủ.
    Khuất Kỳ không mừng mà thoái thác:
    - Lão phu xin tâm lĩnh hảo ý của hiền diệt song không thể vì chút vật ngoại thân mà làm hại đến ngươi. Họ Giả chỉ có mình hiền diệt người thừa tự, nếu ngươi có mệnh hệ gì thì lão phu ăn nói sao với Giả lão ca?
    Biết lão xem thường bản lãnh của mình, Giả Bạch Hổ nhếch mép cười ngạo nghễ, hờ hững nói:
    - Tuy tiểu diệt chưa hề xuất thủ nhưng tự tin rằng võ nghệ không thua bất cứ ai ở đất Hồ Nam này!
    Khuất Kỳ biến sắc vì câu nói bao gồm cả lão lẫn phương trượng Kỳ Viên Tự. Dù giao tình giữa hai nhà có thâm hậu cách mấy thì cũng không thể ngăn ngọn lửa giận của lão võ sĩ già họ Khuất. Đàm Châu đại hiệp hừ nhẹ và gằn giọng:
    - Này Giả hiền điệt! Ngươi hơi ngoa ngôn rồi đấy!
    Cử tọa đều là con nhà võ nên tai mắt linh mẫn, nãy giờ nghe không sót câu chuyện của chủ nhà. Thấy có gay cấn họ vội ngậm miệng, chú mục quan sát còn tai thì vểnh ngược tên nghe ngóng.
    Giả Bạch Hổ chẳng bề sợ hãi mà còn hơi cao giọng:
    - Tiểu diệt chẳng hề đại ngôn mà chỉ nói lên sự thực. Nếu Khuất đại thúc không tin thì chúng ta cứ việc đầu cược.
    Khuất Kỳ nóng mũi hỏi:
    - Cược thế nào?
    Giả Bạch Hổ cười khẩy:
    - Đêm nay tiểu diệt sẽ đả thương một tên Câu Hồn sứ giả trong vòng mười chiêu, sau đó giúp chư vị đánh đuổi kẻ thù. Nếu được đúng như vậy, mong đại thúc gả Thúy Lan hiền muội cho tiểu điệt. Bằng như Hổ này sai lời, xin được dâng vạn lượng vàng để bồi tội.
    Cứ tọa xôn xao hẳn lên bất bình trước thái độ ngông cuồng, khoác lác của Giả Bạch Hổ. Và họ đoán rằng Khuất trang chủ sẽ nhận lời vì mối lợi quá lớn. Dẫu cho có mất Ty Hỏa Châu và ngàn lượng vàng thì lão vẫn thu về được vạn lượng. Hơn nữa, còn vị thông gia nào xứng đáng hơn Hồ Nam Đại Tài Thần Giả Thiên Minh nữa.
    Nhưng có một người nghĩ khác đi và lên tiếng nói bâng quơ:
    - Khéo thực! Chỉ vài năm nữa là gia sản của họ Giả sẽ tăng gấp đôi.
    Lão ta rất có lý vì Khuất Kỳ không có con trai và lại chỉ được mình Khuất Thúy Lan. Ai lấy nàng thì sẽ thừa kế gia tài đồ sộ này.
    Người vừa phát biểu ngồi chung bàn với Tư Đồ Sảng nên chúng ta sẽ quay lại tìm hiểu xem lão là ai.
    Đấy là một đạo sĩ già, thân hình gầy ốm, nhỏ nhắn, râu tóc đen như mun nhưng da mặt nhăn nheo tựa vỏ quả táo tầu phơi khô nên khó mà biết lão bao nhiêu tuổi. Tấm đạo bào của lão trước đây có lẽ là mầu vàng đất song giờ thì bạc thếch và lem luốc, chẳng thể dùng lời diễn tả được. Không những thế, nó còn sờn chỉ, sắp rách ở hai đầu vai, mép vạt te tua, lởm chởm những sợi vải.
    Ngay cá thanh kiếm dắt ở thắt lưng cũng cũ sì, vỏ thì móp méo. Gương mặt của lão chẳng chút tiên phong đạo cốt vì mắt thì híp mà mũi thì to và đỏ ửng. Vớ bộ dạng này, không hiểu sao lão ta lại được Tề tổng quản và bọn gia nhân cho vào!
    Lão chậm hơn Tư Đồ Sảng một chút và khi nhập sảnh thì đảo mắt quan sát như muốn tìm người quen. Lão nhanh chóng phát hiện ra Tư Đồ Sảng, bèn đến xin ngồi chung.
    Lão đạo sĩ mạt rệp khi rót rượn uống liền ba chung lớn, tay bốc lia lịa những miếng khô nai thơm phức còn mắt thì ngắm nghía kẻ đồng bàn. Lát sau, lão khề khà gợi chuyện:
    - Bần đạo là Tiên Liêu Chân Nhân, dám hỏi tính danh của thí chủ?
    Tiên Liêu là một loài chim nhỏ, rất khéo làm tổ nên còn được người Trung Hoa gọi là xảo phụ. Cái tên này quả là hợp với thân hình loắt choắt của lão ta.
    Ánh mắt của Tiên Liêu Chân Nhân có vẻ tinh anh, xảo quyệt, bộ dạng thì tàn tạ, tất sẽ không được thiên hạ kính trọng. Nhưng Tư Đồ Sảng lại có cảm tình với chân nhân vì ông ta cũng thấp, nhỏ như cha chàng. Vì thế, Tư Đồ Sảng kính cẩn vòng tay đáp:
    - Bẩm đạo trưởng! Vãn bối tên gọi Tư Đồ Sảng, hai mươi tuổi. Chàng chợt sực nhớ ra rằng mình nên khai tên giả thay vì nói thực, song chàng quá trung hậu nên đã quên béng mất. Bởi nhớ cha già mà chàng kính trọng đối phương, và đã kính thì không thể dối gian.
    Sợ kế hoạch tiềm nhập Quỷ Ảnh Hội bị vỡ, chàng khổ sở hạ giọng van nài:
    Mong đạo trưởng giữ kín giùm lai lịch vãn bối, cứ gọi kẻ hèn này là Lý Thu.
    Tiên Liêu Chân Nhân hiểu ngay mình đã vớ phải một gã tiểu tử mới xuất đạo tính tình thực thà hiếm có, ông mỉm cười thích thú và trấn an:
    - Tất nhiên là bần đạo sẽ không lắm mồm mà làm hại thí chủ. Tự nhiên, bần đạo muốn biết ẩn tình trong việc cải danh này!
    Lỡ đưa gáy cho lão nắm, Tư Đồ Sảng đành kể sơ qua về mối huyết cừu. Tiên Liêu Chân Nhân lắng nghe và gật gù nhưng không có ý kiến gì, sau đó bắt Tư Đồ Sảng cùng uống rượu.
    Đến khi Giả Bạch Hổ lớn tiếng đánh cược với Khuất trang chủ thì lão ta buột miệng phang một câu chói tai như đã kể ở trên.
    Hậu quả là Hồ Nam Tiểu Tài Thần Giả Bạch Hổ giận tím mặt đứng lên quát:
    - Thân hộ vệ hãy trừng trị cái kẻ thối mồm ấy cho ta!
    Gã hộ vệ của Giả Bạch Hổ đang ngồi ở bàn dưới, khuất sau cột nhà bằng danh mộc. Gã liền đứng lên, chậm rãi bước về phía ngoài, nơi phát ra tiếng nói. Gã biết vị trì bàn người đã phát ngôn.
    Thân hộ vệ là một hán tử trung niên tuổi độ quá bốn chục, mặc võ phục xanh, ngoài khoác áo choàng lông cừu trắng. Thân thể gá khá cao lớn và tráng kiện, mặt chữ điền lạnh như tiền và có mầu xanh tái. Chỉ trừ đôi môi mỏng lét, mặt mũi gã cũng bình thường song không hiểu sao lại khiến người ngoài khiếp sợ. Có lẽ do tia nhìn oán độc đầy sát khí, tựa những mũi tên thép đang bắn ra tua tủa.
    Họ Thân rút vũ khí giấu trong áo choàng ra. Đó là một cây Nhị Tiết Côn thân lớn cỡ cổ tay trẻ con, mỗi đoạn dài hai gang, còn sợi xích nối thì dài một gang. Thứ vũ khí này rất thông dụng nhưng nó lại được họ Thân sơn đỏ tựa nhuộm máu tươi để tăng tính khủng bố. Cũng nhờ thế mà quần hào nhận ra lai lịch của gã và có kẻ thảng thốt kêu lên:
    - Huyết Báo Thân Vô Cửu!
    Có không ít người rùng mình vì ác danh của Huyết Báo vang dội khắp võ lâm. Thân Vô Cửu háo sát thành tật, đã rút côn là phải có người chết. Công lực gã cực kỳ thâm hậu, múa cây Nhị Tiết Côn nặng mười sáu cân nhẹ như bằng gỗ vậy. Huyết Báo biệt tăm đã năm sáu năm nay, không ngờ lại trở thành hộ vệ cho Tiểu Tài Thần Giả Bạch Hổ,
    Thân Vô Cửu xiết chặt chuôi côn, gằn giọng hỏi bằng những tiếng chói tai:
    - Ai trong hai ngươi là kẻ đã xuất ngôn?
    Ác danh của Huyết Báo đã dọa khiếp Tiên Liêu Chân Nhân. Lão run lên và mắt thì lấm lét, đầy vẻ sợ hãi. Và lão gượng cười nói giả lả:
    - Sao túc hạ lại hỏi bọn bần đạo?
    Cái giọng ồm ồm khàn đục này hoàn toàn khác với giọng lúc nãy. Do vậy Huyết Báo đinh ninh thủ phạm là gã tiểu tử hôi sữa kia.
    Gã cười lạnh chỉ mặt Tư Đồ Sảng và bảo:
    - Dù thương ngươi trẻ người non dạ nhưng Thân mỗ cũng không thể nhẹ tay được!
    Tư Đồ Sảng chẳng thể mở miệng tố cáo Tiên Liêu Chân Nhân vì biết rằng cái thân già còm cõi kia chẳng chịu nổi một côn của gã sát thủ lừng danh. Cha chàng, Tư Đồ Quát phiêu bạt mấy chục năm nên kiến văn rất rộng, đã kể cho con nghe lai lịch rất nhiều cao thủ trong thiên hạ. Chàng đã nghe ông nhắc đến gã hung thần đất Hoa Nam này.
    Tư Đồ Sảng điềm tĩnh nói:
    - Giao đấu ở đây không tiện, mời túc hạ ra sân.
    Nói xong, chàng thản nhiên đứng lên, quay gót bước đi, chẳng hề sợ đối phương tập hậu.
    Khí phách ấy đã khiến quần hùng phục lăn, cả Huyết Báo cũng thầm khen.
    Tiên Liêu Chân Nhân lót tót chạy theo Tư Đồ Sảng, ấp úng nói:
    - Bần đạo hại ngươi rồi!
    Tư Đồ Sảng không hề giận, mỉm cười đôn hậu:
    - Đạo trưởng chớ nên áy náy, vãn bối không chết được đâu!
    Thực khách ùn ùn kéo cả ra sân trước để quan chiến và chẳng bỏ lỡ dịp hay để đánh cược xem ai thắng.
    Đàm Châu đại hiệp Khuất Kỳ giận tái người khi thấy Giả Bạch Hổ ra lệnh giết khách của mình. Lão định lên tiếng ngăn cản ngay từ đầu nhưng đã có Đàm Vân Tử nháy nhó ra hiệu.
    Tuy không hiểu nhưng Khuất lão vẫn cố nhịn không phát tác. Lúc đi ra, lão chậm chân, sánh vai Đàm Vân Tử và hỏi nhỏ:
    - Vì sao trưởng lão lại không cho lão phu ngăn chặn trận đánh? Chàng trai trẻ tuổi kia nào có tội tình gì mà phải chết dưới tay huyết Báo? Gã tiểu tử họ Giả thực là xấc xược, dám sai thủ hạ giết người trong nhà của lão phu.
    Đàm Vân Tử mỉm cười bí ẩn:
    - Bần đạo xin cam đoan rằng chàng trai ấy không thể thua được. Nếu Khuất thí chủ muốn kiếm vài vạn lượng thì cứ việc đánh cược với Giả Bạch Hổ.
    Khuất lão trố mắt vì kinh ngạc:
    - Lẽ nào một người tuổi đôi mươi lại có võ công cao dường ấy?
    Đàm Vân Tử cười khà khà:
    - Thiện cơ bất khả lậu! Thí chủ cứ nghe lời bần đạo là vớ được món bở.
    Khuất Kỳ gượng cười:
    - Lão phu chẳng ưa gì Giả Bạch Hổ nhưng không thể lấy vàng của hắn được.
    Hơn hai trăm hào kiệt đã vây thành vòng tròn trên sân gạch đế xem tỷ võ.
    Tiên Liêu Chân Nhân bảo Tư Đồ Sảng:
    - Thí chủ hãy đưa tay nải cho bần đạo giữ giùm!
    Chàng trai họ Tư Đồ ngoan ngoãn vâng lời.
    Khuất Kỳ ngắm gương mặt anh tuấn, trung hậu của chàng trai lạ mặt mà bất nhẫn, ông không tin tưởng lắm vào lời nói của Đàm Vân Tử. Nếu để chàng ta chết tại đây thì thanh danh của lão cũng tổn hại không nhỏ.
    Khuất lão liền cao giọng hỏi:
    - Thiếu hiệp danh tính là chi? Xuất thân từ cửa nào?
    Tư Đồ Sảng ngượng ngùng đáp:
    - Vãn bối tên Lý Thu. Học võ của song thân nên không thuộc phái nào cả.
    Chàng rất ngượng miệng khi phải xưng tên giả. Chàng thực thà y hệt người mẹ chốn sơn dã của mình.
    Khuất Kỳ cau mày bảo:
    - Thân hộ vệ là cao thủ nhất lưu của vùng Hoa Nam, chưa hề gặp ai ngang sức. Lão phu đề nghị Lý thiếu hiệp tạ lỗi với Giả công tử để tránh can qua.
    Giả Bạch Hổ ứng tiếng ngay. Gã lạnh lùng bảo:
    - Nếu Lý Thu chịu quỳ lạy ba lạy để tạ lỗi thì tiểu điệt sẽ bỏ qua.
    Khuất Kỳ tức đến nghẹn họng, chưa kịp biểu lộ thì đã có người cướp lời. Chính lão đạo sĩ bé tiêu, áo quần xơ xác đã nhẩy đông đổng lên mà mắng:
    - Này gã họ Giả ngông cuồng kia, ngươi đừng ép người thái quá nghe chưa. Đã thế thì bần đạo sẽ không bãi chiến mà sẽ cùng ngươi đánh cược một phen. Và lão quay sang hỏi Tư Đồ Sảng:
    - Lý sư đệ! Chẳng hay trong tay nải này ngươi có bao nhiêu vàng vậy? Bần đạo sử dụng hết nhé?
    Tư Đồ Sảng khẽ mỉm cười, không ngờ mình mau chóng trở thành sư đệ của lão ta và chàng vui vẻ ưng thuận.
    Tiên Liêu Chân Nhân mừng rỡ ngồi xuống, tháo nút tay nải và lục lọi, ngoài vài thỏi vàng bạc, lão còn tìm thấy một túi lụa xanh thêu hoa và nức mùi son phấn, trong chứa gần ba trăm viên Hồng Bảo Ngọc. Vài người sành sỏi ồ lên thèm khát vì biết Hồng Bảo Ngọc là đặc sản của Miến Điện, Xiêm La, Tích Lan, giá đắt kinh khủng, giầu cỡ nhà họ Giả cũng chỉ có vài chục viên.
    Đây lại là ngọc của Miến Điện, màu đỏ tươi như máu, nếu có nắng thì càng rực rỡ, sáng chói tựa ánh bình minh hoặc ráng chiều. Hồng Ngọc của Xiêm La và Tích Lan có chất lượng xấu hơn ngọc Miến. Trong tiếng Phạn, Hồng Bảo Ngọc có nghĩa là “Đứng đầu đá quý” Tiên Liêu Chân Nhân đắc ý nói:
    - Này Giả tiểu thí chủ, Giả Gia Trang chuyên khai thác và kinh doanh vàng ngọc, liệu có định giá nổi Hồng Ngọc này của bần đạo hay không? Tổng cộng một trăm chín mươi lăm viên đấy.
    Tư Đồ Sảng ngớ người, chẳng hiểu lão đếm từ lúc nào mà lại biết đúng số lượng?
    Giả Bạch Hổ không ngờ gã tiểu tử đáng ghét kia lại mang theo người một số châu báu trị giá liên thành như thế. Chắc nhà họ Lý còn giầu có hơn nhà họ Giả? Nỗi đố ky, ganh ghét dâng trào và gã quyết định chiếm lấy số Hồng Bảo Ngọc kia.
    Giả Bạch Hổ ra vẻ thản nhiên, hờ hững đáp:
    - Tùy theo chất lượng, mỗi viên trị giá trên dưới ba trăm lượng vàng, vị chi khoảng sáu vạn lượng.
    Quần hùng chấn động trước số vàng quá lớn và họ bắt đầu nhìn Lý Thu bằng cặp mắt tôn kính.
    Tiên Liêu Chân Nhân hách dịch hỏi lại:
    Vậy chẳng hay Giả nhị công tử có mang đủ sáu vạn lượng hoàng kim đấy không?
    Thấy lão quá tự tin, Giả Bạch Hổ bỗng đâm ra chột dạ. Gã lựa lời đáp:
    - Tại hạ không sẵn đủ số song sau đó có thể về nhà lấy. Hiện nay tại hạ chỉ mang theo vạn lượng ngân phiếu.
    Đàm Châu đại hiệp Khuất Kỳ biến sắc hiểu rằng Giả Bạch Hổ đã tính toán trước khi đặt điều kiện với ông.
    Thường thì chẳng ai mang nhiều vàng theo khi hai nhà chỉ cách nhau vài dặm.
    Tiên Liêu Chân Nhân phá lên cười:
    - Thôi thôi! Một vạn lượng cũng đủ rồi! Bần đạo chẳng phải là kẻ thả mồi bắt bóng! Giả Thiên Minh keo kiệt nổi tiếng, dễ gì để cho ngươi vác đi năm vạn lượng nữa.
    Khách quan chiến ồ lên cười khiến Giả Bạch Hổ tái mặt. Bỗng có một người len vào và nhẩy tót đến trước mặt Tiên Liêu Chân Nhân, níu áo lão mà van nài:
    - Tiểu nữ nghe bọn nô tỳ báo rằng đạo trưởng có rất nhiều Hồng Bảo Ngọc. Tiểu nữ chưa hề thấy bao giờ nên rất khát khao, phiền đạo trưởng cho tiểu nữ xem thử.
    Cô ả này là một thiếu nữ thon thả, tuổi độ mười lăm, mười sáu, mặc võ phục hồng, chẳng khoác áo cừu có lẽ vì tuyết đã ngừng rơi. Cơ thể nàng chưa nẩy nở đúng mực nhưng dung nhan kia sau này chắc chắn sẽ khiến nam nhân trong thiên hạ phải lao đao.

  6. #6
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chợt có tiếng Khuất Kỳ nạt khẽ:
    - Thúy Lan! Con định làm mất mặt ta đấy ư?
    Thì ra ả Tố Nga này chính thị vị thiên kim tiểu thư nhà họ Khuất.
    Thúy Lan cứ tảng lờ, giả điếc, tiếp tục năn nỉ Tiên Liêu Chân Nhân. Lão ta bối rối nói:
    - Ngọc này vốn là của gã họ Lý kia, bần đạo không thể tùy tiện được.
    Lão vừa dứt lời là Thúy Lan đã nhẩy bổ đến nắm áo của Tư Đồ Sảng. Chàng trai trẻ ngượng chín người nên nói ngay:
    - Tiểu thư cần mấy viên tại hạ xin dâng tặng!
    Thúy Lan mừng rỡ cười khúc khích:
    - Lý đại ca quả là người hào phóng! Tiểu muội có mười ngón tay và hai lỗ tai nên chỉ xin mười hai hạt mà thôi.
    Tư Đồ Sảng sốt sắng gật đầu quay sang bảo Tiên Liêu Chân Nhân:
    - Đạo trưởng tặng cho Khuất tiểu thư đây mười hai viên hồng ngọc.
    Chẳng phải của mình mà tiếc nên lão đạo sĩ cổ quái kia vui vẻ cho ngay. Nhưng lão ta lại hạ giọng bỏ nhỏ một câu:
    - Này tiểu nha đầu! Ngươi mà lấy ngọc này thì xem như nhận sính lễ đấy!
    Thúy Lan tinh quái lườm lão rồi cười vang, phá vây chạy mất.
    Khuất Ky ngượng ngùng vòng tay cáo lỗi:
    - Lão phu đến tuổi già mới có được một mụn con nên rất cưng chiều, Lan nhi vì thế mà bướng bỉnh, ngang ngược, tinh nghịch như quỷ sứ. Số ngọc kia lão phu sẽ hoàn lại cho thiếu hiệp ba ngàn sáu trăm lượng vàng.
    Tư Đồ Sảng đang định từ chối thì Tiên Liêu Chân Nhân đã hớn hở nói trước:
    - Phải phải! Khuất thí chủ xử sự như thế là phải đạo.
    Rồi lão trách chàng:
    - Chẳng ai gánh củi về rừng! Nhà họ Khuất giầu bỏ mẹ, tội quái gì ngươi phải biếu không hơn ba ngàn lượng vàng? Trên đời còn hằng hà sa số những người nghèo khổ để ngươi bố thí.
    Chợt lão quắc mắt:
    - Hay là ngươi thấy gái đẹp là mê tít, không biết tiếc của là gì?
    Tư Đồ Sảng giật mình, chối đây đẩy:
    - Làm gì có việc ấy! Thúy Lan chỉ là một cô bé....
    Lúc này, các tay cá cược ở bên ngoài bắt đầu nóng ruột. Họ la ó:
    - Có đánh thì đánh cha nó đi, sao lại cù cưa mãi thế?
    Tư Đồ Sảng mượn cớ này rút Giáng Ma Phủ ra và xăm xăm bước đến trước mặt Huyết Báo Thân Vô Cửu.
    Thanh danh của chàng chưa bay đến đây nên không ai nhận ra Thần Phủ Lang Quân mà chỉ trầm trồ khen cây Giáng Ma Phủ.
    Tư Đồ Sảng vòng tay thi lễ rồi nói:
    - Tại hạ xin được bồi tiếp Thân túc hạ vài chiêu.
    Họ Thân khẽ gật đầu, sát khí đã giảm đi nhiều. Tư Đồ Sảng được quyền xuất thủ trước vì niên kỷ nhỏ hơn. Song phương không thù oán nên chàng hòa hoãn đánh chiêu “Xuân Phong Phiêu Phiêu”, đường búa nhẹ nhàng tựa gió xuân hây hẩy nhưng phủ ảnh thì trùng điệp.
    Huyết Báo vung côn chống đỡ nghe cánh tay mình tê chồn thì lòng vô cùng kinh ngạc. Gã dồn thêm chân khí, tấn công mãnh liệt, chiêu sau nặng hơn chiêu trước.
    Thân Vô Cửu tuy hiếu sát nhưng lại là nhân tài trong võ đạo, hiếu võ thành tật nên siêng năng, cần mẫn hơn người. Thuở nhỏ, gã được dị nhân trên núi Cấm Sơn dạy võ, chân truyền pho Nhị Tiết Hàng Long Côn ảo diệu vô song. Khổ luyện không ngơi nghỉ từ năm sáu tuổi nên họ Thân sở hữu đến hơn ba mươi năm tu vi, dù tuổi mới bốn hai.
    Trước khi nhập trận, gã tin mình sẽ thắng được tên tiểu tử non nớt kia, chí ít thì cũng đánh văng vũ khí đối phương. Nhưng càng đánh gã càng thức ngộ được rằng sữc lực họ Lý chẳng kém mình.
    Tự ái nổi lên, Thân Vô Cửu dồn công lực vào cây Nhị Tiết Côn nặng nề, đánh những đòn vũ bão. Hai thanh thép tốt chạm nhau dữ dội, phát ra những âm thanh chát chúa ghê người. Hai luồng hồng quang và hắc quang xoắn lấy nhau, song phương đảo lộn di chuyển nhanh như gió.
    Quần hào ngất ngây theo dõi trận đấu hấp dẫn, mê mẩn há hốc miệng và reo hò nhiệt liệt trước những chiêu tinh kỳ, đẹp mắt hay nguy hiểm. Họ suýt xoa khen ngợi Lý Thu, hỏi nhau về lai lịch của cao thủ trẻ trung ấy.
    Tư Đồ Sảng cũng rất phấn khởi vì được so tài với Huyết Báo. Trước giờ, chàng chỉ chém giết với tấm lòng hận thù chứ chưa hề được tỷ võ một cách đích thực, cùng kẻ địch xứng tay.
    Tư Đồ Sảng hào hứng thi triển pho Giáng Ma Phủ pháp giải phá những chiêu côn thần tốc, quỷ dị của Huyết Báo, ánh mắt rực rỡ niềm vui.
    Đã hơn trăm chiêu trôi qua, Tư Đồ Sảng cảm nhận rằng tay búa của mình ngày càng điêu luyện. Học phải có hành thì mới trọn vẹn. Chàng hoàn toàn làm chủ được trận đánh, có thể thắng đối phương bất cứ lúc nào. Song chàng đã không nặng tay mà cứ say mê đánh mãi.
    Thân Vô Cửu cũng hiểu như thế vì biết rằng Lý Thu đã bỏ qua nhiễu cơ hội tốt. Gã cay đắng nhận ra mình kém tài nhưng chẳng thể mở miệng chịu thua.
    Bên ngoài, ba đại nhân vật là Khuất trang chủ, Đàm Vân Tử và Giám Hải thiền sư cũng trầm trỗ tán thưởng tài đánh búa của Lý Thu. Họ vắt óc cố tìm ra lai lịch của chàng trai, cũng như cây búa kỳ lạ mà không thành công.
    Giả Bạch Hổ thì bị nhấn chìm trong lửa ghen hờn cao ngất. Gã không ngờ tiểu tử họ Lý kia lại giỏi võ đến thế. Lời tán dương của khách quan chiến như những mũi kim đâm vào lòng chàng công tử kiêu ngạo.
    Giả Bạch Hổ tính tình tàn nhẫn, dẫu biết thủ hạ kém sức, có đánh nữa chỉ thiệt thân, mà vẫn lạnh lùng ra lệnh:
    - Thân hộ vệ! Ta muốn thấy máu của gã họ Lý!
    Gã biết Thân Vô Cửu còn một chiêu tối hậu lợi hại, dùng để đổi mạng với kẻ thù. Khi họ Thân xuất chiêu “A Tỳ Vô Lộ” thì cả gã lẫn đối thủ đều khó sống.
    Huyết Báo không ngờ chủ nhân bắt mình thí mạng, lòng đau như cắt nhưng vẫn thi hành. Gã dồn hết công lực vũ lộng thanh Nhị Tiết Côn, dệt nên hàng ngàn côn ảnh cuồng loạn, kinh lực chấn động không gian, phát ra những tiếng như lụa xé, rối lao vào kẻ địch.
    Giám Hải thiền sư nhận ra ngay chiêu “Đồng Quy Ư Tận”, kinh hãi thết lên:
    - Coi chừng!
    Tư Đồ Sảng cũng sớm đánh hơi được tử thần, bình tĩnh xuất chiêu “Dương Hoa Điểm Điểm” (Hoa Liễu lấm tấm). Giáng Ma Phủ vẽ nên tấm lưới đầy những vệt mỏng manh như tơ và ẩn hiện những đốm nhỏ.
    Tuy mang cái tên rất thi vị song chiêu này lại cực kỳ lợi hại, gồm đến mấy trăm thế thức, lưới tơ để phòng thủ còn sát cơ nằm trong những bông hoa, tức mũi của đoản kiếm ở đầu Phủ.
    Lúc va chạm Thân Vô Cửu có cảm giác như mình đang công phá một bức tường thép kín mít, không khe hở, và hơi lạnh từ những chấm đen nho nhỏ kia uy hiếp chín đại huyệt từ mặt đến bụng của gã.
    Thân Vô Cửu đánh hết chiêu “A Ty Vô Lộ” mà vẫn không phá thủng được lưới búa, lòng vô cùng kinh hãi. Và gã tuyệt vọng chờ chết khi nhận ra mũi thép ở đầu cây búa đen trùi trũi ấy sắp chạrn vào huyệt Ngọc Đường trên ngực.
    Nào ngờ, mũi đoản kiếm bất ngờ chuyển hướng, lướt ngang sang mé hữu, chỉ có hơi thép làm lạnh da mặt họ Thân. Và gã Lý Thu nhẩy lùi vòng tay nói:
    - Tại hạ may mắn ngang sức với các hạ, đánh nhau đến tối cũng chưa phân thắng bại. Chúng ta hãy đình chiến để tại hạ tạ lỗi với Giả công tử!
    Thân Vô Cửu trở về từ cửa Quỷ Môn Quan, lại được cứu vãn thanh danh nên vô cùng cảm kích. Gã giết người vì cho rằng ai cũng muốn giết mình, không ngờ có kẻ lại cư xử khác hẳn, đầy nhân hậu và tế nhị. Trừ các bậc cao nhân, không ai nhận ra ẩn tình. Bọn hào khách thở dài tiếc nuối trước kết quả hòa của trận đấu.
    Khuất Kỳ cười ha hả:
    - Không đổ máu là tốt rồi! Mời chư vị vào sảnh để chuẩn bị dùng cơm chiều!
    Mọi người đang định làm theo lời lão thì khựng lại vì thấy Huyết Báo Thân Vô Cửu vòng tay nói với Giả Bạch Hổ:
    - Giả công tử! Thân mỗ bất tài không hoàn thành nhiệm vụ, chẳng dám theo phò công tử nữa. Từ nay, chúng ta trở thành người xa lạ.
    Giả Bạch Hổ bối rối cau mày:
    - Sao Thân hộ vệ lại nói thế? Các hạ đã tận lực nên không có lỗi.
    Huyết Báo ngửa cổ cười dài:
    - Tại hạ đã vì công tứ mà đánh chiêu “A Tỳ Vô Lộ”, xem như trả ơn nhà họ Giả! Xin cáo biệt!
    Y gã ngầm trách Giả Bạch Hổ nhẫn tâm thí mạng thủ hạ. Dứt lời, Thân Vô Cửu lặng lẽ quay gót.
    Không ngờ Lý Thu cũng cáo thoái. Chàng ôm quyền nói với chủ nhà:
    - Trang chủ! Vãn bối bận việc nên không thể lưu lại! Cảm tạ trang chủ đã chiêu đãi.
    Khuất Kỳ chưng hửng vì thất vọng. Lão đinh ninh Lý Thu sẽ tham gia đội ngũ năm người để bảo vệ Tỵ Hoả Châu, và với bản lãnh siêu quần bạt tụy của chàng thì lão chẳng còn phải sợ bọn Câu Hồn sứ giả.
    Khuất Kỳ vừa định mở miệng lưu khách thì bị Đàm Vân Tử lén kéo áo ngăn cản. Vị trưởng lão bẩy mươi lăm tuổi của núi Võ Đang nháy mắt với Khuất Kỳ và bảo:
    - Giữ y lại cũng vô ích, Khuất thí chủ hãy trả vàng để y đi.
    Khuất Kỳ chợt nhớ đến việc con gái mình xin họ Lý mười hai viên Hồng Bảo Ngọc, lúng túng nói:
    - Chết thực! Suýt nữa thì lão phu quên béng cả việc ấy. Phiền công tử chờ một chút.
    Ông liền bảo Tề tổng quản vào hậu viện lấy vàng.
    Tiên Liêu Chân Nhân hí hửng dặn dò:
    - Bọn lão phu lấy ngân phiếu, chứ không lấy vàng nén hay tiền giấy đâu đấy nhé!
    Vàng thì nặng, tiền giấy Đại Minh Thông Hành Bảo Sao thì mất giá trị, hiệu buôn, quán xá nào cũng chê. (Có độc giả thắc mắc vì sao tác giả chỉ chọn bối cảnh đời Minh mà không là những triều đại khác. Xin thưa rằng trước nhà Tống thì quá xa, sử liệu không đầy đủ. Trong thời Tống thì miền Bắc Trung Hoa lọt vào tay quân Kim, lãnh thổ chật hẹp, không đủ đất cho các cao thủ vẫy vùng.
    Còn như đời nhà Nguyên thì võ lâm không hề tồn tại. Sau khi chiếm được Trung Hoa, bọn Mông Cổ ra sức đàn áp người Hán bằng những chính sách gắt gao. Thời ấy, quân Mông cấm người Hán ở phương Bắc không được giữ vũ khí và ngựa, những thứ ấy bị tịch thu hết. Ở Hoa Nam còn gắt hơn, năm nhà mới có một còn dạo cắt thịt để dùng chung. Bởi vậy làm sao có những chàng hiệp khách vác gươm, cưỡi ngựa trừ gian diệt bạo được.
    Triều Thanh thì khá hơn triều Nguyên một chút vì họ khôn ngoan và biết coi trọng văn hóa Trung Hoa. Tuy nhiên, nhà Thanh cũng có rất nhiều chính sách tàn nhẫn để đàn áp người Hán. Cũng như Mông Cổ, quân Mãn Châu cấm hai dân tộc Hán – Mãn thành hôn với nhau. Họ bắt người Hán phải cạo đầu thắt bím và mặc y phục rợ Mãn. Ai không tuân thì bị chặt đầu.
    Ngoài ra còn có lệnh cấm lập xã (đoàn thể), lập hội. Nghĩa là chằng còn một bang phái nào tồi tại cả. Trừ những hội kín phản Thanh như Thiên Địa Hội chẳng hạn. Chính vì thế mà nền võ thuật Trung Hoa sa sút trầm trọng, nhiều môn tuyệt học bị thất truyền. Tóm lại, chỉ có trong thời nhà Minh thì người hiệp khách mới thỏa chí tang bồng. Thuở ấy lãnh thố Trung Hoa vươn đến tận Liêu Đông, Tây Vực ở phương Bắc. Còn phương Nam giáp với Giao Châu, Miến Điện. Nước nhà lại độc lập chẳng ai cấm việc cưỡi ngựa, mang gươm).
    Vài giòng tâm sự cho vui, giờ thì chúng ta trở lại Khuất Gia Trang để xem cảnh Tiên Liêu Chân Nhân đếm những tờ ngân phiếu.
    Mỗi tờ năm chục lượng, tương đương giá trị một đỉnh vàng lớn, vị chi bẩy mươi hai tờ ngân phiếu. Lão đạo sĩ nghèo kia đếm rất nhanh rồi lôi Tư Đồ Sảng đi ngay.
    Tiên Liêu Chân Nhân nghèo đến mức giầy vải rách mũi ngón chân thò cả ra ngoài, thì làm gì cộ tiền mua ngựa? Do vậy lão nhẩy tót lên ngồi sau lưng Tư Đồ Sảng.
    Lão ta cẩn thận vòng tay ôm eo Tư Đồ Sảng như trẻ nhỏ nương tựa vào, anh cả vậy. Và lão nói:
    - Này Tư Đồ thí chủ! Bần đạo già nua, cô độc lại nghèo túng, nên muốn đi theo ngươi. Việc ấy ngươi nghĩ sao?
    Tư Đồ Sảng bất nhẫn đáp:
    - Vãn bối mang nặng thù nhà trên vai, đang cố tiềm nhập hổ huyệt, sống chết chưa rõ làm sao cưu mang đạo trưởng được? Vãn bối xin tặng đạo trưởng số vàng ấy để dưỡng già vậy.
    Chàng tưởng lão ta sẽ hài lòng trước sự hào phóng của mình. Song không ngờ Chân Nhân cười nhạt đáp:
    - Ngươi lầm rồi! Người già chỉ sợ cô đơn chứ không sợ nghèo túng. Hơn nữa, bần đạo thương ngươi là kẻ trung hậu, thực thà, muốn giúp một tay. Ngốc như ngươi thì sớm muộn gì cũng chết oan dưới tay Quỷ Ảnh Hội.
    Lão dừng lại một lúc rồi bỗng nói tiếp:
    - Thực ra, bần đạo có quen cái gã Tư Đồ Quát, cha của ngươi.
    Tự Đồ Sảng mừng rỡ thốt:
    - Thực thế ư? Nhưng sao vãn bối không nghe tiên phụ nhắc đến chân nhân?
    Vị đạo sĩ cười khánh khách:
    - Có nhắc đấy? Chỉ tại ngươi không nhớ thôi! Bần đạo quen thân Tư Đồ Quát đến mức biết rằng y có một vết sẹo dưới vai phải, hậu quả của nhát kiếm mà Tư Đồ Xán đã đâm.Tư Đồ Sảng thấy lão nói trúng phóc bí mật, hiểu rằng Tiên Liêu Chân Nhân quả đúng là cố hữu của cha mình.
    Chàng trai mồ côi, cô độc nghe lòng ấm áp tình thương. Chàng yêu cha mình nên yêu cả những người thân của ông.
    Tư Đồ Sảng hớn hở nói:
    - May quá! Không ngờ vãn bối lại còn có bậc trưởng thượng để xin chỉ giáo. Nhưng chằng hay vãn bối phải xưng hô như thế nào đây?
    Chàng không rõ Chân Nhân lớn hay nhỏ hơn cha mình. Lão đạo sĩ cười khà khà:
    - Chú hay bác cũng đều sai! Tốt nhất ngươi gọi ta là sư phụ vậy. Bần đạo chưa có đệ tử vừa ý, đang sợ tuyệt học bị thất truyền.
    Dù không tin rằng đối phương có gì hay để dạy mình song chµng vẫn vui vẻ nhận lời, cốt để lão vui. “Nhất tự vi sư bán tự vi sư”, dẫu lão chỉ khuyên chàng cách xử thế thì cũng đáng gọi là thầy rồi.
    Về đến thành Trường Sa, hai người ghé trọ trong Hồ Nam Đại Lữ điếm. Tư Đồ Sảng định đặt hai phòng thì Tiên Liêu Chân Nhân gạt đi, chỉ lấy một:
    - Thầy trò thì phải ở chung để bần đạo dạy dỗ ngươi chứ!
    Chàng cười và nhờ chưởng quỹ sai gã tiểu nhị đi mua giùm vài bộ đạo bào cùng giầy vớ, áo cừu cho sư phụ.
    Họ lên phòng, tắm gội xong thì y phục mới đã về đến. Chân nhân khoan khoái mặc vào, gật gù khen:
    - Mặc áo bằng lụa tốt quả là dễ chịu!
    Rồi lão khệnh khạng ngồi xuống chiếc ghế dựa trong phòng và trầm giọng:
    - Sảng nhi! Ta tuy là người đạt đạo xem thường tiểu tiết, nhưng chín lạy bái sư thì chẳng thể bỏ qua. Có vậy ta mới được quyền dạy võ cho con.
    Giọng lão hòa ái nhưng uy nghiêm đáo để. Tư Đồ Sảng vội vén áo quỳ xuống khấu đầu lạy đủ chín lạy.
    Vừa xong thì có tiếng gõ cửa và tiểu nhị bưng mâm cơm rượu vào. Mùi rượu Thiệu Hưng thượng hạng bay ngào gạt khi được rót ra làm cho chiếc mũi lân đỏ ửng của Chân Nhân phổng lên.
    Thức ăn cũng toàn những món đặc sản lừng danh Hồ Nam, giá đắt cắt cổ.
    Tửu lượng của học trò khiến vị sư phụ hài lòng. Chân Nhân cao hứng cùng Tư Đồ Sảng uống cạn một vò năm cân. Khi đã no say, lão bắt Tư Đồ Sảng kể lại thật chi tiết những gì đã xảy ra trong đời, luôn cả võ học.
    Đến hoàng hôn thì câu chuyện thương tâm của Tư Đồ Sảng mới chấm dứt. Tiên Liêu Chân Nhân trầm ngâm bảo:
    - Không phải ngẫu nhiên mà kiếm trở thành vua của mọi loại vũ khí. Chính Võ Hồng cũng nổi danh nhờ kiếm, sau vì thua thanh bảo đao sắc bén của Đao Vương nên mới nghĩ đến việc dùng búa. Khuyết điểm của Giáng Ma Phủ là quá nặng, không thể nào đạt đến tốc độ như khi ngươi dùng kiếm. Do đó nếu gặp phải những kiếm thủ thượng thặng, công lực thâm hậu, thì ngươi sẽ thua sau ba trăm chiêu. Dù ngươi thần lực hơn người thì lúc ấy tay cũng mỏi, đường lui chậm lại.
    Tư Đồ Sảng thầm công nhận lão nhận xét không sai. Chiều nay, dù chỉ mới hơn hai trăm chiêu mà chàng đã có dấu hiệu bải hoải nơi cánh tay hữu.
    Chàng phiền muộn hỏi:
    - Sư phụ! Chẳng lẽ đổ nhi phải bỏ búa mà học kiếm!
    Tiên Liêu Chân Nhân gật đầu rồi lại lắc đầu:
    - Không hẳn như thế! Ngươi đã có căn bản về Giáng Ma kiếm pháp cứ tiếp tục khổ luyện để đối phó với những địch thủ giỏi kiếm. Còn với những loại vũ khí khác thì Giáng Ma Phủ hoàn toàn chiếm ưu thế. Bần đạo sẽ giúp ngươi thấu hiểu những yếu quyết thượng thừa của kiếm đạo.
    Phòng thượng hạng nên rất rộng, gồm hai phần để tiếp khách và ngủ, được ngăn bởi một bình phong gỗ tám cánh, khắc nổi hình Tiêu Tương Bát Cảnh.
    Tư Đồ Sảng liền xếp tấm bình phong để dựa vào vách phòng, dẹp bàn ghế tạo ra khoảng trống mà luyện kiếm.
    Tiên Liêu Chân Nhân đã bước đến giường lấy kiếm rút ra, nghiêm nghị bảo:
    - Kiếm không phải là một thanh thép vô tri, lạnh lẽo mà là một vật tương thông với tâm linh của người kiếm thủ. Do vậy, kiếm có thể nhanh bằng ý nghĩ, tâm vừa máy động thì kiếm đã đến mục tiêu.
    Nhận ra vẻ nghi ngờ trong mắt học trò, Chân Nhân cười bảo:
    - Ngươi không tin ư? Vậy thì ngươi cứ dùng Giáng Ma Phủ mà phòng thủ mũi kiếm của bần đạo.
    Tư Đồ Sảng bẽn lẽn đi lấy búa, thủ thế rất nghiêm mật, đứng cách sư phụ gần trượng.
    Tiên Liêu Chân Nhân lướt đến, trường kiếm chỉ thẳng ra phía trước. Tư Đồ Sảng vội múa tít Thần Phủ, tạo nên màn lưới thép kín như bưng. Chàng nhìn thấy mũi kiếm chập chờn trước mặt rồi liến tiếp xuyên qua phủ anh, đâm vào áo mình. Những nhát kiếm này nhanh đến mức đụng mục tiêu và rút về mà không hề chạm lấy Giáng Ma Phủ.
    Tư Đồ Sảng phục lão sát đất, dừng búa vòng tay nói:
    - Sư phụ quả là bậc kiếm tiên! Đồ nhi đã sáng mắt ra rối!
    Chân Nhân cười khanh khách, nheo mắt bảo:
    - Trước giờ ngươi cứ nghĩ rằng bần đạo là kẻ bịp bợm chứ gì?
    Tư Đồ Sảng thẹn thùng đáp:
    - Đồ nhi nào dám có ý ấy!
    Và chàng ấm ức hỏi:
    - Vì sao lúc ở Khuất Gia Trang sư phụ lại chọc ghẹo Giả Bạch Hổ rồi giá họa cho đồ nhi?
    Chân Nhân đắc ý đáp:
    - Bần đạo chỉ thứ thách ngươi đấy thôi! Ngươi mà nổi giận thì chẳng thể trở thành đồ đệ của ta được. Kẻ bất nhân và thiếu độ lượng thì không học nổi kiếm đạo thượng thừa.
    Và lão gắt chàng:
    - Đừng mất thì giờ nữa? Ngươi hãy tập trung ôn luyện kiếm pháp để đêm nay đến Khuất Gia Trang đối phó với bọn Câu Hồn sứ giả.
    Tư Đồ Sảng ngơ ngác:
    - Đồ nhi cũng muốn giúp họ. Nhưng nếu chường mặt ra thì sau này làm sao tiếp cận bọn Quỷ Ảnh Hội?
    Chân Nhân nghiêm giọng:
    - Quỷ Ảnh Hội ái tài như mạng, dẫu ngươi có lỡ giết vài tên Cầu Hồn sứ giả thì họ cũng bỏ qua, cố gắng thu phục. Bần đạo hiểu chúng hơn ngươi mà.
    Tư Đồ Sảng khen phải, bắt tay vào việc ôn luyện. Chân Nhân bảo chàng thi triển pho Giáng Ma kiếm pháp bằng tốc độ nhanh nhất cho đến lúc không còn ngượng ngập.
    Một canh giờ sau, mồ hôi Tư Đồ Sảng toát ra như tắm, mang theo mùi rượu thơm nồng. Thế mà Chân Nhân chưa hài lòng:
    - Trung Nguyên Đệ Nhất Kiếm thần lực hơn người nên ỷ vào sức mà xem nhẹ yếu quyết khinh khoái. Do vậy mà pho Giáng Ma kiếm pháp vẫn còn ở trong giới hạn kiếm thuật chứ không bước được qua ngưỡng cửa kiếm đạo. Võ Hồng xem trọng chữ lực nên không ngại va chạm vũ khí, còn coi đó là cách bắt đối thủ lộ sơ hở. Nhưng nếu kiếm tiếp xúc nhiều thì tốc độ không thế nhanh được, Hơn nữa, khi gặp phải kẻ địch có công lực thâm hậu hơn, vũ khí nặng hơn, tỷ như Đao Vương chẳng hạn, thì họ Võ sẽ bị thiệt thòi.
    Nói xong, ông giảng giải những tinh túy trong nghề đánh kiếm, sửa đổi từng chiêu trong pho Giáng Ma kiếm pháp. Tư Đồ Sáng dù có căn cơ thượng phẩm cũng chỉ hoàn thiện được ba chiêu là đến giữa canh một.
    Tiên Liêu Chân Nhân đốc thúc chàng tắm rửa để đến Khuất Gia Trang.
    O0o
    Giờ chúng ta se quay lại nhà Đàm Châu đại hiệp để xem những gì xảy ra sau khi thầy trò Tư Đồ Sảng đi khỏi.
    Té ra, Khuất lão tức tối như người bị bưng mắt, ăn cơm chiều xong, lôi xệch Đàm Vân Tử vào hậu sảnh mà hỏi han:
    - Này Đàm Vân Tử! Ông bảo rằng không hề biết lai lịch của Lý Thu sao lại dám cam đoan rằng chàng ta sẽ trở lại hỗ trợ lão phu?
    Đàm Vân Tử cười khì:
    - Quả đúng là bần đạo chẳng rõ về họ Lý, song lại biết chắc rằng vạn sự sẽ chu toàn khi có mặt lão đạo sĩ già rách như xơ mướp kia. Lão ta chính là bậc phong trần dị nhân, tuổi đã trăm lẻ đắc đạo đã bốn mươi năm, mấy lần xuất hiện tiêu diệt ác ma mà không hề để người đời biết tiếng.
    Khuất Kỳ kinh hãi:
    - Phải chăng trưởng lão đang nhắc đến Ly Giang Tiên Ông ở đất Quế Lâm tỉnh Quảng Tây?
    Đàm Vân Tử đắc ý gật đầu:
    - Đúng đấy, Tiên Ông là bằng hữu của gia sư, hai mươi năm trước có ghé qua Võ Đang sơn. Nay gặp lại, bần đạo nhận ra ngay vì lão ta chẳng già một chút nào cả.
    Khuất Kỳ hoan hỉ nói:
    - Có Ly Giang Tiên Ông giá lâm là điều đại phúc! Lão phu không còn phải sợ Quỷ Ảnh Hội nữa rồi!
    Đàm Vân Tử gật đầu tán thành song lại lộ vẻ ưu tư:
    Việc ở đây không đáng ngại nữa, nhưng e rằng võ lâm lại sắp nổi phong ba cho nên Tiên Ông mới hạ sơn.
    Khuất Kỳ cười bảo:
    - Giang hố lúc nào chẳng có sóng gió! Chúng ta ra ngoài kẻo thất lễ với khách.
    Hai người trở về bàn, Khuất trang chủ liền bị Giả Bạch Hổ hỏi dồn:
    - Khuất đại thúc! Vậy chẳng hay đại thúc có cho phép tiểu điệt tham chiến không?
    Chẳng phải do lời cảnh tỉnh của Tiên Liêu Chân Nhân mà chính bản thân Khuất Kỳ đã nghĩ như thế từ lâu rồi. Hồi giữa năm, Giả Gia Trang đã nhờ người đánh tiếng, dạm hỏi Thúy Lan cho Bạch Hổ, nhưng Khuất lão từ chối khéo.
    “Bất Hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”, trong ba tội bất hiếu thì không có con nối dõi là lớn nhất. Do vậy, Khuất lão vô cùng thất vọng khi không sinh được con trai. Ông lại là chỗ dựa cho dòng họ Khuất ở Hồ Nam, nếu để gia sản lọt vào tay người ngoài tộc thì cháu chắt Tam Lư đại phu có nhiều người khốn khổ.
    Khuất Kỳ đã quyết định gả Thúy Lan cho một trong những cháu ruột của mình. Có như thế thì mới bảo toàn được sự thịnh vượng của tông môn. Khổ thay, lũ con của hai em trai Khuất Kỳ đều là hạng lục lục thường tài, văn dốt võ nát, buôn bán thì từ lỗ đến sạch vốn. Hơn nữa, bọn chúng đều ích kỷ, keo kiệt, sau này chắc chỉ bo bo giữ của, chẳng nghĩ gì đến họ hàng xa gần. Nhưng dẫu sao thì cũng còn hơn có rể là người ngoài.
    Tuy không biểu lộ ra song trong sâu thẳm đáy lòng Khuất Kỳ vẫn tiềm tàng sự đố kỵ đối với nhà họ Giả. Đó là thói thường tình của con người, chẳng ai tránh khỏi. Ngoài việc hơn thua của bản thân, Khuất Kỳ còn nặng tự ái khi con cháu Giả Nghị giầu sang hơn con cháu Khuất Nguyên. Lão họ Giả chết tiệt kia đâu thể sánh với cụ Tổ Tam Lư đại phu Khuất Nguyên, người đã được cả nước Trung Hoa tưởng nhớ bằng ngày tết Đoan Ngọ?
    Vì những lý do kể trên mà giờ đây Đàm Châu đại hiệp từ chối Giả Bạch Hổ một cách khôn khéo:
    - Hiền điệt đã quyết chí thì lão phu đành phải chiều lòng ngươi, song việc hôn sự thì lão phu không dám hứa. Lan nhi tính tình ngang bướng, chẳng bao giờ nghe theo sự xếp đặt của lão phu. Do vậy, hiền diệt cứ việc trổ tài chinh phục, nếu Thúy Lan ưng thuận làm đâu họ Giả thì lão phu sẽ tác thành.
    Giả Bạch Hổ đẹp trai nhất phủ Hồ Nam, gia thế cự vạn, nên tự tin ràng sẽ chiếm được trái tim của Thúy Lan sau vài lần thăm viếng đàm đạo. Gã hoan hỉ nhận lời:
    - Cảm tạ đại thúc đã chỉ giáo con đường sáng! Tiểu điệt sẽ cố gắng để được lọt vào mắt xanh của Lan muội!
    - o O o -
    Lác đác có thêm khách ở xa đến muộn. Trong số đó có một đại nhân vật, vừa là bạn vừa là anh rể của Khuất trang chủ. Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Tuệ đến nơi lúc xẩm tối. Hồ lão thất nghiệp từ lúc Tư Đồ Xán thọ thương, tuyên bố từ chức.
    Cơ trí của Hồ Sĩ Tuệ lừng danh thiên hạ, ngang tài với Táo Gia Cát Bùi Thế Trực dù tuổi có nhỏ hơn. Bởi thế, sự hiện diện của ông khiến Khuất Kỳ rất phấn khởi.
    Trại Tôn Tử là quân sư của võ lâm nên rất nhiều người biết mặt. Cử tọa lục tục đứng lên thi lễ với lão. Hồ Sĩ Tuệ tươi cười đáp lễ và đảo mắt nhìn khắp lượt tìm ai đó.
    Lên đến bàn chủ vị, lão chào hỏi Giám Hải thiền sư và Đàm Vân Tử xong là thớ dài tỏ ra vô cùng thất vọng.
    Lúc này Giả Bạch Hổ đã về Giả Gia Trang tắm gội, hẹn cuối canh hai sẽ quay lại.
    Đàm Vân Tử thắc mắc:
    - Hồ thí chủ vì sao lại thở dài? Dường như lúc nãy ông tìm ai thì phải?
    Trại Tôn Tử gật đầu:
    - Đúng vậy! Lão phu đang tìm một gã tiều phu trẻ tuổi! Không có gã thì cục diện đêm nay khó vãn hồi!
    Đàm Vân Tử hiểu ý, cười khà khà bảo:
    - Lão thí chủ cứ yên tâm! Cái gã cầm rìu ấy đã đi khỏi nhưng chắc chắn lát nữa sẽ có mặt.
    Hồ lão thở phào nhẹ nhõm:
    - May thực! May thực! Lão phu tưởng cái nghề bói Dịch của mình vô dụng rồi chứ!
    Khuất lão hiếu kỳ hỏi:
    - Hỗ lão ca! Thế chẳng hay lại lịch chàng trai ấy thế nào? Và vì sao đêm nay không có y không được?
    Trại Tôn Tử liền kể lại việc Tư Đồ Xán bị bang chủ Hải Hoa Bang Giáp Vô Yên đánh trọng thươmg, phải từ chức rồi sau đó Thần Phủ Lang Quân đả bại họ Giáp.
    Đoạn này ông không hạ giọng nên cử tọa đều nghe rõ, vô cùng thán phục Lý Thu.
    Hồ lão nói tiếp, chỉ thì thầm đủ cho ba người cùng bàn tiếp thu:
    - Sau khi bàn giao xong Tổng đàn võ lâm cho Thiếu Lâm tự trông coi, lão phu vừa nghĩ đến việc xuôi Nam thăm Khuất Gia Trang thì nghe lòng máy động, bồi hồi một cách kỳ lạ! Lão phu liền bói thử một quẻ và biết rằng Khuất Gia Trang đang lâm đại họa. Đêm đến, lão phu chiêm nghiệm thiên văn, phát hiện hung tinh kiếp sát và chính tinh thiên phủ cùng ở hướng Nam. Chợt nhớ đến Lý Thu, lão phu khá yên tâm song vẫn hồi hộp, vẫn hồi hộp. Vội kiêm trình ngày đêm để đến đây, nửa đường thì nghe đồn đại về việc Quỷ Ảnh Hội muốn cướp Tỵ Hỏa Châu của nhà họ Khuất.
    Lão dừng lời, nhấp hớp trà rồi tiếp nối:
    - Lão phu bèn bói thêm một quẻ để xem hung kiết thì thấy tượng quẻ hôn ám, khó hiểu, đầy máu và quỷ khí. Nghĩa là đêm nay Quỷ Ảnh Hội sẽ đưa đến đây những tay cao thủ hạng nhất, bằng mọi giá cướp cho được Tỵ Hoả Châu.
    Kể xong, Hồ Sĩ Tuệ tưởng ba người kia sẽ lo âu, ngờ đâu họ vẫn thản nhiên. Và Đàm Vân Tử ỉm cười:
    - Hồ lão thí chủ cứ an lòng, nơi nào có mặt Ly Giang Tiên Ông thì tà ma chẳng thể lộng hành được.
    Trại Tôn Tử mừng rỡ:
    - Té ra lão già bất tử ấy cũng đã đến đây ư? Thế thì lão phu chẳng phải lo nữa rồi!
    Khuất Kỳ nói trước:
    - Đúng vậy! Giờ thì lão ca cứ an lòng vào hậu sảnh tắm gội, dùng cơm. Tiện nội và Lan nhi sẽ rất mừng khi được gặp lão ca.
    Trại Tôn Tử cười hỏi lại:
    - À! Con bé Thúy Lan giờ thế nào, có còn gầy đét như ba năm trước không?
    Khuất Kỳ nhăn mặt đáp:
    - Lan nhi đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp, song tính tình ngang ngược, tinh nghịch đến mức tiểu đệ nhức cả đầu. Nhân dịp này mong lão ca dạy dỗ ả vài lời, Thúy Lan chỉ phục mình đại cửu phụ mà thôi.
    Hồ Sĩ Tuệ cười khanh khách bỏ vào trong. Ba khắc sau, lão đã quay lại, sắc mặt rất trầm trọng và nói ngay:
    - Lan nhi vừa kể cho lão phu nghe việc Giả Bạch Hổ xin tham chiến và đòi cưới nó. Điếu này ứng với giấc mộng đêm qua của lão phu. Trong mơ, lão phu thấy một con cáo trắng ngậm viên Tỵ Hỏa Châu đứng giữa cảnh điêu tàn đổ nát của Khuất Gia Trang. Hắn ta đâu rồi?
    Khuất Kỳ cau này thở dài:
    - Cuối canh hai sẽ hiện diện. Lúc đó phiền lão ca quan sát tướng mạo, tìm hiểu xem tâm địa gã thế nào? Tuy hai nhà Giả - Khuất khá thân thiết song tiểu đệ không có cảm tình với gã.
    Giám Hải thiền sư bỗng hỏi:
    - Hỗ lão thí chủ có biết vì sao Quỷ Ảnh Hội lại quyết tâm chiếm đoạt Tỵ Hỏa Châu hay không?
    Trại Tôn Tử trầm ngâm đáp:
    - Tỵ Hỏa Châu tuy hiếm có trên đời song cũng chỉ là vật vô dụng vi chẳng ai dại gì đâm đầu vào lửa đỏ. Nghĩ mãi không ra, lão phu bèn tra lại cổ thư và phát hiện một điều là Ty Hỏa Châu, vật chí âm của trời đất, có thể giúp người ta luyện thành Ngưng Huyết Huyền Băng thần công. Vậy phải chăng hội chủ Quỷ Ảnh Hội đã tìm được bí kíp của tuyệt học thất truyền kia nên mới cần Tỵ Hỏa Châu?
    Trụ trì chùa Kỳ Viên nghiêm giọng:
    - Chỉ mong chẳng phải như thế, nếu không thì thiên hạ đại loạn. Bẩy mươi năm trước Huyền Băng Thần Quân Lương Túc Thoại đã từng dùng thứ Quỷ chưởng ấy mà giết chóc, khống chế các phái Trung Nguyên. May thay, cuối cùng thì một vị kỳ nhân ẩn danh đã nuốt Tỵ Hàn Châu mà giết được họ Thương.
    Đàm Vân Tử thắc mắc:
    - Vậy chẳng lẽ Tỵ Hỏa Châu có đến hai viên?
    Trại Tôn Tử gật đầu:
    - Đúng thế! Viên thứ nhất đã bị Huyền Băng Thần Quân dung hoá thành chân khí, viên thứ hai này do Tổ phụ nhà họ Khuất tình cờ mua được đã bốn đời.
    Đàm Vân Tử thản nhiên bảo:
    - Nếu đúng vậy thì chúng ta cứ hủy hoại Tỵ Hỏa Châu để tránh tai họa cho võ lâm.
    Khuất Kỳ khổ sở đáp:
    - Không được! Thứ nhất là vì chúng ta không biết rõ có đúng là Quỷ Ảnh Hội chủ cần nó vì mục đích gì. Thứ hai là năm trước tiên mẫu ăn nhầm một con cá lạ, thân thể nóng ran, chân hỏa bốc lên phong bế tâm mạch, nên lúc nào cũng.phải đeo Tỵ Hỏa Châu, rời xa một ngày là mất mạng.
    Đàm Vân Tử bối rối nói:
    - Bần đạo không biết nội tình nên đã nói càn, mong Khuất lão thí chủ lượng thứ cho.
    Trại Tôn Tử xua tay:
    - Đấy chỉ là chuyện nhỏ, chuyện đáng nói là sau trận này Quỷ Ảnh Hội có chịu từ bỏ dã tâm hay không? Chẳng lẽ nhà họ Khuất phải dọn vào phủ đường mà ở?
    Ba người kia giật mình, biết lão nói không sai. Với lực lượng của Quỷ Ảnh Hội thì Khuất Gia Trang chẳng thể nào chống cự được nữa.
    Khuất Kỳ buồn bã nói:
    - Thực ra dù có được quân triều đình bảo vệ cũng không ngăn được nổi những cao thủ có thân pháp quỷ mị của phe đối phương. Mong Hồ lão ca bàn cho một diệu kế để Khuất Gia Trang khỏi tai ương này.
    Hồ Sĩ Tuệ gật gù:
    - Kế thì có nhưng lão phu muốn hỏi rằng ngoài hiền đệ và vợ con ra thì còn ai biết việc lão thái mang Tỵ Hỏa Châu trong người để trị bệnh không?
    Khuất Kỳ lắc đầu:
    - Bẩm không! Tiện nội đích thân chăm sóc gia mẫu nên bọn nô tỳ thân tín cũng chẳng rõ việc này. Vị đại phu chữa bệnh cho gia mẫu cũng đã từ trần hồi năm ngoái.
    Hồ Sĩ Tuệ hoan hỉ bàn:
    - Thế thì hay lắm! Cái kế giá họa Giang Đông của lão phu đã có chỗ dùng rồi!
    Lão bèn trình bày kế hoạch của mình. Nghe xong, Khuất Kỳ ngơ ngác:
    - Nhưng ai là người đủ tài phá vòng vây của Quỷ Ảnh Hội mà đào thoát chứ? Hơn nữa biết đâu y chẳng mang ngọc mà chuồn thẳng?
    Trại Tôn Tử mỉm cười:
    - Người ấy chính là Thần Phủ Lang Quân Lý Thu. Với bản lãnh của y thì chẳng ai có thể giữ chân hay đuổi kịp! Còn việc có đáng tin hay không thì hiền đệ cứ gả Thúy Lan cho y là xong. Lẽ nào con rể lại cướp ngọc của cha vợ? Vả lại lão phu nghe kể rằng y là người hào phóng, rộng lượng, dám tặng cho Lan nhi mười hai viên Hồng Bảo Ngọc trị giá ngàn vàng. Người như thế thì tham Tỵ Hỏa Châu làm quái gì?
    Khuất Kỳ băn khoăn:
    - Nhưng liệu Thúy Lan có chịu lấy Lý Thu hay không? Nó được Gia mẫu cưng chiều nên chẳng bao giờ nghe lời tiểu đệ.
    Hồ lão tủm tỉm cười:
    - Hiền đệ cứ yên tâm! Gã họ Lý đà lọt vào mắt xanh củia Thúc Lan rồi!
    Khuất Kỳ bâng khuâng:
    - Con bé này nông nổi thực! Chúng ta nào biết lai lịch, nhân phẩm của Lý Thu thế nào đâu?
    Đàm Vân Tử ngắt lời lão:
    - Việc ấy không đáng lo. Một kẻ đã được Ly Giang Tiên Ông chấm thì không thể tầm thường được. Bần đạo chỉ sợ một điều là sau này chàng rể nhà họ Khuất sẽ trở thành mục tiêu của Quỷ Ảnh Hội và không thể thoát chết. Cây búa đặc biệt của y đâu thể giấu ai được?
    Trại Tôn Tử tư lự:
    - Lão phu đã nghĩ đến điều ấy! Nhưng lão phu đã chứng kiến trận đấu giữa họ Lý với bang chủ Hải Hoa Bang Giáp Vô Yên và nhận ra rằng phủ pháp của y dường như thoát thai từ một pho kiếm pháp. Nghĩa là Lý Thu có thể sử dụng kiếm. Nếu đúng vậy thì họ Lý chỉ cần bịt mặt, cầm kiếm là không sợ bị nhận ra lai lịch.
    Đàm Vân Tử nghi hoặc:
    - Để biết chắc, bần đạo sẽ ra ngoài chờ đợi rồi đưa Ly Giang Tiên Ông và Lý Thu vào cửa hông, đến thẳng thư phòng ở hậu viện. Tam vị hãy xuống đấy chờ đợi và không được để ai biết chuyện này.
    Hố lão tán thành:
    - Đạo trưởng quả là cao kiến, bọn ta xin tuân lệnh.
    Khuất Kỳ hiểu ý, giả vờ cao giọng mời ba vị thượng khách vào vấn an Khuất lão thái.
    Quần hào ở dưới chẳng hề hay biết, kể cả nội gián của Quỷ Ảnh Hội, nếu có, và thực ra chắc chắn là có, vì đối phương chẳng dại gì mà không cài người vào dò xét động tĩnh Khuất Gia Trang. Thủ đoạn ấy luôn được bọn tà ma sử dụng.
    Đàm Vân Tử lén đi lối cửa hông ở mé tường hướng Đông, luồn ra phía trước gia trang mà chờ đợi. Quả nhiên, khoảng gần cuối canh hai thì gặp thầy trò Tư Đồ Sảng đi đến.
    Đàm Vận Từ nhảy ra chặn đường cung kính nói:
    - Tiểu điệt Đàm Vân Tử xin bái kiến sư thúc!
    Tiên Liêu Chân Nhân cười bảo:
    - Té ra là ngươi vẫn chưa quên bần đạo. Sư phụ ngươi có khỏe không?
    Đàm Vân Tử buồn rầu đáp:
    - Gia sư đã thăng thiên hồi giữa năm ngoái.
    Tiên Liêu Chân Nhân không nói lời chia buồn mà cười khánh khách:
    - Không ngờ Thanh Liên Tử lại nóng ruột thành tiên hơn bần đạo. Cũng mừng cho lão ta, à! Ngươi đón bần đạo vì việc gì?
    Đàm Vân Tử vội nói:
    - Chuyện rất dài dòng, không thể nói ở đây được. Mời sư thúc và Lý thí chủ đi theo lối cửa hông, vào hậu viện để thương lượng. Chỉ lát sau, ba người đã có mặt tại thư phòng ở giữa vườn hoa nhỏ, sau dãy phòng ngủ cửa gia đình chủ nhân.
    Ngoài Khuất Kỳ, Trại Tôn Tử và Giám Hải thiền sư còn có Khuất phu nhân và Thúy Lan cô nương. Khuất phu nhân muốn biết mặt rể quý nên mò đến. Phần Thúy Lan thì không rõ ý định của cha và cậu nên thản nhiên đi theo mẹ.
    Sau nghi lễ chào hỏi, Trại Tôn Tử trình bày tỏ tường mọi việc, từ cục diện hiểm nghèo đến cái kế gia họa Giang Đông của mình.
    Tiên Liêu Chân Nhân cười mát:
    - Chẳng lẽ Khuất thí chủ không sợ đồ đệ của lão phu cuỗm của quí chạy mất hay sao? Bần đạo mới thu nhận được vài canh giờ nên không thể bảo đảm rằng y tốt hay xấu được.
    Đàm Vân Tử hân hoan nói với Lý Thu:
    - Bần đạo xin chức mừng Lý thí chủ! Ngươi được trở thành học trò của Ly Giang Tiên Ông là một diễm phúc mà cả thiên hạ khát khao. Theo bối phận, ngươi phải gọi ta là sư huynh. Tiên Ông và gia sư vốn là bằng hữu chí thân.
    Tư Đồ Sảng sững người không ngờ Tiên Liêu Chân Nhân lại chính thị bậc dị nhân mà võ lâm vẫn truyền tụng. Ly Giang Tiên Ông thâm giao với sư tổ chàng là Du Long Chân Nhân. Cha chàng từng kể rằng Tiên Ông nhiều lần đến chơi núi Cổ Sơn, cùng Du Long Chân Nhân đánh cờ và bàn về đạo lớn.
    May mà Tư Đồ Quát đã qua đời, nếu không thì sẽ gọi con trai mình bằng sư huynh.
    Nhắc lại, Khuất Kỳ bèn lẽn trả lời Tiên Ông:
    - Vãn bối chẳng dám nghĩ vậy.
    Trại Tôn Tử cười khà khà hởi Tư Đồ Sảng:
    - Này Lý công tử! Lão phu muốn đứng ra làm mai con bé Thúy Lan này cho ngươi, chẳng hay bậc anh hùng nghĩ sao?
    Cả Tư Đồ Sảng lẫn Khuất Thúy Lan đều thẹn đỏ mặt, lúng ta lúng túng chẳng nói nên lời. Cuối cùng, Thúy Lan phụng phịu trách móc:
    - Đại cửu phụ kỳ quá! Diệt nữ không lấy chồng đâu!
    Rồi nàng bỏ chạy khỏi thư phòng, hấp tấp như bị ma đuổi.
    Ly Giang Tiên Ông cau mặt báo:
    - Cuộc đời của đồ đệ bần đạo rất sóng gió, gặp nhiều kiếp nạn, sinh tử khó lường. Vì vậy, việc hôn sự khoan hãy bàn đến. Ba năm sau, nếu y còn sống mà Khuất Gia Trang vẫn không đổi ý thì lương duyên sẽ vẹn toàn.
    Vợ chồng họ Khuất và Trại Tôn Tử nghe thế cũng nản, chẳng tha thiết gả con cho Lý Thu nữa.
    Vả lại Lý Thu đã là đệ tử của thiên hạ đệ nhất kỳ nhân là Ly Giang Tiên Ông thì hoàn toàn có thể tin tưởng được, chẳng phái sợ gã cướp Tỵ Hỏa Châu chuồn thẳng.
    Trại Tôn Tử ấp úng hỏi:
    - Bẩm Tiên Ông! Chẳng hay lệnh đồ có sử dụng kiếm được không?
    Tiên Liêu Chân Nhân cười xòa:
    - Được chứ! Bần đạo mới dạy y ba chiêu, dư sức để dùng!
    Kế hoạch được triển khai, Tư Đồ Sảng trùm kín đầu bằng túi vải trắng, chỉ chừa hai lỗ mắt mà thôi.
    Đang chịu tang song thân nên Tư Đồ Sảng tránh những mầu sặc sỡ, chỉ mặc hai thứ y phục trắng hoặc đen. Giờ đây chàng như bóng ma trắng toát, dễ dàng hòa lẫn với cây cối trong một đêm Đông đầy tuyết.
    Khuất trang chủ đưa Tư Đồ Sảng ra vườn hoa lớn, bảo chàng nhẩy lên một cây bách cao cành lá um tùm. Bách là loài cây thân gỗ lớn thường xanh nên trong lúc lũ thông đồng tiền trơ trụi thì nó vẫn còn rậm rạp. Cây bách già nua này cao đến chín mười trượng. Tư Đồ Sảng liến chọn một cành cách mặt đất bốn trượng. Cành ấy lớn cỡ bằng bắp đùi, thừa sức chịu đựng trọng lượng cơ thể của chàng.
    Ngày còn nhỏ dại, bắt đầu luyện khinh công, Tư Đồ Sảng từng ngây thơ hỏi cha:
    - Phụ thân à! Hài nhi nghe mẫu thân kể rằng những đại cao thủ trong nghề võ có thể đứng trên ngọn trúc nhỏ mà không thể làm cho nó gẫy được! Phụ thân có đạt đến mức ấy không?
    Tư Đồ Quát đã phì cười:
    - Mẹ ngươi kể chuyện thần tiên chứ chẳng phải chuyện võ công đâu! Con người luôn gắn liền với mặt đất, nhờ khổ luyện nhiều năm, đôi chân ngày càng rắn chắc, mạnh mẽ nên mới có thể nhẩy cao hoặc chạy nhanh như vó ngựa.Tuy nhiên, khinh công chẳng thể làm giảm trọng lượng của thân xác nên lúc nào cũng cần một lực nâng tương xứng. Kẻ đứng được trên cành trúc nhỏ chỉ có thể là ma hoặc thần tiên.
    Tư Đồ Sảng nhớ lại cố sự ấy, một thoáng điểm nụ cười. Song mắt lại nhuốm bi thương. Chàng đã mãi mãi mắt đi người cha thân yêu và cũng là người thầy tận tụy. Ông luôn sẵn sàng giải đáp thắc mắc của con trai, dù là điều ngớ ngẩn nhất.
    Hai khắc sau, Đàm Vận Tử chạy ra, nhẩy lên cây và dặn dò:
    - Lý sư đệ! Giả Bạnh Hồ vừa dẫn đến một lão già áo cừu đen, sử dụng loan đao, để bổ sung cho nhóm năm người sẽ xuất trận. Sư phụ ngươi, Ly Giang Tiên Ông đã nhận ra lão ta là Lan Thương Tuyệt Mệnh Đao Lưu Xuyên, ác nhân khét tiếng đất Vân Nam. Tiên Ông bảo rằng sư đệ có thể nhân dịp này giết hoặc đả thương lão ta, trước là trừ hại cho bách tính, sau là tạo sự tin tưởng cho Quỷ Ảnh Hội. Nếu ngươi cướp ngọc mà không lấy máu người của Khuất Gia Trang thì đối phương sẽ nghi ngờ...
    Tư Đồ Sảng liền hứa sẽ tuân mệnh, tùy nghi sẽ xử trí. Đàm Vân Tử đi rồi, chàng bâng khuâng suy nghĩ:
    - “Lạ thực! Gã Giả Bạch Hổ này là con nhà đại phú, vì sao lại chiêu mộ toàn những ác nhân như thế nhỉ?”.
    Gío Bắc rít lên từng hồi khua động cành lá và làm rét mướt kẻ đang phơi mình trong làn mưa tuyết. Ban đêm, mặt trời đi ngủ nên độ ẩm cao, tuyết rơi dầy hơn ban ngày. Tư Đồ Sảng khép kín vạt áo lông cừu trắng, chợt nhớ đến hai gương mặt ma chê quỷ hờn của Lăng Phi Tuyết và Lăng Phi Hồng. Chàng biết họ xấu hơn Thúy Lan trăm lần nhưng không hiểu sao ánh mắt, nụ cười ấy lại quyến rũ lạ lùng!
    Có mẽ đã gần cuối giờ Hợi nên tiếng chân người rộn rã và ánh đèn đuốc rực sáng vườn hoa. Khuất Kỳ cùng một số hào kiệt đã kéo ra nghênh chiến. Số còn lại cùng với bọn gia nhân của Khuất Gia phòng thủ chặt chẽ những nơi quan trọng, đề phòng kẻ địch không giữ quy củ mà lấy thịt đè người. Tuy bao năm nay Quỷ Ảnh Hội vẫn thực thi việc so tài đoạt bảo, song biết đâu lần này họ giở quẻ?
    Hoặc giả họ giả vờ đòi Tỵ Hoả Châu song lại nhắm vào kho vàng bạc của Khuất Gia Trang?
    Số người hiện diện ở vườn hoa vào khoảng bốn mươi, toàn là những tay kiệt xuất nhưng không có Tiên Liêu Chân nhân tức Ly Giang Tiên Ông.
    Tư Đồ Sảng chú ý đến người mặc áo cừu đen đứng cạnh Giả Bạch Hổ đoán rằng đấy là Lan Thương Tuyệt Mệnh Đao Lưu Xuyên.(Lan Thương Giang là tên của đoạn sông Mê Công chảy trên đất Trung Hoa).
    Dưới ánh đuốc chập chờn vì ngọn đông phong, gương mặt của họ Lưu hiền hòa, đẹp lão, chẳng hề có một nét gì là người gian ác.
    Nhưng Tư Đồ Sảng đã được cha kể sơ về ác tích của Lưu Xuyên, một kẻ mặt người lòng thú, chẳng tội ác nào không dám làm. Chàng quyết định trừng trị lão, hoàn thành tâm nguyện của phụ thân.
    Tư Đồ Quát đã nung đúc trong tâm hồn con trai hình tượng chàng hiệp khách tài ba, nhân hậu, luôn xả thân trừ gian diệt bạo. Và khi ông nhắc đến kẻ hung ác nào trong võ lâm thì cùng đều biếu lộ sự căm ghét! Muốn hắn biến mất khỏi thế gian, để lương dân đỡ lầm than. Tư Đồ Quát thừa lòng hào hiệp nhưng bản lãnh có hạn nên đã phải làm ngơ trước sự hoành hành của lũ hung cuồng. Biết con trai thần lực hơn người, pho Giáng Ma Phủ Pháp lại là tuyệt học hiếm có, Tư Đồ Quát bèn nuôi mộng rằng con mình sẽ trở thành bậc đại hiệp danh lưu muôn thuở, thực hiện được những điều mà ông bất lực.
    Dòng hồi tưởng của Tư Đổ Sảng bị cắt đứt vì ánh mắt chàng chạm phải luồng hào quang xanh biếc của viên Tỵ Hỏa Châu.
    Khuất trang chủ đã mở hộp nhỏ chứa ngọc và đặt lên mặt chiếc bàn đá giữa hoa viên, nơi ông thường cùng vợ con thưởng nguyệt những đêm xuân.Cạnh hộp ngọc là rương gỗ đựng hai chục đĩnh vàng, mỗi đĩnh năm chục lượng.
    Xung quanh bàn là tám chiếc đôn bằng đá vân thạch đại lý, chân được chôn cố định xuống nền đất.
    Tư Đồ Sảng hài lòng vì biết mình đủ sức nhẩy xuống vị trí ấy dễ dàng. Chàng nheo mắt ngắm nghía viên ngọc xanh to bằng hạt nhãn đang tỏa sáng dưới ánh đuốc, tự hỏi rằng có đúng là nó thần điệu đến mức giúp người ta bước đi trong lửa đỏ hay không?
    Theo đúng kế hoạch, Đàm Vân Tử đã cắm hàng chục cây đuốc dầu mỏ có cán dài quanh bàn. Chúng sẽ làm vướng chân người ở ngoài xông vào chứ không ngăn cản kẻ từ trên cao nhẩy xuống. Điều này sẽ tạo thuận lợi cho Tư Đồ Sảng, bảo đảm rằng chàng có thể chụp được hộp gỗ trước khi có người lao đến, dù ở phe nào cũng vậy.
    Chiếc bàn đã nằm ở hướng Đông gốc bách và Tư Đồ Sảng sẽ thoát đi bằng hướng ấy nên Đàm Vân Tử đã bố trí Lan Thương Tuyệt Mệnh Đao Lưu Xuyên đứng chặn. Lưu Xuyên sẽ phải đền tội và làm vật hy sinh cho kế Giá Họa Giang Đông.
    Kế này của bọn mưu sĩ thời Đông Chu, vốn có tên là Di Thi Giá Họa. Sau này, đến thời Tam Quốc, Lữ Mông của Đông Ngô giết Quan Vân Trường xong bèn gửi xác nạn nhân cho Tào Tháo để đổi hướng cơn giận dữ của Lưu Bị Từ đó, kế Di Thi Giá Họa thường được gọi là Giá Họa Giang Đông.
    Nhắc lại, năm cao thủ của Khuất Gia Trang vừa bố trí xung quanh chiếc bàn đá xong thì phe đối phương xuất hiện. Bọn Quỷ Ảnh Hội vượt tường vây vào đến nơi mà không hề bị ai cản trở cả. Tuy họ chỉ có tám người song nhắc chắn ngoài kia có cả một lực lượng hùng hậu để đề phòng chủ nhà chơi trò ỷ chúng hiếp cô.
    Tám người này toàn thân hắc y, đầu trùm kín bằng túi vải, áo cừu cũng đen mun. Họ đứng thành hình cánh cung, tay nắm chặt chuôi đao.
    Người ở giữa có thân hình cao gầy, có lẽ là đầu lĩnh của cả bọn nên lên tiếng:
    - Khuất trang chủ! Lần này bổn Hội cử đi toàn những cao thủ hạng nhất, hơn hẳn những người đã từng giết Lư Sơn Ngũ Hiệp ở Giang Tây. Vì vậy, tốt nhất là ông nên dâng nạp ngay Tỵ Hỏa Châu để khỏi bị chết oan.
    Nghe vậy, Khuất Kỳ thực sự bị chấn động song cho rằng cuộc chiến sẽ không kéo dài nên chẳng sợ hãi. Ông nghiêm nghị đáp:
    - Cảm tạ túc hạ đã cảnh báo! Nhưng Khuất mỗ cũng có chút thanh danh trên giang hồ, chẳng thể ngoan ngoãn để mất bảo vật tổ truyền mà không chống cự. Túc hạ cứ việc cử ra, năm người của mình đúng như quy củ.
    Người kia bật cười ghê rợn:
    Bổn tọa đã mở ra sinh lộ nào ngờ ngươi lại ngu muội, cố chấp liều chết bởi chút hư danh. Giờ thì ngươi có chết cũng là đáng lắm!
    Nghe cách xưng hô, Khuất Kỳ hiểu ngáy rằng hội chủ Quỷ Ảnh Hội đã đích thân xuất trận. Có lẽ viên Ty Hỏa Châu cực kỳ quan trọng nên lão ta đã không thể yên tâm giao cho thủ hạ hành động.
    Hội chủ Quỷ Ảnh Hội đã cùng bốn gã hắc y nữa lướt đến, chia nhau tấn công phòng tuyến quanh bàn đá. Tất nhiên lão ta chọn Đàm Châu đại hiệp Khuất Kỳ làm đối thủ.
    Thanh đao của lão ta rạng ngời ánh thép xanh lè, chứng tỏ là của quý. Tư Đồ Sảng sững sờ nhận ra rằng đường đao của Quỷ Ảnh Hội chủ còn nhanh hơn Giáng Ma Phủ. Đao ảnh nối nhau thành một dải lụa xanh sáng, bay lượn cuồng loạn song chiêu thc cực kỳ hiểm ác, phong tỏa hoàn toàn trường liếm của Khuất Kỳ.
    Tuy nhiên, Đàm Châu đại hiệp là kẻ có thực tài, bản lãnh đứng đầu phủ Hồ Nam, nên không dễ bị thua ngay. Ông nghiến răng chống cự rất kiên cường, đường gươm kín đáo, thận mật, thỉnh thoảng mới công một đòn chớp nhoáng.
    Ỷ vào Tư Đồ Sảng nên Khuất Kỳ không cần phải để dành sức lực cho cuộc chiến lâu dài. Ông dồn toàn lực ngay những phút đầu tiên, cố bảo toàn tính mạng cho đến lúc kỳ tích xuất hiện. Ông cũng như chú rùa yếu đuối rút vào lớp mai cứng rắn, khiến hổ báo khó mà giết ngay được.
    Mặt trận của bốn người kia cũng thế nhưng họ không phải vất vả như Khuất Kỳ. Võ nghệ của bọn thủ hạ tất nhiên phải kém chủ tướng vài bậc.
    Giám Hải thiền sư là bậc cao tăng, vì tình nghĩa với họ Khuất mà tham chiến chứ không hề muốn giết người. Nay đã có kế Di Thi Giá Họa, thiền sư chỉ mong thủ hòa, giữ vững phòng tuyến mà thôi. Phép đánh thiền trượng của Thiếu Lâm Tự lừng danh thiên hạ nên khi Giám Hải đã cố thủ thì đối phương chỉ còn cách chờn vờn ở ngoài tầm trượng, lão hắc y kia nhiều lần thi triển thân pháp ập vào song đều phải dội ra.
    Đàm Vân Tử thì nhanh hơn đối thủ của mình một chút, ung dung đối phó bằng đấu pháp Dĩ Tịnh Chế Động, không rời khỏi vị trí. Chẳng còn cá cược với ai nên Giả Bạch Hổ không phái thực hiện việc đả thương kẻ địch trong vòng mười chiêu. Gã điềm nhiên cự địch bằng một loại kiếm pháp rất ảo diệu và nhanh nhẹn. Bốn hắc y nhân, thủ hạ của Quỷ Ảnh Hội chủ, chắc chắn đều là hạng lão thành, có công lực thâm hậu, thế mà, Bạch Hổ vẫn ngang nhiên va chạm vũ khí thì chân nguyên của gã không thể kém.
    Lan Thương Tuyệt Mệnh Đao Lưu Xuyên cũng bình thủ với lão hắc y thứ tư biểu hiện một bản lãnh khá cao siêu.
    Thẹo kế hoạch thì Tư Đồ Sảng phải chờ trận đấu diễn ra chừng nửa khắc rồi mới nhẩy xuống, nhưng không ngờ Quỷ Ảnh Hội chủ lại đích thân đấu với Khuất trang chủ. Lão ta nổi giận vì không giết được Khuất Kỳ, ngay trong năm chục chiêu đầu, nên đã ra đòn thủ mạng.
    Thanh bảo đao của lão rít lên như xé lụa, đao kình thổi vù vù mang theo hơi thép lạnh rợn người. Và luồng đao quang xanh sáng ấy hung hãn công phá, làm cho trường kiếm của Khuất Kỳ rung lên bần bật. Không những thế, Đàm Châu đại hiệp còn bị rách hổ khẩu và bị đẩy lùi về phía sau. Nhận ra rằng Khuất lão sắp lâm nguy, Tư Đồ Sảng vội tung mình đáp xuống bàn đá, thò tả thủ chụp lấy hộp ngọc, nhét cả vào ngực áo. Ba gã Quỷ Ảnh Hội đang đứng quan chiến vì rảnh rang nên sớm quát tháo:
    - Có kẻ cướp ngọc!
    Và họ bước đến để ngăn chặn.
    Theo đúng kế hoạch thì Tư Đồ Sảng đâm vào lưng Lan Thương Tuyệt Mệnh Đao rồi tung mình qua đầu đối thủ của Lưu Xuyên mà đào tẩu. Nhưng lúc này chàng lại không thể làm như thế vì Khuất Kỳ đã trúng một đao, nhẩy ngược về phía sau đến tận chỗ cây đuốc dài, thân hình lảo đảo gục ngã. Và bang chủ Quỷ Ảnh Hội thì đang xấn đến định lấy mạng họ Khuất.
    Tư Đồ Sảng kinh hãi vung cước hất nương vàng vào mặt Quỷ Ảnh Hội chủ, đồng thời chàng vọt theo, dồn toàn lực vào chiêu “Hắc Vân Áp Đỉnh”. Các chiêu trong hai pho Giáng Ma kiếm pháp và Phủ pháp đều trùng tên, chỉ khác ở thế thức.
    Trường kiếm của Tư Đồ Sảng giăng mắc muôn ngàn kiếm ảnh tựa đám mây u ám chụp xuống đầu kẻ địch. Là kiếm pháp nên chiêu kiếm gồm nhiều thức đâm và tốc độ nhanh hơn búa bội phần.
    Có thể chiêu kiếm này không dọa khiếp nổi một đại cao thủ như Quỷ Ảnh ội chủ nhưng Tư Đồ Sảng đã có rương vàng hỗ trợ.
    Một ngàn lượng vị chi là hơn sáu mươi hai cân, một trọng lượng đáng kể đủ để làm chậm đường đao của Quỷ Ảnh Hội chủ.
    Đuốc quanh bàn đã bị gió bấc và kình phong của cuộc chiến chung quanh thổi tắt gần hết, tuyết lại rơi mù mịt khiến không gian nhá nhem và làm cho Quỷ Ảnh Hội chủ không nhìn rõ cái vật đang bay đến. Lão chỉ còn cách dùng đao ngăn chặn, chém nát chiếc rương.
    Lão tưởng gã bạch y kia lấy được của báu rồi thì sẽ chuồn ngay bằng hướng khác, chẳng dại gì chạm trán với lão ta cũng như ba vị hộ pháp đang chạy đến. Nào ngờ, bạch y nhân lại liều lĩnh nhẩy xuống tấn công, không chịu lấy thảm cảnh của Đàm Châu đại hiệp mà làm gương.
    Quỷ Ảnh Hội chủ thần tốc biến chiêu, đao quang rực rỡ, tạo thành chiếc lọng thép để đón chào kẻ địch. Dĩ nhiên lão không thể tập trung đầy đủ công lực như lúc đối phó với rương vàng.
    Nhờ vậy mà Tư Đồ Sảng có được chút ưu thế. Đao kiếm chạm nhau, Quỷ Ảnh Hội chủ chợt phát hiện chiêu kiếm của đối phượng cực kỳ ảo diệu, mãnh liệt và chứa đầy sát cơ trong những nhát điểm nhanh tựa mưa rào. Lão vừa đảo bộ thoái lui thì bị một mũi kiếm như tia chớp xuyên qua lưới đao, đâm vào ngực phải. Quỷ Ảnh Hội chủ vội vung tả thủ vỗ vào bản của thanh trường kiếm để đánh bạt đi. Do đó, mũi kiếm chỉ có thể đâm sâu độ hai lóng tay, và rạch đứt một đường dài khoảng gần gang trên ngực cũng như bắp tay phải của lão ta.
    Diệu dụng của bàn tay tả là như vậy cho nên, các võ sĩ thường bắt kiếm ấn để phòng thủ ngực bụng chứ không cần vỏ đao hay vỏ kiếm.
    Các loại bao của vũ khí đều được làm bằng đồng mỏng, không thể nào chống đỡ với những nhát chém mãnh liệt của những thanh đao, hoặc kiếm bằng thép tốt. Vả lại, vỏ bao vốn trống rỗng nên yếu đuối, dù bằng thép cũng vô dụng.
    Các thức đâm của đao hoặc kiếm đều ở tư thế xoay dọc lưỡi nên bàn tay thịt có thể chạm vào mà không sợ tổn thương. Nhất là khi nó được dồn đầy chân khí.
    Nhắc lại, Tư Đồ Sảng đả thương Quỷ Ảnh Hội chủ, đẩy lão lùi xa Khuất trang chủ xong, liền. lao vút về hướng Đông mà đào tẩu. Sinh mạng cua Khuất lão chẳng còn đáng ngại vì Pháp Hải thiền sư và Đàm Vân Tử đã đánh văng kẻ địch của họ, nhảy đến che chắn cho ông ta!
    Hơn nữa, Quỷ Ảnh Hội chủ không còn chú ý đến Đàm Châu đại hiệp mà điên cuồng đuổi theo chàng! Bảy kẻ thủ hạ của Quỷ Ảnh Hội chủ cũng vậy!
    Đàm Vân Tử thì quát vang:
    - Chặn gã Bạch y lại!
    Giả Bạch Hổ và Lưu Xuyên vội lao đi vì họ hoàn toàn không biết gì về kế giá họa Giang Đông.
    Từ chỗ bàn đá đến chân tường vây hướng Đông chỉ có bọn hào khách của Khuất gia trang nhưng không nhiều. Họ xông vào chặn đường Tư Đồ Sảng nhưng đều bị văng ra khi chạm phải luồng kiếm quang kiên cố quanh người chàng!
    Khi đến gần tường vây, Tư Đồ Sảng chạm mặt Tổng Quản Khuất gia trang là Tề Thái Thông. Tề lão vốn là bái đệ của Khuất Kỳ, trước đây từng phò tá họ Khuất xây dựng cơ nghiệp.
    Lão không có danh tiếng gì song thực ra kiếm pháp chỉ kém Khuất Kỳ một bậc.
    Tề Thái Thông quát mắng từ xa:
    - Cẩu tặc đừng mong trốn thoát! Rồi lão hung hăng xông đến, tấn công kẻ cướp ngọc bằng một chiêu vô cùng mãnh liệt. Than ôi! Chỉ sau vài tiếng thép va chạm, Tề lão đã rú lên đau đớn vì ngực phải bắn máu hồng.
    Bạch y nhân chẳng hề bị chậm bước, nhảy tót lên đầu tường vây, rơi xuống bên ngoài và ung dung lướt nhanh vào màn đêm mù mịt tuyết sương!
    Gã không bị ai chặn lại vì tám tên Quỷ Ảnh Hội canh gác mé này đều bị mê man bởi một loại mê dược đáng sợ nào đó.
    Khinh công của gã Bạch y quả là đáng khâm phục, chỉ thoáng cái đã biệt tăm. Quỷ Ảnh Hội chủ bị thương nên không tiện truy đuổi đến cùng, hậm hực bỏ đi!

  7. #7
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 5 - KHUẤT GIA VÔ QUÍ TẾ, THIÊN SƯ HỮU KỲ HOA
    Trưa hôm sau thầy trò Tư Đồ Sảng rời một căn nông xá cách Khuất gia trang sáu dặm. Họ không trở vào thành Trường Sa mà đi đường nhỏ để xuôi Nam. Ly Giang Tiên Ông đưa đồ đệ đến một tòa đạo am của người quen ở chân núi Hành Sơn. Tại nơi này, Tiên Ông tận tâm dạy dỗ Tư Đồ Sảng, đưa chàng vào cảnh giới của kiếm đạo. Đến cuối tháng tư năm sau. thì Tư Đồ Sảng tiếp thu trọn vẹn tinh túy của nghề đánh kiếm. Đấy là nhờ chàng có sẵn công lực thâm hậu và căn cơ võ học bẩm sinh, kiếm đạo cần cả sự giác ngộ chứ không phải chỉ thời gian! Có những kẻ luyện kiếm năm mươi năm mà vẫn không sao đạt đến cảnh giới kiếm đạo.
    Phủ pháp của Tư Đồ Sảng cũng tăng tiến hơn xưa, có thể tùy nghi biến hóa từ bất cứ chiêu kiếm nào. Chàng còn học được thêm pho Huyền Nguyên Kiếm Pháp, tâm huyết một đời của Ly Giang Tiên Ông!
    Vài ngày sau, Tiên Ông nhập định rồi tọa hóa, trên môi còn nở nụ cười mãn nguyện! Tư Đồ Sảng khóc lóc thảm thiết khi lại phải mất đi người thân duy nhất.
    Tuy thời gian gần gũi chỉ bốn tháng nhưng chàng đặc biệt kính yêu vị sư phụ có cốt cách thần tiên này!
    Pháp thể của ông được đặt tạm vào một động nhỏ trên núi Hành Sơn, cách đạo am không xa. Trụ trì của am là Vô Lự Chân Nhân, bằng hữu của Tiên Ông, đã tiến hành mai táng theo nghi lễ của Đạo Giáo! Chân Nhân và Tiên Ông đều là người của Thiên Sư Giáo!
    Tư Đồ Sảng mặc hiếu phục, một lần nữa vấn khăn tang! Lòng chàng buồn vời vợi, khóc thầy và khóc cả cho cha mẹ!
    Sáng mùng sáu tháng năm, Tư Đồ Sảng rời núi Hành Sơn trở lại Trường Sa! Được vài dặm, chàng ngoái đầu nhìn lại, ngắm dãy núi bảy mươi hai ngọn của rặng Nam Nhạc hùng vĩ, thầm hẹn sang năm sẽ trở lại đưa pháp thể của sư phụ về Quế Lâm.
    Theo lời dặn dò của Tiên Ông, Tư Đồ Sảng tìm đến Khuất gia trang! Bọn gia nhân chẳng niềm nở vì cho rằng Thần Phủ Lang Quân là gã chết nhát, bỏ mặc Khuất gia trang trong cơn hoạn nạn!
    Nghe bẩm báo, Khuất Trang chủ vô cùng mừng rỡ, lật đật ra đón khách. Lão cười ha hả, ôm chầm lấy Lý Thu trước sừ ngỡ ngàng của bọn gác cổng:
    - Hảo hiền diệt! Mấy tháng nay ngươi đi đâu mất biệt khiển lão phu trông đứng trông ngồi? Cả con bé Thúy Lan cứ nhắc ngươi mãi! À! Sao Tiên Ông không cùng đi?
    Tư Đồ Sảng buồn rầu đáp:
    - Gia sư đã thăng thiên rồi! Nhưng xin Trang Chủ giữ kín việc này! Tà ma mà biết Ly Giang Tiên Ông tọa hóa tất sẽ lộng hành!
    Khuất Kỳ ngậm ngùi nói lời phân ưu và hứa sẽ thủ khẩu như bình!
    Chủ khách uống trà, đàm đạo nơi thư phòng. Lát sau, Tề Tổng Quản, Khuất phu nhân và tiểu thư Thúy Lan cũng có mặt!
    Không hiểu sao hôm nay cô ả tinh nghịch, ngang như cua lúa lại bẽn lẽn, khép nép, mặt hoa đỏ bừng.
    Ánh mắt Thúy Lan long lanh, lộ vẻ hân hoan song pha chút giận hờn!
    Tề Tổng Quản thì cười khanh khách:
    - Nhờ Lý thiếu hiệp đâm cho một kiếm mà lão phu được nghỉ ngơi cả tháng, chẳng phải làm gì cả!
    Tư Đồ Sảng mỉm cười, phục lão giỏi thi hành khổ nhục kế! Tề lão đã giấu một bọc máu dê ở ngực, giả vờ thọ trọng thương để che mắt Quỷ Ảnh Hội!
    Trang Chủ phu nhân tuổi độ sáu mươi, tóc đã hoa râm nhưng gương mặt vẫn còn lưu giữ được vài nét đẹp thuở thanh xuân. Bà là em gái của Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Tuệ nên cũng thông minh xuất chúng, mưu mẹo có thừa! Chính cơ trí của bà đã giúp chồng thành công trong việc kinh doanh, gầy dựng nên cơ nghiệp đồ sộ này!
    Phu nhân tủm tỉm bảo:
    - Đêm ấy, nếu công tử không ra tay tế độ thì chuyết phu đã bỏ mạng dưới lưỡi đao của Hội Chủ Quỷ Ảnh Hội! Ơn trọng này nhà họ Khuất xin ghi lòng tạc dạ! Lão thân ngưỡng mong công tử lưu lại đây một thời gian để Khuất thị có dịp đáp đền.
    Khuất Kỳ gật gù, đỡ lời vợ:
    - Phu nhận bàn chí phải! Lão phu còn sống là nhờ công tử, quyết chẳng để người ân ra đi dễ dàng! Hơn nữa, Hồ lão bảo rằng công tử đến Trường sa để điều tra sào huyệt Quỷ Ảnh Hội, sao không ở lại đây cho tiện!
    Tư Đồ Sảng kính cẩn đáp:
    - Bẩm Trang chủ! Gia sư bảo rằng Quỷ Ảnh Hội không hề có sào huyệt cố định, thủ hạ phân tán khắp nơi. Khi cần thiết mới tập trung lại. Gia sư đã từng bắt được một tên để tra hỏi nhưng hắn hiểu biết rất hạn chế, không thể từ đó lần ngược lên! Ngay cái kẻ đã tự xưng Hội Chủ cũng chỉ là một hóa thân mà thôi!
    Khuất Kỳ cau mày:
    - Thế thì công tử làm sao báo phục thù nhà?
    Tư Đồ Sảng lắc đầu:
    - Gia sư nghe tại hạ kể về sự xuất hiện của Nam Hải Tiên Ông Ninh Hoàng Lạc và Hải Hoa Bang liền kết luận: “Ninh lão quỉ tinh thông tiên văn, đoán trúng bần đạo sắp tận số trời nên mới vào Trung thổ! Ta chết rồi lão sẽ công khai khuynh đảo võ lâm. Nhưng lão ta không biết rằng còn vài lực lượng tà ma nữa cũng trỗi dậy, mưu đồ nghiệp lớn. Quỷ Ảnh Hội cũng ở trong số ấy và chúng sẽ lộ diện dưới một chiêu bài khác! Do đó, ngươi chẳng cần tìm Quỷ Ảnh Hội nữa, cứ chờ rồi sẽ gặp!”.
    Thúy Lan nghe vậy hậm hực hỏi:
    - Vậy phải chăng công tử ghé qua đây lấy lại túi Hồng Bảo Ngọc rồi đi ngay?
    Tư Đồ Sảng đã gởi hết tài sản của mình cho Khuất Kỳ vào cái đêm Quỷ Ảnh Hội đến cướp Tỵ Hỏa Châu!
    Chàng ngượng ngùng trả lời nàng:
    - Tại hạ có việc phải đến Giang Tây, chỉ lưu lại được vài hôm! Còn số Hồng Bảo Ngọc kia tại hạ xin gởi lại Khuất gia trang, khi nào bách tính bị thiên tai, nhờ chư vị bán đi, mua lương thực chẩn tế tai dân!
    Cả nhà kinh ngạc trước tấm lòng rộng rãi, nhân hậu của Lý Thu. Họ không biết Tự Đồ Sảng tức Lý Thu đã tình cờ tìm ra số châu báu ấy trong động thờ Trung Nguyên Nhất Kiếm Võ Hồng! Cùng với chúng còn có di thư rằng con cháu họ Võ phải dùng ngọc vào việc thiện, mua lấy ân đức cho Tông tộc! Con Võ Hồng là cụ Tổ Võ Chí đột tử vì tẩu hỗa nhập ma nên đã không kịp trối trăng lại khiến tâm nguyện ấy không được thực hiện! Mãi đến khi Tư Đồ Sảng đánh vỡ bát nhang hai đáy trên bàn thờ thì mới tìm ra! Việc này xảy ra sau khi song thân chàng bị giết!
    Khuất Kỳ xúc động tán dương:
    - Lành thay tấm lòng của bậc đại nhân! Lão phu hứa sẽ thực thi ý nguyện của công tử!
    - o O o -
    Tư Đồ Sảng phải ở lại Khuất gia trang đến mười ngày vì bị chủ nhà giữ rịt lấy, Thúy Lan luôn quấn quít bên chàng, bắt phải dạy kiếm pháp. Tư Đồ Sảng mến nàng như em gái nên vui vẻ chỉ hảo tận tình.
    Vợ chồng Khuất Kỳ không có con trai nên rất yêu quí Lý Thu. Càng gần gũi họ cảng hiểu rõ nhân phẩm của chàng, ước ao sao có được họ Lý làm rể đông sàng! Với bản chất nhân hậu, độ lượng, chắc chắn sau này Lý Thu sẽ chăm lo cho tông tộc Khuất thị chứ không đoạt tài sản này làm của riêng!
    Ngày thứ mười, Khuất phu nhân bàn với chồng:
    - Tướng công! Tiện thiếp e rằng chúng ta chẳng thể tìm đâu ra chàng rể nào tốt hơn Lý Thu! Tuy Ly Giang Tiên Ông bảo rằng đời y sẽ gặp nhiều nạn lớn, sống chết khó lường, nhưng thiếp không tin. Một kẻ giầu lòng từ tâm, tướng mạo phúc hậu như y làm sao có thể yểu mệnh được! Ý thiếp là vậy chẳng hay tướng công nghĩ sao?
    Khuất Kỳ hồ hởi tán thành:
    - Bà nói quả đúng ý lão phu! Để vuột mất chàng rể anh hùng cái thế, nhân phẩm xuất chúng như y thi chún ta sẽ hôi tiếc suốt đời! Bà mau cho gọi Lan nhi lên hỏi ý nó xem sao?
    Khuất phu nhãn liền bước ra cửa thư phòng, vẫy ả nữ tỳ đến, bảo thị đi tìm Thúy Lan! Lát sau ả Tố Nga mười bẩy tuổi mơn mởn đào tơ ấy hộc tốc chạy đến. Võ phục đẫm ướt mồ hôi!
    Nàng đang luyện kiếm với Lý Thu ở vườn hoa lớn!
    Khuất Kỳ cười khà khà nói ngay:
    - Lan nhi! Con có phịu lấy Lý Thu hay không?
    Thúy Lan đỏ mặt tía tai vùng vằng nói:
    - Nhưng Lý đại ca đâu để ý gì đến hài nhi! Chẳng lẽ đàng gái lại đi mở lời trước?
    Khuất phu nhân cười bảo:
    - Lan nhi ngốc thật! Y đang chịu tang song thân và sư phụ làm sao dám nghĩ đến việc hôn nhân?
    Thúy Lan cười buồn:
    - Lỡ chàng mượn cớ ấy mà thoái thác hôn sự thì sao?
    Khuất phu nhân đắc ý đáp:
    - Năm ngoái, sư phụ Lý Thu là Ly Giang Tiên Ông có nói đến thời hạn ba năm! Nay ta sẽ vin vào đấy mà giao ước! Lý Thu là người chí hiếu tất không dám làm trái di ngôn của ân sư!
    Khuất Kỳ toét miệng cười, tán dương bà vợ:
    - Bà quả là đa mưu túc kế, lão phu xin bội phục!
    Lão liền bảo Thúy Lan nấp vào sau giá sách, nơi có trường kỷ để nằm đọc sách, rối sai tỳ nữ đi mời Lý Thu.
    Chờ chàng rể tương lai nhấp xong hớp trà, Khuất lão mở lời:
    - Lý công tử! Cuối năm ngoái, khi Hồ lão ca làm mai Lan nhi cho công tử thi lệnh sư có hẹn ba năm. Vợ chồng lão phu tuân theo di ý ấy mà tiến hành việc đính hôn trước. Chờ công tử mãn tang song thân và sư phụ mới tiến hành hôn lễ!
    Khuất Kỳ rào đón, bao vây mọi ngả, không chừa cho con mồi một cửa nào để thoát ra cả! Lão khát khao có được rể quí nên vận dụng tâm cơ trong lời nói, cưỡng lý đoạt tình mà không hề áy náy!
    Tư Đồ Sảng bối rối, thừ người một lúc rồi nói:
    - Vãn bối vô cùng cảm kích trước sự ưu ái của nhị vị! Vãn bối cũng yêu mến Lan muội song khổ nỗi là đã có hôn ước với hai nữ nhân rối!
    Khuất Kỳ choáng váng vì thất vọng nên giọng nói hơi mỉa mai:
    - Lạ thực! Công tử mới xuất đạo vài tháng, lại đang cự tang, sao sớm vướng lưới phấn son như thế nhỉ?
    Tư Đồ Sảng thẹn đến chín người, ngượng ngùng kể lại cuộc tao ngộ với chị em họ Lăng.
    Nghe nói Phi Tuyết, Phi Hồng đều xấu như quỉ và chàng lấy họ vì lòng nhân nên Khuất Kỳ bớt tức tối:
    - Té ra là thế! Lão phu đã quá lời.
    Lão lưỡng lự nhìn bà vợ khôn ngoan hỏi ý. Khuất phu nhân liền nói:
    - Trai anh hùng năm thê bảy thiếp là chuyện thường tình! Lão thân cho rằng Thúy Lan có thể chung thuyền với hai người ấy. Nhưng do họ mang thân phận nô tỳ nên mong rằng công tử sẽ để Thúy Lan đứng ngôi chính thất.
    Tư Đồ Sảng xuất thân bần hàn, có cảm tình với những người ở giai cấp thấp, bèn nghe lòng gợi lên cảm giác chua xót. Chàng buồn rầu nói:
    - Vãn bối là con nhà tiều phu nghèo khó, chắc không xứng với một vị tiểu thư mà chỉ xứng với nô tỳ! Hảo ý của nhị vị vãn bối xin tâm lãnh mà chẳng đám vâng lời!
    Mở sáng hôm sau, Tư Đồ Sảng lặng lẽ rời Khuất gia trang để đi Giang Tây. Theo di mệnh của Ly Giang Tiên Ông, chàng phải có mặt ở Tổng đàn Thiên Sư Giáo, trên núi Long Hổ Sơn thuộc huyện Quí Khê, để trao cho Trương Giáo Chủ một phong thư! Về bối phận, Tư Đồ Sảng phải gọi Trương Hàn Vũ là sư huynh!
    Thiên Sư Giáo xuất xứ từ Long Hổ Sơn phái, do Trương Thịnh Di, cháu bốn đời của Trương Đạo Lăng sáng lập thời Tây Tấn, tại núi Long Hổ! Thịnh Di tôn Đạo Lăng làm Chưởng Giáo, thánh hiệu là “Chính Nhất Thiên Sư”. Từ sau thời Đường Tống, Long Hổ Sơn phái hợp lại cùng các phái Nam - Bắc Thiên Sư Đạo và Thượng Thanh, Linh Bảo, Tịnh Minh. Đến đời Nguyên Thành Tông, một hậu duệ khác của Trương Đáo Lăng là Trương Dự Tài được phong hàm Chính Nhất Giáo Chủ, tổng lĩnh cả các phái Mao Sơn, Cáp Tạo Sơn, Long Hổ Sơn. Vì vậy, các đạo phái này cũng đồng loạt được gọi là “Chính Nhất Đạo”.
    Tóm lại, ảnh hưởng của Thiên Sư Giáo lan tràn khắp Trung Hoa, thịnh vượng hơn cả phái Toàn Chân của Vương Trùng Dương!
    Nặng về mặt tôn giáo nên Thiên Sư Giáo không nổi tiếng lắm vế mặt võ học, bao đời nay mới sản sinh được một nhân tài kiệt xuất là Ly Giang Tiên Ông! Tuy nhiên, với số lượng đệ tử đông hàng trăm vạn, thế lực của Thiên Sư Giáo cực kỳ hùng mạnh.
    Nhắc lại, vì Khuất gia trang nằm ngoài cửa Tây thành Trường Sa nên Tư Đồ Sảng phải vào thành rồi mới đi về Đông được. Chàng khởi hành lúc cuối canh tư, trời còn tờ mờ chưa rõ mặt người. Đường trục Đông Tây của thành Trường Sa vẫn còn vắng vẻ, thưa người qua lại. Giả gia trang vốn nằm trên đại lộ này.
    Khi chàng còn cách cơ ngơi nhà họ Giả vài chục trượng thì nhìn thấy một toán kỵ sĩ, gồm năm người, rời khỏi cổng. Họ cũng đi về hướng đông như chàng và việc này chẳng khiến Tư Đồ Sảng quan tâm đến. Chàng cứ thong thả đi sau, rời khỏi thành vài dặm thì bị bỏ rơi xa lắc, chẳng còn nhìn thấy họ đâu nữa.
    Lúc bình minh rạng rỡ trước mặt thì Tư Đồ Sảng đã đi được bốn chục dặm, đến một vùng hoang sơ, hai bên đường là cánh rừng thưa.
    Chàng phi ngang qua lối mòn xuyên rừng mé hữu, vô tình liếc vào và phát hiện có năm con ngựa đang gặm cỏ. Mầu lông của chúng rất quen thuộc vì bầy ngựa này chính là của năm người đã rời khỏi Giả gia trang lúc mờ sáng!
    Lòng hiếu kỳ đã khiến Tư Đồ Sảng ghì cương đứng lại, vận công nghe ngóng. Chàng nhận ra tiếng thép chạm nhau liền rẽ vào, bỏ ngựa lại và lướt đi như gió.
    Việc Giả Bạch Hố thu nạp toàn những đệ tử Hắc Đạo đã khiến Tư Đồ Sảng hoài nghi nhân cách của gã. Và thái độ gã xem thường Quỷ Ảnh Hội cũng khá lạ lùng vì chẳng ai dại gì vuốt râu hùm. Nhất là khi họ Giả có cả một gia sản đồ sộ, dễ trở thành mục tiêu sau này cửa Quỷ Ảnh Hội!
    Do những nghi ngờ ấy mà hôm nay Tư Đồ Sảng quyết tìm hiểu xem Giả Bạch Hố sai thủ hạ đi giết ai.
    Khi đến nơi, chàng kinh ngạc nhận ra Huyết Báo Thân Vô Cửu đang tuyệt vọng tả xung hữu đột trong vòng vây của năm người áo xanh bịt mặt, sử dụng đao. Họ Thân đã bị thương ở vai và lưng, máu loang ướt áo. Bản lãnh của bọn thanh y cực kỳ lợi hại, và dường như năm tên tạo thành một đao trận liên hoàn kiên cố, khiến Huyết Báo chẳng tài nao thoát ra nổi.
    Tư Đồ Sảng còn phát giác ra rằng đao pháp của họ có những nét tương đồng với sở học của bọn sát thủ Thập Điện Diêm Cung, kẻ đã từng vây đánh chị em Lăng Phi Tuyết, Lăng Phi Hồng! Phải chăng Giả gia trang chính là vây cánh của Diêm Cung?
    Nhưng chàng chẳng còn thời gian để suy nghĩ thêm vì Thân Vô Cửu lại trúng thêm một vết thương nhẹ ở bắp tay phải. Tư Đồ Sảng đã rớm rút búa cầm sẵn nên giờ đây có thể tham chiến ngay lập tức.
    Tích Dịch Quỉ Tây Môn Giới đã dạy chàng rằng:
    - “Qui củ võ lâm chỉ áp dụng trong trường hợp đối phương là kẻ đáng được trân trọng. Còn như với bọn ác nhân bại hoại thì cứ tiên hạ thủ vi cường!”.
    Nhớ lời lão, Tư Đồ Sảng lặng lẽ áp sát đấu trường và bất ngờ ập đến bằng một cú nhẩy xa đến hơn hai trượng. Chàng đã không làm như các hiệp sĩ trong tuồng cổ là quát lên để khỏi mang tiếng đánh lén:
    - “Bớ bọn cuồng đồ! Bổn thiếu hiệp là Thần Phủ Lang Quân đã đến đây!”
    Tây Môn Giới hoàn toàn có lý vì sự bất ngờ là yếu tố quan trong nhất trong binh pháp. Tất nhiên là Tư Đồ Sảng bị những tên đang quay mặt về hướng chàng phát hiện. Một gã báo động cho đồng đảng:
    - Coi chừng đánh lén!
    Hai con mồi đang phơi lưng làm mục tiêu cho Giáng Ma Phủ vội đảo bộ quay lại chống đỡ bằng một đòn liên thủ. Hai thanh đao phối hợp với nhau, tạo thành bức tường thép vững chắc. Nhưng dẫu sao thì họ cũng đã bị chậm một nhịp, lộ nhiều sơ hở.
    Tư Đồ Sảng đã thi triển chiêu “Cuồng Phong Đoạn Mộc” bằng cả sức mình nên đường búa mãnh liệt như bão tố Giáng Ma Phủ hung hãn đánh bạt hai thanh đao và liếm vào ngực cặp xấu số kia. Chàng là người cao lớn, tay cũng dài thượt, thành ra tầm sát thương của Giáng Ma Phủ khá rộng.
    Tiếng thép vang rền hòa với tiếng rú thảm khốc của nạn nhân đã làm chấn động cả một khu rừng tĩnh mịch, lũ chim đang ríu rít đón bình minh cũng bị dọa khiếp mà im bặt.
    Tư Đồ Sảng thừa thắng xông lên, tấn công lão áo xanh thứ ba. Gọi là lão vì chòm râu cằm điểm bạc của đối phương khá dài, lú ra khối tấm khăn bịt mặt, và tóc trên đầu chẳng còn xanh.
    Lão ta tuổi tác không dưới sáu mươi, công lực thâm hậu và đao pháp cũng điêu luyện hơn đồng đảng. Thanh đao trong tay lão lồng lộn tựa rồng thiêng, đao kình vun vút xé không gian, chặn đứng được đường búa của Tư Đồ Sảng.
    Biết tính mạng của Thân Vô Cửu không còn nguy ngập, khi chỉ phái đối phó với hai gã Thanh yêu, Tư Đồ Sảng bình tâm chiến đấu, chẳng vội vã làm gì. Với một cao thủ như lão râu dài này mà chàng nóng vội thì chỉ thiệt thân.
    Tuy đã nhủ lòng như thế song lối đánh của chàng vẫn bội phần cương mãnh, xuất phát từ bản tánh con người và từ chính bản chất của pho Giáng Ma Phủ Pháp. Đứng như Ly Giang Tiên Ông đã nhận xét, cụ tổ Võ Hồng ỷ vào thần lực kinh nhân nên đường búa nặng như núi, không hề tiếc sức!
    Tư Đồ Sảng đã hiểu ngộ được kiếm đạo, nhờ thế mà nâng cao trình độ phủ pháp lên một bậc. Chàng ra đòn mãnh liệt song lại tránh va chạm nhiều, chủ yếu khai thác ưu thế của những thức đâm như chớp giật. Bề ngoài đường búa của chàng có vẻ hoàn toàn mang tính chất dương cương nhưng bên trong ẩn chứa yếu tố âm nhu ảo diệu và hiểm ác!
    Lão nhân râu dài càng đánh càng hăng, dường như cao hứng khi gặp được đối thủ xứng tay. Lão ta múa tít loan đao, giải phá những chiêu búa thần tốc của chàng trai lạ mặt! Lão đoán chàng là Thần Phủ Lang Quân Lý Thu, ngôi sao mới tỏa sáng. Hơn bốn tháng trôi qua, tin tức về trận đấu ở Tổng đàn võ lâm đã bay đi khá xa, kể cả việc Lý Thu thủ hoả với Huyết Báo! Lão áo xanh vô cùng thắc mắc, Không hiểu sao Thần Phủ Lang Quân lại xuất hiện chốn này và ra tay cứu mạng Thân Vô Cửu?
    Song phương giao đấu đã gần khắc mà không phân thắng bại, lão râu dài nóng ruột dồn chân khí đánh liền tám chiêu liên hoàn sấm sét. Nhưng Tư Đồ Sảng đột ngột thi triển một loại bộ pháp kỳ lạ, hoán vị cực kỳ mau lẹ, thân hình nhấp nhô mờ ảo. Nhờ vậy mà chàng tránh né được nhuệ khí của đối thủ, từ vị trí mới phản kích lại với thế chủ động.
    Trong võ học, ngoài việc tấn công hoặc phòng thủ, người võ sĩ còn phải biết né tránh. Khi bản lãnh đôi bên không chênh lệch lắm thì khả năng lưỡng bại câu thương rất lớn! Tư Đồ Sảng hiện đang rơi vào tình trạng ấy và tám chiêu kia như một nước cờ ảo diệu dồn chàng vào thế phải đổi mạng! Có thể là vào phút chót chàng nhanh tay hơn, đâm trúng đối phương trước, nhưng bản thân cũng rơi vào hiểm cảnh, khó vẹn toàn! Bằng như lão thanh y kia có bảo y hộ thân thì Tư Đồ Sảng chết là cái chắc!
    Chàng trai sơn dã, non nớt của chúng ta đã may mắn được Tích Dịch Quỷ Tây Môn Giới dạy cho kinh nghiệm ấy. Bởi vậy, vừa tiếp xong ba chiêu là chàng ngờ ngợ hiếu ra độc kế, mau chóng dùng Truy Tinh thân pháp mà thoát khỏi thế cờ!
    Tây Môn Giới đã nói:
    - Giang hồ hiểm ác khôn lường, việc lén mang giáp bảo vệ thân trên là chuyện bình thường, nhất là giới Hắc Đạo! Giáp đan bằng khoen thép có bán khắp nơi, giá chỉ độ năm chục lượng bạc, ai cũng có thể mua được!
    Tư Đồ Sảng biết đã đến lúc kết liễu trận đánh, liền bỏ dở việc tìm hiểu đao pháp Thập Điện Diệm Cung, xuất chiêu “Minh Tri Cố Muội!”.
    Chiêu này vốn dùng trong trường hợp đối phương mặc giáp, mình biết rõ mà làm như không biết! Tư Đồ Sảng vũ lộng thanh Giáng Ma Phú công phá lưới đao, mũi thép nhọn ở đầu búa uy hiếp bốn đại huyệt trên ngực và bụng của kẻ địch.
    Quả nhiên lão râu dài không hề khiếp sợ, thọc ngay bảo đao vào tâm thất chàng, như kẻ liều mạng đang muốn Đồng Qui Ư Tận, dù thiệt thòi đôi chút cũng cam tâm! Rõ ràng là búa sẽ chạm vào mục tiêu trước vì dài hơn đao của lão!
    Nhưng không ngờ gã tiểu tử non choẹt kia chẳng hề mắc bẫy, trong chớp mắt đã chuyển mục tiêu, đâm vào mặt lão. Nếu không có chủ ý thì chẳng bao giờ Thần Phủ Lang Quân làm được như thế!
    Đoạn thép ngắn, sắc cả hai bề và nhọn hoắt, đã đâm thủng mắt trái và hủy hoại não bộ lão thanh y! Tiếng rú lìa đời thê lương của lão đã khiến hai gã còn lại rụng rời tay chân! Tâm hoang mang thì đường đao lộ sơ hở, một gã lập tức bị trúng đòn của Huyết Báo vỡ sọ mà lìa đời. Tên thứ hai vừa tung mình đào tẩu thì rơi vào lưới búa của Tư Đồ Sảng, chết không kịp ngáp!
    O0o
    Xế trưa ngày cuội tháng năm có hai kỵ sĩ dừng cương trước cổng Tam Quan dưới chân núi Long Hổ Sơn. Người áo trắng chính thị Tư Đồ Sảng, người thứ hai là một hán tử tứ tuần tóc đen, râu rậm che kín nửa mặt. Dẫu là người quen cũng phải nhìn thật kỹ mới nhận ra Huyết Báo Thân Vô Cửu vì trước đây gã luôn cạo râu nhẵn nhụi.
    Ngay cả vũ khí thành danh của gã là cây Nhị Tiết Côn sơn đỏ cũng trơ ra màu thép xanh ngời! Người võ sĩ thành dành, được nhận biết nhờ vũ khí nhiều hơn dung mạo, cho nên giờ đây chẳng ai dám chắc gã có phải Huyết Báo hay không? Nhất là khi gã lại xưng tên Liễu Mộ Hào!
    Đấy mới chính là tên thực của Huyết Báo! Hơn hai mươi năm trước, Liễu Mộ Hào giết Tri huyện Tửu Tuyền đất Cam Châu để báo thù cho cha. Gã bị triều đình truy nã gắt gao nên bỏ xứ phiêu bạt vào Trung Nguyên lấy tên là Thân Vô Cửu.
    Huyết Báo chính là tay săn người chuyên nghiệp, năm nào cũng lãnh vài giải thưởng của Tổng Đàn võ lâm hoặc quan nha! Đấy là kế sinh nhai của gã! Mộ Hào thừa kế cây Nhị Tiết Côn sơn đỏ của sư phụ là Huyết Côn Tôn Giả, lại có thủ đoạn tàn nhẫn phi thường nên mới nổi danh là Huyết Báo!
    Nhưng sau lần thoát chết ở Trường Sa, gã quyết định khai tử nhân vật Huyết Báo, trở vế với thân phận thực mà phò tá ân nhân là Tư Đồ Sảng. Thế lực của Thập Điện Diêm Cung rất hùng mạnh, nếu họ biết chàng cứu mạng gã thì không có lợi!
    Nhắc lại Huyết Báo xuống ngựa, đĩnh đạc nói với toán đạo sĩ gác Đại Môn của thánh địa Thiên Sư Giáo:
    - Chủ nhân của tại hạ là Lý công tử có việc quan trọng muốn cầu kiến Trương Giáo Chủ, phiến chư vị cho phép thượng sơn! Công tử đến đây để trao thư của Ly Giang Tiên Ông!
    Gã đạo sĩ râu ngắn ngờ vực hỏi Tư Đồ Sảng:
    - Chẳng hay công tử có mang tín vật gì để làm tin hay không?
    Tư Đồ Sảng gật đầu, giơ tay rút cây trâm cài tóc đen sì. Chàng dồn chân hỏa vào trâm, làm cho nó tỏa ra ánh hào quang tím ngắt!
    Cây Tử Ngọc Thần Trâm này là vật tùy thân gần trăm năm nay của Ly Giang Tiên Ông nên bọn đệ tử Thiên Sư Giáo chẳng lạ gì!
    Gã đạo sĩ trung niên vội cung kính mời khách lên núi. Gã sai người dẫn ngựa vào chuồng, còn mình thì đích thân đưa khách thượng sơn. Trên đường đi, gã mở lời dò hỏi:
    - Bần đạo là Linh Quan Tử, tam đồ đệ của Giáo Chủ! Dám hỏi Lý công tử quan hệ thế nào với Gia sư Thúc Tổ?
    Tư Đồ Sảng điềm đạm đáp:
    - Tại hạ là đồ đệ của Tiên Ông!
    Linh Quan Tử choáng váng, dừng bước chắp tay nói:
    - Tiểu điệt xin bái kiến sư thúc! Xin người lượng thứ tội vô tri!
    Tư Đồ Sảng ngượng ngùng đáp:
    - Không biết thì không có tội, sự điệt chớ bận tâm!
    Tuy bối rối song trong lòng chàng dâng lên cảm giác đắc ý của trẻ con khi được là trưởng bối của một kẻ tuổi gần gấp đôi mình!
    Đường lên Thượng Thanh Cung, trên sườn núi Long Hổ Sơn, gồm hai ngàn bậc đá rộng gần trượng, quanh co xuyên qua rừng tùng già nua, râm mát. Hai bên đường là hàng trăm tảng đá lớn đủ mọi hình thù lạ mắt.
    Những bậc thang bằng đá đã mòn vẹt đi bởi dấu chân người vì Thượng Thanh Cung được xây dựng từ thời Tây Tấn, cách đời Tư Đồ Sảng hơn một ngàn hai trăm năm!
    Thượng Thanh Cung là nơi ở của nhiều đời cháu chắt Trương Đạo Lăng, người sáng lập ra đạo Thiên Sư (Ngũ Đấu Mễ Đạo) vào thời Đông Hán. Đây là nơi Thiên Sư tụng kinh, tu đạo, cúng tế thần tiên! Cung Thượng Thanh vốn có tên là “Truyền Lục Đàn” vế sau đổi thành “Am Chân Tiên”, đến đời Tống mới gọi là “Thượng Thanh Cung!”.
    Hai bên và phía sau của tòa điện thờ cổ kính, đồ sộ Thượng Thanh là hàng trăm biệt xá lớn nhỏ, kiến trúc dạng đền miếu, góc mái ngói cong vút, dùng làm nơi cư trú cho gia đình Giáo Chủ và các chức sắc.
    Thiên Sư Giáo không cấm lấy vợ nên đa số các đạo sĩ đều có gia đình! Chức vụ Giáo Chủ như ngôi hoàng đế, chỉ truyền cho con cháu Trương Đạo Lăng!
    Tư Đồ Sảng và Huyết Báo được Linh Quan Tử đưa vào nơi ở của Giáo Chủ Trương Hàn Vũ, ngay phía sau Thượng Thanh Cung! Đấy là cả một cơ ngơi gồm nhiều phòng, được xây cất kiểu Tứ Hợp Viện, bốn phía đều có nhà vây lấy sân gạch lớn ở giữa!
    Đi qua cửa chính góc Đông Nam, khách vào đến sân ngoài có bề ngang rộng, bề sâu hẹp. Bên ngoài thông với sân trong bằng một cửa chính Nam gọi là cửa Thùy Hoa. Cửa này được tạo dáng rất đẹp và thanh thoát. Trên có mái ngói, bốn góc buông bốn trụ lửng, đỉnh trụ chạm trổ và sơn mầu. Sân chính bên trong vuông vắn và rộng thoáng, đặt vài chậu kiểng, được che mát bởi những cây Khổng Tước Đậu già lão, cao hàng chục trượng! Loại cây quí hiếm này ra hoa kết trái không theo qui luật nhất định! Có cây vài chục năm mới ra hoa một lần và chưa chắc đã đậu quả!
    Phòng khách của Trương Giáo Chủ nằm ở dãy nhà hướng Bắc, cửa đóng chặt, có hai đạo sĩ trung niên mang kiếm đứng gác!
    Tư Đồ Sảng nhận ra nét mặt của tất cả những người mà chàng gặp ở đây đều nặng nề, chẳng một nụ cười! Ngay cả Linh Quan Tử và hai gã gác cửa này cũng vậy!
    Linh Quan Tử lên tiếng, bảo hai người kia:
    - Này nhị vị sư đệ! Đây là Lý sư thúc, đồ đệ của Nhị sư thúc Tổ, hai ngươi mau bái kiến!
    Hai vị đạo sĩ vội thi lễ một người nói:
    - Bọn tiểu điệt là Linh Phong Tử và Linh Hư Tử ra mắt sư thúc!
    Linh Quan giới thiệu thêm:
    - Bẩm sư thúc! Linh Phong và Linh Hư là học trò thứ năm và thứ sáu của gia sư!
    Tư Đồ Sảng gật đầu chào lại hai gã vãn bối rỗi đứng chờ Linh Quan Tử vào bẩm báo trước.
    Lát sau, cửa chính mở toang đón khách. Đi qua phòng ngoài, Tư Đồ Sảng vào đến một phòng khá lớn có bày năm cỗ đại ỷ bằng gỗ Hoàng Đào chạm trổ cầu kỳ!
    Giờ đây, các ghế đều có người ngồi, toàn những đạo sĩ già nua râu tóc hoa râm hoặc bạc trắng!
    Năm người này đứng lên nhìn khách với ánh mắt xoi mói. Lão đạo áo vàng, búi tóc cài Ngọc Quan, râu năm chòm suôn đuột, mặt phương phi hồng hào, ngồi ở ghế chủ vị hướng Bắc, chính là Trương Giáo Chủ! Lão cố nở nụ cười với khách:
    - Lão phu là Trương Hàn Vũ còn bốn vị này đều là Hộ Pháp của bổn giáo! Theo bối phận thì Lý sư đệ phải gọi chúng ta là sư huynh!
    Tư Đồ Sảng vòng tay thủ lễ, xưng tên thực rồi lấy thư của ân sư đưa cho Trương Giáo Chủ!
    Trương Hàn Vũ mời mọi người an tọa vì Linh Quan Tử đã mang ra thêm hai chiếc đôn gỗ cho khách!
    Đọc xong, Trương Giáo Chủ buồn rầu bảo bốn người kia:
    - Này chư vị Hộ Pháp! Sư thúc đã thăng thiên hôm mùng ba tháng năm!
    Bốn lão đạo già xúc động nhất tề chắp một tay lên ngực nói:
    - Thiện tai! Thiện tai!
    Đệ tử Đạo Giáo xem cuộc đời là sinh ký tử qui nên mừng cho người thân về với đạo lớn, hoặc thành tiên, chứ không khóc thương. Bề ngoài là thế song họ là người nên trong lòng vẫn dấy lên nỗi bi ai, thương tiếc!
    Trương Giáo Chủ nói tiếp:
    - Trong di thư! Sư thúc còn nói rằng Bổn giáo đến thời kỳ mạt pháp, sẽ gặp nhiều tai kiếp! Người dạy chúng ta phải chay tịnh, sửa mình, bỏ thói kiêu căng, tham lợi thì mới mong thoát khỏi đại họa! Tư Đồ sư đệ là bậc thiếu niên anh hùng, võ công xuất chúng, sẽ giúp bổn giáo đương cự với tà ma!

  8. #8
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Tuy hiểu rõ bản lãnh thông thần của Lư Giang Tiên Ông nhưng chư vi hộ pháp đều nghi hoặc vì Tư Đồ Sảng còn quá trẻ! Tứ Hộ Pháp là Vu Hồ Chân Nhân, tuổi mới sáu mươi, tính tình còn nóng nẩy, tự phụ nêncó ý xem thường Tư Đồ Sảng. Lão cười khẩy nói:
    - Sư thúc đã di ngôn như thế thì sao Giáo Chủ không giao cho Tư Đồ sư đệ giải quyết vụ Lư Sơn?
    Trương Giáo Chủ bối rối đáp:
    - Không được! Đây là chuyện riêng cửa gia đình lão phu chứ không phải việc của bổn Giáo!
    Tư Đồ Sảng đoán rằng gia sự họ Trương rối ren, phát sinh tai họa. Chàng từng nghe Lư Giang Tiên Ông kể rằng Trương Thiên Sư có một thứ nam tính tình phóng đãng, vừa háo sắc vừa có máu đỏ đen, nhiều phen làm khổ mẹ cha! Nhưng chẳng lẽ ngồi yên làm ngơ, Tư Đồ Sảng liến nói:
    - Bẩm Giáo Chủ sư huynh! Việc của gia đình Thiên Sư cũng chính là việc của Bổn Giáo! Nếu tiểu đệ làm được gì quyết không tiếc sức!
    Trương Hàn Vũ cười khổ, kể lể:
    - Lão phu kém đức nên sinh ra một gã bất trị, tủi hổ cho tông môn! Trương Trạm là con trai thứ, năm nay tuổi dã tam thập mà tính tình nông nổi, hoang đàng, chẳng chịu tu hành mà chỉ lo ăn chơi đàng điếm! Nửa tháng trước, gã cậy tủ lấy trộm một vạn lượng vàng trong ngân quĩ của bổn giáo rồi trốn đến Nam Xương đánh bạc! Không những gã cháy túi mà còn mắc nợ người ta bảy ngàn lượng nữa!
    Trạm nhi cho rằng đối phương chơi bạc bịp nên cãi cọ rồi đi đến xô xát đánh gã kia trọng thương!
    Khổ thay, cái gã Lâm Viễn Toại ấy lại là đồ đệ cưng của Tiên Nhân Động Chủ, một đại cao thủ tuổi tám mươi, ẩn cử ở núi Lư Sơn đã ba mươi năm! Tiên Nhân Động Chủ Tất Linh Kỳ cũng có mặt ở gần đổ trường nên đã bắt Trạm nhi mang về Tiên Nhân Động và gởi thư đòi lão phu phải mang vàng đến chuộc! Ngoài số nợ bẩy ngàn lượng, lão phu còn phải bồi thường thương tích cho Lâm Viễn Toại thêm ba ngàn lượng nữa! Lão thở dài, rầu rĩ nói tiếp:
    Dẫu sạt nghiệp thì lão phu cũng phải chuộc con mình về để bảo toàn thanh danh cho Thiên Sư Giáo! Nhưng ác nỗi Động chủ lại còn kèm thêm một điều kiện là phải có người đỡ nổi lão ba chiêu kiếm! Bổn giáo có thể lần lượt cử ai đi cũng được, song mỗi khi đại biểu bị thua thì mất ba ngàn lượng! Lão ta nổi tiếng máu mê cờ bạc nên mới bày ra trò này! Lão phu đã gởi thư đến Quế Lâm để mời sư thúc hỗ trợ song khổng ngờ người đã rời Quảng Tây và tọa hóa ở Hành Sơn.
    Trương Giáo Chủ nghẹn ngào một lúc bỗng nghiến răng lộ vẻ kiên quyết:
    - Lão phu sẽ bỏ mặc tên nghịch tử ấy rồi đóng cửa sám hối ba năm để tạ tội với tổ tiên và trăm vạn giáo chúng trong thiên hạ!
    Bốn vị hộ pháp có vẻ hài lòng trước quyết định ấy nên không ngăn cản Giáo Chủ! Nếu cố bám theo vụ này thì Thiên Sư Giáo sẽ nghèo rớt mồng tơi!
    Tư Đồ Sảng từ tốn nói:
    - Xin Giáo Chủ sư huynh bớt lo âu! Tiểu đệ tự tin có thể đưa được Trương Trạm trở về!
    Trương Giáo Chủ đang tuyệt vọng nên bám lấy tia hy vọng này, song vẫn còn nghi ngại! Riêng Vu Hồ Chân Nhân thì buột miệng nói ngay:
    - Sư đệ suy nghĩ cho kỹ rồi hãy hành động! Ngươi mà thua thì bổn giáo lại mất toi ba ngàn lượng đấy!
    Tư Đồ Sảng mỉm cười đáp:
    - Tiểu đệ sẽ tự thanh toán nếu không đỡ nổi ba chiêu của Tiên Nhân Động Chủ!
    Ai nấy kinh ngạc vì không ngờ chàng lại giàu đến thế!
    Tư Đồ Sảng quay sang bảo gã đạo sĩ hầu trà:
    - Phiền sư điệt ra ngoài cửa Thùy Hoa, bảo thủ hạ của ta mang hành lý vào đây!
    Gã này tuổi mới đôi mươi, đạo danh Linh Tiếu Tử, học trò nhỏ nhất của Giáo Chủ! Lúc nào trông gã cũng như đang cười nên mới được đặt tên ấy!
    Nghe chàng sai bảo, gã lập tức nhoẻn miệng cười rất tươi, để lộ hàm răng không đều, có hai răng chiếc nanh nhọn. Trong tướng pháp, người có hàm răng như thế thường hoạt bát, vui vẻ và tinh quái!
    Gã rảo bước đi ra ngoái, lát sau dẫn Huyết Báo vào đến!
    Tư Đồ Sảng đứng lên giới thiệu song phương. Cái tên Liễu Mộ Hào rất xa lạ và không nổi tiếng nên chẳng khiến ai chú ý!
    Tư Đồ Sáng mở tay nải của mình, lấy túi lụa đựng Hồng Bảo Ngọc, đổ ra mặt bàn. Ánh Hồng rực rỡ chớp ngời làm loà mắt năm kẻ tu hành.
    Thì ra Đàm Châu đại hiệp Khuất Kỳ giận dỗi vì thái độ ương bướng của chàng nên đã trả lại Hồng Bảo Ngọc, kể cả những viên mà Thúy Lan đã xin! Ông tự hào mình là con cháu bậc danh nhân lịch sử nên không thể chấp nhận cho con gái ngang hàng với hạng nô tỳ!
    Khuất phu nhân khoáng đạt hơn song không thề cãi chồng!
    Tư Đồ Sảng hòa nhã nói:
    - Bẩm Giáo Chủ! Số Hồng Bảo Ngọc này trị giá khoảng sáu vạn lượng vàng. Tiểu đệ xin dâng nạp vào ngân quĩ của bổn Giáo để hoằng dương đạo pháp và chẩn tế tai dân khi có dịp! Ngưỡng mong Giáo Chủ thể tất tấm lòng thành của tiểu đệ mà thu nạp!
    - o O o -
    Sáng mùng mười tháng sáu. Thiên Sư Giáo Chủ thống lãnh nhân mã gồm ba chục người, hiện diện ở mạn Tây Bắc núi Lư Sơn! Tiên Nhân Động nằm tại đây.
    Đang là mùa hạ nên cảnh vật Lư Sơn lộ ra, sương mù chỉ bãng lãng trên cao chứ không mờ mịt che phủ tất cả như những mùa khác! Tuy nhiên, chỉ cần một cơn mưa hè trút xuống là núi Lư Sơn lại chìm vào trong lớp áo khói sương!
    Thi hào Tô Đông Pha thời Tống đã có bài thơ vịnh cảnh Lư Sơn rất nổi tiếng:
    “Lư Sơn yên tỏa Chiết Giang Triều
    Vị đáo bình sinh hận bất tiêu
    Đáo đắc hoàn lai vô biệt sự
    Lư Sơn yên tỏa Chiết Giang Triều!”
    Bài thơ này mang một ý nghĩa triết lý rất thâm thúy, bàng bạc tư tưởng Vô Sở Đắc của cả Đạo Giáo lẫn Phật Môn!
    Nơi ẩn cư của Tất Linh Kỳ là một động đá thiên nhiên có từ ngàn xưa. Tất lão đã chiếm lấy nó, khắc lên cửa hang ba chữ “Tiên Nhân Động” và tự xưng Tiên Nhân Động Chủ! Ngày còn ngang dọc giang hồ lão có biệt danh là Truy Nguyên Quỉ Đổ! Hơn ba mươi năm trước, Tất Linh Kỳ bị Đổ Bác Thần Hà Dương vét sạch cơ nghiệp trên chiếu bạc ôm hận đến núi Lư Sơn tu tiên. Không ngờ lão chẳng thành tiên mà còn cùng đệ tử tái xuất ở đổ trường lớn nhất Nam Xướng để rồi chạm trán Trương Trạm!
    Tất lão đã bày Trúc trận trước cửa động nên khách không vào được. Trương Thiên Sư liền cao giọng gọi:
    - Tất tôn giá! Lão phu y ước mang vàng đến chuộc con, mong tôn giá mở cửa trận!
    Từ trong đám tre trúc mờ mịt khói sương kia vọng ra tiếng già nua:
    - Nơi này chật hẹp chẳng tiện thiếp khách, phiền Giáo Chủ đưa quân đến chân vách đá Long Thủ chờ lão phu!
    Trương Hàn Vũ chỉ còn cách tuân theo sự bố trí của đối phương. Đoàn người lặng lẽ đi ngược về hướng Tây, trước tiên là gặp Ngự Bi Đình, một trong những thắng tích của Lư Sơn.
    Ngự Bi Đình cũng gọi là Bạch Lộc Thăng Tiên Đài, do Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương cho xây dựng. Trong đình có bia đá rất lớn, cao khoảng một trượng hai xích hai thốn (bốn mét). Đi thêm nữa là những danh lam thắng cảnh khác nằm rải rác như tháp Thiên Trù, Đài Thiên Tân, Đầm Long Ngư, Đài Văn Thù, Đầm Đại Thiên...
    Và cách Đại Thiên Đàm không xa là vách đá Long Thủ lừng danh. Vách này có hình dáng giống như hai khối đá lớn ghép lại, một khối đứng thẳng không nhìn thấy chân, khối kia nằm ngang. Trên mặt đá tùng mọc xanh rì. Đứng ở đỉnh vách Long Thủ người ta có thể nhìn thấy một vùng sông suối, núi rừng, phong cảnh tuyệt đẹp.
    Long Thủ Bích ở trên cao trăm trượng và phía dưới nó là những thắng cảnh khác như vách đá sư tử. Phương Ấn Thạch(Tảng đá hình ấn vuông), Bách Trượng Thê (Thang dài trăm trượng).
    Lần đầu được chiêm ngưỡng những kỳ quan của núi Lư Sơn, Tư Đồ Sảng ngất ngây, say đắm, tự nhủ sẽ có ngày quay lại đây để thưởng thức cho trọn vẹn!
    Đoàn người đến khoảnh đất trống dưới chân vách Long Thủ thì đã gặp ngay một lão nhân mặc trường bào hồng tay hẹp, râu tóc bạc phơ, da mặt chỉ hơi nhăn nheo và nhãn thần thì sáng quắc!
    Lão ta ngồi trên một tảng đá nhỏ, sau lưng có hai gã tiểu đồng đứng hầu, một mang kiếm, một ôm đàn tỳ bà!
    Hồng y lão nhân đứng lên tự giới thiệu:
    - Lão phu là Tất Linh Kỳ!
    Trương Thiên Sư không thấy mặt con trai liền nóng nẩy nói:
    - Lão phu là Trương Hàn Vũ! Dám hỏi vì sao Tất tôn giá không mang Trạm nhi đến đây?
    Là tay cờ bạc lừng danh nên nét mặt Trung Nguyên Quỷ Đổ lúc nào cũng lạnh như tiền, buồn vui không để lộ! Lão thản nhiên đáp:
    Hắn đang ờ trong Tiên Nhân Động! Khi nào chư vị đáp ứng đủ các điều kiện sẽ có người cung kính đưa y đến! Và lão hỏi lại:
    - Phải chăng người tiếp ba chiêu của lão phu chính là Giáo Chủ?
    Trương Hàn Vũ cười nhạt:
    - Bổn tọa thân phận cao cả, đâu thể tùy tiện xuất thủ! Người tham chiến sẽ là Ngũ sư đệ của lão phu, đạo danh Kỳ Hoa Chân Nhân!
    Lão nói thế cho oai chứ thực ra võ công không cao, Thiên Sư Giáo nặng về tôn giáo hơn là võ thuật, Giáo Chủ cùng các Hộ pháp chỉ chuyên tâm vào kinh tạng, bùa chú và thuật luyện đan!
    Từ sau lưng Trương Giáo Chủ bước ra một đạo sĩ áo trắng, tuổi đôi mươi, mày kiếm, mắt sao, mũi Thông Thiên Đình tôn quí, trán cao, miệng rộng! Sắc diện của Kỳ Hoa Chân Nhân hiền hòa, nhân hậu, song ẩn chứa vẻ uy nghiêm, cương nghị!
    Kỳ Hoa Chân Nhân chính thị Tư Đồ Sảng của chúng ta! Trương Giáo Chủ đã sắc phong chàng làm Đệ ngũ Hộ pháp của Thiên Sư Giáo và ban cho đạo hiệu Kỳ Hoa.
    Tiên Nhân Động chủ Tất Linh Kỳ thừa thông minh để hiểu rằng gã đạo sĩ trẻ tuổi kia phải có bản lãnh rất cao cường nên mới được đề cử làm đại biểu xuất trận! Lão nghĩ ngày đến cao thủ số một của Thiên Sư Giáo, hờ hững hỏi:
    - Phải chăng Kỳ Hoa Chân Nhân là đệ tử của Ly Giang Tiên Ông?
    Trương Thiên Sư cười ruồi:
    - Đúng vậy! Y nghe nói kiếm pháp của tôn giá trước đây từng lừng danh vũ nội nên hiếu kỳ muốn học hỏi!
    Dù bị khích bác, mỉa mai mà Tất Linh Kỳ vẫn không động nộ, nhếch mép cười nham hiểm:
    - Lão phu rất vinh hạnh! Sau ba chiêu, nếu y không gục ngã thì lão phu nhận bại!
    Tư Đồ Sảng có cảm giác rằng khi cầm kiếm thép trong tay thì tâm hồn thanh thản, và hoàn toàn vô úy. tâm lý khác hẳn lúc cầm búa! Dường như thanh kiếm đã mang đến thêm sức mạnh và dũng khí vây! Đúng là tâm trạng của kẻ đã bước vào cảnh giới kiếm đạo. Chàng rất tự tin nên điềm nhiên hỏi lại:
    - Nhưng nếu bần đạo đả thương được tôn giá thì sao?
    Đối với một võ sĩ già thì đây là sự xúc phạm lớn lao, da mặt Tất Linh Kỳ hơi tái đi và lão cười nhạt:
    - Hay lắm! Nếu ngươi tự tin như thế thì chúng ta đánh cược! Sau ba chiêu, lão phu mà chảy một giọt máu thì sẽ giao trả cả Trương Trạm lẫn một vạn lượng vàng, cũng như không đòi bẩy ngàn lượng kia! Bằng như ngươi không làm được điều ấy, dù vẫn còn đứng vững thì Thiên Sư Giáo phải mất thêm vạn lượng nữa!
    Té ra cái máu cờ bạc đã thắng được cơn giận dữ của Tất Linh Kỳ. Trương Giáo Chủ đã biết Tư Đồ Sảng là Thần Phủ Lang Quân, người từng đả thương Hải Hoa Bang Chủ và Quỷ Ảnh Hội chủ, nên rất tin tưởng. Ông hăng hái giao kết:
    - Bổn tọa tán thành! Song tôn giá phải mang Trạm nhi và số vàng ấy đến đây!
    Ông ngừng lại một chút rồi nhẹ nhàng mỉa mai:
    - Lòng người đen bạc khó lường nên bổn tọa phải cẩn thận!
    Biết Trương Hàn Vũ muốn khích động, làm rối loạn tâm của mình, Tiên Nhân Động Chủ cứ thản nhiên như điếc và gật gù chấp thuận.
    Lão ngửa cổ hú vang, tiếng hú ấy được dồn nguồn công lực hơn hoa giáp nên cực kỳ hùng mạnh, khiến màng nhĩ phe đối phương đau nhói.
    Tất Linh Kỳ chỉ thị uy vì lát sau đã có bốn hán tử võ phục đen áp giải một chàng trai áo gấm xanh đi đến nơi! Nghĩa là họ ở rất gần đây!
    Chắc vì không được hậu đãi nên mặt Trương Trạm hốc hác, tái xanh, râu ria lởm chởm, y phục bèo nhèo, dơ bẩn. Nhìn thấy Trương Thiên Sư, gã nghẹn ngào cầu cứu:
    - Xin phụ thân cứu lấy hài nhi! Bị cầm tù thêm vài ngày nữa thì hài nhi chết mất!
    Trương Trạm hư đốn cũng bởi sự cưng chiều quá độ của vợ chồng Trương Giáo Chủ! Thuở nhỏ, Trương Trạm thông minh lanh lợi, biết cạch nịnh hót nên được cha mẹ yêu thương như bảo bối! Lớn lên gã hư hỏng là chuyện tất nhiên!
    Nhưng lần này Trương Thiên Sư không thể bỏ qua tội lỗi tày đình này của quí tử. Lão trừng mắt nạt:
    - Nghịch tử khốn kiếp kia! Đương nhiên lão phu phải cố đem ngươi về Long Hổ Sơn để chịu sự trừng phạt của Giới Đường chứ! Lúc ấy thì còn khổ hơn trong Tiên Nhân Động!
    Trương Trạm ỷ vào sự yêu thương che chở của mẹ là Giáo Chủ phu nhân nên chẳng ngán, nhưng ngoài mặt vẫn tỏ ra sợ hãi và hối hận, sụt sùi khóc lớn!...
    Tiên Nhân Động Chủ rút trong áo ra một xấp ngân phiếu, đưa cho Trương Thiên Sư và nhẹ nhàng trả đũa:
    - Lão phu không có thói quen lấy dạ tiểu nhân để đo lòng quân tử! Ông sợ thì cứ giữ lấy cho yên tâm!
    Trương Giáo Chủ chưa kịp đối đáp thì Linh Tiếu Tử ở bên cạnh đã vọt miệng nói leo... Gã cười khì bảo:
    - Trong đổ trường làm gì có quân tử! Lúc cháy túi thì nhà cửa ruộng vườn và cả vợ con cũng dám bán đi để gỡ gạc! Năm xưa tôn giá đã chẳng từng làm thế đấy sao?
    Việc tủi nhục này là một bí mật tày trời của Tất Linh Kỳ, chỉ có lão và Đổ Bác Thần biết được. Ngày ấy, Đổ Bác Thần đã hứa không tiết lộ việc lão mang người vợ trẻ đẹp ra đánh bạc và thua mất. Vậy mà không hiểu sao giờ đây gã tiểu tử chết tiệt kia lại khai ra vanh vách như thế?
    Lão không ngờ rằng Ly Giang Tiên Ông là bạn vong niên của Đổ Bác Thần nên nắm rõ sự việc. Và trong một lần ghé thăm Long Hổ Sơn, Tiên Ông đã vui miệng kể cho Linh Tiếu Tử nghe!
    Tiên Nhân Động Chủ giận điên ngươi song không thể thú nhận, liền quát mắng:
    - Tiểu bối chớ nói càn! Làm gì có việc ấy?
    Và lão quay sang trách Trương Thiên Sư:
    - Vì sao Giáo Chủ lại để cho đệ tử mình hỗn láo với lão phu như thế? Phải chăng đấy là kỷ cương của Thiên Sư Giáo?
    Trương Giáo Chủ biết đối phương đã động nộ, tâm tình rối loạn, có lợi cho Tư Đồ Sảng. Ông rất cao hứng nhưng vẫn giả vờ khiển trách đồ đệ:
    - Linh Tiếu Tử! Ngươi nói năng bừa bãi làm tổn hại đến thanh danh bổn giáo, khi về sẽ phải chịu hình phạt của Giới Đường!
    Linh Tiếu Tử tinh ranh như chồn giả vờ khiếp sợ run rẩy đáp:
    - Đồ nhi đã biết tội!
    Lúc này, Tư Đồ Sảng đã rút kiếm, trao vỏ bao cho Huyết Báo, tiến đến trước mặt Tất Linh Kỳ. Chàng ôm kiếm chào rồi thủ thế, chờ đợi sự tấn công của đối phương.
    Bàn tay hữu chàng nắm đốc kiếm, hạ xuống vị trí dưới thắt lưng, lưỡi kiếm dựng xéo trước mặt, còn bàn tay tả thì bắt kiếm ấn, đặt hờ trước ngực trái. Tư thế này chẳng có gì đặc biệt, không kín cũng không hở, song lại khiến Tất Linh Kỳ lưỡng lự. Lão nhận ra rằng Kỳ Hoa Chân Nhân chẳng hề có chút sát khí nào, một dấu hiệu của bậc kiếm thủ thượng thừa!
    Điều đáng ngại thứ hai là chút ánh sáng mờ mờ màu tím nhạt tỏa ra từ cây trâm cài búi tóc trên đầu đối thủ! Lão nhận ra rằng Kỳ Hoa Chân Nhân phái có tu vi trên ba mươi năm và đạt được hai thành hỏa hầu công phu cương khí hộ thân, thì cây Tử Ngọc Thần trâm kia mới phát quang! Năm xưa, mỗi lần Ly Giang Tiên Ông giao đấu với ai, cây trâm ấy tỏa sáng rực rỡ!
    Sau khi đánh giá xong thực lực của kẻ địch Tiên Nhân Động Chủ cẩn trọng xuất chiêu “Lôi Vũ Khai Nguyên”, kiêm ảnh mờ mịt tựa vũ trụ thuở còn hỗn độn, và lấp loáng những vệt sáng dài, những chấm nhỏ li ti, tượng trưng cho sấm sét, mưa gió, tức lửa và nước, hai yếu tố khởi nguồn cho sự sống!
    Tất Linh Kỳ là học trò của Hỗn Nguyên Chân Quân, trước đây do mải mê đen đỏ mà không sao luyện thành những chiêu cuối của pho Hỗn Nguyên Kiếm Pháp. Nhưng sau ba mươi năm tĩnh tâm tu luyện ở Tiên Nhân Động lão đã đạt đến mức đạt thành!
    Lão xem trọng đối phương nên đã thi triển một trong những chiêu lợi hại nhất và tin chắc sẽ đại thắng. Lão vẫn nghĩ rằng giờ đây mình là một trong những kiếm thủ hàng đầu trong võ lâm!
    Nhưng Lão Ô Bách Tuế chẳng bằng Phượng Hoàng sơ sinh, Tất Linh Kỳ căn cơ thấp kém, mang bản chất của một kẻ cờ bạc bẩm sinh, lòng tham dục rất vượng thì làm sao hiểu ngộ được yếu quyết cao siêu của kiếm đạo? Do vậy, dù khổ luyện cách mấy thì lão vẫn chỉ dừng lại ở trình độ kiếm thuật!
    Tuy nói như thế song bản lãnh của Tất lão vẫn cao hơn Tư Đồ Sảng vài bậc, nhờ công lực thâm hậu. Lão ta là con trâu già lực lưỡng, hung hăng, còn chàng như chú cọp non, móng vuốt chưa đu dài! Nhưng Tư Đồ Sảng lại sở đắc kiếm đạo, chẳng thể thua trong vòng vài chiêu được! Hơn nữa, tri thức của con người hoàn thiện dần theo thời gian, người đời sau hiểu rõ vũ trụ và thiên nhiên nhiều hơn cổ nhân. Nghĩa là không phải bất cứ môn võ nào có lịch sử lâu đời đều lợi hại hơn tuyệt kỹ đương đại.
    Trong trường hợp này cũng thế, tuy Hỗn Nguyên Chân Quân hơn Ly Giang Tiên Ông đến năm mươi tuổi song trình độ kiếm pháp lại chẳng bằng! Chân Quân tạ thế ớ tuổi bẩy mươi, đâu có thời gian để hoàn thiện pho Hỗn Nguyên Kiếm Pháp. Trong khi đó, Ly Giang Tiên Ông thọ đến hơn trăm, thừa điều kiện biến pho Huyền Nguyên1 kiếm Pháp thành tận thiện, tận mĩ!
    Giờ đây, Tư Đồ Sảng có dịp để biểu lộ ưu thế này. Chàng vung kiếm chém điểm liên tục ba trăm sáu mươi thế thức với tốc độ nhanh đến mức trường kiếm như hóa thành năm bẩy bóng!
    Sau nhiều năm quen sử dụng thanh Giáng Ma Phủ nặng hai chục cân, lực đạo ở cánh tay và cổ tay Tư Đồ Sảng cũng mạnh mẽ phi thường. Nhờ vậy mà khi múa kiếm chàng thấy nhẹ như bấc, dễ dàng đạt đến vận tốc cực đại. Chính Ly Giang Tiên Ông cũng phải thán phục thành tựu ấy của học trò!
    Chiêu “Tảo Vân Tầm Nguyệt” mà Tư Đồ Sảng đang sử dụng thuộc về pho Huyền Nguyên Kiếm Pháp. Nó gồm nhiều thức điểm hơn là thế chém. Mũi kiếm của chàng phong tỏa hoàn toàn thân trên đối phương, liên miên bất tuyệt đâm vào những vị trí mờ tối trên màn kiếm quang đang ập đến. Khi thép chạm nhau, Tư Đồ Sảng phải vừa lùi vừa đánh vì đối phương mạnh hơn và đang thuận đà lao đến! Nhờ vậy mà lực phản chấn chẳng nhiều, không cản trở đường kiếm của chàng!
    Tiếng thép tinh tang cất lên không ngớt và cuối cùng thì Tư Đồ Sảng đã tìm ra sơ hở chết người của đối phương. Chàng thọc kiếm vào sườn phải Tiên Nhân Động Chủ bằng một nhát cực kỳ thần tốc. Nhưng khi mũi kiếm vừa đâm thủng da thịt họ Tất thì chàng lập tức thi triển Túy Tinh bộ pháp, bay vèo sang mé hữu, cách vị trí cũ hai trượng!
    Nếu Tư Đồ Sảng thọc kiếm sâu hơn thì cũng được nhưng phải chịu một vết thương nơi vai tả. Chàng và Tất Linh Kỳ không thù oán, chẳng cần phải thí mạng làm chi!
    Phe Thiên Sư Giáo reo hò vang dội khi máu từ vết thương làm sậm màu tấm áo hồng của Tiên Nhân Động Chủ!
    Tất Linh Kỳ bàng hoàng đưa tay tả bịt vết thương, không tin đấy là sự thật! Lão đang dồn cho đối thủ lui dài, sao lại có thể trúng đòn được? Nhưng cám giác đau đớn ở sườn non đã thức tỉnh lão. Tất Linh Kỳ kiểm tra thương thế, biết chỉ là ngoài da nên vần còn sính cường. Lão điểm huyệt chỉ huyết rồi lạnh lùng nói:
    - Đu ba chiêu mới phân thắng thua! Nếu Kỳ Hoa Chân không gục ngã thì lão phu nhận bại!
    Đúng là song phương đã giao ước như thế nên Trương Thiên Sư phải chấp nhận để Tư Đồ Sảng đánh tiếp. Lòng ông thầm lo lắng cho vị sư đệ trẻ tuổi vì hiểu rằng Tất Linh Kỳ sẽ thí mạng! Để thua một tiểu tử miệng còn hôi sữa thì thanh danh tiêu tán, thà chết còn hơn!
    Trương Hàn Vũ liền vẫy Tư Đồ Sảng đến dặn nhỏ:
    - Sư đệ hãy cẩn thận! Lão Quỉ họ Tất định đổi mạng đấy!
    Tư Đồ Sảng bình thản mỉm cười:
    - Giáo Chủ cứ yên tâm! Tiểu đệ biết mình phải làm gì!
    Chàng trở lại đấu trường, đứng đối diện với Tiên Nhân Động chủ, thủ thế y như lúc nãy, sắc mặt an hòa, chẳng hề lộ nét kiêu căng tự đắc vì thắng lợi.
    Tất Linh Kỳ chột dạ, thầm hiểu rằng cái tâm của gã đạo sĩ trẻ kia đã đồng nhất với kiếm, không hề bị thất tình lục dục làm nhiễu loạn! Nhưng lão đặt trọn niềm tin vào hai chiêu kiếm cuối cùng trong pho Hỗn Nguyên Kiếm Pháp nên bình tâm xuất chiêu “Thiên Địa Sinh Dương”!
    Tiên Nhân Động Chủ lướt đi, thân ảnh biến mất trong màn kiếm quang sáng bạc, loang loáng dưới ánh nắng hè chói lọi tựa vầng dương lúc vừa được trời đất sinh ra!
    Lần này Tư Đồ Sảng không đứng im chờ đợi mà chủ động lao đến ngay khi đối phương vừa xuất thủ. Chàng chỉ chậm hơn một cái chớp mắt và nhờ tốc độ thần kỳ của pho Truy Tinh Bồ Pháp nên lại trở thành kẻ tấn công.
    Lúc này, chiêu kiếm của đối phương chưa đạt đến độ nhanh tối đa, không phát huy được hết uy lực! Hành động này của chàng còn khiến cho Tiên Nhân Động Chủ bị bất ngờ, và rơi vào thế bị động!
    Tư Đồ Sảng đánh chiêu Thượng Thiên Nhược Thủy đường kiếm liền lạc âm nhu tạo nên những cơn sóng kiếm kình mềm mại, liên tục vỗ vào màn kiếm quang sáng rực, hung hãn của Tất Linh Kỳ!
    Tên của chiêu này hàm ý rằng bậc Đại Thiện Nhân thì giống như nước vậy! Nước giúp ích vạn vật, không tranh chỗ cao ráo, ở vào chỗ thấp kém nên rất gần với Đạo! Nước còn có một đức tính nữa là không thể bị chặt đứt và có thể len qua những khe hở dù rất hẹp!
    Đây là chiêu thức kỳ diệu nhất trong pho Huyền Nguyên Kiếm Pháp, có thể thủ thắng trước bất cứ kẻ địch nào! Tiếc rằng, công lực của Tư Đồ Sảng chưa đủ thâm hậu nên không thành công trọn vẹn! Sóng kiếm của chàng đã len qua sơ hở, chạm sườn trái đối phương, nhưng ngược lại, mũi kiếm của Tất Linh Kỳ cũng đang bám lấy huyệt Đản Trung ở giữa ngực chàng!
    Nếu Tư Đồ Sảng có đủ hoa giáp chân lực thì sóng kiếm đã làm cho vũ khí của Tất lão chậm lại hơn nhiều và không thể đả thương được chàng?
    Tư Đồ Sảng là một kiếm thủ bẩm sinh khi giao đấu tâm tình lặng và trong sáng như gương. Nhờ vậy, các giác quan của chàng rất minh mẫn, cảm nhận được hết những mối hiểm nguy đang đe dọa cơ thể!
    Và nếu chàng bỏ dở đường gươm cố thoát khỏi cái thế lưỡng bại câu thương này thì sẽ lâm nguy bởi những thức kiếm tiếp theo. Tư Đồ Sảng biết rõ họ Tất chứa thi triển hết trọn chiêu kiếm!
    Diễn tả thì dài dòng, lâu lắc song sự việc xảy ra chỉ trong chớp mắt. Tư Đồ Sảng đã thản nhiên thọc kiếm vào huyệt Phúc Ai. thuộc linh túc Thái âm Tỳ của đối thủ. Đống thời, một kiếm của Tất Linh Kỳ cũng chạm lớp vải áo ở phía ngoài huyệt Đản trung!
    Xem ra Tư Đồ Sảng sẽ rất thiệt thòi, huyệt Đản Trung thuộc mạch Nhâm, là một tử huyệt, còn huyệt Phúc Ai thì không!
    Phe Thiên Sư Giáo sợ đến xám mặt, lo cho Tư Đồ Sảng, khi họ thấy thấy chàng văng ngược vế phía sau, máu loang đẫm ngực phải. Chàng mặc áo đạo sĩ trắng tinh nên.màu máu hiện ra rất rõ!
    Trương Giáo Chủ và hai vị hộ pháp vội lướt đến để chăm sóc Ngũ đệ.
    Họ thở phào khi thấy Tư Đồ Sảng cười bảo:
    - Tiểu đệ chỉ bị thương nhẹ xin Giáo Chủ và nhị vị sư huynh chớ quá lo!
    Lúc này Tiên Nhân Động Chủ đã chỉ huyết vết thương nơi huyệt Phúc Ai và nuốt vài viên linh đan xong. Lão căm hận rít lên:
    - Tiểu quỷ chết toi kia! Sao ngươi dám lén lót thép lá vào ngực mà giao đấu?
    Tư Đồ Sảng lặng lẽ phanh ngực để lộ Hồng Ngọc hồ lô. Chính cái vật nhỏ bé này đã che chở huyệt Đản Trung của chàng và đẩy lệch mũi kiếm của Tất Lão sang một bên! Chàng hòa nhã nói:
    - Tại hạ chỉ gặp may chứ không hề gian dối!
    Tiên Nhân Động Chủ chết điếng người hối tiếc rằng vì sao lúc nãy không đưa kiếm lên hoặc xuống dưới huyệt Đản Trung một vài thốn! Trong canh bạc này lão đã cháy túi vì xui tận mạng!
    Thật ra, Tư Đồ Sảng chẳng hề cầu may vì biết rõ vị trí của Hồng Ngọc hồ lô lúc ấy! Trái bầu Ngọc đỏ này không tròn lẳn mà hơi dẹp, phần dưới có đường kính rộng độ bai lóng tay, thừa sức che kín huyệt Đản Trung! Và nó rất cứng rắn, chẳng thể nào bị mũi kiếm đâm vỡ được! Tất nhiên, điều này còn đòi hỏi một dũng khí hơn người!

  9. #9
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 6 - ĐỒNG QUAN LÂU THƯỢNG NHAN NHƯ NGỌC, BÍCH HỔ THẦN CÔNG NÁO HẠO THIÊN!
    Đầu tháng tám, Tư Đồ Sảng và Huyết Báo đã vào đến địa phận tỉnh Thiểm Tây, dừng cương ở Đồng Quan, cách Tường An cỡ bốn năm ngày đường!
    Ải Đồng Quan và Ải Hàm Cốc là hai cửa ngõ duy nhất để vào đất Thục từ hướng Đông. Chính vì thế mà thành Đồng Quan khá lớn, dân cư sầm uất, kinh tế thịnh vượng.
    Xế trưa, hai người ghé vào Túy Đào đại tửu lâu để dùng cơm. Trời thu trong vắt, tửu khách ở tầng ba có thể vừa nhâm nhi vừa ngắm rặng núi Hoa Sơn lừng danh ở hướng Tây. Còn nhìn về hướng Đông họ sẽ thấy một rừng đào mênh mông bát ngát.
    Tư Đồ Sảng chưa đến thăm Hoa Sơn bao giờ nên chọn một bàn cạnh cửa sổ hướng Tây, dõi mắt ngắm nhìn những đám mây trắng nhỏ đang vờn quanh năm đỉnh núi xa mờ!
    Chàng rút Giáng Ma Phủ đặt trong lòng để ngồi cho thoải mái. Huyết Báo đỡ khổ hơn vì Nhị Tiết Côn đã nằm trong tay nải, gã chỉ phải tháo thanh trường kiếm trên vai, đặt lên mặt bàn. Gã mang kiếm khiến thiên hạ càng không thể nhận ra thân phận cũ!
    Nhưng cây trường kiếm này lại là của Tư Đồ Sảng chứ chẳng phải của gã!
    Giáo Chủ Thiên Sư Giáo đã tặng nó cho vị Ngũ sư đệ đáng yêu, kẻ đã cứu vãn cả cơ nghiệp lẫn thanh danh của lão. Tuy chẳng sắc bén như những bảo vật thời Xuân Thu nhưng nó cũng rất tốt vì Giáo Chủ thì không thể sử dụng loại vũ khí tầm thường được.
    Xong bữa, hai người ngồi đối ẩm, thưởng thức rượu Túy Đào, thứ đặc sản đã làm nên tên tuổi của tửu lâu! Giờ đây, ánh mắt của Huyết Báo chẳng còn lạnh lẽo, đầy sát khí như lúc trước. Gã nhìn Tư Đồ Sảng bằng những tia nhìn trìu mến, miệng nở nụ cười ấm áp hàm răng chắc khỏe và trắng nhởn kia tương phản với bộ râu rậm đen mun!
    Liễu Mộ Hào đã trở về với bản chất thực của mình, không còn phải đóng vai một hung thần khét tiếng nữa. Gã vui vẻ hỏi chủ nhân:
    - Công tử! Có khi nào công tử nghĩ đến việc hai nàng họ Lăng kia hóa trang hay không? Người đời thường có thói xem trọng hình thức bên ngoài, lẽ nào Cung chủ Hạo Thiên Cung lại thu nhận hai ả nữ tỳ quá xấu xí như vậy?
    Tư Đồ Sảng ngượng ngập đáp:
    - Liễu túc hạ luận việc cũng có lý. Tiếc rằng tại hạ nhãn quang kém cỏi nên không thể nhìn ra hư thực!
    Nụ cười, ánh mắt của cố nhân khiến lòng chàng xao xuyến. Và sau đó là gò ngọc nhũ thanh tân, mơn mởn của Phi Hồng cũng hiện ra khiến chàng đỏ mặt.
    Tư Đồ Sảng hổ thẹn nói lảng sang chuyện khác:
    - Trước lúc qui tiên, gia sư đã dặn dò tại hạ phải đề phòng Hạo Thiên Cung! Bao năm qua tổ chức này cư xử như một chính phái, nhưng có thể chỉ vì nể sợ gia sư! Khi biết người đã tạ thế, e rằng họ sẽ bộc lộ dã tâm!
    Liễu Mộ Hào gật gù:
    - Công tử nói phải! Hạo Thiên Cung đã mời hàng ngàn cao thủ trong thiên hạ đến dự hội Bàn Đào, dụ dỗ họ trao đổi sở học, hoặc gia nhập dưới trướng! Hiện nay, họ đã gồm thâu võ nghệ trăm nhà và qui tụ toàn những tay kiệt xuất, lão thành, thế lực hùng mạnh đến mức có thể khuynh đảo võ lâm một cách dễ dàng!
    Gã nói đến đây thì dừng lời vì ánh mắt bắt gặp dung mạo của vị khách vừa bước lên khỏi cầu thang. Sắc diện của Liễu Mộ Hào rất quái dị, có vẻ như vừa mừng vừa sợ!
    Tư Đồ Sảng đang chăm chú nhìn gã nên nhận ra sự khác thường liền quay về hướng có tiếng chân người, chàng chỉ thấy một nữ lang tuổi đôi mươi, mặc váy áo mầu xanh bằng vải thô, tóc thắt thành hai bím, buông dài đến quá bụng. Trên tay nàng là một chiếc đàn tỳ bà cũ kỹ màu đen mờ. Tuy nghèo nàn, giản dị như thế nhưng dung mạo của nàng ta cực kỳ diễm lệ, lập tức khiến lòng Tư Đồ Sảng ngất ngây!
    Chẳng thể trách chàng được vì ả ca kỹ ấy có nước da trắng hồng, ngũ quan thanh tú, cân đối, chẳng hề có một khuyết điểm gì!
    Ngay cả tấm áo bằng vải xấu kia cũng được cắt may rất khéo, ôm sát thân trên và làm nổi bật đôi ngực nở nang và vòng eo thon nhỏ.
    Nàng ca kỹ đứng yên một lúc, đảo mắt quan sát để tìm đối tượng. Nhìn thấy gương mặt anh tuấn, cương nghị và ánh mắt ái mộ của Tư Đồ Sảng, nàng khẽ cau mày. Suy nghĩ một lúc rồi đi về phía bàn của chàng!
    Trong lúc ấy, Tư Đồ Sảng đã tỉnh táo lại! Mối huyết thù cùng với ân tình của chị em họ Lăng đã khiến chàng hổ thẹn, tự trách mmh là kẻ hời hợt!
    Chàng bình tâm quay lại hỏi Huyết Báo:
    - Liễu túc hạ! Nàng ta là ai vậy? Dường như túc hạ có biết nàng?
    Liễu Mộ Hào gượng cười:
    - Tại hạ thấy đẹp thì nhìn chứ nào có quen!
    Tư Đồ Săng không tin lắm, chỉ đoán rằng gã đang rất khổ tâm khi phải giấu giếm chàng!
    Ả ca kỹ đã đến bên bàn, không có vẻ gì nhận ra Huyết Báo. Nàng ta vẫn thản nhiên nở nụ cười đổ quán xiêu đình, thỏ thẻ với Tư Đồ Sảng:
    - Tiện nữ là Mạc Chiêu Hương, do gia cảnh bần hàn nên phải đem tiếng đàn điệu hát đồi lấy chén cơm. Mong công tử thương tình hạ cố thưởng thức chút tài mọn của kẻ bạc mệnh này!
    Giọng nàng thánh thót, ai oán và đôi mắt nhung huyền sâu thẳm kia tràn ngập nỗi thiết tha, khiến lòng người xúc động, không sao từ chối được!
    Lòng háo sắc đã nguội lạnh, Tư Đồ Sảng điềm đạm đáp:
    - Tại hạ tên Lý Thu là kẻ võ biền không sành âm luật! Nhưng nay cô nương đã có nhã hứng thì tại hạ xin rửa tai lắng nghe! Mời cô nương an tọa!
    Đàn tỳ bà là loại nhạc cụ không thể đứng mà đánh được! Mạc Chiêu Hương liền nhún mình cảm tạ rồi khép nép ngồi xuống chiếc ghế đôn ở mé bàn hướng Bắc! Nàng ta so dây và nói:
    - Tiện nữ xin được hát bài Từ Lâm Giang Tiên của Yến Kỷ Đạo thời Tống!
    Tư Đồ Quát văn võ toàn tài nên cũng rất sính thi ca. Mỗi lần ngà ngà say ông thường ê a hát cho vợ con nghe. Nhờ vậy, Tư Đồ Sảng biết Yến Kỷ Đạo, Tự Thúc Nguyên là một đại Từ Gia thời nhà Tống, nhưng cha của Yến Kỷ Đạo là Yến Thù lại càng nổi danh hơn nữa!
    Yến Thù, tự là Đồng Thúc, người đất Lạm Xuyên, Giang Tây, mới bẩy tuổi đã biết sáng tác văn, thơ, mười lăm tuổi đậu tiến sĩ. Những danh sĩ đương thời như Phạm Trọng Yêm, Âu Dương Tu, Khổng Đạo Phủ, Vương An Thạch đều ở dưới trướng của Yến Thù! Từ của ông đẹp và trong sáng, thể hiện rõ trong tác phẩm “Ngọc Châu Tập”.
    Mạc Chiêu Hương đã so dây xong, dựng đàn trước ngực trái, tay tiên mười ngón nắn nót đường tơ, môi anh đào nhả từng lời thơ tuyệt diệu:
    Mộng hậu lâu đài cao toả
    Tửu tinh Liêm Mộ đê thùy
    Khứ niên xuân hậu khước lai thì
    Lạc hoa nhân độc lập.
    Vi vũ yến song phi.
    Ký đắc Tiếu Tần sơ kiến
    Lưỡng trùng tâm tự la y
    Tỳ bà huyền thượng thuyết tương tư.
    Đương thời Minh Nguyệt tại
    Tằng chiếu thái vân qui.
    Dịch thơ:
    Mộng dứt lâu đài buông khóa
    Rượu tan rèm trướng buông rơi
    Xuẩn năm qua hoa bạn với người
    Hoa rụng người cô độc
    Mưa nhỏ én bay đôi
    Nhớ buổi gái tơ mới gặp
    Chữ tâm hai cánh áo thêu
    Ôm tỳ bà gẩy khúc tương tư
    Đương thời trăng rạng chiếu
    Đường về đám mây đưa.
    Bài từ này đã gợi cho Tư Đồ Sảng nhớ đến song thân nên mắt chàng lộ rõ nỗi buồn man mác. Mạc Chiêu Hương rất hài lòng vì gặp được khách tri âm, biết thưởng thức tài nghệ của mình. Nàng nhìn chàng đầy ngưỡng mộ và tán dương:
    - Công tử quả là bậc tao nhân nhã sĩ khác hẳn bọn phàm phu tục tử! Tiện nữ xin vì công tử mà phụng hầu thêm một khúc hát nữa!
    Tư Đồ Sảng đang bồi hồi vì ký ức nên buột miệng đáp:
    - Phiền Mạc cô nương cho tại hạ nghe bài “Hoán Sa Khê” của Đồng Thúc tiên sinh!
    Mạc Chiêu Hương thích thú nói:
    - Té ra công tử cũng ái mộ cha con nhà họ Yến giống như tiện nữ!
    Nàng hào hứng đàn hát bài ấy cho Tư Đồ Sảng nghe, mắt dán vào những đường nét thanh thoát trên gương mặt nhìn nghiêng của chàng. Tư Đồ Sảng ngắm núi Hoa Sơn mà nghe hát chứ không nhìn ngắm nàng như bao người khác. Chưa ai có thể hững hờ trước gương mặt đẹp mê hồn của nàng cả.
    Chút tự ái nữ nhân đã khiến nàng hờn giận, hát xong là cáo từ:
    - Tiện nữ biết mình là hạng gái phong trần, chẳng dám quấy nhiễu bậc quí nhân thêm nữa, xin công tử ban cho một ít bạc vụn!
    Một ý niệm ngộ nghĩnh chợt loé lên trong đầu Tư Đồ Sảng. Chàng đã nhận ra nãy giờ Huyết Báo khốn khổ như kẻ đang ngồi trên ổ kiến, bứt rứt không yên và chẳng dám nhìn Mạc Chiêu Hương. Chàng cho rằng gã ái mộ ả ca kỹ này mà chẳng dám thố lộ. Vậy thì chàng sẽ giúp gã một tay!
    Tư Đồ Sảng hỏi gã:
    - Theo ý Liễu túc hạ thì chúng ta nên thưởng cho Mạc cô nương đây bao nhiêu ngân lượng?
    Liễu Mộ Hào càng bội phần bối rối, ấp úng đáp:
    - Sao công tử lại hỏi ta?
    Tư Đồ Sảng tủm tỉm cười:
    - Nếu túc hạ không có cao kiến gì thì hãy cho ta mượn một nén vàng!
    Liễu Mộ Hào lóng ngóng mở tay nải lấy ra nén vàng mười lượng đặt trước mặt Mạc Chiêu Hương mà chẳng nói gì cả!
    Vàng là thừ kim loai có mầu sắc rực rỡ, có ái lực mãnh liệt đối với mắt người, vì vậy, rất nhiều tửu khách chung quanh nhìn thấy. Ngay cả những kẻ đã say cũng phải ồ lên xuýt xoa, ganh ty với vận may của ả ca kỹ, bởi họ nhìn một hóa thành hai!
    Nào ngờ Mạc Chiêu Hương lại chẳng hài lòng, cười nhạt bảo:
    - Đối với khách tri âm như công tử thì dù chỉ vài phân bạc tiện nữ cũng vui lòng nhận. Còn Liễu đại ca đây nghe nhạc như nghe sấm thì phải đủ trăm lượng hoàng kim mới xứng!
    Tư Đồ Sảng gật gù khen:
    - Mạc cô nương quả là cao luận!
    Rồi chàng thản nhiên bảo họ Liễu:
    - Mĩ nhân đã hạ cố nhận sao túc hạ không mau dâng tặng?
    Liễu Mộ Hào biết chàng vì hiểu lầm mà cố vun vén cho gã với Chiêu Hương, trong lòng rất khổ sở, tức tối, song vẫn lặng câm móc ra thêm chín nén vàng nữa!
    Mạc Chiêu Hương cũng nhìn thấy tâm can chàng công tử, tự ái bị tổn thương chua chát rủa thầm gã ngốc Lý thu không biết thưởng thức nhan sắc của nàng, lại còn đẩy đưa sang cho họ Liễu!
    Nàng giận đến xanh mặt, chưa kịp có chủ ý thì từ một bàn ở hướng Đông vọng lại tiếng người lạnh lẽo:
    - Này ả họ Mạc kia! Nàng hãy sang đây phục vụ cho bổn thiếu gia!
    Nghe cách xưng hô thô lỗ, ngạo mạn, Tư Đồ Sảng bất bình nhìn về hướng ấy, thấy một hán tử tuổi độ tam tuần, y phục sang trọng. Gã mặc trường bào mầu nguyệt bạch, ngoài khoác thêm áo ngắn mầu nâu, tất cả đều bằng gấm thượng hạng. Trên mũ của gã đính một viên lục Bảo ngọc lớn bằng hạt bắp, lấp lánh ánh sao rực rỡ, làm tôn vẻ quí phái của gương mặt điển trai! Sau lưng gã còn có hai tên vệ sĩ áo xanh, tuổi đôi mươi, mặt lầm lì lạnh lẽo!
    Tư Đồ Sảng chẳng thể phát tác vì Chiêu Hương là ca kỹ, ai cũng có quyền gọi đến!
    Huyết Báo phản ứng rất quái dị, gã lén nhếch mép cười, ánh mắt dầy vẻ thích thú! Dường như gã chỉ muốn Mạc Chiêu Hương đi cho khuất mắt!
    Song nàng ta lại chẳng chịu kiếm thêm tiền, cao giọng trả lời vị khách sang cả kia:
    - Cảm tạ công tử đã chiếu cố song hôm nay tiện nữ được quí nhân hậu thưởng, chẳng cần phải làm thêm nữa. Hẹn công tử lần khác vậy!
    Thái độ của nàng đã khiến kẻ cao ngạo kia động nộ. Gã liền bảo hai cận vệ:
    - Các ngươi sang bên đó đưa con ả mạt hạng ấy về đây!
    Hai kiểm thủ áo xanh vòng tay nhận lệnh rồi lừng lững tiến vế phía bàn của Tư Đồ Sảng.
    Mạc Chiêu Hương sợ hãi đứng lên, chạy đến sau lưng Tư Đồ Sảng run rẩy nói:
    - Tiện nữ sợ lắm! Mong Lý công tử chở che cho!
    Chàng mỉm cười trấn an:
    - Cô nương yên tâm! Liễu túc hạ đây võ công cái thế, chẳng để ai hà hiếp cô nương đâu!
    Ý chàng muốn Huyết Báo có dịp trổ tài lập công với nữ nhân hòng tranh thủ tình cảm! Quả thực là Liễu Mộ Hào đã đứng lên nghênh chiến! Cây Nhị Tiết Côn không còn nước sơn đỏ nên chẳng dọa được ai. Gã lạnh lùng nói với phe đối phương:
    - Nàng ta không muốn hát thì thôi, sao chư vị lại bức bách?
    Gã áo xanh râu ngắn gằn giọng đe dọa:
    - Chủ nhân của bọn ta có lai lịch rất lớn. Các hạ chớ dây vào mà mang họa!
    Bọn tiểu nhị và các thực khách ở những bàn gần đấy đã mau mắn dọn dẹp bàn ghế để tránh tổn thất bát đĩa. Nhờ thế mà sau lưng hai gã thanh y hiện ra một khoảng trống rộng rãi, tạm đủ làm đấu trường!
    Tính hiếu sát của Huyết Báo đã nổi lên, gã lập tức xuất thủ ngay, dũng mãnh tấn công bằng một chiêu vũ bão. Hai gã thanh y chẳng chịu kém, cử kiếm chống đỡ và lùi về phía sau cho rộng rãi!
    Huyết Báo bám theo, vung lên đánh những đòn trời giáng khiến hai thanh kiếm mỏng manh kia rung động mãnh liệt và phải chịu thế hạ phong.
    Tiếng thép chạm nhau rợn người, và dù rằng hai gã áo xanh đã tận lực chiến đấu cũng không thể địch lại Huyết Báo. Họ bị đẩy lui dồn đến tận bàn của chủ nhân!
    Chàng công tử kia mất mặt, giận dữ quát vang:
    - Dừng tay!
    Tiếng quát của gã hùng mạnh như tiếng sấm nổ khiến cử tọa lùng bùng lỗ tai và ngói trên mái tửu lâu phải rung rinh!
    Huyết Báo đình thủ lùi nhanh. Hai gã áo xanh thở phào, đứng cúi gầm mặt để nghe lời khiển trách của chủ:
    - Thật là đáng xấu hổ! Khi về đến nhà ta sẽ phạt nặng hai ngươi!
    Rồi gã chậm rãi bước đến trước mặt Huyết Báo, quắc mắt bảo:
    - Số ngươi đã tận nên mới dám xúc phạm bổn Thiếu gia!
    Nói xong gã thò tay rút thanh kiếm đeo lủng lẳng bên hông với một động tác nhanh như điện.
    Ngay từ đầu, gã công tử kiêu sa ấy đã ra đòn sát thủ để gỡ thể diện. Trường kiếm trong tay gã hóa thành đạo hào quang sáng bạc, bay lượn với tốc độ kinh người, dệt nên tấm lưới thép đầy sát cơ.
    Huyết Báo là kẻ dạn dày trận mạc thức ngộ được ngay rằng chiêu kiếm của đối phương rất nguy hiểm!
    Và cả tiếng kiếm kình rít lên xé không gian kia cũng biểu lộ một công lực vô cùng thâm hậu! Gã không hề kinh ngạc trước tu vi kẻ địch cao hơn tuổi tác vì Tư Đồ sảng cũng thế.
    Huyết Báo cắn răng dồn toàn lực vào cây côn hai khúc, công phá màn kiếm ảnh lạnh lẽo và dầy đặc đang ập đến!
    Thép chạm thép vang rền mà đường kiếm không hề bị ngăn cản, vẫn cứ phăng phăng tìm đến lồng ngực của Huyết Báo. Chiêu kiếm ấy quả là thần sầu quỉ khốc, ảo diệu khôn lường!
    Huyết Báo rợn tóc gáy, hiểu rằng mạng mình sắp đứt! Nhưng trong lúc ngàn cân treo sợi tóc ấy, có một bàn tay đã nắm áo gã lôi ngược về phía sau, thoát khỏi mũi gươm oan nghiệt. Và người ấy vung kiếm điểm liền chín thức thần tốc, khiến đối thủ của Mộ Hào phải thoái bộ!
    Người ấy chính là Tư Đồ Sảng, với nhãn quan của một kẻ đã vươn tới cảnh giới kiếm đạo, chàng trực giác nhận ra sự lợi hại của chiêu kiếm hãn thế kia, vội can thiệp ngay để cứu mạng thủ hạ. Nhờ thế mà huyết Báo chỉ bị một vết thương nhỏ nơi vú trái, chưa chạm đến xương cốt.
    Tất nhiên, chàng công tử áo trắng không hài lòng, giận dữ tấn công kẻ phá đám. Gã vung kiếm uy hiếp mặt và ngực Tư Đồ Sảng bằng một chiêu đơn giản nhưng nhanh và độc. Song phương giáp mặt, nằm trong tầm kiếm của nhau nên trận chiến vô cùng khốc liệt, đòn đổi đòn với tốc độ sao băng, tiếng thép ngân dài chứ không đứt đoạn.
    Trên lầu này có khá nhiều khách giang hồ. Họ phấn khởi quan sát cuộc so tài của hai kiếm thủ thượng thặng, thỉnh thoảng lại ồ lên trầm trồ để chứng tỏ mình đủ bản lãnh thưởng thức những đường gươm hay lạ!
    Qua va chạm vũ khí, Tư Đồ Sảng hiểu rằng công lực đối phương cao hơn mình, song điều ấy không đáng ngại bằng pho kiếm pháp mà gã ta đang sử dụng. Chẳng phải vì nó lợi hại hơn Huyền Nguyên Kiếm Pháp của chàng, mà bởi nó có những sơ hở chứng tỏ rằng gã tốt mã này mặc bảo y!
    Nếu chàng dại dột thọc gươm vào ngực, bụng của gã thì sẽ sa bẫy, bằng như không biết được thì cũng chịu thiệt thòi vì mục tiêu còn lại bị hạn chế quá nhiều! Chàng chỉ có thể tấn công vào mặt, cổ, tứ chi và hạ thể của gã mà thôi!
    Tư Đồ Sảng đã nhắm vào những vị trí ấy liền bị đối phương giải phá dễ dàng. Chàng có cảm giác rằng chiêu kiếm của kẻ địch là khắc tinh của Huyền Nguyên Kiếm Pháp vậy!
    Phải chăng gã công tử này xuất thân từ môn hộ thù địch với Ly Giang Tiên Ông? Vì vậy, họ đã dụng tâm nghiên cứu cách đối phó với Huyền Nguyên Kiếm Pháp!
    Nhưng muốn làm được điều ấy, họ phải nhiều lần được chứng kiến Tiên Ông xuất thủ. Việc này khá hiếm hoi nên thời gian sẽ kéo dài vài chục năm!
    Thực ra, dù đối phương có khổ công đến đâu đi nữa thì cũng vô vọng, vì sư phụ chàng đã đạt đến trình độ vô chiêu, đường kiếm của ông nhanh hơn cả ý nghĩ nên không thể nào giải phá được!
    Tư Đồ Sảng không thể sánh với Tiên Ông nhưng chàng lại tinh thông đến mấy pho Kiếm Pháp là Du Long, Giáng Ma, Huyền Nguyên! Chưa tới mức vô chiêu song chàng tùy nghi thi triển bất cứ chiêu nào trong ba pho kiếm ấy, kể cả một số chiêu thích hợp trong Giáng Ma Phủ Pháp!
    Với sở học rộng rãi như thế, Tư Đồ Sảng ung dung đọ sức, thi triển phép khoái kiếm đến độ chót, đánh những chiêu tân kỳ, lạ mắt, dồn kẻ địch vào thế thủ.
    Là kẻ cao ngạo, mục hạ vô nhân, gã công tử áo trắng không chịu nổi nỗi nhục hạ phong, nghiến răng đánh đòn tối hậu. Gã có bảo y hộ thể nên chiếm ưu thế khi đổi mạng! Trừ yết hầu và hai mắt, các tử huyệt đều nằm trên ngực bụng.
    Gã cắn đầu lười và bất thình lình vận khí phun làn sương máu hòa nước bọt vào mặt đối thủ rồi ập đến.
    Tư Đồ Sảng thiếu kinh nghiệm giang hồ nên hoàn toàn không phòng bị thủ đoạn hạ lưu này, hai mắt trúng đòn. Bản năng sinh tồn đã giúp chàng phản xạ một cách thần tốc, đảo bộ sang tả nửa trượng để tránh đường gươm ác liệt của kẻ thù và điểm như mưa rào vào mé hữu cái bóng mờ mờ ấy!
    Truy Tinh Thần Bộ ảo diệu vô song đã cứu đước Tư Đồ Sảng. Đối phương bất ngờ bị mất mục tiêu, lòng hoang mang kinh ngạc nên đã xoay trở không kịp đành đổi mạng, song chỉ chặn được một nửa số thế thức của chiêu “Thiên Tiên Nữ Điểm Tinh”. Gã đau đớn rú lên và văng ngược về phía sau vì trán và đùi phải bị đâm trúng!
    Phần Tư Đồ Sảng bởi thị lực nên đã trúng một kiếm ngay bụng dưới! May mà vết thương không nặng vì ngay lúc dó chàng đâm trúng góc trán kẻ địch, khiến gã bật ngửa, bỏ dở đường gươm!...
    Nhưng trong máu của đối phương có độc! Tư Đồ Sảng bị phun vào mặt nên giờ đây cũng gục ngã, mê man bất tỉnh!
    O0o
    Chiều đã buông, hoàng hôn mùa Thu giăng tím trời tây, chim rừng hối hả bay về tổ, vậy mà có một cỗ xe song mã cứ thong thả chạy trên con đường quan đạo dẫn đến Tường An.
    Gã xà ích rậm râu cẩn thận tránh né những ổ gà trên mặt đường như cố giữ cho xe chạy thật êm để hai người đang ngủ trong thùng xe được yên giấc.
    Gã đánh xe là Liễu Mộ Hào thì hai người ấy phải là Tư Đồ Sảng và Mạc Chiêu Hương!
    Ghế trong xe đã được gỡ sạch để trải nệm cho bệnh nhân nằm. Tư Đồ Sảng đã ba ngày chưa hồi tỉnh, vẫn mê trầm vì chất độc. Huyết Báo đã cho chàng uống cả hai viên Luân Hồi Thần Đan mà không giải trừ nổi chất kỳ độc. Tuy nhiên, dược lực thần đan đã bảo vệ được nguyên khí của Tư Đồ Sảng, giúp chàng chống chọi lại cái chết.
    Mạc Chiêu Hương đã thức trắng ba đêm, giờ mệt mỏi nằm cạnh Tư Đồ Sảng mà thiếp đi. Nàng chẳng còn gì để úy kỵ vì đã tự tay chăm sóc vết thương nơi bụng dưới của chàng!
    Sau trận đánh ấy, Chiêu Hương đã bảo Huyết Báo bồng Tư Đồ Sảng đào tẩu ngay để tránh sự vây đánh của phe đối phương. Nàng hiểu gã công tử áo trắng kia là kẻ có lai lịch và có thể thú hạ của gã ở thành Đồng Quan này khá đông đảo!
    Rời khỏi cửa Tây thành Đồng Quan vài dặm, hai người rẽ ngựa vào rừng đào để chăm sóc cho Tư Đồ Sảng. Chiêu Hương thuộc địa hình vùng này, biết vị trí của một con suối nhỏ.
    Họ dừng cương cạnh suối trong rừng, Huyết Báo xuống ngựa, đặt chủ nhân lên tảng đá bằng phẳng gần bờ và thản nhiên nói:
    - Sư muội đã gây ra tai họa này thì phải phịu trách nhiệm. Ta sẽ đi tìm một cỗ xe!
    Thì ra Mạc Chiêu Hương là sư muội của Huyết Báo! Nhưng tại sao gã lại sợ nàng như sợ cọp vậy?
    Mạc Chiêu Hương đỏ mắt ấp úng:
    - Y là nam nhân, tiểu muội chăm sóc sao tiện?
    Huyết Báo cười nhạt, hậm hực nói:
    - Sư muội ỷ mình là ái nữ của sư phụ, sư nương, lại nắm giữ Huyết Côn lệnh phù, tha hồ tác quái, nhiều lần hại ta sống dở, chết dở! Vả lại, ngươi vẫn xem đàn ông trong thiên hạ đều là tượng gỗ thì có gì phải xấu hổ. Nói xong, gã nhẩy lên ngựa đi ngay!
    Mạc Chiêu Hương giận dữ gọi với theo với giọng hăm dọa:
    - Sư huynh mà bỏ đi thì tiểu muội giết gã họ Lý này đấy.
    Huyết Báo ngoái đầu lại cười lớn:
    - Sư muội cứ việc giết quách gã ấy đi! Ta đang giữ mấy ngàn lượng vàng của Lý Thu, chỉ có lợi mà thôi!
    Gã quất ngựa phi mau nhưng chỉ một đoạn đã dừng vó câu, xuống ngựa lén quay lại để xem tình hình. Biết đâu cô ả ác độc này giết Tư Đồ Sảng thực thì sao?
    Huyết Báo hài lòng khi thấy Chiêu Hương đang cởi bộ y phục đẫm máu của chàng! Gã yên tâm trở về chỗ cột ngựa, đi ra đường quan đạo!
    Ở đây, Mạc Chiêu Hương đỏ mặt tía tai, miệng lầm bầm chửi rủa Liễu Mộ Hào, tay thì lóng ngóng cởi quần áo bệnh nhân!
    Lúc chỉ còn chiếc quần ngắn đẫm ướt máu đào, Chiêu Hương bẽn lẽn liếc quanh, dù không thấy ai song vẫn do dự bất quyết. Cuối cùng, nàng thở dài tự nhủ thành lời:
    - Mộ Hào nói đúng! Ta đã gây ra hoạ thì phải nhận lãnh trách nhiệm, duyên nợ có thành hay không cũng mặc!
    Nàng cắn răng dùng kiếm cắt rời chiếc quần ngắn, rồi rửa ráy tấm thân cường tráng, vạm vỡ của Tư Đồ Sảng, cố không để nước suối dính vào vết thương!
    Lúc Huyết Báo mang xe ngựa về đến thì Tư Đồ Sảng đã chỉnh tề trong y phục mới, thương tích được băng bó cẩn thận.
    Đưa chàng lên xe xong, Huyết Báo tủm tỉm hỏi:
    - Sư muội thấy bức tượng gỗ kia mùi vi thế nào?
    Chiêu Hương ngượng đến chín cả người, liếc gã bằng ánh mắt giận hờn và tá hỏa tam tinh khi nghe Huyết Báo nói tiếp:
    - Tiếc rằng sư muội tuổi đã gần tam thập, hơn công tử đến chín mười tuổi chỉ sợ y chê già mà không chịu cưới!
    Chiêu Hương tức điên người trước vẻ mặt đắc ý của Mộ Hào song không phát tác nổi vì đang hoang mang vấn đề duyên nợ! Nàng chợt hối hận những hành vi quái ác ngày xưa mà nạn nhân chính là họ Liễu!
    Hàng năm, Mộ Hào đều phải về Mạc gia trang ở Tường An dự đám giỗ Huyết Côn Tôn Giả. Mẹ con nàng đã rời Cam Châu vào Trung Nguyên cư trú từ sau cái chết của Tôn Giả! Lần nào Chiêu Hương cũng bày trò chơi ác sư huynh, lúc thì hạ độc khiến gã tiêu chảy đến xanh mặt, lúc thì nàng xông mê hương rối cắt phăng búi tóc của Mộ Hào! Tai hại nhất là lần nàng gài bẫy khiến gã rơi xuống hố phân suýt chết.
    Nhớ lại chuyện cũ, Chiêu Hương vô cùng áy náy, nghẹn ngào nói:
    - Tiểu muội tính tình xấu xa, nhiều phen làm hại sư huynh, giờ nghĩ lại ma lòng hổ thẹn. Mong sư huynh vì anh linh của tiên phụ mà tha thứ cho tiểu muội!
    Huyết Báo gật gù:
    - Thôi được! Ta hứa sẽ giấu cái tính nết nanh nọc, độc ác của sư muội. Còn việc sư muội làm thế nào để chiếm được trái tim của Tư Đồ Sảng thì tùy!
    Chiêu Hương ngơ ngác:
    - Lý công tử tên thật là Tư Đồ Sảng ư?
    Huyết Báo gật đầu, lặng lẽ tháo yên cương con ngựa của Tư Đồ Sảng rồi ghép vào cỗ xe song mã cho đủ cặp.
    May thay, phe địch không hề truy đuổi và bệnh nhân được Luân Hồi Thần Đạn hộ mạng, nên Huyết Báo có thể chậm rãi đánh xe đến Trường An. Sư nương của gã chính là một bậc thần y có tài diệu thủ hồi xuân!
    Dọc đường, Mạc Chiêu Hương tận tâm lo lắng cho Tư Đồ Sảng và rất cung kính với Mộ Hào!
    Còn chàng trai của chúng ta thì sao? Tư Đồ Sảng đã hồi phục được vài phần, tứ chi có thề cử động được song tâm trí vẫn còn mê muội!
    Chất kỳ độc kia đã gây ra những cơn sốt nhẹ liên tục khiến chàng không lai tỉnh lại được. Và trong trạng thái ấy chàng đã có một giấc mộng rất đẹp.
    Chàng mơ thấy mình còn thơ dại mới chừng tám chín tuổi và đang nằm cành mẹ hiền. Chàng rụt rè đưa tay mân mê đầu vú từ mẫu, nghe lòng cực kỳ khoan khoái: Mẹ chàng kiêm thông nội ngoại công nên cơ thể săn chắc, dầu cho con bú ba năm mà ngực vẫn không hề bị nhão hay chảy xệ, chỉ có đầu vú là lớn ra.
    Đang tận hưởng niềm hạnh phúc trẻ thơ, bỗng Tư Đồ Sảng bị Võ Xuân Hoa gạt tay ra. Chàng liền van nài:
    - Má à! Phụ thân đã sang Lý Thúc Công uống rượu, không thể thấy mà la rầy hài nhi được! Má cho hài nhi sờ thêm một lúc nữa nhé!
    Và chàng lại luồn tay vào áo mẹ và sờ soạng. Chàng không ngờ rằng Mạc Chiêu Hương đang dở khóc dở cười, cắn răng để cho chàng mơn man đôi ngực trinh nguyên, đầy đặn. Nỗi hổ thẹn dần dần qua đi và cảm giác hoan lạc của thịt da đã khiến nàng run rẩy!
    Người đàn bà đã thức giấc trong nàng sau nhiều năm ngủ quên!
    O0o
    Gần giữa tháng tám, Tư Đồ Sảng hoàn toàn bình phục và mờ sáng ngày mười bốn cùng Huyết Báo rời Mạc gia trang, trong thành Tường An, để đi đến núi Chung Nam.
    Chung Nam là ngọn núi nổi tiếng của Đạo Giáo Trung Hoa. Tương truyền, vị thần y nổi tiếng đời nhà Đường là đạo sĩ Tôn Tử Mạc đã đến đây ẩn cư một thời gian dài để tu tiên. Ông hái thuốc trong núi chữa bệnh cho dân chúng, được bách tính quanh vùng tôn kính, nhớ ơn. Cả Lã Động Tân, một người trong Bát Tiên, cũng từng tu luyện tại núi Chung Nam. Sau đó là Vương Trùng Dương, Tổ sư phái Toàn Chân. Chính vì thế mà trên núi có rất nhiễu danh lam thắng cảnh, đền đài miếu mạo! Và nơi đây cũng chính là trọng địa của phái Toàn Chân!...
    Núi Chung Nam nằm ở phía Nam thành Tường An, hơi chếch về phía tây một chút, cách cố đô độ mười dặm. Án ngữ mặt Bắc Chung Nam là hai đỉnh núi nhỏ mang tên Thiên Địa Sơn và Hoàng Hoa Sơn. Cả ba núi này đều nằm phía Tây đường quan đạo dẫn đến Tường An.
    Lúc đi ngang vùng chân núi Hoàng Hoa, Huyết Báo Liễu Mộ Hào bỗng hỏi chủ nhân:
    - Công tử! Nếu Cung Chủ Hạo Thiên Cung từ chối hôn ước không chịu nhận công tử làm rể thì sao?
    Tư Đồ Sảng khẽ giật mình, suy nghĩ một chút rồi nói:
    - Để đề phòng trường hợp ấy, phiền Liễu túc hạ ẩn thân cho kín, chờ xem kết quả, rồi bí mật bám theo sứ giả Hạo Thiên Cung đế tìm sào huyệt của họ!
    Huyết Báo tán thành, chỉ về phía trước dặn dò:
    - Công tử cứ thản nhiên giả như quay về Tường An và ghé vào trấn Tây Khẩu ấy mà dùng cơm, chờ tại hạ!
    Tây Khẩu trấn nằm mé Đông đường quan đạo, đối diện với Hoàng Hoa Sơn!
    Tư Đồ Sảng gật đầu đồng ý, ra roi phóng ngựa đi trước. Hai khắc sau chàng rẽ phải để đến cánh rừng liễu dưới chân núi phía Bắc núi Chung Nam.
    Lúc này mới là đầu giờ Thìn, phe Hạo Thiên Cung chưa có mặt, Tư Đồ Sảng xuống ngựa, đi thơ thẩn quanh bìa rừng liễu ngắm cảnh núi Chung Nam.
    Bình minh chưa xua tan hết sương trên sườn núi nên mái ngói của những tòa đền miếu ẩn hiện mông lung trong mây khói trông vô cùng diễm lệ và huyền ảo!
    Gương mặt những người thân hiện ra trong tâm thức, mang đến những cảm giác buồn vui. Chàng thoáng thẹn thùng khi nghĩ đến Mạc Chiêu Hương, người con gái xinh như mộng đã chăm sóc chàng suốt thời gian qua. Chàng thẹn vì đinh ninh rằng Liễu Mộ Hào đã thầm yêu cô sư muội nhan sắc mặn mà! Vậy thì nàng phải là của gã!
    Không ai tiết lộ những trò đùa tai ác năm xưa của Mạc Chiêu Hương để Tư Đồ Sảng hiểu được thái độ kỳ quái của Huyết Báo khi gặp nàng!
    Chàng cũng nhớ đến Khuất Thúy Lan, người đẹp đất Trường Sa, lòng thoáng bâng khuâng, song tự nhủ rằng mình đã hành động rất đúng khi dứt áo ra đi! Tuy trong tay nải luôn có gần ngàn lượng vàng nhưng Tư Đố Sảngvẫn là chàng trai nghèo khó của núi rừng Cửu Tuấn và chàng yêu mến điều ấy!
    Chợt có tiếng vó ngựa khua, Tư Đồ Sảng quay lại thì nhìn thấy một đoàn người gồm khoảng hai mươi thớt ngựa và một cỗ xe song mã rất đẹp. Phải chăng Cung Chủ Hạo Thiên Cung đã đích thân giá lâm? Chàng hơi ngạc nhiên vì không thấy hai người quen là Táo Gia Cát và Y Độc Thần Quân?
    Các kỵ sĩ hạ mã và cửa thùng xe cũng được mở ra để nhân vật quyền thế kia bước xuống.
    Tư Đồ Sảng và người ấy nhìn thấy nhau thì cùng giật mình vì chẳng hề xa lạ. Trên trán của chàng trai áo gấm vàng; búi tóc gắn Ngân Quan kia vẫn còn hằn sâu một vết sẹo đỏ hỏn. Hắn chính là gã công tử áo trắng, kẻ đã cùng chàng tử đấu ở Đồng Quan!
    Và gã quát vang:
    - Vây chặt tiểu tử ấy cho ta!
    Tuy không hiểu gì song hai chục cao thủ Hạo Thiên Cung vẫn rút kiếm bao vây Tư Đồ Sảng.
    Chàng rể hụt của Hạo Thiên Cung chua xót nghĩ thầm:
    - Chết thực! Gã này có thể chính là Thiếu Cung chủ Hạo Thiên Cung? Phen này duyên nợ của ta và chị em họ Lăng khó mà thành rồi!
    Chàng càng bội phần thất vọng và kinh ngạc khi nghe đối phương quát mắng:
    - Tư Đồ Sảng! Ngươi vì một á ca kỹ mà xúc phạm đến bổn Thiếu Cung chủ, sao còn dám vác mặt đến đây cầu hôn nữa sao? Ta có giết ngươi thì hai đứa em gái ngu muội của ta cũng không thể trách được!
    Tư Đồ Sảng không ngờ Lăng Phi Tuyết và Lăng Phi Hồng lại là ái nữ của Cung chủ Hạo Thiên Cung và là bào muội của gã Lăng Khải Trạch này! Ân sư chàng đã từng nói qua về tính cách của vị Thiếu Cung chủ Hạo Thiên Cung!
    Lăng Khải Trạch tính tình tàn nhẫn, háo sắc, háo danh. Chính là kẻ có thể biến Hạo Thiên Cung thành tai họa cho bõ lâm!
    Tư Đồ Sảng thở dài vòng tay đáp:
    - Kẻ không biết thì không có tội, mong Thiếu Cung chủ bỏ quá cho tại hạ!
    Lăng Khai Trạch trợn mắt nạt, tay đưa lên sờ vết thẹo nơi trán:
    - Ngươi đã hủy hoại dung mạo của ta, tội ấy chẳng thể tha được! Hơn nữa, gia mẫu không hề có ý định gả hai đứa con gái đẹp như tiên của mình cho một gã khố rách áo ôm! Ngươi cứ yên tâm mà chết!
    Tư Đồ Sảng cau mày ngơ ngác:
    - Chẳng lẽ hai nàng ấy hóa trang?
    Lăng Khải Trạch mỉa mai:
    - Tiểu tử ngươi quả là xảo trá! Nếu ngươi không biết họ xinh đẹp thì lẽ nào chịu lấy?
    Dứt lời, gã phất tay ra lệnh:
    - Giết!
    Hai mươi kiếm thủ áo xanh lập tức ập vào thi nhau đâm chém con mồi để lập công với chủ! Bọn này tuổi tác xấp xỉ bốn mươi, công lực và kiếm pháp đều lợi hại như hai gã cận vệ cũ của Lăng Khải Trạch.
    Sợ di hại cho Phi Tuyết và Phi Hồng, Tư Đồ Sảng không muốn sát hại người của Hạo Thiên Cung, chỉ mong phá vòng vây đào tẩu. Chàng liền múa tít thanh Giáng Ma Phủ chống đỡ, chờ cơ hội thoát thân. Bọn thanh y chẳng phải bậc kiếm thủ thượng thừa nên cây búa nặng của chàng chiếm được ưu thế. Những lưỡi gươm mỏng manh của họ bị Giáng Ma Phủ đánh bạt ra dễ dàng.
    Lăng Khải Trạch càng thêm tức tối khi thấy Tư Đồ Sảng tinh thông cả nghề đánh búa, bản lãnh lợi hại chẳng kém chi cầm kiếm. Gã giận dừ nạt lớn:
    - Kiếm trận!
    Thế là hai chục gã áo xanh vội chạy vào phương vị. Phối hợp tấn công chứ không đánh loạn xạ nữa. Đấu. pháp này đã làm cho Tư Đồ Sảng rơi vào thế bị động, luôn phải đối phó với bốn thanh gươm cùng một lúc. Chàng lại bất lợi ở chỗ không dám giết người của bên vợ, chỉ thủ mà không công. Nếu kéo dài tình trạng này chàng sẽ đuối sức mà lâm nguy.
    Biết không còn có thể nương tay, Tư Đồ Sảng bất ngờ thi triển Truy Tinh thân pháp, hoán vị nhanh đến mức kiếm trận xoay chuyển theo không kịp. Đồng thời, lưỡi búa của chàng ra những đòn mãnh liệt, đánh văng hai thanh trường kiếm và chủ của nó, tạo khoảng trống mà thoát thân.
    Chưa kịp mừng rỡ, Tư Đồ Sảng đã phải đối phó với một đạo kiếm quang lạnh lẽo và hiểm ác. Người chặn đường chàng chính là lão nhân trường bào đen, nãy giờ vẫn đứng cạnh Lăng Khải Trạch.
    Đường gươm nhanh như điện ấy đã chứng tỏ đối phương là bậc thầy trong kiếm thuật. Lão ta lại tấn công bất ngờ nên Tư Đồ Sảng mất tiên cơ, chỉ còn cách thủ thân. Chàng liền xuất chiêu “Phủ Chức La Y” (búa dệt lụa là) tạo thành tấm màn thép bảo vệ thân trên.
    Mũi kiếm của Hắc Y lão nhân chạm phải Giáng Ma Phủ ngân lên không ngớt, tưởng chừng như đã bị chặn đường hoàn toàn. Nhưng thực ra, trong hàng trăm thức đâm ấy có một thức đã xuyên qua màn phủ ảnh, chạm vào ngực phải Tư Đồ Sảng. Vết thương không sâu những cũng đủ khiến chàng đau thấu xương!
    Gương mặt lưỡi cày thâm hiểm và thủ đoạn đê tiện của đối phương đã khiến Tư Đồ Sảng vô cùng chán ghét và căm giận. Chàng không thèm để ý đến thương tích mà hung hãn xuất chiêu “Chuyên Chư Tể Ngưu” (Chuyên Chư giết bò).
    Chuyên Chư là một dũng sĩ thời Chiến Quốc, xuất thân là một kẻ mài dao giết heo mướn ở chợ. Chính chàng trai nghèo khó này đã dùng thanh Ngư Trường Kiếm giấu trong bụng con cá nướng rồi đâm chết Vương Liên giành lại ngôi vua nước Ngô cho Hạp Lư.
    Thuở ấy, Vương Liên mặc ba lần áo giáp mà còn bị giết, nên giờ đây chiếc búa của Tư Đồ Sảng cũng mãnh liệt phi thường, chỉ công mà không thủ! Thanh Thần Phủ bay vun vút, giáng những nhát ngàn cân khiến thanh trường kiếm của Hắc Y lão nhân phải rên rỉ. Dũng khí của Tư Đồ Sảng đã dọa khiếp đối thủ, buộc lão phải thoái bộ chứ không dám khai thác những sơ hở của đường búa. Kẻ gian ác, xảo quyệt thường đa nghi và sợ chết.
    Tư Đồ Sảng còn rất trẻ, cơ thể đầy sức sống nên dẫu có trúng một gươm vào chỗ ít nguy hại thì cũng còn thừa sức đế chẻ xương lão ra. Với trọng lượng cây búa thép thì thương tích mà nó gây ra sẽ trầm trọng hơn kiếm rất nhiều. Vả lại, lão ta đã già rồi, xương cốt dễ gẫy và rất khó hồi phục.
    Diệu dụng của chiêu Chuyên Chư Tể Ngưu chính là ở chỗ cướp tinh thần kẻ địch, lấy lại thế chủ động và thừa lúc đối phương bối rối mà hạ thủ! Thanh Giáng Ma Phủ bất ngờ rời tay Tư Đồ Sảng bay về phía lão áo đen với tốc độ của mũi tên rời dây cung!
    Lão ta kinh hoàng vung gươm cố đánh bạt khối thép nặng hai chục cân ấy mà không thành công. Lưỡi búa chỉ bị lệch đôi chút và cắm thẳng vào sườn phải, phá nát gan ruột của nạn nhân.
    Cảm giác đau đớn khủng khiếp đã khiến lão Hắc y rú lên ảo não, buông rơi thanh trường kiếm rồi ngã ngửa vì lực đạo quá mạnh.
    Tư Đồ Sảng đã lao theo, thu hồi vũ khí, phi thân vào rừng liễu mất dạng.
    Lăng Khải Trạch và bọn thủ hạ ngớ người trước diễn biến quá mau chóng này, song phương chỉ trao đổi hai chiêu là đã kết thúc. Họ Lăng bình tâm lại định quát tháo thuộc cấp đuổi theo song biết chỉ hoài công!
    Phần Tư Đồ Sảng chạy như giông gió trong rừng liễu, lúc gần đến đường quan đạo thì nghe tiếng người gọi ở phía sau:
    - Công tử! Là Liễu mỗ đây! Hạo Thiên Cung không dám đuổi theo, rút về hướng Tây cả rồi!
    Tư Đồ Sảng dừng bước nói mau:
    - Ta không sao? Phiền túc hạ bám theo Lăng Khải Trạch xem sào huyệt Hạo Thiên Cưng ở địa phận nào?
    Huyết Báo mỉm cười, lắc đầu:
    - Chẳng cần phải điều tra nữa! Tại hạ ẩn mình trên ngọn cây gần đấu trường, lúc nãy may mắn nghe họ Lăng ra lệnh cho thủ hạ mang xác lão áo đen quay về Thái Bạch Sơn! Núi ấy ở hướng Tây, cách núi Chung Nam này chỉ vài chục dặm!
    Tư Đồ Sảng mừng rỡ cười bảo:
    - Tuyệt diệu thực? Đêm nay chúng ta sẽ đến thăm họ!
    Huyết Báo nhăn mặt:
    - Nhưng công tử đang thọ thương mà?
    Và gã bước đến chăm sóc thương thế cho chàng! Khi cởi áo, nhận ra vết thương xám đen, tỏa mùi hôi hám, mang triệu chứng trúng độc, gã kinh hãi nói:
    - Mũi kiếm của lão Hắc y có tẩm độc, chó má thực!
    Tư Đồ Sảng nghe giọng lo âu vội trấn an Huyết Báo:
    - Túc hạ chớ lo! Kinh mạch của ta vẫn thông suốt, không có hiện tượng gì khác thường! Có lẽ giải dược của lệnh sư nương ban cho hôm trước vẫn còn tác dụng!
    - o O o -
    Huyết Báo tuy nổi danh hung thần song lại có giao tình với phái Toàn Chân. Số là, em gái của Toàn Chân Trưởng Giáo bị gã Hoàng Y Hồ Điệp Bùi Trường Bích dâm sát và chính Huyết Báo là người đã tìm ra họ Bùi, mang đầu gã về Tổng Đàn võ lâm. Tuy Liễu Mộ Hào hành sự vì giải thưởng song vẫn được phái Toàn Chân tri ân.
    Trưởng Giáo Hạo Dương Chân Quân đã hết lời cảm tạ Huyết Báo, mấy lần mời mọc Mộ Hào ghé chơi!
    Giờ đây, Huyết Báo đã có điều kiện đáp ứng thịnh tình ấy, đưa Tư Đồ Sảng lên Tam Thanh Cung, trước là thăm thú, sau là tĩnh dưỡng.
    Ngoài núi Chung Nam, phái Toàn Chân còn một thánh địa rất quan trọng nữa là Trùng Dương Vạn Thọ Cung.
    Cung Trùng Dương là nơi đặt lăng mộ của Tổ Sư Vương Trùng Dương, người sáng lập ra phái Toàn Chân.Cung này nằm ở phía Bắc trị trấn Tổ Am, phía tây huyện Hộ Tĩnh Thiểm Tây. Lúc đầu, Vương Xứ Nhất, một trong bẩy đệ tử của Tổ sư, đã gọi nơi này là “Linh Hư Am” về sau đổi thành “Trùng Dương Cung”. Năm Chí Nguyên thứ hai (1265), Nguyên Thế Tổ ban cho cái tên “Vạn Thọ Trùng Dương Cung”.

  10. #10
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Kiến trúc của Cung Trùng Dương vô cùng hùng vĩ, cung điện và đạo xá có đến hàng nghìn gian. Số lượng đạo sĩ ở đây nhiễu khi đông đến tám chín vạn người!
    Tuy nhiên, núi Chung Nam vẫn là nơi phát tích của phái Toàn Chân. Vì vậy bao năm nay Tổng Đàn của họ vẫn đặt ở đây!
    Tam Thanh Cung trên núi Chung Nam được xây dựng từ lúc Vương Tổ Sư còn tại thế, kiến trúc đơn giản, mộc mạc, thấm nhuần tinh thần đạm bạc của tư tưởng Lão Trang. Sau này, các đời đệ tử có tu bổ thêm song vẫn giữ nguyên kết cấu cũ.
    Nghe đệ tử báo rằng có khách quí thượng sơn, Toàn Chân Trưởng Giáo đã thân ra tận cổng Tam quan đón chào.
    Hao Dương Chân Quân tuổi đã thất thập, thân hình mảnh khảnh, dung mạo thanh tú, hiền hòa, râu năm chòm oai vệ. Cũng nhờ bộ râu đẹp ấy mà người ta có thể phân biệt ông với các đệ tử Chân Quân mặc đạo bào xanh bằng vải thô, y như những người khác.
    Hạo Dương vui vẻ nói:
    - Sáng nay chim khách kêu trước cửa, bần đạo đoán rằng có quí nhân giá lâm song không ngờ lại là Thân thí chủ. Sự bất ngờ này khiến bần đạo muôn phần sung sướng!
    Huyết Báo mỉm cười vòng tay đáp:
    - Trưởng Giáo chớ vội mừng! Tại hạ vì cạn túi nên đến đây để ăn chực vài năm, dẫu bị đuổi cũng không đi!
    Câu nói đua này và sắc diện thư thái của Huyết Báo đã khiến Hạo Dương Chân Quân thầm kinh ngạc, trước đây Thân Vô Cửu là một gã mặt lạnh như tiến, chẳng bao giờ biết mỉm cười!
    Chân Quân cười khà khà:
    - Bần đạo chỉ có cơm chay và rượu nhạt, liệu thí chủ chịu đựng được mấy hôm?
    Huyết Báo không đùa nữa, quay sang giới thiệu bạn đồng hành:
    - Bẩm Trưởng giáo! Vị công tử này danh tính Tư Đồ Sảng, chủ nhân của tại hạ!
    Tư Đồ Sảng bước lên một bước, vòng tay chào:
    - Tại hạ xin bái kiến Trưởng giáo!
    Hạo Dương Chân Quân biết Huyết Báo là một hảo hán ngang tàng, đỉnh thiên lập địa, khả sát bất khả nhục thế mà giờ đây gã lại chịu khuất thân làm nô lệ cho Tư Đồ Sảng thì quả là chuyện lạ. Vậy thì chàng trai trẻ tuấn tú này phải có điểm hơn người, ít nhất là về mặt võ công!
    Nhưng Tư Đồ sảng tuổi chỉ độ đôi mươi, làm sao có bản lãnh cao hơn Huyết Báo được? Hao Dương Chân Quân hiếu kỳ dò hỏi:
    - Tư Đồ thí chủ cốt cách như rồng phượng khiến bần đạo phải mến mộ ngay lần sơ kiến! Dám hỏi thí chủ là học trò của bậc cao nhân nào vậy?
    Tư Đồ Sảng biết sư phụ mình có mối giao tình thâm hậu với phái Toàn Chân nên không giấu giếm làm gì. Chàng điềm đạm đáp:
    - Bẩm Đạo trưởng! Tại hạ là đồ đệ của Ly Giang Tiên Ông!
    Hạo Dương Chân Quân thoáng giật mình vì kinh ngạc rồi hớn hở nói:
    - Té ra là thế! Hèn chi bần đạo thấy cây trâm cài tóc của thí chủ rất quen thuộc!
    Chợt lão biến sắc vì một ý niệm bất thường, thận trọng hỏi:
    - Chẳng hay pháp thể của Tiên Ông có được an khang không vậy?
    Tư Đồ Sảng bùi ngùi đáp:
    Gia sư đã tọa hoá ở núi Hành Sơn hôm mùng ba tháng năm vừa rồi!
    Hạo Dương Chân Quân chấn động buồn bã than:
    - Không ngờ Tiên Ông lại thăng thiên vào đúng lúc ma chướng hoành hành khiến bần đạo thêm lo cho chính khí võ lâm!
    Lúc này ba người đã vào đến khách xá ở mé tả Tam Thanh Cung.
    Chân Quân mời khách an tọa dùng trà rồi đàm đạo. Khi biết thầy trò Tư Đồ Sảng định xâm nhập Hạo Thiên Cung, Chân Quân nghiêm nghị bảo:
    - “Bần đạo thừa lệnh Tiên Ông giám sát Hạo Thiên Cung đã nhiều năm, lại được Táo Gia Cát ở bên trong hỗ trợ nên đã thu thập được nhiều tin tức. Bùi lão thí chủ cho biết rằng mấy năm gần đây Cung Chủ Hạo Thiên Cung bị bệnh nan y, song nhãn ngày càng mờ đi. Do đó, quyền hành tập trung cả trong tay Thiếu Cung chủ Lăng Khải Trạch. Gã này là kẻ háo danh, nuôi dã tâm thống trị võ lâm song chỉ vì e ngại Ly Giang Tiên Ông mà không dám hành động! Lăng Khải Trạch đã qui tụ những kiếm thủ thượng thặng, từng giao đấu với Tiên Ông, để nghiên cứu cách giải phá Huyền Nguyên Kiếm Pháp. Nay Tiên Ông đã cỡi hạc chắc chắn Khải Trạch sẽ công khai tiến hành chinh phục vô lâm! Hiện giờ, nội bộ Hao Thiên Cung đang chia làm hai phe và bần đạo đoán rằng những người chống đối Khải Trạch đã lâm nguy vì hai tháng nay Táo Gia Cát không gởi tin đến núi Chung Nam! Này nhị vị quyệt định vào Hạo Thiên Cung do thám thì xin hãy thử tìm hiểu tình hình, và nếu có thể thì cứu cho được Bùi lão thí chủ Và Y Độc Thần Quân. Nếu để Lăng Khải Trạch bức bách được hai bậc kỳ tài này phục vụ cho gã thì võ lâm nguy mất!”.
    Nghe xong, Tư Đồ Sảng bâng khuâng tưởng nhớ đến ân sư? Té ra Tiên Ông hiểu khá rõ nội tình Hạo Thiên Cung và biết chắc rằng Lăng Khải Trạch sẽ lộng hành. Tuy ông không giao cho chàng trách nhiệm đối phó với ma chướng, song chàng tự nhủ sẽ vì chính khí giang hồ mà bạt kiếm, kế thừa sự nghiệp của ân sư.
    Tư Đồ Sảng liền khẳng khái đáp:
    - Trưởng Giáo yên tâm! Tại hạ hứa sẽ cứu hai người ấy nếu họ còn sống!
    Hao Dương Chân Quân nhìn chàng với ánh mắt mến mộ và dịu giọng dặn dò:
    - Tuy bần đạo đã có sơ đồ chi tiết đường đi nước bước trong Hạo Thiên Cưng nhưng cũng mong Tư Đồ thí chủ hãy thận trọng!
    Huyết Báo hồ hởi nói:
    - Hay lắm! Nếu đã có sơ đồ chỉ rõ lối ra vào thì xem như thành công một nửa. Nhưng để đề phòng trường hợp cả hai cô ả họ Lăng cũng đòi theo, phiền Đạo trưởng chuẩn bị giùm thêm hai con ngựa nữa!
    Hạo Dương Chân Quân gật đầu tán thành và tư lự bảo:
    - Bần đạo sẽ mang theo năm chục đệ tử, phục dưới chân núi Thái Bạch, khi cần sẽ ngăn chặn truy binh Hạo Thiên Cung để nhị vị đào thoát!
    Hiểu rằng cuộc chiến trước mắt rất cam go, Tư Đồ Sảng đồng ý ở lại núi Chung Nam tĩnh dưỡng thêm vài ngày nữa để vết thương trên ngực kéo da non. Thuốc Kim sang của phái Toàn Chân quả là thần diệu, đã giúp chàng mau chóng lành lặn trở lại. Trong thời gian rảnh rang này, Tư Đồ Sảng hồi ức lại trận tỷ đấu ở Đồng Quan, nghiên cứu lộ số pho kiếm của Lăng Khải Trạch đã thi triển, chàng chợt thức ngộ ra rằng tuyệt học ấy uyên bác phi thường và vô cùng hiểm ác. Nếu họ Lăng có công lực thâm hậu thêm hai bậc thì chàng không thể địch lại gã. Đó là chưa kể hết công phu phun máu độc bất ngờ rất khó đề phòng!
    Nghĩ tới ân sư, Tư Đồ Sảng thoáng mỉm cười. Tiên Ông đã nói dối chàng rằng chẳng hề biết vị trí của Hạo Thiên Cung! Rốt cuộc thì một bậc Chân Nhân đạt đạo cũng bị ràng buộc bởi lời hứa “Thủ khẩu như bình” khi rời cung điện của Tây Vương Mẫu.
    O0o
    Đêm mười chín tháng tám, vầng trăng thu méo mó treo hờ hững trên đỉnh Thái Bạch Sơn. Ánh trăng mờ mờ bởi sương đêm, không soi rõ bóng dáng của hai khách dạ hành đang thận trọng tiến vào khu rừng Bách vây quanh chân núi hướng Nam.
    Thái Bạch Kim Tinh là danh hiệu khác của Thái Thượng Lão Quân, một vị thần trong Đạo giáo. Thần tiên thường gắn liền với núi non nên người Trung Hoa đã dùng tiên hiệu của Lão Quân để đặt tên cho vài ngọn núi. Riêng đất Thiểm Tây đã có đến hai ngọn Thái Bạch Sơn. Ngọn thứ nhất là ở đây, phía nam Tường An. Còn ngọn kia ở phía Bắc, khu vực giáp ranh với tỉnh Cam Túc. Hay là Thái Bạch Kim Tinh thuở xưa có hai vợ, mỗi bà một nơi, kẻ Bắc người Nam xa xôi để khỏi đánh nhau vì ghen tuông?
    Hai khách dạ hành ấy chính là Tư Đồ Sảng và Huyết Báo Liễu Mộ Hào. Nhờ có bản vẽ rất chi tiết của Táo Gia Cát nên họ ung dung vượt qua khu rừng đầy cạm bảy, vào đến Thạch trận phong ba cửa sơn cốc. Hạo Thiên Cung vốn nằm trong khe núi ấy. Trong trận kỳ môn này không có cây cối, chi có hàng trăm tảng quái thạch ẩn hiện dưới sương mù và ánh trăng nhàn nhạt. Trông chúng thật lạnh lùng đáng sợ.
    Tuy nhiên, trận pháp này do chính Táo Gia Cát lập ra và cũng chính lão đã chỉ cho Toàn Chân Trưởng Giáo cách xuất nhập. Do đó, Tư Đồ Sảng cứng Liễu Mộ Hào chẳng gặp khó khăn gì khi xâm nhập.
    Thói thường, Cửa nẻo càng kiên cố thì chủ nhà thương ngủ say. Thế cho nên Hạo Thiên Cung không hề cắt cử người canh gác đường vào sơn cốc. Có lẽ họ chẳng hề biết mối quan hệ giữa Táo Gia Cát và Hạo Dương Chân Quân.
    Trong ngũ thường của Khổng Giáo thì chữ tín đứng cuối cùng. Nghĩa là bậc quân tử có thể vì nhân, nghĩa mà bất tín! Riêng lão giáo thì lại càng xem nhẹ chữ tín, cho rằng đây là đức của kẻ tiểu nhân. Tất nhiên là tùy trường hợp chứ chẳng phải cứ việc hứa suông rồi nuốt lời! Ví dụ cái chàng trai tội nghiệp đã nổi tiếng trong truyền thuyết Trung Hoa nhờ thủ tín đến mức ôm chân cầu mà chết đuối, khi người yêu không đến! Cái chết ấy nào có hay ho gì khi để cho cha mẹ đau lòng và cuối cùng thì người yêu cũng sang ngang? Xem ra gã ấy hẹp hòi và ngoan cố đến mức điên khùng! Khiến phụ mẫu thương tâm, không người phụng dưỡng là bất nhân, bất hiếu. Bỏ người yêu lại bơ vơ với niềm hối hận là bất nghĩa!
    Tóm lại, những lý do trên biểu hiện rằng thực ra địa chỉ của Hạo Thiên Cung chẳng phải là điều bí mật như người ta vẫn nghĩ. Những kẻ đến đấy quay vế đã âm thầm tiết lộ cho người thân biết. Dĩ nhiên, chẳng ai muốn mang tiếng bất tín nên bề ngoài cứ làm ra vẻ mình kín miệng.
    Theo Hạo Dương Chân Quân kể thì các phái lớn trong võ lâm như Võ Đang, Thiếu Lâm Tự, Hoa Sơn, Nga My... đều biết việc Hạo Thiên Cung toạ lạc tại Thái Bạch Sơn. Nhưng mấy chục năm qua, Hạo Thiên Cung có vẻ vô hại nên các phái chẳng để tâm đến làm gì!
    Chỉ mình Ly Giang Tiên Ông nhìn rõ bản chất của Tây Vương Mẫu nên đã chỉ thị cho phái Toàn Chân cảnh giới, mọi động tĩnh của Hạo Thiên Cung! Chính Táo Gia Cát Bùi Thế Trực cũng nhận lệnh của Tiên Ông, tiềm nhập vào ổ quỉ đế làm nội gián!
    Sau khi khái quát tình hình như thế, chúng ta quay lại với bọn Tư Đồ Sảng. Lúc này, chàng và Huyết Báo đã đi hết đoạn độc đạo dài mười trượng, rộng hơn trượng, hai bên là vách đá dựng đứng, vào đến cửa ngõ của Hạo Thiên Cung! Trước mặt họ là một bức tường cao hơn bốn trượng, tô nhẵn nhụi, nối liền hai vách đá của khe núi. Chân tường trổ cổng rất lớn, đủ để hai cỗ xe qua lọt. Tuy nhiên, giờ đây lối ra vào duy nhất ấy bị bít chặt bởi hai cánh bằng gỗ dày và khóa thì ở bên trong!
    Phía trên cổng đắp nổi ba chữ Hạo Thiên Cung, theo lối Đại Triện thời Tiên Tần, sơn đen sì nên tương phản với mầu vôi trắng toát của bức tường!
    Đầu tường không hề trang trí vài tầng ngói lưu ly như các kiến trúc thông thường, mà lại được đắp vồng lên thành một cung tròn để vô hiệu hóa những sợi dây thừng gắn móc thép. Nghĩa là bọn đạo chích vô phương vào Hạo Thiên Cung để kiếm ăn! Đây cũng là nguyên nhân vì sao đường vào không hễ có người canh gác!
    Huyết Báo sờ thử mặt tường vôi, ngao ngán hỏi nhỏ:
    - Công tử có chắc là sẽ leo qua được bức vách quỷ quái này không? Nó nhẵn đến mức khỉ vượn cũng chịu thua!
    Tư Đồ Sảng cười đáp:
    - Ta học công phu Bích Hổ Du Tường này đã lâu nhưng chưa hề trèo cao lần nào nên không thể biết thành hay bại!
    Nói xong, chàng bước đến kiểm tra vùng vách núi tiếp giáp với tường gạch. Té ra, chỗ ấy cũng được đục đẽo, tô vữa rất nhẵn nhụi, chẳng có điểm lồi lõm nào để bám víu cả!
    Tư Đồ Sảng không nản chí, lấy cuộn dây chão từ tay Huyết Báo, đeo vào vai mình. Chàng cởi giầy vải giắt vào thắt lưng rồi lẩm nhẩm khẩu quyết, lưu chuyển chân khí theo đường lối mà Tích Dịch Quỉ Tây Môn Giới đã truyền dạy. Tâm pháp thần bí này đi ngược với mọi loại nội công trong thiên hạ, tạo ra lực hút mạnh mẽ ở hai bàn tay, hai bàn chân và vùng bụng.
    Tư Đồ Sảng vươn cao hữu thủ áp vào tường, cảm thấy lòng bàn tay hút chặt lấy lớp vữa. Chàng đu người lên rồi vươn tay tả. Mặt dưới của mười ngón chân cũng như nam châm bám chặt lấy mặt đường, trợ lực cho đôi tay. Bụng dán sát vách, Tư Đồ Sảng vặn người trèo lên thoăn thoắt, trông chẳng khác gì một chú thằn lằn khổng lồ.
    Huyết Báo tròn mắt vì kinh ngạc, thầm tán dương đây là công phu kỳ diệu nhất võ lâm. Quả đúng như thế, nhờ Bích Hổ Công mà con người đã đoạt quyến tạo hóa, có được khả năng đặc thù của loài động vật khác.
    Con người muốn bay được như chim, nhẩy xa như báo nên đã sáng tạo ra phép khinh công nhưng kết quả chẳng khả quan lắm. Nhẩy xa thì được nhưng bay bổng thì không, dẫu bốc cao một hai trượng thì cũng rơi về với đất! Chỉ riêng việc bò lên tường nhẵn thín như thằn lằn thì đáng gọi là hoàn mĩ vậy!
    Tất nhiên là Tư Đồ Sảng rất hao tốn sức lực vì trọng lượng khá nặng. May mà chàng có đôi cánh tay mạnh mẽ, lực cử ngàn cân, và nguồn chân khi hùng hậu, nên đủ sức vượt quãng đường hơn bốn trượng, lên đến đỉnh tường.
    Tư Đồ Sảng ló đầu quan sát bên trong, nhận ra một tòa nhà hai tầng đồ sộ mái lợp ngói lưu ly óng ánh dưới trăng vàng. Các góc mái uốn cong vút, kiểu dáng thường thấy của kiến trúc đền đài, cung điện.
    Chung quanh toà nhà sừng sững ấy là những công trình nhỏ hơn, thấp thoáng ánh đèn leo lét trong đám cây cối và bụi hoa, không thấy lực lượng tuần tra, Tư Đồ Sảng vững dạ trèo lên ngồi trên đầu bức tường dầy ba gang, thả dây chão xuống!
    Huyết Báo đã sớm thăm dò khu vực chân tường, tìm ra chỗ gài chặt chốt móc thép. Gã chụp lấy đầu dây, buộc vào móc rồi nương theo đấy mà lên.
    Đến nơi, Huyết Báo cùng Tư Đồ Sảng thả đoạn dây còn lại vào phía trong tường rồi tuột xuống. Họ lại cố định đầu bên này, tạo thành chiếc thang đơn giản khả dĩ giúp họ dễ dàng thoát ra. Sợi dây rất gần vách núi mé hữu, cách xa cổng chính, nên sẽ khó bị phát hiện. Đề phòng trường hợp bị lộ phải cõng người đào tẩu, Tư Đồ Sảng và Huyết Báo tháo thanh gỗ chặn cổng chính, mở he hé cánh ra để khi cần thiết có thể mau chóng thoát thân.
    Xong xuôi, hai người lướt nhanh trên con đường rải sỏi, nằm dọc vách mé hữu sơn cốc, tiến vào khu hậu viện. Họ bỏ qua tòa thạch cung hai tầng vì biết đấy chỉ là nơi hội họp và thờ phụng lịch đại Tổ sư Hạo Thiên Cung.
    Cách bố trí nhà cửa nơi đây cũng na ná như Tổng đàn Thiên Sư Giáo ở Long Hổ Sơn. Nghĩa là, phía sau cung điện có một vườn hòa lớn và trên ấy tọa lạc một tổ hợp phòng ốc theo kiểu Tứ Hợp Viện, Tây Vương Mẫu cùng gia quyến cư ngụ ở chốn này! Là trọng địa nên vòng ngoài khu hậu viện có những toán tuần tra qua lại liên tục.
    Theo bản đồ của Táo Gia Cát thì hai chị em Lăng Phi Tuyết, Lăng Phi Hồng có khuê phòng đặt tại dãy Tây Sương, ngay góc Tây Bắc.
    Tư Đồ Sảng và Huyết Báo vượt bức tường thấp của khu hậu viện, nhẩy vào ngay phía sau mục tiêu, trước khi bọn tuần phòng đi đến. Diện tích sơn cốc rất rộng, đất đai lại chẳng mất tiền mua, nên các dãy phòng không dựa vách tường vây như kiến trúc chốn thị thành mà ngăn cách bởi một khoảng vườn trồng hoa sâu độ bốn trượng.
    Có hoa tất phải có lối ra để thưởng lãm nên các phòng đểu trổ cửa sổ và cửa sau. Hai người áp tai vào khe cửa nghe ngóng và hiểu rằng chẳng có ma nào trong ấy cả! Trong đêm thanh vắng, dẫu hai ả lọ lem kia không ngáy vang thì Tư Đồ Sảng vẫn nghe được hơi thở của họ.
    Liễu Mộ Hào thông cảm tâm trạng bối rối của Tư Đồ Sảng nên thì thầm:
    - Có thể là hai cô nương ấy theo sư phụ chống lại Lăng Khải Trạch nên cũng đã bị tống giam. Chúng ta cứ xuống ngục thất kiểm tra sẽ rõ!
    Tư Đồ Sảng gật đầu và nói:
    - Thực ra, việc gặp hai nàng ấy không quan trọng. Nếu họ thực sự yêu thương ta tất sẽ trốn khỏi Hạo Thiên Cung để tìm! Mục đích chính của ta là cứu cho được hai đại cao thủ lão thành kia!
    Sau khi biết hai ả họ Lăng xinh đẹp như tiên chứ không hề xấu xí thì Tư Đồ Sảng có chút hoang mang, ngần ngại. Chàng yêu thương và nhớ nhung hai gương mặt quái dị, thì dung nhan kiếu mị kia phỏng có ích gì?
    Hai người rời khu hậu viện đi về phía tòa thạch lao ở cuối sơn cốc. Dọc đường, họ phải nhiều lần ẩn mình trong những bụi cây để tránh bọn tuần tra và bầy chó săn.
    Y phục của Tư Đồ Sảng và Huyết Báo đã được nhúng vào một thứ dung dịch đặc biệt, tỏa mùi ngai ngái của cỏ mục, khả dĩ đánh lừa được khứu giác tinh nhạy của loài chó.
    Mẹo vặt này do Tích Dịch Quỉ Tây Môn Giời truyền thụ cho Tư Đồ Sảng, cùng với những ngón nghề khác của giới đạo chích. Chàng đã miễn cưỡng tiếp thu nhưng không ngờ những kiến thức ấy vô cùng hữu dụng trong kiếp giang hồ.
    Gần cuối canh tư, hai người đến chân ngọn tháp đế vuông cao năm trượng, xây bằng đá núi và được đục đẽo khá nhẵn nhụi. Đây chính là nơi giam giữ tù nhân của Hạo Thiên Cung.
    Đáy của Thạch tháp có cạnh rộng độ ba trượng, gồm năm tầng nhưng chẳng tầng nào có lan can cả. Người ngoài chỉ đoán được số tầng nhờ bốn hàng khung cửa sổ ở trên và cửa chính ở tầng trệt.
    Các tầng thông với nhau bằng cầu thang gỗ ở giữa tháp. Phòng giam thì xây quanh thang và có một cửa ra vào duy nhất bằng gỗ dầy, đai sắt rất kiên cố.
    Nhưng tại sao nhà lao này lại có lối kiến trúc kỳ dị như thế? Theo lời tiết lộ của Táo Gia Cát thì căn cứ hiện nay của Hạo Thiên Cung, trước đây trăm năm, thuộc về một giáo phái có tên Ngũ Hành Giáo. Và tòa thạch tháp nărn tầng kia chính là nơi luyện công của năm vị Trưởng Giáo: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
    Có lẽ do tranh giành quyền lực mà họ tương sát rồi cùng chết khiến Ngũ Hành Giáo bị diệt vong! Cung chủ đời trước của Hạo Thiên Cung bèn chiếm lấy sơn cốc và xây dựng nên Hạo Thiên Cung. Bà là nữ nhân thích sự tiện nghi nên chẳng thèm ở trong tháp đá, biến nó thành nơi giam giữ những đệ tử phạm lỗi hoặc tù binh.
    Giờ đây, thạch tháp đứng sừng sững dưới ánh trăng thu, ngạo nghễ thách thức khách dạ hành vì chẳng có con đường nào để lên cả! Cửa chính tầng trệt được khóa bên trong, có cả một toán ngục tốt canh giữ. Cứa sổ các tầng trên đều có chấn song bằng thép rèn, to cỡ cổ tay trẻ sơ sinh.
    Người ngoài không lối vào và tù nhân cũng chẳng thể đào vong vì họ đều bị xiêng xích hoặc phong tỏa võ công.
    Tư Đồ Sảng nhận ra ánh đèn tờ mờ từ một khung cửa sổ ở tầng chót, trong khi các tầng khác đều tối om. liền bàn với Huyết Báo:
    - Này Liễu tức hạ! Ta cho rằng Táo Gia Cát đang bị giam trên ấy. Túc hạ cứ chờ dưới này để ta lên xem thử!
    Huyết Báo cau mày ái ngại:
    - Công tử hãy lượng sức vì tháp này cao đến năm trượng chứ không ít, nếu rơi xuống e khó toàn mạng! Vùng chân tháp được lót đá phiến, không chỗ nào là đất mềm cả!
    Tư Đồ Sảng điềm đạm đáp:
    - Túc hạ hãy yên tâm! Ta tự tin đủ sức vượt độ cao ấy!
    Nói xong, chàng lấy cuộn dây chão trên vai họ Liễu. Do biết trước mục tiêu nên Tư Đồ Sâng đã nhờ Hạo Dương Chân Quân chuẩn bị cho mình đến hai sợi dây thừng chắc chắn.
    Ánh đèn hắt ra từ cưa sổ hướng Bắc nên Tư Đồ Sảng cũng lên theo đường này.
    Trăng khuya đã chếch về mạn Tây Nam nên mặt Bắc hơi tối, chẳng tên tuần tra nào có thể nhận ra một bóng đen to đùng đang bò trên góc Bắc cửa Thạch Tháp.
    Lần này Tư Đồ Sảng có lợi thế hơn lúc vượt bức tường ngoài cứa cốc. Chàng vươn tứ chi ôm lấy góc vuông nên tạo ra được một lực kẹp để hỗ trợ cho lực hút. Hơn nữa, vách tháp xây bằng những viên đá, liên kết bằng vữa, và gió mưa đã xói mòn mạch vữa làm điểm bấu víu cho những đầu ngón tay, ngón chân của chàng. Tuy thế, nếu Tư Đồ Sảng không sở đắc công phu “Bích Hổ Du Tường” thần kỳ thì chẳng thể nào trèo lên được.
    Chậm chạp nhưng chắc chắn, cuối cùng thì Tư Đồ Sảng chỉ còn cách khung cửa sổ tầng năm hơn trượng. Clàng bèn rời góc tháp, bò chếch lên mặt phẳng mà tiến đến mục tiêu.
    Ở dưới đất, Huyết Báo căng mắt quan sát chiếc bóng mờ, lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi và tim đập liên hồi như trống trận. Lúc này mà Tư Đồ Sang sẩy tay hoặc đuối sức thì nguy to. Dẫu chàng không chết ngay thì cùng bị trọng thương và đánh động phe đối phương.
    Liễu Mộ Hào lo sợ cho Tư Đồ Sảng đến mức lẩm bẩm khấn:
    - Xin hoàng thiên bảo hựu cho y! Liễu mỗ xin cúng tạ một con heo!
    Đây là lần đầu tiên trong đời Huyết Báo cầu viện đến lão trời già. Gã vốn là kẻ ngang tàng, đội trời đạp đất, chẳng biết sợ quỉ thần.
    May thay, Tư Đồ Sảng đã bò đến nơi, vươn tay tả nắm chặt một song sắt và dùng tay hữu tháo cuộn dây chão, cột vào hai song khác.
    Sau đó chàng quấn chặt dây vào người, treo mình để nghỉ ngơi. Tuy thành công nhưng lúc này tứ chi Tư Đồ Sảng như tê dại, sức lực mỏi mòn.
    Khi chân khí đã hồi phục, chàng dồn hết thần lực kéo banh hai thanh chấn song. Chân không điểm tựa, chỉ nhờ lực đạo khủng khiếp của đôi cánh tay, Tư Đồ Sẳng đã làm chúng cong lại và rút chân khỏi vách đá nơi thành cửa sổ.
    Người ở dưới chẳng thể nghe thấy gì nhưng tù nhân bên trong tháp đã phát hiện những âm thanh ken két của song sắt miết vào đá khi rời lỗ. Và có tiếng chân người chậm chạp vọng đến từ mé tây. Chắc tù nhân đã ngủ ở hướng ấy để hứng ngọn gió thu!
    Người này cầm theo đĩa đèn dầu và nhờ vậy mà nhìn rõ dung mạo của Tư Đồ Sảng. Lão ta mừng rỡ reo lên:
    -.Sảng nhi?
    Tư Đồ Sảng mỉm cười, chui hẳn vào trong tháp và hỏi ngay.
    - Bùi tiền bối! Chẳng hay Tạ Thần Quân và hai vị cô nương họ Lăng có ở đây không?
    Táo Gia Cát buồn bã lắc đầu.
    - Không! Tạ lão đã bị sát hại, còn hai con bé kia thì lão phu nghe nói đã trốn khỏi cốc, đang bị truy nã gắt gao, chẳng rõ có thoát nối hay không?
    Tư Đồ Sảng cố nén ưu tư bảo:
    - Tội nghiệp cho Thân Quân! Chúng ta đi thôi!
    Bùi lão gật đầu nhưng không dằn nổi nỗi thắc mắc:
    - Nhưng làm sao ngươi lên được tận đây? Lão phu không sao tưởng tượng ra nổi các phương thức mà ngươi đã sử dụng.
    Tư Đồ Sảng thành thực đáp:
    - Vãn bối trèo lên bằng công phu “Bích Hổ Du Tường” của Tích Dịch Quỉ!
    Táo Gia Cát trợn mắt:
    - Không ngờ tuyệt kỹ ấy lại thần diệu đến thế! Trước đây lão phu cứ nghĩ rằng Tây Môn Giới phải cần thêm sự hỗ trợ của những dụng cụ tinh xảo khác!
    Bỗng lão nhíu mày tư lự:
    - Này Sảng nhi! lão phu còn sống sót là nhờ chút tài mọn về mưu kế và thuật kỳ môn trận pháp, rất cần thiết cho bá nghiệp của Hạo Thiên Cung. Thế cho nên, Lăng. Cung chủ đã giam hãm lão phu ở đây, uy hiếp bằng cách giảm dần khẩu phần ăn, hy vọng lão phu sẽ khuất phục vì cái đói. Nhưng cũng nhờ vậy mà lão phu lại tình cờ phát hiện ra tuyệt học thất truyền của Ngũ Hành Giáo trên vách phòng giam. Khẩu quyết được viết rải rác trên nhữngviên gạch, nét nhỏ tựa đầu kim. Lão phu bị Cung chủ hạ độc, chân khí thất tán nên chỉ đọc được những chữ ở vị trí thấp. Từ hơn trăm chữ này, lão phu đoán rằng đấy là Khô Mộc Thần Công, tuyệt kỹ hãn thế thời nhà Tống. Người luyện được thần công này sẽ có được một cơ thể rắn chắc tựa loại thiết mộc, không sợ chưởng kình hay đao kiếm, kể cả Ngưng Huyết Huyền Băng thần chưởng hay Lô Hỏa Thần Chỉ!
    Nay Môn Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý và Cung chủ Hạo Thiên Cung lại đang khổ luyện hai tà công ấy nên Sảng nhi phải học cho được Khô Mộc Thần công mà đối phó! Vì vậy, ngươi hãy lưu lại đây vài ngày, thu thập toàn pho khẩu quyết rồi hãy thoát ra sau!
    Lão phu sẽ đi trước một bước, về núi Chung Nam bày binh bố trận và bảo vệ phái Toàn Chân! Đầu tháng chín tới Hạo Thiên Cung sẽ chinh phạt Chung Nam Sơn để khởi nghiệp!
    Tư Đồ Sảng ngơ ngác hỏi lại:
    - Sao vãn bối nghe nói Lăng Cung chủ bị bệnh mắt! Lăng Khải Trạch mới là tai hoạ?
    Bùi Thế Trực thở dài ngượng ngùng:
    - Mụ Lăng Song Tường này quả là lợi hại, đã lừa được cả lão phu và Tạ Thần quân! Mụ ta giả mù, người lúc nào cũng hâm hấp sốt. Song thực ra là đang âm thầm rèn luyện công phu Lô Hoả Chỉ Pháp! Nay mụ ta biết tin Ly Giang Tiên Ông tạ thế nên mới bộc lộ rõ dã tâm!
    Tư Đồ Sảng chợt băn khoăn:
    - Bùi tiền bối! Tại sao Phi Tuyết, Phi Hồng lại bỏ cốc trốn đi?
    Bùi lâo mỉm cười:
    - May cho ngươi là hai con bé ấy chẳng phải con ruột của Cung chủ! Chúng trốn đi để tìm ngươi và cũng vì chán ngán dã tâm của mẹ nuôi! Sau này ngươi cứ thẳng tay đối phó với Hạo Thiên Cung, không cần phải kiêng nể nữa!
    Tư Đồ Sảng thở phào nhẹ nhõm, vui vẻ nói:
    - Vãn bối sẽ đưa tiền bối xuống dưới. Huyết Báo Liễu Mộ Hào đang chờ nơi chân tháp, còn Hạo Dương Chân Quân thì phục ở bìa rừng!
    Táo Gia Cát dặn dò chàng thật kỹ lưỡng rồi mới chịu rời chốn lao lung. Tư Đồ Sảng thu dây chão lên, cột vào bụng Bùi Thế Trực mà thả xuống!
    Táo Gia Cát chạm đất, nhanh miệng nói sơ kế hoạch cho Huyết Báo rõ. Gã thầm lo cho chủ nhân song vẫn phải bấm bụng cõng Bùi lão đào vong!
    Ơ đây Tư Đồ Sảng rút dây lên, tháo nút buộc và nắn lại hai thanh song sắt đặt hờ vào chỗ cũ. Sáng ra, bọn tuần tra có nhìn lên cũng không thể phát hiện quái sự.
    Chàng bưng đĩa đèn đi đến chiếc chõng tre ở góc Tây Nam của phòng giam, nơi mà gã gác tù không thể nhìn thấy được, trừ phi mở cửa ra. Nhưng gã sẽ chẳng bao giờ làm thế, chỉ ngày hai bữa đưa cơm nước qua lỗ vuông nơi cửa nhà tù. Lỗ này nằm gần sát sàn lầu nên gã cứ việc đặt chén đũa xuống, không cần tù nhân đón lấy. Chừng một canh giờ sau gã quay lại thu dọn, mang xuống bếp nơi tầng trệt.
    Tóm lại, Tư Đồ Sảng chẳng hề bị quấy rầy, ung dung ngủ nghỉ để ban ngày tìm kiếm những chữ nhỏ li ti trên vách. Bùi lão đã bắt chàng học thuộc hơn trăm chữ mà lão đọc được và chỉ cho chàng ví trí nối tiếp.
    Với công phu Bích Hổ Du Tường kỳ tuyệt thiên hạ, Tư Đồ Sảng chẳng cần phái nhẩy nhót mà bò hẳn trên tường. Chàng phủi sạch bụi bặm, học thuộc từng chữ rât nhanh chóng. Thỉnh thoảng chàng lại dúng Tử Ngọc ThầnTrâm xóa bỏ vài chữ để tuyệt kỹ không rơi vào tay kẻ ác. Sau khi chàng thoát đi, chắc chắn Hạo Thiên Cung sẽ điều tra kỹ lưỡng và phát hiện khẩu quyết.
    Hơn ngàn chữ nhỏ xíu kia đã bị bụi bặm mấy chục năm che phủ giấu giếm! Nơi này lại là nhà tù nên chẳng ai quét dọn làm gì! Và lại, trước Táo Gia Cát không có ai bị giam giữ ở đây, trừ lũ dơi hôi hám!
    May thay, Táo Gia Cát là người ưa sạch sẽ nên đã dùng tay áo phủ lớp bũi đất nơi khoảng vách cạnh chõng tre. Và trưa hôm sau, trong lúc nhìn đốm nắng dọi lên tường, ông đã phát hiện chữ đầu tiên!
    Chỉ sau hai ngày, Tư Đồ Sảng đã thu thập trọn vẹn khẩu quyết của pho Khô Mộc Thần Công. Chàng dự định đêm hôm ấy sẽ thoát đi. Khẩu phần ăn quá ít ỏi khiến chàng đói meo, và người nhớp nhúa vì không được tắm rửa. Phòng giảm này có hố xí thông xuống đất song thiếu nước dội nên cũng rất hôi thối!
    Sau bữa cơm đạm bạc chiều ngày hai mươi ba, Tư Đồ Sảng ngồi tĩnh tọa, chờ đêm xuống sẽ theo dây chão mà rời thạch tháp. Song lúc đầu giờ Tuất chàng bỗng nghe tiếng bước chân dậm bình bịch trên cầu thang gỗ tầng dưới và cả tiếng chửi rủa của nữ nhân:
    - Mả cha cái gã Khải Trạch đáng ghét, sao lại nỡ đày đoạ ta ở chốn hôi hám này! Có ngày bổn cô nương sẽ hạ độc cho gã phải sống dở chết dở!
    Tư Đồ Sảng vừa mừng vừa lo khi nhận ra giọng nói chanh chua của Lăng Phi Tuyết. Thì ra họ đã bị lực lượng truy binh của Hạo Thiên Cung bắt được!
    Chàng đang thắc mắc về an nguy của Phi Hồng thì đã nghe nàng nói với bọn ngục tốt:
    - Chắc các ngươi cũng biết lý do vì sao chị em ta bị giam cầm! Bởi thế, hãy khôn hồn đối xử với bọn ta cho tử tế kẻo bọn ta đổi ý, nhận lời lấy Khải Trạch và bảo gã chặt đầu các ngươi ra đấy!
    Lời hăm dọa ấy đã có hiệu lực, khiến một gã ngục tốt phải xuống nước, cười nịnh:
    - Tam tiểu thư yên tâm! Bọn nô tài nhất định sẽ hết lòng hầu hạ! Nhị vị cần gì xin cứ ra lệnh!
    Tư Đồ Sảng nghe xong hiệu ngay rằng Lăng Khải Trạch say mê hai cô em nuôi, quyết lấy cho bằng được. Nghĩa là dẫu chàng không hề đả thương gã ở Đồng Quan thì cũng không thành rể của Hạo Thiên Cung!
    Lúc này Lăng Phi Tuyết lại lên tiếng:
    - Các ngươi biết thân phận như thế là tốt! Giờ thì hãy vào phòng quét dọn sạch sẽ rồi cho người đến hậu viện mang chăn nệm cùng y phục của bọn ta lên đây! Và nhớ đổ đầy nước trong lu, không lúc nào được vơi!
    Gã ngục tốt già kia cười hì hì:
    - Nhị tiều thư cứ vào sẽ thấy phòng giam rất sạch sẽ và nước thì tràn trề! Bọn nô tài biết ý nhị vị nên đã sớm lo toan chu đáo cả rồi. Còn y phục và chăn nệm thì chỉ nửa khắc nữa là có ngay!
    Chắc gã nói không sai nên hai ả thiên kim mới ngoan ngoãn vào phòng giam. Lát sau, tiếng mở khóa cửa lại vang lên, tức thì vật dụng của hai nàng được mang đến. Và rồi tiếng nước xối vọng vào vành tai áp sát sàn phòng của Tư Đồ Sảng. Chàng thoáng đỏ mặt, nghe người ngứa ngáy vì thèm được tắm.
    Thạch tháp này xưa kia là chỗ cư ngụ của các thủ lãnh Ngũ Hành Giáo nên đầy đủ tiện nghi, quanh mỗi tầng đều có cứa cái thông với lan can gỗ bên ngoài. Trên lan can là mái hiên lợp ngói lưu ly xanh. Nhưng sau vài chục năm bị bỏ phế, những bộ phận ấy bị gió mưa làm hư hại cả! Hạo Thiên Cung liền bỏ quách cả lan can lẫn mái hiên, bít chặt cửa lớn, chỉ chừa lại cửa sổ. Và may thay, phòng vệ sinh vẫn còn nguyên vẹn, chỉ thiếu vách che.
    Kết cấu của tòa tháp chủ yếu là gạch đá và gỗ cho nên sàn lầu cũng bằng ván dầy ghép lại. Riêng phần nền phòng vệ sinh là một tấm đồng lá liền lạc bốn cạnh được gò cao lên hơn gang, có lỗ hố xí. Nhờ vậy, người ta có thể tắm táp thoải mái mà không sợ ướt sàn lầu. Nước sẽ chảy qua lỗ hố xí, theo ống đất nung đi xuống hầm phân gần chân tháp.
    Mỗi tầng lầu có bốn phòng giam song thật ra chỉ có phòng hướng Bắc là dùng để nhốt tù vì Hạo Thiên Cung chẳng có nhiều tù binh hay tội phạm. Bốn phòng này được chọn vì chúng có sẵn chỗ ị! Dẫu là nhốt tù thì cũng phải có nơi bài tiết, không thôi cả sơn cốc sẽ thối um lên chứ chẳng chơi!
    Nhắc lại hai ả họ Lăng tắm gội, ăn tối xong thì đã giữa giờ Hợi. Tư Đồ Sảng biết rõ rằng lúc này bọn ngục tốt chẳng bao giờ bén mảng đến phòng giam làm gì cả. Do đó, chàng tháo song sắt cửa sổ phòng mình, tuột xuống tầng dưới bằng sợi dây chão.
    Phòng vệ sinh ở mạn Đông nên tù nhân đã trải nệm cạnh tường Tây cho mũi đỡ khổ và cũng để tránh cặp mắt rình mò qua khe cửa cái! Cửa này nằm lệch về phía Đông chứ khóng ở giữa phòng!
    Tư Đồ Sảng đong đưa ngoài song cửa, ghé miệng gọi nhỏ:
    - Tuyết muội! Hồng muội! Ta là Tư Đồ Sảng đây!
    Hai ả chưa ngủ nên nghe tiếng ngồi bật dậy nhìn nhau nghi hoặc tưởng như nằm mơ. Tư Đồ Sảng phải gọi một lần nữa họ mới tin vào tai mình và tất tả chạy đến. Tuy gấp gáp mà bước chân vẫn không nhanh như thường lệ, chứng tỏ họ đều bị phong toả võ công!
    Phi Hồng có bưng theo giá nến nên song phương đủ ánh sáng mà nhìn mặt nhau. Hai ả vui mừng khôn xiết khẽ rú lên:
    - Tướng công!
    Phần Tư Đồ Sảng ngẩn ngơ nhìn hai gương mặt trắng trẻo, kiều diễm kia mà nghe lòng hụt hẫng, xótxa!
    Phi Hồng thông tuệ tuyệt luân, qua ánh mắt tình lang mà hiểu được tâm tư. Nàng run run nói:
    - Bọn thiếp vì nội qui nghiêm khắc cúa Hạo Thiên Cung mà phải dối gạt chang! mong tướng công lượng giải cho! Bằng như tướng công không tha thứ, chị em thiếp nguyện cào nát mặt để giữ được lòng yêu mến của chàng!
    Nói xong nàng đưa bàn tay thon thả, có năm móng sắc nhọn lên má. Phi Tuyết cũng làm theo và sụt sùi khóc. Tư Đồ Sảng nhìn những giọt lệ long lanh và hai cặp mắt huyền tha thiết kia mà nghe lòng ngập tràn cảm xúc. Chàng thức ngộ rằng dẫu cho dung nhan xấu đẹp thế nào thì họ vẫn chính là người mà chàng yêu thương, tin tưởng. Tư Đồ Sảng mỉm cười hòa ái:
    - Sao hai nàng lại nỡ bắt ta cứ treo lơ lửng mãi thế này?
    Hai ả mừng rỡ nhoẻn miệng cười và Phi Tuyết chợt sững người bảo:
    - Nhưng làm sao chàng vào được?
    Tư Đồ Sảng không đáp, dồn toàn lực kéo bật hai thanh sắt rồi chui vào trước ánh mắt thán phục của hai cô vợ đẹp!
    Họ giúp Tư Đồ Sảng cởi dây chão rối ôm lấy. Bỗng Phi Tuyết khịt mũi và chê:
    - Tướng công hôi quá!
    Tư Đồ Sảng xấu hổ biện bạch:
    - Ta bị giam ở phòng trên, chẳng có giọt nước tắm thì làm sao không hôi cho được!
    Phi Hồng tò mò hỏi ngay:
    - Tướng công bị Hạo Thiên Cung bắt hồi nào vậy?
    Tư Đồ Sảng đang định giải thích thì bị Phi Tuyết bịt miệng. Nàng nói như ra lệnh:
    - Chàng phải tắm trước đã! Chúng ta còn cả đêm để tâm sự!
    Và cô ả nóng tính dữ dằn này lôi tuột tình lang vào phòng vệ sinh. Phi Hồng hơi mắc cỡ nhưng cũng cắn răng phụ trợ với bào tỷ.
    Thấy Tư Đồ Sảng lúng túng thẹn thùng, Phi Tuyết cất giọng ôn nhu:
    - Tướng công! Đây chính là dịp để chị em thiếp bày tỏ chút lòng chung thủy, xin chàng cứ an nhiên mặc cho bọn thiếp phụng hầu!
    Tuy mạnh miệng như thế song da mặt nàng đỏ rực vì xấu hổ và đôi môi anh đào nhẹ run lên. Tư Đồ Sảng cảm nhận được hết trái tim nồng nàn kiên quyết của mĩ nhân, lòng vô cùng cảm kích, bất giác cúi xuống hôn lên môi Phi Tuyết!
    Trong lúc Phi Tuyết đê mê vì nụ hôn đầu, Phi Hồng che miệng cười chế giễu:
    Từ nay tỷ tỷ còn ganh tỵ rằng tướng công yêu tiểu muội nhiễu hơn không? Sao lại đờ người như tượng gỗ thế kia?
    Phi Tuyết bẽn lẽn không đáp, lóng ngóng cởi áo Tư Đồ Sảng. Hai nàng ra sức kỳ cọ cho phu tướng, nhăn mặt vì những tảng ghét dầy cộm!
    Tắm xong, Tư Đồ Sảng cùng hai mĩ nhân tâm sự đến tận cuối canh ba. Chàng không thể đưa họ đào thoát trong đêm nay như đã tính toán vì giờ đây Hao Thiên Cung phòng bị sum nghiêm và đầy dẫy cao thủ. Họ đang ráo riết chuẩn bị cho cuộc tấn công phái Toàn Chân vào đầu tháng chín. Do đó, vợ chồng Tư Đồ Sảng chỉ có thể thoát thân khi đạo quân Hạo Thiên Cung rời khỏi sơn cốc.
    Có lẽ vì bận rộn bởi cuộc chinh phạt sắp tới nên các tù nhân bị quên lãng, chỉ có bọn ngục tốt đến đưa cơm như thường lệ. Ngày hai lần, Tư Đồ Sảng phải trở về phòng giam của mình để ăn uống, nếu không, việc đào tẩu của Táo Gia Cát sẽ bại lộ!
    Tất nhiên, chàng phải ăn thêm trong khẩu phần ăn của hai nữ nhân mới đủ no. Phi Tuyết đã bắt bọn ngục tốt tăng lượng cơm canh, rượu, thịt, khiến chúng ngơ ngác, chằng hiểu vì sao! Chúng đoán mò rằng hai nàng muốn từ hôn Lăng Khải Trạch bằng cách ăn thật nhiều để biến thành heo nái!
    Tuy thường ôm ấp, hôn hít hai nàng song ban đêm Tư Đồ Sảng vẫn ngủ riêng một góc. Chàng cố chiến thắng những cơn rạo rực, giữ gìn tiết hạnh cho người yêu. Dẫu chỉ là một nhà nho nứa mùa, cha chàng vẫn dạy con tiết dục! Hơn nữa, chàng đang cư tang song thân và sư phụ! Để trấn áp lửa dục, Tư Đồ Sảng tham luyện pho Khô Mộc Thần Công!
    Ba người đã thân cận nhau như vợ chồng thực thụ! Hai nàng đỏ mặt song vẫn thản nhiên thay y phục trước mặt Tư Đồ Sảng. Hằng đêm, họ háo hức mơn trớn da thịt của nhau nhưng không ân ái!
    Phải chăng vì nỗi khát khao thân xác không được đong đầy nên tình yêu trở nên nồng thắm, mãnh liệt hơn?
    Hai nàng bị Cung chủ Hạo Thiên Cung Lăng Song Tường dùng thủ pháp độc môn phong tỏa chân khí nên yếu ớt như chưa hề luyện võ! Tư Đồ Sảng vận dụng hết võ học mà không sao giúp được họ, lòng vô cùng hổ thẹn! Chàng đã được Ly Giang Tiên Ông truyền cho bí pháp Linh Khu Thần Giải, có thể giải phá tất cả những công phu điểm huyệt trong võ lâm! Nay có dịp áp dụng mà lại thất bại khiến chàng rất hoang mang!
    Lằng Phi Tuyết là học trò cưng của Y Độc Thần Quân, rất giỏi về y lý nên đã cùng Tư Đồ Sảng bàn bạc cách chữa trị. Nàng cũng bị hạ thủ nên biết rằng mạch Đốc của mình bị bế tắc ngay huyệt Yên Du. Huyệt này nằm trên chỗ lõm dưới mõm gai đốt sống cùng thứ tư.
    Hai người đã thử những cách giải huyệt khác nhau trên tấm thân trắng trẻo, nuột nà và gợi cảm của Phi Hồng. Bệnh nhân thẹn đến chín người, luôn miệng cự nự bắt bào tỷ phải thay phiên. Kết quả là Tư Đồ Sảng đỏ mặt tía tai, tim đập liên hồi, chẳng còn suy nghĩ được gì nữa cả!
    Vài ngày sau, khoảng đầu canh một đêm hai mươi bẩy, Lăng Khải Trạch đột ngột đến gõ cửa phòng giam tầng bốn và ngạo nghễ nói:
    - Ta quên chưa thông tri cho hai ngươi biết rằng phép điểm huyệt của gia mẫu cực kỳ độc ác, đúng ngày trăng tròn sẽ phát tác. Lúc ấy, chân khí phá nát kinh mạch, đau đớn khôn lường, dẫu Đại La Thiên Tiên giáng trần cũng không cứu nổi! Các ngươi muốn sống thì hãy ngoan ngoãn nhận lời làm vợ ta, sau tiết Trùng Cửu sẽ cử hành hôn lễ!
    Nói xong, gã bỏ đi ngay, Tư Đồ Sảng cũng có mặt trong phòng, nghe vậymà lòng lo lắng cho thê thiếp. Chàng bối rối hỏi hai nàng:
    - Chúng ta tính sao bây giờ?
    Phi Tuyết nở nụ cười thê lương:
    - Bọn thiếp thà chết chứ không bỏ tướng công mà làm vợ hắn!
    Và nàng ôm lấy phu tướng mà khóc vùi. Tư Đồ Sảng vỗ về tấm lưng ong của người yêu, đau lòng đến nỗi chẳng nói nên lời.
    Bỗng Phi Hồng gạt lệ bảo:
    - Có lẽ sự tình không đến nỗi tuyệt vọng. Thiếp từng nghe gia sư đề cập đến một đại cao thủ trong nghề giải huyệt! Lão ta tên gọi Tư Không Chất, tuổi độ bẩy mươi lăm, ẩn Cư ở núi Thúc Phong, cách Lạc Dương độ vài dặm về hướng Tây Nam nên tự xưng là Thúy Phong Cốc chủ! Tư Không tiền bối có quen biết với gia sư tất sẽ giúp đỡ chúng ta!
    Vẻ lạc quan của nàng đã trấn an được Tư Đồ Sảng và Lăng Phi Tuyết. Cả ba bình tâm lại, kiên nhẫn chờ ngày thoát ly Hạo Thiên Cung!
    O0o
    Đúng như lời Táo Gia Cát đã nói, xẩm tối ngày cuối tháng tám, Cung chủ Hạo Thiên Cung thống lĩnh tám trăm đệ tử kiêu dũng rời sơn cốc tiến về phía núi Chung Nam. Trận đánh này có tầm quan trọng bậc nhất nên Lăng Cung chủ đã huy động hầu hết nhân thủ dưới trướng, chỉ để lại vài chục người yếu kém giữ nhà, đa số là bọn nô tỳ.
    Nhưng tại sao sắp tới ngày Đại hội võ lâm, dịp tốt để tranh ngôi Minh Chủ mà Hạo Thiên Cung lại phải tấn công phái Toàn Chân? Phải chăng Lăng Song Tường không tự tin vào bản lãnh võ công của mình?
    Xin thưa rằng đấy là một trong hai động cơ mà thôi! Lăng Song Tường khổ luyện Lô Hỏa Thần Chỉ đã hơn hai chục năm, đạt được tám thành hỏa hầu, thừa sức ngạo thị võ lâm. Nhưng mới đây, mụ nhận được tin mật báo rằng Cung chủ Thập Điện Diêm Cung tức Mân Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý, đã lấy được viên Tỵ Hỏa Châu của nhà họ Khuất đất Trường Sa, luyện thành pho Ngưng Huyết Huyền Băng Thần Chưởng. Do vậy, Lăng Song Tường sinh lòng e ngại, quyết định cướp đoạt viên Nhất Dương Thần Châu của phái Toàn Chân. Viên ngọc này vốn là di vật của Vương Trùng Dương, tổ sư phái Toàn Chân. Nếu Lăng Song Tường nuốt vật chí dương này thì sẽ lập tức thông qua lớp chót của Lô Hỏa Tâm Pháp, chỉ kình xanh biếc và nóng tựa lửa lò rèn, thiên hạ không đối thủ!
    Nguyên nhân thứ hai là tấm bản đồ kho báu dẫn đến nơi cất giấu tài sản khổng lồ của dòng họ Đoàn đất Đại Lý. Nhiều năm sau khi nước Đại Lý bị quân Mông Cổ tiêu diệt thì có lời đồn đại ràng: Vị vua cuối cùng của Đại Lý là Đoàn Hưng Trí đã kịp cất giấu những của cải quí giá nhất vào một nơi bí mật, rồi giao tàng bảo đồ cho cháu trai mang đến núi Chung Nam nương tựa phái Toàn Chân! Đoàn Hoàng Gia và Vương Trùng Dương có mối giao tình rất thâm hậu!
    Lời đồn chết tiệt ấy đã làm khổ phái Toàn Chân suốt mấy chục năm! Tiền nhiệm Trưởng Giáo, sư phụ của Hạo Dương Chân Quân, phải ra trước đại hội võ lâm, thắp hương thế thốt mới giải tỏa được mối nghi ngờ! Ông công nhận rằng năm xưa quả thật là con cháu của Đoàn Hoàng Gia có đến núi Chung Nam tỵ nạn song chẳng hề nhưng theo bản đồ kho báu nào cả. Và chàng trai bất hạnh đó cũng qua đời vài tháng sau đó vì một chứng bệnh nan y!
    Nhưng Cung chủ Hạo Thiên Cung không tin lời cải chính ấy, cho thủ hạ thân tín tiềm nhập phái Toàn Chân làm nội gián. Sau nhiều năm rình mò, vài tháng trước, tên gián điệp này đã mật báo về rằng có thấy Hạo Dương Chân Quân nửa đêm xem xét, nghiên cứu một tấm da dê cũ kỹ và so sánh với bản đồ địa thế của tỉnh Vân Nam!
    Lăng Song Tường càng khẳng định niềm tin, quyết bắt cho được Hạo Dương Chân Quân mà tra khảo cho ra Nhất Dương Thần Châu và Tàng bảo đồ. Mụ sẵn sàng giết sạch đệ tử Toàn Chân, không chừa bất cứ ai làm nhân chứng, ảnh hưởng đến sự nghiệp bá vương của Hạo Thiên Cung sau này!
    Hạo Thiên Cưng đã mang theo hàng trăm cân Hủ Cốt Tán để tiêu hủy tử thi! Không nhân chứng, không xác chết thì quan nha và võ lâm chẳng thể truy cứu được!
    Dù tin vào lực lượng và chiến thuật “xuất kỳ vô ý, công kỳ vô bị”, nghĩa là đánh lén, Hạo Thiên Cung cũng phải phòng xa, bắt mọi người chụp túi vải đen lên đầu, chỉ chừa hai lỗ mắt. Y phục của họ cũng toàn một mầu đen hắc ám, trông như đội quân của chốn âm ty vậy!
    Đoàn viễn chinh vừa đi khỏi độ hơn hai canh giờ thì Tư Đồ Sảng đưa hai nữ nhân rời thạch tháp. Do không sợ người ngoài xâm nhập vào nên bọn đệ tử ở lại chẳng thèm canh gác, thản nhiên đánh một giấc miệt mài sau bữa nhậu thả dàn!
    Nhận ra rằng chẳng có ma nào tỉnh táo tuần tra, trừ lũ chó Ngao, Lăng Phi Tuyết liền bàn:
    - Tướng công! Hạo Thiên Cung chính là tai họa của võ lâm, trước sau gì cũng là kẻ địch của chàng. Sao chúng ta không nhân cơ hội này vét sạch tài sản của họ, cũng là góp phần vào sự nghiệp giáng ma vệ đạo! Phòng quỹ nằm dưới sàn của tòa Thạch điện!
    Nàng oán hận Lăng Cung chủ giết hại Y Độc Thần Quân nên nghĩ đến chuyện trả đũa.
    Tư Đồ Sảng đang phân vân, sợ mang tiếng trộm cắp, thì Phi Hồng thở dài:
    - Tướng công chớ ngại vì việc này mà đánh mất khí tiết của bậc quân tử, tài sản kia vốn thuộc vế chị em thiếp! Khi gia phụ, gia mẫu đồng thời thất lộc, anh em không có, Lăng Cung chủ đã dùng quyền Biểu cô, đem chị em thiếp về nuôi và tiếp quản toàn bộ của cải nhà họ Lăng. Nay chúng ta lấy lại cũng là hợp đạo lý! Chẳng lẽ chị em thiếp vế làm dâu họ Tư Đồ mà không có được chút của hồi môn nào hay sao?
    Tư Đồ Sảng là người cương trực, công chính nên chán ghét sự bất công. Chàng vui vẻ nói:
    - Nếu đúng thế thì chúng ta có quyến thu hồi lại cho đúng đạo công bằng. Nhưng chỉ sợ sau này hai nàng trở nên giầu có mà chê ta nghèo đấy thôi!
    Hai ả phì cười, đấm yếu vào lưng chàng. Phi Tuyết nhanh nhẩu dẫn hai người kia đi đến cửa sau tầng dưới của toà Đại điện Hạo Thiên Cung.
    Có đến bẩy tám con chó lẩn quẩn chốn này. Song chúng quá quen hơi Phi Tuyết, Phi Hồng nên chẳng hề sủa, vẫy đuôi mừng rỡ.
    Tất nhiên, cửa nẻo rất kiên cố và được khóa bởi một ổ khóa loại tốt. Tư Đồ Sảng ngượng ngùng hỏi mượn Phi Hồng hai chiếc kẹp tóc bằng đồng. Chàng hí hoáy một lúc thì thành công. Nghề mở khóa này chàng cũng học từ Tích Dịch Quỷ Tây Môn Giới.
    Phi Hồng nhận lại kẹp, tủm tỉm nói đùa:
    - Té ra tướng công là cao thủ trong làng đạo chích! Với tài nghệ này bọn thiếp không lo đói nữa rồi!
    Tư Đồ Sảng hổ thẹn không đá, lẳng lặng mở cửa tiến vào. Phi Tuyết bật hoả tập, bước đến cạnh chiếc ngai gỗ chạm trổ cầu kỳ của Cung chủ và nói:
    - Tướng công! Con kỳ lân mé tả, phía trước này được đẽo từ đá vân thạch, nặng ước hai ngàn bốn trăm cân, song thiếp tin rằng chàng đủ sức. Chàng chỉ cần xô nó xoay ngang theo hướng phải là lộ ra cửa mật thất!
    Tư Đồ Sảng hơi ngao ngán nhưng không thể mất mặt với nơi đẹp nên xuống tấn, ôm đầu con vật nặng nề, lạnh toát mà đẩy mạnh. Những bắp thịt trên cơ thể chàng nổi lên cuồn cuộn, xương cốt kêu răng rắc; và khối vân thạch lì lợm kia bất đầu chuyển động. Có lẽ Thạch Lân được đặt trên một bàn xoay nên nó không bị xô lệch đi mà cứ từ từ quay ngang, đế lộ một lỗ trống mà lúc nãy bị phần thân sau che khuất.
    Phi Tuyết, Phi Hống nhanh nhẹn bước xuống những bậc thang gỗ, để Tư Đồ Sảng ở lại cảnh giới. Nửa khắc sau hai ả trở lên với hai túi vải nặng.
    Sau khi con kỳ lân trở về vị trí cũ, ba người mang ngân quĩ của Hạo Thiên Cung đi ra cửa sơn cốc!
    Lần này Tư Đồ Sảng chẳng phải nhọc công thi triển công phu Bích Hổ. Chàng tháo thanh dóng ngang, mở cửa mà ra. Khi ba người thoát khỏi trận kỳ môn nơi cửa sơn cốc thì nghe tiếng người gọi mừng rỡ:
    - Công tử? Liễu mỗ chờ đợi nơi đây đã ba đêm rồi!

  11. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 7 - TRÙNG DƯƠNG BÁN VẠN NHÂN HOAN TIẾU, TAM MA ĐỒNG XUẤT LƯỠNG CÂU THƯƠNG
    Sáng ngày Trùng Cửu, mùng chín tháng chín năm Giáp Dần, nhằm năm Gia Vĩnh thứ ba mươi ba, nửa vạn hào kiệt Trung Nguyên tụ hội ở núi Thiếu Thất để tham dự đại hội võ lâm.
    Trong số ấy có cả Thần Phủ Lang Quân Lý Thu và thủ hạ Huyết Báo Thân Vô Cửu. Bên cạnh họ không có mặt hai nữ nhân họ Lăng vì Phi Tuyết và Phi Hồng đang tĩnh dưỡng tại Thúy Phong Cốc, chờ được chữa trị. Bọn Tư Đồ Sảng đã đến núi Thúy Phong từ trưa hôm qua. Song không gặp được Cốc chủ. Lão ta đã đi Tung Sơn tham dự thịnh hội tranh ngôi Minh Chủ. Tuy nhiên, phu nhân của Cốc chủ là Dịch Trúc Lan đã vui vẻ tiếp đón và hứa sẽ thay chồng điều trị cho bệnh nhân. Bằng như bà thất bại thì sau đại hội Cốc chủ sẽ quay về! Đấy quả là một giải pháp lưỡng toàn vì hai ả họ Lăng không nên xuất hiện hoặc đi chung với Tư Đồ Sảng.
    Giờ này có lẽ Hạo Thiên Cung đã biết việc ba tù nhân vượt ngục và tài sản bị cuỗm sạch! Tất nhiên Lăng Song Tường sẽ nổi điên, ra sức truy nã Táo Gia Cát và hai con gái nuôi!
    Mụ ta càng điên hơn bởi đã thất bại cay đắng trong cuộc hành quân tấn công phái Toàn Chân. Giờ Tý ngày đầu tháng chín, lực lượng Hạo Thiên Cung tràn lên núi Chung Nam thì sa vào trận địa hố chông và hỏa dược. Kết quả là thương vong gần nửa quân số! Lăng Cung chủ vẫn ngoan cố xua quân tiến lên nhưng Tổng Đàn phái Toàn Chân không một bóng người, dù đèn vẫn sáng! Tam Thanh Cung và các đạo xá hoàn toàn trống rỗng! Nghĩa là, Hào Dương Chân Quân đã biết trước kế hoạch của Hạo Thiên Cung, âm thầm di tản người và của về Vạn Thọ Trùng Dương Cung trên đất Tổ Am. Còn Chung Nam Sơn thì biến thành một cái bẫy chết người!
    Linh cảm rằng Táo Gia Cát đã tẩu thoát, về đây tố giác và bày binh bố trận, Lăng Song Tường lập tức kéo quân trở lại núi Thái Bạch để kiểm tra. Hỡi ơi! Thì ra của cải lẫn tù nhân đều biến mất!
    Sau một hồi chửi rủa, quát tháo, Lăng Cung chủ bình tâm lại, cùng các Thiên Long bàn bạc, điều tra sự việc. Xét địa thế sơn cốc, họ kết luận rằng Tích Dịch Quỉ Tây Môn Giới là người duy nhất có thể vượt tường vào được Hạo Thiên Cung!
    Do đó, Lăng Song Tường phát lệnh truy nã Táo Gia Cát! Hai ả họ Lăng và cả Tây Môn Giới nữa! Toàn bộ đệ tử Hạo Thiên Cung đều xuất cốc, theo Cung chủ đi dự đại hội võ lâm, nhân dịp này truy bắt tội phạm!
    Lăng Song Tường tinh rằng sẽ tìm thấy Táo Gia Cát trong thịnh hội, bên cạnh Hạo Dương Chân Quân. Sau khi đại hội bế mạc! Bất kể kết quả thế nào thì Hạo Thiên Cung cũng dốc sức bắt Bùi lão!
    Tóm lại, người của Hạo Thiên Cung có mặt khắp nơi, trà trộn trong hàng ngũ quần hào. Nhưng họ không ngờ rằng hung thủ lại chính là Thần Phủ Lang Quân Tư Đồ Sảng, chàng rể hụt của Lăng Cung chủ, và chàng đang ung dung nện gót trên những bậc thang bằng đất dẫn lên bình đài đỉnh núi.
    Con đường này không đưa khách đến Thiếu Lâm Tự vì cửa thiền không phải là nơi để tranh danh đoạt lợi và chém giết lẫn nhau! Địa điểm tổ chức Đại hội nằm trên một ngọn núi thấp, cũng thuộc núi Thiếu Thất sơn. Trước iư chúng ta quen với khái niệm là chùa Thiếu Lâm gắn liền với núi Thiếu Thất, thực ra, nếu chi tiết hơn thì phải hiểu rằng Thiếu Lâm Tự tọa lạc ở ngọn Ngũ Nhũ, một đỉnh phía Bắc núi Thiếu Thất. Nghĩa là “Trong núi có núi” trong Tung Sơn có Thiếu Thất và trong Thiếu Thất có Ngũ Nhũ!
    Rặng Tung Sơn có đến bẩy mươi hai ngọn núi lớn và nhiều núi nhỏ nên người ta chẳng thể đặt tên cho xuể. Do vậy ngọn núi thấp nằm cạnh Ngũ Nhũ vẫn vô danh, y như nô tỳ đi cạnh chủ nhân vậy! Nó vô danh vì chẳng có kiến trúc nào cả và phong cảnh cũng không đẹp. Nhưng được cái đỉnh núi khá bằng phẳng, rộng rãi, đủ điều kiện để trở thành nơi tụ họp hàng vạn người.
    Núi cao gần trăm trượng nên việc thượng sơn biến thành một cuộc leo núi vất vả. Nhưng Tiết Trùng Cửu lại chính là ngày để leo núi.
    Tục lệ mừng Tiết Trùng Cứu có từ thời nào không rõ song người ta đã xem thời Tam Quốc là cái mốc xuất phát. Thuở ấy, Ngụy Văn Đế từng viết:
    “Tế vãng Nguyệt Lai.
    Hốt Hạ Cửu Nguyệt, Cửu Nhật!”
    Tạm dịch:
    “Năm qua tháng tới.
    Mới đó mà mùa hạ đã hết, ngày chín tháng chín đến rồi!”.
    Tiết Trùng Cửu còn gọi là Tiết Trùng Dương vì người Trug Hoa xem số lẻ thuộc về Dương và số chẵn thuộc về âm. Cho nên, mùng chín tháng chín có hai số dương, gọi là Trùng Dương!
    Tổ sư phái Toàn Chân cũng sinh vào ngày này nên lấy Đạo hiệu là Vương Trùng Dương!
    Thế nhưng “Cửu Vi Lão Dương, Dương Cực Tất Biến”, chín là Dương già, lên đến Cực dương ắt phải biến!
    Do vậy, trong quẻ bói dịch thì số chín là số xui xẻo báo điềm thịnh chuyển thành suy! Như trong bài khóc Dương Khuê, cụ Tam Nguyên đã có câu “Buổi Dương Cửu cùng nhau hoạn nạn!”. Và Trùng Cửu, hai con chín lại càng tệ hại. Ngày này chẳng nên làm ăn, buôn bán, cưới hỏi, cứ đi chơi cho khỏe! Tốt nhất là leo núi để luyện tập thân thể! Nhân tiện ngắm cảnh vì ngày Trùng Cửu trời thường trong xanh, đẹp đẽ!
    Quả đúng thế, sáng nay tiết trời rất đẹp, nắng thu nhàn nhạt, gió thu chỉ se lạnh, không làm khổ những kẻ đã khổ công lặn lội lên đây. Và lũ hoa cúc dại nở đầy trên thảm cỏ chỉ vừa kịp đón ánh bình minh Trùng Cửu thì đã bị chân người dày xéo!
    Tư Đồ Sảng và Huyết Báo lên núi khá sớm để có thể chiếm một vị trí gần lôi đài. Tuy không hóa trang song với gương mặt rám nắng, đầy râu và chiếc nón rộng vành, họ không sợ bị kẻ thù nhận ra trong đám người đông lúc nhúc này! Phần lớn hào kiệt tứ hải đã bôn ba mấy nghìn dặm đến đây nên trông ai cũng phong trần như ai! Vả lại, để râu rậm rạp là sở thích của đám nam nhân vì như thế sẽ oai phong hơn! Tục ngữ có câu “Nam tu nữ nhũ”, đàn ông không râu thường bị chê là “Phường mặt trắng!”.
    Hai người ngồi xuống thảm cỏ còn đẫm sương thu, mở bọc lá sen đựng bánh hấp, bánh bao, dùng bữa điểm tâm. Chung quanh họ cũng có nhiều người làm như thế, chỉ khác ở chỗ có thêm túi da đựng rượu! Xem tỷ võ phải có hơi men mới hứng thú! Và rượu vào lời ra nên lát sau đám tửu khách bắt đầu oang oang bàn chuyện giang hồ.
    Nhờ vậy mà Tư Đồ Sảng biết rằng Mân Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý đã xuất đầu lộ diện, thành lập Kỳ Lân Bang ở Trường Sa! Oái oăm thay, căn cứ của họ lại chính là Khuất gia trang, còn Đàm Châu đại hiệp Khuất Kỳ thi trở thành Phó Bang Chủ!
    Tần Cốc Lý lại có cả sự hậu thuẫn của Giả gia trang vì Giả Bạch Hổ là Tổng Hộ Pháp Kỳ Lân Bang. Bọn hào kiệt Hồ Nam còn kể thêm việc Khuất Thúy Lan, con gái Khuất Kỳ đã về làm dầu nhà họ Giả!
    Hình bóng Thúy Lan chưa bao giờ đậm nét trong tâm hồn Tư Đồ Sảng nên chàng nghe tin ấy mà không buồn.Chàng chỉ thắc mắc rằng Khuất lão thái sẽ ra sao khi bị Mân Xuyên Bá Đao đoạt mất Tỵ Hoả Châu? Dung nhan của cô gái bệnh hoạn Giả Đan Quỳnh cũng thoáng hiện ra nhưng chỉ trong phút chốc!
    Tin quan trọng thứ hai là của đám hào kiệt vùng Duyên Hải Đông Nam. Họ nói về sự bành trướng mau lẹ của Hải Hoa Bang ở các tỉnh ven biển như: Quảng Đông, Phúc Kiến, Chiết Giang, Giang Tô! Những Bang hội nhỏ Giang Đông đã lần lượt qui phục Hiải Hoa Bang vì khiếp sợ bản lãnh thần sầu quỉ khốc của Nam Hải Tiên Ông Ninh Hoàng Lạc. Trước đầy, họ chỉ phải dâng nạp lễ vật hàng tháng mà vẫn giữ được sự độc lập và quyền bảo kê, nhưng giờ thì mất tất cả!
    Hai nhóm hào khách Hồ Nam và Chiết Giang cũng hăng hái cá cược xem ai sẽ trở thành Minh Chủ võ lâm, Tần Cốc Lý hay Giáp Vô Yên? Chính họ Giáp lên tranh cử chứ chẳng phải Nam Hải Tiên Ông vì giới hạn tuổi là bảy mươi! Tuy Bang Chủ Hải Hoa bang đã bị Thần Phủ Lang Quân đả thượng nhưng Mân Xuyên Bá Đao cũng không được đánh giá cao lắm, do mất tích đã lâu!
    Tất nhiên, bọn hào kiệt ấy cũng nhắc đến Thần Phủ Lang Quân Lý Thu và hy vọng chàng trai trẻ tuổi tài cao kia sẽ tranh giành ngôi Minh Chủ!
    Họ không biết rằng chàng ta đang ngồi gần đấy với tư cách một khán giả. Chàng đến đây để xem mặt Tần Cốc Lý, kẻ có thể là chủ hung trong vụ án sát hại song thân mình!
    Chàng không hề thiết tha đến chức Minh Chủ và cũng tự lượng mình chẳng phải địch thủ của Tần Cốc Lý hay Cung chủ Hạo Thiên Cung! Cứu cánh của Tư Đồ Sảng là pho Khô Mộc Thần Công nhưng chàng chỉ mới tham luyện được hơn nửa tháng! Chàng thầm lo lắng, sợ rằng Mân Xuyên Bá Đao sẽ trở thành Minh Chủ võ lâm, có đặc quyền từ chối mọi cuộc thách đấu! Và lúc ấy, chàng chỉ còn cách ám toán lão ta mà thôi!
    Đang suy nghĩ bâng quơ, Tư Đồ Sảng khẽ giật mình cảnh giác khi có người đến ngồi xuống bên cạnh. Dung mạo của gã Đạo sĩ trung niên này rất tầm thường, chẳng có điểm gì khiến người ngoài phái lưu tâm, dù gặp gỡ vài lần cũng không sao nhớ nối, nhưng đối với Tư Đồ Sảng thì nó vô cùng quen thuộc và thân thiết. Chàng mừng rỡ nắm tay gã và hạ giọng:
    - Tây Môn Đại thúc! Tiểu điệt định sau đại hội sẽ đến vấn an người!
    Tích Dịch Quỉ Tây Môn Giới trừng mắt bảo:
    - Tiểu quỉ chết tiệt kia! Người giấu mặt đại náo Hạo Thiên Cung báo hại lão phu lãnh hậu quả, bị truy nã gắt gao đến mức chẳng còn chỗ nương thân! Ngươi cứu người thì đã đành, sao còn cuỗm sạch tài sản của mụ họ Lăng làm gì?
    Tư Đồ Sảng thẹn chín người, đang định biện bạch thì Tích Dịch Quỉ đổi thái độ, nghiêm nghị nói tiếp:
    - Lão phu chỉ nói đùa thế thôi chứ trong lòng thì rất hãnh hiện khi có được học trò giỏi. Giờ hãy bình tâm nghe lão phu nói đến một việc cực kỳ quan trọng!
    Và lão kề tai chàng thì thầm:
    - Lão phu đã về Hàm Dương, cùng Lý đại ca điều tra suốt mấy tháng trời, dò hỏi hàng trăm người. Nhờ vậy mà đã tìm ra hung thủ sát hại cha mẹ ngươi!
    Tư Đồ Sảng rúng động tâm can, nỗi vui mừng và lửa hận cùng bốc cao khiến người chàng run bắn lên. Chàng cố bình tâm hỏi nhỏ:
    - Bẩm đại thúc! Hắn ta là ai vậy?
    Tây Môn Giới cau mày đáp:
    - Theo lời mô tả của các nhân chứng, nhất là bọn tiểu nhị của An Hương lữ điếm thì hung thủ gồm hai người, tuổi độ lục tuần lão mang đao có một nốt ruồi son trên cánh mũi trái, đúng là đặc điểm của Mân Xuyên Bá Đao, người thứ hai mang kiếm, dung mạo anh tuấn nhưng nhãn thần lờ đờ, trông như kẻ si ngốc vậy! May thay, một gã tiểu nhị có tài họa đạo đã vẽ lại chân dung của hai kẻ đáng nghi ấy, giúp lão phu nhận ra Tần Cốc Lý và Thập Tự Thần Kiếm Phan Tử Mỹ. Lý đại ca đã phỏng đoán rằng năm xưa hai lão Tần, Phan rơi xuống vực thẳm Vu Sơn mà không chết. Nhưng ThậpTự Thần Kiếm thọ thương vào đầu, mất lý trí, bị Mân Xuyên Bá Đao khống chế! Còn lý do vì sao họ cố giết cho bằng được cha ngươi thì không rõ!
    Tư ĐồSảng nghe xong,ứa nước mắt nói:
    - Nay họ Tần đã luyện thành Ngưng Huyết Huyền Băng Thần Chưởng, có khả năng sẽ đoạt được ngôi Minh Chủ, tiểu điệt chỉ còn cách liều mình thượng đài, tìm cơ hội báo thù mà thôi!
    Tây Môn Giới giận dữ hừ nhẹ:
    - Phế ngôn! Quân tử báo thù ba năm chẳng muộn, sao ngươi lại nghĩ đến chuyện thí mạng? Hơn nữa, Táo Gia Cát đã khẳng định trong đại hội lần này sẽ lắm bất ngờ và Tần Cốc Lý không thể đăng quang một cách dễ dàng. Bùi lão đã đem hết tài Gia Cát ra bói một quẻ, biết rằng ngoài Hạo Thiên Cung Chủ sẽ còn có một nhân vật cực kỳ lợi hại nữa ứng cử.
    Tư Đồ Sảng đăm chiêu nói:
    - Nếu Bùi tiền bối đã quả quyết như thế thì tiểu điệt sẽ cố nhẫn nại, chờ luyện xong Khô Mộc Thần Công mới khiêu chiến với họ Tần!
    Và chàng lộ sắc buồn rầu, than:
    - Tiểu điệt chỉ sợ ba năm cũng chẳng đủ hỏa hầu để thắng Tần Cốc Lý!
    Tây Môn Giới vỗ vai chàng an ủi:
    - Sảng nhi chớ lo! Ngươi là kẻ có gân cốt thượng thặng, lại được lệnh mẫu tài bồi bằng bí pháp Mẫu Tử Tiên Thiên Đạo Khí nên thần lực kinh nhân, học công phu nào cũng tiến bộ nhanh gấp mấy lần kẻ khác. Sau đại hội, lão phu sẽ đi Bắc Kinh tìm cho ngươi một nhánh Thiên Niên Hà Thủ Ô hay vài viên Vạn Niên Tuyết Sâm Hoàn. Khi có được những thứ ấy, Sảng nhi sẽ dễ dàng hoàn thành Khô Mộc Thần Công chỉ trong một hai năm!
    Tư Đồ Sảng lặng người vì cảm kích. Chàng biết Tích Dịch Quỉ sẽ phải đột nhập Hoàng Cung bởi chỉ nơi ấy mới có loại kỳ trân hãn thế nọ. Mà Tử Cấm Thành lại là chốn được phòng bị nghiêm mật nhất thiên hạ, có vào chẳng có ra! Chàng nhìn Tích Dịch Quỉ với ánh rất thiết tha và nói:
    - Đại thúc bất tất vì tiểu điệt mà mạo hiểm thân già! Cùng lắm thì tiểu điệt tìm cách ám toán kẻ thù là xong! Đại thúc chẳng từng dặn tiểu điệt rằng cách đánh lén luôn có hiệu quả đấy sao?
    Tây Môn Giới hiểu lòng chàng, cười bảo:
    - Đúng là như thế song lão phu lại muốn học trò của mình chiến thắng một cách oanh liệt và quang minh chính đại!
    Dù không có danh phận sự đồ nhưng Tích Dịch Quỷ luôn tự xem Tư Đồ Sảng là truyền nhân của mình. Và hơn thế nữa, lão yêu thương chàng trai trẻ anh hùng này như con! Trong tiềm thức của vị tổ sư đạo chích, vẫn ẩn kín nỗi khát khao có được một nam tử tài ba xuất chúng. Tư Đồ Sảng đã đáp ứng được mỏng ước ấy!
    Tây Môn Giới vô tình xiết chặt lưng Tư Đồ Sảng và khoan khoái hưởng thụ thứ giác ấm cúng của tình thương.
    Huyết Báo nhân cơ hội này mở miệng chào:
    - Tại hạ là Liễu Mộ Hào, thuộc hạ của Tư Đồ công tử, xin bái kiến đại thúc!
    Tây Môn Giới cười nhạt:
    - Nếu lão phu không biết ngươi là ai, quan hệ thế nào với Sảng nhi, thì đã chẳng nói năng tự nhiên như vầy!
    Huyết Báo không dám giận dữ chỉ tủm tỉm cười.
    Lúc này tiếng trống khai mạc Đại hội đã trỗi lên khiến quần hùng chú mục cả về hướng lôi đài. Đấy là một toà mộc đài cao đúng trượng, vuông vức mỗi bề bốn trượng, không có mái che. Bàn của Ban giám khảo đặt ở bìa phía Bắc của lôi đài!
    Sàn lôi đài lót ván dầy và chung quanh chân cũng bít kín đế đảm bảo không ai có thể ẩn nấp ở dưới mà ám toán các ứng viên!
    Sau lưng Ban giám khảo có căng một tấm trướng lụa trắng cực lớn, trên viết bốn chữ Tiểu Triện, nét to hàng gang tay: “Võ Lâm Đại Hội”. Và ở hai cột gỗ các gốc Tây Bắc, Đông Bắc treo cặp liễn đối:
    “Nghĩa Bạc Vân thiên hiệp giả. Bạt đao phù chính khí.
    Nhân Mãn càn khôn, dũng sĩ quát kiếm tảo tà ma”.
    Khác với nét bút tròn đều và ngay ngắn của lối viết Tiểu Triện, những chữ trên đôi liễn được viết theo lối Cuồng Thảo đời nhà Đường nên nét bút rất phóng khoáng, nối nhau tựa rồng rắn, tượng trưng cho sự trường tồn miên viễn của võ lâm!
    Chữ Cuồng Thảo là hình thức mới của Thảo thư, do Trương Húc và Thích Hoài Tố khai sáng! Thế cho nên, trong nửa vạn kẻ vai u thịt bắp hiện diện chốn này chẳng phải ai cũng đọc được câu liễn kia. Không đọc được thì tức anh ách nên có người lên tiếng chửi oang oang:
    - Con bà nó! Chẳng hiểu cái thằng dốt nào đã viết hai câu đối kia thế nhỉ? Chữ nghĩa gì mà nhằng nhịt rối mắt khiến lão gia không sao đọc được dù đã học đến tám vị thầy đồ!
    Cử tọa nghe vậy liền bật cười hô hố, chế giễu bậc anh hùng ít học kia! Nạn nhân là một hán tử tuổi độ Tam thập, có chiều cao khiêm tốn nhưng thân hình vô cùng lực lưỡng, vai rộng gấp rưỡi người thường, thành ra hơi giống loài khỉ dã nhân.
    Gã dốt là phải vì nghèo đến mức đi dự Đại hội võ lâm mà mặc một bộ y phục cũ mèm, chật ních, bó chặt những cơ bắp cuồn cuộn và có chỗ bung cả chỉ! Tuy nhiên, gương mặt của gã khá đẹp, chỉ đậm nét quê mùa, mộc mạc chứ không hề xấu xí.
    Bị quần hùng cười nhạo, chàng trai nghèo mạt rệp kia tức tối quát:
    - Cười cái đếch gì! Các ngươi có giỏi thì đọc thử ta nghe!
    Lập tức có giọng già nua cất lên, đầy vẻ nghiêm trang:
    - Đây là lối chữ Cuồng Thảo, lại được viết bởi bàn tay tài hoa, phóng túng của Bút Thánh nên hơi rối mắt, khiến bậc ạnh hùng trẻ tuổi gặp khó khăn. Lão phu sẽ đọc lại để các hạ tường tri! À! Chẳng hay các hạ danh tính ra sao và xuất thân từ cửa nào vậy?
    Được bậc trưởng bối khen mình là anh hùng trẻ tuổi, gã to ngang kia vô cùng khoan khoái, toét miệng cười đáp:
    - Bẩm tiền bối! Tại hạ có quí tính đại danh là Triển Phi Hoan, quê quán đất Lô Châu Tứ Xuyên, tuổi gần Tam thập nhưng chưa thành gia thất.Tại hạ có được bản lãnh siêu phàm là nhờ sự giáo huấn của từ mẫu!
    Câu tự giới thiệu ngây ngô, dài dòng và đầy vẻ khoe khoang của gã đã khiến người chung quanh lại được một phen cười nôn ruột, nhưng lão già râu dài kìa đã khoa tay ra hiệu cho họ nín cười và ông tằng hắng chuẩn bị ngâm hai câu đối...
    Gã Triển Phi Hoan cũng đứng thẳng người vểnh tai, ra vẻ biết thưởng thức.
    Lão râu đài, vận công ngâm thật lớn, âm thanh trầm bổng vang dội khắp bình đài đỉnh nủi, khiến ai cũng nghe thấy:
    “Y bạc xiêm sơ...lưỡng đảo...nhất khê...giai khả biến.
    Mao thanh... nhục bạch... anh hùng chi kiếm... hốt... Kình thiên.”
    Tạm dịch:
    “Áo mỏng váy thưa, hai đảo một khe đầu thấy được.
    Lông xanh, thịt trắng, kiếm của bậc anh hùng bỗng chống trời!”
    Giong ngâm và sắc diện trang trọng, văn nhã của lão càng làm tăng sự hoạt kê của hai câu thơ hàm ý thô tục khiến cho quần hùng phá lên cười như điên dại. Thậm chí có kẻ còn ôm bụng khuy xuống mà cười cho thỏa!
    Thì ra gã quê mùa Triển Phi Hoan đã bị lão râu dài chơi khăm! Tuy dốt nát nhưng họ Triển cũng hiểu được những chữ đơn giản kia, biết đối phương biến gã thành trò cười của cả đại hội. Gương mặt chất phác của Phi Hoan tái nhợt đi vì hổ thẹn, và ánh mắt gã chất chứa nỗi đắng cay chua xót! Gã mồ côi cha từ thuở lọt lòng, mẹ lại thường xuyên bệnh tật, nhà luôn thiếu ăn, thì tiền đâu mà đi học? Vậy tại sao thiên hạ lại chế nhạo nỗi bất hạnh của gã?
    Nghĩ đến đây, lửa giận bùng lên, Triển Phi Hoan nghiến răng kèn kẹt, mắt trợn trừng, tay hữu xiết chặt chuôi của thanh đao bên hông, định xông đến giết lão già râu dài chết tiệt kia.
    Nhưng có ai đó đã đưa tay cản lại và cất giọng hòa ái:
    - Triển huynh hãy bớt giận! Lão già ấy là Hí Nhân cư sĩ Cổ Quí Sinh, quen thói diễu cợt thiên hạ, chẳng chừa một ai, kể cả phương trượng chùa Thiếu Lâm. Nhưng Cổ lão lại là người tốt, mỗi năm bố thí cho người nghèo hàng vạn lượng bạc.
    Triển Phi Hoan nghe lời dịu ngọt ấy mà nguôi giận, tự nhủ rằng cái nhục của mình không lớn lắm. Gã ngước lên nhìn cái kẻ đã can gián rất lọt tai, nhận ra một chàng trai râu rậm nhưng mặt còn non. Gã lặng nghe lòng xao xuyến trước sống mũi Thông Thiên Đình của đối phương và bất giác sờ lên mũi của mình.
    Người ấy chính là Tư Đồ Sảng và nãy giờ chàng cũng bồi hồi trước dung mạo của Triển Phi Hoan. Mặt gã và chàng khá giống nhau! Tuy đã nghe rõ tính danh và quê quán của họ Triển song lòng Tư Đồ Sảng vẫn phát sinh một mối hảo cảm, không rõ nguyên do đối với gã!
    Trong sách tướng pháp của người Trung Hoa, tướng mũi Thông Thiên Đình rất quí và hiếm hoi, chỉ loại sống mùi cao, thẳng, sơn căn đầy bằng với trán (sơn căn là chỗ tiếp giáp giữa sống mũi và trán. Đại đa số người Hán đều có sơn căn lõm xuống).
    Và tướng mũi này của Tư Đồ Sảng đã thừa hưởng của cha là Tư Đồ Quát! Mà Phi Hoan mang họ Triển tất chẳng dính dáng gì với họ Tư Đồ!
    Nhắc lại, chàng trai già có thân hình to ngang, thô kệch của đất Tứ Xuyên, cũng bất giác thấy mến kẻ có cái sống mũi giống mình. Gã vui vẻ nói:
    - Này Tiểu huynh đệ! Phải chăng chúng ta có họ hàng nên lỗ mũi giống nhau? Nhưng ngươi nói năng nghe rất êm tai còn ta thì ngược lại!
    Tư Đồ Sảng mỉm cười đáp:
    - Tại hạ là Tư Đồ Sảng, hai mươi mốt tuổi, quê đất Hàm Dương! Mời Triển huynh sang đây ngồi chung để cùng xem tỷ võ cho vui!
    Triền phi Hoan hớn hở gật đầu, đi theo Tư Đồ Sảng đến chỗ của chàng.
    Tây Môn Giới đã mất dạng chỉ còn lại Huyết Báo Liệu Mộ Hào. Song phương tự giới thiệu và làm quen xong thì nghe tiếng Giám đài nói lời khai mạc và yêu cầu các thí sinh đăng ký thượng đài!
    Triển Phi Hoan nhấp nhỏm đứnglên, miệng thì nói:
    - Tại hạ phải lên ghi danh mới được! Lát nữa chúng ta sẽ gặp lại!
    Tư Đồ Sảng giật mình, sợ gã khó thoát chết, liền giữ lại và nói:
    - Đại hội lần này thực chất là một cuộc tỷ đấu của những đại cao thủ số một võ lâm. Họ đều sở hữu những pho tà công cực kỳ ác độc như Ngưng Huyết Huyền Băng Thần Chưởng, Lô Hoả Thần Chỉ... Do vậy, Triển huynh dù võ nghệ cao cường cũng không nên thượng đài!
    Triển Phi Hoan cụt hứng, mặt lộ sắc buồn:
    - Nếu đúng là hai loại võ công ma quỉ ấy thì ta đành bó tay vì tiên mẫu đã từng nhắc đến! Nhưng nếu không trở thành Minh Chủ thì ta làm gì để sống bây giờ? Chẳng lẽ Hoan này luyện võ gần ba chục năm mà phải làm thợ săn mãi hay sao?
    Huyết Báo phì cười:
    - Con bà nó! Minh Chủ thì làm gì có lương tháng, ngươi cần tiền chứ đâu cần ngôi vị ấy!
    Liễu Mộ Hào lớn hơn Triển Phi Hoan mười mấy tuổi nên có thể xưng hô như thế. Họ Triển không giận, ngơ ngác hỏi lại:
    - Thực thế sao? Ta tưởng người đứng đầu võ lâm phải được trả lương cao lắm chứ?
    Huyết Báo cố nín cười, tủm tỉm bảo:
    - Ta định giới thiệu cho ngươi một việc làm tốt, no ấm suốt đời. Nhưng chỉ sợ ngươi chê lương thấp nên chẳng dám nói ra!
    Phi Hoan mừng rỡ khẩn cầu:
    - Xin Liễu huynh thương tình chỉ giáo cho! Tiểu đệ chỉ cần no bụng và mỗi tháng có được vài lượng mà uống rượu là đủ rồi! Tiểu đệ tuy ngốc nghếch nhưng bản tính trung thực, sức cử ngàn cân, lại siêng năng cần mẫn, quyết chẳng phụ lòng chủ nhân!
    Huyết Báo liếc Tư Đồ Sảng, thấy chàng gật đầu, liến nghiêm nghị nói với họ Triển:
    - Chẳng phải việc cày sâu cuốc bẫm hay nặng nhọc gì cả! Nếu ngươi không sợ chết thì theo ta làm thủ hạ của Tư Đồ công tử đây! Chúng ta sẽ cùng nhau tung hoành thiên hạ, lưu danh sử sách, thỏa chí nam nhi. Ngoài lương tháng năm chục lượng bạc, ngươi sẽ được tặng thêm năm lượng vàng để cưới vợ!
    Triển Phi Hoan như chuột sa hũ ếp, ngẩn ngươi một lúc rồi ấp úng hỏi lại:
    - Chẳng hay nhị vi là cường đạo ở vùng nào vậy?
    Huyết Báo vừa tức cười vừa giận, đấm cho Phi Hoan một quyền chửi:
    - Cường đạo cái con khỉ! Tư Đồ công tử đây chính thị ThầnPhủ Lang Quân, danh vang tứ hải. Chàng ta thương ngươi khốn khó nên muốn bảo bọc đấy thôi!
    Chắc Triển Phi Hoan có nghe qua chiến tích lẫy lừng của Thần Phủ Lang Quân nên hiểu ra, cười hề hề:
    - Té ra là thế! Triển mỗ xin cúi mình phục vụ bậc anh hùng!
    Tư Đồ Sảng tươi cười đưa tay hữu ra để Phi Hoan xiết lấy, tượng trưng cho lời cam kết cùng nhau sát cánh.
    Giờ chúng ta sẽ quay lại với lôi đài để nghe Đàm Vân Tử, Trưởng lão phái Võ Đang, đọc danh sách những ứng cử viên đủ tư cách thượng đài. Tổng cộng ba mươi hai người, đứng đầu là Hạo Thiên Cung Chủ Lăng Song Tường, Bang chủ Kỳ Lân Bang Mân Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý, Bang chủ Hải Hoa Bang Giáp Vô Yên. Hai mươi chín người còn lại là cao nhân thành danh khắp thiên hạ. Tuổi tác của ba mươi hai người ấy đều từ bẩy chục trở xuống, theo đúng qui củ võ lâm.
    Sau khi đọc danh sách, Đàm Vân Tử cao giọng nói tiếp:
    - Trong lúc ban giám khảo sắp xếp các cặp đấu thủ, hai ứng viên Lăng Song Tường và Tần Cốc Lý sẽ đánh trận khai mạc. Xin mời nhị vị thượng đài!
    Quần hùng hoan hô nhiệt liệt vì biết hai người ấy là cặp gà số một của Đại hội. Và cuộc tranh tài của hai đại cao thủ này chắc chắn sẽ vô cùng hấp dẫn.
    Mặt trước lôi đài có hai cầu thang gỗ cách nhau hơn trượng để các ứng viên đi lên. Kẻ tả người hữu, song phương cùng nhau thượng đài, đứng gần mép sàn gỗ mà vái chào cử tọa.
    Tần Cốc Lý có thân hình tráng kiện, cao ráo, râu tóc đen nhánh, mặt đẹp cương nghị, phong thái ung dung đáng mặt tôn sư. Nhưng lão là nam nhân nên chẳng có gì hấp dẫn cả. Ngược lại, quần hùng suýt xoa tán dương vóc dáng yểu điệu, thon thả và gợi cảm của Lăng Song Tường, người đàn bà thần bí nhất võ lâm. Tuy đã sắp sáu mươi mà Cung chủ Hạo Thiên Cung trẻ như mới gần tứ thập, nhan sắc bội phần mặn mà, kiều diễm. Nụ cười trên môi bà ta đầy sức mê hoặc, song ánh mắt lại lạnh tựa sương khuya!
    Mân Xuyên Bá Đao cũng chăm chú ngắm nhìn đối thủ chẳng rời, lão buông lời bỡn cợt:
    - Phải chăng Cung chủ định dùng mĩ nhấn kế để thắng lão phu nên mặc võ phục bó sát người, lồ lộ những nét gợi tình?
    Quần hùng khoái chí tán thành, hùa nhau cười đểu cáng. Và có kẻ còn rống lên:
    - Này Tần Bang chủ!Ông mà để lưỡi đao chạm vào hai ngón đồi ấy thì ta sẽ lôi mười tám đời tổ tông nhà họ Tần ra mà nguyền rủa đấy!
    Lăng Song Tường đỏ mặt vì những lời thô tục nhưng không phát tác với quần hùng mà trút giận lên đầu Tần Cốc Lý. Bà bất ngờ rút kiếm xông đến tấn công họ Tần bằng một chiêu cực kỳ hung hãn và lợi hại.
    Có thể là bà ta quá xảo quyệt nên đã mượn cớ bị sỉ nhục mà đoạt lấy tiên cơ! Nhưng hành động này của Lăng Song Tường không hề bị kết án vì Tần Cốc Lý đã nham hiểm dùng lời khích động trước.
    Và lão hồ ly kia cũng thừa cơ cảnh để đoán trước phản ứng của đối phương. Mân Xuyến Bá Đao bình thản cử đao chống đỡ và lập tức giở ngay tuyệt học Ngưng Huyết Huyền Băng Chưởng, xạ liền một đạo kình phong trắng đục và lạnh giá.
    Tần Cốc Lý là người tàn nhẫn và quyết đoán nên nặng tay từ chiêu đầu tiên, nhờ vậy mà đối phó với độc thủ của kẻ địch.
    “Tối Độc phụ nhân tâm” lời người xưa vốn chẳng sai. Lăng Song Tường đã sớm phóng ra một đạo chỉ kình phớt hồng xoèn xoẹt xé không gian, nhắm vào bụng dưới họ Tần. Bà ta đã thực hiện câu “Tiên hạ thủ vi cường”, chẳng hề nấn ná, kéo dài cuộc chiến.
    Rốt cuộc kẻ cắp bà già gặp nhau, đao kiếm chưa chạm mà chưởng chỉ đã tương phùng, phát ta tiếng nổ lép bép như pháo chuột. Song phương ngang tài nên hai tà công triệt tiêu lẫn nhau, không phân thắng bại. Phản lực khiến họ khựng lại một lúc và rồi cùng lao đến, ánh thép loang loáng dưới nắng thu và tiếng thép ngân dài.
    Chẳng phải vô cớ mà Mân Xuyên Bá Đao mặc bộ vô phục bằng gấm trắng và cả lưỡi đao cũng sơn mạ một mầu trắng đục. Điều này sẽ khiến cho đối phương hoa mắt, khó phát hiện những đạo chưởng phong Ngưng Huyết Huyền Băng.
    Bên kia, Hạo Thiên Cung chủ cũng tính toán như thế nên xiêm y mầu hồng phấn, lưỡi kiếm được đánh bóng như gương, phản chiếu mầu áo và che giấu Lô Hoả Thần Chỉ.
    Do vậy, giờ đây song phương hoá thành hai chiếc bóng, một trắng, một hồng, quấn quít lấy nhau mà đổi đòn.
    Đao pháp của Tần Cốc Lý trầm ổn mà hùng mạnh, ngược lại, đường kiếm của Lăng Song Tường nhanh và hiểm độc. Tần Cốc Lý ít di chuyển, áp dụng đấu pháp Dĩ tịnh chế động, trong khi đối thủ của lão linh hoạt như cánh bướm, đáo lộn không ngừng.
    Hạo Thiên Cung chủ thông thạo lộ số võ công trăm nhà, kiếm pháp tinh kỳ, bác tạp, biến ảo phi thường nên đã giành được lợi thế về vũ khí. Mũi kiếm của bà lăm le đe dọa những tử huyệt trên cơ thể đối phương, nhiều lần tưởng như đắc thủ.
    Tần Cốc Lý tuy thua sút ở mặt này, thủ nhiều hơn công, song lại hơn về mặt khác. Lão nhờ viên Tỵ Hỏa Châu mà đạt được mười thành hỏa hầu của công phu Ngưng Huyết Huyền Băng Chưởng. Cho nên, họ Tần có thể liên tục giáng những chưởng sấm sét, đẩy lùi kẻ địch.
    Lăng Song Tường là nữ nhân, sức lực chẳng bằng đối phương, lại chỉ mới luyện Lô Hoả Thần Công đến lớp thứ tám, nên không dám phí sức cho những đạo chỉ phong, thỉnh thoảng mới ra đòn.
    Hai tà công chí Dương và chí Âm này đúng là khắc tinh của nhau, biến họ thành kẻ tử đối đầu. Nếu địch thủ của họ là người khác thì cuộc chiến đã kết liễu từ lâu rồi!
    Quần hùng say mê theo dõi và reo hò tán thưởng nhưng Ban giám đài thì rầu thúi ruột trước bản lãnh của hai kẻ có dã tâm kia! Trong phe chính phái, không có cao thủ nào xứng tay với họ!
    Ban giám đài của Đại hội lần này gồm năm vị chưởng môn các phái Bạch Đạo.
    - Giám Tuệ Thiền sư, phương trượng chùa Thiếu Lâm.

Trang 1 / 4 123 ... Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Hắc Bạch Hương Hồ Ký
    By giavui in forum Truyện Kiếm Hiệp
    Trả Lời: 53
    Bài Viết Cuối: 04-16-2014, 08:09 PM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-30-2013, 06:03 PM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 09-30-2013, 02:27 AM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 09-04-2013, 06:04 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •