Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Khi hai kẻ yêu nhau lúc xa nhau còn nói đến chuyện xa nhau là họ còn nhớ tới nhau.
Léon Tolstooi
Trang 1 / 3 123 Cuối Cuối
Results 1 to 10 of 22

Chủ Đề: Hành Trình Chữ Nghĩa - Nhật Tiến

  1. #1
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết

    Hành Trình Chữ Nghĩa - Nhật Tiến

    .

    Hành Trình Chữ Nghĩa
    Tư liệu Văn Học Nghệ Thuật
    Nhật Tiến





    LỜI NÓI ĐẦU

    Hồi xưa, thuở còn trẻ, khoảng thập niên 50 ở Hà Nội, ai đã từng thích viết văn thì thường hay sinh hoạt trong những Bút Nhóm. Có nhiều tên tuổi của những sinh hoạt Bút Nhóm đó sau này trở thành những cây bút thành danh như Nguyễn Đình Toàn, Song Hồ, Dương Vy Long, Hồ My, Tạ Vũ, Vũ Mai Anh, Hùng Phong Nguyễn Đức Cầu…v.v…

    Khoảng năm 1952, nhờ sự khích lệ của bạn bè trong Nhóm, tôi cũng đã được đăng một truyện ngắn đầu tiên trên báo Giang Sơn, tờ nhật báo của bác sĩ Hoàng Cơ Bình ở Hà Nội. Thế rồi sau đó, tôi cứ tiếp tục hăm hở viết và có bài trên các báo ở thời đó như Giang Sơn, Chánh Đạo, Thời Tập, Cải Tạo, Hồ Gươm…v..v…Những năm chập chững đó, tôi không ngờ đã là những bước khởi đầu cho một cuộc hành trình chữ nghĩa không ngơi nghỉ, kéo dài cho tới năm nay (2012) thì đã là đúng 60 năm. Gọi là không ngơi nghỉ vì sau Hiệp định Gènève 1954, tôi di cư vào Sài Gòn gặp được nhiều cơ hội tốt đẹp để có thể tiếp tục tham gia các sinh hoạt văn hóa, liên tục cho tới tháng 4-1975.

    Bẵng đi gần 5 năm, từ 1975 đến 1979 tưởng như sẽ không bao giờ còn có dịp cầm bút trở lại, thế mà tôi lại vượt thoát ra đi, may mắn tới được bến bờ tự do, để cuối năm 1979, ngồi dưới túp lá tả tơi của trại tỵ nạn Songkhla Thái Lan, tôi lại có thể tiếp tục trở lại với sinh hoạt chữ nghĩa. Hiện nay, trong tay tôi còn 2 bản thảo, một cuốn mang tên Bèo Giạt Mây Trôi viết dở dang, một cuốn sắp hoàn tất, sẽ in trong nay mai, mang tựa đề “Nhà Giáo Một Thời Nhếch Nhác Dưới Mái Nhà Trường XHCN”.

    Trong suốt cuộc hành trình chữ nghĩa dài dằng dặc đó, tất nhiên tôi đã để lại trên đường đi khá nhiều dấu ấn. Vui có, buồn có, hay có, dở có, thất bại đã lắm mà thành công thì cũng được ít nhiều. Tuy nhiên chẳng bao giờ, tôi cảm thấy phải hối tiếc về bất cứ điều gì mình đã viết ra, dù cho có phải trải qua bất cứ giai đoạn khó khăn nào của thời thế.

    Thông thường, những dấu ấn trên đường đi, ta vốn chỉ nên coi là những kỷ niệm. Mà kỷ niệm nào trong quá khứ dù vui hay buồn thì cũng chỉ nên ghi gói trong lòng. Cuộc hí trường trong đời một con người, bất quá cũng chỉ kéo dài trong giới hạn dăm bẩy chục năm, nhiều lắm là trăm năm. Rồi hai tay buông xuôi. Mọi thứ trên hình hài sẽ trở về với cát bụi.

    Nhưng hình hài thì về với cát bụi, còn những dấu ấn để lại trong phạm vi tinh thần thì có sẽ phai mờ trong lớp bụi thời gian hay không ?

    Tôi nghĩ là không, vì nếu nó phai mờ trong trí nhớ để không còn được ai nhắc nhở tới thì lịch sử đâu còn lý do gì mà tồn tại ?

    Cho nên, trong sinh hoạt chữ nghĩa, đừng tưởng cứ hạ bút xuống rồi là phủi tay hết trách nhiệm. Rất có thể một vài năm sau, có khi cả chục năm sau, hay lâu lắc hơn nữa, ở những thế hệ kế tiếp cũng vẫn sẽ có kẻ lần mò vào thư viện tìm đọc lại những trang sách báo cũ để tìm hiểu về các lớp cha, anh với những gì mà họ đã làm, đã đóng góp cho lịch sử, và ngay cả về phương thức xử thế, đạo đức, nhân cách của họ nữa.

    Nhưng tiếc thay, trong cả rừng sách báo còn lưu trữ đó, vàng thau mọi thứ đã vô cùng lẫn lộn. Ở giữa những trang giấy mang tâm huyết của nhiều tác giả thì cũng đã tồn tại nhiều thứ giả trá của những tên lộn sòng nhân danh ngòi bút đã và đang còn tiếp tục quấy hôi bôi nhọ lên sinh hoạt chữ nghĩa bằng cách sẵn sàng vấy bùn lên bất cứ ai mà chúng ganh ghét. Thậm chí có nhiều trường hợp chúng coi nạn nhân như một thứ bàn đạp, sẵn sàng giẫm lên danh dự, tư cách, sự nghiệp của người khác để thỏa mãn một thứ mặc cảm tự ti hay hòng tạo dựng những nấc thang danh vọng cho bản thân mình. Tình trạng này thật sự đã và đang còn làm vẩn đục thị trường chữ nghĩa từ nhiều chục năm qua. Và vì đây là xứ sở tự do, nên sự tự do đã bị lạm dụng với một tinh thần rất vô trách nhiệm nên nó vẫn đang còn được nuôi dưỡng để tiếp tục kéo dài.

    Trong cuộc hành trình của chữ nghĩa như đã kể trên, chính tôi đã từng là nạn nhân của nhiều tên lộn sòng vào giới cầm bút qua nhiều vụ xuyên tạc, vu khống, bôi nhọ, chà đạp danh dự một cách bất cận nhân tình. Rất nhiều thứ ngôn từ thô lỗ, hạ cấp đã được bọn chúng sử dụng để lăng mạ tôi một cách vô tội vạ, cứ như thể chúng có toàn quyền áp đặt lên những người chúng ghét bất cứ hình phạt nào, chẳng cần quan tâm đến truyền thống giữ gìn lương tâm, liêm sỉ của một con người mang danh nghĩa cầm bút.

    Nhưng đã có một thời gian dài tôi hoàn toàn giữ im lặng trước những đòn thù vũ bão đó. Một phần vì tôi bận rộn nhiều chuyện phải làm, một phần khác, tôi tự nghĩ không nên phí thì giờ vào cái việc cứ phải săm soi lo gột rửa gót giầy giữa lúc trời còn đang mưa.

    Tuy nhiên có những vụ vì lý do an ninh, có khi đến cả sinh mạng của người công chính mà tôi bó buộc phải lên tiếng. Đây là trường hợp tên Nguyễn Hữu Nghĩa, chủ bút tờ Làng Văn ở Canada, vào thời điểm 1994, hắn vu khống tôi quyên góp của văn nghệ sĩ hải ngoại tới 18 ngàn đô la rồi đem về nước trao cho nhà văn Hoàng Lại Giang, Giám đốc phía Nam của nhà xuất bản Văn Học để nhà văn này in cuốn Tuyển Tập Văn Chương Hải Ngoại của 35 tác giả ngoài nước.

    Hắn viết rằng số tiền này tôi đã trao tận tay cho Hoàng Lại Giang để lo việc in ấn, nhưng sách thì không in mà tiền thì biến mất. Thử hỏi vào thời điểm 1994, VN hãy còn ở giai đoạn sơ khởi vừa mới mở cửa như thế, thì trong vòng vây của các thế lực bảo thủ ở trong nước, vấn đề an ninh hay sinh mạng của nhà văn Hoàng Lại Giang sẽ ra sao khi bị nghi ngờ nhận tiền đút lót của người nước ngoài, im ỉm giữ một mình không chia chác cho ai ? Trước tình cảnh này, tôi bó buộc phải lên tiếng trả lại sự thật cho vụ này, vì nhà văn Hoàng lại Giang chưa bao giờ cầm một xu teng nào do chính tôi trao lại ( Xin mời đọc bài viết ở trang 125).

    Rồi một chuyện khác. Có thể độc giả nhiều nơi tại hải ngoại vốn ra đi từ những ngày đầu sau biến cố 30-4-1975, sẽ khinh miệt cá nhân tôi đến mức độ nào, khi đọc những lời vu khống, bịa đặt một cách trắng trợn của tên Nguyễn Thiếu Nhẫn đăng trên tờ SaiGon Times của nhà thơ Thái Tú Hạp xuất bản ở Los Angeles với nội dung cho thấy rằng :

    ... “ ...sau 30 tháng 4 năm 1975, ông Nhật Tiến đã đeo băng đỏ, hướng dẫn “công an nhân dân” đi bắt giữ văn nghệ sĩ phản động để lập công với nhà cầm quyền Việt Cộng, rốt cuộc chẳng được trả công bèn dẫn vợ con xuống thuyền vượt biển, gặp cướp Thái Lan!”

    Từ bấy đến nay (1995), thời gian cũng đã trên hai chục năm qua, các văn nghệ sĩ bị kẹt lại, bị CS bắt cầm tù hồi năm 1975, 1976 đã được trả tự do hết và rất nhiều người đã ra định cư tại hải ngoại. Nhiều người còn tiếp tục viết sách, viết báo ở ngay California này. Thế mà Nguyễn Thiếu Nhẫn có trưng ra được một bằng cớ nào về vụ tôi đeo băng đỏ, hướng dẫn công an nhân dân đi bắt văn nghệ sĩ đâu?

    Bởi làm sao mà trưng bằng cớ được khi mà trong suốt 20 năm vừa qua, những văn nghệ sĩ bị CS bắt cầm tù đã ra định cư ở hải ngoại không hề có một ai lên tiếng về chuyện này, lý do dễ hiểu là chuyện đó hoàn toàn do Nguyễn Thiếu Nhẫn bịa đặt. Với tâm địa nhân danh người cầm bút nhưng sẵn sàng bịa chuyện để hạ nhục người khác như thế, thử hỏi tất cả những gì do Nguyễn Thiếu Nhẫn viết ra có còn đáng được tin cậy nữa hay không ?
    (Xin coi bài phỏng vấn của Vị Giang, trang 133).

    Nói chung thì nếu tôi có bắt buộc phải lên tiếng một đôi lần trong quá khứ thì đó cũng chỉ là chuyện chẳng đặng đừng. Và phải nói cho chân thật rằng tôi thật sự đau buồn khi phải chứng kiến những con người công chính trong sinh hoạt văn chương chữ nghĩa như Phan Nhật Nam, như Hà Thúc Sinh, như Đỗ Ngọc Yến hay Nguyễn Chí Thiện….tất cả cũng đã từng là nạn nhân của các cuộc vùi giập không thương tiếc.

    ***
    Quả là đời sống có muôn ngàn hoàn cảnh, nỗi niềm kể sao cho hết. Nhưng khi ngồi nhìn lại cả một hành trình chữ nghĩa kéo dài đã tới 60 năm, tôi thấy việc gom lại những bài viết có tính cách tiêu biểu, những đọan tường thuật hay những ghi nhận về các biến cố lớn lao đáng ghi nhớ trong suốt khoảng thời gian dài nói trên, thành những tập tài liệu lưu trữ hay tham khảo thì cũng là việc nên làm. Đó là lý do bạn đọc đã cầm trên tay cuốn đầu tiên trong nhiều tập Hành Trình Chữ Nghĩa sẽ còn tiếp tục ấn hành trong tương lai.

    Và bởi vì mỗi thời điểm có những biến cố hay dữ kiện phát sinh trong hoàn cảnh lịch sử của thời điểm đó, nên trước mỗi bài viết, tôi in thêm dấu nhãn thời gian của từng bài. Đây là một dụng ý cần thiết, vì nó nhắc nhở rằng bạn đọc đang lùi về quá khứ. Và để nhận biết rõ ràng các tâm trạng đang được diễn tả, người đọc cũng cần lui nhận thức của mình về thời gian đó. Bởi mỗi thời điểm đều có một hoàn cảnh lịch sử đi kèm, nó chi phối hay phản ánh cung cách ứng xử hay suy nghĩ của mọi con người. Trong cương vị của người đã từng viết, từng phát biểu trong nhiều cuộc phỏng vấn, chính tôi cũng chỉ là một cá nhân đã từng chia sẻ nhiều suy tư hay cảm nhận của mọi người vốn đang sinh sống trong hoàn cảnh lịch sử đó.
    NHẬT TIẾN
    California ngày 8 tháng 2 năm 2012
    In lần thứ nhất : Tháng 2-1012
    In lần thứ nhì : Tháng 5-2013
    Nhà xuất bản Huyền Trân
    Nam California ấn hành

  2. #2
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    .
    CHƯƠNG 1

    Thời điểm Hà Nội 1950 -1954
    NHỮNG NGƯỜI BAO NĂM CŨ

    Năm mươi năm trời khi đã trôi qua thì phải kể là những năm cũ, và những con người đã từng sinh hoạt với nhau trong thời điểm ấy phải là những người thuộc bao năm cũ. Tôi muốn nói đến những bạn bè văn nghệ vào thời kỳ họ còn trẻ trung, còn mang những tâm hồn tràn đầy tươi sáng và tấm lòng yêu văn chương nghệ thuật của họ còn đầy sôi nổi, nhiệt thành. Họ chính là những bạn đồng lứa, đồng hành với tôi, hoặc trước tôi chỉ vài ba tuổi và tất cả hầu như chỉ mới vừa mới chính thức bước vào làng văn hay mới chập chững những bước đầu tiên với ước mơ trở thành người cầm bút. Có người hiện còn sống, cũng có nhiều người đã vĩnh viễn ra đi.

    Tên tuổi của họ cho đến nay, có thể vẫn còn được độc giả nhớ đến nhưng cũng có nhiều bút hiệu hầu như nay đã bị vùi sâu theo dòng đời quên lãng. Đó là những Nguyễn Quốc Trinh, Hoàng Phụng Tỵ, Song Nhất Nữ, Nguyễn Nam Tê, Mọc Đình Nhân, Vũ Mai Anh, Hùng Phong, Kiều Liên Sơn, Huy Sơn, Hiệp Nhân, Lê Ninh, Hồ My, Song Hồ, Tạ Vũ...vân...vân...

    Tại Hà Nội, vào thời điểm đầu thập niên 50, bọn trẻ chúng tôi đã bước vào thế giới của văn nghệ một cách vô cùng say mê. Tuy chưa bước qua hay vừa bước qua tuổi mười tám mà nhiều người đã có thơ, có văn, có truyện in trên báo hay thậm chí, in cả thành sách.

    Hùng Phong, bút hiệu của Nguyễn Đức Cầu, năm ấy mới là cậu học trò lớp đệ lục (năm thứ hai bậc trung học) mà đã được đăng một phóng sự dài nhiều kỳ lấy tên là Con Cò Mày Đi Ăn Đêm (viết về những đường dây buôn lậu từ hậu phương vào thành) trên tờ nhật báo Liên Hiệp của ông Soubrier Văn Tuyên. Rồi Vũ Mai Anh học trò lớp đệ ngũ Chu văn An được nhà xuất bản Chính Ký ở phố Sinh Từ in những tiểu thuyết Duyên Kiếp, Phũ Phàng; Hiệp Nhân lớp đệ tam tự in lấy truyện dài Linh Hồn Ngọc; Lê Ninh ra giai phẩm Lửa Lựu; Nguyễn Nam Tê vừa đạp xích lô, vừa làm thơ để ra tập Tin Về Đất Bắc; Mọc Đình Nhân in Hương Mùa Loạn; Nguyễn Quốc Trinh, Hoàng Phụng Tỵ ra chung tập thơ Ươm Đẹp; Song Hồ, Kiều Liên Sơn, Hồ My, Tạ Vũ v.v… có thơ in trên các báo như Tiểu Thuyết Thứ Bẩy, Hồ Gươm, Thời Tập, Tia Sáng, Giang Sơn, Liên Hiệp ở Hà Nội hay Thẩm Mỹ, Mùa Lúa Mới, Nhân Loại ở Sài Gòn.

    Đất nước vào thời kỳ đó vẫn còn đang chìm đắm trong chiến tranh, nhưng sự tàn phá của nó so ra không bằng một góc của cuộc chiến Quốc Cộng vừa qua. Ở nhiều nơi, nhiều thành phố đời sống dân chúng vẫn mang vẻ thanh bình, và cái đời sống thanh bình của thuở ấy so ra không có những thay đổi khốc liệt hay những tệ nạn kinh hoàng như cuộc sống thanh bình ở quê nhà hiện nay.

    Song Hồ Nguyễn Thanh Đạm hồi cư về sinh sống ở Hà Nội vào khoảng 1952. Hình như trước đó, năm 1949, tuy mới 16, 17 chưa tới tuổi thành niên nhưng anh đã là một chiến sĩ tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp. Lăn lộn qua nhiều chiến trường, lòng “anh chiến sĩ” không nguôi nhớ về Hà Nội. Chẳng hiểu chàng nhớ tới ai mà ngay giữa rừng thông Thái Nguyên, vùng núi rừng Việt Bắc, Song Hồ đã viết bài thơ đầu tiên mang tên Thư Gửi người Em Hà Nội trong có những câu :

    Anh viết lá thư về Hà Nội
    Giữa lúc bóng chiều
    Ngả mầu sắc tối
    Lòng người chiến sĩ căm căm
    Đã bao tháng năm ?
    Chưa bức thư nào
    Về thăm người em gái nhỏ

    Không biết anh đi từ độ nọ
    Người em còn nhớ tới không?
    Hay ở nơi đây
    Ánh sáng Kinh Thành
    Em cười trên tay kẻ khác
    Nhưng anh vẫn tin
    Tình em còn mộc mạc
    Như tình anh
    Mối tình giữa buổi chiến tranh…..
    Song Hồ(1949)

    Sau này, khi trở về Hà Nội, Song Hồ tiếp tục đi học lại (trường Văn Hóa của Giáo sư Nguyễn Khắc Kham) và tiếp tục làm thơ. Thơ của anh khi đó không còn vấn vương tình ái nữa mà mang nặng tính cảm hoài về thời cuộc, thế sự :

    Đây Hà Nội trời mưa tuôn rả rích
    Bê bết bùn lầy nước đọng nhớp nhơ
    Đèn nê-ông tỏa ánh điện xanh lơ
    Nhạc cuồng loạn, gót giầy lay lắc ván
    Một rồi hai, trăm ngàn rồi đến vạn
    Đèn nhạt đèn xanh đèn tím đèn vàng
    Nhạc điên cuồng vẫn réo rắt reo vang
    Mầu biến đổi là lòng người biến đổi
    Hiện dần trong bóng tối
    Có người con gái miền quê
    Khăn yếm bỏ đi rồi
    Làn tóc loăn xoăn
    Đỏ mọng đôi môi
    Chiều thứ bẩy
    Giầy đinh vang hè phố…..
    Song Hồ (1953)

    Nhắc đến Song Hồ thì sau này bạn bè không thể quên được bài thơ anh đã làm vào năm 1981, tuy ngắn gọn mà đã diễn tả được hoàn cảnh tan hoang, kinh hoàng, khốn khổ mà dân chúng miền Nam đã phải chịu đựng sau khi CS vừa tiến chiếm miền Nam :

    HỠI EM NHỎ CÔ ĐƠN

    Hỡi em nhỏ cô đơn!
    Đang lang thang ngoài phố.
    Em ơi đi đâu đó?
    Cho ta hỏi đôi lời:
    - Cha đâu? - Bị cải tạo !
    - Mẹ đâu? - Buôn chợ trời !
    - Anh đâu? - Ở Cam Bốt !
    - Chị đâu? - V­ượt biên rồi !
    - Ông đâu? - Đấu tố chết !
    - Bà đâu? - Buồn qua đời !
    - Cô đâu? - Kinh tế mới !
    - Bác đâu? - Tự tử rồi

    Thôi ! thôi ! Không hỏi nữa !
    Tim ta quá bồi hồi

    Sao em còn nhỏ tuổi
    Đã biết nhiều chuyện đời
    Sao mảnh đất nhỏ bé
    Xẩy nhiều chuyện rụng rời….
    …….
    (1981)


    Trở lại khuynh hướng sáng tác của những người làm văn nghệ trẻ ở thời kỳ giữa thập niên 50, khoảng từ 1951 đến 1954, ngoài ca ngợi tình yêu, quê hương, đất nước, nội dung sáng tác cũng đã mang nhiều dấu tích xã hội vì họ cũng suy tư về các hoàn cảnh sống lầm than, những cuộc đời bị đối xử bất công, bị chìm đắm trong sự cùng quẫn nghèo khó. Nhẹ nhàng mang tính chất học trò nghèo khó thì có những câu thơ của Tạ Vũ viết năm 1952:

    Bạn ơi
    Trên trang giấy trắng,
    Dòng mực chảy đều
    Tai nóng bừng vì bài toán không ra
    Có nhớ đến tôi
    Bỏ trường - không học phí
    Duyên thế hệ thôi từ nay cách biệt !

    Tạ Vũ mồ côi cả cha lẫn mẹ, sống nhờ bà dì, có lúc lại vào nằm ở khu nuôi trẻ không nhà trong chùa Tầu gần phố Sinh Từ Hà Nội, chen chúc cùng với đám mồ côi cùng lứa tuổi để viết những dòng thơ như sau :

    Ánh đèn không soi mái phố
    Linh hồn dắt díu về đây
    Chăn đâu cho đầy giấc ngủ !
    Nôn nao cơm lưng dạ dầy !

    Thao thức nằm nhìn bóng tối
    Nghẹn ngào khóc dưới cửa ô
    đêm mơ thấy đời đổi mới
    Sáng ra buồn hơn bao giờ ....

    50 năm trời không gặp lại, nhưng tôi được biết, sau này Tạ Vũ vẫn tiếp tục làm thơ, và anh đã có thời nổi tiếng là một thi sĩ của những công nhân trong ngành khuân vác.
    Sâu sắc, già giặn hơn Tạ Vũ của năm 1953 thì có Song Nhất Nữ với bài Cửa Ô cũng được chúng tôi truyền tụng trong thời kỳ ấy :

    Cửa Ô
    (Gửi năm Cửa Ô Hà Nội)

    Mầu sắc u huyền,
    Đất trời nghiêng ngửa,
    Đô thành bừng lửa.
    Ngoại ô này lành lạnh sống trong đêm...

    Ánh đèn le lói
    Chìm đắm triền miên
    Nơi đây son phấn,
    Nơi đây kim tiền,
    Nơi đây trụy lạc,
    Nơi đây nghèo hèn
    Đêm về những giấc mơ điên
    Đêm về ngùn ngụt túi phiền lầm than
    Đêm về vàng bệch đèn tàn
    Đêm về điên loạn cung đàn xót xa
    Cửa Ô xa...
    Có nhiều bóng ma...
    Đi trong bê tha...
    Đi trong xênh phách
    Đi trong đói rách
    Đi trong lệ nhòa
    Thất thểu... la cà...
    Bóng ma... bóng ma...

    Đâu đây vàng ngọc lụa là,
    Cửa ô... ngõ hẻm... a ha! Cuộc đời!

    Song Nhất Nữ
    1953 (Nhựa Mới)

    Nguyễn Quốc Trinh, tác giả tập thơ Ươm Đẹp ngoài những vần thơ trữ tình:

    Hoa bừng dưới gót em qua
    Tôi cười dưới gót em xa
    Bát ngát Thơ ngân tiếng guốc
    Đường hương mở đón chân ngà,

    chàng trai ấy cũng có khuynh hướng xã hội như bài thơ Dễ Hiểu sau đây:

    Dễ Hiểu
    Vì mải gò lưng kéo
    Cày cho kẻ khác no
    Chiều về nhai cỏ héo
    Chuồng hẹp nằm co ro

    Vì sống như trâu bò
    Kiếp này sang kiếp khác
    Cha già cha phát ho
    Mẹ già xương xộc xạc

    Vì đời buồn xơ xác
    U ám như đêm nghèo
    Mồ hôi chua áo rách
    Muối mặn quả cà meo

    Hoa đẹp nở vườn nào
    Thơ bầy trong tủ kính
    Con choắt vợ xanh xao
    Ngựa xe người đủng đỉnh

    Vì tôi muốn anh muốn
    Vì chúng ta cùng muốn
    Đêm già: xô ngã xiên !
    Ngày non: cười thẳng dướn !
    NGUYỄN QUỐC TRINH
    (Ươm Đẹp-
    1953)

    Một nhà thơ khác cũng rất nổi tiếng trong giới bạn bè non trẻ chúng tôi là Nguyễn Thị Hồ My (sau đổi thành Hồ My). Đó chẳng phải là một nhà thơ nữ mỹ miều nào mà chỉ là bút hiệu của một chàng thư sinh cũng đang mài đũng quần ở bậc trung học. Cái sự tuy là nam nhi mà lại ưa lấy bút hiệu phái nữ hình như là một cái mốt của đám sáng tác trẻ trung ở thời kỳ đó, như Song Nhất Nữ là bút hiệu của anh Đặng Bá Ngư (nay anh đã không còn nữa) hay Nguyễn Thị Yếm Thắm là bút hiệu của Nguyễn Yên Tri, một anh chàng học trò cùng lớp, cùng trường với tôi từ khi còn ở bậc tiểu học. Xin nhắc lại một bài thơ của Hồ My sáng tác năm 1953:

    Đi Đêm
    Viết tặng người lầm than

    Bên mái hàng hiên
    Một bóng người thấp thoáng đi đêm
    Gót mòn xiết tiếng rên rên,
    Như khóc cuộc đời tăm tối.
    Đêm nay dưới ánh đèn le lói
    Bóng mẹ già, vợ dại, con thơ,
    Đang bơ vơ
    Đang thao thức
    Đang rạo rực
    Đang mong chờ
    Nóng lòng mong kẻ bên bờ đường khuya.

    Tiếng guốc kéo lê thê
    lóc cóc
    lách cách
    Như nửa tỉnh nửa mê
    Đau thương lên bước bên hè
    Đêm dài, phố vắng, đường khuya một mình

    Bên hiên cố ý hay vô tình
    Guốc lê mãi gieo buồn người mất ngủ
    Mẹ già, con nhỏ.
    Vợ dại ai nuôi!
    Lang thang giữa lúc tối trời
    Lệ trào mặn chát trên môi!
    Vang hè phố vắng
    Tiếng bước vọng xa xôi

    Chập chờn chiếc bóng chơi vơi
    Hỡi ôi! Thương lấy kiếp người đi đêm.
    HỒ MY
    Ngoại Ô Hà Nội 20-10-53
    (Báo Tia Sáng / tháng 10-1953)
    ***

    Bây giờ là thời điểm tháng 12 năm 2002, kể như là 50 năm tròn đã trôi qua. Ngồi đọc lại những tác phẩm cũ của bạn bè bao năm cũ, tôi như sống lại cái không khí của một thời “Ươm đẹp”, cái thời mà cũng đã từng có nhiều chàng trai vừa lớn, mang những ước mơ dùng văn chương nghệ thuật để làm đẹp cho cuộc đời, mong cuộc đời vơi đi những nhọc nhằn, những bất công, những nghèo hèn, những thiếu thốn.

    Nhưng nằm giữa lòng Hà Nội vào một đêm của thời điểm năm 2000, tôi vẫn còn nghe thấy tiếng rao hàng trong ngõ hẻm của một ngày đông lạnh giá. Tiếng rao sà sã cố ngoi lên từ một làn hơi đã sắp tàn lụi đập vào cái tĩnh lặng của nửa khuya về sáng nghe ai oán như tiếng vạc kêu đêm, nó cũng ám ảnh giấc ngủ của tôi như tiếng guốc kéo lê trên hè phố mà Hồ My đã diễn tả cách đây một nửa thế kỷ. Nghĩa là vẫn còn có những cuộc sống lầm than ngay giữa lòng Hà Nội dù 50 năm trời cách biệt đã trôi qua. Đó là chưa kể tới những cảnh huống đau lòng khác mà xưa nay chưa bao giờ có, như bán máu trở thành một phương tiệân kiếm sốùng, bán thân xác cho đàn ông Đài Loan, Trung Quốc dưới danh nghĩa đi làm dâu xứ người và trong lòng của những thành phố sa hoa rực rỡ, có những kẻ đốt tiền bằng cả năm lương của người lao động để mua một trận cười.

    Như thế, những hình ảnh Cửa Ô xa của Song Nhất Nữ:

    Cửa Ô xa...
    Có nhiều bóng ma...
    Đi trong bê tha...
    Đi trong xênh phách
    Đi trong đói rách
    Đi trong lệ nhòa
    Thất thểu... la cà...
    Bóng ma... bóng ma
    ...

    ... nào có khác gì hình ảnh của những con người thất thểu đi trong bóng đêm của các thành phố bây giờ, ngủ dưới gậm cầu, chen chúc nhau dưới những mái hiên hay lang thang trên những đống rác cao ngút đầu để xăm xoi đào bới.

    Hà Nội vào những năm đầu thiên niên kỷ 21 còn nhiều bất công, nhiều chênh lệch, nhiều hoàn cảnh xót xa, não lòng hơn 50 năm trước. Những câu thơ của Nguyễn Quốc Trinh viết từ 50 năm trước bỗng trở thành những lời như vừa được sáng tác gần đây :

    Vì mải gò lưng kéo
    Cày cho kẻ khác no
    Chiều về nhai cỏ héo
    Chuồng hẹp nằm co ro!

    Tôi không hiểu tuổi trẻ Hà Nội bây giờ có ươm những giấc mơ làm đẹp xã hội như những tuổi trẻ Hà Nội thời 50 năm trước hay không? Họ bị chèn ép để không còn sáng tác được hay lòng họ đã lạnh tanh trước những biến đổi phũ phàng của thời kỳ kinh tế thị trường, hay vì cả hai?

    Nhưng dù là vì bất cứ lý do nào thì khi mở lại những trang sách cũ, tôi không khỏi bùi ngùi nhớ lại những con người của bao năm cũ. Thành phố xưa bây giờ đã có biết bao nhiêu thay đổi. Hồ Gươm xưa hẳn đã chứng kiến biết bao nhiêu vật đổi sao dời. Tôi mong mỏi thế hệ trẻ bây giờ đừng bao giờ lạnh tanh trước những nỗi bất công của đời sống, trước những hoàn cảnh thống khổ của con người, bởi vì thế hệ chúng tôi, vốn cũng mang nhiều xót xa, buồn bã nhưng bao giờ cũng ngước lên nhìn cuộc đời với ánh mắt tin tưởng, tin ở đất nước, tin ở con người, và dù trong hoàn cảnh nào cũng vẫn tìm mọi cơ hội để vươn lên.
    NHẬT TIẾN
    (Cali-Tháng 12-2002)

    (còn tiếp)
    Last edited by khieman; 12-15-2013 at 04:40 PM.

  3. #3
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    CHƯƠNG 2

    Thời điểm Sài Gòn giữa thập niên 60
    TẠP CHÍ “VẤN ĐỀ”
    ĐẶT VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA

    Tạp chí Vấn Đề xuất bản ở Sài Gòn, số ra Tháng 2 -1966 có nêu ra một chủ đề mang tên “Một vấn đề trọng yếu : Vấn đề Văn Hóa” để qua đó, tòa soạn thực hiện một cuộc phỏng vấn với một số nhân vật đang hoạt động trong ngành văn hóa như Thượng tọa Thích Minh Châu, Nhà văn Nguyễn văn Trung, nhà văn Nhật Tiến, Kịch sĩ Hoàng Trọng Miên, Giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch..v..v…

    Vấn đề mà tòa soạn tạp chí này đã nêu ra như sau :

    “ Chúng ta phải xây dựng, phát huy Văn hóa – Văn hóa theo quan niệm của chúng ta, những người bên này vĩ tuyến 17. Tất cả chúng ta đều đồng ý như vậy. Nhưng nếu những người trong cuộc- những người làm văn hóa nhiều khi cảm thấy bực bội, thiếu điều kiện, đôi lúc hoang mang, thì những người khác, kể cả chính quyền, khi nghĩ đến vấn đề văn hóa chắc chắn phải mang ấn tượng lạc vào địa đạo, một thứ chiến khu Đ.

    Chúng ta đã làm gì ? Chúng ta còn phải làm gì ? Những vấn đề nào phải được dành quyền ưu tiên giải quyết ? Phần việc nào là phần việc của chính quyền ? Có nên có một chính sách văn hóa, một kế hoạch hoạt động văn hóa ngắn và dài hạn, nơi đây tại phần đất tự do ?

    Chúng tôi nghĩ rằng vẫn phải tự chỗ bắt đầu, thâu thập ý kiến của nhiều người trong giới có thẩm quyền. Đó là ý nghĩa của cuộc phỏng vấn mà chúng tôi bắt đầu từ số báo này. Cuộc phỏng vấn sẽ tiếp diễn ở những số báo tiếp và sẽ đặt trọng tâm vào hai điểm: nhận định hiện tại và xây dựng tương lai. Hai điểm nêu lên như vậy sẽ không gò bó người trả lời vào những cương mục nhất định. Trả lời một cách tổng quát hay giới hạn vào vấn đề ở địa hạt chuyên môn của mình, người trả lời mang cảm tưởng đối thoại tâm tình. Những ý kiến nêu lên sẽ được tập trung và vô tư, sẽ được đúc kết.

    Và biết đâu…có thể một giải pháp sẽ được trình bầy. Giải pháp của các bạn, của chúng tôi, giải pháp của chúng ta.

    Dưới đây là hai câu hỏi dựa vào hai điểm nêu lên ở trên :

    - Nhận định về sinh hoạt văn hóa miền Nam.
    - Ý kiến về sự xây dựng và phát triển văn hóa miền Nam

    (Tạp chí Vấn Đề- Số Tháng 2-năm 1966)
    * ***

    Phần trả lời của NHÀ VĂN NHẬT TIẾN:

    - T­uy câu hỏi đề cập đến vấn đề văn hóa, nhưng chỉ xin trả lời thu hẹp trong lãnh vực sinh hoạt Văn học Nghệ thuật. Bởi vì bàn đến Văn Hóa thì miên man quá, sợ với cương vị một ng­ười viết tiểu thuyết như­ tôi sẽ không có đủ điều kiện mà nhận định toàn diện về một lãnh vực rộng lớn của Văn Hóa.

    Về sinh hoạt Văn học Nghệ thuật năm 1966 vừa qua, tôi có mấy nhận xét hoàn toàn chủ quan như­ sau:

    l) Nhận xét thứ nhất : là có sự thay đổi đáng mừng về phía độc giả. Nghĩa là độc giả năm 1966 đã chịu khó mua sách và đọc sách. Trong 10 năm sinh hoạt Văn học Nghệ thuật trở lại đây, chưa bao giờ có hiện tượng tác phẩm xuất bản chỉ trong vòng 2 tuần lễ mà đã đ­ược tái bản. Vậy mà năm vừa qua, có nhiều trư­ờng hợp như­ thế đã xẩy ra (tác phẩm của Nhã Ca, của Duyên Anh, của Phan Tùng Mai.. v.v.) Cuốn Đêm Dài Một Đời của Lê Tất Điều đã tiêu thụ 200 cuốn trong ngày đầu tiên phát hành tại một hiệu sách. Tác phẩm Vòng Tay Học Trò của Nguyễn thị Hoàng mở đầu cho loạt văn nghệ phẩm in dầy, bán đắt mà vẫn có độc giả tiêu thụ.

    Chính vì độc giả băt đầu chịu mua sách và đọc sách mà các nhà xuất bản đã hoạt động được rất đều. Như nhà Trình Bầy, Văn, An Tiêm, Lá Bối, Nhân Chứng, Mai Anh, Những Tác Phẩm Hay, Thứ Tư Tuần San…v..v…Phải chăng vì quá mệt mỏi trước tình trạng xáo trộn ghê gớm trong xã hội trước ảnh hưởng của chiến tranh mà độc giả quay về với thế giới tương đối thầm lặng hơn, tương đối còn đôi chút tươi mát hơn ngoài đời, ấy là thế giới tiểu thuyết ??

    Tuy vậy đó chỉ là một hiện t­ượng t­ương đối khả quan hơn so với những năm trước chứ chưa phải là một sự tiến triển đáng mừng. Bởi vì nhu cầu đọc tiểu thuyết văn nghệ chưa chiếm được một vị trí thiết yếu đối với độc giả. Nếu chịu khó quan sát tình hình xuất bản ở đây trong vòng mấy năm trở lại, người ta thấy một dạo thiên hạ đổ xô nhau đi đọc Kiếm hiệp. Truyện Chưởng của Kim Dung trở thành một cái mốt của tầng lớp trí thức trong những lúc trà dư, tửu hậu, hình như ai thiếu hiểu biết về vấn đề Chưởng này (như không biết tên nhân vật, không biết câu chuyện xẩy ra đang tới hồi nào, không thuộc tên vài thế võ bí truyền...v.v..) thì người đó trở nên lạc hậu và phát sinh cái mặc cảm thua kém, ngỡ ngàng.

    Rồi giai đoạn Chưởng qua đi, người ta bắt đầu đổ xô đọc Gián điệp mà dẫn đầu là loại sách Z28 với bút hiệu Người Thứ Tám, tên thực của tác giả là Bùi Anh Tuấn. Truyện Z28 không biết ăn khách đến độ nào mà chỉ trong một thời gian ngắn, tiểu thuyết gián điệp được tung ra tràn ngập, gây cảnh nhộn nhịp gấp mấy lần sinh hoạt tiểu thuyết văn nghệ. Mỗi tác giả lại khai sinh một tài hoa trong ngành gián điệp (bắt chước kiểu Z28) như N24, Z33, FA 007, U 42 v.v….

    Như­ thế, nhu cầu đọc sách và truyện của độc giả có vẻ thất thường. Nếu độc giả giã từ kiếm hiệp chuyển qua gián điệp, từ gián điệp trở về địa hạt tiểu thuyết văn nghệ như năm vừa qua, thì trong năm nay, chưa biết tiểu thuyết văn nghệ có đủ bản lãnh để giữ vững được lòng ham chuộng của độc giả hay không ?

    2) Nhận xét thứ hai : là khuynh hướng phản chiến hiện ra..
    ( Sở Kiểm Duyệt bỏ 1 dòng)
    ….nhất là những tác phẩm in trên các tạp chí hay rải rác trên mặt báo. Đề cập đến danh từ “phản chiến” lúc này nhiều ng­ười cho rằng đã phản bội sự hy sinh x­ương máu của anh em chiến sĩ ngoài mặt trận đồng thời đã chứng tỏ trình độ chính trị ngây thơ đối với thủ đoạn của C.S. Có lẽ cũng vì quan niệm như thế mà nhân viên phòng kiểm duyệt năm 1966 đã phải trải qua một năm làm việc mỏi tay và mệt nhọc. Có lẽ cũng vì sợ bị kết tội như thế mà trong thâm tâm ai cũng mong mỏi chiến tranh chấm dứt nhưng ít người lại dám phát biểu ra.

    Nhưng tôi nghĩ rằng quan niệm của văn nghệ sĩ đối với vấn đề này không chỉ nhằm vào đối tượng đơn thuần là những người đứng trong hàng ngũ ở bên này vĩ tuyến. Bởi vì khi đề cập đến chiến tranh, đến tàn phá, đến thương vong và những xác chết chôn vùi ở đồi núi hay đồng bằng, người cầm bút đã cố gắng thức tỉnh con người ở mọi phía, ở mọi bình diện chính trị, mọi mầu sắc tôn giáo, họ đứng trên lập trường nhân bản, dưới ánh sáng của lương tri mà nói lên tiếng nói của họ, với bên này, với bên kia, với mọi dân tộc trên thế giới để mong cho ánh sáng văn minh của nhân loại mau chóng soi tỏ vào khoảng đất đen tối và thê thảm nhất ở thế kỷ Hai Mươi này, đồng thời để cho những cái nhơ nhuốc đó khỏi tái diễn ở bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào đối với bất cứ dân tộc nào trên thế giới.

    Chiến tranh trên đất nước này có thể còn kéo dài, hay còn phải kéo dài. Người cầm bút không phải là những người có cái đũa vạn năng điều khiển đ­ược sách lược của hai khối lớn nhất trên thế giới hiện nay là Tự Do và Cộng sản để bắt họ phải làm như thế này hay thế kia. Nhưng dù ở hoàn cảnh nào, ở vị trí nào, ở mầu sắc chính trị nào thì người cầm bút cũng không thể cổ võ cho một cuộc chiến tàn sát, ở bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào, bất cứ vì mục đích gì. Cho nên, cái gì cần nói vẫn phải nói, cho dù tiếng nói của văn nghệ sĩ sẽ bị nhu cầu nhất thời của chính trị lên án và kết tội. Nhưng người văn nghệ sĩ vẫn tin tưởng rằng ở mức cuối cùng, tiếng nói của họ vẫn toàn thắng. Vì họ nói lên tiếng nói của lương tri, của nhân đạo, của quyền sống tối hậu của con ngư­ời.

    Cho nên, trong năm vừa qua, nhiều ng­ười cũng đã thất vọng không ít trước những lời cổ võ phải đánh mạnh, đánh lâu dài, đánh vài thế hệ nữa nếu cần của văn hào John Steinback, giải thưởng Văn chương Nobel 1966. Lời nói ấy nếu phát xuất từ một vị tướng lãnh, một nhà chính trị thì còn có thể chấp nhận được nếu đứng trên quan điểm của nhu cầu quân sự của họ, nhưng nếu lại được nói ra từ một nhà cầm bút lớn lao như J. Steinback thì quả là một sự mỉa mai, chua chát.

    Tuy vậy, người VN không lấy thế làm buồn lòng hay bực tức. Bởi vì dù là văn hào được giải Nobel như ông John Steinback, thì tiếng nói của ông cũng chẳng thay đổi được gì về đời sống tinh thần của người VN và tác phẩm của ông, nếu ông sẽ viết về chiến tranh VN sau mấy tuần thăm viếng VN, thì cũng chẳng nói lên đuợc gì nhân danh cho VN cả. Điều rõ ràng nhất là ông không phải người VN, ông cũng không sống nếp sống của người VN, ý nghĩ của người VN và ông đã ở VN quá ít, thì giá trị tác phẩm của ông sẽ chỉ có giá trị trên một phương diện nào đó mà thôi (chẳng hạn ông viết về người lính Mỹ ở VN thì được).

    Đã đề cập đến văn hào John Steinback thì không thể không đề cập đến học giả Hồ Hữu Tường, bởi ông Hồ Hữu Tường đã công khai viết thư cho John Steinback nhân danh một người cầm bút VN. Sự quan trọng của vấn đề này không phải là ở sự đấu trí hay đấu lý giữa hai người, nhưng chính là ở cuộc đối thoại của Hồ Hữu Tường với John Steinback đã được nhiều người chú ý, không những ở VN mà cả ở ngoại quốc nữa. Đáng lẽ nhân dịp hiếm có này, học giả Hồ Hữu Tường nên đặt vấn đề một cách có hệ thống mạch lạc hơn, rõ rệt, sắc bén hơn, nhưng ngược thế, ông lại dùng cách hành văn lòng vòng, kể chuyện con cà con kê hình như chỉ cốt kéo ra cho thật dài để phô trương cái tài viết nhiều, viết nhanh và uyên bác của mình.

    Kết quả, lá thư của Hồ Hữu Tường gửi John Steinback đã biến thành một bản khai sinh cho cho truyện dài “Người Mỹ không thầm lặng” (The unquiet American ) kiểu chơi chữ với cuốn The Quiet American của Graham Green. Trong khi ấy niềm hy vọng tin tưởng của lớp trẻ đặt vào kinh nghiệm và uy tín của Hồ Hữu Tường tiên sinh trong việc đối thoại với văn hào John Steinbach, những tưởng Hồ tiên sinh sẽ nói lên được một vài cái gì đặc sắc trước nhân dân thế giới trong cuộc chiến tranh ở VN mà rút cục niềm hy vọng và tin tưởng ấy đã trở nên tàn lụi một cách buồn bực.

    3) Nhận xét thứ ba : là vấn đề quy tụ văn nghệ sĩ thành một tổ chức độc lập, có uy tín vẫn là một vấn đề không giải quyết được trong năm 1966. Kiểm điểm lại thì vẫn chỉ quanh quẩn có mấy hội hoạt động một cách lu mờ. Trung Tâm Văn Bút VN vẫn mang cái sắc thái cố hữu của nó, nghĩa là hoạt động lững thững, đứng bên lề của sinh hoạt văn học nghệ thuật, hội viên thì đông, thực lực thì có nhưng động viên được mọi người tham gia vào công việc để làm nổi bật lên cái thực lực đó thì lại là một vấn đề khác.

    Tuy vậy cũng chẳng nên lấy làm lạ, bởi vì cụ Chủ tịch Văn Bút hiện nay (thi sĩ Vũ Hoàng Chương) vẫn cương quyết với lập trường trung thành với Hiến Chương của Văn Bút Thế Giới, nghĩa là Hội Văn Bút chỉ là nơi gặp gỡ của anh chị em văn nghệ sĩ để trao đổi kinh nghiệm sáng tác, trước tác, còn mọi hoạt động tham gia khác thì chỉ là công việc làm thêm. Mà Văn Bút VN thì cũng đã làm thêm được quá nhiều rồi như tổ chức Giải thưởng Văn chương, tổ chức Nói chuyện hằng tháng, ấn hành Nguyệt san Tin Sách. Trong khi ấy, những Trung tâm Văn Bút trên thế giới, lớn lao như Hoa Kỳ, Anh, Pháp ..v..v…nếu đem so thành tích thì còn thua xa Văn Bút VN, bởi vì một năm họ cũng chỉ ấn hành một tập kỷ yếu ghi những hoạt động của hội viên, và tập này được phát không. Như vậy, với quan niệm hẹp hòi ấy, hiển nhiên Trung Tâm Văn Bút VN hiện nay không phải là một cơ sở lý tưởng để có thể là một động cơ phát triển mạnh mẽ Văn học Nghệ thuật trước nhu cầu thiết yếu của dân tộc hiện nay, trừ phi đả thông được với cụ Chủ tịch Văn Bút cái vấn đề “hoàn cảnh sinh hoạt Văn học Nghệ thuật ở xứ người ta khác, và ở xứ mình khác, không thể lấy cái khuôn của người ta mà làm cái khuôn của mình được.”

    Năm 1966 người ta cũng nghe nói đến một tổ chức Văn học Nghệ thuật khác, đó là Hiệp Hội Văn Học Nghệ Thuật. Nhưng Chủ tịch là ai ? Chương trình hoạt động thế nào ? Đã làm được những gì ? Thì xin thú thực, về phần tôi, tôi chưa được biết rõ nên không dám lạm bàn.

    Một cơ sở khác nữa quy tụ được danh tính của môt số rất đông văn nghệ sĩ, học giả, ký giả cũng xuất hiện mạnh mẽ trong năm 66, đó là Hội Bảo vệ Văn Hóa Dân Tộc.

    Nhưng có lẽ vì bị trói buộc trong danh nghĩa “bảo vệ’ mà không có danh nghĩa “phát huy” nên hoạt động của hội chỉ nhắm vào trọng điểm đánh mạnh về phía văn chương đồi trụy, khiêu dâm, ý hẳn Hội quan niệm rằng sở dĩ tinh thần con người hiện nay xuống dốc thê thảm là đều do một nguyên nhân khiêu dâm, đồi trụy mà ra. Thiện chí của Hội thật đáng quý, cho dù quan niệm như thế thì quá hẹp hòi, nhưng có một hiện tượng sâu xa mà chúng ta nên lưu ý : Đó là vấn đề sử dụng danh từ đao to búa lớn mà lúc thực hành thì không xứng bao nhiêu với thực chất của danh từ. Về điều đó, nhìn qua thấy chẳng chết ai (chính phủ không đánh thuế) nhưng thật ra đã hủy hoại lòng tin tưởng và kỳ vọng của biết bao người có thiện chí muốn ủng hộ và đặt hy vọng vào việc làm của mình. Riết rồi cái môi trường sinh hoạt Văn Hóa ở đây biến thành một cái thùng a-xit, bao nhiêu lòng hăng hái, tin tưởng ném vào đều rã rời, tan biến cả.

    Ngoài ra, trong năm 1966 danh từ Văn Hóa Dân Tộc cũng gây sôi nổi không ít. Văn Hóa Dân Tộc là cái gì ? Nếu chỉ quan niệm Văn Hóa Dân Tộc là mấy điệu vũ nhạc mà người ta thường mượn của ban vũ nhạc cổ điển ngoài Huế mỗi khi cần tổ chức cái gì hay là chỉ có mấy điệu hò, điệu trống cùng với diễn viên ăn mặc có mầu sắc thôn quê như đeo yếm, mặc váy, áo dài chít khăn ….như thế thì quả là mỉa mai cho danh từ Văn Hóa Dân Tộc. Bởi vậy, trong năm qua còn nhiều thắc mắc của mọi người mà chưa được giải quyết thỏa đáng. Đó là những vấn đề:

    - Thế nào là Văn Hóa Dân Tộc ?
    - Nó ở đâu ? Nó làm sao ? Nó bị cái gì xâm phạm nên phải bảo vệ ?
    - Và bảo vệ thì bảo vệ thế nào ?

    Hy vọng qua năm 1967, Hội Bảo Vệ Văn Hóa Dân Tộc phát triển mạnh mẽ để đánh tan mọi hiểu lầm, mọi dư luận xầm xì một cách oan uổng trước thiện chí của quý hội viên của Hội và nhất là của quí vị sáng lập viên.

    4) Nhận xét thứ tư : là trong năm 1966, hàng ngũ văn nghệ sĩ vẫn mang nặng tính chất rời rạc, riêng lẻ của những năm về trước. Anh chị em văn nghệ sĩ không thấy vấn đề ngồi chung lại với nhau là cần thiết. Bởi vì họ quan niệm sáng tác là mục tiêu tối hậu của văn nghệ sĩ. Miễn là có tác phẩm xuất bản đều đặn là đủ rồi. Còn vấn đề bảo vệ quyền lợi tinh thần và vật chất của văn nghệ sĩ thì hầu như không ai dám mơ ước tới. Hình như tất cả đều đã tạo nên thói quen chịu đựng thiệt thòi như thế từ lâu rồi.

    Còn vấn đề phát triển văn hóa theo kế hoạch, theo đường lối thì hầu như đa số có cái tâm lý là khoán trắng cho chính quyền, mặc chính quyền muốn quan niệm thế nào là văn hóa, muốn phát triển văn hóa theo chiều hướng nào, không ai cần thấy phải góp ý. Mà hình như chính quyền cũng chẳng thâu góp ý kiến của ai, hoặc giả có nghe ngóng được một số dư luận thì người có thẩm quyền quyết định nếu thấy không hợp ý thì vẫn thi hành theo ý kiến riêng tư của mình. Chỉ đến lúc sự việc đã xẩy ra rồi, hậu quả mang lại không mấy thuận lợi, người ta mới tìm cách chống đỡ, bao biện để rồi kế hoạch chẳng ngã ngũ tới đâu, chỉ mang thêm nhiều xáo trộn vô ích (vụ trường Tây là thí dụ điển hình)

    Trở về địa hạt sinh hoạt Văn học Nghệ thuật, sự thờ ơ đóng góp ý kiến của văn nghệ sĩ vào vấn đề phát triển Văn học Nghệ thuật càng rõ rệt. Đặc biệt nhất là sự im lặng của văn nghệ sĩ trong vụ Chu Tử lên án Vũ Hạnh là cán bộ văn nghệ CS nằm vùng, phá hoại hàng ngũ quốc gia bằng cách phổ biến những tác phẩm văn nghệ tuyên truyền cho CS. Thật là động trời, động trời cả về phương diện là giả dụ lời tố giác đó có thật hay là những lời tố giác đó chỉ là chuyện chụp mũ CS. Bởi vì nếu những tố giác ấy là sự thật thì bằng cách nào Vũ Hạnh đã vận động để xin ấn hành được những tác phẩm đó, và bằng cách nào cho đến nay, sau lời tố giác của báo Sống, những tác phẩm đó vẫn được lưu hành ? Còn nếu lời tố giác ấy chỉ là luận điệu chụp mũ thì bằng hậu thuẫn nào tờ báo Sống có thể làm chuyện động trời như thế để đánh lừa mấy chục ngàn độc giả và hạ uy tín của một cây bút trong hàng ngũ của văn nghệ sĩ Quốc gia ? Phải chăng điểm này vẫn còn là một nghi vấn trong năm sinh hoạt Văn học Nghệ thuật 1966 ?

    5) Nhận xét thứ năm : Xin lấy làm nhận xét cuối cùng vì vấn đề thật miên man, còn biết bao nhiêu cái cần đề cập tới, không làm sao nói cho hết. Nhận xét này xin dành để lạm bàn qua cái chương trình tổng quát của Bộ Văn Hóa do BS Nguyễn Lưu Viên tuyên bố trong buổi phát giải Văn chương do Trung Tâm Văn Bút VN tổ chức tại Viện Quốc Gia Âm Nhạc, Sài Gòn.

    Theo lời BS Nguyễn Lưu Viên thì Bộ sẽ phát triển mọi ngành sinh hoạt Văn Nghệ như : thúc đẩy ngành Vũ, thiết lập sân khấu để phát triển ngành Kịch, tạo cơ hội cho văn nghệ sĩ sáng tác và trình diễn, lập Bảo tàng viện để sưu tầm và lưu trữ các sản phẩm Văn Hóa..v..v… Chương trình mang nhiều điều hấp dẫn và nghe sướng tai, nhất là anh chị em văn nghệ sĩ. Bởi vì trọng tâm của Bộ sẽ hướng về Văn nghệ hơn là Văn hóa. Thế cho nên, đề nghị với chánh quyền nên cho đổi quách tên thành Bộ Văn Nghệ hơn là Bộ Văn Hóa. Danh nghĩa có vẻ phù hợp với chương trình làm việc hơn mà lại không bị ràng buộc bởi những vấn đề quá to tát, nếu sau này chỉ có thi hành được chút đỉnh thì cũng chẳng ai moi móc, nói hơn nói kém gì được.

    - Tôi không dám lạm bàn về vấn đề đưa ra kế hoạch và đường lối phát triển Văn Hóa vốn là một công việc của tập thể hơn là của cá nhân. Ở đây tôi chỉ xin nói đến một khía cạnh vốn là một trong những nguyên nhân sâu xa làm ngăn cản công cuộc phát triển Văn hóa. Đó là sự phối hợp chặt chẽ giữa “phương tiện đầy đủ của chính phủ” với “nguồn năng lực dồi dào của những con người đứng ngoài chính quyền, với tư cách một công dân”

    Đúng như lời BS Nguyễn Lưu Viên đã nói, chính quyền chỉ có phương tiện và chỉ mang đến cho anh chị em văn nghệ sĩ phương tiện. Còn vấn đề dùng phương tiện ấy để phát huy mọi công tác văn học, nghệ thuật thì phải cần có sự đóng góp của anh chị em văn nghệ sĩ. Chẳng hiểu đó có phải là lời tuyên bố xuông xẻ trong một buổi tiếp tân hay không, nhưng dù sao thì đó cũng là một sự thật, một sự thật sẽ phải xẩy ra nếu chính quyền muốn phát triển văn hóa.

    Ngược lại, dù có khuynh hướng không ưa thích dính dáng đến chính quyền, nhưng muốn phát triển văn hóa, anh chị em văn nghệ sĩ không thể không nghĩ tới sự kiện là chỉ chính quyền mới có đầy đủ phương tiện và muốn cho cái phương tiện đó không bị sử dụng vô lý, phung phí một cách vô ích thì vấn đề tương quan giữa văn nghệ sĩ với chính quyền phải được đặt ra, và nên đặt ra trên căn bản một sự thỏa hiệp biết tôn trọng tính chất độc lập của văn nghệ sĩ. Nói rõ hơn, tôi vẫn nhận thấy cái tinh thần khoán trắng cho chính phủ làm công việc phát triển văn hóa là cần phải dẹp bỏ và văn nghệ sĩ phải tích cực hơn trong vấn đề tiếp tay với chính quyền trong nhiệm vụ phát triển văn hóa. Tất nhiên tiếp tay với chính quyền không có nghĩa là tình nguyện biến thành một thứ Công chức văn nghệ (xin đừng lầm với Công chức làm văn nghệ vì có thiều gì văn nghệ sĩ làm công chức). Biến văn nghệ sĩ thành “công chức văn nghệ” thì văn nghệ sĩ không còn giữ được cái danh hiệu tốt đẹp là văn nghệ sĩ nữa. Bởi vậy sự tiếp tay với chính quyền phải đặt trên một vài nguyên tắc căn bản. Đó là :

    - Văn nghệ sĩ tiếp tay với chính quyền nhân danh nguyện vọng chính đáng của dân tộc.
    - Văn nghệ sĩ không chịu trách nhiệm với chính quyền nhưng chịu trách nhiệm trước lịch sử.

    Khi phương tiện đã có, nhân sự dồi dào, có thiện chí, tất cả những vấn đề khác chỉ còn là chuyện sáng kiến và kế hoạch mà thôi.

    Kỳ sau : Ý kiến của LM Viện Trưởng Viện Đại Học Đà Lạt, của Kịch sĩ Hoàng Trọng Miên, và Giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch.
    Tạp Chí Vấn Đề * Tháng 2- Năm 1966
    (còn tiếp)

  4. #4
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    CHƯƠNG 3
    Thời điểm Sài Gòn Tết Mậu Thân - 1968

    Báo Bách Khoa, số 267, Tân Niên 1968,
    số đặc biệt về biến cố Mậu Thân

    NHỮNG MÓN NỢ TINH THẦN
    NHẬT TIẾN

    Trong những ngày Sài Gòn chìm trong khói lửa, quê hương ngụp lội trong thảm khốc điêu tàn, ngòi bút của tôi đã trở thành vô dụng. Tôi không sáng tác được gì, tập bản thảo truyện dài còn đang viết dở bỗng trở nên trơ trẽn, vô duyên lạ lùng. Còn sáng tác gì nữa khi mà biết bao nhiêu sự thật linh động cảm xúc gấp ngàn lần thế giới của tiểu thuyết đang xẩy ra đầy rẫy ở chung quanh mình. Chỉ cần chứng kiến, chụp bắt và viết lại một cách thành thực là có đầy đủ một tác phẩm có giá trị sâu xa về tất cả những khía cạnh tình cảm của con người : tình thương yêu, lòng hận thù, sự sợ hãi, đức tính kiên nhẫn, can đảm và mức chịu đựng đến không ai có thể ngờ nổi. Chính vì thế mà từ vị trí của một người viết, tôi trở thành một độc giả say mê của những cây bút phóng sự đăng đầy rẫy trên mặt báo trong suốt thời gian vừa qua. Họ đã lăn lưng vào nguy hiềm để hoàn tất những dòng chữ nóng hổi, chứa chan tình nước, tình người cho người đọc. ớ những giai đoạn biến chuyển đột ngột của đất nước, hiển nhiên các cây bút phóng sự đã đóng góp một phần không nhỏ vào guồng máy sinh hoạt của quốc gia. Ở vị trí của người đọc, tôi xin nhận ở các vị đó một món nợ tinh thần.

    Trong một thiên phóng sự viết ở vùng ven đô, một tác giả kể chuyện một đơn vị VC được lệnh phân tán mỏng vào nhà các dân chúng để kiếm đồ lương thực. Có ba anh cán binh vô nhà một đồng bào. Sau khi bị xách nhiễu để phải cho họ ăn uống no nê, chủ nhà vặn Ti-vi để theo dõi tình hình. Các chú VC bỏ cả súng một nơi để ngồi chồm hổm thưởng thức một trò giải trí tân kỳ mà từ thuở bé đến giờ chưa bao giờ được nhìn thấy. Hôm đó chương trình của đài lại có mục cải lương. Tên tuổi của đoàn Thanh Minh Thanh Nga vang dội ra tới tận mật khu mà lầân này các chú mới được chứng kiến. Thành ra người bàn tán om xòm, hoan hỉ cười nói ngả nghiêng nhiều nhất lại là các chú Việt Cộng. Bầu không khí nặng nề chết chóc bỗng trở thành bầu không khí ấm cúng của những gia đình miền Nam Tự Do. Thế rồi bên ngoài súng nổ, các đơn vị của cả hai bên lại lăn xả vào cuộc chiến để dành nhau từng tấc đất, từng mái nhà, từng khu phố. Nhung ít nhất là đã có ba kẻ dửng dưng đứng bên ngoài lề . Cải lương đã hấp dẫn hơn là chiến đấu trong một hàng ngũ phi chính nghĩa, phi nhân đạo. Và họ đã hồn nhiên rời bỏ cái hàng ngũ ấy như tâm hồn giản dị và hồn nhiên của họ. Mà không phải chỉ có ba người. Tôi tin là con số sẽ thật đông thật nhiều, nếu ai ai cũng có hoàn cảnh để được đánh thức khỏi giấc mơ hãi hùng mà từ bao lâu họ bị bịp bợm. Đối với người cầm bút ở xứ sở tự do thân yêu này, bổn phận của tất cả là phải giúp họ tỉnh dậy trong giấc mơ triền miên đó. Bằng những hình ảnh thật “người” như tác giả phóng sự ở trên đã làm. Bởi vì, đối.với những con người 1 bị mê hoặc ở bên kia hàng ngũ, chúng ta cũng đã mắc một món nợ tinh thần khi nhận lãnh sứ mạng của người cầm bút.

    Một nhật báo đã diễn tả cái chết của Trung tá Thiết giáp như một vị anh hùng của dân tộc, hào sảng hùng tráng và bi thương hơn cái chết của Trần Bình Trọng. Điều đó không ngoa chút nào, và ngôn ngữ của chúng ta còn thiếu sót để diễn tả lại những mối cảm xúc sâu xa của mọi người khi được nghe kể lại trường hợp cái chết cửa toàn gia đình người quá cố.

    Trong những ngày biến cố lớn lao của dân tộc, còn biết bao nhiêu cái chết hùng tráng, và thảm thương tương tự. Những anh chiến sĩ, những người cán bộ, những tu sĩ hiền lành, những ký giả, phóng viên, những bà mẹ, bà chị, người cha, người chồng... biết bao nhiêu kẻ đã ngã xuống, trong biển lửa ngùn ngụt bốc lên mù mịt quê huơng khốn khổ để bảo vệ xóm làng cứu giúp những người thân yêu, gìn giữ cho non sông này, cho đất nước này một đời sống đáng sống một lý tưởng tự do đáng tôn thờ. Còn những tâm hồn cao cả đó, còn những lòng hy sinh vô bờ, vô cùng vô tận đó, thì chúng ta còn, con cháu chúng ta còn nhìn thấy ánh sáng của một ngày mai tươi đẹp. Bởi vậy, đối với người cầm bút, bồn phận là phải đội lên những tấm gương chói lòa đề tất cả toàn dân chiêm ngưỡng, thắp sáng lên những ngọn đuốc của các anh lính, hào kiệt để mọi người cùng soi đường và hãy gìn giữ những tinh thần bất khuất ấy từ thế hệ này qua thế hệ khác để nuôi dỡng sức mạnh của dân tộc. Đó là một món nợ tinh thần mà người cầm bút phải trả cho quê hương xứ sở.

    ***
    Em ơi, không ở địa vị của em, làm sao tôi biết được em đau đớn ở những chỗ nào. Nhưng nhìn khuôn mặt thơ ngây vô tội của em, dúm dó lại vì chịu đựng, tôi thông cảm được nỗi đau đớn đang hành hạ trên thân thể của em. Dưới lần bông băng trắng toát là thịt vụn, là xương vỡ, là máu rỉ, là làn da yếu ớt run rẩy, quằn quại, tôi biết, tôi thấy và lòng tôi quằn quại. Thưa mẹ, thưa chị, xin ngừng giọt lệ xót xa, tủi nhục. Nhà cửa mẹ tan nát làm sao, con cái chị chết đớn đau thế nào, tất cả mọi người, tất cả nhân dân thế giới đều đã chứng kiến và đã thổn thức chịu tang với mẹ, với chị ở trong. Và quanh đây, trên giải đất tan nát này, ở các trường học, các bãi đất trống, các nhà thờ, chùa chiền, hay lều tạm trú, còn biết bao trẻ thơ khác, các bà mẹ bà chị, những bô lão già nua khác cùng mang chung một thảm họa: đớn đau về tinh thần, thiếu thốn về thể xác. Ôi ! Kể làm sao cho xiết được sự tan nát, thê thảm, xót xa cùng cực mà dân tộc ta, đồng bào ta phải chịu đựng sau cơn khói lửa thảm khốc, điêu tàn.

    Phải vẽ lại tất cả những hình ảnh ấy bằng tim óc và bằng nước mất. Để làm hành trang quí báu cho tất cả những ai muốn tìm đến ánh sáng của Tự Do. Để bồi dưỡng cho nửa phần đất bên này thêm phần tin tưởng ở chính nghĩa mà tất cả chúng ta đang cố gắng gìn giữ. Không làm được công việc đó, người cầm bút còn mắc một món nợ tinh thần, sau biến cố thê thảm vừa qua.

    Thôi xin hãy làm và ngừng kể lể. Bởi vì tới giai đoạn cực kỳ nghiêm trọng này, không ai là không mắc nợ quê hương. Cầu xin cho tất cả đều sáng suốt, tất cả cùng một lòng để hàn gắn những đổ vỡ, xoa dịu những đau thương và xua tan đi bóng tối triền miên đang ngự trị trên xứ sở.
    Nhật Tiến
    ( Báo Bách Khoa, số 267, Tân Niên 1968)
    ***

    Quê Hương Tôi, Đồng Bào Tôi
    ĐỖ PHƯƠNG KHANH

    Tôi vẫn thích xem những phim chiến tranh để mà sợ chiến tranh hơn, thích đọc thơ phản chiến để mà mơ ước ngày quê hương im tiếng súng, thích nghe nhạc T.C.S. để mà thấy thêm yêu chuộng hòa bình.

    Nhưng thật ra là dân đô thị tôi cũng chưa được thấu rõ chiến tranh. Đó đây trong trí nhớ cửa tôi chỉ thoảng qua một vài hình ảnh: Một người đàn bà đi buôn hàng chuyến dọc đường bị mìn. Cả khuôn mặt nát bấy còn lại vài cái hốc hay những mảng thịt bầy nhầy di động cố thì thào - Con tôi, các con ơi...

    Hoặc bà mẹ trẻ bế con mới sinh chạy hớt hải, tới khi nhìn xuống tay thì chỉ còn lại mớ tã lót bọc trong cái chăn, con đã lọt đi từ lúc nào, bà ta chạy nguợc lại thì ra dòng người chen chúc xô đẩy đã vô tình dẫm nát đứa nhỏ. Chỉ vài ba hình ảnh vụn vặt với cái tầm kiến thức về hiểm họa chiến tranh rất nghèo nàn của tôi như thế cũng đã đủ làm tôi rùng mình ghê sợ không muốn nhớ tới nữa . Và, như những người thích thanh bần, tôi cũng không muốn dồi dào hiểu biết về mặt này. Nhưng với chiến tranh, tôi không còn có quyền muốn hay không. Nó tàn nhẫn dạy dỗ, nhồi nhét cho tôi được hiều biết. Tôi đã biết. Và tất cả dân đô thị đều đã biết, biết rõ ràng những đau đớn, thống khổ, tang tóc do chiến tranh gây ra. Biết vào đúng lúc lòng đang phơi phới mừng xuân mới, biết vào lúc đang tung tăng trên đường đến chùa, đến nhà thờ, lúc đang điềm trang, đang nhận tìên lì xì và các cô cậu bé biết cả vào lúc đang nhí nhảnh trước gương làm điệu hiệp sĩ. Đổí lấy sự hiểu biết này bằng nhà tan cửa nát, bằng sinh mạng,bằng cánh tay, bằng cẳng chân, bằng máu, bằng bơ vơ xó chợ đầu đường ngay giữa ngày xuân.

    Đây chiếc xe lam chở người đàn bà và đàn trẻ mặt mũi nhọ nhem, trong đó có một đứa mặt xanh ngắt, máu đỏ thẫm đã ngả đen bê bết trên chiếc áo sơ mi mới tinh. Một cánh tay còn nát bấy lèo nhèo thịt lẫn với vải rách. Bà mẹ mặt mày ngơ ngác kinh hoàng nhìn tai nạn chụp vào đứa con yêu quí, chỉ còn biết giữ chặt lấy cánh tay chết của con như ước mong có phép mầu gắn lại. Kia, một ông mặc complet vừa chạy vừa đẩy chiếc xe Scooter mồm la hét inh ỏi. ông ta quá sợ không giám dừng lại để đạp cho nổ máy.

    Tất cả đều kinh hoảng tột độ. Họ chết, bị thương vào những giây phút bất ngờ nhất. Họ đã được yên tâm, được ru ngủ bằng lời hứa hẹn hưu chiến đầu năm. Họ đã được mời dự một bữa tiệc thịnh soạn, thiệp mời in long trọng trên giấy kim nhũ, yêu cầu thực khách mặc lễ phục, để được thết bằng một bữa tiệc có thuốc độc.

    Suốt những ngày khói lửa, tôi vô dụng đối với đồng bào. Tôi không giúp được gì khi được tin chồng chị bạn tôi chết giữa ngày mồng hai Tết, sau khi từ biệt chì để vào trại chiến đấu cùng đồng đội. Chị mếu máo:

    - Hôm qua tựi em hẹn nhau tối nay đến mừng tuổi anh chị. Thế mà anh ấy bỏ em rồi. Anh ấy mới còn ngáp đây mà đã chết rồi.

    Tôi không làm được gì cho chị giúp việc cũ của tôi. Nhà chị cháy, chị cuống cuồng cắp hai đứa con ba và hai tuổi ra đường, chạy được vào để bế nốt con bé ba tháng thì mái nhà sập xuống.

    Chị tức tưởi:

    - Cháu còn thấy nó dẫy trên võng. Tại đạn bắn rát quá nên mãi lúc cháy to cháu mới liều chạy ra. Cô ơi! Tội nghiệp nó quá, người nó teo lại bằng con gà quay mà bụng còn nguyên máu đỏ.

    Tôi không thể làm vơi nỗi đau khổ của họ. Những lời an ủi đều vô nghĩa. Một mớ quần áo cũ, chút tiền cứu trợ có nghĩa gì với nỗi đau đớn tột cùng kia. Tất cả chỉ để cho họ được an tâm phần nào trong khi sự đau khổ đang gặm nhấm lòng họ.

    Nhưng cũng có những hành động đẹp như bát nước mưa mát rợi tới vào cõi lòng héo hắt của họ. Đó là những cụ già tóc bạc còn lặn lội đi hiến máu, những giọt máu của người già thật quí đối với họ, nó giữ gìn chút hơi tàn cuối đời mà cũng cố san sẻ để giúp nhân loại. Những cô cậu học sinh mò mẫm đi các trung tâm cứu trợ để giúp đỡ cho đồng bào tị nạn, các anh lái xe taxi, xe lam, xe honda, gắn máy ngược xuôi đi chở giúp những người bị nạn chạy xa chốn bom đạn và những anh lính chiến, len lỏi mò mẫm tìm đủ mọi cách tới được đơn vị, để chống giữ và đẩy lui những tang tóc đau thương đang tràn vào để chụp thêm lên đầu dân chúng.

    Trong những ngày dài dặc lo âu và xúc động tôi thường nhìn những đứa nhỏ trong trại tị nạn mà đã mất cả cha mẹ một sớm một chiêu - những đứa trẻ chẳng hiểu tang tóc đã đến, còn nhe răng cười khi thấy thằng bạn trượt chân - nhìn bà mẹ mất con mà phải dẹp đau đớn trong lòng, chen lấn để giành cho những đứa còn lại một chỗ nằm kín gió, nhìn ông già ngồi cạnh miệng cống đăm chiêu quấn điếu thuốc sâu kèn, để mà tự hỏi:

    “Liệu tôi có nghĩ đúng khi cho là chỉ cần buông súng xuống là có hòa bình hay không ? Và còn có đời sống tự do hay không? Hay sẽ là những cuộc thanh trừng tàn sát đẫm máu hơn nữa”. Tôi nghĩ..., tôi nghĩ...
    *
    Tôi không còn muốn nghĩ gì nữa. Từ thuở bé, tôi được một ân huệ Trời dành một nguồn hạnh phúc vô tận, là hằng đêm thường mơ thấy những giấc mộng đẹp. Tối lại tôi đi ngủ với hy vọng gặp mộng đẹp. Tuy nhiên, đôi khi tôi gặp ác mộng. Đại khái là một bà già hình dung cổ quái nhe răng nhìn tôi, rồi cánh tay bà vơn ra muốn chụp lấy tôi. Tôi cố chạy mà không thể được. Những cơn ác mộng của tôi thường được kết liễu bằng sự cố chạy mà không được, tôi sẽ tỉnh bằng tiếng la của chính tôi.

    Cơn ác mộng đã đến với tất cả đô thị. Đến trong mùa xuân trong tiếng pháo nổ tưng bừng. Không ai có thể la để mong tỉnh lại. Chỉ còn ao ước ác mộng chóng qua gà những ngày thanh bình êm đềm cũ lại về.

    Bây giờ, tôi thấu hiểu, sự an vui là của trời cho. Nhưng phải tranh đấu để giữ lấy quyền tự do thụ hưởng sau khi tang tóc đau thương chụp xuống đầu chúng ta rồi, tôi chỉ còn bìết tha thiết ước ao tất cả chúng ta, những người hiếu hòa, làm được chút gì để mà an ủi cho bao người bỏ mình vì nền tự do, bao người tàn tật, bao vợ góa con côi còn lại trên đời.

    ĐỖ PHƯƠNG KHANH
    ( Báo Bách Khoa, số 267, Tân Niên 1968)
    (còn tiếp)
    Last edited by giavui; 09-04-2011 at 08:54 PM.

  5. #5
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    CHƯƠNG 4
    Thời điểm Sài Gòn - Sau 30-4-1975

    THÁNG TƯ NHÌN LẠI:
    Văn nghệ sĩ miền Nam
    trong những ngày đầu của chế độ mới

    (Văn Nghệ Sĩ Miền Nam Trong Những Ngày Đầu Của Chế Độ Mới, Việt Tide Phỏng Vấn Nhà Văn Nhật Tiến, Việt Tide số 146, tuần lễ 30 tháng 4 đến 6 tháng 5, 2004)

    Việt Tide: Sau khi quân đội miền Bắc tiến vào Sài Gòn, chính quyền cộng sản đã bắt đầu ngay nỗ lực tập trung kiểm soát văn nghệ sĩ, xin anh cho biết về giai đoạn này?

    Nhật Tiến: Thực sự là họ nắm rất vững sự sinh hoạt sáng tác của hầu hết các văn nghệ sĩ miền Nam do báo cáo từ những văn nghệ sĩ nằm vùng khi trước. Thí dụ như ở báo Bách Khoa thì có Hai Khuynh, Vũ Hạnh...chẳng hạn. Thành ra với tài liệu có sẵn, khi vào tiếp thu Sài Gòn, họ đã có danh sách phân loại văn nghệ sĩ rồi. Người nào bị đánh giá là có liên hệ mật thiết với Mỹ hay chính quyền cũ thì đã bị lùng bắt ngay trong đợt đầu (nhà văn Mai Thảo trốn thoát trong đợt lùng bắt này). Tuy nhiên, một số đông đảo khác thì sau này chỉ có giấy gửi đến tận nhà từng người gọi đi tham dự một khóa học tập gọi là “khóa bồi dưỡng chính trị dành cho văn nghệ sĩ”. Địa điểm ghi danh, trình diện là trụ sở của tòa đại sứ Đại Hàn khi trước.

    Việt Tide: Thế có đông người đến ghi danh không thưa anh?

    Nhật Tiến: Có thể nói là rất đông, vì khi nói đến văn nghệ sĩ thì không chỉ riêng có giới cầm bút mà bao gồm cả các ngành khác như nhạc, kịch, sân khấu, điện ảnh. Cho nên quang cảnh ghi danh trình diện rất đông đảo, tấp nập, sau này tôi đượïc biết số người tham dự thuộc đủ mọi ngành đã lên tới trên 400 người.

    Việt Tide: Ngày đầu tiên của khóa học đó như thế nào?

    Nhật Tiến: Tất cả được tập trung tại một biệt thự lớn ở góc đường Hiền Vương và Trương Minh Giảng, hình như là căn nhà của ông Nguyễn văn Kiểu, thân phụ ông Nguyễn văn Thiệu. Sau đó mọi người được phân chia theo từng nhóm Bộ môn như sân khấu, điện ảnh, ca nhạc, riêng bộ môn Văn và Thơ thì gộp chung thành một nhóm. Theo tôi nghĩ thì đáng lẽ khóa học phải được khai mạc ngay từ ngày đầu, nhưng chúng tôi rất ngạc nhiên khi thấy suốt trong ba ngày ròng rã, mọi người sau khi đượïc phát cho một xấp tài liệu quay ronéo, lại chỉ ngồi đọc, và dò lỗi in ấn hay đánh máy sai. Sau này, tôi nhận ra rằng hình như khóa học đã nhận đượïc chỉ thị từ Hà Nội bắt đình hoãn tạm thời để ban tổ chức điều chỉnh lại cơ cấu nhân sự điều hành khóa học. Lý do : Hà Nội không ngờ số lượng văn nghệ sĩ tham dự khóa học lại đông đảo như vậy và điều này, có thể khiến họ nhìn ra tầm mức quan trọng của khóa học, nên thay vì giao cho Thành Uỷ và đám văn nghệ sĩ nằm vùng ở Sài Gòn đảm trách, họ đã cấp tốc chuẩn bị đưa từ Hà Nội vào những nhân sự có vai vế hơn trong giới văn học của miền Bắc như Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Bảo Định Giang...v..v...

    Việt Tide : Nay thì anh có còn nhớ những ai đã đến tham dự khóa học đó không?

    Nhật Tiến: Đông lắm, nhớ không hết, nhưng có thể kể: Nguyễn Thị Vinh, Đỗ Phương Khanh, Phạm Thiên Thư, Hồ Trường An, Tuấn Huy, Sơn Nam, Thế Nguyên, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thụy Long, Lệ Hằng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Tường Linh, Lê Thanh Thái, Minh Quân, Hoàng Hương Trang .... Nói chung là tổ Văn, Thơ cũng phải trên dưới 40 người. Còn bên bộ môn Nhạc, tôi thấy có cả Ban Thăng Long như nhạc sĩ Phạm Đình Chương tức ca sĩ Hoài Bắc, Hoài Trung, Thái Thanh.

    Việt Tide: Tâm trạng của những người đến địa điểm tập trung đó theo anh thì như thế nào?

    Nhật Tiến: Thật sự thì chúng tôi chẳng kỳ vọng học tập cái gì hết, nhưng khi đã chứng kiến một số đông bạn bè đã bị bắt giữ trước đó thì mình cũng phải tới tham dự thôi. Và cũng có thể nói, thời gian tham dự khóa học cũng là cơ hội cho chúng tôi có dịp gặp gỡ nhau để bàn tán, chia xẻ những tin tức và những băn khoăn lo lắng về tương lai.

    Việt Tide: Thưa anh, khóa học diễn tiến như thế nào?

    Nhật Tiến: Lễ khai mạc khóa học được tổ chức tại hội trường của Bộ Thông Tin cũ, nằm trên đường Phan Đình Phùng, Sài Gòn. Sau đó là các Tổ bộ môn sinh hoạt riêng. Ở bộ môn Thơ-Văn, chúng tôi được nghe trình bầy những đề tài nói về Duy vật biện chứng, Duy vật sử quan, chủ nghĩa khoa học Xã Hội, đặc biệt là những vấn đề lập trường cách mạng, về đấu tranh giai cấp, về quan điểm mỹ học và nhiệm vụ của văn nghệ sĩ trong lãnh vực sáng tác. Bên cạnh những bài học có tính cách sách vở là những buổi thuyết trình của một vài cây bút gạo cội ở miền Bắc mà nội dung phô bầy những kinh nghiệm dấn thân của diễn giả trên con đường phục vụ xã hội Xã-hội-Chủ-Nghĩa. Chẳng hạn như nhà thơ Lưu Trọng Lư đã kể lại con đường phục vụ "cách mạng" của mình và kêu gọi văn nghệ sĩ miền Nam hãy mạnh dạn đi theo con đường mà ông đã trải qua. Khoá học cứ thế kéo dài một tháng ròng rã và chấm dứt bằng một màn gọi là "ra điển hình". Nói rõ hơn là Ban tổ chức khoá học đã chỉ định một số văn nghệ sĩ phải đứng ra "bộc bạch” về cá nhân sáng tác của mình. Mỗi người được chỉ định như thế phải lựa chọn 2 trong số tác phẩm đã in để trình bầy trước khóa học và phải trả lời những câu hỏi đại để như : bối cảnh nào, động cơ nào, ý đồ nào đã sáng tác nên tác phẩm đó. Tôi là một trong những người bị chỉ định ra điển hình. Ngoài tôi ra còn có nhà thơ Phạm Thiên Thư, nhà thơ Tường Linh, nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ, nhà văn Lệ Hằng...

    Việt Tide: Anh đã chuẩn bị gì cho sự xuất hiện trước khoá học ?

    Nhật Tiến: Trước khi ra "điển hình" chừng một tuần lễ thì Vũ Hạnh là người đã thông báo cho tôi biết về chuyện tôi đã bị chỉ định này. Anh ấy còn cho biết, trong số 2 tác phẩm "tự ý" chọn lựa, bắt buộc phải có cuốn Giấc Ngủ Chập Chờn. Theo một số bà con, hay bạn bè cũ từ ngoài Bắc vào cho biết thì cuốn này đã bị đánh giá là "cực kỳ phản động".

    Việt Tide: Anh vừa mới nhắc đến cuốn "Giấc Ngủ Chập Chờn", xin anh nói sơ qua về cuốn truyện đó như thế nào?

    Nhật Tiến: Giấc Ngủ Chập Chờn do tôi sáng tác và ấn hành vào khoảng năm 1969, nội dung viết về một vùng xôi đậu ở miền Trung ( hiểu như một vùng nằm giữa lằn ranh Quốc Gia và Cộng Sản, ban ngày thì do bên Quốc Gia kiểm soát, ban đêm thì du kích mò về làm chủ). Ở vùng đất đó, có những gia đình, anh thì đi lính quốc gia bên này, em thì theo đi du kích bên kia, dĩ nhiên là không tránh khỏi cảnh cốt nhục tương tàn. Trong thân phận của những người già cả của vùng đất đó, họ không hề quan tâm hay không hề biết gì đến vấn đề chính trị, và uớc vọng của họ chỉ đơn giản là muốn có một đời sống bình an, ấm no hàng ngày. Một cụ già, nhân vật trong cuốn đó, đã nói với đứa con trai đi theo du kích một câu như sau : " Mầy theo ai mặc cha mầy ! Mà điều đi với bên đây thì còn có đôi giầy, cái áo mà bận. Chớ qua bên đó chết trần chết truồng, ai thương !". Đấy, tâm tình người dân quê chỉ đơn giản có thế, nhưng chỉ như thế thôi cũng đủ bị lên án là bôi nhọ "chính nghĩa" của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

    Việt Tide: Thế thì ngày anh phải ra "điển hình" đó ra sao?

    Nhật Tiến: Tôi chọn hai cuốn: cuốn thứ nhất là "Giấc Ngủ Chập Chờn" theo Vũ Hạnh gợi ý và cuốn thứ hai là "Thềm Hoang". Và tôi cũng chuẩn bị rất kỹ phần phát biểu của mình, bởi vì theo tôi, đây là một cuộc trực diện công khai giữa một bên là những trí thức thượng thặng của miền Bắc và một bên là chính tôi (do bị chỉ định), coi như một trong những người đại diện cho giới cầm bút miền Nam.

    Việt Tide: Và họ đã hỏi anh những câu hỏi như thế nào?

    Nhật Tiến: Trước hết họ hỏi về động cơ, hoàn cảnh viết cuốn sách đó. Tôi đã trả lời đại ý: Tôi di cư vào Nam năm 18 tuổi. Khi đó tôi chưa có ý thức chính trị gì nhiều, nhưng trước mắt tôi là cả triệu người di cư từ miền Bắc vào Nam. Điều này cho thấy chủ nghĩa cộng sản đã phải có vấn đề. Tuy nhiên, ý định vào Nam của tôi chỉ thực sự bắt nguồn từ cái tính thích phiêu lưu của tuổi trẻ. Vả lại sau hai năm, sẽ có tổng tuyển cử và tôi sẽ có thể trở về quê quán của mình. Sau đó thì chuyện tổng tuyển cử không được thực hiện và tôi nhận ra rằng miền Nam dần dà hình thành một quốc gia được rất nhiều nước trên thế giới công nhận. Cho nên tôi đã phục vụ quốc gia này trong tư cách một công dân, và trong tư cách công dân, tôi đã viết tác phẩm đó cũng như nhiều cuốn khác. Một câu hỏi khác mà tôi còn ghi nhớ được là của ký giả Thái Bạch, thuộc hàng ngũ những người viết miền Nam. Anh này đứng dậy gằn giọng hỏi tôi: "Anh cho tôi biết, anh có liên hệ gì với tên phản động Nhất Linh?" Tôi chưa kịp trả lời thì chị Nguyễn Thị Vinh đã đứng dậy, chỉ mặt Thái Bạch và nói ngay "Anh muốn biết về Nhất Linh thì hãy hỏi tôi, vì tôi mới là người có nhiều liên hệ với nhà văn Nhất Linh, cả về mặt văn chuơng lẫn đời sống chính trị". Nói chung đa số anh chị em văn nghệ sĩ tham dự khóa vẫn còn giữ được tư cách của người cầm bút. Riêng tôi thì cho rằng cùng lắm thì số phận của mình cũng giống như những anh em đã bị bắt đợt trước thôi. Bản thân tôi và nhà tôi là Đỗ Phương Khanh, trước khi tham dự khóa học cũng đã chuẩn bị sẵn một cái túi xách tay, trong có bàn chải đánh răng, cục xà bông để sẵn sàng đi tù như mọi người khác.

    Việt Tide: Có một cuộc đấu khẩu rất sôi động trong khóa học về tương lai của nhà văn miền Nam. Anh có thể kể lại vụ này không?

    Nhật Tiến: Một nhà văn nữ miền Nam trong khoá học đã phát biểu tự nhận mình chỉ là đứa trẻ sơ sinh so với những nhà văn miền Bắc đã tham gia "cách mạng" trước đó hàng mấy chục năm, vậy thì cần phải có thời gian học tập để sau này sẽ được cầm bút trở lại. Ngay lập tức, Mai Quốc Liên một cây bút đến từ miền Bắc đã đứng dậy nói ngay " Khóa học này mở ra để các anh các chị hiểu biết về xã hội mới thôi chứ đừng trông mong vào việc cầm bút trở lại. Bởi vì miền Nam các anh các chị làm gì có văn hóa!"

    Việt Tide: Phản ứng của anh chị em văn nghệ lúc đó ra sao?

    Nhật Tiến: Phải nói là sôi sục. Trước tiên, Đỗ Phương Khanh đứng lên chỉ mặt Mai Quốc Liên và hỏi ngay "Anh vào trong Nam được bao lâu rồi, và anh đã đọc được bao nhiêu tác phẩm của miền Nam rồi mà anh dám nói miền Nam không có văn hóa?" Rồi nhiều người khác cũng nhao lên, cả tôi lẫn nhà văn Nguyễn Thụy Long đều đứng dậy. Không khí lúc đó rất sôi động. Những người điều khiển khóa học vội vã tuyên bố nghỉ giải lao. Khi ra ngoài sân thì Nguyễn Thụy Long có một người đi kè. Vũ Hạnh cũng kè tôi ra một góc sân và bảo: "Anh đừng có nóng. Anh phản ứng như thế người ta sẽ cho là anh phá hoại khóa học". Đến khi tái nhóm thì chúng tôi không thấy mặt Mai Quốc Liên nữa. Qua buổi chiều, Ban tổ chức cho biết Mai Quốc Liên chỉ là thành phần dự thính, không được quyền phát biểu. Vấn đề do đó cũng được bỏ qua đi. Chuyện này, nhà văn Tuấn Huy hiện ở Orange County cũng đã chứng kiến và anh cũng đã viết lại trong một hồi ký đăng trước đây trên nhiều báo ở hải ngoại.

    ***
    Thời điểm Sài Gòn Sau 30-4-75
    và Hải ngoại sau 1980

    HOÀN CẢNH SÁNG TÁC
    của anh chị em văn nghệ sĩ ở quê nhà
    ( Tạp chí KHAI PHÓNG, xuất bản ở Los Angeles – tháng 12-1981)


    Sau năm 1975 , văn nghệ sĩ ở quê nhà đã phải trải qua nhiều thời kỳ sống trong một bầu không khí đe dọa thư­ờng tlực. Trư­ớc hết là đợt tảo thanh sách báo cũ do chi Đòan Thanh Niên và Ban Thông Tin Văn Hóa thuộc các Phư­ờng, Quận tự ý tiến hành coi nh­ư một nhiệm vụ đư­ơng nhiên. Đó là thời kỳ phải nói là "quân hồi vô phèng " nhất, bởi vì trong công việc tiến hành tảo thanh sách báo, không có một chỉ thị nào rõ rệt, không có một tiêu chuẩn nào được đề ra, thậm chí cũng không có một quy định nào ­minh bạch để chỉ định những thành phần nào được quyền xông vào nhà các t­ư gia để khám xét. Chỉ cần một toán thanh niên, bất cứ là từ đâu tới, đeo trên cánh tay trái một sợi băng đỏ và một người trong đám tự xư­ng là đại điện cho Chi Đòan Thanh Niên Phư­ờng, không cần xuất trình giấy tờ chứng minh là cũng đủ khiến cho gia chủ phải mở rộng cửa cho họ ùa vào lục lọi khám xét, không chỉ ở trên kệ sách tr­ưng bầy những sách báo mà cả ở gậm gi­ường, hộc tủ, các xó kẹt, ở phòng ngoài, trong nhà trong, thậm chí đến cả phòng ngủ riêng tư­ cũng bị xộc vào bới lộn lung tung đủ thứ.

    Chính căn nhà của tôi đã chịu một cảnh khám xét như­ thế năm 1975 vào khoảng hơn một tháng sau khi miền Nam hoàn toàn rơi vào tay Cộng Sản. Họ đã ùa vào nơi trú ngụ của tôi, theo cung cách nh­ư tôi đã trình bày ở trên, với nhân số 25 người và trong suốt một buổi tối kéo dài từ 6 giờ chiều đến gần 12 giờ đêm. Mấy căn phòng trong căn nhà của tôi trong phút chốc bịến thành một đống rác tràn ngập hồ sơ, giấy tờ, sách báo vứt ngổn ngang bừa bãi, trên nền nhà, giữa lối đi, trong bếp, ngòai sân, không còn thiếu nơi nào là không vư­ơng văi những thư­ từ, tài liệu ghi chép và những bản thảo của những cuốn sách đã in hoặc đang viết dở dang ch­ưa hòan tất. Cuối cùng họ rút đi và mang theo của tôi trên 2000 cuốn sách đủ loại (chất trên một dẫy xe ba gác đậu sẵn ngoài cổng), kể cả những cuốn tự điển Bách Khoa bằng Anh ngữ hay Pháp ngữ. Nhưng tiếc xót nhất là toàn bộ những tác phẩm của giới văn nghệ miền Nam, toàn bản quí có chữ ký và triện son đề tặng của các tác giả, trong số đó có cả những thủ bút của Nhất Linh, Đông Hồ, Vi Huyền Đầc, Vũ Hoàng Ch­ương, Thanh Lãng, Hồ Hữu T­ường ... và nhiều nhà văn, nhà thơ khác.

    Cuộc khám xét và tịch thu một cách trắng trợn và vô luật pháp đó đã đem lại cho tôi một nỗi ám ảnh trong suốt những năm sau này khi còn sống dưới chế độ Cộng Sản. Nó dạy cho tôi một bài học bằng kinh nghiệm sống rằng không có gì có thể gọi là an toàn trong đời sống của một ngừơi dân dưới chế độ Cộng Sản. Đối vói giới văn nghệ sáng tác thì điều đó lại càng cần ghi nhớ hơn để không chủ quan khinh th­ường. Chỉ cần sơ sẩy ở một hành vi nhỏ, bỏ v­ương một bài thơ, một đoạn văn, một mẩu nhật ký có t­ư t­ưởng chống đối chế độ thì cuộc đời đang yên lành, trong một sớm, một chiều, có thể qua một ngã rẽ đen tối mới với tù đầy, khổ sai lao động dễ như­ người ta thay đổi một tấm áo.

    Tiếp theo đó là chiến dịch ruồng bắt các văn nghệ sĩ, ký giả được thực hiện vào đầu năm 1976. Đây là thời kỳ khủng bố gắt gao nhất đối với anh chị em văn nghệ sĩ. Một bầu không khí nặng nề đến nghẹt thở bao trùm trong giới cầm bút. Hôm nay gặp nhau mỉm c­ười gư­ợng gạo, ngày mai đã có tin về nhau, kẻ này bị bắt ban đêm, kẻ kia bị chận bắt ở đầu phố giữa ban ngày.

    Nhiều cuộc lục soát tại nhà các văn nghệ sĩ lại được tung ra, lần này không còn có tinh chất tự phát ở Quận, ở Ph­ường n­ữa mà do những bàn tay chuyên nghiệp của Sở Công An cấp Thành (do Thành Uỷ chỉ đạo ). Ký Giả Lê Văn Vũ Bắc Tiến đã t­ường thuật lại tỉ mỉ một cảnh khám xét này qua một hồi ký đăng tải trên một báo Việt ngữ ở hải ngoại gần đây. Kịch tác gia Minh Đăng Khánh, sau ngày ở tù ra cũng đã mô tả lại cho bạn bè nghe về xen Công an ùa vào nhà khám xét từ mảnh giấy nhỏ bằng 2 ngón tay trở đi cho đến những tập hồ sơ dầy cộm không bỏ sót một chi tiết nào. Chính lần ấy Nhà văn Nguyễn Thụy Long đang ngồi chơi trong nhà Minh Đăng Khánh, không hiểu do linh tính cách nào, mà mới chỉ thoáng nhìn ra cổng thấy lố nhố vài ba ng­ười, Nguyễn Thụy Long đã nhảy băng qua chiếc bàn kê ở bộ salon, chạy tuốt xuống nhà bếp rồi lọt qua cổng sau và vắt giò lên cổ .... chạy thoát !

    Sau này ngồi nhắc lại với nhau về kỷ niệm đó, chúng tôi vẫn mỉm c­ười khâm phục Trâu nư­ớc (bịệt hiệu trong làng văn nghệ của Nguyễn Thụy Long ) về cái thành tích nhanh như­ điện xẹt này. Vậy mà bọn công an Thành cũng mau lẹ không thua. Minh Đăng Khánh kể lại rằng vừa
    thoáng thấy bóng ng­ười vụt chạy qua bếp, mấy tên Công an đã đổ xô vào nhà và xộc thẳng ra sân sau. Chúng gặp chị Minh Đăng Khánh đang đứng ở đó.

    Một tên hỏi :

    "Đứa nào vừa chạy qua đây ?".

    Chị Khánh điềm tĩnh lắc đầu:

    “Làm gì có ai !".

    " Rõ ràng chúng tôi thấy có bóng người ở đây vụt ra !".

    Chị Khánh nhún vai:

    “Vậy là các ông lầm rồi,đó là ông bán ve chai vẫn ghé qua đây hỏi mua đồ cũ trong nhà"

    Không nắm được bằng cớ chính xác, mấy tên công an hậm hực quay lên và khởi sự một màn khám xét, bới tung tất cả nhữ­ng chỗ mà chúng nghi ngờ. Cuộc lục soát cũng kéo dài tới 4 tiếng đồng hồ ! Còn gì có thể cất giấu được ?

    Một yếu tố khác cũng cần phải ghi nhận là ở quê nhà, ai thoát khỏi cuộc ruồng xét kỳ này thì không có nghĩa là sẽ được buông tha mãi mãi. Ai đã bị bắt, bị giam cầm và rồi được thả ra cũng không có nghĩa là từ đó sẽ được yên thân dù sau đó không có thêm một hành động nào gọi là "chống đối chế độ."

    Nh­ư vậy tình cảnh của anh chị em văn nghệ sĩ ở quê nhà là tình cảnh cúa một đờí sống bị đe đọa bắt bớ thư­ờng trực, đêm đêm không bao giờ được nằm yên giấc, một tiếng chó sủa, một giọng nói to, một lời kêu cửa hay có tiếng động cơ xe hơi từ xa vọng lại gần rồi đi ngang qua trước nhà, tất cả đều có thể khiến anh chị em choàng tỉnh lắng nghe, có khi ngồi dậy tính toán dặn dò ng­ười thân để sẵn sàng ứng phó nếu qủa như­ lần đó chính là lần công an Thành đã tới đập cửa. Trong nhà mọi ngư­ời, lúc nào cũng để sẵn một cái túi xách tay, trong đựng một bộ đồ thay đổi, một cái áo ấm, một cái khăn mặt, một cục xà bông và một bộ đồ chảí răng. Có tiền nữa thì thêm vài gói thuốc lá. Ngần ầy đồ dùng sẵn sàng để đó, khi cần tới là có thể xách đi, khởi sự một cuộc đời phải rời bỏ gia đình yên ấm để nếm mùi khổ nhục của lao tù.

    Chuẩn bị xong thì chờ đợi. Ngày này qua ngày khác, đêm này qua đêm khác. Có lắm lúc mọi người đã chán ngấy cái cảnh phải choàng tỉnh, ngơ ngác thức dậy vào ban đêm khi nghe tiếng chó sủa, hoặc cân não đã quá căng thẳng về sự đợi chờ. Thôi thì cái gì đến sẽ phải đến, nhiều ng­ười đã cầu mong đàng nào cũng một lần, có bắt thì bắt sớm đi cho rồi, đầu óc sẽ khỏi phải chập chờn sống trong tình cảnh lo âu th­ường trực.

    Đó là lý do mà trong suốt 5 năm trời sống dư­ới chế độ C.S. tôi không hoàn tất được một bản thảo nào, dù chỉ là một truyện ngắn. Trong khi đó, bên ngòai xã hội với tất cả những đổi thay đột ngột và phũ phàng của nó, ng­ười làm văn nghệ có bịết bao nhiêu là đề tài để sáng tác. Thậm chí trong vài năm đầu sau 30 tháng 4 ,1975, những anh em chư­a bị bắt giữ, khi gặp nhau chỉ biết hỏi thăm về tình trạng gia đình của nhau một cách e dè. Trừ phi đã thân thiết, tin cậy nhau lắm thì mới dám bầy tỏ cho nhau về những nỗi niềm khao khát xây dựng một tác phẩm viết về xã hội mới. Có thể nói, ai cũng mơ ­ước sẽ có một ngày được cầm bút trở lại để nói lên tất cả những tâm tư của mình, nhưng hầu như­ ai cũng còn kiêng dè trong việc viết lách. Không phải vì không có một chỗ kín đáo để ngồi viết mà vì sợ những cuộc khám xét bất thần ụp đến, nếu đốt không kịp bản thảo thì chắc chắn sẽ lãnh những hậu quả vô cùng nặng nề, không chỉ riêng cho mình mà cả vợ con, gia đình đều bị vạ lây nữa.

    Rồi thì thời gian cũng trôi qua, những dữ kiện dầy đặc của đời sống cứ một ngày một chồng chất thêm lên, xô lấn lên nhau, khỏa lấp lẫn nhau, và tôi chợt phát giác ra rằng với trí nhớ ngày càng kém cỏi của mình, tôi không thể ghi gói được hết những biến cố, những trư­ờng hợp, những hoàn cảnh rất cần thiết dùng làm chất liệu cho tác phẩm, nếu không kịp thời ghi chép lại. Như­ vậy dù muốn dù không, tôi vẫn phải cầm bút trở lại không phải để viết một tác phẩm nhưng là để ghi gói những dữ kiện. Tôi ngụy trang cuốn ghi chép tài liệu ấy bằng một cuốn tập soạn bài giáo khoa môn Vật Lý cho học sinh các lớp của ngôi trường mà tôi đang dạy. Tôi chăm chỉ làm công việc ấy mỗi ngày. Có những biến cố tôi ghi lại hàng trang giấy. Có những dữ kiện tôi chỉ viết vắn tắt vài hàng. Lại có những chi tiết mang một nội dung liên hệ đến vấn đề an ninh sinh tử của những người khác thì tôi chỉ ghi bằng những ký hiệu riêng.

    Nhưng công việc này chỉ kéo dài được vài tháng thì vụ đánh t­ư sản bùng nở ra ở Sài Gòn với tất cả những chiến dịch khủng bố qui mô của C.S. Toàn dân Sài Gòn lại sống trong những ngày cực kỳ ngộp thở. Hầu hết những người buôn bán có máu mặt đều bị những toán thanh niên đóng chốt ngay trong nhà và ở lì vài ba, bốn ngày liền. Nội bất xuất, ngoại bất nhập để các toán công tác thi hành nhiệm vụ khám xét, đào bới, và kiểm kê toàn bộ tài sản. Nhiều gia đình tuy không thuộc diện bị kiểm kê nhưng vẫn bị các toán thanh niên ập vào nhà, chỉ giản dị với lý do : "Tình nghi chứa chấp đồ tẩu tán tài sản của giới thư­ơng nghiệp tư­ bản, t­ư doanh ". Anh chị em văn nghệ sĩ cũng lại phải đôn đáo tẩu tán sách vở của mình nếu còn cất giữ vì các cuộc khám xét lại có thể ùa đến bất chợt, chẳng nhắm vào một đối t­ượng nào duy nhất mà có thể là bất cứ nhà ai.

    Trong hoàn cảnh nhà ai cũng có thể bị ruồng xét như­ thế thì còn đâu là chỗ an tòan để cất giấu! Nhiều nhà tư­ởng đã giấu kín được mớ sách quí sau những đợt tảo thanh kỳ trư­ớc, này đâm ra mệt mỏi, thất vọng, chán chư­ờng, bèn đem tất cả những tài liệu còn cất giấu được cho vào bếp đun thay củi ráo trọi. Ở trong nhà của tôi, bên cạnh bếp lúc nào cũng có sẵn hai bao tải, trong đựng toàn những sách quí mà tôi ký cóp mua lại được ở chợ trời những năm sau này. Tôi chuẩn bị nếu có bị phát giác thì sẽ khai là tôi chỉ dùng những sách cũ này để đun bếp trong khi nhà không còn tiền mua than, mua củi.

    Ở trong xã hội C.S. con người phải dối trá hèn hạ như­ thế đấy, nhưng vì an ninh bản thân, vì sự ràng buộc với những người thân khác, đành là phải nhẫn nhục, và chẳng còn nói được cái gì khác hơn khi phải đối thoại với loại người không còn tâm địa con người. Trong khung cảnh khét lẹt mùi khủng bố như thế, tôi đành phải đem đốt tập ghi chú của tôi vì nhớ đến những cuộc khám xét tỉ mỉ tại những nhà đã bị kiểm kê, dù có ngụy trang cách nào cũng bị cán bộ moi ra bằng hết với những cuộc đục t­ường, nậy gạch bông ở nền nhà, đào bới từng thư­ớc đất, rỡ tung lên cả những chậu hoa ngoài bờ t­ường, thậm chí có nơi còn bị rỡ cả bồn cầu ra để khám xét nữa.

    Cho nên, phải đã trải qua những giờ phút kinh hoàng đó mới thấy rõ được những cố gắng phi thư­ờng của anh chị em cầm bút nào vẫn còn có thể âm thầm sáng tác được, vẫn cất giữ được tài liệu ghi chép và may mắn hơn nữa là đã móc nối được để chuyển ra bên ngoài những bản thảo còn nóng hổi tâm tư của mình. Tuyển tập thơ văn, nhạc “Tắm Mát Ngọn Sông Đào” của 7 tác giả miền Nam là một thí dụ điển hình cho những kỳ công đó.

    Tuy nhiên khi những áng văn, thơ ở quê nhà đã lọt ra được tới hải ngoại thì một vấn đề cấp thiết phải được đặt ra đối với giới văn nghệ hiện đang hoạt động ở bên ngoài. Đó là vấn đề làm thế nào vừa vẫn tiếp tục duy trì được tiếng nói của anh chị em ở quê nhà vừa không làm tổn hại đến sự an nguy của chính các anh chị em đó. Sự khai thác một cách vô ý thức tên tuổi của một cây bút còn kẹt lại chẳng những xô đẩy một người trở lại trong lao tù mà còn có thể kéo theo cả một sự khủng bố rộng rãi nếu như­ chúng ta để cho chính quyền CS nắm được những mấu chốt, những bằng chứng cụ thể. Trư­ớc đây, hầu hết báo chí ở hải ngoại đã đãng tải tập bút ký trong tù của nhà văn Phan Nhật Nam thể theo chính ước nguyện cáa nhà văn này. Đó là một bịệt lệ, nhưng không thể coi đó là một tiền lệ. Nếu ở địa vị của Phan Nhật Nam, ta phải hiểu rằng anh ấy đã đi một n­ước bài xả láng bằng tất cả cuộc đời của mình với sự kỳ vọng rằng thế giới bên ngoài sẽ đấu tranh triệt để để vận động cho anh ấy cùng các bạn văn đồng cảnh ngộ được giải thoát cuộc sống lao tù.

    Thử hỏi, những tập san, những tạp chí, những tuần báo đã từng đăng tải bút ký của Phan Nhật Nam, thì sau đó họ đã tiến hành công cuộc vận động đúng như­ ­ước muốn của anh ấy hay chưa? Thực tế đã cho thấy câu trả lời khá chua chát và buồn thay, sẽ chỉ riêng một mình Phan Nhật Nam sẽ phải trả cái giá vì sự l­ượng định không đúng mức của mình.

    Hỏi như­ vậy, không phải tôi phủ nhận những công trình vận động của một số Hội đoàn, Tổ chức, và Báo chí đối với trường hợp Phan Nhật Nam, nhưng điều mà tôi muốn đề cập đến ở đây là đáng lẽ công cuộc vận động ấy phải được phát động quyết liệt hơn nữa, liên tục hơn nữa, lâu dài hơn nữa tr­ước số phận của một nhà văn đã đấu tranh xả láng bằng cả cuộc đời của mình.

    Trong khi tr­ường hợp của nhà văn Phan Nhật Nam vẫn còn nguyên đó thì đã lại có ít nhất hai tờ báo ở ­miền Nam Cali tung ra thêm tr­ường hợp của một nhà văn khác còn ở quê nhà. Thậm chí, một trong hai tờ trên còn mở cả một mục chính thức lấy tên của nhà văn này để đăng tải những sáng tác của chính tác giả gửi ra từ quê nhà.

    Trong một cuộc họp mặt " thảo luận bàn tròn " giữa một số anh em cầm bút được tổ chức trong tuần lễ vừa qua, chúng tôi có thảo luận về vấn đề đó. Rất tiếc rằng một số anh em đã chỉ nhìn tr­ường hợp ấy như một cơ hội để mở một cuộc đấu tranh mới trên mặt trận văn hóa, nhưng trong khi đó thực chất ảnh hư­ởng của những cuộc đấu tranh vẫn theo cung cách đó như­ thế nào, thì chỉ cần nhìn vào trường hợp của anh Phan Nhật Nam ta cũng đủ thấy rõ. Một vài anh em khác lại nhìn tr­ường hợp thứ hai nêu ở trên như là biểu tượng của một "anh hùng " và chủ trương phải vinh danh "những anh hùng” đó, với lập luận rằng đặt ra vấn đề an nguy của một anh hùng thì là điều vô lý.

    Thật mỉa mai thay cho cái cảnh ngồi bình an ở nư­ớc Mỹ để nói chuyện an nguy của những bạn bè còn đang ở tại Sài Gòn.

    Bởi vì rằng vẫn còn có nhiều anh em hiện đang có tờ báo trong tay mà vẫn chủ trư­ơng để tên thật của tác giả đang ở quê nhà nếu một khi có sự đồng ý của các tác giả đó và bởi vì rằng trong cuộc " thảo luận bàn tròn " nêu trên tôi đã cố gắng thuyết phục mà không được, nên tôi đành sử dụng bài báo này như­ một lời biện minh thêm nữa cho lập luận của tôi để mong các anh em có báo chí trong tay suy nghĩ lại.

    Không phải rằng tôi là loại ng­ười chết nhát không dám tham dự vào những cuộc vận động, đấu tranh mới cho văn hóa và cho những anh chị em còn kẹt lại ở quê nhà và hơn nữa tôi lại hiện đang cư­ ngụ bình an ở Hoa Kỳ, tôi không có lý do gì để lo sợ cho an ninh bản thân của mình. Tôi cũng quan niệm rằng chẳng anh chị em cầm bút nào ở quê nhà lại muốn tự khoác cho mình cái nhãn hiệu anh hùng cả. Điều khao khát duy nhất của anh chị em là được cầm bút nói lên những suy tư­ của mình và gởi gấm được những tâm tư­ ấy tới đồng bào hải ngoại. Vì vậy điều chính yếu là ta phải duy trì được lâu dài cái tiếng nói quí giá đó dưới những bút hiệu khác hơn là bút hiệu thực sự của tác giả, cho dù tác giả vì lý do đã không đánh giá được thực lực của những nỗ lực bên ngoài nên đã đồng ý cho báo chí hải ngoại nêu tên tuổi đích thực của mình. Tư tưởng, cảm nghĩ, hoàn cảnh xã hội đều nằm trong nội dung của bài viết chứ không nằm ở cái tên của tác giả. Do đó không nhất thiết cứ phải nêu tên thật của người viết thì bài viết mới có giá trị. Vì thế tôi vẫn coi trư­ờng hợp của Phan Nhật Nam là một biệt lệ, nhưng không thể lấy đó làm tiền lệ cho những trư­ờng hợp khác.

    Song song với việc tiếp tục phổ biến những tác phẩm như­ loại “Tắm Mát Ngọn Sông Đào”, giới cầm bút cũng như­ báo chí ở hải ngoại cũng cần phải đặt vấn đề đấu tranh cho những anh chị em còn đang bị cầm tù một cách rộng rãi và liên tục hơn nữa. Sự thực thì giới cầm bút ở hải ngoại cũng đã có một thực lực rất đáng kể, nếu biết kết hợp trong một chiến dịch vận động ồ ạt, thống nhất, và liên tục thì sẽ thu được nhiều thành quả hơn.

    Chúng ta có cả một bó đũa, nhưng xin đừng tự biến mỗi người chỉ là một cây đũa riêng lẻ mà thôi .
    NHẬT TIẾN
    (còn tiếp)

  6. #6
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    .
    (tiếp theo)
    CHƯƠNG 5
    Thời điểm Sài Gòn -Cuối thập niên 70

    ÐÃ CÓ MỘT THỜI NHƯ THẾ !

    NHẬT TIẾN

    LTS Việt Tide số 209 tháng 7-2009 :

    Nhà văn Phan Lạc Tiếp, một thành viên nòng cốt của Ủy ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển (Boat People S.O.S Committee - thành lập ở San Diego từ năm 1980 do Giáo sư Nguyễn Hữu Xương làm Chủ tịch) dự tính từ năm 2005 là sẽ cho ấn hành một cuốn sách do ông biên soạn nhằm tổng kết những công việc do Ủy Ban đã từng vận động cho thuyền nhân từ năm 1980 cho đến khi Ủy Ban chấm dứt nhiệm vụ (1990). Cuốn sách mang tựa đề VỚT NGƯỜI BIỂN ĐÔNG, sẽ do Ủy Ban Cứu Người Vượt Biển, một tổ chức tiếp nối công trình của Ủy Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển có trụ sở ở miền Đông Hoa Kỳ, ấn hành. Trong tiến trình biên soạn, tác giả có mời tôi tham gia một bài viết vì tôi cũng là một thành viên của Ủy Ban đã giải thể, hơn thế nữa, còn là một trong những nhân chứng đã trở thành nguyên nhân để Ủy Ban được thành lập.

    Bài viết này đáng lẽ chỉ ra mắt độc giả khi cuốn VỚT NGƯỜI BIỂN ĐÔNG được phát hành, nhưng vào thời điểm cộng đồng VN đang sôi nổi tranh đấu chống lại vụ nhà cầm quyền Cộng Sản áp lực hai chính phủ Nam Dương và Mã Lai phá bỏ những tấm bia tưởng niệm thuyền nhân ở Pulau Bidong và Galang, nên với sự chấp thuận của hai nhà văn Phan Lạc Tiếp và Trương Anh Thụy (đại diện Ủy Ban Cứu Người Vượt Biển), tôi cho đã đăng tải trên báo Việt Tide trước đây và nay xin đưa vào tập tài liệu này, như một đóng góp vào những nỗ lực đấu tranh mà cộng đồng VN đã và đang thực hiện. Việt Tide

    Cho đến bây giờ, vào thời điểm 2005, con số vừa tròn để có thể nói là hai mươi lăm năm nhìn lại, tôi chỉ coi thảm kịch trên đảo Kra trong vịnh Thái Lan là một khúc phim cũ mòn đã bị khoả lấp bởi sức sống vươn lên mạnh mẽ của thuyền nhân tỵ nạn và bởi thời gian bao giờ cũng làm tăng lên sự phai nhoà của trí nhớ.

    Nhưng không lẽ một thảm kịch như thế, trong đó đã chất chứa không biết bao nhiêu nỗi đau thương, nghẹn ngào, cũng như đã chôn vùi biết bao nhiêu cái chết đớn đau tức tủi của những con người vô tội lại không còn được nhắc đến?

    Nếu mà như thế thì lịch sử đâu có lý do để tồn tại? Và nếu thế hệ mai sau muốn tìm lại dấu chân của các bậc cha anh, họ sẽ lấy gì để mà soi rọi? Rồi thêm nữa, những kẻ trong nhiều năm đã từng gây nên nguyên nhân sâu xa của thảm kịch thuyền nhân, gián tiếp xô đẩy hàng triệu con người ra biển cả chẳng lẽ lại được phủi tay, vỗ trắng trách nhiệm, dù chỉ là trách nhiệm tinh thần ?

    Chỉ mới nêu ra ngần ấy câu hỏi đã thấy dù là thuyền nhân hay chưa từng là thuyền nhân, cũng không ai muốn để cho những thảm kịch đã xẩy ra ở biển Ðông phải chịu số phận chôn vùi trong lớp bụi quên lãng của thời gian.

    Cho nên việc ôn lại những đau thương của thuyền nhân tỵ nạn trong muôn ngàn nỗi đau thương của bao nhiêu con người khác nữa kể từ sau biến cố 30-4-1975 sẽ chẳng phải là việc khơi lại hận thù, nhưng là chuyện cần thiết phải làm. Làm để dựng lại một mảnh gương lịch sử cho đời sau, để gìn giữ những chứng tích trước công lý ngõ hầu sau này trả lại công bằng cho mọi thành phần dân tộc trong ngày phán xét của lịch sử. Và thêm nữa, một mai, khi bình minh ló dạng trên quê hương, những tượng đài gian dối, những danh nhân biển sắt đầu đường bất xứng, những tên tuổi được ca ngợi một cách xảo trá trong sách vở mà trong nước đã in ...tất cả sẽ nhờ những công việc nhắc nhở này mà được sắp xếp lại. Tính chất vàng thau không thể vì nhu cầu chính trị nhất thời hay riêng tư mà lẫn lộn trong những trang sử của dân tộc vì chúng ta chỉ có thể trân trọng gửi lại cho con cháu những trang sử ghi chép sự thật mà thôi !

    Trong những ý nghĩ như thế, tôi hoàn toàn tán đồng và khích lệ các cựu thành viên của Uỷ Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển (Boat People S.O.S Committee) biên soạn và ấn hành cuốn sách mà bạn đọc đang cầm trên tay. Về phần cá nhân, tôi xin đóng góp bài viết nhỏ này trong cương vị của một trong những nhân chứng đã trở thành nguyên nhân để Uỷ Ban nói trên được thành lập.


    ***
    Sau 30-4-1975, tôi không có cơ hội đi thoát và đã ở lại Việt Nam.

    Trong hơn 4 năm trời ròng rã, tôi đã chứng kiến hay đã trải qua khá đầy đủ những hệ lụy của một con người sống trong cái mô hình xã hội do những người Cộng Sản tạo dựng nên. Ðấy là một xã hội hoàn toàn mất tự do, đầy dẫy những bất công phi lý và toàn bộ guồng máy điều hành đất nước đã được đặt trong tay những con người ngu muội, thiển cận, nhìn đâu cũng thấy kẻ thù và sẵn sàng áp đặt mọi thứ luật lệ bất công lên đầu các tầng lớp quần chúng để dễ dàng trấn áp.

    Cho nên cùng với hàng triệu con người VN khác, tôi đã xuống thuyền đi tìm Tự do !

    Nhà văn Phan Lạc Tiếp, vốn là một sĩ quan Hải Quân, đã từng ra khơi ở Thái Bình Dương, khi nhắc đến biển, ông không khỏi đưa ra những hình ảnh hãi hùng:

    “Có những đêm trời biển đen đặc liền nhau như một miếng thạch, sóng gió ầm ầm, con tàu dài trên trăm thước, có thể chở cả trăm chiếc xe GMC, khi tàu cỡi trên ngọn sóng, rồi bất thình lình rơi thõm xuống trũng sóng, hẫng đi, toàn thân tàu rùng rùng chuyển mình như có thể gãy ra làm đôi. Khi mũi tàu chúi xuống, lái tàu bị hổng trên không, con tàu chơi vơi, bánh lái nhẹ tênh, mũi tàu chao đi, mất hướng trong mấy phút. Những phút như thế, dù đã dự trù, chằng buộc, vẫn không thiếu những đồ vật rơi đổ. Ðôi khi dầu lộn nước, máy tắt, đèn tắt. Cả tàu tối om trong năm bảy phút. Dù biết mọi sự sẽ được sửa chữa, bình thường, nhưng không phải những người trên tàu không lo sợ. Vì thế tôi nghĩ rằng chỉ những người không hiểu gì về biển mới dám liều đi như thế. “

    Thế mà chúng tôi đã ra đi, không phải bằng con tầu dài trên trăm thước chứa nổi cả hàng trăm xe vận tải, mà trên những con thuyền mỏng manh dài không quá hai chục thước, chật ních người, chỉ ngồi bó gối cũng đã hết chỗ.

    Và cũng đã có nhiều người ra đi trong tình trạng như thế, không chỉ một lần mà ba, bốn lần, thậm chí cả trên chục lần. Không phải là họ không biết những hiểm nguy đang chờ đón họ ở ngoài khơi mù mịt. Nhưng họ chỉ có một tâm niệm duy nhất là trốn chạy khỏi cái xứ sở, cái quê hương của chính họ vốn đang nằm trong vòng kiềm toả của chế độ CS.

    Thế mới biết, khi đem lên bàn cân, chế độ toàn trị của Cộng sản còn khủng khiếp hơn nhiều. Bởi vì đi ra biển, người ta có thể chết trong khoảnh khắc, nhưng ở lại đất nước trong thời điểm đó, con người chỉ thấy cái tương lai sống lầm than và cái chết mòn mỏi kéo dài suốt cả một đời người.

    Và đúng như đã có thể dự đoán trước, đoàn người chúng tôi ra đi vào ngày 19 tháng 10 năm 1979 đã gặp và chịu đựng rất nhiều thảm hoạ. Bốn lần bị cướp biển lục soát lấy hết mọi vật dụng quý giá, 21 ngày mòn mỏi bị lôi kéo vào đảo Kra trong Vịnh Thái Lan sống đầy đoạ trong đói khát, tủi nhục, thường xuyên bị hành hạ cho đến khi được Cao Ủy Ty Nạn Liên Hiệp Quốc cứu ra.

    Tôi không bao giờ quên cái buổi tối hôm 18-11-1979, ngày đầu tiên sau khi chúng tôi được đưa trở lại đất liền bằng con tầu do ông Theodore Schweitzer, Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ tại Thái Lan thuê ra đón chúng tôi từ đảo Kra về tỉnh Songkhla, miền Nam Thái Lan.

    Tôi đã ngồi bó gối dưới ánh sáng của ngọn đèn néon mờ mờ toả xuống hàng hiên phía sau trạm cảnh sát Quận Pakpanang, lòng ngổn ngang trăm mối vì không biết rồi đây tương lai mình sẽ đi về đâu. Dù cơ thể đã suy yếu sau nhiều ngày gian khổ nhưng đầu óc tôi vẫn còn khá tỉnh táo để có thể nhớ lại những gì đã xẩy ra sau 10 ngày lênh đênh trên biển và trong 21 ngày sống trong vòng kiềm toả của đám hải tặc lui tới trên đảo Kra. Biết bao nhiêu nỗi niềm cảm xúc đã trào dâng trong lòng, nhưng trên tất cả hầu như vẫn là một sự hối thúc mạnh mẽ, thúc đẩy tôi phải tìm mọi cách thông báo chuyến đi hãi hùng của mình cho thân nhân, cho bạn bè và đồng bào trong nước được hay, vì vào thời điểm đó đang còn rất nhiều người chuẩn bị ra đi. Ðồng thời tôi cũng muốn đánh động lương tâm thế giới để những thảm kịch cướp bóc, hãm hiếp trên biển cả phải chấm dứt hay ít ra cũng có cơ may giảm thiểu.

    Dưới ánh sáng chập chờn và trong cái mái hiên lộng gió ấy, tôi đã viết bài tường thuật: “ Hành Trình Ði Tìm Tự Do Qua Ngả Thái Lan” mà sau này nó đã được công bố rộng rãi trên nhiều cơ sở báo chí, truyền thông và cũng đã được Uỷ ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển cho in trong cuốn Hải Tặc Trong Vịnh Thái Lan ấn hành năm 1981.

    Bài viết đã có trong tay, nhưng phổ biến nó thì phải kể tới sự hỗ trợ đầu tiên của những người bạn mà tôi rất thân quý: Nhà văn Lê Tất Ðiều và nhà văn Phan Lạc Tiếp. Họ chính là cái phao đầu tiên mà tôi bám víu để thực hiện được điều mình muốn làm, bởi nếu không có sự tiếp tay tận tình của họ, tôi chẳng thể một mình cáng đáng vì sau vài ngày tạm trú ở trạm cảnh sát, chúng tôi đã được đưa vào nhập trại tỵ nạn SongKhla, tài sản của tôi khi đó chỉ có một chiếc quần đùi đã rách mướp, một cái áo nỉ cộc tay và một đôi dép cao su một bên nhựa mầu xanh, một bên nhựa mầu đỏ, cả hai bên đều đã đổi mầu bạc phếch do tôi đã lượm được đâu đó ở ven rừng quanh đảo Kra. Như vậy thì làm sao tôi có phương tiện để giao dịch với thế giới bên ngoài. Cái áo nỉ cộc tay cũng là thứ tôi lượm được trên đảo mà nhân đây tôi xin phép được viết thêm đôi dòng để làm sáng lại một thứ tình cảm tốt đẹp mà tôi gọi là tình người.

    Hồi mới bị kéo vào đảo Kra, tôi còn mặc một cái áo len rất dầy, rất ấm, và nhờ nó, tôi đã trải qua được những đêm ngủ gần bãi biển, chẳng có mái che trên đầu, mỗi đêm trời mưa hai ba trận, phải chạy vào gốc cây rừng ẩn trú trong khi gió lộng thổi rào rào quất vào mặt những hạt mưa lạnh buốt. Thế rồi có một hôm tôi bị một thằng hải tặc nhìn thấy cái áo len còn tươm tất, nó liền bắt tôi lột ra để cho nó lấy mang đi. Những ngày sau đó, tôi lạnh run những lúc đêm về, nhưng may mắn sao, vào một lần đi quanh đảo, tôi bắt gặp cái áo nỉ cộc tay của ai đó vứt ngay trên bờ cỏ. Tôi đã lượm lên và mặc nó suốt những ngày còn lại trên đảo và cả hàng tháng trời sau khi nhập trại Songkhla, cho mãi tới lúc có tiền của thân nhân tiếp tế, tôi mới mua được cái áo ấm khác thay thế. Và cho tới khi đó, một vị phụ nữ đi cùng ghe đã tới gặp tôi. Bà cho biết cái áo nỉ ấy là của bà, bị hải tặc lấy đi, nhưng sau chắc mặc không vừa nó vứt đi và vì thế tôi lượm được, nhưng không rõ là áo của ai. Những ngày sống trên đảo, vị chủ nhân của cái áo ấy đã nhìn thấy tôi mặc, nhưng thấy tôi ốm yếu, trời lại lạnh, nên bà lẳng lặng nhường cho tôi mặc. Nay mọi sự đã ổn định, bà xin lại chiếc áo để giữ làm kỷ niệm. Tôi đã ứa nước mắt trả lại cho bà, và những ngày sau, tôi vẫn còn khóc được mỗi khi nghĩ đến tấm lòng nhường nhịn chia sẻ của bà, đã dành cho tôi ở trong cái hoàn cảnh mà ai nấy đều đói, lạnh và yếu đau hết.

    Tình người quả là thứ quý giá biết bao và không một thứ vật chất nào có thể so sánh được. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh hoạn nạn, nó lại là một thứ hiếm hoi, cái không hiếm hoi dễ gặp thì lại là sự dửng dưng, tàn nhẫn như thái độ của toán lính hải quân Thái Lan đối với chúng tôi, chỉ một ngày sau khi chúng tôi bị kéo vào đảo Kra.

    Ðấy là toán tuần tiễu của hải quân Thái đi trên chiếc tiểu đĩnh mang số hiệu 15, xuất hiện ở ngay ngoài khơi đảo Kra vào đúng một ngày sau khi chúng tôi đặt chân lên đảo. Họ đã dùng xuồng cập đảo để gặp chúng tôi, hỏi han ghi chép đủ điều và sau cùng hứa hẹn sẽ quay trở lại trước khi bỏ đi.

    Nhưng họ không bao giờ trở lại hết. Họ cũng chẳng màng đến việc thông báo cho Cao Uỷ Tỵ Nạn ở Thái biết có sự hiện diện của 81 thuyền nhân trên đảo Kra. Một sự tàn nhẫn và lạnh lùng đến độ khó hiểu !

    Trong đoàn người đi cùng thuyền với tôi còn có cặp vợ chồng ký giả Dương Phục và Vũ Thanh Thủy. Phục làm phóng viên của đài Phát Thanh Quân Ðội. Thuỷ làm ở đài Tiếng Nói Tự Do. Họ có nhiều đầu mối giao tiếp với các ký giả ngoại quốc, đặc biệt là ở Pháp. Vì thế, sau khi toán hải quân Thái Lan đã nuốt lời hứa, chúng tôi đành phải tìm một phương cách khác. Một lá thư ký tên chung Vũ Thanh Thuỷ và Nhật Tiến viết cho ông Felix Bolo, Chánh văn phòng đại diện Pháp Tấn Xã ở Bangkok đã được gửi tay mang đi, qua một ngư phủ có mặt trên một trong khoảng trên 50 con tầu hải tặc bu quanh đảo. Nội dung lá thư ấy viết bằng tiếng Pháp, tạm dịch như sau:

    Kính gửi :
    Ông Felix Bolo, Chánh văn phòng
    Pháp Tấn Xã (AFP)
    Bangkok - Thái Lan

    Chúng tôi ký tên dưới đây là VŨ THANH THỦY phóng viên Ðài Tiếng Nói Tự Do (VOF) Việt Nam, và NHẬT TIẾN, nhà văn miền Nam Việt Nam, Phó chủ tịch Trung Tâm Văn Bút VN, Hội viên Hội Văn Bút Quốc Tế (P.E.N Club International), thuộc nhóm 81 người tỵ nạn (có 20 trẻ em và 25 phụ nữ) rời VN đi tìm tự do, trôi giạt trên biển 10 ngày và tới đảo Kra trong vịnh Thái Lan (cách quận Pakpanang khoảng 6 giờ tầu chạy) từ hôm 29 tháng 10 năm 1979.
    Hôm nay, ngày 13 tháng 11, tức đã là ngày thứ 15 chúng tôi sống trên đảo này trong điều kiện khủng khiếp, khốn cùng: không thực phẩm, không thuốc men, tất cả những phụ nữ đều phải trốn tránh ở trên núi hay trong rừng vì sợ hãi bọn hải tặc Thái Lan. Cái chết vì sự đói khát, lạnh lẽo và sự bạo hành đã đe dọa chúng tôi từng ngày (đứa con gái của Vũ Thanh Thủy mới sinh được có 4 tháng).
    Xin hãy giúp chúng tôi.
    Xin hãy thông báo càng sớm càng tốt tin tức của chúng tôi tới tất cả các hãng thông tấn, tới Trung Tâm Văn Bút Thái Lan, luôn cả Hội Hồng Thập Tự Quốc tế.
    Xin đừng để chúng tôi chết trên đảo này trong sự bị bỏ rơi và khốn cùng.
    Xin thành thật cám ơn ông.
    Xin gửi lời chào thân hữu của chúng tôi tới ông JEAN CLAUDE POMONI (báo Le Monde) và tới cô MARIE JOANIDIS.
    Viết tại đảo Kra ngày 13 tháng 11 năm 1979
    VŨ THANH THỦY - NHẬT TIẾN

    Lá thư được gửi đi trong tâm trạng đợi chờ đằng đẵng, nhưng cũng chẳng bao giờ chúng tôi có được hồi âm. Có thể nó đã bị vứt bỏ ngay giữa biển khơi nên không tới tay người nhận, lòng tin tưởng của chúng tôi về tình người, vào khi đó, cũng vì thế mà phai nhạt dần.

    ***
    Nhập trại tỵ nạn Songkhla được ít ngày, ngoài thư từ thông báo cho nhà tôi còn ở VN (Ðỗ Phương Khanh vượt biển tháng 4-1980, tạm trú ở Pulau Tengah - Mã Lai), tôi đã liên lạc và báo tin về chuyến đi hãi hùng của mình cho một người bạn rất thân thiết mà tôi có địa chỉ, đó là nhà văn Lê Tất Ðiều, người đã và hiện đang còn định cư ở San Diego. May mắn thay, cùng cư ngụ ở một nơi với Lê Tất Ðiều còn có nhà văn Phan Lạc Tiếp, một người bạn học cũ của vợ chồng chúng tôi thời còn cắp sách ở Hà Nội mà sau 1975, chúng tôi không có địa chỉ liên lạc. Nhờ nỗ lực mau chóng và chứa chan tình cảm chia sẻ, các anh Lê Tất Ðiều và Phan Lạc Tiếp đã phổ biến rất rộng rãi bài tường thuật “ Hành Trình Ði Tìm Tự Do Qua Ngả Thái Lan”, đặc biệt là trên tờ Người Việt Cali của ký giả Ðỗ Ngọc Yến, tờ Việt Nam Hải Ngoại của Ðinh Thạch Bích, Tờ Ðất Mới của Vũ Ðức Vinh, tờ Văn Nghệ Tiền Phong của Lê Thanh Hoàng, tờ Ngày Nay của Lê Hồng Long, tất cả ở Hoa Kỳ, tờ Quê Mẹ của Võ Văn Ái ở Paris, Pháp quốc, tờ Ðộc Lập của Vũ Ngọc Yên ở Tây Ðức, tờ Chuông Sài Gòn của Nguyễn Vy Tuý ở Úc Châu, cùng nhiều báo Việt ngữ rải rác khắp nơi trên thế giới nữa.

    Nhưng điều may mắn hơn nữa, ở San Diego, ngoài Lê Tất Ðiều và Phan Lạc Tiếp cư ngụ, còn có đông đảo đồng hương với nhiều nhân vật có uy tín, có tên tuổi, như Giáo sư Nguyễn Hữu Xương, hoạ sĩ Văn Mộch, luật sư Ðinh Thạch Bích, dược sĩ Lê Phục Thuỷ, ông Nguyễn văn Nghi..v.v..và đặc biệt, có cả một tấm lòng hết sức nhiệt thành và tha thiết với người Việt Nam, đó là dịch giả người Hoa Kỳ, anh James Banerian nữa. Chính những nhân vật này cùng các nhân sĩ khác trong cộng đồng VN ở San Diego đã mau chóng thành lập một tổ chức đáp ứng lời kêu gọi khẩn thiết của chúng tôi.

    Uỷ Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển (Boat People S.O.S Committee) chính thức ra đời ngày 27 tháng 2 - 1980 với những hoạt động rất tích cực và hữu hiệu, mà qua đó các bản cáo trạng gửi đi từ hộp thư dành riêng cho trại tỵ nạn : P.O Box 3 Songkhla Thái Lan, ký tên Nhật Tiến - Dương Phục - Vũ Thanh Thuỷ đã được phổ biến rộng rãi, rồi những kháng thư thống thiết đã được Ủy Ban soạn thảo và gửi tới nhiều tổ chức cũng như nhân vật quốc tế, kể cả Quốc Vương và Hoàng Hậu Thái và đặc biệt là những vận động của Uỷ Ban (cùng với tiếng nói của tờ Quê Mẹ ở Paris và nhiều tờ báo Việt ngữ khác ở hải ngoại) mà nhiều con tầu Vớt Người Biển Ðông như Ile de Lumière, Akuna, Cap Anamur, Medecins Sans Frontière, Clara Maersk (Đan Mạch)..v..v.... đã liên tục ra khơi.

    Sự đáp ứng sốt sắng cùng những sự bầy tỏ chia sẻ những đớn đau mà chúng tôi đã phải chịu đựng của các đồng hương hải ngọai thực sự đã an ủi và làm ấm lòng chúng tôi, những thuyền nhân sống sót cư ngụ tại các trại tỵ nạn ở Ðông Nam Á, rất nhiều. Mỗi lần có đợt báo mới (Việt ngữ) vào tới trại, lòng chúng tôi rưng rưng không cầm được nước mắt khi được đọc những bản tin tường thuật các cuộc họp mặt, các cuộc mít tinh, các cuộc xuống đường ồn ào của đồng hương trên khắp thế giới mà nội dung chỉ nhằm mục đích đấu tranh cho thuyền nhân tỵ nạn. Nhiều cáo trạng của chúng tôi đã được đọc lại trong các buổi tổ chức này. Và đồng bào khắp nơi đã khóc cùng với chúng tôi qua những giọt nước mắt xót thương trước những thảm nạn có một không hai trong nửa sau của Thế kỷ Hai Mươi này. Nói vài lời tri ơn về những công cuộc này, tôi nghĩ là chưa đủ nhưng cũng có thể là thừa. Vì đã chung một dòng máu Việt, ai mà không thấu hiểu ý nghĩa của câu: “ Một con ngựa đau, cả tầu không ăn cỏ” .

    Những con ngựa đau ấy đã có một thời kỳ làm nhân chứng tố cáo mạnh mẽ trước dư luận thế giới, đặc biệt là trước chính phủ và nhân dân Thái. Tôi còn nhớ một ngày trong tháng 4 năm 1980, vào buổi trưa lúc mọi người trong trại đang dùng bữa thì tên tôi đã được gọi trên loa toàn trại để gọi ra trình diện tại trạm cảnh sát Thái.

    Thì ra chính phủ Thái đã cử một Trung Tá cảnh sát lặn lội từ Bangkok về Songkhla ở phía Nam, cách xa hàng ngàn cây số để điều tra hư thực về những bản cáo trạng mà chúng tôi đã công bố. Nào vụ giam giữ 157 thuyền nhân trên đảo Kra với nhiều nạn nhân bị xô xuống biển (tổng cộng có 5 con tầu vượt biên bị hải tặc kéo vào đảo trong lúc chúng tôi đang ở đó, trong số này có 1 thuyền chỉ còn sống sót đúng duy nhất có một người sau khi cả thuyền bị hải tặc xô xuống ở ngoài khơi cách bờ hàng trăm thước), nào vụ một thiếu nữ trốn tránh trong bụi rậm bị hải tặc tưới dầu phóng hoả xua ra khiến cho cô bị cháy hết cả một mảng lưng hàng mấy tháng liền không nằm ngủ trong tư thế bình thường, nào vụ một ông già bị 4 tên hải tặc trên đảo giữ chân, giữ tay và dùng tourne-vis đục một nửa hàm răng trên để lấy đi mấy chiếc răng vàng. v...v...

    Viên Trung tá cảnh sát Thái Lan mở hồ sơ chất vấn tôi đến đâu, tôi đều gọi được nhân chứng trong trại ra trực tiếp xác nhận đến đó. Cuối cùng thay vì vẫn còn giữ thái độ giận dữ vì chúng tôi đã “ bôi nhọ danh dự dân tộc Thái” mà ông ta có lúc ban đầu, sau khi nhìn rõ sự thực, chính ông cũng đã phải rút khăn tay lau nước mắt vì xót thương cho những hoàn cảnh quá phũ phàng mà thuyền nhân VN đã phải chịu đựng.
    ***
    Như trên tôi đã trình bầy, thảm kịch trên đảo Kra trong vịnh Thái Lan chỉ là một khúc phim cũ và đã bị khoả lấp bởi sức sống vươn lên mạnh mẽ của thuyền nhân tỵ nạn và cũng bởi thời gian bao giờ cũng làm tăng lên sự phai nhoà của trí nhớ.

    Sự nhắc lại những đau thương của thuyền nhân tỵ nạn trong muôn ngàn nỗi đau thương của bao nhiêu con người khác nữa kể từ sau biến cố 30-4-1975 là công việc dựng lại một mảnh gương lịch sử để cho các đời sau nhìn lại. Nó cũng là một thứ chứng tích sống động trước công lý để sự xét xử sau này, từ đó sẽ trả lại công bằng cho mọi thành phần dân tộc.

    Hẳn cũng vì những lý do đó mà trong tháng Ba năm nay (2005), hơn một trăm cựu thuyền nhân từ nhiều nơi trên thế giới đã đến Mã Lai và Nam Dương trong cùng một chuyến đi để thăm viếng mồ chôn những thuyền nhân xấu số và thiết lập ở mỗi nơi một tấm bia tưởng niệm. Thế mà chỉ trong vòng không đầy 2 tháng sau, nhà nước CS Việt Nam đã áp lực chính phủ hai nước này huỷ bỏ hai tấm bia đó, đến nỗi tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, một khuôn mặt trí thức đấu tranh cho tự do dân chủ hiện còn đang sống ở trong nước đã phải thốt lên trong một cuộc phỏng vấn do phóng viên Ðinh Quang Anh Thái thực hiện trên đài Little Saigon Radio ở Nam Cali qua điện thoại :

    “ Nếu thật sự có việc nhà cầm quyền Hà Nội đã áp lực với hai chính phủ Mã Lai và Nam Dương đập phá bia tưởng niệm, tức là miếu thờ của thuyền nhân Việt Nam ở Bidong và Galang, thì đó là một hành động ngu xuẩn và tàn bạo không thể tưởng tượng được.”

    Vào thời điểm tôi viết bài này, tấm bia ở Galang, Nam Dương đã bị đục bỏ đi rồi, còn tấm bia ở Pulau Bidong, Mã Lai thì đang ở trong vòng vận động hay tranh cãi, chưa biết số phận của nó sẽ ra sao. Nhưng sự việc đã cho thấy nhà nước Cộng sản VN dù đang kêu gào mở cửa, đổi mới, nhưng họ vẫn tiếp tục xuyên tạc hay bôi xoá lịch sử.

    Những tấm bia cụ thể có thể bị những âm mưu chính trị đục bỏ nhưng ai có thể xoá được tấm bia đã ghi sâu trong lòng của những người Việt Nam tỵ nạn?

    Thế thì cái trò ngu xuẩn đòi phá bỏ những tấm bia lưu niệm ở Pulau Bidong và Galang chỉ một lần nữa khẳng định thêm chính nghĩa mà thuyền nhân đã mang theo khi họ liều chết ra khơi.

    Ngoài những lý do kể trên, tôi cũng mong mỏi bài viết này, tuy nhỏ bé nhưng cũng đủ thay cho một nén hương lòng, thắp lên để tưởng niệm biết bao nhiêu con người đã vùi thây oan khốc trên biển cả, trong rừng sâu, trên đường họ trốn chạy một chế độ tàn bạo đang ở vào một thời kỳ mông muội nhất so với cộng đồng nhân loại.

    Garden Grove, California ngày 1 tháng 7 năm 2005.
    NHẬT TIẾN
    (còn tiếp)
    .

  7. #7
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    CHƯƠNG 6

    Sinh hoạt văn hoạt Văn Học Nghệ Thuật
    ở hải ngoại
    Thời điểm thập niên 80
    ***

    Nhật Tiến vẫn đứng ở ngoài nắng

    Mai Thảo




    Một buổi chiều Sài gòn, ít ngày sau khi 30 tháng tư 1975,ngồi sau chiếc xe gắn máy của Duyên Anh, cùng tác giả Ngựa Chứng Trong Sân Trư­ờng dạo quanh một vòng trên những phố phường tan hoang của thành phố vừa đổi chủ, tôi bỗng nhìn thấy Nguyễn Thụy Long trên một khúc vỉa hè ở khu đại học Duy Tân. Long ngồi sau một cái quán lộ thiên mới mở, như hàng ngàn cái quán lộ thiên mọc lên như nấm ở Sàigòn lúc bấy giờ. Tác giả Loan Mắt Nhung đang nhậu, mặt mày đỏ xậm, kính trắng dầy cộm. Và cạnh đó, là một quán hàng khác, với Nhật Tiến, Nhật Tiến không nhậu, không nhậu bao giờ, đang lúi húi với một chậu nước và một chồng bát đĩa nhớp trước một gốc cây.

    Cái cảnh tượng đập vào mắt tôi lúc đó, về hai cái quán liền sát cùng trước một vỉ tường thấp chạy dài, là cái cảnh tượng của một đối nghịch hoàn toàn. Mang chung sự thất thủ của văn nghệ gác bút ra đường bán quán trước hoàn cảnh mới, cái quán của Nguyễn Thụy Long với những xị đế ngổn ngang trên mặt bàn và mấy người khách hàng trẻ tuổi cùng ngất ngưởng như Long, hiện rõ vẻ bụi đời anh chị. Cái quán của Nhật Tiến khác hẳn. Nó lành mạnh hơn và cũng gia đình hơn gấp bội, với những đĩa rau muống chẻ nhỏ đặt ngay ngắn, bên cạnh là một chảo mỡ sôi bốc khói xanh um, chị Nhật Tiến má hồng cái củi lửa chiên những cái bánh tôm vàng ngậy và đứa cháu lớn, nơ cài mái tóc, váy xếp chững chạc, đang phụ một tay với ông bố nhà văn.

    Nhìn Long một bên, Tiến một bên, cùng đã lăn xả ra với sương nắng thời thế với gió bụi hè đường, cũng đã trở thành hai ông chủ quán tài tử bất đắc dĩ, mà quán bạn là quán bạn, quán tôi là quán tôi, bạn anh chị bụi đời, tôi gia đình nghiêm chỉnh, tôi đã nhìn thấy một lần nữa, và lần đó là lần cuối cùng, điều tôi yêu thích và tự hào nhất cho văn nghệ miền Nam 20 năm, là cái trạng thái đa diện và đa dạng không bao giờ đồng dáng và đồng tính. Đó là cái thế giới văn nghệ của mỗi người một trời mình, mỗi kẻ một biển mình. Đó là vùng đất đai văn nghệ của mỗi người một cõi bờ, mỗi người một sông núi.

    Cái không đồng dáng không đồng phục nơi mỗi người trước bàn viết cũng như trong đời sống ấy, lại là điều văn nghệ miền Bắc đổ khuôn và con số thù ghét nhất. Và bởi vì thù ghét nhất nên muốn triệt hủy nhất. Đó cũng chính là nguyên nhân của đại nạn đã tới với mọi ngành văn học nghệ thuật muôn hình nghìn vẻ của ta. Và đương nhiên đại nạn ấy cũng đã đến với Nguyễn Thụy Long và Nhật Tiến.

    Nhớ hôm đó, tôi và Duyên Anh đã ngừng xe lại. Đã vào ngồi xuống mấy cái ghế đẩu thấp. Đã lên tiếng ca ngợi cái tinh thần quả cảm của gia đình Nhật Tiến, hàng ngày từ thật xa cổng xe lửa Số Sáu xuống, vui vẻ hội nhập được tức khắc vào nếùp sinh hoạt mới ở quanh mình. Nhớ hôm đó, chúng tôi đã ăn ủùng hộ Thềm Hoang Quán mỗi người một đĩa bánh tôm, rất ngon, và tôi đã hỏi đùa Nhật Tiến:

    - Rửa bát thạo ngay. Giỏi nhỉ?

    Và Nhật Tiến đã cười, nụ cười bình thường chừng mực, nụ cười hơi già trước tuổi một chút của một nhà giáo. Nhật Tiến bao giờ cũng trước hết xác nhận mình là một nhà giáo:

    - Giỏi quỷ gì. Việc phải làm thì phải làm. Để cho ai đây.


    ***

    Suốt thời gian những năm sau, buổi chiều hè đường Duy Tân hôm đó thường hằng trở lại trong trí nhớ tôi. Mỗi lần nghĩ đến Nhật Tiến ở xa. Mỗi lần nghe nói về Nhật Tiến. Trở lại, thời kỳ tôi nằm ẩn ở một xóm nhỏ bên quận Bình Thạnh, nghe nói Nhật Tiến cùng dự một khóa học tập chính trị với Hoài Bắc, Thái Thanh, Lệ Hằng và Nguyễân Thị Hoàng. Khi ở Tây Bắc, được tin Nhật Tiến đã cùng gia đinh vượt biển. Khi nghe Ko Kra đảo quỷ. Khi đọc Songkhla trại tù. Khi thấy bản văn đầu của Nhật Tiến gửi sang từ đất Thái. Lúc nhận được bạch thư cứu nguy người vượt biển, cáo trạng gửi đi cùng khắp thế giới về c­ướp biển Thái Lan. Và mới đây chuyến đi âu Châu của Nhật Tiến. Và vừa đây, một buổi trưa chủ nhật, đến gặp tác giả Thềm Hoang trong ngôi nhà mới dọn đến của gia đình ông ở đường King, một khu vực yên tĩnh của thành phố Santa Ana.

    ***

    Ba giờ chiều. Nắng cuối năm có hơi lạnh lùa vào từ một triền núi xanh thẫm ở xa xa gợi nhớ tới đỏ au rạo rực những gò má thiếu nữ Đà Lạt những mùa thu về trên cao nguyên và thông rừng đất nước. Ngôi nhà thấp. Thảm cỏ trên lối vào. Cửa ga-ra mở rộng. Căn phòng khách, hai họa phẩm lập thể lớn treo tới sát trần ngó xuống tấm hình trẻ măng tươi cười của người đoạt Giải Thưởng Vãn Chương Toàn Quốc 1961, tấm hình đánh dấu thời kỳ chủ bút Thiếu Nhi, thời kỳ giám đốc Huyền Trân. Mặt bàn, chân ghế bừa bộn sách báo, tài liệu và những xấp photocopie bản thảo, là phương cách cất giữ từng dòng chữ viết ra cực kỳ cẩn thận ở Nhật Tiến. Chuông điện thoại reo. Thấp thoáng một bóng con gái. Đứa cháu chiều nào nơ cài mái tóc , váy xếp chững chạc ngồi phụ bố một tay dưới gốc cầy Duy Tân, đã thiếu nữ và đang quay lưng điện đàm với bạn. Rồi Nhật Tiến, tóc ngắn, kính trắng, rắn rỏi từ một phòng trong nhanh nhẹn đi ra.

    Một tách trà nóng. Ông tới muộn vậy. Và trong khi Nhật Tiến chọn vài tấm hình cho in trong phần chân dung, tôi nhìn ngắm người bạn đã có những hoạt động tích cực mạnh mẽ nhất trong bọn chúng tôi từ ngày tới Mỹ. Bảy năm đã trôi qua. Bảy năm thân thế tử sinh, xấp ngửa hình hài, kín trùm giông bão. Bảy năm của ở lại, của lên đường, của gặp nạn, của tới bến. Mỗi chặng, mỗi đoạn của hành trình một đời là một tầng đầu, một tầng hai địa ngục.

    Nhưng bản năng tồn tại và khả năng phục hồi ở Nhật Tiến thật mạnh, khiến so với ở nhà thấy ông cũng chẳng đổi thay gì mấy. Như những người có một tầm vóc nhỏ nhắn, rằn rỏi, lại sống một đời sống hàng ngày rất lành mạnh chừng mực - điều nầy thấy thật rõ ở người bạn thân của ông là Lê Tất Điều - Nhật Tiến chưa hề bị khối đá tháng ngày đè nặng, vẫn ở giữa vùng trời sáng láng nhất của tuổi trung niên. Hèn nào đời sống vẫn băng băng, thế sống vẫn lấp lánh, dáng sống vẫn mũi kiếm, những hoạt động nhiều mặt vẫn thật đều thật khỏe. Ông nói lát nữa đi họp. Sẽ có bài thuyết trình ở hội nghị giáo giới. Ông thuật vừa ở Sacramento về, kêu gọi cứu nguy người vượt biển, tố cáo tệ nạn hải tặc - Nhật Tiến vừa rời khỏi Songkhla - rồi lại hoành hành dữ dội ở vịnh biển Thái Lan. Những việc làm khác, không nói, chiếm hết thời giờ, lấp đầy được cái khoảng trống vĩ đại mọi người đều ít nhiều cảm thấy về ngày tháng trên xứ sở này. Sống và viết. Đi và thuyết trình. Đến và hội nghị. Trở lại và lên tiếng. Hai trăm trang bạch thư. Một trăm trang cáo trạng. Thơ nói sẽ trở về dòng sông xa. Truyện kể những khốn cùng xã hội. Tiếp tay cho con tàu Akuna. Đặt lại vấn đề in lại sách. Một con người toàn phần của cộng đồng. Một tham dự thường trực với tập thể. Tiếng Kèn đã in ra. Sắp in tiếp Mồ Hôi Của Đá. Hôm qua, theo anh em Khai Phóng đi cắt cỏ mướn trong những khu vườn Beverly Hills, vầng trán cháy nắng. Chủ Nhật chăn đoàn sói con đi cắm trại, cái khăn vàng ở cổ, hướng đạo từ ngày xưa, vẫn huynh trưởng bây giờ.

    ***

    Đó Nhật Tiến hiện giờ, Nhật Tiến lưu vong, Nhật Tiến ở Mỹ. Nhật Tiến mà Võ Phiến: "...hắn còn viết được khá lắm ông ơi", mà Đỗ Quý Toàn: "...hắn tới rồi thúc đẩy mọi người cùng phải viết". Nhật Tiến của lát nữa ra khỏi nhà đi họp, chiều tối mới về, sáng ngày mai lại cắt cỏ dưới nắng, ngọn đèn bàn viết sáng mãi tới khuya cho bài tham luận phải hoàn tất đêm nay.

    Tôi ra về, cho Nhật Tiến đi họp. Tác giả Thềm Hoang đã ra xe: "Hôm nào ông tới đây ngủ lại một đêm, mình trò chuyện".... "Ừ, hôm nào sẽ tới".

    Bốn giờ chiều. Cái nắng cuối năm của Santa Ana vẫn trải lụa trên những lòng đường yên tĩnh. Cái nắng càng về chiều càng tuyệt đẹp. Cái nắng rất mùa thu, lả lả, ngây ngây, châm kim vào da thịt, như từ một tứ thơ Đinh Hùng thả xuống, như từ một trang tiểu thuyết Nhất Linh đi ra. Cái nắng còn đuổi theo bước chân của Dũng vượt biên giới sang Tầu, tà áo của Loan vẫn thấp thoáng ở trong vườn, tình yêu lớn lao một đời thả không tiếng những nụ hoa vàng lên mái tóc. Cái nắng Chủ Nhật, cái nắng cực kỳ thanh bình, cực kỳ an toàn còn ở quanh tôi từ ngôi nhà Nhật Tiến đi ra, suy nghĩ tới những cõi nắng, những trời nắng, những cái nắng khác.

    Cuối cùng là con đường phải cuốc bộ thăm thắm mịt mùng qua những cánh đồng cháy nắng, những đồi trọc hoang vu đầy những hố bom. Nắng ấy, cháy rực, thiêu đốt là nắng trong “Mẹ Tới Giữa Mùa Xuân”, một truyện ngắn mới của Nhật Tiến. Từ một nhà giáo mẫu mực, hiền hòa, nhỏ nhẹ Ba Sinh đã biến thành một con người dầm mưa dãi nắng suốt ngày ngoài đường phố. Cái nắng cơ cực ấy được tả trong “Trận Đánh Cuối Cùng Của Một Kẻ Sĩ”, một truyện ngắn mới nữa, vẫn của Nhật Tiến. Nhà giáo. Ba Sinh. Nhật Tiến đó không, một phần nào trong nhân vật?

    ***

    Còn bao nhiêu những cõi nắng khác chói chang, dữ dằn đổ lửa như vậy. Những cái nắng thế kỷ, bỏng cháy vai trần hàng triệu con người lầm than trên trái đất, những con người mất quyền làm người, theo Nhật Tiến “nạn nhân của thế lực tiền bạc và thế lực bạo lực” . Những cái nắng Việt Nam. Ôi, cuối cùng là những cái nắng Việt Nam. Nhễ nhại trên bãi mìn Long Giao, nơi đôi chân tù đày của Phan Nhật Nam trên những mảnh thủy tinh vỡ. Ngùn ngụt ở K1, K2. Pleiku, nơi Nguyễn Sỹ Tế, Mặc Thu vác nặng lội qua suối khô trong mệt lả những trưa rừng. Rời những cõi nắng lên đường, những dải nắng vượt tuyến, những thác lửa trại đảo. Hai ngày ở bãi đáp. Bốn phía chung quanh sình lầy mặn chát. Một tháng lênh đênh ngoài biển Đông, nắng quỷ múa cười trên ngàn con sóng dữ, những da dẻ cháy xém, boong tàu lửa bỏng, hải tặc tràn sang, cái nắng kẽm gai trên Ko Kra làm điên loạn thần phách, cái nắng ở Songkhla dưới những tấm tôn hực lửa trên đầu.

    Những trong nắng và những ngoài nắng ắy. Nhật Tiến đã thấy, đã trải qua, đã viết ra, đã thuật lại. Gọi đó là nắng cáo trạng, nắng bạch thư, gọi đó là nắng Ko Kra, nắng Nhật Tiến.

    Trước cái khuynh hướng muôn thuở của con người là sự kiếm tìm những tàn cây đầy bóng mát cho tâm hồn và đời sồng, văn chương bây giờ của Nhật Tiến, những vận động, những lên tiếng không ngừng của Nhật Tiến cho thấy ông vẫn lựa chọn đứng ở đó. Ngoài nắng. Dưới nắng. Thái độ đó có thể bị nhìn thấy là khô cứng quá khích. Hoặc với những tâm hồn đã bóng rợp, một đọa đầy vô ích. Tôi chỉ nhìn thấy tự nhiên và bình th­ường nơi người nhà văn lưu đày ở Nhật Tiến một ý muốn. Cái ý muốn được đứng cùng, đứng mãi với vượt biển thê thảm như đứng với quê nhà, với Việt Nam.

    MAI THẢO
    (trong tác phẩm Chân Dung, trang 154-157)

    ***
    Tạp Ghi Văn Nghệ

    Nhà văn vẫn đứng ngoài nắng : Nhật Tiến
    Nguyễn Mạnh Trinh

    Nhà văn Nhật Tiến là nhà văn của tuổi thơ, của những bức xúc về một cuộc chiến tranh và là một người lưu lạc suy ngẫm về thân phận của mình và của chung một thế hệ phải trải qua những ngày chiến tranh và những ngày hậu chiến tranh mà những bi thảm, những bất toàn của xã hội lại còn đáng sợ hơn thời còn khói lửa. Ông viết với tâm cảm mà những ý nghĩ trung thực được biểu lộ không e ngại và là tiếng nói được lắng nghe từ công luận.

    Có rất nhiều chân dung nhà văn Nhật Tiến : nhà văn của tuổi thơ bất hạnh, nhà văn của hiện thực xã hội, nhà văn của lưu lạc xứ người, mà mẫu chân dung nào cũng đều có nhiều cá tính văn chương và trong mỗi dòng chữ, mỗi ý tưởng đếu có những thông điệp trao gửi theo.

    Tôi đã có dịp phỏng vấn nhà văn Nhật Tiến và ông đã kể về thời gian bắt đầu sáng tác của mình. Lúc còn thơ ấu ông đã đi Hướng Đạo và sau này là một trong những trưởng kỳ cựu của Hướng Đạo Việt Nam. Ông mê thích văn chương và tất cả nỗi đam mê ấy về sau này khi di cư vào Nam ông đã kể lại trong “Thuở mơ làm văn sĩ” do nhà Huyền Trân ấn hành năm 1973 ở Sài Gòn.

    Tác phẩm đầu tay của ông là một truyện ngắn được in trên nhật báo Giang Sơn của bác sĩ Hoàng Cơ Bình ở Hà Nội. Ông viết tiếp truyện ngắn nhưng cũng sáng tác qua cả lãnh vực kịch. Vở kịch đầu tiên là một kịch ngắn vui chế giễu về một nhân vật là một nhà thơ háo danh và được đăng trên giai phẩm Xuân của báo Cải Tạo in năm 1953. Tờ báo này có các cây bút khá nổi thời đó như Kim Sinh, Văn Bình, Nhị Lang và do ông Phạm Văn Thụ làm chủ nhiệm. Cùng thời lúc này với ông có nhà thơ Song Hồ, nhà thơ Tô Hà Vân (tức nhà văn Nguyễn Ðình Toàn sau này). .. Nhóm sinh hoạt văn chương ấy hoạt động như những người trẻ yêu văn thơ và đó là thời gian để về sau họ đã thành những cây bút nổi tiếng của hai mươi năm văn học miền Nam.

    Di cư vào Nam, ông xuống Bến Tre dạy học ở trường Quang Trung và cuối tuần ông không về Sài Gòn, ở lại trường nên có thời giờ sáng tác. Ông hoàn tất “Những Người Áo Trắng” lấy không gian và thời gian của Hà Nội kể lại chuyện của một cô nữ tu trẻ nguyện tận hiến dâng đời cho Thiên Chúa. Một giáo sư cùng dạy học với ông là Trương Cam Vĩnh đọc và thích thú với tiểu thuyết này đã mang về cho nhà văn Nhất Linh đọc và cho ý kiến. Văn hào Nhất Linh rất khen ngợi và khuyến khích ông nên xuất bản thành sách. Thế là năm 1959, nhà văn Nhật Tiến đã in tác phẩm đầu tay “Những Người Áo Trắng” và bắt đầu cho một hành trình văn chương kéo dài đến hơn nửa thế kỷ sau. Những tác phẩm tiếp theo là Những Vì Sao Lạc, Tay Ngọc, Chuyện Bé Phượng, Chim Hót Trong Lồng..

    Chuyện Bé Phượng là một cảnh sống được thu gọn lại trong một viện mồ côi và tất cả các nhân vật cùng đóng vai trò trong một tấn thảm kịch. Ở đó, những trẻ mồ côi được phác họa lại bằng một vài nét nhưng lại biểu trưng được bằng những nét nhân bản. Những nhân vật ấy cũng sinh hoạt như ở ngoài đời thường, cũng có những tị hiềm ganh tị, cũng có những vai đạo đức giả vờ, cũng có những trẻ sớm biết suy nghĩ và có thiện tâm nhưng rốt cuộc lại bị những phần thua thiệt. Như bé Phượng, tốt với cả mọi người nhưng lại bị nhiều chuyện rắc rối vì chính lòng tốt ấy. Cái chết của bé Alice, nguyên nhân gián tiếp vì chia ly với người bạn Thu Thu từng giúp đỡ yêu thương mình và là tấn thảm kịch làm những người đa cảm xúc động. Nhân vật cô bé Cúc đi ăn cắp bị mang vào trong cô nhi viện rồi trốn ra ngoài không phải là một cô bé xấu nết hoàn toàn mà vì để chống đỡ lại những ức hiếp của cuộc đời nên có phản ứng như vậy. Những đứa bé mồ côi bất hạnh đâu phải tất cả là những trẻ hư hỏng nhưng nhiều khi vì hoàn cảnh phải tự vệ để sống còn. Ðó là một thực tế.

    Tôi đọc và nhớ lại cái cảm giác ngày xưa của mình về truyện dài này.

    Tôi đã sống ở một xóm bình dân và cũng đã chứng kiến nhiều đứa trẻ sống trong gia đình như địa ngục, cha say sưa, mẹ cờ bạc và chúng lớn lên tự nhiên như cây như cỏ, tiêm nhiễm thói hư tật xấu như là một chuyện tất nhiên và khi lớn lên lại tái diễn lại những thảm kịch mà cha mẹ chúng đã thực hiện. Chuyện trẻ thơ ấy sao buồn quá! Và cuộc đời cứ đầy dẫy những chuyện như thế! Thành ra, xúc cảm, hay nao nao trong lòng thuở đó cũng là chuyện đương nhiên. Bây giờ đọc lại, dù đã trải qua nhiều chặng thử lửa ở ngoài đời và chứng kiến biết bao nhiêu chuyện thương tâm, nhưng vẫn nao nao khi nghĩ đến những trẻ thơ bất hạnh mà nhà văn Nhật Tiến đã mô tả trong những tác phẩm của ông. Có phải vì những nét riêng của con người muôn thuở lúc nào và bất cứ ở không gian, thời gian nào cũng làm cho mọi người chúng ta phải động tâm?

    Chim Hót Trong Lồng cũng là câu chuyện của một cô bé sống nội trú trong trường Nhà Trắng với các bà sơ chăm sóc và hướng dẫn trong cuộc sống hàng ngày. Những cô bé ngây thơ ấy chưa hiểu được cuộc đời và trong những hoàn cảnh ngặt nghèo thương tâm ấy, sự vươn lên khỏi vị trí thấp hèn trong xã hội thật là khó khăn.

    Chim Hót Trong Lồng là 14 lá thư của bé Hạnh viết cho mẹ và sau khi người mẹ chết là những dòng nhật ký ghi chép lại nỗi niềm của một người con gửi cho bà mẹ vừa khuất bóng. Những lá thư viết thật thà đến độ não lòng, hỏi người mẹ những câu hỏi thật ngây thơ nhưng gợi lại thật nhiều buốt xót. Mẹ của Hạnh là một người làm điếm và bị chết vì bệnh hoạn trong nhà thương thí. Trong trường nội trú, Hạnh như sống ở trong một cái lồng và cuộc đời bên ngoài đối với cô hoàn toàn xa lạ. Câu chuyện thật buồn, người buồn và cảnh thì toàn là mưa gió u ám với những không gian lạnh lùng của tu viện, đầy cánh lá rơi và tiếng chuông buồn thảm. Hạnh gặp gỡ mẹ với cả nỗi buồn rầu và ngay trong đám tang người mẹ cũng đầy những bi thảm tang thương. Có một sự đau đớn nào hơn khi đứa con gái viết thư hỏi mẹ có phải mẹ làm nghề điếm phải không và sở của mẹ có to không và nhiều người không? Trong tâm hồn ngây thơ của cô bé, làm điếm cũng là một nghề.

    Và mẹ cô vẫn có một chỗ đáng kính trọng như những bà mẹ khác!

    Chuyện Chim Hót Trong Lồng với cách diễn tả tự nhiên như thế đã gây cho độc giả nhiều xúc động.

    Viết về tuổi thơ không phải chỉ có hai nhà văn Duyên Anh, Nhật Tiến, một viết về tuổi thơ đùa nghịch mộng mơ, và, một viết về những tuổi thơ bất hạnh của những cuộc đời đen tối. Mà còn có Lê văn Trương với “Anh em thằng Việt”, có Hoàng Ngọc Tuấn với “Học trò”, và có nhiều người khác. Dĩ nhiên mỗi người có văn phong riêng, có ngôn ngữ diễn tả riêng. Do đó, khó lòng mà so sánh người này với người kia.

    Riêng trường hợp nhà văn Nhật Tiến thì quả ông là một nhà văn hay viết về tuổi thơ bất hạnh. Ông viết rất cảm động, đầy nét nhân bản và dễ làm người đọc chia sẻ với xúc cảm mà ông đã có từ những trang sách. Tôi đoán có lẽ tuổi thơ của ông chắc cũng có những nỗi niềm riêng nên mới có những tâm tình sâu xa đến như thế.

    Mỗi nhân vật tuổi thơ của ông đều có những nét riêng, gần gũi với người đọc và cả đời sống thường nhật hàng ngày nữa. Tác giả như hòa đồng vào trong khí hậu của tiểu thuyết, của chuyện kể nên chất chủ quan cũng ít đi. Và như thế câu chuyện trở thành có hồn hơn và lôi cuốn được trí tưởng tượng cũng như niềm cảm xúc.

    Hồi trước thời tiền chiến các nhà phê bình văn học thường chỉ trích là các nhà văn trong Tự Lực Văn Ðoàn khi viết về những người cùng khổ thường đứng ở trên vị trí của một người ở trên cao nhìn xuống thấp. Tới bây giờ cũng có nhiều nhà văn khi tả cảnh thuyền nhân cực khổ nhưng lại đóng vai người quan sát rồi phê phán nên khi mô tả những cảnh đau khổ của con người thì lại thấy ở đó có một chút gì độc ác của những người chỉ tả bất hạnh của người khác để làm nổi bật lên cái hạnh phúc của mình.

    Với nhà văn Nhật Tiến, ông đã đem tấm lòng nhân ái của mình để chia sẻ với những nhân vật những nỗi bất hạnh. Ở đó, là sự xúc cảm thật. Ở đó, là nỗi niềm chung mang thật. Và độc giả đã cảm thấy được điều đó qua văn phong của ông. Chất nhân bản lúc nào cũng đầy ắp trong ngôn ngữ và ý tưởng.

    Trong một cuộc phỏng vấn, nhà văn Nhật Tiến đã phát biểu rằng công việc ra một tờ báo dành cho thiếu nhi (trong khoảng từ 10 đến 15, 16 tuổi hay trình độ từ cuối bậc tiểu học đến hết bậc trung học phổ thông) là mơ ước của ông. Nhất là trong hoàn cảnh của đất nước chúng ta khi xã hội có nhiều hiện tượng băng hoại do văn hóa ngoại lai xâm nhập và cũng do ảnh hưởng chiến tranh. Mãi đến năm 1971 ông mới được sự tài trợ của nhà sách Khai Trí và ra mắt tờ tuần báo Thiếu Nhi vào ngày 15 tháng 8 năm 1971 và đều đặn hàng tuần đến tháng tư năm 1975 thì chấm dứt. Ngoài ra ông còn tổ chức nhiều sinh hoạt khác như tổ chức thư viện cho các em mượn sách về nhà đọc, tổ chức các Gia Ðình Thiếu Nhi ở các tỉnh và các đô thị lớn có những buổi sinh hoạt tập thể ngoài trời, hay tổ chức các cuộc thi viết văn làm thơ cho thiếu nhi và có giải thưởng khá lớn. Nói chung là phối hợp giữa giải trí và giáo dục để các em có những sinh hoạt vui tươi và bổ ích.

    Sau khi vượt biển sống ở hải ngoại, nhà văn Nhật Tiến cũng làm chủ bút tờ Tuổi Hoa của nhà văn Quyên Di một thời gian và lúc nào cũng chú tâm đến lớp tuổi măng non ở hải ngoại.

    Trong tác phẩm “Chân dung mười lăm nhà văn nhà thơ Việt Nam”, nhà văn Mai Thảo đã viết “Nhật Tiến vẫn đứng ở ngoài nắng” Ông nói về những “cơn nắng chói chang dữ dằn đổ lửa” của dân tộc Việt Nam. Những cái nắng của thế kỷ, bỏng cháy trên vai trần của hàng triệu con người lầm than trên trái đất, của những con người bị mất quyền làm người, nạn nhân của thế lực tiền bạc và thế lực bạo lực. Những cái nắng nhễ nhại trên bãi mìn nơi Phan Nhật Nam lê gót tù nhân như đi trên thủy tinh vỡ. Những cái nắng ngùn ngụt ở Gia Trung, nơi những Doãn Quốc Sỹ, những Nguyễn Sỹ Tế, mệt lả mồ hôi mang vác những thân cây nặng nề trong thân phận của người tù khổ sai. Và những cái nắng của ngày vượt biên khát đắng và thiêu đốt con người. Hay cái nắng của đảo hoang Ko Kra, nơi những hải tặc hiện hình làm quỷ sứ. Những cơn nắng thiêu cháy con người, những đỏ lửa hun đốt cõi đời.

    Và nhà văn Mai Thảo viết :

    Những trong nắng và những ngoài nắng ấy, Nhật Tiến đã thấy đã trải qua, đã viết ra, đã thuật lại. Gọi đó là nắng cáo trạng, nắng bạch thư, gọi đó là nắng Ko Kra, nắng Nhật Tiến. Trước cái khuynh hướng muôn thuở của con người là sự kiếm tìm những tàn cây đầy bóng mát cho tâm hồn và đời sống văn chương bây giờ của Nhật Tiến, những vận động, những lên tiếng không ngừng của Nhật Tiến cho thấy ông vẫn lựa chọn đứng ở đó. Ngoài nắng. Giữa nắng. Thái độ ấy có thể bị nhìn là khô cứng quá khích. Hoặc với những tâm hồn bóng rợp là một đọa đầy vô ích. Tôi chỉ nhìn thấy tự nhiên và bình thường nơi người nhà văn lưu đày ở Nhật Tiến một ý muốn. Cái ý muốn được đứng cùng, đứng mãi với vượt biển thê thảm như đứng với quê nhà, với Việt nam

    Có một sự kiện mà rất nhiều sách vở hoặc tư liệu ghi chép lại. Ðó là bài điếu văn nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam mà nhà văn Nhật Tiến đã ứng khẩu khi hạ huyệt.

    Nhà văn Nhất Linh là một lãnh tụ đối lập với chính quyền của tổng thống Ngô đình Diệm. Ngày 7 tháng 7 năm 1963 ông bị đưa ra tòa để xử án nhưng ông đã tự quyên sinh để phản kháng và cho rằng đời ông chỉ có lịch sử phán đoán công tội mà thôi và hành động đàn áp đối lập bắt giam những lãnh tụ quốc gia sẽ làm cho mất nước về tay Cộng Sản. Ðám tang của ông bị mật vụ bao vây vì chính quyền không muốn bị tai tiếng với dư luận quốc tế nhưng lại có nhiều thanh niên, sinh viên học sinh đến đưa tiễn. Nhà văn Nhật Tiến ở trong phái đoàn của Trung Tâm Văn Bút Việt Nam với tư cách là Phó chủ tịch nên có mặt lúc hạ huyệt và ông đã ứng khẩu bài điếu văn và đọc như là một cách thế phản kháng của người cầm bút trong hoàn cảnh thời thế ấy. Trong khi nhiều lãnh tụ đảng phái bị bắt giữ và các văn nghệ sĩ bị theo dõi thì hành động kể trên phải được coi như một phản ứng can đảm của kẻ sĩ không ngại ngùng trước bạo lực vì có thể bị bắt giam bất cứ lúc nào.

    Nhà văn Nhật Tiến là một thành viên nòng cốt của Ủy Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển (Boat People S.O.S Committee) và Ủy ban này đã viết bạch thư để phổ biến trên khắp thế giới thân phận bi đát của thuyền nhân Việt Nam vì tệ nạn hải tặc. Những công việc ấy đã có kết quả lớn, làm thế giới hiểu được tệ trạng hải tặc và đánh động được lương tâm của nhân loại để cứu giúp thuyền nhân. Nhà văn Nhật Tiến đã hy sinh công sức đi khắp nơi trên thế giới để xin thế giới hỗ trợ. Có lẽ cái nắng của đảo quỷ Ko Kra vẫn còn rát bỏng đôi vai ông để ông tích cực làm một công việc nặng nề như thế?

    Thời gian 1960-1975 là một thời kỳ bất hạnh của dân tôc Việt Nam. Chiến tranh gây ra bao nhiêu là tàn phá và chết chóc. Sống trong những bi thảm ấy, nhà văn Nhật Tiến chắc cũng có những suy tư về cuộc chiến này và có những tác phẩm mà chủ đề về cuộc chiến đã qua.

    Ông cũng đã nhìn ngắm cuộc chiến bằng những tác phẩm độc đáo mà tiêu biểu là tiểu thuyết “Giấc ngủ chập chờn” và tập truyện ngắn “Tặng phẩm của dòng sông”.

    “Giấc ngủ chập chờn” là tiểu thuyết viết về đời sống của những người ở vùng “xôi đậu”, ngày thì quốc gia giữ an ninh nhưng đêm thì du kích Việt Cộng về quấy phá. Câu chuyện nói về thân phận xót xa của những nạn nhân bị đẩy vào một cuộc chém giết mà không một ai muốn . Ðối thủ với nhau, chong họng súng vào nhau mà lại là những đứa bạn thời thơ ấu, những đứa cùng ngồi với nhau trên băng ghế nhà trường. Họ chém giết lẫn nhau, để càng ngày trên cuộc đời này dần dần vắng đi những khuôn mặt, những con người của một thuở nào thơ ấu ngày xưa. Không có bi thảm nào hơn khi hai anh em ruột mà lại ở hai bên chiến tuyến và đe dọa giết nhau còn hơn quân thù là hai anh em Hoành và Há. Và, cuộc tình thời chiến cũng là cuộc tình tay ba giữa hai anh em và Thư. Rốt cuộc Hoanh bỏ đi biệt kích Mỹ, còn Thư thì nhìn quang cảnh của một thị xã chiến tranh và đi lên tỉnh để rời xa một nơi mà những tấn thảm kịch đã đổ xuống đầu những người dân quê khốn khổ một cổ hai tròng.

    Hình như về sau này khi Việt Cộng đã chiếm được miền Nam thì nhà văn Nhật Tiến đã bị hạch hỏi nhiều về cuốn tiểu thuyết “ Giấc ngủ chập chờn ” này.

    (còn tiếp)

  8. #8
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Ông có những truyện ngắn như Tặng phẩm của dòng sông, Giọt lệ đen, Đường vào trần gian.... mà chủ đề xoay quanh những thảm cảnh của thời chiến. Truyện Tặng phẩm của dòng sông là chuyện của con bò bị chết trôi theo dòng sông tấp vào chân cầu và bị những người dân quê đang tan tác trong lửa đạn đem lên xẻ thịt để ăn .. Truyện Giọt Lệ Ðen là chuyện một cô gái điếm thời lính Mỹ còn ở VN, khi xẩy thai đem chôn cái hài nhi có nước da đen nhẫy, còn truyện ngắn Đường vào trần gian thì diễn tả hoàn cảnh của hai angm mồ côi Tư Híp và Út. Tư Híp đến tuổi phải vào lính và phải mang thằng Út vào trại và nhờ có Hiên làm trong nhà bếp để săn sóc thằng nhỏ trong khi người anh bận hành quân xa. Những hoàn cảnh dị thường của chiến tranh.

    Sáng tác đầu tay về Kịch của nhà văn Nhật Tiến là một vở kịch vui ông viết khi còn ở tuổi học sinh như đã nói ở trên. Sau này, năm 1962, ông cũng còn soạn kịch cho tráng đoàn Hướng Đạo Bạch Đằng, vở Cơn Giông trình diễn ở rạp Thống Nhất Sài Gòn để lấy tiền giúp đồng bào bão lụt miền Tây. Ngoài ra, ông còn một tác phẩm khác ang quan đến kịch là cuốn tiểu thuyết kịch Người Kéo Màn.

    Tại sao gọi là tiểu thuyết kịch?

    Ðó là một kỹ thuật kịch khá mới đối với nghệ thuật Việt Nam. Ông mang những yếu tố của tiểu thuyết vào kịch, sử dụng phương pháp tả cảnh xen lẫn vào trong phần đối thoại kịch của từng nhân vật và từ đó ở những không gian, thời gian khác nhau để ngắm nhìn sự kiện như một góc độ để nhận định và diễn tả.

    Người Kéo Màn viết về xã hội và môi trường của những nghệ sĩ mà những nhân vật như ông lão kéo màn, người nhạc sĩ thổi kèn clarinette, đứa bé, cô gái còn trong trắng, chỉ là những tượng hình để người kéo màn nói đến cuộc đời với những sự sắp xếp của định mệnh. Từ những góc cạnh nhìn ngắm, cuộc sống trải ra nhiều mặt mà cái giả tạo hào nhoáng bên ngoài đã che lấp đi cái phần chân thực bên trong. Cuộc đời như một vở kịch, với những nét đẹp đẽ hào nhoáng ở ngoài tiền trường sân khấu nhưng ở bên trong lại là những phản diện đen tối đến không ngờ được. Những nhân vật hành xử và đối thoại nhiều khi đối nghịch với nhau và ở trong những chi tiết thực của cuộc sống để tượng hình cái giả của vở kịch. Người viết kịch nhiều lúc muốn là một diễn viên trong vở kịch và thôi thúc người đọc, người xem gia nhập vào vở kịch như đang sống một ngày, một tháng của cuộc sống chính mình đang diễn ra từng giờ từng phút.

    Nhật Tiến còn là nhà văn xã hội mà tác phẩm tiêu biểu nhất là Thềm Hoang. Tiểu thuyết này đã đoạt giải văn chương toàn quốc năm 1962. Thềm Hoang là một tiểu thuyết lấy khung cảnh của một xóm lao động nghèo nàn ở ven biên một thành phố. Những nhân vật của truyện này là những người nghèo thất học và ngôn ngữ của họ là sự pha trộn một cách dung tục ngôn ngữ của hai miền Nam Bắc. Cái đặc sắc của tiểu thuyết này là tác giả đã phác họa ra những mẫu nhân vật đặc biệt với cá tính riêng và đầy chất sống động chân thực như cuộc sống lầm than của họ đang diễn ra ang ngày.

    Trong một bài viết đăng trên tạp chí Văn Học, ông có giải thích tại sao lại chọn nhan đề Thềm Hoang. Khởi đầu khi viết, ông chỉ mang hai chữ đó để ám chỉ một xóm nghèo, mà những túp lều là nơi sinh sống của những người bất hạnh sống bên lề xã hội như những thềm đất hoang sơ bị bỏ rơi quên lãng trong một xã hội sa hoa sung túc. Nhưng, khi kết cuộc cuốn tiểu thuyết này, nhân vật Năm Trà bị phẫn uất đau đớn đến tột cùng nên đã châm lửa đốt rụi cả xóm Cỏ. Và như thế, cái xóm ấy đã thành một mảnh đất đầy tro bụi của những thềm hoang..

    Trong tiểu thuyết ấy, có những nhân vật đặc biệt và những ngôn ngữ đặc biệt.

    Nhà văn Nhật Tiến đã tạo dựng ra những mẫu nhân vật thật sống động. Họ mang những ngôn ngữ đời thường, của những người Bắc di cư vào Nam pha trộn với ngôn ngữ địa phương. Như cô Huệ với ngôn ngữ chanh chua của một gái điếm:

    - Mệt không cô Huệ ơi!

    Vẫn cái tiếng chanh chua của Huệ:

    - Mệt cái phải gió, cha tổ bố, ít tiền mà cứ muốn của đẹp!

    Hay Lão Hói với những câu thơ mà ông ta ang nghiệm như một thuyết lý của định mệnh: tất cả đều có ông trời hết:

    Ngọc xuất thiên cung thủ quả châu
    Hoàng thiên thương mến quả địa cầu.
    Giáng tạo thay đời không tranh đấu
    Thế giới thanh bình khỏi thuế sâu..

    “ Lão Hói rúc lên cười, hai hàm răng của lão nhô ra, hở hết cả lợi:

    - Ông trời chớ ai! Ông trời chớ ai!

    - Vậy ai sinh ra ông trời kia chớ?

    - Ý! Trời đất ơi! Ðã là ông trời thì ai sinh được ổng nữa cơ chớ ổng là nhứt hết thảy mà..

    Huệ phản đối lão bằng cách lấy chân đá một viên sỏi nhỏ về phía lão rồi bỏ đi. Mùi nước hoa thoang thoảng trong gió mát làm mũi lão hếch lên. Lão lim dim nhìn cái mông của nàng ngúng nguẩy theo nhịp bước. Lão nhớ đến câu hát của bác Tốn vẫn thường gảy đàn, giọng vọng ra:

    - Cô Huệ ơi
    Nếu cô lấy tôi thì tôi xây nhà gạch hai tầng
    Tôi mua ô tô cho cô ngự, mua váy đầm cho cô thay…

    Rồi những nhân vật khác: Hai Hào, Ðào, Phó Ngữ, bác Nhan, vợ chồng Năm Trà, Cái Hòn, Thằng Ích, U Tám ,.. tất cả những nhân vật ấy sinh hoạt , chửi rủa nhau, giúp đỡ nhau, và cùng chia sẻ với nhau những mảnh đời sống của một xóm nghèo bình dân.

    Bà Thụy Khuê nhận xét rằng Thềm Hoang là một tác phẩm không viết về chiến tranh nhưng chống chiến tranh và là một tác phẩm có ý hướng hòa giải hòa hợp dân tộc. Có người đã hỏi tôi có suy nghĩ nào về nhận xét này.

    Tôi đọc Thềm Hoang từ lúc còn đi học và lúc đó thì chiến tranh chưa nổ lớn và những cái gọi là hòa giải hòa hợp dân tộc còn xa lạ. Thành ra, tôi rất ngạc nhiên khi đọc những nhận xét của bà Thụy Khuê mà có người thắc mắc ở trên. Tôi nghĩ đó có thể là một cách suy nghĩ đi quá xa trong hoàn cảnh nhà văn Nhật Tiến sáng tác lúc đó. Thời gian mà nhà văn Nhật Tiến viết Thềm Hoang là thời kỳ đệ nhất Cộng Hòa của chính phủ tổng thống Ngô Ðình Diệm. Lúc này cả một triệu người miền Bắc di cư vào miền Nam và đang tạo dựng lại đời sống. Thành ra, ngôn ngữ của những nhân vật Xóm Cỏ pha âm hưởng của nhiều địa phương và có nhiều ngôn ngữ dung tục nhưng được tác giả sử dụng rất tự nhiên nên có sức sống động và lôi cuốn. Như “nói như bố chó xồm” của bác Tốn, như “khí gió đùng lăn chửa” của Huệ, như “chế nhạo cái gì, chế cái nỗ đít” của Hai Hào…

    Nếu phát biểu một cách rốt ráo thì, với Thềm Hoang, tôi nghĩ đó là một tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nhật Tiến. Có thể, trong truyện có nhiều hư cấu nhưng với tôi lại có chất tả thực nhiều hơn. Viết về một xã hội bất hạnh như thế, phải là người đã sống và đã có những cảm giác chân thực của người đã trải qua. Tôi cũng có lúc ở một xóm lao động như xóm Cỏ nên khi đọc những trang sách thường hay hồi tưởng về những tháng ngày cũ. Ở đó, người dân sống tạm bợ qua ngày, và có lúc dù xích mích nhau hay chửi bới nhau nhưng vẫn đậm đà tình hàng xóm láng giềng, chia xẻ với nhau những niềm bất hạnh chung. Họ không có sự cư xử của những người đạo đức giả, mà ở họ là chân thực một tình người không đãi bôi không giả dối và sẵn sàng đùm bọc nhau khi hoạn nạn.

    Nhà văn Nhật Tiến làm việc một cách cẩn trọng và rất cố công để tạo ra những mẫu nhân vật độc đáo, có nét chân thực của đời thường nhưng lại biểu hiện được những cá tính của một thời đại họ đang sống. Ông có lần đã viết về cách tạo dựng nhân vật của mình :

    “... Tôi đã bỏ ra nhiều ngày để nghiền ngẫm về từng nhân vật trong tác phẩm của mình. Ðể cho lề lối làm việc có vẻ khoa học hơn, tôi đã làm những tấm phiếu trên từng tấm bìa nhỏ. Mỗi tấm có đề tên một nhân vật và trong đó tôi đã ghi chép tất cả mọi đặc tính về hình hài, mọi cá tính, thói quen về tâm lý hay tình cảm và hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh xã hội mà tôi muốn diễn tả. Nhờ những tấm phiếu ghi chép này mà hình ảnh mỗi nhân vật hiện ra rõ nét hơn trong thế giới tưởng tượng của tôi và nó đã giúp tôi diễn tả môt cách rõ ràng mỗi khi ngồi trước trang giấy. Trong quá trình sáng tác tôi luôn luôn tự hỏi điều gì làm cho nhân vật của mình không lẫn lộn với đám đông bình thường và có tính cách nổi bật riêng biệt. Theo tôi đó là sự chú trọng diễn tả thói quen cố hữu của mỗi người, ngôn ngữ đặc trưng mà mỗi nhân vật hay sử dụng và dĩ nhiên mỗi nhân vật phải có một nội tâm riêng biệt do hoàn cảnh xã hội và môi trường chung quanh mà tác phẩm dựng lên..”.

    Sau năm 1975, ông ở lại Sài Gòn tới cuối năm 1979 thì vượt biển và định cư ở Hoa Kỳ. Ông cùng với Dương Phục và Vũ Thanh Thủy viết “Hải tặc trong Vịnh Thái lan”, lột trần thảm trạng của thuyền nhân và lên tiếng với cộng đồng quốc tế để can thiệp cho những người tị nạn bất hạnh. Ông tích cực hoạt động trong Ủy Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển và sau đó mới có các tàu đi vớt thuyền nhân ở Biển Ðông và các nước trong thế giới tự do cho phép những người tị nạn định cư ở đất nước thứ ba.

    Sáng tác của ông trong thời kỳ này là các tập truyện ngắn: Tiếng Kèn, Một Thời Ðang Qua, Cánh Cửa và truyện dài Mồ Hôi Của Ðá.

    Chủ đích sáng tác của ông trong thời kỳ này là phản ánh thực trạng của xã hội Việt Nam, và đưa một cái nhìn mới về cuộc chiến tranh đã qua cũng như hướng nhìn mới để vượt qua những chiến tuyến ngăn trở dân tộc trên con đường đoàn kết để xây dựng đất nước. Chính vì chủ trương này mà có sự ngộ nhận và phê phán cho rằng ông thiên tả và kết tội ông đã quên đi cương vị của một nhà văn lưu vong.

    Truyện dài Mồ Hôi Của Ðá nội dung ra sao mà gây ra sự tranh luận như vậy? Ở vị trí của một người đọc tôi có nhận xét như thế nào về tác phẩm này? Truyện dài này là câu chuyện xảy ra ở một nhà in và thời gian là sau ngày mà Cộng Sản chiếm đóng miền Nam. Ðó là lúc mà chế độ mới tiếp thu các cơ sở sản xuất mà cả hai bên, những người cai trị và những người bị trị phải sống chung với nhau với những va chạm về ý thức hệ hoặc về những nguyên tắc làm việc. Nguyệt, một công nhân trẻ, tin theo lý tưởng là mình sẽ góp sức để tạo thành một điều gì tốt đẹp, được đề cử làm Bí thư chi đoàn thanh niên của xí nghiệp in và rất hăng hái làm việc trong trách vụ này. Nhưng thực tế không như cô nghĩ nên trở thành người thất vọng ê chề.

    Hoàng , một nhà văn từ miền Bắc vào, qua những kinh nghiệm sống của đời mình đã cho rằng chế độ này là một chế độ tồi tệ hơn cả chế độ phong kiến thực dân thời xưa nữa. Toàn, người yêu của Nguyệt, không đồng ý với công việc của Nguyệt mà anh cho là của người theo gió trở cờ, nhưng lại tin vào những người đã thức tỉnh trước thực tế như Hoàng, hay như Năm Tỏa, một cán bộ có suy xét phán đoán, sẽ làm thành những mầm mới lạc quan. Nguyệt sẽ là người đi theo con đường mới để thay đổi nhận thức của mỗi người. Cũng như Hoàng và Toàn cũng bắt đầu khởi đi công cuộc vận động về văn hóa với nhóm văn nghệ Chân Ðất song hành với Nguyệt .

    Nhà văn Nhật Tiến cho rằng trong hoàn cảnh hiện tại, phải có nhận thức mới, mà những kẻ ở bên này hoặc bên kia giới tuyến nếu bị đàn áp thì cũng sẽ chọn chung một thế đứng đấu tranh chống lại những kẻ áp bức. Và, bất cứ lúc nào, sự bất công cũng như những hành động không nhân bản cũng là mục tiêu phải đấu tranh để xóa bỏ của dân tộc Việt Nam.

    Có một truyện ngắn khác cũng bị phê phán là thiên cộng là truyện ngắn Gặp Gỡ Ngày Cuối Năm, kể lại người anh là đại tá Việt Cộng đến thăm người em là tù cải tạo nhưng người em từ chối không gặp. Ðó là một bi thảm của một cuộc chiến mà anh em ruột thịt đứng hai bên chiến tuyến ghìm súng bắn vào nhau. Ðến khi chiến tranh chấm dứt, vẫn còn nguyên giới tuyến.

    Từ Nhật Tiến của lòng nhân ái đối với tuổi thơ bất hạnh đến Nhật Tiến luôn đòi hỏi công bằng cho những người bị đàn áp, và Nhật Tiến của những nhận thức trung thực nhìn về tương lai dân tộc, hình như tôi thấy có nhiều điểm đồng nhất giữa tác giả và tác phẩm

    Ở trong bất cứ tác phẩm nào của ông, từ bất cứ thời kỳ nào, tôi vẫn thấy rõ là một con người Nhật Tiến. Ðó là con người của Hướng Đạo, của sự ngay thẳng, của lòng nhân ái luôn đứng về phía của những người yếu thế trong xã hội. Không phải là thái độ cưỡi ngựa xem hoa, coi đau khổ của người khác để làm vui cho chính mình, mà là thái độ của người “ Ðứng ngoài nắng” như nhà văn Mai Thảo nhận xét.

    Có lúc tôi thấy nhà văn Nhật Tiến nhiều khi đã quá coi trọng văn chương và vai trò của kẻ sĩ. Mà thực tế, trong một xã hội chiến tranh đầy biến cố, thì lại là một vấn đề khác, khi lý tưởng luôn luôn ở ngoài tầm tay?

    Chính nhà văn Nhật Tiến cũng cho rằng khi ông kết cuộc tiểu thuyết Thềm Hoang thì có nhiều người phê bình cho rằng hành động thiêu rụi cả xóm Cỏ của nhân vật Năm Trà là cách giải quyết vấn đề quá dễ dãi và đầy tính tiêu cực. Và ông đã nhận rằng có lúc ông thấy sự nhỏ nhoi và yếu đuối của ngòi bút .

    Nhưng không phải giản dị như vậy, trong thâm tâm ông vẫn tin tưởng vào tác dụng của văn học và giá trị trường cửu của nó. Bằng cây bút, ông tranh đấu cho những mục tiêu mà ông tin tưởng. Luôn luôn trung thực và tin vào lẽ phải của cuộc đời, của giá trị của con người dù ở bất cứ hoàn cảnh nào.

    Ở vai trò của một độc giả, tôi thấy những tác phẩm của ông có ngôn ngữ trong sáng và bố cục giản dị. Có người nói ông chịu ảnh hưởng của Tự Lực Văn Ðoàn thời tiền chiến nhưng riêng tôi, lại nghĩ rằng những vấn đề mà ông nêu ra trong tác phẩm của mình gần gũi với đời sống và có sự giản dị tự nhiên của cuộc sống hàng ngày. Ông không cố công sử dụng một kỹ thuật nào khi cầm bút, mà chỉ đem tấm lòng cùng sự trung thực của mình để làm cho độc giả cùng chia sẻ.

    Chính thái độ tin tưởng vào con người và những giá trị nhân bản mà ở bất cứ chủ đề nào, có nhiều hay ít sự nhám nhúa đen tối của sự thực, sau cùng vẫn là sự hướng thượng và nhìn vào tương lai .

    Ngoài ra, ở đời thường, tôi nhìn ông như một người anh văn chương có nhân cách và lý tưởng. Có một thời gian, khi mới bắt đầu tập tành chữ nghĩa, tôi đã có những cuộc họp mặt hàng tháng ở nhà của ông để cùng với những người anh, người bạn tin tưởng rằng khi ra sống ở nước ngoài là phải mang tâm tình của những người còn ở lại, nói ra những ước muốn và giãi bày những tâm tư thời đại của một giai đoạn vô cùng tệ mạt của lịch sử chúng ta. Không biết có phải đó là một động lực để tôi còn cầm bút đến tận bây giờ không ?

    NGUYỄN MẠNH TRINH
    ***

    Cuốn NGƯỜI KÉO MÀN,
    tiểu thuyết kịch của NHẬT TIẾN
    dưới mắt một nhà văn Tiệp Khắc.


    Tôi đã đọc một số tác phẩm của các nhà văn Việt Nam như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Vũ Bằng và Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương ( Nguyễn Huy Thiệp và Dương Thu Hương qua bản dịch tiếng Pháp). Bây giờ, tôi vui mừng được đọc cuốn tiểu thuyết kịch “ Người Kéo Màn” của nhà văn Nhật Tiến, một nhà văn xuất thân từ Miền Nam VN mà đã có thời kỳ chúng tôi gọi là “nhà văn phía bên kia”, hiện đang định cư tại Mỹ.

    Cảm giác đầu tiên của tôi sau khi đọc cuốn này là tôi đã bàng hoàng khi cảm nhận được “ sự giao thoa giữa hai nền văn hoá châu Âu và châu Á”. Với bút pháp đầy trí lực, và cao hơn, tính nhân văn hay nói một cách chính xác là ông đã viết tác phẩm này bằng một trái tim nhân hậu, biết yêu thương và biết cả căm giận. Theo tôi, tác phẩm đã làm nổi lên hai nhân vật chính : thằng bé tên Cưng và lão già kéo màn. Đứa bé là một nhân chứng “ hồn nhiên” cho sự xuống cấp về đạo lý con người trong khi lão kéo màn là một chứng nhân lạnh lùng. Cả hai đã như một thứ đòn bẩy để đẩy lên cái sân khấu rộng rãi nhất, đó là cuộc đời !

    Để hướng tới cái Đẹp, người ta phải đánh nhau với bản năng. Người kéo Màn của nhà văn Nhật Tiến đã đem lại cho tôi một niềm tin, đó là : “ Khi đã biết ghê tởm với cái xấu, cái thói vô trách nhiệm thì con người sẽ nhận ra cung cách ứng xử với nhau sao cho tử tế hơn.”

    Từ những năm đầu thập niên 60, ( lúc chúng tôi đang chuẩn bị cho việc tiến hành Mùa Xuân Dân Chủ 1968 tại Tiệp), thì ở Việt Nam, nhà văn Nhật Tiến cũng đã khởi sự sáng tác tác phẩm này, tôi coi như ông cũng đã cùng chúng tôi “ làm một cuộc cách mạng về tình yêu thương hướng về cái nhân bản trong con người”.

    Khả năng tiếng Việt của tôi không khá lắm nhưng cũng tạm đủ để hiểu được cái thông điệp mà nhà văn Nhật Tiến muốn gửi tới bạn đọc :

    “ Hãy sống cho tử tế, lương thiện với nhau trước khi muốn bầy tỏ tình yêu đối với đất nước.”

    Tôi hân hạnh được đọc Nhật Tiến và tôi hy vọng Tổ quốc của các bạn, một ngày không xa sẽ thoát khỏi gông cùm chuyên chế của một thể chế độc tài.

    Dr. LUBOMIR SVOBODA
    (Thành viên Nhóm Hiến Chương 77,
    nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu Việt Học )

    (còn tiếp)

  9. #9
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    CHƯƠNG 7
    Thời điểm : California năm 1991


    Nhà văn Nhật Tiến trở lại Mỹ
    sau ba tuần thăm Việt Nam

    Phỏng vấn của Nguyễn Vạn Hùng


    SANTA ANA.- Nhà văn Nhật Tiến vừa từ Việt Nam trở lại Hoa Kỳ. Trong thời gian ba tuần lễ, ông đã ở Sài Gòn và ra Bắc, về Phú Thọ xây mộ thân nhân. Trong cuộc phỏng vấn của ký giả Triều Giang trước ngày lên đường, nhà văn Nhật Tiến cho biết mục đích chuyến đi của ông như sau: “Lý do chính là tôi muốn về để thấy tận mắt, nghe tận tai những vấn đề mà tôi vẫn chọn làm đề tài cho những sáng tác của tôi. Tôi không chú trương tất cả mọi nhà vãn phải trở về. Tùy theo khuynh hướng của mỗi người nhưng nếu một nhà văn vẫn còn gắn bó với đề tài Việt Nam như tôi, thì sự trở về cần thiết cho những phản ảnh trung thực trong sáng của họ. Thú thật, tôi xa Việt Nam đã quá lâu (l0 năm) bây giờ mỗi lần cầm bút thấy khó viết và những vấn đề tôi diễn tả tôi cảm thấy nó không thực. Viết theo trí nhớ thì thấy nó khô cằn mà viết theo tin đồn thì không phải là cung cách làm việc của tôi”.

    Chủ nhật vừa qua, chúng tôi đã gặp nhà văn Nhật Tiến. Dưới đây là cuộc nói chuyện về chuyến viếng thăm Việt Nam của ông mà chúng tôi đã ghi lại.

    Nguyễn Vạn Hùng: Khi về Việt Nam, anh nhân danh một người ty nạn du lịch thăm quê hương hay một người có quốc tịch Mỹ ?

    Nhật Tiến: Trên phương diện giấy tờ xin hộ chiếu, tôi là một người tỵ nạn đi về thăm lại gia đình và quê hương. Tuy nhiên,chủ đích chuyến về của tôi là trong tư cách một nhà văn đi tìm chất liệu để sáng tác.

    Nguyễn Vạn Hùng: Thế khi vượt biển anh khai với Hoa Kỳ tư cách gì để xin được định cư.

    Nhật Tiến: Tôi không phải là một nhà chính trị. Tôi chỉ là một nhà văn.

    Nguyễn Vạn Hùng: Báo Sài Gòn Nhỏ tuần qua loan tin có một số nhà văn Việt Nam ở hải ngoại về nước họp với các nhà văn trong nước. Tên những nhà văn này, báo Sài Gòn Nhỏ viết tắl đứng đầu danh sách là NT, có phải là Nhật Tiến không?

    Nhật Tiến: Tôi có đọc bản tin này, tôi khẳng định đây là một bản tin hoàn toàn bịa đặt và có ác ý. Bản tin nói là trích dẫn từ tờ Văn Học Nghệ Thuật và tờ Tuổi Trẻ ở Sài Gòn, trong khi đó ở Sài Gòn không có tờ báo nào mang tên Văn Học Nghệ Thuật, còn tờ Tuổi Trẻ thì không được nêu rõ số báo ra ngày nào. Và sẽ chẳng có ai nêu được xuất xứ bởi lẽ tin đó không có thật.

    Nguyễn Vạn Hùng: Anh có gặp những nhà văn cộng sản và những nhà văn miền Nam trước 1975 không?

    Nhật Tiến: Vì bị công an Văn hóa theo dõi từng đường đi nước bước nên tôi phải giới hạn tối đa những cuộc gặp gỡ các bạn bè văn nghệ trước 1975. Một vài nhà văn ở phía cộng sản có tự ý đến tìm gặp tôi ở khách sạn nơi tôi cư ngụ trong đó có người thuộc phong trào văn chương phản kháng. Riêng nhà văn Việt Nam trước 1975 tôi được gặp hai người. Tôi có đề nghị xin được gặp thăm nhà văn Doãn Quốc Sỹ (hiện đang ngồi tù) nhưng không được chính quyền cho phép.

    Nguyễn Vạn Hùng: Việt Nam sau 10 năm anh ra đi, nay trở lại anh thấy những điểm nào nổi bật nhất?

    Nhật Tiến: Bất công, tham nhũng, thối nát, thất nghiệp trầm trọng và tình trạng xã hội vô luật pháp là những điều gây cho tôi nhiều ấn tượng buồn bã. Có thể ví guồng máy tham nhũng ớ Việt Nam hiện nay như một bầy đỉa xúm xít rút tỉa sinh lực của cả một dân tộc vốn đã nghèo khó kiệt quệ. Và bầy đỉa đó mỉa mai thay, lại nhân danh một đảng vừa có tính cách Stalinist vừa có tính cách Maoist. Một đảng cộng sản đã lỗi thời.

    Nguyễn Vạn Hùng: Hiện tại, theo anh Việt Nam đã có chỗ đứng nào cho các nhà văn muốn tôn trọng sự thật viết theo lương tâm chưa?

    Nhật Tiến: Khi chủ trương cởi mở của nhà nước đã khép lại thì không một nhà văn nào ở Việt Nam còn được tự do phổ biến công khai những tác phẩm mang trọn vẹn nội dung mà mình muốn viết. Tuy nhiên, tôi vẫn được đọc một vài tài liệu mới đánh máy và phổ biến một cách hạn chế. Điều đó có nghĩa là tâm tình và khát vọng tự do của những người cầm bút chân chính vẫn còn mạnh mẽ và âm ỉ.

    Nguyễn Vạn Hùng: Dưới con mắt nhà văn, anh thấy xã hội Việt Nam hiện nay thế nào?
    .
    Nhật Tiến: Việt Nam là một quê hương của nghèo đói, chậm tiến và bất công, được cai trị bởi một thiểu số đầy tham vọng về quyền lực.

    Nguyễn Vạn Hùng: Anh có nghe gì về phong trào Nguyễn Đan Quế khi anh về thăm nhà?

    Nhật Tiến: Theo sự hiểu biết của tôi, trong thời gian hạn hẹp trong ba tuần, tôi không thấy có một ảnh hưởng nào trên mặt nổi, đối với đồng bào trong nước.

    Nguyễn Vạn Hùng: Những người làm văn học trong nước nghĩ gì về những người làm văn học nghệ thuật hải ngoại?

    Nhật Tiến: Tôi nghĩ rằng mọi người muốn nói: “Hãy nhìn cho rõ thực trạng và những vấn đề thiết thực của quê hương trước khi làm bất cứ một nỗ lực nào để cứu quê hương ra khỏi cảnh lầm than, kiệt quệ như hiện nay”. Đừng bỏ qua động lực kinh tế hiện nắm một vai trò quan trọng trong tiến trình dân chủ hóa Việt Nam. Tôi nghĩ rằng khi bao tử còn trống rỗng hoặc đời sống quá thấp kém ở mức chỉ đủ để sinh tồn, người ta khó có điều kiện phát huy nhu cầu tinh thần cao xa khác. Ngoài ra cũng xin đừng quên rằng bao vây kinh tế địch là mục tiêu tuy chính đáng nhưng đồng thời cũng có tác dụng đầy đọa thêm đời sống vốn đã khốn khổ của mọi người, bởi chính người dân chịu đựng hậu quả trước tiên và trực tiếp nhất.

    Nguyễn Vạn Hùng: Như anh vừa nói, anh có ý thăm những nhà văn miền Nam trước 1975 đang ở trong tù?

    Nhật Tiến: Vâng. Dù muốn tôi cũng không được phép. Điển hình là nhà văn Doãn Quốc Sỹ. Tôi có đề nghị xin đi thăm nhưng bị từ chối.

    Nguyễn Vạn Hùng: Về vụ “Văn nghệ phản kháng” , sau khi anh về thăm quê hương, anh có ý nghĩ gì khác so với trước đây ?

    Nhật Tiến: Không. Nó chỉ khẳng định những điều mà chúng tôi đã thực hiện ở ngoài này, chẳng hạn ấn hành tuyển tập “Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương”, là đúng ! Phong trào văn nghệ phản kháng là có thực và những người cầm bút trong nước tham dự phong trào ấy là những người cầm bút can đảm và trung thực. Tuyệt đối không có vấn đề văn nô viết theo chỉ thị. Đấy là một nhận định thô thiển và hẹp hòi.

    Nguyễn Vạn Hùng: Về cuốn phim “Chuyện Tử Tể”, anh nghe như thế nào ở trong nước?

    Nhật Tiến: Trong một cuộc phỏng vấn được thực hiện ở Tây Đức, chính đạo diễn Trần văn Thủy, tác giả của cuốn phim đã cho biết, cuốn phim Chuyện Tử tế đã gặp nhiều khó khăn khi thực hiện. Tuy nhiên nó vẫn được ra mắt vì hai lý do.Một là nó được ẩn giấu dưới dạng phim tài liệu (phim tài liệu dễ dàng được cho phép hơn phim truyện), hai là nó được lén đưa đi tham dự Đại Hội Điện Ảnh ở Đông Âu và đã giật được Huy chương vàng ở đấy. Với vinh dự công khai này, nhà nước không có lý do gì mà cấm trình chiếu. Dĩ nhiên khán giả hoan nghênh nhiệt liệt vì nội dung đầy tính chất dân lộc và nhân bản của nó.

    Nguyễn Vạn Hùng: Theo anh Việt cộng chủ trương gửi văn hóa phẩm ra nước ngoài nhằm mục đích gì?

    Nhật Tiến: Vừa tuyên truyền vừa khai thác lợi nhuận.

    Nguyễn Vạn Hùng: Khi.về nước, anh có nghe có những sách báo từ hải ngoại gửi về không? Nếu có, phản ứng như thế nào?

    Nhật Tiến: Số sách báo gửi từ nước ngoài về trong nước rất hạn hẹp, chưa gây được tiếng vang nào đáng kể trong quần chúng. Có lẽ hầu hết tin tức sinh hoạt văn hóa, văn nghệ ở nước ngoài chỉ lọt về Việt Nam qua đài BBC và VOA, trước đây qua tờ Đoàn Kết ở Pháp, Đất Mới ở Canada.
    (Ghi chú của người phỏng vấn: Đoàn Kết và Đất Mới là hai tờ báo của Việt cộng hải ngoại).

    Nguyễn Vạn Hùng: Anh có biết người dân trong nước nghĩ gì về các cuốn có nội dung “phản kháng” như Ly Thân, Những Thiên Đường Mù?

    Nhật Tiến: Tôi không có cơ sở để đánh giá những cảm nghĩ của độc giả, ngoại trừ được biết tất cả những tác phẩm kể trên đều đã được bán hết trong một thời gian ngắn. Riêng cuốn “Ly Thân” thì bị tịch thu chỉ sau ba ngày vừa được phát hành. Tôi không thể kiếm cả hai cuốn đó ở Sài Gòn.

    Nguyễn Vạn Hùng: Những văn nghệ sĩ miền Nam trước năm 1975 hiện sống ra sao?

    Nhật Tiến: Một số thất nghiệp, sống bằng tiền viện trợ của gia đình ở nước ngoài. Một số ra lề đường sống bằng đủ mọi thứ nghề như bán sách “son”, buôn thuốc lá lẻ, đạp xích lô, làm yaourt. bồi bàn... Một số khác sống bằng ngòi bút núp dưới những tòa soạn báo như “Sân Khấu “, “Điện Ảnh”...

    Nguyễn Vạn Hùng: Như thế thì việc xuất bản ở trong nước hiện không còn hoàn toàn trong tay nhà nước kiểm soát?

    Nhật Tiến: Trên danh nghĩa thì nhà nước hoàn toàn kiểm soát. Nhưng có nhiều khe hở để cho thấy tư nhân đã nhúng tay vào trong thực tế. Khi có được giấy phép xuất bản một số sách, tư nhân có thể thuê in và tự phát hành. Một ví dụ cụ thể, nhà văn Nguyễn Thị Hoàng (trước 1975) đã vừa cho in một tác phẩm dày 500 trang có tựa đề “Nhật Ký Của im Lặng” và do nhà Phù Sa xuất bản. Nội dung cuốn sách là những tâm tình hoàn toàn cá nhân riêng tư, không mảy may liên hệ đến nhà nước. Tôi có mang ra ngoài được một cuốn, nếu anh muốn “điểm” cuốn sách này, tôi có thể cho mượn. Tuy nhiên, nó được độc giả đón tiếp rất thờ ơ vì nội dung lạc lõng của nó. Ngay cả những cuốn sách khác có nội dung rất đặc sắc mà ở ngoài nước chưa có cũng vậy, thí dụ như cuốn “Hành Trình về Chân Lý” của Trần Đình Bá, “Người Đẹp Tỉnh Lẻ” của Lê Quốc Minh, “Tiếng Kêu của Loài Chim Gõ Kiến” của Trúc Chi và Nguyễn Công Thắng. Một số tác phẩm dịch của những nhà văn phản kháng Liên Xô cũng rất khó kiếm.

    Nguyễn Vạn Hùng: Vậy có nghĩa là nhà văn trong nước cũng có tự do sáng tác theo những chủ đề và những đối tượng mà họ chọn lựa?

    Nhật Tiến: Viết hay không là tùy sự chọn lựa của mỗi người. Nhưng việc phổ biến công khai lại là chuyện khác. Cho đến nay, không có sự tự do sáng tác dành cho tất cả mọi người cầm bút.

    Nguyễn Vạn Hùng: Anh có nghe hoặc có nhìn thấy những tác phẩm không do nhà nước cộng sản in ở trong nước không?

    Nhật Tiến: Rất nhiều. Phần đông là những tác phẩm trước 1975 nay do tư nhân bỏ tiền tái bản (kể cả sách Quỳnh Dao, sách kiếm hiệp. Riêng cuốn “Bố Già “ có tới 4 nhà xuất bản cho tái bản). Về sách sáng tác mới thì tôi thấy cuốn “Nhật Ký của Im Lặ ng “ của Nguyễn Thị Hoàng, một tác phẩm dày 500 trang, do nhà Phù Sa ấn hành. Tuy nhiên tình trạng tư nhân tự in lại nay đã tạm ngưng vì chính quyền đã hạn chế việc cấp giấy phép.

    Nguyễn Vạn Hùng: Anh có gặp những nhà văn mà anh gọi là “phản kháng”? Hiện họ có bị làm khó dễ gì không?

    Nhật Tiến :Tôi được gặp 4 người trong số đó. Họ không bị trở ngại gì trong sinh hoạt hàng ngày nếu họ biết ngưng phổ biến những tư tưởng phản kháng sau khi sự cởi mở bị khép lại. Tuy nhiên tôi được biết Dương Thu Hương bị cô lập ở miền Bắc sau một buổi thuyết trình ở Sài Gòn trước gần 1,000 trí thức, văn nghệ sĩ thành phố (và tin tức buổi thuyết trình này không được báo chí đăng tải). Một nhà văn khác cũng đang gặp khó khăn vì bài thuyết trình có tư tưởng chống đối trong một dịp khác, rất gần đây. Khi tôi rời Việt Nam, tôi không rõ nhà nước sẽ áp dụng biện pháp gì đối với nhà văn này.

    Nguyễn Vạn Hùng: Trong cuốn “Trăm Hoa Văn Nở Trên Quê Hương “ có phần đóng góp của anh, có tới 79 tác giả trong nước. Nay họ vẫn tiếp tục “phản kháng”?

    Nhật Tiến: Một số trong 79 người đó nay đã rút về khuynh hướng bảo thủ sau khi bị nhà nước khép lại chủ trương cởi mở. Tuy nhiên su thế của phong trào văn nghệ phản kháng không vì thế mà bị ảnh hưởng. Nó chỉ rút vào bóng tối để chuẩn bị có cơ hội là vùng lên.

    Nguyễn Vạn Hùng: Trước khi lên đường về nước, anh nói là đi tìm những vấn đề làm đề tài cho những sáng tác mới. Vậy, xin anh cho biết nội dung sáng tác mới đó.

    Nhật Tiến: Tôi vừa mới trở về từ Việt Nam trong vòng không đầy một tuần cho nên sẽ là quá sớm để hoạch định cho một nội dung tác phẩm mới. Tuy nhiên tác phẩm mới của tôi sẽ viết về Việt Nam với thời điểm hiện tại.

    Nguyễn Vạn Hùng: Anh là người Việt hải ngoại, vừa đi thăm cả miền Nam lẫn miền Bắc, theo anh giữa ba khối Nam, Bắc, và hải ngoại có cần phải đặt ra vấn đề thống nhất dân tộc không?

    Nhật Tiến: Thống nhất tình tự dân tộc là một nhu cầu cấp bách và có tính cách chiến lược, lâu dài, đòi hỏi sự vận dụng nhiều phương cách, nhiều nỗ lực để làm việc đó. Dĩ nhiên những tác phẩm văn học nghệ thuật sẽ đóng góp rất hữu hiệu vào công việc này.

    Nguyễn Vạn Hùng: Là một nhà vãn kiêm nhà giáo, anh nhìn thế hệ trẻ Việt Nam trong nước ra sao?

    Nhật Tiến: Đó là những thành phần ưu tú, có khả năng, nhưng rất tiếc với tình trạng giáo dục hiện nay và với hoàn cảnh kiệt quệ của đất nước, rất đông thành phần trong giới trẻ không có cơ hội phát triển tiềm năng của mình. Trong lần về thăm quê nhà, tôi đã thấy rất nhiều thanh niên thiếu nữ đã tốt nghiệp đại học thuộc đủ loại ngành nghề, kể cả kỹ thuật mà không có công ăn việc làm. Một tình trạng phi lý bi đát không thể chấp nhận được.

    Nguyễn Vạn Hùng: Anh có dự anh trở về thăm Việt Nam nữa không?

    Nhật Tiến: Việc trở về Việt Nam đòi hỏi tốn kém tiền bạc và thời gian. Tôi phải để dành 2 năm để có 4 tuần nghỉ phép. Do đó, trong tương lai gần tôi chưa thể có dự tính trở lại Việt Nam.

    Nguyễn Vạn Hùng: Thế anh có khuyến khích những người khác nên về thăm Việt Nam?

    Nhật Tiến: Tôi không khuyến khích mọi nhà văn nên về Việt Nam. Nhưng nếu vị nào chọn Việt Nam làm đề tài sáng tác thì rất nên về một chuyến. Không có gì lợi cho sự phong phú của tác phẩm bằng cách quan sát tại chỗ. Một nhà văn mà không trực diện với sự thực thì sẽ không còn là nhà văn nữa
    .

    NGUYỄN VẠN HÙNG
    (28-2-1991)
    (Đã in trong cuốn “Việt Nam qua lăng kính 24 Nhân vật thời đại
    do Thời Luận ấn hành ở Los Angeles, Nam Cali, năm 1996)

    (còn tiếp)
    Last edited by khieman; 12-19-2013 at 03:08 AM.

  10. #10
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)


    Thời điểm : California năm 1994

    Nói chuyện với nhà văn Nhật Tiến
    Sau chuyến ông về thăm đất nước vừa qua

    Thuỵ Khuê

    Nhà văn Nhật Tiến, ngoài địa vị trên văn đàn, còn có một chỗ đứng khác trong lòng những người thiết tha với quê hương dân tộc.

    Trong hai mươi năm văn học miền Nam, Nhật Tiến không ngừng nghiêng mình xuống những thân phận lạc loài, những tầng lớp thanh thiếu niên kém may mắn.

    Trong mười ba năm ở hải ngoại, ông đã chắn mũi chịu sào, mở luồng cho tư tưởng xoá bỏ hận thù, để mọi người – bên này cũng như bên kia – xích lại gần nhau. Và ở thời điểm này – mười bảy năm sau ngày thống nhất đất nước – việc đối thoại giữa người Việt với người Việt vẫn chưa phải là chuyện hiển nhiên – mà còn phải qua nhiều khó khăn, thử thách...

    Sau chuyến về thăm đất nước vừa qua – chuyến thứ nhì – nhà văn Nhật Tiến đã có nhã ý dành cho Thuỵ Khuê và báo Diễn Đàn một buổi nói chuyện về chủ đích chuyến đi của ông và những sinh hoạt của giới cầm bút trong nước mà ông đã có dịp tiếp xúc.

    Hỏi : Mỗi năm anh về Việt Nam một lần, năm nay anh thấy không khí khác năm ngoái như thế nào?

    Đáp: Về cá nhân thì tôi thấy có phần thoải mái hơn ở chỗ tôi không còn cảm thấy bị theo dõi như lần trước, mặc dù lần này tôi di chuyển được nhiều nơi hơn. Nhưng về mặt xã hội, tôi không thấy thay đổi bao nhiêu, nếu không muốn nói là đời sống dân chúng khó khăn hơn, mệt mỏi hơn. Điều này cũng dễ hiểu, vì các công nhân, viên chức, cán bộ đa số sống bằng đồng lương cố định. Họ ngày càng vất vả trước sự leo thang của vật giá.

    Hỏi : Anh vừa nói đã di chuyển được nhiều nơi hơn lần trước, vậy ngoài Sài Gòn anh còn đi những đâu, cảm tưởng của anh ra sao?

    Đáp: Lần này tôi có dịp đi xuống các tỉnh phía Nam như Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ, Long Xuyên. Trong một số thời gian hạn hẹp, tôi chỉ có thể nhìn thấy một cách tổng quát rằng đời sống của đồng bào ở các tỉnh mà tôi đã đi qua có vẻ bình dị hơn, ít hối hả, xô bồ, dữ dội như ở Sài Gòn. Tôi nhìn thấy một không khí thái bình mà ở đó mọi người đều cần cù, nhẫn nại lo xây dựng đời sống của mình.

    Hỏi : Anh về dĩ nhiên để thăm gia đình, ngoài ra anh còn mục đích gì khác nữa?

    Đáp: Về thăm gia đình, không nhất thiết phải về thường xuyên hàng năm. Thật ra chủ đích chuyến về lần này của tôi là thay mặt một số anh chị em cầm bút có lòng ở ngoài nước tìm cách góp phần vào công cuộc khai thông một sự trao đổi văn hoá hai chiều giữa trong nước và ngoài nước, ít ra là trên một số lãnh vực nào đó. Tất nhiên chuyện gì cũng cần phải có yếu tố thời gian, vì khoảng cách giữa hai nơi còn có nhiều dị biệt. Kết quả cụ thể đầu tiên hy vọng đạt được là một tuyển tập văn chương của hơn 30 nhà văn, nhà thơ hải ngoại do anh Khánh Trường đề xướng và thực hiện có thể sẽ được chính thức xuất bản ở trong nước vào khoảng giữa năm nay. Đây là một sự hợp tác xuất bản giữa Nhà xuất bản Văn Học ở trong nước và Nhà xuất bản Tân Thư của anh Khánh Trường ở ngoài nước.

    Hỏi : Anh có thể cho biết rõ hơn về cuốn tuyển tập này, về nội dung, về cung cách tuyển lựa bài vở, về vấn đề kiểm duyệt...?

    Đáp: Theo chỗ tôi được biết, các nhà văn nhà thơ ở hải ngoại nếu đồng ý tham gia tuyển tập sẽ tự lựa chọn lấy tác phẩm của chính mình, và với điều kiện khi in ra sẽ không được sửa đổi, dù một chữ. Tuy nhiên, vì là bước đầu trong hoàn cảnh còn nhiều vấn đề phức tạp như hiện nay, nội dung các tác phẩm sẽ chỉ nhắm vào các đề tài như dân tộc, quê hương, tình yêu và đời sống hội nhập. Theo tôi nghĩ, trong hoàn cảnh hiện nay, thực hiện được như thế cũng đã là một điều đáng kể, không nên trông đợi nhiều hơn, bởi việc gì cũng cần phải có yếu tố thời gian và tiến hành từng bước một.

    Hỏi : Anh có dịp gặp các văn nghệ sĩ không? Từ đó, qua những cuộc gặp gỡ đó, anh ghi nhận được những gì?

    Đáp: Số văn nghệ sĩ ở trong nước mà tôi được gặp gỡ nhiều hơn so với lần trước, đặc biệt là những cây bút mới, trong đó nhiều người chưa có tác phẩm in thành sách nhưng đã có những truyện xuất sắc in trên báo. Tôi có một cảm giác hết sức lạc quan về một thế hệ cầm bút mới đang hình thành để thay thế các thế hệ đàn anh. Họ giầu kinh nghiệm sống, tha thiết với văn chương và hầu hết, suy nghĩ rất sâu sắc, cũng như chan hoà tình người. Họ rất xứng đáng được sự hỗ trợ và cần được sự hỗ trợ của cả trong nước lẫn ngoài nước. Tương lai văn chương Việt Nam là ở trong tay họ chứ không phải trong tay giới trẻ ở hải ngoại.

    Hỏi : Về mặt thông tin, đồng bào trong nước có những nguồn nào? Các phương tiện truyền thông từ nước ngoài như BBC, VOA, RFI phổ biến ra sao? Nếu thiếu thông tin thì vì sao mà thiếu: vì họ không nghe đài quốc tế, hay thông tin của chính những đài này thiếu sót?

    Đáp: Về mặt tin tức thế giới, tuy lượng thông tin chưa dồi dào phong phú như ở nước ngoài, nhưng có thể nói là không thiếu thốn đến mức trầm trọng. Những biến cố xảy ra ở các nước Đông Âu, sự tan rã ở Liên bang Xô Viết, cuộc chiến tranh ở vùng Vịnh... đều được loan tin kịp thời trên các báo và đài truyền hình ở Việt Nam (với một kỹ thuật hướng dẫn ở mức độ vừa phải). Tuy nhiên, về mặt sinh hoạt của cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại thì quần chúng chỉ có thể tìm được ở các nguồn truyền thông như BBC, VOA, RFI hay một số rất ít báo chí Việt Nam ở hải ngoại lọt về qua ngả du lịch. Mặc dầu vậy, sự hiểu biết về sinh hoạt của người Việt ở nước ngoài đều còn rất hạn hẹp, nhiều khi còn cả sự sai lầm, ngộ nhận nữa. Tôi nghĩ, nếu thực tế có xảy ra như vậy thì cũng là một phần trách nhiệm của những người thực hiện các chương trình của những đài kể trên. Hình như quí vị ấy chỉ chú ý đến những sinh hoạt về mặt nổi hơn là đi sâu vào thực chất đời sống của người Việt nước ngoài. Có lẽ cần phải có một tinh thần mạnh dạn hơn, và sự quan tâm hơn đến sự suy nghĩ, và đời sống của đa số thầm lặng, vì đó mới chính là bộ mặt đích thực của người Việt ở nước ngoài.

    Hỏi : Giới trí thức và giới bình dân trong nước đọc các sách gì?

    Đáp: Đối với giới trí thức, ngoại trừ những sách báo in trong nước, họ không có nhiều sách báo bên ngoài để đọc. Đó là một sự hết sức đáng buồn. Còn độc giả bình dân thì khác, họ đang trực diện với một tình trạng sách báo xô bồ, hỗn tạp chẳng khác gì tình trạng đã xảy ra ở miền Nam trước năm 1975. Đến nỗi tờ Văn học và Dư luận, xuất bản ở Sài Gòn vào tháng 4-1992, đã có bài viết phải kêu lên “Loạn sách trên thị trường”. Bài báo có đoạn viết: “ Một số người lo âu cho sự xuống cấp của thị hiếu công chúng cũng lên tiếng về việc thị trường tràn ngập những sách hạ cấp, sách nhảm, và sách dỏm”. Hay là: “ Sách bán xon như rau muống chợ chiều tất phải đẻ ra hàng loạt những lái buôn các cỡ, đầu nậu lớn, đầu nậu nhỏ, bồi bút đâm thuê chém mướn, các kiểu quảng cáo bạt mạng, vô lương tâm, miễn sao có lời!” .

    Hỏi : Về độc giả thì như vậy, còn về phần những tác giả thì sao? Họ có những khó khăn gì về mặt sáng tác xuất bản?

    Đáp: Cũng nằm trong tình trạng đó, giới sáng tác đã phải kêu lên: “SOS văn chương thứ thiệt đang mất mùa”. Lời nhận xét này cũng được đưa ra trên tờ Văn học và Dư luận, nhưng bài viết lại xuất phát từ một cuộc gặp gỡ một số văn nghệ sĩ tại toà soạn một báo văn nghệ ở Hà Nội. Bài viết có đoạn: “ Chưa bao giờ lao động của những nhà văn tâm huyết với nghề văn lại bị trả với giá rẻ mạt như bây giờ. Chưa bao giờ thứ văn chương đích thực phải đi chào mời để chịu đựng những cái lắc đầu, phẩy tay nhục nhã như bây giờ. Chính vì thế mà chả cứ Hà Nội, mà ngay ở thành phố Hồ Chí Minh, ở Đà Nẵng, ở Huế, ở Hải Phòng, rất nhiều nhà văn đang sung sức, đang tích cực góp được cả một kho kinh nghiệm sáng tạo, đang náo nức muốn viết như muốn giãi bày, bộc bạch, bỗng tự nhiên cảm thấy mất hết hào hứng, nghị lực làm việc và... ngừng viết, chí ít là ba năm trước mắt. Xin hãy phát đi tín hiệu SOS vì sự mất mùa đã hiển hiện của dòng văn chương đích thực”.

    Hỏi : Các tác phẩm ở trong nước thì như thế, còn tác phẩm ở ngoài nước? Anh có nghĩ rằng các nhà xuất bản và các báo trong nước sẵn sàng in ấn các tác phẩm viết từ ngoài nước không? Nếu có sự ngần ngại thì sao? Tại vì e ngại phản ứng của chính quyền hay vì e ngại lập trường của các nhà văn hải ngoại?

    Đáp: Có lẽ cả hai. Trong tình trạng hiện thời tôi không thấy khả năng các báo trong nước có thể ấn hành các tác phẩm được viết ở hải ngoại, mặc dầu công việc này là một mong ước, một nguyện vọng chẳng những của độc giả mà còn của cả những người làm báo, làm xuất bản nữa. Theo tôi nghĩ, sẽ còn phải cần nhiều thời gian để tiến tới điều đó.

    Hỏi : Anh có tin vào sụ giao lưu văn hoá thực sự giữa trong và ngoài nước hay không?

    Đáp: Tôi vẫn tin tưởng tuyệt đối vào chuyện đó vì đó là một mảng quan trọng trong toàn bộ vấn đề hoà hợp, hoà giải dân tộc (một từ ngữ khác là đồng thuận dân tộc), một nhu cầu bức thiết của cả dân tộc, một sinh lộ duy nhất để nước ta thoát được cảnh khốn cùng và đi tới một tương lai tốt đẹp hơn.

    Hỏi : Hợp Lưu là tờ tạp chí sẵn sàng in các bản thảo văn học ở trong nước gửi ra. Theo anh, tại sao Hợp Lưu chưa nhận được các bài viết trong nước? Vẫn vì thiếu thông tin hay vì những điểm gì khác?

    Đáp: Sau 4 số đã ra mắt, Hợp Lưu vẫn có những trang in lại những sáng tác thơ, văn của các tác giả trong nước, như một nỗ lực phát đi những tín hiệu hoà hợp mở đầu. Nhưng vì tờ Hợp Lưu còn quá mới mẻ, số báo về được trong nước còn rất hạn hẹp, nên sự dè dặt nếu có đối với các tác giả trong nước là chuyện phải có. Tuy nhiên, theo chỗ tôi được biết, thì toà soạn Hợp Lưu cũng đã bắt đầu khởi sự nhận được thư từ hoặc bản thảo từ trong nước gửi ra. Việc sử dụng những thư từ, bản thảo này cũng đòi hỏi một sự thận trọng vì lý do an ninh của người viết. Đây là tình trạng của buổi giao thời. Tôi hy vọng, rồi đây, Hợp Lưu sẽ đóng trọn được vai trò của nó, tức là tờ báo đầu tiên đóng góp được vào công cuộc giao lưu văn hoá giữa trong và ngoài nước.

    Hỏi : Trước khi chấm dứt cuộc nói chuyện, xin anh một lời kết.

    Đáp: Sau chuyến về lần này, tôi cảm thấy gắn bó hơn, cảm thông hơn, với những hoàn cảnh, những tâm tư, những nguyện vọng của đa số đồng bào còn ở lại quê nhà. Tôi rất muốn chia sẻ với mọi người ở hải ngoại về những tâm tình đó. Nhưng đây không phải là vấn đề thuyết phục lý luận hay tranh cãi về lập trường yêu nước mà là vấn đề nhận thức kinh qua kinh nghiệm thực tế của mỗi người. Muốn hiểu được thực trạng quê hương, muốn cảm thông được với tình cảm tâm tư của những người ở lại tốt hơn là ta hãy trở về trực diện với quê hương để nghe, để nhìn, để trao đổi với những người dân bình thường bằng chính tấm lòng yêu thương rộng mở của mình. Tôi cho rằng đó là một cung cách hay nhất để ta có dịp nhìn lại chính mình, duyệt lại những nhận thức của mình trước khi tiếp tục muốn làm được điều gì thực sự tốt đẹp cho quê hương.
    (còn tiếp)
    Last edited by khieman; 12-19-2013 at 03:12 AM.

Trang 1 / 3 123 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-03-2013, 01:41 PM
  2. Những Vết Chân Trâu - Nhật Tiến
    By khieman in forum Truyện Ngắn
    Trả Lời: 3
    Bài Viết Cuối: 11-19-2013, 11:37 PM
  3. Nồi Cháo Thịt - Nhật Tiến
    By khieman in forum Truyện Ngắn
    Trả Lời: 3
    Bài Viết Cuối: 11-19-2013, 11:31 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •