Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Tuổi trẻ là tuổi không ngại ngùng gì cả và không ghi ngờ gì cả.
Susanna March
Trang 5 / 8 ĐầuĐầu ... 34567 ... Cuối Cuối
Results 41 to 50 of 73

Chủ Đề: Chân Dung hay "Chân Tướng" Nhà Văn ?

  1. #1
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết

    Chân Dung hay "Chân Tướng" Nhà Văn ?

    .

    Chân Dung hay "Chân Tướng" Nhà Văn ?
    Nhật Tuấn
    Kỳ 1





    Năm 1992 một sự kiện ầm ĩ nổ ra trong giới xuất bản. Chuyện bắt đầu từ tập thơ “Lên chùa” của nhà thơ Xuân Sách vốn được sáng tác lai rai từ 30 năm trước. Vào một dịp thăm Xuân Sách ở Vũng Tàu, tướng Trần Độ ghi âm Xuân Sách đọc gần 100 bài thơ này. Cuối năm 1992, nhà văn Hoàng Lại Giang lúc đó là Trưởng Chi nhánh NXB Văn Học tại TPHCM được nghe cuốn băng này và đề nghị Xuân Sách cho xuất bản với tên “ CHÂN DUNG NHÀ VĂN”.

    Mặc dầu NXB Văn học đã phải rào trước đón sau trong lời nói đầu :

    Chúng tôi chỉ coi đây là những nét tự trào của giới cầm bút Việt Nam. Cười đấy nhưng cũng tự nhận ra những xót xa, hạn hẹp của chính mình, những gì chưa vượt qua được trên chặng đường quanh co của lịch sử và thời đại. Tự soi mình hoặc hiểu mình thêm qua cái nhìn của người cùng hội, cùng thuyền lắm khi cũng hữu ích. Cái cười trong truyền thống dân gian vốn là vũ khí. Ngày nay còn có thể là sức mạnh thúc đẩy đi tới phía trước.Với ý nghĩ ấy, chúng tôi mong bạn đọc và các nhà văn thông cảm cho những gì bất cập hoặc chưa lột tả được thần thái của từng chân dung.Dù sao đây cũng là 100 bức tranh nhỏ về những người có công trong văn học, những người nổi tiếng trong làng văn, trong bạn đọc, bằng chính những tác phẩm có giá trị của mình. Bạn đọc và thời gian đã là người đánh giá chính thức và công bằng nhất đối với họ. Rất mong độc giả và các nhà văn nhận ra mối chân tình trong cuộc vui của làng văn, và lượng thứ cho những khiếm khuyết. “

    Nhưng khi sách in xong, chưa kịp phát hành, nhà văn Hoàng Lại Giang cho biết :

    ” Phản ứng của nhà văn rất lớn, và đấy là điều tôi không ngờ đến.Những nhà văn lớn có bản lĩnh, họ chịu đựng nổi, im lặng. Nhưng những nhà văn tầm tầm, lồng lộn, rất gay gắt yêu cầu Bộ Văn hóa kiểm điểm và thu hồi.”

    Một cuộc họp của Bộ Văn hóa diễn ra, với năm đại diện: Ba thứ trưởng (Phan Hiền, Huy Cận, và Nông Quốc Chấn), đại diện Hội Nhà văn Vũ Tú Nam, cùng Giám đốc NXB Văn học Lữ Huy Nguyên quyết định không thu hồi nhưng niêm phong số bản in 3000 cuốn. 20 năm sau, cho tới tận bây giờ, số sách này vẫn bị chôn dưới hầm cầu thang chi nhánh NXB Văn Học tại 290/20 Nam kỳ Khới nghĩa Q3 TP HCM, chắc đã làm mồi cho mối.

    Trước hết, hãy nghe nhà thơ Xuân Sách tâm sự về cái “cảm hứng chủ đạo” khi viết tập thơ “Lên chùa” sau đổi thành “Chân dung nhà văn “ :

    “Trước đây khi còn là lính ở địa phương, cái xã hội nhà văn đối với tôi đầy thiêng liêng bí ẩn. Đây là những con người dị biệt rất đáng ngưỡng mộ, rất đáng yêu mến, dường như họ là một siêu tầng lớp trong xã hội. Mỗi cử chỉ, mỗi hành động, lời nói của họ có thể trở thành giai thoại, và cả tật xấu nữa dường như cũng đứng ngoài vòng nhận xét thông thường... Tóm lại đó là thế gìới đầy sức hấp dẫn đối với người say mê văn học và tấp tểnh nuôi mộng viết văn như tôi. “
    Nhưng rồi khi tiếp cận với họ, ông cảm thấy “vỡ mộng “:

    Khi tôi được về Hà Nội vào cơ quan văn nghệ dù là ở quân đội (hoàn cảnh nước ta quân đội có vị trí đặc biệt trong xã hội kể cả lĩnh vực văn chương), tôi bắt đầu đi vào cái thế giới mà trước kia tôi mơ ước.

    Điều tôi nhận ra là, ngoài cái phần tôi hiểu trước đây, thì thế giới nhà văn còn có những chuyện khác. Đó là cái mặt đời thường, cái mặt rất chúng sinh, và chúng cũng góp phần quan trọng làm nên các tác phẩm và tính cách nhà văn…Khi tôi đã tìm hiểu được những ứng xử, những tính cách của những nhà văn, ngoài những tác phẩm mà tôi thường ngưỡng mộ, tôi cứ băn khoăn tự hỏi: ''Sao thế nhỉ, với bề dầy tác phẩm như thế, với vị trí trong xã hội như thế, trong lòng người đọc như thế, sao họ còn ham muốn những thứ phù phiếm đến thế... Một chức vụ, một quyền lực, một chuyến đi nước ngoài... Mà đã ham muốn thì phải mưu mẹo, phải dối trá và nhất là phải sợ hãi'' . Vì vậy chân dung của họ không thể bỏ qua. Hơn nữa, nếu ''Vẽ'' được chính xác những chân dung đó, thì bộ mặt xã hôi thời đại mà họ đang sống cũng qua đó mà hiện lên.”

    Và thế là Xuân Sách đặt bút viết tập thơ “Lên chùa” hàm ý gặp 100 pho tượng tức 100 chân dung ở đó. Nhà thơ Xuân Sách kể lại :

    Hồi đó Hồ Phương đã là tác giả in nhiều tác phẩm đã được giải thưởng các cuộc thi sáng tác văn học. Tôi dùng tên các tập truyện ngắn của anh ''Trên biển lớn''; ''Xóm mới''; ''Cỏ non'' và tên cái truyện đầu tay được nhắc đến: ''Thư Nhà''. Tôi viết bài thơ ra mẩu giấy :

    Trên Biển lớn lênh đênh sóng vỗ
    Ngó trông về xóm mới khuất xa
    Cỏ non nay chắc đã già
    Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem.

    Tôi đưa bài thơ cho Nguyễn Khải. Anh đọc xong trên mặt có thoáng chút ngạc nhiên và nghiêm nghị chứ không cười như tôi chờ đợi. Anh bỏ bài thơ vào túi chứ không chuyển cho người khác. Đến giờ giải lao chúng tôi ra ngồi cạnh gốc cây sấu già, Nguyễn Khải mới đưa bài thơ cho Hồ Phương. Mặt Hồ Phương hơi tái và cặp môi mỏng của anh hơi run, Nguyễn Khải nói như cách sỗ sàng của anh :

    - Thằng này (chỉ tôi) ghê quá, không phải trò đùa nữa rồi !

    Tôi hơi hoảng, nghĩ rằng đó chỉ là trò chơi chữ thông thường. Sau rồi tôi hiểu ngoài cái nghĩa thông thường, bài thơ còn chạm vào tích cách và đánh giá nhà văn. Mà đánh giá nhà văn có gì quan trọng hơn tính cách, và tác phẩm. Bài thơ ngụ ý, Hồ Phương có viết nhiều chăng nữa cũng không vượt được tác phẩm đầu tay và vẫn cứ ''Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem''!

    Bài thơ về Hồ Phương đã trở thành bài đầu tiên mở đường cho vệt thơ “Lên Chùa” trong suốt 30 năm của Xuân Sách.
    Mùa xuân năm Nhâm Thân (1992) ,vào dịp lần đầu tiên xuất bản tập thơ ông phát biểu :

    “ Nói về đồng nghiệp cũng là nói về mình. Cái hay cái dở của một người cũng là của một thời. Câu thơ “Từ thủa tóc xanh đi vỡ đất. Đến bạc đầu sỏi đá chưa thành cơm” đâu chỉ là số phận của một nhà thơ. Hơn ai hết, tôi nghĩ, nhà văn là đại diện của một thời, là lương tri của thời đại. Đã đành là khó ai vượt được thời đại mình đang sống, không dễ nói hết, nói công khai những điều suy nghĩ. Nhưng cũng thật đau lòng và xấu hổ khi những nhà văn bán rẻ lương tâm, còng lưng quỳ gối trước quyền uy, mê muội vì danh lợi. Có lẽ đó là động cơ thúc đẩy tôi viết, nếu có nói quá cũng dễ hiểu. Cái con quỷ ám nếu có thì cũng là ảnh hưởng những cảm xúc ấy, nỗi đau chung ấy. Nhiều nghịch lý vốn tồn tại trong cuộc đời cũng như nghệ thuật. Tiếng cười nhiều khi xuất phát từ nỗi đau ! Những bài thơ chân dung đã có cuộc sống riêng của nó. Không phải kỳ lạ nhưng cũng độc đáo. Nó được lan truyền đến nay đã 30 năm. Đã có nhiều bài ''khảo dị'', nhiều bài ‘’ngoài luồng’’ cũng được gán cho tác giả, bây giờ in ra cũng coi như một sự đính chính. Nó cũng là ''một cái gì đó'', như có người đã nói nên mới tồn tại được, nếu có ích thì tác giả lấy làm mãn nguyện.”

    Và chính với “cảm hứng chủ đạo” có phần thất vọng về phẩm chất nhà văn, tuy Xuân Sách gọi là viết “chân dung” mà thực ra ông đã vạch trần “chân tướng “ nhà văn vậy.

    Ông tên thật là Ngô Xuân Sách, sinh ngày 4-7-1932 tại Trường Giang, Nông Cống, Thanh Hoá. Năm 1960, ông bắt đầu công tác tại tạp chí Văn Nghệ Quân Đội. Từ năm 1981 đến năm 1986, ông làm Phó Giám đốc Nhà xuất bản Hà Nội. Năm 1987, ông chuyển vào làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Bà Rịa – Vũng Tàu đến năm 1997. Đầu năm 2008, nhà thơ Xuân Sách chuyển ra Hà Nội sống với con gái để có điều kiện chữa bệnh suy gan và suy thận. Thế nhưng, do tuổi cao sức yếu, sau mấy ngày nằm ở bệnh viện, khuya ngày 2-6 nhà thơ Xuân Sách đã lặng lẽ từ biệt cõi đời .

    Đọc Xuân Sách trước tiên ta cảm phục lòng dũng cảm của ông. Văn học Việt Nam vào những năm “trời đất nổi cơn gió bụi”, những năm thập kỷ 1970, xã hội còn chìm đắm trong nền kinh tế bao cấp, văn hoá văn nghệ bị “quản lý” đến nghẹt thở vậy mà Xuân Sách cả gan vạch trần chân tướng của tất cả những văn thi sĩ đang cúc cung tận tuỵ hiến dâng tài năng và tâm huyết cho …Đảng, cho chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa”.

    Đầu sổ là nhà thơ Tố Hữu, chủ soái của văn hoá nghệ thuật của Đảng, Xuân Sách vẫn không sợ , vẫn xỏ xiên :

    “Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng
    Mắt trông về tám hướng phía trời xa
    Chân dép lốp bay vào vũ trụ
    Khi trở về ta lại là ta

    Từ ấy tim tôi ngừng tiếng hát
    Trông về Việt Bắc tít mù mây
    Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt
    Máu ở chiến trường, hoa ở đây…”

    Với nhà thơ Chế Lan Viên, thi sĩ “nghĩ trong những điều Đảng nghĩ”, Xuân Sách thằng tay ra đòn :

    Điêu tàn ư ? Chả phải điêu tàn đâu
    Anh đã tính “Vàng Sao” từ độ ấy
    Chim báo bão gió chiều nào che chiều nấy
    Lựa ánh sáng trên đầu mà đổi sắc phù sa

    Trưước 1945, nhà phê bình Hoài Thanh nổi tiếng với cuộc tranh luận “ nghệ thuật vị nghệ thuật , nghệ thuật vị nhân sinh ?”, từ sau cách mạng chỉ còn là một anh hề đồng “ca ngợi cấp trên”, bởi thế Xuân Sách hạ bút :

    “ Vị nghệ thuật nửa đời người
    Nửa đời sau lại vị người cấp trên
    Thi nhân còn một chút duyên
    Lại vò cho nát lại lèn cho đau
    Bình thơ tới thủa bạc đầu
    Vẫn chưa thể tất nổi câu nhân tình
    Tàn canh tỉnh rượu bóng mình cũng tan”

    Nhà văn Nguyễn Tuân trước cách mạng nổi đình đám với “ Vang bóng một thời”, nhưng từ sau cách mạng ông tự tước bỏ gai góc, xù xì để trở thành một nhà văn chỉ “ngợi ca chế độ” :

    Vang bóng một thời đâu dễ quên

    Sông Đà cũng muốn đẩy thuyền lên
    Chén rượu tình rừng cay đắng lắm
    Tờ hoa lại chút lệ ưu phiền”

    Nhà thơ Lưu Trọng Lư, “con nai vàng “ đã thành “vờ ngơ ngác” để leo lên tới chức Vụ trưởng Vụ văn nghệ :

    “ Em không nghe mùa thu
    Mùa thu chỉ có lá
    Em không nghe rừng thu
    Rừng mưa to gió cả
    Em thích nghe mùa Xuân
    Con nai vờ ngơ ngác
    Nó ca bài cải lương…”

    Nhà thơ Huy Cận ngày xưa với “Lửa thiêng", từ sau khi đi theo cách mạng, thơ ông cũng “nói dối” :

    “ Các vị La hán chùa Tây Phương
    Các vị gầy quá còn tôi thì béo
    Năm xưa tôi hát vũ trụ ca
    Bây giờ tôi hát đất nở hoa
    Tôi hát chiến trường như trảy hội
    Đừng nên xấu hổ khi nói dối
    Việc gì mặt ủ với mày chau
    Trời mỗi ngày lại sáng có sao đâu ?”

    Nhà thơ Xuân Diệu ngày xưa có "Thơ thơ", nay thì :

    "Hai đợt sóng dâng, Một khối hồng
    Không làm trôi được chút Phấn thông
    Chao ơi Ngói mới, nhà không mới
    Riêng còn chẳng có, có gì Chung"

    Nhà văn Nguyễn Đình Thi tuy làm quan cách mạng nhưng vẫn viết “con nai đen” ngụ ý xỏ xiên :

    Xung kích tràn lên nước vỡ bờ
    Đã vào lửa đỏ hãy còn mơ
    Bay chi mặt trận trên cao ấy
    Quên chú nai đen vẫn đứng chờ…”

    Nhà văn Tô Hoài chỉ được “con dế mèn” từ thời trước cách mạng, sau đó “tàn phai” trong những tác phẩm viết phục vụ cách mạng :

    Dế mèn lưu lạc mười năm
    Để o chuột phải ôm cầm thuyền ai
    Miền Tây sen đã tàn phai
    Trăng thề một mảnh lạnh ngoài đảo hoang

    Nhà văn Nguyên Hồng nổi tiếng với Bỉ vỏ , đi với cách mạng viết khá nhiều tiểu thuyết “đồ sộ’ về số trang nhưng chẳng mấy giá trị :

    “ Bỉ vỏ một thời oanh liệt nhỉ
    Sóng Gầm sông Lấp mấy ai hay
    Cơn bão đã đến dộng rừng Yên Thế
    Con hổ già uống rươụ giả vờ say…”

    Nhà văn Nguyễn Công Hoan ngày xưa với Kép Tư Bền từ sau cách mạng thì …hết lộc trời, còn lại chỉ viết truyện lăng nhăng :

    “ Bác Kép Tư Bền rõ đến vui
    Bởi còn tranh tối bác nhầm thôi
    Bới trong đống rác nên trời phạt
    Trời phạt chưa xong bác đã cười..”

    Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh ngày xưa nổi tiếng làm thơ bí hiểm với câu thơ “nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm”. Than ôi từ ngày đi theo cách mạng, ông “làm công tác Hội” nhiều hơn làm thơ :

    “ Xưa thơ anh viết không người hiểu
    “Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà”
    Nay anh chưa viết người đã hiểu
    Sắp sáng thì nghe có tiếng gà…”

    Nhà văn Ngô Tất Tố sau cách mạng thời gian cầm bút ngắn ngủi cũng chưa làm nên dấu mốc nào sau “Tắt đèn” :

    “ tại ba thằng mõ cỡ chuyên viên
    Chia xôi chia thịt lại chia quyền
    Việc làng việc nước là như vậy
    Lộn xộn cho nên phải tắt đèn..”

    Cứ như vậy, không chừa một ai, từ những cây đại thụ trong rừng văn chương cách mạng cho tới những thế hệ sau, chỉ bằng một khổ thơ ngắn, bằng những cái tựa sách, Xuân Sách đã tạc nên bức chân dung chân thực hơn bất cứ một luận đề tâng bốc nào của mấy anh phê bình văn học “ăn theo nói leo”.
    (còn tiếp)
    Last edited by khieman; 04-04-2014 at 08:32 PM.

  2. #41
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)





    Đó chính vì khi « đời ta có Đảng » xã hội chuyển sang thời kỳ tăm tối còn hơn cả phong kiến :

    « Còn thời bây giờ là một xã hội mạnh ai nấy lo, người người lấn chen nhau, tranh cướp nhau vì những tham vọng không được kìm nén, kỷ cương cũ bị xoá bỏ, kỷ cương mới chưa kịp hình thành, mọi sự đều phải làm lại từ đầu từ quốc kỳ, quốc ca, quân kỳ… Nhưng xem ra chả có mấy ai than thở về hiện trạng hỗn loại, họ cảm thấy thoải mái, bằng lòng với cuộc sống đầy bất trắc của hiện tại vì lần đầu tiên họ được lựa chọn cách sống của mình, thắng thua tự mình gánh chịu, cũng là lần đầu họ biết nhận ra cái “bản lai diện mục” của chính họ. »

    Nhà văn Nguyễn Khải cả gan ca ngợi xã hội tư bản là mảnh đất ươm những tài năng :

    « Cách tổ chức xã hội của giai cấp tư sản dẫu có xấu xa tới tận đâu cũng vẫn tạo được những môi trường tự do và dân chủ hơn, mở ra những cơ hội mới cho sự phát triển tài năng của mọi cá nhân và của cả cộng động. »

    Còn xã hội « xã hội chủ nghĩa », chẳng hạn như Liên xô, lại là mảnh đất chết tiêu diệt tài năng vì tính chất « trại tập trung » của nó :

    « Lại lấy thêm một ví dụ về nước Nga trong non một thế kỷ qua. Dưới chế độ Xô Viết, người dân Nga được nhà nước chăm lo hoàn toàn từ khi sinh đến khi chết, nhưng họ vẫn không thích, vẫn thấy ngột ngạt vì đó là cuộc sống không phải lo nghĩ của một trại tập trung, con người bị đánh số, bị xếp theo khuôn, theo hàng, chỉ nhìn thấy đám đông chứ không thể nhìn ra từng con người riêng biệt, kể cả trong triết học và văn chương. »

    Đó là một bước tiến lớn trong hành trình tư tưởng của Nguyễn Khải. Ong đã nhìn ra được cái cốt lõi của chủ nghĩa cộng sản : « đánh đồng mọi giá trị « , trộn lẫn cái cao thượng với cái ti tiện, đồng mẫu số chung toàn bộ xã hội khiến cái « cá nhân » bị tiêu diệt chỉ còn lại bản mặt của đám đông.

    Trong một xã hội như thế chẳng riêng gì văn chương mà các ngành nghệ thuật, khoa học khác cũng đều ngắc ngoải hoặc biến thành dị dạng . Từ đó ông công nhận những mặt sáng của chế độ thực dân :

    « Chế độ thực dân tuy tàn bạo nhưng nó là sản phẩm của thời đại này nên nó vẫn có khả năng ươm cấy nhiều nhân tố tích cực, có giá trị bền vững cho những xứ sở nó đô hộ.

    Những nhân tố tích cực , những « giá trị bền vững » đó chính là những thành tựu văn hoá nghệ thuật và khoa học kỹ thuật đã được « ươm cấy » trong lòng xã hội thực dân.

    Tiếp tục nhận diện cái xã hội « xã hội chủ nghĩa » nơi ông lớn lên và đang sống, Nguyễn Khải vạch ra cái bản chất « toàn trị », « chuyên chế » của nó :

    « Bất cứ nhà nước nào lấy học thuyết xã hội hoặc tôn giáo thay cho hiến pháp thì trước sau sẽ chuyển đổi thành nhà nước chuyên chế.«

    Tại sao như vậy ? Chính là vì trong toàn xã hội không phải ai cũng đồng thuận với cái « học thuyết » đó. Và ý chí phản kháng, tất nhiên bị đàn áp – đó là bi kịch trước hết của trí thức :

    « Vì trong hàng triệu công dân sẽ có nhiều nhóm người không cùng lòng tin, không cùng tín ngưỡng với nhà cầm quyền. Họ trở thành những cộng đồng đáng ngờ, sẽ bị phân biệt đối xử, trước hết là mất quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do xuất bản. Đó là nói về tầng lớp trí thức «

    Thế còn thường dân ? Họ cũng bị tước đoạt « kiểu sống » của họ để nhét chung vào một rọ « cách sống kiểu mẫu chung của xã hội » :

    « Còn những người làm các nghề khác, chả dính dáng gì đến sách vở cũng sẽ cảm thấy bị tước đoạt nhiều quyền tự do, như quyền tự do lựa chọn cách sống của riêng mình chẳng hạn. Đã độc quyền về tư tưởng tất nhiên sẽ độc quyền cả về cách sống, vì mỗi học thuyết đều có phần đạo lý của nó, nó cần tiêu chuẩn làm người đã được lý tưởng hoá của nó để làm khuôn mẫu cho tu sĩ và tín đồ. »

    Đó là tình trạng hiện nay của xã hội Việt Nam khi « toàn Đảng toàn dân » được phát động học tập theo « gương đạo đức của bác Hồ », còn trước đây là « sống học tập theo hình mẫu con người mới xã hội chủ nghĩa ».

    Trí thức và thường dân đã vậy, thế còn các nhà văn – tín đồ trung thành của Đảng , họ sống và viết ra sao trong xã hội « chuyên chế » đó :

    « Lại nói về những tín đồ trung thành của chủ nghĩa Mác, những chiến sĩ theo cách mạng từ thuở mới lập nước là đám văn nghệ sĩ chúng tôi cũng “sống không dễ” trong sự viết lách. Viết đúng luật lệ thì chỉ có hai chủ đề: căm thù và hy sinh. Cũng chỉ có ba loại người được tôn vinh: công, nông, binh. Cái thế giới mênh mông, nhiều màu sắc ngày một thu hẹp và chỉ có hai màu: đỏ là quân ta, đen là quân địch.«

    Cái bi kịch lớn nhất của người cầm bút là sự thắt buộc, xét nét trong sáng tác , giản lược hoá đời sống thành những sơ đồ cứng nhắc và đơn điệu :

    « Văn chương cách mạng thoạt đầu cũng lạ so với văn chương thời trước nên được bạn đọc trẻ hoan nghênh. Nhưng cứ phải đọc mãi một vài đề tài quen thuộc, một vài loại người quen thuộc và những tâm trạng rất quen thuộc ngay những bạn đọc trung thành cũng phải chán. Chính chúng tôi cũng tự chán mình. Tài đã kém lại bị bó chặt từ đầu tới chân, xoay tới xoay lui cũng chỉ có một vòng quay, ú ớ một cách nói, càng viết càng nhảm cũng là phải.«

    « Xoay tới xoay lui cũng chỉ một vòng quay, ú ớ một cách nói » - nhà văn khác nào nghệ sĩ múa ballet bị đẩy ra sân khấu mà lại bị buộc hai chân với nhau chỉ bằng một đoạn giây. Vậy sao mà nhảy ?

    Trong giới cầm bút, chắc không ai thấm thía cho bằng Nguyễn Khải cái ê chề, nhục nhã của một nhà văn bị buộc phải viết theo « yêu cầu chính trị » :

    « Một nền văn nghệ phải phục vụ chính trị (mà chính trị thì sớm nắng chiều mưa) là đã mất một nửa tự do rồi, lại phải phục chính trị theo nghĩa các chủ trương, chính sách của từng thời kỳ thì còn gì là tự do nữa. Ấy là chưa nói mỗi cấp cầm quyền lại có những yêu cầu riêng, những cách đối xử riêng, lúc nhu lúc cương, cái thằng nghệ sĩ chả còn biết lối nào mà lần.«
    Tất nhiên chạy theo những yêu cầu nhất thời của chính trị, văn chương làm sao có được nhưng tác phẩm để đời. Chính vì vậy Nguyễn Khải riễu cợt các thứ giải thưởng văn chương trong chế độ cộng sản :

    « Văn chương đã đến nông nỗi ấy mà vẫn có giải thưởng quốc gia, nhưng những tác phẩm được giải thưởng Lenin, Stalin liệu có còn cuốn nào được người Nga hôm nay muốn đọc lại. Tôi cũng được giải thưởng văn chương cao nhất cấp quốc gia, nhưng tôi biết chỉ mươi năm nữa, thời thế đổi thay chắc chả còn ai nhớ tới mình nữa. «

    Hơn ai hết, Nguyễn Khải tự biết tác phẩm « phục vụ chính trị của ông » rồi đây sẽ « tung toé« hết và ông chỉ là nhà văn của một thời :

    « Tôi là nhà văn của một thời, thời hết thì văn phải chết, tuyển tập, toàn tập thành giấy lộn cho con cháu bán cân. Buồn nhỉ? Nghĩ lại cũng chả có gì phải buồn, con người vốn sống trong những chiều kích hữu hạn lại mơ tưởng những gì do con người làm ra sẽ thuộc về vĩnh viễn, có hoạ rồ! Tất nhiên vẫn có nhiều công trình của trí tuệ thuộc về cõi bất tử nhưng là của các thiên tài. Với bộ não con sâu cái kiến, ngước nhìn những cái đầu khổng lồ ấy làm gì cho thêm buồn ra. Hãy viết những gì trong cái tầm nhìn tầm nghĩ của con sâu cái kiến vậy. Một cách nghĩ thiếu “tự hào dân tộc” nhưng chắc chắn là một cách nghĩ đúng. Đã từng có những quốc gia từng nghĩ từng viết rất tự hào, rất kiêu hãnh rằng dân tộc họ đã sải bước trước nhân loại cả trăm năm, sắp chạm tay vào cánh cửa thiên đàng rồi! Mà rồi sao nhỉ? Là như mỗi chúng ta đều đã được chứng kiến trong suốt mấy chục năm nay đấy! »

    Đúng là nỗi buồn đến ê chề của một nhà văn biết rằng mình trắng tay đi sang thế giới bên kia sau cả một đời cầm bút tận tụy phục vụ Đảng.
    (còn tiếp)

  3. #42
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)






    Khi Nguyễn Khải viết « đã từng có những quốc gia từng nghĩ từng viết rất tự hào, rất kiêu hãnh rằng dân tộc họ đã sải bước trước nhân loại cả trăm năm, sắp chạm tay vào cánh cửa thiên đàng rồi! « thì tức là ông nhắm tới Liên xô và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa mà máu « thỏ đế » vẫn còn cho tới nhắm mắt xuôi tay nên không dám nói toạc ra.

    Liên xô và phe XHCN xưa nay vẫn là mẫu mực trương lên trước mũi dân tộc như một tương lai xán lạn Đảng dẫn dắt toàn dân đạt tới, là thành trì vững chãi làm chỗ dựa cho lý thuyết xây dựng chủ nghĩa xã hội .

    Than ôi, như sét đánh giữa trời quang, can qua nổi lên chỉ ngày trước ngày sau cả Liên xô lẫn thành trì phe xã hội chủ nghĩa sụp đổ tan tành. Biến cố huy hoàng và vĩ đại từ độ ấy mà mãi nhắm mắt, Nguyễn Khải mới dám nhìn nhận nó :

    « Trong những năm 90 của thế kỷ 20 nhiều vị lão thành cách mạng Việt Nam lấy làm kinh ngạc và đau đớn trước sự tiêu vong quá nhanh của một siêu cường mà chân móng của nó đã ăn sâu trong mảnh đất Nga non một thế kỷ. «

    Và lần đầu tiên ông nhà văn dám đặt bút lý giải sự sụp đổ có tính cách biểu tượng của chủ nghĩa cộng sản đó :

    « Thật ra toà lâu đài kiểu mẫu của tương lai ấy không hề có chân móng. Nó được xây trên cát. »

    Hoá ra vậy , hoá ra lâu nay « Liên xô thành trì vĩ đại » lại là công trình xây trên cát. Đó là sai lầm chết người của hệ thống. Liên xô đã vậy, còn giấc mơ cộng sản của Việt nam được xây trên cái gì ? Ong nhà văn tuy có gan lý giải nhưng chưa dám đi sâu vào cốt lõi :

    « Mọi thay đổi lớn đều dựa vào phong trào quần chúng được hình thành, được vận động chỉ bằng có tuyên truyền chứ không từ nguồn lực tự thân. Tất cả đều phải ép buộc, đều phải dàn dựng, và phải có các diễn viên chuyên nghiệp trình diễn theo một kịch bản độc nhất. Có hai nhà văn lớn của Châu Âu đều được mời xem màn diễn về một xã hội lý tưởng do người cộng sản lãnh đạo. Ông Romain Rolland thì khen không hết lời, còn ông André Gide thì chê từ đầu đến cuối. Vì một ông chỉ nhìn có cái mặt tiền, cái tổng thể, đến đâu cũng thấy dân chúng ca hát, nhảy múa và vẫy cờ, vẫy hoa. Còn một ông lại chỉ quan sát cái sân sau của chế độ và thân phận của nhiều cá nhân ông có dịp tiếp xúc. Đám đông thường cho ta cái cảm giác sai vì họ không thể giữ được tính độc lập trong tình cảm và phán xét. Còn cá nhân thì cái thân phận riêng tư của họ bao giờ cũng thuộc về nhân loại hôm nay và mai sau. »

    Ông cho rằng sai lầm của mấy ông lãnh tụ cộng sản là chỉ biết tuyên truyền, tuyên truyền chứ không phải nguồn lực tự thân. Thực ra, sức mạnh của chế độ cộng sản không chỉ là tuyên truyền , sức mạnh của nó nằm trong nền « chuyên chính vô sản ». Nếu không có kìm kẹp, không có đàn áp, không có tù đầy, bắn giết thì « sự tuyên truyền » cũng chẳng có tác dụng gì nhiều . Chính cái nền chuyên chính đó đã tước đi của người công dân những quyền sống cơ bản :

    « Một xã hội mà công dân không được quyền sống thật, nói thật, nhà văn cũng không được quyền bộc bạch tâm sự riêng tư của mình trên trang giấy là một xã hội không có chân móng. «

    Khi Liên bang xô viết tan vỡ, người ta mới thấy sự liên kết giữa các nước trong khối liên bang là một cuộc hôn phối áp đặt chứ chẳng phải dựa trên « tình hữu nghị giữa các dân tộc » và lúc này sự tranh chấp mới nổ ra :

    « Các quốc gia cùng sống với nhau trong một liên bang, gọi nhau là anh em là đồng chí, nhìn ngoài thấy họ sống cũng yên ấm vui vẻ. Vậy mà khi họ chia tay nhau cũng dửng dưng. Và ngay lập tức họ nhận ra nhiều mối lợi trên đất nước mình đã bị người anh em ruột thịt chia sẻ trong một cuộc đổi chác không công bằng. Thế là bắt đầu những cuộc tranh chấp các đường biên giới, đã có lúc phải dùng đến xe tăng, đại bác để nói chuyện. «

    Rồi quan hệ giữa các nước ngày xưa trong liên bang với « phe đế quốc » xem ra lại mặn mà hơnvới « các đồng chí trong liên bang cũ » :

    « Khi Mỹ và NATO muốn đặt căn cứ quân sự trên đất nước họ, nhân danh chống khủng bố họ gật đầu liền đâu biết Mỹ là đối thủ của nước Nga anh em. Yêu Mỹ là tất nhiên vì Mỹ sẽ rót tiền vào những cái két rỗng của họ. Ghét Nga cũng là lẽ đương nhiên vì xưa kia anh bắt nạt tôi, lấn át tôi, xem tôi như chư hầu, như thuộc địa, bây giờ chính là lúc tôi có quyền trả thù. »

    Tuy nhiên ông nhà văn Nguyễn Khải lại tỏ ra rất ngây thơ và nông cạn khi nghĩ rằng các nước SNG trong Liên bang xô viết cũ mặc dầu đã « chia tay hoàng hôn » nhưng vẫn còn « tình đồng chí « cũ :

    « Lúc giận nhau thì nghĩ nông cạn thế, còn bình tĩnh lại thì giữa các nước cộng hoà trong liên bang Xô Viết (cũ) vẫn có sự ràng buộc tự nhiên và máu thịt trong lịch sử vì họ đã là người một nhà non một thế kỷ, đã cùng nhau sống chết chống hiểm hoạ phát xít để bảo vệ sự tồn tại của Liên bang cũng như của các nước cộng hoà. Lại đã cùng nhau sinh con đẻ cái, đã pha trộn ngôn ngữ, văn hoá và kỷ niệm. Bây giờ mỗi quốc gia vừa được trở lại là chính mình, vừa có phần đóng góp thêm của các nền văn hoá lân cận, bạn bè, giàu có hơn trước, văn minh hơn trước. Rồi họ cũng sẽ sống với nhau như một cồng đồng của khu vực, nhưng lần này là tự nguyện, là do họ tự chọn một hình thức liên minh bình đẳng, dân chủ và hoàn toàn tự do. Bất cứ một thiết chế xã hội nào nhắm tới dân chủ và tự do, xây một xã hội mở, một liên minh mở sẽ có may mắn tồn tại được lâu dài với sự đồng thuận của mọi người và sự hài lòng của mỗi cá nhân ».

    Nếu như ông Nguyễn Khải sống đến tận bây giờ để chứng khiến hai người anh em cũ là Nga và Gruzia mang xe tăng đại bác choảng nhau do tranh chấp vùng Nam Ossettia thì hẳn ông không còn có nhận định như trên nữa.

    Nguyễn Khải cho rằng chỉ cần sống tới 90 tuổi thì sẽ « rất minh mẫn trong cách đối nhân xử thế, vẫn giữ được tính cách riêng mà không làm mất lòng một ai, từ con cháu trong nhà đến các mối quan hệ ngoài xã hội » sẽ « biết mọi bí mật của then máy tạo hoá » để « sẵn sàng tiếp nhận mọi sự khác lạ như bây giờ, kể cả sự phủ định chính mình… »

    Thực ra chẳng chờ tới năm 90 tuổi, ngay từ năm 70 Nguyễn Khải đã nhận ra bao « sự khác lạ » về chủ nghĩa cộng sản, về lý tưởng của chiếc thẻ Đảng mà ông vẫn cất giữ để mà « phủ định chính mình ».

    Một điều « khác lạ » mà Nguyễn Khải nhận ra là « quan hệ giữa quần chúng và lãnh tụ ». Trước hết ông « hiểu ra mọi sự rút gọn ở đời đều trái tự nhiên, đều dẫn đến thất bại » để đi đến kết luận mà vào thời Lê Duẩn, Lê Đức Thọ ắt hẳn ông đã bị bỏ tù :

    « Mọi phong trào thi đua chả có ích lợi gì trong những việc cần nhiều chăm sóc nhẫn nại, bền bỉ, bắt đầu từ các cá nhân chứ không phải từ các đám đông với những khẩu hiệu, cờ quạt, kèn trống, diễn văn và đáp từ, vỗ tay và tặng hoa. Đám đông không thể đứng mãi dưới nắng để nghe lãnh tụ diễn thuyết. Họ luôn mong đợi được giải tán để về nhà. Con người ở nhà vẫn cũ kỹ nhưng là người thật chứ không phải là sự nhập đồng chốc lát khi đứng trong đám đông. Tôi thật lòng yêu mến, ngưỡng mộ Fidel, một nhà yêu nước kiên cường, một nhân vật đã thuộc về lịch sử của Cuba. Ông là một trí thức lớn, bạn tâm giao của Marquez, nghe nói trong túi lúc nào cũng có một cuốn tiểu thuyết đang đọc dở. Bởi vậy tôi mới lấy làm lạ khi ông buộc dân chúng phải đứng hàng nửa ngày dưới nắng để nghe ông cao đàm khoát luận về đủ mọi vấn đề. Lúc cách mạng mới thành công nói dài thế vì người dân còn đang háo hức với cuộc sống mới và các ngôn từ cách mạng cũng rất mới. Như một cặp tình nhân đang yêu nhau, đang cần nhau, nói với nhau đủ thứ chuyện vớ vẩn nhưng chả ai thấy thời gian là dài. Còn đã thành vợ thành chồng thì chỉ cần nói ít thôi, chỉ nói những việc cần làm thôi, chứ cần gì những thuyết lý dông dài. Mao Trạch Đông cũng thế, ông là một nhà chính trị thông kim bác cổ, quanh nơi ông làm việc và cả nơi ông nghỉ ngơi sách đang đọc xếp từng chồng, nhưng xem ra cũng chả hiểu đồng bào ông bao nhiêu.«

    Dám nói lãnh tụ là chẳng hiểu gì dân chúng thì quả liều mạng.
    (còn tiếp)

  4. #43
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)




    Đó là viết về lãnh tụ, thế còn « quần chúng nhân dân ».

    Xã hội miền Bắc vào những thập kỷ 60 luôn luôn náo động bởi những đợt « học tập chính trị » . Nào « chỉnh huấn mùa xuân…mùa thu… » nào « tình hình nhiệm vụ mới » trong đó Đảng luôn luôn không để cho dân chúng được yên mà thông qua những đợt « vận động « đó để kiểm soát, rèn giũa tư tưởng sao cho toàn xã hội không còn le lói một tia sáng «phản loạn ». Nhận định về thời kỳ đó, Nguyễn Khải viết :

    « Người dân ở đâu cũng thế, đều muốn có một cuộc sống bình yên, được tính việc cá nhân và gia đình trong một khoảng thời gian dài, một trăm năm chẳng hạn, không có những thay đổi lớn trong lối sống, trong công ăn việc làm, trong các giá trị, đặt biệt là giá trị của đồng tiền. Chứ cứ phải sống mãi từ năm này qua năm khác trong các phong trào cách mạng, lúc chống tả lúc chống hữu, những hội nghị toàn quốc và địa phương nối nhau không dứt, những hô hào la hét từ trong nhà ra ngoài đường như một lũ hoá rồ, các quan hệ xã hội và các giá trị thay đổi soành soạch thì còn biết đằng nào mà sống... »

    Những « phong trào cách mạng », « những hội nghị toàn quốc », « những hô hào la hét ..như một lũ hoá rồ » …chính là những « liệu pháp » kích động cơn lên đồng tập thể của quần chúng để tập trung vào những mục tiêu mà Đảng dẫn dắt toàn xã hội phải chú ý tới. Chính vì vậy không còn « khoảng trời riêng » cho cá nhân, không còn « giây phút tĩnh lặng » để ngắm một bức tranh tĩnh vật. Dường như « âm thanh và cuồng nộ » là đặc trưng cơ bản nhất của một xã hội cộng sản nhất vào thời chiến tranh mà chiến tranh thì kéo dài liên miên khiến trong vòng nửa thế kỷ nó trở thành « vật bất ly thân » của xã hội đó.

    Trong suốt cuộc đời Nguyễn Khải, dường như ông viết văn dưới sự cưỡng ép của những quan điểm văn học của Đảng, về cuối đời chưa giải thoát được nó trong sáng tác, thì ông rũ bỏ nó bằng tuyên ngôn . Trước hết ông vạch trần sai lầm của lý thuyết mác xít ảo tưởng « cải tạo con người« :

    « Do không hiểu con người cá nhân, hoặc chỉ hiểu theo những phân tích máy móc, nông cạn của chủ nghĩa duy vật cơ giới của thế kỷ 19, nên các nước xã hội chủ nghĩa mới dám đặt ra những mục tiêu huênh hoang nhằm cải tạo con người trong vài thập kỷ nếu môi trường xã hội thay đổi »

    Théo Nguyễn Khải, tất cả những thứ « cải tạo » đó là vô bổ, bởi lẽ :

    « Về cái thế giới tinh thần của mỗi cá nhân hãy để cho mỗi cá nhân tự lo liệu lấy, nó không thích người khác can thiệp bằng bất cứ cách nào.«

    Chính vì quan niệm cần và có thể cải tạo được con người , Đảng đã chất lên vai nhà văn cái danhhiệu « kỹ sư tâm hồn », coi nhà văn như nhà giáo :

    « Nên mới gọi nhà văn là “kỹ sư tâm hồn”…Cái mục đích “tải đạo”, “giáo dục” của văn chương không bao giờ lộ liễu, lộ liễu là văn chương tồi.«

    Nguyễn Khải cãi lại Đảng bằng những lời thật hào sảng :

    « Vả lại chính người viết cũng không có ý định ấy, họ viết bằng tâm sự thành thật của mình, những trải nghiệm đau đớn của mình, họ viết cho họ trước rồi cho độc giả sau, có khi họ cũng chả nghĩ đến những người sẽ đọc họ, viết mà chơi thôi, viết để giải sầu rồi tự mình ngậm ngùi với mình, ứa lệ với riêng mình. Chả trách ai cả, chả giận ai cả, cũng chả lên án một ai. Vì không có vật cản nào nảy sinh trong ta khi đọc nên chữ nghĩa của tác phẩm cứ mặc nhiên trôi vào tận những kẽ ngách trong cái tâm sự u uẩn, những khát vọng thầm kín của riêng ta, đọng lại trong ấy, rồi cứ thẩm thấu dần dần vào cái thế giới tinh thần của ta một cách vô thức, giúp ta nhận ra một vùng sáng mới lạ nào đó, gột rửa một vài thành kiến, thay đổi một vài quan niệm, và ta vẫn nghĩ một cách khoan khoái là chính tự ta đã chủ động thay đổi, tuyệt nhiên không theo lời chỉ bảo của một ai cả, của một học thuyết nào cả, hoặc nhập vào một cách bất chợt một phong trào thời thượng nào cả. Bất cứ cái gì xa lạ với bản tính của mình, với thói quen của mình, nói một câu, với những gì làm nên lai lịch của mình, chả sớm thì muộn đều bị đào thải để mình lại được trở về với cái nguyên gốc. .. «

    Than ôi, lẽ ra trong sáng tác, Nguyễn Khải « tuyệt nhiên không theo lời chỉ bảo của một ai cả, của một học thuyết nào cả, hoặc nhập vào một cách bất chợt một phong trào thời thượng nào cả » như ông đang tuyên ngôn tiếc thay mọi việc đã diễn ra theo chiều ngược lại, ông đã tự cầm tù trong dòng « văn chương phải đạo », viết ra hàng loạt, hàng loạt những tiểu thuyết truyện ngắn mà bây giờ chế độ cộng sản tuy còn đó mà văn chương xu phụ nó đã bị quăng vào sọt rác của lịch sử. Lẽ ra bằng tài năng, ông có thể viết ra một thứ văn chương để đời :

    « Văn chương do con người làm ra để trao tặng cho con người một cách tự do nhất, ít bị ép buộc nhất. Chỉ có văn chương mới tôn trọng mọi giá trị của cá nhân, tôn trọng mọi lựa chọn của cá nhân kể cả những thành kiến phi lý của họ. Họ có quyền yêu mình hoặc ghét mình , tôn vinh mình hoặc nguyền rủa mình, chả sao cả. Người viết cứ viết người ghét cứ ghét kể cả cái quyền ném sách vào lửa. «

    Đó là thứ văn chương « tôn trọng mọi giá trị của cá nhân » chứ không phải thứ văn chương « phục vụ chính trị », « phục vụ kịp thời » như Nguyễn Khải đã để lại cho người đời sau. Và cuối đời nhìn lại, so sánh với các nhà văn trong « thế giới tự do », Nguyễn Khải đã thấy xót xa trong lòng :

    « Năm đất nước mới thống nhất vào Sài Gòn được gặp gỡ các nhà văn nhà báo, các nghệ sĩ của chế độ cũ mà thèm. Họ sống thoải mái quá, nói năng hoạt bát, cử chỉ khoáng đạt, như chưa từng biết sợ ai. Còn mình thì đủ thứ sợ, sợ gặp người thân vì chưa rõ họ có liên quan gì với Mỹ nguỵ? Nói cũng sợ vì nói thế là đúng hay sai? Đến vẻ mặt của mình cũng phải canh chừng, vui quá sợ mất cảnh giác, khen quá có thể đã ăn phải bả của nền kinh tế tư bản. Người lúc nào cũng căng cứng, nói năng gióng một nên bị bà con trong này chê là quê, nhà văn nhà báo gì mà “quê một cục” (…). Tôi còn sợ rồi sẽ có ngày lịch sử sẽ trừng phạt mình vì cái tội muốn khôn hơn lịch sử, muốn đánh lừa lịch sử! »

    Tiếc thay , lời « phản tỉnh » này được nói ra ngay tại Sàigòn vào tháng 4 năm 1975 thì sự hoà hợp giữa các nhà văn của hai miền đã thành tựu được một bước khá dài. Cái thân phận « nhà văn cách mạng » được Nguyễn Khải nhớ lại nghĩ thật là thảm :

    « Trong nửa thế kỷ sống dưới sự lãnh đạo của một Đảng theo học thuyết Mác Lê, tôi luôn luôn được nhắc nhở phải tôn trọng quần chúng, sức mạnh của quần chúng có thể thay đổi dòng chảy của lịch sử và số phận của nhiều cá nhân(…). Một xã hội có hàng triệu cá nhân không được đếm xỉa, không được tôn trọng nhưng một nhúm cá nhân lại được tôn vinh hết mức và được được hoàn toàn thoả mãn trong mọi nhu cầu là cái xã hội gì đây, là xã hội kiểu mẫu cho nhân loài tương lai ư?! Nói miệng mấy chuyện kỳ cục này đã khó nghe, lại còn viết thành văn mà các nhà văn không thấy ngượng sao? Ngượng thì vẫn ngượng nhưng chả lẻ lại gác bút, gác bút thì nuôi vợ con bằng gì? Nghĩ tới miếng ăn lại phải quên hết để sự bán mình cho quyền lực được hoàn toàn.«

    Nhưng « bút ký chính trị » của Nguyễn Khải còn đi xa hơn chuyện văn chương.
    (còn tiếp)

  5. #44
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    ( tiếp theo )





    Nhà văn Nguyễn Khải và nhà báo Nguyễn thị Ngọc Hải

    Có thể nói không ngoa Nguyễn Khải là nhà văn Việt Nam đầu tiên lôi chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam ra pháp trường lần lượt nhằm bắn vào những yếu huyệt . Một mặt cái chủ nghĩa này chủ trương « đấu tranh giữa các mặt đối lập là động cơ của tiến hoá « mặt khác trong « nội bộ Đảng » họ lại hạ xuống một cấp , không còn là « đấu tranh giữa các mặt đối lập nữa » mà chỉ còn là … »phê bình và tự phê bình ».

    Nguyễn Khải thẳng thắn vạch ra cái trò « phê và tự phê » đó là giả dối, vô tích sự :

    « Các đảng cộng sản đều coi phê bình và tự phê bình là cách giải quyết mâu thuẫn nội bộ hữu hiệu nhất. Sự vật vận động sẽ sinh mâu thuẫn, giải quyết được mâu thuẫn sự vật mới có cơ hội phát triển, tiến lên. Phủ định và phủ định của phủ định, nghe vừa khoa học vừa huyền bí, như câu thần chú: “Vừng ơi, mở cửa ra!”, cứ đọc to lên là cánh cửa vào tương lai sẽ mở toang.(…). Nếu tin vào câu thần chú ấy thì Mao Trạch Đông đã không bày ra tấn tuồng “cách mạng văn hoá” để tiêu diệt mọi kẻ dám can ngăn những chủ trương đầy tính phiêu lưu của ông. Ấy là nói về những người nắm quyền lực cao nhất, còn những người nắm những cơ quan quyền lực thấp hơn cũng chả bao giờ họ tin vào cái phương pháp lãng mạn đó cả. Trong các cấp uỷ họ vẫn tự phê bình và phê bình nhau một cách sốt sắng giả dối. … »

    Chính vì toàn thể cán bộ đảng viên cho tới nay vẫn đồng lòng và được phép diễn cái trò dối trá này nên cái xấu không hề bị tiêu diệt và cái ác ngày càng nảy sinh :

    « Và ai nấy đều tự bằng lòng hơn sau những lễ xưng tội giải tội hết sức vui vẻ này. Và mọi thói xấu, kể cả tội ác nữa, vẫn nghiễm nhiên tồn tại như trước đây, vẫn là những vùng cấm chỉ những kẻ quá chán đời mới dám đơn độc xông vào (…). Đó là một màn diễn khổng lồ, rất tốn kém, chả đem lại bất cứ kết quả nào. Vì chỉ là diễn thôi, người cũ kẻ mới đều vào vai rất thành thạo. Rút cuộc kẻ có tội vẫn ngày càng hung hãn, càng tự tin, còn người tố tội càng lúc càng dè dặt, hãi sợ. Kỳ quái nhỉ? »

    Bởi lẽ định nghĩa con người là « tổng hoà các mối quan hệ xã hội » nên những người cộng sản bỏ qua cái phần sâu thẳm, cái phần mù mờ, « những tiếng thì thầm rất nhỏ mỗi đêm trong chính mình » :

    « Con người có 2 mắt đều hướng ra cái thế giới vật chất bên ngoài, không có con mắt nào hướng vào trong để ngắm nghía, kiểm soát cái thế giới tinh thần của nó nên nó bị mù một nửa, cũng như nó không có cái tai bên trong nên không thể nghe được những tiếng thì thầm rất nhỏ mỗi đêm trong chính mình. Hai cái khuyết tật bẩm sinh ấy đã làm con người thiếu hoàn chỉnh, là nguyên do mọi đổ vỡ của nhiều danh nhân dũng tướng vào những năm cuối đời. Nhưng cũng có một số ít người có khả năng nhìn được sự vận động cả trong lẫn ngoài, nghe được những tiếng động rất nhỏ cả ngoài lẫn trong. Họ không có cấu tạo vật chất đặc biệt nào mà chỉ bằng cái năng lực tinh thần rất mạnh đã bù đắp được những khiếm khuyết bẩm sinh. «

    Mất cái khả năng « lắng nghe chính mình » hoặc không được phép thăm dò vào những vùng cấm đó, ngay đến các lãnh tụ cộng sản khi viết hồi ký cũng chỉ toàn một màu anh hùng :

    « Nhiều tập hồi ký của các danh nhân cả chính trị lẫn văn hoá đều thiếu cái phần còn nhày nhụa của họ, cái phần thú vật của con người nơi sản sinh ra những tội ác chưa hình thành, cái què quặt, cái buồn cười đã được kiềm chế đúng lúc, đã được giấu nhẹm, cái phần họ muốn quên đi và rất dễ trở thành lang sói với đồng loại nếu trong đồng chí, đồng nghiệp còn có người biết đến và nhớ tới. Cuộc chiến đấu lớn, có tính bi kịch giữa mình với mình bao giờ cũng hoành tráng, cũng đẹp, rực rỡ những màu sắc đối nghịch vì nó đã bộc lộ đầy đủ nhất cái phẩm chất LÀM NGƯỜI trong mỗi CON NGƯỜI. Không phải bất cứ ai cũng tạo ra được trận chiến thần thánh ấy, vì chiến trường ở ngay trong lòng mình, mình vừa là kẻ thách đấu vừa là kẻ dám nhận đấu, dẫu thua cũng là cái thua của thần thánh. Một công việc trang trọng đến thế, hùng tráng đến thế mà lại dám nghĩ là công việc của số đông, của những người chưa hề chuẩn bị một cái nhìn bên trong, một cái nghe bên trong cho riêng mình, cả đời họ sống trong tự mãn, trong u mê, bất thần mời gọi hãy nhìn lại mình, hãy nhìn lại người để có được những phán xét và điều chỉnh chuẩn xác! (…). »

    Mất cải khả năng ‘tự vấn », mất cái khả năng « tự nhận thức », « tự tra vấn mình », các lãnh tụ cộng sản chỉ còn tìm tới những cái gây thích thú ở nơi đám đống. Đó là những cái mà Nguyễn Khải vạch ra sơ sơ đã thấy hãi hùng :

    « Không có mùi vị của thuốc súng, của máu người và những tiếng la hét cuồng nộ của đám đông thì người cầm quyền biết thở bằng gì! »

    Vậy chẳng hóa ra những người cầm quyền là những con thú say máu hít thở bằng tiếng « cuồng nộ của đám quần chúng » và bằng máu người. Nguyễn Khải quả thực đã rất « nhà văn » khi đi tới cùng việc vạch trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa của những người thành thạo thích kích động quần chúng để được nghe tiếng la hét cuồng nộ của đám đông.

    Thoát khỏi vòng kim cô của Đảng bắt ne bắt nét nhà văn phải viết thế này phải viết thế kia, Nguyễn Khải định vị lại cho chỗ đứng và bản chất của văn chương :

    »Tập thể không làm ra văn chương vì nó không có cảm nghĩ riêng, tâm sự riêng, tính cách riêng. Nó là vô danh. Một tâm sự mãn nguyện, những tiếng cười hoan lạc, một kiếp người quá đầy đủ cũng không thể có chỗ đứng trong văn chương. Vì văn chương bao giờ cũng thuộc về những tiếng kêu của con người để đòi lại những gì còn thiếu: thiếu tự do, thiếu công bằng, thiếu hạnh phúc… »

    Vậy là văn chương tuyệt nhiên không thể là tiếng kèn xung trận các nhà văn thổi lên thật to để giúp Đảng đốc thúc , cưỡng ép hàng triệu, hàng triệu con người đi vào chiến tranh giành giật quyền thống trị trên cả nước . Ngược lại, văn chương phải là « những tiếng kêu than của con người ».

    Thực sự, Nguyễn Khải đã điểm đúng huyệt :

    « Đời người là bể khổ, những khao khát về tinh thần của con người là vô cùng nên mới cần có văn chương và nghệ thuật để bù lại. Còn mọi thứ đều được biết, đều đầy đủ, đều mãn nguyện thì tôn giáo không còn, triết học không còn, và tất nhiên văn chương cũng không thể còn. Nó sẽ chết vì bị ngạt, vì không còn những khoảng trống huyền bí để suy nghĩ, để mơ mộng và để thở. Những gì mà chủ nghĩa cộng sản hứa sẽ thành hiện thực trong tương lai thì cái hiện thực ấy sẽ giết chết cả loài người. Vì thượng đế đâu cần những con dòi béo quay lúc nhúc dưới chân Ngài. «

    Khi hứa hẹn một xã hội « làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu », một xã hội « thiên đàng » thì họ đâu có biết họ đã giết chết con người .

    « Cũng may đó chỉ là những lời nói dối, tự dối mình và dối người của những con người đã phải sống nhiều trăm năm trong cùng khổ, trong tuyệt vọng. Còn hướng tới thiên đàng ư ? Là thiên đàng trần gian hay thiên đàng thượng giới cũng không một ai có thể sống nổi. Sống không lo nghĩ, không mong muốn, không đấu tranh là kiếp sống con dòi rồi. Chả lẽ những con dòi cũng có thể cất cao những cái đầu múp míp của chúng để làm ra triết học và thơ ca! »

    Vậy thì cái « thiên đàng vẫy gọi « kia chỉ đáng giành cho đám giòi bọ. Một sự « tỉnh thức vĩ đại » của Nguyễn Khải không chỉ bằng sách vở, tư biện mà chính là ông đã « nghiệm sinh » trong đời sống :

    « Những điều viết trên đây không do tôi tưởng tượng ra mà do những trải nghiệm bản thân mà có. Những năm còn trẻ cả vợ lẫn chồng đều ăn lương quân đội, lại phải nuôi dưỡng những bốn đứa con, nhà ở ven bãi sông năm nào cũng phải chạy lụt, lại quá chật có 15 mét vuông. Ăn thì mì hai phần gạo một phần, gạo phải nhặt sạn cả buổi mới dám nấu thành cơm.

    Còn thức ăn ư? Chả nói nữa ai cũng ăn như thế, ăn dưa ăn mắm suốt mấy chục năm đã hoá quen. Cả nhà chỉ có hai cái giường, một cái bàn, hai cái ghế, tiếp khách ở đấy, mời cơm khách ở đấy, con học bài cũng ở đấy, và ông bố viết văn cũng chỉ có cái bàn ấy. Đêm đêm nằm cạnh hai thằng con trai lớn đạp ngang, quẫy dọc, rắm đánh thối um, vừa quạt cho hai thằng con ngủ tôi vừa mơ mộng đến một ngày nào đó, các con đã trưởng thành, tôi có được một phòng riêng để viết và tiếp bạn, mỗi bữa cơm đều có cá hoặc thịt, có cả chút rượu nữa càng hay.

    Tôi không phải lo nuôi con, không phải lo cả trăm thứ vặt vãnh để tồn tại, chỉ có đọc sách, ngẫm nghĩ, đi chơi đây đó với bạn bè và viết, ắt hẳn tôi sẽ viết được một hai cuốn sách để đời. Bây giờ tôi đã ngoài bảy chục tuổi, đã có đầy đủ những gì tôi khao khát, có thể nói còn hơn cả khao khát. Tôi đã sống đầy đủ, sang trọng nữa, hơn nhiều nhà văn tôi được biết ở các nước Đông Âu. Và tôi đã nghĩ nếu chủ nghĩa cộng sản thành công ở Việt Nam thì cũng chỉ cho được tôi đến thế. Khốn nỗi, lúc này tôi đâu còn năng lực làm việc bằng trí tuệ nữa mà cũng chả có nhu cầu nào phải đòi hỏi. Cuộc sống được vỗ béo của một kẻ ăn không ngồi rồi đã giết chết mọi tư tưởng ở trong tôi, rồi giết luôn đến đội quân chữ nghĩa, chúng đã hoá ra rỗng tuếch, vô hồn. Nhà văn mà hết chữ thì chỉ là cái xác chết. Xác chết con người với xác chết con dòi có gì là khác mà phải phân biệt ! »

    Đó thực sự là những sám hối chân thực , dũng cảm và đanh thép.
    (còn một kỳ cuối)

  6. #45
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo và hết )





    Sau khi sổ toẹt bằng hết những luận điểm cơ bản của Mác- Leênin , Nguyễn Khải nhìn thẳng vào nhưng vấn đề cốt lõi, những vấn nạn hàng đâu của xã hội Việt Nam. Ngòi bút của ông như lưỡi dao sắc bén mổ phanh những ung nhọt mà cả bộ máy tuyên truyền của đảng ra sức bưng bít.

    Đại thắng mùa Xuân được ra rả tụng ca trong suốt 30 năm bằng những ngôn từ sáo rỗng được Nguyễn Khải đặt câu hỏi sinh tử : bằng những hy sinh mất mát của cả triệu con người , nó mang gì tới cho dân tộc . Và ông huỵch toẹt :

    “Một nửa nước đã được độc lập nhưng lòng người tan nát vì tài sản một đời chắt chiu của họ đã bị nhà nước tịch thu hoặc trưng thu khiến họ trở thành những người vô sản bất đắc dĩ. “

    Lòng người tan nát không chỉ vì tài sản một đời đã bị tịch thu mà còn vì những chịu đựng mất mát khác khó nói cho hết thành lời. Riêng với giới trí thức thì :

    “Tầng lớp trí thức chả có tài sản gì ngoài cái đầu được tư duy tự do, thì cái đầu cũng bị nhà nước trưng thu luôn, vì từ nay họ chỉ được nghĩ được viết theo sự chỉ dẫn của một học thuyết, của một đường lối nếu họ không muốn giẫm vào vết chân của nhóm “Nhân Văn Giai Phẩm”. “

    Nhìn lại tình cảnh dân tộc sau ngày thống nhất hai miền Nam Bắc, ông nhà văn thẳng thừng :

    “ Một dân tộc đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ mà mặt người dân nám đen, mắt nhìn ngơ ngác, đi đứng long rom như một kẻ bại trận. Quả thật dân tộc Việt Nam đã thắng lớn trong phong trào chiến tranh giải nhưng lại thua đậm trong công cuộc xây dựng một xã hội tự do và dân chủ…”

    Vì sao, vì sao dân tộc lại đâm đầu vào thảm trạng đó, Nguyễn Khải đã phải kêu lên đau đớn :

    Thoát ách nô lệ của thực dân lại tự nguyện tròng vào cổ cái ách của một học thuyết đã mất hết sức sống. Dân mình sao lại phải chịu một số phận nghiệt ngã đến vậy!”

    Tuy nhiên, vì sao “cái ách của một học thuyết đã mất hết sức sống” tròng vào cổ dân ta lâu đến như vậy, lâu cho tới tận bây giờ và chưa biết bao giờ mới chấm dứt và trách nhiệm về những ai thì Nguyễn Khải chưa trả lời được , ông chỉ nhắc nhở giới nhà văn :

    “ Một xã hội tan nát, lòng người chĩu nặng những phiền muộn ưu tư, mà là những người đã hết lòng hết sức với kháng chiến bằng cách này hay cách khác. Vậy nhà văn phải viết như thế nào, phải viết cái gì để tạo được một hiện thực tràn đầy hy vọng như các nhà lãnh đạo cách mạng yêu cầu.”

    Đó là một công việc bất khả, nếu nhà văn không thét lên được những âm thanh cuồng nộ thì dù có thốt lên những tụng ca trơ trẽn, vô liêm sỉ như lãnh đạo yêu cầu, thì chúng cũng bị mau chóng sổ toẹt bằng sự thờ ơ của công chúng.

    Về trách nhiệm nhà văn, Nguyễn Khải đau đớn sám hối “

    “ Về già tôi mới nhận ra nhà văn phải nghe theo tiếng gọi của tình cảm, của trái tim, của cái phần thiện lương trong con người mình. Nó đã bảo sai là sai, không có thứ lý luận nào chống đỡ nổi. Vả lại văn chương bao giờ cũng đồng cảm với nỗi đau của con người, những bất hạnh của con người. Chưa bao giờ vì sự mãn nguyện, sự thành công của con người mà cất lên tiếng hát ca ngợi cả. Ở các thể loại nghệ thuật ngôn từ con người phải chống chọi với mọi cảnh ngộ trái ngược chiếm gần hết các trang viết, các màn diễn, còn khi người nghèo đã thành giầu, người hèn được bước vào thế giới phú quý, trai gái phải chịu nhiều năm chia lìa tới lúc tái hợp là cuốn sách, vở diễn phải chấm hết ngay. Nó đã kết thúc cái phần nghệ thuật để bắt đầu sang phần tụng ca là cái thế giới của mãn nguyện của buồn chán, là cái phần phi nghệ thuật. “

    Như vậy, văn chương chỉ có thể là tiếng nói khốn khó, uất hận trước mọi trà đạp lên con người, là những giọt nước mắt rơi trên những số phận bi thảm chứ không phải là sự reo vui, hồ hởi . Cố tình bỏ qua những đặc tính cốt lõi, những đặc điểm bản thể của văn chương, người cộng sản lại dùng nó như tiếng kèn thúc trận :

    “ Nhưng người lãnh đạo lại chỉ thích cái phần không phải là nghệ thuật, tặng giải thưởng, trao huân chương cho các tác giả chỉ để tưởng thưởng cái phần nhạt nhẽo vô vị ấy mà thôi. Cái cách cảm nhận hiện thực đầy tính lãng mạn ấy đã làm lệch lạc cách xem xét, cách ứng xử của nhiều thế hệ bạn đọc, nhất là bạn đọc ở tuổi mới trưởng thành, trước những biến hoá muôn mặt của cuộc sống. Họ chỉ có mỗi khả năng làm người phê bình văn học theo đường lối chính trị chính thống, tại sao cuộc sống đẹp như thế mà nhà văn lại miêu tả nó xấu đến thế. Làm sao dám cãi, hãy để cho những trải nghiệm của chính họ qua năm tháng sẽ âm thầm biện hộ giúp mình thôi.”

    Nguyễn Khải phát hiện ra một kẻ phá hoại giấu mặt trong xã hội : ngôn từ :

    “Một xã hội không tự hiểu mình, mỗi cá nhân cũng không tự hiểu mình, vàng thau, phải trái, cao quí ti tiện lẫn lộn, các giá trị lẫn lộn bắt đầu từ sự không chuẩn xác của ngôn từ. Câu mở đầu kinh thánh Cựu ước “ Thoạt Tiên Là Ngôn Ngữ…” (Au conmmencement était le Verbe).

    Nhưng ngôn ngữ trong xã hội ta hiện nay thật đáng kinh hoàng , nó được dùng như phương tiện để che đậy, dối trá :

    “Vậy mà ngôn từ lại là cái mặt yếu nhất trong các lãnh vực thuộc thượng tầng kiến trúc ở các nước xã hội chủ nghĩa. Công dân của các nước ấy dùng ngôn từ để che đậy chứ không nhằm giao tiếp, hoặc giao tiếp bằng cách che đậy, “ nói vậy mà không phải vậy”! Nó là cái vỏ cứng để bảo vệ mọi sự bất trắc, chống lại thói quen hay xét nét lời ăn tiếng nói của công dân của mọi chính quyền chuyên chế.

    Cái bệnh “xảo ngôn”, tiếc thay lại rõ rệt nhất, nặng nề nhất ở cấp lãnh đạo :

    “Cái cách tự bảo vệ ấy lại càng rõ rệt ở cấp lãnh đạo và các viên chức nhà nước làm việc ở các cơ quan quyền lực. Họ nói bằng thứ ngôn ngữ khô cứng đã mất hết sinh khí, một thứ ngôn ngữ chết, ngôn ngữ “gỗ”, nói cả buổi mà người nghe vẫn không thể nhặt ra một chút thông tin mới nào. Các buổi trả lời phỏng vấn báo chí, diễn văn tại các buổi lễ kỷ niệm, báo cáo của Đảng, của chính phủ, của quốc hội, tất cả đều dùng các từ rất mơ hồ, ít cá tính và ít trách nhiệm nhất. Người cầm quyền cấp cao nhất và cấp thấp nhất đều biết cách nói mơ hồ, càng nói mơ hồ càng được đánh giá là chín chắn. Và nói dối, nói dối hiển nhiên, không cần che đậy.”

    Những kẻ nói dối không cần che đậy phần lớn lại là những kẻ dân gian đã tổng kết “ trông mặt, tắt tivi” :

    “ Vẫn biết rằng nói dối như thế sẽ không thay đổi được gì vì không một ai tin nhưng vẫn cứ nói. Nói đủ thứ chuyện, nói về dân chủ và tự do, về tập trung và dân chủ, về nhân dân là người chủ của đất nước còn người cầm quyền chỉ là nô bộc của nhân dân. Rồi nói về cần, kiện liêm chính, về chí công vô tư, về lý tưởng và cả quyết tâm đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Nói dối lem lém, nói dối lì lợm, nói không biết xấu hổ, không biết run sợ vì người nghe không có thói quen hỏi lại, không có thói quen lưu giữ các lời giải thích và lời hứa để kiểm tra.

    Những kẻ nói dối biết là mình nói dối không hề thấy xấu hổi, bởi lẽ họ thừa biết :

    “ Hoặc giả hỏi lại và kiểm tra là không được phép, là tối kỵ, dễ gặp tai hoạ nên không hỏi gì cũng là một phép giữ mình. Người nói nói trong cái trống không, người nghe tuy có mặt đấy nhưng cũng chỉ nghe có những tiếng vang của cái trống không. Nói để giao tiếp đã trở thành nói để không giao tiếp gì hết, nói để mà nói, chả lẽ làm người lại không nói.

    Thật ra như trong cái trò “vua cởi truồng” , cả hoàng đế và dân đen đều hiểu cả nhưng dao kề cổ nên vẫn phải “diễn” :

    “ Thật ra nói thế mà vẫn hiểu nhau cả. Người cầm quyền thì biết là nhân dân đang rất bất bình về nhiều chuyện, nhân dân thì biết người cầm quyền đang nói dối, nhìn vào thực tiễn là biết ngay họ đang nói dối. Nhưng hãy mặc họ với những lời lẽ dối trá của họ, còn mình là dân chảnên hỏi lại [rằng] nói thế là thật hay không thật. Mình cứ làm theo ý mình và mình cũng sẽ nói dối, nói che đậy nếu như có dịp được người cầm quyền hỏi.”

    Chính vì những nhu cầu chính trị của đảng, tài sản tinh thần của dân tộc cứ ngày càng mai một:

    “ Cái thời mở nước, giữ nước chỉ còn lưu lại những cột mốc của các chiến công, còn cuộc chiến thầm lặng đã làm tan nát nhiều con người để con người được là chính mình, được là một thực thể thiêng liêng, đền đài lưu giữ muôn thuở cái tài sản tinh thần của một dân tộc, một dòng họ mãi mãi được vun xới, được phát triển tương ứng với sự phát triển của dân tộc, của thời đại thì chưa được văn thơ nói đến, triết học nói đến, các ngành khoa học nhân văn nói đến.”

    Tuy nhiên, Nguyễn Khải vẫn kỳ vọng :

    “ Dầu không nói đến, không được phép nói đến thì cái dòng chảy vĩnh cửu ấy vẫn được nhiều triệu người âm thầm khai thông, bồi đắp để các nhân tài Việt Nam không ngừng xuất hiện lúc ở lãnh vực này, lúc ở lãnh vực khác.”

    Và ông cảnh báo :

    “ Một đất nước không có những cá nhân kiệt xuất, tài ba làm chân dung đại diện trong cộng đồng nhân loại thì đó là một bất hạnh cho dân tộc, tạo ra một khoảng trống tiếp nối trong lịch sử sinh tồn của mỗi cá nhân. Rồi các thế hệ đến sau phải nối lại bằng cách nào vì vẫn phải bắt đầu từ môi trường chính trị, xã hội, từ một xã hội vừa truyền thống vừa văn minh, những mục tiêu nhắm tới vừa là phát triển cái riêng biệt, vừa là sự hòa nhập vào nền văn minh của khu vực và thế giới. “

    Quả thực nhìn vào sự tiếp nối các thế hệ cầm bút, người ta không khỏi lo ngại về sự ngày càng khô kiệt những tài năng. Và Nguyễn Khải vạch mặt thủ phạm đích danh của bi kịch đó chính là : quyền lực toàn trị.

    “Một nền văn minh riêng lẻ, với những mục tiêu hoang tưởng, một môi trường xã hội ngột ngạt vì cái bóng quyền lực phủ lên tất cả, quyết định tất cả thì số phận những cá nhân sẽ ra sao?

    Kết thúc tùy bút chính trị “Đi tìm cái tôi đã mất”, Nguyễn Khải không đưa ra được tiên trị, dự báo nào về sự sụp đổ của quyền lực toàn trị , ông chỉ răn đe và cảnh báo :

    “ Một chế độ độc tài khi phải đối mặt với những biến động lớn thường rễ bị nứt rạn, từ nứt rạn đến tiêu vong, thời gian diễn ra rất nhanh vì nó chỉ có trụ đỡ là quyền lực của một phe đảng, không có trụ đỡ về tinh thần của cả dân tộc. Một chế độ chính trị tồn tại tới non một thế kỷ hay một nửa thế kỷ cũng là lâu lắm, đã tạo ra mấy thế hệ ăn chung ở chung với nó, sinh con đẻ cái với nó mà khi nó chết không ai nhỏ được một giọt nước mắt, có người còn nhẫn tâm đạp lên cái vừa chết đó rồi mới tiếp tục bước đi, đủ biết người ta đã xem nó như vật bất tường, là quái thai, là tai hoạ, thời thế đã bất thần xoá bỏ nó một cách êm dịu, không phải tốn đến máu cũng là một may mắn phi thường. Có thể kết luận, một chế độ chính trị được xem là văn minh hay lạc hậu, là sẽ tồn tại lâu dài hay chỉ có mặt trong khoảng khắc của lịch sử là tuỳ thuộc vào cương lĩnh chính trị của Đảng cầm quyền có thật sự tôn trọng những quyền của con người hay không, các cá nhân với những khác biệt, những phản ứng, những bất tuân của nó có được đặt ở vị trí trang trọng trong hiến pháp hay không? “

    Với lời Nguyễn Khải đã hẹn tôi năm 1978 “tao sẽ vót nhọn gươm đâm một cú cuối cùng”, thì quả thực Nguyễn Khải đã vung một đường gươm xuất sắc . Tiếc thay ông thực hiện vào lúc ..đã muộn. Vào năm 2006 khi ông viết xong tùy bút chính trị này, những vấn đề của chủ nghĩa Mác, những lý thuyết chủ nghĩa cộng sản đã không còn là những bức xúc xã hội nữa, ngoài một vài nhà hoạt động dân chủ còn bàn tới “ dân chủ và tập trung”, tới “ vô sản chuyên chính”, tới “đấu tranh giai cấp”, hầu như đại đa số bàn dân thiên hạ , kể cả giới trí thức chẳng còn tâm thế đâu đoái hoài tới nó. Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã sụp đổ từ lâu, chủ nghĩa cộng sản đã bị cộng đồng châu Âu đặt ra ngoài vòng pháp luật, những lý thuyết của nó hiển nhiên đã bị lãng quên. Bởi vậy khi xuất hiện, bút ký của Nguyễn khải cũng chỉ được một bộ phận trí thức tìm đọc, cũng chỉ gây nên một luồng dư luận thoáng chốc rồi tan nhanh trong những vấn đề nóng bỏng khác của dân tộc và đất nước.

    Lời than vãn của Nguyễn Khải có tính cách tiên tri :” Thôi chết, tung tóe mẹ nó hết rồi Tuấn ạ…”, ngày nay những truyện ngắn, ký sự, tiểu thuyết của ông chỉ còn lại trong thư viện và trong các giáo trình của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Vậy nhưng Nguyễn Khải vẫn là nhà văn được yêu mến trong lòng bạn đọc. Bằng lương tri nhà văn, lương tâm người cầm bút, cuối đời ông đã nhận ra bi kịch của đời ông và đã viết một tác phẩm cuối cùng, chỉ tiếc nó không phải là sáng tác văn học mà là tùy bút, một tùy bút chính trị…
    N.T.
    6/2012

  7. #46
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    .

    NGUYỄN HUY TƯỞNG
    KỲ 1







    NGUYỄN HUY TƯỞNG
    “Sống mãi với…Hội Nhà văn”


    Hoạ chân dung Nguyễn HuyTưởng , nhà thơ Xuân Sách hạ mấy câu :

    Anh chẳng còn Sống mãi
    Với Thủ đô – Luỹ hoa
    Để Những người ở lại
    Bốn năm sau khóc oà…”

    Những tác phẩm tiêu biểu củaNguyễn Huy Tưởng viết sau cách mạng nếu kiên nhẫn đọc cho hết, tuy không “khóc oà “ thì cũng…sụt sịt.

    Trên bầu trời văn học của Đảng, Nguyễn Huy Tưởng được coi là vì sao sáng, trên chiếu văn của nước Cộng hoà XHCN VN, Nguyễn Huy Tưởng ngồi dãy đầu, trên cả Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi…chỉ dưới có Trường Chinh và Tố Hữu.

    Ông quê ngoại thành Hà Nội,sinh 1912, xuất thân nhà nho, 30 tuổi mới viết được Đêm hội Long Trì - tiểuthuyết “feuilleton” ( đăng báo nhiều kỳ) ( 1942-43 ), Vũ Như Tô, kịch lịch sử “feuilleton”( 1943-44), An Tư , tiểu thuyết cũng “feuilleton” ( 1944-45).

    Đêm hội Long Trì” xoay quanh tội ác Đặng Mậu Lân, em trai Đặng thị Huệ , vợ yêu của chúa TrịnhSâm. Chúa có con gái yêu là Quỳnh Hoa cũng phải ép gả cho tên dâm tặc này khiến quận chúa buồn phiền mà chết. Nguyễn Huy Tưởng “ hư cấu “ ra một viên tướng tài là Nguyễn Mại vào tận phủ giết Đặng Mậu Lân và được chúa chẳng những tha bổng mà còn khen thưởng trong tiếng hoan hô của nhân dân. “Đêm hộiLong Trì” thực ra là truyện dã sử, viết vội đăng theo kỳ báo, thiếu hẳn tầm khái quát để thành tiểu thuyết lịch sử có giá trị văn chương.

    Kịch lịch sử Vũ Như Tô còn có chất tư tưởng hơn. Kiến trúc sư Vũ Như Tô bị tên hôn quân Lê Tương Dực bắt vào cung ép xây “Cửu trung đài” cho hắn cùng lũ cung nhân vui chơi. Thoạt đầu Vũ Như Tô khước từ vì không muốn mang nghệ thuật phục vụ bạo chúa. Thế rồi Vũ Như Tô gặp nàng cung nữ Đan Thiềm, nàng xui rằng:

    Đây là lúc ông nên mượn tay vua mà thực hành mộng lớn của ông. Vua và đám cung nứ kia sẽ mất đi nhưng tác phẩm của ông sẽ còn lại đến muôn đời. Dân ta nghìn thu được hãnh diện. Hậu thế sẽ xét công cho ông và nhớ ơn ông mãi mãi…”.

    Nghe lời ĐanThiềm, Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài với niềm say mê nghệ thuật không kể đến bao nhiêu đau thương chết chóc của hàng vạn con người. Rồi nhân dân nổi lên trừng trị hôn quân, đốt cháy Cửu Trùng đài đẩy Vũ Như Tô vào cơn mê hoảng:

    Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm ! Ôi Cửu trùng đài…”.

    Bi kịch của Vũ Như Tô thực ra chỉ là bi kịch của một kiến trúc sư muốn mượn tay bạo chúa xây công trình nghệ thuật lưu hậu thế, lấy cứu cánh là “cái đẹp” biện minh cho phương tiện“dã man”. Bởi thế hình tượng Vũ Như Tô chỉ là một “ca đặc biệt” của người kiến trúc sư chứ chưa khái quát được thân phận người nghệ sĩ khao khát sáng tạo trong một xã hội hà khắc, tự do bị bóp nghẹt ; giá trị nghệ thuật của kịch Vũ Như Tô chính vì thế hạn chế.

    Tiểu thuyết lịch sử AnTư lại mở ra một không gian rộng hơn. Đó là thời vua Trần Thiệu Bảo , quân Nguyên sang cướp nước ta. Cuốn truyện đề cập tới hầu hết các nhân vật lịch sử : Hưng đạo vương Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão, Trần Quang Khải, Trần QuốcToản …các sự kiện lịch sử như Hội nghị Diên Hồng, trận chiến trên sông Bạch Đằng…về phía quân Nguyên thì có Thoát Hoan, Toa Đô, Ô Mã Nhi…và hai nhân vật chính là công chúa An Tư và tướng Chiêu Minh Vương Trần Thông. Hai người này vốn yêu nhau và đã đính hôn nhưng Thoát Hoan mang 50 vạn sinh mạng tù binh để đánh đổi lấy An Tư. Triều đình buộc phải chấp thuận. Thế là nàng công chúa tuyệt sắc , tài hoa và giàu lòng yêu nước đành gạt nước mắt vĩnh biệt người yêu sang trại quân Nguyên làm vợ kẻ thù. Tướng Trần Thông trúng tên chết ngay trước ngày quân ta đại thắng, công chúa An Tư hổ thẹn không muốn nhìn mặt ai lẳng lặng nhảy xuống sông tự vẫn. Cuốn truyện dầy có 115 trang mà dàn trải đủ các nhân vật, các sự kiện trong một thời kỳ chống ngoại xâm hào hùng nhất của dân tộc đồng thời lại muốn đi sâu vào bi kịch cá nhân của công chúa An Tư và tướngTrần Thông, bởi thế người đọc thấy rõ sự sơ lược và tuỳ tiện trong việc đưa các tình tiết lịch sử vào truyện – dường như có cũng được mà không có cũng không sao. Cuốn sách lại vẫn dừng ở truyện dã sử hơn là một pho tiểu thuyết lịch sử như các nhà phê bình quốc doanh gán cho nó.

    Vậy là sự nghiệp văn chương của Nguyễn Huy Tưởng trước cách mạng chỉ có 3 tác phẩm loại “thường thường bậc trung “ , thiếu hẳn “một cuốn để đời” như Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Công Hoan…hoặc một sự nghiệp đồ sộ như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao…

    Tham gia cách mạng rất sớm, năm 1942, Nguyễn Huy Tưởng gia nhập Văn hoá cứu quốc , năm 1945 dự Đại hội TânTrào, năm 1946 kết nạp Đảng, vào quốc hội, năm 1949 vào Tiểu ban văn nghệ trung ương của Đảng…Tham gia cách mạng vậy, Nguyễn Huy Tưởng gần với nhà chính trị hơn là nhà văn.

    Ấp ủ chủ đề Hà Nội khángchiến, Nguyễn Huy Tưởng viết khá nhiều nhưng thất bại. Năm 1948, ông viết kịch “ Những người ở lại ” kể gia đình bác sĩ Thành với quan hệ tình ái giữa bác sĩ Thành và Ngọc Cẩm rồi Ngọc Cẩm lại “quan hệ với” Phủ Dương…làm người đọc thấy kịch của ông chịu ảnh hưởng quá rõ kịch Lôi Vũ của Tào Ngu. Chính Nguyễn Huy Tưởng sau này cũng thừa nhận giá trị của vở kịch Những người ở lại :

    Những chuyện nhỏ gia đình , công chúng ngày nay đi xem đều thờ ơ lãnhđạm. Kịch Những người ở lại chỉ nói lên được cái băn khoăn của vài cá nhân không nói lên được những băn khoăn của quần chúng cho nên đối với công chúng bấy giờ, kịch của tôi đã đặt ra những vấn đề không quan thiết tới vận mệnh của số đông…”

    Không nói được những băn khoăn của đám đông tức là gián tiếp thừa nhận thiếu sự khái quát. Chính vì căn bệnh đó mà chỉ một năm sau viết “chuyện nhỏ gia đình” trong “ Nhữngngười ở lại”, năm 1950, Nguyễn Huy Tưởng đã mở rộng đề tài sang viết về cả một vệt chiến trường. Tập “ Ký sự Cao Lạng” nhằm phản ánh “Chiến dịch Biên giới “ từ lúc chuẩn bị chiến trường, chiến dịch mở màn, các trận đánh quyết định, những ngày truy kích địch và niềm vui chiến thắng của quân và dân. Tất cả diễn ra khá gấp rút nên Nguyễn Huy Tưởng đành phải dùng lối viết “ghi chép” chứ chưa hẳn đã là “ký sự”. Chẳng hạn bức tranh về tinh thần anh dũng của quân ta:

    Những báng súng đập nhau chan chát. Lực dằng khẩu súng trong tay một thằng Đức cao lớn trên miệng hầm. Cả hai ngã lộn xuống hầm, ôm nhau, đấm nhau, cắn nhau. Lực gỡ ra được, ngồi trên ngực nó, nghiến răng bóp cổ thằng giặc nhầy nhụa mồ hôi…”

    Hoặc cảnh đoàn dân công tải đạn ra chiến trường được khắc hoạ nặng về “ca ngợi tình đoàn kết giữa các dân tộc chung một quyết tâm tiêu diệt kẻ thù” :

    Mấy chị Mán đỏ khăn áo sặc sỡ, trán cạo nhẵn, nhễ nhại mồ hôi đang còng lưng đeo sọt đi giữa đám đông. Những chị Nùng áo ngắn tay rộng. Những chị Thổ tay chẽn áo dài. Những anh Mán cao lớn để hồng mao. Số đông áo chàm. Khi tản, khi chụm, khi lố nhố dưới thung lũng, khi thoăn thoắt lên đèo cao, khi tản vào rừng cây chuyển động, khi xoá đi, hoà vào những hàng dài đá xám lởm chởm bên đường, thỉnh thoảng bật lên vải chàm trắng của người đàn bà Mán Lài áo pha mầu đất ,váy nhiều nếp xùmxoà…”
    Các chị đi hành quân, dài và lủng củng, ngoằn ngoèo, nối rừng nọ với rừng kia, đèo này với đèo khác, ngày đêm không nghỉ…”

    Cứ như thế, toàn bộ tập bút ký giống như những “ký hoạ” thiên về phục vụ chính trị chứ ít đi sâu vào tâm tư, tình cảm cá nhân để từ đó phảng phất sắc mầu "thân phận con người trong chiến tranh”.
    (còn tiếp)

  8. #47
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    Kỳ 2

    Tập “Ký sự Cao Lạng” dầy hơn trăm trang hoàn thành ngay trong không khí chiến thắng của chiến dịch Biên giới tháng 9 năm 1950 bởi thế nó được coi như minh chứng mẫu mực về “lý thuyết sáng tác kịp thời” của Đảng. Quả thực đi sâu vào Ký sự Cao Lạng, người ta nhận thấy “tính kịp thời” của nó. Với cảm hứng “hồ hởi” phấn khởi, Nguyễn Huy Tưởng phác hoạ toàn bộ diễn biến chiến dịch từ chuẩn bị tới kết thúc lúc quân ta thắng lớn, đánh tan hai binh đoàn thiện chiến Pháp bắt sống hai quan năm của Pháp là Charton và Lepage giải phóng cả một giải biên giới từ Cao Bằng tới Lạng Sơn.

    Ký sự Cao Lạng gồm 6 phần trong đó 2 phần đầu mô tả không khí chuẩn bị nhộn nhịp của quân dân Cao Lạng “tự vắt mình để dốc hết người và của vào trận đánh”, dù hết sức khó khăn gian khổ nhưng đâu đâu cũng “ thấy hiện lên tinh thần phấn khởi, hào hứng, đâu đâu nghe những tiếng hò hẹn, động viên nhau “quyết giật giải của Hồ Chủ tịch , quyết thi đua lập công, trận này phải thắng…”.

    Phần thứ ba ghi lại cuộc chiến đấu mở màn , trận tấn công đồn Thất Khê, nhiều gương anh hùng xuất hiện: Trần Cừ lấy thân mình lấp lỗ châu mai, La Văn Cầu chặt tay bị thương khỏi vướng víu xông lên đánh bộc phá. Cho tới nay chuyện anh hùng La Văn Cầu tự chặt tay mình vẫn còn được nhắc tới, riêng chuyện Trần Cừ lấy thân mình lấp lỗ châu mai thì không, có lẽ vì sự tích phi thường này phải nhường cho anh Bế Văn Đàn người dân tộc, cho phù hợp với chính sách dân tộc của Đảng trong khen thưởng thành tích chiến đấu.

    Điều này cho thấy những chất liệu Nguyễn Huy Tưởng viết trong Ký sự Cao Lạng thường được lấy từ …báo cáo thành tích thi đua của các đơn vị bộ đội và vì phải phục vụ cho công tác tuyên truyền nên nó thường được thêm mắm muối và phóng đại.

    Gương anh “Trần Cừ lấp lỗ châu mai” cũng tương tự như gương em bé đuốc sống Lê Văn Tám tẩm dầu vào người chạy vào đốt kho xăng Nhà Bè do nhà sử học Trần Huy Liệu “sáng tác” phục vụ công tác tuyên truyền theo sự xác nhận của Giáo sư Phan Huy Lê.

    Phần 4 và 5 ghi lại cuộc vận động chiến của bộ đội đuổi theo và nghiền nát hai binh đoàn thiện chiến của Pháp tại vùng núi Khua Luông, Quý Châu.

    Phần 6 ghi lại không khí chiến thắng tại vùng Cao Lạng trong đó nổi bật hình ảnh Hồ Chủ tịch đến thăm bộ đội:

    Bác không đứng trên lễ đài. Bác đi thẳng xuống bãi cỏ. Bác không đội mũ. Mặt Bác sạm phong trần. Đầu hoa râm đã bạc nhiều. Bác mặc áo hở ngực. Quần bác nhàu, chân bác đi dép cao su trắng, đứt quai sau. Bác đến với bộ đội như cha đến với con : vui vẻ, thân mật, tạo một nguồn phấn khởi mạnh mẽ…”

    Đọc tới chi tiết tác giả ca ngợi “chiếc dép cao su trắng đứt quai sau” của bác Hồ, người ta mới hiểu vì sao trong tất cả những bộ tuyển tập và toàn tập về Nguyễn Huy Tưởng và trong tất cả những bộ lịch sử văn học, bao giờ người ta cũng nhắc tới Ký sự Cao Lạng như là một thành tựu không chỉ của riêng Nguyễn Huy Tưởng mà còn là của chung nền văn học cách mạng. “Hình tượng bác Hồ” không phải hiếm hoi trong sáng tác Nguyễn Huy Tưởng. Tháng 9 năm 1950 ông hoàn thành “Ký sự Cao Lạng” thì trước đó vài tháng vào dịp “sinh nhật Bác 19 tháng 5” ông có bút ký “Hồ Chủ tịch năm nay” sau này cũng được đưa vào các bộ tuyển văn học. Bài viết kể lại nhân ngày sinh nhật Bác tác giả vinh dự được tới thăm nhà Bác trong rừng chiến khu Việt bắc:

    “ Một con đường sạch và dài dẫn tôi vào. Tôi có cảm tưởng đi giữa một công viên Hà Nội với rất nhiều péc-gô-la. Sự thực hai bên tôi toàn là rau rền, rền xanh, rền tía, rền đỏ; giàn toàn thị là giàn mướp, giàn bầu. Một vài giàn mướp đã trổ hoa vàng, bướm lượn tíu tít . Máy bay không làm vẩn trước sau lễ chúc thọ. Chiều hôm nay bình tĩnh lắm. Sau một trận mưa, trời bắt đầu hửng nắng. Ánh hồng trên các thân cây…”

    Sắp được vào nhà Bác, tâm sự tác giả thật phức tạp :

    “ Tôi lâng lâng vui, đồng thời cũng ngài ngại, cái ngại dĩ nhiên của một người sắp đến trước một vĩ nhân. Tôi đã được gặp Cụ ở Bắc Bộ phủ , ở các cuộc mít tinh, ở mấy cuộc hội nghị, những buổi dạ hội tại Nhà hát Lớn Thủ đô. Nhưng từ ngày kháng chiến, tôi không được gặp Cụ và bị kích thích mạnh mỗi khi nghe các bạn kể lại những chuyện về Cụ :”Cụ đánh bóng vô lê. Cụ tăng gia, Cụ đi kinh lý mặt trận . Cụ đem cái vui và niềm tin đến cho bao nhiêu hội nghị . Cụ tiễn chân các cán bộ tới thăm Cụ một buổi chiều lẫn lộn cây cối và mưa gió của chiến khu …Cho nên lần này đi chúc thọ Cụ , tôi vẫn có cái náo nức của những buổi đầu tiên gặp Cụ…”

    Rồi Nguyễn Huy Tưởng nhớ lại kỷ niệm một đêm ở hội nghị dân quân, các nhà văn, nhà báo xúm nhau viết chuyện anh hùng của bộ đội và nhân dân, chuyện tàn ác của giặc Pháp các đại biểu đã kể lại trong hội nghị. Mọi người hăm hở viết suốt đêm trắng, hoàn thành “năm chục truyện căm thù và anh dũng” để kịp tinh mơ sáng hôm sau đưa cho người du kích cưỡi ngựa chạy đi …dâng Bác. Sau cùng Nguyễn Huy Tưởng cũng kể tới giây phút đặt chân vào nhà Bác:

    Vườn rền dẫn đến một khu rất đông người , nhiều cây và rất nhiều khoảng nắng. Chỗ nào cũng có thiếu nhi . Chúng nhảy tung tăng. Chỉ nhìn theo chiều mắt lóng lánh của chúng cũng biết Cụ ở chỗ nào. Và tôi gặp Cụ. Một cái bắt tay. Chụp ảnh. Những nụ cười chung quanh. Tôi trở về với gia đình…”

    Khi mọi cảm giác hồi hộp đã tan biến, Nguyễn Huy Tưởng đã tưởng như ở nhà mình, ông mới tả Bác :

    “ Trán Cụ chiều nay không có nét răn. Nước da hồng sáng . Bộ áo kaki cũ và mềm, phơn phớt trắng hồng càng tôn nước da và làm cho cử chỉ thoải mái, thanh niên. Có một cái gì quyến rũ trong đôi mắt thẳm sâu, phản ánh những khóc cười của dân tộc…”

    Quả thực những văn thi sĩ quán quân về ca ngợi Bác như Tố Hữu “Bác ơi trán bác mênh mông thế ?” hoặc Chế Lan Viên gọi Bác là “ Người đi tìm hình của nước” …cũng chưa ai bằng được Nguyễn Huy Tưởng có một chi tiết thật "đắt", nhìn thấy “sự khóc cười của dân tộc” trong đôi mắt sâu thẳm của Bác.

    Tiếp đến Nguyễn Huy Tưởng tả phòng khách của bác:

    Bao vây Hồ Chủ tịch là cả Việt Nam thu gọn do những đại biểu muôn vẻ muôn mầu….”

    Trước hết phải kể đến cán bộ cao cấp: Cụ Tôn Đức Thắngngười công nhân lão đại”, ông Trường Chinh “ nhỏ nhắn nói chuyện vui vẻ”, ông Phan Anh thấp, vững “ đang nghĩ tới một tập Kiều tặng Cụ”, ông Hoàng Quốc Việt nhanh nhẹn như một gia trưởng”…Rồi đến đại biểu thanh, công, phụ trước hết là…thiếu nhi. “Thiếu sinh quân. Thiếu nhi nghệ thuật. Thiếu nhi địa phương. Cháu nhìn Bác không chớp mắt. Cháu bên vai bác nũng nịu. Cháu ngồi dưới chân Bác , nghểnh cổ há mồm. Cháu biếu bác một bài hát. Cháu dâng bác một cây sáo mộc…”. Rồi đến anh hùng lao động, anh hùng của vùng tạm bị giặc chiếm…”Lá cờ đỏ thêu chỉ vàng “vạn thọ vô cương” chói lọi gian phòng…”

    Nguyễn Huy Tưởng tả Bác vui với thiếu nhi thì thấy Bác giản dị, gần gũi nhưng khi nói tới lá cờ “ vạn thọ vô cương” thì lại thấy Bác như một…Hoàng Đế. Không hiểu “lá cờ đỏ thêu chỉ vàng“ này có thật không hay là NHT đã…bịa ra để “nịnh khéo” Bác, có điều từ đầu đã ca ngợi Bác là “giản dị vô cùng” vậy sao còn bầy đặt ở phòng Bác một lá cờ viết chữ Hán rắc rối vậy thì quần chúng công nông hiểu làm sao ?

    Rồi cụ Hồ ngồi nói chuyện với một anh chiến sĩ cụt tay trong đại đoàn 308 viết :

    Tôi không nghe rõ câu chuyện giữa Cụ và người chiến sĩ, chỉ thấy sau lưng Cụ, cửa sổ tròn, để lọt một mảnh trời sao lấp lánh…”

    Tới đây người ta thấy được cái “thủ pháp nghệ thuật” hoặc nôm na là “cái mẹo ca ngợi “ của Nguyễn Huy Tưởng. Khi vẽ chân dung bác Hồ ông thường gắn với khi thì sự khóc cười của dân tộc khi thì cả một trời sao…

    Cuộc chúc thọ bác Hồ tạm lắng để nhà văn NHT có thể nhìn thấy cả một mảnh trời sao sau lưng bác, mãi đến khi “ông Trần văn Giàu đọc những điện văn của các chính phủ, đoàn thể các nước bạn chúc mừng ngày lục tuần đại khánh của Cụ, phòng họp mới trở lại cái tíu tít ban nãy”. Lúc này người ta nghe thấy “ những tên Staline, Hồ Chí Minh quyện nhau trong một tinh thần quốc tế mà cảnh sum vầy ở góc trời này , hôm nay càng làm bật ý nghĩa thâm trọng”, nghe thấy “những lời hô khẩu hiệu “,” bài hát Hồ Chí Minh muôn năm cất lên vang lừng”…

    Hoá ra người vinh dự nhất được cụ Hồ bắt tay trong buổi chúc thọ lại là linh mục Phạm Bá Trực, ngày đó còn đang thay mặt quốc hội.
    “Cụ bước lại bắt tay cha Trực rồi nói :
    “ Tôi bắt tay Quốc hội tức là bắt tay toàn dân…”

    Chỗ này mới thấy tính “mặt trận” của cụ Hồ – cụ bắt tay một linh mục làm hả dạ giáo dân nhưng cụ lại nói cụ bắt tay “quốc hội”, như vậy mấy ông “sư quốc doanh “ cũng không có gì phải ghen tị.
    (còn tiếp)

  9. #48
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    Kỳ 3

    Được “bác Hồ bắt tay”, cha Trực sướng quá, “hát ngay một đoạn thánh ca mừng Cụ:

    “O Remus
    Pro Domino notio Ho Chi Minh…
    Dominus conservet eum, et

    Vìvifice sum et Beetam…”

    Ông nhà văn dịch :

    Hỡi các giáo hữu ta hãy nguyện chúc cho vị Chủ tịch quý mến của chúng ta Hồ Chí Minh, xin Thiên chúa hằng gìn giữ cho Người, xin Thiên chúa hãy ban cho Người hưởng trường thọ và được hạnh phúc thật trên cõi đời , xin Thiên Chúa hằng hộ vực và che chở Người cho khỏi mọi mưu chước của kẻ thù của Người (cũng là kẻ thù chung của Nhân loại).

    Chẳng hiểu tiếng tây tiếng u ra sao, chỉ thấy dịch ra thành bài “lãnh tụ ca” bốc Người lên tầm cỡ thay mặt nhân loại mới ghê. Nhiệt tình ca ngợi lãnh tụ của cha Trực đã được đền đáp kịp thời, được “Cụ nắm tay rất lâu” vậy hẳn là một ân sủng lớn.

    Sau cùng “ân sủng của bác ” cũng tới với nhà văn :

    “ Buổi chiều tôi đang ăn cơm, Cụ đến sau lưng, đặt tay lên vai hỏi :
    “ Chú ăn được mấy bát ?”.
    Chúng tôi hỏi lại Cụ, Cụ nói :
    ” Tôi ăn được hai bát…”
    Tôi se se trong lòng…”

    Nhà văn ngậm ngùi thương Bác “ăn có hai bát cơm” . Rồi cụ Hồ nhắc nhở 4 điểm thi đua giữa các …báo : “ đúng chính trị – văn chương hoạt bát – ít tếu – hình thức giản đơn”

    Cho tới ngày nay, hơn 60 năm sau, báo chí Việt Nam vẫn tuân theo những chuẩn tắc trên, đặc biệt là “đúng chính trị” – tức tránh né chuyện nhạy cảm, tuân thủ sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, chỉ được phép đưa tin có lợi cho Đảng, cho “ổn định chính trị” .

    Sau cùng đã tới lúc nhà văn phải chia tay cụ Hồ với cảm giác :

    Nhiều tiếng nói trong tôi một lúc : Phố Lu – Bắc bộ phủ – Ba Đình - Bác – Chú – Tổng phản công – Tôi ăn được hai bát. Cụ sáu mươi. Cụ đã sáu mươi…”.

    Ôi ước gì, Cụ sống lâu vài trăm tuổi. Đó là mơ ước trong sâu thẳm nhà văn .

    Bài “ Hồ chủ tịch năm nay” được Nguyễn Huy Tưởng ghi ngày viết đúng vào sinh nhật lần thứ 60 của cụ Hồ : “19-5-1950”. Hoá ra ở cụ Hồ cái gì cũng vĩ đại, cũng kiệt xuất, cũng thiên tài, chỉ trừ mỗi tuổi thọ là cũng như người đời. Ông nhà văn hình như cũng cảm thấy điều đó nên kết thúc bài viết thật xót xa.

    Trong sự nghiệp văn học của Nguyễn Huy Tưởng, vở kịch Bắc Sơn công diễn năm 1946 và được báo chí rối rít khen ngợi:

    Bắc Sơn ra đời đã đặt nền móng cho một nền kịch mới …Bắc Sơn đã cảnh tỉnh cho những người còn nghi ngờ kịch cách mạng và xứng đáng là vở kịch cách mạng thành công nhất từ trước tới nay …” ( Báo Vì nước – 1946).

    Kịch Bắc Sơn viết thế nào mà ca ngợi ghê gớm vậy ?

    Kịch lấy cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn làm bối cảnh, thời gian vẻn vẹn có mấy tháng từ lúc khởi nghĩa nổ ra (27-9-1940) cho tới lúc du kích thất bại phải bỏ Vũ Lăng rút lên rừng ( đầu 1941). Diễn tả cuộc xung đột giữa hai phe cách mạng và phản cách mạng qua đó khẳng định cách mạng nhất định thắng, báo hiệu cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám sẽ nổ ra.

    Câu chuyện kịch “Bắc Sơn” xoay quanh “ hai phe” đối nghịch trong gia đình người dân tộc Tày - ông cụ Phương , vợ, con trai, con gái và con rể. Cụ Phương và con trai là Sáng hăng hái tham gia cách mạng. Cô con gái là Thơm và mẹ thuộc phe lừng chừng đứng giữa. Chàng rể, chồng của Thơm là Ngọc thuộc phe đối lập, từ chỗ chế giễu cách mạng đến chỗ dẫn đường cho Pháp đàn áp du kích và trở thành một tên Việt gian nguy hiểm. Sáng bị Pháp bắn chết gây cho cụ Phương hiểu lầm bà vợ dắt Pháp về bắn con bèn rút súng bắn vợ. Rất may cô con gái Thơm xông vào gạt ra cứu sống mẹ. Cụ Phương sau khi bắn chết một tên Pháp cũng bị tử thương. Có hai cán bộ cách mạng là Thái, Cửu chạy vào nhà Thơm trốn Pháp được cô dấu trong buồng , chờ chồng bỏ đi, Thơm mới chỉ đường cho cán bộ chạy thoát. Sau Thơm theo cách mạng, lên căn cứ tiếp tế muối và báo tin Pháp sắp vây lùng. Vừa lúc đó Ngọc, chồng Thơm mò tới bị Thơm dõng dạc tố cáo bộ mặt Việt gian của chồng. Ngọc rút súng bắn vợ. Nhờ Thơm, quân du kích diệt được giặc Pháp….

    Vở kịch “Bắc Sơn” chia đôi hai loại người rạch ròi : cách mạng và phản cách mạng – ngay cả trong quan hệ vợ chồng, người ta cũng có thể bị phân hoá thành hai phe :

    Thơm ( nói với chồng) :
    ” Thôi, đến lúc này tôi cũng chẳng còn úp mở làm gì nữa. Vợ một thằng chó săn ( khóc). Sao tôi lại theo anh kia chứ ? Sao tôi với anh ở lại Bắc Sơn kia chứ ? ( khóc nức nở) Anh có phải là người nữa không ? Phải, tôi giúp quân du kích đấy; tôi biết tin anh dắt Tây đến đánh úp, tôi đi báo quân du kích đấy. Tôi đố anh phá nổi quân du kích. Mở mắt ra! Nó sai như con chó, nó khinh như con chó mà không biết đời à ? Các ông đồng chí đâu! Bắt lấy nó. Nó đây rồi…Nó đây rồi…đừng thương nó…”

    Thế là cô vợ hô hoán lên cho du kích chạy tới bắt chồng…

    Thơm ( lăn xả vào Ngọc hú lên) : Anh em ơi, nó đây rồi. Chú ơi…ông Thái ơi…”

    Thế là chồng rút súng bắn vợ và liền đó bị Tây…bắn nhầm chết. Tuy nhiên, sau đó cô vợ – Thơm, không chết , cô vẫn sống để chỉ vào xác chồng mà căm thù :

    Không biết nó đã thấy nhục chưa ? Chỉ tiếc là mình không được xử tội nó…”

    Rồi quên cả đau đớn và cũng chẳng hiểu sao lúc này cô nàng lại nghĩ tới…bộ đội :

    Tôi chết mất…Quân ta thế nào ?”

    Và rồi cô nàng như mê sảng hướng ra mặt trận :

    Cho tôi đi xem đi. Chú tôi với em Sáng đang bắn chúng nó đấy. Trường Vũ Lăng ta lại chiếm được kia. Đi mau lên các ông. Các ông cố lên nhớ. Mau lên, có phải cờ ta đấy không ? Được thật rồi…”

    Than ôi, ông Nguyễn Huy Tưởng ép uổng “bông hoa rừng” giác ngộ cách mạng và bày tỏ cái sự giác ngộ ấy một cách lố bịch đến thế . Giữa đôi vợ chồng chẳng hiểu sao không mảy may chút nghĩa tình phu thê mà chỉ có “cách mạng” hoặc “phản cách mạng”. Giả dối đến thế. Kịch “Bắc Sơn” đặt “nền móng cho kịch cách mạng” như thế đấy . Nó được bốc lên mây xanh . Nguyễn Đình Thi reo hò :

    Viết Bắc Sơn, Nguyễn Huy Tưởng muốn bày giãi lòng tin chắc của mình ( vào cách mạng). Không, nghệ thuật với cuộc sống không thể nào rời nhau, nhất là trong lúc này. ..Kịch Bắc Sơn đưa lên sân khấu những sự việc mới, những đám đông, những con người mới của cách mạng: người cán bộ, ông già nông dân khẳng khái, anh du kích, bà cụ có tấm lòng yêu nước trung thực. Đấy là điều đáng chú ý nhất và cần nhấn mạnh nhất…” .

    Nhà phê bình mác xít hơn cả ông Trường Chinh là giáo sư Hà Minh Đức cũng bốc thơm :

    Qua vở kịch Bắc Sơn, lần đầu tiên Nguyễn Huy Tưởng xây dựng thành công những con người mới xuất thân từ quần chúng lao động. Phần lớn họ là những người nghèo khổ bị áp bức, vùng lên làm chủ vận mệnh mình…”

    Sự thực, đó là một bước lùi vĩ đại, trong khi kịch nói thế giới từ thời Shakespeares đã đưa lên sân khấu những nhân vật khổng lồ với tính cách phong phú và phát triển phức tạp, thì ở Việt Nam vào những năm sau đại chiến thứ hai, người ta mới bắt đầu xây dựng một thứ sân khấu mà tính cách nhân vật bị vót nhọn chỉ còn nhân vật “ta” hoặc “địch”.

    Nền kịch cách mạng với “phương pháp sáng tác “ như vậy, nhất định sẽ đưa sân khấu tới…tắc tị. Quả nhiên một loạt vở kịch dẫm theo vết Nguyễn Huy Tưởng như “Chị Hoà” của Học Phi, “ Bức tranh mùa gặt” của Trần Vượng, “Tiền tuyến gọi” của Trần Quán Anh sau này …đều mau chóng vứt vào sọt rác của lịch sử.
    (còn tiếp)

  10. #49
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    Kỳ 4

    Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn được đảng khen luôn bám sát đời sống, nóng bỏng thời sự . Quả vậy, sau “ Ký sự Cao Lạng”, Nguyễn Huy Tưởng đi theo đoàn cải cách ruộng đất xuống ba cùng với bần cố nông và có ngay tiểu thuyết “Truyện anh Lục” viết về nông dân bị địa chủ, cường hào bóc lột tận xương tuỷ, nay nhờ đảng vùng lên đập tan giai cấp bóc lột, làm chủ cuộc đời mình. Tiểu thuyết …dở đến nỗi nhà phê bình Phan Cự Đệ chê ”tác phẩm còn lẫn lộn giữa việc tường thuật về người thật và xu hướng tiểu thuyết hoá, nhưng điều đáng quý là sự nỗ lực của Nguyễn Huy Tưởng đi vào một đề tài mới mẻ với ý thức phục vụ sát yêu cầu cách mạng…”.

    Thế thôi, chỉ phục vụ cách mạng chứ đâu phải văn chuơng ? Thực ra “húc” vào đề tài cải cách ruộng đất nhà văn nào cũng phải bịt mắt, bưng tai nói theo giọng cán bộ Đội cải cách, bởi thế các tác phẩm viết ra đều “chết non” như “ Tranh tối tranh sáng ”, “Hỗn canh hỗn cư” của Nguyễn Công Hoan, “Mẹ con đồng chí Chanh” của Nguyễn Đình Thi, “Con trâu “của Nguyễn văn Bổng, “Truyện Tây Bắc “ của Tô Hoài…

    Sau 1954, đảng yêu cầu các nhà văn viết về sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa trên đất Bắc, Nguyễn Huy Tưởng hưởng ứng nhiệt tình , viết ngay tiểu thuyết “Bốn năm sau” (1959). Cuốn truyện xoay quanh công cuộc xây dựng lại Điện Biên Phủ, nơi chiến trường vừa lặng im tiếng súng, vẫn còn chằng chịt giây thép gai và bom mìn để thử thách tinh thần người lính phục viên, rời tay súng, cầm tay cầy. Cuốn sách được các nhà phê bình của đảng “nâng bi” là “ Bốn năm sau mang theo cảm hứng mới phơi phới tinh thần lạc quan cách mạng của những con người làm chủ hiện tại và tương lai…”. Có lẽ vì cái cảm hứng đó mà không đầy “bốn năm sau” ra đời, tiểu thuyết “Bốn năm sau” đã chết ngóm chẳng còn ma nào muốn đọc.

    Là nhà văn đi hàng đầu theo chủ trương “sáng tác ” kịp thời , Nguyễn Huy Tưởng luôn luôn được báo chí bốc thơm:

    Chất hiện thực trong những sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng ngày càng được tăng cường qua những đợt đi thực tế , tham gia chiến dịch , những ngày lăn lộn với phong trào . Anh thấy rõ cuộc sống mới không ngừng phát triển. Đang từng ngày thay da đổi thịt. Ở đâu trong cuộc sống cũng phấp phới cái “cánh bay của một thứ lãng mạn cách mạng ngay trong những công việc hàng ngày”. Đó chính là cơ sở khách quan để nảy sinh chất lãng mạn cách mạng trong tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng…”

    Tuy nhiên sự “đoản thọ” của những sáng tác kịp thời kiểu như “ Ký sự Cao Lạng”, “ Truyện anh Lục”, “ Bốn năm sau”… cũng làm Nguyễn Huy Tưởng phải nghĩ ngợi, nhất là văn chương của ông nâng bi cách mạng quá đà đến độ nhà phê bình “bảo hoàng hơn cả nhà vua” Phan Cự Đệ cũng phải than:

    Nguyễn Huy Tưởng đến với cuộc đời mới với bao cởi mở và tin cậy, không có những khoảng cách giữa nhà văn và cuộc sống qua những dằn vặt cá nhân , những ngại ngùng xa lạ …Nguyễn Huy Tưởng thích khai thác những mặt đẹp của đời sống , cái đẹp của con người mới đang sáng tạo nên những trang sử của dân tộc. Anh nhìn cuộc sống một cách xuôi chiều và có phần lý tưởng hoá. Nguyễn Huy Tưởng chưa thấu hết những mặt phức tạp của cuộc đấu tranh xã hội nên trong một số trường hợp , cách nhận thức và giải quyết vấn đề của anh hời hợt và dễ dãi…”

    Tóm lại nói theo ngôn ngữ thời nay là anh viết quá…phải đạo, quá an toàn, luôn luôn đeo chữ “thọ” cho ngòi bút rồi mới tung hoành trên trang giấy. Sau “ Bốn năm sau”, Nguyễn Huy Tưởng hiểu rằng “sáng tác kịp thời” chỉ là sự xui dại của Đảng muốn nhà văn phục vụ chính trị hiệu quả hơn, tức thời hơn và chỉ đẻ ra thứ văn chương “báo tường”. Từ đó ông bỏ hẳn “những chuyến đi thực tế” nhằm cho ra những “sáng tác kịp thời”, bỏ qua những “đề tài khôi phục kinh tế” nóng hổi tính thời sự, ông trở lại đề tài quá khứ với độ lùi đủ để có thể nhìn lại một cách bao quát, tỉnh táo từ đó xây dựng nên tiểu thuyết sử thi, đồ sộ vừa đi sâu vào số phận cá nhân vừa mang tính hoành tráng bão táp cách mạng.

    Và Nguyễn Huy Tưởng bắt tay vào tiểu thuyết được coi là lớn nhất trong sự nghiệp của ông :”Sống mãi với Thủ đô”.
    Năm 1958 sách viết xong, 1961 sách ra mắt bạn đọc, được nhà văn Nguyễn Tuân viết lời bạt, nhà văn Nguyễn Khải viết bài khen ngợi cùng rất nhiều nhà báo, nhà phê bình khác bốc thơm.

    Vậy giá trị thực của “ Sống mãi với thủ đô” của Nguyễn Huy Tưởng là thế nào ? Cuốn sách dày 450 trang mở đầu là cuộc tản cư của người Hà Nội về nông thôn tránh bom đạn giặc Pháp và kết thúc ở một đơn vị tự về đã bước vào ngày thứ hai của cuộc kháng chiến.

    Trên sân ga hàng Cỏ hai tháng sau ngày Quốc khánh mồng 2 tháng 9, giữa đám đông chạy loạn người ta thấy Trần Vinh, thầy giáo đưa mẹ xuôi tàu Nam tản cư về quê. Anh gặp lại Trinh người yêu cũ đã lấy chồng giàu có. Lúc này trụ lại Hà Nội và xin vào tự vệ dường như là thước đo giá trị của thanh niên Hà Nội ; bởi vậy khi nghe Trinh hỏi mẹ :

    “ Tự vệ phải đánh nhau, sao các anh ấy lại thích vào mợ nhỉ ?”

    Trần Văn cau mặt. Trinh không những tỏ ra thờ ơ với thời cuộc mà còn ngu nữa. Hồi yêu Trinh, anh tưởng Trinh thông minh, có ngờ đâu lại thảm đến như thế này…”

    Không phải chỉ có Trinh là thờ ơ với thời cuộc, trên sân ga, Trần Văn còn thấy “ một đám thanh niên mặc tây đi xích lô từ phía Hàng Lọng tới. Họ vội vã, hấp tấp, hốt hoảng. Họ cuống cuồng bước lên thềm , chạy vào ga lấy vé , mặt tái nhợt, hơi thở dốc ra . Trông thấy Trần Văn họ bẽn lẽn xấu hổ, người cúi mặt xuống, người ngoảnh mặt đi. Trần Văn cười trong bụng . Chắc chắn họ cũng cùng một loại với mấy anh thanh niên theo gia đình đi tản cư mà anh gặp lúc nãy ở ngoài ke, các anh chàng phải giấu mặt đi để cho đồng bào khỏi trông thấy và xỉ vả là đồ hèn nhát….”

    Vậy Trần Văn dĩ nhiên là một thầy giáo giác ngộ cách mạng nên mới có cái nhìn khinh bỉ đối với đám thanh niên cầu an, tản cư khỏi Hà Nội như vậy. Anh là giáo viên sử, dạy trường tư của một “ nhà trí thức cách mạng”. “Anh đã được giảng sử nước nhà bằng tiếng Việt Nam một cách đường hoàng, không phải dè dặt quanh co. Cách mạng tháng Tám đã mở cho anh một cuộc đời mới”.

    Học trò của thầy Trần Văn cũng “cách mạng” không thua gì thầy.

    Trước hết là cô Quyên, nữ sinh Hà Nội .”Một chị cán bộ đã giới thiệu Quyên vào làm mật mã nhưng Quyên khóc xin thôi. Quyên cho là chị cán bộ khinh mình, vì Quyên thấy cái công tác được giao cho chẳng có gì là chiến đấu cả . Quyên nghĩ rằng đánh nhau thì phải nằm gai nếm mật, mặt trận thì phải là màn sương gối đất chứ có đâu lại đi làm một công việc chẳng có gì là khó nhọc, ro ró ở một xó nhà…” .

    Thế rồi trong tường tượng, hình ảnh người chồng tương lai của cô nữ sinh này cũng phải là …một người cách mạng. “Người ấy đã phải bị đầy ra Côn Đảo , đã phải vượt tù trốn về khu giải phóng, và lúc này phải gánh vác những công việc lớn lao. Người chồng lý tưởng ấy của chị có thể không còn trẻ nữa, nhưng chị sẽ yêu với tất cả lòng yêu của chị, chị sẽ hy sinh tất cả cho anh để bù lại trăm nghìn gian khổ mà anh đã phải chịu trong bao nhiêu năm…”

    Một quan niệm tình yêu “lãng mạn cách mạng” ghê gớm chưa ? Còn nam sinh của thầy như anh chàng tên Loan thì cũng bị “trí tưởng tượng đưa anh từ cuộc đời còn thơm tho mùi sách vở tới những trận chiến đấu ngổn ngang xác giặc và chính anh có thể chết dưới đống gạch ngói của phố xá điêu tàn…”.

    Đứng giữa đám học sinh “mắt long lanh như sắp xông lên chiến đấu”, anh giáo Trần Văn bỗng “thèm làm một người cán bộ nắm được hết tình hình, biết mình sẽ làm gì và đi tới đâu. Anh cảm thấy con người mới phải là con người chẳng kể trường hợp nào , đều làm chủ được tình thế …”. Và rồi để “động viên tinh thần chiến đấu” cho đám học trò, anh giáo kể câu chuyện cái lỗ đạn Pháp bắn vào thành Hà Nội ngày 20-11-1873 bị một nhà nho nào đó lấp đi để “nhân dân hàng ngày khỏi trông thấy mà thêm nhục”. Mấy hôm sau, một ông nhà nho khác lại khoét cái lỗ ấy ra với lý lẽ “ phải để đấy cho mọi người luôn luôn trông thấy cái nhục mà nghĩ đến việc cứu nước…”. Hai ông cứ người lấp người phá cho đến khi Pháp biết chuyện đem rào kín cổng thành lại (!). Câu chuyện thực hư không biết sao, nhưng người Hà Nội mỗi lần đi qua phố Cửa Đông đều nhìn thấy cái lỗ đạn ấy và không hiểu Pháp đã rào nó lại bằng cách nào ?

    Anh giáo Trần Văn kể xong câu chuyện , kết luận :

    “ Tôi nghĩ lúc này là lúc chúng ta lấp cái nhục bằng gươm bằng súng đấy…chúng ta sẽ cho chúng nó biết rằng chúng ta không phải là một lũ hèn…”.

    Ngoài đám thầy trò Trần Văn sôi sục tinh thần yêu nước, người ta còn thấy cô Nhân, bán hoa ở Ngọc Hà, thầm yêu anh giáo, chị họ cô Nhân có chồng chết trong khi Nam tiến, đứa con trai tuổi còn con nít tên Dân cứ nằng nặc xin đi…bộ đội vì nhớ bố quá, tất cả đều trong không khí sẵn sàng…đánh Pháp. Ơ vườn hoa Cửa Nam, Trần Văn gặp một người thợ nặn các tượng Quan Công, Hạng Vũ…bằng bột bán cho con nít. Khi một đoàn xe “ chở toàn Tây mũ đỏ, kèm theo mấy con nhà thổ, me tây loè loẹt” chạy qua, anh thợ nặn bột lên tiếng chửi theo kiểu rất …“trí thức” :

    Đánh Đức thua Đức, đánh Nhật thua Nhật, đánh đâu thua đấy, bắt nạt Việt Nam. Mẹ cha mày, bố mày cũng không dám đánh đêm…”

    Được nghe chửi như vậy, anh giáo càng thêm phấn chấn . Anh bĩu môi lẩm bẩm :

    Mọi bạo lực, mọi cường quyền mạnh đến như sấm như sét rồi cũng tan đi như bọt. Hạng Vũ, Attila, Nã Phá Luân , Hitle và Lơ Cléc , tất cả , trước hay sau, chóng hay muộn tất cả đều đổ sụp. Chỉ có nhân tâm là muôn thủa…:”
    (còn tiếp)
    Last edited by sophienguyen; 11-20-2011 at 01:02 AM.

  11. #50
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    Kỳ 5

    “Quần chúng nhân dân” Hà Nội được Nguyễn Huy Tưởng mô tả thành những con người yêu nước, nóng bỏng lòng căm thù như vậy, còn giặc Pháp , ngược lại được mô tả như bọn thú dữ uống máu người không tanh:

    Cánh cửa mở ra , giữa tiếng kêu hãi hùng của một người đàn bà và hai đứa con luống cuống trong một gian nhà nhỏ tối mờ mờ, đồ đạc đã thu dọn cả, chỉ còn trơ một cái giường. Tên lính Pháp hỏi Việt Minh, người mẹ không biết tiếng Pháp quỳ xuống chắp tay vái lia lịa miệng van lậy :” Quan lớn làm phúc tha cho mẹ con chúng tôi…”. Tên lính hỏi dồn . Nó nắm lấy tóc người mẹ lôi dậy, gật gật đầu cười …”

    Và cái cảnh sau đây, thật chỉ có trong phim…kinh dị :

    “ Nhưng tên lính cười gằn , lật mặt người mẹ ngửa ra đằng sau. Cái cổ tròn căng thẳng, thoi thóp, gợn mấy đường gân xanh . Một bàn tay chới với nắm lấy cái bàn tay của đứa con trai chừng năm tuổi. Đứa con gái nhỏ mới hai tuổi giẫy đành đạch hờn với mẹ, hai tay bíu vào cái gấu quần lụa trắng :” Mợ ẵm con…mợ ẵm con…”. Tên lính tháo đôi hoa tai của người mẹ, thản nhiên đút vào túi. Mặt người đàn bà trắng như tờ giấy, thân oãi cong lên. Môi tên lính rung rung. Nó tuốt lưỡi lê, đâm gọn vào cái cổ, tay nắm tóc buông ra. Đầu người mẹ gieo mạnh xuống sàn gạch . Không một tiếng kêu. Lưỡi lê lại vung lên . Đứa con lớn đứng bên xác mẹ vừa khóc vừa đưa hai bàn tay nhỏ bé lên đỡ. Một ánh chớp loáng. Hai bàn tay vụng dại nắm chầm lấy cái lưỡi lê đâm mạnh, thọc sâu vào ngực nó…”

    Cái cảnh chém giết rợn tóc gáy như trên còn kéo dài cả hai trang nữa khiến người đọc căm thù giặc Pháp đâu chưa biết chỉ thấy khiếp hãi cho ngòi bút của nhà văn dường như cũng đang chấm vào máu mà viết nên những trang …kinh dị đến mức khó tin. Sau cùng, để “tố cáo tội ác giặc xâm lược ” sâu sắc hơn nữa, ông nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã mô tả chi li một cảnh còn kinh hoàng hơn dưới địa ngục mà có lẽ trong văn chương kim cổ chưa ai dám viết :

    “ Lưỡi lê đỏ máu của tên lính hung ác dứ dứ mấy cái rồi đâm phập vào cổ ằng ặc của người thanh niên. Nó xoay nghiêng cái cổ cho máu ồng ộc chảy xuống cái âu trầu. Mấy ông già run rẩy ngồi thụp xuống nhắm nghiền mắt. Một ông cụ râu tóc đều bạc xô một thằng Pháp đứng sau để chạy. Bên xác người mẹ, đứa con gái khóc bằn bặt không thành tiếng. Bỗng tên lính giết người kéo ông già râu bạc lại. Nó cầm cái âu đầy máu ngầu bọt kề vào miệng cứng đờ của ông cụ nói :” Mày húp đi. Mày húp trước đi. Rồi chúng mày thay nhau mà húp…”. Những tiếng cười của bọn giết người lại nổi lên trong cái gian nhà lênh láng máu…”

    Sự thực tội ác của giặc Pháp ở phố Yên Ninh vào tháng 10 năm 1945 dã man đến đâu rồi đây các nhà sử học sẽ làm rõ, riêng nhà văn Nguyễn Huy Tưởng thật đáng mặt bậc thầy về phương pháp sáng tác tự nhiên chủ nghĩa và xứng đáng được tặng một…cây bút vấy máu.

    Tất nhiên vào thời điểm đó vì “yêu cầu chính trị” phải kích động nhân dân Hà Nội căm thù giặc Pháp, những người làm công tác tuyên truyền có thể bịa đặt hoặc thổi phồng vụ tàn sát để trương biểu ngữ “ Trả thù cho 23 đồng bào bị giết ở ngõ Yên Ninh” trên ô tô chạy khắp Hà Nội, nhưng cả 15 năm đã qua đi, yêu cầu tuyên truyền bôi đen quân xâm lược không còn đặt ra nữa, nhà văn khi đặt bút viết tiểu thuyết cần phải trả lại sự thực cho các sự kiện. Tiếc thay Nguyễn Huy Tưởng không làm được điều đó, ông vẫn viết đầy hứng khởi theo kiểu…tuyên truyền y như một nhà báo của đảng đang hoạt động vào tháng 12 năm 1946 chứ không phải nhà văn viết tiểu thuyết “Sống mãi với Thủ đô” mười hai năm sau đó. Chính vì vậy những sự kiện ông đưa ra có vẻ thiếu xác thực vì người đọc đã có độ lùi 15 năm sau để nhìn nhận nó.

    Chẳng hạn câu chuyện ông kể về nỗi khao khát của đồng bào miền Nam được trốn ra Bắc sau khi thực dân Pháp trở lại chiếm đóng:

    Cái hồi vỡ mặt trận Ninh Hoà, quân Pháp sắp kéo đến. Đồng bào không ailại. Từng đoàn người lũ lượt tản cư, theo nhau băng rừng lội suối đi tìm miền tự do. Có một cụ già tám mươi tuổi cũng chống gậy đi. Mọi người bảo cụ :” Cụ đã già nua tuổi tác, nó dù có tàn ác đến đâu cũng không giết cụ làm gì. Cụ đừng đi cho vất vả . Đường đi nhọc nhằn, cụ sẽ chết dọc đường mất…”

    Cứ tưởng bà lão tám mươi gần kề miệng lỗ, lúc này ham muốn tột bậc chỉ là được chết ở quê nhà gần gũi với ông bà, tổ tiên, nào ngờ cụ lại hăng hái :

    “ Bà cụ nói: ” Cảm ơn các ông các bà tỏ lòng thương . Nhưng tôi không ham sống làm gì nữa. Chỉ muốn đến những nơi nào không có giặc Pháp , những nơi nào còn có ngọn cờ đỏ sao vàng…”

    Rõ khổ, đã “không ham sống làm gì” lại còn bỏ làng bỏ xóm để đi tìm … ” cờ đỏ sao vàng” thì quả thật thế gian này..chưa hề thấy. Hư cấu quá đà vậy , ông nhà văn vừa làm khổ “bà cụ” vừa làm khổ cả người đọc. Chưa hết , ông Nguyễn Huy Tưởng vẫn chưa tha cho “bà cụ”, ông bắt :

    Thế rồi bà cụ cứ đi. Sau mấy ngày bà cụ đi trong rừng, cụ đã kiệt sức quá. Cụ đã nằm chết ở bên cạnh đường mòn, lối lên đèo Cả. Cụ đã chết trên con đường đi tới tự do…Nhưng nét môi đã rụng hết răng như bằng lòng mình đã thở cái hơi cuối cùng ở trên một miền đất trong sạch , không có dấu chân quân Pháp…”

    Than ôi một bà cụ tám mươi, cái quà tặng nhân đạo nhất ông nhà văn cần mang tới cho cụ lúc đó là một bát cháo nóng cho đỡ đói lòng chứ đâu phải thứ “tự do” ở trên trời và lá cờ đỏ sao vàng ở tận đẩu tận đâu. Mà rồi lúc thở hơi cuối cùng bà lão tám mươi sao còn nghĩ được nơi bà nằm xuống không có dấu chân quân Pháp ? Lúc đó hoặc chẳng nghĩ gì hoặc nghĩ tới ông bà cha mẹ chớ ? Ông nhà văn tính ca ngợi mà hoá ra lại thành mỉa mai bà cụ . Thế rồi để biến cụ thành “tượng đài của lịch sử”, ông nhà văn “ đắp một nấm mồ chôn cụ, cài một mảnh giấy chẳng biết bây giờ có còn không , đề mấy dòng:

    ” Mồ một bà cụ đã đi tìm tự do. Đèo Cả ngày
    8-2-1946…”

    Câu chuyện “bà cụ đi tìm tự do” chẳng biết có được mấy phần trăm sự thực, chỉ tiếc cuốn truyện của ông nhà văn chưa tới được tay mấy ông trong Viện bảo tàng cách mạng tỉnh Trị Thiên-Huế, nếu không vào cái thời buổi “rút ruột công trình này” họ đã tìm tới tận nơi thực hiện ngay một dự án đúc tượng và xây mộ bà cụ để cho tỉnh có thêm một điểm tham quan du lịch trên đèo Cả.

    Để tăng thêm tính lãng mạn cách mạng cho những người tình nguyện ở lại Hà Nôi chiến đấu chống Pháp, ông tác giả đưa ra nhân vật Hiền, nữ sinh năm thứ nhất thành chung, là người yêu của Nhật Tân , một anh tự vệ thành luôn bày tỏ lòng căm thù giặc Pháp. Cô này đã đưa bố mẹ đi tản cư, ra tới bến sông, cô quăng cả xe đạp lẫn các bậc sinh thành để trốn về Hà Nội. Giữa khi phố xá hỗn loạn, xung quanh đầy hòn tên mũi đạn, cô nữ sinh này bỏ bố mẹ bơ vơ quay lại Hà Nội làm gì vậy ?

    “ Đứng trên sập, Hiền đang soi vào một cái gương lớn. Hiền là một cô gái mới lớn, mặt bàu bàu hơi to so với khổ người tầm thước.. Chị mặc chiếc áo nhung đỏ , quần xa tanh là , chân đi hài con bướm vàng rung rinh. Đầu Hiền vấn một chiếc khăn nhung lam ,cổ đeo kiềng vàng trơn . Chung quanh Hiền treo lủng lẳng chiếc áo nhung lam, chiếc măng tô màu tím sẫm và các áo len hoa mùa hoa dâu, màu vàng, màu đỏ….”

    Trời đất đang loạn lạc, cô Hiền trốn tản cư quay về nhà tưởng làm chuyện gì ghê gớm hoá ra để mặc … bộ đồ cưới mà nếu chiến tranh không xảy ra chỉ một tuần lễ nữa thôi cô sẽ mặc nó lên xe hoa. Vừa lúc đó anh chồng sắp cưới là Nhật Tân ghé đến. Chẳng hiểu sao một con người trí thức tiểu tư sản Hà Nội như anh mà lại hỏi vợ sắp cưới đang mặc đồ cô dâu một câu lãng xẹt :

    “ Hiền nghĩ thế nào mà lại thắng bộ cưới vào thế ? Buồn hay vui ?”

    Thế rồi lẽ ra trong khung cảnh đầy phập phồng của nỗi chết đang rình sẵn, trong căn nhà giưã khu phố vắng vẻ, đôi tình nhân phải ghì chặt nhau, che chở cho nhau, và đốt cháy nhau trong ngọn lửa của tình yêu trước lúc…tận thế. Đằng này không, ông nhà văn không mảy may cho hai con tim rung động và thổn thức, ngược lại ông chỉ cho hai cái miệng bàn chuyện…chính trị. Nàng thì thổn thức :

    Không có gì quý bằng tự do anh nhỉ. Em không thể nào quên được những ngày Quốc Khánh vừa qua, bày tiệc ra đường ăn uống. Em không thể nào quên được những ngày biểu tình hồi cách mạng, đoàn nữ sinh chúng em có hàng nghìn, đều để tóc thề, mặc toàn trắngg, xinh lắm, đi đến đâu người ta hoan hô đến đấy…”

    Còn chàng thì cao giọng :

    “ Đúng rồi. Đồng bào miền Nam khao khát ngoài này lắm mà họ gọi là đất tự do. Anh kể cho Hiền nghe cái hồi vỡ mặt trận ở Ninh Hoà, quân Pháp kéo đến…”

    Rồi cứ thế chàng thao thao bất tuyệt về tinh thần “không có gì quý hơn độc lập tự do “ của dân ta khiến cuộc gặp gỡ giữa hai kẻ đang yêu trong khung cảnh đầy bi tráng biến thành một cuộc “bày tỏ lập trường yêu nước” giữa hai con người đang căm thù giặc Pháp đến quên cả…yêu. Những trang viết thế này bộc lộ chất “tuyên huấn” đậm đặc gấp nhiều lần chất “nhà văn” mà Nguyễn Huy Tưởng được mệnh danh và trên hết, nó phơi bày một tài năng văn học không lấy gì làm xuất sắc.

    ( còn tiếp)

Trang 5 / 8 ĐầuĐầu ... 34567 ... Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-31-2014, 12:23 PM
  2. Châu Á "nghiện" thức ăn nhanh hay muốn sành điệu ?
    By duyanh in forum Văn Hóa-Xã Hội-Kinh Tế
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-14-2014, 01:03 PM
  3. Loài cá có "cánh bướm", "chân cua"
    By giahamdzui in forum Animals
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-01-2013, 03:55 AM
  4. Những loài cây "chờ cả đời người" mới ra hoa
    By giahamdzui in forum Chuyện Lạ Đó Đây
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 09-09-2013, 02:33 AM
  5. Đàn ông châu Á thua xa các "anh Tây" khoản việc nhà
    By sophienguyen in forum Xóm Nhỏ Thương Yêu
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 08-05-2013, 04:47 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •