Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Hạnh phúc không ở thiên đình
Ở ngay bên cạnh người mình đang yêu
Florian
Trang 1 / 4 123 ... Cuối Cuối
Results 1 to 10 of 35

Chủ Đề: Con Sóng Dữ - Phạm Thắng Vũ

  1. #1
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết

    Con Sóng Dữ - Phạm Thắng Vũ

    .
    Con Sóng Dữ
    Phạm Thắng Vũ

    Quyển Một

    Chương Một

    Chuyến Đi Không Thành.

    Tôi có mặt tại điểm hẹn ở trạm xe buýt gần rạp hát Opera vào lúc 8:45 sáng và theo lời dặn hễ thấy chiếc xe buýt nào mang số 225-434 ngừng gần thì bước lên ngay. Tôi chờ mà lòng thấp thỏm lo sợ công an có thể đang phục kích gần đâu đó. Giả vờ như khách bộ hành mệt mỏi ngồi nghỉ chân bên vệ đường đang xem báo mà thực sự trong tôi cầu mong chiếc xe buýt đến đúng giờ. 9 giờ rồi, đúng giờ hẹn mà xe vẫn chưa thấy. Lấy tờ báo trong túi sách ra rồi cúi xuống vờ đọc thì vừa lúc một xe buýt trờ đến, tôi vơ vội túi hành lý nhỏ nhưng hàng số bên hông xe không phải chiếc xe đón người. Vài người trên xe buýt bước xuống, xe chạy đi ngay. Tôi nhìn đồng hồ 9:10 rồi 9:20 và... 9:30 mà chưa thấy xe đâu. Lo lắng nhìn phía bên kia đường, bắt được vài tia mắt nhìn vội về tôi rồi quay đi. Tia mắt của những người ngồi gần gốc cây bên vệ đường và người nào cũng có một túi xách nhỏ. Tự nhiên tôi cảm thấy bất an vô cùng vì biết họ cũng đang chờ xe như tôi. Họ là bạn đồng hành với tôi qua thái độ và hành lý mang theo bên mình. 9:45 phút mà vẫn chưa thấy xe! Lo quá! Làm gì bây giờ đây? Phải quyết định ngay, tôi không thể chần chờ được. Nhớ lời dặn của chị Thu nếu xe trễ 30 phút thì bỏ về ngay vì chuyến đi coi như đã bị trục trặc. Nấn ná ở lại bị công an tó ráng chịu. Nhìn sang bên kia đường nơi có các bạn đồng hành của tôi, họ đã biến mất hết. Giờ chỉ còn có một mình tôi. Phải dọt ngay. Tôi đứng lên, định rảo bước thì tiếng xe thắng gấp gần bên. Chiếc xe mang biển số 225 434 tôi đang mong. Hấp tấp, tôi bước lên. Lơ xe ngó quanh quất chung quanh, miệng nói lớn:

    - Có ai nữa không, lên xe ngay.

    Lề đường vắng lặng, người lơ tiếp luôn:

    - Tới luôn, hết khách rồi bác tài.

    Tôi vội vàng ngồi ngay vào một ghế bên cửa sổ như thói quen khi đi xe buýt. Nhìn ra bên ngoài, tôi thấy bên kia đường, hai người trong số ngồi chờ xe lúc nãy đang chạy theo và cố sức ra dấu để mong xe ngừng lại. Xe bỏ mặc và chạy thẳng.

    Xe lần lượt ghé từng điểm hẹn để nhận khách rồi cứ thế chạy lần ra ngoại ô hướng về Thủ Đức và sau cùng trực chỉ Vũng Tàu. Đến thành phố biển Vũng Tàu vào giấc chiều và ngừng ở một bãi trống gần con đường mang tên Ba Cu. Tất cả khách trên xe được dặn nhỏ tạm thời tản ra, giả dạng khách du lịch đi lòng vòng đâu đó chơi nhưng phải quay về xe lúc 7:30 chiều.

    Nhập vào dòng người du lịch, tôi đi lòng vòng qua các con phố rồi ghé vào tiệm uống cà phê ngồi xem báo để hết thời gian. Thời gian nầy Vũng Tàu có khá đông khách ngoại quốc từ các nước CS Đông Âu hoặc từ Liên Xô đến. Họ là chuyên viên trong các công ty khoan dầu hoặc các công trình khác ở miền Nam và đổ về đây để nghỉ ngơi, để tắm biển...

    Quay về xe buýt lúc 7:10, tôi chọn một chỗ ngồi khá xa để phòng các bất trắc. Khi thấy khách kéo nhau lên xe buýt khá nhiều, tôi mới rời chỗ để lên xe. Trong xe chật cứng người, đám tổ chức đã nhét thêm khách cho chuyến hải hành tối nay. 7:30 chập choạng tối, xe buýt khởi hành nhưng chỉ chạy lòng vòng trong thành phố để chờ trời tối hẳn. Có lúc xe ngừng lại, tài xế và các lơ xe làm bộ sửa máy hoặc xem lại các bánh xe. Tôi ngồi im lặng, cầu mong mọi sự an lành.

    Trời tối hẳn, xe chạy nhắm hướng bãi trước và khi vừa ngừng sát cạnh bờ biển thì đột nhiên toàn bộ điện đường ngay khu vực bị cúp hẳn. Trong bóng tối đen, nhóm tổ chức hối thúc khách rời khỏi xe và chạy ngay xuống mép nước. Chạy đến mép nước, dưới ánh lờ mờ của ngọn đèn hải đăng xoay trên đỉnh núi, một ghe khá lớn đã có mặt sát bờ tự lúc nào. Nhiều người đang bước bì bõm để ra ghe.

    - Cá lớn đó... Lội ra ngay đi bà con, tiếng một người xì xào.

    Một đống dép, guốc của hành khách vất bỏ trên bãi cát chung với các túi xách. Kinh nghiệm của những lần vượt biên không thành từ trước, tôi không vất bỏ đôi dép mà cẩn thận lấy ra một sợi dây thủ sẵn trong túi. Luồn dây vào đôi dép rồi cột nó vào quai con đỉa của cái quần dài đang mặc, sau đó tôi bắt đầu lội từng bước ra ghe. Tối nay, không hiểu do một hiệu ứng gì mà mặt biến lấp lánh các vệt sáng màu xanh lá cây trông rất kỳ lạ. Các vệt sáng xanh phản chiếu những lọn sóng, thân người khi họ chuyển động gần bên ghe. Cố gắng hết sức để bước dần tới được cạnh ghe mà mực nước đã tới ngang cổ tôi. Sát bên ghe nhưng tôi không biết làm sao để có thể trèo lên được? Bất ngờ, tôi chạm phải một cạnh gỗ nằm ngang thân ghe và nhờ nó tôi có thể dựa vào để trèo lên. Một bàn tay của người đứng trên sàn đã nắm lấy tôi, kéo tôi lên rồi trong chớp mắt, người đó ấn tôi chui xuống ngay khoang hầm ghe. Trong khoang hầm chật cứng người. Chưa kịp nhìn rõ mọi thứ thì có thêm người nữa trèo xuống. Nước biển từ người họ văng tung toé vào thân, mặt tôi. Chợt máy ghe nổ to hơn và dường như nó chạy lùi rồi làm một vòng quay ra biển.

    Chuyến hải hành vượt biên đầu tiên trong đời tôi bắt đầu. Đó là 9 giờ tối của một ngày cuối tháng 7 năm 1984.

    Tôi ngồi yên, lưng dựa vào vách gỗ thân ghe, mắt nhắm nghiền vì mệt và vì có mở mắt cũng chẳng thấy chung quanh rồi thiếp đi lúc nào không hay. Ghe vẫn chạy êm ả nhưng chuyến đi thật không suôn sẻ. Không gặp ghe công an biên phòng và tàu hải tặc Thái Lan nhưng sau 4 ngày 5 đêm, các tài công đã quay mũi để trở về Việt Nam khi vừa lượn quanh một dàn khoan dầu Mã Lai Á. Khách trên ghe không ai biết hành động của đám tài công cho mãi hơn một ngày sau họ nói ra thì mọi người mới biết. Khách, hết hăm doạ rồi năn nỉ thậm chí cả lạy lục đám tài công để họ từ bỏ ý định điên rồ mà tiếp tục chuyến vượt biên nhưng vô vọng. Tôi biết bản thân phải chuẩn bị đối phó với những bất trắc sẽ xảy ra khi chiếc ghe cập vào một bờ bãi nào đó của nước Việt.

    Tài công và thợ máy của ghe gồm ba người. Hai anh em ruột và người kia là bạn của họ. Tất cả đều có bồ (bạn tình) nhưng đều vắng mặt trong chuyến đi. Sau 4 ngày 5 đêm hải hành, thấy những khách trên ghe có vợ, con đi theo làm họ nhớ đến các bạn tình. Đó là lý do khiến họ quyết định quay ghe trở về Việt Nam. Họ tính sẽ tắp ghe vào một bãi biển kín đáo nào đó để rồi từ chỗ trú ẩn tạm thời, họ đi về địa phương và đón bạn tình ra ghe xong sẽ khởi hành trở lại. Họ giải thích cho chúng tôi nghe về kế hoạch và cam đoan là sẽ không gặp khó khăn gì hết miễn là tất cả khách ém yên lặng dưới các khoang hầm trong thời gian dừng ghe. Một việc làm quá sức nguy hiểm và dại dột. Chúng tôi ai cũng biết nhưng không thể làm gì khác được vì họ khăng khăng không nghe. Hăm dọa sẽ đả thương nếu họ từ chối cũng không xong. Khách, ai cũng mệt mỏi vì say sóng nên đành thúc thủ trước các tài công khoẻ mạnh. Suy nghĩ đơn giản của các chàng ngư phủ ngang với trí não của người ít học. Lo lắng các tai ương sắp sửa ập xuống trên ghe mà lòng tôi vẫn thầm mong sẽ có sự may mắn xảy ra như ý muốn của ba tài công trẻ tuổi.

    Chúng tôi ngồi yên nhìn nhau buồn bã chung một nỗi lo những bất trắc sẽ giáng xuống đầu mình.

    Khi vừa thấy dạng đất liền, các tài công đã thúc hối mọi người trên sàn ghe phải chui ngay xuống các khoang hầm. Có người do say sóng quá sức nên không chịu chui xuống, viện lý do sức họ quá yếu nếu xuống khoang hầm lần nữa họ sẽ chết. Các tài công dùng vũ lực để xốc những người chống đối xuống lại khoang hầm. Nằm im trong khoang, chúng tôi phỏng đoán tình hình bên ngoài qua những lời tài công đối đáp. Có người lâm râm đọc kinh cầu nguyện. Thời gian trôi qua nặng nề. Tiếng máy vẫn nổ êm ả. Ghe đang ở trong vùng biển nào? Chỗ kín đáo tài công nói sẽ cho ghe tắp là đâu? Có thực an toàn không? Qua lời tài công trò chuyện, chúng tôi biết họ đã thấy hai chiếc ghe khác. Chúng tôi ai cũng lo lắng trong lòng. Hai ghe đó là ghe gì? Ghe đánh cá hay công an biên phòng? Đột nhiên tiếng súng vọng lại từ xa xa. Chết rồi. Tiếng người hét to cùng với tiếng khóc trong khoang hầm. Tài công tăng tốc cho ghe chạy thật nhanh. Tim tôi đập liên hồi, tay chân tự nhiên có lúc tê cóng. Tôi đang sợ. Thôi thế là chết. Đến được giàn khoan nước ngoài đã tưởng thoát để rồi quay về và bị rượt đuổi...

    - Giờ tụi mầy sáng mắt chưa. Thật một lũ ngu dốt. Tiếng ai đó nói khá to gần tôi.

    Cuộc rượt đuổi bên ngoài diễn biến ra sao chúng tôi không ai biết nhưng sau cùng, một tiếng sầm thật lớn như ghe đâm vào vật gì đó bên ngoài. Tài công bỏ ghe nhẩy ùm xuống nước cùng với tiếng khóc tiếng la của khách trong khoang hầm làm mọi người càng sợ hơn. Cùng với các người khác, tôi vội đu người nhẩy lên ngay sàn ghe thì mới biết trời bên ngoài đã nhá nhem tối. Ghe đang trong khúc rạch hẹp, vắng lặng và không một bóng người. Chúng tôi nhẩy ngay xuống nước để lội vào bờ theo dấu tài công. Vừa leo được lên bờ đất tai đã nghe tiếng súng nổ gần bên và bóng dáng của hai ghe lạ đang lướt sóng chạy đến. Chúng tôi cắm đầu bỏ chạy cả đám, thân ai nấy lo. Trời tối rất nhanh. Thêm tiếng súng nổ kèm với tiếng thét tiếng khóc.

    Tôi chạy... chạy mãi nhưng chỉ một lát sau, tôi đã mất dấu với người chạy đằng trước. Cảm giác đau chân mới nhớ mình còn đôi dép cột bên người nên tôi vội vã cởi nó ra và mang ngay vào chân. Đôi dép da có quai đeo sau gót và nhờ nó, tôi mới có thể bước những bước chân lần mò trong đêm tối lờ mờ. Tôi đi lầm lũi cho đến lúc không còn thấy rõ cảnh vật chung quanh nữa. Trời đã hoàn toàn tối đen. Ngồi xuống nghỉ ngơi, tôi ngước mắt lên bầu trời đầy sao và tự hỏi đây ở đâu và bây giờ mình phải làm gì? Không thoát khỏi đây đêm nay, chắc chắn ngày mai tôi cũng sẽ bị bắt.

    Ngồi trong chốc lát cảm thấy bớt mệt, tôi đứng lên ngó chung quanh và thấy thấp thoáng xa xa có ánh đèn dầu. Nhìn chăm chú, ánh đèn dầu thật nhưng không biết nơi đó là gì? Nhà dân lành hay cán bộ Việt Cộng? Đành nhắm hướng theo nó mà đi. Có đến gần mới biết. Ánh đèn lấp lánh trong đêm tối, tưởng gần nhưng thực sự rất xa. Tôi phải lần mò bước từng bước chân, tay vạch cây lá mà đi. Có lúc phải lội qua các vũng nước bất chấp gai cào và có khi bước hụt chân, lọt xuống các hố cạn. Tôi sợ ánh đèn dầu đó tắt mất và cả tiếng đồng hồ sau mới đến được. Nó chiếu ra từ căn nhà tranh nhỏ. Vừa đến trước cửa nhà, một con chó nhẩy xổ ra sủa inh ỏi làm tôi đứng yên không dám động đậy. Nghe tiếng chó, bóng một người từ trong nhà lách cửa bước ra nhìn. Thấy tôi đứng lù lù trong đêm tối, người đó hét lên một tiếng khá to rồi quay ngay vào bên trong. Tiếng hét của một phụ nữ. Chần chừ ít phút, tôi nói một hơi:

    - Chị à! tôi là người chứ không phải là ma quỷ, đừng sợ. Tôi lạc đường từ chiếu tới giờ cần chị giúp đỡ.

    Tôi lập lại vài lần như vậy, người phụ nữ mở hẳn cửa bước ra nhìn chăm chăm rồi nói hãy đứng yên chờ để chị ta đi gọi chồng về.

    Cầm cây đèn dầu bóng trứng vịt, người phụ nữ biến mất trong bóng đêm cùng với con chó, để mình tôi ngồi trước căn nhà nhỏ. Chờ khá lâu có tiếng chó sủa và bóng hai người trong ánh đèn bước đến bên tôi. Người chồng cầm cây đèn đến gần, nhìn rõ mặt tôi rồi hỏi đi đâu mà có mặt ở đây trong đêm tối? Ông ta chưa biết sự việc của chiếc ghe vượt biên? Thầm nghĩ thật nhanh, tôi nghĩ phải nói thật cho họ biết sự việc. Tôi liền kể tóm tắt câu chuyện. Nghe câu chuyện, hai vợ chồng chủ nhà nhìn nhau trong chốc lát và người chồng lắc đầu bảo tôi phải đi ra xa khỏi căn nhà họ. Đi đâu thì đi, họ không muốn liên lụy với người vượt biên rồi cả hai vợ chồng bước vào nhà và kéo ngay tấm phên che cửa.

    Tôi thất vọng nhìn căn nhà nhỏ bé trong bóng tối lờ mờ. Gặp người trong vùng nhưng không chịu giúp. Căn nhà lợp lá dừa nước như hầu hết nhà trong vùng sông nước miền Nam với một lu nước bên cạnh và cửa ra vào là miếng phên lớn khép hờ. Họ, một cặp vợ chồng trẻ ở riêng, tôi chắc vậy. Họ ở đây vậy có nhà người khác nữa không? Rồi vì quá mệt, tôi cứ ngồi lỳ tại chỗ và sự thực tôi chẳng biết đi đâu? Con chó vẫn đi quanh quẩn bên tôi. Có lúc nó sủa hoặc gầm gừ nho nhỏ. Tôi nằm lăn trên đất rồi ngủ. Ngủ ngon lành cho đến khi có người lay vào vai làm tôi thức dậy. Một ông già tay cầm cây đèn dầu ngồi trước mặt, nở nụ cười móm xọm với tôi. Hai vợ chồng đứng sau lưng ông già.

    - Tôi mời cậu vào nhà. Ông già nói.

    Theo chân ba người đi vào bên trong căn nhà, người vợ cho biết thấy tôi cứ ngồi lỳ rồi nằm ngủ tại chỗ nên cả hai đã đi gọi cha họ đến. Ông già nói tôi hãy đi nơi khác đi, nhà họ không thể giúp đỡ hay chứa chấp tôi được. Công an và du kích sẽ đi lùng sục ngay sáng mai để lùng bắt người trốn chạy trong chiếc ghe vượt biên mắc cạn.

    - Anh làm ơn đi nơi khác đi để cho tụi tui yên ổn làm ăn. Giúp anh rủi công an biết, chắc chắn gia đình sẽ bị liên lụy và có khi phải ở tù nữa. Nhà tui nghèo lắm, phải tìm đến phá đất lập nghiệp vùng sát biển như vầy anh biết rồi. Người chồng nói.

    - Muốn giúp cậu cũng không biết phải giúp như thế nào? Công an có tai mắt khắp nơi... Sớm muộn gì chúng cũng biết. Giúp cậu, nhà cửa tụi tui sẽ tan nát hết. Cậu thương thì đi nơi khác... Coi như gia đình tui và cậu chưa biết nhau, mong cậu thông cảm. Giọng ông lão khẩn khoản.

    Tôi im lặng nhìn chung quanh căn phòng. Chúng tôi ngồi ở một cái bàn gỗ nhỏ. Một tủ thờ cũ nằm sát bức vách ngay trước cái bàn. Trang thờ nhỏ nằm trên cao sát với mái lá có hình Phật Bà Quan Âm với bát hương với vài chân nhang đỏ. Hai ba hình mầu ca sĩ cắt từ các tấm lịch cũ dán trên bức vách. Sát bên vách nhà, một cái cái giường tre nhỏ với các vật dụng như cuốc, thuổng, đồ bắt cá... nằm lăn lóc dưới gầm. Một gia đình người miền Nam hiền lương thờ Phật. Không có dấu vết Việt Cộng như các tấm bảng đỏ ghi công ta thường thấy trong nhà cán bộ. Nhìn ông lão và hai vợ chồng chủ nhà, tôi nài xin hãy tìm cách nào đó giúp đỡ, đừng xua đuổi tôi.

    - Nếu bác và anh chị làm phước giúp tôi, Phật Bà Quan Âm sẽ phù hộ cho gia đình. Tôi vượt biên vì thuộc gia đình chế độ cũ VNCH. Sống không nổi trong chế độ mới, tôi vượt biên rồi chuyến đi không thành phải quay về. Tôi không muốn bị công an bắt chứ đâu phải thành phần bất hảo trộm cướp gì. Bác ơi! xin hãy giúp, không bao giờ gia đình con quên ơn việc bác và anh chị làm hôm nay.

    Cả ba người họ lắc đầu, nhất định không giúp còn tôi cứ ngồi lỳ một chỗ. Thấy không xong, họ kéo nhau ra ngoài sân, bỏ tôi ngồi một mình. Một lúc sau, cả ba quay vào và dặn tôi phải làm theo những gì họ sắp đặt. Nếu tôi trái lời để xẩy ra chuyện, tất cả đều chết với công an. Họ lăn một lu sành khá lớn từ bên ngoài và chuyển nó vào trong căn buồng của đôi vợ chồng trẻ. Họ ém tôi ngồi trong cái lu dưới lớp lưới, quần áo và các vật dụng lặt vặt trong nhà suốt cả ngày hôm sau và bốn ngày kế tiếp. Chỉ đêm khuya tôi mới được ra ngoài để ăn uống, rửa ráy qua loa, đi tiêu tiểu và thư giãn tay chân trong chốc lát. Sau đó phải vào ngồi lại trong lu sành.

    Trong lu sành ban ngày, tôi đã thót người khi nghe các mẩu đối đáp của dân trong vùng, du kích hoặc công an... ghé vào nhà nói chuyện với nhau về chiếc ghe vượt biên. Công an, bộ đội biên phòng và du kích đã bắt được toàn bộ người trên ghe kể cả các tài công cùng thợ máy. Tôi hồi tưởng lại các chuyện cũ đời mình. Đã nhiều lần vượt biên mà chưa lần nào tôi thoát ra khỏi nước. Đêm ngày 29 rạng 30 tháng 4 năm 1975 trong thủ đô Sài Gòn, mắt tôi đã tuyệt vọng nhìn máy bay trực thăng UH chở người từ các cao ốc bay di tản ra hướng biển. Người ngồi trên các trực thăng đó thật có phước. Còn tôi! Tôi làm sao để vào được các cao ốc như họ? Ra bến tàu nhưng cũng không vào được. Hàng rào kẽm gai cao vút và những họng súng của lính gác chỉa thẳng ra ngoài đã cản chân tôi cùng rất đông người đang có mặt tại đó. Khi trời quá trưa, tôi quay về nhà lúc bộ đội Việt Cộng làm chủ thành phố.

    Cuối năm đó, gia đình tôi đi vùng kinh tế mới ở Trị An thuộc tỉnh Đồng Nai. Chặt cây, phá rừng, cuốc đất dọn rẫy đến chai cả tay rồi những cơn sốt rét vật tôi quằn quại trên giường. Cái lạnh của cơn sốt dù trùm cả đống mền dầy lên người mà hai hàm răng vẫn đánh vào nhau lập cập. Cái lạnh thoát ra từ tận trong xương trong tủy. Bỏ rừng về lại thành phố cũng chẳng yên. Những ngày phải sống trốn tránh vì đã cố tình vắng mặt trong buổi tuyển quân nghĩa vụ quân sự tại văn phòng phường đội. Tôi không muốn chết oan ức hay bị tàn phế vô nghĩa tại chiến trường Kampuchia nên đã vượt biên. Những lúc hồi hộp nằm ém mình trong nhà dân để chờ ghe ta xi đón ra cá lớn để rồi phải quay về chờ chuyến khác. Giờ đây, thu mình trong lu sành, lúc nào tôi cũng sợ khi có tiếng chân người lại gần.

    Ém trong lu sành, tôi biết đã quá may mắn khi vô tình chạy đến nhà cặp vợ chồng trẻ (tên anh chị Tư) qua các câu chuyện họ đối đáp, đùa giỡn... lộ rõ là dân quê miền Nam hiền lương chất phác. Có đêm, tôi còn nghe tiếng ông lão niệm kinh Phật nữa. Hai cha con họ đã lấy quần áo cho tôi thay, múc nước mang khăn cho tôi rửa ráy người qua quýt hoặc ép tôi ăn thêm cơm nóng hổi. Mặt ba người đầy vẻ lo lắng cho tôi tưởng như đang săn sóc người thân thiết ruột thịt của họ.

    Bác Ba, tên ông lão, kể cho tôi biết những năm trước đây ông sống ở Bạc Liêu, làm việc trong một nhà máy xay lúa của Hoa kiều. Khi chủ nhân ghi danh xuất cảnh ra nước ngoài, nhà máy bị chính quyền địa phương tịch thu được một thời gian thì phải đóng cửa vì cán bộ Việt Cộng điều hành kém cỏi. Không có việc làm, ông theo bạn bè vào đây khai đất làm các vuông nuôi tôm.

    - Tui năm nay sáu mươi hai tuổi rồi cậu. Lập gia đình trễ, chỉ có ba đứa con. Đứa lớn là chị gái thằng Tư hiện đang sống với chồng con ngoài chợ cầu Cà Mau. Vợ tui sống chung với chúng. Bả buôn bán lặt vặt ở chợ kiếm thêm ít đồng. Cha con tui cũng thay nhau chạy ghe chở khách kiếm tiền ở ngoải... khi nào có việc thì vào đây như canh thay con nước. Thỉnh thoảng, tui đón vợ tôi vào sống ít ngày với vợ chồng thằng Tư cho vui. Đứa kế cũng gái... vắn số đã chết lúc còn nhỏ. Coi như chỉ còn có hai đứa. Thằng Tư, cậu gọi bằng Út cũng được, mới lo vợ cho nó hơn năm nay hà. Tối hôm cậu đến nhà, lúc đó tui và nó đang đi canh nước cho vào các vuông tôm. Cha con tui tự phá đất làm lấy nên vuông không được rộng mà cũng khá xa nhà. Đất chung quanh đây, cậu thấy... tuy còn bỏ hoang chứ có chủ hết rồi. Bác Ba bộc bạch.

    Hỏi ông lão, tôi mới biết ghe đã chạy vào vùng Cái Đôi của tỉnh Cà Mau. Bác Ba và hai vợ chồng anh Tư cũng thắc mắc hỏi tôi tại sao ghe vượt biên lại bị mắc cạn tuốt trong vùng Cái Đôi vì từ đây ra tới cửa vàm ngoài biển cách cả cây số ngàn. Nếu ra được ngoài vàm thì ghe tiếp với biển lớn. Cứ vậy mà chạy, du kích hay công an biên phòng sao mà bắt được. Tôi kể cho ba người biết về nguyên do ghe bị mắc cạn, bác Ba cho biết:

    - Thảo nào tụi thằng Sáu thằng Mai du kích nói ghe vượt biên bị bộ đội biên phòng đuổi bắt đâu tuốt ngoài biển vào tới đây mắc kẹt. Cậu kể ra tui mới biết, mấy thằng tài công sao mà ngu quá mạng vậy. Đi đã khó... quay trở về còn khó gấp bội. Sao tụi nó lại làm vậy để hại thân còn gây khổ thêm bao nhiêu người nữa?.

    Bác Ba cho tôi biết vùng Cái Đôi có khá nhiều gia đình cách mạng đến lập nghiệp. Phá đất làm vuông nuôi tôm, cất nhà ở cũng không xa trong vùng. Nghe chuyện, tôi biết quá sức may mắn vì gặp được nhà họ. Rủi gõ cửa đúng nhà dân chế độ mới, chắc chắn tôi đã nằm trong trại giam của bọn Việt Cộng.

    Sau bốn ngày đêm trốn tránh, bác Ba cho biết tình hình giờ thật yên ổn. Công an biên phòng đã giải giao người chúng bắt được ra trại giam huyện Cái Nước và bác nói sẽ thu xếp đưa tôi đi sớm. Nửa khuya về sáng ngày thứ năm, cả nhà thức dậy thật sớm. Ăn uống xong xuôi, hai cha con bác Ba xem xét thật kỹ lưỡng chung quanh căn nhà rồi dắt tôi xuống chiếc ghe nhỏ gắn máy đuôi tôm Kohler 4 nổ máy chờ sẵn. Ghe từ từ chạy một lúc lâu sau, bác Ba cho biết đã ra khỏi vùng Cái Đôi.

    - Từ lúc này an toàn vì công an du kích chỉ để ý chận xét những ghe từ Cà Mau chạy ra vàm thôi. Ghe mình từ vàm chạy vào chúng không thèm ngó. Anh Út nói.

    Tôi mặc lại bộ quần áo cũ, ngồi im trong ghe ngắm nhìn cảnh vật hai bên bờ vẫn còn mờ tối. Trời sáng dần, ghe vẫn êm ả chạy trong vùng sông nước miền quê tiếp giáp với biển yên ả. Những rặng cây chạy dài típ tắp hai bên bờ rạch. Thỉnh thoảng mới thấy vài mái ngói hoặc nếp nhà tranh xa xa. Xế trưa, anh Út tắp ghe vào một bóng mát kín đáo gần sát bờ để ăn uống qua loa và nghỉ ngơi chốc lát rồi sau đó lại chạy tiếp. Trời chạng vạng tối, ghe đến được chợ cầu Cà Mau vừa lúc phố xá trên bờ đã rực ánh đèn.

    - Đến đây bình an hoàn toàn. Anh Tư nói nhỏ.

    Tôi lấy trong mình ra chiếc khâu vàng 2 chỉ còn lại và nhờ sự chỉ dẫn của bác Ba, tôi đã đến một hiệu kim hoàn bán 5 phân vàng của chiếc nhẫn. Có tiền, tôi mời hai cha con bác Ba ăn hủ tiếu. Sau đó, tôi năn nỉ hai ân nhân vui lòng nhận 1 chỉ 5 phân vàng và số tiền mặt còn lại. Tôi chỉ giữ ít tiền lẻ đủ để đón xe về Sài gòn trong ngày. Biết đến bao giờ mới có dịp gặp lại hai người. Không có họ giúp, làm sao tôi chắp cánh chạy thoát được. Nguyên ngày trời ngồi trong lòng ghe nhỏ, tôi thấy hai cha con bác Ba chạy quành phải, quẹo trái qua cả trăm con kênh con rạch mới đến được chợ cầu Cà Mau.

    Về nhà sau gần nửa tháng vắng mặt, gia đình tôi mừng vô kể. Cả nhà đã biết chuyến đi không thành và đang dò hỏi trại giam để tìm cách thăm nuôi tôi. Ai cũng nghĩ tôi đã bị bắt. Không thể ngờ lại về được đến nhà an toàn. Chuyến vượt biên bất thành đó chỉ duy nhất một mình tôi thoát khỏi tay bọn công an, chị Thu người trong tổ chức cho biết.

    Tới bây giờ, mỗi lần nhớ lại chuyện vượt biên năm xưa, tôi vẫn không quên khuôn mặt của bác Ba và vợ chồng anh chị Tư. Nhớ để sau đó là một nỗi buồn vì chưa lần nào tôi tìm đến vùng Cái Đôi Vàm thăm hỏi tin tức các ân nhân. Tuy nghèo vật chất nhưng họ rất giàu lòng bác ái, thương người.

    Chương Hai
    Trở Về Từ Hoang Đảo.

    Khi về nhà an toàn, tôi đã tìm được các đường dây vượt biên khác. Có chuyến phải đi ra tuốt miền Trung và thậm chí tận miền Bắc nữa nhưng trong các lần đó đều không thành và đành phải về không. Có chuyến, tôi bị công an bắt khi vừa đặt chân xuống bến xe địa phương và phải vào tù, đi lao động cả gần năm trời mới được thả. Lần lữa 4, 5 năm trời kẹt lại Việt Nam làm tôi rất thất vọng nghĩ mình chắc không ra ngoại quốc được. Tôi tính, không vượt biên nữa khi bỏ tiền đi học lái xe tải và hùn vốn với bà con trong họ mua một chiếc xe chở hàng để sống. Vừa xong khóa học lái xe tải thì Dũng, một bạn thân đến nhà rủ tôi làm một chuyến vượt biên chung. Kỳ lạ thay, vừa nghe Dũng nói đã tìm ra chuyến đi, tôi gật đầu liền.

    Khởi hành từ xa cảng miền Tây lúc 5 giờ sáng, tôi và Dũng đi xe tốc hành đến được bến Cần Thơ rồi từ đây chúng tôi đi tiếp đến thành phố Long Xuyên thì được sắp xếp vào trú tạm trong căn phòng nhỏ của một khách sạn tư nhân gần khu thị tứ thành phố để chờ người trong nhóm tổ chức sẽ đón đi tiếp. Có thể sáng hoặc trưa chiều ngày mai. Buổi tối, sau khi ăn uống rồi tắm rửa thay quần áo sạch sẽ, tôi và Dũng thả bộ dạo mát trên các con đường trong thành phố.

    Long Xuyên là một trong các thành phố lớn của miền Nam Việt Nam. Phố xá buôn bán khá sầm uất như vài con phố ở Sài Gòn. Chúng tôi ngồi nghỉ ở ghế đá trong một công viên nhỏ, ngắm nhìn thiên hạ chạy xe trên đường hoặc đang dạo bước trong công viên. Cũng không dám ngồi lâu, chúng tôi lại lang thang đi lòng vòng đây đó. Tôi ghé vào một hiệu sách bên đường mua quyển Sư Thúc Hòa Hảo (tác giả Nguyên Hùng viết về nhân vật Mười Trí và các tâng bốc địch vận của đảng Cộng Sản Việt Nam về y với tôn giáo Hoà Hảo tại miền Nam VNCH trước đây), mang về phòng nằm đọc để giết thì giờ. Suốt đêm, thỉnh thoảng có tiếng gõ cửa phòng kêu chúng tôi mở cửa. Những lần đầu rất sợ vì nghĩ có chuyện không may sẽ xảy ra. Nhưng không, chỉ là các cô gái trẻ đẹp, hành nghề bằng vốn tự có, đang tìm khách vui vẻ trong chốc lát hoặc qua đêm. Còn lòng dạ nào để chúng tôi nghĩ đến những lời mời mọc của họ!

    Theo lời dặn, sáng hôm sau chúng tôi tìm đến quán ăn Hào Hoa lúc 8 giờ sáng ăn điểm tâm, uống cà phê lai rai để chờ. Nhìn vài khách ngồi ở bàn gần bên, tôi thót giật người vì thấy một khuôn mặt quen biết là thằng Minh con bà Sáu bán cà phê trong khu phố gần nhà tôi. Minh nở nụ cười và dù kín đáo nháy mắt với tôi, tôi vẫn chưa hiểu tại sao nó có mặt ở đây? Không lẽ nó cũng trong chuyến đi? Là con trai mới lớn trong gia đình cán bộ, cha mẹ Minh hoạt động nằm vùng cho CS từ trước ngày 30-4-1975. Gia đình Minh là dân giàu trong phường. Thằng Minh tối ngày ăn no, đi chơi, nhậu nhẹt phá làng xóm đâu chịu học hành gì. Tuy vậy, Minh thường nói chuyện vui vẻ với tôi mỗi khi tới ngồi uống cà phê nơi quán nhà nó. Minh xuống đây để cùng vượt biên hay chỉ một chuyến đi chơi và tình cờ gặp tôi? Tôi kín đáo liếc nhìn hai người lạ mặt ngồi cạnh nó tuổi cũng ngang lứa mà không biết họ là ai? Chưa biết thì cứ ngồi tỉnh bơ xem sao dù trong lòng tôi cũng chút lo lắng. Dũng hỏi nhỏ:

    - Chắc cùng phe mình hả?.

    Tôi im lặng, không trả lời Dũng. Chợt bóng anh Thành (người trong nhóm tổ chức) đi ngang qua trước cửa quán, chúng tôi vội vã trả tiền và vọt theo sau liền. Đi được một quãng ngắn đường, có chiếc xe lôi từ đâu chạy lại ngừng gần bên. Anh Thành nhảy lên xe và sau đó là tôi, Dũng và cả bọn ba người của thằng Minh. Vậy đúng thằng Minh đi chung chuyến này với tôi. Nó và tôi nhìn nhau, khẽ gật đầu, mỉm cười hiểu ý.

    Xe lôi chạy qua xứ đạo Thiên Chúa Bò Ót rồi chạy thẳng đến ngã ba Lộ Tẻ thì ngừng hẳn. Từ đây, một xe Van 16 chỗ ngồi chở chúng tôi chạy tuốt xuống bến xe Rạch Sỏi để rồi sau đó chuyển chúng tôi sang một xe bus khá lớn. Anh Thành cho biết xe sẽ đến bãi hẹn nằm đâu đó trong vùng bờ biển Hà Tiên.

    Trời chiều nhá nhem rồi tối hẳn. Hàng cây hai bên đường đen sẫm. Đường từ Rạch Sỏi chạy ra Hà Tiên thật xấu. Xe liên tục tránh các ổ gà lớn trên mặt đường nhựa trước xuống cấp thê thảm. Do chiến tranh và đã lâu mặt đường không được tu bổ. Ngồi trên xe, tôi cứ chao đảo vì đường hư hỏng quá. Xe chạy thật lâu và đã có người thò đầu ra bên ngoài cửa xe để ói mửa. Tôi cảm thấy bắt đầu mệt. Thình lình, xe thắng gấp sau một tiếng nổ nhỏ. Bánh xe xẹp rồi. Tài xế lẫn lơ xe vội vàng đội xe lên, tháo ngay cái bánh xe xẹp thay. Nhưng trên xe không có bánh sơ cua nào hết. Giờ phải làm sao đây?

    - Phải tìm chỗ vá ngay. Tổ chức chuyến đi mà làm ăn như vậy... chỉ có chết, người nào đó trên xe lầm bầm.

    Đường thật vắng vẻ, tài xế và lơ tính chạy kiếm nhà dân để hỏi thăm vừa lúc gặp người chạy xe đạp đi tới. Có tiệm sửa xe cách đây không xa nhưng khuya quá, họ còn mở cửa không?

    Chúng tôi phải ngồi yên gần hai tiếng đồng hồ để chờ lơ xe lăn cái bánh đi vá rồi về ráp trở lại vào xe. Xe chạy qua nhà máy xi măng Kiên Lương rồi đến Vàm Rầy. Tài xế cho xe chạy rề rề chờ đợi rồi xe ngừng bên cạnh đường vì chẳng thấy người trong tổ chức đón như dự liệu. Trời bắt đầu sáng dần, làm gì bây giờ? Ai nấy tự hỏi mình. Có tiếng xe Honda chạy đến và rồi chúng tôi được lệnh phải rửa mặt cho sạch sẽ, thay quần áo khác làm bộ đi du lịch Hà Tiên. Vụ xe xẹp bánh hồi khuya nên chuyến đi đã tạm thời hủy bỏ vì đến điểm đón quá trễ. Cứ làm một chuyến đi du lịch Hà Tiên, thăm lăng Mạc Cửu, Thạch Động hoặc ghé Mũi Nai đi, chờ đám tổ chức liên lạc trở lại xem sao!

    Chúng tôi đi qua bến phà nổi Tô Châu, ngắm nhìn dãy ghe đánh cá đậu san sát bên nhau trong dòng nước biển xanh mầu lá cây, thầm nghĩ không biết ghe mình đi có lớn có vững chắc như những chiếc ghe ở đây? Qua bến phà nổi, chúng tôi lên xe lôi chạy đến Thạch Động rồi ra Mũi Nai hóng mát. Do xe đến điểm trễ giờ nên tôi mới có dịp biết đến Thạch Động và bãi biển Mũi Nai Hà Tiên. Hà Tiên là nơi cư trú của vợ chồng nhà thơ Đông Hồ-Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội và cũng là quê quán của danh sĩ Mạc Thiên Tích ngày xưa. Tôi đang là khách du ghé thăm miền ước mơ trong bài hát Hà Tiên của nhạc sĩ Lê Dinh đây. Một thành phố nhỏ nhưng thật đẹp dù ở nơi tận cùng đất nước Việt.

    Tôi và Dũng làm quen được với Ánh Phương và Mỹ An, hai cô gái trẻ trong chuyến đi Mũi Nai. Ánh Phương 26 tuổi còn Mỹ An mới 24. Cả hai đều độc thân và cũng mới làm bạn với nhau từ lúc lên xe bus. Tôi cặp kè với Ánh Phương còn Dũng với Mỹ An như những cặp nhân tình của chuyến du lịch. Chúng tôi đi ăn uống lai rai rồi đi lòng vòng trong những con phố nhỏ của Hà Tiên. Có lúc ngồi bên nhau, làm vẻ tâm tình trong các quán cà phê để chờ 7 giờ tối sẽ về lại xe bus.

    Lúc ở Mũi Nai, tôi thấy thằng Minh và hai người bạn nó ngồi nhậu trong một quán sát bờ biển. Minh đã mời tôi ngồi vào bàn, đưa ly bia cho tôi rồi nói:

    - Uống lai rai với tụi em cho vui anh Vũ, em đâu dè có anh trong chuyến này luôn. Anh em mình cùng bên nhau nghe anh.

    Tôi cười, gật đầu đồng tình rồi từ chối:

    - Anh không uống bia được Minh à. Uống vô chút xíu say liền, em nên nhậu sương sương thôi... còn giữ sức nữa đó. Tôi nhắn nhủ với cả bọn.

    - Anh Vũ biết không, nhà em ở Quận 10 Sài Gòn. Thầy U em người Bắc đạo Phật di cư từ 1954. Anh trai em đang sống ở Úc, em đi hôm nay lần thứ ba đó anh, các lần trước đi không được lại phải quay về. May không bị bắt. Anh trai em chỉ đi có một chuyến lại thoát. Ánh Phương nói với tôi.

    Nhìn khuôn mặt Ánh Phương. Cô gái này đẹp thật, da lại trắng hồng, lời ăn tiếng nói ra vẻ con nhà hiền lành. Bản thân tôi đã ba mươi tuổi mà vẫn chưa lập gia đình. Nếu Ánh Phương là bạn tình của mình thì hay biết bao! Tôi lại nghĩ nếu mình có người yêu như Ánh Phương, liệu có dám cho nàng đi vượt biên không?

    Khi chúng tôi quay trở về bến xe thì nhóm tổ chức đã thay xe cũ bằng một xe bus khác lớn hơn. Họ đã nhét thêm cả chục người khách mới ngồi sẵn trên xe từ lúc nào. Tôi và Ánh Phương chọn chỗ ngồi nơi dãy hai ghế sát cạnh cửa lên xuống ở phía sau xe. Lần lượt từng người khách quay về bước lên xe. Xe chật kín, hết ghế trống mà khách còn đứng ngồi lổn nhổn ở lối đi giữa xe. Tôi nhẩm tính trong đầu, với 10 hàng ghế mà mỗi hàng 5 người rồi thêm 4 ghế phía trước gần tài xế và 6 ghế cuối, ít nhất phải có 60 khách vượt biên trong chuyến đi đêm nay. Cá lớn đón chúng tôi dài rộng cỡ nào? Có bằng chiếc ghe năm xưa tôi đi hay nó nhỏ hơn? Bây giờ đã gần 8 giờ tối, xe bus bắt đầu lăn bánh ra khỏi bến và chạy về hướng Rạch Sỏi.

    Tôi nhìn ra hai vệ đường, đèn nhà dân hắt ra soi rõ những cây dừa mọc sát mặt lộ. Đây đó vài trẻ em đùa giỡn trước cửa nhà. Một tiệm cà phê lác đác người ngồi ở các bàn trống. Qua hết dãy nhà, xe đi vào vùng cây cối bãi bồi gần biển. Cảnh vật hiện lờ mờ như là bụi cây đước, một bãi bùn hay là bờ đất tiếp giáp với lề đường. Xe chạy đều đều khá lâu thì rẽ trái vào một con đường nhỏ rồi chạy thêm một đoạn ngắn nữa thì tắp vào một khu vườn. Xe tắt máy dừng hẳn. Cây trong vườn xum xuê như rừng nhưng quá tối, tôi không biết loại cây gì.

    - Chúng ta phải chờ ở đây. Yêu cầu mọi người ngồi yên. Tiếng người lơ nói khá to trong xe.

    Mọi người giữ im lặng. Thỉnh thoảng có ánh đỏ chớp lên từ đầu một điếu thuốc lá của ai đó. Tôi bảo Ánh Phương:

    - Em có mệt thì nhắm mắt ngủ đi, họ nói thế thì chắc mình phải chờ khá lâu.

    Thực sự thì cơn buồn ngủ đã làm mắt tôi nhíu lại. Tôi và Ánh Phương ngủ ngồi trên ghế xe cả tiếng đồng hồ thì choàng tỉnh khi nghe tiếng xe Honda từ xa vọng lại. Ánh đèn hai chiếc Honda đến gần. Cả thẩy có 4 người tất cả. Một người trong bọn mặc sắc phục công an. Ba người còn lại, có kẻ tay vung vẩy cây súng AK 47. Tôi nói khẽ với Ánh Phương:

    - Công an, chết mồ rồi Phương ơi!

    Tim tôi đập thình thịch. Ánh Phươnh lộ vẻ thất sắc, tay nàng nắm lấy tay tôi run run. Chúng tôi đã vào rọ của công an? Bất chợt cánh cửa xe bật mở, tài xế và hai người lơ nhẩy xuống cùng nhập vào bọn bốn người mới đến. Tôi nghe rõ tiếng của anh Thành. Cả bọn ngồi bàn bạc trong chốc lát rồi một xe Honda chạy đi trước, kế tiếp chiếc xe bus. Ở một khoảng khá xa, chiếc Honda còn lại chạy bọc sau cùng .

    Bây giờ tôi và Ánh Phương cũng như khách trên xe buýt mới hoàn hồn bớt lo. Chuyến đi có công an-du kích bán bãi như lời nhóm tổ chức đã nói. Một làn gió mát thổi vào mặt làm tinh thần tôi phấn chấn vì nghĩ đến sự an toàn tối nay. Ánh Phương nói:

    - Ban nãy em sợ muốn chết đó anh Vũ. Rủi họ không cùng phe mình, không biết em sẽ làm sao nữa, rồi nàng cười vui vẻ.

    Xe tiếp tục chạy ngược về hướng Hà Tiên và sau cùng ngừng lại sát cạnh bên vệ đường. Chỗ nầy vắng vẻ không một bóng người qua lại. Chúng tôi được lệnh xuống xe ngay lập tức và nối đuôi nhau theo ánh đèn pin của một người dẫn đường đi phía trước. Cả bọn yên lặng, đi êm ả trên các bờ đất trong đêm tối tĩnh mịch. " Đây là Vàm Rầy ", tiếng người thì thào trong bóng tối. Khách vừa xuống hết, xe bus liền biến mất trong bóng đêm.

    Chúng tôi rồng rắn đi với nhau cho đến cuối bờ đất thì chân bắt đầu đặt xuống một bãi sình. Tôi và Ánh Phương bước lõm bõm gần bên nhau chung với các người khác. Thêm một ánh đèn pin nữa lúc chớp lúc tắt xuất hiện ở phía trước xa xa. Chúng tôi lần từng bước về hướng ánh đèn pin. Đến nơi, đoàn người được phân tán ra thành từng nhóm nhỏ, ngồi nấp ngay sát cạnh những đám cây mọc trong vùng đất sình. Dũng, Mỹ An cùng tụi thằng Minh bây giờ đang ở đâu trong các bụi cây nơi mép biển?

    Trăng khuya bắt đầu mọc, soi ánh sáng vàng vọt leo lét trên toàn vùng. Nước triều đang từ từ dâng lên. Đứng ở trên mặt đường lộ bây giờ, không ai ngờ ngay dưới chân những bụi cây sát biển này đang có cả một nhóm người ẩn nấp để chờ vượt biên. Nước triều dâng mỗi lúc một cao hơn, chúng tôi vẫn ngồi yên trong nước biển. Đến lúc chúng tôi phải đứng lố nhố vì không thể ngồi được nữa thì một cái xuồng ba lá nhỏ xuất hiện. Ghe chèo nhè nhẹ đến gần chúng tôi. Tiếng đàn ông ngồi trên xuồng hối thúc chúng tôi lội ra ngay. Tôi nắm tay Ánh Phương cùng bước lội từng bước về phía cái xuồng.

    - Đừng leo lên, chỉ bỏ túi xách thôi. Anh chị bám theo xuồng này để ra ghe, tiếng đàn ông trên xuồng nói.

    Tôi vất túi xách lên xuồng, tay bám và chân thì bước theo từng bước một. Ánh vàng vọt của trăng non, tôi thấy thấp thoáng một bóng một chiếc ghe nhỏ xa xa. Nước bắt đầu đến ngực rồi cổ. Chân tôi có lúc bước hụt xuống một hố khá sâu. May là trồi lên kịp. Ánh Phương tay bám chặt vào vai tôi. Sau cùng cả hai đến được sát bên ghe. Người đứng trên ghe cúi xuống nắm tay từng người dưới nước kéo lên. Đến lượt Ánh Phương, nàng cố gắng hết sức cũng không thể đưa tay tới được người trên ghe. Tôi phải giúp nàng bằng cách nhắm mắt, hụp hẳn xuống dưới nước và ôm thắt lưng nàng đẩy phụ lên. Lần đầu tiên tôi chạm vào thân thể Ánh Phương. Xong lượt nàng, đến lượt tôi lên được mặt sàn ghe. Tôi nhìn thật kỹ thân ghe, đúng nó nhỏ hơn chiếc ghe tôi vượt biên trong lần trước. Một gã đàn ông khác đã ấn tôi nhẩy xuống khoang trống. Không lẽ cá lớn đây thật sao? Tôi phân vân tự hỏi. Người mỗi lúc được nhét thêm xuống khoang chiếc ghe. Hơi nóng từ thân người hoà với mùi dầu gió xanh toả ra nồng nặc. Tuy trông không rõ mặt nhau trong bóng tối nhưng ai cũng biết khoang ghe đã chật cứng người. Ai ngồi đâu yên đó, không thể cục cựa được. Ánh đèn pin chợt loé lên từ cửa khoang và khuôn mặt của anh Thành hiện ra. Anh hỏi tên từng người khách cùng mật mã an toàn. Tôi nghe tiếng của Dũng, Mỹ An rồi Minh và Ánh Phương trong khoang ghe. Khi anh Thành vừa xong lượt tôi, tiếng một người vặn hỏi:

    - Ê! Thành. Ghe nầy ghe taxi hay cá lớn vậy... Người đầy nhóc cả rồi?

    - Taxi thôi. Nhỏ xíu vầy sao mà đánh chuyến được. Yên tâm đi đại huynh. Cá lớn chờ ngoài khơi kìa. Anh Thành quả quyết rồi sau khi lấy mật mã xong xuôi, anh chúc mọi người thành công trong chuyến đánh đêm nay trước khi theo xuồng ba lá để quay vào bờ. Đêm đó, nửa khuya về sáng của một ngày cuối tháng 5-1990.

    Ghe nổ máy rồi tấm nắp cửa khoang đã được đậy lại và qua chuyển động của thân ghe với làn nước bên ngoài, tôi biết là ghe đã khởi hành. Trong khoang hầm tối đen, tiếng người niệm Phật lầm thầm chung với tiếng người khác thở dồn dập. Chợt tiếng người đàn ông khi nãy đã vặn hỏi anh Thành vang lên:

    - Họ đánh bằng ghe này thật rồi bà con ơi, ai không tin cứ chờ thì biết... Taxi gì mà tập trung hết tất cả khách vào đây.

    Ông ta nói nhưng không một người nào lên tiếng trả lời. Tiếng máy ghe cứ chạy đều đều êm ả như vậy và tôi ngủ thiếp đi không biết bao lâu thì tỉnh dậy. Bây giờ trời đã sáng. Có người nào đó hỏi giờ thì được người khác trả lời là 8 giờ 15 phút sáng rồi. Dù ánh sáng ban ngày hắt từ khe hở cửa khoang và từ phía máy ghe nhưng tôi vẫn không thấy Ánh Phương, Mỹ An, Dũng và Minh. Chung quanh tôi bây giờ chật cứng người dù có muốn xoay chân, đảo người cho bớt mỏi cũng không thể. Sát cạnh tôi là một phụ nữ với mái tóc dài thỉnh thoảng gục đầu vào người tôi. Tôi biết chị này đang cơn say sóng. Vẫn còn tiếng người nôn oẹ đây đó trong khoang. Tôi nhắm mắt lại vì mệt vì mũi tôi khó chịu với mùi thức ăn người ói ra pha trộn với mùi dầu máy ghe, mùi dầu xanh con Ó, mùi hơi người và cả mùi nách nữa... Cảm giác nôn nao trong người bắt đầu đến với tôi. Tôi muốn ói và cổ đã ợ hơi vài lần. Tôi ngẩng đầu lên cố chống lại cơn ói nhưng rồi biết mình không thể. Gục đầu xuống tôi bắt đầu ói ngay vào quần áo của mình. Thể xác mệt mỏi khiến tôi ngủ rồi lại chợt thức mà không biết thời gian trôi qua bao lâu và tự hỏi ghe chạy đến đâu rồi lại ngủ tiếp sau đó. Cứ như vậy cho đến khi có tiếng mở cửa hầm kèm theo nghe tiếng người nói mình ra khỏi hải phận Việt Nam rồi. Hé mắt nhìn lên, tôi thấy một mặt người lem luốc đầy dầu mỡ. Người đàn ông này mở rộng cửa hầm, cúi đầu sát xuống nhìn vào đám người chúng tôi rồi anh ta nở nụ cười nói:

    - Bà con mệt dữ ha... Ráng chịu đựng đi nghen, có đồ ăn và nước đây, ai có khát có đói thì lấy dùng nha.

    Mấy đòn bánh tét, vài xâu củ sắn và hai bình nhựa đựng nước được chuyền xuống cho chúng tôi rồi nắp cửa hầm đóng sập trở lại liền.

    Mình ra khỏi hải phận Việt Nam rồi. Như vậy đây là cá lớn chứ không phải taxi gì hết. Tự nhiên tôi lại cảm thấy lo lắng khi biết anh Thành đã xí gạt chúng tôi nhưng bây giờ thì đã quá muộn. Câu nói quả quyết của anh: " Ghe nhỏ như vầy làm sao vượt biên được. Cá lớn chờ ngoài khơi kìa " trở về trong trí tôi. Biết nói như vậy nhưng sao anh Thành lại vẫn dùng ghe nầy cho chuyến vượt biên của chúng tôi? Giờ mình có muốn đổi ý, muốn quay về cũng không được nữa. Thôi đành phó mặc cho số phận vậy. Ghe tiếp tục chạy như vậy thật lâu thì tự dưng tốc độ giảm lại và ghe dừng hẳn dù máy vẫn nổ. Có nhiều tiếng người nói lao xao bên ngoài vọng vào tai tôi. Chuyện gì đây? Trong tiếng máy ghe tôi nghe thêm tiếng máy nổ khác. Vậy là có ghe hay tàu lạ ở gần bên ngoài rồi. Chợt cả hai cánh cửa lớn khoang ghe được mở tung ra hoàn toàn. Ánh sáng bên ngoài tràn đầy vào trong hầm làm mọi người phải nhắm ngay mắt lại. Lấy tay che mắt, tôi nhìn lên các khuôn mặt lạ đang quan sát chúng tôi. Họ là ai vậy? Một người đàn ông mỉm cười, nói:

    - Đông người dữ ha. Bà con đừng sợ, tụi tui cũng dân biển không hà. Chạy được tới đây coi như là thoát rồi có điều tối khuya nay trời có dông đó. Biển hơi động nghe bà con, ráng chịu cực thêm chút xíu qua cơn thì ghe chạy êm ru.

    Vài người ngồi dưới khoang ghe nhân cơ hội ngỏ ý muốn trèo lên để đi tiểu và họ leo lên thật. Tôi ráng hết sức cũng lách ra rồi đu người leo lên thành ghe. Một chiếc ghe kích cỡ bằng cá lớn chúng tôi đậu sát bên cạnh. Mấy người trong chiếc ghe đó cho chúng tôi biết họ là ngư dân của đảo Phú Quốc và vùng biển chúng tôi ở đây thuộc nước Khmer. Tôi nhìn chung quanh, ánh nắng chói chang trên đầu, nước biển mầu xanh lá cây xa tít tới tận chân trời. Chỉ toàn một màu xanh nước biển và không một bóng ghe, hòn đảo nào khác nữa. Tôi nằm vật xuống ngay trên thành ghe, tự nhủ là chắc mình nằm đây luôn không chui xuống khoang hầm chật hẹp nữa. Nằm trên sàn ghe thật là dễ chịu! Những người trên chiếc ghe Phú Quốc đó xin chúng tôi cho họ tất cả tiền Việt Nam còn mang trong người, nói là đến được trại tỵ nạn bên Thái thì cũng vất bỏ đâu có xài. Tôi ngồi dậy, móc tất cả tiền Việt trong bóp ra cho họ y như những người khác. Những người tài công trên ghe chúng tôi cho họ cả những tay lưới đánh cá luôn. Sau đó, những người trên ghe Phú Quốc này cùng với tài công trong ghe chúng tôi bàn bạc nhau về hướng đi của ghe và cách đối phó khi gặp trời dông gió trong tối nay.

    Phạm Thắng Vũ
    (còn tiếp)
    Last edited by khieman; 06-08-2014 at 09:02 PM.

  2. #2
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Khi chiếc ghe Phú Quốc từ giã chạy xa rồi thì những người tài công lại bắt buộc chúng tôi phải chui xuống khoang hầm trở lại trước khi ghe tiếp tục chuyến hải hành. Đúng như lời những tài công của ghe Phú Quốc đã nói, lúc nửa khuya, dông gió bắt đầu xuất hiện. Thoạt đầu ghe vẫn còn chạy bình thường và tiếng mưa quất vào thành ghe thành một âm thanh đều đều nhưng rồi dông gió càng lúc càng to. Tiếng mưa bây giờ gào thét cuồng nộ và các giọt mưa bào sát vào thành ghe kêu rào rạo. Tôi nghe tiếng chân của các tài công chạy tới chạy lui trên mặt khoang ghe và tiếng họ gọi nhau í ới. Có lúc ghe lắc thật mạnh, các miếng ván thành ghe vặn vào nhau kêu ken két cùng với tiếng người nào đó khóc thét lên. Tôi tỉnh hẳn cơn mệt cơn say sóng vì quá sợ hãi. Tôi không còn nhớ đến bất cứ chuyện gì ngoài những khuôn mặt của các thân nhân ruột thịt tôi. Dông gió cứ như vầy hoài thì ghe sẽ chịu thêm được bao lâu? Tuy ngồi yên một chỗ nhưng qua những cảm giác trong cơn dông gió này, tôi biết chiếc ghe đang chịu cảnh vùi dập của các cơn sóng dữ dội bên ngoài. Cửa khoang hầm dù đã được đậy kín nắp nhưng nước bên ngoài vẫn hắt từng chập vào người chúng tôi qua các kẽ ván hở. Người tôi bây giờ ướt sũng nước mặn. Cơn dông kéo dài như vậy suốt cả đêm mà kỳ lạ thay, chiếc ghe vẫn chịu được cho đến sáng thì giông gió bớt dần và rồi ngưng hẳn. Cửa khoang hầm được mở ra và tiếng người tài công nói lớn bà con ơi biển lặng rồi, mình thoát cơn dông rồi. Bây giờ thì tài công cho phép ai muốn lên trên thành ghe hay muốn ở dưới khoang hầm thì tùy ý. Tôi lại trèo lên nằm hẳn trên mặt sàn ghe. Ghe chạy êm ả đều đều như vậy và bây giờ thì mọi người thấy có những hòn đảo xa xa. Một tài công nói là thấy đảo nhiều như vầy thì ghe mình sắp vào Thái Lan rồi.

    - Tụi tui phải ngủ lấy sức mới chạy tiếp được, mệt quá rồi. Một tài công nói.

    Họ cho ghe chạy từ từ vào sát một chỗ khuất của một hòn đảo gần nhất. Máy ghe tắt hẳn trả lại sự im lặng tĩnh mịch của khung cảnh. Trời buổi sáng sau cơn dông hồi hôm khiến không khí mát lạnh. Thỉnh thoảng có cơn gió thổi qua làm ai cũng cảm thấy dễ chịu. Tôi lại nhắm mắt ngủ tiếp, mơ hồ nhớ lời nói của người tài công là nội ngày mai hay ngày mốt thì mình sẽ có mặt tại một bờ biển nào đó của Thái Lan mà đâu ngờ những tai ương khiếp đảm sắp sửa đổ xuống cho hành khách của chuyến đi bất hạnh này.

    Mặt trời lên cao chiếu ánh nắng nóng làm tôi thức giấc và tỉnh ngủ hẳn. Tôi ngồi dậy nhìn chung quanh, mặt sàn ghe người ngồi nằm la liệt bên nhau. Tôi lách người đi lần về phía đuôi chiếc ghe. Một phi nhựa khá lớn được cột chặt vào cạnh cửa buồng lái với nắp đậy kín. Tôi mở nắp nhìn vào bên trong, còn hơn phân nửa thùng nước. Thấy có chiếc ca nhỏ, tôi múc ra một chút nước rửa sơ mặt mũi của mình rồi uống cạn phần nước còn lại. Từ lúc xuống ghe cho tới giờ tôi mới uống nước vậy mà vẫn không cảm thấy khát. Những can nhựa đựng dầu cạn không nằm lăn lóc đây đó. Trong buồng máy nhỏ, hai người tài công nằm gần nhau đang ngủ say. Tôi biết hai người nầy còn mệt hơn chúng tôi nữa vì chạy ghe suốt từ tối hôm đó đến giờ họ mới được ngủ như vậy. Tôi nhìn vào phía đảo, không một dấu vết có người sinh sống. Thỉnh thoảng có tiếng thú kêu chim hót trong các tàng cây vọng lại. Tôi bước đến cạnh bên sườn ghe, nhìn xuống mặt nước trong vắt thấy rõ cát, đá cùng những mảnh vỏ ốc và vài con cá nhỏ bơi lội tung tăng tận đáy. Chợt nghĩ đến Dũng đến Ánh Phương và Mỹ An, tôi quay về cửa khoang hầm định tìm xem họ ra sao thì đã thấy Ánh Phương nằm ngay trên mặt sàn phía gần mũi ghe. Tôi bước đến cạnh bên nàng gọi khẽ:

    - Phương ơi Phương có khoẻ không, em sao rồi.

    Nghe tiếng gọi, Ánh Phương mở hé mắt nhìn tôi. Nàng khẽ gật đầu rồi ngồi gượng dậy.Tôi ngồi xuống bên cạnh Ánh Phương, nhìn vào khuôn mặt nàng rồi nhìn lại thân thể tôi và những người khác. Chỉ có hai đêm nằm dưới khoang hầm thôi mà chúng tôi giờ trông khác hẳn. Người nào người nấy đầu tóc rũ rượi, quần áo nhếch nhác vì những vệt ói, bệt dầu mỡ và nước bẩn bám vào.

    - Em tưởng mình chết trong tối hôm qua rồi. Ghê quá đi anh Vũ ơi. Chắc những câu chuyện ghe vượt biên bị chìm là vì họ đã gặp dông gió như mình há anh? Ánh Phương thều thào nói với tôi.

    Tôi thấy Dũng, Mỹ An và cả thằng Minh nữa. Người nào cũng một vẻ bần thần mệt mỏi. Mọi người giờ đây đều ngồi trên mặt sàn ghe, trong ca bin và cạnh buồng máy dù trời nắng nóng nhưng chẳng có ai chịu chui xuống khoang hầm nữa. Ai cũng mừng vì thoát được cơn dông hồi đêm. Ghe này tuy nhỏ nhưng may mắn là còn tốt lắm. Tôi và Ánh Phương leo xuống khoang hầm tìm lại các túi xách của mình. Không còn ai ngồi ở đây nữa vì nó quá sức bề bộn, bê bết nước bẩn. Cả hai trèo trở lên sàn ghe đến bên Dũng và Mỹ An. Ánh Phương mở túi xách của nàng, lấy ra ít thỏi kẹo chocolat đã bẹp dúm mời cả bọn cùng ăn nói là kẹo này do anh ruột nàng gửi về từ bên Úc. Vài người trên ghe thu gom những xâu bánh tét, các bịch bánh ngọt, củ sắn và mì gói để gọn lại một chỗ cho ai cảm thấy đói thì ăn.

    Trời nắng chói chang nhưng nhờ có gió mát nên chúng tôi cũng không thấy nóng. Đoàn người trên ghe cứ yên lặng nghỉ ngơi như vậy cho đến xế chiều thì hai người tài công thức dậy. Họ ăn uống qua loa rồi bắt đầu quay máy ghe để tiếp tục cuộc hành trình nhưng dù cố hết sức, máy ghe vẫn không nổ. Vài thanh niên khoẻ mạnh trên ghe loay hoay đến tiếp sức nhưng hoài công.

    - Tụi tui phải tháo máy ra xem nó hư chỗ nào.

    Hai tài công nói vậy và họ tháo tung máy ghe ra thật. Rồi sau đó, khi máy ráp trở lại thì họ cũng không quay cho máy nổ được.

    Mệt mỏi mà chuyện không thành, tài công cùng những người trên ghe quyết định cho ghe vào sát đảo để mọi người bỏ ghe lên bờ kiếm nước tắm táp và tìm chỗ nghỉ ngơi trong đêm. Hai thanh niên nhẩy xuống nước bơi vào bờ rồi họ nối dây vào ghe, kéo chiếc ghe đến chỗ cạn để mọi người có thể lội xuống được. Tôi, Dũng, Ánh Phương và Mỹ An theo những người trên ghe trèo xuống nước, bước dần vào bờ. Những người lên bờ trước chúng tôi đã tìm thấy nước ngọt trong các hốc đá. Nước ngọt mát lạnh trong các vũng nước khá lớn và cứ chảy tràn ra ngoài. Chúng tôi dùng tay khoát nước rửa mặt, rửa người cho sạch các vết bẩn rồi lấy quần áo trong túi xách ra thay. Sau đó, giặt sạch các quần áo bẩn và phơi chúng trên những cành cây thấp la đà. Xong xuôi, chúng tôi lại quay về kiếm chỗ nằm gần chiếc ghe mà bây giờ trống không chẳng còn người trên đó. Chúng tôi ngồi, nằm thành từng nhóm nhỏ ba bốn người bên nhau. Anh Tấn, người đã hỏi anh Thành về ghe taxi hay cá lớn là người lớn tuổi nhất trong cả bọn, nhìn khắp lượt đám người chúng tôi rồi nói:

    - Ai có chuyện riêng muốn đi vô trong rừng thì đừng đi một mình và cũng đừng đi quá sâu vào bên trong. Đảo này chắc chắn không cọp beo gì đâu nhưng mà rắn độc thì có đấy và có khi cả loài trăn gió nữa. Đi một thân một mình gặp trăn, có thể bị nó quấn chết tươi, do đó phải cẩn thận và chớ ăn trái cây rừng gì hết kẻo ngộ độc chết như chơi. Anh Tấn cũng nói thêm là ban đêm mọi người phải nằm ngủ gần bên nhau từng nhóm để có chuyện thì còn giúp nhau được và chớ có xé lẻ nằm riêng một mình không tốt.

    Tôi, Dũng, Ánh Phương và Mỹ An liền làm một nhóm với nhau. Chúng tôi chọn các bờ đá thấp thoai thoải không xa chiếc ghe. Dùng các cây bụi nhỏ quét sạch đất đá trên các bờ đá này rồi bẻ các nhánh lá trải xuống và nằm nghỉ ngơi gần bên nhau. Có người nào đó đề nghị nhóm lửa để nấu mì gói ăn cho nóng nhưng phải bỏ ý định đó vì ban đêm đốt lửa rất nguy hiểm. Ghe tàu ngoài khơi xa sẽ dễ dàng biết chỗ chúng tôi đang trú ẩn ở đây.

    Trăng từ từ mọc soi ánh sáng vàng vọt, chúng tôi nhìn lên bầu trời qua các tàn cây và nhìn những đốm lấp lánh chớp tắt trên mặt biển mà những tài công cho biết đó là loài sứa đang ăn đêm. Gió biển thổi vào bờ mát rượi làm chúng tôi dễ dàng chìm vào giấc ngủ. Đang ngủ ngon giấc, đột nhiên có tiếng người thét lên hoảng hốt khiến cả bọn chúng tôi choàng tỉnh ngồi bật dậy. Một cô gái vẻ mặt thất thần cho chúng tôi biết cô vừa trông thấy một đốm lửa mầu xanh lá cây thật lớn loé sáng ở ngay những tảng đá gần chỗ vũng nước ngọt mà hồi chiều chúng tôi đã ghé vô đó để rửa ráy tắm giặt. Anh Tấn đến gần bên cô gái, an ủi cô rồi trấn an mọi người:

    - Đừng sợ... đừng sợ!. Đất có Thổ Công sông có Hà Bá, đảo này không phải quê hương bản quán Việt Nam mình mà mình đặt chân đến thì đốm sáng mà cô này vừa thấy là hương hồn người khuất mặt ở đây muốn cho mình biết có sự hiện của họ. Ai đạo nào thì cầu nguyện theo đạo đó, xin người khuất mặt tha thứ cho những gì mình làm họ không vừa lòng và xin họ che chở cho chuyến đi.

    Chúng tôi ngồi yên mà không biết chuyện cô gái vừa kể có thật hay không? Ai cũng cảm thấy rờn rợn.

    - Có khấn có thiêng, có kiêng có lành. Thôi! Tất cả nằm xuống nhắm mắt ngủ tiếp đi và nhớ là từ ngày mai nếu ghe mình vẫn còn kẹt lại đây thì đừng có ai làm chuyện gì tầm bậy tầm bạ nghe chưa!

    Dứt lời, anh Tấn ngồi im lâm râm đọc thầm kinh hay lời cầu nguyện gì đó. Vài người ngồi gần đấy thấy cử chỉ của anh Tấn cũng bắt chước làm theo. Tự dưng bây giờ mọi người cảm thấy có điều gì huyền bí ở trên hòn đảo. Tuy anh Tấn bảo mọi người nhắm mắt ngủ đi nhưng anh lại không ngủ mà nhập vào một nhóm có hai người tài công để hút thuốc và trò chuyện.

    Tôi quay về chỗ nằm cũ thì thấy Ánh Phương và Mỹ An bỏ chỗ cũ, kéo đến nằm sát cạnh bên tôi và Dũng. Có lẽ trong những lúc sợ hãi như lúc này, người con gái thường quên hẳn những gì gọi là kín đáo, giữ ý trước mặt nam giới. Ánh Phương, Mỹ An và Dũng thấy tôi thì than là nếu ghe vẫn còn chạy thì bây giờ chắc cũng sắp đến Thái Lan rồi, đâu có phải nằm kẹt ở đây để sợ như vậy. Chúng tôi ngồi bên nhau nói những câu chuyện vụn vặt và cầu mong cho ngày mai tài công sửa được máy để đi tiếp chứ còn ở đây dù có thoải mái hơn khi ở dưới ghe nhưng thật là bất ổn.

    Ngày hôm sau, ngay từ sáng sớm các tài công cùng anh Tấn và vài thanh niên trèo về lại ghe, cố hết sức để sửa máy nhưng vẫn không sao làm cho cỗ máy nổ lại được. Khi vào lại bờ nghỉ mệt, anh Tấn nói nhỏ:

    - Máy ghe bị trục trặc cái gì đó mà các cha tài công tìm không ra. Chỉ biết chạy ghe và sửa chữa hư hỏng lặt vặt thôi, khi máy hư nặng thì coi như bù trất.

    Trưa đến, mọi người quyết định nấu nước nóng làm mì gói ăn. Dưới ghe có nồi lớn có gạo nữa nhưng nếu nấu cơm thì lấy gì làm thức ăn đây? Ánh Phương và Mỹ An nhấm nháp các thanh kẹo chocolat còn lại nói là ăn như vậy cảm thấy no rồi còn tôi và Dũng thì bẻ vụn gói mì ra ăn sống từng nhúm một. Chiều đến, các tài công quay trở vào bờ cho mọi người biết là họ không sửa được máy ghe. Nghe xong, ai cũng ngao ngán rồi buồn và lo lắng cho số phận. Vài người đi dọc theo các ghềnh đá bắt được khá nhiều ốc mang về đập bể vỏ móc bỏ ruột rồi nấu món cháo ốc chia cho cả bọn cùng ăn. Khi trời tối, chúng tôi vẫn để lửa cháy và còn kiếm thêm các cành cây khô để ngọn lửa cháy lớn hơn nữa. Giờ thì ai cũng phó mặc cho mọi sự ra sao thì ra. Ngồi quây quần bên nhau gần ngọn lửa khuya trong một khu hoang vắng, nhóm người chúng tôi trông thật không khác gì đang trong một buổi dã ngoại đốt lửa trại về đêm. Có cả một ngày trên đảo hoang mới biết tất cả ghe là 51 người bao gồm 33 nam và 18 nữ. Hai tài công đều mang vợ đi theo và chị Ân cùng đi với cậu con trai 14 tuổi. Những người còn lại đều đi độc thân một mình. Đến khuya thì ngọn lửa tàn dần và mọi người lại trở về chỗ của mình, nằm nói chuyện với nhau chờ giấc ngủ đến. Tôi và Ánh Phương cũng kể cho nhau nghe về gia đình về bản thân của mỗi bên rồi sau đó, cả hai cũng thiếp ngủ lúc nào không biết.

    Chợt có bàn tay ai đó lay tôi thức dậy. Tôi mở mắt nhìn thì ra là Dũng và anh Tấn. Theo chân hai người đi đến một chỗ trống, anh Tấn chỉ cho tôi thấy một vệt sáng từ tuốt ngoài khơi xa chiếu thẳng vào bờ ngay chỗ ghe chúng tôi. Vệt sáng này là ngọn đèn pha của một chiếc tàu khá lớn. Tôi quay trở vào, đánh thức Ánh Phương và Mỹ An dậy. Chúng tôi hỏi thì anh Tấn nói con tàu đó không biết có mặt tại đây từ lúc nào, tàu nước nào, loại tàu gì? Vì có người thức khuya không ngủ nên mới thấy nó chiếu đèn vào ghe mình, vào chỗ tụi mình nên mới gọi nhau dậy.

    Chúng tôi ngồi yên lặng nhìn bóng chiếc tàu. Nó cứ pha đèn rồi tắt rồi lại pha. Không biết có phải là nó đang đánh tín hiệu Morse gì đó cho chúng tôi không? Cuối cùng thì đèn pha chiếc tàu lạ tắt phụt, chúng tôi chỉ thấy lờ mờ ngọn đèn nhỏ của tàu và nó dần dần biến mất vào bóng đêm. Cả bọn chúng tôi không ai ngủ được nữa. Ngồi bên nhau mà lòng lo lắng không biết ngày mai sẽ ra sao đây? Chúng tôi dự trù các diễn tiến xấu có thể xẩy đến và bàn các biện pháp đối phó.

    - Chúng ta bị lộ rồi, không thể nán lại đảo được nữa, phải tìm mọi cách lên đường thôi. Anh Tấn nói và mọi người đều đồng ý phải như vậy.

    Đêm chậm chạp qua đi, bình minh đến dần. Từ sáng sớm, hai tài công vội vã trở lại ghe để cố sức sửa máy cho bằng được. Lần này có thêm vài người khác nữa trong số có cả anh Tấn và tôi đi theo. Thực sự ngoài tài công, nhóm người chúng tôi tiếng ra theo phụ sửa máy ghe nhưng cũng chẳng ai biết gì về máy móc cả. Có mặt trên ghe như một khích lệ hai tài công. Mong họ sửa được và cần người quay máy, chúng tôi có mặt sẵn tiếp sức. Cả bọn đang hì hụi bên nhau bất chợt nghe tiếng la từ phía trong bờ. Mọi người trên ghe dừng tay, nhìn vào bờ rồi nhìn ra hướng biển. Một chiếc tàu khá lớn đang từ từ tiến vào thẳng ngay phía ghe chúng tôi. Anh Tấn nói lớn vọng vào bờ:

    - Đàn bà con gái lánh mặt trốn ngay đi. Nam giới ai nấy lo kiếm đồ thủ sẵn trong tay để mà chơi với tụi nó nghe.

    Chúng tôi cũng vội tản ra ngay. Người cầm cây búa, người con dao hoặc đoạn dây lòi tói sắt... Tàu lạ tiến vào từ từ. Khi cách ghe chúng tôi khoảng 200m, nó ngừng lại. Nó không vào được. Sợ mắc cạn hoặc sợ bể tàu vì các rạn đá ở gần bờ, tôi nghĩ vậy. Im lặng một lúc, hai bóng người nhẩy xuống biển từ con tàu lạ và bơi về hướng ghe chúng tôi. Khi bơi đến gần ghe, chúng tôi thấy họ mang theo mỗi người một thùng nhựa khá lớn. Còn cách ghe chúng tôi khoảng 10m họ ngừng lại. Họ bơi đứng, nói bằng ngôn ngữ lạ chúng tôi không hiểu. Tay họ chỉ vào thùng nhựa mang theo và chỉ vào miệng. Anh Tấn khoát tay ra dấu cho hai người lạ bơi lại ghe. Họ đến sát bên ghe nhưng không dám leo lên vì bộ dạng chúng tôi với những thứ đang cầm trên tay. Hai tài công tiến lại gần người lạ và hỏi hai tiếng Thái Lan thì cả hai gật đầu. Họ đẩy các thùng nhựa lên cho tài công. Hai thùng nhựa được chuyền lên ghe. Ngay sau đó, hai người Thái Lan bơi nhanh về tàu họ. Họ leo trở lại con tàu. Ít phút sau, con tàu từ từ quay lui rồi tăng tốc chạy mất dạng trước sự ngỡ ngàng của đám chúng tôi.

    Chúng tôi tiến lại xem hai thùng nhựa. Anh Tấn mở nắp một thùng ra xem. Bên trong chứa đầy cơm nếp cùng tảng đường Thốt Nốt mầu vàng nhạt. Tôm thẻ rang chín chung với ớt đỏ. Dưới đáy thùng, một bọc nhựa đầy xoài xanh thái chỉ trộn với cá mắm cùng ớt và tỏi bằm chung. Thùng nhựa thứ hai chứa đầy tới miệng kẹo bánh, thuốc lá thơm hiệu Samit, Gold City và những lon nước ngọt Coca Cola.

    Mang hai thùng đồ ăn vào bờ, anh Tấn tập họp mọi người ngồi thành một vòng tròn dưới những tàng cây mát. Chúng tôi chia thức ăn từ hai thùng nhựa đều cho mọi người trong nỗi vui mừng và ngạc nhiên vì thái độ quá sức thân thiện của hai thủy thủ Thái Lan ở con tàu lạ.

    - Đâu phải tàu Thái Lan nào cũng hải tặc hết đâu... Có người này người khác chứ.

    Ai cũng cho như vậy mà đâu biết những bất trắc từ con tàu lạ sẽ xẩy ra cho ghe chúng tôi... chỉ trong vài tiếng đồng hồ nữa thôi.

    Đến đây, tôi nói sơ qua về chuyện ăn uống trên đảo khi đó. Phải nói nhờ có anh Tấn mà chuyện ăn uống mới có quy củ chứ không thì vẫn cảnh giành giựt mạnh ai nấy lấy, mạnh ai nấy ăn. Ít giờ trước đó, mấy phụ nữ vừa nấu xong một nồi cháo ốc cho bữa ăn sáng thì xẩy ra cảnh giành giựt. Cháo chín tới, ghe chỉ có vỏn vẹn bốn cái chén sành và một cái tô nhựa. Người nấu cháo đã nói lần lượt từng người tự giác ăn một chén còn để chừa phần cho người khác. Có hai gã thanh niên chen vào giành chén, múc cháo ăn trước tiên. Khi húp cạn chén cháo, hai gã tỉnh bơ múc đầy và ăn tiếp mà không chuyền cái chén cho người khác đang chờ đến lượt. Hết chén thứ hai sang chén thứ ba thì có người lên tiếng nhắc nhở. Hai gã vẫn gục mặt ăn tiếp làm như không nghe thấy gì hết. Một trận xô xát nhỏ đã xẩy ra giữa hai gã với những người khác. Hai gã thanh niên đó ở trong đám nhập chung với chúng tôi tại bến xe Hà Tiên khi nhóm tổ chức nhét thêm khách. Hai gã còn trẻ, to xác nhưng rất lười. Cứ nằm yên hay ngồi chơi tại chỗ. Mặc ai đi bắt ốc, ai đi gom củi nấu mì gói nấu cháo thì đi. Hai gã không hề giúp một tay. Khi nồi mì nồi cháo nấu xong, hai gã nhào vào ăn trước. Ăn rất hỗn, chẳng biết nhường phần người sau. Có người còn bắt quả tang hai gã lục túi xách của người khác khi còn ở dưới ghe. Xô xát xẩy ra. Hai thanh niên thật hung dữ, đuổi đánh những người chống lại... buộc anh Tấn phải vào cuộc. Anh Tấn chạy tới can ngăn thì bị một trong hai gã đánh luôn. Dù vóc dáng nhỏ con nhưng anh Tấn ra ngón võ thế nào mà chỉ loáng một cái, hai gã thanh niên nằm thẳng cẳng ngay đơ dưới đất. Vài người chạy đến hai gã tính đánh trả thù nhưng anh Tấn cản lại, không cho.

    - Đ.M hai thằng mày, thứ sâu bọ ham ăn giành uống như vậy sao không ở với Việt Cộng mà vượt biên làm gì? Cỡ chúng mày ra nước ngoài chỉ tổ làm người Việt nhục lây. Hôm nay tao tha nghe con. Muốn nhịn hai thằng mày mà không được. Còn cà chớn nữa tao sẽ lấy mỗi thằng một bóng đèn đó. Biết chưa? Anh Tấn hùng hổ quát.

    Hai gã thanh niên van lạy rối rít, xin anh Tấn và người trên ghe xí xoá lỗi của chúng đã làm. Nhờ vụ xô xát, tất cả người trên ghe đã răm rắp nghe theo lời anh Tấn. Tự nhiên anh đã thành leader của chúng tôi. Ở đâu, trong bất cứ sắc dân nào cũng có bọn người lười biếng, ích kỷ như hai gã thanh niên này.

    - Hù tụi nó cho sợ thôi. Cho bỏ cái tính côn đồ đi. Anh Tấn nói nhỏ với tôi và Dũng.

    Chúng tôi từ từ chia đều thức ăn trong hai thùng nhựa cho mọi người cùng ăn. Lần đầu tiên trong đời tôi nếm món ăn của Thái Lan. Hết cơm nếp nóng với tôm thẻ rang chung ớt đỏ khô cùng món xoài xanh bóp gỏi với cá mắm... lại ăn kèm với đường Thốt Nốt. Cuối bữa, chúng tôi nhai nhóp nhép bánh ngọt, kẹo và giải khát bằng các lon Coca Cola trong làn khói thơm của thuốc lá thơm Samit hoặc Gold City từ miệng mũi phả ra. Một bữa ăn quá sức ngon miệng.

    Ăn uống no nê, mọi người tản ra nằm hoặc ngồi dưới các bóng mát tán chuyện với nhau còn hai tài công cũng bỏ mặc không sửa máy ghe nữa. Họ no bụng nên muốn nghỉ ngơi hay thực sự biết không thể sửa cho máy chạy được nên bỏ mặc? Tôi, Ánh Phương, Mỹ An và Dũng ngồi quây quần bên nhau... nói chuyện về chiếc tàu Thái Lan. Liệu có phải chiếc tàu tối hôm qua pha đèn vào mình không? Anh Tấn rồi nhóm người của hai tài công đang ở gần cũng bước lại ngồi nhập chung bọn, cho biết:

    - Không biết có phải nó hay không nữa? Trời khuya ai thấy rõ được nhưng tàu sáng nay là tàu Thái hiền, không phải tàu Thái hải tặc. Tiếc cái tàu họ chạy mất tiêu rồi.

    - Phải chi mấy ông nhờ hai người Thái này lên ghe coi hộ cái máy không chừng họ sửa dùm cho mình luôn đó. Tại sao mấy ông không làm vậy? Một phụ nữ ngồi gần chen vào.

    - Trời! Bà nói dễ nghe ha! Tụi tui biết họ định làm gì mà nói... Với lại, thấy tụi tui cầm dao búa trong tay, họ còn không dám lội lại gần kìa. Mà ai để cho họ leo lên ghe? Một tài công vặn lại.

    - Mấy ông quá dở thì có. Thấy cho mình đồ ăn, biết họ người hiền lành chứ... Phải chụp cơ hội nói họ giúp. Không biết tiếng Thái thì làm dấu để họ biết chuyện mình cần. Con không khóc thì mẹ nào cho bú. Phải không? Có mặt trên ghe tui làm như vậy liền. Mấy ông nhìn họ có đeo tượng Phật không? Người phụ nữ tiếp.

    - Thôi chị Hai ơi! Lúc đó chị cũng chạy núp mất tiêu rồi còn nói ngon. Người tài công đáp trả.

    Mặt trời giờ đã đứng bóng. Gió mát từ hướng biển thổi vào liên tục và nhờ ở dưới bóng các tàn cây nên không ai cảm thấy nóng. Có làn gió mát, mọi người tự động tản ra đi về chỗ của mình nằm ngủ trưa. Tôi đến bên Ánh Phương, nàng nhìn tôi và nói:

    - Anh đừng nằm xa chỗ em để có gì thì giúp em. Tự dưng gặp cái tàu pha đèn tối hôm qua rồi cái tàu cho đồ ăn ban nãy nữa làm em lo quá anh Vũ. Đừng để em một mình, em sợ lắm. Anh phải che chở cho em nha.

    Tôi nhìn khuôn mặt Ánh Phương. Một lần nữa nhủ thầm, cô gái quá đẹp. Tại sao Ánh Phương dám đi vượt biên? Sao mà lường hết các chuyện sẽ xẩy ra. Ghe có thể bị công an biên phòng bắt. Có thể bị chìm vì bão hoặc hư máy như hoàn cảnh hiện tại. Nhìn Ánh Phương, tôi không dám nghĩ đến câu có thể gặp hải tặc. Tôi cũng cảm thấy một niềm vui đang dâng tràn khi vừa nghe nàng nói. Có thể trong mấy ngày qua, chúng tôi kề cận bên nhau để nàng nghĩ tôi như người thân thiết bên cạnh. Cũng có thể đơn giản nàng chỉ xem tôi như anh trai ruột nàng. Còn tôi, nghĩ sao về Ánh Phương? Tôi thật chưa biết! Thấy tôi im lặng, Ánh Phương khe khẽ:

    - Anh Vũ! Anh phải che chở cho em nha. Che chở em.

    Tôi vội gật đầu, nàng nở miệng cười thật tươi trong ánh nắng chiếu xiên qua kẽ lá. Tận bây giờ, tôi vẫn nhớ khuôn mặt và nụ cười của Ánh Phương. Răng nàng trắng đều như bắp trong làn môi đỏ thắm. Khuôn mặt trái soan trắng hồng với vài gân máu li ti ở gò má cùng với cặp mắt sáng dưới hàng lông mi cong đen. Ánh Phương, Ánh Phương ơi! Em đẹp quá. Thật kỳ lạ! tôi có các em gái ruột trạc tuổi Ánh Phương. Cũng mặt mũi cũng vóc dáng như nàng. Có bao giờ tôi ngồi sát cạnh bên để nhìn rõ khuôn mặt các em gái tôi như đang ngồi đây với Ánh Phương. Tôi nhìn Ánh Phương lần nữa để biết con gái Việt Nam thật đẹp. Cầm đôi bàn tay của Ánh Phương rồi tự nhiên tôi đưa lên mũi tôi. Mùi hương con gái toả ra từ đôi bàn tay nàng. Ánh Phương để yên và có lẽ tôi cũng sẽ để yên như vậy rất lâu nếu như nàng không mắc cỡ, rụt tay lại. Ánh Phương lí nhí nói nhỏ:

    - Mỹ An nó đang nhìn kìa, mình nằm nghỉ đi anh Vũ.

    Tôi biết Ánh Phương lo lắng khi thấy máy ghe hư không sửa được và nếu bị kẹt ở đảo rồi thân gái sẽ ra sao nếu như không có người thân thích bên cạnh? Nàng đã nói như vậy với tôi, tôi nhủ thầm: " Ánh Phương ơi! Dù em không nói ra, tôi cũng tự cảm thấy có bổn phận phải che chở cho em ". Tại sao vậy? Tôi đã có cảm tình với Ánh Phương hay vì mình đàn ông con trai phải xử sự như vậy với con gái. Tôi cũng lo lắng như nàng chứ. Tôi nghĩ thêm thức ăn rồi sẽ hết và sẽ ra sao? Nhìn các người khác đang yên lặng nằm mở mắt nhìn lên các tán lá cây. Dù không ai nói ra, tôi cũng biết người nào cũng lầm thầm trong bụng mong được gặp lại con tàu Thái Lan hồi sáng.

    Đang chìm trong giấc ngủ trưa, tôi tỉnh giấc vì tiếng hét lớn:

    - Cái tàu hồi sáng kia kìa bà con ơi.

    Tôi và Ánh Phương choàng dậy ngay. Thật linh như thần khẩu. Đúng nó rồi. Con tàu chạy ngang trước mặt chúng tôi cũng một khoảng cách như lúc sáng. Mọi người chạy túa ra vẫy tay, miệng hét lớn. Không biết vì nghe thấy tiếng hét hoặc trông thấy chúng tôi vẫy tay mà chiếc tàu từ từ dừng lại. Một bóng người trên tàu nhẩy xuống biển lội vào bờ hướng về chỗ cả bọn chúng tôi. Không ai còn ý nghĩ phải tìm cách đề phòng chiếc tàu nữa. Gã thủy thủ Thái Lan bước từng bước lên bờ. Gã không phải người cho chúng tôi thức ăn hồi sáng. Gã mặc một quần thun bó sát với chiếc áo phao. Tướng tá trung bình, mầu da vàng như người Việt. Khi đến gần, gã xổ một tràng tiếng Thái Lan. Gã nói tiếp vài câu nữa nhưng vẫn không ai hiểu. Một chút yên lặng nghĩ ngợi, gã Thái Lan nói thêm vài câu khác. Đột nhiên có người trong chúng tôi vọt miệng trả lời y. Hai bên đối đáp qua lại từng câu. Thì ra gã thủy thủ là người Thái gốc Tàu Triều Châu. Người bên chúng tôi nói chuyện được với gã là cô gái Việt gốc Tàu vùng Bạc Liêu. Cô A Muối có tên Hồng Thu Lan. Chúng tôi nhờ cô cho gã thủy thủ Thái Lan biết về tình cảnh của cả bọn. Theo lời gã, tàu Thái Lan trên đường quay về Bangkok trông thấy chúng tôi vẫy tay, reo hò nên chủ tàu mới dừng lại rồi cho gã lội vào bờ tìm gặp chúng tôi.

    - Nói họ tiện thể chạy về Bangkok thì kéo ghe mình theo luôn đi A Chế... Mấy người vây chung quanh cô Hồng Thu Lan thúc hối.

    Gã Thái Lan quay ra biển, dùng tay làm dấu hiệu với con tàu. Lập tức, bóng người khác trên tàu lao xuống biển và bơi thẳng vào bờ đến chỗ chúng tôi. Gã thứ hai này là người đã cho chúng tôi thức ăn hồi sáng. Trên cổ tay gã quấn một nùi dây cước nhỏ mầu đỏ kéo dài tuốt ra biển xa. Gã lặng yên, kéo sợi dây cước liên tục. Chúng tôi nhìn mà không hiểu việc gã làm. Sợi cước nhỏ được nối với một dây thừng khá lớn của tàu. Có sợi thừng lớn, gã thủy thủ gốc Tàu nói cô Hồng Thu Lan biết chúng tôi phải cột sợi dây thừng vào mũi ghe ngay. Có làm vậy, họ mới kéo ghe chúng tôi đến sát con tàu được. Đúng như chúng tôi dự đoán khi trước, con tàu Thái Lan quá lớn nên không thể cặp vào sát bờ như ghe nhỏ chúng tôi.

    Toàn bộ chúng tôi cùng hai thủy thủ Thái Lan vội vã trở lại ghe. Tàu Thái Lan bắt đầu thu dây thừng lại. Trong chốc lát, ghe chúng tôi đã nằm ngay sau đuôi con tàu Thái Lan. Hai gã thủy thủ nhẩy xuống nước, bơi trở về tàu họ. Tàu Thái Lan nổ lớn máy chạy nhanh dần, kéo theo ghe chúng tôi đằng sau. Lúc đó khoảng 2 giờ trưa, mặt biển xanh lơ vắng lặng, êm ả không một bóng tàu ghe nào khác.
    Phạm Thắng Vũ
    (còn tiếp)

  3. #3
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    Dù con tàu Thái Lan chạy rất nhanh so với tốc độ của ghe vượt biên nhưng chúng tôi vẫn cảm thấy chậm. Trước lúc mọi người trở về ghe, gã thủy thủ gốc Tàu cho cô Hồng Thu Lan biết do đang trong hải phận nước Khmer nên chuyện tàu đánh cá Thái Lan không thể kéo theo ghe vượt biên được. Nếu bị tàu tuần duyên hay tàu đánh cá Khmer phát giác, tàu gã sẽ gặp rắc rối. Gã cho biết thêm, tàu Thái Lan sẽ kéo ghe chạy rất nhanh cho đến khi cảm thấy an toàn mới thôi.

    Chúng tôi nhìn chung quanh trên mặt biển. Các đảo dần dần nhỏ hẳn. Con tàu Thái Lan tăng tốc độ chạy càng nhanh đến nỗi ai cũng phát sợ. Có lúc tàu chạy lượn vòng vèo hoặc giảm tốc độ rồi lại tăng đột ngột. Ai trên ghe phải bám cứng lấy nhau vì sợ rớt xuống biển. Nước biển văng mạnh lên sàn ghe tương tự trong đêm gặp dông bão. Có người phải nhẩy xuống nằm dưới khoang hầm cho an toàn.

    Tàu Thái Lan cứ chạy như vậy cả tiếng đồng hồ. Nhiều người có cảm giác chóng mặt, khó chịu. Có người chịu không nổi phát nôn. Vài người hét thật lớn mong tàu Thái Lan nghe thấy để giảm bớt tốc độ. Không thấy bóng thủy thủ Thái Lan nào trên con tàu. Kéo ghe chạy nhanh như vậy, ai cũng lo sợi dây kéo sẽ đứt vì quá căng. Tiếng gỗ kêu rin rít mỗi khi con tàu tăng tốc độ. Đột nhiên, con tàu chạy chậm dần rồi ngừng hẳn. Khoảng cách giữa ghe và tàu thu ngắn lại.

    Đậu ngay sau đuôi con tàu Thái Lan, ghe chúng tôi quá nhỏ. Trên ca bin tàu cao vút, năm sáu gã đàn ông ngồi ngó xuống cả đám chúng tôi. Gã Thái Lan gốc Tàu nói với cô Hồng Thu Lan là thuyền trưởng con tàu y, muốn biết tổng số người trong ghe để họ lập danh sách trình cho chính quyền khi tàu cập vào Bangkok và chúng tôi phải lên ngồi trên mặt sàn ghe để họ chụp hình làm bằng chứng nữa. Nghe họ nói, ai nấy đều hứng chí quên hết mệt mỏi. Tài công hối thúc người còn dưới khoang hầm phải lên mặt sàn ghe ngay. Tàu Thái Lan lấy máy hình ra chụp toàn bộ người chúng tôi đứng ngồi lố nhố trên ghe. Xong xuôi, tàu Thái Lan nói chúng tôi chuẩn bị rời ghe chuyển sang bên họ để nghỉ ngơi và ăn uống.

    Tàu Thái Lan chạy nhanh khi kéo ghe để chúng tôi ai cũng phải thấm mệt trước đã. Khi nói ngồi hết trên mặt sàn ghe, để họ biết nhân số đàn ông con trai mà tính chuyện sau này. Vì quá thật thà, cả tin nên không ai nghi ngờ hành động của tàu Thái Lan. Ánh Phương và tôi ngồi gần mũi ghe. Nhìn mặt nhau, cả hai đang bần thần dã dượi vì mệt. Chung quanh ghe chỉ một mầu nước biển. Không một hòn đảo hay bóng tàu ghe nào hết. Cả ghe ngồi như vậy cho đến khi gã Thái gốc Tàu cùng một gã khác xuất hiện nói chúng tôi từng người lần lượt trèo lên boong tàu ngay. Anh Tấn đòi leo lên tàu trước để thám thính. Anh bước vọt lên đầu mũi ghe, tay nắm sợi dây từ trên tàu thả xuống. Hai gã thủy thủ Thái Lan giúp anh Tấn leo lên boong nhanh chóng. Kế tiếp, người thứ hai rồi người thứ ba... Đến tôi người thứ năm leo lên con tàu Thái Lan. Có sợi dây và giúp sức của hai gã Thái Lan nhưng tôi đã chật vật mới leo lên được boong tàu. Sao bọn họ không kéo chiếc ghe sang cạnh lườn để chúng tôi dễ dàng trèo lên hơn là cột mé sau đít con tàu? Vừa lên tới nơi, tôi đứng tại chỗ, thâm tâm muốn phụ sức với hai gã Thái Lan để kéo tiếp những người khác dưới ghe. Tôi nghĩ trước tiên sẽ giúp cho Ánh Phương nên gọi nàng. Ánh Phương vừa đứng lên, gã thủy thủ gốc Tàu vội khoát tay ra dấu nàng ngồi xuống ngay. Y nói với cô Hồng Thu Lan nam giới leo lên trước sau mới tới lượt nữ giới. Tôi ngạc nhiên nhủ thầm: " Sao kỳ vậy? Có vụ người lên trước lên sau ". Cúi người xuống định kéo tay một thanh niên khác đang bắt đầu leo lên boong, gã thủy thủ Thái Lan đứng bên cạnh ra dấu, chỉ tôi đi về đằng phía trước con tàu. Tôi ngạc nhiên nhìn nhưng gã xua tay... muốn tôi phải đi ngay.

    Bằng một hành lang nhỏ nằm ngang thân tàu tương tự như một ban công của căn nhà lầu, tôi đi dọc theo hành lang nầy về phía trước con tàu. Ngang qua hầm máy, tôi nhìn xuống thấy dàn máy tàu thật lớn đang nổ nhè nhẹ. Đi gần hết ca bin tàu tới ngay buồng lái, tai tôi nghe tiếng nhạc phát ra từ chiếc máy cassette khá lớn cạnh bên tay lái tàu. Không một bóng người nào ở trong căn buồng lái nầy. Trước mặt tôi, một thủy thủ Thái Lan ngồi xổm giữa hành lang dường như người nầy đang sửa chữa cái gì đó sát cạnh vách của buồng lái. Tôi từ từ đi tới, khẽ lách qua thân người thủy thủ này thì nhanh như một tia chớp, y ta đứng vụt dậy, chộp một tay tôi và khoá quặt ra phía sau lưng. Tôi chưa biết chuyện gì vừa xẩy ra thì gã thủy thủ đó đẩy tôi đi tiếp một đoạn ngắn và y xô tôi té nhào xuống mặt sàn tàu. Ngay tức khắc, một gã thủy thủ chờ sẵn ở đó vội đè lên người tôi để cho một gã khác chạy đến trói tay trói chân tôi lại. Xong xuôi, hai gã thủy thủ nầy kéo tôi ngồi lên và tôi thấy anh Tấn cùng ba người lên trước tôi cũng đã bị họ trói chặt hết cả đang ngồi gần đó. Anh Tấn nhắm nghiền mắt, có một vệt máu ở trên mũi và vết xưng bầm trên gò má trái của anh. Ba người kia, vẻ mệt mỏi thất thần hiện rõ trên khuôn mặt của họ.

    Ghe chúng tôi đã sa vào tay bọn hải tặc Thái Lan rồi.

    Lần lượt từng người nam giới chúng tôi ló dạng đến gần mặt sàn tàu và đều bị bọn thủy thủ Thái Lan nầy bắt trói liên tiếp như các người vừa đến trước đó. Bọn hải tặc trói chặt hai cổ, khuỷu tay chúng tôi ra sau lưng và cả hai cổ chân nữa. Bây giờ thì chúng tôi biết tàu Thái Lan nầy chỉ có bẩy tên hải tặc. Chúng đã lập kế lừa, tỉa bắt cả đám nam giới chúng tôi và đó là lý do tại sao chúng không kéo cái ghe sát cạnh lườn tàu để chúng tôi cùng trèo lên một lượt vì nếu làm như vậy, 32 đàn ông-thanh niên chúng tôi chắc chắn sẽ không bó tay quy hàng khi bọn chúng dở trò. Giờ biết chuyện thì đã quá muộn. Bọn hải tặc đặt chúng tôi ngồi sát bên nhau cạnh thành con tàu. Chúng tôi nhìn nhau mà mặt người nào người nấy tái xanh, đầy vẻ buồn bã, thất vọng, tức tối và cả lo sợ nữa. Bọn hải tặc nầy đã lập kế để trói gọn cả đám chúng tôi quá dễ dàng. Chắc chắn đây là chiếc tàu đã pha đèn đêm hồi hôm và qua cung cách nhuần nhuyễn khi bắt trói chúng tôi, tàu hải tặc Thái Lan nầy đã từng làm các chuyện như vậy từ trước. Không biết có bao nhiêu ghe vượt biên của người Việt đã là nạn nhân của bọn chúng?

    Tôi ngồi yên trong tâm trạng bàng hoàng. Thật không ngờ, bây giờ là tháng 5 năm 1990 mà vẫn còn cái vụ hải tặc Thái Lan nầy. Từ rất lâu rồi, qua thư từ của người thân cũng như tin tức trên các đài BBC, VOA... tôi nghĩ là nạn hải tặc Thái Lan đã chấm dứt sau khi có quá nhiều vụ tấn công, cướp bóc, hãm hiếp và thảm sát người Việt vượt biên bằng ghe. Cộng đồng quốc tế đã phải lên tiếng rồi chính phủ Hoa Kỳ vào cuộc, buộc chính quyền Thái Lan hết phương lẩn tránh trách nhiệm với đám tàu hải tặc nước mình. Từ tin tức nơi những người còn sống sót khai báo với Cao Ủy Liên Hiệp Quốc khi đến trại tị nạn, các tàu hải tặc đã bị nhận dạng và chính quyền Thái Lan không thể bao che và phải mạnh tay với bọn này. Tàu đánh cá nào khi ra khơi đều phải ghi danh bạ, cho biết khu vực đánh cá, thời gian đi và về. Nhờ vậy mà hạn hải tặc đã giảm hẳn gần như ai cũng nghĩ là không còn có các vụ nầy nữa. Chính vì vậy nên tôi mới dám vượt biên bằng ngã Thái Lan này bằng đường dây của anh Thành. Ngờ đâu! Số phận chúng tôi hôm nay sẽ ra sao đây? Tôi nghĩ đến mẹ tôi và các em tôi mà nước mắt chảy tràn trên khoé mắt. Gần bên tôi, người nào đó cũng đang khóc rấm rứt và có cả tiếng người khác khe khẽ niệm kinh Phật đều đều. Ba gã hải tặc Thái Lan da đen, vóc dáng cao lớn vạm vỡ đứng lảng vảng gần đó mà trong tay gã nào cũng lăm lăm một con dao to bản hoặc thanh sắt khá lớn. Những thứ này mà bọn hải tặc quất vào thân người chúng tôi thì chỉ có chết.

    Tính chuyện cánh nam giới chúng tôi xong xuôi, bọn hải tặc kéo chiếc ghe đến sát bên lườn tàu phía đối diện nơi đám nam giới chúng tôi đang ngồi. Bọn chúng lấy ra một cái thang nhỏ và nhờ cái thang này mà đám đàn-bà con gái dưới ghe leo hết lên mặt sàn tàu dễ dàng. Nghe tiếng trò chuyện của đám đàn bà-con gái, chúng tôi biết họ đã lên con tàu Thái Lan nầy hết cả rồi nhưng họ vẫn chưa biết tình cảnh của đám nam giới vì cạnh buồng lái tàu đã che khuất hết cả. Bọn hải tặc Thái Lan nhanh chóng lùa hết nữ giới ra phía sau để xuống hầm tàu hay vào trong ca bin mà chúng tôi cũng không biết rõ. Sau đó không lâu là tiếng đập phá ở dưới ghe chúng tôi. Chúng tôi nhìn nhau, bọn hải tặc đang lục soát để kiếm vàng, tiền Đô mà chúng nghĩ đã được cất dấu đâu đó trong ghe. Rồi cả bọn hải tặc quay trở lại đến bên chúng tôi. Bọn chúng dựng từng người đứng lên để lần mò kiếm dây chuyền, nhẫn vàng, đồng hồ và tiền Đô mang theo trong người. Đồng hồ mới, đắt tiền chúng mới lấy còn loại cũ thì chúng không thèm. Những thứ lấy được, bọn đàn em đều nộp hết cho tay đầu đảng là một gã Thái Lan tuổi trung niên cởi trần, mặt mũi đen xạm, râu ria lởm chởm. Một báng cây súng lục lòi ra ở ngay thắt lưng chiếc quần jean cũ của y.

    Chợt gã hải tặc Thái Lan gốc Tàu từ phía sau ca bin đi ra. Hắn bưng một thau cơm lớn và sau đó y bưng tiếp các thau thức ăn khác cùng chén, muỗng đặt chính giữa sàn tàu ngay trên nắp khoang hầm đóng kín. Bọn hải tặc lần lượt tháo dây cho từng người trong đám chúng tôi để ăn cơm chóng vánh rồi sau đó trói lại ngay. Đến lượt tôi được chúng cởi trói để ăn cơm. Cũng vẫn các thức ăn như hồi sáng mà chúng đã đem cho nhưng giờ lại có thêm món canh cá. Tôi lấy chén múc cơm và thức ăn nhưng chỉ nhấm nháp qua loa mà kín đáo nhìn bọn hải tặc, thử đoán thái độ chúng sẽ làm gì với chúng tôi.

    Tôi nhìn phía trên nóc ca bin tàu, một máy ra đa liên lạc vẫn đều đặn quay từng vòng. Gần đó ba tên hải tặc ngồi bàn bạc chuyện với nhau mà một gã đang dùng cái ống ngòm nhìn các phía xa xa chung quanh tàu. Một cột sắt khá cao, nằm cố định ngay chính giữa mặt sàn tàu mà sau này tôi mới biết đó là cột ròng rọc để kéo các thùng cá xuống hoặc lên khỏi khoang hầm của tàu. Chiếc tàu Thái Lan này tuy thân làm bằng gỗ nhưng ván cạnh tàu rất dày tới cả 30cm và riêng mũi tàu là nguyên cả một khối gỗ to đùng. Tàu to lớn, cứng chắc như vậy mà tông vào ghe nhỏ xíu của người Việt vượt biên thì còn gì là ghe. Hèn chi những câu chuyện về ghe vượt biên bị tàu hải tặc Thái Lan húc chìm không ngoa chút nào. Chợt tôi nghĩ là nếu bọn hải tặc cho mình ăn cơm thì hy vọng bọn chúng sẽ không giết chúng tôi. Thấy chúng đang nhìn ống nhòm chung quanh liên tục thì chắc chắn bọn nầy này đang lo sợ có các tàu khác hay đang trông chờ một cái gì đó. Và thật đúng như vậy. Bọn ngồi trên nóc ca bin chỉ tay xì xồ tiếng Thái Lan về phía xa xa rồi ngay lập tức, chúng ngưng cái vụ cởi trói cho chúng tôi ăn cơm. Có tiếng máy tàu vọng lại gần gần và rồi một chiếc tàu Thái Lan khác lớn hơn chiếc tàu đang bắt chúng tôi từ đâu chạy đến cập sát bên cạnh.

    Một tấm ván gỗ được bọn hải tặc đặt nối giữa hai chiếc tàu nầy. Hai gã thủy thủ từ con tàu mới đến bước sang con tàu bên này và cùng những gã hải tặc đến nhìn chúng tôi trong chốc lát. Chúng trò chuyện với nhau rồi đi thẳng về phía đằng sau ca bin con tàu và sau đó lùa ra một số đàn bà-con gái của ghe chúng tôi đi sang chiếc tàu lớn đó. Cả thẩy là mười người và trời ơi! có cả Ánh Phương, Mỹ An và vợ các tài công của chiếc ghe nữa. Tất cả họ giờ đã trông thấy rõ bọn chúng tôi trong tình cảnh tay chân đang bị trói chặt, ngồi thành một đám ngay tại mặt sàn tàu. Họ đã hiểu sự việc của cả ghe nên kêu gào và than khóc thảm thiết.

    Tiếng kêu cứu của Ánh Phương vọng đến tai tôi và cả hai chúng tôi đã trông thấy nhau. Đôi mắt Ánh Phương thảng thốt, tay chân nàng chới với vẫy tôi cùng tiếng nói:

    - Anh Vũ, anh Vũ ơi... cứu em.

    Tôi làm gì được cho nàng bây giờ đây khi tay chân bị trói chặt? Tôi buồn bã đưa mắt nhìn Ánh Phương cùng Mỹ An và những phụ nữ khác đang từng bước đi lần sang con tàu mới. Khi họ đi qua con tàu mới xong, đám hải tặc chờ sẵn ở bên tàu đó đã lùa cả bọn họ vào hết trong ca bin tàu. Ngay sau đó, con tàu Thái Lan mới này từ từ tách ra và chạy mất dạng.

    Đó là lần cuối cùng (cho đến tận bây giờ) tôi trông thấy Ánh Phương bằng xương bằng thịt.

    Bắt đi mười người trên ghe chúng tôi vậy thì còn tám người nữa của đám đàn bà-con gái vẫn còn ở dưới hầm tàu và trong số này có cả cô Hồng Thu Lan. Chuyện gì sẽ xẩy ra cho Ánh Phương, Mỹ An và đám phụ nữ trên chiếc tàu mới vừa chạy đi? Số phần nam nữ chúng tôi còn lại ở con tàu này sẽ ra sao đây?

    Bây giờ trời đã gần chiều và mây trôi từ nơi xa về che kín nhiều chỗ trên bầu trời. Đám hải tặc Thái Lan đột nhiên kéo ra hết trên mặt sàn tàu. Chúng tản ra, ba gã leo xuống ghe chúng tôi và bốn tên còn lại đứng trên mặt sàn tàu ngay chỗ chúng tôi. Bọn nầy định giở trò gì đây? Rồi lần lượt cứ hai gã hải tặc khiêng một người chúng tôi vất xuống cho hai gã khác đứng dưới ghe đón bắt lấy. Cứ đón được người nào trong đám nam giới chúng tôi thì hai gã hải tặc vất nằm lăn quay trên mặt sàn ghe. Đến phiên tôi, chúng khiêng thật nhẹ nhàng và vất cái vù xuống cho hai gã đồng bọn. Tôi nhắm mắt vì sợ hai gã ở dưới ghe đón hụt tay. Rủi mà như vậy thì mạng tôi sẽ đi đứt vì bị lọt ngay xuống biển. Nếu thân tôi, đầu tôi không đập vào thành ghe thì cũng làm mồi cho Hà Bá. Chắc chắn là như vậy vì tay chân bị trói chặt thì làm sao mà bơi được. Nhưng không. Các gã hải tặc Thái Lan này quá khoẻ mạnh. Chúng thẩy và bắt thân của 32 người nam giới chúng tôi thật gọn ghẽ, dễ dàng như người chơi bóng bắt trái banh vậy.

    Chúng tôi bị vất nằm hoặc ngồi đè cả lên nhau và lên cả đống hành lý, quần áo mà bọn hải tặc đã lục soát từ các túi xách vứt ra đang nằm vương vãi đầy trên mặt sàn ghe. Nhìn trên ghe rồi nhìn vào trong buồng lái, tôi thấy cháu trai con chị Ân ngồi sẵn ở đó từ lúc nào không biết. Cháu trai này tuy 14 tuổi nhưng thân hình lại nhỏ đẹt như một cháu bé mới 11 tuổi. Không biết khi bọn hải tặc lùa tất cả 18 phụ nữ lên con tàu lớn, chúng có bắt cháu lên theo chị Ân hay là chúng vẫn để cháu ngồi một mình ở dưới chiếc ghe này?

    Tiếng máy tàu chợt nổ lớn hơn và con tàu Thái Lan bắt đầu chạy, kéo ghe chúng tôi theo sau nó. Lần này thì tàu hải tặc chạy ở tốc độ bình thường và khoảng một giờ đồng hồ sau đó, tôi bắt đầu trông thấy bóng dáng các hòn đảo nằm ở xa xa. Chúng định làm gì chúng tôi đây?

    Trời đã về chiều, mây từ xa kéo đến càng lúc càng nhiều hơn làm cho bầu trời thêm xám xịt. Trời sắp mưa đến nơi rồi đây. Những hòn đảo đến gần chúng tôi hơn và rồi bọn hải tặc cho tàu chạy đến một đảo xa nhất. Đảo nầy khác với hòn đảo ngày hôm qua khi ghe chúng tôi ghé vào. Đến gần đảo, bọn hải tặc trên tàu đã cắt dây kéo để mặc chiếc ghe chúng tôi rồi chúng quay đầu con tàu và bỏ chạy ra khá xa.

    - Nó chạy lấy đà để húc vào ghe mình đó. Tiếng anh Tấn thét lớn.

    Và rồi có tiếng người khác gọi cháu bé trai con chị Ân trong buồng lái ra giúp cởi dây trói. Sau đó chúng tôi lần lượt cởi dây cho nhau và lo lắng nhìn bóng con tàu ở tuốt đằng xa tự hỏi nếu bọn hải tặc quay lại để húc chìm chiếc ghe này thì chúng tôi sẽ phải làm gì đây? Ai cũng nói cố gắng phải bơi vào bờ vì hòn đảo cũng không xa lắm. Nó húc ghe mình xong người nào còn bơi trên biển thì nó sẽ chạy tàu qua, cán cho chết luôn đó. Nhưng con tàu hải tặc càng lúc càng xa tít rồi nó mất dạng dưới đường chân trời. Như vậy, bọn hải tặc đã bắt đi luôn số nữ giới còn kẹt trong tàu và bỏ mặc chúng tôi trên chiếc ghe hư hỏng nằm gần hòn đảo này.

    Anh Tấn hối mọi người lấy những thanh ván ghe mà bọn hải tặc đã nạy banh ra khi chúng lục soát ghe ban nãy để làm các mái chèo ghe mà chạy vào hòn đảo. Hòn đảo này tuy trông rất gần nhưng chúng tôi cũng phải chật vật cả tiếng đồng hồ mới chèo chiếc ghe vào sát bờ được. Kiếm được chỗ cạn có bờ cát thoai thoải, chúng tôi cho ghe ghé vào. Các tài công liền nối những đoạn dây trói của từng người chúng tôi lại với nhau thành một sợi khá dài và họ đã cột chiếc ghe này nối vào một cành cây ở trên bờ đảo. Không có mỏ neo, một tài công tìm một hòn đá khá nặng và cột dây vào hòn đá đó để neo chiếc ghe đứng lại phòng hờ ghe trôi mất khi gặp nước triều lên hoặc xuống.

    Chúng tôi bắt đầu bới tìm lại túi xách, tư trang của mình trong số đồ đạc vương vãi mà bọn hải tặc vất đầy trên mặt sàn và dưới khoang hầm ghe. Tôi tìm được túi xách, quần áo của tôi rồi cả túi xách và áo quần của Ánh Phương nữa. Các giấy tờ của Ánh Phương nằm vương vãi trong túi xách vì bị bọn hải tặc lục soát. Tôi gom tất cả, bỏ trở lại vào cái bóp nhỏ của nàng và khoác các túi xách này lên vai rồi cùng những người khác, rời khỏi chiếc ghe, bước lội từng bước một để vào bờ.

    Chúng tôi đổ bộ lên đảo nầy với cả một sự mệt mỏi từ thể xác đến tinh thần. Chỉ có một ngày hôm nay thôi mà có quá nhiều chuyện xẩy đến với chúng tôi. Từ những phấn khởi khi nghĩ ghe tuy bị hỏng máy nhưng may gặp tàu đánh cá Thái Lan giúp sẽ sắp sửa cặp bến Bangkok sớm cho đến nỗi kinh khiếp khi bị lừa bắt trói trên boong tàu của chúng. Lúc đó ai cũng nghĩ mình sắp chết đến nơi. Giờ đây, chiếc ghe chúng tôi quay lại hòn đảo với hoàn cảnh còn tệ lậu hơn lúc trước nữa. Không ai buồn nói với ai một lời. Ai cũng một tâm trạng buồn bã. Bước dọc theo bờ cát, đến một mặt đá lớn bằng phẳng, tôi vất các túi xách và nằm vật ra đó. Một lát sau, Dũng bước đến và cũng nằm xuống gần ngay bên tôi. Dũng cũng cầm túi xách của nó và của Mỹ An. Tôi quay qua nhìn Dũng, mắt nó nhắm nghiền, nằm đó trong im lặng. Trải qua cảnh này ai mà không như vậy. Tôi biết nó cũng mệt mỏi như tôi. Gần đó không xa, những người đến trước đến sau đều tìm một chỗ nằm đây đó gần bên nhau trên các mặt đá phẳng. Không ai có cảm giác đói khát gì cả mà chỉ một nỗi lo sợ, thất vọng pha lẫn chán chường và mệt mỏi.

    Trời bắt đầu tối rồi tối hẳn. Tất cả chúng tôi nằm yên lặng trên các tảng đá như vậy và giấc ngủ dần dần đến với mọi người. Nửa khuya về sáng, trời đổ cơn mưa nhưng chúng tôi vẫn nằm im ngủ như vậy, bất chấp mưa rơi trên mặt và thấm ướt áo quần của mình. Chúng tôi mệt mỏi quá rồi. Rồi trời hết mưa, thỉnh thoảng có các cơn gió lạnh nhưng nhưng mọi người vẫn im lặng nằm ngủ. Rồi bình minh đến chung với tiếng chim chóc, côn trùng trên đảo kêu vang vang trong tia nắng sớm. Chợt có tiếng người nào đó hét lớn thảng thốt:

    - Ghe mình trôi tuốt đằng xa rồi kia kìa! Làm sao đây bà con ơi? Dậy ngay đi.

    Tôi và Dũng nghe vậy vội choàng dậy và chạy ngay ra xem. Chiếc ghe đã trôi tắp vào các ghềnh đá sát bờ không xa chỗ chúng tôi đổ bộ vào lúc chập choạng chiều hôm qua. Những ghềnh đá nầy là chỗ mà chúng tôi đã cố tránh không chèo ghe đi vào. Sợi dây mà các tài công cột từ chiếc ghe nối vào cành cây ở trên bờ đã bị đứt từ lúc nào. Có lẽ đêm khuya khi nước triều dâng cao, nước đẩy chiếc ghe lên và hòn đá làm neo không đủ sức giữ chiếc ghe đứng yên tại chỗ nên đã làm chiếc ghe dạt sang nơi khác. Dây nối từ ghe vào bờ quá nhỏ và vì bị kéo căng quá nên đã đứt. Không một ai trong chúng tôi liệu trước được sự việc ghe sẽ bị trôi vào ghềnh đá như vậy. Cứ tưởng là đã cột dây và có làm neo thì chiếc ghe sẽ an toàn nào ngờ. Chúng tôi vội chạy đến gần chỗ chiếc ghe vừa tắp vào. Chiếc ghe bị nước lùa đập vào các bờ đá và cơ khổ, nó đã bị gẫy ra làm hai khúc. Nước biển theo từng lọn sóng nhỏ vẫn vỗ từng đợt từng đợt vào thân ghe làm nó càng lúc càng nát thêm ra.

    Cả bọn chúng tôi nhìn nhau trong tuyệt vọng. Không có chiếc ghe thì chuyện đi đứng sẽ làm sao đây hả trời?

    Thân chiếc ghe dập dềnh phần nổi phần chìm theo từng con sóng xô mạnh vào các ghềnh đá rồi lại theo từng con sóng giật ra ngoài làm càng lúc càng nát hơn cho đến khi nó bị hất lên, nằm kẹt hẳn lại ở một bờ đá nhỏ. Tất cả đám nam giới chúng tôi đứng rải rác ở trên bờ buông mắt nhìn những phần còn lại của chiếc ghe trong im lặng. Mỗi người theo đuổi riêng tư ý nghĩ của mình. Thế là hết, không còn chiếc ghe thì niềm hy vọng sẽ tiếp tục cuộc hải hành coi như đã chấm dứt. Chợt có tiếng người rít lên:

    - Đ.M ! Trước mắt phải đập cho hai thằng tài công một trận rồi chuyện khác tính sau.

    Đó là tiếng của thằng Minh. Liền đó là tiếng những cú đấm, cái đá cùng giọng người kêu thét. Anh Tấn vội nhẩy vào can thiệp vụ xô sát giữa mấy người trẻ tuổi. Tôi cũng đến bên thằng Minh, giữ chặt lấy tay nó. Minh nhìn tôi, nhìn anh Tấn và các người khác rồi vừa thở vừa nói:

    - Các anh thử nghĩ tại sao em lại oánh hai thằng nó. Em với các anh là khách đi không biết chút gì về ghe về máy thì đã đành. Còn tụi nó là tài công mà lại để cho ghe chết máy rồi bây giờ lại dạt vào đá tan tành như vậy thì hỏi sao em không tức. Hai thằng nó đã được đi chùa cả vợ lẫn chồng mà còn để ghe như vậy. Cũng do tụi nó mà cả đám mình mới vướng tay bọn hải tặc.

    Tôi thấy lời thằng Minh nói rất đúng. Nếu ngày hôm qua mà máy ghe không bị hư thì chúng tôi đâu có bị vướng tàu hải tặc và không chừng giờ nầy ghe chúng tôi đã đến được bờ biển nào đó của Thái Lan. Hai người tài công mắt hoe đỏ trong dáng điệu thật thiểu não, một người nói với anh Tấn:

    - Anh coi, hai đứa em cũng đã cố hết sức mà không sửa được máy. Cũng không biết nguyên do tại sao nữa. Mọi lần trước, máy có hư thì em sửa nó nổ lại liền. Không hiểu sao... Em cũng đâu có muốn bị như vậy. Vợ em bị hải tắc bắt mất rồi kìa... Hu hu...

    Anh Tấn đứng bên cạnh hai người tài công nầy, quay nói với thằng Minh:

    - Thôi em, chuyện đã xong rồi đừng nhắc lại làm gì thêm buồn. Có lẽ chiếc ghe mình cái số của nó phải chìm xuống biển nên trời mới xui khiến nó bị như vậy. Chiều tối hôm qua thì ai cũng mệt mỏi không buồn nói chuyện với nhau nữa. Anh thấy hai cậu đây cũng đã làm hết sức họ rồi. Máy móc có khi còn mới toanh mà nó vẫn bị trục trặc, có ai biết trước được đâu em. Bây giờ không còn ghe thì mình hợp sức lại cùng tính chuyện khác hơn là gây gổ với nhau.

    Anh Tấn kín đáo ra dấu cho tôi dìu thằng Minh đi về hướng khác. Lần lượt từng người tản ra. Tôi, Dũng và thằng Minh đi trở về chỗ nằm cũ. Gió buổi ban mai từ hướng biển thổi vào bờ mát lạnh. Chỉ vài tiếng sau tôi đã biết sơ về hòn đảo. Nó nhỏ hơn hòn đảo ngày hôm qua khi ghe chúng tôi ghé vào và cũng có các nguồn nước ngọt từ trong hốc đá chẩy ra. Cây cối trên đảo thưa thớt nhưng đều là loại cây khá lớn. Các chùm lan Ngọc Điểm hoa tím mọc tầm gửi đó đây trên các cành hoặc trên thân cây cao. Bình thường mà trông thấy hoa phong lan thì chắc chắn tôi sẽ tìm cách để trèo lên gỡ nó xuống cho bằng được nhưng ở hoàn cảnh này, thì cũng chẳng thiết gì đến chúng.
    Phạm Thắng Vũ
    (còn tiếp)
    Last edited by khieman; 06-10-2014 at 01:37 AM.

  4. #4
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Gần trưa, ai nấy đều cảm thấy đói bụng. Đi trở lại chỗ chiếc ghe bị sóng đánh tan hoang, vài người chúng tôi cố men theo các ghềnh đá ra được chỗ ghe bể để thu nhặt tất các túi xách phụ nữ, nồi niêu chén bát và ít gạo còn sót lại trong các thùng nhựa. Gạo mang lên bờ, anh Tấn đổ ra đong được cả thẩy là 33 chén vừa đúng với số 33 người chúng tôi có mặt trên đảo. Bây giờ lại ngay cơn nước ròng, trơ ra các bãi cát, bờ đá, anh Tấn liền phân công chúng tôi người thì đi thu nhặt ốc biển, lật các hòn đá để bắt Cua bắt Còng hoặc Cá nhỏ mắc cạn, người thì thu gom củi khô và nhóm bếp để nấu cháo ăn ngay. Anh Tấn nói mọi người:

    - Mỗi bữa chúng ta chỉ nấu một chén gạo thôi. Ba bữa cháo cho một ngày ăn cầm chừng xem sao đã. Chúng ta phải chấp nhận chịu đói một chút. Nhớ là gặp trái cây lạ trên đảo thì đừng có ăn ngay.

    Không có bàn tay phụ nữ trong việc nấu ăn, đám nam giới chúng tôi chật vật khá lâu mới gầy được nồi cháo cho cả bọn. Cũng giống như lúc ở hòn đảo ngày hôm qua, chúng tôi bắt được khá nhiều ốc, cua, cá trong các chỗ cạn. Tuy vậy nồi cháo vẫn loãng vì ít gạo. Ngồi gần bếp lửa, tôi hỏi anh Tấn về vệt máu ở trên mũi và vết bầm nơi gò má anh thì anh cho biết ngay lúc vừa lên tới sàn tàu, khi bọn hải tặc giở trò, anh đã đánh trả lại chúng ngay và chỉ bị khuất phục bởi họng súng lục của gã đầu đảng. Anh nói:

    - Vết bầm ở gò má là do thằng đầu đảng dùng báng súng đánh vào đó, tới giờ mà anh vẫn còn rêm.

    Như vậy chỉ có anh Tấn là người duy nhất trong ghe bị bọn hải tặc đả thương. Cháo nấu chín, chúng tôi múc đều ra cho từng người ăn lần lượt và anh Tấn là người ăn sau cùng. Xong, tôi kiếm một chỗ khuất để xem lại túi xách của Ánh Phương. Hai bộ quần áo cùng các áo ngực, quần lót của nàng còn đây mà bây giờ tình cảnh nàng ra sao không biết nữa? Mở xem lại chiếc bóp nhỏ xinh xắn của nàng, tôi thấy có hai thỏi son môi, một bút chì kẻ mắt, một cái gương soi bé tí nằm lẫn lộn với chai dầu gió Song Thập cùng vài viên kẹo và một lọ nhựa nhỏ đựng ít viên thuốc cảm, thuốc chống ói bên trong. Một phong bì cũ với địa chỉ của anh trai nàng ở bên nước Úc. Tôi cầm xem tấm thẻ Chứng Minh Nhân Dân của nàng. Hoàng Thị Ánh Phương số nhà... phường 12, quận 10. Ánh Phương, Ánh Phương ơi! Tôi gọi nhỏ tên nàng. Ánh mắt của em khi nhìn tôi trong những giây phút cuối trên con tàu Thái Lan cũng như sự đau nhói trong tim tôi khi đó, chúng ta đã là một phần đời của nhau, ít nhất là trong lúc này. Sẽ không bao giờ tôi quên được hình ảnh của em. Bỏ quê hương, xa lìa người thân ruột thịt để trốn chạy bọn Việt Cộng vô luân mà đâu ngờ chúng ta lại sa vào tay bọn hải tặc Thái Lan hung ác. Tội nghiệp thân em quá! Tôi xem lại ảnh của Ánh Phương trên tấm thẻ rồi nhớ lại khuôn mặt nàng trong ngày hôm qua. Ánh Phương hiền lành khả ái mà không lẽ phần số em lại bất hạnh quá vậy sao! Tôi ngồi im, thẫn thờ nhìn ra hướng biển. Con tàu hải tặc Thái Lan khốn kiếp đó đã mang em đi nơi nào rồi? Tôi đã giữ tấm Chứng Minh Nhân Dân đó và nhờ nó cùng các vật dụng trong cái bóp nhỏ mà gần mười năm sau tôi mới tìm lại được Ánh Phương. Nhưng đó là chuyện về sau.

    Cũng theo phân công của anh Tấn, chúng tôi chia nhau thành hai nhóm năm người đi ngược về hai phía để thám sát hòn đảo. Mong rằng trên đảo hoang sẽ có loại cây nào cho trái chín để chúng tôi ăn thêm. Chúng tôi cũng trông thấy các vỏ kem đánh răng hiệu Như Ngọc, vỏ chai xì dầu hiệu Nam Dương... vất rải rác ở vài chỗ trên đảo và còn gặp một cái bếp làm bằng ba hòn đá chụm lại nằm trong một chỗ kẹt kín gió. Tro đen, các mẩu củi nấu dở vẫn còn sót nguyên. Trên một tảng đá bằng phẳng ở dưới một tàng cây bóng mát, nằm trơ trọi hai cái chén và một cái nồi nhỏ đầy nước cùng rêu xanh bám chung quanh. Một cái áo kiểu Thanh Niên Xung Phong được máng chặt vào kẽ cành cây ở gần ngay đó. Chiếc áo cũ mốc cứng ngắc. Nó được tay người nào đó máng ở đây từ rất lâu rồi. Những người Việt vượt biên nào đã dùng bữa cơm trên tảng đá ở đây? Chúng tôi đi dọc theo bờ hòn đảo như vậy cho đến khi cả hai nhóm gặp lại nhau.

    - Đảo này ở gần bờ thì không có cây trái gì ăn được hết. Không biết bên phía trong thì sao nữa? Một người trong nhóm kết luận.

    Quay trở về chỗ cũ, loay hoay không làm gì mà trời đã bắt đầu xế chiều. Bữa ăn chiều của chúng tôi cũng chỉ duy nhất là món cháo ốc hoặc ăn thêm vài con cua, cá bắt được thôi. Một người chép miệng than phải chi ghe giữ lại được một tay lưới thì bây giờ còn có cái để bắt cá mà ăn. Đương không lại đem cho ghe chài Phú Quốc hết tất cả. Ai cũng tiếc rẻ nhưng có ai biết trước chuyến đi để mà liệu được!

    Hai ngày trôi qua rồi ngày thứ tư và hôm nay là ngày thứ năm chúng tôi đã sống trên đảo hoang. Mỗi khi chiều xuống thì từng con dơi lớn bay ra kiếm ăn từ tàng cây cao nào đó trên đảo. Đây là loại dơi quạ. Thân hình chúng thật to với sải cánh khá rộng. Khi chúng bay vút qua gần chúng tôi, ai cũng thấy rõ đầu chúng như đầu con chó nhỏ với cái miệng há lớn đỏ lòm cùng răng nanh trắng bóc. Có người thắc mắc những con dơi đó bay đi kiếm ăn ở đâu? Nghe tiếng kêu, tiếng vỗ cánh của chúng làm ai cũng sợ chúng đáp bám lên người rồi hút máu của mình. Đêm về trời lạnh, có người lôi còn cả quần áo sót lại của nữ giới ra đắp lên người thay cho chăn nữa. " Có úm chút hơi hám của các em thì thấy ấm hơn nghe mấy cha ", một người trong ghe nói đùa. Hai người tài công cho là sẽ gặp lại vợ họ vì sau khi bọn hải tặc chán chê với đám đàn bà-con gái trên ghe thì chúng sẽ đem họ trở về đây. Nhưng 5 ngày trôi qua rồi mà vẫn không thấy bóng hai chiếc tàu Thái Lan đâu, giờ trông mặt họ buồn bã thấy rõ. Ai cũng quả quyết hải tặc bắt đám đàn bà-con gái ở ghe vượt biên thì không đời nào có vụ chúng quay trở lại để trả người. Thêm vào chuyện cháu bé trai con chị Ân nữa. Cứ chiều đến là cháu bắt đầu khóc đòi mẹ vì nhớ và vì đói bụng. Do vậy mà chúng tôi mới biết còn có một thanh niên em ruột của chị Ân đi cùng ghe nữa. Hoàng, tên người thanh niên này cho biết về cháu ruột mình:

    - Tên nó là Sang. Cha nó 5 năm trước đây vượt biên mà không ai nghe được tin tức gì cả. Chắc ghe đã chìm hay bị hải tặc gì đó. Giờ thì đến phiên mẹ của nó. Tội nghiệp cho thằng nhỏ! Sang ơi Sang! Cháu đừng khóc nữa, cháu càng khóc thì càng làm cậu đây thêm đau lòng, rối trí lắm... Cháu biết không?

    Không còn ghe, chuyện vượt biên của chúng tôi coi như tắt lịm. Bây giờ chúng tôi chỉ cầu mong có ghe, tàu nào đó ghé vào đây để giải cứu chúng tôi. Nếu gặp được tàu ngoại quốc rồi họ sẽ đưa chúng tôi đến một trại tị nạn trong vùng thì càng tốt nhưng trong vùng vịnh Thái Lan này và nhất là chúng tôi đang ở trên một hòn đảo nhỏ xa khuất thì chuyện hy vọng có tàu ngoại quốc ghé vào là điều rất mong manh. Cầu có ghe, tàu nào đó biết có người lâm nạn kẹt trên đảo để đến cứu dù biết sự giải cứu này có thể sẽ dắt chúng tôi vào nhà giam. Thà là vậy mà còn đường sống hơn là chết đói dần mòn ở đây nên, sau khi tập họp tất cả 32 người lại bàn bạc anh Tấn đã quyết định phải đốt các đống lửa thật lớn.

    Chúng tôi lấy thêm dầu từ dưới lòng ghe bể rồi tản nhau ra đi thu gom các cành cây khô và làm thành hai đống củi khá lớn ở gần bờ biển rồi bắt đầu đốt lửa cho cháy liên tục. Cứ kiếm thêm được củi thì vất ngay vào hai đống lửa để giữ cho nó khỏi tắt. Anh Tấn cũng nói chúng tôi căng các sợi dây để treo quần áo của đám đàn bà-con gái bỏ lại để mong có ghe, tàu trông vào sẽ nghĩ là có phụ nữ trên đảo thì có nhiều cơ may được họ giải thoát hơn. " Mình phải làm vậy thôi ", anh Tấn kết luận. Sau, mới biết suy tính của anh Tấn rất chính xác.

    Sáng sớm ngày thứ bẩy có ai đó báo cho anh Tấn biết có bóng tàu lảng vảng ở ngoài khơi xa. Chúng tôi vội vất thêm củi vào các đống lửa đốt chúng cháy to hơn. Bóng tàu hướng vào bờ và cả thẩy là hai chiếc một lớn một nhỏ. Chiếc nhỏ cỡ ghe chúng tôi nhưng là loại tàu đi biển. Hai chiếc này có màu xám đen và không có vẻ gì là ghe đánh cá. Rồi khi chúng đến gần, chúng tôi biết đây là tàu nhỏ của hải quân. Một cây súng đại liên 12 ly 7 gắn ở ngay đầu mũi chiếc lớn và một lá cờ nửa đỏ nửa xanh dương với hình 5 ngọn tháp vàng trên nóc buồng lái của chiếc nhỏ. Vậy, đảo hoang chúng tôi tá túc thuộc lãnh hải của nước Khmer rồi. Chúng tôi chạy vội núp sau các gốc cây lớn trong nỗi lo sợ khi nhìn thấy bốn người Khmer tay võ trang súng AK 47, B 41 và RPD đang từ chiếc tàu nhỏ bước lội từng bước vào bờ.

    Ngay khi vừa đặt chân lên được bờ đảo. Gã Khmer thủ cây súng RPD quỳ một chân xuống, tay y hướng nòng súng lên ngọn các hàng cây gần chỗ ẩn nấp của chúng tôi và khạc một tràng liên thanh. Tiếng súng nổ đinh tai cộng với tiếng cành cây rơi gẫy cùng tiếng kêu táo tác của những con chim trên đảo đã làm cho chúng tôi càng sợ thêm. Chuyện gì sẽ xẩy ra nữa đây? Chúng tôi đốt lửa để mong có ghe tàu biết tình cảnh người lâm nạn trên đảo mà đến cứu. Giờ có người đến thì chúng tôi lại sợ. Kỳ lạ chưa !

    Chúng tôi mạnh ai nấy chạy tuốt vào rừng tìm các chỗ kín đáo dưới các gốc cây, hốc đá để trốn. Tôi, Dũng và anh Tấn ngồi núp chung một nơi không xa chỗ hàng ngày chúng tôi thường nấu cháo mà gần đó là hàng dây phơi quần áo mầu mè của đám đàn bà-con gái. Ngồi đây nhìn bốn người Khmer đó mà không biết họ lành dữ như thế nào? Sau loạt đạn súng trường RPD thị uy, bốn người Khmer đi thẳng lại chỗ đặt bếp của chúng tôi. Họ nhìn vào cái nồi cháo trống trơn sau đó đi đến hàng dây phơi quần áo và lật vài chiếc áo chiếc quần ra xem xong họ nhìn chung quanh, miệng xì xào nho nhỏ.

    Không thấy bóng một người nào trong số chúng tôi, bốn người Khmer chụm vào nhau bàn bạc trong chốc lát rồi một người hướng mặt vào trong rừng, gọi lớn:

    - Nghe đây, nghe đây... tất cả người Duôn (người Khmer gọi người Việt là Duôn) phải ra bên ngoài ngay. Hai tay đưa phải lên đầu... nghe rõ chưa. Người Khmer nói bằng tiếng Việt và y lập đi lập lại:

    - Chúng tôi đến đây là để giúp người Duôn. Đừng sợ hãi. Ra ngay đi. Hai tay đưa lên đầu. Nghe chưa?.

    Vài người đã đi ra rồi sau đó thêm nhiều người nữa ra tiếp. Trong số họ có cả nhóm của thằng Minh, hai cậu cháu Hoàng-Sang và các thanh niên khác. Những người đi ra làm thành một đám lố nhố đứng chung quanh bốn người Khmer rồi người Khmer biết tiếng Việt bảo những người trên ghe đi vô rừng kêu hết tất cả người đang trốn phải đi ra hết. Tiếng thằng Minh gọi lớn:

    - Anh Vũ, anh Tấn ơi! Đi ra đi. Các anh khác nữa ra đi. Đừng bỏ trốn nữa. Mấy người lính Kampuchia đến giúp mình chứ không làm hại mình đâu. Đừng sợ họ. Ra ngay đi, các anh.

    Tôi và Dũng đưa mắt nhìn anh Tấn, hỏi:

    - Tính sao bây giờ đây hả anh Tấn? Mình cũng đi ra chứ anh?.

    Anh Tấn im lặng, nhìn hai chúng tôi mà không trả lời. Vừa lúc đó, hai người tài công từ chỗ nào đó chạy đến nhập bọn chung với ba người chúng tôi. Một trong hai người nói:

    - Đừng có đi ra. Nguy hiểm lắm. Coi chừng bọn lính này là tụi Khmer Đỏ đó.

    Anh Tấn lắc đầu, trả lời họ:

    - Cờ nửa đỏ nửa xanh dương với 5 ngọn tháp vàng là của phe Khmer Hiêng Xom Rin chứ không phải bọn PolPot-Iêng Sa Ri đâu. Họ là đàn em của tụi Việt Cộng đó. Thôi mình ra cho rồi xem sao đi các em.

    Anh Tấn nói đúng, bọn đầu lãnh Cộng Sản Hà Nội khi dựng đám Khmer tay sai đã vẽ cho họ một lá cờ y chang cờ của đám Việt Cộng miền Nam VN tức Mặt Trận Giải Phóng trước đây trong thời chiến tranh Việt Nam. Tôi và Dũng đứng lên cùng một ý nghĩ chung với anh Tấn nhưng hai người tài công lại quyết định khác. Họ nói là phải trốn không ra để chờ, hy vọng vài ngày nữa thì các tàu hải tặc Thái Lan sẽ đem đám đàn bà-con gái về trả lại. Họ sẽ gặp mặt lại vợ họ rồi họ hỏi tôi và Dũng có trốn trong rừng chung với họ không? Tôi và Dũng cùng lắc đầu.

    - Mấy ông không thương vợ mấy ông sao? Một người tài công hỏi hai đứa tôi.

    Trời đất! Thì ra hai người tài công đã nghĩ Ánh Phương, Mỹ An là 2 người vợ của tôi và của Dũng. Thảo nào họ mới chạy đến chỗ tôi và Dũng đang trốn để mong có thêm bạn đồng hành chung với họ. Tôi cho họ biết là hai cô gái đó với chúng tôi chỉ mới quen nhau khi xe phải ghé Mũi Nai vì trễ chuyến hẹn. Sự thân mật của tôi và Ánh Phương cũng như giữa Dũng và Mỹ An nên khiến hai người tài công đã nghĩ chúng tôi là các cặp vợ chồng cùng đi chung chuyến vượt biên như họ.

    - Tôi cũng nghĩ như mấy chú tài công, dè đâu cô cậu chỉ mới quen nhau thôi... Không phải là vợ chồng. Anh Tấn ngập ngừng nói.

    - Vậy các anh định sẽ đi ra thật sao? Người tài công đó nhìn tôi và Dũng mà hỏi tiếp.

    - Phải đi ra thôi anh à. Mình đốt lửa mấy hôm nay để mong có người lại giải thoát cho. Theo tôi nghĩ thì các anh cũng nên ra đi, đừng tìm cách ở lại đảo này không tốt và cũng đừng nghĩ là bọn hải tặc đó sẽ quay trở lại đây để trả người. Tôi ân cần trả lời.

    Nhưng hai người tài công vẫn nhất định trốn ở lại. Họ quả quyết chỉ vài ngày nữa thôi thì tàu hải tặc Thái Lan sẽ quay trở lại đảo hoang và rồi họ sẽ gặp lại các người vợ của họ.

    - Các chú chắc mọi việc sẽ xẩy ra như vậy? Anh Tấn chợt xen vào, hỏi.

    Hai người tài công nhìn nhau rồi nhìn ba người chúng tôi và khẽ gật đầu. Anh Tấn tiếp:

    - Nếu cho suy nghĩ của các chú là đúng đi rồi với 18 người đàn bà-con gái đó cộng thêm hai chú nữa thì lấy gì để ăn... lấy ghe đâu ra mà đi vượt biên tiếp? Tôi nghĩ mình nên ra cho xong, trốn ở lại đây rồi cũng chẳng đi đến đâu.

    Hai người tài công dụ dự không trả lời nhưng khi ba chúng tôi chuẩn bị bước ra thì vội dặn chúng tôi đừng nói gì về họ cho đám người Khmer biết rồi cả hai chạy phắt ngay vào trong rừng luôn. Tôi hiểu tình cảnh của hai người tài công. Thật tội nghiệp! Họ quá thương vợ họ đến nỗi vẫn tin là bọn hải tặc Thái Lan sẽ quay lại đảo để trả đám đàn bà-con gái nhưng suy nghĩ của họ thật viển vông. Tôi chưa từng nghe chuyện hải tặc Thái Lan bắt được đàn bà-con gái Việt rồi sau đó lại đem trả người về cho ghe. Nói là nói vậy thôi chứ nếu Ánh Phương mà là vợ tôi thật thì có thể tôi cũng sẽ hành động giống như họ. Họ đã rối trí rồi. Cầu mong một phép mầu nào đó đến với hai người tài công chung tình.

    Ba chúng tôi là những người đi ra sau cùng. Người Khmer biết tiếng Việt thấy chúng tôi thì hất hàm, hỏi:

    - Đàn bà con gái Duôn đâu? Gọi họ ra đây luôn, trốn làm chi nữa.

    Chúng tôi nói là không có phụ nữ nào cả thì y chỉ tay vào số quần áo nằm phơi trên dây hỏi vậy quần áo này ở đâu ra? Chúng tôi liền kể vắn tắt cho người Khmer biết sự việc đã xẩy ra trong ngày hôm đó. Y lắng nghe chăm chú rồi hỏi ai là leader của ghe thì nhiều người đưa mắt về phía anh Tấn nhưng anh Tấn thanh minh không phải là leader mà cũng chỉ là một khách đi bình thường như các người khác. Hỏi đến các tài công thì không thấy nên người Khmer đó nói chúng tôi phải gọi họ đi ra. Chúng tôi lại đi vào rừng tìm, cố sức gọi lớn mà cũng chẳng thấy họ đâu cả. Sau cùng, những người Khmer bảo chúng tôi dắt họ đến chỗ chiếc ghe bị hỏng. Họ trèo qua các ghềnh đá để vào xem xét chiếc máy của ghe rồi quyết định là chúng tôi phải tháo cái máy đó và mang ra chỗ bờ biển cho họ. Người Khmer biết tiếng Việt lấy tay chỉ định tôi, anh Tấn, Dũng, thằng Minh và 4 thanh niên khác cho việc tháo máy. Tháo máy ra thì không khó nhưng 8 người chúng tôi đã chật vật vô cùng mới mang được cái máy ghe đến một bờ cát trống trải sát bờ nước biển theo lệnh của người Khmer đó. Tay chân chúng tôi ai cũng bị các mảnh sắc của loài sò bám cứng ở bề mặt các tảng đá cứa đứt nhiều chỗ, chảy máu khá nhiều.

    Khi có cái máy ghe nằm ở bờ cát rồi, những người Khmer dùng một sợi dây cáp nối từ ròng rọc trên tàu họ, cái máy của ghe chúng tôi đã được kéo thẳng lên tàu luôn. Xong xuôi, mấy người Khmer mang vào bờ cho chúng tôi ít gạo, hai hộp thịt heo kho, ít cá khô và một bắp cải tươi, bảo chúng tôi nấu cơm để ăn chung với họ. Chúng tôi vội nhóm bếp lại và gần một giờ đồng hồ sau đã có một bữa cơm ngon lành cho cả bọn. Ăn uống no nê, các người Khmer này đã gom hết tất cả quần áo của đám đàn bà-con gái trên dây phơi vào trong các túi xách của họ rồi ra lệnh cho chúng tôi chuẩn bị rời đảo hoang để theo họ về tàu.

    Không thấy hai người tài công đi ra, các người Khmer để lại cái nồi nấu cơm cùng một bao độ 10 kg gạo và ít cá khô trên bờ đá cạnh chỗ nấu ăn rồi bảo chúng tôi viết ít chữ là 15 ngày nữa khi đi tuần tra thì tàu của họ sẽ ghé lại đây. Thôi vậy cũng được, mong rằng đến khi đó thì hai người tài công sẽ theo về với chiếc tàu tuần duyên Khmer. Tất cả chúng tôi bước lội từng bước theo chân những người Khmer để ra con tàu nhỏ. Từ con tàu nhỏ, chúng tôi được các người Khmer chuyển sang qua chiếc tàu lớn. " Tàu tụi tui sẽ chạy về đảo Cô Tan ", người Khmer biết tiếng Việt nói với chúng tôi. Dõi mắt nhìn đảo hoang một lần cuối, tôi vẫn thấy hai đống lửa trên bờ cháy nghi ngút với cột khói nhỏ. Chắc chắn là đâu đó dưới các tàng cây, bờ đá... các tài công cũng đang nhìn hai chiếc tàu càng lúc càng xa dần họ. Cái nồi, bao gạo 10kg, gói cá khô vẫn còn nằm nguyên ở chỗ cũ. Chẳng thấy người tài công nào ra lấy chúng hết. Tôi cố nhìn mãi nhưng sau cùng, hình ảnh này xa dần, nhỏ dần và mất hẳn.

    Tàu sẽ chạy về đảo Cô Tan. Hai tiếng Cô Tan tôi thấy rất quen. Hình như tôi đã nghe một câu chuyện nào đó về cái tên đảo Cô Tan ở trong vùng vịnh Thái Lan nhưng mà là chuyện gì thì chịu, không nhớ ra được. Cố gắng lục lọi trí nhớ của mình mà cứ mài mại hoài vẫn không ra. Thôi! Đành nghĩ chuyện khác vậy. Quan sát chung quanh chiếc tàu đang chở chúng tôi. Chiếc nhỏ chạy song song mé phía sau nhưng tốc độ của nó cũng chẳng kém gì chiếc lớn. Đây là các loại tàu tuần duyên hải quân. Tuy nhỏ hơn chiếc tàu đánh cá Thái Lan và thân tàu bằng thép nhưng sức chạy của chúng rất nhanh để lại đằng sau hai vệt nước dài trắng xoá. Đúng là tàu hải quân. Tôi thầm đếm có cả thẩy là tám người Khmer trên con tàu lớn. Tàu nhỏ bên kia thì chỉ năm người. Vậy là đúng cấp số của một tiểu đội lính. Quần áo những người Khmer mặc là loại kaki màu phân ngựa. Chân họ đi loại giầy bata như loại giày của bộ đội Việt Cộng. Gần mũi tàu là một cây đại liên 12 ly 7 nòng chỉa thẳng về phía trước. Các khẩu súng AK 47, B 41 và RPD cùng các dây đeo băng đạn để nằm đây đó trên tàu. Đám 31 người chúng tôi ngồi sát bên nhau trên mặt sàn tàu và cả trong buồng lái nữa. Tôi nói nhỏ với anh Tấn:

    - Anh coi súng ống của họ kìa. Để sơ hở vậy không sợ bọn mình có thể chộp lấy các cây súng này mà uy hiếp cướp tàu họ luôn sao?

    - Lính Khmer là đầy tớ của đám Việt Cộng bên nước mình. Bọn Việt Cộng là chủ của tụi nó nên khi nó thấy mình người Việt chắc cũng nghĩ như vậy. Chủ thì có bao giờ tìm cách lật đổ thằng đầy tớ đâu, phải không?

    Anh Tấn cười cười, nói thêm:

    - Mình ghét Việt Cộng thật nhưng phải nhìn nhận là chúng đã làm cho bọn Khmer sợ nên mình mới được đám hải quân Khmer đối xử như vầy chứ Vũ biết dân Khmer có đời nào ưa người Việt nước mình. Mối thù truyền kiếp mà. Do quan hệ ngoại giao cả thôi ... Y như mình không ưa bọn Tàu khựa vậy đó.

    Ngừng một lát anh Tấn nói tiếp:

    - Sự thực là bọn Việt Cộng đâu có tử tế gì với người vượt biên mình. Chúng đã từng rượt theo ghe vượt biên rồi dùng cây 12 ly 7 bắn thẳng vào ghe nữa đó Vũ. Còn mình mà cướp tàu họ rồi làm sao mà lái đây. Tài công đâu? Có cái máy ghe hư còn bó tay thì có cho không cái tàu sắt này cũng đành đầu hàng thôi. Đám lính Khmer nầy họ cũng biết điều đó chứ bộ.

    Tàu chạy qua rất nhiều hòn đảo. Chúng tôi thấy khá nhiều tàu đánh cá Thái Lan y chang loại tàu đã trấn lột và bắt nữ giới trên ghe chúng tôi rồi tàu lướt qua những chiếc ghe nhỏ bé của ngư dân Khmer nữa. Trời chiều bảng lảng thì tàu chạy vào một vùng có nhiều hòn đảo liền lạc với nhau rồi nó từ từ chạy chung quanh một đảo lớn nhất. Đám lính Khmer trên tàu bắt đầu đeo các dây đạn vào người và cầm vũ khí của họ trở lại. Chúng tôi sắp sửa đặt chân lên đảo Cô Tan rồi đây. Tàu giảm tốc độ dần dần và cập vào một cầu tàu bằng bê tông xây cạnh ngay sát bờ đảo.

    Theo chân những người Khmer, toàn bộ 31 người chúng tôi đi trên con đường trải đầy đá sỏi dẫn vào bên trong đảo. Tiếng ai đó trong nhóm chúng tôi nói vui: " Chúng ta đang đi trên đường sạn đạo đó nha ". Vài người Khmer từ phía trong chạy ra đón những người lính trên tàu vừa đến. Tiếng họ nói líu lo với nhau mà cặp mắt trắng dã đôi lúc nhìn về phía người chúng tôi. Rồi một người còn khá trẻ trong đám lính khoát tay ra dấu cho chúng tôi phải đi theo. Gã Khmer đó dẫn chúng tôi băng qua vài dẫy nhà gạch lợp tôn rồi quẹo trái, đi thêm qua vài dẫy nhà nữa thì y dừng lại trước một căn nhà khá lớn. Gã lấy chìa khóa mở cửa, bật công tắc điện chiếu sáng trong phòng rồi quay ra nói và với chúng tôi bằng tiếng Việt thật sõi:

    - Tôi là Sok Sammath. Các anh ở tại đây đêm nay. Không ai được tự ý đi lang thang qua các nhà khác và chỉ được phép đi nhà đái nhà ỉa ngay phía đàng sau khi cần thôi. Điện sẽ tắt vào lúc 10 giờ tối. Tôi sẽ mang đèn dầu ngay cho các anh. Các anh tự sắp xếp lấy chỗ riêng cho từng người đi. Nghe rõ chưa?

    Nhiều cái đầu trong chúng tôi cùng gật, có người thì nói dạ. Gã Khmer quay ra ngoài căn nhà liền. Chúng tôi tản ra nhanh chóng để kiếm chỗ nằm riêng. Đây là một căn nhà thật lớn, rộng và không hề có giường, tủ mà thay vào đó là các hàng bàn ghế như loại bàn ghế học sinh trong trường học. Mỗi người chúng tôi liền chiếm lấy một cái bàn. Tôi, Dũng và anh Tấn lựa ba cái bàn nằm kề sát nhau ở gần cuối hàng. Chúng tôi phải lấy quần áo bẩn của riêng mình để phủi bụi bám ở trên mặt bàn. Căn nhà này đã bị bỏ phế không dùng từ lâu. Một cái bục gỗ loại dành cho người đứng diễn thuyết được đặt ngay ở bên trái một góc phòng. Tôi thấy một tấm bảng lớn mà ai đó đã tháo để nằm dưới mặt đất sát vách tường. Đến gần, thấy mặt sau bảng có viết dòng chữ gì đó, tôi vẫy anh Tấn lại cùng xem. Chúng tôi lật tấm bảng, một hàng chữ Nhà Truyền Thống mầu vàng chói trên đỏ chói.

    - Nơi đây đã từng là căn cứ của bọn Việt Cộng em à. Anh Tấn nói nhỏ.

    Tôi chưa kịp nói với anh Tấn thì tiếng một người nào đó vang lên:

    - Ê! Có báo cũ nữa nè mấy cha. Lấy ra mà lót nằm cho nó sạch.

    Thì ra ở dưới các hộc bàn có xếp đầy những tờ nhật báo Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân đã cũ của Việt Cộng. Tôi lấy ra vài tờ báo xem thử. Báo cũ thật. Số ra từ ngày 12 tháng 5 năm 1983 lận. Vài người lấy báo đang định trải trên mặt bàn thì ai đó lên tiếng:

    - Đừng tự ý lấy báo trải lên bàn. Phải hỏi xem họ có cho không đã.

    Người khác thì nói:

    - Báo chữ Việt, tụi Khmer này biết cóc gì mà đọc.

    Tiếng người khác đáp lại:

    - Không biết tiếng Việt hả? Thế cha Khmer trên tàu và cha nội vừa rồi nói với mình bằng tiếng gì vậy? Theo tôi, cứ để yên đó rồi hỏi họ trước xem sao, phải không anh Tấn?.

    Anh Tấn gật đầu, trả lời:

    - Đúng, cứ để yên chỗ. Biết đâu người Khmer để dành báo Việt Nam như một kỷ niệm hữu nghị gì đó của họ. Đang trong tay họ thì mình đừng làm cái gì khiến cho họ ghét.

    Vừa lúc, hai người Khmer bước vào, một người trên tay cầm cây đèn dầu khá lớn còn người kia thì tay ôm quả mít chín bốc mùi thơm nồng nặc. Một trong hai gã Khmer nói:

    - Tôi cho các anh quả mít chín, bây giờ cần ba người cùng đi theo tôi để lấy thức ăn nghe.

    Dũng, thằng Minh và một thanh niên khác liền đi theo hai gã Khmer. Không lâu sau đó, một nồi lớn mì sợi ăn liền đã nấu sẵn còn nóng, bốc hơi thơm lừng được Dũng và thằng Minh khệ nệ xách về. Cậu thanh niên một tay lỉnh kỉnh tô-muỗng, tay kia xách theo một ấm nước nóng. Chúng tôi chia mì ra cho mỗi người một tô khá đầy cùng ăn xong rồi quây quần ngồi bên nhau ăn mít chín. Đây là loại mít ướt khi chín rất mềm chỉ cần dùng tay lay cuống, tách vỏ ra rồi bốc từng múi ăn. Kể từ hôm xuống ghe vượt biên ở Vàm Rầy đến hôm nay chúng tôi mới được ăn trái cây tươi. Sok Sammath từ bên ngoài đi vào nhìn cả bọn chúng tôi đang ăn uống bên nhau, y khẽ mỉm cười. Gã cán bộ hải quân Khmer này có khuôn mặt đẹp trai và nụ cười rất tươi. Hàm răng y trắng đều làm tôi nhớ lại hình quảng cáo anh Bẩy Chà của hiệu kem đánh răng Hynos thời trước. Sok Sammath cho biết từng người chúng tôi sẽ phải làm việc với ban chỉ huy đảo về sự việc đã xẩy ra trong chuyến đi. Y cũng cho biết tối nào cứ đúng 10 giờ thì máy phát điện sẽ ngừng chạy. Do vậy, mọi người nên thu xếp làm các việc gì cần kíp ngay vì khi điện cúp rồi sẽ phải giới hạn chuyện đi lại. Anh Tấn hỏi về các tờ báo cũ thì Sok Sammath nói chúng tôi cứ việc lấy dùng nếu cần rồi y cho biết thêm khi bộ đội Duôn rút khỏi đảo Cô Tan, trại xếp chúng vào các hộc bàn cho gọn chứ cũng chưa biết để làm gì. Rồi y đi đến chỗ cháu Sang ngồi, hỏi thăm ít câu trước khi rời khỏi căn phòng.
    (còn tiếp)

  5. #5
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Ngày hôm sau, chúng tôi được phát gạo để tự nấu ăn lấy. Cá tươi từ các tàu đánh cá cung cấp cho đảo hàng ngày rất nhiều đến nỗi có lúc chúng tôi ăn không hết, phải đem vất bỏ. Có hôm được cả tôm thẻ, mực ống nữa. Rau tươi ngoài bắp cải, bí đỏ từ đất liền tiếp tế ra thì còn rau muống rau lang cùng bí, bầu... trồng đầy trên đảo.

    Những ngày kế, lần lượt chúng tôi được gọi đi làm việc thật. Làm việc là khai báo tất cả các sự việc đã xẩy ra. Đến phiên tôi, Sok Sammath hỏi tôi thật kỹ từng chi tiết từ ghe xuất bến tại đâu ở bên Việt Nam rồi đi bao lâu phải ngừng ở đảo và diễn tiến câu chuyện khi gặp các tàu hải tặc Thái Lan. Y hỏi bằng tiếng Việt, tôi trả lời xong, y ghi biên bản bằng chữ Khmer ngoằn ngoèo như chữ Thái Lan. Vậy mà cũng mất cả mấy tiếng đồng hồ mới xong. Sau khi chấm dứt buổi làm việc, y nói sẽ sắp xếp cho chúng tôi gặp ông lớn người chỉ huy đảo. Anh Tấn, Dũng thì gặp hai người Khmer khác làm việc cũng một cung cách như của Sok Sammath. Ngoài việc nói và nghe tiếng Việt trôi chảy, chúng tôi không biết những người lính Khmer đó có biết đọc biết viết chữ Việt hay không? Có phải họ gốc gác sinh ra từ một làng quê nào ở miền Nam Việt Nam mà người ta thường gọi họ là người Khmer Krom? Những ngày sau nữa, Sok Sammath gọi anh Tấn, tôi và vài người nữa lên gặp ông lớn. Đó là một người Khmer trung niên bụng phệ, có cái đầu hói. Ông lớn có dáng dấp như một thương gia hơn là một cán bộ quân đội. Sok Sammath là người phiên dịch trong buổi gặp. Ông lớn đã lấy ra một xấp hình chụp các con tàu đánh cá Thái Lan cho chúng tôi xem để nhận dạng hai chiếc tàu hải tặc nhưng chúng tôi thấy hầu hết các con tàu trong hình rất giống nhau nên chuyện nhận dạng không thành. Xem kỹ các hình, chúng tôi mới biết tàu đánh cá Thái Lan nào cũng có hàng số bên hông nằm ngay phía gần mũi. Tôi nhớ các tàu hải tặc khi đó đã ranh ma lấy tấm vải che kín số tàu nên chẳng ai thấy được. Manh mối duy nhất là trên tàu hải tặc nhỏ có một người đầu bếp biết tiếng Triều Châu và chỉ vậy thôi. Ông lớn cho biết có khoảng 200 tàu đánh cá Thái Lan trong vùng biển nước Khmer. Nếu chúng tôi biết con số ghi trên thân hai tàu Thái Lan đó thì bằng hệ thống viễn liên, ông sẽ cho gọi các tàu kể trên đến đảo để chúng tôi nhận dạng ngay. Ông cười với chúng tôi, nói:

    - Tụi tui cứ nửa tháng một lần cho tàu đi tuần tra các đảo xa. Đều là đảo hoang không có người ở. Các anh biết hôm đó, khi nghe tàu tuần báo cáo trông thấy các đám lửa lớn cầu cứu rồi lại có cả y phục phụ nữ nữa nên tui mới ra lệnh các chiến sĩ vào xem sao và họ đưa các anh về đây.

    Ngừng một chút ông tiếp:

    - Vài năm nay có xẩy ra vụ hải tặc nào đâu. Tui rất bực vì nghe chuyện đã xẩy ra trong vùng biển do mình trách nhiệm. Tui sẽ báo cho hải quân Thái Lan về các sự vụ này để mong họ hợp tác, phăng ra được các đầu mối mà giải thoát phụ nữ Duôn các anh.

    Ông lớn cũng nói bập bẹ được chút tiếng Việt và chiếu cố đặc biệt đến cháu Sang. Những ngày sống tại đảo Cô Tan, cháu Sang đã ăn chung bữa ăn với ông lớn. Những người lính Khmer cũng hay cho cháu Sang kẹo bánh hoặc dắt cháu đi chơi đây đó trên đảo. Có lẽ là lính đồn trú xa gia đình xa các người thân nên khi gặp cháu Sang, những lính Khmer ở đây coi cháu như con cái ruột thịt. Tôi nhìn người Khmer với làn da đen tóc quăn mắt trắng dã đầy vẻ man rợ rồi liên tưởng những câu chuyện kể về các vụ tàn sát người Việt mà họ gọi là Cáp Duôn trong các thời kỳ trước đây. Bây giờ, đối chiếu với hành động và thái độ tử tế của những người Khmer ở đây dành cho đám người Việt trong các ngày qua. Rõ là ở nước nào, cũng có người tốt người xấu, kẻ hiền lương thật thà và người cùng hung cực ác.

    - Ngay từ lúc đầu trên đảo hoang khi nghe họ nói bằng tiếng Việt thì mình hy vọng sẽ gặp việc lành mà quả thật như vậy.

    Anh Tấn hỏi thêm tôi và Dũng:

    - Các cậu biết sao không? Trong lòng có thích nước nào thì người ta mới chịu khó học tiếng nước đó. Tâm lý con người là vậy.

    Ở gần một tuần lễ, chúng tôi được phép tự do thong dong đi lại trên đảo trong phạm vi gần doanh trại. Chúng tôi mới biết có hàng trăm cây mít, xoài và dừa được trồng dầy đặc ở trên đảo Cô Tan. Bây giờ thì chưa phải mùa xoài. Còn mít chín lúc nào cũng sẵn. Ai muốn ăn mít thì cứ chịu khó lội trong các hàng cây rồi khi ngửi thấy mùi thơm, lần tới được gốc thể nào cũng hái được quả chín. Có khát nước, muốn uống dừa tươi thì cứ việc trèo lên hái nhưng phải cẩn thận vì cây dừa ở đây thân rất cao. Gần các dãy nhà của ban chỉ huy trại, chúng tôi còn thấy trồng cả cây trà xanh. Từ thói quen uống nước trà tươi của người miền Bắc, tôi nghĩ chắc chắn cán bộ CS Bắc Việt khi đóng quân tại đảo đã trồng chúng. Không biết rõ số lính Khmer đóng ở Cô Tan có bao nhiêu cả thẩy vì quanh quẩn hàng ngày, gặp mặt nhau chỉ khoảng trên dưới 30 người thôi. Nhưng nhìn các dãy nhà cửa trong trại, thấy có nhiều căn nhà bỏ trống và cả trăm cây ăn trái được trồng rồi nhìn bề rộng của các ao rau muống, vườn lang... Tôi biết khi bộ đội Việt Cộng còn đóng tại đảo, chắc chắn quân số họ phải rất đông.

    Một buổi trưa đang thiu thiu ngủ thì một người lính Khmer đến gọi chúng tôi dậy để ra ngoài cầu tàu gấp. Chúng tôi vội vã theo chân các người lính Khmer ngay. Ra đến cầu tàu, một chiếc tàu hải quân đậu ở đó đang chuyển hàng hóa tiếp liệu cho đảo cùng với các hàng quân sự. Công việc của chúng tôi là vác từng viên đạn đại bác 105 ly được đựng trong các ống giấy cứng tròn nhuộm đen từ tàu hải quân lên nhà kho nằm tuốt trên đỉnh một ngọn đồi. Mỗi người chúng tôi chỉ được phép vác mỗi lần một quả đạn thôi, còn các hộp đựng sáu ngòi nổ đầu đạn được lính Khmer vác riêng ra. Hôm đó, cá nhân tôi đã vác cả thẩy 12 viên đạn đại bác 105 ly. Đạn vác lên được cất trong kho một căn nhà hầm. Gần kho chứa đạn, tôi thấy các khẩu đại bác che kín nòng đặt cố định trong các ụ súng. Lần đi trở xuống đồi, tình cờ mắt tôi thấy khối sắt lớn có hình dáng như chiếc máy bay trực thăng nằm gần một bãi đá. Gặp Sok Sammath trên đường đi, hỏi thì y cho biết đó là xác của một trong các trực thăng Mỹ bị lính PolPot bắn rơi trong một trận chiến giải cứu tù binh tại đây từ khá lâu rồi. Qua lời kể vắn tắt của Sok Sammath, tôi nhớ lại ngay cái tên đảo Cô Tan mà tai đã nghe từ đài BBC, VOA... vào giữa tháng 5 năm 1975 về chuyện một tàu buôn của Hoa Kỳ bị hải quân Khmer Đỏ bắt giữ.

    Đảo Cô Tan có tên tiếng Anh là Koh Tang. Sự kiện con tàu buôn năm đó xẩy ra, các thương thuyết ngoại giao về con tin không thành và chính phủ Hoa Kỳ đã phải cho lực lượng biệt kích đổ bộ lên đảo để giải cứu các thương nhân tù binh Mỹ. Giao tranh với lính đồn trú đảo rồi binh sĩ biệt kích Mỹ giải cứu được các thương nhân nhưng phải để lại xác các trực thăng này. Thương thuyền đó có tên Mayaguez. Nhìn xác chiếc trực thăng, trí tưởng tôi nghĩ về hình ảnh trận chiến chớp nhoáng trong ngày hôm đó. Tiếng súng nổ... thây người ngã vật vì trúng đạn... tiếng phành phạch của cánh quạt máy bay trực thăng. Đảo Cô Tan nổi tiếng với thế giới tương tự vụ đột kích giải cứu tù binh phi công của biệt kích Mỹ trong một nhà tù ở Sơn Tây gần Hà Nội năm xưa.

    Chuyển xong số đạn pháo, Sok Sammath cho đám chúng tôi hai thùng nước ngọt CoCa Cola, một thùng bánh bisquit và một cây thuốc lá Apshara kèm theo lời nhắn:

    - Hai ngày nữa tàu hải quân sẽ chở các anh về cảng Kompong Som.

    Họ sẽ chở chúng tôi về cảng Kompong Som bằng chiếc tàu hải quân chở hàng tiếp liệu và vũ khí cho đảo Cô Tan. Khi về đến cảng Kompong Som thì số phần chúng tôi sẽ ra sao? Ai cũng lo lắng, thắc mắc. Anh Tấn bảo:

    - Kệ cha nó, nghĩ nhiều thêm mệt. Cái gì đến nó sẽ đến. Mình có tính cũng chẳng được.

    Ngày kế tiếp, nhiều lính Khmer trên đảo bớt thì giờ của họ để đến thăm cả bọn chúng tôi. Họ mang cà phê, thuốc lá, bánh kẹo và mời chúng tôi cùng ăn cùng hút với họ cho vui. Ông lớn chỉ huy đã lấy máy ảnh ra chụp hình cả nhóm chúng tôi chung với lính trên đảo để giữ làm kỷ niệm. Có lẽ, chuyện chúng tôi ghé vào hòn đảo Cô Tan này là một việc hãn hữu. Dầu gì đi nữa chúng tôi cũng là người ngoại quốc ở trên đất nước họ. Anh Tấn có hỏi về số phận hai người tài công thì Sok Sammath cho biết theo tua tuần tra biển, vài ngày sắp tới sẽ có tàu ghé lại đảo để tìm họ.

    - Thật tầm bậy tầm bạ hết sức, mấy người đó bộ khùng điên rồi nên mới ở lỳ lại đảo không ra về theo các anh. Hết thực phẩm thì sẽ chết đói. Tụi tui cố gắng tìm mang họ về đây. Nhưng về đây rồi, sẽ phải chờ khá lâu nữa mới có tàu từ Kompong Som đi ra. Sok Sammath chắt lưỡi.

    Hôm nay là ngày tàu nhổ neo chạy về Kompong Som. Nhà bếp tổ chức ăn chung cho toàn đảo ngay tại căn nhà Truyền Thống như một bữa tiệc nhỏ. Sau bữa cơm, chúng tôi và lính Khmer đã thân ái ôm chào tạm biệt nhau trong những giọt nước mắt. Ông lớn mắt rướm lệ trên khoé, thân ái cầm tay cháu Sang đi theo ra tận cầu tàu. Phút biệt ly đến làm ai cũng một tâm trạng buồn bã. Chỉ một thời gian sống chung với nhau ngắn ngủi mà tình cảm chúng tôi tự nhiên gắn bó với lính Khmer như người thân thích ruột thịt. Chia tay với ông lớn với Sok Sammath, người đầu bếp cùng các người lính Khmer trên đảo, chúng tôi bồi hồi bước lên con tàu. Tàu đột ngột kéo một hồi còi thật dài trước khi rời đảo. Từ trên boong, tôi quay đầu nhìn về phía cầu tàu nơi những người lính Khmer vẫn đang đứng yên tại chỗ. Tạm biệt các ân nhân... tạm biệt Cô Tan. Một hòn đảo với đầy kỷ niệm đẹp trong lòng tôi.

    Giờ đây, chúng tôi đứng ngồi hoặc nằm la liệt đây đó trên boong tàu rộng rãi. Tàu tuy lớn nhưng chỉ võ trang bằng hai cây súng đại liên 12 ly 7 ở trước mũi và phía sau lái. Dưới hầm và mặt boong tàu đầy nhóc những sọt cần xé dừa khô quà của đảo tặng cho các chiến sĩ trên tàu. Tàu chạy chậm rãi, êm ả khá lâu trên biển. Đó đây, vài cánh chim hải âu lướt vội qua đầu chúng tôi. Chập choạng tối, tàu tiến đến gần Kompong Som, hải cảng biển nước sâu duy nhất của quốc gia Khmer. Có một thời kỳ, Kompong Som mang tên Sihanoukville là tên vị quốc vương Norodom Sihanouk. Tôi biết Kompong Som có các bãi biển rất đẹp thu hút khách du nước ngoài nằm dọc theo cảng. Vì trời đã xẩm tối nên dù hết sức để ý, tôi chẳng thấy các bãi biển du lịch đâu cả. Sau cùng tàu vào hẳn trong cảng. Ánh sáng rực rỡ từ các con tàu bỏ neo nằm ở bến, từ các nhà kho và bãi trên bờ hắt mầu vàng lung linh trên mặt nước biển. Cảng Kompong Som xem ra phồn thịnh hơn so với cảng Bạch Đằng tại Sài gòn.

    Tàu cập bến, chúng tôi được lệnh trèo lên một chiếc xe tải nhà binh phủ bạt che kín nằm pha đèn ở trên bờ. Xe chở chúng tôi chạy thẳng vào một doanh trại của hải quân Khmer nằm không xa hải cảng. Xe ngừng tại một dãy nhà lớn, những người Khmer trên xe bàn giao chúng tôi cho vài cán bộ Khmer đứng chờ sẵn. Rồi, các cán bộ Khmer ra dấu cho chúng tôi đi vào một căn nhà to rộng nằm trong dãy nhà. Dưới ánh vàng vọt của bóng đèn tròn duy nhất gắn trên trần, nơi chúng tôi ở tối nay chỉ là nền nhà xi măng mà không có bất kỳ vật dụng nào khác. Cán bộ Khmer lại không biết tiếng Việt, chỉ lấy tay ra dấu. Trên tường có dán các tấm giấy ghi những câu tiếng Việt như: " Không được đi ra khỏi khu vực. Luôn giữ trật tự trong sinh hoạt. Khai báo trung thực sự việc cho cán bộ ". Những tấm giấy làm cho chúng tôi hoang mang, lo lắng. Mọi người tản ra, tự kiếm chỗ nghỉ ngơi trong căn nhà đêm nay. Căn nhà tương tự một phòng giam rộng lớn chỉ khác ở chỗ không có các song sắt và cửa khóa chặt cùng với công an canh gác bên ngoài. Có lẽ trước đây là một nhà kho hay một cơ xưởng gì đó của hải quân Khmer. Dũng ngồi gần bên tôi, nói nhỏ:

    - Tệ hơn lúc ngoài đảo Cô Tan. Coi bộ không khá mày Vũ.

    Ai trong chúng tôi cũng chung một nhận xét như thằng Dũng. Lạ chỗ và lo lắng cho ngày sắp tới khiến tôi không sao chợp mắt, yên giấc.

    Nằm trằn trọc mãi vẫn không ngủ được, tôi và anh Tấn kéo nhau ra phía bên ngoài hành lang căn nhà ngồi nói chuyện cho qua đêm. Ánh sáng từ các nơi trong khu vực phản chiếu cho thấy căn nhà nơi chúng tôi ở biệt lập hẳn với các dãy nhà khác nằm khá xa chung quanh. Con đường phía trước căn nhà được trồng lẫn lộn những cây cao, cây thấp với khoảng cách đều nhau. Không biết loại cây gì nhưng nhìn chúng, làm tôi thấy lại hình ảnh đường phố Sài Gòn. Chỗ chúng tôi ở im vắng quá, lỡ có xẩy ra chuyện gì thì cũng chẳng ai biết cho và cũng không biết cầu cứu với ai nữa. Anh Tấn móc thuốc lá ra hút rồi kể chuyện về bản thân:

    - Tôi người tỉnh Cần Thơ quận Thốt Nốt, đi lính sư đoàn 25 bộ binh VNCH mình đó Vũ. Tôi đồn trú trong căn cứ Đồng Dù ở vùng Củ Chi-Hậu Nghĩa. Vũ biết Đồng Dù nguyên là căn cứ của một sư đoàn Mỹ bàn giao lại khi họ rút về nước. Thực ra căn cứ có tên Hoàng Diệu, còn Đồng Dù là do bọn Việt Cộng gọi vậy. Ngày 29 tháng 4 năm 1975 đơn vị tôi theo chân sư đoàn rút bỏ Đồng Dù chạy về Sài Gòn sau khi Việt Cộng tràn ngập căn cứ. Cả đơn vị bỏ chạy nhưng khi vừa tới cầu Bông gần Hóc Môn-Thành Ông Năm thì kẹt lại. Đường phía trước mặt đã bị đặc công Việt Cộng chiếm mất, phía đằng sau thì đại binh của chúng đang truy đuổi sát nút. Bọn chúng tôi đành phải dạt vào một cánh đồng lúa rộng lớn khá xa đường lộ. Dàn trận tại đây trong các hố cá nhân đào vội dưới gốc cây của rặng trâm bầu sát cạnh các thửa ruộng hoặc nấp sau các thân xe tăng M 113, xe GMC... Chúng tôi thấy từng đoàn quân xa Molotova, xe tăng T 54, PT 76... của Việt Cộng chạy khơi khơi trên mặt lộ không xa lắm. Đường về Sài gòn bị địch cắt đứt, chúng tôi kẹt ở giữa cánh đồng lúa. Cố sức liên lạc truyền tin với cấp chỉ huy cũng không được. Dường như không có người trực máy vì chúng tôi gọi tới gọi lui nhiều lần mà không có ai trả lời. Sau mới biết đám trực máy đã bỏ chạy di tản hết cả. Khi đó, chúng tôi hoang mang lắm, không biết sẽ phải làm gì? Đoàn xe Việt Cộng chạy nối đuôi nhau trên đường lộ cũng trông thấy chúng tôi chứ Vũ nhưng chúng bỏ mặc, không đánh mà chỉ tiếp tục hành quân về Sài Gòn thôi. Trận đánh lần đó rất lạ Vũ à! Làm như mục tiêu tiến chiếm của Việt Cộng là Sài Gòn và chúng phải vào đó càng nhanh càng tốt. Hễ nơi nào mà phe bên mình chống lại thì chúng mới đánh, còn không thì chúng phớt lờ, coi như không thấy.

    Rít thêm một hơi thuốc Apshara, anh Tấn kể tiếp trong làn khói trắng phà ra từ hai lỗ mũi.

    - Khoảng 4 giờ chiều hôm đó khi đang ngồi dưới hố cá nhân, tai tôi nghe tiếng trực thăng bay rất gần rồi gần hơn. Tôi vội nhổm dậy nhìn và thấy rõ ràng một UH đang bay thật thấp hướng về phía chúng tôi. Những người lính khác trong đơn vị cũng thấy chiếc trực thăng đó và đều nghĩ nó đến để yểm trợ đây. Có yểm trợ của trực thăng, tinh thần tụi tôi phấn chấn hẳn. Tôi nhìn lại vũ khí của mình rồi dõi mắt theo chiếc máy bay, miệng nhủ thầm chuẩn bị tinh thần để tác chiến. Chiếc trực thăng bay gần tới thì bị trúng đạn của bọn Việt Cộng từ hướng nào không rõ bắn lên. Một vệt khói đen từ máy bay tỏa ra và tiếng động cơ của nó đã khác. Máy bay lảo đảo thật thấp về phía đội hình chúng tôi và nó rớt sau một rặng cây không xa lắm. Tiếng máy bay im bặt trả lại sự im ắng của khu vực trong sự thương tiếc của tôi cùng những người lính có mặt. Vũ biết trong những lần tác chiến, mỗi khi trông thấy máy bay của phe mình từ phản lực cho đến trực thăng bị rớt vì hỏa lực của Việt Cộng thì trong lòng mình đau xót lắm chứ. Nó tương tự như mình vừa làm mất một món tài sản thật quý giá. Tôi cùng vài người lính khác vội chạy đến chỗ máy bay rớt xem sao. Băng qua các thửa ruộng và những rặng trâm bầu, bụi dứa dại cùng các lùm bình bát, chúng tôi đến gần chỗ xác máy bay. Nó vạch một đường khá dài trên mặt ruộng lúa và chúc đầu vào một doi đất tiếp nối với bờ đê của con rạch nhỏ. Tôi và các người lính bước bì bõm dưới ruộng lúa đến bên chiếc máy bay. Qua khung cửa mở của buồng lái, tôi thấy duy nhất viên phi công vẫn ngồi yên lặng trên ghế. Tôi cất tiếng gọi nhưng ông ta không trả lời. Nghĩ phi công đã bị thương nên tôi cùng với một người lính khác nhẩy ngay lên sàn tàu để tìm cách giúp đem ông ra khỏi máy bay nhưng đã muộn. Ông ta đã chết. Chút máu ộc từ miệng chảy ra thành vệt nhỏ trên mép. Tôi nhìn kỹ mặt, thân thể viên phi công và không thấy vết thương nào khác dù ông đã chết thật. Người ông lả ra, bất động. Khói từ phần đuôi máy bay vẫn còn nghi ngút tỏa lan theo chiều gió. Một người lính nói vội:

    - Coi chừng máy bay có thể nổ. Mình lôi cha nội phi công ra ngoài đi.

    Chúng tôi phụ tay cởi bỏ dây đai an toàn và chuyển xác phi công ra khỏi máy bay. Ì ạch khiêng ông lên bờ ruộng rồi đặt nằm ngay ngắn trên một bờ đất phẳng ở gần một con rạch. Tôi quay nhìn lại chiếc máy bay, hai cây đại liên 60 ly vẫn nằm yên gục đầu ở hai phía bên cửa trống với những dây đạn vàng choé. Cánh quạt lớn trên nóc máy bay vẫn đảo nhè nhẹ theo cơn gió đồng...

    - Anh có coi phía sau lưng người phi công không? Có thể ông ta bị trúng đạn hay miểng gì đó xuyên vào tim thì sao? Tôi cắt lời anh Tấn, hỏi.

    Nhìn tôi, anh Tấn khẽ lắc đầu rồi kể tiếp:

    - Không. Vũ à! Như tôi vừa kể, không có vết thương gì trên người ông ta hết. Ổng chết vì bị một chấn động quá mạnh mà những anh em khác trong đơn vị tôi lúc đó nói hiệu ứng G forces. Những máy bay khi rớt, người trên đó hay bị như vậy. Hình như chấn động lúc máy bay tiếp đất đã làm hệ thần kinh trong xương sống bị giãn ra rồi co lại đột ngột nên làm ông ta chết. Họ nói vậy... tôi cũng không rõ lắm.

    - Không có xạ thủ trên máy bay vậy trực thăng đến đó làm gì để cho bị bắn rớt? Tôi lại hỏi tiếp.

    - Tôi nghĩ có lẽ chiếc trực thăng bay đến để bốc ông tướng tư lệnh sư đoàn hoặc định bay về để đón thân nhân nào đó sống trong vùng Củ Chi-Hậu Nghĩa hay Trảng Bàng... nhưng đã hỏng nhiệm vụ. Có điều lạ, ông phi công không mặc đồ bay như vẫn thường thấy mà là bộ đồ sơ-vin dân sự áo trắng quần xanh như học sinh trung học. Cũng chẳng có Colt 45 hay Ru lô trái khế gì trên người ông phi công nữa Vũ. Đặt xác phi công nằm yên trên mặt đất xong, tôi và mấy người lính quay trở về chỗ cũ của mình. Chiếc trực thăng nằm im lìm một đống lù lù trên mặt ruộng lúa, vẫn còn tỏa các vệt khói và chưa bị nổ tan như tụi tôi nghĩ. Về lại chỗ đóng quân, cả ngàn người lính chúng tôi, súng ống còn đủ với hàng chục xe tăng M 113, súng cối, súng DKZ... bên cạnh mà phải án binh bất động suốt cả đêm trên cánh đồng lúa. Đêm dài qua chầm chậm, tai chúng tôi vẫn nghe tiếng súng tiếng nổ lớn từ hướng Sài Gòn vọng lại. Bình minh đến rồi gần trưa thì đơn vị tan đội hình khi nghe tin Tổng Thống Dương Văn Minh đầu hàng trên làn sóng phát thanh. Sau khi bàn bạc, các sĩ quan chỉ huy đã lệnh cho một binh sĩ trong chúng tôi phất cờ trắng ra hàng bọn Việt Cộng đang chờ sẵn ngay ngoài mặt đường lộ chính. Lần lượt chúng tôi bỏ các xe GMC, xe tăng vẫn còn nổ máy để kéo nhau ra đầu hàng tập thể. Súng ống, quân dụng vất thành đống bên bờ ruộng. Đủ cả... từ Colt 45, súng trường M16, súng phóng lựu M79, M72, mũ sắt cá nhân, máy truyền tin PRC 25, ba lô và cả giầy trận nữa. Vất... vất tuốt. Có người không chịu đầu hàng lại tự mình nổ súng tự sát tại chỗ. Thật kiêu hùng và cũng thật bi thương cho những cái chết vào giờ cuối của cuộc chiến. Có người khóc ngon lành, nước mắt ràn rụa trên má như trẻ thơ. Lúc đấy, tôi cũng hoang mang và tuyệt vọng lắm. Cả một đạo quân lớn mạnh như vậy mà phút chốc phải giải giáp quy hàng. Tôi cũng định... đoàng một phát cho rồi đời lính Cộng Hòa nhưng nghĩ mình còn mẹ già nên lại thôi.

    Nhìn anh Tấn, mái tóc có nhiều sợi bạc trên khuôn mặt dãi dầu sương gió từng trải, tôi hỏi:

    - Rồi sau đó thì sao nữa hả anh? Có bị tập trung tù cải tạo không? Khi đó anh cấp bậc gì?

    - Trả nợ tụi nó hơn 4 năm chứ ít gì. Tôi khi đó mới thiếu uý thôi mà còn bị vậy. Sau khi được thả, quay về địa phương bị đám công an nó trù dữ quá nên vượt biên nhiều lần mà không lọt. Giờ, ghe thoát ra khỏi nước thì tưởng đã êm nào ngờ. Số phận mình đen quá hả Vũ?

    Tôi nhìn lại anh Tấn nhủ thầm: " Số anh đen, tôi cũng đâu có đỏ gì cho cam. Anh Tấn ơi! Số phần tất cả người dân miền Nam VNCH bại trận đều đen như mõm chó kể từ sau cái ngày định mệnh 30 tháng 4 năm đó " rồi tôi ngồi im, chung nỗi buồn với anh.

    Chúng tôi quay trở lại chỗ nằm khi thấy có ánh đèn pha của một chiếc xe chạy gần. Tiếng xe chạy đến chỗ căn nhà chúng tôi thì chậm hẳn rồi sau đó nó bỏ chạy luôn. Có lẽ là chiếc xe tuần tiễu ban đêm. Về khuya, vài người ra ngoài nhà muốn đi tiểu nhưng tìm không thấy chỗ vệ sinh ở chung quanh. Đi đâu giải quyết chuyện cần kíp đây? Chúng tôi nhìn nhau ráng nín vậy.

    Trời sáng dần để thấy bên kia đường có một khu rừng nhỏ dầy đặc những cây bạch đàn. Thôi thì đành phải vào đó cho xong việc. Căn nhà cũng không có nước để rửa mặt mũi nữa. Tôi đi vòng ra bên ngoài nhà quan sát. Khu vực lính Khmer để chúng tôi trú ngụ đầy vẻ hoang phế xưa cũ với các dãy nhà trông in hệt căn cứ hải quân gần bến Bạch Đằng-Sài Gòn. Như vậy, chắc chắn nó được người Pháp xây từ rất lâu trước đây. Những con đường tráng nhựa năm xưa nay đã loang lổ những ổ gà lớn nhỏ trên mặt đường. Hai bên đường giờ mới trông rõ những gốc cây cổ thụ còn sót lại chung với những hàng cây xoài còn non tuổi.

    Nơi ở mới còn tệ hơn ngoài đảo Cô Tan vì cho đến quá trưa mà chúng tôi chẳng thấy bóng dáng một người Khmer nào cả. May chúng tôi có mang theo ít bánh ngọt bisquit và nước lã đóng chai khi rời đảo nên tạm giải quyết được cái khát cái đói. Mãi đến gần chiều mới có một chiếc xe quân đội như loại xe Dodge 4 chạy đến, chở một thùng nước nóng khoảng 30 lít và một sọt nhỏ các ổ bánh mì cùng ít nải chuối chín cho chúng tôi. Theo tay chỉ của hai gã lính Khmer trên xe, chúng tôi khệ nệ khiêng các thứ đó vào nhà. Xong việc, chiếc xe chạy mất hút để mặc chúng tôi tự lo liệu với nhau.

    Nhìn vào sọt, bánh mì đã cũ cứng ngắc, mỗi ổ dài khoảng hai gang tay. Cả thẩy là 37 ổ. Chia mỗi người một bánh mì và phần còn lại chúng tôi chia nhỏ đều cho từng người. Chuối cũng vậy nhưng may mắn đủ hai trái cho mỗi mạng. Nước, vì không có ly cốc nên ai khát cứ kê miệng vào cạnh nồi mà uống.

    Từ đó cho đến tối khuya cũng chẳng thấy chiếc xe quay lại. Thêm một đêm dài qua đi. Ngày hôm sau, chúng tôi cũng phải chờ cho đến chiều mới gặp lại chiếc xe cùng hai người lính Khmer đó. Lần này, cũng một thùng thiếc đựng nước nóng tương tự nhưng cái sọt lót bằng lá chuối khiêng vào nhà thì không phải bánh mì và chuối như mọi người đã nghĩ. Đầy gần miệng sọt là các củ khoai mì khoai lang luộc chín cùng ít cá khô nướng chín.

    - Ăn uống kiểu gì kỳ lạ vậy ta!

    Một người trong chúng tôi hỏi và có tiếng đáp:

    - Cơm cho tù mà, nhưng được vầy cũng còn may.

    Một gã lính Khmer theo chân chúng tôi vào căn nhà. Y giơ tay ra hiệu cho mọi người đứng tập trung lại gần với nhau. Lấy ra một xấp giấy từ túi vải đeo bên hông, y phân phát cho chúng tôi mỗi người một tờ. Đưa thêm cho hai cây viết mực nguyên tử, gã lính miệng nói tiếng Khmer, tay ra dấu ghi lên tờ giấy mới phát. Thấy vài người trong nhóm gật đầu tỏ ý hiểu lời nói, gã lính vội vã bỏ đi. Tai nghe tiếng xe chạy mà mắt nhìn xuống tờ giấy, tôi giật mình khi thấy hai chữ in Bản Khai to tướng ngay chính giữa cùng với những hàng nhỏ: Tên, Năm Sinh, Địa chỉ... theo thứ tự ở dưới. Bản Khai! Nơi đây đã từng giữ người Việt vượt biên bị bắt và có sự cộng tác với chính quyền CS Việt Nam.

    - Họ sẽ giải giao mình cho bọn công an Việt Cộng. Chết cả đám rồi Vũ ơi! Anh Tấn nhìn tôi ngao ngán.

    Cầm tờ giấy Bản Khai trong tay, ai trong chúng tôi cũng thắc mắc ở mục ghi Quá Trình Vượt Biên rồi hỏi nhau mình phải khai như thế nào đây? Anh Tấn nói lớn cho tất cả cùng nghe với bản khai chữ Việt như vậy và nhìn các tấm giấy treo trên tường thì chắc chắn cả bọn mình sẽ gặp cán bộ Việt Cộng. Chỉ chưa biết là khi nào thôi.

    - Nhớ đây không phải như hồi ở ngoài đảo Cô Tan đâu nha. Ngoài đó cán bộ Khmer ghi biên bản bằng chữ của họ. Lần này, họ đưa giấy bảo mình tự khai thì ai viết ra lời khai thế nào thì ráng mà nhớ cho kỹ để rủi công an Việt Cộng khi bắt khai lại mới ăn khớp và càng ngắn gọn ít chi tiết thì càng tốt. Anh Tấn nói thêm.

    Quả là sự từng trải của người đã ở tù Việt Cộng trong nhiều năm trời. Hai cây viết mực nguyên tử lần lượt được chuyền tay. Không có bàn, chúng tôi phải dùng mặt xi măng láng ở nền nhà để đặt giấy viết. Đến lượt anh Tấn viết xong bản khai, dường như linh cảm một chia tay sắp đến với tôi và Dũng. Anh Tấn xé vỏ gói thuốc lá Apshara, viết địa chỉ của anh rồi đưa cho tôi và Dũng mỗi người một mẩu nhỏ rồi nói:

    - Đây là địa chỉ của anh, có dịp rảnh thì ghé xuống nhà anh chơi. Anh rất mến hai tụi em.

    Tôi và Dũng cũng trao cho anh địa chỉ của hai đứa.
    (còn tiếp)

  6. #6
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết

    (tiếp theo)

    Như ngày hôm qua, đến chiều các gã lính Khmer mới xuất hiện. Dừng xe tắt hẳn máy, họ vẫy chúng tôi đến gần để khiêng hai thùng giấy khá lớn vào nhà. Đặt các thùng giấy nầy ngay trên mặt sàn xi măng, chúng tôi vội mở ra xem. Một thùng đầy nhóc những gói giấy còn thùng kia là các bịch nước mía đá lạnh cùng ống hút nhựa kèm theo. Hai gã lính Khmer đi theo chúng tôi lấy các gói, bịch nước mía ra đưa cho từng người một. Xong họ bỏ đi ra ngoài căn nhà đứng hút thuốc lá và trò chuyện với nhau. Tôi mở gói giấy ra xem. Cơm trắng trộn lẫn với trứng gà chiên-thịt kho-cà chua kiểu như loại cơm chiên Dương Châu trong món ăn Tàu. Chẳng có muỗng nĩa gì cả. Cứ vậy mà bốc ăn bằng tay thôi. Có tiếng người khen:

    - Nay cho mình ăn ngon quá vậy ta... Cả nước mía đá lạnh giải khát nữa chứ!

    Chúng tôi nhìn nhau mỉm cười. Ăn vừa xong bữa, có tiếng xe mô tô hai bánh ngừng ngay phía trước cửa. Hai người đàn ông phục sức rất gọn gàng, tay cầm cặp bước đến nói chuyện xì xào nho nhỏ với hai gã Khmer vài câu rồi cả bốn người họ bước vào hẳn bên trong căn nhà. Nhìn hai người mới đến, chúng tôi biết họ là người Việt Nam và quả đúng như vậy. Người mới đến nói giọng miền Bắc:

    - Chúng tôi là Vũ Văn Dũng và Huỳnh Thới Kỳ thuộc tổng lãnh sự quán Việt Nam tại đây.

    Mọi người trong phòng im lặng nhìn hai gã cán bộ Việt Cộng. Đảo mắt khắp lượt chúng tôi, Vũ Văn Dũng hỏi:

    - Tại sao các anh lại vượt biên? Hử! Tại sao các anh bỏ nước ra đi? Nói tôi nghe.

    Không ai trong chúng tôi lên tiếng trả lời. Vũ Văn Dũng xổ luôn một hơi:

    - Nước nhà độc lập thống nhất từ lâu mà vẫn không chịu yên tâm lao động sản xuất. Hở ra là vượt biển vượt biên, gây xáo trộn cho xã hội. Bộ các anh nghĩ cứ sang được bên Mỹ thì bọn Mỹ sẽ coi các anh là ông nội lũ nó chắc. Ở đâu thì ai cũng phải làm mới có cái ăn nghe chưa. Chúng tôi thật xấu hổ khi gặp các anh trong tình cảnh như vầy. Hôm nay, chúng tôi đến để bảo lãnh các anh ra từ tay các đồng chí hải quân nước bạn. Nếu chúng tôi từ chối bảo lãnh, họ sẽ giam các anh cho đến chết. Các anh nghe chưa? Cũng vì tình thương đồng bào Việt Nam cả thôi... Các anh đâu biết.

    Nói xong, Vũ Văn Dũng mở miệng cười. Nghe giọng nói, tôi biết y gốc gác người Hà Nội.

    Chúng tôi nhìn nhau trong chốc lát. Gã cán bộ Việt Cộng còn lại cất giọng miền Nam:

    - Nước nhà còn nhiều khó khăn thì các anh phải thông cảm chứ. Đảng và chính phủ nào muốn vậy. Đừng vượt biên nữa nguy hiểm lắm. Các anh dùng bữa cả rồi phải không? Bản khai ngày hôm qua mọi người đã viết xong hết cả thì đưa đây ngay cho tui.

    Chúng tôi lục tục gom các tờ giấy đưa lại cho hai gã cán bộ Việt Cộng. Gã người Bắc sắp xếp gọn các tờ giấy rồi y cầm đọc lướt vài tờ xong ngẩng đầu lên nhìn đám chúng tôi, nói:

    - Lãnh sự quán sẽ theo từng địa chỉ ghi trong đây để gửi về địa phương thông báo sự vụ các anh. Nhưng chúng tôi biết các anh chỉ ghi láo, ghi lếu cả thôi. Rồi y đọc tên một người cùng địa chỉ người đó trong tờ giấy và tiếp:

    - Đây nhá, thử đến ngay địa phương... này rồi hỏi chính quyền xem biết liền. Có người tên như vầy thì cứ đem đầu tôi ra mà chặt.

    Xong, y cười hì hì, lộ vẻ khoái trá, nói:

    - Làm cho có thủ tục vậy thôi. Bây giờ các anh được trả tự do cả đấy.

    Tôi và anh Tấn khẽ nhìn nhau. Đúng y boong lời hắn nói. Không ai trong chúng tôi viết đúng tên cùng địa chỉ trong tờ giấy Bản Khai. Rõ ra kinh nghiệm của một cán bộ ngoại giao Việt Cộng đã từng tiếp xúc nhiều phen với người vượt biên trên đất Khmer. Một người trong chúng tôi giơ tay, hỏi vội:

    - Cán bộ nói chúng tôi được trả tự do, tôi rất mừng nhưng làm sao về được tới Việt Nam? Không ai còn đồng tiền nào trong người, hải tặc đã lột sạch hết cả.

    Vũ Văn Dũng nhìn người vừa hỏi sau đó đảo mắt qua cả đám chúng tôi, y gằn từng tiếng:

    - Chúng tôi không cần biết chuyện đó. Các anh sang đây được thì các anh phải về Việt Nam được. Bảo lãnh cho các anh ra khỏi đây, đã thể hiện tình cảm với các anh lắm rồi.

    Nghe gã cán bộ trả lời như vậy, tôi liền nói:

    - Cán bộ ơi, nghe giọng cán bộ thì tôi biết người gốc Hà Nội. Tôi cũng người gốc Hà Nội đây. Cán bộ nói tình thương đồng bào thì xin thương cho trót. Cố giúp chúng tôi có phương tiện để về tới Nông Pênh cũng được. Đến đó rồi chúng tôi sẽ liệu tiếp.

    Nhìn tôi, Vũ Văn Dũng lắc đầu, nói chậm rãi dứt khoát:

    - Lãnh sự quán không có tiền. Biết hoàn cảnh các anh chứ nhưng thực sự chúng tôi cũng không có tiền... Anh hiểu chưa!

    Tay Việt Cộng miền Nam nghe hai bên đối đáp như vậy liền xen vào, giọng y nhỏ nhẹ:

    - Mong các anh thông cảm. Ngân khoản của lãnh sự quán hạn hẹp lắm. Bây giờ ít có vụ vượt biên chứ trước đây hầu như vài ngày tụi tui cứ phải đi lãnh người Việt ra hoài. Thôi! Các anh ráng xoay trở làm sao đó thì làm nghe.

    Tôi, anh Tấn và thằng Dũng nhìn nhau rồi kín đáo lắc đầu, thầm nghĩ cán bộ Việt Cộng nói như vậy thì hết cách. Vừa lúc, một xe tải nhà binh chạy đến và ngừng ngay ở ngoài sân phía trước căn nhà. Một lính Khmer bước xuống và ra dấu cho cả bọn chúng tôi trèo lên thùng xe. Hai cán bộ Việt Cộng vẫn đứng yên trên thềm nhà chuyện trò với lính Khmer của chiếc xe đến trước. Khi chúng tôi trèo lên thùng xe xong xuôi, xe tải nhà binh từ từ lăn bánh chạy vòng vèo trong khu vực.

    Đúng đây là một trại hải quân vì huy hiệu quân đội Khmer với cái mỏ neo ở chính giữa được treo trên cửa ra vào của một tòa nhà khá lớn. Nhà cửa nơi đây cùng một kiểu Pháp giống y khu hải quân tại cảng Bạch Đằng-Sài Gòn. Ba người Khmer đang đi dọc theo con đường và một trong số họ vẫy tay thân ái với chúng tôi. Đây đó, vài trẻ em Khmer chạy chơi, đùa giỡn gần các căn nhà. Khói lam từ một nhà bếp mang mùi thơm của thức ăn theo gió chiều đến tận xe chúng tôi. Hai phụ nữ, người quấn xà rông đang ngồi bên nhau trên ghế trước cửa một căn nhà dõi mắt nhìn chiếc xe chở chúng tôi chạy ngang qua.

    Trời bắt đầu xâm xẩm tối rồi. Gã lãnh sự Vũ Văn Dũng nói chúng tôi được trả tự do nhưng không biết xe sẽ chở cả nhóm đi đâu đây? Qua hết các dẫy nhà, xe bắt đầu ra khỏi cổng căn cứ hải quân và chạy vào vùng ngoại ô. Những ruộng lúa cùng các căn nhà sàn vách gỗ mái ngói đỏ nằm rải rác cạnh vệ đường. Nước Khmer sau hoạ diệt chủng của chế độ PolPot chỉ còn ít dân nên đất đai bỏ hoang rất nhiều. Xe vào thành phố, chạy vòng vèo trong các khu thị tứ hoặc trên các con đường với hai hàng cây tương tự như các con phố ở Sài Gòn. Các cửa tiệm đã mở đèn sáng chưng. Sau cùng, xe ngừng tại một bến xe nằm đối diện với một khu chợ khá sầm uất. Hai lính Khmer từ cabin bước xuống và ra dấu cho chúng tôi phải rời khỏi xe họ ngay. Lần lượt kẻ trước người sau nhẩy ngay xuống đất và tức khắc, xe tải nhà binh đánh một đường vòng rồi quay đầu bỏ chạy thẳng.

    Đứng ngồi lố nhố từng đám nhỏ trong cái bến xe, chúng tôi trông thật khác hẳn với dân Khmer đang có mặt. Vài người Khmer ngồi trong quán gọi nhau nói chuyện mà ánh mắt, ngón tay họ chỉ trỏ về hướng chúng tôi. Tôi, Dũng và anh Tấn nhìn nhau lo lắng. Không người quen trên xứ lạ, túi rỗng tiền mà trời thì sắp tối đến nơi. Chúng tôi sẽ ở đâu, làm gì trong đêm hôm nay? Chợt có tiếng còi tu huýt ré lên cùng giọng nói lớn:

    - Chết mẹ! Mấy cha kia bị công an Kampuchia bắt rồi kìa!

    Tôi hoảng hốt đưa mắt nhìn. Hai người Khmer đồng phục kaki vàng nghệ như công an Việt Cộng đang chận một nhóm bốn người thằng Minh ở ngay vệ đường trước cổng bến xe. Anh Tấn quay qua nói nhanh với tôi và Dũng:

    - Tản ra ngay thôi. Mình chia tay ở đây nghe các em. Tạm biệt Vũ, tạm biệt Dũng.

    Mỗi người liền vọt ngay một hướng. Bến xe không có xây tường bao chung quanh và các xe tải, xe chở khách đậu sát trước cửa nhà dân tương tự bến xe trong vùng ngã bẩy Petrus Ký-Sài Gòn. Do đó khi cắm đầu đi thẳng được một khúc đường, gặp có một hẻm nhỏ, tôi vội rẽ vào và bước dọc theo con hẻm dưới ánh sáng của các ngọn đèn đường. Trời bây giờ đã thật tối. Hẻm nhỏ dẫn tôi đi lòng vòng qua các con hẻm khác nữa rồi lại quay ra ngay phía hông cái chợ trước bến xe. Tôi vào trong chợ. Người ra kẻ vô khá đông và cũng chẳng ai để ý đến tôi. Có những gian hàng, người chủ đang thu dọn để nghỉ nhưng có gian hàng khác mới bắt đầu dọn ra bán. Tôi băng ngang qua một khu bán thức ăn. Những xe thùng bán hủ tiếu, cơm, chè, món nhậu... tương tự như bên nước Việt. Mùi xào nấu bốc thơm lừng mũi. Vài người bán hàng vẫy tay mời tôi ghé vào quầy hàng của họ nhưng tôi lắc đầu, im lặng lầm lũi bước. Đi tới lui mãi, sau cùng tôi ra khỏi chợ. Nhìn chung quanh không còn bạn đồng hành trong chiếc ghe với tôi nữa. Chân rảo bước trên con hẻm dọc theo chợ mà trong tôi đang lo lắng nơi nào mình sẽ đi tiếp đây. Gặp một rạp chiếu phim Video nhỏ với các tấm pano quảng cáo hình bộ phim đang chiếu bằng loại chữ Khmer và chữ Tàu, tôi dừng lại đứng gần đám đông người trước cửa rạp chiếu phim. Vờ xem các hình quảng cáo nhưng tôi kín đáo quan sát và lắng nghe tiếng trò chuyện của người chung quanh xem coi có đồng hương Việt Nam không nhưng không gặp người Việt nào cả.

    Tôi bỏ rạp chiếu phim, quay ra đi thẳng rồi băng ngang qua một ngã tư vào một khu phố với khá nhiều cửa tiệm đèn sáng choang. Dân Khmer sống ở phố chợ cũng giống người Việt Nam dùng mặt tiền nhà làm tiệm buôn bán. Dọc theo con phố, tôi đi ngang một tiệm cà phê có vài khách đang ngồi xem TV gắn ở trên tường. Tôi dừng chân nhìn các cảnh trên TV đang chiếu. Một cô gái trẻ ngồi ở chiếc bàn nhỏ ngay sát hàng hiên ngẩng đầu nhìn tôi, trong tay cô cầm một quyển sách khá dầy. Thấy tôi đứng nhìn vào quán, cô gái hỏi vài câu Khmer. Không hiểu lời cô gái, tôi mỉm cười với cô rồi nhìn xuống quyển sách. Những hàng chữ Việt trên các trang giấy. Tôi nhìn kỹ đúng là chữ Việt. Mừng quá đi! Buột miệng, tôi hỏi liền:

    - Cô là người Việt Nam... Phải không? Cô là người Việt Nam?

    Cô gái nghe tiếng tôi liền gật đầu, hỏi lại:

    - Anh! Anh... thuộc nhóm người Việt vừa có mặt ngoài bến xe lúc chập tối. Phải không?

    Tôi gật đầu nhưng thầm nghĩ tại sao cô ta lại biết tôi trong nhóm người Việt ở ngoài bến xe? Thấy tôi đứng yên, cô cho biết khách uống cà phê trong tiệm nói về một nhóm người Duôn vừa xuống xe tại bến đã bị công an Khmer bắt giữ. Công an Khmer bắt vì nghĩ người Duôn đến Kompong Som để tìm cách vượt biên sang Thái Lan. Khi nghe vậy, cô vội chạy ra chỗ bến xe để xem có người quen không. Bốn người đang bị giữ tại đồn công an ở gần cửa chợ còn các người khác bỏ chạy hết. Cô gái kéo ghế mời tôi ngồi, xưng tên Hường rồi tiếp:

    - Mấy thằng công an Khmer em quen mặt cả. Họ lại đây uống cà phê thường ngày. Em vô đồn công an gặp 4 người bị bắt và nghe họ kể chuyện ghe vượt biên rồi. Em đã nói cho công an Khmer biết nhưng bọn nó nói phải liên lạc với lãnh sự quán Việt Nam trước đã. Em nghĩ họ sẽ thả hết bốn người bọn anh, đừng lo. Nói xong, cô gái quay vào phía trong gọi khá lớn:

    - Liên, Liên ơi! Ra đây có chuyện này hay lắm.

    Một thiếu nữ từ bên trong quầy đi ra. Nhìn mặt hai cô gái, tôi đoán họ trạc tuổi với tôi. Hường nói qua loa với Liên về tôi rồi cả hai dẫn tôi ra phía đằng sau nhà. Ở đó có một phụ nữ Việt khá lớn tuổi đang ngồi ăn cơm tối. Hường, Liên bảo là mẹ của họ và giới thiệu tôi với bà. Bà cụ bảo tôi ăn cơm tối chung. Tôi vừa ăn vừa kể cho ba người nghe về chuyến đi bất thành. Sau bữa ăn, tôi xin đi tắm ngay vì từ lúc rời đảo Cô Tan không có nước để rửa ráy, thân thể rất bẩn. Tắm xong, Hường làm cho tôi ly cà phê đá. Uống nó thật ngon, nước lạnh chảy tới đâu tôi cảm thấy mát ngay tới đó. Bà cụ, mẹ của Hường và Liên kể thêm về hoàn cảnh:

    - Gia đình tôi đi vùng kinh tế mới tại huyện Vĩnh Cửu thuộc tỉnh Đồng Nai vào cuối năm 1975 sau khi nhà nước đổi tiền mới. Lên đó được vài năm, ông nhà tôi chết vì cơn sốt rét rừng. Mẹ con tôi chán nản hết sức, muốn trốn về Sài gòn nhưng nhà cửa thì không còn. Chưa biết làm gì thời may gặp cái vụ nhà nước xây cái đập thủy điện Trị An. Một số nhà hàng ở Sài Gòn lên hỏi mua những khu đất gần chỗ xây cái đập để mở hàng quán cho đám công nhân xây dựng. Lô đất nhà tôi lại ngay chỗ nhà hàng cần mua. Họ cho người đến thương lượng. Gặp dịp tôi bán liền, lại bán được giá thật hời. Tiền bán khu đất, lúc đầu tôi định về Sài Gòn kiếm mua căn nhà nhỏ rồi liệu kế làm ăn nhưng mấy đứa trong nhà lại nghe lời họ hàng rủ nhau đi vượt biên. Đám tổ chức vượt biên đường bộ bằng ngã Kampuchia. Một hai bảo đảm sẽ sắp xếp gia đình tôi đi lọt trong vòng tuần lễ. Tính chuyện rất dễ nhưng khi đến được Kompong Som này gia đình tôi bị lừa mất sạch vàng. Không vượt biên được nữa, phải ở nhà trọ rồi kéo nhau đi làm thuê kiếm miếng ăn qua ngày. Thảm lắm cậu! Bà cụ ngừng kể, mắt khẽ nhắm như đang hồi tưởng những ngày cũ. Một thoáng trôi qua, bà tiếp:

    - Gia đình phải sống dựa vào đám bộ đội Việt Cộng đóng quân ở đây, tội nghiệp nhất là hai đứa con gái tôi... lúc đó đành phải...

    Hường ngồi gần tôi, tiếp lời mẹ:

    - Cả nhà em dành dụm mãi mới đủ tiền sang lại nhà và mở quán bán cà phê suốt từ đó. Trước đây còn khá đông bộ đội người Việt tụi em buôn bán rất ngon. Bây giờ họ rút về hết rồi thêm người mở quán cạnh tranh làm gia đình em buôn bán cũng kém. Chưa biết sẽ phải xoay trở làm ăn cái gì khác đây? Hầu như người Việt mình từ quê nhà sang Kompong Som đều tính chuyện vượt biên cả nhưng thấy vậy mà đi khó lọt lắm anh. Bị đám tổ chức gạt, có khi còn bị bắt rồi hết tiền không về quê nhà được giống gia đình em nên đành chấp nhận sống ở đây luôn.

    - Cái hồi gia đình tôi bị bỏ rơi ở Kompong Som may mắn bộ đội Việt Cộng không thèm bắt người nữa. Mấy năm trước vượt biên sang đây đi lạng quạng ở các bến xe hoặc nhà trọ, công an Kampuchia bắt được giao cho bộ đội Việt Cộng giải về Việt Nam tống vô tù liền. Bà cụ kể.

    - Hồi đó gia đình em không bị bắt vì bộ đội Việt Cộng muốn có nhiều người Việt mình sống ở nước Kampuchia trước khi họ phải rút về Việt Nam. Liên chen vào.

    Hường kéo tôi trở ra một bàn trong quán, vài khách địa phương ngồi gần nhưng không ai buồn để ý đến ai. Mắt họ dán vào màn hình TV. Tôi ngồi im lặng, thỉnh thoảng ngó ra bên ngoài mong gặp được anh Tấn, thằng Dũng hay người trong ghe. Chợt Liên đến ngồi chung bàn, kể chuyện:

    - Người Việt mình ở đây sống rải rác nhiều nơi nhưng ai cũng đều chung cảnh nghèo, đi làm thuê làm mướn cả. Chuyện quay về quê nhà lập nghiệp thật xa vời không ai nghĩ đến, do vậy mới lập hội Việt Kiều để tương trợ lẫn nhau. Chị Hường em nói sáng mai sẽ đưa anh đi gặp hội, xem coi họ có thể giúp gì cho anh được không?

    Nói với Liên, tôi may mắn đã gặp được gia đình nàng chứ nếu không, tối nay còn đang phải lang thang ở đâu đó. Trời về khuya quán sắp đóng cửa, Cao về tới. Cao là em trai út của Hường-Liên, làm thuê cho một tiệm ăn Tàu ở chợ và cũng vừa dọn dẹp ngoài đó xong xuôi. Nằm trong chiếc mùng Cao vừa căng cho tôi sát bên các bàn ghế trong quán, tôi hồi tưởng những chuyện xẩy ra trong ngày và câu Hường nói:

    - Anh đừng lo, những người bị công an bắt chập tối họ sẽ thả sớm sáng ngày mai.

    Thằng Minh ở trong số người bị bắt này. Dầu sao, nó cũng có chỗ ngủ đêm nay. Chỉ lo cho thằng Dũng và anh Tấn giờ đang ở đâu, ra sao?

    Cũng y như tiệm cà phê bên quê nhà, quán của hai chị em Hường-Liên ngày nào cũng mở rất sớm và đóng thật trễ. Mới 6 giờ sáng cả nhà đã lục tục dậy để dọn dẹp chuẩn bị cho một ngày mới. Tôi thức dậy cùng với gia đình và định phụ một tay nhưng hai chị em Hường-Liên bảo tôi cứ ngồi yên uống cà phê. Cao vẫn đang ngủ say. Hường nói ngày nào cũng vậy, Cao bắt đầu đi làm lúc gần trưa cho đến tối khuya mới xong việc. Bà cụ cũng dậy sớm, đang lúi húi làm món cơm chiên cho mọi người ăn sáng lót dạ. Khách lai rai vào uống cà phê, họ là dân lao động phải dậy đi làm sớm đầu ngày nên ghé vào quán uống vội một ly cho tỉnh ngủ cho ấm bụng rồi bỏ đi ngay. Ở xứ nào, dân lao động cũng vất vả như nhau.

    Khoảng xế trưa bớt khách, để Liên coi tiệm Hường dẫn tôi đi gặp các người Việt gần chợ Kompong Som. Đầu tiên, tôi và Hường đến nhà người đại diện hội Việt Kiều. Ông ta tên Hai, trạc ngoài 50 tuổi, khuôn mặt hiền lành đầy vẻ nhẫn nại. Sau khi nghe tôi kể vắn tắt lại câu chuyện của mình, ông yên lặng, thở dài rồi cho biết người Việt sinh sống ở Kompong Som rất nghèo vì hầu hết đã mất tiêu tài sản cho canh bạc vượt biên không thành. Lưu lạc xứ người lại không nghề nghiệp trong tay nên ai cũng phải làm thuê vác mướn sống qua ngày. Có người phải dành dùm rất lâu mới có đủ tiền để về lại Việt Nam. Đó là người còn gia đình bên quê nhà. Không thân thích ruột thịt, đành chọn Kompong Som làm quê hương thứ hai. Ông Hai nói đúng y lời Hường và Liên đã kể.

    - Chúng tôi làm thuê bất cứ nghề gì mà người Khmer cần cậu à. Phu khuân vác, thợ hồ, thợ nề... Thậm chí làm cả người ở giúp việc trong nhà nữa. Nói ra cho cậu thấy hoàn cảnh chúng tôi. Sống ở xứ người nhưng có khấm khá gì đâu. Mong ngày đủ hai bữa cơm là tốt. Gặp cậu, thêm đồng hương tôi rất vui nhưng nói thật, muốn giúp cậu cũng chẳng biết phải giúp sao đây vì ai cũng nghèo túng cả. Cậu cứ tiếp xúc các người Việt khác đi rồi sẽ thấy. Gửi cậu 200 Riel, mong cậu hiểu cho tình cảnh tôi.

    Nhờ có Hường hướng dẫn, tôi mới gặp được nhiều gia đình người Việt Nam. Gặp nhiều Việt kiều nhưng đúng như lời ông Hai, người Việt sinh sống tại Khmer quá sức nghèo. Có gia đình, cuộc sống của họ còn khổ hơn lúc còn ở Việt Nam. Tôi cảm thấy áy náy khi phải gõ cửa lòng nhân ái của họ, những người Việt tha hương bất hạnh. Từng là nạn nhân của các vụ lừa đảo vượt biên nên số Việt kiều tôi gặp dễ dàng thông cảm nhưng chính vì vậy lại đặt họ vào hoàn cảnh khó xử. Thật lòng họ muốn giúp nhưng túi không tiền. Mở miệng từ chối lại không nỡ. Có người thú thật trong nhà không còn một đồng bạc và đang chờ người thân đi làm về mới có cái mua đồ ăn. Có gia đình chỉ biết an ủi, giữ tôi và Hường ở lại ăn bữa cơm trưa mà thức ăn chỉ món mắm cùng canh chua bắp chuối hột nấu với ít cá lòng tong. Có nhà khi thấy tôi và Hường đến, họ liền đóng sập cửa không tiếp.

    Tới chiều tối, tôi và Hường mệt mỏi quay trở về quán. Toàn bộ tiền tôi xin được trong ngày hôm nay chỉ vỏn vẹn 1600 Riel. Hường cho biết từ Kompong Som về Nông Pênh bằng xe khách hạng bét là xe chở hàng Kamaz cũng phải mất 5000 Riel tương đương với 5 phân vàng y 24. Lạ một điều đi gặp Việt kiều suốt cả ngày, không nghe ai nói với tôi về những người khác trong chuyến ghe. Không lẽ chỉ có một mình tôi đi gặp họ? Tôi phân vân. Anh Tấn và thằng Dũng đã đi đâu sau lúc chia tay vội vã ở bến xe? Tôi lại nghĩ lúc còn ở trên ghe, anh Tấn, Dũng và các người khác đã nuốt kịp vàng vào bụng và nhờ vậy họ đã có cái để bán? Có tiền trong tay, thuê nhà trọ nghỉ chân và họ đã đón xe về Nông Pênh hết cả rồi. Có thể lắm! Mong họ được như điều tôi nghĩ.

    Bữa cơm tối, bà cụ kể thêm cho tôi nghe những cơ cực của những ngày đầu phải lưu lạc tại vùng Kompong Som sau chuyến vượt biên không thành. Từng lâm cảnh khổ vì bị gạt vượt biên nên gia đình Hường-Liên đã cố sức giúp tôi có tiền để về lại quê nhà.

    - Em chưa biết nếu ghe anh đi lọt sang được đất Thái sẽ ra sao chứ bằng đường bộ thì ai cũng phải vào mấy cái trại sát biên giới như Dongrek, Nong Chan hay Nong Samet... gì gì đó. Tuy mang tiếng trại tị nạn nhưng bọn lính Khmer và lính Thái ở đó coi mạng người vượt biên Việt không bằng một con gà. Đàn ông con trai người Việt mình, chúng muốn hành hạ hay giết thì tùy hứng. Đàn bà con gái thì thôi khỏi nói. Trước sau gì cũng bị... tay chúng hết. Gia đình em đi không lọt chứ lọt mà phải sống trong các trại tị nạn đó thì không biết số phận sẽ như thế nào. Người Việt mình sao thời bây giờ khổ quá anh, ở bên quê nhà đã khổ, sang đây cũng khổ. Hường buồn bã, chép miệng.

    Liên thuật cho tôi nghe mấy tay công an Khmer đến quán uống cà phê lúc quá trưa cho biết họ đã thả 4 người Duôn bị bắt tối hôm trước. Thằng Minh vậy đã được tự do. Nó ra sao bây giờ? Biết hoàn cảnh tôi, bà cụ bảo nếu không muốn về Việt Nam ngay thì cứ ở lại đây rồi theo Cao ra ngoài chợ xin việc làm trong các tiệm ăn! Có nhiều tiệm ở chợ nếu họ nhận cho làm, chịu khó tằn tiện rồi tôi cũng góp đủ tiền. Hường, Liên phụ họa:

    - Anh ráng ở đây một thời gian ngắn làm việc, đừng ngại chỗ ăn chỗ ở.

    Nghe vậy, tôi nghĩ mình không còn chọn lựa nào khác, tạm thời phải ở lại, đi kiếm việc làm. Ở trọ nơi quán cà phê được hai ngày, theo Cao đi hỏi các tiệm ăn trong chợ nhưng không ai cần thêm người làm, tôi đành quay về không. Tối nằm ngủ, tôi nghĩ phải tìm cách để về Nông Pênh. Gia đình Hường-Liên tuy tốt bụng nhưng tiệm cà phê khách chỉ có lai rai, ở nán lại trong nhà họ ngày nào coi như thêm gánh nặng ngày đó. Đường đi nước bước ở nơi miệng mình, chỉ kẹt tôi không biết tiếng Khmer. Tôi phân vân nhưng quyết định dứt khoát phải về. Trong lúc ăn cơm, nói điều mình định cho cả nhà biết, Hường và Liên liền giúp mỗi người 500 Riel nữa tổng cộng tôi có 2600 Riel. Tôi nhủ thầm, mình cứ liều thử đón xe xem sao. Có đi mới biết.

    Khi trời còn mờ sương buổi sớm mai, Hường đã dẫn tôi ra bến xe để tìm cách về Nông Pênh nhưng những xe khách ở đó đòi giá tới 6000 hoặc 7000 Riel cho một chỗ ngồi. Giá vé chênh lệch tùy theo tình trạng xe mới hay đã cũ nhưng khách phải trả tiền trước. Như đã kể, bến xe rất rộng phải đi tới lui loay hoay dò hỏi mãi rồi Hường cũng gặp được một xe đồng ý cho lên sau khi Hường nói tôi chỉ có 2500 Riel. Đây là một xe vận tải cũ hiệu Kamaz của các nước Đông Âu Xã Hội Chủ Nghĩa viện trợ cho các quốc gia trong khối CS như Việt Nam, Cu Ba và Kampuchia... Móc trong túi lấy toàn bộ tiền mình hiện có đưa cho gã lơ rồi sau đó theo ngón tay y, tôi vội vàng trèo lên cái rờ moọc khá lớn chất đầy hàng hóa kéo ở phía sau xe. Tôi hành khách duy nhất ngồi trên đống hàng hóa ở cái rờ moọc. Xe sắp sửa chạy, tài xế bóp còi và rú ga vài lần.

    - Về đi Hường, cho anh gửi lời thăm bà cụ, Liên và Cao. Không bao giờ anh quên được em và ngày hôm nay. Cầu xin Thượng Đế phù hộ cho gia đình em. Cảm ơn em rất nhiều. Mong rằng có một ngày nào đó anh sẽ gặp lại em cùng gia đình.

    Tôi thân mật nói lời từ biệt với cô gái tốt bụng khi xe Kamaz bắt đầu lăn bánh trên con đường gập gềnh, đầy ổ gà của bến xe Kompong Som. Hường đứng yên lặng bên vệ đường, khuôn mặt lộ vẻ buồn khi nhìn tôi và khẽ vẫy tay cho đến khi chiếc xe khuất sau một khúc quanh.

    Xe chạy dần ra phía ngoại ô, cảnh vật hai bên đường là các vùng đất vắng lặng nhưng vẫn thấy rõ dấu vết của làng mạc nay không còn người ở. Những khung nhà sàn đổ nát, hư cũ và các vệt vườn cây ăn trái còn sót lại ở nhiều nơi. Những vạt ruộng bỏ hoang cùng những bãi đất trống xuất hiện khi xe chạy ngang qua. Chế độ Polpot-Iêng Sa ri khi cầm quyền đã tận diệt các phát minh của nhân loại trên đất nước Khmer. Tiền, một trong số các điều mà bọn người Khmer CS này đã tiêu hủy. Không cho lưu hành tiền trong xã hội và còn dẹp luôn chuyện buôn bán. Người dân muốn có muốn cần cái gì trong cuộc sống, chỉ đơn thuần trao đổi với nhau như kiểu thời sơ khai. Nếu không có tiền hôm nay làm sao tôi có thể đón xe để về Nông Pênh được! Một xã hội không dùng tiền trong giao dịch thương mãi, giả dụ người có bò muốn có dê nuôi thì người đó sẽ phải đi đâu mới gặp người chăn dê đang tìm bò để cùng nhau trao đổi qua lại? Đến chết chưa chắc đã gặp. Phải có chợ buôn bán thì mọi việc mới ổn thỏa. Làng mạc bị bỏ hoang nhiều vì chế độ Khmer Đỏ đã tàn sát rất nhiều dân lành vô tội. Người thuộc chế độ cũ bị tàn sát vì thù hận đã đành nhưng các sư sãi đạo Phật, các tu sĩ tôn giáo khác đã làm gì nên tội mà cũng bị giết? Coi như một gánh nặng cho phúc lợi xã hội, người tàn tật cũng bị dứt bỏ và ngay cả người đeo cặp kiếng trắng cũng bị tận diệt vì gán cho là thành phần trí thức. Được cha mẹ cho du học tại Pháp rồi về nước với mảnh bằng kỹ sư và những đưa đẩy của lịch sử, Polpot cầm quyền để rồi làm cho đất nước Khmer tan hoang chỉ sau ít năm do gã cùng tay chân cai trị. Không hiểu vì mối thù hận gì mà những lãnh tụ Khmer Đỏ lại giáng lên đầu lên cổ người dân? Không lưu hành tiền, không còn các sinh hoạt xã hội như bao đời và phải sống tập trung như thời sơ khai... người dân Khmer sống trong giai đoạn cộng sản cầm quyền chắc chắn phải khổ sở vô cùng.

    Ngồi trên chiếc rờ moọc sau xe, tầm mắt tôi tiếp tục dõi mắt ngắm nhìn cảnh vật bên đường. Có những khu vực, cây Thốt Nốt được trồng hoặc mọc tự nhiên trải dài đến tận chân trời. Những cây Thốt Nốt nằm gần sát đường khoe các chùm trái mầu xanh hoặc nâu tím tròn bóng lưỡng và có một cái núm nhỏ như đôi vú của thiếu nữ đương thì. Có thấy những cánh đồng cây Thốt Nốt mới hiểu tại sao nước Khmer làm ra được nhiều loại đường mầu vàng ngà ngon nổi tiếng. Ở thùng xe Kamaz, khách Khmer chen chúc ngồi bó gối chật cứng trên đống hàng hóa. Hàng hóa là thổ sản địa phương như cá khô, dừa... chất trong các sọt cần xé hoặc các bao gạo. Các thùng thuốc lá hút ngoại quốc cùng những thùng carton bọc kín mít không biết chứa thứ gì bên trong. Ngồi một mình trên đống hàng hóa của cái rờ moọc, tôi thật không an toàn khi xe chạy. Những lúc xe Kamaz đổ dốc chạy rất nhanh qua cua gắt làm tôi phải bám chặt vào các kiện hàng vì sợ bị hất ngã văng xuống đường. Đường từ Kompong Som về Nông Pênh thật xấu. Xe chạy ngang qua các cầu bị phá hủy từ thời chiến tranh nay được chắp vá bằng thân cây lớn ghép lại. Lúc vượt cầu như vậy rất nguy hiểm, tài xế sơ sẩy chút xíu, xe sẽ lọt xuống dòng nước đang chảy bên dưới ngay. Đường hư hỏng, ngồi trên cái rờ moọc nên mỗi lần xe lọt ổ gà, người tôi thêm một phen ê ẩm. Đây là đường duy nhất nối liền hải cảng Kompong Som về thành phố Nông Pênh tương tự như quốc lộ 20 bên quê nhà từ Dốc Mơ đi Đà Lạt. Những vùng hoang vắng trên trục lộ giao thông xe đang chạy ngang, nơi nào từng là cánh đồng giết người trong thời PolPot cai trị?

    Mặt trời bắt đầu chói chang, tôi đổi hướng ngồi để tránh ánh sáng chiếu trực tiếp vào mặt. Đột nhiên, chiếc xe từ từ ngừng lại. Vài người Khmer võ trang đứng ở dưới đất tiến lại gần ngang bên hông, chỉ trỏ vào hàng hoá rồi nói chuyện với hai gã lơ-tài xế. Gã tài xế đưa tiền cho những người Khmer võ trang của cái chốt bên vệ đường. Đám võ trang cho xe chạy, chạy tiếp cho đến khi gặp chốt gác mới lại phải dừng xe. Mỗi lần gặp chốt võ trang lại diễn màn mặc cả tiền mãi lộ. Ngồi im lặng trên cái rờ moọc, tôi kín đáo quan sát đám người Khmer có vũ khí trong tay không biết họ là lính của phe nào. Khmer Hiêng Xomrin hay tàn quân PolPot-Iêng Sa Ri? Y phục họ mặc bát nháo giữa quần áo lính xanh, rằn ri chung với thường phục và xà rông. Người chân mang giầy trận, người chỉ đôi dép mỏng.

    Xe đã chạy được hơn hai tiếng đồng hồ. Hai bên đường hầu hết như rừng hoang vắng chỉ đôi lúc xe qua một xóm dân cư Khmer rất thưa thớt lèo tèo độ chục nóc nhà sàn. Đường quá xấu, xe chở nặng nên tốc độ rất chậm. Chạy kiểu nầy không biết còn bao nhiêu km đường, mấy giờ đồng hồ nữa xe mới đến được Nông Pênh? Chắc chắn khi đến được thì trời sẽ chiều tối. Tôi lo lắng mình sẽ ở đâu trong đêm tại Nông Pênh? Có gặp được người tốt bụng như anh chàng cán bộ Sok Sammath hay người đồng hương như chị em Hường-Liên?
    (còn tiếp)

  7. #7
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Vừa vượt qua một con dốc khá cao, chiếc xe ngừng lại. Hai gã lơ và tài xế bước xuống xe đến chỗ chiếc rờ moọc, lấy chỉ tay vào tôi và nói những câu Khmer xa lạ. Tiếng Khmer tôi mù tịt còn tiếng Việt hai gã lại không biết. Hai gã Khmer nói cái gì với mình vậy? Lúc đầu tôi không hiểu nhưng rồi qua cử chỉ, tôi biết hai gã muốn tôi phải trèo xuống khỏi cái rờ moọc. Không chở mình đi tiếp nữa! Tôi có chút sững sờ vì ở bến, hai gã Khmer đã đồng ý khi cho tôi lên xe. Cầm tiền Hường trả bây giờ lại đuổi tôi xuống. Biết nói gì bây giờ? Chợt nhớ tối hôm qua trước giờ ngủ, Hường và Liên đã cố sức chỉ cho tôi nói vài câu Khmer để phòng những lúc cần. Lúc chia tay ở bến xe Kompong Som, Hường đã nhét vội vào túi áo tôi một mảnh giấy dặn khi nào anh quên thì lấy ra đọc cho nhớ. Có bí kíp trong túi mà không biết dùng, tôi liền lấy nó ra trong lúc hai gã lơ-tài xế cùng những người Khmer khác đang nhìn chằm chằm. Như bao người Việt sinh sống tại xứ Chùa Tháp, chị em Hường-Liên chỉ biết nói và không biết viết cũng như đọc được chữ Khmer. Thấy tôi mở túi áo, nghĩ tôi lấy tiền nhưng không, chỉ một mẩu giấy nhỏ. Mở vội ra, tôi đọc to những câu viết thành chữ Việt trên giấy:

    - Bon cùm đâu nhum chênh lan (Anh đừng đuổi tôi xuống xe).

    Những khách Khmer nhìn tôi, có gã cười mỉm, vài người khác nói nhỏ câu gì đó với nhau. Nhìn hai gã lơ và tài xế rồi nhìn vào tờ giấy, tôi đọc tiếp một hơi:

    - Nhum oóc lui hơi (Tôi hết tiền rồi).

    - Nhum chon tư Nông Pênh (Tôi muốn đi Nông Pênh).

    - Bon chui nhum (Anh giúp tôi nghen).

    Thưa quý bạn đang đọc bài viết nhất là các bạn biết tiếng Khmer. Có thể tôi đã nhớ không đúng những câu Khmer mà Hường viết trong mẩu giấy. Nhiều năm trôi qua làm sao trí não có thể nhớ rõ được. Có sai sót, mong các bạn thông cảm. Đọc xong mẩu giấy, tôi nhìn các người Khmer và mỉm cười với họ. Tôi lập lại vài lần nữa nhưng thái độ của hai gã lơ-tài xế vẫn không thay đổi. Qua cử chỉ và lời to tiếng, tôi biết họ nhất quyết muốn tôi xuống khỏi cái rờ moọc. Vài khách Khmer khác thấy tôi làm mất thì giờ nên bắt đầu nổi cáu khi to tiếng giận dữ phụ hoạ chung với hai gã. Không cho mình đi nữa, tôi đành leo xuống khỏi cái rờ moọc. Chiếc xe Kamaz chạy dần xa xa mất dạng sau một khúc trũng trên đường.

    Lang thang một mình dọc theo đường lộ dưới trời trưa nắng cả tiếng đồng hồ, tôi gặp các xe khác chạy ngang hướng về Nông Pênh và đã giơ tay vẫy nhưng không một chiếc nào chịu ngừng lại cho quá giang. Đi dưới trời trưa nắng nóng, tôi phải dừng chân, bước vào các hố gần cạnh đường để vốc nước uống và rửa mặt cho đỡ cơn khát. Lấy cái áo trong giỏ xách ra, tôi nhúng ướt nước rồi trùm trên đầu cho dễ chịu. Cứ đi như vậy cho đến khi vừa qua khỏi khúc quanh đường, xa xa một bọn người đang đi ngược chiều với tôi trong tay họ vung vẩy cây súng AK 47. Tôi dừng lại, tự hỏi những người đang đi phía trước mặt là ai? Chắc mình phải lánh mặt vào bên vệ đường xem sao nhưng đã muộn, những người đó đã trông thấy tôi. Họ gọi nhau í ới và chỉ tay về tôi.

    Tôi đứng yên tại chỗ, đưa hai tay choàng lên đầu mình. Đám Khmer đó lại gần, túa ra vây chung quanh và lăm lăm súng hướng thẳng vào người tôi. Mặt họ đen nâu đầy vẻ hung dữ. Khăn rằn quấn ở cổ, đầu đội mũ sắt hoặc mũ lưỡi trai. Chân họ đi giầy vải hoặc dép râu y như Việt Cộng bên quê nhà. Họ lăm lăm nhìn tôi rồi hỏi cả tràng tiếng Khmer. Tôi chỉ biết lắc đầu tỏ ý không hiểu. Một gã tiến đến, dùng tay nắn vào người tôi lục soát. Thấy không có gì, gã ấn tôi ngồi xuống đất. Chết mình rồi! Chung quanh đây vắng lặng, tôi nhủ thầm.

    Để tôi ngồi đó, cả đám Khmer quay ra nói chuyện với nhau. Khá lâu sau, một gã khác tiến sát lại gần bên, vỗ lên vai tôi và ra dấu đứng dậy. Nhìn thẳng vào mặt tôi, y tuôn ra một câu.

    - Anh làm gì có mặt ở đây?

    Nhìn gã Khmer, quá mừng vì gặp người nói được tiếng Việt, tôi lắp bắp quên trả lời câu y hỏi:

    - Ô! Anh, anh... Anh là người Việt Nam? Anh nói được tiếng Việt.

    Gã Khmer lập lại câu hỏi. Tôi liền kể tóm tắt sự việc đã xẩy ra ở xe Kamaz nhưng dấu chuyến vượt biên bất thành. Thay vào đó, tôi bịa chuyện theo người quen đến Kompong Som làm ăn. Mới nhận được tin nhắn phải về Việt Nam gấp vì vợ đau nặng đang nằm nhà thương và rất cần có mặt tôi chăm sóc.

    - Tại sao xe Kamaz đuổi anh xuống giữa đường? Anh làm chuyện gì trên xe họ? Gã Khmer hỏi dồn.

    Tôi trả lời không biết lý do. Đuổi xuống thì xuống nhưng thâm tâm tôi nghĩ vì thiếu tiền vé nên tài xế cho đi nửa đoạn đường. Có thể xe Kamaz đã chi tiền mãi lộ dọc đường nhiều nên bực mình đuổi tôi xuống. Cũng một cách họ dằn mặt những người khách Khmer khác. Không có tiền thì đừng đi, trả tiền nửa chuyến đi nửa chuyến... không nói lôi thôi. Vả lại, tôi đâu phải dân Khmer mà cũng có thể hai gã lơ-tài xế đó không thích người Việt. Chỉ suy đoán vậy.

    - Đám Khmer võ trang 7 người ngồi xuống gần bên tôi và quay qua, xì xồ nói chuyện với nhau. Họ lấy thuốc lá điếu ra hút và mời nhưng tôi lắc đầu từ chối. Ngồi cho đến khi hút tàn điếu thuốc thì cả bọn gọi nhau đứng lên và rảo bước quay về hướng cũ. Tôi được lệnh đi theo. Lầm lũi giữa đám Khmer, tôi đi nhưng không biết cái gì sẽ xẩy ra. Được một quãng đường khá xa, đám Khmer bỏ con đường nhựa và lội thẳng vào hướng rừng bên cạnh. Tôi bắt chuyện với gã lính biết tiếng Việt:

    - Mình đi đâu hả anh?

    Gã lính chỉ im lặng không trả lời. Khi nghe hỏi lại lần nữa, gã đứng ngay lại nói gằn từng tiếng:

    - Bảo anh đi là đi, không được hỏi lôi thôi với tui nghe chưa.

    Nhìn mặt gã Khmer thật khó đoán được tâm tính y. Gã tươi cười vui vẻ khi nói chuyện với đồng bọn. Với tôi, gã lại cộc cằn. Nước da gã đen, thân hình dong dỏng cao. Khuôn mặt gầy, tóc gã quăn tít có lọn lòa xòa trước trán. Nhìn mặt, tôi đoán gã khoảng 25, 26 tuổi và có vẻ chỉ huy bọn lính. Gã biết tiếng Việt, chắc cùng một dạng như Sok Sammath? Nghĩ vậy, tôi nhìn lại hoàn cảnh mình mà lo trong bụng. Bọn này dẫn mình vào rừng để làm gì? Chân bước đều theo bọn người Khmer nhưng trong tôi đang run lập cập.

    Tôi cùng đám lính lặng lẽ đi trên lối mòn trong một cánh rừng thưa được hơn 100 m đường thì đến chỗ nước ngập, cả đám phải lội bì bõm trong nước. Có lúc nước cao tới đầu gối rồi qua khỏi chỗ ngập thì con đường dốc lên dần và cây cối cũng thưa thớt hơn. Đi len qua vài mỏm đá quanh co, gã lính biết tiếng Việt dẫn tôi tách riêng đi hướng khác rồi dừng bước trước một căn hầm lớn nằm dưới các tàng cây cao to. Nhìn căn hầm trông giống kiểu hầm chữ A trong mật khu bên quê nhà. Ai đã từng bị chính quyền Cộng Sản bắt đi vùng kinh tế mới trên các vùng rừng miền Đông Nam Bộ sau ngày 30-4-1975 chắc có dịp trông thấy căn hầm chữ A do Việt Cộng đào trú ẩn giữa rừng trong thời còn chiến tranh. Gọi hầm chữ A vì hình dáng của nó. Vách hầm là hai hàng cây lớn dựng xiên vào nhau, đất được đổ kín, lèn chặt chung quanh và chỉ chừa một lối ra vào duy nhất. Hầm làm kiểu này sức chịu đựng với bom đạn khá chắc. Tôi theo gã lính bước vào, căn hầm có các ô trống trên vách lấy ánh sáng bên ngoài vào trong. Một cái bàn gỗ lớn đóng dính liền với ghế nằm chình ình ở giữa sàn hầm. Một cái đèn dầu to tướng cùng vài quyển sổ, bút bi... bỏ nằm trên mặt bàn. Phía góc hầm khuất sau cái bàn, một gã to béo đeo kiếng mát, mặc áo thun quần short đang đung đưa mình trong cái võng mắt lưới. Sợi dây da nâu vắt qua vai gã với bao da súng ngắn nằm gọn ngay dưới nách. Khẩu súng trong bao da chắc phải rất nhỏ. Nhận ra có người lạ, gã bỏ kiếng nhìn tôi trong chốc lát cùng lúc tay lính nói vài tiếng Khmer. Tôi đứng yên nhìn căn hầm, nhiều khẩu súng trường được dựng đứng dựa vào vách ở một góc. Gã to béo khoảng 40 tuổi, tôi đoán chỉ huy cả bọn lính và quả đúng như vậy. Gã lính quay qua với tôi:

    - Ông lớn chỉ huy đó, anh nói chuyện với ông ấy đi.

    Chưa kịp biết nói gì, người được gã lính gọi bằng ông lớn buột miệng hỏi tôi:

    - Anh bạn ăn uống gì chưa? Có hút thuốc không?

    Tôi lắc đầu, ông lớn nói vọng ra bên ngoài vài câu Khmer. Một gã lính trẻ bước vào hầm, tay bưng cái nồi và lon đồ hộp. Đặt các thứ trên mặt bàn trước mặt tôi, gã mỉm cười rồi đưa cho tôi muỗng chén xong loay hoay mở lon đồ hộp. Ông lớn vẫn nằm trên võng nói:

    - Anh tự nhiên ăn cơm đi. Ăn hết luôn nghe... Chiều, mấy lính sẽ nấu nồi khác.

    Tôi ngồi lại bàn, nhìn vào nồi cơm còn khá nhiều và món đồ hộp là thịt kho mặn. Từ sáng tới giờ trong bụng nào có hột gì đâu, họ cho tôi ăn như vầy quá sức ngon. Chưa biết kết cuộc rồi sẽ ra sao nhưng trước mắt phải no bụng đã. Nghĩ vậy, tôi múc cơm ăn liền. Gã lính đi cùng đến ngồi đối diện tôi rồi móc thuốc lá điếu ra hút và cùng ông lớn trò chuyện bằng tiếng Khmer. Thỉnh thoảng đầu họ gật gù với nhau khi cả hai đưa mắt nhìn về tôi. Hai người Khmer này đang bàn chuyện gì đó về mình? Bữa ăn chấm dứt mau chóng, gã lính trẻ quay vào dọn sạch nồi, lon không rồi đưa cho tôi lon nước cam. Bây giờ, ông lớn quay sang tôi:

    - Sarek nói tui biết câu chuyện của anh bạn rồi. Anh đừng về Việt Nam nữa. Ở lại đây với chúng tui cho vui. Vài tháng hay cùng lắm vài năm thì anh cũng y chang tụi tui hà. Đừng có về Việt Nam nha anh bạn Duôn.

    Trời ơi! Thì ra họ muốn mình làm lính. Gã đi cùng, bây giờ tôi biết tên là Sarek mỉm cười phụ hoạ với ông lớn:

    - Anh thích xài súng nào thì lựa cho mình một cây. Miệng nói, tay y chỉ về phía góc căn hầm nơi có đống súng AK 47, CKC, M 16, B 41... dựng sát cạnh bên nhau.

    Thấy tôi yên lặng, gã tiếp:

    - Anh biết không! Người Duôn trong quân đội Khmer đông lắm. Ở luôn đây nha anh. Không về Việt Nam nữa nghe.

    Y mỉm cười, giọng khẩn khoản. Ngồi yên trên ghế, tôi ngẫm nghĩ lời hai người Khmer vừa nói. Họ người Việt Nam nay đã thành dân Khmer? Nhưng khuôn mặt cùng vóc dáng họ không có vẻ gì người Việt Nam cả. Tóc xoăn, da đen, tướng tá của họ rõ khác biệt với tôi. Không lẽ họ là người Việt gốc Khmer như sắc dân Khmer Krom sống ở các làng quê miền Nam Việt Nam lâu năm rồi hoàn cảnh đưa đẩy họ đến đây và thành người lính. Nếu đúng vậy, hai người họ ở đây được vì dầu sao cũng là bản quán thật. Còn tôi, người Việt Nam, quê hương và thân thuộc không ở đây. Phải từ chối. Nghĩ vậy tôi trả lời liền:

    - Tôi thích đi lính lắm, nhìn các khẩu súng này tôi cũng muốn chọn một cây nhưng không thể được.

    - Sao lại không được? Tại sao? Ông lớn hất cằm hỏi dồn.

    - Vợ tôi đau nặng mà chưa biết sống chết ra sao bên quê nhà. Tôi phải về ngay. Nếu còn độc thân thì dễ tính quá nhưng không được, tôi phải về gặp mặt vợ tôi. Các anh thông cảm, đừng bắt tôi ở lại đây. Tội nghiệp.

    Sarek nhìn tôi, khoa tay dứt khoát.

    - Anh không được ra khỏi đây. Đã đến thì ở lại với chúng tui luôn. Ông lớn quyết định như vậy. Đây là mệnh lệnh nghe chưa, không được cãi. Bây giờ không nói nữa, nằm nghỉ trưa đi.

    Xong, y nằm lăn ra trên băng ghế dài. Tưởng y làm một giấc ngủ trưa nhưng không, Sarek nằm đó trò chuyện với tôi. Tôi cũng nằm dài trên băng ghế, trong lòng lo lắng xen lẫn buồn bã. Sarek cho biết đơn vị y có cấp số tới hơn một đại đội và phân tán thành từng nút chận trải dài trên trục lộ giao thông suốt từ Kompong Som cho tới gần phi trường Pochentong, cửa ngõ dẫn vào thành phố Nông Pênh ở hướng Nam-Bắc.

    - Anh đi xe chắc có gặp các chốt chận dọc đường chứ? Sarek hỏi nhưng trả lời luôn: " Các chốt đó là lính của đơn vị tui ".

    Im lặng trong chốc lát, Sarek tiếp:

    - Thực ra không phải tất cả các chốt chận đều thuộc lính ở đây. Bộ đội địa phương trong vùng cũng lập chốt và đôi khi cũng có cả tàn quân PolPot nữa.

    - Tàn quân PolPot.

    Tôi ngạc nhiên, hỏi lại Sarek:

    - Vẫn còn tàn quân PolPot sao! Họ có đông không, hoạt động gì dọc theo đường?.

    - Ít thôi, chủ yếu lén lút mò ra quấy phá cầu đường. Đó tại sao cây cầu nào cũng có lính đóng chốt.

    - Họ võ trang, quân phục ra sao hả anh?

    - Trước kia tụi nó mặc đồ đen, bây giờ tạp nham cũng như tụi tui. Võ trang chỉ AK 47, B 41 thôi... Yếu lắm, không có súng cộng đồng.

    - Sao anh biết họ là tàn quân PolPot?

    - Biết chứ! Lính chúng tui biết mặt nhau hết. Với lại, bọn nó chạy vào rừng ngay khi thấy tụi tui.

    - Gặp vậy các anh có truy nã họ không?

    - Trước kia có đấy nhưng giờ đám tui chán cảnh đánh nhau lắm anh. Bọn nó cũng vậy, thấy bên tui là tránh liền.

    Sarek kể lúc nhỏ y sống nguyên thời ấu thơ bên Việt Nam rồi theo cha mẹ về lại Khmer cho đến khi PolPot lên nắm quyền. Trên đường tản cư về miền quê theo lệnh của chính quyền mới, Sarek đã lạc gia đình. Về một vùng quê lạ, gã bị cán bộ Khmer Đỏ tập họp lại với các trẻ em khác sống chung trong khu tập trung có tên Phum Cùm Hu. Sarek phải dấu việc đã từng sống bên Việt Nam kể cả chuyện y biết tiếng Việt khá sõi. Sarek thuật lại các vụ Khmer Đỏ hành quyết ghê rợn những người đã dính líu đến Việt Nam trong thời gian đó. Sống tập trung trong phum cho đến khi gặp bộ đội Việt Cộng. Biết tiếng Việt, Sarek được Việt Cộng chọn huấn luyện riêng nhưng sau đó gã đã trốn trại huấn luyện để đi tìm lại cha mẹ. Gã đi kiếm nhiều nơi nhưng hoài công. Khi về Nông Pênh để kiếm việc làm, tình cờ Sarek gặp lại bạn cũ và người đó dẫn y đến nhập lính ở đây.

    - Cha mẹ tui chắc không còn sống đâu anh. Ang Ka dạy tụi tui phải biết căm thù người Duôn, căm thù luôn cả những người Khmer có liên hệ với dân Việt Nam. Ang Ka giết người nhiều quá nên chắc ông bả chết cả rồi. Khmer bây giờ lớp người trẻ như tui mồ côi cha mẹ nhiều lắm, lớn lên mà không thân nhân cũng không biết gốc gác gia đình ở đâu ra.

    Sarek buồn bã kể chuyện sống trong phum thời PolPot nhưng khi nói về Việt Nam, giọng y vui vẻ hẳn:

    - Gặp được anh tui rất mừng. Tui vẫn nhớ những bạn người Duôn thuở xưa khi sống bên Việt Nam.

    Sarek kể lại thời niên thiếu sống trong làng ở miền Nam nước Việt, về các kỷ niệm với bạn bè chung lớp tiểu học. Mỗi lần phấn khích trong câu chuyện, y lập lại:

    - Anh ở đây chung với tụi tui nha. Chỉ có tui với ông lớn biết tiếng Việt giờ thêm anh nữa càng vui.

    Nhớ lại Sarek khô khan, lạnh lùng trong lần đầu mới gặp tôi thật khác hẳn với thái độ y bây giờ. Định mệnh cay nghiệt đã đổ xuống gia đình và bản thân y nên biến Sarek có lúc thành con người cộc cằn, thô lỗ nhưng tận cùng, tôi nghĩ Sarek là người tốt.

    Ông lớn nằm yên không góp chuyện. Nghĩ ông đã ngủ say nhưng chợt tai tôi nghe một tiếng thở dài đánh sượt. Ai thở vậy? Tôi nhổm đầu dậy nhìn chung quanh. Ông lớn nằm yên trên võng, hai mắt thao láo nhìn lên trần hầm. Vẻ mặt ông trông thật hiền. Chuyện Sarek kể chắc tương tự chuyện riêng đời ông, đã dắt ông về các hoài niệm cũ làm ông nhớ đến các thân nhân và ông đã buồn. Chắc vậy! Không biết thời PolPot cai trị, hoàn cảnh riêng của ông ra sao? Câu chuyện quay về tôi khi Sarek một mực bảo phải ở lại và không về Việt Nam nữa.

    - Chúng ta bạn của nhau từ bây giờ. Anh xuống xe đò ngay chỗ tui đóng quân, có nghĩa số phận chúng ta gặp nhau và sẽ gắn liền sống chết bên nhau. Phải không? Sarek ngồi dậy, mỉm cười nhìn tôi và ông lớn sau câu nói.

    Ở lại đây và sống chết bên nhau với họ. Nếu hai người Khmer nầy muốn vậy thì làm sao mình về tới Việt Nam được đây. Biết cớ sự như vầy thà tôi nghe lời Hường-Liên ở nán lại Kompong Som còn hơn cố về nhà để mắc kẹt... Nhưng làm sao mà biết trước được để tránh. Tôi phân vân, rối trí quá. Mới vài tiếng đồng hồ trước còn ngồi trên xe hàng mà giờ phải bó tay trong căn hầm xa lạ này. Biết làm gì đây? Tôi thật sự tuyệt vọng và buồn cho hoàn cảnh mình. Tại không có đủ tiền xe mà ra... Tiếng Sarek cắt đứt mối suy tư của tôi.

    - Sao! Ở lại đây ha anh bạn? Im lặng là đồng ý mà... Ha ha...

    Tôi ngồi dậy nhìn hai người Khmer rồi khăng khăng nói phải về Việt Nam với lý do vợ bệnh nặng đang nằm chờ ở nhà thương. Khi bịa ra chuyện có vợ bệnh, trí óc tôi nghĩ đến Ánh Phương, tự dưng làm tôi chảy nước mắt. Tiềm thức về số phận Ánh Phương khiến tôi khóc dễ dàng.

    - Thôi đừng khóc nữa... Đừng khóc nữa. Đủ rồi! Em thương con vợ bên quê nhà dữ ghê ha! Anh hiểu em rồi, em trai ơi! Hà hà...

    Ông lớn đột ngột thay đổi cách xưng hô. Ông cười to tiếng, bước rời khỏi chiếc võng và đến bên vỗ vào hai vai tôi. Sarek cũng im lặng nhìn tôi mà không nói một lời.

    Vừa lúc, một gã lính chạy vào hầm nói một tràng tiếng Khmer xong y quay chạy trở ra ngay. Ông lớn xốc dây súng trên người cho gọn gàng rồi với tay lấy cái ống nhòm treo trên vách và đội mũ vải hoa dù lên đầu. Sarek cầm khẩu AK 47, miệng y hối tôi đi theo ngay. Ba chúng tôi bước nhanh ra khỏi căn hầm chữ A đi đến một cái hầm khác nhỏ hơn có một gã lính ngồi cạnh cái bàn gỗ. Tay gã lính cầm ống nghe truyền tin áp sát vào tai bên phải. Gã đưa cái ống nghe cho ông lớn rồi cầm vào cái cần bên cạnh một hộp máy và quay liền vài vòng. Loại máy truyền tin dùng dynamo quay tay cổ lỗ trong quân đội của khối Cộng Sản. Ít phút sau, tôi theo chân ông lớn và Sarek băng qua các vạt cây rừng cùng các tảng đá để đi lên một bờ dốc cao. Đứng trên bờ dốc, ông lớn và Sarek dừng lại chuyền tay nhau cái ống nhòm nhìn ra một hướng thấp thoáng vài chiếc xe đậu xa xa. Tôi quay nhìn khu vực chung quanh, các hầm trú ẩn, bờ đá lô cốt phòng thủ cùng các lỗ châu mai còn sót lại của một căn cứ hay trại lính cũ.

    Theo con đường khác với lối cũ buổi trưa, tôi đi cùng ông lớn và Sarek ra trở lại mặt đường lộ. Một dãy xe vận tải lớn hiệu Hino-Isuzu của Nhật đang nổ máy, đậu dọc sát lề đường trước mặt tôi. Từng thùng mì gói, thuốc lá thơm Ăng-Lê ba số 555, bia lon, kẹo bánh cùng đồ hộp... được lính Khmer chuyển tiếp từ trên các xe tải này xuống bỏ nằm lăn lóc dưới đất. Nhìn đoàn xe vận tải, chiếc nào cũng ken các cọc cây khá cao để chở thêm hàng hóa. Hàng trên thùng xe hầu hết là mô tô Honda hư cũ, loại xe người trong nước gọi chung cái tên là Cúp cánh én hai bánh nghĩa địa. Chúng được nhập cảng vào nước Khmer từ các bãi phế thải ở Nhật Bản, Đài Loan hoặc Hàn Quốc sau khi chạy được quãng đường 5000 km. Đoàn xe vận tải này vừa từ cảng Kompong Som về.

    Một gã Khmer to lớn mặc áo thun mỡ gà đến nhìn tôi xong khoát tay ra dấu theo y đi lại chiếc xe ở đầu đoàn. Loại xe ca bin đôi, gã Khmer mở cửa cho tôi trèo lên ngồi vào băng ghế rồi y bỏ đi. Thêm hai người Khmer trèo vào trong ca bin xe ngồi chung băng ghế với tôi. Nhìn bên ngoài, tôi chợt lo khi thấy Sarek và ông lớn cùng gã Khmer áo thun mỡ gà đến cạnh xe nhưng họ không lộ ra thái độ gì. Ông lớn, Sarek và gã Khmer đứng đó trò chuyện với nhau. Chốc lát sau gã Khmer leo lên xe, tôi nhìn ông lớn và Sarek, cả hai mỉm cười rồi vẫy tay từ biệt tôi.

    Đoàn xe từ từ lăn bánh tiếp tục chạy về hướng Nông Pênh.

    Xe chạy khá xa tôi mới thật yên tâm. Ông lớn đã đổi ý vào phút cuối và còn giúp tôi có phương tiện để về Nông Pênh. Tạ ơn Thượng Đế. Chuyện đời Sarek kể thêm các giọt nước mắt của tôi đã đánh động lòng ông. Cuộc đời ông chắc từng biệt ly với người thân nên ông đã đồng cảm với hoàn cảnh tôi? Họ tuy dân Khmer nhưng nói tiếng Việt rất rành rọt. Khi gặp tôi, đã vui như gặp được đồng hương nơi xứ lạ nên muốn tôi ở lại với họ lâu dài. Tôi nghĩ họ từng có bạn người Việt và tình bạn giữa họ cùng những người Việt đó phải rất tốt nên họ mới có mối hảo cảm với cá nhân tôi. Nếu sống bình yên êm ả trong một thôn xóm, gặp người như họ để tôi làm bạn thiết cũng điều rất nên.

    Ca bin xe tổng cộng 5 người gồm tài xế và gã Khmer áo thun mỡ gà ngồi ở băng ghế trước, băng sau, tôi và một đôi nam nữ khác ngồi chung. Đôi nam nữ nhắm mắt như ngủ vì mệt hoặc đang nghĩ về sự việc vừa xẩy ra cho cả đoàn xe? Băng trước, tài xế và gã Khmer áo thun mỡ gà cũng im lặng. Có lẽ họ biết tôi không nói được tiếng Khmer còn họ cũng không biết tiếng Việt. Ông lớn gửi gấm tôi cho họ sao đây? Muốn bắt chuyện để biết sự vụ nhưng tôi chịu, đành dõi mắt ra ngoài nhìn cảnh vật hai bên đường. Nước Khmer sau khi Việt Cộng rút về chỉ trong một thời gian ngắn, đời sống người dân đã khấm khá thấy rõ. Khi còn bên quê nhà, người dân Việt chạy xe Honda nghĩa địa nhập cảng từ ngoại quốc về. Có gặp đoàn xe vận tải, tôi mới biết chúng từ các lái buôn Khmer tập trung và chuyển về tiêu thụ bên Việt Nam. Tất cả xe Honda nghĩa địa ở Việt Nam đều một loại tay lái cánh én 50 phân khối cylinder. Ở Kompong Som, dân Khmer không thèm dùng loại xe Cúp cánh én. Đa số họ chạy xe Honda Dream hay tệ hơn thì cũng xe Suzuki 100 phân khối. Có lẽ họ chê Cúp cánh én vì xe nhỏ, yếu và trông không đẹp mắt.

    Càng về gần Nông Pênh đường lộ càng ít hư hỏng và nhờ vậy tốc độ của đoàn xe chạy nhanh hơn. Xe vận tải Hino-Isuzu rất tốt, bỏ xa loại xe Kamaz của khối Đông Âu Cộng Sản. Sau chốt kiểm soát đó, đoàn xe không gặp thêm các chốt chận khác của lính Khmer hoặc phe Polpot nữa. Hai bên đường thấy nhiều khu nhà dân hơn trước rồi đoàn xe đi vào một trạm kiểm soát của công an-quan thuế Khmer. Những chiếc xe đò, xe chở hàng Kamaz mà tôi và Hường gặp hồi sáng sớm ở bến xe Kompong Som đang đậu dọc bên lề đường để chờ nhân viên đến xem xét. Khá đông người Khmer bán hàng rong vây chung quanh xe y như ở các trạm kiểm soát bên Việt Nam. Thấy đoàn xe Hino-Isuzu, vài người bán hàng chạy vội đến ngay. Tiếng họ rao vang vang chung quanh xe nhưng một nhân viên trong bộ đồng phục đã hướng dẫn đoàn xe chạy vào lối riêng khác. Người bán hàng rong không được phép đi theo vào với đoàn xe. Chạy từ từ dọc theo lối đi đến một dãi nhà dài và hẹp nằm cạnh một hàng cây rậm rạp, đoàn xe ngừng lại. Gã Khmer áo thun mỡ gà cùng vài người ở các xe khác xuống xe, đi vào trong gian nhà trình giấy. Chốc lát, cả bọn quay ra, trở về xe và tiếp tục chuyến đi.

    Ngang qua phi trường Pochentong, vài máy bay sơn trắng dân sự cánh quạt đậu yên trên phi đạo gần hàng rào kẽm gai sát vệ đường. Cảnh trông không khác ở phi trường Tân Sơn Nhứt ngay khu vực Bà Quẹo thuộc quận Tân Bình-Sài Gòn. Gặp phi trường Pochentong, có nghĩa Nông Pênh cũng chẳng còn bao xa. Nông Pênh chính là Nam Vang trong tiếng Việt. Hồi còn ấu thơ bên quê nhà, nghe cha tôi kể thời tổng thống Ngô Đình Diệm, dân Việt chạy xe mô tô bình bịch từ Sài Gòn sang Nam Vang mua sắm hàng hóa, ăn hủ tiếu, du ngoạn... Đi và về chỉ nội nhật trong ngày nhưng khi đó đang trong các giai đoạn thanh bình của miền Nam VNCH.

    Đến Nông Pênh lúc 3:45 phút chiều, đoàn xe chạy vòng vèo trong các con phố, những con đường với vỉa hè không khác ở Sài Gòn. Người người bước dạo trên vỉa hè dưới các tàng cây trồng trước cửa tiệm. Xe cộ đó đây chạy ngược xuôi hú còi inh ỏi. Một rạp chiếu bóng trông bề ngoài giống hệt rạp Casino gần chợ Bến Thành cùng những tấm pano quảng cáo phim trước cửa. Sau rốt, đoàn xe chạy vào một sân bê tông rộng với bờ tường vây chung quanh và tắt máy ngừng hẳn. Gã Khmer áo mỡ gà ra dấu tôi rời khỏi ca bin. Nhiều xe vận tải khác đậu xa xa trong sân. Gã Khmer dẫn tôi đến một xe tải khác trong đoàn. Gã chuyện trò với ba người ở xe đó rồi một người trẻ trong số họ tách ra ngoắc tôi theo y ra tuốt bên ngoài cổng. Ra ngoài cổng, gã Khmer trẻ yên lặng nhìn xuôi ngược dòng xe hai bánh đang chạy trên đường như mong chờ ai đó. Chợt gã ngoắc tay, một xe Honda ôm quay đầu ngừng lại bên cạnh. Gã Khmer trẻ hất đầu ngầm bảo tôi trèo lên yên xe. Xe chở 3 người chạy lòng vòng trong thành phố rồi ngừng lại cạnh một toà nhà khá lớn. Xuống xe, gã Khmer trẻ lấy tiền trả cho tài xế và ra dấu tôi đứng chờ phía trước của tòa nhà rồi y đi thẳng vào bên trong. Hơn 5 phút rồi 10 phút tôi chờ, vẫn chưa thấy gã Khmer trẻ quay ra. Tài xế xe Honda ôm sốt ruột hỏi vài câu Khmer nhưng tôi lắc đầu, khua tay tỏ ý không hiểu lời y. Rảo vài bước chân, tôi nhìn vào trong tòa nhà. Qua ô cửa kiếng rộng, hàng chữ Hotel du Bayon gắn nổi trên tường dưới ánh sáng đèn chiếu. Gã Khmer trẻ vào khách sạn này làm gì? Các mặt tường khách sạn ốp đá cẩm thạch mầu xanh lá cây cùng cửa kiếng mầu phớt tím bóng lộn trong suốt. Các nhân viên tiếp tân trong đồng phục xanh cúc mạ vàng đang đứng tại quầy trò chuyện với nhau. Chùm đèn trắng lớn buông thỏng từ trần nhà rọi sáng các bụi kiểng trang trí cùng vài bức tranh thật đẹp treo trên tường. Hai khách trọ từ phía trong đi ra nhưng không phải gã Khmer trẻ tôi đang chờ. Quay ra bên ngoài, tôi nhìn sang bên kia đường đối diện với khách sạn. Một công viên nhỏ với các hàng cây, bụi hoa được cắt tỉa thật đều, gọn đẹp. Vài khách du đang chậm rãi tản bộ trên các con đường nhỏ trong công viên và một người già ngồi xem báo ở băng ghế đá. Tôi đế ý đến khối kiến trúc khá lớn hình tròn sơn mầu vàng nằm phía cuối con đường cắt ngang một giao lộ. Không biết nó là chợ hay một trụ sở hành chánh của chính quyền nhưng kiến trúc đó trông khá lạ mắt.

    Vừa quay nhìn lại bên trong khách sạn, tôi thấy gã Khmer trẻ đi ra cùng với một người đàn ông khác. Trò chuyện với nhau xong, gã Khmer trẻ giơ tay ra dấu từ biệt người đàn ông rồi y leo lên xe Honda ôm vẫn chờ tại chỗ. Xe nổ máy chạy liền ngay, người đàn ông còn lại đến bên tôi, nói:

    - Chào anh. Anh khỏe không? Mình đi xuống bến Tắc Ca Mau ngay bây giờ nghe.

    Tôi gật đầu, mỉm cười với ông ta. Nhìn vào đồng hồ đeo tay, người đàn ông như chợt nhớ điều gì nói thêm:

    - Ồ! Bây giờ còn sớm lắm... Hay chúng ta đi ăn uống cái gì đã rồi tính sau nghe... Với lại, tui với anh cũng chưa biết gì về nhau mà. Phải không? Tui là Danh Ngạnh còn anh tên gì vậy?.

    Tôi nói tên và nhìn vào khuôn mặt ông. Danh Ngạnh chắc đã trên 40 tuổi, có vóc dáng vạm vỡ, khuôn mặt khắc khổ đen sạm nhưng cười rất tươi với hàm răng trắng đều đặn. Vừa lúc, một xe Honda ôm bỏ khách xuống ngay gần bên đường, ông vội ngoắc chiếc xe lại rồi mặc cả. Tài xế chở chúng tôi đến một khu vực bán hàng ăn uống khá rộng nằm không xa khách sạn Hotel du Bayon. Trời bây giờ chiều hẳn, đèn điện trong các cửa hàng trên đường và trong khu bán hàng đã cháy sáng. Khá đông thực khách đang ăn bữa chiều hay lai rai ba sợi y chang các điểm ăn nhậu bên Việt Nam. Hễ nước càng nghèo thì càng nhiều hàng quán bán đồ ăn uống, một người nào đó đã nói với tôi. Ngẫm nghĩ thật đúng. Mở hàng bán thức ăn, bữa nào rủi vắng khách thì gia đình chủ quán dùng ngay các món bán ế thay cho bữa cơm trong ngày. Danh Ngạnh đưa tôi lên tầng hai một cửa hàng và chọn chiếc bàn ẩn khuất sau bụi dừa kiểng. Ngồi đó, tôi thấy lại xa xa khối nhà lớn mầu vàng hình tròn lúc đứng chờ ở khách sạn. Hỏi, Danh Ngạnh cho biết đó là chợ Ô Sây, một chợ lớn nhất nhì ở Nông Pênh tương tự như chợ Bình Tây trong vùng Chợ Lớn-Sài Gòn. Một người hầu gái trong quán tiến đến chào, đặt tờ thực đơn trên bàn. Danh Ngạnh nhìn tờ thực đơn nói tôi tùy ý chọn món. Ngỏ ý muốn ăn hủ tiếu Nam Vang để xem coi tại nơi gốc món này có hương vị ra sao nhưng vừa nghe tôi nói, Danh Ngạnh xua tay liền:

    - Chọn món khác đi anh bạn. Hủ tiếu Nam Vang thường lắm, có gì lạ đâu mà ăn.
    (còn tiếp)

  8. #8
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)


    Đành để Danh Ngạnh chọn món ăn. Y gọi các món lươn, ốc... và cả bia nữa nhưng tôi nói không uống được bia, xin cho thứ khác. Nghe vậy Danh Ngạnh mỉm cười, lắc đầu chê tôi đàn ông mà yếu quá vậy. Vừa ăn vừa nói chuyện, Danh Ngạnh hỏi về sự việc của tôi. Vắn tắt tôi thuật lại câu chuyện cho Danh Ngạnh nghe, từ lúc xuống cá lớn ở Vàm Rầy-Hà Tiên cho đến khi bị sa vào tay hải tặc Thái Lan. Những ngày ở đảo hoang cùng đảo Cô Tan rồi phải lang thang trên đường vì không đủ tiền vé trong chuyến xe Kamaz. Gặp toán lính Sarek cùng với ông lớn rồi được họ giúp cho quá giang đoàn xe Hino-Isuzu về Nông Pênh và sau cùng gặp được y. Nghe xong chuyện tôi kể, Danh Ngạnh ngồi yên trong chốc lát rồi nói:

    - Tui nghĩ anh quá sức hên là hên khi gặp Sarek. Nói thật, lúc lang thang trên đường nếu gặp bọn PolPot thì chưa biết mạng anh sẽ ra sao? Cầm chắc chúng sẽ kéo anh vào rừng rồi giết anh ngay. Giết chết tươi đó nghe.

    - Ghê vậy. Mình có làm gì họ đâu anh? Tôi hoảng hồn.

    - Vậy! Chúng muốn giết thì giết, muốn tha thì tha. Chả biết đâu mà lường trước được. Tụi lính Polpot, nhiều thằng rất thù ghét người Việt nhưng có đứa lại không. Ai xui xẻo mới gặp mấy thằng hung thần đó... Ngay cả người Khmer tụi tui, bọn nó cũng không tha. Mà nghĩ cho cùng cũng do số phần cả thôi anh.

    Dứt câu, khuôn mặt Danh Ngạnh trầm ngâm lộ vẻ buồn buồn. Y ép tôi ăn uống cho mạnh vào để bù những ngày thiếu thốn vừa qua. Ăn xong, chúng tôi rời quán, đón một xe Honda ôm xuống bến tàu đò chạy đường sông Châu Đốc-Nông Pênh. Bến đò có tên Tắc Ca Mau hay còn gọi bến đò Cây Nhãn. Trời bắt đầu tối nhưng vẫn rõ cảnh nhộn nhịp trong bến tàu. Mấy chục ghe bầu khá lớn nằm liền bên nhau ở sát cạnh bờ. Người lên bờ, kẻ xuống ghe nườm nượp. Bảng hiệu ở các điểm giao dịch, các tiệm ăn trong bến và dọc sát bờ tuy viết bởi ba ngôn ngữ Khmer-Tàu-Việt nhưng tai tôi chỉ nghe lời trò chuyện, gọi nhau oang oang bằng tiếng Việt. Hình ảnh bến tàu, tiếng rao của dân bán hàng rong cùng tiếng phu khuân vác ơi ới khiến tôi có cảm tưởng đang đứng ở một bến đò nào đó bên quê nhà. Thấy tôi và Danh Ngạnh, vài người chạy vội đến nhao nhao:

    - Anh Hai đi ngay bây giờ hay đi chuyến kế để thằng em lo vé cho. Đệ tử có vé tốc hành đây, lấy một hay hai vé hả các huynh?

    Danh Ngạnh lắc đầu từ chối lời mời của các tay cò bán vé. Ông im lặng, đi dọc theo cạnh bờ nhìn vào các ghe bầu rồi đột ngột dừng lại ở một chiếc và bảo tôi đứng chờ. Danh Ngạnh theo tấm ván gỗ bắc thẳng từ trên bờ xuống dưới ghe. Cơn triều đang lên kéo theo một mùi tanh tanh của nước, của cá và bùn non trong cơn gió thốc thẳng vào mũi tôi. Cái mùi của bến đò thủy không lẫn vào đâu được. Nhìn về hướng Tây, sao Hôm đã xuất hiện lấp lánh trong bầu trời chập choạng tối. Chợt nghe tiếng gọi, tôi vội quay đầu nhìn lại ghe. Danh Ngạnh ngoắc tay ra dấu cho tôi bước xuống. Chầm chậm từng bước tôi lần theo tấm ván, những giề lục bình xanh hoa tím cùng rác rưởi nổi rập dềnh theo con nước sát cạnh thân ghe. Một phụ nữ từ phía sau lưng Danh Ngạnh bước ra nhìn mặt tôi, hỏi:

    - Cậu này đây hả? Để tui lo cho, anh Hai cứ yên tâm.

    Chị phụ nữ vóc dáng cao ráo nước da bồ quân, người quấn xà rông đen cùng áo bó sát thân. Chị cười thật tươi phô hàm răng trắng, quay lưng đi trước dẫn Danh Ngạnh và tôi vào bên trong lòng ghe. Mái tóc chị đen bóng mượt, kẹp thành một lọn dài sau lưng phảng phất mùi dầu dừa. Ghe bầu ở bến đò Tắc Ca Mau thân to, rộng, dài và chia ra thành 3 tầng. Tầng dưới và tầng trên cùng làm nơi chứa hàng hoá của dân buôn. Tầng giữa, nơi khách đi ghe nghỉ ngơi. Hàng chục dân buôn nam nữ ngồi hoặc nằm trong các tấm võng căng sát cạnh nhau, mắt họ dán vào màn hình TV lớn đang chiếu một phim Video quyền thuật Hồng Kông. Đến một tấm võng bỏ trống, chị ta quay qua nói với tôi:

    - Cậu trẻ nằm ở võng này nghe. Muốn đi vệ sinh thì ra thẳng phía đằng sau ghe. Cần gì thì cứ hỏi tui nha cậu, đừng có ngại. Lúc nào mệt cứ nằm nghỉ như ở nhà.

    Danh Ngạnh cho tôi biết ghe sắp sửa rời bến, ông tiếp:

    - Sớm mai anh sẽ đặt chân lên Châu Đốc. Mọi việc sẽ ổn, tui về nghe.

    Danh Ngạnh vỗ vai tôi từ biệt. Đi theo ông ra phía bên ngoài phần mép chiếc ghe bầu nơi đặt tấm ván nối lên bờ, tôi lí nhí nói lời cảm ơn nhưng Danh Ngạnh chỉ khoa tay không trả lời. Đảo mắt nhìn những người khách đang nằm hoặc ngồi trong các chiếc võng ở lòng khoang ghe, Danh Ngạnh miệng cười tủm tỉm, cúi đầu nói nho nhỏ vào tai tôi:

    - Giấc khuya thấy mấy người ở đây làm trò gì thì đừng có ngạc nhiên nghe cha nội.

    Tôi im lặng nhìn Danh Ngạnh, ông ta nói vậy là sao? Thấy tôi chưa hiểu lời vừa nói nhưng Danh Ngạnh chỉ cười cười, vẫn không cho biết rõ. Tôi nhìn kỹ mặt Danh Ngạnh, lòng nhủ thầm ông quá tốt với tôi như những người Khmer Sok Sammath, ông lớn. Những chuyện kể về mối thù truyền kiếp giữa người Việt và người Khmer cùng hình ảnh đoàn người Khmer tay lăm lăm vũ khí, mắt trắng dã man rợ đuổi bắt rồi tàn sát người Việt trong chuyện kể Cáp Duôn đã ít nhiều tan biến trong tôi. Chị phụ nữ mà Danh Ngạnh gọi tên Ba từ trong đi ra đến gần bên, nhìn hai chúng tôi trong yên lặng. Danh Ngạnh đến trước mặt tôi, đặt hai tay lên bờ vai, thân mật hỏi:

    - Sống ở đâu bên Việt Nam vậy, em trai?

    - Cần Thơ anh. Tôi buột miệng trước mặt hai người Khmer này.

    Nghe tôi trả lời, mắt Danh Ngạnh sáng lên:

    - Cần Thơ. Ồ! Chỗ nào vậy? Anh từng sống một thời gian ở Cần Thơ đó em.

    Trời ơi! Tại sao tôi lại nói dối với Danh Ngạnh. Chút ân hận, mắc cỡ lan tỏa trong lòng tôi. Thói quen luôn dấu diếm, nói dối hoặc nói trí trá loanh quanh trong xã hội Cộng Sản bên quê nhà đã lậm vào người tôi rồi. Nói dối cả lúc không cần thiết và ngay với các ân nhân của mình. Danh Ngạnh vừa đổi cách xưng hô, coi tôi như đứa em trai ông. Tôi bối rối và một thay đổi nho nhỏ trong tâm hồn, tôi biết mặt đã đổi sắc. Mong trời trong lúc xẩm tối, Danh Ngạnh và chị phụ nữ không thấy nét biến đổi trên mặt để biết tôi vừa nói láo với họ. Danh Ngạnh mỉm cười, tiếp tục câu chuyện:

    - Trước đây anh sống gần bến Ninh Kiều. Còn em ở đâu Cần Thơ, có gần đó không?

    Phóng lao thì phải theo lao, tôi tiếp tục vì đã lỡ:

    - Nhà em ở đường Mậu Thân, anh à.

    - Ồ! Anh nhớ rồi. Nhà cửa chỗ đó khó kiếm lắm đa. Đánh số lộn xộn tùm lum hà.

    Nói xong câu, Danh Ngạnh chợt nhìn đồng hồ đeo tay nên vội quay đầu bước theo tấm ván hướng lên bờ và nói vói lại:

    - Chị Ba đây sẽ lo cho em. Anh về nghe, chúc em thượng lộ bình an.

    Danh Ngạnh dần dần khuất khỏi con đường sát cạnh các ghe bầu. Trời đã tối nhưng sinh hoạt của bến đò vẫn nhộn nhịp. Tiếng máy đò vang vang đây đó cùng với tiếng gọi nhau của thương lái và phu khuân vác. Cứ vừa có ghe xuất bến thì một ghe khác ở đâu cặp vào thế chỗ liền. Tấm ván được phu khuân vác ở trên bờ kéo ra khỏi ghe bầu. Tiếng máy nổ lớn hơn, ghe từ từ chạy lui ra xong quay trở đầu vòng lại để bắt đầu chuyến hải hành. Tôi sắp sửa rời xa Nông Pênh, một cảm giác luyến tiếc trong lòng. Phải chi có tiền bạc cùng dư dả thì giờ chắc tôi sẽ ở lại để đi xem Chùa Tháp hoặc đi thẳng về hướng Tây, làm một chuyến viếng thăm hai ngôi đền cổ Angko Vat và Angko Thom nổi tiếng.

    Tôi quay vào trong và đi lần ra phía đuôi ghe, một khoảng trống khá rộng sau buồng lái được dùng làm chỗ bán hàng ăn uống. Chị Ba cùng một bà lão Khmer đang lui cui nấu món ăn hoặc pha nước uống cho khách buôn trong ghe. Thấy tôi, chị hỏi muốn uống cà phê, nước ngọt hay ăn uống gì để chị làm. Tôi mỉm cười với chị, lắc đầu nói vừa mới cùng Danh Ngạnh ăn xong trước khi xuống ghe nên bụng vẫn còn no. Ở đây có buồng tắm và phòng vệ sinh cho khách buôn và thấy sẵn nước, tôi vội vàng rửa ráy qua loa thân thể rồi thay bộ quần áo khác xong giúp chị Ba mang cà phê hoặc thức ăn cho khách buôn ngồi trong võng. Các người Khmer biết tiếng Việt tôi đã gặp như Sok Sammath, Sarek, ông lớn, Danh Ngạnh cũng như chị Ba đều nói bằng giọng miền Nam vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tôi chưa gặp người Khmer nào nói tiếng Việt bằng giọng miền Trung hoặc miền Bắc. Khi đã rảnh tay, chị Ba cho biết chị tên là Thạch Sa Thi, người gốc Trà Vinh. Nghe chị hỏi về quan hệ với Danh Ngạnh, từ từ tôi thuật câu chuyện từ đầu đến cuối. Xong, chị nói:

    - Lúc đầu ổng xuống dưới ghe nhờ giúp cho cậu về Việt Nam được an toàn, tui cứ nghĩ cậu trong đường dây làm ăn của ổng rồi gặp chuyện rắc rối gì đó với công an nên phải về Việt Nam gấp gáp. Ai ngờ!

    Chị Sa Thi kể Danh Ngạnh trước đây nằm trong nhóm đưa người Việt và cả người Khmer vượt biên đường bộ sang đất Thái Lan. Tổ chức đi lọt được nhiều lần nhưng trong chuyến lo cho vợ con và bản thân của Danh Ngạnh thì lại bị kẹt. Đám Việt Cộng và bọn Khmer đỏ dắt đường vì trục trặc ăn chia sao đó đã bỏ khách giữa chừng. Vợ con của Danh Ngạnh mất tích chung với đám khách Việt trong rừng sâu vùng Battambang. Danh Ngạnh bị bắt nhưng sau đó đường dây lo lót cho ông ra khỏi nhà giam. Khi làn sóng vượt biên giảm bớt, nhóm làm ăn của Danh Ngạnh xoay qua bắt mối tiêu thụ hàng tàu viễn duyên từ cảng Kompong Som về. Nghe chuyện, tôi hiểu tại sao Danh Ngạnh lộ vẻ buồn khi ở quán ăn và vì chung cảnh ngộ nên ông đã sốt sắng giúp đỡ tôi. " Do số phần cả thôi ", tôi nhớ lại lời Danh Ngạnh nói lúc chiều.

    Ghe chạy đều đều, êm ả trong đêm tối. Thỉnh thoảng kéo từng thôi còi dài khi gặp ghe chạy ngược chiều hoặc vượt mặt một chiếc khác. Ngang những khúc sông gần khu thị tứ, thấy rõ phố xá cùng xe cộ chạy gần bờ dưới ánh sáng của dàn đèn đường. Về khuya bớt việc, chị Sa Thi bảo tôi đi nghỉ cho khỏe vì phải gần sáng ghe mới đến bến xuống. Đung đưa trên võng, tôi quan sát những khách thương hồ chung quanh trong ánh sáng lờ mờ của màn hình TV. Võng đàn ông võng phụ nữ, người nằm kẻ ngồi xen kẽ căng sát cạnh nhau đang xem một đoạn phim Video ma Hồng Kông. Vừa xem họ vừa nói chuyện với nhau về công việc làm ăn hoặc về những đoạn tin thời sự. Gió sông thổi luồn vào khoang ghe thoảng mát không một tiếng muỗi vo ve. Thấy phim chiếu dở, tôi đổi chiều nằm trên võng định ngủ. Nằm yên lại nghĩ về Ánh Phương, về hai chị em Hường-Liên. Ánh Phương, Mỹ An cùng các cô gái khác trên tàu hải tặc Thái ra sao rồi? Khi tàu hải quân của Sok Sammath ghé lại đảo hoang, hai tài công có chịu theo về Cô Tan hay tiếp tục trốn ở lại? Tôi nghĩ về Dũng, thằng Minh và anh Tấn. Họ ở đâu? Từ lúc gặp hai gã cán bộ lãnh sự quán Việt Cộng tới giờ đã được vài ngày chắc người trong đoàn ghe cũng đã về tới Việt Nam. Mong những suy nghĩ của tôi sẽ đúng.

    Khẽ đung đu nhè nhẹ cái võng, ký ức tôi đảo đi đảo lại những chuyện vừa xảy ra với bản thân mình. Lúc trưa tưởng phải ở luôn với đám lính Khmer nào ngờ nhờ vậy mà lại có mặt trong chiếc ghe bầu tối nay. Mới chiều tối hôm qua, tôi và Hường còn ngồi với nhau dưới gốc cây trứng cá ở sân sau nhà nàng chứ có lâu la gì. Hường lấy tay hất mái tóc dài của nàng về đằng lưng, giọng buồn bã:

    - Em có lúc vẫn muốn đi tiếp nhưng chuyện vượt biên thành công thấy thật khó. Với lại em đi nữa thì gia đình sẽ ra sao? Liên coi vậy nhưng nó vụng lắm còn mẹ em đã yếu hơn trước. Chỉ mong có chuyến nào thật an toàn sẽ cho Cao đi nhưng mà...

    Hường bỏ lửng câu nhưng tôi biết điều nàng muốn nói. Làm sao biết chuyến đi nào sẽ thật an toàn để mà yên tâm vượt biên? Ngay cả nếu không bị lừa mất vàng thì chưa chắc trên đường đi ghe đã êm xuôi đến được trại tị nạn. Bà cụ đã bộc bạch muốn lo Cao thoát được ra nước ngoài để có tương lai nhưng lại sợ những rủi ro khi nói: " Gia đình tôi chỉ trông vào mình nó, nếu có mệnh hệ gì tôi ăn nói làm sao với ông nhà dưới suối vàng ". Hình ảnh của Hường đứng bên vệ đường trong buổi sáng nay khi nàng tiễn tôi và đã chờ cho đến khi xe khuất bóng khỏi bến Kompong Som. Sau lúc đưa tôi mẩu giấy viết vài câu Khmer, Hường trải lòng:

    - Thân em bây giờ coi như bỏ đi, chỉ nghĩ cho mẹ và cho gia đình thôi. Về nhà an toàn, có chuyến mới xin anh cố gắng báo cho em biết để gia đình lo cho Cao đi chung. Giả dụ nếu anh về, gặp khó khăn không yên với công an thì... cứ chạy sang đây với gia đình em nha anh Vũ. Chỉ biết nói vậy thôi, em chúc anh mọi việc sẽ may mắn.

    Chưa biết khi về được tới nhà sẽ ra sao với bọn công an khu vực vì chuyến đi của tôi đã khá lâu và điều lo nhất trong ghe có người đã bị hải tặc Thái bắt mất. Tôi chìm vào giấc ngủ lúc nào cũng không biết.

    Thật lâu sau tôi chợt tỉnh giấc khi chung quanh im vắng cách lạ thường. Mắt tôi nhắm nhưng tai nghe tiếng rên rỉ từ đoạn phim trên màn hình. Chồm người dậy, tôi định bụng rời cái võng để ra phía đuôi ghe đi tiểu. Tôi thấy một việc lạ. Những tấm võng cạnh tôi bây giờ bỏ trống không người nằm. Khách buôn ở các võng đi đâu? Tôi biết ghe chạy chưa tới Châu Đốc mà. Tiếng phụ nữ ở màn hình rên rỉ tiếp. Tôi nhìn lên, phim Video đang chiếu một cảnh con nhà nghèo trong ánh sáng lờ mờ và tôi cũng thấy rõ ràng chuyện đang xẩy ra trong khoang ghe. Từng cặp người ôm nhau trên mặt sàn ghe ngay dưới các tấm võng. Không ai trong số họ thèm để ý chung quanh hoặc xem phim Video nữa. Một cô gái nằm bên dưới thân của người đàn ông gần võng tôi chợt hé mắt nhìn lên. Bắt được tia mắt cô gái, tôi vội vàng thụp mình nằm xuống trở lại. Tôi bật cười, hiểu lời Danh Ngạnh nói trước phút chia tay.

    Khách thương hồ trong khoang ghe đang tự đóng phim riêng với nhau. Chắc chắn họ không phải vợ chồng và chỉ buôn hàng chung chuyến ghe. Tình nhân mới táo bạo, liều lĩnh như vậy. Đúng dân buôn hàng chuyến biên giới kiếm tiền dễ nhưng cũng dễ bỏ nhau như vài gia đình chạy hàng trong khu phố gần nhà tôi. Thảo nào!

    Tôi nằm yên xem phim, một cảnh ái ân nam nữ thật cuồng bạo. Tình dục, món quà tặng của Thượng Đế dành cho người yêu nhau có thực dữ dội, mãnh liệt và dung tục như đôi nam nữ đang diễn trong phim? Chỉ chốc lát ngắn ngủi tôi đã thấy chán và nhắm mắt ngủ lại. Muốn ngủ nhưng thực sự thật khó vì tiếng rên rỉ cùng tiếng động chạm xác thịt vẫn vọng đến tai, đã kích thích khiến tôi rạo rực định nhổm dậy khỏi võng để nhìn trộm những cặp người đang quấn chặt nhau dưới sàn buồng ghe nhưng lại sợ họ bắt gặp tại trận như ánh mắt cô gái vừa rồi nên thôi. Phim Video chấm dứt khá lâu nhưng tiếng động, rên, cười khoái trá vẫn tiếp diễn cho đến khi đèn trong khoang ghe đột ngột bật sáng thì sinh hoạt mới trở lại bình thường. Thật không khác trong một rạp phim, khách buôn ngồi lại trong võng, ai cũng vẻ mặt tỉnh queo làm như không hề có các chuyện vừa xẩy ra. Tôi rời võng để đi ra phía sau chiếc ghe và khi quay vào, gặp chị Sa Thi đang lui cui sắp xếp các ly tách trong gian hàng. Thấy tôi, chị Sa Thi ngoắc tay dừng lại, nói:

    - Mình sắp đến trạm kiểm soát hỗn hợp của hai nước. Trước khi đến trạm, ghe sẽ ngừng lại để cho khách xuống và rước thêm các khách mới. Em sẽ phải xuống ngay. Nếu đi tiếp khi đến trạm kiểm soát, công an Khmer và công an Việt Nam sẽ biết em không phải khách buôn. Họ sẽ bắt em ngay.

    - Trời ơi! Phải rời ghe. Rồi em sẽ đi đâu tiếp? Tôi lo lắng.

    - Đừng sợ em trai. Đừng sợ! Mọi chuyện chị sẽ lo cho em. Em sẽ đặt chân lên Châu Đốc ngay sáng sớm cho xem.

    Chị Sa Thi cười rồi tiếp:

    - Lúc tối ngủ ngon chứ? Chị làm cà phê sữa đá cho em uống nha. Cứ ngồi yên chỗ, khi nào chị nói em xuống thì mới xuống.

    Khoảng tiếng đồng hồ sau, ghe bầu chạy chậm để đón khách lên hoặc xuống khỏi ghe. Tiếng người rao đổi tiền Việt sang tiền Khmer vang vang trong khoang ghe. Còn duy nhất trong người một tiền giấy 100 Riel mầu đỏ nhưng tôi giữ lại làm kỷ niệm vì giá trị nó quá nhỏ. Chị Sa Thi đến vẫy tay tôi theo chân chị xuống khỏi ghe bầu. Phía trước mặt, trong ánh đèn điện vàng vọt, các xuồng tắc rán nhỏ chở khách đang băng sang phía bên kia sông. Tắc rán nào cũng có một đèn bão treo lủng lẳng dưới mái che. Dẫn tôi đến gần một tắc rán chạy sát bờ, chị Sa Thi gấp gáp dặn:

    - Em theo tắc rán qua bên kia. Lên bờ rồi hễ gặp xe Honda ôm chạy về bến Cồn Tiên thì mới đi. Khi đến Cồn Tiên, em ngồi chờ khi nào thấy có chẹt thì đón ngay. Chẹt là phà nhỏ, sẽ chở em qua khỏi cồn. Qua được cồn, em đặt chân vào Châu Đốc. Kế tiếp, em đón xe Chành hay nếu gặp Honda ôm càng tốt. Bảo tài xế chở đến chỗ xe đò tốc hành chạy hướng Cần Thơ. Nhớ hết tất cả lời chị dặn chưa? Đây, chị gửi em ít tiền. Em xuống tắc rán bây giờ nha, nó đến rồi. Chúc em đi đường bình an.

    Xuồng tắc rán cập vào, tôi bước xuống với hai người khác cùng qua sông. Lên được bờ, đám chạy Honda ôm nhao nhao bằng tiếng Việt hoặc Khmer ghé đến tìm khách. Tôi chọn một người chạy xe ôm còn trẻ. Cậu ta phóng xe thật nhanh trong đêm tối chở tôi đến bến Cồn Tiên khi trời vẫn chưa sáng. Các quán ăn trên bờ đã mở hàng thật sớm. Chọn một quán gần bờ nhất để tầm mắt tôi có thể nhìn thấy được chiếc chẹt đón khách như lời chị Sa Thi dặn và ngồi đó nhâm nhi ly cà phê nóng như khách địa phương bình thường. Dù vậy, tôi vẫn mối lo vì còn ở trong địa giới nước Khmer. Qua được bên kia cồn an toàn hơn nhưng cũng chưa chắc. Trời bình minh dần, chỉ ít phút nữa tôi sẽ đặt chân vào Châu Đốc. Mọi sự sau đó diễn ra đúng như chị Sa Thi dự liệu.

    Trong chiếc xe đò tốc hành chạy tài nhất đi Cần Thơ, tôi nhìn cảnh vật hai bên đường mà lòng thoáng buồn vì chuyến vượt biên bất thành phải quay về. Hết buồn lại đến mối lo khi nhẩm tính đã rời nhà cả tháng trời. Thời gian vắng nhà lâu như vậy, công an khu vực có biết chuyện mình vượt biên? Bây giờ mình về nhà có thực an toàn không? Thằng Minh trong khu phố đã về nhà chưa hay còn lòng vòng đâu đó bên Campuchia? Tôi nghĩ đến Ánh Phương, thằng Dũng và cả anh Tấn nữa. Lục trong túi xách, tôi xem lại tấm Chứng Minh Nhân Dân của Ánh Phương, tự hỏi có nên tìm đến nhà để báo tin cho thân nhân nàng biết chuyện không may? Trời càng lúc càng sáng rõ, gió sớm mai thổi vào xe mát lạnh có lúc làm tôi nổi da gà. Thỉnh thoảng xe dừng lại đón thêm khách bên đường. Ở một chỗ ngừng gần một ngã ba nhỏ, vài gã công an áo vàng đứng trò chuyện với nhau mà không buồn để mắt đến khách trên xe. Cuối cùng, xe chạy tới Cần Thơ và vào trong bến. Xuống xe, kiểm tiền trong túi tôi còn đúng 2000 tiền già Hồ. Chị Sa Thi đã lo thật chu đáo nhưng tôi còn phải về tận Sài Gòn. Nói nhà ở Cần Thơ nên chị giúp về tới Cần Thơ, giờ làm sao tôi có tiền để đón xe đi tiếp? Chợt nhớ đến người bạn tôi đã quen trong lần tù vượt biên trước đây tên Thành nhà ở đường Mậu Thân. Khi nói với Danh Ngạnh sống ở đường Mậu Thân, tôi cũng từ chuyện anh Thành mà ra. Gặp anh, tôi sẽ mượn tiền để về Sài Gòn ngay hôm nay và cho em gái mang xuống trả lại sau.

    Người đạp xe Chành chở tôi đến đường Mậu Thân chóng vánh. Trả tiền cuốc xe, tôi dò từng căn nhưng số nhà lộn xộn không theo thứ tự liền nhau. Đúng boong lời Danh Ngạnh đã nói, đi tới đi lui mỏi cả chân nhưng tôi vẫn không tìm được. Hỏi thăm vài người sống tại đây thì họ lắc đầu không biết. Mệt mỏi đành ngồi nghỉ chân trên thềm một căn nhà đóng cửa, tâm trí tôi vừa bực bội lẫn lo lắng thì thật may, nhà anh Thành nằm chình ình xeo xéo phía đối diện. Kiếm mãi không thấy, ngồi không lại hiện ngay trước mặt. Tôi bước vội sang gõ cửa kêu tên anh Thành thật to, một bà cụ từ bên trong lê dép lẹp xẹp bước ra, hé cửa hỏi:

    - Cậu là ai? Quen biết sao với thằng Thành con tui?

    Kể sơ về quan hệ giữa tôi và anh Thành cho bà cụ nghe. Bà mời tôi vào trong nhà dùng nước rồi buồn bã nói:

    - Thành nó vắng nhà 2 năm nay mà không có tin tức gì. Lúc nẫy nghe thấy cậu gọi tên nó tui mừng quá, nào ngờ.

    Ngồi nghỉ chân trong chiếc ghế dựa, tôi nhớ buổi đầu khi gặp anh Thành. Hơn 3 năm trước trong một chuyến vượt biên tại huyện Xuyên Mộc, tôi bị du kích địa phương chận bắt giải giao cho xã Phước Thuận. Trong trại tạm giam của công an, gã cán bộ chấp pháp tên Mười Lý đã ra giá người bị bắt viết thư về nhà báo gia đình mang một cây vàng 24 cara lên nạp, y sẽ thả tự do ngay. Ai không có vàng sẽ bị y giải giao cho công an huyện. Giam chung phòng, tôi và anh Thành nhanh chóng làm bạn với nhau. Bị bắt từ chuyến vượt biên một tuần trước, anh hiện đang chờ tin của người nhà. Lớn hơn tôi ba tuổi, anh Thành gốc lính tác chiến trong Sư đoàn 9 bộ binh VNCH. Ít ngày sau, mẹ tôi tìm đến nơi đóng vàng cho gã cán bộ Mười Lý. Khi chia tay, tôi và anh Thành cho địa chỉ nhưng chưa lần nào có dịp rảnh rỗi để ghé thăm nhau. Bác Tư, mẹ anh Thành kể:

    - Mười Lý nó đòi một cây vàng mới chịu thả thằng Thành mà cậu coi nhà tui đâu có khá giả gì. Tui mang được 5 chỉ vàng 24 thôi. Lấy 5 chỉ rồi nhưng công an không thả thằng con tui, một hai bắt phải mang tiếp 5 chỉ nữa mới đủ số. Nói trong nhà không còn vàng chúng đâu chịu tin. Ở trên đó tới ba ngày, tui làm dữ với đám ác ôn, nói nếu không thả thằng Thành thì trả lại 5 chỉ vàng đó rồi giải giao đi đâu thì tùy. Tụi nó xuống giá bảo đưa thêm 3 chỉ rồi 2 chỉ... tui một mực lắc đầu. Cuối cùng, không moi được thêm, thằng Mười Lý cũng phải thả con tui.

    Tôi cạo râu rửa mặt mũi sạch sẽ sau đó dùng bữa cơm trưa vội vã với gia đình. Không gặp anh Thành lại nghe chuyện bà cụ kể, tôi cũng buồn. Nhiệm, em gái út trong nhà cho biết thêm về chuyến đi 2 năm trước của anh trai mình:

    - Em chỉ biết ảnh vượt biên bằng đường bộ băng ngang Campuchia đến Thái Lan. Từ đó đến nay gia đình không nghe tin gì hết, cha mẹ em lo buồn lắm anh.

    - Đi mà mất biệt tăm, thiệt khổ gia đình tui. Bác Tư chép miệng.

    Nhiệm lắc đầu, tiếp:

    - Không biết ảnh ở đâu, ra sao? Nay có anh đến nhà, em mới biết chuyện người Việt vượt biên sống bên Campuchia. Tội nghiệp họ quá há anh! Em hàng đêm vẫn đốt hương cầu mẹ sanh mẹ độ phù hộ cho anh Thành em. Mong ảnh được bình yên sống đâu đó ở bển.

    Tôi thật ái ngại số phần anh Thành khi nhớ lời kể của Hường-Liên về các trại tị nạn người Việt ở Dongrek, Nong Chan và Nong Samet nhưng chỉ biết an ủi Nhiệm và hai ông bà cụ. Tôi lấy tờ giấy bạc 100 Riel đỏ còn lại trong người làm quà tặng bác trai trước khi chia tay với gia đình. Quay trở lại bến xe Cần Thơ và đón kịp chuyến xe tốc hành sắp rời bến, tôi về được xa cảng miền Tây-Sài Gòn vào lúc xẩm tối. Ngồi nhâm nhi cà phê cho đến khi trời tối hẳn tôi đón xe Honda ôm về. Mẹ và các em gái trong nhà bàng hoàng khi gặp lại tôi, chắt lưỡi nói gầy gò hốc hác quá nhìn không ra. Ai cũng nghĩ chuyến ghe đã đến được trại tị nạn vì thời gian qua khá lâu. Tôi hỏi thăm về thằng Minh, vẫn chưa thấy nó ló mặt. Thật lạ! Vậy nó ở đâu? Tôi dặn các cô em gái phải giữ kín chuyện để dò tình hình trong khu phố xem sao.

    Âm thầm về trong đêm tối tưởng không ai biết nhưng ngay ngày hôm sau bà Sáu mẹ thằng Minh đã mò đến nhà tôi để hỏi thăm chuyến đi và tin tức đứa con trai. Tôi lần lượt kể lại mọi chuyện cho bà nghe. Bà ta vật mình khóc lóc than van gây sự chú ý của những gia đình gần bên. Tôi trấn an:

    - Bác về nghỉ ngơi, cố bình tĩnh đừng khóc. Nay hoặc mai thằng Minh sẽ về tới. Khóc chẳng giúp gì, để công an biết thì chết cả đám luôn.

    Trước giờ, ai đi vượt biên không thành nếu yên ổn quay về và đừng để công an biết thì không sao. Trong khu vực do chúng kiểm soát, biết ai vắng mặt để vượt biên thì chuyện sẽ khác. Chuyến tôi đi đã hỏng còn bị hải tặc bắt mất người, tôi càng nghĩ càng lo nhưng thực sự tôi chưa biết cách thức sẽ phải đối phó? Những ngày kế vẫn chưa thấy thằng con trai, bà Sáu lại đến nhà cật vấn đủ điều làm như tôi phải chịu trách nhiệm về chuyến đi. Bà Sáu ỷ mình thuộc gia đình cách mạng, quen biết nhiều cán bộ trên phường trên quận nên không sợ, cứ đi lòng vòng ghé nhiều nơi trong khu phố kể lể chuyện thằng Minh rồi lại khóc than ầm ĩ. Bà sót thằng con trai chưa về, mẹ tôi bảo vậy. Tôi cố làm mặt tỉnh khi có chuyện đi ra bên ngoài. Vài người trong khu phố kín đáo nhìn tôi. Họ đã biết chuyện từ miệng bà Sáu, công an cũng sẽ biết.

    Hai tuần sau, lúc uống cà phê trong một quán thiết kế kiểu sân vườn ở gần nhà, tôi gặp ông Nam chủ tịch khu phố ngồi ở bàn không xa. Thấy tôi, ông ngoắc tay gọi qua ngồi chung. Gốc dân Bắc Kỳ di cư 1954 nhưng ông hoạt động nằm vùng cho Việt Cộng từ lâu. Nhà ông, một địa chỉ đỏ trong bản danh sách gia đình cách mạng địa phương. Do quen biết khá thân với thầy mẹ tôi từ lâu nên biết chuyện gì từ phường hay quận, ông vẫn thường báo cho gia đình biết trước để phòng. Nhìn ông Nam, tôi biết có việc liên can và chắc chỉ chuyện vượt biên.

    Đảo mắt chung quanh quán một lần cuối, ông Nam nói nhanh:

    - Tụi thằng Hùng thằng Tứ vừa mới họp với ủy ban cho biết nay mai sẽ làm việc với cháu về chuyến đi vừa rồi. Gia đình liệu sao thì liệu... càng sớm càng tốt. Về nhà nhớ cho bác gửi lời thăm mẹ cháu.

    Hai chữ Làm Việc của công an Việt Cộng mang cái nghĩa điều tra-thẩm cung. Nghe ông Nam báo tin dữ, tôi càng sợ. Điều tra-thẩm cung là khai báo rồi bị đánh đập, cùm kẹp và nhốt tù. Hùng và Tứ, tôi không lạ 2 gã công an hung thần của nhiều nạn nhân sống trong địa phương. Cả hai đều to xác, mặt mũi bậm trợn và rất dữ đòn. Mẹ tôi nghe kể gặp ông Nam, nói:

    - Con lên Đà Lạt chỗ nhà cậu Khánh sống ở đó một thời gian xem sao.

    Mẹ tôi lại đổi ý liền:

    - Thôi đừng. Đà Lạt xa lại lạnh lắm hay con thử lánh mặt trên rẫy của chú Kim đi. Dầu sao cũng gần Sài Gòn và an toàn hơn ở nhà.

    Chú Kim là em ruột ba tôi, có rẫy cà phê ở vùng Túc Trưng gần Dốc Mơ-Gia Kiệm.

    Nghe mẹ tôi nói vậy, các cô em gái trong nhà lên tiếng:

    - Mấy nơi mẹ vừa nói, anh Vũ cũng không thoát khỏi tay bọn công an đâu ngoại trừ có một chỗ.

    - Chỗ nào? Mẹ tôi hỏi liền.

    - Nước ngoài. Anh Vũ chỉ an toàn khi ở nước ngoài thôi. Kim Thu, em gái út tôi cười khi trả lời.

    - Mẹ biết, nhưng làm sao có chuyến đi ngay bây giờ? Thế mới khổ!

    Quá lo, lúc ăn lúc ngủ lòng tôi chẳng yên. Một sáng tôi dậy sớm, lách mình ra khỏi nhà rảo bước định đến tiệm phở Quỳnh ngay ngã ba đầu khu phố thì tiếng xe hai bánh thắng gấp ngay trước mặt. Hai gã thanh niên lạ hoắc, mặc thường phục nhìn tôi, hỏi:

    - Anh tên Vũ phải không? Phạm Thắng Vũ!

    Vừa gật đầu thì nhanh như cắt, tên ngồi phía sau tót xuống lấy tay đẩy tôi lên yên xe Honda SS 67 đó ngay. Y ngồi kẹp tôi vào chính giữa, gã cầm lái rồ máy vọt thẳng ra đường chính. Trong chốc lát ngắn ngủi, xe ngừng lại trước cửa trụ sở công an quận. Gã ngồi sau đẩy tôi băng qua cổng nhỏ đi thẳng vào trong một căn phòng đầy bàn ghế rồi nói:

    - Anh ngồi đây chờ gọi làm việc và không được đi đâu hết. Nghe chưa?

    Gã quay ra ngoài và tiếng xe nổ lớn chạy xa bỏ tôi ngồi một mình ở căn phòng vắng vẻ trong cơn hoảng hốt. Mình mới ra khỏi nhà, chúng phục sẵn bắt liền, hàng xóm có ai biết việc vừa xẩy ra? Hai gã lạ mặt bắt tôi tên gì, chức vụ? Một lúc sau, sự bình tĩnh dần dần trở lại trong tôi. Cái gì tới nó sẽ tới, tôi tự trấn an mình phải bình tĩnh. Thật bình tĩnh để tìm cách thoát. Hai gã này lạ mặt, chắc vừa bổ sung về quận từ trường đào tạo công an. Lát nữa khi bị gọi làm việc với hai gã, tôi phải thật khéo léo. Nếu không thoát được, bất quá chấp nhận ngồi tù vượt biên vài năm. Cơn sợ qua đi, tôi cảm thấy buồn vì đã hai lần ra khỏi nước còn phải quay trở về chịu tù. Bỏ nghề dậy học, mất việc làm khi vượt biên rồi sáng nay phải ngồi đây chưa biết số phần sẽ ra sao? Hay số mình không thể vượt biên đi thoát? Đang suy nghĩ, một phụ nữ bước vào căn phòng chào tôi rồi bà lặng lẽ quét nhà và sắp xếp các ghế ngồi cho gọn gàng. Căn phòng có các dãy ghế dài xếp gần bên nhau và hai cái bàn đặt riêng. Ghế dài cho dân ngồi chờ và hai cái bàn để công an làm việc? Chắc vậy.
    (còn tiếp)

  9. #9
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Tôi đứng dậy, nép mình bên cửa sổ quan sát khuôn viên toàn trụ sở công an quận. Ba dãy nhà nối thành hình chữ U với các phòng nằm liền sát nhau. Có phòng cửa đã mở sẵn, vài gã công an đi vào đi ra. Cửa lớn ngay cổng đóng kín mít chỉ dùng cửa phụ nhỏ bên hông. Một công an viên ngồi trực trong chốt gác nhỏ sát bên cánh cửa phụ. Dân địa phương có việc phải vào trong trụ sở hay đi ra ngoài đều qua tay gã này xem xét.

    Chị phụ nữ dọn dẹp xong căn phòng thì đã có người lục tục kéo vào ngồi chờ. Bắt chuyện với người đàn ông gần bên tôi mới biết đang ở trong phòng tiếp dân của công an quận. Hỏi thêm, ông ta nói đến vì giấy mời do liên can vào một vụ ấu đả tại gia. Hỏi một chị phụ nữ khác thì cho biết đến để làm giấy bảo lãnh người con trai từ trại giam Bố Lá về nhà. Ai có công chuyện mới có mặt ở đây và người nào người nấy đều lo lắng, sợ hãi. Gã thanh niên lạ mặt đẩy tôi vào phòng nói chờ làm việc nhưng chắc chắn chỉ chuyện vượt biên. Cũng một phần do cái miệng bà Sáu nên công an mới biết. Khóc lóc, than vãn với bà con trong khu phố cũng đâu giúp thằng Minh về ngay được. Nay mai khi con bà ló mặt tới nhà, nó sẽ biết tay công an. Bà Sáu ơi! Bà thật quá dở... tôi lẩm bẩm.

    Hai công an một nam một nữ vào phòng ngồi riêng ở mỗi bàn và bắt đầu tiếp chuyện từng người một. Nhìn về phía cổng, thấy những người xong việc thơ thới đi ra bên ngoài khiến tôi nẩy ra một ý. Làm vẻ mặt thật tỉnh, tôi đi ra cửa như một người vừa xong việc nhưng gã công an trực tại chốt chận ngay lại, hỏi:

    - Anh đi đâu đây?

    Tôi hoảng hồn, cố lấy vẻ tự nhiên trả lời:

    - Ra bên ngoài mua ít thuốc lá hút.

    - Không được. Gã công an lắc đầu.

    - Mua xong quay vào liền mà. Tôi nhỏ nhẹ.

    - Anh đi vào trong ngay. Không được ra ngoài đây. Gã nói dứt khoát.

    Tôi trở vào phòng, ngồi yên kín đáo quan sát. Dân thường, nhiều người ra hay vào cái cửa nhỏ ở cổng thật dễ đâu bị gã công an chận hỏi. Tại sao gã chỉ đế ý đến mình tôi? Hay gã thấy tay thanh niên đẩy tôi vào đây lúc sáng và được dặn dò riêng? Nếu mình nghĩ đúng, coi như kẹt rồi, tôi thất vọng.

    Ngồi mãi không ai hỏi đến tôi và cũng không gặp lại hai gã thanh niên lạ mặt hồi sáng. Chờ đợi quá lâu, tôi cảm thấy mệt. Gần trưa, phòng tiếp dân bớt dần người. Đói bụng, mắt nhíu buồn ngủ nên tôi chẳng thiết việc chung quanh cho đến khi nghe tiếng chân dừng ở bên cạnh và giọng một phụ nữ:

    - Anh đến đây có chuyện gì, sao không cho tui biết?

    Tôi mở mắt nhìn, một nữ công an trẻ tuổi đứng trước mặt, hai tay ôm chồng giấy tờ, ánh mắt chiếu thẳng dò hỏi. Tôi sửa lại thế ngồi, trả lời không có chuyện gì hết. Một thoáng ngạc nhiên, cô ta hỏi tiếp giọng miền Nam:

    - Không có việc cần sao anh ngồi ở đây? Lạ vậy!

    Nghe cô ta hỏi, tôi im lặng rồi nhớ một chuyện vừa xẩy ra trong khu phố liền buột miệng trả lời:

    - Tôi đến đây để làm nhân chứng cô à.

    - Làm nhân chứng... mà vụ gì? Ở đâu?

    - Một vụ trộm tài sản tư nhân ở gần nhà. Tôi nhìn cô công an, trả lời.

    Hai ngày trước, trong khu phố đã xẩy ra một vụ trộm lúc gần khuya. Kẻ gian bẻ khoá vào nhà một gia đình cán bộ trẻ nhưng đang lúc tẩu tán món trộm, vợ chồng chủ gia trở về đúng lúc. Hai tên trộm liền vất hàng bỏ chạy thoát thân. Không biết rõ mặt hai tên trộm nhưng gã cán bộ lại đổ cho một thanh niên sống trong khu phố. Dân phòng theo lời cáo giác liền kéo đến nhà nghi can. Đến nơi mới biết anh ta đang xỉn với bạn nhậu ở quán cóc trong một hẻm khác cùng khu phố. Dù chủ quán lẫn bạn nhậu làm chứng tình trạng ngoại phạm nhưng gã cán bộ vẫn quả quyết anh thanh niên vừa nhập nha nhà y. Gã ta một hai buộc dân phòng phải bắt nhốt ngay anh thanh niên say rượu này. Dân phòng bỏ về khi thấy anh thanh niên loạng choạng chỉ vài bước chân đã nằm vùi luôn tại quán. Chuyện có vậy, tôi bịa thêm gã cán bộ làm đơn thưa vụ trộm và anh thanh niên đó nhờ tôi làm nhân chứng. Nghe kể, cô ta hỏi:

    - Giấy mời làm việc của anh đâu, đưa cho tui xem.

    Làm vẻ ngạc nhiên, tôi lắc đầu.

    - Không có giấy mời nào cả.

    - Anh không có giấy mời sao! Vô lý. Cô công an nhăn đôi lông mày trên khuôn mặt khá đẹp.

    - Sáng nay có một anh trong này chạy xe đến nhà gặp tôi, hỏi về chuyện trộm tối hôm đó rồi chở tôi đến đây nói làm nhân chứng... Tôi chờ mãi chẳng thấy ai hỏi gì hết cho đến khi gặp cô, cô à! Tôi tỉnh bơ một hơi.

    - Anh nhớ ai đã chở anh đến đây không? Anh biết tên người đó không? Cô ta hỏi vặn.

    Tôi lắc đầu, thừ người trong ghế. Đứng yên một lát rồi nhìn đồng hồ trên tay, cô công an bảo tôi ngồi chờ và đi ra khỏi căn phòng. Sau đó, cô ta quay lại cùng một thanh niên trẻ và nói:

    - Bây giờ trưa rồi. Đồng chí đây chở anh về nhà ăn cơm. Ăn xong, ảnh sẽ chở anh về lại đây ngay. Phiên làm việc buổi chiều, tui sẽ hỏi các đồng chí khác về chuyện anh vừa kể.

    Nói xong câu, cô ta bỏ đi về phía nhà nhỏ để xe cán bộ. Một công an khác ngồi tại chốt ở cửa cổng thay cho gã cũ đã chận tôi hồi sáng. Dắt chiếc xe Honda SS 67 ra khỏi cổng, tay thanh niên trẻ đạp máy bảo tôi ngồi lên yên sau lưng y. Xe chạy, y hỏi tôi địa chỉ và trong chốc lát đến ngay trước cửa nhà.

    Nghe tiếng xe ngừng bên ngoài, mẹ tôi cùng đứa em gái trong nhà chạy ra.

    - Con đi đâu từ sáng tới giờ lại không nói cho ai hay vậy. Ăn cơm gì chưa? Mẹ tôi hỏi.

    - Đói bụng quá sức phải về ăn cơm nè mẹ. Tôi mỉm cười, trả lời.

    Nghe thế, mẹ tôi hối đứa em gái vào trong dọn cơm rồi quay sang gã thanh niên, bà tiếp:

    - Cháu cũng bạn với Vũ hả? Tiện thể, vào dùng cơm luôn với gia đình bác nghe cháu?

    Gã thanh niên ngồi yên trên xe không trả lời. Tôi nhìn y dò ý. Chợt gã ngoắc tay vẫy tôi lại gần, nói nho nhỏ:

    - Anh tranh thủ vào ăn cơm với gia đình ngay đi. Cho anh 15 phút, tui đi đằng này một lát sẽ quay lại ngay. Nhớ nghe, 15 phút nữa tui quay lại đây đó.

    Dứt câu, gã chào hai mẹ con chúng tôi rồi quay đầu xe chạy thẳng ra hướng ngoài đường lớn. Mẹ tôi thấy gã bỏ đi ngay, liền hỏi:

    - Bạn con hả? Đứa nào thế? Sao nó không vào nhà ăn cơm lại bỏ đi ngay vậy.

    Im lặng, tôi nhìn theo chiếc xe Honda cho đến khi hút bóng khỏi ngõ hẻm liền cất tiếng gọi em gái tôi. Mẹ tôi đứng yên, ngơ ngác. Cô em gái chạy đến, tôi thúc hối lấy chìa khoá và dắt xe Honda ra khỏi nhà ngay.

    - Chuyện gì từ từ giải quyết sau, vào ăn cơm đã rồi tính. Mẹ tôi gắt giọng.

    Cầm tay lái xe Honda từ cô em gái, tôi ngồi lên yên rồi đạp cho nổ máy. Nhìn cả hai người, tôi nói chậm rãi:

    - Thằng vừa rồi là công an quận, đâu phải bạn con. Lúc sáng sớm có hai thằng đến bắt con mà trong nhà không ai biết. May lừa được tụi nó cho về ăn cơm nè. Giờ con phải đi ngay kẻo không còn dịp. Lát nữa thằng đó quay lại, mẹ cứ nói con đang ăn cơm thì có người đến gọi chở đi rồi. Nếu tụi nó đến nhà mình hỏi thêm, mẹ liệu đường mà trả lời. Đưa con ít tiền để con đi ngay bây giờ.

    Tôi cùng cô em gái chạy xe một lèo lên Hố Nai tá túc nơi nhà người bà con họ bên ngoại. Ở được hai ngày, em gái tôi lên cho biết tin về Dũng. Một thanh niên được thả từ trại giam công an huyện Bến Cầu-Tây Ninh tìm đến nhà thằng Dũng, báo tin nó bị bắt tại cửa biên giới Mộc Bài-Svay Rieng và đang bị nhốt trong trại giam huyện. Còn Ánh Phương, cứ nấn ná mãi chưa kịp tìm đến nhà nàng để bây giờ tôi bị kẹt ở đây. Mãi gần 10 năm sau tôi mới biết các tin tức của Ánh Phương khi đến gặp gia đình nàng. Còn anh Tấn? Theo địa chỉ anh ghi trong mẩu giấy năm xưa, thân nhân anh rất mừng khi gặp tôi, nghĩ tôi đến cho họ biết tin về anh nhưng đã thất vọng. Gia đình bặt tin anh sau chuyến vượt biên tại Vàm Rầy-Hà Tiên năm đó. Tôi không bao giờ quên lúc chia tay vội vã với anh tại bến xe Kompong Som. Vĩnh biệt anh Tấn, một trong những người tôi rất mến.

    Ba ngày sau nữa, em tôi chạy xe đến thăm cho biết gia đình đã tìm được mối cho chuyến vượt biên mới. Chuyến vượt biên ra khỏi nước lần thứ ba trong đời tôi.

    Chương Ba

    Đến Trại Tị Nạn Galang, Cửa Ngõ Vào Thế Giới Tự Do Nhưng...
    Chưa Thoát.


    Sống tạm trú tại nhà người cậu ruột ở vùng Hố Nai được hai ngày trong tâm trạng lo sợ có thể bị công an bắt lại được khiến tôi vẫn ăn ngủ không yên. Miền Nam VNCH bị Cộng Sản chiếm đoạt đã hơn mười lăm năm trời. Mạng lưới tai mắt, tình báo nhân dân cho công an đã hình thành khá lâu ở nhiều nơi. Do đó, người lạ mặt lảng vảng tại địa phương, sớm muộn gì cũng bị người dân trong vùng báo cho chúng biết. Dân báo tin không vì cảm mến dành cho chế độ mà do sợ hãi nên phải cộng tác. Vài năm trước, hai người thân trong họ từ miền Bắc vào thăm gia đình tôi, mới ở được ba ngày thì đã bị công an khu vực nửa đêm ập vào nhà xét coi giấy tờ. Biết họ từ miền Bắc vào, công an không làm khó nhưng kín đáo cảnh cáo gia đình tôi phải lên ủy ban phường ghi danh bất kỳ thân nhân ghé tạm trú trong nhà. Hàng xóm nào đã báo cho công an biết về hai người bà con miền Bắc? Gia đình không biết nhưng chính vậy khiến tôi đâm sợ những láng giềng đến nhà cậu mợ bây giờ. Tôi cảnh giác, lúc nào cũng thu mình ở trong buồng kín.

    Một buổi chiều cuối tuần, mẹ tôi cùng em gái lên cho biết đã tìm được chuyến đi mới và sẽ khởi hành sớm. Theo đó, tôi sẽ lên đường ngay sáng hôm sau. Gia đình đã chồng đủ vàng cho đám tổ chức. Tội nghiệp mẹ tôi, tôi vượt biên nhiều lần, làm bà hao tốn của cải còn phải lặn lội đi thăm nuôi hoặc chung vàng chuộc mạng khỏi tay công an nữa. Nếu chế độ Việt Cộng không phân biệt, hành xử vô luật pháp với người dân miền Nam VNCH liệu chắc có mấy ai tính chuyện vượt biên. Vượt biên đâu như một chuyến du lịch dù thực tế có nhiều ghe may mắn gặp được tàu nước ngoài vớt khi vừa mới ra ngoài biển lớn không xa. Mỗi lần vượt biên, mỗi lần đánh đu với tử thần. Đêm tối đến, mẹ tôi ở lại nhà người cậu ruột còn cô em gái chạy xe về lại Sài Gòn để lo cho chuyến đi sáng mai.

    Cậu mợ tôi có hai người con trai tuổi lớn hơn tôi nhiều nhưng lại vai em. Họ có gia đình và đã ra ở riêng. Có người Việt suốt đời không bao giờ nghĩ đến chuyện vượt biên dù họ cũng không thích sống dưới chế độ Cộng Sản. Họ từng bị chúng ngược đãi, đày đoạ, bỏ tù oan ức... nhưng vẫn không nghĩ đến chuyện đào thoát khỏi quê nhà. Đơn giản vì họ không muốn rời khỏi quê hương và sống nơi xa lạ nước ngoài. Tâm trạng hai người con trai cậu tôi cũng tương tự. Cả hai đều an phận, bằng lòng với đời sống thường ngày. Sau bữa cơm tối, họ nán lại chuyện trò khá lâu với tôi trước khi từ giã, chúc tôi thượng lộ bình an, vượt thoát đến trại tị nạn sớm và không hề đá động đến chuyến đi. Trong huyết quản hai người họ không có máu vượt biên. Mẹ tôi dặn dò đủ điều như chưa bao giờ có dịp như vậy. Có lẽ bà linh cảm chuyến tôi đi lần này sẽ thành.
    (còn tiếp)
    Last edited by khieman; 06-15-2014 at 04:48 AM.

  10. #10
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Lúc trời mờ sáng, tôi từ giã gia đình cậu mợ và ra xe đi ngay. Cô em gái chạy xe chở tôi ngược về hướng Sài Gòn đến gần xa cảng miền Tây rồi dừng lại tìm xe tốc hành. Đón được xe, tôi đến ngã ba Trung Lương liền xuống tìm vào một quán ăn bên đường theo chỉ dẫn của cô em gái. Ngồi ở quán chờ người trong nhóm đến đón về Bến Tre. Một thanh niên chạy xe Honda vào quán nhận tôi ra rồi chở thẳng về Bến Tre. Nhóm tổ chức chuyển tôi qua nhiều chặng đường cho tới khi gặp Chợ Thơm. Nghỉ ăn cơm lấy sức rồi tiếp tục đi nữa, khi bằng xe Honda hoặc bằng ghe nhỏ gắn máy... vượt qua nhiều cầu, nhiều chợ, phà nằm dọc gần bờ. Cứ vậy cho đến chỗ ngừng sau cùng trong căn nhà ở vùng Rạch Dầu gần biển thuộc huyện Thạnh Phú của tỉnh Bến Tre. Nhóm tổ chức ém tôi trong buồng nhỏ của căn nhà lợp ngói vững chắc. Chủ nhà tên là Ba, một người đàn ông trộng tuổi. Trong buồng nhỏ, ngoài tôi thêm hai cô gái người miền Nam tên Bẩy và Đào có mặt từ trước. Hỏi thăm, cô Bẩy nhà ở phường Thắng Tam ngoài Vũng Tàu-Bà Rịa. Cô Đào người Mỹ Tho, nhà ở phường 9 gần cầu Quay. Ba người chúng tôi là dân thành thị nên bà Ba tiếp đón, lo cơm nước rất chu đáo. Chỉ một khó chịu nhỏ, giường và ghế trong căn buồng có quá nhiều rệp. Bắt hơi người lạ, lũ rệp từ các ngõ kín bò ra cắn đến nỗi không ai dám nằm trên giường hay ngồi trên ghế. Cả ba ngồi bệt xuống sàn nhà, dựa lưng sát tường ngủ ngồi gà gật như vậy cho đến sáng. Buổi trưa qua đi rồi chập choạng chiều, một người đàn ông vào buồng cho cả ba chúng tôi biết sẽ lên đường ngay trong giấc khuya nay. Ông ta niềm nở:

    - Tui tên Hai Nghệ, cứ gọi bằng anh đừng ngại. Giờ an toàn rồi, ba người ra khỏi buồng không cần ém nữa.

    Tôi, Bẩy và Đào cầm túi xách bước theo chân anh Hai Nghệ ra phòng khách, khép nép ngồi xuống ghế bên chiếc bàn gỗ mặt đá rửa mầu xanh ngọc thạch hình chữ nhật trước cái tủ thờ. Ông bà Ba chủ nhà, vẻ mặt hiền lành ngồi không xa ở bộ ván ngựa lên nước láng bóng. Tôi nhìn sơ căn phòng. Bộ lư đồng cùng hai chân nến xỉn màu đặt trên nóc tủ thờ. Một lư sành nhỏ chi chít chân nhanh nằm trước các khung hình người quá cố. Trên cao sát với mái ngói, hai trang thờ phủ kín vải đỏ. Không có hình Phật Thích Ca hay tượng Phật Bà trong nhà. Nhìn qua các cột gỗ, tôi sững người khi thấy các tấm biển tổ quốc ghi công với chữ ký của gã thủ tướng Việt Cộng Phạm Văn Đồng cạnh dấu tròn đỏ. Kín đáo liếc nhìn ông bà Ba, nhủ thầm mình đang ở trong nhà một gia đình cách mạng. Quay nhìn mé sau lưng, vài bảng nhỏ huân chương kháng chiến hạng hai, hạng ba treo trên vách nhà. Tôi đâm sợ vì các tấm biển ghi công, huân chương nhưng lại bớt lo. Gia đình cách mạng nằm trong đường dây tổ chức, chuyến vượt biên sẽ an toàn. Đón rồi ém ba chúng tôi trong nhà, ông bà Ba làm y như trước đây với cán bộ Việt Cộng khi còn hoạt động. Niềm tin vào chủ thuyết Cộng Sản chỉ còn trên giấy và trong khẩu hiệu. Tôi mỉm cười vì ý nghĩ trong lòng, chợt nghe anh Hai Nghệ nói:

    - Mình đi bằng ta xi đến điểm hẹn tối khuya nay. Khi đủ khách, cá lớn chạy khoảng 4 tiếng đồng hồ thì sẽ gặp biển.

    - Bốn tiếng đồng hồ gặp được biển. Sao nhanh giữ vậy anh? Tôi hỏi.

    - Đây với biển gần lắm mấy em. Anh Hai Nghệ trả lời.

    - Các cháu có tắm rửa, thay đồ gì thì làm ngay bây giờ chứ để xuống dưới ghe rồi đi mấy ngày mới tới bển khó chịu lắm. Bà Ba chen vào.

    Hai Nghệ ra bên ngoài nhà xách thêm nước đổ vào lu trong buồng tắm cho 3 người chúng tôi. Hai cô gái lần lượt đi tắm trước để mình tôi ngồi với hai ông bà. Ông Ba cho biết trong vùng chỗ nào cũng gặp kênh rạch cùng nhà cửa cất sát bên cạnh. Đi đâu một bước phải dùng xuồng hay ghe. Nhà dù giàu hay nghèo cũng phải có cái xuồng, chiếc ghe để làm chân đi. Ai không có ghe có xuống rất bất tiện. Ghe xuồng ở đây như xe gắn máy 2 bánh của dân thành phố. Hỏi về các tấm biển tổ quốc ghi công hoặc huân chương kháng chiến, bà Ba nói của hai người con một nam một nữ đã chết từ lâu. Cô gái út còn sống là vợ anh Hai Nghệ. Điều tôi không ngờ, anh Hai Nghệ đi lính Sư đoàn 7 bộ binh miền Nam VNCH. Nhiều gia đình tại Việt Nam có tình trạng tréo ngoe tương tự. Người ở bên phía miền Nam VNCH, người đi theo phe Việt Cộng.

    - Anh Hai lính chế độ cũ hả bác? Anh có đi chuyến tối nay không? Tôi hỏi ông Ba.

    - Nó muốn đi lúc nào mà không được cháu, nhưng nó nói tiếng Tây tiếng U không biết sang đó làm giống gì ăn. Cháu coi, đi đâu cũng phải làm mà ở đây sống dễ chịu quá nên vượt biên làm chi. Lại nữa, nó nói bây giờ bắt đầu có tuổi rồi còn ham hố chi. Ông Ba cười nụ, trả lời.

    Thiệt tình! Người muốn vượt biên lúc nào cũng có dịp lại không thèm, người tìm đủ cách vẫn không ra. Thậm chí có người bị lừa mất vàng, bị bắt còn chưa sờ tay được vào thân cá lớn nữa.

    Anh Hai Nghệ châm thêm nước xong, hối tôi đi tắm. Những giọt nước mát xối lên người cho tôi một cảm giác khoan khoái dễ chịu vô cùng. Tôi thử hớp một ngụm nước, nó có vị lờ lợ nhưng cũng rửa sạch lớp cặn mồ hôi bám lên tóc lên người trong suốt thời gian rời khỏi nhà người cậu ruột cho tới giờ. Tắm xong, tôi giặt vội bộ quần áo và đem phơi nó trên hàng dây bên hông tường. Gió từ hướng vườn cây đằng sau nhà thổi rất mạnh. Gió cùng hơi nóng buổi chiều sẽ làm bộ quần áo mau khô để tôi mang theo tối khuya nay.

    Đằng sau căn nhà ông bà Ba, chục khạp mầu nâu hình quả dừa chứa nước mưa để uống, để nấu ăn được đậy kín miệng nằm dưới chòi lá. Nước sinh hoạt tắm giặt, gia đình ông bà Ba lấy từ con rạch gần nhà. Cơn triều lên, họ kín nước đổ đầy lu, phi sắt rồi đánh phèn làm trong trước khi dùng. Sau chòi lá, hàng cây ăn trái xum xuê cùng các bụi chuối thấp thoáng. Điệu lý cải lương réo rắt từ máy cassette xa xa vọng lại lúc nhỏ lúc to trong tiếng gió. Vùng đồng quê miền sông nước thật êm ả, bình dị khác với vùng Hố Nai ồn ào chỗ nhà cậu mợ tôi. Giờ này chắc mẹ tôi đã về nhà dưới Sài Gòn. Lúc còn ở nhà cậu mợ, bà kể gã thanh niên trẻ chạy xe đến đón đã chưng hửng khi nghe nói có người ghé nhà chở tôi đi khỏi không lâu. Nghe vậy, gã thanh niên vọt xe máy chạy liền và chiều hôm đó quay lại nhà tôi với một công an khác. Hai gã hỏi người trong gia đình về chuyện đón tôi đi lúc trưa. Mẹ tôi đành phải xí gạt, nói hoàn toàn không biết gì thêm. Dò la mãi không ra manh mối, hai gã công an hậm hực bỏ đi. Em gái tôi cho biết thằng Minh vẫn biệt tăm tích chưa về.
    (còn tiếp)
    Last edited by khieman; 06-15-2014 at 04:49 AM.

Trang 1 / 4 123 ... Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Muốn con hay chữ phải... “chiều” thầy cô
    By duyanh in forum Văn Hóa - Văn Nghệ
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-26-2014, 11:42 AM
  2. Thảm Họa Động Đất Sóng Thần Ở Nhật Bản Năm 2011
    By giavui in forum Audio Khoa Học Xã Hội
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-11-2014, 03:09 AM
  3. Làng quê dậy sóng vì con dê mang khuôn mặt người
    By hailua in forum Chuyện Lạ Đó Đây
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-27-2013, 03:45 AM
  4. 80 tuổi vẫn phải làm ruộng để nuôi các con tâm thần
    By duyanh in forum Mảnh Đời Nghiệt Ngã
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-13-2013, 01:09 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •