Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Bí quyết để sống hạnh phúc là biết chờ đợi hạnh phúc của mình.
H. Riviere
Trang 4 / 4 ĐầuĐầu ... 234
Results 31 to 36 of 36

Chủ Đề: Đỉnh Gió Hú - Emily Bronte - Nhất Linh dịch

  1. #1
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết

    Đỉnh Gió Hú - Emily Bronte - Nhất Linh dịch

    .
    Đỉnh Gió Hú
    Tác giả: Emily Bronte
    Nguyên tác: Wuthering Heights
    Dịch giả: Nhất Linh, Nguyễn Tường Thiết


    Nguyễn Tường Thiết giới thiệu
    Tác giả Emily Bronte (1818-1848) và Wuthering Heights






    Emily Bronte sinh năm 1818, con một vị mục sư nghèo và nghiêm khắc người Ái Nhĩ Lan, mẹ là người Anh. Nữ sĩ là người thứ tư trong số sáu chị em, năm gái một trai, trong đó chị là Charlotte và em gái là Anne đều là văn sĩ danh tiếng. Gia đình ở Thornton, một làng xa xôi khuất nẻo thuộc tỉnh Yorkshire, Anh quốc. Mấy chị em sinh trưởng ở đấy như những cô gái cấm cung ít được tiếp xúc với đời.

    Emily Bronte rất ít có cơ hội đi học, và tuy sự học chẳng đi đến đâu, cô cũng có thời gian đi dậy học tại Halifax năm lên 18 tuổi. Nhưng sáu tháng sau cô trở về vì cảm thấy nghề làm cô giáo vất vả quá. Không kể một vài lần đi thăm viếng những thành phố lân cận, Emily suốt đời quanh quẩn ở nhà, kéo dài những ngày tháng nghèo nàn bệnh hoạn giữa khung cảnh thê lương của miền hoang dã. Năm ba mươi tuổi, nữ sĩ chết vì bệnh lao sau khi đã tận tụy làm việc để cứu giúp người em trai nghiện rượu và thuốc phiện. Để đền bù lại, người em trai này đã chết trước Emily ba tháng.

    Thoạt tiên ba chị em chung nhau xuất bản một tập thơ nhưng không thành công, và xoay sang viết tiểu thuyết. Charlotte viết cuốn Jane Eyre (Kiều Giang) và được hoan nghênh ngay. Emily viết cuốn Wuthering Heights tức Đỉnh Gió Hú này dưới bút hiệu là Ellis Bell và xuất bản vào cuối năm 1847, một năm trước khi nữ sĩ qua đời tại Haworth vào ngày 19 tháng chạp năm 1848.

    Mới đầu ít người biết thưởng thức tác phẩm này. Đối với thời cổ xưa ấy người ta cho là thô lỗ, tục tằn. Nhưng rồi càng ngày người ta càng nhận thấy chân giá trị của nó và hoan nghênh nhiệt liệt. Chua chát thay, Emily đã không còn sống để biết mình nổi tiếng.

    Nhà văn W. Somerset Maugham đã chọn Đỉnh Gió Hú là một trong mười cuốn tiểu thuyết ông cho là hay nhất thế giới.

    Ông viết: “Đỉnh Gió Hú không phải là một cuốn sách để chúng ta đàm luận, nó là một cuốn sách để chúng ta đọc... Nó chứa đựng một thứ mà rất ít tiểu thuyết gia có thể cho chúng ta, ấy là Năng lực. Tôi chưa thấy một cuốn tiểu thuyết nào mà nỗi buồn rầu thống khổ, niềm vui sướng điên cuồng, tính độc ác vô tình, sự ám ảnh của ái tình được diễn tả một cách kỳ diệu như trong Đỉnh Gió Hú.”

    Đỉnh Gió Hú là tác phẩm dịch thuật duy nhất của văn hào Nhất Linh.
    Ông đã dành những giờ rảnh hiếm hoi trong cuộc đời rất bận rộn của ông để dịch cuốnWuthering Heights này từ nguyên tác Anh ngữ phối hợp với bản Pháp ngữ Les Hauts de Hurle-Vent của dịch giả Frédéric Delebecque. Đầu tiên ông dịch nhan truyện là Mỏm Gió Hú, sau mới sửa thành Đỉnh Gió Hú trước khi đăng một phần trên Nguyệt san Tân Phong(Sài Gòn, Việt Nam) vào năm 1960.

    Trong bản thảo viết tay mà chúng tôi hiện giữ có ghi những mốc thời gian từ lúc khởi dịch cho đến khi kết thúc: 19-12-1952, 21-8-1953, 27-6-1960 và 18-1-1962. Như vậy, sau khi viết xong cuốn tiểu thuyết sau cùng Giòng sông Thanh Thủy vào năm 1961, Nhất Linh đã cố gắng mà không dịch xong Đỉnh Gió Hú trước khi ông qua đời vào ngày 7-7-1963.

    Năm 1974 chúng tôi phụ trách nhà xuất bản Phượng Giang có nhờ nhà văn Bảo Sơn dịch tiếp và Đỉnh Gió Hú được xuất bản lần đầu tiên năm 1974 tại Sài Gòn, Việt Nam.

    Hiện nay vì không có trong tay ấn bản của nhà Phượng Giang để in lại, nên chúng tôi quyết định đánh máy từ bản thảo của Nhất Linh và tự dịch tiếp một số chương cuối để hoàn tất và tái bản cuốn truyện giá trị này. Chúng tôi cố gắng theo sát tinh thần dịch thuật của văn hào Nhất Linh để giữ cho hơi văn toàn tác phẩm được thuần nhất.

    Về phương diện khả năng ngoại ngữ, có thể văn hào Nhất Linh không phải là trội bật so với nhiều dịch giả khác, nhưng về mặt thận trọng và nhất là qua tâm hồn tinh tế của một nhà văn sâu sắc như Nhất Linh, chúng tôi có thể đoan chắc ông đã diễn đạt được, qua bản Việt ngữ, những ngõ nhách thâm sâu nơi tâm hồn những nhân vật trong tác phẩm kỳ lạ này của nữ văn hào Anh quốc Emily Bronte.

    Dịch giả Nhất Linh đã ca tụng Đỉnh Gió Hú như là một trong những cuốn truyện hay nhất thế giới. Trong cuốn biên khảo của ông Viết và đọc tiểu thuyết Nhất Linh đã xếp Đỉnh Gió húvào “những sách hay của nhân loại, đời đời công nhận, có giá trị bền mãi với thời gian, như những cuốn Chiến tranh và Hòa bình, An-Na Kha-Lệ-Ninh, Tình nghĩa vợ chồng, Một bản đàn của Tolstoĩ, cuốn Những linh hồn chết của Gogol, cuốn Mấy anh em Karamazov,Những người bị ám ảnh của Dostoievsky...”

    Cũng trong cuốn biên khảo đó, Nhất Linh còn viết: “Trong cuốn sách lạ lùng của nữ văn hào Anh quốc Emily Bronte, cuốn Đỉnh Gió Hú, xuất bản năm 1847, tác giả đã để một người vú già kể chuyện lại. Một vú già kể chuyện thì còn làm gì có những chỗ giảng giải về tâm hồn, ý nghĩ nhân vật nữa, tuyệt nhiên không có, tuyệt nhiên vú già chỉ là người đứng ngoài thôi. Thế mà chỉ bằng một giọng kể chuyện rất thường, bằng những chi tiết, vú già đó đã cho người ta thấy tất cả cái sâu xa của tâm hồn người trong truyện.”

    Nơi một chiếc bàn tròn nhỏ sát cửa kính nhìn ra hồ Green Lake... tôi đã tìm được một nơi lý tưởng để “viết”.

    Bàn thật nhỏ. Tôi phải thu xếp gọn để có thể đặt được mọi thứ trên đó. Chiếc “laptop” đã chiếm gần hết mặt bàn. Phần còn lại dành cho ly cà phê Starbucks, chiếc bánh croissant bơ, nhật báo Seattles Times. Còn tập bản thảo dịch Đỉnh Gió Hú của Nhất Linh tôi chưa biết đặt ở đâu đành để chồng lên trên tờ báo.

    Đầu mùa hạ, tôi về hưu. Tôi tự đặt cho mình những công việc phải làm. Ví dụ như phải vận động để giữ sức khỏe tốt, phải đánh máy bản thảo của ông cụ, bản thảo dịch cuốn tiểu thuyếtWuthering Heights của Emily Bronte, phải tiếp tục việc làm của ông cụ là dịch nốt một số chương cuối của cuốn tiểu thuyết, công việc ông cụ chưa hoàn tất khi qua đời.

    Tôi tìm được một nơi có thể thực hiện cả hai thứ một lúc. Hồ Green Lake và quán cà phê Starbucks. Buổi sáng tôi thức dậy sớm lái xe đến hồ, đậu xe ở parking, chạy bộ một vòng quanh hồ chu vi 5 cây số, rồi tay xách cặp laptop, tôi đi ngang vườn hoa băng qua đường vào quán cà phê.
    Nơi đó nếu phía trong quán khách không ngồi đông lắm như hôm nay, tôi có một chỗ ngồi lý tưởng có thể vừa đánh máy vừa nhìn được cảnh bên ngoài.

    Qua cửa kính bên kia đường là khu vườn cây rậm rạp. Những hàng cây phong thẳng tắp. Ở cuối hàng cây hồ Green Lake lấp loáng trong ánh nắng. Thứ nắng lăn tăn trên nước tôi thoáng thấy trong trí nhớ từ thương xá Tràng Tiền Plaza Hà Nội nhìn sang bên kia đường khu vườn cây, sau những hàng cây xà-cừ đậm màu lá xanh có nắng nhấp nháy trên mặt Hồ Gươm.
    Trên vỉa hè dưới hàng hiên rất đông người uống cà phê. Hôm nay hình như khách uống đều dồn cả ra ngoài vỉa hè để ngồi phơi mình dưới con nắng tươi mát hiếm hoi của miền Tây Bắc. Những chiếc bàn tròn, ghế sắt, sơn màu xanh mạ, màu Starbucks của những vòng tròn xanh trên cốc giấy cà phê, trên tạp dề những cô con gái tóc vàng đứng sau quầy.

    Tôi cúi xuống cầm tập bản thảo. Tôi đã giữ tập bản thảo này từ hồi nào nhỉ? Không nhớ. Một quyển tập bìa cứng, khổ lớn, 20x27cm, gồm 200 trang giấy ca-rô, trang đầu ông cụ viết nắn nót bằng màu mực xanh lá cây.

    EMILY BRONTE
    MỎM GIÓ HÚ
    NHẤT LINH dịch
    PHƯỢNG GIANG
    1952


    Chữ MỎM xóa đi bằng bút chì, thay bằng chữ ĐỈNH, viết bằng mực đen, ngay phía trên. Lật sang trang ba tôi dò đọc những hàng chữ rất nhỏ của ông cụ và bắt đầu đánh máy:

    “Năm 1801 - Tôi vừa đi thăm ông chủ nhà về. Vùng này đối với tôi thực là tuyệt, có lẽ trong toàn cõi nước Anh tôi không thể tìm được một nơi nào xa cách sự huyên náo như ở đây. Thật là cõi thiên đường của những kẻ chán đời: Ông Hy đối với tôi là hai người hoàn toàn hợp với vùng hiu quạnh. Ông Hy chắc không ngờ tôi có thiện cảm với ông ngay, mặc dầu lúc tôi cho ngựa tiến lên, hai con mắt đen của ông sâu hoắm nhìn tôi một cách nghi hoặc và lúc tôi xưng danh, các ngón tay của ông lại thọc sâu một cách rất quả quyết vào túi áo.

    Tôi hỏi:
    ‘Thưa ông, ông có phải là ông Hy [1] không?’

    Ông ấy chỉ gật đầu, không trả lời.”

    Tôi ngừng tay trên phím chữ. Ông cụ viết bằng mực xanh, những chỗ sửa chữa viết bằng mực đen. Như vậy là ông cụ không sửa ngay khi vừa viết xong một đoạn, như thói quen viết văn của tôi. Câu: Thật là một cõi thiên đường của những người chán đời đầu tiên ông cụ viết là thiên đường của những người yếm thế. Còn câu: Ông ấy chỉ lẳng lặng gật đầu được sửa thành Ông ấy chỉ gật đầu, không trả lời.

    Bên cạnh niên hiệu 1801, có ghi một hàng nhỏ 19-12-52. Đây là ngày Nhất Linh khởi dịchĐỉnh Gió Hú.

    Những dòng chữ đó thật xa. Ông cụ ở đâu vào ngày 19 tháng 12 năm 1952, khi viết những dòng chữ này?

    Sát gần tôi, bên kia cửa kính, là phía sau đầu của một cô gái Mỹ. Cô ngồi ngửa trên chiếc ghế sắt ở ngoài hiên, đầu ngả sát cửa, chăm chú đọc một quyển tiểu thuyết. Bàn tay cô đưa lên sau gáy lùa nghịch mái tóc. Những ngón tay cử động chậm rãi, lơ là. Một ngón tay xoay xoay cuốn tròn lọn tóc xung quanh ngón rồi bàn tay cô nắm vuốt từ từ kéo xuống phía dưới, lọn tóc tơ óng ả căng như thỏi kẹo kéo màu bạc trắng một thuở nào ông bán hàng kéo dài trong tuổi thơ tôi. Năm đó tôi 12 tuổi.

    Tôi mở cửa vào phòng ông cụ, một gian buồng nhỏ trong căn nhà của bác Thụy tôi số 12P đường Chasseloup Laubat Sài Gòn. Ông cụ viết những dòng đó trên chiếc ghế vải trong tư thế nửa nằm nửa ngồi. Thảo nào bản thảo Đỉnh Gió Hú là một tập sách bìa cứng.

    Tôi lật xem từng tờ của quyển bản thảo. Bên lề cứ cách mấy trang lại có ghi những dấu thời gian. 24-12-52, 1-1-53 (10 giờ tối). Bên dưới ngày 5-1-53 lại ghi thêm hàng chữ nhỏ: Thiếu thuốc lá văn vô vị, 4 giờ sáng mua ở đâu ra, hỡi trời? Dưới đó lại viết: 5 giờ sáng mua được hai điếu của người phu xe, lại có cà phê ngon của anh Trí. Mấy phút tuyệt hảo.

    Thú vị quá! Ông cụ chắc không thể ngờ rằng thằng con ông hơn nửa thế kỷ sau đã khám phá một cách hứng thú những dòng chữ chua bên lề bản thảo.

    Những hàng chữ này ông cụ viết ở nơi nào? Chắc chắn không phải ở nhà bác Thụy, vì bác Nguyễn Gia Trí không bao giờ ngủ qua đêm ở đó. Đúng rồi! Thời gian này ông cụ đã thuê một căn nhà riêng để lấy chỗ làm việc. Tôi chưa bao giờ đến đó nhưng các anh tôi nói đó là chỗ làm việc chung của ba người: Nhất Linh, Nguyễn Gia Trí, Trương Bảo Sơn. Gian nhà nhỏ nằm trong một con hẻm, hẻm đình Phú Thạnh; đầu hẻm đâm ra đường Lê Văn Duyệt, khúc ngã tư Phan Đình Phùng, gần Tòa Đại Sứ Miên.

    Tôi đánh máy tiếp. Trong lúc tay tôi lua đi trên phím chữ, mắt theo dõi những hàng chữ nhỏ li ti trên bản thảo thì trí tôi lại trôi ngược về quá khứ.
    Đà Lạt một nửa thế kỷ trước.

    Năm 1956 - Ông cụ dịch được non nửa cuốn truyện của Bronte và tôi lần đầu tiên đọc Đỉnh Gió Hú. Quyển truyện này cuốn hút tôi mãnh liệt ngay từ chương đầu. Một đoạn văn ma quái của Emily Bronte để dấu ấn rất mạnh trong óc tôi.




    Năm ấy ông cụ ở căn nhà số 19 đường Đặng Thái Thân Đà Lạt. Trên đỉnh đèo Prenn con đường Nguyễn Tri Phương dẫn vào thành phố. Tại một khúc cong, cạnh tòa nhà số 17, một con đường nhỏ, cụt, trải đá vụn dẫn vào tòa nhà “Gió Hú” của chúng tôi. Đó là một căn nhà bằng đá, tường dầy, cửa sổ thụt sâu, mái nhọn, đứng một mình, chênh vênh nhìn xuống một triền đồi thông trùng điệp, một biệt thự duy nhất còn đứng vững trong một khu vực toàn những căn nhà bỏ hoang xây cất từ thời Pháp thuộc.

    Tuy là nơi cư trú của cả hai gia đình, gia đình chúng tôi và gia đình ông bà Lê Đình Gioãn, nhưng vì hồi đó phần lớn những người của hai gia đình đều sinh sống ở Sài Gòn, thỉnh thoảng mới kéo nhau lên Đà Lạt, nên trên thực tế “Gió Hú” của chúng tôi rất ít người ở. Thường xuyên chỉ có mặt ba người sống lặng lẽ ở đó là ông cụ, chị Thoa và tôi.

    “Would you like to try some?”

    Tôi ngửng lên. Cô gái Starbucks chìa khay trước mặt tôi. Trên khay có những miếng bánh được cắt thành hình hộp nhỏ vuông vắn, mỗi miếng có gắn que tăm. Tôi kẹp tăm giữa hai ngón tay, ngước nhìn cô gái nói cám ơn rồi tôi cúi xuống tiếp tục đánh máy:

    “Tòa nhà của ông Hy lấy tên là Đỉnh Gió Hú: sở dĩ gọi Gió Hú vì những khi trời bão, gió lồng lộng hú lên trong tòa nhà đó. Trên mỏm cao ấy chắc quanh năm không khí trong lành. Người ta biết ngay gió bấc trên đó thổi rất mạnh vì những cây thông cằn mọc ở đầu nhà nghiêng hẳn về một phía và một dẫy cây gai chĩa cành về một bên như muốn dướn ra đớp lấy ánh sáng mặt trời. Cũng may tòa nhà xây cất chắc chắn, cửa sổ hẹp thụt sâu vào tường và có viền đá nhô ra để chắn gió.”

    Đoạn văn trên đây của Emily Bronte khiến tôi liên tưởng đến căn nhà “Gió Hú” của chúng tôi. Ngoài nhìn vào thì trông như nhà một tầng, nhưng thật ra là ba. Từ cửa tò vò đi vào là gian chính, gồm một phòng khách thật lớn và hai buồng ngủ. Ngay sau cửa vào có hai cầu thang, một đi lên, một đi xuống. Đi lên là gác xép. Đi xuống là nhà bếp. Gác xép là nơi ngủ của bọn con trai chúng tôi. Khi các anh tôi và các anh con bác Gioãn từ Sài Gòn kéo lên thì chúng tôi chen chúc nhau ngủ trên đó. Đến khi các anh ấy về lại Sài Gòn thì tôi ngủ ở đấy một mình.

    Những đêm mưa nằm ngửa nhìn lên những cây đà gỗ bắc xiên xuống, tai nghe rõ từng tiếng mưa đập trên mái ngói và cảm nhận khí lạnh ẩm ướt của miền cao nguyên theo gió len vào phòng qua các khe hổng nhỏ giữa những xà ngang. Qua những khe đó vào đêm giông bão tôi nghe cây thông sau nhà quằn quại đập cành vào cửa sổ gác xép, nơi đó thỉnh thoảng lóe lên một ánh chớp làm sáng hiện những giọt nước mưa trượt đi chạy ngoằn ngoèo trên mặt kính.

    Dưới nhà căn phòng khách là giang sơn của ông cụ. Phòng có rất nhiều cửa kính nhìn xuống triền núi. Màu lá cây của rừng thông trải dài xuống cuối thung lũng sâu. Rừng thông nối nhau nhấp nhô trên những quả đồi thấp đến tận chân trời, nơi đó màu xanh mạ chuyển dần sang màu xanh lam.

    Trong phòng khách ông cụ treo rất nhiều hoa phong lan trên tường. Trên sàn nhà cũng đặt nhiều chậu lan đất, phần lớn là lan Thanh Ngọc. Chúng ôi được lệnh phải cởi giầy khi bước vào phòng này, vì sàn nhà lúc nào cũng sạch bóng được lát bằng những miếng gỗ đặt chéo nhau. Mỗi tháng một lần tôi thấy ông cụ bò trên sàn nhà lấy giẻ bôi xi-ra đánh bóng từng phiến gỗ một. Giữa phòng có bộ xa-lông, trên chiếc bàn tròn, tôi thấy hai tập bản thảo của ông cụ, tập Xóm Cầu Mới gồm 4 quyển và một tập Đỉnh Gió Hú.

    Những hôm ông cụ vắng nhà tôi thường vào phòng khách tẩn mẩn giở những tập này ra xem. Tôi không đọc mà chỉ nhìn những hình ông cụ vẽ trong hai tập bản thảo. Tôi nghiệm ra rằng thời gian này ông cụ chỉ đụng đến tập Xóm Cầu Mới, còn truyện dịch Đỉnh Gió Hú ông cụ không ngó ngàng tới. Chính vì thế mà tôi nghĩ nếu mình có “mượn tạm” mấy ngày cuốn truyện dịch mang lên gác xép đọc thì chắc là ông cụ cũng chẳng hay biết.

    Chị Thoa là người đầu tiên đặt nghi vấn căn nhà này có ma. Tuy trong bụng không tin nhưng tôi bắt đầu cảm thấy rờn rợn. Tôi bắt đầu sợ bóng tối. Tôi sợ những đêm mưa gió. Mà Đà Lạt trong trí tưởng tôi thì hầu như quanh năm lúc nào cũng mưa gió. Những đêm nằm trong bóng tối tôi nghe những giọt mưa rỉ rả rơi trên mái ngói, tiếng mưa miên man rền rĩ trôi vào trong giấc ngủ tôi. Kể từ ngày chị Thoa nói nhà có ma tôi chong đèn suốt đêm, cái ngọn đèn điện nhỏ ở đầu giường trước đây tôi thường tắt trước khi ngủ.

    Cho đến một đêm kia thì tôi tin là nhà có ma thật. Bởi vì chính tôi nhìn thấy “nó” tận mắt. “Nó” hiện ra sau cái cửa sổ kính kia vào một đêm mưa bão. Đêm ấy nơi cửa sổ kính lóe lên một lằn chớp. Tôi thấy sau những giọt nước mưa chạy ngoằn ngoèo trên mặt kính là khuôn mặt ướt át tái nhợt của một cô con gái ở ngoài nhìn trừng trừng vào trong.

    Chỉ một thoáng thôi. Nhưng tôi đã bừng dậy. Hoảng sợ tôi hấp tấp bước xuống cầu thang. Qua cánh cửa mở buồng ngủ nhà dưới ông cụ vẫn còn ngồi viết dưới ánh sáng một ngọn đèn chụp. Tôi hấp tấp quá thành thử gây tiếng động mạnh. Ông cụ quay đầu về phía sau nói: “Con chưa đi ngủ à?” Không biết trả lời ra sao tôi lẳng lặng đi vào buồng tắm giả vờ như đi tiểu.
    Lát sau tôi lên gác. Tôi ngồi bên cạnh giường, mắt không rời ngọn đèn con. Tôi tránh nhìn bóng tối. Tôi tránh nhìn cửa sổ.

    “... tôi bắt đầu díu mắt lại nằm dài trên giường ngủ thiếp đi. Từ lúc tôi biết đau khổ đến giờ chưa có một kỷ niệm nào ghê gớm bằng đêm ấy.”
    “I'm sorry....”

    Tôi ngước lên. Người đàn ông cầm cốc cà phê Starbucks lách qua dẫy ghế, hông của ông ta đụng vào làm xô lệch quyển bản thảo Đỉnh Gió Hú tôi đặt hơi lòi ra ngoài bàn.

    Bên ngoài cửa kính mái tóc vàng của cô gái Mỹ không còn nữa. Thay vào đó là một mái tóc đen, dài, mượt. Không nhìn phía trước tôi không đoán được cô gái có mái tóc đen là người Tàu, người Nhật hay người Việt Nam. Chỉ đoán là cô rất trẻ. Trên bàn của cô, giống như bàn tôi, có một cái laptop để mở, tôi không nhìn thấy màn chữ vì ánh phản quang. Bên cạnh laptop là một quyển sách Calculus dầy cộm. Nhưng cô ta không có vẻ như một sinh viên chăm học. Cô đang cho chim ăn.

    Bầy chim sẻ bay túa lên cao. Một thanh niên và một thiếu nữ vừa kéo ghế ngồi cạnh bàn cô gái tóc đen. Lát sau đàn sẻ lại xà xuống. Chúng nhẩy lích chích những bước ngắn trên hè. Cô tóc đen giở bao giấy véo một mẩu bánh ngọt vứt xuống. Lập tức cả chục chiếc cánh đập rối lên xà vào chân ghế. Một con mỏ ngậm mẩu bánh bay vụt lên, cả bầy bay quấn theo sau.

    Tôi cúi xuống đánh máy tiếp. Tôi đánh máy đoạn văn sau đây trong chương III của tập bản thảo. Chính đoạn văn này đã để lại dấu ấn rất mạnh trong óc tôi, cậu bé 16 tuổi:

    “… tôi bắt đầu díu mắt lại nằm dài trên giường ngủ thiếp đi. Từ lúc tôi biết đau khổ đến giờ chưa có một kỷ niệm nào ghê gớm bằng đêm ấy.

    Tôi nằm mơ cùng đi với bác Dọi đến nhà thờ, có rất đông người nghe giảng đạo. Tôi thì tôi mệt lắm! Tôi vặn người, tôi ngáp, ngủ gật rồi tỉnh dậy. Tôi lấy tay thích bác Dọi để bác cho tôi biết bao giờ thì giảng xong. Rồi bỗng nhiên tất cả mọi người xúm quanh tôi, giơ gậy định đánh tôi. Trong lúc hỗn loạn những chiếc gậy định đập vào đầu tôi lại đập lầm vào sọ người khác. Nhà thờ vang lên chí chát những đòn tấn công và phản công. Rồi người giảng đạo đập tới tấp như mưa rào trên bàn giảng đạo, tiếng đập dữ dội làm tôi choàng dậy và cảm thấy người nhẹ nhõm hẳn.

    Tại sao tôi lại mơ thấy chuyện đánh lộn nhau và người giảng đạo đập bàn? Thì ra chỉ tại một cành thông mỗi lần gió thổi lại chạm vào cửa sổ, quả thông cứng đập vào mặt kính!

    Tôi lắng nghe một lúc, trong lòng ngờ ngờ vực vực, rồi tôi trở người, chập chờn ngủ tiếp và lại mơ, lần này còn tệ hại hơn.

    Tôi nhớ ra mình đang nằm trong cái buồng bé tí bằng gỗ sồi và tôi nghe rõ ràng tiếng ào ào của gió tuyết cùng tiếng đập tới tấp của quả thông, tiếng động làm tôi bực mình quá và nhất định tìm cách làm cho nó im đi... tôi trở dậy định mở cửa sổ. Cái quả nắm lại gắn chặt vào ổ khoá.

    ‘Nhất định phải mở...’ tôi lẩm bẩm thế. Tôi đấm mạnh cho cửa kính vỡ rồi thò tay ra ngoài tìm cái cành thông khó chịu kia. Nhưng đáng lẽ nắm lấy cành thông thì ngón tay tôi lại nắm vào những ngón của một bàn tay nhỏ, lạnh như nước đá. Cả cái ghê sợ cực điểm của giấc mơ chiếm lấy người tôi: tôi cố kéo tay về nhưng bàn tay kia cứ bám chặt lấy và một tiếng nói giọng buồn thương vô hạn thổn thức: ‘Cho em vào! Cho em vào!’ Tôi vừa gỡ cánh tay ra vừa hỏi: ‘Cô là ai?’ Tiếng đáp lại run run: ‘Tôn Liên đây. Em đã tìm về nhà được. Em vừa bị lạc trong rừng cỏ.’ Tiếng ấy tiếp tục nói và tôi thấy mơ hồ nét mặt của một người trẻ tuổi nhìn vào cửa sổ. Sự kinh hoàng khiến tôi trở nên độc ác. Biết là mình không thể gỡ tay ra nổi, tôi kéo cổ tay cô ta để lên miếng kính vỡ rồi cứa đi cứa lại cho đến khi máu chẩy ra đẫm ướt cả khăn giường. Tiếng nói vẫn rên rỉ: ‘Cho em vào’ và bàn tay vẫn nắm chặt lấy tay tôi khiến tôi gần như điên lên vì kinh sợ. Sau cùng tôi bảo: ‘Tôi mở thế nào được nếu cô muốn vào cô phải bỏ tay tôi ra đã.’ Các ngón tay thả lỏng ra, tôi vội rụt tay tôi vào, lấy sách chất đầy lên che lỗ hổng, rồi bịt tai lại để khỏi nghe thấy tiếng kêu than rên rỉ. Tôi đứng yên như thế độ mười lăm phút, song mỗi khi để ý nghe, lại thấy tiếng rên rỉ đau thương ấy tiếp tục. Tôi kêu lên: ‘Đi ngay đi, cô có van xin tôi trong hai mươi năm tôi cũng không cho cô vào.’

    Tiếng nói lại rên rỉ: "Đã hai mươi năm rồi, hai mươi năm, đã hai mươi năm em đi lang thang. Rồi tôi nghe như có tiếng cạo cạo ở ngoài và chồng sách động đậy như bị đẩy vào phía trong. Tôi định đứng lên, nhưng không sao cử động được tay chân: tôi hoảng sợ đến điên dại rồi gào thét ầm lên.
    Tôi ngạc nhiên nhận thấy tiếng gào thét của tôi là có thực chứ không phải là tiếng trong một giấc mơ...”

    ***

    Tôi choàng dậy. Cơn bão khiến đèn điện trong nhà tắt hết. Có tiếng bước nhanh lên cầu thang. Ông cụ đứng ở cửa, tay cầm ngọn nến. Ánh nến hắt từ dưới lên lõm những bóng sâu trên gương mặt khiến ông cụ trông khắc khổ như một pho tượng đồng.

    Ông khom người lại gần giường đưa cây nến lại gần mặt tôi, nói dịu dàng:

    “Con lại mơ ngủ rồi!”

    Nói xong ông cụ cúi xuống nhặt lên một tập bìa cứng cầm trên tay rồi ông quay người lẳng lặng bước xuống cầu thang.

    Đó là tập bản thảo dịch Đỉnh Gió Hú của Nhất Linh tôi đang đánh máy 50 năm sau tại một quán cà phê Starbucks thành phố Seattle ngày 23 tháng 8 năm 2006.
    Nơi một chiếc bàn tròn nhỏ sát cửa kính nhìn ra hồ Green Lake...
    Nguyễn Tường Thiết

    .

  2. #31
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Thấy Liên rộng lượng không bắt mình phải nói hết sự thực ra Tôn cảm động oà lên khóc. Nó khóc như mưa như gió, hôn bàn tay nàng, bàn tay đang nâng nó lên, nhưng vẫn chưa đủ can đảm thố lộ những bí mật trong lòng.

    Trong lúc tôi đang cố đoán xem nó có chuyện gì ẩn ức và quyết không để cho Liên phải chịu đau khổ như thâm ý muốn thế của Tôn hay của bất kỳ ai khác, thì tôi chợt nghe có tiếng sột soạt trong bụi cây. Ngẩng lên, tôi thấy Hy từ phía trại Gió-Hú tiến đến chỗ chúng tôi. Mặc dù Hy đã đến gần, dư sức nghe thấy tiếng Tôn nức nở, nhưng hắn lờ đi không để ý đến hai đứa trẻ. Hy chào tôi, rồi bằng một giọng làm ra vẻ thân mật và thành thực như chỉ dành riêng cho tôi lúc bấy giờ - cái vẻ thành thật ấy tôi chẳng thể nào tin nổi - hắn nói:

    “À, vú Diễn! Chắc có chuyện gì vú mới lại gần nhà tôi thế này? Bên Họa Mi Trang ra sao? Nói cho nghe nào! (hắn hạ thấp giọng), người ta đồn Kha đang nằm chờ chết... Có lẽ người ta phóng đại ra thế chứ gì?”

    Tôi đáp:

    “Không đâu. Người ta đồn đúng đấy. Cậu tôi bệnh rất nguy kịch. Đó là điều đau buồn cho chúng tôi, nhưng lại là điều ơn phước cho cậu tôi."

    “Liệu ông ấy còn sống được bao lâu?”

    “Tôi không biết."

    Lúc ấy Hy mới nhìn hai đứa trẻ. Ánh mắt của hắn làm chúng sợ cứng người ra. Tôn thì hầu như không cử động hay cất đầu lên nổi; còn Liên vì mắc đỡ Tôn nên phải đứng yên.

    Hy nói:

    “Vì... cái thằng nhãi kia sắp làm hỏng cả kế hoạch của tôi nên... nếu bác nó tịch trước nó, tôi sẽ mang ơn bác nó vô cùng. Hừ! Cái thằng súc sanh kia đóng trò lâu chưa? Tôi đã tẩn cho nó mấy trận về cái tội khóc vờ khóc vịt... Chả biết nó có thường vui vẻ hoạt bát với cô Liên không?”

    Tôi đáp:

    “Hoạt bát à? Không có đâu.. Chú ấy buồn ghê buồn gớm. Cứ trông chú ấy thì biết. Tôi thấy đáng lý đi chơi với Liên chú ta phải nằm ở nhà có bác sĩ săn sóc mới phải."

    Hy càu nhàu:

    “Hai ba ngày nữa thôi chắc nó cũng phải nằm nhà thật đấy. Nhưng trước hết (hắn quát lớn)... Tôn! Đứng lên! Không được lăn ra đất như vậy! Đứng ngay lập tức!”

    Tôn lại quỵ xuống một lần nữa. Tôi chắc ánh mắt của bố đã cướp mất hồn nó, chứ ngoài ra không một lý do gì khiến nó hành động nhục nhã như vậy. Sau nhiều lần cố gắng gượng dậy để tuân theo lệnh bố, còn chút sức lực thì lại bị tiêu tan hết, nên nó mới ngã xuống, kêu rên lên một tiếng.

    Hy tiến tới, lôi xốc nó dậy để dựa vào bờ cỏ. Hắn đè nén lòng hung ác, dằn giọng nói:

    “Tôn, tao sắp nổi sùng rồi đây...nếu mày không sai khiến được cái tinh thần bạc nhược của mày... Chết đi cho rảnh! Đứng ngay lên!”

    Tôn giọng nghẹn ngào:

    “Thưa ba, vâng! Nhưng ba để con yên. Con chết mất! Con đã làm đúng lời ba dặn.... Liên sẽ nói với cha là con... là con... đã vui vẻ, Liên ơi! đứng đây với tôi, đưa tay đây."

    Cha nó nói:

    “Nắm tay tao đây này! Đứng cho vững! Như thế đó! Cô Liên sẽ cho mày vịn cánh tay... Đúng rồi, nhìn cô ấy. Cô Liên, chắc cô cho tôi là ác quỷ nên mới gây chuyện ghê gớm này. Cô hãy vui lòng đi về nhà với nó. Được không? Tôi mà đụng đến nó thì y như là nó run bắn lên!”

    Liên khẽ bảo:

    “Tôn à! Tôi không thể đến Gió Hú được đâu... ba tôi cấm... Mà sao Tôn lại sợ hãi thế, ba Tôn có làm gì Tôn đâu?”

    “Tôi không trở về Trại nữa... Tôi không thể về Trại mà không có Liên."

    Cha nó quát lên:

    “Câm miệng ngay! Mình phải tôn trọng lòng hiếu thảo của cô Liên. Vú Diễn, đưa Tôn về. Tôi sẽ nghe lời vú mời bác sĩ ngay."

    Tôi đáp:

    “Cậu làm như vậy là phải. Nhưng tôi ở lại đây với cô tôi. Săn sóc con trai cậu không phải là việc của tôi."

    Hy nói:

    “Vú bướng bỉnh lắm! Tôi biết vậy... nhưng chẳng lẽ tôi phải véo thằng bé cho nó khóc thét lên vú mới động lòng sao? Lại đây, người hùng của tôi! Có muốn tao hộ tống mày về không?”

    Hy tiến lại như muốn túm lấy thằng bé ốm yếu. Nhưng Tôn lùi lại, đeo cứng lấy cô chị, cuống cuồng năn nỉ cô phải đi với nó, không đi không được.

    Tuy không bằng lòng, nhưng tôi không thể ngăn cản Liên. Thực ra, Liên làm sao có thể từ chối nổi? Tôi không làm cách nào để có thể biết cái gì đã làm thằng bé khiếp sợ đến thế, nhưng cứ trông nó đấy, cái móng vuốt của sự sợ hãi đã chụp lấy nó đến nỗi nó chỉ khiếp đảm thêm một chút nữa là nó phát điên.

    Chúng tôi đi tới bực cửa. Liên bước vào trong. Tôi đang định đứng ngoài chờ nàng đưa thằng bé bệnh hoạn ấy ngồi vào ghế rồi ra ngay thì Hy đẩy tôi vào. Hắn kêu:

    “Vú Diễn! Nhà tôi không có ai mắc bệnh dịch đâu mà sợ! Vả hôm nay tôi có ý định chiêu đãi khách đây. Vú ngồi xuống và cho phép tôi đóng cửa."

    Hắn đóng cửa nhưng lại khóa cẩn thận. Tôi giật nẩy người lên. Hắn nói ngay:

    “Vú uống trà xong xuôi mới về được. Chỉ mình tôi ở nhà. Hạ bận giắt mấy con bò đi xa... Còn Dị và Dọi tôi cho nghỉ phép đi chơi. Tôi tuy quen sống một mình, nhưng nếu có khách quý thì tôi vẫn thích hơn. Cô Liên, mời cô ngồi cạnh nó... Tôi xin trao nó cho cô. Món quà này kể cũng chả bõ nhận, nhưng tôi lại chẳng có cái gì khác để tặng cả... Ý tôi muốn nói thằng Tôn ấy mà! Kìa, sao cô lại trố mắt ra thế? Lạ nhỉ! Tôi muốn nổi hung lên với bất cứ ai có vẻ khiếp sợ tôi! Giá tôi sống ở một nơi luật pháp ít nghiêm khắc hơn và sở thích của người ta cũng ít cầu kỳ hơn thì một buổi chiều nào đó tôi sẽ đem hai đứa kia ra mà từ từ giải phẫu thân thể chúng nó để giải trí chơi!”

    Hắn hít một hơi thở mạnh rồi đấm tay xuống bàn, lẩm bẩm một mình:

    “Đồ chết tiệt! Tôi thù chúng nó!”

    Không nghe rõ câu cuối cùng hắn nói, Liên kêu lên:

    “Tôi không sợ ông!”

    Rồi nàng tiến lại sát bên Hy, đôi mắt lóe lên giận dữ và quả quyết:

    “Đưa chìa khóa cho tôi... Đưa đây! Tôi không thèm ăn uống gì ở đây hết, chết đói tôi cũng không thèm!”

    Hy giữ chiếc chìa khóa trong bàn tay vẫn đặt trên bàn. Hắn nhìn lên, ngạc nhiên về thái độ hung hãn của nàng, hoặc giả giọng nói và cử chỉ của Liên nhắc nhở hắn nhớ đến người mà nàng được thừa hưởng những nét ấy. Liên chớp lấy cái chìa khóa, suýt nữa giật được chìa khóa ra khỏi mấy ngón tay cầm lỏng của Hy; nhưng hành động ấy của nàng kéo hắn trở về thực tại, hắn giật ngay lại rồi nói:

    “Này cô Liên, đứng xê ra, không tôi quật một cái ngã lăn ra bây giờ. Như vậy chỉ tổ làm bà Diễn bà ấy phát điên lên."

    Bất chấp lời đe của hắn, Liên vừa chụp lấy bàn tay cầm chìa khóa của Hy vừa kêu lên:

    “Chúng tôi phải ra khỏi đây!”

    Liên gắng hết sức mình để bẻ duỗi những ngón cứng như sắt kia ra, và thấy dùng móng tay không ăn thua, nàng ghé răng vào cắn thực mạnh. Hy đưa mắt gờm tôi khiến tôi không dám can thiệp ngay. Còn Liên vì mải để ý đến ngón tay Hy nên không thấy nét mặt hắn. Bất ngờ, hắn mở bàn tay bỏ rơi chiếc chìa khóa. Liên chưa kịp cầm cho chặt thì hắn đã giang tay túm lấy nàng lôi sát vào đầu gối, tát túi bụi hai bên đầu. Giá Liên có thể ngã xuống được thì nội một cú tát ấy cũng đủ khiến nàng gục rồi.

    Thấy hắn hành hung độc ác như thế tôi giận quá xông vào hắn, la to:

    “Đồ khốn nạn! Khốn nạn!”

    Một quả đấm thụi vào ngực làm tôi im bặt. Tôi khỏe thế mà chỉ một cú đấm đã làm tôi tắc thở. Vừa đau vừa cáu, tôi lảo đảo lùi lại, cảm thấy nghẹt thở và các mạch máu như muốn vỡ bung ra.

    Sự việc xẩy ra không quá hai phút. Hắn buông Liên ra. Nàng đưa tay ôm lấy thái dương như thể không chắc hai tai mình còn hay mất. Nàng run lẩy bẩy, dựa vào bàn, sửng sốt cực độ, trông hết sức tội nghiệp.

    Cái thằng quỷ hung ác vừa cúi nhặt chiếc chìa khóa rớt dưới đất vừa nói:

    “Thấy chưa! Tôi biết cách trị bọn trẻ con mà. Bây giờ ra ngồi cạnh thằng Tôn như tao bảo đi! Muốn khóc, cứ tha hồ mà khóc. Ngày mai tao sẽ làm cha mày... trong mấy ngày tới mày sẽ không có người cha nào khác đâu...mày sẽ bị nhừ đòn. Mày đâu có ốm yếu, mày chịu đòn được mà! Nếu tao còn thấy mắt mày long lên sòng sọc như thế nữa thì mày sẽ được nếm đòn hàng ngày."

    Liên không đến cạnh Tôn mà lại chạy tới tôi, quỳ xuống, áp má nóng hổi lên đùi tôi, òa khóc. Thằng em họ thì nép vào một đầu ghế, nín khe. Tôi dám chắc là nó đang mừng thầm rằng trận đòn vừa rồi rơi lên đầu người khác chứ không phải lên đầu nó.

    Thấy tất cả chúng tôi đều bối rối lúng túng, Hy đứng lên, tự mình nhanh chóng pha trà lấy. Tách, đĩa đã bầy sẵn từ trước; hắn rót trà, đưa tôi một chén:

    “Uống để nuốt hận đi. Rồi cho hai đứa hư đốn kia uống. Tôi pha đấy. Không có thuốc độc đâu. Tôi ra tìm ngựa cho."

    Hy đi khỏi, ý nghĩ đầu tiên của chúng tôi là tìm lấy một lối thoát thân. Chúng tôi cố mở cửa bếp, nhưng bên ngoài đã đóng chặt. Nhìn mấy khung cửa sổ thì... hẹp quá. Liên chui còn không lọt. Thấy mình bị giam, tôi kêu:

    “Này chú Tôn! Chú biết người cha độc ác của chú định làm cái trò gì thì chú hãy nói ra đi. Nếu không tôi sẽ bợp tai chú như cha chú đã đánh Liên vừa rồi."

    Liên nói thêm:

    “Phải đấy. Tôn nói cho biết đi. Tôi đến đây là vì Tôn. Nếu Tôn không nói thì thực là vô ơn."

    Tôn đáp:

    “Tôi khát quá! Cho tôi chén trà tôi sẽ nói cho nghe. Bà Diễn, bà tránh ra xa, tôi không thích bà đứng gần tôi. Kìa, cô Liên, cô để rớt nước mắt vào tách trà của tôi rồi. Tôi không uống tách ấy đâu. Đưa tôi cái khác."

    Liên đẩy một tách trà khác cho nó rồi lau nước mắt. Thấy thái độ tỉnh khô của thằng nhãi con đê tiện ấy mà tôi phát ghét. Nó không còn sợ gì cho bản thân nó nữa. Sau khi bước chân vào trại Gió-Hú, cái vẻ đau khổ mà nó để lộ ra ở ngoài đồng đã biến tan đau mất. Vì vậy tôi tin chắc là nó đã bị đe dọa ghê gớm nếu nó không dụ được chúng tôi vào đây, bằng không nó sẽ bị trừng phạt nặng nề. Bây giờ thì nhiệm vụ của nó đã xong, nó chưa có gì đáng phải sợ ngay.

    Uống xong vài ngụm trà, nó nói tiếp:

    “Ba tôi muốn chúng mình lấy nhau. Ba biết là cha Liên sẽ không chịu chúng mình cưới nhau bây giờ. Nếu chúng mình phải đợi lâu, ba tôi sợ tôi chết. Cho nên sáng mai mình phải cưới nhau. Đêm nay Liên phải ở lại đây. Nếu Liên làm theo ý ông thì ngày kia Liên sẽ về bên ấy đem theo tôi về cùng."

    Tôi kêu lên:

    “Đem chú mày về cùng? Tội nghiệp kẻ ngu ngốc kia ơi! Lấy chú mày? Trời đất, chú mày điên nên tưởng tụi này cũng điên hết rồi! Chú mày dám cả gan tưởng rằng một cô gái xinh đẹp khỏe mạnh hiền hậu mà lại đi lấy một con khỉ con sắp chết như chú mày hay sao? Cứ một cái tội vờ vịt kêu rêu khóc lóc để dụ bọn ta về đây, cũng đủ đáng nhừ đòn rồi... đừng làm ra cái bộ ngớ ngớ ngẩn ngẩn nữa! Ta muốn tẩn cho mi một trận nên thân về cái tội bội phản đê tiện kia và cả cái ý tưởng ngu xuẩn kia nữa."

    Tôi mới nắm lấy vai nó lắc nhẹ mấy cái thế mà chưa chi nó đã nổi con ho và bắt đầu giở cái trò khóc lóc rên rỉ ra. Liên cự tôi rồi kêu lên:

    “Ở đây suốt đêm? Không được đâu! (nàng đưa mắt quan sát chung quanh), vú Diễn, cứ đốt cháy rụi cánh cửa này là ra được."

    Nếu Tôn không hoảng hồn lên vì lo cho cái bản thân quý báu của nó thì chắc Liên đã thực hiện ngay lời đe dọa của nàng. Thằng ranh con ôm lấy Liên trong hai cánh tay khẳng khiu của nó, mếu máo nói:

    “Liên không muốn lấy tôi, không muốn cứu tôi sao? Liên không muốn tôi về Họa Mi Trang sao? Ôi, Liên yêu quý của tôi. Đừng bỏ tôi! Dẫu sao Liên cũng phải nghe lời ba tôi..."

    Liên đáp:

    “Tôi chỉ nghe lời ba tôi thôi! Không thể để ba tôi chết vì lo lắng cho tôi. Suốt đêm? Ba sẽ nghĩ gì? Chắc ba tôi đã lo lắm rồi! Tôi mà không phá thì cũng phải đốt để tìm lối thoát ra khỏi nhà này. Im mồm ngay! Mi đâu có gì nguy hiểm mà sợ... Tôn, ta yêu ba hơn mi! Nếu mi ngăn cản..."

    Nghĩ đến việc bố nó nổi giận, thằng Tôn run sợ lên và trở lại diễn cái trò hèn nhát cũ. Liên hầu như quẫn trí, nhưng nàng vẫn cương quyết đòi về. Bây giờ đến lượt nàng năn nỉ nó hãy trấn tĩnh và đừng có lo sợ cho riêng bản thân nó như thế .
    Trong lúc hai đứa còn đang lỉnh kỉnh với nhau thì tên cai ngục trở lại. Hắn nói:

    “Hai con ngựa chạy mất tiêu rồi... Kìa, Tôn! Lại sụt sịt rồi hả? Nó làm gì mày? Thôi nín đi, đi ngủ đi. Rồi, con ơi, một hai tháng nữa thôi mày sẽ thẳng tay trừng trị nó cái tội ức chế mày ngày hôm nay... Mày thì chỉ mơ tưởng cái ái tình trong trắng thôi, phải không nào? Chuyện đâu còn đó... Nó sẽ lấy mày... Nào đi ngủ đi! Tối nay Dị đi vắng mày phải thay quần áo lấy. Hừ, nín ngay! Mày về phòng rồi mày khỏi sợ gì hết vì tao không làm gì mày đâu. Cũng may mà việc mày làm không đến nỗi nào. Phần còn lại đã có tao lo!"

    Nói rồi, Hy mở và giữ cửa cho thằng con đi ra. Như một con chó len lén cúp đuôi, thằng bé đi ra mà chỉ sợ người giữ cửa nện cho nó một cái nhừ tử.

    Hy khóa cửa lại, tiến gần lò sưởi, chỗ Liên và tôi đang đứng im. Liên nhìn lên và theo bản năng tự vệ, đưa tay lên má... Việc hắn đứng gần đã nhắc nàng nhớ lại cái cảm giác đau đớn ban nẫy. Giá ở người khác thì chẳng ai nhìn cái cử chỉ con nít ấy một cách khe khắt, nhưng hắn thì hắn lại cau mày lầm bầm:

    “Ô, cô không sợ tôi? Cô làm bộ can đảm khéo lắm... hình như cô sợ hãi lắm mà!”

    Nàng đáp:

    “Bây giờ thì tôi sợ thật. Vì nếu tôi ở lại thì ba tôi sẽ lo lắng khổ sở lắm lắm. Làm ba tôi khổ sở tôi không sao chịu được... trong khi ba tôi...ông Hy, xin ông hãy cho tôi về! Tôi hứa sẽ lấy Tôn... ba tôi cũng muốn như vậy, vả tôi cũng yêu Tôn... vậy sao ông lại cứ bắt buộc tôi phải làm cái việc mà chính tôi định làm, muốn làm?”

    Tôi nói lớn:

    “Để xem ông ấy có dám bắt buộc cô không? Mặc dù mình đương ở thế kẹt, nhưng nhờ Trời, cũng may mà trên quả đất này còn có pháp luật. Ví bằng hắn có là con ruột tôi, tôi cũng tố cáo! Đây là một trọng tội, một tội nặng không được ân giảm."

    Tên lưu manh nói:

    “Bà im đi! La lối cái gì? Có ai hỏi bà đâu mà nói. Cô Liên này, cứ nghĩ đến chuyện ba cô đau khổ là tôi thấy khoái trong bụng rồi. Chắc đêm nay tôi mãn nguyện lắm, tôi sẽ không ngủ được... May mà cô nói ra cho tôi biết... Tôi sẽ giữ cô ở lại đây trong hai mươi bốn giờ tới. Còn về việc cô hứa sẽ lấy Tôn tôi sẽ lo liệu cẩn thận để cô phải giữ lời, nếu cô không làm thì đừng hòng ra khỏi nhà này."

    Liên khóc một cách cay đắng:

    “Vậy ông cho vú Diễn về báo cho ba tôi biết là tôi vô sự. Hay là ông cho cưới tôi ngay bây giờ đi. Tội nghiệp ba tôi! Vú Diễn ơi! Chắc ba tưởng mình đi lạc đâu. Biết làm sao đây?”

    Hy đáp:

    “Ông ấy không nghĩ thế đâu. Ông ấy sẽ cho là cô đã chán săn sóc ông nên lẻn đi chơi tiêu khiển một lát. Cô không thể chối cãi rằng cô đã tự ý vào nhà tôi, bất chấp lệnh cấm của cha cô. Ở cái tuổi cô, ham chơi là lẽ tự nhiên. Săn sóc mãi người ốm thì chán chết, mà người ốm ấy lại chỉ là ba cô. Liên này, cái ngày cô ra đời cũng là tàn cái đời hạnh phúc của ba cô. Ông ấy đã nguyền rủa cô, cái ngày cô sinh ra đời. Tôi cũng vậy. Nếu ông ta có nguyền rủa cô lúc ông ta chết thì cũng phải thôi. Tôi cũng sẽ bắt chước ông ấy. Vì tôi cũng chả ưa gì cô. Mà làm sao tôi ưa nổi! Thôi, khóc thế đủ rồi... Cứ như tôi đoán thì từ rầy về sau cô sẽ được rong chơi thỏa thích, nếu như thằng Tôn có thể làm cô khuây khỏa về cái chết của ba cô, như là ba cô vẫn tin tưởng như thế. Những bức thư khuyên bảo và an ủi của ông ta làm tôi vui đáo để. Trong bức thư sau cùng cha cô khuyên thằng con tôi phải chăm sóc, phải tử tế với đứa con gái yêu của ông ấy, nếu mai mốt chúng lấy nhau. Chăm sóc và tử tế...thật là nồng nàn tình cha con. Nhưng ông ta không biết rằng thằng Tôn lại dành sự chăm sóc và tử tế cho chính bản thân nó cơ! Nó lại rất có thể chơi các trò tàn bạo nữa. Chẳng hạn giao cho nó hành hạ bao nhiêu con mèo cũng được, miễn là phải bẻ hết răng và tuốt hết móng mèo đi. Tôi cam đoan với cô rằng sẽ có những câu chuyện rất hay ho về lòng tử tế của nó để cô về kể cho bác nó nghe."

    Tôi nói:

    “Về điểm ấy, ông nói rất có lý. Ông giảng giải tính tình của con ông để chứng tỏ nó giống ông. Hay lắm. Và tôi mong rằng cô Liên sẽ phải suy nghĩ cho kỹ trước khi nhận món quà tẩm thuốc độc của ông."

    “Tôi không cần phải dài dòng nói về những tính đáng yêu của món quà ấy lúc này vì cô Liên bắt buộc phải nhận. Không nhận thì sẽ bị nhốt, cả vú cũng bị nhốt luôn, cho đến khi nào ông chủ của vú chết ngắc. Tôi có thể nhốt hai người ở đây, hết sức kín đáo. Nếu vú không tin, thử xúi cô ấy rút lời hứa đi, rồi vú coi!”

    Liên nói:

    “Tôi không rút lời hứa. Tôi lấy Tôn ngay, nếu sau đó tôi có thể trở về Họa Mi Trang. Ông Hy, ông là người độc ác. Nhưng tôi tin ông còn là người, không phải là quỷ. Chắc ông không muốn phá hoại hạnh phúc của tôi chỉ để thỏa mãn tính ác độc của ông. Nếu ba tôi nghĩ là tôi đã cố tình bỏ rơi ba tôi và chết trước khi tôi trở về, thì làm sao tôi sống nổi? Tôi hết khóc rồi. Bây giờ tôi quỳ xuống, quỳ xuống đây trước mặt ông, và sẽ không đứng dậy, không rời mắt khỏi mặt ông chừng nào ông chưa nhìn lại tôi. Không! Ông đừng có quay mặt đi! Hãy nhìn tôi! Tôi không khiêu khích ông. Tôi không căm ghét ông. Tôi không giận ông đã đánh tôi. Trong đời ông, ông không hề yêu ai bao giờ sao, hả ông chú của tôi? Không bao giờ ư? A, thế nào rồi chú cũng phải nhìn cháu. Vì cháu khổ sở cùng cực nên chú không thể không buồn và thương hại cháu."

    Hy xô Liên ra, kêu lên:

    “Bỏ tay ra, cút đi, không ta đạp cho một cái bây giờ. Rắn nó quấn ta còn thích hơn. Quỷ thần ơi! Sao cô lại có thể nghĩ đến chuyện nịnh nọt tôi nhỉ? Sợ cô thật!”

    Hắn nhún vai, lắc đầu làm như ghê sợ Liên đến độ sởn gai ốc, rồi hắn nhấc ghế về phía sau. Tôi đứng dậy, tính mở miệng xỉ vả hắn một trận, nhưng vừa nói được nửa câu thì phải im ngay. Hắn dọa nếu tôi chỉ nói thêm nửa tiếng nữa thôi thì hắn sẽ nhốt riêng mỗi người một phòng.

    Trời bắt đầu tối. Chúng tôi nghe có tiếng động ngoài vườn. Hy chạy vội ra. Hắn nhanh trí lắm. Còn chúng tôi thì chậm chạp. Hy ra nói chuyện độ hai ba phút, rồi vào ngay. Tôi bảo Liên:

    “Chắc là Hạ, anh họ cô. Tôi mong Hạ vào đây. Biết đâu chú ấy chả về phe mình?”

    Hy nghe thấy bèn nói:

    “Đó là ba tên đầy tớ ở Họa Mi Trang được phái sang để tìm các người đấy! Đáng lẽ vú phải mở cửa sổ ra gọi. Tôi chắc con nhỏ này hài lòng lắm vì vú đã không làm thế. Cô ả mừng vì bị bắt buộc ở lại, tôi dám chắc vậy."

    Biết mình đã để lỡ cơ hội bằng vàng, cả hai chúng tôi không kiềm chế được nữa, òa lên khóc. Hắn để mặc chúng tôi than khóc cho mãi đến chín giờ tối rồi bắt chúng tôi vào phòng chị Dị qua ngả bếp lên lầu. Tôi bảo thầm Liên làm theo lời hắn, biết đâu may ra chả tìm được cách trốn qua cửa sổ phòng đó, hoặc trốn vào gác xép từ đó chui qua cửa mái cũng nên. Nhưng rồi cửa sổ thì hẹp y như cửa sổ dưới nhà, còn âm mưu trốn lên gác xép cũng bất thành vì chúng tôi bị nhốt y như lần trước.

    Hai chúng tôi đều không ai ngủ. Liên ngồi bên song cửa sổ, lo âu chờ sáng. Chốc chốc tôi lại nhắc Liên cố ngủ đi một chút nhưng nàng chỉ thở dài không đáp. Còn tôi thì ngồi trên một chiếc ghế gần đó, nghiêm khắc tự kết tội mình đã không làm tròn bổn phận, đưa đến tất cả những tai họa cho chủ tôi. Thực ra, đến bây giờ tôi biết tôi tự buộc tội như vậy là lầm. Nhưng trong cái đêm sầu khổ ấy trí tưởng tượng của tôi xui tôi tin chắc rằng cái tội của tôi còn nặng hơn Hy.

    Bẩy giờ sáng, Hy đến hỏi xem Liên đã dậy chưa. Nàng chạy ngay ra cửa đáp:

    “Rồi."

    “Vậy ra đây."

    Hắn vừa nói vừa mở cửa, lôi nàng ra ngoài. Tôi đứng lên định theo ra, nhưng hắn đã đóng sập cửa, khoá lại. Tôi đòi thả tôi ra, hắn đáp:

    “Hãy kiên nhẫn một chút. Lát nữa tôi sẽ bảo chúng nó đem thức ăn lên cho."

    Tôi đấm mạnh vào cánh cửa, lắc mạnh then cửa như điên cuồng. Ở ngoài, có tiếng Liên hỏi tại sao tôi vẫn bị nhốt? Hắn đáp là tôi phải chịu nhốt trong một tiếng đồng hồ nữa rồi hai người đi mất. Nhưng mãi hai, ba giờ đồng hồ sau tôi mới nghe có tiếng chân người đi tới, nhưng không phải tiếng chân của Hy. Có tiếng gọi cửa:

    “Tôi đem thức ăn lại cho vú đây, mở cửa ra!”

    Tôi vội mở cửa, thấy Hạ đem theo khá nhiều thức ăn đủ cho cả ngày. Hạ ấn cái khay vào tay tôi, nói:

    “Vú bưng lấy!”

    Tôi kêu:

    “Khoan đã."

    “Không!”

    Hạ đáp xong đi liền, không đếm xỉa đến lời tôi năn nỉ hắn đứng lại.

    Tôi bị giam suốt ngày và suốt đêm hôm đó, rồi lại suốt ngày suốt đêm hôm sau và hôm sau nữa. Hết thẩy là năm đêm, bốn ngày tôi không hề thấy bóng dáng một ai, trừ Hạ mỗi sáng một lần.

    Hạ thật là một tên cai tù gương mẫu. Tôi đã cố gắng làm động lòng vô tư và trắc ẩn của hắn, nhưng hắn lầm lì, giả câm giả điếc, phe lờ như không biết gì cả.
    (còn tiếp)

  3. #32
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    Chương 28

    Qua ngày thứ năm, vào lúc buổi sáng hay trưa gì đó, tôi nghe có tiếng chân khác lạ... nhẹ hơn... ngắn hơn... và lần này vào hẳn trong phòng. Thì ra là chị Dị, đầu đôi mũ lụa đen, quàng khăn san đỏ thắm, tay xách một chiếc giỏ mây. Dị kêu lên:

    “Ơ kìa! Trời ơi! Bà Diễn! Thế mà ở Diên Mễ Tôn người ta đồn ầm lên về bà làm tôi cứ ngỡ bà với cô nhà bị chết đuối trong đầm Ngựa Đen, mãi cho đến khi ông chủ nói tôi mới biết là ông ấy tìm thấy bà và đưa bà về đây. Trời đất! Chắc bà đã ngoi lên được chỗ đất cao? Bà bị ở dưới đầm bao lâu? Có phải ông chủ đã cứu được bà không, bà Diễn? Nhưng trông bà chả gầy đi mấy... Bà có đau đớn gì không?”

    “Ông chủ của chị đúng là đồ khốn kiếp. Ông ấy phải chịu trách nhiệm về việc này. Ông ấy khỏi cần bịa chuyện... tôi sẽ phơi trần ra hết."

    Dị hỏi:

    “Sao? Bà nói như vậy là sao? Chuyện đó đâu phải ông chủ nói ra. Ở trong làng người ta đồn mà. Người ta bảo bà bị mất tích trong đầm. Lúc về đây tôi bảo Hạ: “Này chú Hạ, từ hôm tôi đi vắng có nhiều chuyện kỳ lạ xẩy ra. Tội nghiệp cho cô bé xinh đẹp ấy và bà quản gia Diễn.” Hạ trố mắt nhìn tôi. Tưởng chú ấy không biết chuyện, tôi kể cho chú ấy nghe. Ông chủ tôi nghe thấy, ông cười bảo tôi: “Nếu họ có bị chìm dưới đầm thì bây giờ đã ngoi lên được rồi. Này chi Dị, bà Diễn đương ở trong buồng chị đó. Chị có lên thì bảo bà ấy ra, trả lại phòng cho chị. Đây, chìa khóa đây. Bị ngấm nước đầm vào đầu, giá bà ấy có chạy về nhà cũng mất trí thôi, may mà tôi giữ bà ở lại đây cho tỉnh trí lại. Chị có thể bảo bà ấy nếu còn đủ sức thì về ngay Họa Mi Trang và cho tôi nhắn là cô chủ bà ấy sẽ về sau, thế nào cũng về kịp dự đám tang ông địa chủ.”

    Tôi kêu lên:

    “Ôi! Chị Dị! Chị Dị! Cậu Kha chưa chết chứ?”

    Dị đáp:

    “Chưa, chưa chết đâu... Bà hãy ngồi xuống đi, bà chưa khỏe hẳn đây mà. Ông ấy chưa chết. Đốc tờ Kiên bảo ông chủ bên ấy có thể sống thêm một ngày nữa. Tôi vừa gặp ông Đốc và hỏi chuyện ông ở trên đường cái."

    Thay vì ngồi xuống, tôi quơ vội chiếc áo choàng chạy ngay xuống thang và thấy không bị cản trở. Vào phòng dưới, tôi nhìn quanh xem có ai để hỏi tin tức về Liên. Trong nhà tràn đầy ánh nắng, cửa bỏ ngỏ, không có người nào hết. Tôi đương lưỡng lự không biết về ngay hay nên quay lại tìm Liên thì một tiếng ho nhẹ làm tôi chú ý quay nhìn về phía lò sưởi. Tôn đang nằm trên ghế, một mình trong phòng, miệng ngập que kẹo, dửng dưng theo dõi từng cử động của tôi.

    Cho là vớ được nó ngồi một mình như thế này có thể nạt cho nó sợ mà khai ra, tôi nghiêm nghị hỏi:

    “Cô Liên đâu?”

    Nhưng nó lờ đi, tiếp tục mút kẹo. Tôi hỏi thêm:

    “Liên đi rồi sao?”

    “Không. Liên trên gác. Không đi đâu được. Chúng tôi không để nó đi."

    Tôi kêu lên:

    “Chú không để cho cô ấy đi? Ngốc chưa! Dẫn tôi lên phòng đi, nếu không sẽ biết tay tôi!”

    “Cứ thử lên xem nào. Ba sẽ cho vú biết tay ngay lập tức. Ba bảo tôi không thể nhu nhược với Liên được... Liên là vợ tôi. Thực nhục nhã nếu Liên bỏ tôi đi. Ba bảo Liên ghét tôi, chỉ mong tôi chết để lấy tiền của tôi. Nhưng đừng hòng lấy được. Cũng không thể về nhà được. Không bao giờ về được! Liên muốn kêu la, đau ốm tha hồ, tùy thích!”

    Nói xong, nó lại mút kẹo, hai mắt lim dim như muốn ngủ. Tôi nói:

    “Này chú Tôn, chú quên là Liên đã đối xử tử tế với chú mùa đông năm ngoái khi chú nói chú yêu Liên rồi sao? Chú quên rằng Liên đem sách cho chú coi, ca hát cho chú nghe, dù trời mưa gió lớn cũng đến thăm chú luôn sao? Thế mà bây giờ chú lại tin vào những lời bịa đặt của ba, dù chú biết là ba chẳng ưa gì cả hai người. Chú đã về hùa với ba chống lại Liên. Chú trả ơn như thế, thật quý hoá quá nhỉ?”

    Hai bên mép Tôn xệ xuống. Nó nhả chiếc kẹo que ra. Tôi nói tiếp:

    “Chú cứ nghĩ mà xem. Có phải vì ghét chú mà Liên tới Gió Hú không? Còn về tiền của chú thì Liên đâu có biết là chú có hay không? Chú vừa bảo Liên đang bị ốm, thế mà chú nỡ để Liên một mình trên lầu trong một căn nhà xa lạ! Chính chú là người hiểu hơn ai hết nỗi khổ của một người bị bỏ rơi không ai săn sóc. Khi chú bị bỏ rơi, chú đau khổ, Liên thương chú. Còn Liên bị đau khổ thì chú lại dửng dưng. Tôi đang ứa nước mắt, chú thấy đấy... mà tôi chỉ là một người làm công thôi, một phụ nữ lớn tuổi; còn chú thì sau khi cầu xin tình yêu đến lúc được yêu đáng lẽ phải tôn thờ Liên thì chú chỉ dành hết nước mắt cho riêng chú, chú dửng dưng với Liên, nằm ung dung tự mãn. Chú thật là ác tâm ích kỷ!”

    Tôn cáu kỉnh gắt:

    “Tôi không thể ở được với cô ấy. Cứ khóc hoài làm sao tôi chịu nổi. Tôi dọa gọi ba, cô ấy cũng chẳng nín. Mà có lần tôi gọi thật. Ba dọa bóp cổ cô ấy, nhưng khi ba đi khỏi cô ấy lại khóc lóc, rên rỉ, than vãn suốt đêm, tôi có bực mình thét lên vì không ngủ được cũng thế thôi.

    Thấy cái thằng khốn nạn không động lòng trước nỗi khốn khổ của Liên, tôi hỏi:

    “Ông Hy có nhà không?”

    “Ba ở ngoài sân nói chuyện với ông đốc Kiên. Ông Đốc bảo bác tôi sắp chết đến nơi rồi. Như thế cũng mừng vì sau khi ông ấy chết tôi sẽ là chủ Họa Mi Trang. Liên thì cứ bảo đó là nhà của cô ấy. Không phải đâu! Của tôi đấy! Ba bảo mọi thứ cô có đều là của tôi. Tất cả những cuốn sách hay ho của Liên cũng là của tôi. Mới tối hôm qua, Liên dụ tôi. Nếu tôi lấy đưọc chìa khóa mở cửa cho Liên ra thì Liên sẽ cho tôi tất cả sách, cả những con chim đẹp và con Minh Nhi nữa, nhưng tôi bảo Liên rằng cô ta đâu còn gì nữa mà đòi cho tôi. Tất cả là của tôi hết. Thấy tôi nói thế, Liên lại khóc và tháo sợ dây chuyền có tấm hình nhỏ đeo ở cổ ra, bảo tôi không được lấy cái ấy. Đó là hình mẹ Liên một bên, bác tôi một bên hồi còn trẻ. Tôi trả lời là hình ấy cũng là của tôi và định giằng lấy, nhưng cái bà chằn ấy không chịu, đẩy tôi ra làm tôi đau điếng. Tôi hét toáng lên làm cô ta hoảng sợ. Nghe tiếng ba tôi đi tới, Liên bẻ cái khung, xé tấm hình cho tôi nửa có hình mẹ. Liên định dấu nửa kia đi, nhưng sau khi nghe tôi kể chuyện, ba tước mảnh hình tôi đang cầm tay và bảo Liên phải đưa mảnh kia ra. Liên không chịu. Ba đánh Liên ngã xuống, giằng lấy hình vứt xuống đất, lấy chân di lên.

    Tôi có những lý do để xúi nó nói thêm, nên tôi hỏi:

    “Thế chú có bằng lòng nhìn thấy Liên bị đánh không?”

    “Tôi nhắm mắt làm lơ. Giống như mỗi khi thấy ba đánh con chó hay con ngựa. Ba đánh mạnh tay lắm. Lúc đầu tôi cũng thấy khoái thấy Liên bị phạt vì cái tội đã đẩy tôi làm tôi đau. Nhưng khi ba đi rồi, Liên kéo tôi lại cửa sổ chỉ cho coi má bị va vào răng rách ở bên trong, mồm đầy máu. Rồi Liên nhặt các mảnh hình lên, ngồi quay mặt vào tường, không nói với tôi một lời từ đó. Có lúc tôi tưởng là vì đau nên Liên không nói được. Tôi không thích thế. Cô ấy thật khó bảo, cứ khóc mãi thôi. Trông Liên xanh như tàu lá và dữ tợn quá làm tôi sợ muốn điên lên được.

    “Nếu cần chìa khóa, chú có lấy được không?”

    “Được chứ. Ở trên lầu, tôi lấy được. Còn bây giờ tôi không thể lên cầu thang được.

    “Để ở phòng nào?”

    Nó kêu lên:

    “Ô! Tôi không nói cho vú biết đâu. Bí mật của chúng tôi mà! Hạ, Dị không ai biết cả. Đấy! Vú làm tôi mệt đừ rồi đấy... Vú đi chỗ khác đi!”

    Nói xong nó lấy cánh tay che mặt. Tôi nghĩ tốt nhất là không gặp Hy nữa, đi thẳng về Họa-Mi-Trang, kêu người tiếp viện đến giải cứu cho Liên.

    Thấy tôi về, tất cả mọi người làm trong Họa Mi Trang đều sửng sốt và mừng rỡ. Khi biết cô chủ của họ đều bình yên, hai ba người định chạy đi báo tin cho cậu Kha, nhưng tôi muốn tự mình làm việc ấy.

    Mới có mấy ngày mà cậu tôi đã đổi khác hẳn. Cậu nằm chờ chết, nét mặt buồn thiu, cam phận. Nom cậu rất trẻ. Tuy tuổi thật của cậu là ba mươi chín, người ta có thể đoán cậu trẻ hơn mười tuổi là ít. Cậu đang nghĩ đến Liên vì miệng lẩm bẩm gọi tên cô. Tôi cầm lấy tay cậu, dịu dàng nói:

    “Liên sắp về tới, cậu ạ. Liên vẫn bình yên, chỉ nội tối nay là về đến đây."

    Tôi hoảng hồn vì tác động của mấy lời nói giản dị của tôi. Cậu Kha nhỏm dậy một chút, ánh mắt khao khát nhìn quanh phòng rồi nằm vật xuống ngất đi. Khi cậu tỉnh lại, tôi kể cậu nghe chuyện chúng tôi bị cưỡng bách vào trại Gió-Hú và bị cầm chân ở đó - điều này không hoàn toàn đúng sự thực - Tôi kết tội Tôn rất ít, cũng không kể hết những hành vi tàn ác bạo ngược của cha nó. Chủ đích của tôi là nếu có thể tôi tránh để thêm vị đắng cay vào cái ly đã tràn đầy mùi tân khổ.

    Cậu Kha đoán chừng một trong những mục đích của kẻ thù địch là chiếm cho con trai hắn - hay cho hắn thì đúng hơn - hết thẩy của cải riêng, cùng cái bất động sản Họa Mi Trang này. Nhưng tại sao vì lẽ gì Hy không đợi đến khi cậu nhắm mắt? Đó là điều cậu chủ tôi không thể hiểu nổi. Cậu tôi đâu có biết rằng Tôn và cậu, cả hai bác cháu, đều sẽ lìa đời trước sau chẳng cách nhau bao lâu. Dẫu sao cậu tôi thấy nên sửa lại bản chúc thư: thay vì để lại tài sản cho Liên tùy ý sử dụng, cậu quyết định giao cho mấy người thụ thác di sản thâu hoa lợi cho Liên hưởng dụng suốt đời và sau Liên lại đến con Liên hưởng dụng.

    Bằng cách ấy, nếu Tôn có chết đi thì tài sản không lọt vào tay Hy.

    Nhận được lệnh của Kha, tôi phái một người đi mời ông Chưởng Lý và bốn người khác đầy đủ vũ khí đi giải cứu cô tôi khỏi tay tên cai ngục ác ôn. Cả hai việc đều gặp khó khăn chậm trễ. Người được sai đi một mình về trước, nói rằng ông Lục, người đại diện pháp luật, đi vắng, nó phải chờ mất hai tiếng đồng hồ. Khi ông Lục về thì lại bảo ông ấy bận một việc gấp trong làng, hẹn sáng sớm mai sẽ có mặt tại Họa Mi Trang. Còn bốn người kia cũng về không, nói rằng Liên đang đau không ra khỏi phòng được và ông Hy không cho chúng gặp mặt Liên. Mấy người đó ngu độn quá, sao lại có thể tin được lời Hy? Tôi mắng cho một trận nhưng không dám nói lại cho cậu tôi biết. Tôi định bụng sáng hôm sau sẽ dẫn cả một tiểu đội đến tấn công Trại Gió Hú, nếu hắn không giao trả cô tôi. Nhất định cha Liên phải được gặp mặt Liên, tôi thề như vậy. Nếu cần tôi sẽ giết ngay cái thằng ác ôn ở cửa nhà hắn, nếu hắn chống lại.

    May quá, tôi khỏi cần phải kéo quân đi và cũng khỏi phải giết người. Ba giờ sáng, tôi xuống nhà lấy một bình nước, khi đi qua phòng ngoài thì có tiếng gõ cửa mạnh làm tôi giật bắn người. Tôi nghĩ: “Chắc là ông Lục. Chỉ có ông Lục chứ không ai.” Tôi định đi gọi người ra mở cửa. Nhưng tiếng đập cửa lại dồn dập tuy không mạnh lắm. Tôi đặt bình nước xuống chạy ra mở cửa cho ông ta vào. Bên ngoài trăng ngày mùa sáng vằng vặc. Không phải là ông Chưởng Lý, mà là cô chủ thân yêu của tôi. Cô nhẩy lên bá cổ tôi, nức nở:

    “Vú Diễn! Vú Diễn! Ba còn sống không?”

    “Còn, còn, cưng ơi, ba còn sống. Đội ơn Chúa, cưng đã về bình yên!"

    Còn đang thở hổn hển, Liên đã định phóng lên lầu thăm bố, nhưng tôi bắt ngồi xuống ghế, cho uống nước và rửa mặt cho. Mặt Liên xanh mét, tôi dùng khăn chà cho hồng hào lên đôi chút. Rồi tôi bảo Liên đợi tôi lên báo cho Kha biết trước. Tôi năn nỉ Liên nói với cậu rằng lấy Tôn nàng sẽ được sung sướng. Liên có vẻ ngạc nhiên nhưng nàng hiểu ngay vì sao tôi lại khuyên nàng nói dối. Cô bảo tôi cứ yên trí, cô sẽ không phàn nàn đâu.

    Tôi không có can đảm chứng kiến cảnh gặp gỡ của hai cha con Liên. Tôi đứng ngoài cửa phòng khoảng mười lăm phút đồng hồ rồi mới vào và hầu như không dám tiến lại gần giường. Tất cả đều câm lặng. Nỗi tuyệt vọng của Liên cũng câm nín như niềm vui sướng của cha cô. Liên đỡ lấy cha một cách bình tĩnh lạ thường, còn cha cô thì dán mắt nhìn con gái, đôi mắt mở to, gần như căng ra vì sung sướng.

    Ông Lộc ạ, cậu Kha tôi đã lìa đời trong niềm hạnh phúc. Thưa, đúng là hạnh phúc. Cậu ôm lấy con gái, khẽ nói:

    “Ba đi theo mẹ. Còn con, con yêu của ba, con sẽ theo ba mẹ sau..."

    Rồi cậu không cử động nữa, cũng không nói nữa, nhưng đôi mắt vẫn không rời Liên, ánh mắt say mê rạng rỡ, cho đến khi tim cậu ngưng đập lúc nào không ai hay biết và hồn cậu phiêu diêu thoát tục... Không một ai có thể nói rõ cậu chết đúng vào lúc nào vì cậu đi tuyệt đối êm ả, bình thản.

    Liên, hoặc là nàng đã cạn khô nước mắt, hoặc vì quá đau khổ đến độ không còn rơi lệ được nữa, nàng ngồi đó mắt ráo hoảnh cho đến lúc mặt trời mọc. Nàng còn ngồi mãi đến trưa. Và nếu tôi không lôi nàng đi, bắt nàng phải nghỉ ngơi đôi chút, thì chắc nàng còn ngồi mãi đó trầm mặc bên giường người chết. Cũng may mà tôi dỗ được nàng đi vì tới giờ ăn chiều thì ông Chưởng Lý tới. Ông được mời đến để sửa chữa chúc thư của người hấp hối, nhưng ông đã tự bán mình cho Hy. Ông đã đến Gió Hú để nhận chỉ thị của hắn. Đó là nguyên nhân vì sao ông ta trì hoãn không đến ngay khi chủ tôi cho gọi. Rất may là đã không có một chuyện thế sự phiền não nào quấy rối tâm trí chủ tôi sau khi ông gặp mặt con gái.

    Ông Lục nắm hết quyền và chỉ huy hết thẩy mọi người trong nhà. Ông cho nghỉ hết đầy tớ, trừ có mình tôi. Ông lại còn muốn vượt quá giới hạn quyền hành được trao phó là không cho chôn chủ tôi bên cạnh vợ mà bắt chôn trong nghĩa trang gia tộc. Tuy nhiên chúc thư đã chống lại việc đó và tôi cũng cực lực phản đối tất cả những điều trái với các khoản ghi trong chúc thư. Người ta hối thúc làm đám táng mau lẹ và Liên - từ nay là bà Tôn - đuợc phép ở lại Họa Mi Trang cho đến khi chôn cất cha xong.

    Liên kể cho tôi nghe là cuối cùng thấy nàng quá sầu não đau khổ, Tôn đã liều quyết định thả nàng ra. Nàng cũng nghe thấy được mấy người tôi sai đến làm ầm lên ở cửa và hiểu ý câu trả lời của Hy nên nàng thất vọng cùng cực. Sau khi tôi về, Tôn được đưa lên lầu ở trong phòng khách nhỏ. Thấy tình trạng của Liên nó hoảng sợ đi lấy chìa khoá trước khi cha nó lên. Nó ranh mãnh mở khóa rồi vặn lại khoá mà không đóng cửa. Đến giờ đi ngủ nó đòi nằm với Hạ và đó là lần đầu tiên nó được ngủ như vậy. Giữa đêm, trước khi trời sáng, Liên trốn đi. Nàng không dám ra đằng cửa lớn sợ gây tiếng động chó sủa ầm lên. Liên đi qua các phòng bỏ trống, xem xét các cửa sổ. May mà nàng thoát ra được qua cửa sổ phòng mẹ nàng ở hồi trước, vin cành thông tụt xuống đất. Mặc dù đã bầy đặt những mưu kế ngây thơ, tên tòng phạm của nàng đã phải gánh chịu khổ trong việc tiếp tay cho nàng trốn thoát.

    Chương 29

    Chiều tối hôm đưa đám. Liên và tôi ngồi trong phòng đọc sách buồn rầu suy nghĩ về cái tang và ước đoán chuyện tương lai còn mờ mịt.

    Cả hai chúng tôi đều mong là Liên và Tôn được phép ở Họa Mi Trang, ở tới hết đời Tôn và có tôi làm quản gia. Cách thu xếp đó quá tốt nên tôi thấy khó mà thành tựu. Tuy vậy tôi vẫn nuôi hy vọng và thấy vui vui trong lòng khi nghĩ tới chuyện tôi được ở lại trong nhà, không mất công ăn việc làm mà lại không phải xa cô chủ trẻ đẹp đáng yêu của tôi.

    Đương lúc ấy, một anh đầy tớ (trong số người bị sa thải nhưng chưa đi) hốt hoảng chạy vào kêu “tên quỷ Hy” đã tới, đang đi vào sân, có nên đóng sập cửa vào mặt hắn không?

    Giá chúng tôi có điên mà sai anh ta làm như thế cũng chả kịp. Hy phăng phăng đi thẳng vào nhà. Hắn không thèm gõ cửa, không đợi thông báo, vì hắn bây giờ là chủ, hoặc giả tự cho mình có quyền một ông chủ. Tiếng nói của anh đầy tớ khiến Hy tiến thẳng tới vào phòng sách và ra lệnh anh ta đi ra rồi đóng xầm cửa lại.

    Phòng sách ấy là nơi hắn được giới thiệu như một người khách mười tám năm về trước. Vẫn vầng trăng ấy chiếu qua cửa sổ. Vẫn cảnh thu ấy ở bên ngoài. Chúng tôi chưa thắp đèn, nhưng trong phòng còn sáng. Ngay cả mấy tấm hình treo trên tường vẫn rõ từng nét: khuôn mặt kiều diễm của mợ Kha, khuôn mặt tao nhã của cậu Kha.

    Hy tiến tới bên lò sưởi. Thời gian không làm cho hắn thay đổi bao nhiêu. Vẫn con người thuở xưa. Có khác chăng là bộ mặt đen đúa có phần tái xạm hơn, nghiêm nghị hơn và vóc dáng nặng nề hơn, thế thôi.

    Thoạt trông thấy hắn, Liên đứng bật dậy. Linh tính xui nàng chạy trốn. Nhưng hắn giang tay giữ nàng lại:

    “Đứng yên đấy! Không được trốn! Định đi đâu hử? Tôi đến kiếm cô để về nhà. Tôi mong cô sẽ là một đứa dâu dễ bảo và đừng có xúi con tôi làm điều ngỗ nghịch. Tôi biết nó nhúng tay vào việc cô bỏ trốn, tôi phân vân không biết nên trừng phạt nó cách nào. Nó chẳng khác nào một cái lưới nhện, chỉ khẽ đụng vào là rách nát ra. Nhưng trông thấy nó, cô sẽ biết ngay là nó đã đền tội. Chiều hôm kia, tôi đem nó xuống dưới nhà đặt ngồi trên ghế, sau đó không hề đụng tới nó. Có thế thôi! Tôi đuổi Hạ ra ngoài, chỉ có mình nó với tôi trong phòng. Hai giờ sau tôi kêu Dọi dẫn nó lên lầu. Và từ lúc đó, đầu óc nó bị hình ảnh tôi ám ảnh như một bóng ma. Tôi đồ rằng nó luôn luôn thấy tôi trước mắt, kể cả lúc tôi không có mặt. Hạ nói ban đêm nó giật mình thức dậy, kêu thét cả tiếng đồng hồ, gọi cô che chở cho nó khỏi sự hành hạ của tôi. Chả biết cô có ưng chồng cô hay không nhưng cô phải về. Bây giờ cô phải lo cho nó. Tôi giao cho cô công việc săn sóc nó đấy."

    Tôi lên tiếng phản đối:

    “Sao cậu không để Liên tiếp tục ở đây và cho chú Tôn sang bên này? Cậu ghét cả hai người, như vậy cả hai đi cho khuất mắt cậu. Có họ ở gần chỉ thêm rầy rà cho cậu thôi."

    Hy đáp:

    “Tôi đang kiếm người cho thuê Họa Mi Trang. Và tôi cần có con cái ở bên cạnh... Hơn nữa, con nhỏ này phải phục dịch tôi để đổi lấy cơm ăn áo mặc. Tôi không muốn nó sống xa hoa, ăn không ngồi rồi, sau khi thằng Tôn chết. Thôi sửa soạn nhanh lên rồi đi, đừng bắt tôi phải bức bách cô.”

    Liên nói:

    “Tôi sẽ sang bên đó. Bây giờ tôi chỉ còn có Tôn để yêu thương trên đời, mặc dù ông đã cố công làm cho Tôn ghét tôi và tôi ghét Tôn. Ông không thể làm cho chúng tôi thù ghét nhau được. Tôi thách ông làm tôi sợ. Tôi thách ông làm khổ Tôn khi có tôi ở bên cạnh."

    “Cô chỉ được cái nói thánh nói tướng. Nhưng tôi đâu có ưa cô đến độ hành cho nó đau đớn chỉ để làm vui lòng cô. Chính cô sẽ nếm mùi đau khổ... Không phải tôi là người làm cho cô thấy thằng Tôn đáng ghét mà chính cái bản tính của nó trở thành đáng ghét với cô. Hậu quả việc cô chạy trốn làm nó cay đắng... Đừng hy vọng người ta cám ơn sự tận tâm của cô. Tôi nghe nó nói với Dị về cái chương trình thú vị nó sẽ thực hiện nếu nó cũng khỏe như tôi... Nó có sẵn ý định thì việc thực hiện đâu khó gì, càng yếu sức thì đầu óc nó lại càng tinh khôn để bù đắp lại."

    “Tôi biết Tôn có bản chất xấu. Nó là con ông mà! Nhưng tôi mừng là mình có thiện tâm để tha thứ choTôn. Vả tôi biết Tôn yêu tôi, vì thế mà tôi mới yêu lại. Còn ông, ông Hy, ông chẳng có ai yêu ông cả. Dù ông có làm chúng tôi điêu đứng đến đâu, ông vẫn là người đau khổ hơn chúng tôi và tính độc ác của ông cũng do đấy mà sinh ra. Ông đang đau khổ, phải không nào? Không ai yêu ông. Không ai thèm khóc ông khi ông chết. Thật tôi không muốn ở cương vị ông chút nào!”

    Liên nói với một vẻ đắc thắng nhưng buồn bã. Hình như nàng quyết định bắt chước tâm tính mấy người bên nhà chồng, lấy nỗi đau khổ của kẻ thù làm nỗi vui cho mình.

    Hy kêu lên:

    “Cô mà còn nấn ná thêm một phút nữa là lãnh đủ ngay. Đi ra! Đồ yêu tinh! Đem theo quần áo nữa!”

    Liên, vẻ mặt khinh khỉnh, đi khỏi. Nhân lúc không có nàng tôi xin hoán đổi chỗ làm với Dị bên Gió-Hú, nhưng hắn không muốn nghe chuyện đó. Hắn quát tôi im. Rồi, hắn đảo mắt quanh phòng ngó mấy tấm hình. Sau khi ngắm kỹ hình mợ Kha, hắn nói:

    “Tôi phải đem cái này về nhà. Không phải tôi cần, nhưng..."

    Hắn vụt quay về phía lò sưởi nói tiếp, với một vẻ mà tôi không biết diễn tả sao cho đúng nên đành gọi là một nụ cười:

    “Tôi nói cho bà biết tôi đã làm gì ngày hôm qua! Tôi sai cái tên phu hôm nọ đã đào huyệt cho Kha, đào mộ của...nàng lên, rồi tôi mở áo quan ra. Thấy mặt nàng vẫn nguyên như xưa, tôi tưởng chừng như tôi sẽ nằm luôn ra đấy. Tên phu lay mãi tôi mới tỉnh, nó nói không khí sẽ làm xác chết rữa ra... Tôi bèn phá một bên áo quan cho lỏng ra, nhưng không phải phá cái bên phía thằng Kha chết tiệt ấy đâu, rồi tôi đậy nắp lại. Ước gì tôi hàn kín cái áo quan của hắn lại. Tôi cho tiền tên phu để hễ bao giờ tôi nằm xuống đó thì bỏ cái bên áo quan đã phá sẵn kia ra và cũng tháo bỏ một bên áo quan của tôi. Tôi sẽ thửa sẵn một áo quan cùng một cỡ như vậy. Thế là thằng Kha nếu có ngó sang cũng không thể biết ai với ai nữa."

    Tôi hét lên:

    “Ông Hy! Ông làm như thế thật ác đức! Quấy phá đến cả người chết, ông không xấu hổ sao?”

    Hắn đáp:

    “Bà Diễn ơi, tôi không quấy phá ai hết. Tôi cảm thấy được an ủi dễ chịu. Cũng tốt hơn cho bà vì nó giữ tôi ở yên dưới ba tấc đất, khi tôi nằm đó. Bà bảo tôi quấy phá nàng ư? Không! Chính nàng đã quấy tôi thì có! Quấy không ngừng không ân hận cả ngày lẫn đêm suốt mười tám năm trường... cho đến đêm qua... đêm qua tôi được yên lòng. Tôi mơ thấy mình ngủ giấc cuối cùng bên cạnh người yêu đang an giấc ấy, tim ngừng đập bên tim nàng và má tôi giá lạnh áp vào má nàng..."

    “Nhưng nếu xác nàng đã rữa vào lòng đất hoặc tệ hơn thế nữa thì ông sẽ mơ cái gì?”

    “Thì tôi cũng sẽ tan rữa như nàng và như vậy tôi càng sung sướng hơn. Bà tưởng là tôi sợ một sự biến đổi như vậy à? Khi tôi bật nắp áo quan lên là tôi đã chờ đợi như thế. Vả lại, nếu hôm qua tôi không thấy được nét mặt bình thản của nàng thì chắc không bao giờ tôi rũ bỏ được cái cảm giác lạ lùng ấy. Cảm giác ấy bắt đầu thật lạ. Bà đã biết khi nàng chết tôi như phát điên. Từ sáng tinh sương này qua tảng sáng khác tôi cầu xin nàng hãy trả lại linh hồn nàng cho tôi. Tôi rất tin ma quỷ hiện hồn. Tôi tin chắc có hồn ma, hồn ma có thật và ở giữa chúng ta. Hôm cất đám nàng, trời mưa tuyết. Buổi chiều tôi ra nghĩa địa. Gió thổi lạnh lẽo như tiết đông. Chung quanh tôi hiu quạnh. Tôi không sợ cái thằng chồng ngu ngốc của nàng lởn vởn đến đó vào giờ ấy. Những người khác thì chẳng ai có việc gì mà phải đến đó. Tôi có một mình và biết rằng chỉ có hai thước đất ngăn cách chúng tôi. Tôi tự nhủ: “Mình phải ôm nàng một lần nữa! Nếu thi hài của nàng lạnh giá mình sẽ cho rằng tại gió đông làm mình rét, nếu nàng bất động thì đó là do nàng ngủ say.”

    Tôi lấy một cái xẻng ở kho chứa đồ và bắt đầu ra sức đào. Khi xẻng đụng nắp áo quan, tôi vứt xẻng lấy tay bới. Gỗ chỗ gần đinh ốc bắt đầu nứt ra kêu răng rắc. Tôi sắp đạt mục đích thì chợt có cảm giác như nghe thấy có ai đứng ở trên, sát mép huyệt, cúi xuống thở dài một tiếng. “Nếu mình nậy được cái nắp này ra” - tôi lẩm bẩm - “thì ước gì họ lấp đất chôn hai đứa mình vào một hố.” Thế là tôi lại ra sức làm việc hăng hơn. Lại một tiếng thở dài nữa ngay sát bên tai. Rồi một làn hơi ấm thở phà vào cơn gió chở mưa tuyết lất phất. Ở đây không có một người nào, một sinh vật nào. Tôi biết chắc như thế. Thế mà tôi cảm thấy chắc chắn, cảm thấy rõ ràng - như thể một người nào đang tiến lại gần ta trong bóng tối, mặc dù ta không phân biệt được người đó là ai - sự hiện diện của nàng, của Yên Liên, không phải ở dưới mộ, mà ngay ở trên mặt đất. Một cảm giác nhẹ nhõm và đột ngột lan đi, từ trái tim tôi, toả khắp tứ chi. Tôi lập tức bỏ ngang công việc đang làm vì bỗng nhiên tôi thấy mình được khuây khỏa, được an ủi không lời nào tả xiết. Nàng đang ở bên tôi. Nàng hiện diện trong lúc tôi lấp mộ lại. Nàng theo tôi trên đường trở về nhà.

    Bà Diễn, bà có cười tôi thì cứ việc cười. Nhưng lúc bấy giờ tôi tin chắc rằng khi về nhà tôi sẽ thấy nàng. Tôi chắc chắn nàng ở bên tôi. Và tôi không thể nào không nói chuyện với nàng. Về đến Gió-Hú, tôi vội chạy đến cửa. Cửa đóng. Tôi nhớ ra cái thằng khốn nạn, thằng Hạnh, và con vợ nó muốn ngăn không cho tôi vào. Sau khi vào được, tôi còn nhớ là tôi đứng lại đá một cái cho thằng Hạnh hết thở rồi chạy lên lầu vào phòng tôi rồi vào phòng Liên. Nôn nóng tôi nhìn quanh. Tôi cảm thấy nàng ở cạnh đâu đây... tuy không thấy nhưng gần như tôi đã trông thấy nàng. Lúc ấy, hẳn là tôi phải toát mồ hôi máu vì lòng khao khát cầu xin được nhìn thấy nàng, dù chỉ trong một thoáng mắt! Vậy mà không được. Nàng đối xử với tôi như thế như vẫn thường đối xử khi nàng còn sống, như một bóng ma!

    Và từ đó trở đi, khi nhiều khi ít, tôi không ngớt bị hành hạ trong cái trò chơi ấy của nàng, đến độ không sao chịu nổi. Thật là địa ngục! Nó làm căng những sợi giây thần kinh của tôi. Nếu thần kinh tôi không dai như gân bò thì chúng đã nhão ra từ lâu như của thằng Tôn rồi. Khi tôi ngồi trong phòng với Hạ, tôi có cảm tưởng nếu đi ra ngoài tôi sẽ gặp nàng. Còn khi tôi dạo chơi ngoài rừng cỏ tôi lại có cảm tưởng sẽ gặp nàng khi trở về nhà. Mới ra khỏi nhà, tôi đã vội quay về ngay: nàng phải luẩn quất đâu đó trong Đỉnh Gió Hú, tôi chắc chắn như vậy! Khi tôi vào ngủ trong phòng nàng, tôi bị đuổi ra. Tôi không thể nằm yên được. Cứ vừa nhắm mắt một cái là nàng hiện ra khi thì ở ngoài cửa sổ khi thì đang đẩy tấm ván lùa của chiếc giường hòm, hoặc thậm chí còn áp đầu trên chiếc gối mà nàng vẫn quen dùng hồi nhỏ. Tôi phải mở ngay mắt ra để nhìn. Cứ thế, mỗi đêm, tôi mở mắt ra nhắm mắt lại hàng trăm lượt, để rồi toàn thất vọng. Thật là cực hình!

    Tôi thường rên to đến nỗi cái lão Dọi đê tiện ấy tưởng lương tâm tôi bị ma ám. Bây giờ... từ lúc tôi được thấy nàng, lòng tôi bình yên... hơi bình yên một chút... Nhử tôi bằng một hy vọng ma chơi như thế trong suốt mười tám năm trời quả là một cách giết người quái đản, giết dần giết mòn, không phải giết từng phân một mà từng li một, giết mỏng như sợi tóc.

    Hy dừng lại. Hắn lau trán, trán đẫm mồ hôi dán quyện lấy tóc, rồi trừng mắt nhìn tro hồng trong lò sưởi. Lông mày hắn không nhíu lại mà nhướng lên gần tới thái dương, làm cho gương mặt bớt hung dữ đi nhưng lại có một thần thái kỳ lạ, tựa hồ như cả tâm trí hắn đương bị một vấn đề gì thu hút làm cho căng thẳng và khổ sở. Tôi ngồi im. Tôi không muốn nghe hắn nói. Nghỉ một chút, hắn lại trầm ngâm nhìn bức ảnh, rồi gỡ khung hình xuống, đặt sát ghế để nhìn rõ hơn. Trong lúc hắn đang mải ngắm hình, Liên bước vào báo cho hắn biết nàng đã sẵn sàng, chỉ còn đợi con Minh-Nhi đóng yên xong là đi được.

    Hy bảo tôi:

    “Mai bà gửi cái này sang cho tôi."

    Rồi quay sang Liên, hắn nói:

    “Khỏi cần thắng ngựa. Trời chiều đẹp như thế này... Ở bên Trại khỏi cần ngựa, đi đâu có hai chân là đủ. Thôi đi."

    Cô chủ đáng yêu của tôi nói khẽ:

    “Thôi chào vú Diễn."

    Nàng hôn tôi. Đôi môi nàng buốt giá.

    “Nhớ đến thăm em, vú Diễn. Đừng quên nhé."

    Hy nói:

    “Bà khỏi cần đến thăm. Nếu có chuyện gì muốn nói, tôi sẽ sang đây. Tôi không thích bà xía mũi vào nhà tôi."

    Hắn ra hiệu bảo nàng đi trước. Liên quay lại nhìn tôi khiến lòng tôi đau như cắt. Từ cửa sổ tôi nhìn theo họ đi về phía cuối vườn. Hy kẹp cánh tay Liên dưới tay mình mặc nàng vùng vằng không chịu. Hắn kéo nàng đi rảo bước trên đường. Rồi bóng họ khuất sau hàng cây.
    (còn tiếp)

  4. #33
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Chương 30

    Kể từ khi Liên rời khỏi Họa Mi Trang này, tôi có sang bên Gió Hú một lần, nhưng không gặp nàng. Khi tôi hỏi thăm về nàng, Dọi - tay vẫn giữ cánh cửa không muốn cho tôi vào - bảo:

    “Bà Tôn đi vắng. Ông chủ cũng đi vắng.”

    Dị cho tôi biết một vài điều về nếp sống của mọi người trong gia đình, nếu không thì tôi cũng khó lòng biết ai còn sống, ai đã chết.

    Qua lời lẽ của Dị tôi biết Dị không ưa Liên, cho nàng là kiêu kỳ. Khi Liên mới đến Trại, cô tôi có nhờ Dị giúp một vài việc nhưng Hy bảo Dị cứ làm việc của mình, để mặc cô con dâu của hắn tự lo liệu lấy. Dị vốn tính ích kỷ và nông nổi nên nghe lời ngay. Không được săn sóc, Liên tỏ ra bất mãn một cách trẻ con. Nàng không dấu lòng khinh rẻ Dị và xếp Dị về phía kẻ thù không đội trời chung như thể Dị đã phạm một lỗi lớn đối với nàng. Cách đây mới sáu tuần lễ, tức là trước khi ông đến đây mấy hôm, nhân một bữa gặp nhau trên cánh đồng cỏ, tôi có dịp nói chuyện khá lâu với Dị. Chị ta kể tôi nghe như sau:

    “Hôm mới bước chân vào Trại Gió Hú, việc làm đầu tiên của bà Tôn là chạy thẳng lên gác, chẳng thèm chào hỏi lão Dọi và tôi lấy một câu. Bà ta vào phòng Tôn, đóng cửa lại và ở lỳ trong đó tới sáng. Rồi trong lúc ông chủ và Hạ đương ngồi ăn sáng bà ấy chạy vào, người run quýnh lên, hỏi ai có thể mời bác sĩ giúp bà không vì Tôn đau nặng.

    Ông chủ Hy tôi đáp:

    ‘Biết rồi! Nhưng cái mạng của nó không đáng một đồng xu. Tôi cũng không tiêu phí một đồng xu cho nó.’

    Bà Tôn nói:

    ‘Nhưng tôi biết làm sao bây giờ? Không ai giúp tôi thì Tôn chết mất.’

    Ông chủ nạt lớn:

    ‘Cút ngay! Tôi không muốn nghe ai nhắc đến nó nữa! Ở đây không ai hơi đâu bận tâm đến nó. Nếu cô quan tâm thì cô tự săn sóc lấy. Bằng không thì cứ nhốt nó lại mặc xác nó.’

    Bà ta quay ra rầy rà tôi. Tôi đáp là tôi đã khổ về cậu ấy lắm rồi. Mỗi người mỗi việc: việc của bà ta là săn sóc Tôn và ông Hy đã ra lệnh cho tôi để mặc bà ta làm việc ấy.

    Họ đã xoay sở với nhau ra sao, tôi chả biết sao mà nói. Tôi chắc cậu quấy quá ghê lắm, cậu rên rẩm suốt ngày đêm. Bà Tôn thì ít được nghỉ ngơi: cứ trông cái vẻ mặt xanh mướt và đôi mắt nặng chịch thì đủ biết. Thỉnh thoảng bà ta vào nhà bếp, ngơ ngơ ngác ngác, có vẻ như muốn cầu xin sự giúp đỡ. Nhưng tôi đâu có dám trái lời ông chủ dặn. Chưa bao giờ tôi dám trái lời ông ấy, bà Diễn ạ! Tôi biết không cho mời ông đốc tờ Kiên là sái, nhưng tôi là cái quái gì mà dám cho ý kiến, mà than vãn để người ta nghe thấy. Tôi chả dại gì mà dính vào chuyện thiên hạ. Có một hai lần sau khi mọi người đi ngủ cả rồi tôi tình cờ mở cửa ra thì thấy bà Tôn ngồi ở đầu cầu thang khóc, tôi quay về phòng ngay. Tôi sợ bị mủi lòng mà lôi cuốn vào chuyện riêng của bà ấy. Thực tình, những lúc đó tôi nghĩ cũng thương bà ta nhưng dại gì để mất chỗ làm, nói thế chắc bà hiểu.

    Rồi một đêm bà Tôn chạy xộc vào phòng tôi, nói làm tôi hoảng hồn:

    ‘Chị đi báo ngay cho ông Hy biết con trai ông ấy sắp chết... lần này thì chắc chắn. Chị dậy báo tin ngay đi...’

    Nói xong bà ta biến mất. Tôi nằm nghe ngóng đến mười lăm phút, người cứ sợ run lên. Nhưng chẳng thấy một tiếng động nào cả, suốt nhà im lặng như tờ.

    Tôi nghĩ bụng: 'Chắc bà ấy lầm. Tôn hết cơn đau rồi. Chẳng cần mất công làm rộn mọi người'. Tôi đương thiu thiu ngủ lại thì một tiếng chuông giật mạnh làm tôi tỉnh giấc... cái chuông duy nhất trong nhà dành riêng cho Tôn dùng khi khẩn cấp. Ông chủ gọi tôi, bảo lên coi xem có chuyện gì và bảo chúng nó biết là ông không muốn tiếng ồn ấy được lập lại.

    Tôi báo cho ông Hy biết việc Liên nhờ tôi báo tin. Ông chửi thề. Mấy phút sau ông cầm cây đèn nến đi lên phòng họ. Tôi theo sau.

    Bà Tôn ngồi cạnh giường, tay khoanh trên đầu gối. Ông chủ tiến vào đưa ngọn nến soi mặt Tôn bắt mạch rồi quay sang bà hỏi:

    ‘Sao? Cô thấy sao?’

    Không có tiếng trả lời. Ông nhắc lại:

    ‘Cô cảm thấy sao, Liên!’

    Bà Tôn nói:

    ‘Tôn chết rồi. Tôi được tự do. Lẽ ra tôi phải cảm thấy dễ chịu...nhưng (Liên nói tiếp với vẻ chua chát) ông đã bỏ tôi một mình chống chọi với cái chết lâu quá nên tôi chỉ thấy những chết là chết. Tôi cảm thấy mình như người chết rồi!’

    Nom bà ta cũng có vẻ như chết rồi thật! Tôi rót cho bà ít rượu. Hạ và Dọi, nghe tiếng chuông và tiếng chân nhộn nhịp cũng đều thức giấc và sau khi nghe chuyện đối đáp trong phòng cũng kéo nhau vào. Thằng bé chết, Dọi không có vẻ buồn, vui là khác, tôi đoán thế. Hạ thì hơi bối rối một chút, tuy nhiên hắn mải giương mắt nhìn Liên hơn là nghĩ tới Tôn. Ông chủ bảo Hạ về phòng ngủ, không ai cần đến hắn. Rồi ông bảo lão Dọi đem xác Tôn qua phòng lão, đuổi tôi ra, thế là chỉ còn bà Tôn một mình trong phòng.

    Sáng hôm sau, ông chủ sai tôi kêu bà ấy xuống ăn sáng... Mợ đã cởi quần áo, có vẻ như sắp đi ngủ và nói là bà ta đang ốm. Tôi không ngạc nhiên, xuống nói lại cho ông Hy biết thì ông ấy bảo:

    ‘Thôi. Mặc nó cho đến khi đưa đám xong. Thỉnh thoảng chị lên mang cho nó những thức cần dùng. Khi nào thấy nó kha khá nhớ cho tôi biết.’

    Theo lời Dị nói thì Liên ở lỳ trên lầu đến hai tuần lễ. Mỗi ngày Dị lên thăm nàng hai lần. Dị tỏ ra thân thiện với nàng hơn, nhưng ý muốn làm thân của Dị đều bị nàng khước từ một cách cao ngạo.

    Một lần Hy lên lầu, đưa nàng xem bản chúc thư của Tôn. Nó di tặng cho cha nó tất cả những gì nó có, kể cả những bất động sản của Liên. Thằng bé đáng thương đã bị đe dọa hoặc bị dỗ dành làm chuyện đó trong thời gian Liên vắng mặt một tuần khi bác nó chết. Còn về đất đai, vì Tôn còn là vị thành niên nên không được quyền xử dụng. Nhưng ông Hy đã đòi giữ các phần đất ấy theo quyền thừa hưởng của vợ ông cũng như của chính ông một cách hợp pháp, tôi chắc thế. Dẫu sao, Liên vì không bè bạn không tiền bạc nên không thể tranh giành tài sản với hắn được.

    Dị kể rằng:

    “Ngoại trừ có một lần ấy, còn ngoài tôi ra không một ai tới cửa phòng bà ta bao giờ... cũng chẳng ai hỏi han gì bà. Lần đầu tiên bà ấy xuống nhà là một buổi trưa chủ nhật.

    Khi tôi mang bữa trưa lên thì bà Tôn kêu lạnh không chịu nổi. Tôi báo cho bà ấy biết là ông chủ đang sửa soạn sang bên Họa Mi Trang, còn Hạ và tôi thì đâu có cấm bà ấy xuống nhà dưới. Vừa nghe tiếng vó ngựa của ông chủ là bà ta xuống ngay, mặc toàn đồ đen, tóc chải vén mang tai vuốt ra sau gáy nom rất giản dị vì bà ấy không biết cách chải bồng.

    Ngày chủ nhật Dọi và tôi thường đi lễ. Dọi đã đi trước nhưng hôm ấy tôi nghĩ tốt hơn nên ở nhà. Hạ tuy nhút nhát thật nhưng hắn không phải là mẫu người lịch sự, cần phải có người lớn trông chừng.

    Tôi bảo hắn biết là cô em họ có lẽ sắp xuống nhà dưới, bà ấy rất coi trọng ngày của Chúa vậy hắn không nên rớ tới súng đạn trước mặt bà ta. Nghe thấy thế, hắn đỏ mặt lên, đưa mắt nhìn lại bàn tay và quần áo mình. Dầu nhớt và thuốc súng được chùi sạch trong giây phút. Tôi thấy hắn có ý đánh bạn với bà Liên và xem điệu bộ, tôi đoán hắn định ăn mặc cho ra vẻ một chút. Tôi vừa phì cười - có ông chủ ở nhà tôi đâu dám cười thế - vừa bảo tôi sẵn sàng giúp hắn một tay, nếu hắn muốn. Tôi bông đùa giễu hắn vì thấy hắn quýnh quáng quá. Không ngờ hắn xa xầm nét mặt lại và lẩm bẩm chửi thề.”

    Dị thấy tôi không thích cái lối bông đùa của chị ta, mới nói:

    “Bà Diễn ạ, chắc có lẽ bà coi cô chủ quá cao sang đối với Hạ. Có thể bà có lý. Nhưng thú thực là tôi lại muốn hạ bớt cái thói kiêu căng của bà ta xuống một bậc. Thử hỏi tất cả những cái học vấn và vẻ thanh nhã của bà ta phỏng giúp được gì cho bà ấy? Bây giờ bà ấy cũng nghèo như bà và tôi, nghèo hơn là đằng khác, tôi dám cá như vậy. Bà còn để dành dụm được, còn tôi cũng bỏ ống từng xu nhỏ...”

    Hạ để cho Dị giúp ăn mặc cho tề chỉnh. Chị ta lại tâng bốc anh chàng khiến anh chàng khoái. Khi Liên tới - theo lời Dị kể - chàng quên gần hết những lời chửi bới nàng hôm trước và cố làm đẹp lòng nàng.

    Dị nói, “Bà ta đi vào, mặt lạnh như tiền và cao ngạo như bà chúa. Tôi đứng dậy nhường ghế cho bà ấy ngồi. Nhưng bà không thèm để ý đến phép lịch sự của tôi, vênh mặt lên quay nhìn chỗ khác. Hạ cũng đứng dậy, mời bà ấy đến chiếc ghế dài ngồi gần lò sưởi vì hắn tin là bà ta đương rét cóng.

    Bà ấy gằn từng tiếng đáp lại một cách mỉa mai:

    ‘Tôi đã rét cóng từ hơn một tháng trời rồi.’

    Rồi bà ta tự nhấc một chiếc ghế ngồi cách xa hai đứa chúng tôi. Ngồi một lúc cho ấm rồi bà đưa mắt nhìn xung quanh và thấy mấy quyển sách trên tủ chén. Thế là bà ta đứng ngay dậy kiễng chân lên lấy nhưng không với tới vì cao quá. Thằng anh họ ngồi nhìn bà loay hoay một hồi mới thu hết can đảm đứng lên lấy giúp. Bà ta túm vạt áo mình lên hứng, hắn vớ được cuốn nào lại bỏ vào đấy.

    Đó là bước đầu có lợi lớn cho thằng nhỏ... Tuy bà Liên không nói cám ơn, nhưng Hạ thấy sung sướng được bà nhận sự giúp đỡ của mình và hắn còn dạn dĩ đứng sau lưng bà trong lúc bà đọc sách. Hắn cúi xuống chỉ trỏ mấy chỗ vẽ hắn thấy khoái trong mấy bức tranh. Bà ấy giật trang sách không để ngón tay của hắn chạm vào. Hắn không tỏ vẻ khó chịu, chỉ khẽ lùi người một chút và ngó bà ta thay vì ngó sách. Trong lúc bà mải đọc hắn cứ ngắm mãi những lọn tóc dầy và xoăn của bà ta, rồi như một đứa con nít nhìn mãi vào ngọn lửa và bị thôi miên, hắn bắt đầu rờ rẫm trong vô thức. Hắn đưa bàn tay vuốt ve lọn tóc một cách nhẹ nhàng như vuốt ve một con chim. Bà ta bỗng giật mình quay phắt lại, hoảng hốt như thể vừa bị hắn đâm một nhát dao vào cổ.

    ‘Cút ngay! Sao dám đụng vào tôi? Đứng đực mặt ra đấy à? (Bà ta la lên, giọng khinh bỉ). Anh làm tôi khó chịu. Nếu anh còn tới gần tôi, tôi sẽ bỏ ngay lên gác!’

    Hạ, dáng điệu ngờ nghệch, lùi lại. Hắn ngồi xuống ghế, nín khe; còn bà ta thì tiếp tục lật các trang sách đến nửa giờ đồng hồ nữa. Sau cùng, Hạ bước lại phía tôi, nói khẽ:

    ‘Chị nói cô ấy đọc to lên cho tụi mình nghe đi, chị Dị. Ngồi không tôi chán lắm... tôi thích... thích nghe cô ấy đọc. Nhưng chị đừng nói là tôi thích nhé. Chị làm như chị thích ấy...’

    Tôi nói ngay:

    ‘Thưa mợ, cậu Hạ muốn xin mợ đọc chuyện cho chúng tôi nghe. Cậu ấy sẽ... sẽ cám ơn mợ lắm.’

    Bà ta cau mày, ngước lên nói:

    ‘Anh Hạ, và tất cả mấy người ở đây, xin mấy người nhớ rằng tôi không ưa mấy người săn sóc tôi. Mấy người chỉ giả nhân giả nghĩa thôi. Tôi khinh mấy người. Tôi không muốn nói chuyện với mấy người. Trong khi tôi hy sinh cả một đời để đổi lấy một lời âu yếm của một người trong bọn các ngươi thì tất cả các ngươi đều xa lánh tôi. Nhưng tôi chả phàn nàn với các người làm gì! Tôi chỉ vì lạnh cóng nên mới phải ra khỏi phòng. Tôi không xuống đây để làm trò giải trí cũng không phải để bầu bạn với mấy người.’

    Hạ mở miệng nói:

    ‘Tôi làm gì cơ chứ? Sao lại mắng tôi?’

    ‘Ừ! Anh là một ngoại lệ. Anh có ân cần với tôi cũng bằng thừa. Tôi đâu cần!’

    Hạ đáp:

    ‘Đã nhiều lần tôi tình nguyện... tôi xin... xin ông Hy để tôi được thức thay cô...’

    ‘Im đi! Nếu không im tôi ra khỏi phòng này ngay. Tôi đi đâu không cần biết miễn là đi khuất mắt để khỏi phải nghe cái giọng khó chịu của anh.’

    Hạ làu nhàu nguyền rủa ma quỷ bắt bà ta đi. Rồi hắn đứng lên, bất kể ngày của Chúa kiêng sát sinh, hắn nhấc cây súng ở trên tường xuống. Bà Liên định rút lui vào phòng riêng và nằm lỳ trong đó, nhưng khốn nỗi trời bắt đầu đổ mưa tuyết lạnh giá khiến bà ta dù kiêu ngạo cũng đành phải ở với bọn tôi ngày một lâu hơn.

    Để bà ta khỏi khinh rẻ tôi, tôi luôn luôn tỏ ra cứng cỏi không thua bà ta. Chả ai ở bên đó thương bà, với lại, bà ta cũng chả đáng được ai thương. Hễ ai nói động một tiếng là bà ta quặu cọ chả nể nang ai. Bà ta chửi cả ông chủ, dám thách ông chủ đánh bà. Càng bị đánh đau bà ta càng nanh nổ.”

    Thoạt đầu, nghe Dị kể, tôi đã tính bỏ việc, kiếm một ngôi nhà nhỏ và tìm cách đưa Liên về ở với tôi. Nhưng nếu Hy cho phép tôi làm thế thì có khác nào hắn gây dựng cho Hạ ở một căn nhà riêng. Bây giờ tôi thấy chỉ có một cách giải quyết là đưa nàng sang ngang, một dự tính mà tôi không đủ khả năng để thực hiện.
    *
    Câu chuyện của bác Diễn kể đến đây là kết thúc.

    Trái với lời bác sĩ, tôi lại sức rất nhanh. Tuy mới trung tuần tháng giêng tôi đã có ý định một hai ngày nữa cưỡi ngựa đến Gió Hú báo cho chủ nhà biết tôi sắp về Luân Đôn ở sáu tháng tới và nếu tiện, sau tháng mười, ông ta có thể tìm một khách thuê khác. Không có gì bắt buộc tôi phải ở đây thêm một mùa đông nữa.

    Chương 31

    Hôm qua trời trong, êm và lạnh, theo đúng ý định tôi đến Đỉnh Gió Hú. Bà Diễn yêu cầu tôi đem một bức thư cho cô chủ của bác. Tôi không từ chối.
    Cửa trước bỏ ngỏ nhưng cây chắn ngang thì khóa lại cẩn thận. Tôi gọi cửa và ra hiệu cho Hạ - lúc ấy đang làm vườn - kéo cây chắn lên. Tôi thúc ngựa vào. Hạ quả là một anh chàng nhà quê đẹp trai hiếm thấy. Lần này tôi ngắm Hạ thật kỹ. Gã dường như đã cố làm cho mình nom tươm tất hơn.
    Tôi hỏi ông Hy có nhà không? Anh chàng đáp không, nhưng tới bữa ăn ông ấy sẽ về. Lúc ấy là mười một giờ, tôi ngỏ ý muốn ngồi đợi trong nhà. Nghe thế anh ta liền quẳng ngay đồ làm vườn xuống đi theo tôi với vẻ mặt như một con chó giữ nhà hơn là có ý thay mặt chủ nhân đi vắng.

    Chúng tôi cùng vào. Liên đương bận làm rau. Nàng có vẻ buồn và ít linh hoạt hơn lần trước tôi gặp. Nàng chỉ hơi ngước mắt nhìn tôi rồi lại tiếp tục công việc, vẫn bất chấp phép lịch sự như lần trước không chào hỏi cũng không có lấy một cử chỉ nào đáp lễ.

    Tôi nghĩ bụng: “Nàng không có vẻ dễ thương như ý bà Diễn muốn ngỏ cho mình biết. Đẹp thì có đẹp, đó là cái chắc, nhưng nàng không phải thiên thần.”

    Chàng Hạ nói xẵng bảo nàng đem rau vào bếp. “Anh đi mà dọn lấy!” nàng nói. Vừa làm xong là nàng đẩy mọi thứ về phía Hạ, ra ngồi trên chiếc ghế đẩu bên cửa sổ. Nàng lấy ra những mẩu củ cải thừa đựng trong vạt áo đem cắt thành hình những con chim. Giả vờ như để ngắm cảnh vườn, tôi lại gần nàng và lén bỏ bức thư của bà Diễn vào lòng cô ta không để Hạ trông thấy. Tưởng làm thế là khôn khéo lắm nào ngờ cô ta hất bức thư ra lớn tiếng hỏi:

    “Cái gì thế này?”

    Tôi chán quá vì nàng đã vô ý không biết tôi làm thế là để giúp nàng, lại còn oang oang lên hết cả kín đáo. Tôi lại sợ người ta nghi chính tôi là tác gỉa bức thư đó nên vội nói:

    “Một bức thư của người quen cũ của cô, làm quản gia ở Họa Mi Trang."

    Nghe nói vậy, nàng nhặt mảnh giấy lên, nhưng Hạ đã nhanh tay hơn. Anh ta nhặt ngay lấy bỏ túi và nói phải đưa cho ông Hy coi trước. Thế là Liên chẳng nói chẳng rằng xoay lưng về phía chúng tôi, lén rút khăn tay lên chậm mắt. Còn gã anh họ nàng sau một hồi chống trả với lương tâm bèn rút bức thư trong túi ra quẳng xuống đất bên cạnh nàng một cách hậm hực. Liên vội vồ lấy thư đọc ngấu nghiến. Sau đó nàng hỏi thăm tôi vài câu về người nọ người kia bên Họa Mi Trang. Nhìn ra rặng đồi phía xa nàng nói lẩm bẩm:

    “Ước gì mình được cưỡi con Minh Nhi phóng xuống sườn đồi kia! Ước gì mình được trèo lên ngọn đồi kia! Ôi! Tôi mệt mỏi... Tôi chán ngán vô cùng..."

    Nàng ngả đầu vào thành cửa sổ, nửa như ngáp nửa như thở dài, đắm mình trong nỗi buồn xa vắng như không còn thiết đến chuyện gì ở xung quanh.
    Sau một lúc ngồi im, tôi lên tiếng:

    “Thưa bà Tôn, thưa cô, chắc cô không thể nào ngờ là tôi đã quen biết cô. Biết một cách hết sức thân thiết đến nỗi tôi lấy làm lạ vì sao cô lại không nói với tôi vài câu. Bà Diễn đã nói với tôi rất nhiều về cô và ca tụng cô hết lời. Bà ấy sẽ thất vọng ghê lắm nếu tôi về không đem một chút tin tức hay thư từ gì của cô, mà chỉ nói là cô đã nhận thư mà chả nói một câu nào."

    Nàng có vẻ ngỡ ngàng nghe tôi nói như vậy. Nàng hỏi:

    “Vú Diễn có thích ông không?”

    Tôi đáp ngay:

    “Có... có chứ."

    “Nhờ ông nói lại là tôi rất muốn trả lời thư của bà ấy nhưng tôi chả có tí giấy bút nào để viết cả, thậm chí không có lấy một quyển sách để tôi có thể xé ra một tờ để viết.

    Tôi kêu lên:

    “Không có lấy một quyển sách? Nếu cô không cho tôi là quá tò mò, thử hỏi làm sao mà cô có thế sống được ở đây mà không có sách đọc? Như tôi đây này tuy ở Họa Mi Trang có cả một tủ sách lớn thế mà tôi còn vẫn thấy buồn. Nếu lấy hết sách đi chắc là tôi buồn chết đi được."

    “Có sách thì tôi đọc không ngừng. Nhưng ông Hy không bao giờ đọc sách. Vì vậy đầu óc của ông ta chỉ nghĩ đến việc tiêu hủy sách. Từ nhiều tuần nay rồi tôi không nhìn thấy một cuốn sách nào. Chỉ có một lần tôi lục đống sách thần học của Dọi. Lão ta bực lắm. Và một lần nữa, Hạ này, tôi tóm được một mớ anh dấu trong phòng... mấy cuốn sách tiếng La Tinh và Hy Lạp, một số truyện và thơ - tất cả đều là sách quý của tôi - tôi đem từ Họa Mi Trang qua, và anh đã vơ vét chỉ để thỏa cái tính thích ăn trộm của anh. Chúng có giúp ích gì được cho anh đâu? Hay là anh đã dấu đi cho bõ tức: mình không đọc được thì cũng không thèm cho người khác đọc! Mà chưa biết chừng cũng vì đố kỵ mà anh đã xúi ông Hy lấy hết kho sách quý của tôi. Có phải thế không? Nhưng tôi đố mấy người chiếm được kho sách của tôi! Nó đã nằm ở trong đầu tôi, nó đã in vào óc tôi!”

    Bị lật tẩy, anh chàng Hạ ngượng nghịu, mặt đỏ như gấc, lắp bắp chối bay chối biến. Tôi tìm cách nói gỡ cho gã:

    “Cậu Hạ đây muốn học hỏi cho rộng thêm kiến thức. Không phải vì cậu ấy đố kỵ đâu mà chỉ vì muốn ganh đua kiến thức với cô đấy."

    Liên đáp:

    “Và trong lúc chờ đợi, anh ấy muốn tôi trở thành một đứa ngu si! Vâng, tôi có nghe anh chàng cố đánh vần và đọc một mình. Anh ta đọc trật lất nghe buồn cười lắm. Này, anh thử đọc lại đoạn hôm qua xem... thật kỳ cục... Tôi thấy anh giở tự điển tra nghĩa chữ khó rồi chửi thề vì không đọc được lời giải thích trong tự điển..."

    Hiển nhiên là anh chàng đau lòng thấy mình bị chê là dốt. Lại càng đau hơn nữa bị chế nhạo vì cái tội muốn gột rửa cái dốt của mình. Tôi chia sẻ với anh ta nỗi đau đó và chợt nhớ lại câu chuyện bác Diễn kể về lần đầu tiên anh ta cố gắng vượt ra khỏi cảnh ngu tối mà anh bị giam hãm từ khi còn nhỏ. Tôi nói:

    “Nhưng, thưa cô, chúng ta ai ai cũng phải chập chững bước đầu. Ai ai cũng phải xẩy chân, phải ngã xiêu ngã vượn ở ngưỡng cửa. Nếu các thầy giáo cô giáo thay vì nâng đỡ lại khinh miệt chúng ta, thì chắc chắn chúng ta sẽ còn xẩy ngã không biết bao nhiêu lần nữa."

    “Ô! Tôi đâu có muốn cản trở anh ấy học hỏi. Nhưng anh ấy không có quyền chiếm hữu sách vở của tôi làm của riêng rồi đem ra đọc một cách sai lạc và lố bịch. Những sách đó chứa đựng nhiều kỷ niệm nên đối với tôi rất là thiêng liêng. Tôi rất bực mình thấy chúng bị ô uế trong lỗ miệng anh ta! Hơn nữa anh chàng lại cứ nhè đúng những bài tôi thích nhất để đọc đi đọc lại, y như thể hắn có dụng tâm chọc tức tôi vậy!”

    Trong một lúc lâu, Hạ yên lặng, ngực phập phồng. Chàng ta bị sỉ nhục nặng và tức giận cực điểm, lòng xúc động mạnh khó lòng có thể dẹp xuống dễ dàng. Tôi đứng lên, lại bực cửa ngắm phong cảnh với nhã ý tránh cho anh chàng khỏi bị bối rối. Hắn cũng đứng lên theo, ra khỏi phòng, nhưng rồi quay lại ngay, tay ôm đến nửa tá sách. Hắn vứt lên đùi Liên, nói:

    “Đây. Giữ lấy! Từ nay tôi không bao giờ muốn nghe đến, đọc đến hay nghĩ đến sách vở nữa!”

    Cô ả đáp:

    “Bây giờ thì tôi không thèm nữa! Tôi ghét những quyển sách này vì anh đã làm nhơ bẩn rồi."

    Nàng mở một cuốn. Cứ trông cũng biết cuốn sách ấy thường được lật mở từng trang. Nàng đọc một đoạn, giọng ê a như người mới tập đọc. Rồi cô ả cười rộ lên, quăng sách đi và nói tiếp, giọng khiêu khích:

    “Nghe đây nữa!” Rồi cũng vẫn cái giọng ê a ấy cô ả ngâm một bài ca cổ.

    Lòng tự ái không cho phép Hạ chịu đựng hơn nữa. Tôi nghe thấy - mà không hoàn toàn phản đối - một tiếng tát bốp vào cái miệng hỗn xược của cô ả. Cô gái quái ác ấy đã xúc phạm nặng nề người anh họ kém học thức nhưng dễ xúc cảm kia và cách tranh luận bằng tay chân là cách duy nhất mà anh ta có thể dùng để làm câm miệng con người gây sự.

    Hạ vơ mấy cuốn sách quăng vào lửa. Tôi đọc được trên nét mặt Hạ nỗi đau khổ vô bờ mà hắn phải hy sinh cho mối hờn uất của mình... Tôi hình dung trong lúc những cuốn sách ấy cháy rụi anh ta nhớ lại niềm vui chúng đã mang đến, cái thú vị mỗi lúc một tăng lên mà hắn tiên liệu sẽ được hưởng, cái cố gắng dùi mài học hỏi một cách giấu diếm... Từ trước đến nay hắn vẫn an phận với công việc cực nhọc hàng ngày với những thú vui thô lỗ của một gã nông dân. Cho tới khi Liên xuất hiện trên con đường đời của mình. Từ cái nhục nhã bị nàng khinh miệt, từ niềm hy vọng được nàng tán thưởng, chàng ta đã nẩy ra ý tưởng cầu tiến và những khát vọng cao xa hơn. Nhưng thay vì được khen ngợi khuyến khích, hắn chỉ nhận được sự khinh thị, thành thử tất cả cố gắng cầu tiến của hắn chỉ đem đến những kết quả hoàn toàn trái ngược.

    “Phải, cái đồ vũ phu như anh thì chỉ học được trong sách mỗi cái cách đó thôi!”

    Liên la lên, liếm chỗ môi bị vả, nhìn đống sách cháy bằng đôi mắt phẫn nộ.
    Hạ cáu kỉnh đáp:

    “Cô nên câm ngay mồm đi."

    Hắn tức quá, không nói thêm được câu nào, vùng vằng đi ra cửa. Tôi tránh lối cho hắn đi qua. Nhưng khi hắn sắp bước qua ngưỡng cửa thì đụng ông Hy ở dưới thềm bước lên. Ông ta đặt tay lên vai hắn, hỏi:

    “Kìa, có chuyện gì thế?”

    “Không có gì hết."

    Và anh chàng lỉnh ra một chỗ vắng để nuốt hận tiêu sầu. Hy nhìn theo, thở dài. Không biết có tôi đứng đằng sau, ông ta lẩm bẩm:

    “Kể cũng lạ thật. Mình lại tự làm hỏng kế hoạch của mình. Nhưng khi mình cố tình tìm xem trên khuôn mặt nó có nét gì giống cha nó không, thì mình chỉ thấy nó giống nàng, mỗi ngày một giống hơn! Quỷ thiệt, sao giống thế? Thấy nó là mình không chịu nổi!”

    Ông Hy cúi gầm xuống bước vào nhà, mặt lộ vẻ bồn chồn lo âu mà trước kia tôi không hề nom thấy. Người ông trông cũng có vẻ gầy đi.

    Cô nàng dâu nhìn qua cửa sổ thấy ông ta vội lánh ngay vào bếp, thành thử trong phòng chỉ còn mình tôi. Đáp lời tôi chào hỏi, ông ta nói:

    “Thấy ông ra khỏi nhà được tôi cũng mừng, ông Lộc ạ. Một phần cũng do lòng ích kỷ. Tôi không dễ dàng tìm được người thay thế ông ở cái nơi khỉ ho cò gáy này. Đã nhiều lần tôi tự hỏi không biết cái gì đã dẫn ông tới đây."

    “Thưa ông, có lẽ cái bản tính bất thường nó xúi tôi đến đây, và lại cũng lại chính cái tính đó nó xúi tôi đi. Tuần tới tôi đi Luân Đôn rồi. Tôi đến để báo ông biết tôi không có ý định ở Họa Mi Trang quá mười hai tháng như tôi đã thuê. Tôi chắc là mình sẽ không còn ở đây nữa."

    “Ồ! Thực vậy sao? Chắc ông đã chán bị đầy xa nơi đô hội chứ gì? Nhưng nếu ông đến để xin trừ bớt tiền nhà những tháng ông không ở thì ông đã phí công rồi đấy. Không bao giờ tôi lại bỏ qua, không bắt người có nợ phải trả tôi sòng phẳng, bất kể người ấy là ai."

    Tôi bất bình, lớn tiếng đáp:

    “Tôi đến đây không phải để xin bớt tiền như ông tưởng. Nếu ông muốn, tôi xin thanh toán ngay."

    Nói rồi, tôi rút ví tiền trong túi ra. Hy lạnh lùng đáp:

    “Không, không. Ông đặt cọc nhiều mà, đủ để bảo đảm số nợ của ông nếu ông không trở lại.... Tôi không gấp đâu... Mời ông ngồi và dùng cơm với chúng tôi... một vị khách mà chủ nhà biết chắc sẽ không trở lại thường được tiếp đãi nồng hậu... Liên! Dọn bàn đi! Đi đâu rồi?”

    Liên ra dọn bàn. Hy khẽ bảo riêng nàng:

    “Cô ăn cơm trong bếp với Dọi và ở luôn trong đó cho đến khi khách đi khỏi, nghe không?”

    Nàng làm đúng y lời Hy. Ngồi một bên là ông Hy dữ dằn và lầm lỳ, một bên là Hạ, câm như ngậm hột thị, tôi ăn không lấy gì làm ngon và cáo từ về sớm. Tôi định đi ra bằng ngã sau để được nhìn Liên lần chót và để chọc tức lão Dọi chơi, nhưng Hạ đươc lệnh giắt ngựa của tôi ra và chủ nhà thì đích thân tiễn tôi ra tận cửa nên tôi không thực hiện được ý định.

    Vừa cưỡi ngựa xuống dốc tôi vừa nghĩ bụng: “Trời! Trong cái nhà này sao người ta lại sống cuộc đời buồn não đến thế... Giả dụ - như bà vú của nàng mong ước - Liên và mình có duyên với nhau và hai người lấy nhau về chung sống nơi đô hội nhộn nhịp thì đó thực là một chuyện tình thơ mộng còn đẹp hơn cả chuyện thần tiên!”
    (còn tiếp)

  5. #34
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    Chương 32

    Năm 1802 - Vào tháng chín, một người bạn mời tôi đi thăm đồn điền của anh ta ở miền bắc. Tôi không ngờ chỗ tôi đến chỉ cách Diên-Mễ-Tôn khoảng hơn hai chục cây số.

    Tại một quán ăn bên đường người phu ngựa đang xách thùng nước cho ngựa tôi uống thì một chiếc xe chở lúa mới gặt đi qua. Anh ta nói:

    “Xe này phải đến từ Diên Mễ Tôn. Ở đấy bao giờ cũng gặt hái chậm hơn nơi khác ba tuần."

    Tôi buột miệng:

    “Diên Mễ Tôn?”

    Thời gian tôi ở chốn đó chỉ lờ mờ trong kỷ niệm như trong một giấc chiêm bao. Tôi kêu lên:

    “A! Tôi biết Diên Mễ Tôn! Từ đây đến đó bao xa?”

    Anh phu ngựa đáp:

    “Hai mươi bốn cây. Phải đi qua ngọn đồi kia và đường đi xấu lắm."

    Tôi đột nhiên muốn đến thăm Họa Mi Trang. Lúc đó mới xế trưa, tôi nghĩ tội gì mình phải ở nhà trọ trong khi mình có thể nghỉ đêm ở nhà mình [1] . Vả lại tôi có thể dễ dàng bỏ ra một ngày để thanh toán công chuyện với ông chủ nhà, có phải đỡ mất công đi đi về về không? Nghỉ ngơi một lát tôi bảo anh người hầu của tôi đi hỏi thăm đường tới làng. Ba tiếng đồng hồ sau ngồi mệt trên lưng ngựa chúng tôi tới Diên Mễ Tôn.

    Tôi để anh người hầu ở trong làng, một mình tôi đi ngựa xuống thung lũng.

    Ngôi nhà thờ xám trông xậm màu hơn và khu nghĩa trang hiu quạnh nay càng quạnh hiu. Một đàn cừu từ ngoài đồng kéo tới gậm cỏ trên các ngôi mộ. Trời êm ả nhưng lại nóng quá sức, nhất là đối với khách đi đường xa, nhưng cái nóng không ngăn được tôi thưởng thức phong cảnh tuyệt đẹp trên núi cao và dưới thung lũng thấp kia. Nếu nhằm tháng tám chắc tôi dám ở lại nơi cô quạnh này cả tháng cũng nên. Mùa đông ở đây quả là thê lương nhưng mùa hạ thì lại đẹp tuyệt vời với những thung lũng hẹp nằm gọn giữa bốn bề đồi núi và những gò đá dốc đứng, sắc nét.

    Tôi tới Họa Mi Trang trước khi trời tối. Tôi gõ cửa. Bên trong im lìm. Nhìn lên mái bếp có một làn khói xanh bay tỏa tôi đoán là mọi người ở cả phía sau nhà nên không nghe tiếng tôi gọi. Tôi vào sân. Một con bé chừng chín mười tuổi đang ngồi đan dưới cửa và một mụ già đứng tựa bực tam cấp mơ màng hút thuốc.

    Tôi hỏi:

    “Bà Diễn có nhà không?”

    “Bà Diễn à? Không. Bà ta không ở đây nữa, ở trên kia, trên Đỉnh Gió Hú ấy."

    “Vậy bà là người trông coi nhà?”

    “Vâng, phải."

    “Tôi là Lộc, chủ nhà đây. Tôi muốn ở đây đêm nay. Có phòng cho tôi ngủ không?”

    “Trời, ông chủ - mụ ngạc nhiên kêu lên - ông tới bất ngờ quá! Sao ông không báo trước? Chẳng có một chỗ nào khô ráo đáng để cho ông ở được trong cái nhà này. Không có chỗ nào cả."

    Mụ vứt tẩu thuốc xuống, hối hả đi vào, con nhỏ theo sau. Tôi cũng vào và nhận thấy ngay là mụ ta nói đúng. Thấy việc tôi đến đột ngột làm mụ ta quýnh cả lên, tôi vội trấn an, bảo mụ cứ từ từ mà làm việc. Tôi nói tôi đi dạo quanh nhà, mụ liệu dọn dẹp một góc phòng khách làm nơi ăn và một góc phòng ngủ làm chỗ ngủ. Khỏi cần quét dọn, lau chùi: tôi chỉ cần lửa ấm và chăn nệm khô ráo. Mụ có vẻ sốt sắng, nhưng mụ lại dùng chổi bới vỉ sắt trong lò sưởi thay vì dùng que cời than và các đồ dùng khác mụ cũng xử dụng lung tung như thế. Tôi bỏ đi, để mặc mụ dọn dẹp hầu kịp có chỗ ngủ khi tôi trở về.

    Trại Gió Hú mới thực là mục đích chuyến đi này của tôi. Đã đi ra khỏi sân rồi, nghĩ thế nào, tôi quay về hỏi mụ già:

    “Ở Gió Hú mọi chuyện vẫn bình thường chứ?”

    “Dạ, dạ. Theo tôi biết thì vẫn bình thường."

    Mụ vừa đáp vừa bưng một chảo tro nóng chạy biến đi. Tôi định hỏi vì sao bà Diễn lại không ở Họa Mi Trang nữa nhưng thấy mụ ta vội vội vàng vàng như thế nên tôi lại thôi và quay ra cửa đi luôn. Tôi đi thong thả. Khi tôi ra khỏi vườn trại đi trên con đường đá dẫn đến nhà ông Hy thì ánh mặt trời lặn phía sau lưng lịm dần đi và ánh trăng lên mờ dịu phía trước mỗi lúc một sáng tỏ hơn.

    Trước khi tầm mắt tôi có thể trông thấy tòa nhà Gió Hú thì ánh sáng ban ngày chỉ còn rơi rớt một dải sáng lờ mờ màu hổ phách chạy dài ở phía tây. Tuy nhiên nhờ ánh trăng tỏ tôi vẫn thấy rõ từng viên sỏi từng ngọn cỏ trên đường.

    Chẳng cần phải trèo qua cổng hay gõ cửa... lần này tôi chỉ khẽ đẩy là mở ra được. Có tiến bộ rồi đấy! Tôi nghĩ thầm. Mũi tôi lại phát hiện thêm một tiến bộ nữa: trong đám cây ăn trái trồng trong vườn nhà một mùi hoa đinh hương thoang thoảng bay trong không khí.

    Cửa ra vào và cửa sổ đều mở. Tuy nhiên, theo thói thường trong một khu vực có sẵn than, lửa trong lò sưởi lúc nào cũng vẫn cháy đỏ rực. Cảnh an lạc khiến người ta quên cả hơi lửa nóng. Vả lại phòng ở Gió-Hú rộng lắm nên người trong nhà có thừa chỗ để ngồi xa hơi nóng lò sưởi. Những người trong nhà lúc ấy tụ tập gần một chiếc cửa sổ. Chưa bước vào nhà mà tôi đã trông thấy và nghe thấy họ chuyện trò. Tôi chần chờ đứng đó và bỗng nẩy ra ý tưởng tò mò không vào ngay để coi xem họ làm gì và nói gì với nhau.

    Một giọng ngọt và trong như tiếng chuông cất lên:

    “Trái lại! Đây là lần nhứ ba em nhắc lại đấy nhớ, anh dốt như bò! Em không nhắc lại nữa đâu... cố mà nhớ lấy, nếu không em giựt tóc cho mà coi!”

    Một giọng khác, trầm và dịu, đáp:

    “Trái lại, đúng chưa? Thôi bây giờ hôn anh đi, anh nhớ đúng mà!”

    “Không. Đọc tất cả lại cho thật đúng cái đã. Không sai một chữ nào mới được!”

    Gã đàn ông bắt đầu đọc. Đó là một thanh niên ăn bận bảnh bao, một cuốn sách đặt trước mặt. Vẻ mặt vui tươi, gã đọc sách mà cứ chốc chốc lại liếc nhìn trộm bàn tay đặt trên vai gã, bàn tay thon nhỏ trắng trẻo sẵn sàng tặng gã một cái bạt tai mỗi khi gã tỏ ra lơ đãng.

    Người có bàn tay đẹp ấy đứng sau lưng gã. Lọn tóc vàng óng ả của nàng quyện vào mái tóc nâu của gã học trò mỗi khi nàng cúi xuống giám sát việc học. Và gương mặt nàng - cũng may mà gã không thấy được khuôn mặt ấy - nếu không thì gã chẳng thế nào chăm chú vào việc học hành cho nổi. Tôi thì tôi trông thấy nên phải cắn môi hối tiếc trước kia mình đã để lỡ cơ hội làm một cái gì khác hơn là để bây giờ phải đứng đây nhìn trộm nhan sắc quyến rũ của nàng.

    Bài học đã xong, không phải là không có thêm lỗi nào nữa nhưng anh học trò cứ đòi thưởng và được ít nhất năm cái hôn. Rồi họ đi ra cửa. Nếu lúc này tôi để lộ hình tích vô duyên của mình ra thì cái anh chàng Hạ này sẽ rủa tôi thậm tệ là cái chắc. Tốt hơn là tôi nên lỉnh ngay, mặc dù tôi biết làm như vậy là kỳ cục. Tôi lẻn phía cửa sau vào bếp. Ở đó tôi thấy bà bạn cũ của tôi, bác Diễn, đang ngồi ở cửa khâu vá, miệng hát khe khẽ. Bác bỗng ngưng hát vì một giọng nói chua như dấm vọng ra:

    “Tôi thà bị chửi còn sướng lỗ tai hơn nghe bà hát lải nhải mãi - tiếng người từ trong bếp như để trả lời câu gì của bác Diễn mà tôi không nghe rõ - Thực rõ là xấu hổ! Chả lúc nào tôi được yên thân mở Thánh Kinh ra đọc mà không bị giọng hát của bà phá đám. Bà thực là đồ vô tích sự! Mà cả “bà kia” cũng vô tích sự nốt. Cái thằng nhãi đáng thương rồi cũng đến hư đến hỏng vì hai bà mà thôi..."

    Bác Diễn cãi lại:

    “Thôi, thôi, ông im đi, ông già, ông cứ việc đọc Thánh Kinh cho trọn đạo, để ý đến tôi làm gì..."

    Bác định hát nữa nhưng tôi đã bước vào. Nhận ngay ra tôi, bác vội đứng dậy, bật kêu lên:

    “Trời đất! Ông Lộc! Ông nghĩ sao mà lại quay trở lại đây nữa thế? Bên Họa Mi Trang đã đóng cửa rồi, đáng lý ông phải báo cho chúng tôi biết trước để chúng tôi dọn dẹp đón tiếp mới phải!”

    Tôi đáp:

    “Tôi đã thu xếp ở tạm một bữa. Sáng mai tôi đi rồi. Sao bác lại dọn sang đây ở thế, bác Diễn?”

    “Chị Dị nghỉ việc. Ngay sau khi ông đi Luân Đôn ông Hy bảo tôi sang đây ở cho tới khi ông về. Nhưng mời ông vào nhà ngồi chơi cái đã! Ông đi bộ từ Diên Mễ Tôn tới chiều nay?”

    Tôi đáp:

    “Tôi đi từ Họa Mi Trang. Trong lúc bà già dọn phòng cho tôi thì tôi tới đây để thanh toán công chuyện với ông chủ của bác vì tôi chắc sẽ chẳng có dịp nào dễ dàng đến đây được nữa.

    Bác Diễn đưa tôi vào trong nhà, hỏi:

    “Thưa ông, công chuyện gì cơ ạ? Chủ tôi hiện ra ngoài và chắc lâu mới về."

    “Vấn đề tiền nhà ấy mà."

    “Nếu vậy thì ông phải thu xếp với bà Tôn hoặc với tôi. Bà Tôn chưa quen điều khiển công việc và tôi làm thay bà ấy. Ngoài ra không có ai khác.

    Tôi ngạc nhiên. Bác Diễn nói tiếp:

    “Ôi! Thế ra ông chưa biết chuyện ông Hy chết?”

    Tôi sửng sốt kêu lên:

    “Ông Hy chết? Bao lâu rồi?”

    “Cách đây ba tháng. Kìa, ông hãy ngồi xuống đã. Ông đưa mũ cho tôi rồi để tôi kể ông nghe. Khoan, chắc ông chưa ăn uống gì, có phải thế không ạ?”

    “Bác để mặc tôi. Tôi đã dặn ở nhà làm cơm rồi. Bác cũng ngồi xuống đi. Tôi không thể ngờ ông ta lại có thể chết được. Đầu đuôi ra sao? Bác vừa nói chủ nhân đi ra ngoài... có phải bác muốn nói mấy người trẻ tuổi ấy không?”

    “Thưa vâng. Chiều nào tôi cũng phải mắng hai cô cậu ấy vì đi chơi lâu quá, nhưng họ bất chấp... Nhưng, ít ra cũng phải mời ông nhắm thử chút rượu bia quý lâu năm, ông sẽ thấy dễ chịu... coi bộ ông có vẻ mệt."

    Tôi chưa kịp từ chối thì bác ta đã chạy vụt đi lấy rượu. Tôi nghe có tiếng lão Dọi nói: “Thế này thì có tai tiếng không chứ? Già rồi mà còn lẳng lơ, nhân tình nhân ngãi... Lại còn tiếp người ta ở ngay trong phòng khách của chủ nhân nữa chứ. Già này cũng lấy làm xấu hổ.”

    Bác Diễn không đứng lại cãi. Chỉ một thoáng sau bác trở lại, tay bưng một cái bình bạc đầy tràn bọt rượu. Tôi uống và tấm tắc khen ngon. Rồi bác ta kể tiếp câu chuyện. Theo lời bác Diễn kể thì ông Hy đã chết một cách “kỳ quái”.

    *
    Ông đi cỡ nửa tháng thì tôi được gọi sang bên Gió Hú. Nghĩ đến Liên tôi vui vẻ tuân lời ngay. Hôm đầu gặp nàng, tôi buồn bực hết sức. Mới xa cách nhau ít lâu mà không ngờ nàng lại thay đổi đến thế. Ông Hy không nói lý do vì sao ông đổi ý gọi tôi đến đây; ông chỉ bảo là ông cần tôi và ông ngán thấy mặt Liên lắm rồi. Tôi phải dọn cái phòng khách nhỏ làm phòng chơi và giữ Liên ở đó với tôi. Mỗi ngày ông Hy chỉ phải gặp nàng một đôi lần là quá đủ rồi.

    Liên thích lối thu xếp như vậy. Dần dà tôi lén đem về rất nhiều sách và đồ chơi trước kia vốn là thú tiêu khiển của nàng ở Họa Mi Trang. Tôi mừng thầm là nàng và tôi được sống khá đầy đủ dễ chịu.

    Nhưng ước vọng ấy không được lâu. Thoạt đầu Liên tỏ vẻ bằng lòng, nhưng chỉ ít lâu sau nàng bực bội khó chịu vì nàng bị cấm không được ra vườn, cứ phải ru rú trong nhà khi mùa xuân đang đến gần. Lý do khác nữa là tôi vì bận lo công việc này nọ bắt buộc phải xa nàng luôn, nàng than cảnh cô độc và thích gây chuyện với lão Dọi ở trong bếp còn hơn là thui thủi một mình trong phòng. Tôi kệ họ chí chóe với nhau, nhưng Hạ lắm lúc cũng buộc phải mò xuống bếp mỗi khi ông chủ muốn độc chiếm nhà trên. Lúc đầu, cứ hễ Hạ vào thì nàng ra, hoặc đến bên tôi lẳng lặng giúp việc tôi và tránh không để ý, không nói chuyện với Hạ. Còn Hạ thì sưng sỉa và câm lặng. Sau một thời gian, nàng đổi thái độ. Nàng không chịu để Hạ yên. Nàng chê Hạ lười biếng và ngu dốt. Nàng nói:

    “Vú Diễn này, anh ấy chẳng khác nào một con chó hay một con ngựa kéo xe, vú nhỉ? Hết làm việc, rồi ăn, rồi ngủ, cứ thế! Chắc đầu óc anh ấy trống rỗng và u tối lắm. Này, anh Hạ, có bao giờ anh mơ mộng không nhỉ? Ừ, mà mơ mộng cái quái gì? Kìa, anh không mở miệng nói chuyện với tôi được sao?”

    Nàng nhìn Hạ. Nhưng Hạ vẫn nín thinh, không nhìn nàng. Liên nói tiếp:

    “Có thể anh chàng đang mơ mộng đấy... Trông anh ta co rúm vai lại kìa... này vú Diễn, vú hỏi thử anh ấy đi!"

    Hạ không những co vai mà còn nắm chặt bàn tay lại như muốn đấm ai. Tôi nói:

    “Chú Hạ sẽ lên mách ông chủ tống cổ cô lên lầu bây giờ nếu cô không giữ đứng đắn một chút."

    Một lần khác, Liên kêu lên:

    “Tôi biết tại sao anh ấy câm như hến khi có tôi ở trong bếp rồi. Anh ta sợ tôi cười. Có đúng thế không, vú Diễn? Có lần anh ấy tự đọc sách, vì tôi cười nên anh chàng đem đốt sách đi và bỏ học luôn... như thế có phải là điên không?”

    Tôi chỉnh lại:

    “Như thế có phải là cô ác không?”

    “Có lẽ, nhưng tôi không ngờ anh ấy lại khùng đến mức ấy. Hạ này, nếu bây giờ tôi cho anh một cuốn sách anh có lấy không? Đây này..."

    Liên đặt vào tay Hạ cuốn sách nàng đang đọc. Anh chàng hất đi và lầu bầu nói nếu cô nàng còn lôi thôi anh chàng sẽ vặn cổ.

    Nàng nói:

    “Thôi được. Tôi để đây, trong ngăn kéo bàn này. Tôi đi ngủ đây."

    Rồi nàng rỉ tai tôi để ý dò hộ xem Hạ có rớ tới cuốn sách không, nhưng Hạ không tới gần bàn. Sáng sau tôi nói lại cho Liên biết, cô nàng có vẻ thất vọng lắm. Tôi thấy Liên buồn vì thấy Hạ lúc nào cũng giận dỗi và lười biếng. Nàng cũng hối hận đã chế giễu Hạ khiến anh chàng không dám học hành và khéo léo sửa sai lỗi lầm ấy của mình.

    Những khi tôi bận ủi quần áo hoặc làm những việc vặt khác ở phòng khách Liên thường lấy một cuốn sách đọc to lên cho tôi nghe. Nếu có mặt Hạ, đọc đến quãng nào hay, nàng thường ngừng lại để ngỏ sách. Cách này nàng thường áp dụng luôn. Nhưng anh chàng vẫn cứng đầu cứng cổ không chịu cắn câu. Thay vào đó vào những ngày mưa anh chàng lại gần Dọi hút thuốc và hai người ngồi im như hai pho tượng ở hai bên lò sưởi. Những buồi chiều đẹp trời thì Hạ xách súng đi săn. Liên ngáp, thở dài, trêu tôi để tôi phải nói chuyện với nàng. Nhưng khi tôi vừa mở miệng thì nàng lại bỏ chạy ra sân hay ra vườn. Cách cuối cùng của nàng là giở trò... khóc, nàng khóc và kêu đời vô dụng, không thiết sống...

    Ông Hy ngày càng khó tính không muốn tiếp xúc với mọi người. Ông gần như đuổi Hạ ra khỏi phòng mình. Đầu tháng ba, Hạ bị một tai nạn phải nằm yên một chỗ trong bếp mất mấy ngày. Chả biết làm ăn ra sao mà trong lúc đi săn một mình Hạ để súng nổ, đạn xuyên vào cánh tay mất nhiều máu trước khi chàng chạy về tới nhà. Anh chàng bắt buộc phải nằm yên một chỗ bên lò sưởi cho tới khi vết thương lành lặn.

    Thấy Hạ phải ở luôn trong bếp như thế, Liên thích lắm. Chưa bao giờ nàng ghét ở trên lầu trong phòng nàng như lúc đó. Nàng lại bắt tôi phải bới việc ra làm ở dưới nhà để nàng có thể bám theo tôi.

    Ngày thứ hai, lễ Phục Sinh, Dọi dắt mấy con bò ra chợ Diên Mễ Tôn bán. Trưa hôm đó tôi mắc ủi quần áo trong bếp. Hạ ngồi ủ rũ bên lò sưởi. Còn Liên thì vẽ lăng nhăng trên cửa kính cho qua thì giờ rỗi, thỉnh thoảng lại cất tiếng hát hoặc liếc nhanh xem người anh họ có phản ứng gì không, nhưng anh chàng chỉ lẳng lặng hút thuốc, mắt đăm đăm nhìn lửa.

    Nhân lúc tôi kêu nàng đứng che mất ánh đèn tôi không làm việc được, Liên có cớ đi về phía lò sưởi. Tôi không mấy để ý đến hành động của nàng cho tới lúc bất chợt tôi nghe nàng nói:

    “Hạ này, bây giờ thì tôi muốn... tôi thích... xem anh là anh họ tôi nếu anh không còn gắt gỏng với tôi nữa..."

    Hạ yên lặng. Liên nói tiếp:

    “Kìa, anh Hạ, anh có nghe tôi nói không?”

    Anh chàng đáp cộc lốc:

    “Cút đi!”

    “Cho tôi lấy cái tẩu thuốc này nghe!”

    Vừa nói nàng vừa đưa tay rút chiếc píp trong miệng Hạ. Anh chàng chưa kịp giật lại thì cái píp đã bị quăng vào lò sưởi. Hạ văng một tiếng chửi thề và lấy ra cái tẩu khác. Nàng kêu:

    “Thôi! Anh phải nghe tôi nói trước đã! Khói thuốc bay um vào mặt tôi làm sao tôi nói được!"

    Hạ giận dữ la lên:

    “Có xéo đi ngay không! Để tôi yên!”

    “Không, tôi không đi đâu hết... Tôi không biết làm cách nào để bắt anh nói chuyện với tôi, còn anh, anh cố chấp không chịu hiểu. Khi tôi bảo anh là đồ ngu, tôi thực tình không có ý gì... Tôi không có ý khinh rẻ anh đâu. Thôi, đừng làm mặt dửng dưng với tôi nữa. Hạ... anh là anh họ tôi, anh phải nhìn nhận tôi là em họ anh."

    “Tôi chả dính dáng gì với cô với tính kiêu ngạo và những trò trêu trọc chết tiệt của cô! Tôi chết xuống địa ngục còn hơn là phải làm lành với cô. Thôi, bây giờ cô tránh ra chỗ khác cho tôi nhờ!”

    Liên cau mặt, cắn môi rút lui ra ngồi bên cửa sổ. Nàng khẽ hát một điệu hát kỳ quặc để cố nén khỏi bật khóc.

    Tôi xen vào, nói:

    “Cậu Hạ, cậu nên làm lành với cô em họ cậu đi. Cô ấy đã biết hối lỗi rồi đấy! Như vậy sẽ rất tốt cho cậu. Có cô ấy làm bạn, cậu sẽ trở thành một con người khác."

    Anh chàng kêu lên:

    “Làm bạn? Khi cô ấy đã khinh tôi, bảo tôi không đáng xách dép cho cô ấy? Không! Không bao giờ! Có cho tôi làm vua tôi cũng chả cầu cạnh cô ấy để rồi lại bị khinh miệt nữa."

    Không còn giấu cơn xúc động của mình, Liên vừa mếu máo khóc vừa nói:

    “Không phải tôi khinh anh. Chính anh khinh tôi thì có. Anh ghét tôi giống như ông Hy ghét tôi, ghét hơn là đằng khác!”
    Hạ cãi:

    “Đừng nói điêu! Tôi ghét cô mà sao lại bênh vực cô cả trăm lần khiến ông Hy phải nổi giận? Ấy vậy mà cô còn chế giễu phỉ báng tôi... Cô cứ tiếp tục làm tình làm tội tôi đi. Tôi đi khỏi đây và sẽ nói là cô làm rầy tôi để tôi phải đi ra khỏi nhà bếp."

    Liên lau nước mắt đáp:

    “Thực tình tôi đâu có biết là anh đứng về phe tôi. Với lại hồi ấy tôi khổ sở quá nên hằn học với hết thẩy mọi người. Bây giờ thì tôi cám ơn anh và chỉ biết xin anh tha lỗi, chứ tôi còn biết làm gì hơn nữa?”

    Nàng lại đi về phía lò sưởi, thẳng thắn chìa tay ra. Mặt Hạ xa xầm, tay nắm chặt, cúi gầm xuống nhìn đất. Do linh tính Liên đoán biết chàng đổ quạu như thế là do cố chấp chứ không phải do oán ghét, nên sau khi do dự một chút, nàng cúi đầu xuống hôn nhẹ một cái lên má chàng.

    Cô ả tinh quái tưởng tôi không nhìn thấy, lùi lại quay về ngồi bên cửa sổ như cũ làm bộ nghiêm trang. Tôi lắc đầu tỏ ý trách, Liên thấy thế đỏ mặt ghé tai tôi phân trần:

    “Nhưng em còn biết làm cách nào khác, hả vú Diễn? Anh ấy không chịu bắt tay em, không buồn nhìn em... Em phải tỏ bằng cách nào khác để anh ấy hiểu là em mến anh ấy, rằng em muốn làm thân..."

    Tôi thì tôi chả biết cái hôn có đủ sức thuyết phục được Hạ không. Anh chàng cẩn thận giấu mặt chẳng cho ai thấy. Vài phút sau khi Hạ ngửng lên thì chàng bối rối không biết đặt mắt nhìn đâu.

    Liên lấy một tờ giấy trắng tinh ra công bọc một cuốn sách đẹp, thắt nơ cẩn thận rồi đề mấy chữ: “Tặng Yên Hạ”. Nàng lại muốn tôi đóng vai sứ giả chuyển món quà đến người nhận. Nàng nói:

    “Vú cứ bảo là nếu anh ấy nhận thì em sẽ xuống dậy anh ấy đọc cho đúng. Bằng không thì em sẽ lên lầu ngay và không bao giờ chọc anh ấy nữa."

    Liên lo lắng theo dõi tôi đưa sách cho Hạ và nhắc lại lời nhắn. Hạ không buồn cầm cuốn sách khiến tôi phải đặt sách trên đùi chàng. Nhưng Hạ không hất sách đi. Tôi quay về tiếp tục công việc. Liên tựa đầu vào khuỷu tay đặt trên bàn cho đến khi nghe tiếng sột soạt nhè nhẹ giở tờ giấy bọc ngoài. Nàng len lén đến ngồi lặng lẽ bên cạnh nguời anh họ. Chàng run lên, mặt đỏ bừng. Tất cả vẻ thô lỗ, quạu cọ biết mất. Thoạt đầu Hạ chưa có đủ can đảm để thốt lên một lời nào trước cái nhìn dò hỏi và lời năn nỉ của Liên:

    “Hãy nói là anh tha thứ cho em đi, anh Hạ. Anh chỉ nói một tiếng thôi là em sung sướng vô cùng..."

    Hạ khẽ đáp câu gì tôi nghe không rõ. Liên lại hỏi:

    “Và anh sẽ là bạn em?”

    “Không. Cô còn sống ngày nào cô sẽ còn xấu hổ vì tôi ngày nấy. Càng biết rõ tôi cô càng xấu hổ vì tôi và tôi không thể chịu được thế."

    “Vậy anh không muốn làm bạn em ư?”

    Nàng tươi cười nói và ngồi xích lại gần Hạ. Tôi không nghe rõ hai người rì rầm nói chuyện. Nhưng khi tôi quay lại thấy hai khuôn mặt rạng rỡ cùng cúi xuống trang sách tôi biết chắc chắn là hai bên đã phê chuẩn hòa ước và từ nay, hai kẻ thù sẽ trở thành đồng minh trọn đời.

    Cuốn sách có đầy những hình ảnh đẹp. Cách họ ngồi bên nhau cũng đẹp. Họ ngồi lặng yên sát vào nhau cho đến khi Dọi về. Thấy Liên cùng ngồi chung một ghế với Hạ, tay nàng khoác lên vai chàng, lão ngạc nhiên ngẩn người ra. Lão không thể hiểu nổi vì sao gã trai cưng của lão lại dở chứng chịu để cho thiếu phụ kia ngồi sát bên cạnh. Quá xúc động trước “biến cố” này gã không thốt lên được một lời suốt buổi chiều hôm ấy. Buổi tối lão thở dài não nuột, trịnh trọng đặt cuốn Thánh Kinh lên bàn, rút từ trong ví ra một mớ giấy bạc (tiền bán bò ngày hôm đó), rồi gọi Hạ bảo:

    “Đưa số tiền này cho ông chủ rồi ở luôn trên ấy. Tôi cũng đi về phòng tôi đây. Chỗ này không tốt. Không thích hợp với bọn mình. Phải dọn đi chỗ khác..."

    Tôi nói:

    “Thôi, Liên, mình cũng phải dọn đi nơi khác. Cô đã muốn lên lầu chưa?”

    Nàng bất đắc dĩ đứng dậy, đáp:

    “Chưa đến tám giờ mà vú? Anh Hạ này, em để cuốn sách trên lò sưởi, mai em mang thêm mấy cuốn nữa."

    Dọi xía vào nói:

    “Cô mà bỏ sách ở đây tôi sẽ vứt vào phòng khách, cho cô tha hồ mà kiếm!”

    Liên dọa sẽ trả đũa phá tủ sách của lão. Rồi nàng cười đi qua mặt Hạ vừa lên cầu thang vừa hát. Tôi dám chắc rằng kể từ khi nàng đến ở dưới mái nhà này, có lẽ chỉ trừ mấy lần đầu tiên đến thăm Tôn, chưa bao giờ lòng nàng được thư thái như tối hôm ấy.

    Tình thân giữa Liên và Hạ nẩy nở rất nhanh, mặc dầu cũng có đôi lúc tạm thời bị gián đoạn. Việc khai hoá cho Hạ không phải cứ muốn là được ngay. Liên chẳng phải là người mẫu mực về đức tính kiên nhẫn để có thể cải hóa chàng một cách nhanh chóng. Nhưng vì cả hai người đều đồng một lòng - họ yêu nhau và cùng muốn được yêu - nên sau cùng họ đạt được mục đích.

    Ông Lộc, ông xem đấy: muốn chiếm hữu trái tim của bà Tôn đâu có gì là khó. Nhưng bây giờ... tôi cũng mừng là trước kia ông đã không thử... Điều mong ước tuyệt đỉnh của tôi là thấy đôi trẻ ấy kết hôn với nhau. Ngày họ lấy nhau, tôi sẽ không ghen tị với bất cứ ai trên đời, vì ở trong toàn cõi nước Anh phỏng còn có một người đàn bà nào sung sướng hơn tôi!
    (còn tiếp)

  6. #35
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    Chương 33

    Sau hôm thứ hai ấy vì Hạ vẫn chưa làm được những công việc nặng thường ngày nên chàng vẫn quanh quẩn ở nhà. Tôi thấy ngay là mình khó lòng giữ Liên ở bên cạnh tôi như trước. Sáng sớm nàng xuống dưới nhà trước cả tôi rồi đi ra vườn, tới chỗ Hạ đang làm một công việc nhẹ gì đó. Khi tôi ra mời họ vào ăn sáng thì Liên đã thuyết phục được anh chàng phạt quang một khoảng cây phúc bồn tử trong vườn và bàn tính với nhau đem cây ở bên Họa Mi Trang về trồng thay vào đấy.

    Tôi đâm hoảng vì trong vòng có nửa giờ mà Hạ đã phá tan hoang. Cây phúc bồn tử đối với lão Dọi cũng quý chẳng khác nào bản thân lão, ấy thế mà nàng tính phạt đi hết để trồng hoa có chết không chứ?”

    Tôi hét lên:

    “Này! Lão mà thấy sẽ mách ông chủ ngay lập tức. Rồi cô cậu sẽ ăn nói ra làm sao dám tự tiện phá vườn như thế này? Hai người sẽ bị nhừ đòn cho mà xem! Cậu Hạ, cậu còn lạ gì tính nết ông chủ, thế mà cậu lại nghe lời cô ấy phá tan tành thế kia?”

    Hạ lúng túng nói:

    “Tôi quên khuấy đi mất là mấy cây này của Dọi. Nhưng tôi sẽ bảo là chính tôi phá đấy."

    Chúng tôi vẫn ăn cơm chung với ông Hy. Tôi giữ phận sự thay chủ nhà để cắt thịt và pha trà nên bữa ăn cần có tôi. Mọi bữa Liên vẫn ngồi cạnh tôi nhưng hôm ấy nàng ra ngồi cạnh Hạ. Tôi thấy ngay là bây giờ cô nàng không che dấu tình bạn của mình với Hạ, cũng như trước kia, không hề che giấu lòng thù ghét chàng.

    Trước khi vào phòng tôi đã dặn khẽ nàng:

    “Này, cô liệu đấy, đừng có tỏ ra quá săn sóc và nói chuyện nhiều với Hạ, ông Hy ông ấy không thích đâu, ông sẽ giận cả hai người đấy!”

    Liên đáp:

    “Em sẽ không làm thế đâu!”

    Một phút sau, nàng đã ngồi bên cạnh Hạ và gắp đậu trong đĩa của chàng sang đĩa mình. Anh chàng không dám nói gì, chỉ khẽ ngước nhìn lên một tí. Nhưng cô nàng vẫn tiếp tục trêu làm anh chàng hai lần suýt không nhịn được cười. Tôi cau mày. Liên đưa mắt nhìn ông chủ, nhưng dường như ông Hy đương mải suy nghĩ chuyện gì không để ý đến cử chỉ của những người khác. Liên chăm chú nhìn ông ta và nghiêm trang được một lúc. Nhưng lát sau nàng lại quay đi và tiếp tục cái trò của mình. Hạ không nhịn được, bật lên cười. Ông Hy giật mình, đưa mắt soi mói nhìn chúng tôi. Liên nhìn lại. Nàng vẫn giữ thái độ hằn học và thách đố mà ông Hy rất ghét. Ông la lên:

    “May cho mày ngồi ngoài tầm tay của tao! Con quỷ nào sai khiến mày nhìn tao trừng trừng vậy? Nhìn xuống đi! Đừng làm tao nhớ đến sự có mặt của mày ở đây. Tao tưởng tao đã chữa cho mày hết cười rồi chứ?”

    Hạ lắp bắp:

    “Con cười đấy ạ."

    “Mày nói sao?”

    Hạ cúi gầm mặt xuống đĩa ăn, không dám nhắc lại lời vừa nói. Ông Hy nhìn Hạ một cái rồi tiếp tục bữa điểm tâm và nối lại dòng suy tưởng vừa bị ngắt quãng. Chúng tôi ăn gần xong bữa. Liên và Hạ bây giờ khôn hồn ngồi xa nhau ra. Đúng lúc tôi tưởng không còn chuyện gì xẩy ra nữa thì Dọi lù lù xuất hiện ở cửa. Thấy môi lão run lên, mắt long sòng sọc, tôi biết ngay là lão đã khám phá ra mấy cây quý của lão bị phá. Chắc lão đã thấy Liên và Hạ ở khu vườn đó trước khi lão ra kiểm kê sự thiệt hại. Lão mấp máy đôi quai hàm như con bò nhai cỏ trước khi bật lên một tràng nghe thật khó hiểu:

    “Tôi muốn được trả lương rồi tôi nghỉ việc! Tôi muốn chết ở nơi tôi đã làm năm sáu chục năm, tôi tính khuân hết sách vở của tôi lên gác xép, và mọi thứ đồ nghề của tôi, để cả nhà bếp cho riêng họ... để tôi được yên cái thân già. Phải nhường cái lò sưởi trong góc bếp quen thuộc của tôi, tôi buồn lắm nhưng không biết sao hơn! Bây giờ thì người ta lại chiếm đoạt cái vườn của tôi, thưa ông chủ, tôi không không thể nào chịu nổi. Tôi thà đi đập đá để kiếm miếng cơm còn hơn..."

    Hy ngắt lời:

    “Thôi! Khoan đã! Ông kêu ca việc chi? Tôi không muốn dính vào những việc xích mích giữa ông và bà Diễn. Bà ta có thể quẳng ông vào hố than họa may tôi mới can thiệp."

    “Không phải bà Diễn! Lạy Chúa! Nếu là bà ta thì tôi đã chẳng đi mặc dù bà ta cũng là đồ xấu xa vô tích sự. Cái con nhỏ hư đốn kia đã mê hoặc thằng nhỏ nhà mình đến nỗi... nói ra đau lòng... thằng nhỏ quên hết tôi làm gì cho nó và nó đi nó nhổ hết trơn một dẫy cây phúc bồn tử đẹp nhất vườn của tôi!”

    Nói đến đây lão già bắt đầu mếu máo. Ông Hy hỏi:

    “Lão có say rượu không đấy? Hạ, có phải lão nói mày không?”

    Hạ đáp:

    “Con có nhổ hai ba bụi, để con trồng trả lại."

    “Nhưng ai khiến mày nhổ đi?”

    Liên khôn khéo xen vào:

    “Bọn tôi định trồng ít hoa ở đấy. Lỗi là lỗi ở tôi vì tôi nhờ Hạ nhổ cây lên."

    Ông bố chồng ngạc nhiên:

    “Ai cho phép mày đụng đến một tấc đất ở đây, hả?”

    Rồi quay sang Hạ, Hy hỏi:

    “Và ai ra lệnh cho mày nghe theo lời nó?”

    Hạ ngồi im. Liên cãi lại:

    “Ông lấy hết ruộng đất của tôi thì không sao. Thế mà tôi mới lấy có mấy thước đất để trồng hoa thì ông la lối."

    “Đất của mày? A, con này hỗn thật! Mày làm gì có đất bao giờ?”

    “Cả tiền bạc của tôi nữa!”

    Liên vừa nói vừa cắn mẩu bánh cuối cùng của nàng, mắt nhìn thẳng vào đôi mắt nẩy lửa của Hy.

    “Im ngay! Cút đi!”

    Liên không chịu thua, nói:

    “Cả ruộng đất của Hạ, cả tiền bạc của Hạ... Hạ và tôi bây giờ là bạn nhau. Tôi sẽ nói cho Hạ biết rõ về ông!”

    Hy bối rối một lúc, mặt tái đi, đứng dậy, mắt không rời Liên, ánh nhìn đầy thù hận. Liên nói cứng cỏi:

    “Nếu ông đánh tôi, Hạ sẽ đánh ông. Ông biết điều ngồi xuống thì hơn."

    Hy hét:

    “Thằng Hạ mà không tống cổ mày ra ngoài thì tao sẽ đập cho nó chết! Đồ yêu tinh! Mày dám xúi nó chống lại tao hả? Tống cổ nó ra! Có nghe thấy không? Ném nó xuống bếp kia! Bà Diễn, tôi sẽ giết nó nếu bà còn để nó lảng vảng trước mắt tôi."

    Hạ khẽ bảo nàng nên tránh đi. Hy gầm lên:

    “Mày có tổng cổ nó không nào? Hay còn ngồi đó mà chuyện trò?”

    Hy tiến tới, định tự thi hành lệnh của mình. Liên nói:

    “Anh Hạ không tuân lệnh ông nữa đâu. Đồ độc ác! Tôi khinh ghét ông thế nào thì anh ấy cũng sẽ khinh ghét ông như thế!”

    Hạ giọng trách móc khẽ nói:

    “Suỵt! Tôi không thích nghe cô đối đáp như vậy. Thôi đi!”

    “Nhưng anh không để cho ông ta đánh em chứ?”

    “Vậy thì đi ngay đi!”

    Giọng Hạ cương quyết. Nhưng chậm quá, Hy đã xông tới túm lấy nàng và bảo Hạ:

    “Bây giờ mày đi đi. Còn con quỷ này, mày khiêu khích tao đúng vào lúc tao không chịu được. Mày sẽ hối hận cho đến ngày mày chết, nghe chưa?”

    Hy túm tóc nàng. Hạ vừa cố gỡ tóc nàng ra vừa năn nỉ Hy tha cho nàng lần này. Hy, đôi mắt tóe lửa, tựa như sắp xé xác nàng ra từng mảnh. Tôi xông tới cứu Liên.

    Đột nhiên Hy buông đầu nàng ra, nắm cánh tay Liên và ngó nàng trừng trừng. Rồi đưa tay lên che mắt, đứng lặng một hồi lâu như để tĩnh trí, ông ta cố làm ra vẻ trấn tĩnh, nói:

    “Cô liệu hồn đừng chọc giận tôi, kẻo có ngày tôi giết cô! Xéo đi ở với bà Diễn, muốn ăn nói xấc xược thì nói với bà ta. Còn thằng Hạ, nếu tôi thấy nó nghe lời cô thì tôi sẽ tống cổ nó đi đâu kiếm ăn mặc xác nó. Tình yêu của cô sẽ biến nó thành đứa ăn mày, hiểu chưa? Bà Diễn, bà đem nó đi. Để tôi yên. Tất cả để tôi yên!"

    Tôi dắt Liên đi ra. Nàng mừng húm vì thoát nạn một cách ngon lành. Hạ cũng theo ra. Thế là ông Hy chiếm độc một mình một phòng cho đến bữa cơm chiều. Tôi khuyên Liên nên ăn trên lầu nhưng khi thấy ghế nàng bỏ trống, Hy cho người lên gọi nàng xuống. Ông không nói năng với ai, ăn rất ít rồi đi ra ngay, dặn sẽ về muộn.

    Trong lúc Hy đi vắng, đôi bạn trẻ chiếm nguyên phòng chính. Tôi nghe Hạ nghiêm khắc trách Liên. Chàng không muốn nghe chuyện Liên định kể việc ông Hy đối xử với cha chàng trước kia ra sao. Hạ nói là cho dẫu ông Hy có là giống quỷ đi nữa chàng sẽ đứng về phe ông và không thể để ai nói xấu ông trước mặt mình. Chẳng thà nàng chửi bới chàng như trước kia chàng còn thích hơn là nghe nàng thóa mạ ông Hy.

    Liên tức lắm khi nghe Hạ nói thế. Nhưng chàng đã tìm được cách khiến nàng phải im miệng. Hạ hỏi chứ nếu chàng nói xấu cha nàng thì liệu nàng có bằng lòng không? Liên hiểu ngay rằng Hạ rất coi trọng thanh danh của ông chủ và đã gắn bó với ông ta bằng một sợi dây bền chắc mà lý trí không thể nào phá nổi; có thể nói đó là những dây xiềng được rèn bởi thói quen, rắp tâm tháo ra thì quả là tàn nhẫn. Từ đó trở đi Liên tránh kêu ca và không bầy tỏ lòng oán ghét Hy.

    Câu chuyện bất hòa nho nhỏ ấy qua đi, hai người trở lại thân thiết và chú tâm vào việc làm hàng ngày của họ trong cương vị cậu học trò và cô thầy giáo. Buổi tối khi công việc xong xuôi tôi ngồi với họ, ngắm đôi trẻ và cảm thấy lòng êm ả thanh thản đến độ quên cả thời gian. Chắc ông cũng đã hiểu, trong một chừng mực nào đó tôi xem hai người gần như con. Đã từ lâu tôi tự hào về Liên và bây giờ tôi cũng hãnh diện không kém với Hạ. Bản chất thực thà, nồng hậu và thông minh của Hạ đã nhanh chóng xua tan lớp mây mù của sự dốt nát và hèn kém trong đó chàng được nuôi dưỡng từ hồi tấm bé. Những lời ngợi khen thành thực của Liên đã kích thích sự cần cù của Hạ. Một khi tâm trí được sáng sủa thì mặt mày chàng cũng thêm rạng rỡ, tinh anh và cao nhã. Tôi không còn nhận ra chàng là người mà tôi đã gặp hôm đầu tiên tôi tìm thấy cô chủ tôi ở Gió Hú, cái ngày mà cô nàng đã một mình đi chơi Băng Thạch Nham.

    Trong khi tôi đang ngồi ngắm họ làm việc thì đêm đến đưa ông chủ về lúc nào không ai hay... Ông vào lối cửa trước bất thần tiến thẳng lại chỗ chúng tôi, đứng nhìn cả ba người, trước khi chúng tôi kịp ngửng đầu lên nhìn ông.

    Tôi nghĩ ngay trong bụng: “Ôi, chẳng có cảnh nào êm đềm và vô hại hơn cảnh này, nếu ông mà mắng mỏ họ thì quả thực là đáng xấu hổ.” Thực vậy, ánh lửa hồng chiếu hai mái đầu xanh, soi rõ hai khuôn mặt trẻ thơ đầy sinh động. Mặc dầu chàng đã hai mươi ba tuổi và nàng mười tám, nhưng mỗi người đều có bao nhiêu tình ý để xúc cảm, bao nhiêu điều mới lạ để học hỏi, họ không cảm thấy hay để lộ ra những tình cảm trầm tĩnh, hết thơ mộng của tuổi trưởng thành."

    Hai người cùng ngước mắt lên và bắt gặp cái nhìn của Hy. Có lẽ ông Hy chưa bao giờ để ý thấy đôi mắt họ giống nhau như thế, và hơn thế nữa cả hai người đều có đôi mắt giống hệt đôi mắt mợ Yên Liên. Cô Tôn Liên hiện thời không còn giống mẹ ở điểm nào khác nữa, ngoại trừ vầng trán rộng và đầu mũi hơi cong khiến nàng có một nét kiêu kỳ. Còn Hạ thì giống hơn nhiều. Lúc bình thường trông chàng đã giống mợ Liên, lúc này lại càng giống một cách khác thường.

    Tôi cho rằng chính những nét giống nhau ấy đã khiến ông Hy lặng người đi một lát. Rồi ông tiến tới lò sưởi với một vẻ khích động hiện rõ trên nét mặt. Vẻ khích động ấy dịu xuống mau chóng khi ông nhìn Hạ. Ông cầm lấy cuốn sách ra khỏi tay Hạ, liếc nhìn trang sách mở, rồi đưa trả lại, không nói câu nào, chỉ ra hiệu bảo Liên đi ra chỗ khác. Hạ đi theo Liên. Tôi cũng định bỏ đi nốt nhưng ông khoác tay bảo tôi ngồi lại.

    Ngồi suy nghĩ một hồi lâu về cái cảnh ông vừa chứng kiến, Hy nói:

    “Một kết cuộc buồn, phải không bà Diễn? Tôi đã cố gắng dùng đủ mọi cách tàn bạo mà không ngờ kết cuộc lại phi lý như thế. Tôi đã dùng sức phá hủy cả hai căn nhà, tôi đã luyện để có sức mạnh làm những việc tầy trời như Héc-Quyn [1] , đến khi mọi sự xếp đặt đâu vào đấy trong tầm tay tôi thì tôi bỗng thấy chí khí mình tiêu tan như mây khói, không còn muốn động đến một ngón tay... Kẻ thù cũ của tôi không đánh tôi... lúc này là lúc tôi có thể trả thù...tôi có thể làm hại chúng qua hai đứa này, dễ như trở bàn tay! Chẳng ai có thể ngăn cản tôi... nhưng rồi, để làm gì? Ích gì? Tôi không thiết đánh nữa. Tôi không thể cất công giơ tay lên được nữa. Thật cứ như là tôi đã tốn bao nhiêu công sức để rồi cuối cùng đóng vai một
    người độ lượng. Không, còn khuya tôi mới độ lượng với chúng...tôi chỉ không còn cái thích thú hãm hại một cách vô cớ."

    Bà Diễn này, sắp có một sự biến chuyển kỳ dị... Tôi hiện đang bị nó ám ảnh... Tôi chả tha thiết gì đến cuộc sống hàng ngày đến nỗi tôi hầu như không còn nhớ tới cả việc ăn uống nữa. Hai đứa vừa ra khỏi đây đối với tôi là hai thực thể còn giữ được hình dáng rõ ràng, nhưng cái hình dáng đó lại làm tôi đau đớn quằn quại. Về cái con ấy tôi không muốn nói tới, nghĩ tới; tôi mong nó là kẻ vô hình, vì cứ trông thấy nó là tôi muốn nổi điên. Còn thằng kia nó lại phiền tôi một cách khác. Tôi không bao giờ muốn thấy nó nữa... Chắc bà sẽ nghĩ là tôi sắp hóa điên rồi - Hy vừa nói vừa cười gượng - nếu tôi bảo rằng nó chính là hiện thân hay là nó đã gợi tôi nhớ lại thiên hình vạn trạng những liên tưởng xưa, những ám ảnh quá khứ... nhưng bà đừng kể những gì tôi nói với bà nhớ. Tâm trí tôi luôn luôn khép kín triền miên đến nỗi cuối cùng tôi đâm thèm được bộc bạch nỗi niềm với một người khác.

    Mới năm phút trước đây tôi thấy thằng Hạ. Tôi không thấy nó như thấy một con người bằng xương bằng thịt, mà thấy nó là hiện thân của tôi thời trẻ... Đối với nó tôi có cả trăm ngàn ý nghĩ và tình cảm lộn xộn khiến tôi không thể nào đến gần nó và xử sự sao cho hợp với lẽ phải. Trước hết nó giống Yên Liên kinh khủng, nó có liên hệ với nàng kinh khủng. Bà có thể bảo rằng nó có ảnh hưởng mạnh nhất đến trí tưởng tượng của tôi; thực ra ảnh hưởng nó rất yếu, bởi vì với tôi có cái gì trên đời mà không gắn chặt với nàng?

    Tôi không thể không nhìn xuống cái sàn nhà này mà không thấy gương mặt nàng hiện lên trên những viên đá lát! Nàng hiện trong mỗi đám mây, mỗi lá cây, mỗi ngọn cỏ... Đêm đêm bóng nàng lấp đầy không gian, ban ngày nàng hiện trong bất cứ vật gì. Những khuôn mặt đàn ông đàn bà dù tầm thường nhất - ngay cả khuôn mặt tôi - đều hiện ra một nét giống nàng để trêu trọc tôi! Cả thế gian này là một sưu tập khủng khiếp những nhắc nhở rằng nàng đã tồn tại và tôi đã mất nàng!
    Phải, Hạ chính là hồn ma của mối tình bất diệt của tôi, của những nỗ lực điên cuồng của tôi, của sự sa đọa của tôi, của lòng kiêu ngạo, niềm hạnh phúc và nỗi thống khổ của tôi...

    Nhưng thật là điên mà đi kể với bà những ý nghĩ ấy; có điều là nói vậy để bà biết vì lẽ gì tôi buộc phải sống cô độc, vì gần nó tôi chẳng lợi ích gì mà chỉ tổ làm tôi thêm đau đớn. Và đó cũng là một trong những lý do khiến tôi dửng dưng thấy nó kết thân với con em họ nó. Tôi không hơi đâu mà quan tâm đến chúng nó nữa.

    Thái độ của ông Hy làm tôi đâm hoảng, mặc dù ông ta không có triệu chứng gì là mất trí hay sắp chết. Theo chỗ tôi nhận xét thì ông ấy hoàn toàn khỏe mạnh, không bệnh tật. Còn về tinh thần thì ngay từ hồi nhỏ ông ta đã thích nuôi những tư tưởng đen tối và có những thị hiếu kỳ quái. Ông Hy có thể mắc chứng thiên chấp do đầu óc lúc nào cũng bị ám ảnh bởi thần tượng quá vãng của ông, nhưng về tất cả những điểm khác, lý trí của ông vẫn vững mạnh như của tôi.

    Tôi hỏi:

    “Nhưng ông vừa nói sắp có một sự biến chuyển, là chuyện gì vậy, ông Hy?”

    “Chừng nào nó xẩy ra tôi mới biết chắc được. Bây giờ tôi chỉ lờ mờ biết được một nửa."

    “Ông có bị đau yếu gì không?”

    “Không. Không đau yếu một chút nào, bà Diễn ạ."

    “Và ông không sợ chết đấy chứ?”

    “Sợ à? Không! Tôi chẳng hề sợ, chẳng dự cảm và cũng chẳng mong chết. Mà vì lẽ gì cơ chứ? Tôi khỏe mạnh, sống điều độ, công việc của tôi không có gì nguy hiểm. Tôi ắt là phải sống trên thế gian này cho đến khi nào trên đầu bới không ra một sợi tóc đen. Tuy nhiên, tôi không thể sống mãi trong tình trạng này! Tôi phải dồn hết tâm trí để bắt lá phổi phải thở... bắt trái tim phải đập! Và cứ như phải bẻ ngược một cái lò-xo cứng, tất cả những hành động vặt vãnh nhất, nếu không có cái ý nghĩ duy nhất kia thúc đẩy, tôi phải tự cưỡng bách mình mới làm nổi. Tôi chỉ có một ý nghĩ, một ao ước mà tôi đem cả thân tôi, đem hết khả năng tôi để đạt cho bằng được. Tôi đã ráng làm như vậy từ lâu lắm và làm một cách cương quyết nên tôi tin chắc rằng sẽ đạt được, và đạt rất sớm... Nó đã nhai nghiến đời tôi và bây giờ... tôi sắp sửa thỏa nguyện. Những lời tự thú này của tôi tuy không làm tôi nhẹ bớt nhưng có thể giải thích một số diễn biến về tâm tính tôi mà tôi không thể cắt nghĩa bằng cách nào khác. Ôi, Trời đất! Thực là một cuộc kịch chiến lâu dài, tôi mong là nó chấm dứt đi cho rồi!”

    Nói tới đây, Hy đi đi lại lại, lẩm bẩm nói một mình những lời ghê rợn, khiến tôi phải tin điều mà ông bảo Dọi đã tin, rằng lương tâm đã biến trái tim ông thành một địa ngục trần gian... Tôi tự hỏi rồi đây kết cuộc sẽ ra sao.

    Tuy trước kia chả mấy khi ông ta để lộ những tâm tư đó, ngay cả vẻ ngoài cũng không bộc lộ bao nhiêu, nhưng bây giờ tôi dám chắc đó là tâm trạng thông thường của ông Hy, như chính ông ta tự xác nhận thế. Qua bộ dạng của ông ta mấy ai mà đoán nổi tâm trạng bên trong. Ông Lộc ạ, ông đã gặp ông Hy rồi đó, ông đã thấy ông ấy, nhưng chắc ông cũng không đoán ra được... Ở cái thời gian tôi vừa kể đó, ông ta vẫn như thế, có điều là ông ấy chìm đắm hơn trong cô độc và lầm lỳ ít nói hơn mỗi khi có ai ở bên cạnh.

    Chú thích:
    [1]Khi ông Lộc trở lại, ông vẫn là chủ Hoạ Mi Trang vì chưa mãn khế ước 12 tháng thuê nhà.
    (còn tiếp)

  7. #36
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    Chương 34

    Sau buổi chiều hôm ấy, luôn mấy ngày liền ông Hy lánh mặt chúng tôi vào bữa cơm. Tuy chưa bao giờ ông ta chính thức cấm Hạ và Liên ngồi ăn chung nhưng vì ông ta rất ghét để tình cảm chi phối nên ông lánh mặt. Mỗi ngày hai mươi bốn tiếng ông ta chỉ ăn có một bữa, hầu như thế là đủ nuôi sống ông rồi.

    Một đêm nọ khi cả nhà đã ngủ yên, tôi nghe tiếng chân ông Hy bước xuống cầu thang đi ra cửa trước và không thấy ông trở vào. Sáng dậy, tôi thấy ông ấy vẫn chưa về. Hồi đó tháng tư tiết trời ấm áp, nhờ mưa rào nắng chói nên cỏ mọc xanh rờn, hai cây táo ở bờ tường phía nam trổ đầy hoa. Sau bữa điểm tâm, Liên năn nỉ tôi bắc ghế ngồi khâu vá dưới gốc thông cuối vườn. Khi Hạ lành vết thương, nàng đã tán tỉnh anh chàng cuốc đất trồng hoa thành một mảnh vườn con con ở góc này.

    Tôi đang khoan khoái tận hưởng hương thơm mùa xuân ngào ngạt xung quanh và bàu trời xanh êm thì cô chủ tôi, vừa chạy ra cổng kiếm ít rễ anh thảo để trồng quanh rìa, đã quay trở lại, hấp tấp báo cho chúng tôi biết là ông Hy đang về tới.
    Nàng tỏ vẻ lo âu nói thêm:

    “Ông ta có nói chuyện với em."

    Hạ hỏi:

    “Ông ấy nói gì vậy?”

    “Ông bảo em cút đi cho nhanh. Trông ông ấy lạ quá đến nỗi em phải dừng lại một lát trố mắt nhìn."

    “Lạ là lạ thế nào?”

    “Hừ, hầu như là vui thích hớn hở. Mà không, hầu như... khó nói quá... có vẻ hết sức khích động!"

    Tôi làm bộ hờ hững nói:

    “Chắc ông ta đi dạo ban đêm có gì vui thích chứ gì?”

    Thực tình tôi cũng ngạc nhiên như nàng. Ông chủ vui, thực không phải là cảnh tượng hàng ngày có thể có được. Tôi tìm cớ để vào trong nhà. Hy đang đứng ở ngưỡng cửa, người run rẩy, mặt tái xanh. Tuy nhiên, mắt ông ánh lên một tia vui đặc biệt làm thay đổi cả sắc diện ông.

    Tôi hỏi:

    “Thưa, ông dùng điểm tâm? Ông đi cả đêm chắc đói lắm!”

    Tôi muốn dò xem ông Hy đi đâu nhưng không dám hỏi thẳng.

    “Không. Tôi không đói."

    Vừa đáp ông Hy vừa quay đầu đi có vẻ nghi ngờ tôi muốn đoán xem vì lẽ gì trông ông lại vui thế. Tôi lưỡng lự, tự hỏi không biết có nên khuyên răn ông một chút không. Tôi nói:

    “Tôi thấy đêm hôm khuya khoắt không nên đi lang thang ngoài đường mà nên ngủ ở nhà. Dù sao thì cũng nên đề phòng trong mùa ẩm thấp này. Tôi dám nói là ông sẽ bị cảm lạnh hay sốt... chắc bây giờ trong người ông khó chịu."

    “Không có gì cả, tôi chịu đựng được mà, và rất vui nữa là đằng khác, miễn là bà để tôi yên. Bà vào đi và đừng quấy rầy tôi."

    Tôi tuân theo, và khi đi qua tôi nhận thấy ông ta thở gấp rút như mèo. Tôi nghĩ bụng: “Đúng là ông ta sắp bệnh rồi. Không biết đêm qua đi đâu đến nỗi nhuốm bệnh.”

    Trưa hôm ấy ông ngồi ăn với chúng tôi và nhận một đĩa đầy ú thức ăn do tay tôi tiếp, như thể muốn ăn bù lại những bữa nhịn trước đó. Ông ta nói như ám chỉ trả lời câu hỏi của tôi ban sáng:

    “Tôi không cảm mà cũng không sốt. Tôi sẵn sàng ăn hết đĩa thức ăn đầy bà sớt cho tôi này."

    Ông cầm dao nĩa sắp ăn thì - đột nhiên, như chợt hết cơn thèm ăn - ông bỏ dao nĩa xuống, ngó chăm chẳm ra ngoài cửa sổ, rồi vụt bỏ đứng dậy đi ra.

    Trong lúc chúng tôi dùng bữa, ông Hy cứ đi đi lại lại trong vườn. Hạ nói là để ra hỏi vì lẽ gì ông ấy lại bỏ ăn ngang xương như thế, chàng đoán rằng chúng tôi đã làm ông ta phật ý.

    Hạ trở vào, Liên hỏi ngay:

    “Sao? Ông ấy có vào ăn không?”

    “Không. Ông không có vẻ giận mà lại có vẻ vui vui mới kỳ chứ? Nhưng khi tôi mời lần thứ hai thì ông cáu, bảo tôi cứ về ăn với mọi người đi. Ông còn lấy làm lạ sao tôi lại muốn mời ông vào ăn chung."

    Tôi hâm đĩa đồ ăn của ông lên bếp cho nóng. Một hai giờ sau khi phòng đã vắng, ông quay vào, vẫn chưa bình tĩnh hẳn, vẫn nước da tái xanh, vẫn ánh mắt vui vui - cái vui thiếu tự nhiên - dưới đôi lông mày đen rậm. Rồi lát lát ông ta lại nhe răng ra cười cười, lát lát lại rùng mình một cái, rùng mạnh như sự rúng động của một sợi giây căng chứ không phải là cái run rẩy của một người bị cảm lạnh.

    Tôi nghĩ: “Mình phải hỏi xem cho ra lẽ. Mình mà không hỏi thì còn ai hỏi đây?” Rồi tôi lên tiếng:

    “Thưa ông, ông có tin tức gì vui lạ không? Trông ông có vẻ phấn kích hơn lúc bình thường?”

    Ông Hy đáp:

    “Bà bảo tin tức vui ở đâu ra? Tại tôi đói đấy! Mà xem chừng tôi không nên ăn."

    “Thức ăn có sẵn. Sao ông không dùng?”

    Ông ta nói thật nhanh:

    “Lúc này chưa. Để bữa chiều ăn luôn thể. Và, bà Diễn này, tôi nói dứt khoát một lần cho bà lưu ý, xin bà vui lòng bảo thằng Hạ và con kia đừng chường cái mặt ra cho tôi thấy. Tôi không muốn ai làm rộn tôi, tôi muốn một mình trong phòng này."

    “Phải có lý do gì mới khiến ông chủ xua đuổi chúng như thế chứ? Ông nói cho tôi biết vì sao ông lại kỳ lạ thế? Đêm qua ông đi đâu vậy? Không phải vì tò mò mà..."

    Hy cười ngắt lời tôi:

    “Tò mò chứ còn gì nữa? Nhưng tôi cũng trả lời để bà rõ. Hôm qua tôi đứng ở ngưỡng cửa địa ngục. Hôm nay tôi ở ngưỡng cửa thiên đường...và tôi đang chú mục nhìn nó, chỉ cách tôi có vài thước! Thôi bây giờ bà nên đi đi... Nếu bà đừng xoi mói thì bà sẽ không trông thấy hay nghe thấy những gì khiến bà phải sợ hãi đâu..."

    Sau khi quét lò sưởi và lau bàn, tôi đi ra, lòng hoang mang hơn bao giờ hết.

    Chiều hôm ấy ông Hy không ra khỏi nhà, cũng không ai làm rộn ông. Tuy nhiên đến tám giờ, dù ông không hỏi, tôi cũng cứ cầm một ngọn đèn nến và dọn cơm chiều cho ông. Ông đang đứng tựa vào bờ một cửa sổ để ngỏ, nhưng lại không ngó ra ngoài mà quay mặt vào trong nhìn vào xó tối. Lửa đã tàn, căn phòng tràn đầy không khí dịu và ẩm của một buổi chiều nhiều mây và tĩnh mịch hết sức đến nỗi không những tôi nghe được tiếng suối chẩy rào rào ở Diên Mễ Tôn mà còn có thể nghe được cả tiếng nước đập róc rách lên những hòn cuội hay tảng đá lớn nhô khỏi mặt nước.

    Trước cảnh tượng u sầu lạnh lẽo ấy tôi thốt lên một tiếng bất bình: “Trời!” rồi lần lượt đóng các cửa sổ lại. Tới chiếc cửa sổ ông đang đứng tôi hỏi cốt để ông nhích người qua một bên, vì từ nẫy ông vẫn đứng yên như trời trồng:

    “Ông có cần đóng cửa sổ này không ạ?”

    Lúc tôi nói, ánh nến soi lên mặt ông. Ôi chao ơi, ông Lộc ơi, tôi không biết tả sao cho hết nỗi hoảng sợ của tôi khi vừa thoáng thấy hình ảnh ông ta lúc ấy. Đôi mắt đen sâu hoắm! Cái cười và sắc mặt tái nhợt gớm ghiếc ấy! Tôi tưởng đâu không phải ông Hy mà là một bóng ma! Trong cơn kinh hoảng tôi để nghiêng ngọn nến vào tường khiến đèn tắt ngúm và căn phòng rơi vụt vào bóng tối.

    Ông Hy cất tiếng, giọng quen thuộc:

    “Vâng, bà đóng lại. Bà rõ khéo lúng túng chưa? Sao không cầm ngay cây nến lên. Nhanh lên nào, mang cây khác vào đây."

    Tôi sợ điên lên, vội chạy ra ngoài. Vì tôi không dám trở vào nữa, tôi bảo Dọi:

    “Ông chủ bảo thắp cây đèn mang vào và đốt lò sưởi lên."

    Dọi nhặt mấy que củi đương cháy giở bỏ trong cái xẻng rồi đi vào. Nhưng lão lại quay ra ngay, trên tay kia cầm khay đồ ăn, nói rằng ông Hy sắp đi ngủ và từ giờ đến sáng mai không cần dùng gì nữa. Ngay lúc đó, chúng tôi nghe có tiếng ông Hy bước lên lầu. Thay vì đi thẳng vào phòng riêng, ông lại bước vào buồng có lát ván, mà như tôi đã nói, có cửa sổ khá rộng có thể trèo ra trèo vào được. Tôi nghĩ không khéo ông định dấu chúng tôi đi chơi đêm nữa.

    “Hay ông Hy là ma cà-rồng?” Tôi tự hỏi thế vì tôi đã đọc nhiều truyện ma hiện hình. Nhưng nghĩ lại cả cuộc đời ông chính tôi đã săn sóc ông từ lúc ông còn thơ ấu, chứng kiến cảnh ông lớn lên đến tuổi trưởng thành rồi theo ông gần trọn cuộc đời, thế mà bây giờ tôi lại ghê sợ ông như sợ ma quỷ thì có vô lý không?

    Tuy nghĩ thế nhưng trong lúc tôi thiu thiu ngủ một ý tưởng dị đoan lại thầm thì trong óc tôi: “Nhưng cái thằng nhỏ đen đúa dơ bẩn ấy, nó do đâu mà ra, từ đâu mà đến, để cho ông già nhân đức kia nhặt về nuôi, phá hoại cơ nghiệp, dòng giống ông ta?” Trong cơn mê mê tỉnh tỉnh tôi cố tìm cho Hy một gốc gác phù hợp với tính tình ông. Tôi xét đi xét lại cả cuộc đời ông ta qua bao biến chuyển ghê gớm rồi cuối cùng tưởng tượng ông chết đi và đám ma ông. Trong tất cả những ý nghĩ ấy, điều làm tôi phiền muộn nhất là phải cáng đáng việc viết lời ghi khắc lên bia mộ. Vì ông không có tên họ, cũng không ai biết tuổi ông bao nhiêu cho nên chúng tôi đành phải khắc trên bia vỏn vẹn độc một chữ “HY”. Đúng thế, tôi không thể nào làm khác. Nếu ông có vào nghĩa địa thăm, chắc chắn ông sẽ chỉ đọc được trên bia có độc một chữ đó và ngày ông ta chết, thế thôi.

    Đến tảng sáng tôi mới tỉnh táo lại. Tôi trở dậy bước xuống vườn tìm xem có dấu chân dưới cửa sổ không, nhưng không có. Tôi nghĩ: “Đêm qua ông ấy ở nhà và sáng nay chắc là đã bình phục.” Tôi sửa soạn bữa ăn sáng cho mọi người như thường lệ, bảo Hạ và Liên cứ ăn trước đừng đợi ông Hy vì ông dậy muộn. Hai người thích ăn ở ngoài trời nên tôi bê cái bàn nhỏ ra ngoài đó cho họ.

    Lúc quay trở vào tôi đã thấy ông Hy xuống nhà rồi. Ông đang bàn với Dọi về công việc trang trại, ông dặn dò cặn kẽ và rõ ràng, nhưng ông lại nói rất nhanh, luôn luôn quay đầu sang một bên, và vẫn có cái vẻ khích động như hôm trước, có phần còn thái quá hơn. Khi Dọi ra khỏi, ông tới ngồi vào chiếc ghế ông thường ngồi. Tôi đem đặt trước mặt ông một tách cà-phê. Ông gạt tách ra, tì hai cánh tay lên bàn, rồi đăm đăm nhìn ngắm vào bức tường đối diện. Ông ngắm một khoảng tường, ngắm từ trên xuống dưới, rồi từ dưới lên trên, cặp mắt sáng rực không ngừng chuyển động. Ông ngắm một cách say sưa, háo hức, đôi khi nín thở đến nửa phút.

    Tôi đẩy mạnh miếng bánh tới tay ông và nói to:

    “Ông ơi, ông sơi bánh và cà-phê đi kẻo nguội hết. Cà phê này tôi hâm cả giờ trên bếp cho nóng đợi ông dậy dùng đấy."

    Ông ta không nghe thấy tôi nói, mặc dù ông mỉm cười. Tôi chẳng thà thấy ông ấy nghiến răng còn thích hơn là ông mỉm cười như thế. Tôi kêu lên:

    “Ông chủ ơi! Ông nhìn gì mà nhìn trân trân như thấy ma hiện hình như thế!”

    Ông đáp:

    “Trời đất! Đừng có la to như vậy! Nhìn kỹ xung quanh đây xem có ai không? Hay chỉ có bà và tôi?”

    “Tất nhiên chỉ có ông với tôi thôi!”

    Tuy nói quyết như thế tôi vẫn đưa mắt nhìn xung quanh như không chắc lời mình nói là đúng. Ông Hy quơ tay một cái dẹp quang các thức trên bàn và nghiêng nghiêng cái đầu để nhìn cho dễ.

    Bấy giờ tôi mới để ý là không phải ông Hy nhìn bức tường. Quan sát kỹ tôi thấy mắt ông như dán vào một vật gì ở cách xa ông chừng hai thước. Dầu vật ấy là gì đi nữa thì hiển nhiên nó đã làm ông nửa vui sướng nửa thống khổ... chính cái cái vẻ mặt ngây ngất lẫn khổ não của ông khiến tôi nghĩ như vậy. Vật tưởng tượng đó không đứng nguyên một chỗ vì cặp mắt ông theo rõi không biết mệt, ngay cả khi ông nói chuyện với tôi mắt ông vẫn không rời nó.

    Tôi mấy lần nhắc ông dùng điểm tâm nhưng vô ích: nếu ông có phác một cử chỉ nào để đáp lời tôi, nếu ông có đưa tay để lấy miếng bánh mì thì tay ông chưa cầm miếng bánh đã nắm lại và rơi thõng xuống bàn, quên hẳn vật ông định lấy.

    Tôi kiên nhẫn tìm mọi cách khiến ông tỉnh trí không còn chú mục đến cái ảo ảnh đang thu hồn ông. Nhưng sau cùng ông cáu tiết đứng dậy hỏi tôi tại sao không để tự ông chọn lúc nào ông thích ăn thì ăn và bảo lần sau đừng có chờ, cứ để thức ăn đấy rồi đi ra cho được việc. Nói xong ông bỏ ra khỏi nhà, bước chậm chậm xuống lối vườn và mất hút sau cánh cổng.

    Giờ nọ nối tiếp giờ kia trôi qua trong nỗi lo buồn. Lại một buổi tối nữa đến. Khuya lắm tôi mới đi nghỉ nhưng không tài nào chớp mắt được. Quá nửa đêm ông Hy trở về, nhưng thay vì lên lầu ngủ, ông lại vào phòng dưới nhà đóng cửa lại. Tôi nằm trăn trở, nghe ngóng. Cuối cùng tôi dậy mặc quần áo xuống nhà dưới. Làm sao tôi có thể nằm yên nổi khi đầu óc tôi bị trăm ngàn nỗi lo âu giầy vò?”

    Tôi nghe tiếng chân ông Hy đi đi lại lại không ngừng trên sàn nhà, tiếng thở dài não nuột như tiếng rên rỉ vang trong im vắng. Ông ta còn lẩm bẩm những câu không ăn nhập gì với nhau mà tôi chỉ nghe rõ một tiếng Liên kèm theo những lời yêu đương say đắm hoặc ê chề đau đớn, những lời như nói với một người hiển hiện trước mặt, bằng một giọng nhỏ nhẹ, say sưa, phát tự đáy lòng. Tôi không có can đảm đi thẳng vào phòng, nhưng vì muốn kéo ông ra khỏi cõi mộng, tôi vào bếp cố ý xục sạo, xếp củi, cời than, gạt tro ầm ĩ. Ông chú ý tới tiếng động, nhanh hơn tôi tưởng. Ông mở cửa ra gọi:

    “Bà Diễn vào đây. Đã sáng rồi à? Đem nến lên đây."

    Tôi đáp:

    “Dạ. Đồng hồ đã gõ bốn tiếng. Ông cần phải có nến để soi lên lầu. Ông có thể vào đây lấy lửa."

    “Không, tôi không định lên gác. Bà vào đây đốt lửa lên cho tôi và dọn dẹp phòng luôn thể."

    “Để tôi chụm than hồng trong lò đã."

    Tôi đáp, nhấc chiếc ghế ngồi và lấy ống thổi lửa. Trong lúc đó, ông Hy đi tới đi lui trong phòng trong trạng thái gần như hôn mê và miệng thở dài. Rồi ông lên tiếng:

    “Sáng ra, tôi sẽ cho mời ông Lục tới để hỏi cho rõ về vài điểm pháp lý, trong khi tôi còn đủ sức và tỉnh táo để tính đến những việc đó và đủ bình tĩnh để hành động nữa. Tôi chưa lập chúc thư và cũng chưa biết quyết định chia chác tài sản của tôi ra sao. Giá tôi có phép gì tiêu hủy hết mọi tài sản của tôi, không để một thứ gì tồn tại trên mặt đất này thì hay biết mấy..."

    Tôi ngắt lời ông Hy:

    “Thưa ông, ông không nên nói như thế. Ông khoan hãy làm chúc thư. Ông còn lắm thì giờ để ăn năn hối cải về sự bất công của ông. Tôi không hề bao giờ nghĩ gân cốt ông có thể suy sụp được. Ấy thế mà nó suy sụp rồi đấy, suy sụp một các trầm trọng và hoàn toàn do lỗi ở ông. Sống như ông trong hai ba ngày nay giá ông có là lực sĩ đi nữa thì cũng phải quỵ. Ông cần phải ăn uống nghỉ ngơi. Ông cứ soi gương thì biết, má ông hóp lại, mắt ông đỏ ngầu, chẳng khác nào người sắp chết đói và thiếu ngủ."

    “Tôi không ăn không ngủ đâu phải lỗi tại tôi. Tôi cam đoan với bà là tôi không cố ý làm thế. Khi nào có thể ăn ngủ được là tôi làm liền. Bà bảo tôi nghỉ ngơi có khác nào bà bảo một người đang vùng vẫy trong nước hãy nghỉ bơi khi còn cách bờ có một sải tay! Phải tới bờ cái đã rồi muốn tính gì thì tính. Được rồi, dẹp cái chuyện ông Lục đi. Còn về việc ăn năn hối cải về những bất công mà bà vừa nói đó, tôi nói cho bà biết là tôi chẳng làm gì bất công hết và tôi cũng chẳng hối cải gì hết. Tôi quá sung sướng, vậy mà tôi vẫn chưa cảm thấy sung sướng đủ mức. Hạnh phúc của tâm hồn tôi giết chết thể xác tôi mà tôi vẫn còn chưa toại nguyện."

    “Ông mà sung sướng ư, thưa ông? Hạnh phúc gì mà quái đản thế? Nếu ông nghe tôi nói mà không phật ý thì tôi có thể hiến ông một lời khuyên giúp ông được sung sướng."

    “Lời khuyên gì, bà Diễn? Nói nghe đi!”

    “Ông Hy, chắc ông nhớ từ năm ông mười ba tuổi, ông đã sống một cuộc đời ích kỷ, không hợp với đạo giáo. Chắc từ đó đến giờ ông không bao giờ cầm tới quyển Thánh Kinh, ông đã quên hết những lời trong sách và chẳng có thì giờ tìm đọc lại cho nhớ. Nếu bây giờ ông mời một người - một mục sư thuộc giáo phái nào đó không cần biết - tới để giải nghĩa sách cho ông, để vạch cho ông rõ ông đã đi xa những giáo điều và không xứng đáng được về nước Chúa, nếu trước khi nhắm mắt ông không thay đổi tâm tính.

    “Bà Diễn, tôi không giận bà mà còn mang ơn bà nữa vì bà đã giúp tôi nhớ đến cách thức làm ma cho tôi. Tôi muốn được an táng tại nghĩa địa, vào buổi chiều. Hạ và bà - nếu bà muốn - sẽ đi đưa đám tôi: nhớ lưu ý đặc biệt bảo người phu đào huyệt làm đúng lời tôi dặn về hai cái áo quan! Không cần mục sư, cũng không cần điếu văn gì hết. Tôi đã nói với bà là tôi tới sát thiên đường của tôi rồi. Còn thiên đường người khác vô giá trị đối với tôi, tôi không cần biết".

    Thấy thái độ ơ thờ vô đạo giáo của ông, tôi bực mình nói:

    “Ví dụ như ông cứ khăng khăng nhịn đói, không chịu ăn uống gì cho đến chết và người ta từ chối không chôn ông trong Đất Thánh thì sao? Như vậy ông có hài lòng không?”

    “Họ sẽ không làm thế đâu. Nếu họ làm thế thì bà phải bí mật chuyển tôi đi. Nếu bà trái lời tôi bà hãy coi chừng: linh hồn người chết không tiêu tan đâu!”

    Mọi người trong nhà bắt đầu rục rịch thức dậy, ông Hy thấy thế liền rút lui ngay về sào huyệt của ông và tôi thở ra nhẹ nhõm. Nhưng đến trưa, trong khi Hạ và Dọi bận việc, ông lại vào bếp với cái nhìn quái gở, yêu cầu tôi vào phòng ông vì ông cần có người ở bên cạnh. Tôi từ chối, nói thẳng ra là lời nói và cử chỉ kỳ dị của ông làm tôi sợ, không dám ngồi một mình với ông ta.

    Ông Hy cười thiểu não, nói:

    “Chắc bà coi tôi như ác quỷ? Một ác quỷ sống dưới mái nhà lương thiện này?”

    Rồi quay sang Liên, nẫy giờ vẫn nấp sau lưng tôi, ông ta nói giọng giễu cợt:

    “Còn cô ả này, có muốn vào không? Tôi có làm gì đâu mà sợ? Cô không vào à? Đối với cô tôi đã làm cho cô thấy tôi còn hơn cả ác quỷ nữa. Thế mà có một người không sợ tôi, không né tránh tôi! Ôi! Nàng thật tàn nhẫn. Quỷ thần ơi! Sao mà chịu nổi..."

    Hy không đòi ai ở gần ông nữa. Tối đến ông về phòng riêng. Suốt đêm và gần cả buổi sáng hôm sau chúng tôi nghe thấy tiếng ông rên rỉ và lẩm bẩm một mình. Hạ muốn vào thăm nhưng tôi bảo chàng đi mời bác sĩ Kiên đến thăm bệnh cho ông ta. Khi Đốc Kiên đến tôi đòi vào theo. Nhưng cửa phòng khóa. Ông Hy đuổi chúng tôi đi và nói ông đỡ rồi không muốn ai tới quấy rầy. Ông Đốc bỏ về.

    Tối hôm ấy trời mưa to gió lớn suốt đêm. Tới sáng tôi đi quanh nhà một vòng, thấy cửa sổ trong phòng ông mở toang, mưa táp vào tận trong. Tôi nghĩ bụng: “Mưa tạt thế kia ướt hết giuờng chiếu rồi còn gì. Chắc ông ấy dậy rồi hoặc đi ra ngoài rồi cũng nên. Thôi, mình chẳng nên e ngại nữa, cứ vào đại đi xem sao!”

    Tôi lấy chìa khóa khác mở được cửa buồng rồi chạy ngay tới mở cửa vách Ứ- vì phòng trống trơn - tôi vội kéo cánh cửa vách ngó vào trong. Ông Hy nằm ngửa... mắt nhìn thẳng vào tôi, cặp mắt sắc và dữ tợn khiến tôi giậy nẩy mình. Hình như ông ta lại cười.

    Tôi không thể nghĩ là ông ta đã chết... mặc dù mưa hắt ướt mặt và cổ ông, mặc dù chăn nệm ướt nước nhỏ giọt và thân hình ông hoàn toàn bất động. Cánh cửa sổ đập ra đập vào làm trầy da bàn tay ông vẫn còn níu trên thành cửa - vết thương không có máu - và khi tôi rờ vào bàn tay đó thì tôi không còn nghi ngờ gì nữa: ông Hy đã chết cứng!”

    Tôi đóng cửa sổ lại, vuốt ngược những sợi tóc lòa xòa trên trán ông. Tôi cố gắng, trước khi có người tới, vuốt mắt cho ông ta nhắm lại để nếu có thể, dập tắt cái nhìn vui cuồng dễ sợ của đôi mắt linh động như còn sống ấy. Nhưng đôi mắt đã không chịu nhắm, lại còn có vẻ cười nhạo tôi đã tốn công vô ích. Môi ông hé mở lộ hàm răng nhọn trắng nhởn cũng có vẻ cười ngạo nghễ! Tôi thất kinh, la lên gọi lão Dọi. Lão lê bước từ dưới bếp lên rồi kêu ầm ỹ cả lên, nhưng nhất định không chịu mó tay vào xác chết.

    Lão kêu:

    “Quỷ sứ nó bắt hồn ông ấy sao nó không bắt luôn cái xác đi cho tôi nhờ! Chao ơi! Ông này đến ác, chết mà còn cười giễu người ta đấy chứ!”

    Rồi lão ta nhe răng cười giễu lại. Tôi tưởng lão định nhẩy cẫng lên xung quanh giường. Nhưng không. Lão bỗng nghiêm nét mặt lại, trịnh trọng quỳ xuống, chắp tay lại tạ ơn Trời đã cho người cháu đích tôn và dòng họ cũ được khôi phục quyền làm chủ cái gia tài sản nghiệp này.

    Biến cố ghê gớm làm người tôi choáng váng. Tuy không định mà trí nhớ tôi cứ nhớ lại những thủa xa xưa mà lòng buồn u uất. Và thật tội nghiệp cho Hạ, người bị bạc đãi nhất lại chính là người duy nhất thật sự thương xót.

    Suốt đêm chàng ngồi bên xác chết khóc lóc thảm thiết. Chàng nắm chặt lấy tay người chết, hôn lên cái mặt nhạo báng man rợ không một ai muốn nhìn ấy. Chàng khóc thương Hy với một nỗi buồn sâu xa thắm thiết tự nhiên, phát xuất tự một tấm lòng quảng đại, từ một con tim tuy rắn như sắt đá nhưng không thù hận.

    Ông Đốc Kiên lúng túng không biết nói sao về căn bệnh đã gây nên cái chết của ông chủ. Tôi giấu nhẹm vụ ông Hy không ăn uống gì từ bốn hôm nay, nói ra chỉ sợ gây thêm rắc rối. Vả lại tôi tin rằng ông không cố ý nhịn đói: đó là kết quả chứ không phải là nguyên nhân chứng bệnh kỳ dị của ông.

    Mặc cho lối xóm dị nghị và làm rùm beng, chúng tôi cứ chôn cất theo đúng ý nguyện người quá cố. Chỉ có Hạ, tôi, người phu đào huyệt và sáu người phu đòn tham dự đám tang. Sáu người này về ngay sau khi hạ huyệt, chúng tôi ở lại để coi đắp mộ. Hạ, nước mắt đầm đìa, nhặt từng tảng cỏ xanh, tự tay đắp lên nấm đất nâu mềm. Ngôi mộ bây giờ cũng bằng phẳng và xanh tươi như những ngôi bên cạnh... và tôi hy vọng người nằm trong đó cũng say sưa an giấc như những người kế cận.

    Thế nhưng... nếu ông có hỏi dân vùng này thì chắc chắn họ sẽ thề độc trên cuốn Thánh Kinh mà nói quả quyết rằng ông ấy đi lang thang. Người thì bảo gặp ông ta đi gần nhà thờ, người thì nói ông ấy ở rừng cỏ, thậm chí ở ngay trong nhà này nữa. Toàn là những chuyện phi lý. Ông Lộc, chắc ông nghĩ thế, tôi cũng vậy. Thế nhưng cái lão già ngồi bên bếp lửa kia đã quả quyết rằng từ khi ông Hy chết đêm mưa nào lão cũng thấy có hai người từ cửa sổ phòng ông ta nhìn ra... Còn tôi thì tôi đã gặp một chuyện lạ cách đây chừng một tháng.

    Chả là một buổi tối tôi sang Họa Mi Trang. Trời tối đen, sấm chớp ầm ầm. Đúng ngay ở khúc quẹo trên Đỉnh Gió Hú tôi gặp một thằng bé chăn chiên đang xua một con cừu mẹ và hai con cừu con đi trước. Thằng bé khóc sướt mướt. Tôi đoán nó khóc vì mấy con cừu cứng đầu, không chịu để nó dắt đi nên hỏi nó:

    “Có chuyện gì đó, em?”

    “Ông Hy và một người đàn bà. Kia kìa, dưới mỏm đá nhọn ấy. Cháu không dám đi qua mặt họ."

    Nó vừa nói vừa nức nở khóc. Tôi không thấy gì hết, nhưng cả thằng bé lẫn đàn cừu đều không dám tiến lên. Tôi phải bảo nó đi vòng xuống mé dưới. Tôi nghĩ là có thể là khi đi qua cánh đồng hoang nó liên tưởng đến những chuyện tầm bậy tầm bạ do cha mẹ hay bè bạn kể lại, rồi nó tưởng tượng ra chứ làm gì có ma quỷ.

    Dẫu sao ngay cả bây giờ tôi không thích ra khỏi nhà một mình trong đêm tối và tôi cũng không thích ở một mình trong căn nhà buồn tẻ này... Bao giờ cô cậu chủ tôi bỏ đây, dọn sang Họa Mi Trang thì tôi mừng lắm.

    Tôi hỏi:

    “Họ sắp dọn sang Họa Mi Trang rồi sao?”

    “Vâng, sau khi làm đám cưới xong vào ngày đầu năm tới."

    “Thế ai sẽ ở đây?

    “Dọi sẽ trông coi nhà cửa. Có thể có một thẳng bé đến ở với lão. Họ ở căn bếp, còn thì khóa lại hết..."

    Tôi tiếp lời:

    “... để cho mấy hồn ma về ở."

    Bác Diễn lắc đầu:

    “Không đâu. Tôi tin rằng người chết đều an nghỉ. Mình chả nên nhẹ dạ, ông Lộc ạ, nói tới họ mà không suy nghĩ là điều không tốt."

    Lúc đó, cánh cửa vườn mở ra. Hai người đi dạo chơi đã về. Tôi nhìn họ qua cửa sổ và khẽ nói:

    “Họ chẳng sợ gì hết. Họ ở bên nhau thì có đến sa tăng hay cả bầy ác quỷ họ cũng bất chấp...”

    Khi bước lên thềm đá hai người còn đứng lại ngắm trăng một lần chót. Hay, nói đúng hơn, họ đứng lại nhìn nhau dưới ánh trăng. Một lần nữa tôi thấy mình phải dằn lòng trốn họ.

    Tôi dúi vội một đồng tiền vàng vào tay bác Diễn, rồi không để ý đến lời bác ta trách tôi sỗ sàng, tôi chuồn nhanh vào bếp, trong lúc họ mở cửa vào phòng. Hành động như vậy chẳng khác nào tôi đã xác nhận với Dọi rằng ý kiến của lão về những hành vi lẳng lơ của bà Diễn là đúng, nếu chẳng may tiếng đồng tiền vàng kia rớt xuống chân lão kêu leng keng không làm lão nhận ra tôi là người đàng hoàng đáng kính.

    Khi quay về Họa Mi Trang tôi đi đường vòng về phía nhà thờ. Tới chân tường, tôi nhận thấy mới có bẩy tháng mà nhà thờ đã đổ nát thêm nhiều. Nhiều cửa sổ đã mất kính, chỉ còn những lỗ trống đen ngòm, nhiều viên ngói đã tróc ra, chỉ còn đợi cơn gió bão mùa thu là bay dần đi hết.

    Tôi đi tìm và thấy ngay ba tấm bia đá trên dốc cạnh cánh đồng cỏ hoang. Tấm ở giữa xám xịt, một nửa bị vùi dưới đám cây thạch thảo; tấm của Tôn-Kha thì rêu phong cỏ mọc dưới chân, còn tấm của Hy hãy còn trần trụi.

    Dưới bầu trời êm ả tôi nấn ná ở lại bên mấy ngôi mộ ấy. Tôi ngắm những cánh bướm đêm bay lượn giữa bụi thạch thảo, tôi nghe tiếng gió hiu hiu thổi làm lay động những ngọn cỏ; và tôi tự hỏi tại sao người ta lại có thể nghĩ rằng những người nằm trong lòng đất kia ngủ không yên giấc.

    - Hết -
    Chú thích:
    [1]Hercule, nhân vật tượng trưng cho sức mạnh thể chất trong thần thoại Hy Lạp.

    Nguồn: Emily Bronte, Đỉnh Gió Hú, Nhất Linh dịch,
    đăng một phần trên Nguyệt san Tân Phong, Sài Gòn 1960.
    Bản thảo dịch dở được Bảo Sơn dịch bổ sung,
    Nhà xuất bản Phượng Giang, Sài Gòn 1974.
    Bản dịch đăng trên talawas do Nguyễn Tường Thiết dịch bổ sung.
    Bản điện tử do Nguyễn Tường Thiết cung cấp.


Trang 4 / 4 ĐầuĐầu ... 234

Chủ Đề Tương Tự

  1. Nắng Thu - Nhất Linh
    By giavui in forum Truyện Dài Audio
    Trả Lời: 1
    Bài Viết Cuối: 03-18-2016, 09:43 PM
  2. Jane Eyre - Truyện dài của Charlotte Bronte
    By khieman in forum Truyện Dài
    Trả Lời: 10
    Bài Viết Cuối: 01-09-2014, 05:55 AM
  3. Đồi Gió Hú
    By giavui in forum Truyện Dài Audio
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-18-2013, 12:03 AM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 10-13-2013, 12:30 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •