Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Hạnh phúc sẽ tự mất đi khi nào người ta tự thỏa mãn về nó. Hạnh phúc sẽ chỉ bền vững khi người ta luôn luôn vươn tới và hoàn toàn khát vọng.
K.G. Paustopski
Trang 1 / 2 12 Cuối Cuối
Results 1 to 10 of 12

Chủ Đề: Sự Thật không thể bị chôn vùi - Nhật Tiến

  1. #1
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết

    Sự Thật không thể bị chôn vùi - Nhật Tiến

    .

    Sự Thật không thể bị chôn vùi
    Nhật Tiến






    LỜI NÓI ĐẦU

    Như đã thông báo trong Hành Trình Chữ Nghĩa cuốn I, cuốn II của tập sách này đã tới tay bạn đọc với tên “SỰ THẬT KHÔNG THỂ BỊ CHÔN VÙI”.

    Tựa đề này hẳn gây thắc mắc cho bạn đọc : “Sự thật nào đã bị chôn vùi ?”

    Xin nói ngay, kể từ khi miền Nam bị mất vào tay Cộng sản, đã có hàng ngàn, hàng vạn con người mang theo những kinh nghiệm sống chất chứa rất nhiều sự thật hãi hùng trước khi họ bị vùi thây trong rừng sâu, nơi biển cả, hay trong các trại cải tạo..v…v…Những Sự Thật ấy tuy riêng lẻ, tuy xẩy ra ở những thời điểm khác nhau, không gian khác nhau, nhưng trong một ý nghĩa nào đó, có thể gói chung vào hai chữ “vận nước” mà phạm vi cuốn sách nhỏ bé này không có ý định đề cập tới.

    Ở đây, người viết chỉ nói đến một vài Sự Thật, tuy không lớn lao và hãi hùng như đã xẩy ra trong vận nước, nhưng trong sinh hoạt chữ nghĩa ở hải ngoại, triền miên trong nhiều năm ròng rã, cho đến nay nó vẫn bị chôn vùi.

    Đó là sự thật về những thiện chí của nhiều người muốn đóng góp tâm sức vào công cuộc chung của Cộng đồng nhưng rồi đã bị xuyên tạc, bôi nhọ do ý đồ đen tối của nhiều kẻ chỉ muốn gây chia rẽ hàng ngũ cầm bút hoặc triệt hạ những nhân vật có thiện chí để khiến cho tiềm năng chống Cộng của người Việt hải ngoại trở nên suy yếu đi.

    Nhưng cái hậu quả tệ hại nhất sinh ra bởi những mưu đồ triệt hạ liên tục không ngơi nghỉ này, là nhiều người Việt đã nẩy sinh lòng thắc mắc, nghi hoặc, tâm trạng hoang mang, thậm chí đến nỗi tuy nhìn nhau mà không còn phân biệt được ai là bạn, ai là thù.

    Sở dĩ để xẩy ra cái tình trạng đau lòng như vậy là vì ta đang sinh sống ở một xứ tự do. Đã có nhiều kẻ lợi dụng sự tự do quý báu này để làm xáo tung hàng ngũ những người Việt hải ngoại lên bằng đủ mọi thủ đoạn đê hèn qua những lời lẽ hạ cấp, ti tiện để xuyên tạc, chụp mũ, dựng chuyện lên đời tư của nhiều người khiến cho trong một thời gian dài cả nhiều chục năm, nhiều người chân chính tuy đứng trong cùng một hàng ngũ, tuy cùng chia sẻ với nhau lý tưởng chống CS và xây dựng lại quê hương nhưng lại đã nhìn nhau ngỡ ngàng, lắm khi còn sinh ra đến cả sự khinh bỉ hay hận thù.

    Đây là một trong những nguyên nhân khiến cho Cộng đồng VN hải ngoại trong nhiều thập niên qua, tuy vững mạnh về mặt đời sống nhưng rất yếu kém trong thành quả chống lại CSVN.

    Xin lấy một ví dụ cụ thể :

    Vào cuối thập niên 80, đất nước đã tới thời điểm cực kỳ đen tối : Đổi Mới hay là Chết, nên Tổng Bí Thư của Đảng CSVN là Nguyễn văn Linh vào khoảng năm 1987 đã phải chấp nhận một sự đổi mới và để cho văn nghệ sĩ trong nước được tự do phần nào viết lên tâm tư, nguyện vọng của mình. Nhờ thế mà ở trong nước, vào thời điểm đó đã nổi lên một cao trào mà ở hải ngoại mệnh danh là “cao trào văn chương phản kháng”.

    Trên phương diện sách lược chống lại Cộng sản, thì dù có đặt nghi vấn là “phản kháng thật hay phản kháng giả” thì mọi người cũng nên thổi vào đám lửa “phản kháng” đó cho nó bùng rộng thêm và khiến cho sự kiện đó hóa ra“lộng giả thành chân” thì mới phải.

    Biết đâu, trong hàng ngũ những nhà văn, nhà thơ gọi là phản kháng đó lại chẳng có những con người khát khao tự do thực sự, viết ra những lời tâm huyết thực sự và muốn tâm tư, tình cảm của mình được tất cả mọi người Việt trên toàn thế giới lắng nghe?

    Đây là lý do mà nhiều anh chị em trong làng văn, làng báo ở hải ngoại hồi cuối thập niên 80 đã ngồi lại với nhau, bỏ công sức biên soạn một cuốn sách mà chính chế độ CSVN khi hết “cởi trói văn nghệ sĩ” lại cũng muốn đem vùi giập.

    Cuốn sách mang tên ‘TRĂM HOA VẪN NỞ TRÊN QUÊ HƯƠNG”, lấy ý tưởng của nhà biên khảo Hoàng văn Chí hồi cuối thập niên 50’s viết cuốn Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc (hồi đó cộng sản chỉ mới chiếm miền Bắc) khi nói về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.



    Khi nhóm biên soạn chúng tôi sử dụng những chữ “Vẫn Nở” là có ngụ ý rằng tinh thần Nhân Văn Giai Phẩm của văn giới trong nước hồi thập niên 50, sau hơn ba chục năm sau vẫn còn tồn tại, và do đó đã tạo nên phong trào Văn Chương Phản Kháng để cho ta thấy rằng từ hồi Nhân Văn Giai Phẩm đến nay, sau biết bao nhiêu vùi giập mà Trăm Hoa VẪN NỞ .....

    Ý hướng của nhóm thực hiện rõ ràng như thế mà vẫn bị đám tay sai nhà nước cộng sản hợp sức cùng một vài tên lộn sòng vào hàng ngũ cầm bút khác, nhất loạt xuyên tạc nội dung của cuốn sách để dẫn dắt dư luận cộng đồng đi theo một hướng khác, đến nỗi nhiều người chỉ mới nghe thấy tên cuốn sách “Trăm Hoa Vẫn Nở….” là đã nghĩ ngay đó là sản phẩm tuyên truyền cho Cộng Sản rồi.

    Cho nên, đã tới lúc phải để cho Sự Thật không bị chôn vùi, phải có một hợp lực đồng loạt lên tiếng để xóa tan những ngộ nhận, vạch mặt chỉ tên những bàn tay lợi dụng ngòi bút để phá hoại Cộng đồng ngõ hầu vừa làm sạch mội trường chữ nghĩa, vừa trả lại công bằng cho những người công chính.

    Biên soạn cuốn sách này, ngoài việc góp phần cho mục đích kể trên, tôi còn tiếp tục ghi lại vài dấu ấn trong cuộc hành trình chữ nghĩa của tôi, và nhân dịp này tôi cũng mong muốn góp phần vào công cuộc dọn dẹp sạch sẽ môi trường chữ nghĩa tại hải ngoại vốn đã từ lâu bị bôi bẩn bằng những thứ văn phong tục tĩu, vô văn hóa của một số ngòi bút vẫn tự phong cho mình vai trò ngự sử văn hóa, văn nghệ, nhân danh lý tưởng chống Cộng để vùi giập, hạ nhục rất nhiều con người công chính.

    Thành quả chống Cộng chẳng thấy đâu, mà chỉ thấy bọn này đã làm lợi rất nhiều cho Cộng sản.

    Như đã thưa trước trong Lời Mở Đầu, việc tôi biên soạn cuốn sách này, ngoài việc làm sáng tỏ thêm những ngộ nhận đã từng bao trùm lên cuốn sách Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương cùng một số tác phẩm của riêng tôi, tôi còn mong muốn góp phần vào công cuộc dọn dẹp sạch sẽ môi trường chữ nghĩa tại hải ngoại vốn đã từ lâu bị bôi bẩn bằng những thứ văn phong tục tĩu, vô văn hóa của một số ngòi bút vẫn tự phong cho mình vai trò ngự sử văn hóa, văn nghệ, nhân danh lý tưởng chống Cộng để vùi giập, hạ nhục rất nhiều con người công chính.

    Đây là một hậu quả bi thảm của tình trạng Tự Do trong địa hạt Chữ Nghĩa đã bị lạm dụng tối đa bởi những kẻ không biết “ liêm sỉ” hay “tinh thần trách nhiệm” là cái gì. Bọn chúng chỉ viết cho sướng tay, cho thỏa mãn tự ái cá nhân và đầu óc bệnh hoạn vốn chỉ chất chứa những hình ảnh tục tĩu để lúc nào cũng sẵn sàng văng ra trên bài viết của mình.

    Tôi nói không ngoa!

    Thí dụ có mấy ai biết rằng Nguyễn Hữu Nhật với bút danh Chém Đá, phụ họa với Nguyễn Hữu Nghĩa với bút danh Mõ Làng Văn trong một bài viết về một nhân vật già khả kính là bà Khúc Minh Thơ, Chủ tịch Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị, mượn cớ thằng nhỏ phải mặc quần rộng vì nghịch ngợm cứ phải xốc lên, để đưa ra 2 câu thơ với ý đồ bệnh hoạn, tục tĩu không thể che giấu:

    “Xốc quần quần tụt tụt quần.
    Xốc sao cho bọn cù lần mỏi tay”
    (Trong cuốn Đá đổ mồ hôi, của Sắc Không (tức Nguyễn Hữu Nhật) ở Na Uy do Làng Văn của Nguyễn Hữu Nghĩa ở Canada xuất bản).


    Người Việt chân chính hỏi ai mà không phẫn nộ khi nhận ra rằng môi trường văn hóa hải ngoại đã bị bọn chúng quấy hôi bôi nhọ đến như thế !

    Trên đây chỉ là một ví dụ trong hằng hà sa số những bài viết hạ thấp Nhân phẩm cũng như bôi đen Chính nghĩa chống Cộng xuất hiện đầy rẫy trên báo chí, trên Internet trong hàng chục năm vừa qua.

    Tôi nghĩ, đã tới lúc chúng ta không thể tiếp tục cho phép tình trạng viết lách hỗn loạn , tục tĩu, vô luân ấy được duy trì mãi để khiến cho người Việt ở hải ngoại cứ bị mang tiếng xấu xa chỉ vì từ lâu đã dung dưỡng những loại cầm bút vô trách nhiệm, kém đạo đức và thiếu lương tâm này.

    Ước mong những nỗ lực chính đáng và chân thành của tôi sẽ không trở thành tiếng kêu trong sa mạc...

    NHẬT TIẾN
    California , tháng 5 năm 2012
    Last edited by khieman; 12-24-2013 at 06:54 PM.

  2. #2
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    PHẦN I
    Cuốn Trăm Hoa
    Vẫn Nở Trên Quê Hương

    Cái nhìn của một người trong cuộc về cuốn
    TRĂM HOA VẪN NỞ TRÊN QUÊ HƯƠNG


    TRĂM HOA VẪN NỞ TRÊN QUÊ HƯƠNG là nhan đề một cuốn sách được biên soạn bởi 27 người viết ở hải ngoại vào cuối thập niên 80 khi ở trong nước có vấn đề “đổi mới” và “cởi trói cho văn nghệ sĩ”.

    Chính nhờ đường lối cởi mở này (dù chỉ trong một thời gian ngắn ngủi rồi lại bị khép lại) mà nhiều tâm tình thầm kín, nhiều ước vọng tự do của cả người viết lẫn người đọc có dịp được bung ra, in ấn tràn lan trên nhiều trang báo trong nước.

    Là những người sinh hoạt trong giới Văn Học Nghệ Thuật ở hải ngoại, nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình hay biên khảo đã cảm thấy mình có liên đới trách nhiệm đến sự kiện kể trên và nhất là thấy nội dung vấn đề rất gắn bó với nhu cầu đấu tranh cho Tự Do và Dân Chủ trên đất nước. Vì thế, một số đông đảo anh chị em cầm bút đã ngồi lại với nhau trong những buổi gặp gỡ cuối tuần ròng rã trong cả gần hai năm trời để:

    1) Tìm hiểu cặn kẽ diễn tiến của phong trào văn chương đổi mới mà chúng tôi gọi tên là Văn chương Phản kháng, có mục tiêu “không chấp nhận loại văn chương cung đình” vốn đã tồn tại trước đó ở trong nước.

    2) Góp phần phổ biến những lời tâm huyết, những sáng tác mang đầy những ước mơ về quyền làm người của nhiều văn nghệ sĩ trong nước, điển hình như:

    - “ Mình trót nói dối hết hai phần ba thì cũng phải tự phủ định hai phần ba ấy. Đến tuổi này, lúc này, không nói dối được nữa.”
    (nhà văn Nguyễn Khải).

    - “ Không phải cứ là nhà chính trị thì cao hơn nhà nghệ sĩ. Nhà văn lớn phải là nhà tư tưởng lớn. Chính trị có nhiều cấp độ, thật đáng buồn khi người ta đòi văn nghệ trở thành sự vụ.... tức là hạ chính trị xuống những cấp độ thông tục nhất và bắt văn nghệ "phục vụ" ở cấp độ ấy.”
    (Tạ văn ThànhHọc viện Nguyễn Ái Quốc).
    -“ Kiểu bảo trợ có nhiều mức, nhiều dạng, nhưng mức cao nhất là đẻ ra nghệ thuật quan phương, như kiểu "tao đàn" của Lê Thánh Tông. Dạng nghệ thuật này khó mà có giá trị cao, vì nó gắn với "cảm hứng nhà nước" diễn đạt tư tưởng của nhà nước nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nước. Trong khi đó, nghệ thuật chân chính phải phát ngôn ý thức nhân dân, ý thức thời đại, phải diễn đạt nhu cầu phát triển con người và xã hội cao nhất của thời đại và dân tộc.
    (Nguyễn Đăng Mạnh- Đại Học Sư Phạm)
    ….v…v…
    3) Nhóm biên soạn cũng muốn gióng lên lời đáp ứng nhiệt thành rằng: những nguyện vọng chính đáng của anh chị em cầm bút trong nước nói riêng, và toàn thể đồng bào nói chung đã được bên ngoài nước lắng nghe và được hỗ trợ bởi khối đông đảo người Việt hải ngoại, tất nhiên trong đó cũng có giới cầm bút.

    4) Chúng tôi gom góp các tài liệu văn học nghệ thuật được sáng tác trong thời gian đó kèm thêm những bài nhận định, tổng hợp hay phê phán do chúng tôi viết để in thành cuốn “Trăm Hoa Vẫn Nở trên Quê Hương”.
    ***
    Một công việc làm với đầy đủ ý nghĩa như thế tất không thể là một sự “quỵ lụy, lòn gối, lấy lòng CSVN” như một số dư luận từ xưa tới nay đã nghĩ, do nhiều người đã bị hướng dẫn bởi vài kẻ cầm bút thiếu lương tâm, sách thì chưa đọc, chưa biết sự thể Ất Giáp thế nào đã nhào vô chửi bới với lời lẽ rất vô văn hóa để chứng tỏ ta đây mới là người đích thực chống Cộng và có quyền vùi giập bất cứ ai không vừa ý mình.

    Nhưng có biết đâu, càng chống cuốn “Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương” bao nhiêu thì càng rơi vào ý muốn của đám lãnh đạo CSVN bấy nhiêu. Bằng cớ là chỉ vài năm sau, tất cả những tâm tư, nguyện vọng về tự do sáng tác ghi gói trong phong trào văn chương phản kháng đều đã bị chính quyền trong nước dẹp bỏ.

    Bây giờ, thời gian đã trôi qua trên 20 năm, tưởng cũng đã đủ để nhìn lại sự việc một cách chính xác, và nhất là để làm sáng tỏ những sự kiện xoay quanh cuốn sách này vốn vẫn còn gây thắc mắc trong tâm trí nhiều người mà vì lý do sách đã tuyệt bản, không mấy ai còn lưu giữ để có thể tìm hiểu cặn kẽ.

    Riêng cá nhân tôi, nhân danh một người đã góp phần biên soạn cuốn sách này, tôi thấy cần phải lên tiếng trả lời những luận điệu xuyên tạc đã có từ nhiều năm qua (và cho đến bây giờ nó vẫn còn được sử dụng mỗi khi thấy cần bêu tên cuốn sách để làm luận chứng chống Cộng) để một phần làm sáng tỏ vấn đề và phần khác, trả lại sự công bằng cho những thiện chí của nhiều người cầm bút, cả trong lẫn ngoài nước ở vào thời điểm cuối thập niên 80’s.

    Xin nêu một luận điệu chống đối hàm hồ sau đây do Nguyễn Thiếu Nhẫn đã viết:

    “Mấy ông văn nghệ sĩ lưu vong tỵ nạn chắc vì nhớ cái cũi sắt của “nền văn chương cũi sắt” ở trong nước mà họ đã liều sống, liều chết thoát ra, bèn ra báo Hợp Lưu và xuất bản sách “Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương ” đem về nước để dâng Đảng lập công....”...

    Tôi sẽ chứng tỏ lối phê phán kiểu này chỉ là sự bất lương cầm bút vì sự thực ra sao, nội dung cuốn sách sẽ tự nó nói lên . Xin mời độc giả tiếp tục đọc những phần kế tiếp.

    Trước khi đi vào phần nói về sự ra đời của cuốn Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương, một công trình biên soạn của 27 tác giả ngoài nước viết về 79 tác giả trong nước, được ấn hành vào tháng 9-1990 ở Nam Cali, xin mời độc giả đọc trước một số cảm nghĩ của các nhà văn, nhà thơ, nhà biên khảo..v..v.. ở VN vào thời kỳ của những năm 1986-1989 mà ta vẫn thường gọi là “Thời Kỳ Đổi Mới” với “Phong trào Văn Chương Phản Kháng”.

    I .- CẢM NGHĨ CỦA GIỚI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT TRONG NƯỚC
    TRƯỚC CHỦ TRƯƠNG “ĐỔI MỚI”


    1) Ngày 7 tháng 10 năm 1987, Tổng Bí thư Nguyễn văn Linh đã có một cuộc gặp gỡ với văn nghệ sĩ.

    Nhà văn Nguyên Ngọc, khi đó đang là Tổng Biên tập báo Văn Nghệ, tức là người có trách nhiệm duy trì đường lối của tờ báo và tuyển chọn các bài vở để cho in lên mặt báo, đã phát biểu một bài dài trong có đoạn như sau :

    Một nguyên nhân khác, theo tôi, là đẻ ra từ hệ tư tưởng bao cấp nặng nề thống trị trong suốt thời gian rất dài, kể cả “bao cấp về tư tưởng”. Có những thời kỳ dài, tôi xin nói một cách hình ảnh, cứ hàng quý đến kỳ anh tuyên huấn cấp dưới lại khăn gói lên tuyên huấn cấp trên, lĩnh một ít tư tưởng do cấp trên cấp phát cho, về để tiêu dùng cho mình và đơn vị mình trong suốt quý. Hết quý, lại đi lĩnh suất khác. Nếu chẳng may đến kỳ rồi mà giao thông trắc trở chưa đi lĩnh được suất tư tưởng mới thì đành lúng túng ngồi chờ vậy, chẳng thể tự mình nghĩ ra được và dám nghĩ ra cái gì khác. Bởi đã quen: quyền suy nghĩ là quyền của cấp trên!

    Tôi e rằng tình trạng này đến nay cũng chưa hết hẳn đâu.

    Trong văn học nghệ thuật, tình trạng này cũng nặng nề. Mãi gần đây, một hôm tôi được chứng kiến một nhà văn có tên tuổi hẳn hoi và đang giữ một cương vị khá quan trọng trong bộ máy lãnh đạo văn học ta, lên chỗ Ban Văn hóa văn nghệ Trung ương của đồng chí Trần Độ, nằng nặc đòi: “Trung ương phải chỉ đạo cho chúng tôi nên xây là chính hay chống là chính chứ! Lúc này văn học nên ca ngợi cái tốt là chính hay đấu tranh chống tiêu cực là chính? Phê bình đấu tranh đến mức nào? Tỷ lệ như thế nào?... Yêu cầu Ban của Đảng phải chỉ đạo cho chúng tôi!...”.

    Riêng tôi, hôm ấy, tôi nghĩ: nếu tự anh không biết được trước cuộc đời hôm nay anh cần ca ngợi cái gì, đấu tranh chống cái gì, anh yêu ai ghét ai, anh phải yêu như thế nào và ghét như thế nào... thì anh còn là nhà văn cái nỗi gì!”
    (Nhà văn Nguyên Ngọc phát biểu trong cuộc gặp gỡ của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với văn nghệ sĩ, ngày 7-10- 1987)
    Nguồn: http://www.viet-studies.info/NhaVanD...atHuyDayDu.htm

    2) Ngày 28 tháng 1-1988, tại tòa soạn báo Văn Nghệ ở Hà Nội có một cuộc hội thảo bàn tròn giữa nhiều văn nghệ sĩ, có thể kể : các nhà văn Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, các nhà phê bình nghiên cứu văn học Hoàng Trinh, Vũ Đức Phúc, Phong Lê, Bùi Công Hùng (Viện Văn học), Hà Xuân Trường (Tạp chí Cộng sản), Tạ Văn Thành (Học viện Nguyễn Ái Quốc), Từ Sơn, Nguyễn Nghĩa Trọng, Tú Ngọc (Ban Văn hóa văn nghệ Trung ương), Phan Hồng Giang (Nhà xuất bản Văn Học), Lại Nguyên Ân (Nhà xuất bản Tác phẩm mới), Hoàng Ngọc Hiến (Trường viết văn Nguyễn Du), Hồ Ngọc, Ngô Thảo (Hội nghệ sĩ Sân khấu), Nguyễn Đăng Mạnh, Phương Lựu, Lã Nguyên (Đại học Sư phạm I Hà Nội), Hà Minh Đức (Đại học Tổng hợp Hà Nội).

    Báo Văn Nghệ trong 2 số 9 và 10 ra những ngày 27-2 và 5-3-1988 có tường thuật buổi thảo luận này.
    Xin trích vài ý kiến đã phát biểu :

    - NGÔ THẢO (Hội nghệ sĩ Sân khấu):
    Nếu thời gian qua ta chưa làm được những gì lẽ ra có thể làm được thì cái chính là vì chúng ta đã quá gắn với một xã hội lấy chính trị làm thống soái.

    LÃ NGUYÊN (Đại học Sư phạm I Hà Nội):
    Có ý kiến nói nếu người lãnh đạo hiểu biết văn nghệ thì tình hình sẽ tốt đẹp. Không phải thế đâu. Phạm sai lầm trong các vụ việc trước đây là những người rất hiểu văn nghệ. Ai đã cấm văn nghệ dân gian chống tiêu cực trước đây ? và gọi nó là phản động? Ai đã cấm Hà Nội Trong Mắt Ai? Chính là những người rất hiểu văn nghệ. Lập trường quan phương đương thời khiến họ không chấp nhận những nghệ thuật nhân danh ý thức phi quan phương. Giải tỏa điều này thế nào, xin chốt lại ở dân chủ hóa, ở tự do sáng tác, mà tựu trung là chống bao cấp, nhất là bao cấp về tư tưởng. Vì bao cấp tư tưởng trong văn nghệ chính thống, quan phương, không cho nó bung ra để phát ngôn cho ý thức nhân dân, cho sự tự ý thức của lịch sử.

    TẠ VĂN THÀNH (Học viện Nguyễn Ái Quốc):
    Không phải cứ là nhà chính trị thì cao hơn nhà nghệ sĩ. Nhà văn lớn phải là nhà tư tưởng lớn. Chính trị có nhiều cấp độ, thật đáng buồn khi người ta đòi văn nghệ trở thành sự vụ....tức là hạ chính trị xuống những cấp độ thông tục nhất và bắt văn nghệ “phục vụ” ở cấp độ ấy.

    NGUYỄN KHẢI (Nhà văn):
    Ai bảo là từ 75 mới phát sinh tiêu cực, chứ thật ra nhiều cái đã có nguồn gốc từ trước đó lâu rồi, ví dụ như quan niệm hiện thực là phải tốt đẹp. Đã có những chủ trương giả, dẫn đến bố trí cán bộ giả, chính sách giả, kết quả cũng giả nốt. Viết theo sát cái đó thì thành văn chương nói dối, ba anh nói dối đối đáp nhau. Đến khi người ta nhận ra cái giả ấy, thay bằng chính sách khác, thì chính sách mình còn đó sờ sờ chịu trận, không trốn được. Mình trót nói dối hết hai phần ba thì cũng phải tự phủ định hai phần ba ấy. Đến tuổi này, lúc này, không nói dối được nữa.

    HỒ NGỌC : (Hội nghệ sĩ Sân khấu)
    Đọc Mác-Lênin, tôi không thấy chỗ nào nói văn nghệ phục vụ chính trị cả. Chỉ nói gắn bó, nói mật thiết, chứ không nói phục vụ.

    Đồng ý là không có tự do tuyệt đối. Nhưng bản chất của nghệ thuật là sáng tạo tự do. Sáng tạo tức là anh làm ra cái đầu tiên, duy nhất, không lặp lại (chứ không phải hàng gia công hàng loạt). Tính chất công việc đòi hỏi phải có tự do. Thứ hai là động cơ sáng tạo: phải có thôi thúc bên trong - nó cũng tự do. Thứ ba, mục đích sáng tạo - cũng tự do.

    NGUYỄN ĐĂNG MẠNH :
    (Đại học Sư phạm I Hà Nội)
    Nhưng khía cạnh mà tôi cho có vấn đề hơn cả, có vấn đề một cách lâu dài, thường xuyên, ấy là quan hệ giữa nhà chính trị cầm quyền với các nghệ sĩ, trí thức. Đây cũng là vấn đề quan hệ giữa hai thứ “bá quyền”: quyền lực chính trị và “quyền” của các giá trị văn hóa, tri thức khoa học.

    Về quyền lực chính trị, càng ngược về quá khứ ta càng thấy quyền lực tuyệt đối của người cầm quyền, cá nhân họ được tôn lên thành đối tượng của sự sùng bái. Nhưng xã hội càng văn minh thì càng tìm ra được những thể chế thích hợp, người cầm quyền chỉ là người quản lý, điều hành trên cơ sở những “khế ước” do cả xã hội đề ra làm quy tắc chung. Về “quyền” của các giá trị văn hóa, khoa học, có lẽ không cần biện giải là có hay không, bởi ngay xã hội văn minh vẫn có những nghệ sĩ lớn, những trí thức lớn được mọi người hâm mộ, nể trọng.

    Trong khi đó, nghệ thuật chân chính phải phát ngôn ý thức nhân dân, ý thức thời đại, phải diễn đạt nhu cầu phát triển con người và xã hội cao nhất của thời đại và dân tộc. Những nghệ sĩ lớn bao giờ cũng phải “bung ra” khỏi ý thức ấy: độ lớn về tư tưởng và nghệ thuật của họ, đến thời đại còn chưa dễ chấp nhận, nói gì đến cái khung hẹp và thực dụng của tư tưởng và nghệ thuật cung đình.
    (Những ý kiến trên được phát biểu trong cuộc thảo luận bàn tròn tại tuần báo Văn Nghệ, Hà Nội ngày 28-1-1988 do Vân Trang lược ghi)

    II.-DƯ LUẬN VĂN GIỚI HẢI NGOẠI
    VỀ PHONG TRÀO VĂN CHƯƠNG PHẢN KHÁNG
    Ở TRONG NƯỚC.


    Bất cứ ai trong văn giới hay báo giới vào thời kỳ đó (những năm cuối của thập niên 80) nếu còn quan tâm đến sinh hoạt chữ nghĩa thì không thể không đón nhận những tín hiệu thay đổi quanh vấn đề sáng tác ở quê nhà.

    Một số có tinh thần lạc quan thì cho rằng đã có một “phong trào văn chương phản kháng”

    Một số vị khác thì dè dặt nêu vấn đề “ Phản kháng thật hay Phản kháng giả ?”

    Hai ý kiến này đã làm bùng nổ một cuộc tranh luận trên hầu hết các trang báo, đặc biệt là các trên các tạp chí văn nghệ của người Việt hải ngoại trên toàn thế giới.

    Tuy nhiên, dù tranh cãi, dù đã vận dụng tất cả kinh nghiệm sống cũng như lý luận văn học để bênh vực cho ý kiến của mình thì hầu hết những cây bút tham dự cuộc tranh luận này đều đã chứng tỏ được hai điều:

    - Một là họ có thực sự theo dõi những biến chuyển văn hóa, chính trị ở quê nhà và có đọc những tác phẩm của nhiều văn nghệ sĩ ở VN đã viết ra trong thời kỳ đó.

    - Hai là dù tranh luận cách nào thì vẫn giữ thái độ ôn hòa, nghiêm túc, theo thói quen của người cầm bút chân chính là có một thái độ văn hóa khi đề cập đến một văn đề văn hóa.

    Nhưng ngoài những ngòi bút nghiêm túc vừa kể, trên mặt báo cũng không thiếu gì kẻ chưa biết Ất Giáp sự thể ra sao, chưa từng đọc một bài nhận định nghiêm túc về phong trào này, hầu hết chỉ nghe đồn loáng thoáng ở chốn trà đình tửu quán đã nhào vô nhân danh chống Cộng để đánh hôi bằng những ngón võ bất cận nhân tình, để chỉ mong tên tuổi của mình cũng được nhắc nhở trên mặt báo, hay là để thỏa mãn một mối tư thù hay lợi nhuận cá nhân vặt vãnh khi cố tình đi vùi giập kẻ khác.

    Hậu quả là dư luận trong cộng đồng đã bị đầu độc bởi những tên viết lách kiểu này, đến nỗi về sau, khi cứ nhắc tới cái tên “ Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương” là nhiều người đã nghĩ ngay đến một cuốn sách thiên Cộng, bợ Đảng, chống lại lý tưởng Tự do, Dân chủ.

    Và đấy là một thực trạng đáng buồn và là lý do mà chương sách này được viết ra để cho “Sự thật không thể bị chôn vùi.”
    ***
    Trong lãnh vực văn hóa đích thực, đã có nhiều nhà văn, nhà phê bình văn học viết bài phê bình, nhận định về phong trào Văn Chương Phản Kháng đăng rải rác trên nhiều tạp chí xuất bản ở hải ngoại hay qua các cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh loan tải trên toàn thế giới. Xin tạm trích những lời nhận định của vài cây bút tiêu biểu :

    Nhà văn MAI THẢO
    (trong cuộc phỏng vấn do nhà phê bình Thụy Khuê thực hiện cho đài RFI)

    Thụy Khuê:
    Anh nghĩ sao về văn học phản kháng trong nước?

    Mai Thảo: Trong một cuộc phỏng vấn mới đây cho báo Hợp Lưu của nhóm Khánh Trường, tôi có nói đến văn nghệ phản kháng, tôi cũng không thể trả lời được gì nhiều bởi vì tôi không theo dõi từ đầu, và những tiểu thuyết, những bài viết, những bài báo của những người ở trong khuynh hướng gọi là đối kháng ở Việt Nam bây giờ, gửi ra, tôi cũng không đọc được nhiều. Tôi cho là phong trào đối kháng đó có. Đáng lý nó phải có từ lâu rồi. Nhưng có lẽ bởi vì trước kia, sự kiểm soát của đảng, của nhà nước gắt gao quá, hay họ không có tinh thần đối kháng lại chế độ, chính sách của chế độ, lúc ấy họ không có môi trường, không có phương tiện để tỏ hiện sự đối kháng của họ ra, mà thời gian gần đây, họ đã có một số điều kiện để có thể lên tiếng hay để có thể xuất bản những cuốn sách không theo đường lối, chính sách của văn chương xã hội chủ nghĩa. Nhưng nói đến phong trào đối kháng sẽ đi tới đâu thì tôi không rõ bởi vì nếu đảng hay nhà nước lại thi hành chính sách kiểm soát khắc khổ trở lại thì cái đối kháng ấy có thể bị dập tắt.
    Nguồn : RFI

    Nhà văn NGUYỄN ĐỨC LẬP:
    ……..
    Xin thành thật nể phục những cây bút đã đóng góp vào cao trào dùng chữ nghĩa để phản kháng tại Việt Nam hiện nay.

    Dù là chống chủ nghĩa, chống chế độ hay chống lại những việc làm sai trái của cán bộ địa phương, mọi sự phản kháng bằng sách vở, báo chí, trên giấy trắng mực đen, đều đáng nể phục.

    Những ai đã từng sống với Cộng sản đều biết rằng chế độ vốn tráo trở như nướng bánh phồng, vốn lật lọng như đảo bàn tay. Nhân dân không tin chế độ. Hơn ai hết, những người được phép cầm viết trong chế độ hiểu rõ bản chất của chế độ.

    Một lời tuyên bố “cởi trói văn nghệ” của Tổng bí thư Nguyễn văn Linh, đã nổi lên một phong trào phản kháng trong văn chương bác học, đã có những tên tuổi nổi bật, đã có những tác phẩm được bàn tán.
    Điều nầy, có thể giải thích bằng hai lý do.

    Một là, các nhà cầm bút, làm công việc phản kháng ở Việt Nam, đã đặt niềm tin tuyệt đối vào lãnh tụ. Lãnh tụ đã hạ lệnh “cởi trói”, các nhà cầm bút tuyệt đối tin tưởng rằng đây là toàn tâm thiện ý của đảng, họ không hề cảm thấy phải dè dặt ở sự tráo trở, lật lọng ngày một ngày hai, đúng với bản chất của chế độ trước đây. Niềm tin sáng chói đó đã kết tụ thành những dòng chữ, những tác phẩm.

    Hai là, các nhà cầm bút phản kháng, đã nương lấy cơ hội “cởi trói” để đứng về phía nhân dân, nói lên tiếng nói uất nghẹn của đại khối nhân dân. Đây là một hành vi can đảm, cực kỳ can đảm, đem chính cái an nguy của mạng sống mình, nói lên tiếng nói của đám đông bị đàn áp.

    Cho dù phát xuất từ lý do nào, các người cầm bút phản kháng ở Việt Nam cũng đáng nể phục. Trong trường hợp ở lý do thứ nhất, họ đáng nể phục vì vẫn còn có niềm tin sáng chói, trong khi, niềm tin để viết đã mất ở một số cây viết ở hải ngoại, mất đến nỗi phải vay mượn niềm tin từ kẻ khác và tưởng đó là của mình.

    Trong trường hợp ở lý do thứ hai, không đáng khâm phục, kính trọng sao, những người đã đem hết tương lai, sinh mạng của mình để đánh đổi tiếng nói đau thương của nhân dân?…….
    (Tạp chí Văn Học ở Nam Cali - Số 49, Đặc biệt Văn Chương Phản Kháng –ra ngày 1 tháng 3-1990)

    NGUYỄN HƯNG QUỐC :
    Nhà văn, Nhà Phê bình Văn học

    ....Cuộc vận động đổi mới diễn ra trên cả ba lãnh vực: sáng tác, phê bình và lý luận.

    Cuộc vận động đổi mới trong lãnh vực sáng tác khởi sự khá sớm và kéo dài khá lâu. Tuy nhiên, số cây bút tham gia và thực sự thành công tương đối. Cũng dễ hiểu. Đổi mới trong sáng tác có nghĩa là đổi mới cả một nếp cảm xúc trong con người. Nhiều nhà văn, nhà thơ ở Việt Nam tự ví mình như những con gà công nghiệp, sau một thời gian dài bị nhốt trong chuồng, nay được thả ra giữa sân, mắt lóa nắng, đi đứng lạng quạng, gặp cái gì cũng ngỡ ngàng, không biết bới rác và không biết về đâu đến đâu.

    Với những mức độ khác nhau, có thể coi những tên tuổi sau đây ít nhiều đổi mới sáng tác của mình. Về văn xuôi, có Nguyễn Minh Châu, Dương Thu Hương, Lê Lựu, Xuân Cang, Phạm thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, Phùng Gia Lộc... Về thơ, có Nguyễn Duy, Ý Nhi, Xuân Quỳnh, Trần Vàng Sao, Trần Mạnh Hảo... Có thể tóm gọn sự đổi mới của họ vào bốn điểm :

    - Thứ nhất, họ chấp nhận có mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp vô sản và trong bản thân xã hội chủ nghĩa.
    - Thứ hai, vì chấp nhận có mâu thuẫn nên họ cũng chấp nhận có bi kịch.

    - Thứ ba, họ chấp nhận, trong văn học, có một khu vực khá rộng rãi dành cho cái “tôi”, cái riêng của con người, những con người bình thường, tầm thường.

    - Và thứ tư, họ chấp nhận sự hiện diện của những yếu tố “vô hại” trong nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa.

    Bốn điểm gọi là mới trên, so với lịch sử văn học dân tộc nói chung, là những cái cũ mèm, tuy nhiên, so với lịch sử văn học cộng sản, từ năm 1945 đến nay, là những canh tân độc đáo và cực kỳ quan trọng.
    (Phong trào đổi mới văn học tại Việt Nam từ phản tỉnh đến phản kháng- Tạp chí Văn Học ở Nam Cali, số 53-54 tháng 7&8-1990)

    Nhà phê bình Văn học THỤY KHUÊ:
    duyệt qua tính chất của văn học phản kháng ……

    Những năm gần đây, văn học phản kháng không phải là một phong trào. Không bùng lên như một ngọn lửa, nhưng là những đợi sóng ngầm, những lớp địa tầng, sửa soạn chuyển mình, ấp ủ những suy tư chín mùi của những con người đã sinh ra hoặc đã trưởng thành trường kỳ luân lạc trong đói rét, thiếu thốn, hy sinh và đau khổ, trên nhiều miền đất nước, qua nhiều lãnh vực của nghệ thuật và tư tưởng.

    Văn học phản kháng hiện nay là tiếng kêu tuyệt vọng của thế hệ trí thức trung niên và trẻ, thấm nhuần tư tưởng Cộng sản trước sự đổ vỡ, tha hóa của con người dưới chế độ độc tài, mục rữa vì những tệ đoan xã hội, chồng chất những quyết đoán bất công, u tối và sai lầm từ nhiều thập kỷ.

    Những bài nghị luận phê bình lãnh đạo hiện diện những ngòi bút sắc bén, đôi khi lý luận bằng chính hệ thống triết học trong tư tưởng Cộng sản, tìm đến cội nguồn của sự sai lầm trong nền văn học chỉ đạo, bằng lối suy luận có hệ thống vững chãi và sâu xa: Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc, Hồ Ngọc...

    Trên địa hạt sáng tác, xuất hiện nhiều nét đặc thù:

    - Những quằn quại của con người khát khao tìm mà chưa từng được biết hạnh phúc (Thời Xa Vắng, Lê Lựu. Bên Kia Bờ Ảo Vọng, Dương Thu Hương. Thiên Sứ, Phạm thị Hoài...).

    - Cái nhìn bất lực của con người trước sự tan rã của những tâm hồn lành mạnh trong một môi trường mục rữa (Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt, Lưu Quang Vũ).

    - Nét cay độc và sâu sắc của bằng người đã thấy giữa “có nhân” và “phi nhân” không còn giới tuyến, đả phá đến tận nền tảng chế độ đưa con người tới chỗ phi nhân (hiện tượng độc đáo Nguyễn Huy Thiệp).

    - Lật lại quá trình của một chế độ, khai sinh trên đất nước với một lý tưởng cao đẹp: giải phóng quê hương, dìu dắt con người đến thiên đường hạnh phúc, nhưng trên đường đi đến “thiên đường” đã dùng mọi thủ pháp xảo trá để tiến bước, dẫm lên lý tưởng và đè bẹp con người, đưa dân tộc tới ngõ cụt ngày nay (Ly Thân, Trần Mạnh Hảo).

    - Lật đổ hiện tượng thần thánh hóa chiến tranh với những nhân vật vĩ đại, anh hùng: có những người hèn của chiến tranh.

    - Đặt lại giá trị cuộc chiến Nam - Bắc như một cuộc nội chiến với bộ mặt thê thảm! Anh em tàn sát lẫn nhau.

    - Phán xét đấu tranh giai cấp như một sai lầm trầm trọng đưa đến hủy hoại con người, trong đó có cái phần dốt nát, vô học (dưới tên vô sản) đã đè bẹp cái phần trí thức, tư tưởng và tình cảm (dưới tên tiểu tư sản) (Những Mảnh Đời Đen Trắng, Nguyễn Quang Lập).

    - Những tư tưởng đến từ những cái nhìn thăm thẳm vào con người, vào cuộc sống của chính những tâm hồn - sinh ra trong xã hội Cộng sản – nhìn và đánh giá sự thất bại của cái gia đình, cái xã hội đã hoài thai và mang nặng đẻ đau mình, bằng cái nhìn thẳng thắn đến độ lạnh lùng, gay gắt; để thức tỉnh mọi người, để đổi thay hay cảnh giác xã hội, để tìm một lối thoát cho quê hương đã cận đường, tuyệt lộ.
    Những tư tưởng bắt nguồn từ những cỗi rễ sâu xa như thế, không dễ gì mà dập tắt cho được.
    THỤY KHUÊ (Tiến trình văn học phản kháng từ 1980 đến 1990- tạp chí Văn Học ở Nam Cali, số 51- ngày 1 tháng 5-năm 1990)

    (còn tiếp)

  3. #3
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    III.- VIỆC ẤN HÀNH CUỐN
    “TRĂM HOA VẪN NỞ TRÊN QUÊ HƯƠNG”
    Ở HẢI NGỌAI





    Trong bầu không khí sôi nổi về văn chương phản kháng ở trong nước như thế, nhiều anh em trong giới văn nghệ ở hải ngoại tự nhận thấy có nhu cầu phải thực hiện một điều gì khả dĩ góp phần phổ biến cho những tiếng nói ấy, một mặt để những sáng tác của họ được nhiều người biết đến hơn và một mặt khác để người trong nước nhận thấy cũng đã có những hỗ trợ tinh thần ở bên ngoài xoay quanh công cuộc phản kháng mà họ đang tiến hành.

    Sáng kiến thu thập tài liệu rồi phân công viết bài nhận định để in thành một cuốn sách bắt nguồn từ đó.
    Những vị tham gia công việc này kể là rất đông đảo, cả ở Mỹ, ở Canada, Âu châu, Nhật Bản hay Úc đại Lợi..v..v... Người ở xa thì sưu tập tài liệu từ trong nước, nhận phân công viết bài, người ở ngay Orange County (khoảng trên 10 vị) thì tụ họp hàng tuần để bàn thảo nội dung cuốn sách, góp ý cân nhắc để chọn lựa các tài liệu đã có, lập danh sách phân công viết bài.

    Tuy nhiên những vị đóng góp công sức tích cực nhất thì có thể kể tên như : Trần Vịnh, Đỗ hữu Tài, Thân Trọng Mẫn, Nguyễn Quốc Trung, Lê Bửu Tấn, Nguyễn Bá Tùng, Trương đình Luân, Hoàng Sử Mai, Nhật Tiến, Nguyễn Mộng Giác, Hoàng Khởi Phong, Đỗ Thái Nhiên….

    Cuối cùng, cuốn TRĂM HOA VẪN NỞ TRÊN QUÊ HƯƠNG được thành hình, in trong loại sách khổ lớn dầy 800 trang, bao gồm 27 tác giả ngoài nước viết về 79 tác giả trong nước. Theo tôi, có lẽ đây là một lần duy nhất tính cho đến nay, đã có một nhóm cầm bút thuộc nhiều khuynh hướng khác nhau ngồi lại được với nhau trong suốt ròng rã hơn một năm trời với những sinh hoạt sôi nổi, nhiệt tình và đầy thiện chí. Họ đã tiến hành một công trình văn học đến nơi đến chốn kể từ lúc khởi đầu cho đến khi hoàn tất, không có một trở lực nào mà họ không xúm lại cùng giải quyết để vượt qua. Cuối cùng, cuốn sách đã được in ra và phát hành ở Nam Cali vào khoảng tháng 8-1990.

    IV- NỘI DUNG CUỐN
    TRĂM HOA VẪN NỞ TRÊN QUÊ HƯƠNG

    Lời nói đầu của nhà xuất bản
    (Có in lại nguyên văn Lời Nói Đầu, xin coi trang 36 )

    Nội dung cuốn sách gồm bẩy phần và một phần kết thúc gọi là CHUNG, theo thứ tự như sau :

    PHẦN 1: Bối cảnh và Diễn tiến
    PHẦN 2: Tác phẩm và Tác giả
    PHẦN 3: Hai biến cố Phản Kháng tiêu biểu
    PHẦN 4: Phân tích Chính trị
    PHẦN 5: Tài liệu : Lý Luận văn Học và Tự Do Tư Tưởng
    PHẦN 6: Văn Liệu
    PHẦN 7: Nhìn từ nước ngoài.
    CHUNG : Thư ngỏ gửi anh chị trong phong trào văn chương phản kháng
    ở trong nước –Nhóm Chủ biên

    Đóng góp bài vở cho 7 phần này gồm bài viết của 27 ngòi bút ở hải ngoại, theo thứ tự như sau:

    - Từ phong trào Nhân văn Giai phẩm đến Cao trào văn nghệ phản kháng (1986 -1989) - Thân Trọng Mẫn
    - Phong trào đổi mới văn học tại Việt nam: từ phản tỉnh đến phản kháng – Nguyễn Hưng Quốc
    - Tâm lượng kẻ hào sĩ - Nghiêm Xuân Hồng
    - Nguyễn Minh Châu và Hoàng Ngọc Hiến, những người cầm bút trung thực - Nguyễn Mộng Giác
    - Nhà văn Nguyên Ngọc: suy nghĩ và hành động trong cao trào văn nghệ phản kháng - Nhật Tiến
    (Có in lại nguyên văn trong sách này, xin coi trang 55)

    - Lưu Quang Vũ: chim sâm cầm đã chết - Vũ Hạ
    - Đọc Những Thiên Đường Mù của Dương Thu Hương - Phạm Việt Cường
    - Trần Mạnh Hảo một con đường ly thân với quá khứ - Hoàng Chính Nghĩa
    - Hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp - Phan Tấn Hải
    - Giới thiệu Trần văn Thủy - Thụy Khuê
    - Tản mạn với Phạm thị Hoài - Phạm Kim Khải
    - Dẫn nhập: Trường hợp tạp chí Langbian
    - Dẫn nhập về đại hội nhà văn lần thứ IV - Hoàng Khởi Phong

    - Dẫn nhập phần Bốn (Phân tích Chính trị)

    - Những suy nghĩ chính trị về cao trào văn nghệ phản kháng tại Việt Nam (1987-1989) - Đỗ Hữu Tài
    - Từ đề cương 1943 đến nghị quyết 1987 - Đỗ Thái Nhiên
    - Chung quanh cuộc tranh luận về quan hệ giữa chính trị và văn học – Nguyễn Bá Tùng

    - Dẫn nhập phần Năm (Tài liệu : Lý Luận văn Học và Tự Do Tư Tưởng)

    - Hạnh ngộ cụ Nguyễn Mạnh Tường - Phạm Trần
    - Ảo tưởng và thực tế qua một vài tác phẩm của văn chương phản kháng trong nước - Nguyễn văn Sâm
    - Dòng thơ từ phía khác - Hoàng Sử Mai
    - Vai trò của Ký trong cao trào văn nghệ phản kháng - Trương Đình Luân
    - Vài suy nghĩ liên quan đến văn chương phản kháng - Trương Vũ
    - Ly thân hay ly đảng - Thi Vũ
    - Cảm nghĩ rời - Nguyễn Đức Lập
    - Lá thư Hoa Thịnh Đốn - Bùi Bảo Trúc
    - Sĩ phu và sinh mệnh dân tộc - Thập Lang
    - Văn chương phản kháng, nhìn từ hải ngoại - Nguyễn Trần Ngọc Thu

    CHUNG

    - Thư ngỏ gửi anh chị trong phong trào văn chương phản kháng ở trong nước – Nhóm Chủ biên soạn ( Có in lại nguyên văn trong sách này, xin coi trang 39.)

    ***
    Nội dung cuốn sách cũng trích dẫn nhiều tác phẩm Thơ, Văn, Ký, Tham luận, Phỏng vấn..v.v..của 76 tác giả trong nước, liệt kê như sau :

    * Hòa đồng nhân loại - Nguyễn Minh Châu
    * Vết về chiến tranh - Nguyễn Minh Châu .
    * Nhớ anh Châu - Phạm Tiến Duật
    * Tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi gió - Hoàng Ngọc Hiến
    * Phỏng vấn Hoàng Ngọc Hiến: Phê bình cần có văn - Sông Hương
    * Đề cương đề dẫn để thảo luận ớ hội nghị đảng viên bàn về sáng tác văn học của hội nhà văn Việt Nam - Nguyên Ngọc
    * Gặp gỡ Nguyên Ngọc - tạp chí Sông Hương
    * Phỏng vấn Nguyên Ngọc - tạp chí Sông Hương
    * Vấn đề cách chức Nguyên Ngọc : Dương-T-Hương & Trần Bạch Đằng
    * Hồn Trương Ba da hàng thịt (cảnh 5) - Lưu Quang Vũ
    * Molière Việt Nam tên là Lưu Quang Vũ -
    * Christian Hoche (Lưu Trùng Dương chuyển dịch)
    * Lưu Quang Vũ : vị đăng đắng nồng cay một mùa hoa Hànội – Minh Trang
    * Những Thiên Đường Mù (một đoạn) - Dương Thu Hương
    * Quan điểm về thời cuộc - Phỏng vấn Dương Thu Hương – CA TPHCM .
    *. Đừng lạm phát tuyên ngôn về đổi mới - Dương Thu Hương
    * Dương Thu Hương tự bạch phỏng vấn - Nguyễn Trọng Chức
    * Ly thân (Chương cuối) - Trần Mạnh Hảo
    * Nhớ Nguyễn Bính (thơ) - Trần Mạnh Hảo
    * Đêm phương bắc nhớ về tổ quốc- (thơ) - Trần Mạnh Hảo
    * Vĩnh biệt tiếng hót (thơ) - Trần Mạnh Hảo
    * Con gái Thủy Thần - Nguyễn Huy Thiệp
    * Cún - Nguyễn Huy Thiệp
    * Vàng lửa - Nguyễn Huy Thiệp
    * Chuyện tử tế (phân cảnh) - Trần văn Thủy
    * Lời cảnh tỉnh nghiêm khắc - Nguyễn thị Ngọc Phượng
    * Thiên Sứ (Chương I và X) - Phạm thị Hoài
    * Người đoán mộng giỏi nhất thế gian - Phạm thị Hoài
    * Viết như một phép ứng xử - Phạm thị Hoài
    * Những cây thông kêu (thơ) - Thanh Thảo
    * Mùa thu đi qua (thơ) - Đặng thị Vân Khanh
    * Cảm xúc đi trên đường Nguyễn Trãi (thơ) Đặng thị Vân Khanh

    * Phản ứng chống đối - Biện Duy Tích và Ngô Thanh Loan

    * Phản ứng ủng hộ - Tuấn Đức, Lưu Vĩnh Hy, Hà Sĩ Phu, Mai Dy Linh, Đình Hy, Trung Hồ, Hoàng Bình, Dương thị Kim Loan, Nguyễn văn Toàn, Nguyễn Lương Tâm, Nguyễn Hữu Cầu và Nguyễn Thân Văn
    * Bản tin tức đọc tại CLB Cựu Kháng Chiến – Nguyễn Đắc Xuân, Phan Vũ và Thu Bồn
    * Nhà văn và số phận của nhà văn - Tham luận - Thu Bồn
    * Chức năng của người cầm bút -Tham luận - Dương Thu Hương
    * Dân chủ hóa và trách nhiệm của nhà văn – Tham luận - Bùi Minh Quốc
    * Tham luận - Bửu Tiến
    * Góp ý về lãnh đạo văn nghệ - Thương Chính
    * Gặp gỡ Trần Dần: đối thoại mất ngủ - Hoàng Phủ Ngọc Tường
    * Tôi thích viết văn trên giấy có kẻ dòng (thơ) - Phùng Quán
    * Ái hoa và nấm độc (thơ) - Hữu Loan
    * Phỏng vấn Hoàng Cầm - tạp chí Sông Hương
    * Kết luận của bộ chính trị về mấy vấn đề trước mắt trong công tác tư tưởng - Báo SGGP
    * Văn học, cuộc trường chinh gian khổ - Trần Bạch Đằng
    * Góp phần tổng quát về vấn đề chính trị và văn nghệ - Trần Độ
    * Phỏng vấn Nguyễn Đình Thi - tạp chí Sông Hương
    * Về một phương diện quan hệ giữa văn nghệ và chính trị - Lại Nguyên Ân
    * Chính trị và văn nghệ: đổi mới hay không đổi mới - Lữ Phương
    * Cái hèn của người cầm bút - Phạm Xuân Nguyên
    * Đoàn kết thực sự, dân chủ thực sự, đổi mới thực sự - Nguyễn Đăng Mạnh
    * Chúng ta bảo vệ cái gì ? – Đặng Nhật Minh
    * Ngẫu hứng và sáng tạo - Ma văn Kháng
    * Vấn đề thẩm định văn học nghệ thuật và ý niệm nhạc vàng – Nguyễn Trọng Tạo
    * Thị hiếu và lối đọc truyện hiện nay qua một cuộc tranh luận - Đặng Anh Đào
    * Cuộc sống hôm nay & trách nhiệm của thơ - Bùi Minh Quốc
    * Góp ý về đổi mới -Tham luận tại Mặt trận Tổ quốc - Phan Đình Diệu
    * Trên chuyến tàu tốc hành về năm 2000 - Vũ Kim Hạnh
    * Biện chứng và ngụy biện trong công cuộc đổi mới - Hà Sĩ Phu
    * Con khuớu xổ lồng- Nguyễn Quang Sáng
    * Ôi, cam sao mà đắng- Ninh Đức Định
    * Dưới tán rừng còn lại- Nguyên Linh
    * Ba người trong hẻm đuôi voi -Xuân Đài
    * Về nhà trước cơn mưa - Trang Thế Hy
    * Người đội mồ - Trúc Chi
    * Nhìn từ xa... tổ quốc (thơ) - Nguyễn Duy
    * Cuộc chạy tiếp sức của bệnh sốt rét rừng (thơ) - Phạm Tiến Duật
    * Cái nhìn của tương lai (thơ) - Thanh Thảo
    * Di cảo (thơ) - Thanh Thảo
    * Mộng dữ (thơ) - Trinh Đường
    * Người đàn ông 43 tuổi nói về mình (thơ) – Trần Vàng Sao
    * Cuộc đời như vợ của ta ơi (thơ) - Việt Phương
    * Người ơi (thơ) - Đỗ Nam Cao
    * Hànội Perestroika - Nguyễn Trọng Tạo
    * Lương Thiện (thơ) - Trần Chấn Uy
    * Viết về một ông quan (thơ) - Nguyễn văn Chương
    * Lời khai bị can – Trần Huy Quang
    * Suy nghĩ trên đường làng - Hồ Trung Tú
    * Bông lúa nổi giận - Hà văn Thùy
    * Công lý, đừng quên ai - Lâm thị Thanh Hà
    * Đêm trắng - Hoàng Hữu Các
    * Tiếng kêu cứu của một vùng văn hóa - Võ văn Trực

    Phần dưới đây xin trích lại hai bài đã in trong cuốn Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương :

    - Lời Nói Đầu (trang 7 cuốn Trăm Hoa).

    - “Lá thư ngỏ gửi anh chị em trong phong trào văn chương phản
    kháng ở trong nước”.(trang 795 cuốn Trăm Hoa)

    Lời Nói Đầu của Nhà Xuất Bản
    (Trong Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương- trang 7)

    Đặt tựa đề “Trăm Hoa Vẫn Nở” cho Tuyển Tập này, chúng tôi có ý làm một việc tương tự công trình sưu tập văn liệu mà cụ Hoàng văn Chí đã làm vào thập niên 50 với cuốn: “Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc” . Chúng Tôi cũng muốn ghi lại những chứng tích của một cuộc đấu tranh cho Tự do Dân chủ và Nhân quyền khởi đi từ những người trong nước hiện nay. Trước đây cụ Hoàng đã viết:

    “Bốn mươi năm một thuở” (nhân dịp hạ bệ Stalin), họ (nhóm Nhân văn Giai phẩm) đều đứng dậy đấu tranh chống đảng, đòi phục hồi quyền tự do tư tưởng... Trí thức ở miền Bắc đã sản xuất được trên một trăm văn bản có giá trị. Cộng sản coi những bản văn ấy là những cỏ độc, nhưng chúng tôi coi những tác phẩm của họ như một “trăm hoa” thực sự .”

    Hôm nay, lại có những người cầm bút nổi dậy đòi phục hồi quyền tự do bất tử ấy:

    “Hoa Vẫn Nở... .”

    Ở chủ đề này, chúng tôi nhận định rằng:

    “Hiện có cao trào phản kháng ở trong nước”.

    Đây không phải chỉ là một “phong trào văn nghệ “ mà còn xuất hiện đồng thời một cao trào quần chúng đón nhận, thôi thúc và cổ võ dòng văn chương thịnh nộ trong nước.

    Đây cũng chính là một trong những điểm khác biệt giữa “trăm hoa” bây giờ với “trăm hoa …trên đất Bắc”. Nhân văn Giai phẩm trước kia chưa ai có thể đặt thẳng các câu hỏi như bây giờ :

    - “ Có hay không một khuynh hướng phủ nhận 40 năm văn học Xã Hội Chủ nghĩa”

    - Có hay không “cái tâm lý muốn phủ nhận, xóa sạch”


    Hồi đó cũng chưa có ai dám nói toạc ra trước mặt giới lãnh đạo Đảng và lãnh đạo văn nghệ rằng đời Lê, đời Trần đánh thắng ngoại xâm đâu cần đến sự hỗ trợ của phe Xã Hội Chủ Nghĩa ; họ chưa dám công khai phán xét tội của giới lãnh đạo, của đảng!

    “Trăm Hoa Trên Đất Bắc” là một thiểu số văn nghệ sĩ làm một hành động bất khuất. Thiểu số ấy đã sớm phản tỉnh vì thấy cái tệ hại của chế độ chuyên chính, trong khi hầu hết dân miền Bắc lúc ấy chưa “mở mắt” hoặc còn sợ sệt. Bây giờ, thế giới ai cũng đã “sáng mắt”cả rồi.

    Chúng tôi tin rằng các văn bản xuất hiện ở Việt Nam trong giai đoạn 1986-1989 sẽ là những “sử liệu quý báu cho các sử gia mai sau viết về một thời đại đen tối của dân tộc mang tên Thời đại Xã hội Chủ nghĩa”.
    ***
    Đi vào việc hình thành Tuyển Tập, chúng tôi đã không tránh khỏi một vài điểm chưa thỏa đáng.

    Vấn đề tuyển chọn tác giả, tác phẩm, văn liệu và dữ kiện thông tin trong nước: Số lượng tài liệu chúng tôi thu lượm được so với khối lượng sáng tác trong giai đoạn phản kháng vẫn còn quá ít ỏi. Có tác giả được nhận định là tiêu biểu cho dòng văn chương phản kháng thì chúng tôi lại không tìm được tác phẩm của họ.

    Lại có những tác phẩm rất căn bản đã được nhiều tác giả khác trích dẫn như rường cột tư tưởng phản kháng nhưng không chuyển được ra nước ngoài. Dẫu sao tài liệu hiện có ở đây cũng đã thể hiện rõ nét đa diện và đa nguyên bởi sự khác biệt về động lực phản kháng, đối tượng phản kháng và cường độ phản kháng.

    Chúng tôi cũng tin rằng các văn bản (tài liệu báo chí, các tác phẩm văn, thơ, ký, kịch, điện ảnh...) trong Tuyển Tập này sẽ đóng góp một số dữ kiện cần thiết cho các cuộc thảo luận giữa những người Việt trong khuôn khổ đấu tranh cho Tự do - Dân chủ và Nhân quyền tại Việt Nam. Vì vậy, chúng tôi đã gom góp và lựa chọn một số sáng tác, tham luận có hệ thống cũng như cảm nghĩ tản mạn của những người đang thao thức vì vận mệnh tổ quốc trong thập niên giao thừa này.
    Về số lượng các bài viết xuất hiện trên nhiều tạp chí hải ngoại, chúng tôi chỉ xin trích đăng một ít vì sách đã quá dầy.
    Lời cuối, xin để tỏ lòng thành thật cám ơn bằng hữu gần xa đã trực tiếp hoặc gián tiếp giúp chúng tôi từ bước khởi đầu cho đến ngày ra mắt Tuyển Tập này.
    Kính chào
    Nhà Xuất Bản Lê Trần
    California, USA
    Tháng Bảy năm 1990

    ***

    thư ngỏ gởi văn nghệ sĩ trong phong trào
    văn nghệ phản kháng tại quê nhà

    (Trong “Trăm Hoa vẫn Nở Trên Quê Hương” – Trang 795)

    Thân gửi các anh chị:

    Chúng tôi, một số anh chị em hằng thao thức đến vận mệnh đất nước, hội họp nhau qua chương trình Hội Thoại Tự Do, nhằm mục đích nghiên cứu tìm hiểu những vấn đề then chốt nóng bỏng của quê hương qua những chương sách vừa trình bày ở trên, đã cố gắng giới thiệu với độc giả, nhất là độc giả ở hải ngoại, một cao trào văn nghệ mà chúng tôi gọi là Cao trào Văn nghệ Phản kháng.

    Một số nhận định của chúng tôi đã được nêu lên, một vài vị trong các anh chị đã được đề cập đến, kèm theo những văn liệu mà chúng tôi coi là tiêu biểu. Dĩ nhiên, cao trào văn nghệ phản kháng ở quê nhà không chỉ vỏn vẹn có thế.

    Vốn tích lũy âm ỉ từ nhiều năm, có cơ hội bộc phát từ những năm cuối của thập niên 80, đặc biệt là hai năm 1987, 1988, chỉ riêng với một số tài liệu hiếm hoi mà chúng tôi tìm được, chúng tôi cũng đã nhìn thấy tính chất đa dạng và phong phú của một dòng văn chương trung thực, nói lên được thực trạng đau xót của quê hương và cuộc sống cay cực buồn tủi của đa số quần chúng.

    Nếu quan niệm rằng tác phẩm nghệ thuật là thông điệp người sáng tạo gửi đến cho người thưởng ngoạn, thì chúng tôi, ở cương vị những độc giả của các anh chị, chúng tôi đã nhận được từ phía các anh chị rất nhiều thông điệp, có thể là những băn khoăn về đời sống, những thôi thúc trách nhiệm của người cầm bút, những ray rứt của lương tâm, những bàng hoàng vì ảo tưởng, có thể là những cay đắng hay phẫn nộ về những kinh nghiệm sống các anh chị đã từng trải qua.

    Nhưng ngoài những trăn trở đớn đau bàng bạc trên trang giấy, thước phim, dòng nhạc, lời kịch… Chúng tôi còn nhận ra những ưu tư, những khát vọng, những đòi hỏi, những tuyên ngôn đấu tranh cho quyền làm người, đấu tranh cho tự do sáng tạo nhằm phục vụ cho những giá trị chân chính của con người và của dân tộc. Đã đành những ràng buộc của đời sống không cho phép các anh chị được nói hết khát vọng của mình, hoặc tác phẩm của các anh chị chưa được phép phổ biến trọn vẹn và trung thực như các anh chị đã can đảm viết ra, nhưng chúng tôi cũng hiểu được phần nào tâm nguyện của các anh chị. Đó là khát vọng được sống chân thực trong một đất nước thực sự tự do, thực sự dân chủ, thực sự phồn vinh, khát vọng chính đáng và đơn giản đó, trớ trêu thay, không phải lúc nào cũng được nhà cầm quyền trân trọng lắng nghe. Nhiều văn nghệ sĩ trí thức chân chính trên thế giới đã bị đàn áp, tù đầy vì tư tưởng nhân bản của mình. Sakharov ở Liên Sô đã phải chịu đựng biết bao nhiêu lời phỉ báng xuyên tạc, biết bao nhiêu năm bị quản thúc cô lập cuối cùng mới được công nhận là “lương tâm của thời đại, đất nước”. Ngay trên quê hương chúng ta, nhóm Nhân văn Giai phẩm đã bị truy chụp biết bao nhiêu tội chỉ vì muốn:

    Yêu ai cứ bảo rằng yêu
    Ghét ai cứ bảo rằng ghét
    Dù ai ngon ngọt nuông chiều
    Cũng không nói yêu thành ghét
    Dù ai cầm dao dọa giết
    Cũng không nói ghét thành yêu…
    (Thơ Phùng Quán)

    Đó là chưa kể đến trường hợp những văn nghệ sĩ chỉ vì muốn nói lên khát vọng chân thực của mọi người mà hiện đang bị giam cầm như Nguyễn Chí Thiện, Doãn Quốc Sỹ, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát.. v.v…

    Các anh các chị có thể khác chúng tôi về quá khứ, đứng khác phía với chúng tôi trong cuộc chiến tranh kéo dài đằng đẵng hơn ba mươi năm, nhưng qua tác phẩm của các anh chị, chúng tôi mừng rỡ được thấy rằng dù ở đâu, lúc nào, cũng có những văn nghệ sĩ trí thức can đảm nói lên tiếng nói của lương tâm, không hổ thẹn với lòng tin cậy của quần chúng. Trước đây, chúng ta đã nhìn nhau xa lạ. Chúng ta đã ngó nhau hận thù. Biến cố lịch sử tháng 4 năm 1975 tự nhiên đẩy giạt chúng ta ra xa nhau thêm, khoảng cách giữa những kẻ chiến thắng và kẻ chiến bại. Một bên lớn tiếng kết tội! Một bên nhẫn nhục chịu đựng. Hoặc nếu có ai may mắn không phải trực diện với cảnh truy chụp tàn nhẫn đó thì cũng đành nhắm mắt quay đi, chứ không có ý kiến gì khác về con đường đã vạch ra của bạo lực. Để được yên thân, nhiều người trong chúng ta đã cam chịu nhận đóng những vai trò hèn mọn của một vở kịch lớn đã diễn ra trên đất nước. Chúng ta đã nói những điều không muốn nói. Chúng ta đã giấu kín một cách tủi hổ, những ý nghĩ, tình cảm, tư tưởng chân thật.

    Mười lăm năm ròng đã trôi qua kể từ cái mốc lịch sử tháng 4 năm l975. Thời gian đã đủ dài để cho mọi xáo trộn bèo bọt của đời sống lắng xuống.

    Dù ở trên phần đất nào, trong hay ngoài quê hương, dù định kiến chính trị khác biệt như thế nào, thì qua lời viết của các anh chị, chúng tôi nhận thấy chúng ta vẫn còn nhiều điểm tương đồng. Chúng ta đã cùng mang chung những nỗi đớn đau khi nhìn thấy quê hương điêu tàn, đồng bào lầm than khổ cực. Chúng ta đã có chung một niềm mơ ước về một tương lai đẹp đẽ của đất nước, ở đó giặc dốt, giặc nghèo, giặc ngu muội bị đẩy lui và mỗi người Việt Nam có được một đời sống đáng sống.

    Vì ở xa cách quê hương cả một đại dương, không có cơ hội hít thở trực tiếp bầu không khí khắc nghiệt ở quê nhà, nên chúng tôi chỉ có thể chia xẻ trong muôn một những nỗi nhọc nhằn, những cơn trăn trở thao thức, những khát khao được hiện thành lời, được viết thành chữ của các anh chị. Chúng tôi ý thức rất rõ rằng để làm được những việc đó, các anh các chị đã phải sẵn sàng trả giá cho những sự thực cần phải viết ra. Chúng tôi hiểu rằng sự lên tiếng bằng cách này hay cách khác của các anh thị, đều xuất phát từ những rung động tận cùng của trái tim những con người đã kinh qua những cay đắng khổ nhục. Bằng ngòi bút và lương tâm của mình, các anh chị đã cất lên tiếng nói của nhiều người, đã cảnh cáo chế độ trước hố thẳm tăm tối mà dân tộc chúng ta sắp sa vào.

    Được may mắn sống ở một nơi có quyền tự do phát biểu những gì mình nghĩ, chúng tôi thông cảm những băn khoăn do dự và những nỗi đe dọa chờn vờn các anh chị đã trải qua.

    Chúng tôi không có quyền đòi hỏi gì ở các anh chị, vì biết rằng quyết định im lặng hay lên tiếng là tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của các anh chị, tùy thuộc vào lương tâm của chính mình hơn là chờ đợi những lời khen chê bên ngoài. Chúng tôi cảm phục lòng can đảm của các anh chị và không mong ước gì hơn là được thấy các anh chị càng ngày càng có nhiều người biểu đồng tình, để sự thật được phục hồi, nhân phẩm được tôn trọng. Độc Lập, Tự Do không còn là cái chiêu bài của quyền lực, và Hạnh Phúc là mơ ước gần gũi có thể với tới được của mọi người Việt Nam chúng ta.

    Hải ngoại, ngày 14-7-1990
    Nhóm Chủ Biên
    (còn tiếp)

  4. #4
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    V .- Dư luận về cuốn
    Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương

    Cho tới tận bây giờ, tôi chưa hề được đọc một bài điểm sách nào nói về nội dung cuốn Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương, để nghe tác giả phân tích xem các bài viết trong cuốn sách có những bài nào cần mổ xẻ, tranh luận.

    Nhưng những thứ bài chửi bới rác rưởi thì nhiều vô số kể! Qua những trang sách với Lời Mở ĐầuLá Thư Kết Thúc ở trên, hẳn độc giả thấy những nhận định, những chủ trương, đường lối, tâm tình của những người thực hiện cuốn sách này đã quá rõ ràng, đã chứng tỏ không bao giờ có thể có chuyện chúng tôi là “lũ văn nô, quỵ lụy in tác phẩm của các nhà văn trong nước để tuyên truyền cho Cộng sản” mà nhiều kẻ cầm bút ở hải ngoại vốn chưa từng nhìn thấy cuốn sách, chưa đọc qua một dòng nhưng vẫn nhắm mắt lăng mạ.

    Ở trên tôi bất đắc dĩ phải dùng chữ “rác rưởi” bởi vì nhiều bài đã chứa đựng những ngôn từ hạ cấp, với luận điệu chụp mũ hàm hồ, toan tính vu oan giáng họa cho những người thực hiện cuốn sách, và nhất là thủ đoạn cắt xén câu văn in trong sách để xuyên tạc nội dung tư tưởng của đoạn văn hòng đánh lừa độc giả. Hành vi đê tiện này nếu không gọi là rác rưởi thì không biết còn danh từ nào khác hơn nữa để diễn tả sự kiện theo đúng bản chất của nó. Xin nêu một vài thí dụ cụ thể :

    1) NGUYỄN THIẾU NHẪN lên án cuốn Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương :

    (trích - với những chỗ tô đậm để nhấn mạnh)

    “Sự thật là những loạt sách này chỉ nhằm thực hiện kế hoạch kiều vận theo chỉ thị của Đảng về “giao lưu văn hóa”, các văn nghệ sĩ này được phép chống Đảng để xây dựng Đảng cho thêm vững mạnh chứ có phải phản kháng gì đâu. Mấy ông văn nghệ sĩ lưu vong tỵ nạn chắc vì nhớ cái cũi sắt của “nền văn chương cũi sắt” ở trong nước mà họ đã liều sống, liều chết để thoát ra, nên bèn ra báo Hợp Lưu và xuất bản sách “Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương” (THVNTQH) đem về nước để dâng Đảng, lập công.

    Nhật Tiến, nhà văn đoạt giải Văn Chương Toàn Quốc thời Đệ Nhị Cộng Hoà Miền Nam viết trong sách này những lời như sau:

    “Chúng tôi vẫn thao thức với vận mệnh đất nước. Dù ở trên phần đất nào, trong hay ngoài quê hương, dù định kiến chính trị khác nhau như thế nào, qua lời các anh chị, chúng tôi vẫn thấy chúng ta còn nhiều điểm tương đồng”.

    Để đáp lại những lời tha thiết xin xỏ để “hoà giải hòa hợp, xóa bỏ hận thù” này của nhà văn Nhật Tiến, những đảng viên cầm bút của VC đã đáp ứng như thế nào? Xin mời độc giả đọc bài trả lời cho những người thực hiện quyển THVNTQH của tờ Quân Đội Nhân Dân xuất bản ngày 18 tháng 5 năm1991, như sau:

    “Thật là lố bịch, những kẻ đã từng làm bồi bút phục vụ chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở Việt Nam trước đây, khi nhân dân phá bỏ chế độ thực dân năm 1975, thì chạy trốn ra ngoài sống lưu vong, tiếp tục phản bội lại lợi ích dân tộc. Họ đã tự nguyện nhận tiền, nhận vàng, đô la của thế lực quốc tế, tự nguyện làm công cụ thực hiện mọi mưu đồ chính trị đen tối cho chúng, nay lại tự nhận mình là bạn đồng hành đi tìm tự do, dân chủ với những người cầm bút trong nước, những người đã từng vào sinh ra tử với sự sống còn của dân tộc trong Kháng Chiến Chống Pháp, Chống Mỹ.”

    Thật là đau đớn! Thật là chua chát cho những kẻ bạc đầu, đen óc – như nhà văn Nhật Tiến và những kẻ cùng-đi-một-đường với ông ta! Đã bị những người cộng sản cầm bút chê hôi mùi thực dân đế quốc lại còn đòi đi song hành chỉ vì muốn cướp công lao xương máu của họ, vì họ đã “vào sinh ra tử với sự sống còn của dân tộc.”-
    (hết trích)

    NGUYỄN THIẾU NHẪN
    Nguồn : http://nguyenthieunhan.wordpress.com

    Trả lời của Nhật Tiến :

    Đây là một bằng chứng bắt quả tang sự cắt xén lươn lẹo một đoạn văn rồi tuôn ra luận điệu chụp mũ để xuyên tạc sự thật. Nguyễn Thiếu Nhẫn tưởng người đọc không có tài liệu hay cơ hội đối chiếu nên vẫn theo thói quen giở thói bất lương của mình. Trong đoạn văn Nguyễn Thiếu Nhẫn trích ở trên:

    “Chúng tôi vẫn thao thức với vận mệnh đất nước. Dù ở trên phần đất nào, trong hay ngoài quê hương, dù định kiến chính trị khác nhau như thế nào, qua lời các anh chị, chúng tôi vẫn thấy chúng ta còn nhiều điểm tương đồng”,

    Anh ta đã cố ý cắt xén phần sau của toàn câu, mà nguyên văn đã in ở những trang trước về “lá thư ngỏ gởi văn nghệ sĩ trong phong trào văn nghệ phản kháng tại quê nhà ”, xin nhắc lại như sau:

    “ Dù ở trên phần đất nào, trong hay ngoài quê hương, dù định kiến chính trị khác biệt như thế nào, thì qua lời viết của các anh chị, chúng tôi nhận thấy chúng ta vẫn còn nhiều điểm tương đồng. Chúng ta đã cùng mang chung những nỗi đớn đau khi nhìn thấy quê hương điêu tàn, đồng bào lầm than khổ cực. Chúng ta đã có chung một niềm mơ ước về một tương lai đẹp đẽ của đất nước, ở đó giặc dốt, giặc nghèo, giặc ngu muội bị đẩy lui và mỗi người Việt Nam có được một đời sống đáng sống. ”
    (xin coi lại phần gần cuối trang 41)


    Nguyễn Thiếu Nhẫn trả lời ra sao với những độc giả của anh ta về cung cách cầm bút thiếu lương thiện này khi thò tay cắt câu sau (phần in đậm dưới đây) rồi dùng câu trước tác giả chưa nói hết ý, để làm luận chứng cho sự chửi bới vô tội vạ của mình:

    “Chúng ta đã cùng mang chung những nỗi đớn đau khi nhìn thấy quê hương điêu tàn, đồng bào lầm than khổ cực. Chúng ta đã có chung một niềm mơ ước về một tương lai đẹp đẽ của đất nước, ở đó giặc dốt, giặc nghèo, giặc ngu muội bị đẩy lui và mỗi người Việt Nam có được một đời sống đáng sống?”

    Và các độc giả của Nguyễn Thiếu Nhẫn sẽ nghĩ sao khi bây giờ thấy rõ mình đã bị anh ta nhồi nhét vào đầu những luận-cứ lươn lẹo, cắt xén, xuyên tạc để vu cáo và nhất là nhân danh chính nghĩa “chống Cộng” cứ to mồm hô hoán chửi bới cả một công trình tim óc của nhiều người!

    Than ôi! Thị trường chữ nghĩa ở hải ngoại trong bao nhiêu năm nay vẫn đầy rẫy những thứ rác rưởi này, hỏi nếu ai cũng cứ im lặng mãi mãi thì những thứ lộn sòng chữ nghĩa này còn quấy hôi bôi nhọ, làm nhục bộ mặt của những người Việt Quốc Gia chân chính cho tới bao giờ ?

    ***
    2) NGUYỄN HỮU NHẬT đã bịa đặt trắng trợn cái gọi là “Tuyên ngôn Thơ đỏ của Nhóm Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương” để đánh lừa người đọc. Vì nhu cầu làm sáng tỏ vấn đề, nên dù biết đã làm phí giấy, tốn mực, nhưng tôi cũng phải tường thuật đầy đủ nội dung như sau:

    Sách “ Đá đổ Mồ Hôi” của Sắc Không (tức Nguyễn Hữu Nhật) do Làng Văn của Nguyễn Hữu Nghĩa ở Canada xuất bản năm 1997, trang 98 có đoạn như sau:

    (trích 4 trang rưỡi liên tục sau đây)

    “Một trong những đám “ghetto” văn nghệ thuộc mặt chữ nhiều, hiểu lòng nghĩa ít, ở ngoài này phải kể tới các tay thơ văn nhà nghề từng chủ trương Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương. Cuốn sách in năm l990, cộm cứng tới 797 trang, rống lên kêu gọi người cầm bút trong và ngoài nước:

    VẬN HỘI MỚI *

    (* Tuyên Ngôn Thơ Đỏ của Nhóm Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương. SanTa Ana, tháng 4 năm 1990, trang 126 sách đã dẫn.)

    Con đường chông gai ấy
    dĩ nhiên trở lực nhiều
    Xuất phát từ lãnh đạo
    giới bảo thủ quan liêu
    Chỉ nhìn thấy quyền lực
    không trông rõ lớn lao
    Bao khát vọng quần chúng
    đang dâng lên cao trào
    Nhưng trở lực lớn nhất
    phải kể ra trước hết
    Nơi chính mỗi cá nhân
    con người giới cầm bút
    Họ phải biết cảm thông
    sâu sắc với quần chúng
    Đứng về phía đám đông
    rồi chính mình lột xác
    Trong thời gian gần đây
    đời quanh ta bao thứ
    Đang mãnh liệt đổi thay
    Mỗi ngày một thay đổi

    Người cầm bút phải biết
    tự mình bước khỏi ra
    Cái ốc đảo cá thể
    vào cuộc đời chung hòa
    Nhập trong sự sống mới
    Đang ra sức chuyển nhanh
    Chỉ ở vị trí mới
    chức năng mới hoàn thành
    Quả là quanh con người
    và trong mỗi con người
    Từng nhà văn đã đổi
    bao khát vọng cuộc đời
    Chắc chắn là không nhỏ
    cũng chẳng hề gián đơn
    Những mơ ước về một
    cuộc đời tốt đẹp hơn
    Xã hội có đầy đủ
    dân chủ và tự do
    Ai cũng được hạnh phúc
    áo ấm cùng cơm no

    Ngăn cản làm sao được
    cao trào của con người
    Bước vào thế kỷ mới
    ở tất cả mọi nơi
    Các nhà văn Việt Nam,
    giới cầm bút nói chung
    Không thể không nhìn thấy
    cuộc “thay máu” tới cùng
    Nhịp tim đập chia xẻ
    chan hòa cùng niềm tin
    Về một vận hội mới
    (niềm tin ôi niềm tin)...

    * Tuyên Ngôn Thơ Đỏ của Nhóm Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương. SanTa Ana, tháng 4 năm 1990, trang 126 - Đá Đổ Mồ Hôi.

    “ Nhà thơ tình Lê Thị Ý, hiện ở Mỹ, người có thói quen hết sức dè dặt trong Sinh hoạt Văn học Nghệ thuật Hải ngoại đọc lại bài thơ trên, cũng phải thở dài thườn thượt:

    Cởi ra rồi lại trói vào
    Cao trào cũng phải
    thoái trào chịu thua
    Con rùa
    Phản kháng mu rùa
    Cái càng phản kháng
    con cua cắp người. . .

    “ Nhà báo Thợ Hồ, người có giọng văn “bê-tông” và ý tứ “cốt sắt” chuyên “trộn xi-măng” bọn văn nghệ nằm vùng, lại bảo:

    “Khốn kiếp! “Trăm Hoa vẫn Nở trên Quê Hương chính là tiếng gõ búa, quay ma-ni-ven cho ồn lên trong tiểu thuyết Giông Tố của ông Vũ Trọng Phụng, bọn đầy tớ của Nghị Hách đập át giọng người kêu cứu, để chủ của chúng tha hồ hiếp Thị Mịch trên xe! Tiếng ồn kiểu ấy, 7 năm sau, tức ngay lúc này đây vẫn còn đang ầm ầm trong văn học, báo chí Việt ngoài nước !”

    “ Nhà báo Mõ Lờ Vờ, vua “chọc cười, rơi lệ”, rất tinh đời qua câu chuyện kể sau đây:

    XỐC QUẦN

    (Xốc quần quần tụt tụt quần.
    Xốc sao cho bọn cù lần mỏi tay)

    “Bà Khúc Minh Thơ, Chủ tịch Hội Gia Đình Tù Nhân Chính trị, tới thăm nhà một nữ hội viên, thấy thằng cháu bé khoảng năm tuổi cứ luôn tay xốc quần. Khúc Phu Nhân bèn hỏi:

    - Nè! Em nổi tiếng may đồ giỏi, sao hổng sửa cái lai quần cho thằng nhỏ, mắc công chuyện thời cũng phải mua cho va sợi dây nịt chớ... ?

    Bà chủ nhà, lắc đầu, cười:

    - Không được đâu! Chị à! Lưng quần của nó phải rộng.Luôn luôn tụt. Mãi mãi xốc. Tự tụt. Tự xốc. Lúc nào nó cũng bận rộn với việc xốc xốc, tụt tụt !

    - Em, hành thằng nhỏ, chi vậy?

    Bà chủ nhà, hết sức vui vẻ, xòe ngay lá bài tẩy của mình:

    - Cháu nó phá quá, chị à! Mở lồng cho chim bay túa ra sân, vớt cá vàng trong bồn... Nói chung là nó phá loạn nhà. Em lại không thể khuyên bảo hay đánh mắng gì được cháu. Giận điên người. Hội Bảo Vệ Trẻ Em ở đây mạnh hơn Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị. Cái khó ló cái khôn. Em mua toàn quần thật rộng cho cu cậu mặc. Thường trực tụt. Tha hồ xốc. Còn tay nào rảnh mà phá phách nữa?

    Bà Khúc Minh Thơ phá ra cười, xong giật mình đánh thót một cái, kêu lên:

    - Chết ! Chết !

    - Chị nói gì? Ai chết?

    - Còn ai dzô đây nữa! Em rõ thiệt... Cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn mình ngoài này, phần lớn, cũng mắc chứng “quần rộng”! Lo lắc lia lịa. Kéo lên. Rớt xuống. Kéo lên.

    Mệt nghỉ ! Hổng có phá lại được bọn đỏ. Chúng vẫn tàng tàng chơi trò “ cá chậu, chim lồng!”

    - Thôi, em hiểu ra rồi. Trăm hoa vẫn nở ? Các lực lượng dân chủ. Trăm thứ quần rộng. Hết quần nhân nghĩa Nhật Tiến tới quần yêu nước Bùi Tín, rồi quần thương nòi Dương Thu Hương. Nay lại đến quần “Ông Nguyễn Hộ” rồi quần “Ông Hà Sĩ Phu”… Sao hai “ông” ấy có lắm “cháu” ngoan ở hải ngoại thế ? Chết mất thôi !

    - Chị dzìa nghen em! Nè, thằng cu Xốc* kia, bác dzìa đââây ! Cha mày chớ, xốc goài !

    - Chị đi đâu mà vội thế ?

    - Kiếm mớ dây nịt !

    (Ngưng trích - Trong cuốn Đá Đổ Mồ Hôi của Sắc Không tức Nguyễn Hữu Nhật, Làng Văn xuất bản, trang từ 98 tới101)

    Ý KIẾN CỦA NHẬT TIẾN

    1) Xin nói ngay, bài thơ ngũ ngôn VẬN HỘI MỚI mà Nguyễn Hữu Nhật ghi chú “Tuyên Ngôn Thơ Đỏ của Nhóm Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương. SanTa Ana, tháng 4 năm 1990, trang 126 sách đã dẫn” là hoàn toàn xuyên tạc, có ác ý.

    Anh ta đã lấy một đoạn văn của tôi viết về Nguyên Ngọc ở trang 126 cuốn Trăm Hoa Vẫn Nở , rồi chế ra thành bài thơ ngũ ngôn kể trên, tự ý đặt tên là “Vận Hội Mới” và khoác cho nó cái nhiệm vụ là “Tuyên Ngôn Đỏ” để đánh lừa người đọc. Xin coi đoạn văn của tôi ở cuối trang 66 trong sách này.

    Hỏi có còn thủ đoạn nào lưu manh hơn nữa, nhất là lại được tiến hành bởi một người vừa mang danh nghĩa là nhà Thơ, là Họa sĩ, là tác giả những cuốn Hoa Đào Năm Ngoái (về Ngọc Hân Công Chúa), Thơ Hoa Sen (về Phật Giáo), Chí Tôn Ca (về Thiên Chúa Giáo, sách đã đem trình bản thảo lên tới cả Trung Ương Tông Đồ Mục Vụ Hải Ngoại ở Vatican), và chủ trương nhà xuất bản Anh Em, Hương Xa.

    Nguyên văn đoạn mà Nguyễn Hữu Nhật đã lấy ra của tôi trong bài tôi viết về Nguyên Ngọc như sau:

    “Con đường chông gai ấy, dĩ nhiên có nhiều trở lực xuất phát từ giới lãnh đạo bảo thủ, trì trệ, chỉ nhìn thấy quyền lực mà không thấy sự khát vọng lớn lao của tuyệt đại đa số quần chúng, nhưng trở lực trước hết phải kể đến chính cá nhân của mỗi con người trong giới cầm bút. Họ phải biết cảm thông sâu sắc với quần chúng, phải biết đứng về phía quần chúng để tự lột xác chính mình. Trong thời gian gần đây, đời sống quanh ta đã có biết bao nhiêu là đổi thay mãnh liệt. Người cầm bút phải tự bước ra khỏi cái ốc đảo của mỗi người để hoà nhập vào đời sống đang chuyển mình. Bởi chỉ ở vị trí mới đó, người cầm bút mới có thể hoàn thành được chức năng của mình.”

    Và Nguyễn Hữu Nhật chế thành thơ 5 chữ để đặt tên là “Tuyên Ngôn Đỏ”:

    “ Con đường chông gai ấy,
    dĩ nhiên trở lực nhiều
    Xuất phát từ lãnh đạo
    giới bảo thủ quan liêu
    Chỉ nhìn thấy quyền lực
    không trông rõ lớn lao
    Bao khát vọng quần chúng
    đang dâng lên cao trào…” …vân.. vân…

    Tôi coi đây là một trong những sự vu khống trắng trợn nhất của một thứ tâm địa ti tiện nhất trong lãnh vực chữ nghĩa. Tôi thực tình cảm thấy xấu hổ khi phải đứng chung hàng ngũ với những người cầm bút nhân danh chống Cộng theo kiểu đốn mạt này.

    2) Khẩu khí trên những trang sách của Nguyễn Hữu Nhật vừa được tôi trích dẫn ở trên còn thể hiện ở việc anh ta đem bà Khúc Minh Thơ với tuổi già khả kính vào những chuyện “tụt quần, xốc quần” qua mấy câu thơ mà Nguyễn Hữu Nhật cho là của Mõ Làng Văn tức Nguyễn Hữu Nghĩa kể lại (đúng là tác phong tung hứng, gian manh của một lũ Mafia Văn Nghệ).

    Chúng còn gài vào những chữ để nhục mạ cả Cộng đồng:

    “Cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn mình ngoài này, phần lớn, cũng mắc chứng “quần rộng”! Lo lắc lia lịa. Kéo lên. Rớt xuống. Kéo lên.Mệt nghỉ ! Hổng có phá lại được bọn đỏ. Chúng vẫn tàng tàng chơi trò “ cá chậu, chim lồng!”

    Cũng trong Mục Chém Đá trên báo Làng Văn do Nguyễn Hữu Nhật phụ trách, cùng với sự phụ họa của Nguyễn Hữu Nghĩa dưới bút hiệu Mõ Làng Văn, Cung Vũ...v..v...cả hai trong suốt một thời gian dài đã vấy bùn lên rất nhiều văn hữu có uy tín trong Văn Bút VN Hải Ngoại để đến nỗi cả một tập thể trong tổ chức này đã chia rẽ tan hoang và gây mang tiếng trên trường Quốc tế vì đã bị treo giò hoạt động một thời gian và phải nhờ đến nhân sự Quốc tế đứng ra can thiệp, hòa giải!

    (Xin coi thêm về những thủ đoạn của nhóm này ở phần sau)

    Phụ Lục :

    Trước khi chấm dứt Phần I nói về cuốn Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương, xin mời độc giả đọc thêm 3 bài, coi như phần phụ lục của Phần này:

    1) Một bài do tôi được phân công viết về nhà văn Nguyên Ngọc, đã in trong cuốn Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương, phần nói về Tác giả và Tác phẩm.

    2) Vài bài Thơ Văn thời Văn Chương Phản Kháng

    3) Một bài trích từ cuộc phỏng vấn chính tôi do nhà văn, nhà thơ Đỗ Quyên thực hiện. Trong cuộc phỏng vấn, người hỏi đã duyệt qua nhiều giai đoạn trong cuộc đời cầm bút của tôi, bao gồm nhiều lãnh vực như viết văn, làm báo Thiếu Nhi, sinh hoạt Văn Bút, chuyện vượt biển và đặc biệt có phần hỏi về việc ấn hành cuốn Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương. Tôi xin trích đăng phần Phỏng vấn về Cuốn Trăm Hoa Vẫn Nở với sự đồng ý của anh Đỗ Quyên, người thực hiện cuộc phỏng vấn.
    (còn tiếp)

  5. #5
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Nhà văn Nguyên Ngọc:

    những suy nghĩ và hành động trong
    cao trào văn nghệ phản kháng

    Nhật-Tiến

    Nhà văn Nguyên Ngọc (tên thật là Nguyễn văn Báu), sinh năm 1932 tại Quảng Nam. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, ông gia nhập quân đội năm 1950. Tốt nghiệp trường Lục quân Khu 5, tham gia chiến trường một thời gian rồi trở thành phóng viên báo Quân Đội Nhân Dân, khu 5. Tác phẩm đầu tay “Đất nước đứng lên “ xuất bản năm 1956 viết về cuộc chiến đấu của một thanh niên thuộc bộ lạc Bahnar tên là Núp và dân làng Kông Hoa, được trao giải nhất về tiểu thuyết thuộc giải Văn Học 1954-1955 của Hội Văn Nghệ Việt Nam (miền Bắc). Sau đó in tiếp những tác phẩm như: Mạch Nước Ngầm, Rẻo Cao, Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc, Đất Quảng. Năm 1962, là chủ tịch Chi Hội Văn Nghệ Giải Phóng miền Nam Trung Bộ và phụ trách tờ báo Văn Nghệ Quân Giải Phóng Khu 5, sáng tác với những bút hiệu khác như Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Kim.

    Sau 1975, ông ra Hà nội, công tác ở tạp chí Văn Nghệ Quân Đội, rồi phụ trách Ban Thường Vụ Hội Nhà Văn V.N trong cương vị Bí thư Đảng Đoàn. Nhìn lại quá trình sáng tác của Nguyên Ngọc từ 1956 đến l975, Nguyễn văn Long trong Tự Điển Văn Học V.N. đã nêu nhận định :

    “Sự quan tâm hàng đầu đến những vấn đề có ý nghĩa trọng đại lịch sử của dân tộc và cách mạng cùng với niềm say mê những tính cách anh hùng khiến cho tác phẩm của Nguyên Ngọc mang tính chất hùng tráng lại đậm nét trữ tình và chất lý tưởng .”

    Sau năm 1975, trong sự tan rã của chế độ VNCH miền Nam, và trước những vấn đề nẩy sinh trong cuộc thống nhất đất nước do sự hòa nhập ồ ạt của dân chúng hai miền Nam Bắc sau hơn một phần tư thế kỷ cách biệt vì chia cắt, người cầm bút nói chung đã phải đối diện với những thực tế ngày càng gay gắt.

    Vấn đề khả năng quản lý và lãnh đạo của các cán bộ miền Bắc trong sinh hoạt xã hội miền Nam.

    Vấn đề cải tạo Công Thương Nghiệp Tư Bản Tư doanh.

    Vấn đề tù nhân Cải tạo với sự dính líu liên hệ gia đình của nhân dân cả hai miền.

    Vấn đề thất bại thảm thương của chiến dịch vận động đi Kinh tế mới (lý thuyết thì rất hay ho nhưng thực tế là cả một sự đầy đọa quần chúng trong tinh thần vô trách nhiệm).

    Vấn đề thuyền nhân ồ ạt ra đi.

    Vấn đề hủ hóa của những con người đã từng đóng góp tích cực cho cách mạng.

    Và đời sống xã hội ngày càng đi xuống về cả mặt vật chất lần tinh thần. Đó là những lý do mà sau 1975, giới cầm bút đã không đưa ra được những tác phẩm có giá trị tiêu biểu, tương xứng với “thành quả vĩ đại” mà chế độ miền Bắc đã đạt được sau cuộc chiến thắng mùa xuân 1975.

    Rõ ràng đã có một sự trăn trở trong tâm thức người cầm bút khi họ nhìn ra xã hội chung quanh, với đầy rẫy những gai nhọn của đời sống thực tế hằng ngày. Và đó hẳn cũng là lý do mà Đảng Đoàn Hội Nhà Văn Việt Nam đã phải tổ chức hội nghị một số đảng viên trong Hội để bàn về “Sáng tác văn học” vào tháng 6-1979 để bước đầu trao đổi ý kiến trước khi đem ra thảo luận rộng rãi trước toàn thể hội viên.

    Nhân danh Bí thư Đảng đoàn, nhà văn Nguyên Ngọc đã đọc một bản “Đề cương đề dẫn thảo luận ở Hội Nghị Đảng Viên bàn về sáng tác văn học”.

    Nếu trước đây, lao mình vào cuộc chiến với “Sự quan tâm hàng đầu” những vấn đề “có ý nghĩa lịch sử dân tộc và cách mạng” và với niềm “say mê những tính cách anh hùng”, Nguyên Ngọc đã viết như một sự đóng góp hăng hái cho cuộc chiến đấu mà ông nghĩ là thần thánh, viết như một tuyên dương cho những cá nhân xả thân vì lý tưởng anh hùng cách mạng, thì nay trong bản Đề dẫn kể trên, nhà văn đã có dịp thẩm định lại quá trình sinh hoạt văn học của giới cầm bút với cái nhìn thâm trầm hơn, sâu xa hơn và thoát ly được cái tình cảm bồng bột, say mê vì lý tưởng hơn. Ông nhận định rằng:

    “Trong văn học, lồ lộ khá rõ là số phận chung của cả dân tộc, cả đất nước, nhưng còn số phận riêng của từng người, từng thành viên trong đội ngũ lớn đó thì còn quá sơ lược, giản đơn. Mặt yêu nước nổi bật lên và đây là chỗ mạnh của văn học ta thời kỳ này như đã nói ở trên nhưng mặt đấu tranh xã hội thì không rõ bằng. Tính thơ lý tưởng của cuộc chiến đấu được biểu hiện khá mạnh nhưng còn tính sần sùi, phức tạp của đời sống thì yếu hơn.“

    Tính sần sùi, phức tạp của đời sống ấy là gì, nếu không là tính cách trở lại với con người đích thực cùng với những nỗi khốn cùng mà con người phải chịu đựng trong chiến tranh.

    Thân phận con người như thế, trong một thời gian dài bị khỏa lấp đi vì những nhu cầu của chiến tranh, nhưng khi hòa bình trở lại, nó đã trở thành mối day dứt của những người cầm bút có lương tri khi một mặt phải trực diện với những thân phận đó hiện diện đầy rẫy trong xã hội trước mắt, và một mặt khác viết lách vẫn phải nằm trong sự chi phối của tính Đảng, tính cách mạng, để chỉ có thể in ấn được những gì có tính cách “phải đạo”.

    Đó là lý do mà Nguyên Ngọc đã phải nêu lên trong bản đề dẫn:

    “Chính trong thời điểm này, các lực lượng văn học của ta trước nay đã hình thành được một thế bám sâu khá đẹp trên các địa bàn, ở các mũi nhọn của cuộc sống nay hầu hết đều bị bật ra khỏi các vị trí của mình. Mất liên hệ với đời sống chúng ta bỗng bối rối mất phương hướng “, và rằng : “Phải chăng lúc này có hiện tượng không ít phổ biến là người viết văn cứ viết mà không thật tin ở chính điều mình viết ra . “Người là muối mà chính người lại không mặn thì biết lấy gì để muốí người. “ Văn học nói theo một cách nào đấy là lòng tin. Không có lòng tin lớn thì không bao giờ có thể có văn học lớn. “ (Bản đề dẫn, tháng 6-1979)

    Bước sang lãnh vực lý luận, phê bình văn học, một hình thức công an văn hóa nhằm ngăn chặn và triệt tiêu ảnh hưởng của những tác phẩm đi ra ngoài lề lối văn chương “phải đạo”, cũng trong bản đề dẫn nói trên, nhà văn Nguyên Ngọc nhận định:

    “Có lẽ điều đáng lo hơn cả trong tình hình công tác lý luận, phê bình văn học thô thiển kéo dài, là ở chỗ nó đã tạo nên có thể nói là những định kiến xã hội đơn giản, dung tục đối với văn học, xói mòn năng lực thẩm mỹ của người đọc, mặt khác thấm cả vào chính người cầm bút, xói mòn ý chí sáng tạo, dũng khí sáng tạo nghệ thuật và ý thức trách nhiệm xã hội đứng đắn của nhà văn, tạo nên sự cản trở vừa ở ngoài họ, quanh họ và ở chính họ.“

    Trên cương vi một bí thư Đảng đoàn, và với sự mẫn cảm về tình trạng sinh hoạt văn học tồi tệ của một người cầm bút có lương tri, vào thời điểm đó (tháng 6-1979), Nguyên Ngọc tuy mong muốn đi tìm một lối thoát cho sự sáng tạo của người cầm bút, nhưng vì ông vẫn còn tin tưởng ở đường lối lãnh đạo sáng suốt của Đảng, nên phương hướng giải quyết vấn đề của ông vẫn không ngoài sự trông cậy vào sự chỉ đạo của giai cấp lãnh đạo. Ông nhận định:

    “Một nguyên nhân khác nữa đã hạn chế những thành tựu của văn học ta vừa qua là ở sự chỉ đạo cụ thể đốí với sáng tác. Nói chung vừa qua, trong chỉ đạo sáng tác chúng ta còn dừng lại ở chỉ đạo đề tài, chưa đi sâu vào chỉ đạo chủ đề hoặc có thì cũng còn khá chung chung. Chỉ đạo đề tài là rất quan trọng. Buông lỏng chỉ đạo đề tài sẽ để dẫn đến phủ nhận chức năng xã hội của văn học. Đánh đồng tất cả đề tài tức là phủ nhận sự cần thiết văn học phải luôn luôn hướng vào những mũi nhọn nhất của đời sống và như vậy cũng không thể nhận ra tính đúng đắn sâu sắc của những chủ đề lớn, những nội dung lớn của đời sống. Nhất là khi trong hiện thực diễn ra những biến động sâu, mạnh, phức tạp, thì việc chỉ đạo chủ đề càng có ý nghĩa quyết định “
    (Đề dẫn, tháng 6,1979)

    Đúng là lề lối suy nghĩ của Bí thư Đảng đoàn của một hội nhà văn trong sinh hoạt của một xã hội đã gần một phần tư thế kỷ luôn luôn chịu đựng sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền, phủ nhận khả năng suy nghĩ và cảm hứng tự do sáng tạo của người cầm bút.

    Tuy nhiên ngần ấy năm trời trôi qua, từ 1979 đến 1987, hẳn thời gian đã đủ chín mùi để nhà văn Nguyên Ngọc ngày càng cảm thấy khả năng của giới lãnh đạo văn nghệ không phải là vô hạn, và nhất là sự rung cảm nghệ thuật của họ lại càng không phải là sự rung cảm nghệ thuật của người cầm bút chân chính.

    Do đó, con người văn nghệ của Nguyên Ngọc hẳn đã đấu tranh kịch liệt với con người Bí Thư Đảng Đoàn, và kết quả là nhà văn Nguyên Ngọc đã nhẩy vô nhập cuộc với phong trào văn nghệ phản kháng tuy trễ tràng hơn một năm sau so với những báo khác, nhưng lại là sự đóng góp tích cực nhất, tiêu biểu nhất, dọn đường để cho nhiều nhà văn phản kháng có cơ hội đưa ra ánh sáng những tác phẩm của mình.

    Nhận công tác Tổng Biên Tập báo Văn Nghệ, cơ quan ngôn luận chính thức của Hội Nhà Văn V.N. từ tháng 6, 1987, nhà văn Nguyên Ngọc phải lèo lái tờ báo ngay đúng thời điểm phong trào văn nghệ đổi mới đang lên cao với những đồng nghiệp nhập cuộc sớm sủa khác như tờ Tiền Phong, Lao Động, Phụ Nữ, Tuần Tin Tức ở miền Bắc, hay những tờ Đại Đoàn Kết, Sài Gòn Giải Phóng, Tuổi Trẻ, Sông Hương, Lang Bian,.., ở miền Nam.

    Tuy trễ hơn các đồng nghiệp khác hơn một năm sau, nhưng với sự lèo lái của người Tổng Biên Tập Nguyên Ngọc, tờ Văn Nghệ đã mau chóng trở thành ngọn cờ đầu đăng tải những truyện ngắn, những bài ký có nội dung phản kháng sâu xa và mạnh mẽ, gây được sự hưởng ứng hết sức sâu rộng và có tiếng vang rộng rãi cả trong nước lẫn ngoài nước. Sau đây là phần nhận định của nhà văn Mai văn Tạo trong việc đánh giá sự đóng góp của tờ Văn Nghệ trong phong trào văn chương đổi mới:

    “Tờ Văn Nghệ xông thẳng vào những vấn đề vô cùng bức xúc của con người và xã hội, phanh phui, phê phán và lên án những hành vi xấu xa tội lỗi xúc phạm đến đời sống và con người. Khoảng cách giữa đời sống và thơ văn trên trang báo dần dần thu ngắn lại. Những bất công xã hội, bọn cường hào mới, kẻ lợi dụng chức quyền vơ vét của công ức hiếp nhân dân được nhìều ngòi bút có lòng còn dũng khí vạch mặt và tố giác gắt gao, nghiêm khắc. Cái đêm hôm ấy đêm gì, Vua lốp, Tiếng hú con tàu, Tướng về hưu, Công lý chẳng quên ai... tưởng chừng không bao giờ được ra mắt người đời, thì nhiều tháng qua đã phơi bầy trên những trang Văn Nghệ. Chưa bao giờ báo Văn Nghệ hội tụ được đông đảo người sáng tác trên khắp mọi miền đất nước như thời gian qua. Và chính vì thế, độc giả từ Bắc chí Nam đã đón nhận Văn Nghệ như người bạn trung thực, đồng cảm cảnh ngộ oan khuất của mình. Chưa bao giờ Văn nghệ được coi là tờ báo của mọi người như những tháng gần đây.
    (Các nhà văn nói về vụ “báo Văn Nghệ” - Đất Việt, Canada, tháng 2-1989)

    Tuy không đưa ra những tác phẩm trực tiếp đóng góp vào phong trào văn nghệ đổi mới, nhưng ở cương vị Tổng Biên tập của tờ Văn Nghệ, nhà văn Nguyên Ngọc quả đã có công rất lớn trong nhiệm vụ làm đòn bẩy cho những tác phẩm đổi mới có cơ hội bùng lên. Chính vì sự đóng góp lớn lao này mà Nguyên Ngọc bị cất chức một cách mờ ám vào ngày 2-12-1988.

    Phóng -viên của tờ Tuổi Trẻ ở Hà Nội ngày 4-12-88 đã có dịp gặp nhà văn và nêu câu hỏi:

    - Lúc này anh đã thôi là Tổng Biên Tập báo Văn Nghệ?

    Trả lời:

    - Chính tôi cũng không xác định được lúc này tôi là gì. Về công việc, tôi không còn là Tổng Biên Tập báo Văn Nghệ nữa. Cách đây 40 giờ, trong buổi họp đột xuất của toà soạn báo Văn Nghệ do ban Thư Ký Hội Nhà Văn triệu tập, đồng chí Chính Hữu, Phó Tổng thư ký Hội Nhà Văn Việt Nam đã đọc quyết định cho tôi “thôi giữ chức” Tổng Biên Tập báo Văn Nghệ để nhận công tác khác, và cho biết quyết định ấy có hiệu lực ngay sau khi đọc, tức là khoảng 18 giờ ngày thứ sáu 2 tháng 12-1988. Kể từ sáng hôm qua, mồng 3 tháng 12, đồng chí Hoàng Minh Châu, phó Tổng Biên Tập thứ nhất được chỉ định điều hành tờ báo. Nhưng cho tới lúc này, 40 giờ sau khi nghe đọc quyết định, tôi vẫn chưa có trong tay cái văn bản pháp lý mà tôi có trách nhiệm thi hành.

    Có lẽ chẳng bao giờ Nguyên Ngọc có được cái văn bản pháp lý ấy. Bởi vì chiều 15 tháng 4 - 1989, trong dịp đến Huế hai ngày, nhà văn Nguyên Ngọc đã được Hội Văn học Nghệ thuật Bình Trị Thiên, ngoài sự tham dự của các hội viên còn có các cán bộ giảng dạy đại học, và sinh viên, các thầy cô giáo dạy văn và học sinh, các sĩ quan hưu trí của Câu lạc Bộ Phú Xuân, các phóng viên đài và báo tiếp đón trọng thể và nồng nhiệt. Trong cuộc gặp gỡ này, nhà văn Nguyên Ngọc đã thổ lộ:

    - Tôi chấp hành quyết định của Ban Thư Ký để các anh ấy khỏi nghi tôi muốn bám lấy cái ghế này. Nhưng các anh ấy còn nợ tôi một cái quyết định hợp thức của Ban Tuyên Huấn Trung Ương và Bộ Thông Tin và lý do tại sao đình chỉ công tác Tổng Biên Tập của tôi. Từ đó đến nay, họ vẫn im lặng.

    Cũng trong dịp này, nhân có người đề cập đến sự phân hoá trong toà soạn báo Văn Nghệ về thái độ và sự ra đi của nhà văn Nguyên Ngọc, Nguyên Ngọc đã bùi ngùi kết luận:

    - Đọc Pasternak tôi thấy bi kịch Zhivago vẫn là của một người đứng ngoài, đứng trên cả nước Nga mà đau. Còn bi kịch của tôi: một người trong cuộc, đảng viên, cầm súng, nhiệt thành xây dựng chủ nghĩa Xã Hội mấy mươi năm. Thế mà tại sao Tình yêu của chính mình lại bị giày đạp đến như vậy?

    Câu hỏi tự đặt ra như vậy, có lẽ không phải vì chính Nguyên Ngọc không tìm thấy câu trả lời mà ông đã nêu ra như một sự thú nhận. Phải chăng người Đảng viên, người cầm súng, người nhiệt thành với chủ nghĩa xã hội mấy mươi năm, nay trước thực trạng bi thảm của quê hương, đất nước, bỗng vụt nhận ra rằng Đảng ấy, chủ nghĩa ấy, đã chẳng phải là những giải pháp lý tưởng đem lại cho con người nguồn hạnh phúc và đời sống ấm no đúng như sự mơ ước của nhiều người.

    Nhìn ra được sự thực đó, sau bao nhiêu năm đóng góp với lòng nhiệt tình và đầy hào khí, quả là một bi kịch không chỉ của riêng nhà văn Nguyên Ngọc mà hẳn còn là của nhiều đảng viên và các tầng lớp cán bộ khác.

    Phải chăng, chính điều này đã tạo nên một loại tâm thức mới trong hàng ngũ trí thức và văn nghệ sĩ ở quê nhà vốn đã quá chán chường, mệt mỏi với những sự giả trá, khuôn phép một chiều thường vẫn là cái khung ngục tù giam hãm tư tưởng tự do và cảm hứng sáng tạo của người cầm bút. Dựa vào biện pháp cởi mở của nhà nước như một cơ hội cánh cửa ngục tù vừa mới hé ra, văn nghệ sĩ ở trong nước đã mau chóng tìm được lối thoát cho con đường sáng tác hiện đang bế tắc của mình: tự giải phóng ra khỏi khuôn phép văn chương tô hồng hay văn chương phải đạo, trực diện với đời sống của quần chúng để lôi ra ánh sáng cái thực tế thảm thương đã từng bị chính giới cầm bút che đậy, giấu giếm bằng cách tô son vẽ phấn bưng bít từ hàng chục năm qua, và hơn tất cả, đó là sự tìm lại được cái giá trị đích thực, cái nhân cách đích thực, cái dũng cảm đích thực mà văn nghệ sĩ đã từng bị tước đoạt hay vì hèn nhát mà tự mình tước đoạt trong sinh hoạt sáng tác nhiều năm trước đây.

    Giới cầm bút trong cao trào văn nghệ phản kháng ở quê nhà, chỉ trong thời gian vỏn vẹn không đầy 3 năm (1987 đến 1989) đã mau chóng lấy lại được lòng tin cậy của người đọc, và thậm chí đã trở thành ngọn đuốc sáng rỡ soi rọi tới được những hoàn cảnh tối tăm, cơ cực của quần chúng, đã trở thành cái phao của quần chúng trong khi họ đang chết đuối giữa sức ép của dòng đời đầy rẫy bất công, thối nát và áp bức.

    Hầu hết những tác phẩm quan trọng trong cao trào văn nghệ phản kháng đều đã xuất hiện trên tờ Văn Nghệ do nhà văn Nguyên Ngọc chủ trương. Chỉ riêng một sự kiện Hội Nhà Báo Việt Nam ra quyết định khen thưởng ba phóng sự đăng trên báo Văn nghệ (Gồm: Lời khai của bị can của Trần Huy Quang, Tiếng Hú của con tầu của Nguyễn thị Vân Anh, Anh hùng khi đã sa cơ của Hoàng Minh Tường) đã đủ chứng minh sự đóng góp lớn lao của tờ Văn Nghệ trong cao trào này. Và thật là điều dễ hiểu khi người ta thấy mọi giới, bao gồm cả nhà văn, nhà báo và độc giả quần chúng đều tỏ ra vô cùng phẫn nộ khi được tin tờ Văn Nghệ gặp khó khăn (tháng 9-1988, Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam ra nghị quyết lên án tờ Văn Nghệ là có những lệch lạc nghiêm trọng, và tháng 12-1988, Ban Thư ký của Hội này cách chức Tổng Biên Tập Nguyên Ngọc và thuyên chuyển công tác).

    Ngay từ giữa tháng 9-1988, gần một trăm nhà sáng tác trẻ đã hội họp ở Hà Nội để phản đối nghị quyết lên án tờ Văn Nghệ. Sau đó là 12 nhà văn ở thành phố Hồ Chí Minh, các nhà văn, nhà báo ở Lâm Đồng, Phú Khánh, Nghĩa Bình, tờ Sông Hương ở Huế, và đặc biệt là Hội Nghị hội Nhà Báo Việt Nam lần thứ 5 tại Hà Nội họp từ 28-11, đến 1-12-1988, tất cả đều có ý hướng dứt khoát ủng hộ tờ Văn Nghệ đồng thời phản đối việc làm của Ban Chấp hành Hội Nhà văn. Đặc biệt, nhà văn Bùi Minh Quốc, trưởng phân Hội Văn nghệ Lâm Đồng đã vận động lấy được hơn 100 chữ ký của các nhà văn ủng hộ Nguyên Ngọc. Sau đây là một vài ý kiến phát biểu trong vụ Nguyên Ngọc bị cách chức :

    - Nhà văn Mai Văn Tạo: Biết tin báo Văn Nghệ “lâm nạn”, Tổng Biên tập bị “hành”, công chúng miền Nam, độc giả thành phố Hồ Chí Minh, tỏ vẻ bất bình, lo ngại như thể bạn mình gặp cảnh khốn nguy. Nhiều người gặp tôi, họ lo lắng hỏi “Văn Nghệ thế nào rồi? Sao kỳ vậy?”. Những người ấy không chỉ là cán bộ, công nhân viên, người có học vấn cao, mà cả những ông thợ cắt tóc , các bác đạp xích lô... từng yêu mến tờ báo. Tuần báo Văn nghệ từ cuối năm 87 đến nay không còn là tờ báo riêng của giới phong lưu và những nhà học giả. Nó còn là món ăn bổ ích và thú vị cho các loại độc giả phía Nam này. Lẽ nào Ban thư ký Hội Nhà văn không thấy ra điều đó?

    - Nhà văn Nguyễn Quang Sáng: Qua việc này, tôi thấy so với các ngành nghề khác thì anh nhà văn, nhà báo nói riêng và văn nghệ sĩ nói chung, đối với những người đang thực sự làm việc thì bị cách chức quá dễ dàng. Từ đó mà nghĩ đến thân phận của giới này, nói rõ hơn là đối với những người thực sự làm việc của giới văn nghệ sĩ.

    - Nhà thơ Diệp Minh Tuyền : Tổng Biên Tập đổi mới này mất đi, sẽ có Tổng biên tập đổi mới khác xuất hiện hoặc thay thế.
    ***
    Dư luận phản đối ồn ào và mạnh mẽ như vậy, nhưng việc cách chức Tổng biên tập của Nguyên Ngọc vẫn được thi hành. Sự kiện này đã cho ta thấy 2 điều:

    - Một là: Giới lãnh đạo đã thực sự run sợ trước cao trào đổi mới, trong đó ngày càng lôi cuốn được nhiều cây bút có giá trị với những tác phẩm có giá trị, được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng độc giả.

    - Hai là: Biện pháp cứng dắn áp dụng với Nguyên Ngọc đã mở ra một cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai phe trong giới cầm bút: phe bảo thủ, tiếp tục chấp nhận đường lối lãnh đạo văn nghệ do Đảng đề ra và phe đổi mới, đòi hỏi người cầm bút phải có tự do sáng tạo.

    Tại Đại Hội Nhà Văn Việt Nam họp từ 23 đến 31-10-1988 tại Hà Nội, cuộc đấu tranh giữa hai phe đã diễn ra rất gay gắt và độc giả có cơ hội được biết đến qua các bài tường thuật của báo chí, đài phát thanh. Bản tin tức tổng hợp từ tin tức các báo, đài, và tự thuật của các nhà văn Thu Bồn, Nguyễn Đắc Xuân, Phan Vũ ngày 9-12-89 tại Câu lạc bộ những người kháng chiến cũ đã viết : “Suốt thời gian đại hội, đã diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt giữa hai lực lượng nhà văn: bảo thủ và tiến bộ, và sự phản đối mạnh mẽ có hiệu quả của lực lượng nhà văn tiến bộ đối với mọi sự áp đặt phản dân chủ, thậm chí cả sự chụp mũ .”

    Nhìn chung kết quả của Đại Hội, phe bảo thủ đã thất bại nhiều điều:

    1/ Lập sẵn một danh sách Ban Chấp Hành gồm 30 người định vận động thông qua nhưng bị bác bỏ.

    2/ Dự định không để Đại Hội bầu chức Tổng Thư Ký mà để cho Ban chấp hành tự bầu ra. Kết quả, đại hội cũng bác bỏ và chức vụ này cũng do Đại Hội bầu trực tiếp.

    3/ Ba nhân vật bị phe bảo thủ dưới sự chỉ đạo ở trên mong muốn loại ra (Nguyễn Quang Sáng, Xuân Cang, Nguyên Ngọc) nhưng đã đắc cử với số phiếu cao nhất.

    4/ Ba nhân vật được phe bảo thủ ủng hộ và sự chỉ đạo ở trên cố ý đưa vào ban chấp hành đều bị rớt đài (Anh Đức, Trần Bạch Đằng, Bằng Việt).

    Trong khi đó, phe tiến bộ ngoài việc ngăn chặn những mưu đồ đen tối trong đại hội, còn nêu lên được những tiếng nói dõng dạc, thể hiện quyết tâm đi tới của những người cầm bút can đảm:

    1/ Một nữ thi sĩ trẻ ở Huế yêu cầu Đại Hội làm sáng tỏ vụ nhà văn Bùi Minh Quốc, trưởng phân hội Văn Nghệ Lâm Đồng bị khai trừ khỏi đảng vì “tội” đã vận động lấy hơn 100 chữ ký của các nhà văn để ủng hộ Nguyên Ngọc.

    2/ Một nhà văn trẻ yêu cầu Trần Trọng Tân, trưởng Ban Văn Hoá - Tư Tưởng Trung ương Đảng phải kiểm thảo vì đã để xẩy ra những vụ đàn áp như ở trên cùng các vụ khác nữa nhưng làm ngơ.

    3/ Các nhà văn Thu Bồn, Bửu Tiến, Bùi Minh Quốc, và nhất là Dương Thu Hương đã đọc những bài tham luận nẩy lửa, được đại hội đánh giá là “sâu sắc nhiệt huyết và cảm động”

    4/ Tạp chí Sông Hương (Huế) bị kết 8 tội và bị đóng cửa, qua Đại Hội, đã kể như không có tội nào và đang làm thủ tục tái xuất bản.

    5/ Nhà văn Nguyên Ngọc bị cách chức, nay trở thành một trong ba nhà văn tiến bộ được đắc cử cao phiếu nhất và ở vào vị trí trực tiếp lãnh đạo của Hội Nhà Văn Việt Nam.

    Tuy nhiên, Bản Tin Tức dù lạc quan đến đâu, cũng vẫn phải kết luận:

    “Lực lượng nhà văn đổi mới, tiến bộ đã thắng lợi bước đầu. Cuộc đấu tranh cho đổi mới còn đang tiếp tục tiến lên trên con đường đầy chông gai “

    Con đường chông gai ấy, dĩ nhiên có nhiều trở lực xuất phát từ giới lãnh đạo bảo thủ, trì trệ, chỉ nhìn thấy quyền lực mà không thấy sự khát vọng lớn lao của tuyệt đại đa số quần chúng, nhưng trở lực trước hết phải kể đến chính cá nhân của mỗi con người trong giới cầm bút. Họ phải biết cảm thông sâu sắc với quần chúng, phải biết đứng về phía quần chúng để tự lột xác chính mình. Trong thời gian gần đây, đời sống quanh ta đã có biết bao nhiêu là đổi thay mãnh liệt. Người cầm bút phải tự bước ra khỏi cái ốc đảo của mỗi người để hoà nhập vào đời sống đang chuyển mình. Bởi chỉ ở vị trí mới đó, người cầm bút mới có thể hoàn thành được chức năng của mình. Phải chăng, cũng chính vì chia xẻ với nhận thức này, mà trong “ Cuộc trò chuyện cuối năm với Quốc Dũng và Bế Kiến Quốc” được đăng tải trên tờ Văn Nghệ (Tổng biên tập hiện thời là Hữu Thỉnh) số Tết Canh Ngọ ra ngày 13-1-1990, nhà văn Nguyên Ngọc đã thổ lộ:

    “Những năm gần đây, tôi thấy viết càng khó hơn. Lần này thì có lẽ không phải chỉ vì “tính trời”; tôi thấy cần tìm cho mình một tiếng nói khác, một ngôn ngữ nghệ thuật khác. Quanh tôi, và trong tôi đã có biết bao thay đổi không nhỏ, không giản đơn. Phải viết khác. Mà đối với người cầm bút đã có nghề đôi chút, thì có lẽ không có gì khó hơn là viết được khác đi. Đó là “thay máu” như anh Nguyễn Minh Châu từng nói.”

    Quả là quanh con người và trong con người của mỗi nhà văn đã có biết bao nhiêu thay đổi không nhỏ, không đơn giản. Khát vọng về một đời sống tốt đẹp hơn, về một sinh hoạt xã hội có đầy đủ tự do dân chủ đã như một cao trào không thể ngăn cản được của con người đang chuẩn bị bước vào một thế kỷ mới.

    Nhà văn Việt Nam, hay giới cầm bút nói chung, dù ở bất cứ nơi nào trên mọi phần đất thế giới không thể không nhìn thấy khuynh hướng đó và không thể không “thay máu” để chia xẻ nhịp tim đập chan hoà niềm tin mới về một vận hội mới của tương lai dân tộc. Niềm tin đó, không chỉ là mối ấp ủ riêng tư của Nguyên Ngọc hay những nhà văn, nhà thơ trong phong trào văn chương đổi mới ở quê nhà, mà hẳn còn là những ước mơ của toàn thể người Việt Nam vẫn từng thiết tha đến tiền đồ của dân tộc.
    Santa Ana, tháng 4 năm 1990.

    NHẬT TIẾN
    (TRĂM HOA VẪN NỞ TRÊN QUÊ HƯƠNG, trang 118-126,
    nxb LÊ TRẦN, California- 1990)
    (còn tiếp)

  6. #6
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    THƠ VĂN THỜI
    VĂN CHƯƠNG PHẢN KHÁNG

    cái nhìn của tương lai
    Thanh Thảo

    những đứa trẻ như những cây cao su còi
    mọc không hàng không lối
    nắm tay nhỏ vung qua bụi đỏ
    mắt gườm gườm xói vào chúng tôi
    những nhà văn đi thực tế bằng xe hơi
    tung bụi bẩn vào mắt đàn em nhỏ
    tung ngôn ngữ gấm hoa
    vào mặt những túp lều khốn khổ
    nơi đói nghèo công khai rách nát công khai
    chúng tôi cứ hồn nhiên ca ngợi tương lai
    cho tới chiều nay. Rừng cao su Chư-pả
    tương lai bỗng ném vào chúng tôi cái nhìn kỳ lạ
    qua cặp mặt gườm những đứa trẻ ngây thơ
    Cao su Chư-pả 11-1989


    ***

    Di căn
    Thanh Thảo


    như nghẹt thở
    như không muốn thở
    ô nhiễm
    ung thư máu
    ung thư không khí
    những kẻ bán mình
    di căn hung hãn

    khát một hớp trong lành
    khát một ánh thật thà
    cần ngọn lửa sờ thấy nóng
    không phải lửa ma trơi

    viết một dòng cho một người
    cho hai người
    không viết một chữ cho ngợm

    nói một lời nhỏ nhẹ
    yếu đuối
    như roi quật
    khạc vào mặt giả nhân

    anh lặng lẽ ra đi
    dấu chân nhà văn
    vỡ những dòng run run trên mặt đất.

    ***

    Mộng dữ
    Trinh Đường


    Người bạn đường hỏi tôi
    Anh đi bằng chân anh hay bằng chân người khác?

    Người hàng xóm hỏi tôi
    Anh múc nước giếng gần hay biển xa khi nhà cháy?

    Nhà tư pháp hỏi tôi
    Thủ phạm phải chăng là sự nghèo nàn ?

    Người công nhân hỏi tôi
    Làm thế nào để thiết kế lại nhân tâm?

    Người làm vườn hỏi tôi
    Do sâu đục thân hay do giống xấu ?

    Người lọc nước cật hỏi tôi
    Làm sao mẻ sau bảo đảm vô trùng?

    Tôi bàng hoàng tỉnh dậy vã mồ hôi
    Bao câu hỏi nhảy múa quanh tôi như
    hồn ma bóng quỷ.

    ***

    cuộc đời như vợ của ta ơi:
    Việt Phương


    Năm xưa ta nói rất nhiều về “Cực kỳ “ và “Hết sức”
    Tội nghiệp là ta nói chân thành rất mực
    Chưa hiểu rằng trời còn xanh hơn cả “trời xanh”
    Ta thiếu sự trầm lặng cũng do bởi nhiệt tình.
    Ta cứ nghĩ là đồng chí rồi không còn ai xấu nữa
    Trong hàng ngũ ta chỉ dành chỗ cho yêu thương
    Đã chọn đường đi chẳng ai dừng ở giữa
    Mạc Tư Khoa còn hơn cả thiên đường.

    Ta nhất quyết đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sĩ
    Hình như đây là ý chí, niềm tin và tự hào
    Mường tượng rằng trăng Trung Quốc đẹp hơn trăng nước Mỹ
    Sự ngây thơ đẹp tuyệt vời nhưng ngờ nghệch làm sao!
    Một nửa thế kỷ qua đi và bây giờ ta đã biết
    Thế nào là yêu thương thế nào là chém giết
    Ta đã thấy chỗ lồi, chỗ lõm trên trăng sao
    Những vết bùn trên tận đỉnh chín tầng cao.

    Sức ta tăng bội phần khi ta say đến trở thành rất tỉnh
    Ta có thể nói với quân thù những lời bình tĩnh
    “Những cái gì tốt đẹp của mày thuộc về tao!
    Những cái gì xấu xa của tao thuộc về mày!”

    Năm xưa ta vô tình tô thăm cuộc đời để mà tin
    Nay đã tin mà không cần tô thắm gì nữa cả
    Quen thuộc rồi mối bất ngờ kỳ lạ
    Ta đã trả giá rất đau và đã học nhìn.

    Ta đã gặp những điều không hề chờ đợi gặp
    Mà đâu phải chỉ rắn phục giữa vườn hoa
    Những kẻ tốt đến yếu mềm chỉ là đồ giẻ rách
    Rắn còn nằm cuộn khúc giữa lòng ta.

    Ta suy nghĩ tám nghìn đêm đánh giặc
    Nghiền tâm tư với những hạt ngô bung
    Giữa bom đạn ta lọc ra hạnh phúc
    Tim ta dần trong sáng đến vô cùng.

    Ta đã sống những phút giờ sự thật
    Tâm dân tộc ta và kích thước loài người
    Bừng vẻ đẹp chắc bền của Đất
    Những thung lũng đau xưa vàng rực niềm tin.

    Ta đã hiểu sai và có thể vẫn còn sai
    Chất người trong ta cộng sản thêm chút nữa
    Trút vẻ thần tượng đi, càng lồng lộng con người
    Phía trước, đằng sau, bên ngoài, và chính giữa.

    Như Quảng Bình, Vĩnh Linh càng tươi máu lửa
    Ta hiểu hết sự xấu xa, bỗng nở nụ cười
    Mở đài địch như mở toang cánh cửa
    Nghe nó chửi mà tin tưởng ở ngày mai.

    Ta đau lắm những nỗi đau sinh nở
    Cuộc đời thân như hơi thở của ta ơi
    Ta vui lờm những niềm vui cởi mở
    Cuộc đời yêu như vợ của ta ơi !

    VIỆT PHƯƠNG

    ***

    Ba người trong hẻm đuôi voi
    Xuân Đài

    (trích)
    - Anh Tư là đại úy, học tới đại học sao không xin được việc làm hả anh Hiền ?

    - Tà tà anh kể chú nghe. Cách đây gần ba năm, trung đoàn ở Campuchia về nước, bọn anh được phục viên. Anh Tư Thắng ra Bắc tìm đơn vị xây dựng cũ. Đơn vị làm ăn thua lỗ sao đó, giải tán. Anh Tư ba lô khăn gói về quê. Bố anh đã mất từ hồi anh chưa vào đại học. Anh về giữa lúc mẹ già đang ốm nặng. Về hôm trước, hôm sau bà cụ thều thào: “Mẹ được nhìn thấy con lành lặn là mẹ yên lòng nhắm mắt xuôi tay được rồi.” Nói xong bà cụ tắt thở.

    Nhắc lại chuyện này với anh, anh Tư chảy nước mắt, bảo: may mà đơn vị xây dựng rã đám, chứ không mình chẳng được gặp mẹ. Số tiền dành dụm trong mấy năm đi lính cộng với tiền phục viên, anh Tư trang trải vào đám ma bà cụ hết sạch. Anh Tư kể với anh, sau đó anh ấy ra Hà Nội tá túc nhà người anh ruột. Người anh giáo viên cấp hai, lương ba cọc ba đồng, thương em, chạy ngược chạy xuôi xin việc không đâu nhận, lý Do đơn giản, đã không có hộ khẩu lại thiếu tiền trà lá.

    Thằng Hải nói xen vào:

    - Gặp cảnh thế này, ông nội em hay chửi “tổ cha cuộc đời vô hậu” !

    - Cuộc đời không phải lúc nào cũng vô hậu cả đâu em. Nhưng con người ta được số phận an bài hết trọi. Anh Tư lộn về quê bán nhà. Anh ấy kể, gần nửa làng đi kinh tế mới, nhà rẻ rề, bán như cho vừa đủ một suất vé tàu vào Sài Gòn. Em biết câu họa vô đơn chí không? Có hả, giỏi. Trên tàu, bọn khốn nạn nẫng gọn ba lô anh Tư. Quần áo, chứng minh thư, giấy tờ phục viên mất sạch. May mà cái thẻ đảng để ở túi áo ngực là còn. Em nhìn thấy thẻ đảng chưa? Đẹp lắm, nhưng nó lại vô tích sự không giúp được anh Tư việc gì trong lúc này. Có lần, chính nó lại xuýt gây “tai nạn” cho anh ấy. Số là thế này. Anh Tư mới vào, ngủ nhà anh, nửa đêm công an kiểm tra hộ khẩu. Anh Tư xuất trình thẻ đảng. Cái ảnh ông đại úy trong thẻ đẹp trai, tự tin, còn cái hình hài ông đại úy ngồi trước mặt tiều tụy, quần áo nhếch nhác, họ nghi cho là anh Tư xài thẻ giả. Dong lên đồn ngủ với muỗi một đêm, mai sáng tha về, xác định sau. Đã gần hai năm nay, họ không trả lại thẻ đảng, anh Tư cũng không buồn đòi. Mà thôi, em chẳng nên nghe những chuyện tầm phào thêm mệt.

    Hiền sờ tay vào trán thằng Hải, gật gật đầu, hỏi nó có thích uống nước chanh để anh pha. Hải lắc đâu. Chuyện đời phiêu bạc, đa đoan của Tư Thắng đang hấp dẫn, nó tò mò hỏi:

    - Sao anh không giữ anh Tư ở lại đây với gia đình ?

    - Dạo mới ngoài Bắc vô, anh Tư ở đây. Hai anh em chạy khắp nơi xin việc. Cũng giống Hà Nội, không có hộ khẩu, không chỗ nào người ta nhận. Hôm trước má anh tính bán cái tủ gương, phụ thêm ít tiền mua cho anh Tư cái xích lô chân co chân duỗi, kiếm sống qua ngày. Anh Tư gạt đi, đâu có chịu. Năm ngoái, anh ấy định về Long Khánh làm rẫy, má anh cản không cho đi. Gương mấy gia đình ở hẻm này, bán cửa bán nhà đi kinh tế mới, chịu không thấu bỏ về hết trọi, còn sờ sờ ra đó. Anh Tư mày khái tính lắm, không muốn nhờ vả ai lâu. Hôm bỏ ra đi, anh bảo với anh: Sức dài vai rộng như tao, cứ níu gấu quần đàn bà già ăn bám, nhục lắm. Vả lại, ở đây, em biết không, dăm bữa nửa tháng, người ta lại sục vô vặn hỏi giấy tờ tạm trú làm anh ấy bực mình.

    Má anh Hiền đi bán hủ tiếu rong về, cười xởi lởi, hỏi oang oang từ ngoài sân:

    - Thằng nhỏ sao rồi, lành bệnh chưa? Tao mua cho hai anh em tụi bay một lố bánh cam đây. Ăn liền cho nóng.

    Hiền tất tả chạy ra đỡ gánh hàng cho mẹ. Đặt đĩa bánh cam lên bàn, giục Hải :

    - Bánh cam bà “Sáu chín năm” ngon có tiếng, em ăn đi. Ăn xong uống hai viên thuốc nữa. Thuốc anh gói để trên tủ, cái gói trắng trắng đó. Ăn uống rồi ngủ một giấc, chiều là lành hẳn. Bây giờ anh phải tới Bộ tư lệnh lấy lại giấy tờ phục viên cho Tư Thắng. Hôm nay họ hẹn, chắc được. Không có giấy tờ tùy thân có ngày người ta hốt vô Chí Hòa thì khốn. Anh đi chút xíu về liền.
    (ngưng trích)

    ***

    ĐỖ QUYÊN phỏng vấn NHẬT TIẾN
    về cuốn
    Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương

    Đỗ Quyên tên thật là Đỗ Ngọc Thủy, sinh tại Hà Nội (1955), tốt nghiệp (1977) và giảng dạy (1977-1988) ngành Vật Lý hạt nhân, trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội. Hiện định cư tại Canada. Sáng tác chính : Thơ, Truyện, Tiểu luận,

    Phỏng vấn: Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương:
    Hai vấn đề Nhân văn-Giai phẩm và Cao trào Phản kháng 1986-1989


    ĐỖ QUYÊN: - Sau này, sau 30-4-1975 và khi ra hải ngoại, rồi qua những lần về Việt Nam, anh thấy biến cố Nhân Văn-Giai Phẩm ra sao?

    NHẬT TIẾN : Tôi chưa hề được gặp bất cứ nhà văn, nhà thơ nào liên hệ đến vụ Nhân Văn Giai Phẩm dù đã trở về Hà Nội đôi lần trong mấy năm gần đây. Tuy nhiên, cảm nhận của tôi là có vẻ như mọi người ở cả hai phía (đàn áp và đã bị đàn áp) đều muốn coi biến cố ấy như một trang bi thảm đã lật qua, và không muốn nhắc lại. Một phần là vì nó đã trôi vào khá xa trong quá khứ, một phần khác, tình hình đất nước trong hoàn cảnh mới đã đặt ra nhiều vấn đề rộng lớn hơn, sâu xa hơn, tâm thức của con người hiện nay cũng khác biệt hơn so với cái tâm thức của thời kỳ mà các nhà văn trong Nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm đã từng sống.

    - ĐQ: Ở trên đã nói đến cuốn Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương như là các anh muốn tái thực hiện cuốn Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc của học giả Hoàng Văn Chí. Anh có sự so sánh gì giữa “những cây bút phản kháng ở quê nhà (1986-1989)” với biến cố Nhân Văn-Giai Phẩm?

    - NT: Về nội dung sáng tác của người cầm bút trong cả hai hoàn cảnh dĩ nhiên có nhiều điểm tương đồng: cả hai đợt đều biểu lộ cái khát vọng tự do của người cầm bút, đều đấu tranh cho sự tự do sáng tạo nhằm phục vụ cho những giá trị chân chính của con người.

    Tuy nhiên, nếu cần so sánh thì ta cũng có thể thấy rõ có một sự khác biệt sâu xa: đó là những cây bút tham gia cao trào văn nghệ phản kháng (1986-1989) có tính chất đa dạng và rộng rãi hơn nhiều so với Nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm hồi cuối thập niên 50. Hơn nữa, mục tiêu phản kháng và cường độ phản kháng của cao trào này cũng sâu xa hơn, mạnh mẽ hơn, và tính chất biểu lộ sự đồng tình của giới độc giả quần chúng cũng sôi nổi và rộng rãi hơn nhờ ảnh hưởng đến từ các biến cố trọng đại bên ngoài và chính sách cởi mở của Tổng Bí thư thời đó là Nguyễn Văn Linh.

    Nhưng đấu tranh với một chính quyền còn đang ở thế mạnh, lại có cả một bề dầy những kinh nghiệm lọc lõi về phương cách đàn áp và khống chế con người, thì thành quả và số phận của cao trào này sau đó ra sao, ai cũng đã nhìn thấy. Nó đã xẹp đi như một quả bóng xì hơi, số ngòi bút vẫn còn tiếp tục một cách quyết liệt con đường đã lựa chọn bây giờ chỉ còn là con số rất nhỏ nhoi, và đáng buồn hơn, lại có cả những ngòi bút từng tham gia cao trào ấy nay đã quay 180 độ để ngồi xổm lên chính những điều mà mình đã từng viết ra.

    Tuy nhiên, tôi vẫn tin tưởng rằng sở dĩ có những hiện tượng đáng buồn như vậy không phải vì mọi người đã nhận ra sự sai trái của mình trong nhận thức mà chính vì sự sinh tồn của mỗi cá nhân trong mỗi hoàn cảnh riêng biệt. Nghĩa là tôi vẫn tin tưởng rằng khát vọng tự do cầm bút không bao giờ nguội tắt trong tâm tưởng của mỗi người dù hiện nay họ đang lựa chọn đất đứng nào. Phải trực diện đời sống thực tế ở trong nước thì mới có thể cảm thông với nhận định này. Không nên chỉ cứ ở xa mà kêu gào người khác đóng vai anh hùng.

    Xu hướng thời đại vẫn đang lừng lững tiến lên, sự phát triển của kỹ thuật tin học không ngừng chiếm lĩnh các địa bàn trong mọi sinh hoạt của đất nước, tất cả sẽ tạo điều kiện cho những người khát khao tự do, dân chủ, đặc biệt là những người cầm bút sẽ có cơ hội viết lên trang sử mới đẹp đẽ hơn của dân tộc trước bình minh của Thế kỷ 21.

    - ĐQ: Tôi nghĩ, ít nhất cũng là qua các sự kiện nhìn thấy, nghe thấy thì “cao trào văn nghệ phản kháng (1986-1989)” có bề rộng, lan tỏa xa mà không sâu nặng, không cam go như thời Nhân Văn-Giai Phẩm. Nói theo ngôn ngữ nhà binh mà trong nước ưa xài là “có diện mà không có điểm”.

    - NT: Nêu vấn đề Diện và Điểm, như anh nói, là nhận diện cao trào văn nghệ phản kháng như một cuộc đấu tranh có tổ chức, có đường lối chỉ đạo rõ rệt và có sách lược đã được nghiên cứu kỹ luỡng. Tôi cho rằng nếu xét như thế là đã bỏ qua vấn đề bản chất “lề mề” của văn nghệ sĩ. Không hiểu có phải tôi đã chủ quan khi nêu nhận định này không, nhưng theo tôi, người văn nghệ sĩ thường đa dạng trong cung cách ứng xử cũng như trong sự lựa chọn đề tài sáng tác cho mình. Cái gì thích, cái gì gây xúc động, gây rung cảm cho mình thì mình viết. Họ không quen đứng trong một hàng ngũ để sáng tác hay viết lách theo nhu cầu đánh giá của hàng ngũ ấy. Có thể vì thế mà họ không phân biệt rạch ròi, hoặc ngay cả sự không thích phân biệt rạch ròi, đâu là diện, đâu là điểm để đưa cao trào tới những thành quả cụ thể.

    Còn về những hệ lụy đến với những người tham gia cao trào không sâu nặng, không cam go như hồi Nhân Văn-Giai Phẩm thì hoàn toàn đúng, nhưng cũng có thể vì thế giới ngày nay đã có quá nhiều đổi thay so với gần 50 năm trước, dân chúng Việt Nam cũng không còn là những con cừu ngoan ngoãn như xưa, nhà nước dù muốn cũng không thể, không dám áp dụng chính sách đàn áp quyết liệt, thẳng tay như hồi trước. Xin hỏi anh, vào thời điểm 1986-1989, có một nhân vật văn hóa, văn nghệ nào ở Việt Nam mà dám muối mặt đứng ra làm một thứ Tố Hữu của những thập niên 50 hay không?

    - ĐQ: Những anh chị em ra đi từ miền Bắc sinh sống, làm việc và tỵ nạn ở các nước Âu châu đón nhận cuốn Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương với một sự xúc động và thán phục. Cuốn mà tôi được gửi tặng ngày 3-12-1991 từ anh Lê Bửu Tấn, bạn bè tôi chuyền tay nhau đến mức nó sờn cong như thường thấy ở một cuốn chưởng Kim Dung! Mười năm đã qua, cho thấy giá trị hiếm có của cuốn sách trong vô vàn các sách báo hải ngoại. Theo tôi, hình như đây là cuốn sách duy nhất quy tụ được hầu hết các cây bút có khuynh hướng khác nhau của những người viết hải ngoại? Xin cho biết Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương được thực hiện về bài vở, về in ấn, phát hành như thế nào? Anh có những công việc gì trong đó và xin nói vài lời về bài viết “Nhà văn Nguyên Ngọc: suy nghĩ và hành động trong cao trào phản kháng” có trong cuốn sách?

    - NT: Tôi thật bất ngờ khi được anh cho biết cuốn Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương đã được tiếp đón nồng hậu đến như thế ở bên trời Âu, thế mà trong thâm tâm, tôi vẫn nghĩ nó chỉ mang lại nhiều hệ lụy trong khi thành quả thì không có bao nhiêu, mặc dù tôi vẫn tự hào là đã được đóng góp một phần nhỏ nhoi trong việc hình thành cuốn sách ấy. Đúng như anh nhận xét, đây là một cuốn sách hiếm hoi ở hải ngoại quy tụ được hầu hết các cây bút có khuynh hướng khác nhau ở hải ngoại.

    Theo nhận xét của tôi và nhiều anh chị em khác, thì đây cũng là một lần duy nhất tính cho đến nay, đã có một nhóm như thế ngồi lại được với nhau, sôi nổi, nhiệt tình và đầy thiện chí để làm đến nơi đến chốn một công trình kể từ lúc khởi sự cho đến khi hoàn tất. Ngoại trừ những người ở quá xa, phần còn lại khoảng trên dưới 20 người, chúng tôi đã làm việc ròng rã suốt một năm trời, tuần lễ nào cũng họp mặt để thảo luận, để trao đổi tin tức, để thu góp tài liệu, để phân công làm việc, để giải quyết mọi vấn đề xoay quanh cái chủ đề lớn khi đó: Cao trào văn chương phản kháng ở trong nước. Cuối cùng thì chúng tôi cũng hoàn tất được việc biên soạn và ấn loát được một cuốn sách khá đồ sộ, dầy tới 800 trang khổ lớn, bao gồm bài vở và tài liệu của 27 tác giả ngoài nước đọc và viết về 79 tác giả ở trong nưóc. Công lao lớn nhất phải dành cho những người đã bỏ ra rất nhiều thì giờ, tiền bạc và tim óc cho công trình này như các anh Trần Vịnh, Đỗ Hữu Tài, Thân Trọng Mẫn, Nguyễn Quốc Trung, Lê Bửu Tấn, Nguyễn Bá Tùng, Trương Đình Luân, Hoàng Sử Mai và một vài anh em khác nữa.

    Sau khi cuốn sách được in ra, chúng tôi còn phân công với nhau đi tổ chức ra mắt ở vài nơi như Portland (Oregon), Houston (Texas) và Washington DC. Tôi và anh Đỗ Thái Nhiên nhận lãnh nhiệm vụ ra mắt cuốn sách ở Portland State University thuộc thành phố Portland, tiểu bang Oregon với sự hợp tác tận tình của các anh chị em thuộc Hội Sinh Viên Việt Nam ở đó. Cả hai chúng tôi thay nhau thuyết trình về những vấn đề xoay quanh Cao trào Văn chương Phản kháng ở Việt Nam và trả lời những thắc mắc do cử tọa nêu ra. Nhìn chung thì có sôi nổi nhưng không có vấn đề gì đáng tiếc xẩy ra.






    Điều bất ngờ là sau này, chính anh Đỗ Thái Nhiên đã thay đổi lập trường chính trị và là một trong những người phê phán tôi bền bỉ và mạnh mẽ nhất. Dẫu sao thì tôi cũng cám ơn anh ấy ở chỗ đã chịu khó đọc những tác phẩm hay bài viết của tôi và trình bày những cái nhìn khác biệt với cái nhìn vốn có của tôi bằng một giọng văn nhã nhặn, không phải là thứ văn chương chợ búa mà một số người khác đã dành cho tôi trên mặt báo.

    Trở lại với cuốn sách kể trên, như anh đã hỏi, tôi nhận sự phân công của anh chị em trong nhóm biên soạn để viết về tác giả Nguyên Ngọc, nguyên bí thư Đảng đoàn Ban thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam kiêm Tổng biên tập báo Văn Nghệ. Thực ra tôi không được quen biết hay tiếp xúc với nhà văn này trong những năm tôi chưa ra khỏi nước (1975-1979). Tuy nhiên, những văn liệu mà chúng tôi có về Nguyên Ngọc thì khá phong phú, nên tôi đã viết bài “Nhà văn Nguyên Ngọc, những suy nghĩ và hành động trong Cao trào văn Nghệ phản kháng” chủ yếu là qua việc nghiên cứu những văn liệu này.

    - ĐQ: Nếu có ý cho rằng vấn đề của Nhân Văn-Giai Phẩm khởi thủy từ một vài đề nghị có tính “góp ý thành thực để xây dựng Đảng” (đại để như: “Bây giờ không còn ở chiến khu nữa, mà đã hòa bình rồi, văn nghệ sỹ vẫn dưới sự lãnh đạo của Đảng nhưng Đảng cần cho anh em tự do trong sáng tác”, v.v...), gửi trực tiếp tới tướng Nguyễn Chí Thanh lúc đó nắm Tổng cục chính trị QĐNDVN, của một số anh em nhà văn quân đội mà Trần Dần đại diện; Sau do bị “nâng quan điểm” nên mới thành lớn chuyện và thành cái gọi là “vụ án” có tính “phản kháng văn nghệ” như đã xảy ra. Anh nghĩ sao về ý kiến này?

    - NT: Tôi không đồng ý với nhận định này vì như thế vừa đánh giá quá thấp khát vọng tự do của anh chị em văn nghệ sĩ (mà đa số không ở trong quân đội, không là cấp dưới của tướng Nguyễn Chí Thanh để phải gửi kiến nghị), vừa bỏ qua những biến động trong tình hình thế giới vào thời điểm đó.

    Theo nhận định của cụ Hoàng Văn Chí thì có nhiều nguyên nhân cả về phương diện khách quan ngoài nưóc lẫn chủ quan trong nước. Xin tóm tắt như sau:

    - Nguyên nhân khách quan: bao gồm những biến cố chấn động thế giới như việc hạ bệ Staline do Krushchev khơi mào trong Hội nghị lần thứ 20 của Đảng CS Liên Xô vào tháng 2-1956, như chủ trương “Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh” do Lục Định Nhất, Cục trưởng Cục Tuyên Huấn của Đảng CS Trung Quốc đưa ra vào tháng 5-1956, như các cuộc nổi dậy ở Poznan (Ba Lan) tháng 6-1956, ở Budapest (Hung gia lợi) tháng 10-1956.

    -Nguyên nhân chủ quan: Phải kể đến tâm trạng của giới trí thức, văn nghệ sĩ trước tình cảnh: “báo chí, sách vở xuất bản ở Hà Nội sau ngày tiếp thu vẫn đầy rẫy những bài ca tụng Đảng, Bác, những bài kêu gọi nông dân đứng dậy tàn sát địa chủ, phản động, lưng chừng”. Đời sống vật chất của họ cũng cực kỳ thấp kém, hoàn toàn chênh lệch so với các cán bộ văn hóa cấp cao như Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu... và những kẻ “bận đồ lớn, đi dự hội nghị, ăn uống ngồm ngoàm”. Rồi những biến động to lớn trong nưóc cũng xẩy ra trong thời kỳ đó như vụ nông dân ở xã Quỳnh Lưu nổi loạn, vụ thanh niên và công nhân “miền Nam tập kết” đập phá trụ sở đồn công an ở Bờ Hồ và nhất là vụ sửa sai trong cuộc cải cách ruộng đất khiến nhà nước phải thả 12 ngàn đảng viên bị cầm tù vì tố điêu, tố sai, dẫn tới việc Trường Chinh, Hồ Viết Thắng bị mất chức.

    Trong bối cảnh ấy, giới cầm bút không thể lặng lẽ ngồi yên. Sau cùng, không thể không nói tới những vị lớn tuổi trong hàng ngũ trí thức, văn nghệ sĩ còn mang nhiều tính chất của kẻ sĩ như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Thụy An, và đặc biệt là nhà nho đầy tiết tháo Phan Khôi. Không lẽ những tên tuổi như thế mà lại chỉ biết đóng góp phần tâm huyết của mình sau khi Trần Dần, đại diện các nhà văn quân đội gửi “vài đề nghị có tính cách xây dựng Đảng” lên tướng Nguyễn Chí Thanh?

    - ĐQ: Tôi có coi một số các bài nhận định của giới phê bình trong nước (cả loại bài viết có tính “văn công”, cả loại bài viết có tính độc lập) về văn học và sách báo hải ngoại (mà một số báo hải ngoại in lại), nhưng như không thấy có đánh giá nào về “sự kiện” cuốn Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương; Khi anh về nước, anh có thấy giới văn nghệ trong nước biết về cuốn này không? Nếu không, thì với anh em văn nghệ trong nước, ta làm một việc gần như “ném đá xem tăm”! Uổng quá anh à?

    - NT: Cuốn Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương sau khi được phát hành, tuy hầu như không có một bài điểm sách nào nhắc nhở đến (hoặc giả nếu có thì tôi cũng không được đọc), nhưng tự nó đã dấy lên trên mặt các báo chí hải ngoại những loạt bài nhận định và phê phán trên chủ đề “Có hay không có một cao trào văn chương phản kháng ở quê nhà?” Hầu hết các bài viết mà tôi được đọc thì đều nghiêng về lập luận: đó là những chống đối giả, phản kháng giả, là những nắp xì hơi của chính quyền. Cũng như số phận của cuốn sách bị giàng dây kéo lê trên mặt đường Bolsa, những cây viết trong nước được nhắc đến trong cao trào phản kháng thì lại bị đem ra nhục mạ cách này hay cách khác, nhưng hằn học nhất phải kể tới sự kiện Dương Thu Hương được gọi là “Con Việt Cộng Cái” (chữ của N.V.N) hoặc “Con Việt Cộng” (N.V.C).

    Trong khi đó, về phía trong nước thì tiếc thay, hầu như không mấy ai biết tới sự hiện diện của cuốn sách này, kể cả giới làm văn hóa, văn nghệ! Đúng là “uổng quá anh à”, như anh nói, nhưng không bao giờ chúng tôi tiếc xót công trình của mình đã thực hiện. Cuốn sách đã đóng đúng vai trò của nó trong thời điểm ấy, và chúng tôi không có cao vọng gặt hái được cái gì nhiều hơn.
    (còn tiếp)

  7. #7
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    Phần thứ hai :

    HÀNH TRÌNH CHỮ NGHĨA
    Qua những chặng đường “Nhận Thức”

    ***
    Thời điểm 1985 : Sinh hoạt Văn hóa
    ở Thủ đô Hoa Thịnh Đốn

    MỘT SUY NGHĨ
    của
    NGƯỜI CẦM BÚT LƯU VONG




    (Phát biểu trong dịp ra mắt tác phẩm “MỘT THỜI ĐANG QUA” của Nhật Tiến và tập nhạc THẤM THOẮT 10 NĂM của Phạm Duy do Tạp chí Xác Định, Hội Văn Hóa VN tại Bắc Mỹ và Tủ sách Cành Nam tổ chức tại Washington DC ngày 11-10-1985)


    Kính thưa toàn thể quý vị,

    Tôi rất lấy làm vinh dự lần đầu tiên được ra mắt quý vị tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn trong một buổi sinh hoạt mang nhiều ý nghĩa văn hóa như buổi tổ chức ngày hôm nay.

    Trong suốt cuộc đời gần 30 năm cầm bút, đây là lần đầu tiên tôi tham gia công việc tổ chức ra mắt cho một tác phẩm của chính mình. Điều này đối với một tác giả đương nhiên là một sự kiện đầy cảm hứng, khích lệ và vô cùng đáng ghi nhớ, nhưng thực ra, cái ý nghĩa hệ trọng đáng nói hơn cả, chính là ở mục tiêu cao đẹp mà nhóm chủ trương bao gồm Tạp chí Xác Định, Hội Văn Hóa VN tại Bắc Mỹ và Tủ sách Cành Nam đang nỗ lực thực hiện mà buổi tổ chức hôm nay coi như cuộc thử nghiệm khởi đầu.

    Trong lá thư ngỏ đã được phổ biến ở ngay trang đầu mỗi tác phẩm ra mắt ngày hôm nay, nhóm Chủ trương đã nêu nhận định:

    “Viết đã đòi hòi nhiều nghị lực, bỏ tiền túi ra in lấy thì thực là một việc làm quá đáng, đó là chưa kể việc phân phối đang đặt ra những trở ngại tưởng như không thể giải quyết được.”

    Nêu lên được thực trạng này, quả thật Nhóm Chủ trương đã cảm thông được một cách sâu xa những nỗi khó khăn chật vật của giới cầm bút kể từ lúc cặm cụi ngồi sáng tác cho đến khi đánh máy lấy bản thảo, chạy tiền in và lo phân phối tác phẩm của mình như tôi đã được biết những trường hợp của Hà Thúc Sinh với Đại Học Máu, Phạm Quốc Bảo với Cùm Đỏ, Đời Từng Mảnh, Trần Diệu Hằng với Vũ Điệu Của Loài Công, Nguyễn Bá Trạc với Ngọn Cỏ Bồng, Tưởng Năng Tiến, Võ Hoàng với Măng Đầu Mùa, Trong Lòng Cách Mạng và còn bao nhiêu nhà văn, nhà thơ khác không thể kể hết ra như Nguyễn Mạnh Trinh, Thái Tú Hạp, Đức Chính, Đỗ Quốc Anh Thư, Nguyễn Đức Bạt Ngàn..v..v..

    Cho nên kêu gọi thân hữu góp vốn để ấn hành các tác phẩm của những tác giả không có khả năng tài chánh để tự lo liệu là một sáng kiến hết sức kịp thời và rất đáng được cổ võ. Có thể nói, đây lại cũng là lần đầu tiên ở hải ngoại, một nhóm chủ trương đã được hình thành để hỗ trợ cho công cuộc bảo vệ và phát huy văn hóa có tính cách liên hệ rất trực tiếp đến sinh hoạt của giới cầm bút.

    Điều này, tôi hy vọng sẽ mở ra được một hoàn cảnh thuận lợi mới để cho Văn Học Nghệ Thuật ở hải ngoại có cơ hội phát triển. Người viết có cơ may khỏi bận tâm gì đến việc ấn loát, phát hành. Người đọc có cơ may được cung ứng thêm những tác phẩm có giá trị về mặt nội dung thông qua sự tuyển chọn của Nhóm chủ trương điều hành.

    Như thế, nếu sinh hoạt văn học nghệ thuật từ nhiều năm qua có những điều được ghi nhận là bế tắc, thì nay một trong những lãnh vực bế tắc ấy đã có chiều hướng được khai thông nếu như sáng kiến của Nhóm Chủ Trương được sự tiếp tay nồng nhiệt của toàn thể đồng bào.

    Vấn đề còn lại phải được nêu ra là về phía người cầm bút cần nghĩ gì và viết gì để đáp ứng nhu cầu văn hóa đích thực trong hoàn cảnh hiện nay.

    Tôi muốn nhân cơ hội này xin được bày tỏ trước quý vị một vài điều suy nghĩ của mình với lòng mong ước được quý vị và đặc biệt là các anh chị em trong giới cầm bút sẽ góp phần soi sáng, bổ túc thêm ngõ hầu toàn thể chúng ta khai mở được một chiều hướng nhận thức mới vào sinh hoạt văn học nghệ thuật vốn đang còn trì trệ , dậm chân tại chỗ như hiện nay.
    ***

    Thưa quý vị, nói đến sinh hoạt văn học nghệ thuật là nói đến sự TỰ DO. Vì thiếu tự do ở trong nước nên hàng triệu người đã bỏ nước ra đi, trong đó có rất đông anh chị em cầm bút.

    Trong một lá thư gửi ra từ quốc nội, một văn hữu có hỏi tôi một câu ngụ ý rằng “ở hải ngoại, các anh đã thực sự có tự do cầm bút hay không ?”

    Tôi không thể dài dòng trả lời câu hỏi này vì lý do thư từ qua lại tế nhị, nhưng thực sự tôi đã tìm ra lời giải đáp một cách dễ dàng. Đó là sau năm năm trời sống ở nước ngoài, trải qua những buổi sinh hoạt, những cuộc gặp gỡ tiếp xúc, những lần trao đổi góp ý và cả sự được đọc những bài viết đăng rải rác trên nhiều mặt báo, tôi thấy rõ người cầm bút ở đây chưa thực sự có tự do cầm bút.

    Tôi không thể diễn tả một cách cụ thể những hình thức gò bó nào đã giới hạn ngòi bút của những người lưu vong, nhưng tôi cảm nhận được những sự giới hạn ấy nằm ở trong nhiều lãnh vực: Những thành kiến cố hữu, những quan điểm chính trị cực đoan, một chiều, những đầu óc bè phái, chia rẽ, những thái độ nhút nhát, thiếu can đảm, sợ hãi trước những thủ đoạn bôi nhọ, chụp mũ và sâu xa hơn cả là ở sự thiếu sót một cái nhìn sáng suốt và toàn diện những diễn biến về mặt tâm thức của tuyệt đại đa số đồng bào còn nằm trong gông cùm cộng sản ở quê nhà.

    Những sự kiện vừa kể đã mặc nhiên dựng lên trong sinh hoạt văn học nghệ thuật ỏ hải ngoại những hàng rào, những hố ngăn cách, những con đường mòn hay những ngõ cụt, nó khiến cho sinh hoạt văn hóa, ít ra là ở lãnh vực sáng tạo, mang một bộ mặt nghèo nàn, phân hóa và hầu như có một tính chất đồng dạng là ở chỗ tự mãn, ủy mị với quá khứ, nhởn nhơ, ù lì trong hiện tại và mờ mịt thiếu cảnh giác trước mhững bước đi của lịch sử trong tương lai.

    Trong lời tựa của cuốn Đạo trường Ngâm, một tác phẩm đã được nhóm Nhân Chủ Học Xã cho tái bản gần đây, tác giả Thái Dịch Lý Đông A đã viết rằng :

    “Tin thờ lý tưởng đang tranh đấu đâu phải “mắt mù”, “mặt cúi”. Nhà làm văn nghệ không thể làm tiếng “chó sủa” đồng thời không thể làm đồ đùa cho cho giai cấp độc quyền“
    (Đạo Trường Ngâm, thay lời tựa, trang 5).

    Vì không thể mắt mù, mặt cúi và vì không thể là tiếng chó sủa hay đồ đùa cho giai cấp độc quyền nên hầu hết anh chị em văn nghệ sĩ ở miền Nam cũ đều đã quẳng bút khẳng khái chấp nhận kéo dài một đời ảm đạm nơi quê nhà, sinh sống bằng đủ loại nghề nhưng không phải là cầm bút ca ngợi chế độ.

    Một số đông anh chị em khác đã bỏ nước ra đi. Nhưng sự ra đi ấy chỉ có nghĩa khi người làm văn nghệ không tự biến thành mõ chợ hay nhởn nhơ quay về tiếc nuối quá khứ tưởng là vàng son nhưng thực chất vẫn là một xã hội còn tham nhũng, bất công, và nhiều người vẫn còn khốn khổ vì đất nước đang trong thời chiến. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta phủ nhận quá khứ. Chẳng có điều gì trong quá khứ, dù hay hoặc dở lại không giúp cho chúng ta rút ra được một điều gì để học hỏi. Cho nên tôi khẳng định rằng người cầm bút phải từ những đau thương của quá khứ mà vươn lên. Cả vinh quang cũng như tủi nhục xuất phát từ quá khứ đều là những hành trang tốt cho con người sáng tạo, hành trang được sử dụng như một thứ dấn thân vào con đường tiếp nối trước mặt chứ không phải một dãy sự kiện cồng kềnh cột chân con người tại chỗ để rồi chính họ tự chôn mình trong những đắm đuối, dễ dàng của một thời đã trôi hoàn toàn vào quá khứ.

    Thêm vào đó, ít ra con người sáng tạo phải thấy rõ những diễn biến về mặt tâm thức của tuyệt đại đa số đồng bào còn đang lầm than ở quê nhà.

    Cái tâm thức đó không còn là tâm thức của những con người thuộc ngày tháng trước khi miền Nam sụp đổ.
    Cái tâm thức đó cũng không còn là của riêng đồng bào ở miền Nam, phía bên này của vĩ tuyến 17.

    Cuộc cưỡng chiếm của CS tại miền Nam sau 1975 đã đem lại cho quê hương VN ít ra là hai yếu tố mới :

    Một là : sự giao thông đi lại giữa hai miền Nam, Bắc đã soi sáng một vấn đề mà trước đó ít ai nhận ra : đó là tuyệt đại đa số nhân dân miền Bắc dù đã bị nhào nặn trong lò cừ của chế độ XHCN nhưng con người đích thực của họ vẫn còn tồn tại, sự tồn tại trong cái thế phải co rút vào cái vỏ dối trá, diễn kịch, nói một đàng nói một nẻo vì lý do phải tự bảo vệ để tồn tại trước những đàn áp của bạo lực. Điều đó có nghĩa là dù bị cộng sản nhồi nhét chủ nghĩa cách nào thì tâm thức con người miền Bắc vẫn chỉ là tâm thức của một tầng lớp bị trị, và cho dù CS chủ trương xóa bỏ giai cấp nhưng thực tế vẫn chỉ là dựng lên một giai cấp mới, giai cấp mà tính quan liêu, bóc lột cũng không khác gì cái thứ trước đây họ đã diễn tả để hô hào xóa bỏ.

    Hai là: Sau hơn 10 năm sinh hoạt dưới chế độ CS, dù muốn dù không, hầu hết đồng bào miền Nam cũng đã bị lôi cuốn vào guồng máy của xã hội CS. Điều này có nghĩa là hiện nay ở quê nhà đã có không thiếu gì anh chị em ta, con cháu ta, đồng bào ta đã hoặc đang trở thành những cán bộ, những đoàn viên, những công nhân viên, thậm chí cả những bộ đội đi xâm chiếm Lào và Kampuchea đối với những tầng lớp trẻ ở vào tuổi phải đi “nghĩa vụ quân sự”.

    Đó là chưa kể tới thế hệ mầm non, ra đời vào năm 1975, nay đã ở tuổi lên 10, không biết quá khứ là gì và thực sự đã bị nhào nặn từ thuở bé trong guồng máy nhồi nhét về giáo dục hay văn hóa của CS.
    Như thế, chống Cộng là một khẩu hiệu giản dị, nhưng tìm ra được một đối tượng đích thực để tiêu diệt sẽ không phải là một điều dễ dãi.

    Có một nữ ca sĩ nổi tiếng đã có lần tuyên bố với báo chí ở Úc châu rằng “Ước gì tôi có phép, tôi sẽ giết hết người cộng sản”. Câu nói có vẻ mang một lập trường chống Cộng vững chắc, nhưng đi sâu vào vấn đề, những loại cán bộ, đoàn viên, công nhân viên, bộ đội như tôi vừa kể có phải là những loại người đáng giết hết hay không, thì câu trả lời hẳn sẽ gây ra những điều khó khăn, phúc tạp hơn nhiều.

    Nêu lên cùng quy vị những nhận thức như thế, tôi muốn bầy tỏ một điều suy nhgĩ rằng, sau 10 năm trời của sự sụp đổ đất nước, mọi vấn đề nhận thức đều cũng theo đó mà thay đổi. Nếu đem tâm tình của một con người chống Cộng cực đoan trước năm 1975 áp dụng vào thời điểm này hẳn sẽ có những điều trục trặc, bất ổn. Nó chẳng những giới hạn khả năng đấu tranh của những người Quốc Gia tự do mà còn gián tiếp ngăn cản con đường trở về với đại gia đình dân tộc đối với một tập thể đông đảo nhân sự, trong đó bao gồm cả những con người đã từng có thời gian chiến đấu trong hàng ngũ CS, nay đã bừng tỉnh nhưng chưa có cơ hội nói lên tiếng nói đích thực của mình.

    Văn hóa, trong hoàn cảnh đó, không thể chỉ là cái khuôn để chỉ những người cùng một phe chui lọt mà phải là tấm gương trong sáng của dân tộc, ở đó ai cũng soi thấy vị trí của mình và thấy con đường sinh lộ duy nhất mà mình phải đi để đem quê hương ra khỏi cảnh lầm than, cơ cực.

    Trên cơ sở nhận thức đó, tôi chủ trương rằng người cầm bút chống lại chế độ Cộng Sản nhưng không loại trừ toàn thể những con người đang sống trong chế độ Cộng sản. Mặc dầu quá khứ của họ là gì, xuất thân từ miền Bắc hay miền Nam, nhưng một khi đã nhận chân được nhu cầu phải tiêu diệt cơ chế tổ chức xã hội theo kiểu Cộng sản để xây dựng một quốc gia có ý thức nhân bản mới thì họ chẳng thể chỉ được coi như một kẻ chiêu hồi, đầy mặc cảm mà hơn thế, họ chính là những kẻ đồng hành, sát cánh cùng chúng ta đi xây dựng một quê hương mới.

    Tôi luôn luôn tin tưởng rằng trong cuộc sụp đổ của chế độ CS sẽ xẩy ra chắc chắn trong tương lai, thì nỗ lực chính yếu phải là những con người đang ngụp lặn lầm than nơi quê nhà, những con người đã nhìn ra thân phận bị trị của mình và đang nuôi dưỡng một tinh thần quật khởi, vùng lên.

    Một bằng chứng cụ thể gần đây nhất là tâm tình sắt son của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện với tác phẩm đầy máu và nước mắt trong suốt hơn hai mươi năm lăn lộn ở chốn lao tù.

    Trước đó, bản Tuyên Ngôn của Nhóm Văn Nghệ Chân Đất được phổ biến vào ngày 30-4-1979 tại Paris, do một nhà văn miền Bắc vượt thoát từ Hà Nội mang đi đã mang chữ ký của 14 nhà văn, nhà thơ với đầy đủ tên tuổi và địa chỉ , sẵn sàng chấp nhận mọi hậu quả, bởi vì theo họ:

    “ Chúng tôi đã khổ quá rồi, không còn có thể khổ hơn nữa. Ở trong hay ngoài nhà tù cũng thế thôi.”
    (Ghi chú : Nhà văn này là Diệu Tô Minh làm việc ở Đài Phát thanh Tiếng Nói Việt Nam, vượt biên và công bố trước một tòa án nhân quyền ở Paris bản “Tuyên ngôn của nhóm Văn Nghệ Chân đất” và tài liệu “ Một nền thơ ly khai chủ nghĩa xã hội ở Hà Nội”)

    Trong bản Tuyên Ngôn này, những văn nghệ sĩ can đảm ở miền Bắc đã dõng dạc tuyên bố với thế giới rằng:

    “ Chúng tôi kêu gọi những người cầm bút lâu năm, những văn nghệ sĩ trí thức, những nhà văn, nhà thơ có tên tuổi và có nhân cách vốn đã từng là những bó đuốc dẫn đường cho chúng tôi. Hãy theo đúng tinh thần nghệ thuật, đứng lên trên những thành kiến và tín điều đang vây bọc và che phủ chúng ta. Hãy lên tiếng ủng hộ chúng tôi, hỗ trợ chúng tôi để cùng nhau nối tiếp và phát huy truyền thống của nền văn hóa 4,000 năm.

    Hãy cùng chúng tôi vượt qua những hình thức nô lệ và bỉ ổi vốn đã từ lâu gò ép chúng ta trong mỗi sáng tác phẩm. Làm chúng ta cùn mòn trong suy tư và nghèo nàn trong sáng tác.

    Chúng tôi cảnh cáo những mưu toan lố bịch nhằm biến nền văn hóa thành công cụ riêng của một tín ngưỡng. Hãy trở về với TỰ DO, hỡi những người cầm bút !”
    (trích Tuyên Ngôn của Nhóm Văn Nghệ Chân Đất)

    Thưa quý vị, tiếng kêu trầm thống đó của những nhà văn, nhà thơ miền Bắc tưởng sẽ tạo nên ảnh hưởng sôi nổi trong sinh hoạt văn học nghệ thuật lưu vong ở hải ngoại, nhưng tiếc thay trong thực tế, nó đã không gây được một biến động nhỏ nhoi nào. Là một người cầm bút, tôi thực tình lấy làm hổ thẹn vì sự thờ ơ đó trong giới của mình, ngoại trừ sự cố gắng của nhóm Quê Mẹ của nhà thơ Thi Vũ Võ văn Ái ở Pháp cùng một thiểu số các bài báo khác.

    Nhưng dù bản Tuyên Ngôn của Nhóm Văn Nghệ Chân Đất có được tiếp đón cách nào, thì vấn đề tâm thức của dân tộc vẫn còn nguyên vẹn ở đó.

    Đây là một trong những bằng cớ hiển nhiên, cụ thể cho thấy rằng dù con người sinh sống ở miền nào trên quê hương và bị nhào nặn cách nào, thì cuối cùng ai cũng sẽ nhận ra được thân phận bị trị của mình để nuôi dưỡng một lý tưởng quật khởi,vùng lên.

    Hiện nay đã có rất nhiều người ở quê nhà có được cái tâm thức đó.

    Đối với những người khác, nếu chưa có cơ hội nhận thức ra thì chính vai trò của văn học nghệ thuật là phải góp phần khai mở cho những sự bừng tỉnh kể trên được lan tràn. Nói khác đi, chúng ta không những chỉ chống Cộng giữa chúng ta với nhau mà còn phải góp phần lay chuyển cái thành trì tâm thức của toàn thể mọi người đang bị bạo lực CS vây hãm ở quê nhà hiện nay.

    Để thực hiện mục tiêu đó, tôi tin tưởng rằng không có loại võ khí nào sắc bén hơn là công tác văn hóa. Văn hóa, do đó không thể vùi giập con người dưới những lằn roi của sự cực đoan, một chiều mà trái lại phải nâng cao giá trị của con người, vạch rõ thực trạng đớn đau, tủi nhục để trang bị cho con người một nhận thúc mới, ở đó con người nhìn ra thân phận bị trị của mình, biết phẫn nộ trước sự phi lý về nông nỗi con người đã bị khai thác triền miên trong bao nhiêu năm ròng bởi một thiểu số đầy tham vọng và quyền lực mà không biết đứng dậy làm một cuộc cách mạng giải phóng chính mình.

    Trên cơ sở đó, văn hóa đòi hỏi mỗi người làm công tác văn hóa phải có môt cái nhìn mới,biết rõ mình đang ở đâu và cần thiết phải làm gì. Để thực hiện được điều đó, người làm văn hóa ít ra là phải có một sự can đảm. Sự can đảm trước hết là phải biết khước từ những sinh hosạt dễ dãi, biết chọn lựa để từ chối những đề tài sáng tạo chỉ có tác dụng ru ngủ chính mình trong một cái nôi vị kỷ, chật hẹp và sự can đảm sẵn sàng nhận lãnh những búa rìu có thể sẽ đến từ nhiều phía khi khởi sự đụng vào bức tường kiên cố của những cực đoan chính trị hay những cơn nung nấu của lòng hận thù. Và tối thiểu, đến ngay cả sự nhận thức là mình chưa có tự do cũng đã ngại ngùng không dám nói đến.

    Đã hơn 10 năm trôi qua, người cầm bút lưu vong tuy đã nói lên được rất nhiều thực trạng của quê hương, nhưng chưa bao giờ họ có tự do để nói hết.

    Không như ở quê nhà, sự tự do bị triệt tiêu bởi guồng máy cai trị chuyên sử dụng bạo lực để đàn áp, nhưng ở hải ngoại, ai cũng có thể viết lên những điều gì mìnhh muốn viết, chỉ trừ khi chính mình tự giới hạn lấy mình bởi sự lười biếng suy nghĩ hay e ngại những hàng rào thành kiến vây quanh, sự bao che, bè phái hay sự tâng bốc, thù tạc.

    Cho nên đã tới lúc người cầm bút lưu vong phải tự giải phóng chính mình để tìm lại chân trời tự do sáng tạo ngõ hầu có thể cung ứng những tác phẩm đáp ứng với nhu cầu của quê hương, đất nước hiện tại. Tôi vẫn hằng tin tưởng rằng đồng bào ở quê nhà , và đặc biệt là những anh chị em cầm bút ở miền Bắc hay miền Nam, dù đang ở bên lề xã hội hay vẫn còn bị ràng buộc trong một cương vị nào đó của guồng máy xã hội, thì thâm tâm của mọi người vẫn hướng về những người có may mắn ra đi với một tấm lòng kỳ vọng. Tấm lòng kỳ vọng đó, sau 10 năm mòn mỏi đợi chờ, có được chúng ta đáp ứng hay không, điều này xin để tùy thuộc câu trả lời của từng người,

    Tôi chỉ xin mạo muội nêu lên vài ý tưởng có tính cách gợi ý. Rất mong những điều phát biểu của tôi sẽ còn được đồng hương, các anh chị em cầm bút soi sáng thêm để vấn đề nêu ra còn được làm cho sáng tỏ hơn nữa.
    NHẬT TIẾN
    Tháng 10-1985

  8. #8
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Thời điểm 1970-80

    BẢN TUYÊN NGÔN CỦA
    NHÓM VĂN NGHỆ CHÂN ĐẤT

    Ngày 23 tháng 4 năm 1980, tại Paris có một cuộc họp báo do Tòa soạn báo Quê Mẹ của ông Võ văn Ái tức nhà thơ Thi Vũ tổ chức. Đây là một cuộc họp báo mang tính cách thời sự về chính trị cũng như văn nghệ nóng hổi bởi nội dung sẽ có phần trình bầy của hai nhân vật đặc biệt vừa đào thoát từ Việt Nam và qua được tới Pháp. Người thứ nhất là một người tù cải tạo mang cấp bậc Trung Úy Quân lực VNCH và người thứ hai là một trong những người sáng lập phong trào văn nghệ trẻ ly khai ở Việt Nam lấy danh hiệu là “Nhóm Văn Nghệ Chân Đất”.

    Để yểm trợ về mặt tinh thần cho cuộc họp báo hết sức đặc biệt này, trên chủ tọa đoàn đã có sự hiện diện của nhiều nhân vật quốc tế có tên tuổi như : như ông Pierre Emmanuel, một thi sĩ nổi danh người Pháp, Viện sĩ viện Hàn Lâm Pháp, Chủ tịch Hội Thân Hữu Quốc tế cho Tự Do, Ông Pliouchtch, nhà Toán học người Nga lưu vong, ông Paul Goma, nhà văn Lỗ Mã Ni lưu vong, ông Eduardo Manet, nhà văn Ly khai Lỗ mã Ni và bà Martha Frayde, cựu nữ Đại sứ Cuba tại cơ quan Unesco của Liên Hiệp Quốc.Về phía người Việt thì trên chủ tọa đoàn có nhà báo Phương Anh, nhà báo Võ văn Ái (chủ nhiệm tạp chí Quê Mẹ), anh Diệp Tô Minh và Trung Úy Thái Hà (xin coi hình).






    Nội dung cuộc họp báo gồm hai phần :

    1)Tố cáo chế độ Tù đầy ở miền Nam sau 30-4-1975 dưới danh nghĩa “học tập cải tạo” do Trung Úy Thái Hà, một người tù cải tạo vừa vượt thoát quê nhà đi tìm tự do trình bầy.

    2) Tố cáo chính sách đàn áp văn nghệ sĩ của chế độ CS ở miền Bắc do anh Diệp Tô Minh trình bầy. Anh là một trong những người sáng lập phong trào văn nghệ trẻ ly khai ở Hà Nội, đã vượt thoát vào tháng 6-1979 mang theo Bản Tuyên ngôn của Nhóm Văn Nghệ Chân Đất do 14 văn nghệ sĩ hiện còn ở VN ký tên với địa chỉ cư ngụ cụ thể. Theo báo Quê Mẹ thì họ đồng ý cho công bố tên thật và địa chỉ của họ là vì “ Chúng tôi đã khổ quá rồi, không thể khổ hơn nữa. Trong và ngoài tù chẳng khác gì nhau.’”

    Tuy nhiên với ý thức trách nhiệm về sinh mạng của 14 người cầm bút, báo Quê Mẹ đã buộc lòng không thể công bố tên tuổi của họ. Do đó, buổi họp báo chỉ có thể công bố “Tuyên Ngôn của Nhóm Văn Nghệ Chân Đất” và danh sách 32 văn nghệ sĩ ở miền Bắc hiện vẫn còn đang bị quản chế hay bị cầm tù.

    ***

    DANH SÁCH NHỮNG VĂN NGHỆ SĨ,
    TRÍ THỨC MIỀN BẮC BỊ ĐÀN ÁP, CẤM VIẾT,
    VẼ, SÁNG TÁC, HÀNH NGHỀ và BỊ QUẢN CHẾ

    1. ĐẶNG ĐÌNH HƯNG , Nhà Văn, Nhà Biên khảo.

    2. PHAN ĐAN, Thi sĩ, Kiến Trúc sư.

    3. TÔ HUY CƠ , Giáo sư, Nhà nghiên cứu, bị 6 năm tù vì đã viết một bức thư gửi ông Phạm văn Đồng để phê bình chính sách độc tài của Đảng.

    4. NGUYỄN MINH NGỌC, Họa sĩ.

    5. LÊ HUY QUANG, Họa sĩ, Thi sĩ.

    6. CHU HOẠCH, Họa sĩ, Thi sĩ.

    7. PHÙNG QUÁN, Thi sĩ, Nhà Văn.

    8. TRÚC CƯỜNG, Thi sĩ.

    9. LÊ ĐẠT, Nhà Văn, Thi sĩ.

    10. HOÀNG CẦM, Thi sĩ.

    11. TRẦN DẦN, Thi sĩ.

    12. NGUYỄN DIÊN, Điêu Khắc gia, Thi sĩ.

    13. LƯƠNG VINH , Thi sĩ.

    14. ĐOÀN PHÚ TỨ, Thi sĩ, Kịch tác gia.

    15. NGUYỄN KHẮC CẨN, Họa sĩ, Thi sĩ.

    16. TRƯƠNG ĐÀ, Thi sĩ, viết báo cho tờ Nhân Dân.

    17. VŨ THƯ HIÊN, Nhà Văn, bị tù 6 năm.

    18. VŨ ĐÌNH HUỲNH (nguyên Bí thư của Hồ Chí Minh, thân phụ nhà văn Vũ Thư Hiên).

    19. NGUYỄN HỮU ĐANG, Nhà Văn, bị tù 19 năm vì vụ Nhân Văn Giai Phẩm.

    20. NGUYỄN DUY QUANG, Sáng tác Nhạc.

    21. ZOÃN TRANG, Thi sĩ.

    22. TÙNG LINH, Thi sĩ.

    23. NGUYỄN TƯ NGHIÊM, Họa sĩ.

    24. BÙI XUÂN PHÁI, Họa sĩ.

    25. DƯƠNG TƯỜNG, Nhà Văn.

    26. VÕ MINH PHÚ, Thi sĩ.

    27. TUÂN NGUYỄN, Thi sĩ.

    28. PHƯƠNG THÚY, Thi sĩ.

    29. NGUYỄN MẠNH TƯỜNG, Luật sư nổi tiếng quốc tế.

    30. TRẦN ĐỨC THẢO, Triết gia.

    31. LÊ VĂN THÂN , Thi sĩ.

    32. TRƯƠNG TỬU, Nhà Văn.
    NHẬT TIẾN
    ( Thuật theo Tạp chí Quê Mẹ, Paris- Số 40, năm 1980)

    ***

    NGUYÊN VĂN BẢN TUYÊN NGÔN
    CỦA NHÓM VĂN NGHỆ “CHÂN ĐẤT”

    Gửi toàn thể những người đang công tác trên lãnh vực văn hóa ở miền Bắc Việt Nam.

    Hỡi những văn nghệ sĩ, trí thức, những nhà văn, nhà thơ, nhà báo, họa sĩ, nhạc sĩ, những người biên kịch, đạo diễn, quay phim, những diễn viên, các nhà phê bình nghiên cứu và tất cả những ai đang làm việc và sáng tác cho nền văn hóa Việt Nam.

    Chúng tôi, những anh em trẻ đang làm những công việc của người cầm bút. Chủ trương một khuynh hướng sáng tác rộng rãi và tiến bộ, gồm những người làm thơ, viết truyện, viết kịch, họa sĩ…trong những ngày gần đây đã quyết định ra lời tuyên cáo trước anh em, bè bạn trong mọi ngành văn hóa nghệ thuật.

    Chúng ta sắp chết ngạt trong ao tù của một cuộc sống bị đóng kín bởi những qui định của một nền văn hóa thời chiến và vì thế mọi sáng tác phẩm đều mang khuôn mặt của người lính trong chiến tranh : khắc khổ, đơn điệu, lạnh lùng và máy móc như mệnh lệnh.

    Trong khi đó, trên thế giới, những trào lưu văn hóa mới đã có những thay đổi lớn với sự giải phóng hoàn toàn con người thoát khỏi những giáo điều chật hẹp. Người nghệ sĩ mới và tác phẩm không phải là nô lệ và công cụ theo kiểu những khuôn mẫu định sẵn của môn thống kê kế hoạch.

    Những năm qua, gia sản văn hóa của chúng ta quá nghèo và không có ai viết được những tác phẩm lớn theo kịp với những chuyển động của thời đại. Bởi vì chúng ta đã đóng cửa nhìn ra thế giới và bởi vì tất cả những sáng tác phẩm tự do đều không được khuyến khích mà bị dập vùi.

    Chúng tôi những người cầm bút trẻ nhưng chưa một ai có nổi một đầu sách, một tập thơ nhỏ được xuất bản để ra mắt nhân dân. Điều đó, chẳng phải chúng tôi không biết viết mà bởi chúng tôi không được viết, không được tự do nói lên những điều cần phải nói. Cũng bởi chúng tôi và những anh em văn nghệ sĩ trẻ ở miền Bắc, chúng tôi không hề có trong tay bất kỳ một phương tiện nào ngoài những đêm không ngủ với trái tim chất đầy những khát vọng muốn nói lên sự thật của đất nước.

    Chúng tôi không NỔI LOẠN nhưng chúng tôi không IM LẶNG.

    Chúng tôi kêu gọi những người cầm bút lâu năm, những văn nghệ sĩ trí thức, những nhà văn, nhà thơ, có tên tuổi, có nhân cách vốn đã từng là những bó đuốc dẫn đường cho chúng tôi. Hãy theo đúng tinh thần nghệ thuật, đứng lên trên những thành kiến và tín điều đang vây bọc và che phủ chúng ta. Hãy lên tiếng ủng hộ chúng tôi, hỗ trợ chúng tôi để cùng nhau nối tiếp và phát huy truyền thống của nền văn hóa 4.000 năm. Hãy cùng chúng tôi vượt qua những hình thức nô lệ và bỉ ổi vốn đã từ lâu gò ép chúng ta trong mọi sáng tác phẩm. Làm chúng ta cùn mòn trong suy tư và nghèo nàn trong sáng tác.

    Hãy cùng chúng tôi khai mở một trào lưu mới. Thổi luồng sinh khí đậm đà mầu sắc và tình người vào bộ mặt văn hóa của chúng ta như 40 năm trước nhóm thơ “Mới” Tự Lực Văn Đoàn đã làm.

    Chúng tôi không chấp nhận việc coi những công việc sáng tác của người nghệ sĩ như những công việc của viên chức trong văn phòng các công sở và sự thai nghén tác phẩm chỉ là sự viết lại những chỉ thị từ xa. Cái thứ tác phẩm sản xuất theo kế hoạch và đơn đặt hàng chỉ có thể đầu độc mọi người và làm đần độn nhân dân. Chúng tôi cảnh cáo những mưu toan lố bịch nhằm biến nền văn hóa thành công cụ riêng của một tín ngưỡng. Hãy trở về với TỰ DO, hỡi những người cầm bút !”

    Cách đây hơn 10 năm, hẳn mọi người còn nhớ những số báo “Nhân Văn”, “Giai Phẩm Mùa Thu” đã thét lên tiếng thét đòi quyền sống – quyền làm người. Chúng ta phải được sống chứ không phải “chuẩn bị sống” với “Trăm hoa đua nở, Trăm nhà đua tiếng” đã bị cả nước “lên án” do một chiến dịch tuyên truyền rộng rãi. Mà họ không được quyền viết bài bảo vệ.

    Chả nhẽ chúng ta cứ say đắm và ôm ấp mãi cái thứ văn nghệ một chiều chán ngấy đó sao ? Đã đến lúc phải thể nghiệm và hơn thế phải thể hiện tính đa dạng và sự phản ánh trung thành của nghệ thuật với cuộc đời.
    Bằng vào sự đập phá những thần tượng rỗng tuếch, chúng tôi không nhằm chỉ phá hoại mà chính là để xây dựng. Chúng tôi kêu gọi tất cả anh em văn nghệ sĩ, những người làm văn hóa, những người cầm bút. Hãy mở tung mọi cánh cửa để vươn tới những phương trời tự do trong sáng tác.

    Và bởi vì chúng ta đang sống trong một cánh rừng đen, ở đó có quá nhiều bóng rợp, có quá nhiều những “cây đa”, “cây đề” những “thiên sứ”, những ‘chủ soái” của văn chương, nghệ thuật. Cả một lớp những cây cổ thụ đó đã phủ bóng râm lên lớp trẻ ngày nay. Hãy mạnh dạn cùng chúng tôi gạt bỏ những lề thói, những tín điều khô cứng để cùng chúng tôi đi tới chân trời mông mênh của nghệ thuật đã từ lâu nay bị che kín trong sự bao vây.

    Xin hãy cầm bút lên và hãy cùng chúng tôi soi sáng mọi nhà.

    Hãy xứng đáng với nền văn hóa ông cha và phải tiến xa hơn. Chúng tôi, những người CHÂN ĐẤT sẽ đi tiên phong trong trận tiến công lớn này, như những bầy người hang động đi tìm về ngọn lửa thiêng rực rỡ.
    Mặc cho người ta có thể hiểu lầm và chụp mũ. Chúng tôi biết việc chúng tôi làm nó sẽ đi đến đâu. Nếu như chỉ 14 người trong khi ở đầu kia là cả những đội ngũ khổng lồ của những “bậc thầy” văn hóa !

    Nhưng trong nghệ thuật cũng như chân lý, không chấp nhận một số đông không vận động.

    Chúng tôi không tôn thờ và sợ hãi những người SỐNG MÀ ĐÃ CHẾT.

    Nếu như chúng tôi không làm nổi và hoàn tất những gì chúng tôi muốn thì những người đi tiếp chúng tôi-những người đồng quan điểm- sẽ tiếp tục hoàn thành con đường tất yếu mà mọi người cầm bút có nhân phẩm sẽ đi tới.

    Mọi con người – nếu đã là con người – phải được nói lên tất cả những gì thuộc về con người.

    Nghệ thuật dành cho những trái tim con người và nó sẽ sống cho sự tốt đẹp của con người. Những hình thức của một thứ văn hóa công cụ, cố chấp và biến thành thứ phương tiện hiện đại của chiến tranh tâm lý chỉ là những hiện tượng rời rạc và sau này con cháu chúng ta sẽ không khỏi xấu hổ khi đọc đến giai đoạn này.

    Để khỏi cho thế hệ sau sẽ phỉ nhổ khi chúng đọc lại lịch sử văn hóa của ông cha, ngay ngày hôm nay chúng ta phải thay đổi để xứng đáng với tiền nhân và để có thể nhìn thẳng vào ngày mai với trái tim kiêu hãnh.

    Chúng ta không được phép lùi lại.

    Chúng tôi, nhóm văn nghệ “Chân Đất” với những bàn chân không giầy, những con mắt bị bịt kín, những cái mồm không được nói và những cái đầu đói khát tự do, không đành để mình và tất cả bị nhào nặn thành những tên hề của lịch sử.

    Chúng tôi, những con người vốn sinh ra như con người dưới mặt trời muôn thuở, kêu gọi tất cả mọi sáng tác phẩm được viết phải dành cho mọi trái tim yêu thương chứ không dạy mọi người phải căm thù và chuyên chính !

    Với bộ ngực trần, chúng tôi tuyên chiến với mọi thứ văn hóa bịp bợm, lố bịch đang ngày đêm làm bẩn bầu không khí xung quanh chúng ta.

    Hãy chống mọi thứ ô nhiễm đang đầu độc nền văn hiến 4.000 năm.

    Và bởi vì trong khi đang lùi lại và quẩn quanh trong độc đạo những người đang dẫn dắt chúng ta lại quá tin rằng mình đang tiến.

    Nền văn hóa của chúng ta đang lâm bệnh. Đó là căn bệnh đơn điệu và nghèo nàn về hình thức và nội dung.
    Các ngài, các ngài lại tưởng –hay tự lừa dối mình – rằng các ngài đang giầu có và đa dạng !!!

    Và vì quá tôn thờ chủ nghĩa nên các ngài đã cưỡng ép nàng thơ phải vác súng hành quân và “xuống đường” hô khẩu hiệu đã bao năm rồi.

    Chúng tôi khước từ thứ cháo loãng ăn trừ bữa của văn nghệ tuyên truyền hâm lại từ bao lâu nay.

    Không phải đợi đến ngày phán xét. Mà ngày hôm nay 14 người chúng tôi- những người Chân Đất- xin thay mặt Nguyễn Du, Nguyễn Trãi…và nhân danh thế kỷ 21, chúng tôi xử bắn lối văn nghệ Một Chiều, Giáo điều và Phản nhân tính.

    Ngày Mai sẽ là của chúng tôi.

    Hãy cầm bút cho một nền Văn Hóa Việt Nam !

    TỰ DO - ĐỘC LẬP VÀ NHÂN ĐẠO

    NHỮNG NGƯỜI CHÂN ĐẤT

    ***

    30 PHÚT VỚI NHẬT TIẾN
    Phỏng vấn của Hoa Thịnh Đốn Việt Báo
    sau buổi ra mắt tập truyện MỘT THỜI ĐANG QUA
    (11 tháng 10-1985)





    Hoa Thịnh Đốn Việt Báo : Anh Nhật Tiến, thưa anh, trong bài nói chuyện của anh nhân dịp ra mắt tác phẩm “ Một Thời Đang Qua”, có đoạn anh đề cập đến khía cạnh nhân bản của một số nhân sự hợp tác với chế độ bên kia vì hoàn cảnh, vì gông kềm của áp bức…Theo đó , anh cho là : “ Nếu đem tâm tình của một con người chống Cộng cực đoan trước 1975 áp dụng vào thời điểm này hẳn sẽ có những điểm trục trặc, bất ổn. Nó chẳng những giới hạn khả năng đấu tranh của những Quốc Gia tự do mà còn ngăn cản con đường trở về với đại gia đình dân tộc đối với một tập thể đông đảo nhân sự, trong đó bao gồm cả những con người đã từng có thời gian chiến đấu trong hàng ngũ CS, nay đã bừng tỉnh nhưng chưa có cơ hội nói lên tiếng nói đích thực của mình.” Nhân vật thủ trưởng trong truyện ngắn “Người Tù Cuối Năm” của anh có liên hệ gì với lối lập luận trên của anh không ?
    (Xin coi truyện ngắn này ở trang 137)

    Nhật Tiến : Có, thưa anh là có. Tôi muốn nhấn mạnh đến giá trị nhân bản còn tồn tại trong những con người vì lý do này hay lý do khác đang phục vụ cho chế độ bên kia. Người văn nghệ sĩ sáng tác chân chính nên có nhiệm vụ tạo điều kiện để đưa họ về với dân tộc. Họ giống như một thanh thép bị CS làm cho gỉ sét.Văn nghệ cần phải có sứ mạng làm bật ra những hoen gỉ đó.Tôi đã có dịp ra thăm và quan sát đời sống cũng như tâm tình của nhiều người dân miền Bắc sau bao năm sống dưới ách cai trị của CS. Tôi nhận thấy con người của họ có hai mặt. Một mặt giả dối, cứng ngắc do hệ thống CS nhào nặn. Một mặt khác, họ còn có rất nhiều chất người. Trong khi đa số bọn lợi dụng nằm trong giai cấp thống trị chạy theo chiến thắng ở miền Nam để vơ vét thì tôi thấy một số khác ở miền Bắc nhếch mép cười khinh bạc, buồn bã “phát biểu : “Bao năm hợp tác , đóng góp cho chế độ, đâu phải để thực hiện một xã hội như thế này.”. Phải là người có lòng nhân bản thì mới nêu ra nhận định này, nhất là đang ở phe chiến thắng.

    Điều đó cho phép tôi khá vững tin vào việc người cầm bút ở hải ngoại cũng cần phải có nhiệm vụ soi thấu giá trị nhân bản này. Vì chỉ có ở góc nhìn nhân bản đó, con đường đấu tranh giải phóng dân tộc mới có tập hợp được nhiều người, rút ngắn được thời gian tranh đấu và tránh được cuộc chiến nồi da xáo thịt lại có nguy cơ xẩy ra lần nữa.

    HTĐVB.- Khi lập luận như thế anh có mường tượng ra rằng anh sẽ bị phản ứng bởi một số người có thể vì quá sức cực đoan mà cho đó là một nhận định thiếu tích cực không ?

    Nhật Tiến: Thưa anh có. Nhưng mà nhà văn, người sáng tác là phải can đảm và trung thực. Hơn nữa vấn đề mà tôi đã trình bầy chỉ mới là điều gợi ý. Nó còn cần có sự đóng góp ý kiến để soi sáng của nhiều người. Nhà văn Nguyễn Mộng Giác cũng hy vọng rằng những người cầm bút ở hải ngoại sẽ cùng nhau thảo luận để làm sáng tỏ vấn đề.

    HTĐVB.- Thưa anh, chúng tôi có một câu hỏi khác liên quan đến vấn đề tự do trong sáng tác. Anh có nói là anh “thấy rõ người cầm bút ở đây chưa thực sự có tự do cầm bút”. Xin anh vui lòng nói thêm một chút nữa về điều này.

    Nhật Tiến : Đúng như vậy, người cầm bút ở đây chưa thực sự có tự do cầm bút! Chuyện chụp mũ, bè phái, ngộ nhận, thành kiến, bôi nhọ…. là những chuyện làm đắn đo và gây chán nản không ít cho nhiều người cầm bút. Nó đã làm cho bộ mặt văn hóa ở hải ngoại thiếu sinh động.

    HTĐVB.- Điều anh vừa nói, một đàng cũng rất chia xẻ và đồng ý với anh, đàng khác, về phía người đọc chúng tôi muốn chuyển tới anh một suy nghĩ khác. Đó là trước kia, ở bên nhà, người cầm bút được khích lệ và đền bù bằng ít nhiều danh vọng và vật chất. Yếu tố này đã tác động mạnh mẽ đến một số người (chúng tôi chỉ nói một số người), nay sang đây, những đền bù đó coi như không có. Phải chăng vì đó mà một số người cầm bút trở nên lười biếng chăng ? Nếu quả tình như vậy thì ngoài cái điều anh đã nói ra còn có một điều khác, điều này nằm ở phía người sáng tác, cũng cần phải nói tới. Đó là tấm lòng. Phải chăng vì thiếu tấm lòng. Hay vì tấm lòng không đủ lớn, không đủ kích thước để bao trùm lên mọi chuyện khác, để đủ và thừa sức mạnh mà sáng tác.

    Nhật Tiến : Có lẽ vấn đề phải được giới hạn. Nó chắc không đúng cho trường hợp những người cầm bút chân chính. Về phần tôi, tôi sáng tác vì bạn bè và vì đồng bào còn lại ở quê nhà. Nó là một thôi thúc không ngưng nghỉ. Khi tôi thức suốt đêm để viết, tôi không hề nghĩ tới những đền bù mà quý báo vừa đề cập. Dù sao thì cũng cám ơn anh đã đưa ra một góc nhìn khác.

    HTĐVB- Xin thành thật cám ơn anh đã có nhã ý dành cho Hoa Thịnh Đốn Việt Báo buổi nói chuyện thân mật, tâm tình và hữu ích này.
    ***
    (còn tiếp)

  9. #9
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Thời điểm 1996
    Sinh hoạt Văn hóa ở Nam Cali

    PHÁT BIỂU TRONG BUỔI RA MẮT CUỐN
    VIỆT NAM QUA LĂNG KÍNH 24 NHÂN VẬT THỜI ĐẠI
    của NGUYỄN VẠN HÙNG

    Ngày 29-6-1996 Tại Trung Tâm Công Giáo VN –
    Orange County – California - Nhật Tiến


    Trước hết, tôi xin được ngỏ lời cám ơn ban tổ chức đã có nhã ý dành cho tôi cái cơ hội được tham dự và phát biểu trong buổi ra mắt tuyển tập ngày hôm nay.

    Tôi cũng nhân dịp này xin bầy tỏ lời đặc biệt cám ơn nhà báo Nguyễn Vạn Hùng, một ký giả chuyên nghiệp đã liên tục trong nhiều năm tìm đến những nhân vật có liên quan đến các vấn đề thời sự để phỏng vấn và tường trình cùng độc giả, và đến nay lại san định và chọn lựa để in chung vào một tuyển tập như chúng ta thấy trong buổi ra mắt ngày hôm nay. Chính nhờ cuốn sách này mà tôi có dịp ôn lại những điều do chính mình đã nghĩ, đã phát biểu từ hơn sáu năm qua, tất cả tưởng đã vùi sâu trong dĩ vãng không ai còn nhớ đến nữa. Nay nhờ thế mà đôi điều có thể được ôn lại thì đối với tôi quả là một điều lý thú. Và cũng chính nhờ tuyển tập này mà tôi cũng lại có cơ hội được đọc một cách tổng hợp hơn những vấn đề mà hơn hai mươi vị khác đã phát biểu, qua đó tôi cũng đã có dịp thu nhận được nhiều điều bổ ích, bởi vì mỗi vị với một vị trí riêng, một hoàn cảnh ricng, một kinh nghiệm sống riêng đã soi sáng được nhiều phía, nhiều mặt xoay quanh nhiều vấn đề liên quan đến tình hình đất nước. Chỉ riêng với một ưu điểm này, nhà báo Nguyễn Vạn Hùng cũng đã thành công trong việc ấn hành tuyển tập để chúng ta có được buổi gặp gỡ ngày hôm nay.

    Thưa quý vị, riêng về phần tôi, khi nhìn lại hoàn cảnh và thời điểm mà cuộc phỏng vấn được thực hiện khoảng cuối năm 1990, tôi nhận thấy cũng nhân cơ hội này nên phát biểu một vài cảm nghĩ, một phần là để làm sáng tỏ thêm những nhận định của mình từ sáu năm về trước , và một phần khác cũng là để bổ túc thêm cho thích hợp với hoàn cảnh thực tế vốn cũng đã thay đổi rất nhiều trong mấy năm vừa qua.

    Có một điều tuy đương nhiên nhưng cũng nên khẳng định lại, đó là ở đâu, bao giờ và trong bất cứ thời điểm nào thì nhận định sau đây bao giờ cũng đúng :

    “Đó là chế độ Cộng Sản không bao giờ đem lại tự do, hạnh phúc cho con người và tạo dựng được một xã hội công bằng, phát triển và thịnh vượng. ”

    Sáu năm về trước, cái tạm gọi là chân lý này hầu như chỉ phổ biến đối với người thuộc chế độ Miền Nam cũ, nhưng nay thì càng ngày thực tế càng cho thấy, ngay cả những người được tôi luyện trong xã hội Cộng Sản cũng đã nhận ra và đã có nhiều người công khai phát biểu. Nhìn lại 10 năm trở về trước, những tên tuổi như Dương Thu Hương, Tiêu Dao Bảo Cự, Hà Sĩ Phu, Hoàng Minh Chính, Lữ Phương, Nguyễn Kiến Giang, Nguyễn văn Trấn..v..v ...dù tên tuổi của họ vẫn tồn tại trước đó nhưng họ đã không xuất hiện ồn ào, phong phú và đa dạng như thời gian gần đây.

    Liên tục trong vài năm qua, họ cũng như nhiều trí thức khác trong nước đã cất lên tiếng nói tuy còn trong mức độ tuỳ thuộc vào hoàn cảnh và vị trí mà họ đang sống, nhưng nội dung đã không chỉ bộc lộ sự thay đổi nhận thức riêng tư mà họ đã hướng rất nhiều về những nguyện vọng chung của dân tộc. Sự kiện xẩy ra như thế đã phù hợp với hoàn cảnh thực tế trong đó hàng loạt chế độ C.S. đã sụp đổ ở các nước Đông Âu và ngay cả Liên Xô nữa. Như thế, theo tôi nghĩ, nhất thiết con đường chống Cộng của người Việt ở hải ngoại phải được đặt trước một hoàn cảnh mới, đòi hỏi phải có một nhãn quan mới qua đó có thể đề ra được những sách lược mới thích nghi được với tình thế hiện nay.

    Vào thời điểm mà cuộc phỏng vấn của nhà báo Nguyễn Vạn Hùng được thực hiện, tôi đã góp phần cùng với nhiều anh chị em văn nghệ sĩ khác đi tìm một phương thức đấu tranh trong chiều hướng này, và đó là lý do cuốn Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương đã được xuất bản vào cuối năm 1990 sau gần 2 năm chuẩn bị cùng với sự ra mắt của một vài tờ tạp chí có cùng một khuynh hướng như tờ Hợp Lưu, tờ Đối Thoại hay những cuộc trao đổi, thảo luận cùng các sinh hoạt khác. Cũng chính từ những hoạt động này mà đã có nhiều người cho rằng chúng tôi chủ trương giao lưu văn hóa, một từ ngữ tức cười thay, không do chúng tôi đặt ra, và ngay cả cho tới nay, chúng tôi cũng chưa hề thảo một bản văn nào đem công bố để vận động cho một trào lưu mang cái danh nghĩa đó!

    Tôi còn nhớ Họa sĩ Khánh Trường cách đây 5 năm khi làm bản maquette cho tờ tạp chí của mình, anh dự định lấy tên tờ báo là Giao Lưu, nhưng chính tôi đã góp ý nên đổi là Hợp Lưu để tránh ngộ nhận. Anh Khánh Trường đã chấp nhận ý kiến đó và tờ báo của anh vẫn còn mang cái tên Hợp Lưu cho đến tận ngày hôm nay.

    Nhưng ta hãy gạt qua chuyện từ ngữ để đi vào thực chất của vấn đề. Đối với chúng tôi, dù trong bất cứ một sinh hoạt văn hoá nào, chuyện giao lưu văn hoá một chiều chỉ là chuyện thơ ngây, phi lý, không cần phải có người dạy dỗ cho thì mới biết. Bởi nếu có sự giao lưu đúng nghĩa thì sách báo của người Việt ở hải ngoại đã tràn ngập thị trường ở trong nước rồi.

    Ở đây, tôi thấy cần phải nhắc lại rằng khi đề cao phong trào văn chương phản kháng vào thời điểm đó, chúng tôi chỉ mong mỏi nối được vòng tay với những ngòi bút phản kháng ở trong nước, cổ võ họ, nâng đỡ tinh thần họ, và nếu có thể , yểm trợ được họ trong công cuộc phổ biến những tác phẩm do họ đã viết để khơi dậy một cao trào văn chương phản kháng, nói lên được tâm tư và nguyện vọng của toàn thể dân tộc ngõ hầu góp phần vào công cuộc đấu tranh cho Tự do và Dân chủ trên quê hương.

    Trong một vài lần phát biểu ở đây đó rải rác trong mấy năm vừa qua, tôi cũng đã từng nhấn mạnh rằng:

    “Chúng tôi không chủ trương thỏa hiệp với cường quyền hay bạo lực. Bởi khi người cầm bút thỏa hiệp với bất cứ một bạo quyền nào thì anh ta cũng sẽ chỉ là một thứ công cụ và tự biến vai trò độc lập của mình trở thành một thứ văn nô vốn là điều mà không một người cầm bút chân chính nào chấp nhận.”

    Nhưng để tiến tới việc chấp nhận những con người phản kháng ở trong nước , nhìn lại điểm khởi đầu từ sáu bẩy năm về trước, tôi nhận thấy đó không phải là một tiến trình suông sẻ bởi vì đã có một thành kiến khá phổ biến cho rằng hễ đã là người của Cộng sản rồi thì dù có thay đổi thế nào cũng không còn gì để đối thoại nữa. Đây là một thành kiến dễ giải thích vì nó xuất phát từ những kinh nghiệm thực tế, nhiều khi bao gồm cả những sự mất mát, đau thương, đổ vỡ với những vết thương rất khó hàn gắn, bởi vì như tất cả mọi người đều thấy, kể từ khi chiến tranh chấm dứt, nhân dân miền Nam đã bị xô đẩy vào một cuộc trầm luân mới với biết bao sinh mạng bị hy sinh một cách phí uổng trong rừng sâu, nơi biển cả, trong các trại tù trại cải tạo hay trong những vùng gọi là kinh tế mới.

    Biết bao nhiêu đau thương, mất mát, chia lìa trong các hoàn cảnh đó đã ghi thành những dấu ấn hết sức nặng nề về cả mặt tinh thần cũng như thể xác đã khiến cho lòng căm thù có môi trường để nẩy nở lên một cách hết sức chính đáng, khiến cho nhiều người hầu như không muốn thay đổi nhận thức của mình. Hậu quả là cho tới nay vẫn còn những khuynh hướng khoanh vùng, vạch vòng phấn, loại cả ra ngoài những nhân sự vốn trước đây tuy không đứng chung trong cùng một hàng ngũ nhưng nay cũng đã chia xẻ với mình một ước mơ về một tương lai tốt đẹp của quê hương, dân tộc.

    Tôi cho rằng sự chấp nhận một cuộc thay đổi nhận thức trong thực trạng đó quả là một điều hết sức khó khăn, đòi hỏi nhiều sự thao thức, trăn trở. Nhưng vấn đề đặt ra là thời gian càng trôi qua, cuộc diện thế giới và thực trạng ở quê hương đã có nhiều thay đổi, vì thế vấn đề Việt Nam bây giờ không còn chỉ là vấn đề riêng của người dân miền Nam như trước đây nữa mà đã trở thành vấn đề chung của cả dân tộc, mọi chiều hướng giải quyết nhất thiết đều phải đặt trước một nhu cầu không thể chối bỏ đó là sự thống nhất đất nước và thống nhất dân tộc .

    Trong hơn 20 năm qua, lòng hận thù chính đáng kể trên đã có nhiều cơ hội để thử lửa, nhưng chưa bao giờ nó cho thấy sự nuôi dưỡng hận thù trong một nhãn quan khô cứng lại là một giải pháp tốt đẹp nhất, không bị lãng phí thời gian nhất trong công cuộc phục hồi và xây dựng quê hương.

    Cho nên tôi vẫn tha thiết khẳng định là chúng ta cần phải mở rộng hàng ngũ dân tộc để tạo dựng sức mạnh cho chính mình, đó là hàng ngũ của những con người không phân biệt quá khứ chính trị hay điều kiện địa dư, miễn là cùng chia sẻ với nhau một mơ ước là xây dựng một quê hương tôn trọng giá trị nhân phẩm và quyền làm người trong một xã hội tự do, dân chủ, hòa bình và thịnh vượng.

    Muốn tạo dựng một hàng ngũ như thế, tôi thiết nghĩ chúng ta phải mạnh dạn bước qua những ý tưởng hận thù, như chính ông Nguyễn đình Huy cũng đã phát biểu trong cuộc phỏng vấn in trong tuyển tập được ra mắt ngày hôm nay. Tôi xin phép được nhắc lại nguyên văn lời phát biểu ấy như sau :

    " Nói đến hận thù thì có lẽ chúng tôi là những người hận thù nhiều hơn ai hết vì gần 17 năm nằm trong các trại tù. Thế nhưng chúng tôi phải lấy súng tự bắn vào trái tim thù hận của chính mình và bắn cây súng khác vào sự chia rẽ và nghèo khổ của dân tộc.”

    Chủ trương cỉa ông Nguyễn đình Huy hoàn toàn phù hợp với quan điểm của tôi khi vận dụng công tác văn hóa vào công cuộc vận động chung của dân tộc.

    Thưa quý vị, dù thế nào thì những điều tôi vừa phát biểu cũng chỉ là những cảm nghĩ riêng tư, có thể có người chấp nhận, cũng có thể có người sẽ nêu ra nhiều vấn đề để bàn cãi. Tuy nhiên, đó không phải là mục tiêu của một buổi ra mắt tác phẩm. Trong phạm vi của buổi tổ chức hạn hẹp ngày hôm nay, tôi rất tiếc là đã làm mất thì giờ của quý vị. Tôi xin chân thành cám ơn toàn thể qúy vị đã lắng nghe và một lần nữa, xin cám ơn nhà báo Nguyễn Vạn Hùng cùng ban tổ chức đã cho tôi cơ hội phát biểu ngày hôm nay.

    NHẬT-TIẾN
    26-6-1996
    ***

    Thời điểm 1988

    TÁC PHẨM GÂY TRANH CÃI
    Quanh truyện dài

    “ MỒ HÔI CỦA ĐÁ”

    Mồ Hôi Của Đá là một truyện dài duy nhất của tôi ở hải ngoại, khởi sự viết từ những ngày tháng còn nằm ở trại tỵ nạn Songkhla, Thái Lan (1980) và hoàn tất vào tháng 3-1988 ở Beaverton, tiểu bang Oregon, Hoa Kỳ.

    Ở vào thời điểm 1988, khi chính phủ Hoa Kỳ vẫn còn giữ chủ trương cấm vận đối với Việt Nam và hai nước chưa thiết lập quan hệ ngoại giao, thì công cuộc chống Cộng ở hải ngoại - đặc biệt là ở Hoa Kỳ và vùng Nam Cali - cũng đã diễn ra dưới nhiều hình thức ngặt nghèo. Hầu như bất cứ cái gì đến từ xứ Cộng sản cũng đều là sai trái, đáng ghê tởm, bất cứ con người nào đã xuất thân từ hàng ngũ cán bộ miền Bắc cũng đều là loại người phải bị diệt trừ, hễ ai công khai ngỏ lời khen ngợi một người CS, dù chỉ là một cá nhân riêng lẻ thì cũng bị lên án, cho là đã tuyên truyền cho cộng sản.

    Rồi cũng vào khoảng thời điểm đó, việc đi về thăm quê hương cũng được coi là quá sớm. Người ta chỉ thì thào loan báo với nhau ở chỗ riêng biệt chứ không dám tiết lộ công khai. Một vài cơ sở bán vé máy bay thì bị biểu tình ngay trước cửa. Nếu tôi nhớ không lầm thì có một cơ sở du lịch ở Bolsa còn bị hỏa hoạn nữa, tuy không biết chắc nó bị cháy là vì nguyên do gì. Nghi vấn này cũng đã từng được đặt ra cho cái chết của nhà văn Hoài Điệp Tử, chủ nhiệm báo Mai chết vì bị đốt và ngộp khói ngay tại tòa soạn ở Bolsa, Nam Cali vào đêm 9 tháng 8-1987.

    Theo tờ Dân Chúng số 121 ra ngày 5 tháng 8 năm 1995 nhắc nhở lại vụ này thì đã có một tổ chức mang tên Diệt Cộng Hưng Quốc Đảng nhận mình là tác giả vụ án mạng. Và vẫn theo báo này thì chắc tờ báo Mai của Hoài Điệp Tử đã đăng quảng cáo cho một vài hãng bên Canada buôn bán với Việt Nam nên mới xảy ra án mạng.
    (Nguồn: http://motgocpho.com/forums/showthread.php/6952 - Nhà văn Hoài Điệp Tử) .

    Tuy không có một chứng cớ cụ thể nào nêu rõ lý do về cái chết của nhà văn Hoài Điệp Tử, nhưng nhắc lại biến cố bi thảm này của làng văn, làng báo xẩy ra vào thời điểm của những năm 80 tại Hoa Kỳ, ta thấy vấn đề chống Cộng ở hải ngoại vào thời điểm đó đã nghiêm ngặt và khét lẹt đến như thế nào, và bất cứ một nhận định nào đi lạc ra ngoài “ý thức chung” đều rất dễ bị ngộ nhận và bị lên án.

    Đó là bối cảnh chính trị mà tôi sinh sống ở trong đó khi viết một số tác phẩm hoặc dài hay ngắn, đã cho in trên các báo chí ở hải ngoại và vài truyện đã trở thành những đề tài tranh cãi ồn ào.

    Tranh luận quan điểm sáng tác trong sinh hoạt văn nghệ là một ưu điểm của xứ có tự do cầm bút và người viết dù bất cứ ai, thuộc phe phái nào cũng đều phải nên lấy làm may mắn, tự hào là mình được sinh hoạt trong bầu không khí tự do đó.

    Nhưng tranh luận về đề tài văn hóa thì phải sử dụng ngôn ngữ có văn hóa.

    Tiếc thay, những bài viết đứng đắn như thế thì thường hiếm hoi, mà trái lại, những thứ nông cạn, ấu trĩ học đòi phê phán thì lại khá nhiều. Bọn này đã xông vào lãnh vực văn hóa, văn nghệ để chống đối bạt mạng (có khi chưa đọc tác phẩm đã viết bài chửi bậy rồi), rõ ràng không phải vì mục đích làm cho vấn đề thêm sáng tỏ hay mang lại điều gì bổ ích cho người đọc mà chỉ thuần túy vì lý do nhẩy vào đánh hôi, ăn có, mong cho tên tuổi của mình cũng được ngự trị trên các diễn đàn văn hóa.

    Nhưng nguy hiểm hơn cả là những tên “cố tình phá hoại mọi sinh hoạt tử tế của người Việt Quốc Gia” nhằm lũng đoạn tinh thần chống Cộng của người Việt hải ngoại theo chỉ thị từ trong nước và do đó trong nhiều năm qua, chúng đã thi hành được nhiều nhiệm vụ hoàn toàn có lợi cho CS.

    Một trong những tên đã bị vạch mặt chỉ tên nhiều nhất trong làng văn, làng báo là Nguyễn Hữu Nghĩa, chủ bút tờ Làng Văn ở Canada, một loại viết lách mang gốc tích mù mờ ngay từ khi còn ở VN trước năm 1975.
    Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, một nhân vật có uy tín trong lãnh vực văn hóa, người đã bỏ rất nhiều tâm-lực trong sinh hoạt văn học nghệ thuật ở hải ngoại suốt mấy chục năm qua cũng đã có lần phải lên tiếng:

    TẠI SAO TÔI KHÔNG ÐI DỰ
    ÐẠI-HỘI VĂN-BÚT KỲ NÀY
    Nguyễn Ngọc Bích
    Trích:
    Về Nguyễn Hữu Nghĩa, chúng ta biết những sự thực chắc nịch như sau:

    1/ Anh là con đại-tướng VC Nguyễn Chí Thanh.

    2/ Vợ đầu của anh là con cháu Dương Minh Châu, người VC đã dùng tên để gọi cả một chiến-khu của họ.

    3/ Anh đã từng tung tin giả chết ở Sài-gòn để ra bưng vào năm 1970. Từ đó, anh đã làm ra bài hát "Anh sẽ về, em ơi, anh sẽ về..."

    4/ Anh là tác-giả của những con vi-rút điện-tử để ám-hại hết người này đến người khác, ít nhất là có vài chục người, không trừ cá-nhân tôi (NNB). Vì việc làm ám-muội này, Langvan.com của anh đã bị tố-cáo với hãng Hotmail và anh đã bị đuổi ra khỏi Hotmail.com.

    5/ Dù như Làng Văn đã ra tới hai cuốn sách để đánh một ân-nhân của vợ chồng anh, người đã nuôi dưỡng cơ-sở Làng Văn qua những tiểu-thuyết "bestseller" của ông ta, anh vẫn không rửa được tội dựng đứng chuyện bài hát (bịa đặt) của Ðoàn Chuẩn rồi gán cho Thúy Nga Paris By Night và Nguyễn Ngọc Ngạn.
    …….

    Ðã có đôi ba lần NHN dùng bút-hiệu (tập-thể) của tôi là Tâm Việt rồi ký TamVietNguyen, để mập mờ đánh lận con đen, gởi đi tin này tin nọ làm cho người ta có thể hiểu lầm là tin đó đến từ tôi. Tuy-nhiên, những chuyện trẻ con như vậy, không ai bị mắc mưu nên tôi cũng không đếm xỉa.

    Nhưng đến đầu tháng 5-2000, Nguyễn Hữu Nghĩa lại giả mạo đưa ra một cái tin nói là trích từ "Trang Nhà QÐND" (để cho mọi người có thể hiểu ngầm đây là báo Quân Ðội Nhân Dân viết từ trong nước) bề ngoài như khen Luật-sư Trần Thanh Hiệp và tôi và đánh "nhóm cực đoan" Sơn Tùng, tức Nguyễn Minh Ngọc, Phạm Kim Vinh, Nguyễn Văn Chức.

    Cái xảo-quyệt và đê hèn của NHN là không những anh đã bịa đặt chuyện trên, anh lại còn dùng địa-chỉ Internet "ttxqg" gởi tin đó đi, để người không sáng ý có thể ngờ là tôi vì muốn khoe nên dùng QGTTX (Quốc Gia Thông Tấn Xã) của tôi mà tự tố-cáo bằng cách đăng lại một bài từ trong QÐND.

    Dù như không ai bị đánh lừa trong vụ này, Sơn Tùng (tức Thợ Hồ) vẫn bỉ ổi đủ để mau mắn đem in lại nguyên con cái tin giả-tạo kia (còn in nghiêng để cho mọi người phải chú ý) rồi lại thêm những lời bàn Mao Tôn Cương nhảm nhí vào đó (Thế Giới Ngày Nay, Wichita, Kansas, số 158, trang 32-34) để đánh ông Hiệp và tôi.

    Như vậy rõ ràng là có tung có hứng. Không thể bảo ngẫu-nhiên mà Sơn Tùng và NHN lại ăn ý với nhau như thế được. Nếu như bài kia có thật trong QÐND mà hai người chỉ in lại rồi "phát tán" ở ngoài này thì họ cũng đã là tiếp tay cho CS rồi. Ðằng này, CS trong nước cũng chẳng rỗi hơi hay dại gì mà đi ca tụng tôi và ông Trần Thanh Hiệp nên điều NHN và Sơn Tùng tung hứng trong vụ này chỉ chứng tỏ họ là "cá mè một lứa" chơi trò du-côn "đá cá lăn dưa."

    Tôi thách NHN và Sơn Tùng chỉ ra cho cả thế-giới xem bài báo kia lấy ở trong "trang nhàQÐND" nào, số nào, ngày nào?
    (ngưng trích)
    Nguồn :http://mt-nguyenhuunghia.tripod.com/...0dudaihoi.html

    ***

    Chẳng riêng một mình GS. Nguyễn Ngọc Bích phải lên tiếng về Nguyễn Hữu Nghĩa mà rất nhiều văn hữu ở hải ngoại đã viết bài tố giác Nguyễn Hữu Nghĩa gây ra nhiều chuyện lũng đoạn hàng ngũ văn giới, quấy nát tổ chức Văn Bút VN hải ngoại cùng những thủ đoạn đê tiện như viết những bài dựng đứng, xuyên tạc, bỏ thư rơi, fax rơi, cắt ráp tuồng chữ viết tay của người khác tạo thành lá thư giả để gây chia rẽ những người trong một tổ chức..v..v…

    Thật là một tên nham hiểm, đầy ý đồ, lộn sòng vào hàng ngũ người cầm bút ở hải ngoại từ bao nhiêu năm qua.

    Cuốn sách mà quý vị đang cầm trên tay, nếu được in ra cũng một phần là có mục đích cảnh giác mọi người về một tình trạng ô nhiễm trong sinh hoạt chữ nghĩa ở hải ngoại do những loại cầm bút như Nguyễn Hữu Nghĩa cùng vây cánh của hắn gây ra.

    Tôi mong mỏi mọi người trong chúng ta hãy cùng góp tay làm sạch môi trường chữ nghĩa để bảo vệ khuôn mặt chân chính của người Việt hải ngoại không bị những tên cầm bút vô trách nhiệm làm cho nhếch nhác đi.

    Khi nhắc lại cuốn Mồ Hôi Của Đá, không phải vì tôi muốn phân bua, tranh luận thua đủ gì với những ngòi bút chống đối theo kiểu ngồi nặn mấy câu vè như của Nguyễn Hữu Nhật núp dưới bút danh Sắc Không viết trong một mục thường xuyên của báo Làng Văn, tự biến mình thành một thứ tay sai của Nguyễn Hữu Nghĩa:
    ……
    Lồng to, chim bé bâng khuâng
    hót bao nhiêu tiếng cũng không nghĩa gì
    Da ngà, bọt trắng mép ly
    Bia ôm Cửa Mở, mặt lỳ Thềm Hoang
    ……
    (trong Chém Đá của Sắc Không, Làng Văn xuất bản, trang 151)

    Thật ra, tôi chỉ muốn cung ứng một số trang tài liệu để độc giả có cơ hội tìm hiểu thêm tâm tình của người viết (nguyên cuốn Mồ Hôi Của Đá thì nay cũng tuyệt bản hoặc khó kiếm) và khi đọc xong, dù đồng cảm hay chống đối thì tôi tin là những phản biện sau này nếu có, hẳn cũng mang một cung cách ứng xử có tính chất văn hóa, ngôn ngữ phát biểu có tính xây dựng, chứ không phải là những loại văn chương bông phèng, rẻ tiền như của Nguyễn Hữu Nhật.
    ***

    MỒ HÔI CỦA ĐÁ
    (Tủ Sách Cành Nam ấn hành tháng 12-1988)


    LỜI NHÀ XUẤT BẢN

    Với Mồ hôi của đá, Nhật Tiến lại đi được một bước nữa trong tiến trình sáng tác của ông ở hải ngoại. Là một nhà văn có kỷ luật, sung sức và đều tay, nhà văn Nhật Tiến đã cống hiến cho chúng ta hai tập truyện ngắn rất nổi từ ngày ông sang Mỹ: tập Tiếng Kèn do nhà xuất bản Văn Học in năm 1982 (và mới tái bản gần đây do nhà xuất bản Văn Nghệ) và tập Một Thời Đang Qua do Tổ hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ ấn hành vào năm 1985.

    Song vì là truyện ngắn nên hai tập trên không nói hết lên những ý tưởng lớn, những suy nghĩ có tầm vóc mà tác giả hằng ấp ủ. Phải đợi đến Mồ hôi của đá, truyện dài đầu tiên của ông hoàn tất ở xứ người, ta mới có dịp được biết trong thâm tâm ông nghĩ gì về hiện tình đất nước, một sự đổi đời không tiền khoáng hậu, và đặc biệt là về một giải pháp mà ông mới phác họa ra cho ta thấy vào những trang cuối của tác phẩm.
    Là một tác giả cổ điển - theo nghĩa là bị ảnh hưởng không ít bởi những kỹ thuật viết văn như của Tự Lực Văn Đoàn - Nhật Tiến kết thúc cuốn sách của ông chỉ bằng vài nét đan thanh nhưng với nhiều gợi ý. Có thế câu chuyện mới còn tiếp nối trong đầu óc chúng ta khi ta xếp sách lại.

    Giả thuyết của Nhật Tiến về một hướng đi mới tương lai cho dân tộc có thể đem ra bàn rộng rãi trong lúc này. Cái đáng yêu của giải pháp mà tác phẩm đề nghị với chúng ta nằm ở chỗ : đó là một giải pháp nhân bản, một giải pháp có chỗ cho tất cả những thành phần còn nặng tình dân tộc, những thành phần còn đủ rộng rãi con tim để có thể vượt lên những lằn ranh suy tưởng của ngày hôm nay, những bức vách dựng lên bởi hận thù đã ngăn cản một cái nhìn bao quát, bao dung và tổng hợp. Song cũng có thể vì đề nghị đó rộng rãi quá mà có người sẽ cho là không tưởng.

    Cũng như có người sẽ không nhất thiết đồng ý với quan điểm này hay quan điểm khác được bày tỏ do các nhân vật ở trong truyện - đặc biệt nếu độc giả ai còn nghi ngờ đó cũng là những ý nghĩ mà tác giả chia xẻ. Về phương diện này, nhà xuất bản cho rằng vị trí của chúng tôi không nên - và không bao giờ có thể - là để thay thế độc giả mà tiền phán xét về một tác phẩm được.

    Tủ Sách Cành Nam, do đó, rất hân hạnh được đem giới thiệu đến độc giả Việt Nam trên khắp năm châu (và lẽ dĩ nhiên là gồm cả những độc giả ở trong nước, ngày nào mà đồng bào chúng ta có hoàn cảnh để đọc những tác phẩm tự do) tác phẩm dài hơi đầu tiên của nhà văn Nhật Tiến kể từ ngày ông bỏ nước ra đi. Nhìn từ quan điểm vật chất, viết được một tác phẩm dài hơi là chỉ hiệu của một sự ổn định trong đời sống mà tác giả đã gây dựng lại được ở xứ người. Là độc giả, chúng ta chia xẻ với ông sự vui mừng là nay ông đã có điều kiện để sáng tác dài hơi trở lại, ít gì cũng có điều kiện hơn mấy năm trước khi ông còn ở trại tỵ nạn Thái Lan hay mới qua Mỹ.

    Như vậy, chúng ta có thể còn trông mong được nhiều hơn nữa với những tác phẩm dài hơi và giá trị khác, từ ngòi bút của một nhà văn mà không ít người trong chúng ta đã từng theo dõi từ gần 40 năm nay.

    TỦ SÁCH CÀNH NAM
    (còn tiếp)

  10. #10
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Thời điểm sáng tác : 1983

    - Nhân vật thủ trưởng trong truyện ngắn “Người Tù Cuối Năm” của anh có liên hệ gì với lối lập luận trên của anh không ?
    (Câu hỏi của Hoa Thịnh Đốn Việt Báo- trang 99)

    NGƯỜI TÙ CUỐI NĂM
    Truyện ngắn của NHẬT TIẾN

    Khi lão thủ trưởng về tới đơn vị thì trời đã xế chiều. Hôm nay Ba Mươi Tết, các cơ quan đều nghỉ việc nên truớc cổng trụ sở không còn diễn ra cái khung cảnh ồn ào, hỗn độn của đám dân chúng chờ đợi để xin giấy tờ. Việc canh phòng cũng lơi là hẳn đi. Trên chiếc chòi đóng bằng gỗ thùng sữa tùm hụp như chiếc chuồng chim, lão thấy một nhân viên của mình đang ngồi hút thuốc trong tư thế chiếc ghế ngồi bị đưa ngả cả về đằng sau để cho lưng anh ta dựa được hoàn toàn lên vách gỗ. Điều này làm anh ta không nhìn thấy vị thủ trưởng của mình vừa đạp xe tới. Mãi tới lúc lão ta xuống xe và đã dắt chiếc xe đeo lỉnh kỉnh đủ thứ túi, giỏ, gói đồ cồng kềnh đi qua cánh cổng làm bằng sườn gỗ và những sợi kẽm gai thì anh chàng gác trên chòi canh mới bật dậy, giọng nói hốt hoảng hẳn lên :

    - Thưa thủ trưởng…. thủ trưởng đã về. . .

    Lão ngước mắt nhìn lên. Ánh mắt đầy nghiêm khắc, nhưng miệng lão vẫn nở một nụ cười làm ra vẻ hiền lành, dễ thương tương phản hẳn với tia nhìn lạnh buốt như lưỡi dao mới mài sắc. Lão nói với thủ hạ một câu, với một giọng chọn lựa đủ để anh ta không đoán ra được là lão đã xuề xòa bỏ qua hay vẫn còn để tâm tới sự canh phòng lơi là của mình:

    - Mọi sự tốt cả đấy nhỉ ?

    Anh công an vội vã xoắn xuýt:

    - Thưa thủ trưởng mọi sự tốt cả. Trừ có mỗi một vụ ngày hôm qua. . .

    Anh ta chưa kịp nói hết câu lão đã đi ngang qua mặt, chẳng ra vẻ ngạc nhiên hay chú ý gì tới lời báo cáo bất thường này. Hình như lão ta không cho anh cái dịp để xuề xòa cái tội đã canh gác trong tư thế "Ngồi trên ghế mà dựa cả lưng vào vách gỗ để nhìn trời !".

    Lão lầm lũi dắt cái xe đi qua một khoảng sân cỏ nhỏ. Mặt tiền của trụ sở cơ quan đóng im ỉm nhưng ở phía trong vọng ra những tiếng cười nói ồn ào. Lão đi vòng ra phía sau và qua khung cửa sổ, lão nghe thấy tiếng reo hò lẫn những tiếng chửi thề tục tĩu.

    Lão dựng chiếc xe ở đầu hè, cố tạo ra tiếng động rổn rảng bởi chiếc bàn đạp cọ sát trên sàn xi măng để gây sự chú ý của mọi người. Lão không muốn khi mình sắp bước vào văn phòng mà mọi người trong đó không ai hay biết gì cả, nhất là trong cái hoàn cảnh tất cả đều đang bệ rạc chúi đầu vào canh bạc.

    Sự đánh tiếng của lão có ngay kết quả, vì hình như trong đám nhân viên đang sát phạt, vẫn có kẻ thỉnh thoảng liếc ra sân dòm chừng. Tiếng động do lão gây ra lập tức làm cho tiếng ồn ào bỗng nhiên im bặt. Lão bước tới những bước thật chậm về phía cửa phòng. Lão cảm thấy hài lòng về sự im lặng tuyệt đối ở chung quanh mình. Điều đó có nghĩa là lão vẫn nắm trọn vẹn quyền uy ở đây, loại quyền uy luôn luôn gắn theo một mục tiêu là tạo ra cái cảm giác khiếp sợ bao trùm trên tất cả mọi người.

    Rồi lão bước chân vào phòng. Kẻ đứng ngay phía ngoài là một nhân viên trẻ. Anh ta mới được đổi về đây không đầy hai tháng. Trong mọi trường hợp, anh ta luôn luôn chứng tỏ là một kẻ cuồng tín nhưng lại rất non tay nghề ở chỗ dễ hốt hoảng, dễ bối rối. Cho nên mới vừa chỉ chạm vào ánh mắt sắc lẻm của lão, là Vinh, tên anh ta, đã vội vàng nói bằng một giọng ấp úng:

    - Thưa Thủ trưởng. . . . hôm nay cuối năm . . . . .

    Rồi mặt đỏ rần lên, anh ta không thể tìm thêm được lời nào để tiếp nối câu nói của mình. Ngay lúc đó, ở góc phòng có giọng nói quen thuộc của Hào cất lên:

    - Thủ trưởng đã về. Anh em đang vui tất niên. Nếu không mệt xin mời thủ trưởng nhập cuộc với anh em.

    Lão đưa mắt về phía cuối phòng. Lão thấy Hào đang cởi trần và trên tay còn cầm mấy quân bài. Trong đám thủ hạ, Hào là kẻ vững chãi nhất. Gã có một đức tin mãnh liệt. Điều này nhiều lúc biến gã thành một kẻ cứng đầu, nhưng đồng thời cũng là một nhân viên ưu tú, góp phần đắc lực trong mọi công tác điều hành ở đây. Tuy nhiên về một phương diện nào đó, đối với thủ trưởng, gã là một tên đáng ngại. Tận tụy và hay rình mò. Đó là đặc điểm của những kẻ đứng chung trong cùng một ngành, làm chung một cơ quan, chia sẻ chung một mối quan tâm hay một công tác được giao phó.

    Thái độ ngang nhiên của Hào đáng để cho lão ngừng lại một giây. Lão nhìn thẳng về phía Hào. Lão cố tạo cho mình một vẻ ngạo nghễ, ở ánh mắt, ở nụ cười chỉ nhếch ra không tới một nửa vành môi, bờ vai của lão cũng vuông thẳng lại. Rồi lão cất tiếng khoan thai, pha một chút bỡn cợt nhưng nhiều phần là quyền uy :

    - Nhập cuộc với các đồng chí thì sẵn sàng rồi. Nhưng đừng vì ham vui mà mất cảnh giác đấy nhé.

    Trong sinh hoạt thân thiết, ngoài nhiệm vụ hằng ngày, khi dùng tới tiếng "đồng chí" với nhau thì đó là lúc bắt đầu có vấn đề. Ai cũng thấy vậy. Và lão đã sử dụng tiếng xưng hô đó để bầy tỏ sự bất như ý của mình. Rồi không chờ cho Hào có dịp nói thêm một câu nào khác, lão lầm lũi quay lưng trở ra. Mấy nhân viên đang đứng gần đó vội vã lùi giật lại mặc dù lối đi còn rộng rãi. Lão trở về bàn giấy của mình trong một căn phòng ở cuối dẫy hành lang.

    Khi lão kéo ghế ngồi xuống trước đống hồ sơ ngổn ngang trên mặt bàn thì Hào cũng đã vội vã theo vào. Bây giờ gã đã mặc thêm chiếc áo sơ mi tươm tất. Sự bỏ cuộc chơi đang ồn ào của gã để tới trình diện mình ngay khiến lão thấy cơn bực tức dịu lại. Lão nhoẻn ngay một nụ cười hoàn toàn dễ dãi rồi nói với gã bằng một giọng cởi mở, thân thiết:

    - Sao chú Hào? Tết nhất rồi, nhớ nhà không?

    Hào vui vẻ:

    - Em mới nhận được thư của bà cụ hồi chiều. Cụ nhận được gói quà em gửi về rồi. Thôi, thà để tiền mua thêm cái bồi dưỡng cho nhà còn hơn là dẫn thân về, có đồng nào chạy vào tiền xe đi đường hết.

    Lão mỉm cười :

    - Hà..hà...Chớ không phải vì cô Tâm bên quán hàng trước cổng cơ quan mà chú chịu bỏ mấy ngày phép để ăn Tết ở đây hả?

    Mặt Hào đỏ bừng lên. Gã tỏ ra luống cuống thấy rõ. Hiển nhiên là cấp chỉ huy của gã đã nhìn thấu đến tận tim đen của mình. Điều này làm lão thủ trưởng càng thêm hài lòng vì lão đã nắm trúng nhược điểm của gã nhân viên dưới quyền. Chỉ một sự vướng mắc này thôi thì lão cũng đã có dư điều kiện để vo tròn bóp méo con người của Hào như một món đồ chơi trong tay rồi.

    Lão đổi giọng nghiêm chỉnh:

    - Chú trẻ, chưa vợ thì có quyền tìm hiểu. Nhưng chớ có nhẹ dạ để mất cảnh giác đấy nhé.

    Rồi lão chuyển ngay qua đề tài khác:

    - Bây giờ chú báo cáo cho tôi cái vụ xẩy ra hôm qua coi.

    Hào giật nẩy người lên. Gã thực sự thán phục cấp chỉ huy của mình về cái tài ma xó này. Lão ta về đây chưa đầy mười phút đồng hồ, lại chưa tiếp xúc với ai, chính gã là người đầu tiên đến chào lão trở về, thế mà lão đã "nắm được tình hình" thì thần sầu quỷ khốc thật! Gã cứ ngẩn mặt ra mất đến mấy giây rồi mới sực tỉnh và nói vội vã:

    - Trình thủ trưởng, vụ này không xẩy ra trong phạm vi trách nhiệm của mình. Việc phát giác chiếc tầu trốn ra nước ngoài là ở khu vực của bên các đồng chí Vĩnh Hậu. Lúc bị phát giác, bọn phản động chạy phân tán khắp mọi chỗ. Đồng Văn có, Minh Thuận có. Thuận Hiệp cũng có. Riêng khu vực của mình thì chúng em chỉ bắt được một tên mà chúng em đánh giá là chủ chốt. Bản báo cáo đầy đủ nội vụ em đã thảo và đệ trình trong hồ sơ trên bàn của thủ trưởng.

    - Chú thông báo vụ này đi những đâu rồi?

    - Chưa! Em chờ lệnh thủ trưởng !

    Mặt lão thoáng một vẻ hài lòng. Dĩ nhiên trước sau gì thì hồ sơ cũng được chuyển đi, nhưng lão không muốn bị ràng buộc bởi bất cứ một yếu tố sơ xuất nào có thể tránh trước để có thể được rộng rãi hơn trong cung cách giải quyết vấn đề. Yếu tố chủ động bao giờ cũng là điều kiện tuyệt hảo trong mọi công tác.

    Lão vẫy tay cho Hào lui ra rồi tiến lại bàn mở tập hồ sơ ra coi. Hào đã báo cáo khá đầy đủ, từ bản tự khai của người tù cho đến lý lịch của đương sự, bản phúc trình nội vụ của Hào cùng biên bản về những tang vật tịch thu được. Mải nghiền ngẫm đến hơn nửa giờ sau lão mới đặt tập hồ sơ xuống bàn.

    Những chi tiết ghi trong tập hồ sơ quả thực đã lôi cuốn lão một cách mãnh liệt đến nỗi lão quên bẵng cả mọi cảnh vật chung quanh lúc này thì nắng bên ngoài đã xuống thấp ở lùm cây phía bên ngoài cửa sổ và xa xa thỉnh thoảng vẫn có tiếng pháo đì đẹt vọng lại mang hương vị phảng phất cái rộn ràng của một ngày giáp Tết.

    Trong khoảnh khắc, lão đã quên đi tất cả hiện tại để đắm hồn mình vào dĩ vãng xa xăm với những nhân danh, địa danh ghi trong hồ sơ mà hàng mấy chục năm qua, lão không có dịp được nghe nhắc lại. Những tên người, tên đất năm xưa xen lẫn với mớ kỷ niệm hỗn độn, mơ hồ tưởng như đã xóa nhòa trong dĩ vãng nhưng nay đã vụt trỗi dậy như hiện lên qua những hàng chữ trong tập hồ sơ để lôi kéo lão trở về những ngày xa xưa của thời kỳ đầu cách mạng. Lão vội vã đứng bật dậy và toan tìm xuống phòng tạm giam tù nhân. Nhưng bản tính trầm tĩnh đã khiến lão tự kiềm chế được ngay hành động vội vã của mình. Cả một đời lăn lộn trong đấu tranh nhiều khi vào sinh ra tử, nếu lão có leo lên được tới chức vụ bây giờ thì phần lớn cũng là nhờ ở cái sự biết tự kiềm chế đó.

    Vì thế, lão chỉ tiến ra phía cửa sổ và móc túi lấy bao thuốc lá châm một điếu để cho cái đầu tự do lan man suy nghĩ. Bên ngoài, trời đang bảng lảng nắng chiều trên những ngôi gò thấp có những bụi cây um tùm xào xạc tiếng lá xen lẫn tiếng chim. Cho đến cái giây phút đó lão mới chợt ngạc nhiên nhận ra rằng ở đây sao giống với khung cảnh thôn cũ ngày xưa của lão đến thế, mà suốt thời gian qua do bận rộn nên lão không hề nhận ra.

    Bây giờ thì lão phó mặc cho dòng tâm tưởng của mình trôi về dĩ vãng với hình ảnh của con sông hiền từ chẩy qua xóm làng, có những cánh đồng xanh bát ngát với những mái tranh lô nhô sau những bụi tre già, những thân cau thẳng tắp nhô lên bầu trời mầu xanh lơ và những đụn rơm cao ngất ngưởng mọc lên sau những vụ mùa. Chính ở đó đã xẩy ra cái bi kịch đầu đời của lão và cũng chính từ nơi đó, lão đã bỏ làng ra đi mang theo trong lòng tất cả mối hận thù của một con người bị đàn áp dưới bạo lực.

    Rồi hơn ba mươi năm trôi qua, trong khoảnh khắc, cái khởi sự và cái hiện thời bỗng nhiên trùng hợp nhau, ở đây, tại cái đồn công an hẻo lánh này qua tập hồ sơ báo cáo về một tên tù, một nhân vật mà lão không bao giờ quên, từ dáng dấp của hắn cho đến ánh mắt cuối cùng mà hắn đã nhìn lão trước khi mỗi người nổi trôi theo một ngả khác nhau trên đường đời.

    Cái lý tưởng mà lão đã mang đi từ ngày đầu đã mờ nhạt chẳng còn gì sau những năm dài chứng kiến những cuộc đấu tố ở miền Bắc. Lão biết rõ sự thay đổi ấy trong tâm tư của mình từ lâu, nhưng cuộc sống vẫn lôi lão đi như một khúc gỗ trôi theo dòng. Nhưng cũng lại chưa bao giờ lão thấm thía với chính lòng mình ở giây phút này, cái giây phút khởi đi từ lúc lão miệt mài nghiền ngẫm bản báo cáo do Hào đã để trên bàn.

    Những nhân danh, địa danh ghi gói trong đó chợt lôi lão trở về dĩ vãng ngày xưa và đặt lão trong khoảnh khắc vào vị thế của một con người sống cùng một lúc tới hai hoàn cảnh: Một kẻ bắt đầu ra đi và một kẻ đã đi gần như tận cùng của con đường cách mạng. Nhìn lại thành quả, lão thấy xã hội chung quanh hầu như chẳng thay đổi gì. Con người chung quanh lão vẫn lầm than cơ cực. Công cuộc đấu tranh giai cấp làm nảy sinh một giai cấp mới có đầy đủ bản tính bóc lột của chính cái giai cấp mà nó vừa đạp đổ!

    Nói cho ngay, cái nhận thức kinh khủng này chỉ gậm nhấm lão một cách âm ỉ và chẳng thường xuyên. Bởi vì một phần là lão quá bận rộn trong công tác, phần khác là do chính lão muốn giập tắt nó ngay vì lão tự nghiêm khắc cho mình là đã lệch lạc mất cảnh giác, mất lập trường.

    Nhưng vào buổi chiều hôm nay, một buổi chiều cuối năm có những tiếng pháo đì đẹt từ xa vọng lại hầu như mang lại cho lão một sự hối thúc muốn quay trở lại những hình ảnh ngày xưa. Lão quăng điếu thuốc đang hút giở qua khung cửa sổ rồi mở cửa phòng tiến ra hành lang, đi về phía phòng tạm giam. Viên cảnh vệ đang ngồi trên ghế, trông thấy lão, vội vàng đứng dậy. Lão cất tiếng hỏi:

    - Yên ổn cả chứ ?

    - Trình thủ trưởng, mọi sự bình thường.

    Lão kéo tấm vải bạt che kín bên ngoài để nhìn qua những chiếc song gỗ. Lão trông thấy người tù cuối năm đang nằm co quắp tại góc của căn phòng giam chật hẹp và nhờ nhờ ánh sáng. Chiếc áo sơ mi hắn mặc trên người đã rách bươm để phô ra một mảng lưng bầm giập và đọng nhiều vết máu.

    Chợt lão thủ trưởng hơi nhăn mặt lại. Hình như lão bắt gặp lại cái hình ảnh bầm máu của chính mình hồi gần bốn mươi năm về trước.

    Tay lão bấu chặt lấy một tấm song gỗ. Lão gần như thò cả nửa mặt của mình qua khe song để cố nhìn người tù cho thật rõ. Nhưng hắn ta vẫn im lặng nằm ở đấy, không ngước lên, cũng chẳng quay ra nhìn. Trầm ngâm giây lát, lão thủ trưởng quay lại nói với viên cảnh vệ :

    - Thằng này nguy hiểm đấy. Phải coi chừng !

    Nói rồi lão tất tả đi lên phòng. Lão sai một đàn em mang tất cả mọi thứ vặt vãnh quà bánh, thực phẩm Tết mà lão mua được ở trên thành phố đem ra bầy la liệt lên mặt bàn. Ngoài mấy món đồ dùng lặt vặt như bàn chải răng, xà phòng, dao cạo râu, khăn mặt, vài cuốn sách mới xuất bản, còn kỳ dư toàn là đồ ăn Tết. Có mứt. Có rượu. Có bánh chưng, lạp xưởng và nhiều đồ hộp linh tinh khác đủ để khao cả cái đồn nhỏ bé này một bữa thịnh soạn. Lão gọi Hào vô để ban chỉ thị :

    - Thông cảm với các chú vất vả quanh năm, lại tình nguyện không xin phép về quê ăn Tết, tôi khao các chú một bữa tất niên.

    Cái tin ấy loan ra làm bầu không khí trong đơn vị rộn ràng hẳn lên. Hào nhanh nhẩu lãnh nhiệm vụ điều động tất cả mọi công việc cần làm: nấu nướng, kê dọn, trang hoàng như chuẩn bị một bữa đại tiệc.

    Tối hôm ấy, hàng rào ngăn cách giữa mọi người hầu như mặc nhiên được hủy bỏ (Tết nhất có khác, đồng chí 'Thủ trưởng dễ dãi hẳn ra). Nhất là khi có rượu vào. Hai chai của Thủ trưởng đem ra, cả đơn vị có hơn chục người chỉ quanh vài vòng là cạn queo. Hào gãi tai xin phép Thủ trưởng cho "vượt chỉ tiêu” một bữa. Thủ trưởng ngần ngại giây lâu rồi miễn cưỡng gật đầu.

    Thế là có ít nhất hơn một nửa số người hiện diện đã cùng ùa lên, chạy vội vã về phòng riêng. Họ đem bầy ra đủ loại rượu mà nếu chẳng có dịp này thì không bao giờ lão thủ trưởng lại biết được rằng nhân viên của mình lại đổ đốn ra như thế. Nhưng tết nhất mà ! Mọi sự xuề xòa hết. Bởi chính lão cũng uống, lão cũng say ngà ngà. Lão cũng đùa giỡn vui vẻ như chưa bao giờ ở đây có ai thấy lão đùa giỡn vui vẻ đến thế. Đến giữa buổi tiệc, lão đem vấn đề người tù ra nói với đám nhân viên:

    - Tóm được thằng này tôi phải ghi công các chú. Nó đối với tôi có nhiều nợ máu đấy !

    Vừa nói lão vừa cởi phăng chiếc áo đang mặc trên người và xoay lưng về phía néon sáng. Chờ cho mọi người đã đủ kinh ngạc và thắc mắc về những vết sẹo sần sùi, nhăn nhúm rải rác trên khắp lưng của mình, lão mới nói tiếp :

    - Đòn thù của cường hào ác bá làng tôi đấy ! Cũng một ngày cuối năm như thế này vào thời tiền cách mạng, tôi bị chúng nó trói vào thân cau, vừa đánh vừa dội nước sôi. Sẹo đấy. Sẹo nước sôi đấy!

    Rồi lão lại tụt chiếc dép ở chân trái ra và giơ cái cẳng của mình lên cao cho mọi người nhìn thấy:

    - Chưa hết đâu. Các chú có thấy vết sẹo cắt ngang gót chân đấy không ? Tôi còn bị chúng nó cắt gân, mà kẻ cầm dao chính là thằng này !

    Vừa nói lão vừa chỉ về phía phòng tạm giam. Ngay lúc đó có tiếng ly đập bể và có tiếng hét to:

    - Cắt tiết nó đi !

    Tiếp theo là những tiếng ồn ào, tiếng rủa xả, tiếng văng tục làm bầu không khí tự nhiên sôi sục cả lên.

    Lão Thủ trưởng giơ ly rượu lên và cất giọng bình thản:

    - Thôi ! Rồi đâu sẽ có đó. Ta chẳng nên để cái loại người đó làm mất vui buổi tiệc tất niên hôm nay. Nào, mời các chú nâng ly. Hôm nay đặc biệt cho các chú thả dàn. Nhưng chỉ một hôm nay thôi đấy nhé !

    Mọi người quên ngay câu chuyện bi thảm vừa qua và trở về với những ly rượu tràn đầy trước mặt. Ly này cạn, ly khác đã rót thay. Rượu vào lời ra, bầu không khí ồn ào, vui vẻ đúng như một ngày tết.

    Khi tàn tiệc, đồng hồ đã chỉ gần mười hai giờ khuya. Trong phòng chỉ còn lác đác một vài người là còn ngồi vững. Những kẻ khác thì đã gục ngay tại chỗ hay lê lết nằm đâu đó trong các góc phòng, ngoài hành lang hay trên những chiếc võng mắc rải rác ở phía sau khu vực kê bàn làm việc.

    Lão Thủ trưởng cũng say khướt. Lão được hai tên đàn em xốc lên và dìu về phòng. Mà hai cái anh này cũng chẳng tỉnh táo gì hơn. Bộ ba dính chùm lấy nhau như một chùm sung, chập choạng đi mãi mới hết chiếc hành lang có ánh néon héo úa, vàng vọt.

    Khi tới phòng, lão Thủ trưởng cố cất lên tiếng cám ơn bằng một giọng say líu lưỡi rồi lão nhào vào phòng. Hình như lão ngã dúi xuống tại một góc nào đó trong căn phòng, kéo theo một cái ghế ngã đổ. Nhưng điều này chẳng khiến cho hai tên đàn em quan tâm. Họ cũng chuệnh choạng đi về phiá dẫy phòng ngủ dành cho các nhân viên. Một anh lên tiếng hát. Giọng hát ồ ề cất lên chỉ được vài ba câu rồi tắt ngóm. Hình như anh ta cũng đã ngã gục đâu đó trên đường mò về giường ngủ của mình. Cả căn trại trước đầy tiếng la lối, cười nói om sòm nay chìm hoàn toàn trong sự yên tĩnh lạ kỳ. Rải rác đâu đó lâu lâu có tiếng nói mê, có tiếng cựa mình, đạp dẫy lung tung. Cũng có chỗ lại vang lên tiếng ngáy đứt đoạn.

    Rồi tiếng pháo giao thừa ở nhiều nơi bắt đầu vọng về. Trước còn thưa thớt, sau trở nên râm ran, rộn rã. Năm cũ đã qua. Một năm mớí bắt đầu. Đời sống cơ cực của mọi người không chắc có thay đổi gì nhưng con người vào cái giờ phút thiêng liêng giữa đêm trừ tịch vẫn nhen nhúm một niềm hy vọng mới, dù là đang ở ngoài đời sống hay đã nằm sau những trấn song của nhà tù.

    Người tù ở đây cũng vậy. Tiếng pháo giao thừa đã làm cho ông ta tỉnh dậy sau một cơn ác mộng dài. Hơi ẩm từ sàn đất đưa lên khiến ông ta thấy đầu óc của mình dịu lại. Ông nhấc thử chân tay của mình. Nó vẫn cựa quậy theo sự điều khiển của ông, điều đó khiến ông yên tâm phần nào. Nó đã không bị hề hấn sau những trận đòn mà ông chịu đựng từ hôm trước. Hơn một ngày trôi qua kể từ khi ông bị bắt giữ mà ông thấy nó dài như một thế kỷ. Ông nghĩ đến gia đình, đến bạn bè, đến những người đồng hành trong một chuyến đi hoàn toàn đổ vỡ. Ông cố không muốn nghĩ tới họ nhiều hơn vì ông biết trong hoàn cảnh này ông ông cần dành những tàn lực còn lại cho những chuyện khác quan hệ hơn. Chẳng hạn sự tỉnh táo trong những lời khai báo. Điều gì nói ra được. Điều gì nói ra không được. Lời khai nào có lợi. Lời khai nào dẫn tới hậu quả làm sụp đổ cả một hệ thống những dữ kiện mà ông đã dóng lên qua lời khai báo để tạo cho mình cái vị thế không có gì nguy hiểm trước những cặp mắt soi mói của kẻ lấy cung.

    Tiếng pháo giao thừa làm ông tỉnh táo hơn lên. Ông lết lại phiá cửa phòng. Cũng là những tấm song gỗ chắc nịch được che kín mít bởi lớp vải bạt căng từ phía bên ngoài. Ông không nhìn thấy gì nhưng cố vểnh tai lên nghe ngóng. Bốn phiá chung quanh hoàn toàn yên tĩnh gây cho ông cái cảm giác biệt lập hẳn với thế giới bên ngoài. Ông mường tượng qua song gỗ là dẫy hành lang, con đường ông đã quen thuộc khi bị dẫn giải một đôi lần lúc lên phòng thẩm vấn. Bên kia đầu hành lang là dẫy nhà làm trụ sở nơi làm việc của cơ quan. Rồi qua một cái sân đất. Rồi đến hàng rào kẽm gai. Và sau cùng là con đường lộ nhỏ, biên giới giữa đời sống bên ngoài và nhà tù.

    Bỗng trong cái tĩnh mịch đến ghê rợn của căn phòng giam nhỏ hẹp chợt vọng lại tiếng chân người. Ông ghé sát tai vào song gỗ để nghe ngóng cho rõ hơn. Ông nghe thấy tiếng chân đi về phía phòng giam của mình. Rồi tiếng chân dừng lại ngay trước cửa phòng. Có tiếng sột soạt của lớp vải bạt che bị kéo lên. Và ánh sáng héo úa của ngọn đèn trước cửa hắt qua song gỗ làm ông hơi nheo mắt lại. Nhưng rồi ông thấy ngay một người đứng ở đó, mặt quay vào. Có tiếng cất lên nhỏ nhẹ nhưng rõ ràng, rành mạch, tiếng của lão Thủ trưởng:

    - Ông Nguyễn Phú Định !

    Người tù, ông Nguyễn Phú Định, hơi giật mình mở to mắt lên nhìn kỹ kẻ mới đến. Nhưng trong đầu óc bồng bềnh tan loãng của mình, ông không nhận ra được ai ngoài khuôn mặt xa lạ của một kẻ đã bước qua tuổi già với những nếp nhăn ở trán ẩn dưới mái tóc đã ngả mầu đốm bạc. Lão Thủ trưởng nói tiếp :

    - Ông không nhận ra tôi đâu, kẻ ba mươi sáu năm trước đã bị chính ông cầm dao cắt gân chân. Ông còn nhớ chứ ?

    Đầu óc của ông Định bỗng lóe lên một kỷ niệm như một tia chớp sáng lòa. Ông nhìn sững kẻ đối diện. Thời gian đã xóa nhòa hình ảnh quen thuộc, đã chìm sâu trong quá khứ. Ông không còn tìm thấy ở nhân vật này hình bóng chàng thanh niên năm xưa, tóc tai rũ rượi, mặt mũi bầm tím, quần áo rách nát bị trói giật hai tay ra phía đằng sau lưng vòng qua thân của một cây cau. Anh ta đã lẻn vào trong vườn nhà ông Lý trưởng trong làng. Anh ta đã leo lên cây cau để bẻ trộm một buồng cau to nhất, đẹp nhất mà ông Lý dự định sẽ dùng tới trong lễ ăn hỏi của con trai ông. Đang bẻ trộm thì anh ta bị phát giác. Ông Lý vác tù và ra thổi inh ỏi và tráng đinh trong làng đổ xô lại. Cuộc hành hạ một kẻ nghèo đói, khốn cùng kéo dài suốt từ sáng cho đến chiều. Đánh đập. Chửi rủa. Dội nước sôi vào lưng và sau cùng như vẫn còn giận vì mất buồng cau đẹp nhất dành cho ngày lễ trọng, ông Lý lạnh lùng phán :

    - Cắt gân chân cho nó chừa đi ăn trộm !

    Công việc hãi hùng này ông Lý truyền cho Định cũng là một tráng đinh, phải thi hành.

    Định cầm con dao sắc như nước của ông Lý giao cho mà người cứ như lên cơn sốt. Trong đời anh, anh đã từng cắt tiết gà, thậm chí có nhiều lần thọc cả huyết heo nhưng điều đó không làm cho anh có can đảm gì hơn khi phải cắt gân một con người. Chỉ cần nghĩ tới thôi anh đã bủn rủn tay chân rồi.

    Nhưng lệnh là lệnh, anh không có quyền chối từ. Anh cầm con dao với tất cả sự run rẩy mà chỉ có anh tự nhận biết. Trời xẩm tối, ông Lý ra lệnh cho đốt đuốc lên để soi sáng cho cuộc bạo hình. Ánh lửa bập bùng soi lên từng khuôn mặt dữ tợn của đám tráng đinh đang in những cái bóng chập chờn trong tiếng kêu than rền rĩ của tội nhân tạo thành một bầu không khí ma quái, ghê rợn như khung cảnh địa ngục có bầy quỷ sứ.

    Định vô cùng ngại ngần nhưng cuối cùng cũng phải sấn tới. Anh ta đứng trấn ngay trước mặt tội nhân để che lấp mọi người. Rồi anh ta nhìn thẳng vào đôi mắt cầu cứu, van lơn của gã ăn trộm.

    Suốt nhiều năm sau đó, mỗi khi nhớ lại, ông Định cũng chẳng bao giờ quên được cái ánh mắt khẩn cầu, tuyệt vọng của một kẻ đang bị dẫn tới đường cùng. Còn chính nạn nhân, tức là Thủ trưởng bây giờ, mỗi khi nhớ lại cái giây phút hãi hùng đó, lão cũng không thể quên được ánh mắt của kẻ cầm dao trước mặt. Trong ánh lửa bập bùng, tia nhìn của gã tráng đinh tên Định không mang vẻ gì gọi là hung ác, bạo tàn mà ngược lại nó có vẻ bao hàm một nỗi cảm thông, thương xót.

    Rồi một ý nghĩ chợt nảy ra trong đầu óc Định. Gã nháy mắt với tên trộm, hươi con dao lên, và lợi dụng đang còn sấp bóng, gã bấu lên vai tên trộm một cái như có ý ra hiệu.

    Thế rồi cuộc hành hình xẩy ra theo đúng ý muốn của viên Lý trưởng. Định đã nhấc cẳng chân trái của tội nhân lên, nhắm đường gân ở gót mà cứa mấy đường dao.

    Máu phụt ra chan hòa và tội nhân hét lên kinh hoàng đau đớn. Nó đã bị cắt đứt gân chân. Nó không còn lết được. Người ta đã khiêng nó đem vứt ở ngoài cổng làng. Ai cũng nghĩ rằng sẽ không còn bao giờ gã còn cơ hội bén mảng tới đây để leo trèo những cây cau, vì chân của gã bị tàn phế. Trừ người trong cuộc.

    Quả thật Định đã áp dụng kỹ thuật chọc tiết heo của mình vào cuộc bạo hình. Đường dao của anh trông dữ dằn như thế nhưng chỉ làm đổ máu ở bên ngoài. Gã ăn trộm đêm hôm ấy, chờ không còn ai, đã nhỏm dậy bỏ làng đi mất biệt.

    Hơn ba mươi năm trời trôi qua, bây giờ hai nhân vật ấy lại đối diện nhau nhưng vị thế đã đảo lại, tên tội nhân đã trở thành người quyền thế và kẻ kia thì đứng sau những song gỗ của phòng giam tù. Có tiếng của lão Thủ trưởng cất lên:

    - Ông Định. Hơn ba mươi năm rồi, bây giờ tôi mới có dịp nói lên lời cám ơn ông.

    Bàn tay của lão chìa ra và ông Định cũng thò tay ra nắm lấy. Lòng ông rưng rưng cảm động. Ông thấm thía về hai chữ tình người, dù là giữa những con người đến từ hai phía. Cuối cùng, bao giờ tình người cũng vượt lên trên được tất cả, trên áp bức, trên cường quyền, trên căm thù bạo lực.

    Trong hơn một phần tư thế kỷ vừa qua, con người đã vận dụng bạo lực, căm thù để mong giải quyết những vấn đề của xã hội. Thời gian đã đủ dài để ai cũng thấy rằng bạo lực hay căm thù chỉ làm đổ vỡ thêm những gì vốn đã hoang tàn, rách nát.

    Đã lâu lắm, lão Thủ trưởng vẫn từng gậm nhấm những ý nghĩ dằn vặt này. Nhưng chưa bao giờ lão có cơ hội để bứt phá cái định kiến vốn đã in hằn trong tâm khảm của lão. Như một giọt nước nhỏ vào một cái ly đã tràn đầy, cuộc gặp gỡ ngắn ngủi giữa lão và người tù đã khiến lão thừa đủ năng lực để giải phóng chính mình.

    Đêm hôm ấy, ông Định thong thả ra đường cái để đón xe trở về Sài Gòn.
    Và sáng hôm sau, đúng Mồng Một Tết, tại cái đồn công an nhỏ bé ấy, viên Thủ trưởng đã gieo một cơn phẫn nộ sấm sét lên đầu đám nhân viên thuộc cấp của mình về tội nhậu nhẹt say sưa, đã làm sổng mất người tù cuối năm. Một kẻ có nợ máu. Một tên tù tối nguy hiểm.

    NHẬT TIẾN
    Santa Ana tháng 1-1983
    .

Trang 1 / 2 12 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Vòng Quay Trần Thế - Nhật Tiến
    By khieman in forum Truyện Ngắn
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-20-2013, 06:51 PM
  2. Nồi Cháo Thịt - Nhật Tiến
    By khieman in forum Truyện Ngắn
    Trả Lời: 3
    Bài Viết Cuối: 11-19-2013, 11:31 PM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 10-13-2013, 11:21 PM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 09-24-2013, 11:50 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •