(tiếp theo)
Ông có những truyện ngắn như Tặng phẩm của dòng sông, Giọt lệ đen, Đường vào trần gian.... mà chủ đề xoay quanh những thảm cảnh của thời chiến. Truyện Tặng phẩm của dòng sông là chuyện của con bò bị chết trôi theo dòng sông tấp vào chân cầu và bị những người dân quê đang tan tác trong lửa đạn đem lên xẻ thịt để ăn .. Truyện Giọt Lệ Ðen là chuyện một cô gái điếm thời lính Mỹ còn ở VN, khi xẩy thai đem chôn cái hài nhi có nước da đen nhẫy, còn truyện ngắn Đường vào trần gian thì diễn tả hoàn cảnh của hai angm mồ côi Tư Híp và Út. Tư Híp đến tuổi phải vào lính và phải mang thằng Út vào trại và nhờ có Hiên làm trong nhà bếp để săn sóc thằng nhỏ trong khi người anh bận hành quân xa. Những hoàn cảnh dị thường của chiến tranh.
Sáng tác đầu tay về Kịch của nhà văn Nhật Tiến là một vở kịch vui ông viết khi còn ở tuổi học sinh như đã nói ở trên. Sau này, năm 1962, ông cũng còn soạn kịch cho tráng đoàn Hướng Đạo Bạch Đằng, vở Cơn Giông trình diễn ở rạp Thống Nhất Sài Gòn để lấy tiền giúp đồng bào bão lụt miền Tây. Ngoài ra, ông còn một tác phẩm khác ang quan đến kịch là cuốn tiểu thuyết kịch Người Kéo Màn.
Tại sao gọi là tiểu thuyết kịch?
Ðó là một kỹ thuật kịch khá mới đối với nghệ thuật Việt Nam. Ông mang những yếu tố của tiểu thuyết vào kịch, sử dụng phương pháp tả cảnh xen lẫn vào trong phần đối thoại kịch của từng nhân vật và từ đó ở những không gian, thời gian khác nhau để ngắm nhìn sự kiện như một góc độ để nhận định và diễn tả.
Người Kéo Màn viết về xã hội và môi trường của những nghệ sĩ mà những nhân vật như ông lão kéo màn, người nhạc sĩ thổi kèn clarinette, đứa bé, cô gái còn trong trắng, chỉ là những tượng hình để người kéo màn nói đến cuộc đời với những sự sắp xếp của định mệnh. Từ những góc cạnh nhìn ngắm, cuộc sống trải ra nhiều mặt mà cái giả tạo hào nhoáng bên ngoài đã che lấp đi cái phần chân thực bên trong. Cuộc đời như một vở kịch, với những nét đẹp đẽ hào nhoáng ở ngoài tiền trường sân khấu nhưng ở bên trong lại là những phản diện đen tối đến không ngờ được. Những nhân vật hành xử và đối thoại nhiều khi đối nghịch với nhau và ở trong những chi tiết thực của cuộc sống để tượng hình cái giả của vở kịch. Người viết kịch nhiều lúc muốn là một diễn viên trong vở kịch và thôi thúc người đọc, người xem gia nhập vào vở kịch như đang sống một ngày, một tháng của cuộc sống chính mình đang diễn ra từng giờ từng phút.
Nhật Tiến còn là nhà văn xã hội mà tác phẩm tiêu biểu nhất là Thềm Hoang. Tiểu thuyết này đã đoạt giải văn chương toàn quốc năm 1962. Thềm Hoang là một tiểu thuyết lấy khung cảnh của một xóm lao động nghèo nàn ở ven biên một thành phố. Những nhân vật của truyện này là những người nghèo thất học và ngôn ngữ của họ là sự pha trộn một cách dung tục ngôn ngữ của hai miền Nam Bắc. Cái đặc sắc của tiểu thuyết này là tác giả đã phác họa ra những mẫu nhân vật đặc biệt với cá tính riêng và đầy chất sống động chân thực như cuộc sống lầm than của họ đang diễn ra ang ngày.
Trong một bài viết đăng trên tạp chí Văn Học, ông có giải thích tại sao lại chọn nhan đề Thềm Hoang. Khởi đầu khi viết, ông chỉ mang hai chữ đó để ám chỉ một xóm nghèo, mà những túp lều là nơi sinh sống của những người bất hạnh sống bên lề xã hội như những thềm đất hoang sơ bị bỏ rơi quên lãng trong một xã hội sa hoa sung túc. Nhưng, khi kết cuộc cuốn tiểu thuyết này, nhân vật Năm Trà bị phẫn uất đau đớn đến tột cùng nên đã châm lửa đốt rụi cả xóm Cỏ. Và như thế, cái xóm ấy đã thành một mảnh đất đầy tro bụi của những thềm hoang..
Trong tiểu thuyết ấy, có những nhân vật đặc biệt và những ngôn ngữ đặc biệt.
Nhà văn Nhật Tiến đã tạo dựng ra những mẫu nhân vật thật sống động. Họ mang những ngôn ngữ đời thường, của những người Bắc di cư vào Nam pha trộn với ngôn ngữ địa phương. Như cô Huệ với ngôn ngữ chanh chua của một gái điếm:
- Mệt không cô Huệ ơi!
Vẫn cái tiếng chanh chua của Huệ:
- Mệt cái phải gió, cha tổ bố, ít tiền mà cứ muốn của đẹp!
Hay Lão Hói với những câu thơ mà ông ta ang nghiệm như một thuyết lý của định mệnh: tất cả đều có ông trời hết:
Ngọc xuất thiên cung thủ quả châu
Hoàng thiên thương mến quả địa cầu.
Giáng tạo thay đời không tranh đấu
Thế giới thanh bình khỏi thuế sâu..
“ Lão Hói rúc lên cười, hai hàm răng của lão nhô ra, hở hết cả lợi:
- Ông trời chớ ai! Ông trời chớ ai!
- Vậy ai sinh ra ông trời kia chớ?
- Ý! Trời đất ơi! Ðã là ông trời thì ai sinh được ổng nữa cơ chớ ổng là nhứt hết thảy mà..
Huệ phản đối lão bằng cách lấy chân đá một viên sỏi nhỏ về phía lão rồi bỏ đi. Mùi nước hoa thoang thoảng trong gió mát làm mũi lão hếch lên. Lão lim dim nhìn cái mông của nàng ngúng nguẩy theo nhịp bước. Lão nhớ đến câu hát của bác Tốn vẫn thường gảy đàn, giọng vọng ra:
- Cô Huệ ơi
Nếu cô lấy tôi thì tôi xây nhà gạch hai tầng
Tôi mua ô tô cho cô ngự, mua váy đầm cho cô thay…
Rồi những nhân vật khác: Hai Hào, Ðào, Phó Ngữ, bác Nhan, vợ chồng Năm Trà, Cái Hòn, Thằng Ích, U Tám ,.. tất cả những nhân vật ấy sinh hoạt , chửi rủa nhau, giúp đỡ nhau, và cùng chia sẻ với nhau những mảnh đời sống của một xóm nghèo bình dân.
Bà Thụy Khuê nhận xét rằng Thềm Hoang là một tác phẩm không viết về chiến tranh nhưng chống chiến tranh và là một tác phẩm có ý hướng hòa giải hòa hợp dân tộc. Có người đã hỏi tôi có suy nghĩ nào về nhận xét này.
Tôi đọc Thềm Hoang từ lúc còn đi học và lúc đó thì chiến tranh chưa nổ lớn và những cái gọi là hòa giải hòa hợp dân tộc còn xa lạ. Thành ra, tôi rất ngạc nhiên khi đọc những nhận xét của bà Thụy Khuê mà có người thắc mắc ở trên. Tôi nghĩ đó có thể là một cách suy nghĩ đi quá xa trong hoàn cảnh nhà văn Nhật Tiến sáng tác lúc đó. Thời gian mà nhà văn Nhật Tiến viết Thềm Hoang là thời kỳ đệ nhất Cộng Hòa của chính phủ tổng thống Ngô Ðình Diệm. Lúc này cả một triệu người miền Bắc di cư vào miền Nam và đang tạo dựng lại đời sống. Thành ra, ngôn ngữ của những nhân vật Xóm Cỏ pha âm hưởng của nhiều địa phương và có nhiều ngôn ngữ dung tục nhưng được tác giả sử dụng rất tự nhiên nên có sức sống động và lôi cuốn. Như “nói như bố chó xồm” của bác Tốn, như “khí gió đùng lăn chửa” của Huệ, như “chế nhạo cái gì, chế cái nỗ đít” của Hai Hào…
Nếu phát biểu một cách rốt ráo thì, với Thềm Hoang, tôi nghĩ đó là một tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nhật Tiến. Có thể, trong truyện có nhiều hư cấu nhưng với tôi lại có chất tả thực nhiều hơn. Viết về một xã hội bất hạnh như thế, phải là người đã sống và đã có những cảm giác chân thực của người đã trải qua. Tôi cũng có lúc ở một xóm lao động như xóm Cỏ nên khi đọc những trang sách thường hay hồi tưởng về những tháng ngày cũ. Ở đó, người dân sống tạm bợ qua ngày, và có lúc dù xích mích nhau hay chửi bới nhau nhưng vẫn đậm đà tình hàng xóm láng giềng, chia xẻ với nhau những niềm bất hạnh chung. Họ không có sự cư xử của những người đạo đức giả, mà ở họ là chân thực một tình người không đãi bôi không giả dối và sẵn sàng đùm bọc nhau khi hoạn nạn.
Nhà văn Nhật Tiến làm việc một cách cẩn trọng và rất cố công để tạo ra những mẫu nhân vật độc đáo, có nét chân thực của đời thường nhưng lại biểu hiện được những cá tính của một thời đại họ đang sống. Ông có lần đã viết về cách tạo dựng nhân vật của mình :
“... Tôi đã bỏ ra nhiều ngày để nghiền ngẫm về từng nhân vật trong tác phẩm của mình. Ðể cho lề lối làm việc có vẻ khoa học hơn, tôi đã làm những tấm phiếu trên từng tấm bìa nhỏ. Mỗi tấm có đề tên một nhân vật và trong đó tôi đã ghi chép tất cả mọi đặc tính về hình hài, mọi cá tính, thói quen về tâm lý hay tình cảm và hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh xã hội mà tôi muốn diễn tả. Nhờ những tấm phiếu ghi chép này mà hình ảnh mỗi nhân vật hiện ra rõ nét hơn trong thế giới tưởng tượng của tôi và nó đã giúp tôi diễn tả môt cách rõ ràng mỗi khi ngồi trước trang giấy. Trong quá trình sáng tác tôi luôn luôn tự hỏi điều gì làm cho nhân vật của mình không lẫn lộn với đám đông bình thường và có tính cách nổi bật riêng biệt. Theo tôi đó là sự chú trọng diễn tả thói quen cố hữu của mỗi người, ngôn ngữ đặc trưng mà mỗi nhân vật hay sử dụng và dĩ nhiên mỗi nhân vật phải có một nội tâm riêng biệt do hoàn cảnh xã hội và môi trường chung quanh mà tác phẩm dựng lên..”.
Sau năm 1975, ông ở lại Sài Gòn tới cuối năm 1979 thì vượt biển và định cư ở Hoa Kỳ. Ông cùng với Dương Phục và Vũ Thanh Thủy viết “Hải tặc trong Vịnh Thái lan”, lột trần thảm trạng của thuyền nhân và lên tiếng với cộng đồng quốc tế để can thiệp cho những người tị nạn bất hạnh. Ông tích cực hoạt động trong Ủy Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển và sau đó mới có các tàu đi vớt thuyền nhân ở Biển Ðông và các nước trong thế giới tự do cho phép những người tị nạn định cư ở đất nước thứ ba.
Sáng tác của ông trong thời kỳ này là các tập truyện ngắn: Tiếng Kèn, Một Thời Ðang Qua, Cánh Cửa và truyện dài Mồ Hôi Của Ðá.
Chủ đích sáng tác của ông trong thời kỳ này là phản ánh thực trạng của xã hội Việt Nam, và đưa một cái nhìn mới về cuộc chiến tranh đã qua cũng như hướng nhìn mới để vượt qua những chiến tuyến ngăn trở dân tộc trên con đường đoàn kết để xây dựng đất nước. Chính vì chủ trương này mà có sự ngộ nhận và phê phán cho rằng ông thiên tả và kết tội ông đã quên đi cương vị của một nhà văn lưu vong.
Truyện dài Mồ Hôi Của Ðá nội dung ra sao mà gây ra sự tranh luận như vậy? Ở vị trí của một người đọc tôi có nhận xét như thế nào về tác phẩm này? Truyện dài này là câu chuyện xảy ra ở một nhà in và thời gian là sau ngày mà Cộng Sản chiếm đóng miền Nam. Ðó là lúc mà chế độ mới tiếp thu các cơ sở sản xuất mà cả hai bên, những người cai trị và những người bị trị phải sống chung với nhau với những va chạm về ý thức hệ hoặc về những nguyên tắc làm việc. Nguyệt, một công nhân trẻ, tin theo lý tưởng là mình sẽ góp sức để tạo thành một điều gì tốt đẹp, được đề cử làm Bí thư chi đoàn thanh niên của xí nghiệp in và rất hăng hái làm việc trong trách vụ này. Nhưng thực tế không như cô nghĩ nên trở thành người thất vọng ê chề.
Hoàng , một nhà văn từ miền Bắc vào, qua những kinh nghiệm sống của đời mình đã cho rằng chế độ này là một chế độ tồi tệ hơn cả chế độ phong kiến thực dân thời xưa nữa. Toàn, người yêu của Nguyệt, không đồng ý với công việc của Nguyệt mà anh cho là của người theo gió trở cờ, nhưng lại tin vào những người đã thức tỉnh trước thực tế như Hoàng, hay như Năm Tỏa, một cán bộ có suy xét phán đoán, sẽ làm thành những mầm mới lạc quan. Nguyệt sẽ là người đi theo con đường mới để thay đổi nhận thức của mỗi người. Cũng như Hoàng và Toàn cũng bắt đầu khởi đi công cuộc vận động về văn hóa với nhóm văn nghệ Chân Ðất song hành với Nguyệt .
Nhà văn Nhật Tiến cho rằng trong hoàn cảnh hiện tại, phải có nhận thức mới, mà những kẻ ở bên này hoặc bên kia giới tuyến nếu bị đàn áp thì cũng sẽ chọn chung một thế đứng đấu tranh chống lại những kẻ áp bức. Và, bất cứ lúc nào, sự bất công cũng như những hành động không nhân bản cũng là mục tiêu phải đấu tranh để xóa bỏ của dân tộc Việt Nam.
Có một truyện ngắn khác cũng bị phê phán là thiên cộng là truyện ngắn Gặp Gỡ Ngày Cuối Năm, kể lại người anh là đại tá Việt Cộng đến thăm người em là tù cải tạo nhưng người em từ chối không gặp. Ðó là một bi thảm của một cuộc chiến mà anh em ruột thịt đứng hai bên chiến tuyến ghìm súng bắn vào nhau. Ðến khi chiến tranh chấm dứt, vẫn còn nguyên giới tuyến.
Từ Nhật Tiến của lòng nhân ái đối với tuổi thơ bất hạnh đến Nhật Tiến luôn đòi hỏi công bằng cho những người bị đàn áp, và Nhật Tiến của những nhận thức trung thực nhìn về tương lai dân tộc, hình như tôi thấy có nhiều điểm đồng nhất giữa tác giả và tác phẩm
Ở trong bất cứ tác phẩm nào của ông, từ bất cứ thời kỳ nào, tôi vẫn thấy rõ là một con người Nhật Tiến. Ðó là con người của Hướng Đạo, của sự ngay thẳng, của lòng nhân ái luôn đứng về phía của những người yếu thế trong xã hội. Không phải là thái độ cưỡi ngựa xem hoa, coi đau khổ của người khác để làm vui cho chính mình, mà là thái độ của người “ Ðứng ngoài nắng” như nhà văn Mai Thảo nhận xét.
Có lúc tôi thấy nhà văn Nhật Tiến nhiều khi đã quá coi trọng văn chương và vai trò của kẻ sĩ. Mà thực tế, trong một xã hội chiến tranh đầy biến cố, thì lại là một vấn đề khác, khi lý tưởng luôn luôn ở ngoài tầm tay?
Chính nhà văn Nhật Tiến cũng cho rằng khi ông kết cuộc tiểu thuyết Thềm Hoang thì có nhiều người phê bình cho rằng hành động thiêu rụi cả xóm Cỏ của nhân vật Năm Trà là cách giải quyết vấn đề quá dễ dãi và đầy tính tiêu cực. Và ông đã nhận rằng có lúc ông thấy sự nhỏ nhoi và yếu đuối của ngòi bút .
Nhưng không phải giản dị như vậy, trong thâm tâm ông vẫn tin tưởng vào tác dụng của văn học và giá trị trường cửu của nó. Bằng cây bút, ông tranh đấu cho những mục tiêu mà ông tin tưởng. Luôn luôn trung thực và tin vào lẽ phải của cuộc đời, của giá trị của con người dù ở bất cứ hoàn cảnh nào.
Ở vai trò của một độc giả, tôi thấy những tác phẩm của ông có ngôn ngữ trong sáng và bố cục giản dị. Có người nói ông chịu ảnh hưởng của Tự Lực Văn Ðoàn thời tiền chiến nhưng riêng tôi, lại nghĩ rằng những vấn đề mà ông nêu ra trong tác phẩm của mình gần gũi với đời sống và có sự giản dị tự nhiên của cuộc sống hàng ngày. Ông không cố công sử dụng một kỹ thuật nào khi cầm bút, mà chỉ đem tấm lòng cùng sự trung thực của mình để làm cho độc giả cùng chia sẻ.
Chính thái độ tin tưởng vào con người và những giá trị nhân bản mà ở bất cứ chủ đề nào, có nhiều hay ít sự nhám nhúa đen tối của sự thực, sau cùng vẫn là sự hướng thượng và nhìn vào tương lai .
Ngoài ra, ở đời thường, tôi nhìn ông như một người anh văn chương có nhân cách và lý tưởng. Có một thời gian, khi mới bắt đầu tập tành chữ nghĩa, tôi đã có những cuộc họp mặt hàng tháng ở nhà của ông để cùng với những người anh, người bạn tin tưởng rằng khi ra sống ở nước ngoài là phải mang tâm tình của những người còn ở lại, nói ra những ước muốn và giãi bày những tâm tư thời đại của một giai đoạn vô cùng tệ mạt của lịch sử chúng ta. Không biết có phải đó là một động lực để tôi còn cầm bút đến tận bây giờ không ?
NGUYỄN MẠNH TRINH
***
Cuốn NGƯỜI KÉO MÀN,
tiểu thuyết kịch của NHẬT TIẾN
dưới mắt một nhà văn Tiệp Khắc.
Tôi đã đọc một số tác phẩm của các nhà văn Việt Nam như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Vũ Bằng và Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương ( Nguyễn Huy Thiệp và Dương Thu Hương qua bản dịch tiếng Pháp). Bây giờ, tôi vui mừng được đọc cuốn tiểu thuyết kịch “ Người Kéo Màn” của nhà văn Nhật Tiến, một nhà văn xuất thân từ Miền Nam VN mà đã có thời kỳ chúng tôi gọi là “nhà văn phía bên kia”, hiện đang định cư tại Mỹ.
Cảm giác đầu tiên của tôi sau khi đọc cuốn này là tôi đã bàng hoàng khi cảm nhận được “ sự giao thoa giữa hai nền văn hoá châu Âu và châu Á”. Với bút pháp đầy trí lực, và cao hơn, tính nhân văn hay nói một cách chính xác là ông đã viết tác phẩm này bằng một trái tim nhân hậu, biết yêu thương và biết cả căm giận. Theo tôi, tác phẩm đã làm nổi lên hai nhân vật chính : thằng bé tên Cưng và lão già kéo màn. Đứa bé là một nhân chứng “ hồn nhiên” cho sự xuống cấp về đạo lý con người trong khi lão kéo màn là một chứng nhân lạnh lùng. Cả hai đã như một thứ đòn bẩy để đẩy lên cái sân khấu rộng rãi nhất, đó là cuộc đời !
Để hướng tới cái Đẹp, người ta phải đánh nhau với bản năng. Người kéo Màn của nhà văn Nhật Tiến đã đem lại cho tôi một niềm tin, đó là : “ Khi đã biết ghê tởm với cái xấu, cái thói vô trách nhiệm thì con người sẽ nhận ra cung cách ứng xử với nhau sao cho tử tế hơn.”
Từ những năm đầu thập niên 60, ( lúc chúng tôi đang chuẩn bị cho việc tiến hành Mùa Xuân Dân Chủ 1968 tại Tiệp), thì ở Việt Nam, nhà văn Nhật Tiến cũng đã khởi sự sáng tác tác phẩm này, tôi coi như ông cũng đã cùng chúng tôi “ làm một cuộc cách mạng về tình yêu thương hướng về cái nhân bản trong con người”.
Khả năng tiếng Việt của tôi không khá lắm nhưng cũng tạm đủ để hiểu được cái thông điệp mà nhà văn Nhật Tiến muốn gửi tới bạn đọc :
“ Hãy sống cho tử tế, lương thiện với nhau trước khi muốn bầy tỏ tình yêu đối với đất nước.”
Tôi hân hạnh được đọc Nhật Tiến và tôi hy vọng Tổ quốc của các bạn, một ngày không xa sẽ thoát khỏi gông cùm chuyên chế của một thể chế độc tài.
Dr. LUBOMIR SVOBODA
(Thành viên Nhóm Hiến Chương 77,
nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu Việt Học )
(còn tiếp)