Lá Bùa

Nguyễn Văn Thọ




Ngày hôm ấy, nếu con chó, Schaefhund 1, Hansi không ốm thì chẳng có chuyện gì xảy ra.

Nói trước về Hansi, từ ngày có nó, tôi vơi đi nhiều sự lo lắng và buồn phiền. Hàng ngày nó chạy tung tăng như người lính cảnh vệ mẫn cán ven quanh hàng rào. Lúc tôi rảnh, nó cùng đi dạo trong mảnh vườn bao la đầy cây ăn quả của ông bạn Lotha. Tôi an tâm ngủ đẫy giấc, khi nó suốt đêm nằm phục bên cạnh, đôi tai to luôn ngỏng lên căng cứng, nghe ngóng mọi hiện tượng khác lạ. Nhưng thực chẳng may! Từ hai hôm trước, Hansi tự nhiên mắc chứng nhiệt ở hàm. Có thể tôi đã cho nó ăn tạp. Họng nó sưng, có bọng đỏ và nước mắt chảy ròng ròng. Bác sĩ thú y bảo, phải chăm sóc nó đặc biệt! Bận buôn buôn bán bán, tôi đành gửi nó tới nhà Lotha. Thế là không còn tiếng rú rít trầm, sâu tít trong họng, báo động của nó! Có thể, đêm ấy tôi quá mệt vì vụ Noen, thời điểm làm ăn căng thẳng nhất trong năm. Biết làm sao được! Cái cảnh sang xứ người, cố gặt hái rồi chuồn. Tâm lý ấy đẩy cường độ lao động mùa đông, ngày tới mười sáu tiếng đồng hồ là thường. Lại không có ngày nghỉ trong liền ba bốn tháng. Căng thẳng! Mệt mỏi! Quả thực là tôi có nghe tiếng động ở đâu đó, rất mơ hồ trong khu vườn rộng mênh mông vọng về qua khe cửa sổ để hé. Vâng, khi ấy tôi đã có ý đề phòng, muốn tới bên cửa sổ nhà vườn nhìn ra ngoài, hoặc với tay lấy khẩu súng hai nòng đã nhồi sẵn đạn để ở đầu giường. Nhưng hai mi mắt đã phản bội tôi, trĩu nặng sập xuống. Vậy là phải trả giá. Tôi hoàn toàn bị động. Khi cánh cửa bị đạp tung, sực tỉnh và ý thức được điều gì xảy ra thì mọi sự đã rồi. Không, tôi còn kịp nghe tiếng gió rít ngoài trời và cảm thấy hơi lạnh, thậm chí nhìn thấy những bông tuyết ùa thốc theo bốn bóng người ập vào căn phòng, nhanh như gió.

Mẹ kiếp! Rõ ràng chúng đã dễ dàng vượt qua hàng rào gỗ thưa bên cạnh cửa lớn rồi ngang nhiên tiến thẳng đến nhà vườn tôi ở và đạp cửa. Có điên mà kêu cứu! Khu nhà vườn, ngang dọc ba bốn cây số. Sát Noen, chỉ có kẻ tâm thần, hoặc muốn tiết kiệm tới từng xu như tôi, mới nghỉ đông trong những căn nhà gỗ thấp, thiếu tiện nghi sưởi ấm.

Bốn thằng đè nghiến khi tôi còn trong chăn, cứ thế chịt cổ, bịt miệng bằng băng dính. Chẳng chống cự gì cả mà chúng cũng phang tôi một báng súng, loại 12 phát của Hung. Đòn phủ đầu rõ mạnh làm vai trái tôi nhói buốt, tê liệt hoàn toàn ý chí phản kháng.

Không thèm bịt mặt, những khách không mời của tôi, mặt lạnh như băng tháng hai, giật chéo hai tay tôi ra sau lưng, trói rất nghề trong nháy mắt. Xong, chúng đạp tôi rơi xuống tấm thảm như đạp cái thùng đạn rỗng khỏi bệ bắn xuống giao thông hào.

Gã mặc chiếc áo choàng len dài, hệt các nhân vật trong phim găng tơ, Spielen das Lied vom Tod 2, kéo ghế, châm thuốc. Vẻ rất lơ đãng, nhưng thực chất là đang quan sát rất kỹ khắp phòng. Thi thoảng, như một trò đùa, hắn lại day day đầu nòng súng có mùi dầu tanh tanh, khen khét vào mũi, má, thái dương tôi trêu cợt. Trong khi ấy, ba thằng kia ngang nhiên lục lọi.

Tấm nệm sa lon bị lật tung. Bát hương bị dốc ngược làm tro bụi tung ra, sộc cay cả mũi. Máy thu hình bị cạy đít. Những cuốn sách được rũ từng cuốn, kêu phần phật và tơi tả rơi xuống nền nhà. Tiếng gãy của lớp bìa cứng che phía sau tủ quần áo nghe như bánh đa vỡ. Lưỡi dao Holand sắc ngọt lách vào tấm da bọc đệm sa lon rồn rột. Thằng mặt bạch, râu quai nón cạo sạch, khá điển trai, kéo cái ghế tôi vẫn thường ngồi đọc sách ngoài vườn, nhảy đại lên lục quần áo ném bừa xuống thảm. Giấy tờ tùy thân của tôi rơi khắp sàn nhà. Hắn ném phạch cái ví xuống chân sau khi loại sạch tiền. Một ngàn hai trăm chín bẩy Mark, tiền chợ của tôi ngày hôm nay nằm gọn trong túi áo choàng mầu xám. Từ xưa, tôi cứ đinh ninh tiền xu thì chả ai thèm cướp! Vậy mà chính gã, khoái trá dốc hết số tiền kim loại của tôi đựng trong vỏ hộp bánh rồi ném thẳng cái hộp rỗng vào góc nhà. Cái hộp bánh ấy có vẽ cô gái Pháp rất tươi trẻ đang cắn chiếc bánh quy, những vụn bánh bắn ra, tưởng nghe thấy cả tiếng vỡ ròn tan.

Tôi nghe rõ tiếng xé gối, tiếng đồng hồ tích tắc, tiếng thở của những kẻ hối hả lục lọi trong phòng. Tôi muốn cất tiếng, nhưng miếng băng dính làm miệng tôi cứng queo. Làm quái gì có tiền trong nhà! Tao không ngu xuẩn tới mức để chúng mày thịt nốt đồng bạc cuối cùng của bốn năm năm vắt kiệt chính sức mình. Tôi thầm mong cuộc chơi kết thúc. ừ, lần này tao thua! Thôi, của đi thay người! Giá mà có con Hansi nhỉ? Tôi sẽ biết chúng từ xa và kết quả sẽ xoay chiều. Tôi vẫn nghĩ vậy, trong tình thế tuyệt vọng.

- Đéo có cái gì hết! - Một kẻ lên tiếng. Thằng cao nghều, mặt búng sữa, nom còn nhỏ tuổi hơn con tôi, mở tủ lạnh, tự nhiên như ruồi, lôi ra một chai bia. Gã thành thạo bật nút chai bằng bật lửa, ngửa cổ, đổ một lèo nửa lít bia vào bụng.

Tôi không còn một tính toán nào nghĩ tới sự chống cự. Thôi đành phó mặc số phận! Giá mà có Hansi nhỉ? Vâng, nó sẽ nhào vô từ cửa ra vào. Với sức nặng 48 cân, nó sẽ xô tất cả đối thủ rồi cắn đứt dây trói cho tôi. Tôi cựa mình.

- Thằng chó! Để tiền ở đâu? - Cổ tôi tưởng như bị bẻ gãy với cú nắm tóc giật ngược bất chợt của cái thằng trông mảnh mai như thư sinh. Mặt hắn nom rõ bảnh bao thế mà đôi mắt ác và sắc. Tôi lắc đầu. Thằng ngũ đoản chợt nhào từ phía lò sưởi tới. Nó đá vào người tôi mấy cái liền. Mũi giầy thúc mạnh vào xương sườn đau quặn. Một cú thốc vào chỗ mỏ ác. Tôi thả lỏng cơ thể, vận khí hòng giảm đi thương tổn ở mấy cú đá bất ngờ đó. Tiền ơi! Tôi thoáng nghĩ. Mồ hôi tao thấm đẫm trong đó. Và, biết bao nỗi ê chề nơi xứ người. Không hiểu sao, khi ấy tôi chợt nghĩ tới khuôn mặt con gái tôi khi mới ba tuổi. Vâng, nó gầy và xanh mỏng như tờ bạc hai chục Mark, có vệt tím nhạt hơi ánh vàng giữa đôi lông mày. Người ta bảo như vậy là hay ốm. Quả thực nó hay ốm và suốt ngày thèm ăn đường.

Tôi giật người lên vì cái vả bất chợt khi đang nghĩ ngợi. "Tiền đâu, thằng chó già này?" Thằng áo dạ xám dài tới gót chân thản nhiên vả tặng tôi hai ba cái liền sau khi đã lục tung cả quần áo, rũ hết đống vỏ chăn, lột gối mà không thấy tiền. Tôi nhìn ngược lên, lắc đầu, thả lỏng cổ. Vẫn ù hết tai!

"Đ. mẹ, để tao!" Thằng trẻ măng tôi nói khi nãy xổ tới. Nó xô ngã tôi xuống đất, bẹo cái mạch máu cổ, khi đó chắc đang giật giật liên hồi của tôi. Hắn lôi đâu ra cái kim rõ nhọn, dài. "Tao xem thử máu mày chảy có mạnh như cắt tiết chó không?" Vừa dứt lời, hắn chích ngay mũi kim vào cổ tôi. Mũi kim làm tôi đau nhói. Mồ hôi lạnh tứa ra. Tôi nhắm mắt. Cái cảnh từ hôm nào, mới cách đây một tháng, tại Golddorf đột ngột hiện lên trong đầu. Hai cô gái bị trói, hết chết giấc lại quằn quại suốt hai ngày trong phòng. Mặt bị là cháy nham nhở. Bọn cướp đã tra tấn họ với chiếc bàn là của chính chủ và lấy đi hơn mười tám ngàn Mark. Mình chắc chết thôi! Người ta sẽ tìm thấy xác tôi thối inh nay mai, nhờ đám quạ gọi nhau tới lượn đen trên khu vườn. Hansi chắc sẽ chạy quanh, tru lên thảm thiết và anh bạn Đức sẽ vừa khóc vừa run rẩy quàn tôi vào cái hòm rất đẹp bằng gỗ sồi. Tôi lắc đầu. Vâng, chết! Họ sẽ cho tôi vào lò thiêu, bấm nút. Họ sẽ vun cái thân xác năm nhăm cân của tôi, sau luồng điện chớp nhòa, chỉ còn là một nửa vốc tay bụi cát và cho vào cái lọ gốm mầu nâu nhạt rồi gửi về cho cha tôi ở Việt Nam. Lotha có tìm thấy tiền dấu trên nóc thông hơi của tôi không? Anh sẽ tìm thấy! Năm nào anh chẳng lên đấy để nhặt quả hồ đào rụng vương vãi khắp nóc nhà. Anh sẽ đoán biết đấy là tiền của tôi. Anh có gửi về cho vợ con tôi không? Có! Anh sẽ gửi về cho vợ con tôi. Vậy thì chết cũng không khai ra tiền! Không, không thể phí hơi sức suốt bao nhiêu năm cho bọn chó má này! Vợ con tôi ở nhà rất cần tiền. Tôi lắc đầu.

Mũi kim đâm sâu hơn và tôi có cảm giác hơi lạnh của lưỡi dao Holand kề sát vào tĩnh mạch cổ đã bị hắn khêu lên căng nhức. Trời ơi! Bao nhiêu năm chiến tranh, đánh hơn trăm trận, không chết! Giờ đây chết trong tay mấy đứa miệng còn hơi sữa, chân còn lấm cứt này. Tôi thoáng nghĩ và không hiểu tại sao, dù tôi không sợ chết, nước mắt chợt ứa ra.

- Stop! Để yên nó đấy! - Có tiếng quát giật thột của ai đó.

Tôi mở mắt. Hắn, kẻ mang áo dạ xám đã gỡ tấm ảnh trên tường lúc nào. Đấy là tấm hình bốn người lính đã úa mầu đứng trước cửa dinh Độc Lập. Hắn rút tấm ảnh từ chiếc khung vừa bị đập nát. Hắn nhìn rất chăm chú vào ảnh rồi đột ngột móc trong cổ một sợi dây đeo lòng thòng mảnh giấy nhỏ, đưa ra gần bóng đèn chính giữa phòng so sánh. Hắn quay lại, mắt chọc thẳng vào tôi, cái lối quan sát của thợ săn, rồi đột ngột hạ lệnh cho đồng bọn cởi trói.

Tôi lắc người mấy cái mà bả vai vẫn nhức. Khi tôi xoa xoa chỗ đau thì hắn tiến tới cạnh tôi với chiếc ảnh và mảnh giấy bọc nhựa, buộc toòng teng bởi sợi dây dù đen sì khi nãy treo nơi cổ.

Ngày ghi mã hiệu đơn vị lên ảnh, tôi đâu lường tới tình huống hôm nay. Số hiệu đơn vị chỉ là để nhớ, để kỷ niệm trận cuối cùng trong chiến tranh mà chúng tôi là người chiến thắng. D22, E593, giản đơn như vậy mà nay trở nên vị cứu tinh của tôi.

Kẻ mang áo dạ xám là đứa cầm đầu toán cướp. Tôi đoán.

- Ông là một trong bốn người này?

- Vâng! Chúng tôi chụp sau khi giải phóng Sài Gòn ba ngày.

- Ông có biết ai là Mai Văn Tăng không?

Tôi cố lục lại trí nhớ. ồ cái tên nghe quen quá! Phải, anh ấy ở trung đội hai! Đã hy sinh. Chính anh ta đã cùng bọn Sơn Ba Gác, Long Hàng Chai, Hùng Ve, võng tôi suốt trong đêm mưa như thác năm nào, khỏi tầm phi pháo, cấp cứu tôi thoát chết trong chiến dịch vây Khuongsedon bên Lào.

- Mai Văn Tăng! Tôi biết. Người đơn vị tôi. Quê Thanh Hóa. - Tôi trả lời gấp gáp.

Đôi mắt kẻ mang áo dạ xám thoáng ánh lên rồi tắt.

Gã đưa cho tôi mảnh giấy gã đeo trên cổ. Đấy là một lá thư đã vàng úa, bẩn thỉu được dán cẩn thận bọc trong nilon. Khi thư giở ra, hòm thư đúng như trên tấm ảnh của tôi và tên người gửi ở cuối lá thư. Thì ra, gã là em trai của Mai Văn Tăng. "Tôi biết anh cậu." Tôi trả lời gã thật thà như vậy. Thời điểm thư viết, chúng tôi cùng một đơn vị nhưng phải xé lẻ để chống lấn chiếm. Đại đội hai, nếu theo ngày tháng đề trên lá thư, đã hy sinh mười bảy người. "Anh tôi chết đúng ngày viết thư gửi đi!". Gã bảo. Tôi nói với gã nơi đấy là Đồi Cò. Bọn địch dùng phi pháo từ Plâycu và máy bay cùng một tiểu đoàn nống ra đánh vào mảnh đất của chúng tôi chốt giữ. "Một tháng rưỡi choảng nhau cậu biết không?" Tôi kể với gã như vậy và trong đầu thoáng hiện lên khu rừng bị băm vằm chí tử. Mùi tanh tanh của lá cây giập nát. Con suối nhỏ vào mùa khô chỉ sâm sấp nước. Lá mục dầy hơn gang tay bốc mùi chua khẳm dưới lòng suối với đám nòng nọc, dầy đặc từng vạt như nong đỗ đen. Và, khi mưa về thoắt thành dòng nước xiết cuồn cuộn. Tôi nhớ, trước lúc địch đánh một tuần, khi mưa vẫn còn rả rích, ven suối còn hai bụi đay rừng non mờ, để chính anh nó, Mai Văn Tăng hay hái cho anh nuôi nấu với bột trứng, giả làm canh cua. "Vâng! Một tháng rưỡi, ba lần bổ sung quân số và chúng tôi chỉ ăn sắn độn gạo mốc. Anh cậu đã hy sinh ở đó!" Tôi nói. Hắn lơ đãng nghe tôi kể và vỗ vào vai tôi một cái rõ mạnh. "Có cái gì ăn tạm không?" Tôi bảo, có. Lôi dưới khe tiếp giáp giữa tường toilet và ống không khí ra chai rượu mạnh. Tôi ra cửa lấy cái nồi chân giò hầm từ hôm trước, giờ đã đóng băng vào cho cả bọn. "A, ha, ông bác giấu kín thật!" Thằng ngũ đoản, trán dô, mắt xếch, đôi lông mày giao nhau, thò tay móc một miếng chân giò đưa lên miệng nhồm nhoàm.

° ° °

Lá thư Mai Văn Tăng viết cho người em không dài. Qua bao tháng năm, đôi chỗ bị thủng nhưng vẫn đọc được. Cuối thư có đoạn dặn hắn, thằng em vô phúc này "nhớ hết vụ, viết đơn xin hợp tác ít rạ nếp săm lại chái nhà cho mẹ." Tôi đọc đủ to đoạn cuối cho cả bọn nghe:

"Hôm nay trời xanh và trong thế này thì bọn chúng nhìn rõ bọn anh lắm. Con cậu Sáu đã hy sinh hôm qua. Anh Lãm, con ông Thìn ngoài xóm Bưởi cũng chết rồi. Cấp trên lệnh cho bọn anh phải giữ đất bằng được cho tới mùa khô. Nếu anh hy sinh, việc nhà từ nay em sẽ thay anh tất cả. Anh thương em và nhớ mẹ."

Tôi để lá thư xuống bàn. Trong óc tôi khi ấy hiện lên hình ảnh Mai Văn Tăng nhổm lên khỏi giao thông hào, ghì khẩu RBD quạt tới tấp vào cánh vu hồi của địch. Đạn đỏ lừ xanh tím bắn xéo tới chỗ anh đứng. Những quả đạn M79 nổ bùng bục phát lửa mầu vàng cam. "Vâng! Anh cậu là một người anh hùng. Không có anh ấy cản mũi vu hồi, chúng tôi đã bị địch tràn ngập và tiêu diệt" Tôi ngoảnh sang, ném cái nhìn thẳng vào mắt hắn. Không biết sao khi ấy, điều gì giúp cho tôi lòng can đảm để tạo thành "cái nhìn như có lửa", "như oán trách, như dò hỏi." Về sau, hắn nói lại như vậy.

Hắn cúi mặt xuống. Không gian trong nhà yên ắng tới mức nghe rất rõ tiếng lá thông lao xao dập vào nhau trên ngọn cây ngoài vườn.

Hắn chợt đứng dậy:

- Ông đi nấu cái gì nóng cho tôi nhờ!

Cả bọn nhìn xoáy vào tôi như chực ăn tươi nuốt sống. Tôi ngoan ngoãn đứng dậy đi ra bếp lấy nồi áp suất đặt cho cả bọn một nồi cháo gà.

"Ông anh may đấy!" Hắn mở màn như thế. Chúng tôi ngồi quanh nồi cháo gà đã chín nhục. Gạo tám Thái, gà béo dừ đủ độ bốc mùi thơm ngậy. Lá thư khi đó đặt trên bàn, bên cạnh cốc rượu Whisky mầu vàng sậm. Hắn uống chậm nhưng khá nhiều. ánh lửa từ lò sưởi phát sáng bập bùng. Khuôn mặt hắn khi mờ khi tỏ. Hắn bảo gã ngũ đoản bóp đôi vai còn đau ê ẩm của tôi khi tôi vặn mình tỏ ra khó chịu. Khốn nạn, vẫn đôi tay ấy, khi nãy đã quại tôi những đòn chí tử.

Chúng tôi không hề nói chuyện rằng, tại sao hắn đi cướp. Tôi cũng chẳng dám hỏi, vì sao, hắn lại mang luôn theo người lá thư của anh gã. Thư của một người, với trung đội tôi, là một người lính chân chính! Tất nhiên phải kiềm chế lắm, tôi mới không nói ra điều tôi thắc mắc. Bởi vì, thật mâu thuẫn, thật dơ bẩn giữa việc đi ăn cướp của hắn với việc mang theo lá thư. Đấy là tôi nghĩ vậy.

Qua dăm ba câu chuyện, tôi chỉ biết bọn hắn từ Nga qua Tiệp rồi tràn sang đây. "Chúng tôi không phải là nhóm đi là mặt bọn đàn bà!" Hắn thanh minh. Hắn hỏi tôi đi xuất khẩu lao động từ khi nào. Lại hỏi buôn bán đã mấy năm. Vợ con ở đâu? Tôi hỏi lại dăm câu, cũng biết hắn chẳng còn ai thân thuộc ở Việt Nam nữa. "Mẹ tôi chết rồi! Tôi đã sống ở Hà Nội năm năm!"

Câu chuyện của chúng tôi hết sức nhạt nhẽo và tầm phào đến mức chán nản. Tôi không thể khuyên bảo hắn điều gì. Trên đời này, ai dậy được ai? Người ta, chỉ có khi roi đời quất cho ngã gục mới tự nhận ra những bài sống và khi đó, sự giác ngộ về đời sống mới thực sự ngấm vào máu thịt, trở thành những bài học thật sự hữu ích cho bản thân. Sự dạy dỗ, dù chân thành hay giả dối, nhiều khi cũng chỉ như nước đổ đầu vịt. Hoặc là người ta sẽ vâng dạ đấy, nhưng thực ra là vâng dạ để lấy lòng, hoặc khinh bỉ nhưng vì yếu thế mà vâng dạ!

Im lặng tới mười phút thì phải. Không biết hắn và đồng bọn nghĩ gì? Tiếng nhai xương lốp cốp của bọn trẻ háu đói, nghe rõ mồn một. Nồi cháo gần trơ tới đáy, đã nguội tanh thì hắn giục cả bọn đi ngủ. "Không cần gác xách hay trói ông ta nữa!" Hắn nói với đồng bọn rồi quay sang tôi: "Tôi tin ông đấy nhé, đừng có tìm cách báo bọn Politz 3 làm gì. Bọn tôi trẩu 4 nhanh lắm!" Nói rồi hắn lăn ngay ra thảm. Cả bọn lục tục tìm chỗ nằm. Tôi định tắt nến thì gã nhổm dậy bảo, đừng tắt nó "tôi không muốn ngủ trong bóng tối!" ồ, thì ra mày cũng biết sợ! Hồi bé tôi cũng sợ ngủ trong bóng tối lắm. Lớn lên thì chẳng như vậy. Người sợ bóng đêm là loại người như thế nào nhỉ? Tôi tự hỏi và ra khỏi nhà lấy thêm củi cho vào lò.

Củi sưởi để sau nhà, Lotha mua hộ và cẩn thận xếp thành hàng, dễ lấy. Tôi cố ý lấy củi rất chậm để suy tính. Liệu có chuồn không? Thôi! Chuồn làm gì. Muốn giết thì nó đã giết rồi! Tôi nghe tiếng ai nói vọng ra: "Lấy củi gì mà lâu thế anh già ơi!" "Vâng! Tôi vào đây!"

Tôi xếp củi vào lò. Hắn hình như chưa ngủ. Trên nền tường xám trắng, bóng hắn hằn lên, đen nhờ. Nhìn thấy rõ bóng cái tay đặt lên trán theo ánh lửa bập bùng, run rẩy.

Tôi leo lên cái đệm đã rách. Mặt đệm còn tơi tả, xơ xác lông chim. Mãi mà chẳng ngủ. Cứ miên man nghĩ về nhà. Không hiểu sao nhớ con tới vậy. Cha tôi đã già lắm rồi. Cái ngõ nhà tôi hẹp và luôn ẩm, nhêm nhếp nước vào mùa này. Lại một mùa xuân sắp tới ở xứ người! Tháng xuân, cái hè cống trước cửa nhà, hoa sấu thường rụng trắng để sau dăm ngày có mưa phùn và nắng he, đám hoa lên men, hương lên thoang thoảng, ngất ngây.

Trời sáng hẳn cả bọn mới lên đường. Chúng cũng không ăn sáng mà chỉ đòi cafe đặc không đường. Tôi tiễn bọn cướp tới tận cổng. Rõ ràng đêm qua chúng vượt qua đám hàng rào bên phải. Vết bùn còn kia! Tôi cố giữ bình tĩnh nói đùa: "Bận sau nhớ gọi chuông và vào cổng chính" Hắn trợn mắt nhìn tôi và đáp lại rằng, hắn hy vọng như vậy "Nhớ đừng dại mà báo bọn chó Politz nhé" Hắn dặn tôi lần nữa khi cả bọn leo lên chiếc xe Open cũ mèm. Đường vắng tanh. Gió lạnh leo pheo thổi buốt, muốn rụng cả tai. ống xả ô tô rỉ nhoèn ho khùng khục, run bần bật nhả đám khói đen đặc, làm xạm đen đám tuyết xốp trắng tinh đêm qua mới xuống. Thằng mặt bạc giơ tay chào tôi. Xe vút đi.

Tôi bàng hoàng đứng lại một mình trước vườn. Phải tới năm phút hóa đá. Thì ra tôi hãy còn sống! Tự nhiên tôi thấy trống trải và thương thân vô cùng! Quay lại nhà vườn, khi ấy tôi mới nhận ra mình đã hoàn toàn kiệt sức. Tôi đổ vật xuống đệm như gốc cây bị đốn ngã. Chẳng thiết gì buôn bán nữa! Tôi nằm nghĩ miên man. Trong tay là tấm ảnh những người lính trẻ ngày xưa.

Tại sao ngày ấy chúng tôi đi suốt chặng đường chiến tranh mà chưa khi nào thấy chán chường mệt mỏi như hôm nay? Cái gì? Vì sao? Cuộc sống ngày ấy biết bao nguy hiểm và thiếu đói sao vẫn yêu đời và khi nào cũng thấy vững dạ trước nguy hiểm. Còn hôm nay? "Vâng, ngày ấy quanh tao có chúng mày!" Tôi nói với tấm ảnh như kẻ tâm thần. Bốn người trẻ thế kia trong một tiểu đội nhìn tôi đăm đăm. Còn bây giờ, tôi ở đây chỉ có một mình. Một mình giữa vùng đất rất hiếm hoi mới có người bạn như Lotha. Hắn tốt lắm, nhưng điều tôi quan tâm hắn chẳng quan tâm. Điều hắn quan tâm thì với tôi là xa lạ. Những người đồng ngũ xưa lại khác hẳn. Thật xấu hổ! Tôi tự bảo và bật dậy treo lại cái ảnh vào chỗ cũ. Phải dọn phòng cái đã! Dù sao tôi vẫn còn tiền và phải sống.

Dọn tới gần chiều mới xong đám hoang toàng đêm qua thì Lotha đến.

Tôi chống nạnh, thờ ơ nghe hắn nói, Hansi ngày mai có thể trở về. Hôm ấy còn lạnh lắm nhưng nắng đã lên. Nhìn chùm nắng ngoài vườn xiên qua những trảng cây, làm đám cỏ vàng tơ óng ánh lạ thường, tôi chợt cảm thấy sao đẹp vậy? Lotha đáng yêu và gần gũi thế. Có lẽ sau mỗi khi thoát chết, ở hoàn cảnh bất lực và cảm giác yếu thế, cô đơn, con người ta ai cũng có cảm giác ấy chăng? Mọi thứ ta coi thường hàng ngày bỗng trở nên thân thương và ấm áp lạ lùng. Tôi huýt gió. Lotha đang cào tuyết trên lối vườn trố mắt nhìn tôi. Chắc hắn nghĩ, hôm nay thằng Việt Nam kia bị veruesch 5.

Giữ lời với bọn cướp, tôi không đi báo cảnh sát về mọi chuyện đã xảy ra.

° ° °

Hansi trở về đúng hẹn. Nó chồm lên lao vào tôi khi cánh cửa sắt rung lên, hé mở. Tôi ôm xiết nó vào lòng. Cọ má vào đám lông nhẫy đen pha chút mầu nâu ánh lửa của nó. Hansi cuống quít liếm láp, rúc cái mõm vào má, vào nách tôi. Đôi mắt nó ngước lên nhìn tôi thiết tha làm sao!

Đêm ấy tôi kể chuyện cho nó nghe việc xảy ra từ mấy ngày trước. Nó nằm cạnh tôi ngỏng cổ lên. Nghiêng nghiêng, ngó ngó như hiểu cả. Mà ai dám chắc Hansi của tôi không hiểu tiếng người? Từ ngày đó, tôi đối xử với nó chu đáo hơn, nhất quyết không cho nó ăn tạp. Theo tháng năm, nó càng ngày càng rắn rỏi. Nhìn nó đứng, kiêu hãnh vươn ức săn nở, hai chân chỉ chực phi, chồm tới phía trước mà sướng cả mắt.

Công việc làm ăn của tôi vẫn bình thường, dù sang xuân việc bán chác có kém đi. Tôi lấy gói tiền giấu trên ống khói thông hơi xuống, chia đôi gửi về nhà một nửa. Nửa còn lại bọc nilon cho vào một lon bia chôn xuống cạnh gốc thông. Dù sao vẫn phải đề phòng. Ba tháng nay nạn cướp trong cộng đồng người Việt tăng lên. Có thể vẫn là nhóm Hắn! Tôi đoán vậy.

Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống. Đủ các loại phải chi! Vợ tôi còn báo tin, mợ tôi muốn vay tiền để đưa con gái lớn của mợ, em tôi sang Đức, "Các cháu làm ơn cho mợ vay. Ngộ may có đổi đời như nhà các cháu". "Thôi, thu xếp cho mợ vay! Hồi sơ tán đạn bom, mợ giúp mẹ chúng ta nhiều lắm!" Tôi nhắn về nhà cho vợ. Theo dự kiến, em tôi sẽ đi theo đường Tiệp. Khốn nạn! Con gái sang đây làm gì. Rồi phải vào trại. Lại chả vờ, khai man có hành vi gì đó chống lại đất nước! Nhưng cũng khốn nạn. Mợ tôi ở dưới quê, cái vùng chiêm trũng người nhiều hơn ruộng. Cậu tôi hy sinh trong chiến tranh biên giới để lại một nách bốn con. Đứa lớn, em tôi mới mười ba đã phải lên Hà Nội kiếm tiền. Nghe nói mấy năm nay, em tôi hết đi gánh nước thuê lại đi rửa bát, đi ở quanh phố để kiếm tiền gửi về cho mợ. Tôi biết, với mợ tôi việc vay tiền là bất đắc dĩ. Vả lại, nhà tôi nghèo thế mà bỗng dưng có những mấy ngàn US, lại ti vi mầu, bóng nhẫy, chình ình trong cái nhà hẹp mười mấy mét vuông thì ai chả nghĩ, sang bên Đức có thể xúc ra tiền!

Cũng phải bốn tháng sau em tôi mới sang. Nó vào trại tị nạn trình diện rồi về giúp tôi buôn bán. Thực ra, công việc kiếm ăn của tôi, một người thì hơi vất vả mà hai người thì thừa. Vùng tôi ở, người Đông Đức thất nghiệp đầy rẫy. Tìm đâu ra chỗ làm cho nó? Với lại nó làm gì có giấy tờ mà đi làm hợp pháp. Bất tiện nhất là hai anh em phải chui rúc trong cái nhà vườn chỉ mười hai mét vuông. Bình thường thì không sao, nhưng những lúc nó tắm gội, thay đồ, khi bận cái việc của đàn bà. Rất ngại! Thôi đành vậy. "ở với anh dăm bữa rồi tính". Tôi bảo em tôi như vậy nhưng nó vẫn buồn. Cũng dễ hiểu! Những khi giúp tôi công việc thì không sao. Nhưng ngày nghỉ, chẳng có việc gì hết ra lại vào, chỉ có thằng anh già, ti vi không thiết xem mà chuyện trò mãi cũng chán. Lại hai người, hai thế hệ, ở với nhau thì chẳng hợp rồi. Nó thương tôi nhưng rõ ràng, mỗi lứa tuổi có sở thích, ước mơ riêng của nó. Mọi hoang tưởng của nó về xứ sở thiên đường vỡ mộng, khi nửa năm bị giam trong bốn bức tường giữa một khu vườn chỉ có tiếng chim và anh già hay đi nằm sớm. Công việc thì còn lâu mới mơ tới vì bao giờ mới có giấy tờ để đi làm? Tôi nhìn khuôn mặt ngày một đẹp ra vì khí hậu châu Âu nhưng luôn buồn buồn của nó rồi động viên: "Thôi cố chịu. Vài năm nữa có giấy tờ sẽ tính." Tính gì đâu! Thực ra tôi cũng bí. Không thể để nó lang thang vào đội quân buôn thuốc lá lậu được. Chui lủi, khổ cực, ê chề khi cảnh sát còng tay và nó sẽ hư hỏng mất. Tuy thế tôi vẫn gửi thư đều về báo tin cho mợ tôi rằng, mợ cứ yên tâm, cháu đang thu xếp, em khỏe và lên cân.

Thời gian vẫn trôi đi. Thấm thoắt hết hè rồi tiết thu qua và đông. Mùa đông năm ấy thực khủng khiếp. Ba bốn tuần liền, tuyết ào ào trắng xóa đổ xuống mặt đất. Tuyết ngừng rơi thì gió lạnh chích kim vào da thịt. Vườn cây trụi hết lá, trơ trụi xương cành như rừng cây vừa bị C130 táng bom hóa học hồi nào. Nhìn qua cửa sổ, cây cối có lớp băng trắng trong, óng ánh như được tráng phủ một lớp pha lê.

Tối đó, tôi đi nằm sau chương trình thời sự hãng truyền hình Sát1. Em tôi, con Tám ngồi bất động trước màn hình xem tiếp một phim gì đó rất nhăng nhố, ma quái của Mỹ. Lơ mơ sắp ngủ thì con Hansi chợt rít lên. Nó cầm tay áo tôi rồi phi ra cào cửa rối rít. Tôi choàng tỉnh, bật dậy vớ khẩu hai nòng và vọt tới bên cửa sổ đã kéo rèm, nhìn ra vườn. Sương tuyết lởn vởn, mỏng manh từng đám, la đà bay. Những hàng cây trắng phớ, bất động. Yên ắng một chút rồi có tiếng cành khô gãy. Hình như có tiếng băng tuyết lạo sạo dưới đế giày mơ hồ vọng về. Tôi nhẹ mở khóa cửa. Con Hansi vọt ra ngoài. Có người lạ rồi! Tôi lao theo nó, tay nắm chắc súng, sẵn sàng nhả đạn.

Chút xíu thì Hansi cắn dứt cổ họng kẻ thù tôi hôm trước. Nó nhanh như tia chớp, hộc lên một tiếng rồi lao vào đè nghiến cái bóng loạng choạng trên tuyết lạnh. Tôi có linh tính người đó là hắn. Đúng là hắn, cái bóng liêu xiêu từ cửa vườn, lần từng gốc cây tiến tới nhà vườn. "Cứu tôi với!" Lời khẩn cầu bất chợt, kịp cho tôi lệnh cho Hansi buông tha đối thủ.

Hắn nằm ngửa trên tuyết, mắt nhắm nghiền. Chắc chưa hết cơn hoảng sợ. Hansi vẫn đứng, dùng hai chân trước ghì con mồi của nó xuống đất, chờ lệnh. Dưới ánh trăng mười hai và phản quang của băng tuyết, tôi nhận ra vai, ống tay áo phải của hắn đẫm máu. Tôi sốc hắn lên. Hắn quằn người đau đớn như muốn đổ vào tôi. Tôi đỡ lấy hắn. Lát sau chúng tôi lần từng bước tiến về cửa nhà vườn.

Tôi cởi áo hắn ra, sau khi cho củi vào lò. Lửa phừng phực reo tăng hết cỡ độ ấm trong nhà. Cái Tám hoảng sợ, nháo nhào bỏ ti- vi tới giúp anh. Em gái tôi nhìn hắn một lát rất chăm chú rồi thốt nhiên hoảng hốt gọi: "Anh Dũng! Có phải anh Dũng không?"

Trời ơi! Thật là bất ngờ. Hắn mở mắt. Hắn cũng nhận ra em gái tôi và đau đớn gượng cười gọi khẽ: "Tám! Tám đấy à?"

Chuyện như trong tiểu thuyết. Thì ra họ quen nhau từ hồi Tám đi gánh nước thuê. Hà Nội bé quá! Những đám người lang bạt đôi khi có sự gặp gỡ đến lạ như vậy! Nhưng khi ấy tôi cũng chẳng kịp hỏi cái duyên kỳ ngộ của bọn chúng. Rạch áo ra, vệt đạn bắn sượt xéo trên bắp vai trái. Thịt há toác, lộ mỡ trắng phớ trong máu đỏ lòm. May mà không phạm động mạch và xương. Tôi tính rất nhanh. Không thể gọi bác sĩ được! Hắn sẽ bị bắt lập tức. Hắn đã tới cầu cứu sự che chở của mình. Dẫu sao cũng da vàng máu đỏ, lại xứ người, lại là em đồng đội, bạn của em mình. Tôi bảo Tám lấy nước nóng hòa muối đặc. Tôi tận dụng hết những kinh nghiệm trong chiến tranh xử lý vết thương cho hắn. May mà trong nhà bao giờ cũng có hộp cấp cứu của Lotha để sẵn. Tôi bảo hắn chịu đau, lấy kim chỉ nhúng cồn, khâu bừa như hồi ở rừng. Hắn gan thật! Tôi toát hết mồ hôi, còn hắn chỉ nhăn mặt khi kim nhằng nhằng khâu da thịt. Không một tiếng rên!

Chúng tôi lau người cho hắn và để hắn dựa lên cái gối lớn rồi ủ ấm sau khi băng kín vết thương. Tám mang cho hắn một ca sữa hâm nóng.

Tôi đi nằm sau đó hai giờ. Có lẽ trên đường đã mất nhiều máu, nên hắn tỏ ra rất mệt, song vẫn gượng, nửa ngồi nửa nằm, tiếp chuyện với em tôi. Chuyện gì có trời mà hiểu! Hai đứa thì thào như buôn bạc giả. Thi thoảng, hình như họ cười. Tôi nghĩ miên man về nhà. Nghe nói, thời kinh tế thị trường, người túa ra thành phố như kiến.

Ngay hôm sau, Tám và hắn đã dậy từ khi nào. Hắn ngồi bên lò sưởi như một bức tượng câm lặng. Tôi nắm lấy đôi vai hắn: "Đỡ chưa cậu?" Hắn ngoảnh lại nhìn tôi và không nói gì. Nhìn vào mắt hắn tôi cảm thấy sự biết ơn trong đó. Bất giác, tôi nắm lấy bàn tay hắn. Bàn tay ấm. Ai nói, tay ấm là người có tình? Có tình mà sao hắn lại đi ăn cướp? Tôi tự hỏi.

Một tuần trôi qua vết thương chưa liền da, dẫu em tôi cái Tám hết lòng chăm sóc. Hắn vẫn hâm hấp sốt và tỏ ra mỏi mệt. Tôi đi bán hàng bập bõm. Yên tâm sao được khi để hắn ở nhà với em tôi. Hắn có thể cảm thấy điều ấy nên bảo: "Ông yên trí đi. Dũng này biết, thế nào là người quân tử. Ân oán sòng phẳng."

Hansi đứng bên tôi nghiêng cái đầu nghe ngóng. Cả tuần rồi, nhưng nó nhất quyết không làm quen với Dũng. Mỗi lần Dũng đưa tay định vuốt ve, con chó nhãng ra, nhìn hắn như thăm dò.

Hôm sau báo chí bang đưa tin có vụ va chạm, nổ súng của "một nhóm người Việt Nam". Tôi đoán là bọn hắn. Hỏi Tám mới biết, trong nhóm hắn có mâu thuẫn lớn và xảy ra chạm súng. Hắn một mình thoát khỏi sự vây đuổi của cảnh sát và chạy tới nhà tôi. Tôi cầm tờ báo chỉ cho hắn mảnh tin đó rồi bảo: "Cậu giết người à?" "Không!" Hắn lạnh lùng trả lời. Im lặng đến ba bốn phút. Hắn chợt nói: "Mọi lần đi ăn hàng, tôi chỉ dọa nạt thôi và chưa giết một ai cả. Nhưng tôi căm thù hắn!" "Hắn nào?" Tôi hỏi lại. "Là một thằng khốn nạn. Một đứa phản bội anh em. Một thằng dưới cả mức đểu, sẵn sàng làm mọi điều xấu xa tàn nhẫn nhất để có tiền. Một con giòi! Tôi mà gặp lại nó, tôi sẽ giết! Di nó dưới đế giày như di một con giòi!" Khi ấy, khuôn mặt Dũng đầy sát khí, phẫn nộ. Nghe hắn nói, nhìn bộ mặt, lạnh hết cả sống lưng.

Tôi ngồi xuống bên hắn.

- Cậu nên từ bỏ con đường đã chẳng sung sướng, lại nhơ bẩn và mạo hiểm! - Tôi nhẹ nhàng mở màn.

- Tôi chẳng muốn làm công việc này. Tôi chỉ muốn sống lương thiện. Nói thế anh không tin đâu nhỉ. Nhưng hết cửa rồi! Chúng tôi lấy đâu ra tiền mua giấy tờ ở lại, làm, ăn? Đâu đâu, tiền cũng thống trị chúng tôi. Người thì giàu quá, tiền tiêu xả láng. Con cái đi học, Tây Tầu. Tiền đô gửi ngân hàng cả núi. Người như tụi tôi, lụi cụi gần hết đời, ăn cũng chẳng đủ. Bố nuôi tôi về hưu non. Lương hưu không đủ sống. Năm kia, ông ấy bị hẹp mạch vành. Phải hơn năm chục triệu mới được mổ để chữa. Đào đâu ra số tiền ấy? Ông lăn ra chết khi vẫn còn viết hăng lắm. Thế là sau mẹ tôi, anh tôi, người tốt nhất tôi gặp trên đời lại bỏ đi. Còn lại, tôi thấy bây giờ, ai tốt ai xấu khó phân biệt? Người tốt gần như tuyệt chủng! Anh xem, ở xứ người, với mình, cái thứ da vàng mũi tẹt, luật pháp ở đâu? Nó chỉ dành cho ai? Không sợ xóm giềng, dư luận! Chỉ có cánh hẩu, băng đảng! Cái gì cũng quy ra cây ra chỉ. Ai cũng muốn mình giầu lên, phất nhanh như gió! Ai cũng bo bo, bom bỏm một mình. Tôi hỏi anh, tiền đâu ra mà họ giầu nhanh như vậy? Họ cướp ngày thì trong sạch. Tôi cướp đêm, bẩn thỉu! - Hắn nói một hơi. Mặt đỏ gay.

- Cậu nói thế nào vậy? - Tôi bảo - Sao lại không còn người tốt?

- Người tốt với anh có thể là xấu với kẻ khác. Hôm nay tốt đấy những ngày mai có thể xấu.

Hắn chẳng còn tin ở điều gì rồi. Sống như vậy khổ lắm. Tôi thoáng nghĩ, hỏi tiếp:

- Cậu còn tin ở cái gì không? Đức phật, thánh thần chẳng hạn?

- Tin chứ!

- Có vào chùa bao giờ không?

- Không!

- Tại sao, tin mà không vào chùa?

- Vào làm gì? Toàn bọn vô đạo! Chúng nó vào chùa xin tiền, xin nhà to hơn. Xin kẻ thù, đối thủ sập bẫy. Mấy ai vào chùa để mong cầu theo ông Phật?

Tôi yên lặng. Chà! Cũng lý luận ra trò.

- Xấu tốt là tương đối thôi. Những người chia sẻ thì bao giờ cũng cần đến tuyệt đối. Cậu có cần người chia sẻ không? Như tôi và cậu bây giờ chẳng hạn. Chúng ta đang chia sẻ với nhau đấy thôi! - Tôi nói.

Yên lặng. Mắt hắn rất buồn.

Đấy là lần đầu tiên chúng tôi nhiều lời với nhau.

Cuối tháng ấy, Tám muốn có ngày giỗ cậu tôi. Tám đi chợ mua gà, hoa lơ xanh, một quả dứa châu Phi to ngật làm cơm cúng. Bỗng dưng, gian nhà vườn vốn trống vắng hoang toác giờ có ba người, lại lâu lắm mới có buổi xào nấu tưng bừng, thơm nức mũi. Tất cả tạo thành cái không khí gia đình, nhất là khi mùi hương trầm ngan ngát tỏa khắp gian phòng hẹp. Xa quê hương, trong cái xa xôi vời vợi, đôi khi tưởng như tuyệt vọng, những khi ấy nhớ nhà nung nấu lắm!

Hắn tò mò hỏi Tám và biết rõ lý do của bữa giỗ. Hắn xin thắp hương. Nhìn hắn thành kính đứng trước bàn thờ, miệng lẩm nhẩm khấn, kính cẩn lạy, tôi vừa đau đớn vừa thương hắn, thương tôi, thương Tám. Có thể là hắn còn sốt còn mỏi mệt, nên hắn chỉ ăn được nửa bát miến rồi buông bát. Rượu cũng chẳng uống một giọt. Tôi vừa cất lời động viên hắn ăn thêm thì hắn bưng lấy mặt. Tám chạy tới. Khi hắn bỏ tay ra, tôi nhìn thấy trong đôi mắt thường ngày dữ dội như thế mà giờ đây như trĩu nặng, muốn tứa ra điều gì.

Chúng tôi đều chống đũa. Không khí trong nhà trầm xuống như trong bia mộ. Cái con người ít nói như hũ nút ấy chợt mở miệng. "Gia đình em có ba người. Từ nhỏ em đã rất yêu quý và tự hào về anh của em! " Câu chuyện mở màn như vậy.

° ° °

Gia đình Dũng chỉ có ba mẹ con. Vừa sáu tuổi hắn đã mồ côi cha. "Ông bị bệnh hen suyễn nặng." Hắn kể vậy. Mười bốn tuổi anh hắn đã ra đồng gánh vác công việc của người lớn. Chiến tranh cuốn anh hắn vào guồng máy khổng lồ và tàn nhẫn, biền biệt tháng năm. Cuối cùng, sau bao ngày chờ đợi, anh hắn gửi lá thư đầu tiên cũng là thư chót cho hắn. Hắn không hiểu sao, cứ đọc thư ấy cho mẹ là bà khóc suốt. Năm ấy vùng hắn hạn hán ghê gớm. Đá sỏi nóng bỏng, như có làn khói hơi ngùn ngụt và chó, mèo trong làng cũng rũ ra, lưỡi thè lè dãi nhớt, thở hồng hộc cả ngày. Hắn ra sông gánh nước và đã để quên lá thư của người anh khi nào cũng mang theo bên mình.

"Em chạy ra lấy thư thì máy bay đến trút loạt bom bất ngờ vào làng. Chúng nó đánh vào khu hậu cần tên lửa bảo vệ Hàm Rồng. Cầm thư trong tay em chạy như điên về nhà. Trước mắt chỉ còn thấy một hố bom khét tanh. Lần thứ nhất, lá thư cứu em thoát chết!"

Tôi đã chứng kiến cái cảnh người ta đùm bọc nhau trong chiến tranh. Tôi tưởng thấy Dũng hết ở nhà này trong xóm lại tới nhà khác. Tôi tin hắn. Tôi mường tượng thấy cái lều vịt dựng ở mé sông. Một thằng bé chui rúc trong đó, nhịn đói vài bữa là thường. Nhưng con người hắn thật lạ, chỉ vì một giấc mơ, thấy anh hiện về mà hắn dám đốt lều, bỏ làng, đi theo hướng Bắc ra tận Hà Nội kiếm ăn.

"Em không còn cái gì cả. Tứ cố vô thân. Vật duy nhất mang theo là lá thư của anh em. Khi đói mang ra đọc, buồn mang ra xem! à, còn sợi dây dù anh ấy gửi bạn mang ra năm trước khi mất. Lang thang xin ăn khắp mọi nơi. Tới một cái chợ rất to. Chẳng cần ai mời mọc cũng lăn xả vào khênh, kéo những cần xé lớn đựng hoa quả. Rồi người ta cũng nhẵn mặt em và thuê làm việc vặt vãnh. Có vậy, em mới sống được tới hôm nay."

Cứ theo lời hắn nói, thì khu chợ ấy có thể là chợ Bắc Qua. Tôi tin điều hắn kể rằng "phải bật khỏi chợ, đi xuống khu sau ga mới, gánh nước thuê sau một trận đánh nhau chí tử với đám trẻ ma cũ trong chợ"

"Cả một khu nhà một tầng san sát sau ga, thật bẩn thỉu, kinh tởm". Hắn kể tiếp: "Mỗi khi trưa, nước dềnh lên khắp các ngõ hẻm. Người ta phải đi lại trên những hòn gạch, ván thùng kê lên trong dòng nước lổn nhổn phân, rác, xác súc vật thối lềnh bềnh."

- Mình đã có lần qua cái khu sau ga ấy? - Tôi đế theo lời hắn. Sau chiến tranh người ta chen chúc sống như vậy cũng là thường. Thôi thì đủ hạng người. Cán bộ, công nhân nghèo, dân bốc vác, dân ném hàng lậu vượt tường cho những chuyến tàu Nam, cả đám anh chị và bọn điếm rẻ tiền.

"Tại một góc, lối em hay gánh nước qua, nơi có bóng cây cạnh hiên khu nhà 15, thường có một người ngồi ghi chép viết lách gì đó và ông ta để ý tới em tự khi nào cũng chẳng rõ". Hắn kể với giọng tỉnh queo: "Một chiều, ông ta gọi em vào hỏi chuyện rồi tỏ ý thương lắm. Và mùa đông năm ấy, khi bắt gặp em ngủ dưới mái hiên một quầy bán báo, ông đã bắt em về cho em nghỉ trong gian nhà chật hẹp của ông ấy. Ngày xưa em cứ mường tượng nhà văn là một người nào đó phải thật đặc biệt. Hóa ra không phải vậy! Ông ấy là một nhà văn quân đội rất nghèo. Ông ta, bố nuôi em là một người rất bình thường. Chỉ không bình thường vì ông thương người quá đỗi mà thôi. Ông ấy hay làm việc, viết lách tới khuya mà ăn uống nhiều khi chỉ có muối vừng với vài lá rau thơm. Hơn năm sau, em được ông ấy đưa về thăm quê em và cũng nhờ ông, em đi xuất khẩu lao động tại Nga."

Tôi chợt nhớ tới nhà ga Moskau với những vòng tròn như cái sàng bột chi chít trên vòm mái. Năm nào qua Nga, những đoàn người tóc đen, nhem nhúa, mặc lên người đến mấy bộ quần áo bò dày phát ngốt, chen chúc như đàn ruồi bâu lấy cửa kiểm soát, chờ qua hải quan vào kiếm cơm ở một đất nước bao la.

"Công việc ở nhà máy cán thép rất nóng và vất vả. Tính ra, mỗi ngày bốc tới ba chục tấn tôn thép. Đồng rúp xuống giá như mất cắp nên chẳng tiết kiệm được. Bọn em buôn bán vặt những gói bột nghệ cho người Trung á. Năm ấy Nga cấm rượu. Bọn em chuyển sang nấu rượu bán. Bốn năm nồi nấu thi nhau chiết rượu ngày đêm. Gạo ủ lên men trong bồn tắm. Cảnh sát kiểm tra thì đứa xả bồn, thằng múc bỗng đổ như điên vào toilet. Anh mà không uống được rượu, chỉ ngồi trong phòng toilet một giờ là say ngất ngư."

Hắn hút thuốc lá liên tục. Cái phòng nhỏ mù mịt khói.

"Đã kha khá tiền thì tai họa ập tới. Chúng nó gọi cửa như người cất hàng. Rồi trói, rồi tra tiền. Ba thằng nấu rượu đều tiếc tiền nên cố gan lỳ chịu đòn, trơ ra. Thế là chúng tóm luôn em, đứa to con nhất, quẳng qua cửa sổ tầng mười bảy. Tầng mười bảy, anh hiểu không?."

Tôi thót tim lại. Tưởng thấy những căn hộ tổ chim cao ngất. Gió ù ù thổi khi mở cửa sổ. "Sao lại thoát chết?" Tôi hỏi.

Hắn kéo lá thư với sợi dây dù ra.

- Đây. Nhờ lá bùa này!

Tôi trố mắt ngạc nhiên.

Hắn nhếch mép cười chua chát.

"Vụt một cái, em bị ném khỏi cửa sổ. Cảm giác bị hụt hẫng vừa chợt đến thì thấy người giật nẩy lên. Mở mắt ra thì, trời ơi cái giá treo cờ của bọn Nga, bây giờ chẳng ai treo nữa, thò ra ngoài xé toác cái áo rồi móc trúng sợi dây buộc lá thư này. Cứ như thế mà đung đưa trước gió tuyết quất buốt vào mặt, vào tay tê cứng. Cổ bị dây dù kéo căng. Ngạt thở muốn chết. May em là đứa khỏe, ráng sức co người, ngồi chênh vênh trên đó. Anh thì chắc chết ngất vì bấy giờ nhìn xuống thấy hun hút. Lại nghe rõ tiếng đánh đập, tiếng tra khảo hai thằng bạn em trên phòng vọng xuống. Mấy phút sau thấy im bặt. Em đu người, lần bám bậu cửa sổ trèo lên"

Hắn còn kể nhiều lắm nhưng thực ra câu chuyện cũng toàn những điều tôi có thể tưởng tượng thấy. à, thì ra, hai lần được lá thư ấy cứu sống làm hắn đinh ninh ở đó có một sự linh thiêng, thần bí! Người ta, từ chỗ dựa tinh thần rồi chuyển sang thần thánh hóa một vấn đề nào đó cũng dễ hiểu. Tôi nghĩ vậy.

Hắn nhắc lại quãng sống lang thang ngoài Hà Nội. Nhắc đến nhà văn già nào đó. Nhắc đến mộng ước có một ngôi nhà nơi quê hương. Dường như hắn muốn tôi thông cảm cho hành vi sang đây ăn cướp của hắn. Cái thế cùng đường mà hắn trình bầy là việc hắn tìm ra kẻ đã ném hắn ra ngoài cửa sổ, đánh trọng thương rồi bỏ trốn, nghe cũng tàm tạm. Nhưng cái việc hắn tin là "có vật hộ mạng này sao không đi ăn cướp của mấy thằng giầu nứt đố đổ vách" thì thực là "một sự che đậy giả dối và ngụy biện". Tôi nói với hắn.

Tôi kể cho hắn nghe về anh hắn. Về quãng sống chẳng cần lá bùa nào cả mà chúng tôi vẫn đi vào cõi chết như không. Tôi nói thẳng với hắn: "Nếu anh cậu có linh hồn thật, anh chắc chẳng tha thứ cho cậu! " Hắn ngồi gục đầu xuống, rũ ra, nom thảm hại như con gà bị cắt tiết. Con người ta, ai chả có lúc sai lầm! Tôi chợt nhớ rồi đặt bàn tay lên vai hắn. Chúng tôi nhìn nhau giây lát. Con Tám thì thật dở. Đúng là bọn đàn bà mau nước mắt. Nhìn sang, tôi thấy tròng mắt nó đỏ hoe.

° ° °

Hansi nhất định không làm quen với hắn. Nói thế nào nó vẫn có một quãng cách với Dũng. Nó luôn luôn cảnh giác, gườm gườm nhìn khách.

Dũng bỗng sốt li bì. Sớm sau mở vết thương ra thay băng, tôi biết là không ổn. Hơn hai tuần mà vết khâu chưa kín miệng. Lại có hiện tượng nhiễm trùng.

Đang loay hoay rửa vết thương cho Dũng thì Lotha đến. Tôi giật mình nhưng vẫn làm vẻ tự nhiên khi Lotha nhìn thấy tất cả.

"Chúng mày tự khâu và băng bó?" Hắn hỏi và nhìn thẳng vào mắt tôi.

Con Tám lo sợ, đứng phăng phắc ở góc nhà.

Tôi yên lặng. Lotha gạt tay tôi ra và giận dữ nói: "Đồ điên! Mày quên ngay cái thời chiến rừng rú của chúng mày đi. Bây giờ sắp bước sang thế kỷ 21 rồi! Hiểu không? Phải gọi bác sĩ! Du bist Arschloch 6! Lần đầu tiên tôi bị anh ta mắng chửi thậm tệ như vậy.

Tôi rất lúng túng trong việc xảy ra ngoài dự kiến này. Lotha rất thông minh. Nhìn vết thương, cái tin trên báo ai chẳng biết. Đồng thời tôi cũng không muốn lừa dối anh. Tôi đành nói thật cảnh huống của chúng tôi khi ấy và van xin anh đừng can thiệp vào việc này. "Nó không phải là người xấu. Nó bị hoàn cảnh đẩy vào ngõ cụt. Hãy tin tôi! Lotha". Tôi thuyết phục anh ấy.

- Không! Mày đừng coi mạng người rẻ như vậy. Tao có một người rất thân là bác sĩ ông ta sẽ giúp chúng ta. Hy vọng là mọi sự sẽ ổn. - Lotha bình tĩnh lại, thong thả nói.

Hai giờ sau. Người bạn Lotha tới thật. Ông xử lý lại vết thương rất nhanh và tiêm cho Dũng hai ba phát. Tôi và Tám rất lo lắng. Dũng cũng vậy. Những người Đức rạch ròi lắm. Người ta trọng pháp luật và đa số sống rất kỷ luật và nguyên tắc. Lotha có thể hiểu và tin tôi. Nhưng người bác sĩ kia có thể báo cho cảnh sát.

Tôi và Dũng đều chung một sự lo ngại như vậy. Nửa giờ trôi qua, Dũng nằng nặc đề nghị tôi đưa ngay hắn ra biên giới.

Tôi suy nghĩ một lát rồi giục hắn thu xếp. Tôi viết nhanh thư giới thiệu cho một người bạn ở Ba Lan. "Anh ấy là chiến hữu với anh từ khi nhập ngũ. Cậu sang đấy chịu khó giúp việc anh ấy! Phải làm cho người ta tin tưởng bằng sự trung thực của cậu. Cứ tới khu buôn bán Sân Vận Động hỏi tên anh ấy, ai cũng biết!" Tôi dặn dò, đưa cho Dũng lá thư và đặt tay lên trán hắn."Còn sốt?" "Chuyện vặt ấy mà. Anh đừng lo! Em nhất quyết không phụ lòng anh?" Dũng nói.

Chuẩn bị lên đường thì Tám kéo Dũng ra một góc thì thầm. Dũng thỉnh thoảng liếc nhìn tôi, bộ dạng sốt ruột.

Lát sau, Tám tới bên. Nó cúi đầu xuống. Nói lí nhí trong họng: "Anh cho em đi với anh Dũng!"

Tôi tưởng như ngạt thở. Lại còn thế nữa. Dũng tới liền bên tôi: "Anh cho Tám đi với. ở đây cô ấy cũng không có vị gì. Buồn lắm. Anh biết rồi! Em hứa là, đi với em, Tám còn vất vả nhưng đỡ buồn. Anh tin ở em. Chúng em sẽ làm lại" Tôi nhìn vào mắt hắn. Hắn nhìn thẳng vào mắt tôi, chờ đợi. "Suy nghĩ kỹ chưa? Tao thật không hiểu nổi chúng mày." Lòng tôi rối bời.

"Em nghĩ kỹ rồi. Chúng em ở Hà Nội đã mang ơn nhau", Tám lí nhí đế vào.

Mang ơn nhau! Ba cái từ ấy nhắc lên làm con người như tôi cảm động và xao xuyến. Tôi không thể giữ họ lại. Tôi đặt hai bàn tay vào vai chúng. Cổ nghèn nghẹn.

Tôi chợt nhớ, hắn tới đây không một xu dính tôi. Tôi ra ngoài móc hộp bia đựng tiền. Con Hansi cũng cào tuyết hối hả. Tôi chia đôi số tiền. "Cũng chẳng có nhiều. Chỉ có ba ngàn thôi. Lấy vốn mà làm ăn lương thiện!" Tôi đặt gói tiền vào tay đứa em tôi.

Dũng chứng kiến tất cả. Liệu hắn có biết là tôi chẳng nói riêng với em tôi? Không! Hắn biết. Hắn ngó tôi đăm đăm rồi ôm choàng lấy tôi, xiết mạnh đến quằn cả xương sống.

Đêm hôm ấy bão tuyết bất chợt nổi lên từ lúc lên đường. Tám tiếng đồng hồ chạy như điên trên đường cao tốc mới xuống được vùng giáp biên giới. Đã mấy lần xuống đấy chơi, tôi nhanh chóng tìm thấy chính xác đường rẽ tới khu rừng có thể vượt biên. "Trời giúp chúng ta rồi! Tuyết rơi dày thế này, biên phòng Đức ít đi tuần. Tuyết sẽ cản trở tầm nhìn của họ." Tôi nói với Dũng.

Chúng tôi đỗ xe cách ba cây số và đi bộ xuyên qua khu rừng thông. Qua một con dốc là tới bờ sông cạn. Con đường này, người chăn cừu, người đi chợ hai bên đường đi lại. Dòng sông nông. Băng lều phều trôi chậm. Từ đây tới nhà của một người nữa, bạn tôi, bán hàng tạp hóa vùng biên giới cũng không xa. Tôi tin là Dũng sẽ mau chóng tìm ra nó. Từ lúc chuẩn bị xuất phát, Dũng đã được tôi hướng dẫn tỉ mỉ.

Chúng tôi dừng lại bên con sông cạn giây lát trước khi Tám và Dũng vượt sang bên kia bờ. Chỉ cần hai ba phút là sang phần đất Ba Lan rồi. Tám ôm chặt lấy tôi. Cô ấy thút thít. Tôi vuốt khẽ mái đầu xanh mượt của nó và hôn nhẹ vào trán lần cuối và đẩy nó ra. Tôi quay sang Dũng.

Trong đêm tối khuôn mặt hắn như nhòa đi nhưng đôi mắt vẫn ánh lên, long lanh. Giọng hắn run rảy: "Xin anh đừng lo! Em thề!"

- Khỏi thề bồi gì! - Tôi nói gấp gáp - Dũng ạ! Những người anh hùng trên đời này, nhất là những anh linh kiệt liệt chỉ ủng hộ những người chân chính, lương thiện thôi.

Tôi không nói được lời nào nữa. Tôi vốn là người đã qua nhiều đau khổ, gian nguy, nhưng vẫn hay xúc động. Sợ cất tiếng nữa sẽ khóc.

Chúng tôi nắm tay nhau yên lặng vài giây. Nghĩ ngợi thế nào, Dũng chợt tháo Lá Bùa khỏi cổ. Nhìn lại một lát rồi bất ngờ quăng xuống mặt nước chầm chậm trôi. Sóng nước lập tức cuốn lá thư nổi, chìm xa dần.

- Không làm như vậy! Anh Dũng!

Em tôi, Tám thảng thốt lao vội xuống mé nước, lượm lá thư với sợi dây dù màu thẫm. Nó cầm trên tay lá thư có sợi dây dù năm xưa, bước tới bên Dũng quàng lại bên cổ, nơi biết bao nhiêu năm, lá thư của người anh thân yêu của Dũng vẫn ở đó.

- Đây vẫn là lá thư của anh ấy cơ mà. - Tám ngước mắt lên nhìn Dũng nhẹ nhàng nói.

Dũng ôm choàng lấy bả vai của Tám, rồi quay lại nhìn tôi lần chót. Đôi mắt hắn khi ấy trở nên thăm thẳm. Tôi xua tay. Dũng nắm tay Tám, hai đứa cùng hối hả vượt sang bên kia sông.

Mưa tuyết xuống dầy đặc hơn. Con Hansi nhảy cẫng. Không một tiếng cắn. Trước đó, nó đã liếm vào bàn tay của Tám, của Dũng khi hắn chìa tay cho nó.

Biên giới mù mịt. Không gian mênh mông. Trắng và lạnh.

Mặt sông loang loáng. Một bên là cánh rừng đen mờ, chập chờn. Con đường của những người chăn cừu mờ ảo, ẩn hiện. Hai cái bóng người nhỏ dần, nhỏ dần tan hòa, mất biến vào màu trắng vô tận, mịt mùng.

Tôi cúi xuống.

Hansi ngồi xổm nhìn sang bờ bên kia. Không biết nó nghĩ gì? Cái cõi trần thế hỗn mang này của đời người, mày có hiểu không, chó ơi?

Tôi thầm thì, ôm Hansi vào sát người.

° ° °

Cho đến khi tôi viết lại câu chuyện này, tôi vẫn không hề nhận được tin tức của họ. Công việc kiếm sống của tôi ở Đức, bao nhiêu thay đổi và chuyển nơi ở nhiều lần. Do vậy, tôi không thể bịa tạc rằng, Dũng trở thành người lương thiện, đã giầu có hay nghèo túng như xưa. Những khi thời tiết xấu, nghỉ chợ, nhìn băng tuyết chập chùng rơi, tôi hay nghĩ tới Dũng. Nhiều lần, tôi thầm thì cầu chúc cho em tôi, cho hắn, một kẻ lang bạt như tôi, bình yên trong cuộc sống vốn chẳng dễ dàng chút nào. Một lần trong mơ tôi gặp lại hắn, không hiểu sao, tôi đã nói thế này: "Dũng ơi! Có khi, dẫu bị đẩy vào hoàn cảnh bí bách nhất, cố mà giữ lại, một chút thôi, một điều dầu là mong manh, nhỏ nhoi là bình thản được giữa bao đổi thay của cuộc sống! "

Tỉnh giấc, tôi rất buồn. Hãy thông cảm cho tôi! Khi ấy ngoài trời giống hệt như cái đêm gã quay lại. Tuyết và những đám sương lạnh chập chờn, la đà bay...


Hà Nội 2002

--------------------------------
1 Chó chăn cừu Đức, giống chó nòi lai từ chó nhà và sói. Rất tinh khôn.
2 Hãy chơi lên điệu nhạc của cái chết - Phim kinh điển.
3 Từ tỏ ra coi thường, khinh miệt khi gọi cảnh sát.
4 Chuồn thôi! - Tiếng lóng của dân giang hồ.
5 Dở hơi.
6 Một câu chửi tục.