Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Tình yêu và hạnh phúc là hình với bóng, nếu biết bảo vê. thì hạnh phúc sẽ thành sự thậtt, ngược lại nêu không biết bảo vê. thì hạnh phúc chỉ là một hình ảnh ảo tưởng không bao giờ có thật
Pascal
Trang 4 / 8 ĐầuĐầu ... 23456 ... Cuối Cuối
Results 31 to 40 of 73

Chủ Đề: Chân Dung hay "Chân Tướng" Nhà Văn ?

  1. #1
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết

    Chân Dung hay "Chân Tướng" Nhà Văn ?

    .

    Chân Dung hay "Chân Tướng" Nhà Văn ?
    Nhật Tuấn
    Kỳ 1





    Năm 1992 một sự kiện ầm ĩ nổ ra trong giới xuất bản. Chuyện bắt đầu từ tập thơ “Lên chùa” của nhà thơ Xuân Sách vốn được sáng tác lai rai từ 30 năm trước. Vào một dịp thăm Xuân Sách ở Vũng Tàu, tướng Trần Độ ghi âm Xuân Sách đọc gần 100 bài thơ này. Cuối năm 1992, nhà văn Hoàng Lại Giang lúc đó là Trưởng Chi nhánh NXB Văn Học tại TPHCM được nghe cuốn băng này và đề nghị Xuân Sách cho xuất bản với tên “ CHÂN DUNG NHÀ VĂN”.

    Mặc dầu NXB Văn học đã phải rào trước đón sau trong lời nói đầu :

    Chúng tôi chỉ coi đây là những nét tự trào của giới cầm bút Việt Nam. Cười đấy nhưng cũng tự nhận ra những xót xa, hạn hẹp của chính mình, những gì chưa vượt qua được trên chặng đường quanh co của lịch sử và thời đại. Tự soi mình hoặc hiểu mình thêm qua cái nhìn của người cùng hội, cùng thuyền lắm khi cũng hữu ích. Cái cười trong truyền thống dân gian vốn là vũ khí. Ngày nay còn có thể là sức mạnh thúc đẩy đi tới phía trước.Với ý nghĩ ấy, chúng tôi mong bạn đọc và các nhà văn thông cảm cho những gì bất cập hoặc chưa lột tả được thần thái của từng chân dung.Dù sao đây cũng là 100 bức tranh nhỏ về những người có công trong văn học, những người nổi tiếng trong làng văn, trong bạn đọc, bằng chính những tác phẩm có giá trị của mình. Bạn đọc và thời gian đã là người đánh giá chính thức và công bằng nhất đối với họ. Rất mong độc giả và các nhà văn nhận ra mối chân tình trong cuộc vui của làng văn, và lượng thứ cho những khiếm khuyết. “

    Nhưng khi sách in xong, chưa kịp phát hành, nhà văn Hoàng Lại Giang cho biết :

    ” Phản ứng của nhà văn rất lớn, và đấy là điều tôi không ngờ đến.Những nhà văn lớn có bản lĩnh, họ chịu đựng nổi, im lặng. Nhưng những nhà văn tầm tầm, lồng lộn, rất gay gắt yêu cầu Bộ Văn hóa kiểm điểm và thu hồi.”

    Một cuộc họp của Bộ Văn hóa diễn ra, với năm đại diện: Ba thứ trưởng (Phan Hiền, Huy Cận, và Nông Quốc Chấn), đại diện Hội Nhà văn Vũ Tú Nam, cùng Giám đốc NXB Văn học Lữ Huy Nguyên quyết định không thu hồi nhưng niêm phong số bản in 3000 cuốn. 20 năm sau, cho tới tận bây giờ, số sách này vẫn bị chôn dưới hầm cầu thang chi nhánh NXB Văn Học tại 290/20 Nam kỳ Khới nghĩa Q3 TP HCM, chắc đã làm mồi cho mối.

    Trước hết, hãy nghe nhà thơ Xuân Sách tâm sự về cái “cảm hứng chủ đạo” khi viết tập thơ “Lên chùa” sau đổi thành “Chân dung nhà văn “ :

    “Trước đây khi còn là lính ở địa phương, cái xã hội nhà văn đối với tôi đầy thiêng liêng bí ẩn. Đây là những con người dị biệt rất đáng ngưỡng mộ, rất đáng yêu mến, dường như họ là một siêu tầng lớp trong xã hội. Mỗi cử chỉ, mỗi hành động, lời nói của họ có thể trở thành giai thoại, và cả tật xấu nữa dường như cũng đứng ngoài vòng nhận xét thông thường... Tóm lại đó là thế gìới đầy sức hấp dẫn đối với người say mê văn học và tấp tểnh nuôi mộng viết văn như tôi. “
    Nhưng rồi khi tiếp cận với họ, ông cảm thấy “vỡ mộng “:

    Khi tôi được về Hà Nội vào cơ quan văn nghệ dù là ở quân đội (hoàn cảnh nước ta quân đội có vị trí đặc biệt trong xã hội kể cả lĩnh vực văn chương), tôi bắt đầu đi vào cái thế giới mà trước kia tôi mơ ước.

    Điều tôi nhận ra là, ngoài cái phần tôi hiểu trước đây, thì thế giới nhà văn còn có những chuyện khác. Đó là cái mặt đời thường, cái mặt rất chúng sinh, và chúng cũng góp phần quan trọng làm nên các tác phẩm và tính cách nhà văn…Khi tôi đã tìm hiểu được những ứng xử, những tính cách của những nhà văn, ngoài những tác phẩm mà tôi thường ngưỡng mộ, tôi cứ băn khoăn tự hỏi: ''Sao thế nhỉ, với bề dầy tác phẩm như thế, với vị trí trong xã hội như thế, trong lòng người đọc như thế, sao họ còn ham muốn những thứ phù phiếm đến thế... Một chức vụ, một quyền lực, một chuyến đi nước ngoài... Mà đã ham muốn thì phải mưu mẹo, phải dối trá và nhất là phải sợ hãi'' . Vì vậy chân dung của họ không thể bỏ qua. Hơn nữa, nếu ''Vẽ'' được chính xác những chân dung đó, thì bộ mặt xã hôi thời đại mà họ đang sống cũng qua đó mà hiện lên.”

    Và thế là Xuân Sách đặt bút viết tập thơ “Lên chùa” hàm ý gặp 100 pho tượng tức 100 chân dung ở đó. Nhà thơ Xuân Sách kể lại :

    Hồi đó Hồ Phương đã là tác giả in nhiều tác phẩm đã được giải thưởng các cuộc thi sáng tác văn học. Tôi dùng tên các tập truyện ngắn của anh ''Trên biển lớn''; ''Xóm mới''; ''Cỏ non'' và tên cái truyện đầu tay được nhắc đến: ''Thư Nhà''. Tôi viết bài thơ ra mẩu giấy :

    Trên Biển lớn lênh đênh sóng vỗ
    Ngó trông về xóm mới khuất xa
    Cỏ non nay chắc đã già
    Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem.

    Tôi đưa bài thơ cho Nguyễn Khải. Anh đọc xong trên mặt có thoáng chút ngạc nhiên và nghiêm nghị chứ không cười như tôi chờ đợi. Anh bỏ bài thơ vào túi chứ không chuyển cho người khác. Đến giờ giải lao chúng tôi ra ngồi cạnh gốc cây sấu già, Nguyễn Khải mới đưa bài thơ cho Hồ Phương. Mặt Hồ Phương hơi tái và cặp môi mỏng của anh hơi run, Nguyễn Khải nói như cách sỗ sàng của anh :

    - Thằng này (chỉ tôi) ghê quá, không phải trò đùa nữa rồi !

    Tôi hơi hoảng, nghĩ rằng đó chỉ là trò chơi chữ thông thường. Sau rồi tôi hiểu ngoài cái nghĩa thông thường, bài thơ còn chạm vào tích cách và đánh giá nhà văn. Mà đánh giá nhà văn có gì quan trọng hơn tính cách, và tác phẩm. Bài thơ ngụ ý, Hồ Phương có viết nhiều chăng nữa cũng không vượt được tác phẩm đầu tay và vẫn cứ ''Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem''!

    Bài thơ về Hồ Phương đã trở thành bài đầu tiên mở đường cho vệt thơ “Lên Chùa” trong suốt 30 năm của Xuân Sách.
    Mùa xuân năm Nhâm Thân (1992) ,vào dịp lần đầu tiên xuất bản tập thơ ông phát biểu :

    “ Nói về đồng nghiệp cũng là nói về mình. Cái hay cái dở của một người cũng là của một thời. Câu thơ “Từ thủa tóc xanh đi vỡ đất. Đến bạc đầu sỏi đá chưa thành cơm” đâu chỉ là số phận của một nhà thơ. Hơn ai hết, tôi nghĩ, nhà văn là đại diện của một thời, là lương tri của thời đại. Đã đành là khó ai vượt được thời đại mình đang sống, không dễ nói hết, nói công khai những điều suy nghĩ. Nhưng cũng thật đau lòng và xấu hổ khi những nhà văn bán rẻ lương tâm, còng lưng quỳ gối trước quyền uy, mê muội vì danh lợi. Có lẽ đó là động cơ thúc đẩy tôi viết, nếu có nói quá cũng dễ hiểu. Cái con quỷ ám nếu có thì cũng là ảnh hưởng những cảm xúc ấy, nỗi đau chung ấy. Nhiều nghịch lý vốn tồn tại trong cuộc đời cũng như nghệ thuật. Tiếng cười nhiều khi xuất phát từ nỗi đau ! Những bài thơ chân dung đã có cuộc sống riêng của nó. Không phải kỳ lạ nhưng cũng độc đáo. Nó được lan truyền đến nay đã 30 năm. Đã có nhiều bài ''khảo dị'', nhiều bài ‘’ngoài luồng’’ cũng được gán cho tác giả, bây giờ in ra cũng coi như một sự đính chính. Nó cũng là ''một cái gì đó'', như có người đã nói nên mới tồn tại được, nếu có ích thì tác giả lấy làm mãn nguyện.”

    Và chính với “cảm hứng chủ đạo” có phần thất vọng về phẩm chất nhà văn, tuy Xuân Sách gọi là viết “chân dung” mà thực ra ông đã vạch trần “chân tướng “ nhà văn vậy.

    Ông tên thật là Ngô Xuân Sách, sinh ngày 4-7-1932 tại Trường Giang, Nông Cống, Thanh Hoá. Năm 1960, ông bắt đầu công tác tại tạp chí Văn Nghệ Quân Đội. Từ năm 1981 đến năm 1986, ông làm Phó Giám đốc Nhà xuất bản Hà Nội. Năm 1987, ông chuyển vào làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Bà Rịa – Vũng Tàu đến năm 1997. Đầu năm 2008, nhà thơ Xuân Sách chuyển ra Hà Nội sống với con gái để có điều kiện chữa bệnh suy gan và suy thận. Thế nhưng, do tuổi cao sức yếu, sau mấy ngày nằm ở bệnh viện, khuya ngày 2-6 nhà thơ Xuân Sách đã lặng lẽ từ biệt cõi đời .

    Đọc Xuân Sách trước tiên ta cảm phục lòng dũng cảm của ông. Văn học Việt Nam vào những năm “trời đất nổi cơn gió bụi”, những năm thập kỷ 1970, xã hội còn chìm đắm trong nền kinh tế bao cấp, văn hoá văn nghệ bị “quản lý” đến nghẹt thở vậy mà Xuân Sách cả gan vạch trần chân tướng của tất cả những văn thi sĩ đang cúc cung tận tuỵ hiến dâng tài năng và tâm huyết cho …Đảng, cho chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa”.

    Đầu sổ là nhà thơ Tố Hữu, chủ soái của văn hoá nghệ thuật của Đảng, Xuân Sách vẫn không sợ , vẫn xỏ xiên :

    “Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng
    Mắt trông về tám hướng phía trời xa
    Chân dép lốp bay vào vũ trụ
    Khi trở về ta lại là ta

    Từ ấy tim tôi ngừng tiếng hát
    Trông về Việt Bắc tít mù mây
    Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt
    Máu ở chiến trường, hoa ở đây…”

    Với nhà thơ Chế Lan Viên, thi sĩ “nghĩ trong những điều Đảng nghĩ”, Xuân Sách thằng tay ra đòn :

    Điêu tàn ư ? Chả phải điêu tàn đâu
    Anh đã tính “Vàng Sao” từ độ ấy
    Chim báo bão gió chiều nào che chiều nấy
    Lựa ánh sáng trên đầu mà đổi sắc phù sa

    Trưước 1945, nhà phê bình Hoài Thanh nổi tiếng với cuộc tranh luận “ nghệ thuật vị nghệ thuật , nghệ thuật vị nhân sinh ?”, từ sau cách mạng chỉ còn là một anh hề đồng “ca ngợi cấp trên”, bởi thế Xuân Sách hạ bút :

    “ Vị nghệ thuật nửa đời người
    Nửa đời sau lại vị người cấp trên
    Thi nhân còn một chút duyên
    Lại vò cho nát lại lèn cho đau
    Bình thơ tới thủa bạc đầu
    Vẫn chưa thể tất nổi câu nhân tình
    Tàn canh tỉnh rượu bóng mình cũng tan”

    Nhà văn Nguyễn Tuân trước cách mạng nổi đình đám với “ Vang bóng một thời”, nhưng từ sau cách mạng ông tự tước bỏ gai góc, xù xì để trở thành một nhà văn chỉ “ngợi ca chế độ” :

    Vang bóng một thời đâu dễ quên

    Sông Đà cũng muốn đẩy thuyền lên
    Chén rượu tình rừng cay đắng lắm
    Tờ hoa lại chút lệ ưu phiền”

    Nhà thơ Lưu Trọng Lư, “con nai vàng “ đã thành “vờ ngơ ngác” để leo lên tới chức Vụ trưởng Vụ văn nghệ :

    “ Em không nghe mùa thu
    Mùa thu chỉ có lá
    Em không nghe rừng thu
    Rừng mưa to gió cả
    Em thích nghe mùa Xuân
    Con nai vờ ngơ ngác
    Nó ca bài cải lương…”

    Nhà thơ Huy Cận ngày xưa với “Lửa thiêng", từ sau khi đi theo cách mạng, thơ ông cũng “nói dối” :

    “ Các vị La hán chùa Tây Phương
    Các vị gầy quá còn tôi thì béo
    Năm xưa tôi hát vũ trụ ca
    Bây giờ tôi hát đất nở hoa
    Tôi hát chiến trường như trảy hội
    Đừng nên xấu hổ khi nói dối
    Việc gì mặt ủ với mày chau
    Trời mỗi ngày lại sáng có sao đâu ?”

    Nhà thơ Xuân Diệu ngày xưa có "Thơ thơ", nay thì :

    "Hai đợt sóng dâng, Một khối hồng
    Không làm trôi được chút Phấn thông
    Chao ơi Ngói mới, nhà không mới
    Riêng còn chẳng có, có gì Chung"

    Nhà văn Nguyễn Đình Thi tuy làm quan cách mạng nhưng vẫn viết “con nai đen” ngụ ý xỏ xiên :

    Xung kích tràn lên nước vỡ bờ
    Đã vào lửa đỏ hãy còn mơ
    Bay chi mặt trận trên cao ấy
    Quên chú nai đen vẫn đứng chờ…”

    Nhà văn Tô Hoài chỉ được “con dế mèn” từ thời trước cách mạng, sau đó “tàn phai” trong những tác phẩm viết phục vụ cách mạng :

    Dế mèn lưu lạc mười năm
    Để o chuột phải ôm cầm thuyền ai
    Miền Tây sen đã tàn phai
    Trăng thề một mảnh lạnh ngoài đảo hoang

    Nhà văn Nguyên Hồng nổi tiếng với Bỉ vỏ , đi với cách mạng viết khá nhiều tiểu thuyết “đồ sộ’ về số trang nhưng chẳng mấy giá trị :

    “ Bỉ vỏ một thời oanh liệt nhỉ
    Sóng Gầm sông Lấp mấy ai hay
    Cơn bão đã đến dộng rừng Yên Thế
    Con hổ già uống rươụ giả vờ say…”

    Nhà văn Nguyễn Công Hoan ngày xưa với Kép Tư Bền từ sau cách mạng thì …hết lộc trời, còn lại chỉ viết truyện lăng nhăng :

    “ Bác Kép Tư Bền rõ đến vui
    Bởi còn tranh tối bác nhầm thôi
    Bới trong đống rác nên trời phạt
    Trời phạt chưa xong bác đã cười..”

    Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh ngày xưa nổi tiếng làm thơ bí hiểm với câu thơ “nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm”. Than ôi từ ngày đi theo cách mạng, ông “làm công tác Hội” nhiều hơn làm thơ :

    “ Xưa thơ anh viết không người hiểu
    “Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà”
    Nay anh chưa viết người đã hiểu
    Sắp sáng thì nghe có tiếng gà…”

    Nhà văn Ngô Tất Tố sau cách mạng thời gian cầm bút ngắn ngủi cũng chưa làm nên dấu mốc nào sau “Tắt đèn” :

    “ tại ba thằng mõ cỡ chuyên viên
    Chia xôi chia thịt lại chia quyền
    Việc làng việc nước là như vậy
    Lộn xộn cho nên phải tắt đèn..”

    Cứ như vậy, không chừa một ai, từ những cây đại thụ trong rừng văn chương cách mạng cho tới những thế hệ sau, chỉ bằng một khổ thơ ngắn, bằng những cái tựa sách, Xuân Sách đã tạc nên bức chân dung chân thực hơn bất cứ một luận đề tâng bốc nào của mấy anh phê bình văn học “ăn theo nói leo”.
    (còn tiếp)
    Last edited by khieman; 04-04-2014 at 08:32 PM.

  2. #31
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)




    Thực ra tại các hợp tác xã, các địa phương cán bộ Đảng không hề bị kiểm tra, kiểm soát bởi báo chí hoặc bất kỳ cơ chế quyền lực nào khác nên chúng ra sức tự tư tự lợi, ăn chặn ăn bớt xã viên, ăn cắp công quỹ. Sự sa đoạ , xuống cấp của cán bộ đã xảy ra từ rất lâu, từ thời bắt đầu xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ở nông thôn.

    Tuy nhiên trong các tiểu thuyết của Nguyễn Khải, cán bộ tỉnh, huyện, xã, thôn xóm đều là “đầy tớ tận tuỵ của dân’, lặn lội đồng ruộng giúp dân nâng cao năng suất. Như ông “bí thư tỉnh uỷ” đi sâu đi sát nhân dân, vào tận buồng riêng nhà người ta cắt đặt việc gia đình, ông Chủ tịch huyện ăn ở lẫn lộn với cán bộ, nghe tin ở đâu có hiện tượng xã viên xin ra khỏi hợp tác xã là phóng xe xuống bất kể ngày đêm. Cán bộ xã thì “từ mờ sáng tới nửa đêm : mồm nói , chân chạy, xem xét, hỏi han, tranh cãi, la hét , cáu giận , ngọt ngào , thôi thì đủ…”.

    . Càng đọc “Chủ tịch huyện” người ta càng nhận rõ cảm hứng chủ đạo là “ca ngợi một chiều”, là thực hiện đúng nhiệm vụ ”tuyên truyền cho đường lối chính sách của Đảng” Bởi thế tác phẩm nhanh chóng rơi vào quên lãng. Khi nhiệm vụ chính trị qua đi, tác phẩm “phục vụ kịp thời” cũng chết theo. Đó là “số phận” của những tiểu thuyết viết về nông thôn Việt Nam của Nguyễn Khải.

    Suốt cả cuốn “ Chủ tịch huyện”, cán bộ từ thôn xã lên tới huyện tỉnh, anh nào anh nấy hai bàn tay đều sạch bong , nhất mực chỉ “vì Đảng vì dân” không mảy may tơ hào công quỹ lấy một cân gạo, không nhũng nhiễu ăn tiền của dân lấy một đồng bạc. Có lẽ “tô hồng” quá đáng vậy sợ bạn đọc cười, Nguyễn Khải “liều mình” dựng lên một ông Chủ tịch xã tự tư tư lợi, lợi dụng chức quyền ăn tiền của dân .

    Nguyên ở xã Hoà Trung có lái buôn tên Đào đề nghị Chủ tịch xã mua giúp cái dầm cầu xã bỏ đi để làm cột nhà giá có 200 ngàn nhưng lại đưa những 300 ngàn, coi như “biếu” Chủ tịch xã chỗ chênh lệch.

    Chuyện “tham ô” của Chủ tịch xã chỉ có thế, rất may, “đồng chí Bí thư Đảng uỷ xã” đã có mặt kịp thời, phân tích cho Chủ tịch xã “nhận ra sai lầm” , trả lại tiền cho lái buôn, nhờ vậy vẫn giữ được phẩm chất cán bộ cộng sản."

    Thế là một lần nữa Nguyễn Khải “làm động tác giả” khi mon men tiến gần tới cái cốt lõi của cán bộ Đảng ở nông thôn : máu tham ô, bòn rút của công. Tiếc thay, “Chủ tịch huyện” hoàn thành vào tháng 2 năm 1971 khi bộ mặt của “cán bộ mua đài mua xe” đã lộ ra gớm ghiếc, khi bất công xã hội đã trở nên sâu sắc, khi “chợ vua quan” và “chợ nhân dân anh hùngmỗi ngày một cách biệt, vậy nhưng ông nhà văn vẫn nhắm mắt, bưng tai không dám nhìn, không dám nghe những xấu xa, đồi truỵ của đám quan lại cán bộ này, vẫn hết lời ‘bốc thơm” chúng.

    Kết thúc cuốn truyện , ông nhà văn đặt vào mồm Chủ tịch xã trẻ và Chủ tịch huyện già những đối thoại “ca ngợi “ không còn biết xấu hổ .

    Chủ tịch xã :

    “ …khó khăn mấy rồi cũng vượt qua được cả thôi . Thế hệ cha anh đã đánh thắng bọn xâm lược Pháp , thì thế hệ chúng em sẽ đánh thắng bọn xâm lược Mỹ. Chắc chắn là như thế…”.

    Chủ tịch huyện :

    “Chắc chắn phải là như thế…”

    Chủ tịch xã :

    “ …cái khó nhất là đoàn kết được với nhau, không có gì phải ngờ nhau , phải đối phó với nhau thì việc gì cũng làm được . làm được hết…”

    Chủ tịch xã nói năng như …bác Hồ kêu gọi “đoàn kết, đại đoàn kết” . Kết thúc cuốn tiểu thuyết, ông nhà văn còn cho Chủ tịch huyện phát biểu một câu thật “lãng mạn”…cách mạng :

    Nói cho cùng, cái thử thách lớn nhất, phức tạp nhất vẫn là tự mình vượt qua mình. Ngoài ra những khó khăn khác, những thử thách khác đều không đáng sợ, có phải không, đều không có gì đáng sợ…”

    Tuy nhiên, thử thách lớn nhất, phức tạp nhất với các cán bộ chẳng phải vượt qua chính mình mà là vượt qua…cái ghế của mình . Bởi thế họ phải trui rèn phẩm chất … bất nhân, gian manh và đểu cáng giẫm đạp lên nhau mà leo cao. Thực ra cái khó vượt nhất trong con người cán bộ chính là máu tham, nhu cầu hưởng thụ , vượt qua được cái “máu” đó còn khó hơn con voi mượn cánh con bướm bay qua đại dương.

    Cha và con và…

    Hồi tháng 2 năm 2006, nhà văn Nguyễn Khải trả lời phỏng vấn báo Tuổi Trẻ .

    ” Nếu người ta gọi ông là nhà văn thời sự thì ông buồn hay vui ?” và “ thời sự hình như không mấy tương đồng với sức sống lâu dài của một tác phẩm. Chủ quan mình, ông nghĩ tác phẩm nào của mình sẽ có được cái lâu dài ấy ?”

    Nhà văn Nguyễn Khải sốt sắng trả lời :

    “ Nhiều tác phẩm hay đã được bắt đầu từ những bức xúc rất nhỏ của một “chuyện hôm nay”, của cái “bây giờ” nhưng vẫn làm nhiều thế hệ bạn đọc xúc động…Phần mình, tôi nghĩ “ Một cõi nhân gian bé tí”, “ Cha và con và…”, “ Điều tra về một cái chết “ cùng một số truyện ngắn của tôi có được cái thân phận ấy của con người…”

    Vậy là trong vài chục tác phẩm, Nguyễn Khải đã chọn “ Cha và con và…” là một trong vài tác phẩm ông cho rằng có thế để đời, còn lại mãi với thời gian. Viết xong vào tháng 8 năm 1978 , xuất bản ngay trong năm, dày vỏn vẹn chừng 200 trang và sách vừa in ra đã được “phê bình gia” Vương Trí Nhàn bốc lên mây xanh trên báo Văn Nghệ với cái tựa to tát: ”Cha và con và…triết luận về tôn giáo vàchủ nghĩa xã hội “.

    Ghê gớm chưa ?

    Vậy giá trị thực của cuốn truyện này ra sao ?

    Cha và con và…” lại cũng xoay quanh chủ đề ‘bôi bác nhà thờ” như hai tập tiểu thuyết “Xung đột”. Đó là câu chuyện về một linh mục trẻ, mới ngoài ba mươi, tên Thư được Toà Giám mục cử về “nhậm chức thầy cả” ở xứ Nhất. Về địa phương, trước hết cha phải tới trình diện chính quyền xã. Cái cách đối xử của cán bộ uỷ ban làm cha không được vui, phàn nàn với ông chánh trương :

    “ Cả cái uỷ ban của các ông nữa. Họ để tôi leo cả mấy bậc thềm , tự bước vào trong nhà, tự đến trước bàn giấy của bà Chủ tịch ngả mũ chào, rồi bà ta mới đứng lên chào lại. Bà ta là Chủ tịch thật nhưng còn là con chiên của Chúa. Chúa chiên đến mà con chiên dám xử sự vậy sao ?”

    Tuy nhiên, đó mới chỉ là nỗi phiền lòng đầu tiên ông cha trẻ gặp phải khi tới nhậm chức ở vùng đất mới. Chờ đợi ông ta ở phía trước còn vô số những “ chọc phá”, những ‘đòn phép” bổ vào đầu ông mà đau đớn thay không phải từ phía chính quyền vốn “thù địch “ với nhà thờ , mà lại từ phía những con người thuộc phe ông – những linh mục già, chánh trương, trùm trưởng, con chiên …luôn luôn giăng bẫy trên đường đi tới của cha linh mục trẻ mới nhậm chức.

    Trước tiên, cha linh mục trẻ phải tới gặp cha linh mục già để nhận “bàn giao”. Mới qua vài ba câu chuyện, cha trẻ đã nhận ra tính cách xỏ xiên của cha già :

    “ Lạy Chúa ! Tại sao ông già này lại nói nhiều về sự yếu lẫn của mình. Ông già ấy định giăng cái bẫy nào đây ?” Lời nói như gan ruột , nhưng cái miệng thì bỡn cợt , con mắt thì hấp háy, biến ảo quá chừng“

    Cha trẻ cúi mặt thở dài rất nhỏ, lái câu chuyện sang hướng khác…’'.

    Một cha trẻ mới ngoài 30 tới nhậm chức, một cha già ngoài 80 sắp về với Chúa phải rời chức. Hai cha đối xử với nhau thật chẳng khác gì hai quan cán bộ trẻ già hằm hè nhau khi bàn giao ghế.

    Hành hạ “cha trẻ” vậy nhưng “cha già” vẫn chưa chịu buông tha. Tới bữa ăn “cha già” còn “quay” một hồi nữa khiến “cha trẻ” cảm giác “bữa cơm kéo dài như một hình phạt. Chẳng phải vì một già một trẻ , một cũ một mới , một cha quản hạt và một cha mới nhậm chức, mà còn vì một cái gì khác nữa, chưa rõ rệt , rất khó dò tìm đã khiến vị linh mục trẻ mất hẳn phương hướng đối đáp trong những mẩu chuyện vặt vãnh không đầu không đuôi…”

    Thoát được “cha già” , “cha trẻ” được phái về xứ Nhất nơi còn biết bao nhiêu điều phiền tạp chờ đợi cha. Trước hết, “lễ nghênh tiếp vị chủ chiên của ban hành giáo hàng xứ rất đúng phép tắc , nhưng gượng gạo, vênh váo…”.

    Lẽ ra theo thông lệ, cuộc tiếp rước phải “ cờ phướn, có chè chén, tối có đánh bạc” nhưng chính quyền không cho phép. Chỉ còn lại “ những trình bẩm, ban truyền, những ân sủng, kính cáo , toàn những chữ nghĩa đã chôn đi, đã quên đi từ đời kiếp nào , nay phải móc lên cả lượt.”.

    Cái cảnh ông già bà cả cung kính chào cha chăn dắt linh hồn được ông nhà văn giễu là “ ông già cúi người trước một chàng trai trẻ, xưa là thế , vì nó còn là con vua cháu chúa, còn nay mà thế tự nghĩ cũng ngược lẽ, cũng nực cười…”
    (còn tiếp)

  3. #32
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)




    Không biết nghĩ tới thời cả dân tộc phải gọi một “ông trẻ” mới ngoài 50 bằng “bác” xưng cháu, Nguyễn Khải có thấy “nực cười” như vậy chăng ?

    Trong đám rước đón cha, có ông trùm họ An Cựu, “đội khăn xếp, áo thâm dài, đi giày mũi nhọn, lại cắp cả ô nữa mà trời vẫn nắng ráo” liền bị chê cười “Ông trưởng khu lên hầu cụ lớn đấy à ?”. Để biến việc đón rước cha thành một vở hí kịch, ông nhà văn cho ông trùm An Cựu đi tới trước mặt cha “ quỳ hẳn gối vái một vái , ông hổn hển đứng dậy vái thêm một vái nữa và cứ bước giật lùi” , chẳng ngờ “ gót giày lại dẫm ngay vào bàn chân bà trưởng hộị khấnkhiến bà đang véo von chúc thày cả liền kêu thét như bị ai cấu, dùng cả hai tay ấn mạnh ông trùm ra một bên, miệng nói the thé : Mắt mù hay sao mà giẫm nát cả chân tôi”

    Bôi bác kiểu “hề chèo“ vậy thật thô thiển và tiểu nhân . Chưa hết, khi con chiên còn đang xúm xít đón cha Thư thì “ một tiếng gọi hết sức bất ngờ , hết sức rành rẽ :” Anh Thư”. Cả mọi người chết lặng vì tiếng gọi quá sức láo xược của một đứa nữ nào đó…”.

    Gọi tên cúng cơm của cha bằng “anh” ngay giữa lễ đón tiếp, lại do giọng nữ rất âu yếm thì quả bằng trát bùn vào mặt cha giữa lúc linh thiêng, long trọng nhất. Thế là cả đám rước biến thành một đám trò :

    Trong nháy mắt , những tiếng cười bị dồn nén luồn lỏi khắp các nhóm người , đến nỗi các chức dịch hàng xứ đứng hầu cha cũng không dám ngước nhìn vị chủ chăn, e rằng chính mình cũng khó giữ được sự kính cẩn cần phải có. …”

    Dùng chuyện “trai gái’ bôi bác linh mục là một trong những “sở trường” của Nguyễn Khải. Khi có tiếng người nữ gọi tên cha âu yếm như vậy, lập tức ông trùm An Cựu “làm ra vẻ bầy tôi sốt sắng “ hò hét :

    Các người bị ma ám quỷ xui cả sao dám hỗn láo thế ? Đứa nào gọi tên cha trước ? Đứa nào ? Là con cái nhà ai để tôi thưa với cha phạt nó. Nó là đứa nào ?”

    Thật chẳng ngờ đứa con gái đó lại là thị Thảo, con gái của chính ông làm “đám đông cười vỡ ra. Họ không dám cười linh mục mà chỉ cười cha con ông trùm An Cựu nên có thể cười thật thoả thuê” làm ông trùm trợn mắt :

    “Chúng bay đừng có bỏ vạ cáo gian mà sa xuống hoả ngục đời đời. Nhà tao mấy đời thờ phượng Chúa…”

    Lại cười , cười như thể đang xem vở tuồng, vở chèo gặp một vai đắc ý. Rồi họ nói chen vào như nói đế :

    “ Đời ông chỉ biết thờ Chúa, chứ con gái ông chỉ biết thờ các cha thôi…”

    Đám đông vỗ tay tán thưởng màn kịch cương, lời lẽ đã hay mà vai diễn cũng hay…”

    Than ôi, ở một xứ công giáo toàn tòng như Bùi Chu, Phát Diệm liệu có cái cảnh con chiên đón tiếp đức cha linh hồn về xứ mình hỗn xược như vậy chăng ? Ông nhà văn Nguyễn Khải quả đã khéo xuyên tạc, biến lễ nghi trang trọng của người ta thành trò hề rẻ tiền

    Cô Thảo, con gái ông trùm An Cựu đã cả gan gọi tên cúng cơm của cha giữa đám đón rước, về nhà còn chớt nhả với bố :

    “Ông cụ mới tới nom trẻ đẹp quá, bố ạ…chúng con chỉ thích xem người chứ không xem lễ…”

    Ong bố chửi :

    “ Con nhà vô phúc, rồi mày kéo cả bố mẹ xuống hoả ngục với mày thôi…”

    Nó toét miệng cười :

    “Xin mời các cụ lên thiên đàng hầu Chúa, còn con xin đi theo cha xuống hoả ngục?”

    Bịa ra con gái một ông trùm đạo cả gan mang đấng chăn chiên ra bỡn cợt ngay cả với bố mình , quả thật ông nhà văn đã tìm ra một hình ảnh quá sinh động diễn tả sự suy đồi của đạo Thiên Chúa tại một xứ toàn tòng.

    Công việc đầu tiên của cha mới là xem xét “bình Mình Thánh, chén đĩa, chân đèn, ảnh tượng, khăn bàn, khăn thánh…”. Buồn cho cha, chẳng có vật gì ưng ý, “tất cả đều cũ kỹ, sứt vỡ, hôi mốc, khập khiễng như nhà vắng chủ đã lâu ngày…”. tâm sự cha trẻ lúc này thật ngao ngán “một ông linh mục quá già, một đàn chiên quá đông, thế tất việc chăm sóc phải biếng, sự giảng dậy phải nhác…Công lao vun trồng vườn nho của Chúa suốt mấy chục năm của các đấng bậc đi trước , rút lại tay không ?”.

    Ôi chết chết, cứ như diễn tả của ông nhà văn thì quả Thiên Chúa giáo đã đến thời mạt đạo. Gia sản “cha già “ để lại cho “cha trẻ” quá èo uột”, cái trách nhiệm gây dựng lại việc đạo cha trẻ phải gánh vác quá nặng nề. “Gai góc lại mọc đầy như thủa ban đầu và dây leo đã sắp bịt kín cả ảnh tượng. Người kế nghiệp trẻ tuổi sẽ bắt đầu công việc khai phá từ đâu ?”

    Nếu thực sự công giáo trở lại thời vua Tự Đức vậy thì không thấy ông nhà văn chỉ ra ai đã gây nên tình trạng hoang tàn vậy mà chỉ thấy ông cảnh báo linh mục :

    Nhân nhượng với đời hay hay đối mặt với đời ? Hoặc giả có việc phải đối mặt và cũng có việc phải nhân nhượng ? Là người anh em tốt mà vẫn là người chăn dắt tốt. Cười vui với tất cả mà vẫn chỉ huy được tất cả. Đã có giáo sĩ nào trong địa phận biết dung hoà lề luật của nhà Chúa với lề luật của thế tục chưa ? Chưa một ai thì phải. Người được toà giám mục hài lòng thì chính quyền căm ghét. Người được chính quyền chiều chuộng thì Tòa giám mục phải đề phòng. Hoặc là đầu này hoặc là đầu nọ, tìm được một chỗ đứng vững chắc ở quãng giữa thật khó lắm thay…”

    Nguyễn Khải coi mối quan tâm lớn nhất của linh mục là làm sao dung hòa Tòa thánh và Nhà nước để giữ vững cái ghế linh mục chứ chẳng phải chăm lo phần hồn cho con chiên. Vậy khác nào “lấy dạ tiểu nhân đo lòng quân tử “, lấy Chủ tịch huyện mô tả cha xứ ?

    Nhận định về mẹo xử sự giữa cha cố và chính quyền này đã được nhà phê bình quốc doanh Vương Trí Nhàn nâng lên thành “triết luận về tôn giáo và chủ nghĩa xã hội “? Phình bụng quá cỡ vậy không khéo vỡ bụng ếch mất thôi .

    Ngày làm việc đầu tiên, cha Thư như bị dội thùng nước lạnh khi gặp người giúp việc thân cận nhất của mình : ông chánh trương xứ vì “ông ta già quá , ốm yếu quá , kèm nhèm và ngu tối thế nào ?”.

    Và lạ chưa, câu chuyện đầu tiên giữa hai người lại là …tranh luận về cải cách ruộng đất xoay quanh chuyện cụ Thượng trong làng, bỏ tiền xây cất mấy cái nhà thờ sau bị cách mạng xử lý.

    Ông linh mục nói :
    “Địa phận ta còn mắc nợ với Ngài nhiều lắm…”
    Ong chánh trương cãi :
    “ Thưa cha ông ấy còn mắc nợ chúng con rất nhiều…”
    Ong cha trẻ gườm gườm nhìn người giúp việc :
    “ Ruộng đất của người ta, cơ nghiệp một đời của người ta một sớm một chiều mất sạch . Thế còn chưa đủ khổ sở ư ?”
    Ông chánh trương nói nhỏ nhưng bướng bỉnh :
    “ Cái khổ cả trăm gia đình chẳng ai biết đấy là đâu. Cái khổ của một nhà lại như chiều ai oán. Cũng là tôi tớ của Chúa mà…”

    Người đọc không khỏi buồn cười cái nhân vật “chánh trương” này nói năng chẳng khác gì Bí thư xã. Vậy chắc ông là “chánh trương quốc doanh” Nhà nước cài vào Nhà thờ ?

    Mang tiếng là “cánh tay phải”, là người giúp việc thân cận cho cha, không hiểu sao vừa mới gặp, ông chánh trương đã giở giọng khủng bố tinh thần :

    Thưa cha , năm nay con đã bảy chục tuổi, đã hầu hạ cha già trọn bốn mươi năm…Mắt con đã nhìn nhiều sự đổi thay, người ta hợp nhau rồi người ta lại chia nhau ra . Hôm qua là cha là con , hôm sau có tao không mày . Hôm qua chén chú chén anh, hôm sau nhét rọ buông sông. Đời người biến ảo khôn lường, một sớm một chiều chưa thể biết được…”

    Mới chân ướt chân ráo về giáo phận cha trẻ đã bị cha già răn đe muốn điên đầu, nay lại gặp ông chánh trương buông giọng bí hiểm, doạ nạt về cái sự khó ở đời . Những tưởng ra trường sẽ cùng người nhà Chúa xắn tay áo làm việc đạo , ai ngờ như lạc vào trận đồ bát quái, xung quanh là cả một rừng gươm giáo.

    “ Cha trẻ đưa tay lên che mặt, đầu óc quay cuồng , ông rên rỉ :
    “ Khó hiểu quá ! Các ông nói gì với tôi mà khó hiểu vậy ? Tôi chỉ xin các ông một điều : nếu xứ này còn cần linh mục thì tôi ở lại, dẫu khổ hạnh thế nào tôi vẫn cứ ở. Bằng không thì trả tôi về tòa Giám, đừng dùng mưu mẹo làm nhục tôi , bức hại tôi…”.

    Ôi chao, đấng chăn chiên, đức cha tinh thần của cả chục ngàn giáo dân lại đau buồn, bế tắc “ mùi mẫn” như chàng trai si tình bị người yêu ruồng rẫy :

    Và, lạy Chúa, con chỉ ước nguyện sẽ được nằm ở cái giường đơn sơ kia mà trút hơi thở cuối cùng trong vòng tay âu yếm của Chúa”…Cha xứ đã cởi áo, buông màn và nằm xuống, hai tay chắp ngang bụng, thổn thức vì những ý nghĩ thương cảm xa xôi, miệng khẽ gọi những tên cực thánh : Giêsu – Maria – Giuse…”

    Liệu một đấng chăn dắt linh hồn của cả một giáo phận có dễ “tủi phận mình”, thổn thức như một anh đồng cô ẽo uột vậy chăng ?

    Xây dựng nhân vật cha Thư ngây ngô, ngớ ngẩn như vậy trách gì các “sự khó” cứ ùn ùn kéo tới. Sau khi cả gan gọi tên cúng cơm cha trong buổi tiếp rước, con gái chánh trương lại xin gặp riêng cha với tư cách trưởng hội hát.. Ông cha trẻ chưa trải đời chấp thuận để cô cùng hội hát quyên góp may áo lễ mới cho cha . Mặc dầu các cô đã dặn nhau:

    “ Không được nói lại với ai đấy nhá ! Cấm đấy nhá…”
    nhưng chỉ thời gian sau cả xã đã biết chuyện, gây ra bao tai tiếng làm ông Chủ tịch mặt trận xã phải tìm tới ông chánh trương phàn nàn :

    Tôi nghe con mẹ Tộ vừa la vừa khóc : vậy là mày giết tao. Đứa nào xui mày ? Thằng nào con nào xui mày để tao băm vằm nó ra ?...Chúng nó chim chuột dăng dện nhau thì mặc mẹ nó chứ , hà cớ gì lại khéo dỗ mày. Mày ăn cơm hay ăn cứt mà dại dột thế ?”

    Hoá ra con gái bà Tộ lấy bông tai quyên góp may áo mới cho cha làm bà ta chửi toáng :” Đã có ông linh mục nào đến xứ này mà chê tiền không ? Mà chê gái không ? Tôi cũng là người có đạo tôi không nói vu cho ai bao giờ…” Cha quản hạt thì sao ? “ – Rụng hết răng thì còn ăn gì được , giả thử còn đủ cả hai hàm chắc cũng chẳng từ…”.

    Ở giữa một xứ đạo toàn tòng, liệu có một mụ đàn bà oang oang chửi cả cha trẻ lẫn cha già như mất gà mà kẻ cắp lại chính là… các cha không ? Hay nhà văn mượn mồm đàn bà bôi xấu linh mục ?
    (còn tiếp)

  4. #33
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)





    Ông chánh trương chẳng những không bênh vực , bảo vệ lại còn tố cáo cha :

    Cái ông ấy ( tức cha Thư) đến là dại. Lại còn không biết nó ( thị Thảo) là ai mà dính vào…Lần đầu nó xin gặp cha còn nài tôi cùng ngồi. Mấy lần sau chả thấy ông ấy lý gì tới mình nữa. Không biết đâm mù con mắt xác thịt thì có ngày hỏng…”

    Chủ tịch Mặt trận nhân đó giễu cha :

    “ Da thịt nó như thế, môi mắt nó như thế, thánh năng ngồi gần còn có khi cháy huống hồ là cha…”

    Cứ như thế kẻ tung người hứng, một bên là đại diện nhà thờ, một bên là đại diện chính quyền ra sức bôi bác cha. Tất nhiên việc mấy cô hội hát quyên góp may áo cho cha như vậy là tan , “ thị Thảo phải hoàn lại đôi hoa cho mẹ con bà Tộ. Các nhà góp tiền mua áo lễ cũng lần lượt kéo tới đòi tiền về…”.

    Mọi lời đàm tiếu tất nhiên chĩa cả vào cha xứ làm “ cha Thư khi được hay mọi chuyện liền đóng cửa buồng ở lì trong đó cả tuần lấy cớ cảm cúm.”. Từ đó, mỗi lần làm việc với chánh trương , cha xứ gọi thêm người trong ban hành giáo dự ” khỏi mặt đối mặt với ông già nham hiểm quỷ quái…” .

    Cái “sự khó” dường như luôn luôn đuổi theo cha Thư . Cơn ông chưa qua cơn bà đã tới. Một hôm cha Thư nhận được thông tư của Toà Giám mục chỉ thị các xứ đạo tổ chức “ bách chu niên đức cha Phước dâng địa phận Tây đàng ngoài trong tay Đức Mẹ ”. Cha Thư tìm tới cha già quản hạt bàn việc tổ chức không ngờ ông này …bàn lùi :

    Đức cha Phước là tên gọi Việt Nam , còn tên chính của ngài là Puginier …năm ấy, đức cha lại nhận lời ông Ngạc Nhi* đi làm thông ngôn trong cuộc đàm phán giữa người Pháp với các quan giữ thành. …”

    Hoá ra cha già quản hạt lại là “người yêu nước” , ông kết tội cha làm ‘thông ngôn” cho Pháp chiếm thành Hà Nội . Bởi vậy thật bất ngờ, cha già thở ra giọng “địch vận” lôi kéo cha trẻ về “tình yêu nước” :

    “ Mình là người có đạo thì phải nghĩ theo cách nghĩ của hội thánh. Nhưng mình còn là người ViệtNam nữa nên khó…”
    Nghe vậy, lẽ ra cha trẻ phải phản ứng, bảo vệ đức tin , không ngờ chỉ “cúi đầu, thầm nghĩ đau đớn :” Vâng, đúng thế, đúng là thế. Người có đạo là người có tội, tội truyền kiếp, tội của tổ tiên…”

    Thái độ khiếp nhược của cha trẻ làm cha già dấn tới :

    Đạo của Chúa đến cùng một lúc với giặc giã kéo đến . Các cố đứng trong đám giặc mà truyền đạo . Người theo đạo thì không thể nghĩ đến nước. Đã nghĩ đến nước thì rất khó theo được đạo…”

    Nói năng sặc mùi “ khinh chúa yêu nước” vậy , ai dám tin là lời lẽ linh mục già quản hạt. Choáng váng vì những lời lẽ “báng bổ” phát ra từ miệng cha quản hạt, ông cha trẻ phải thốt lên :

    Lậy Chúa, vậy chúng con phải làm gì ? Bất tuân toà giám cũng có tội như bất tuân chính quyền…”

    Cha già quản hạt không những không động viên cha trẻ giữ lấy đức tin mà còn cả gan “chửi xéo” đức Thánh Cha :

    Đức Thánh Cha ở chỗ cao xa , Ngài không thể biết hết được những khổ đau của người dân ở xứ này. Ngài chưa thể biết hết lịch sử truyền giáo ở xứ này …”

    Những lễ nghi của nhà thờ thường được quy định chi tiết và thực hiện tôn nghiêm. Ấy thế mà ông nhà văn cũng biến chuyện đó thành…trò hề. Nguyên cha tổng quản địa phận gửi giấy về các xứ nhắc lại lễ nghi chầu phép lành quy định :” ra đền thờ bái một lần, lên trải khăn thánh, mở cửa nhà chầu bái lần nữa. …”. Cha trẻ hỏi cha già đã đọc giấy quy định chưa, cha lắc đầu bảo chưa rồi lên giọng khinh khỉnh, coi như chuyện tào lao :” Bái bốn lần hả ? Ừ thì là bốn lần . Chắc là mọi khi cũng bái đủ cả bốn lần…”

    Thái độ vừa báng bổ vừa coi thường phép tắc nhà Chúa của cha già làm cha trẻ phải coi ông ta là “ Một ông già đã quá tuổi làm lễ, đã rất hay quên, đã chẳng còn hiểu mình nói gì và sẽ nói những gì…”. Tuy nhiên cha trẻ nhận ngay ra nhận xét thế là sai “ Nhưng…hình như không phải là thế, hoàn toàn không phải là như thế…”

    Không phải thế thì hẳn là một lão già quỷ quyệt, nham hiểm khoác áo linh mục phá nhà thờ.Dưới ngòi bút Nguyễn Khải, hai linh mục - cha già và cha trẻ hiện ra như hai địch thủ luôn rình rập triệt nhau chứ chẳng phải cùng “con cái Chúa” hoặc cùng đấng chăn chiên. Sự thực có thế không ?

    Quả đắng tiếp theo cha trẻ phải nhận là ông trùm đạo An Thuận nhân việc toà Giám mục cấp sắc cho lập xứ đạo riêng đã tổ chức quyên góp chè chén linh đình và đổ hết trách nhiệm cho cha trẻ. Rất may được ông chánh trương mật báo, ông cha trẻ đã kịp thời ngăn được việc đầy tai tiếng đó và than trời :

    Ai cũng xấu cả thì tôi biết san sẻ công việc với ai ? …Cái miệng lưỡi con người ta gian ngoan thật…”

    Tuy nhiên bản lĩnh linh mục của cha trẻ thực sự bị thử thách là trong việc thay mặt nhà thờ làm chứng cho một cặp vợ chồng trẻ. Anh chồng là bộ đội ở mãi “vùng ngoại vi Saigòn. Bị thương rồi mới chuyển ra đây…”, chị vợ cũng là cán bộ. Anh bộ đội được nghỉ phép 15 ngày để lấy vợ, khi tới xin cha làm chứng thì đã qua mất 5 ngày, bởi vậy anh rất muốn cha viết giấy “làm chứng “ ngay để hôm sau tổ chức lễ cưới tại nhà thờ. Tuy nhiên, theo luật của hội thánh , cha vẫn phải hỏi :

    “ Hai người đã chịu phép rửa tội tại xứ họ nào ?”
    “ Gia đình con vốn ở Lạc Hải , mới về xã được có mươi năm…”
    Cha Thư hắng giọng :
    “ Vậy chị phải xin với cha chánh xứ ở bên đó tờ chứng đã làm phép rửa tội…Phải đã chịu đủ các phép bí tích từ khi lọt lòng tới tuổi lớn không mới có thể cho chịu phép cưới. Luật lệ của Hội Thánh đã định thế …”

    Vậy vẫn còn chưa xong, sau khi đã có hai cái giấy chứng đó rồi thì còn phải dự…khảo kinh nữa. Lúc này “anh bộ đội” mới lên tiếng :

    Xin thú thật với cha, cả hai chúng tôi đều đi công tác đã lâu, kinh bổn chắc là không còn thuộc…”
    Cha xứ điềm nhiên :
    “ Nên học lại , vốn đã thuộc thì học lại cũng mau chứ ?”
    “ Chúng tôi chỉ còn ít ngày phép. Một trăm thứ việc đồn lại trong mấy ngày, xin cha thông cảm cho…”
    Cha xứ vẫn quyết liệt :
    Nếu không theo đúng những luật Hội Thánh đã buộc, dẫu làm phép cũng không thành…”
    “ Anh bộ đội đưa cặp mắt nhọn nhìn soi mói ông cha đạo từ đầu tới chân như nhìn một giống người xa lạ, trong giọng nói đã có sự thách đố ngấm ngầm . Anh lên giọng :“ Chúng tôi đi chiến đấu không dám kể công với những người ở hậu phương, nhưng ở nơi sống chết mới biết bỏ qua những chuyện vặt vãnh…”
    Cha xứ cũng giương mắt nhìn lại :
    “ Đối với người có đạo thì hàng ngày xin ơn Chúa, tỏ lòng tin, cậy, mến Chúa là việc hệ trọng nhất…”
    Hai người nhìn nhau gằm ghè…

    Thật không ở đâu, ngày giữa nhà thờ , lại có thứ con chiên hỗn hào với cha xứ đến vậy . Hơn nữa, anh bộ đội lên giọng giễu cợt :

    “ Giả thử chúng tôi đều trúng tuyển qua kỳ khảo thi của cha thì điều kiện tiếp theo có phải là bỏ quân ngũ không ?”

    Vậy là anh con chiên mặc áo bộ đội đã không ngần ngại úp lên đầu cha xứ một cái nón cối tổ bố : ép tín đồ đào ngũ, bỏ bộ đội. Và sau cùng, “ anh ta vẫn không rời mắt nhìn ông thầy tu, vành môi trên hơi nhếch lên, cái nhếch môi mới kiêu hãnh làm sao :

    “ Chúng tôi vẫn tự hỏi : Sự có mặt của các cha có cho thêm chúng tôi được cái gì không ? Một câu hỏi đứng đắn đấy. Cha còn trẻ, tôi tin rằng cha có đủ thời gian trả lời…”

    Đúng là khiêu khích, phá hoại “chính sách tín ngưỡng của Đảng, Chính phủ” , vậy mà ông nhà văn lại hạ bút khen :” cái nhếch môi mới kiêu hãnh làm sao…”.

    Tuy nhiên, mải mê bôi bác, trách móc nhà thờ, ông nhà văn quên béng một điều là bất kỳ ‘cuộc chơi” nào cũng có luật của nó. Nếu bài xích nhà thờ dữ dội vậy, thì anh bộ đội với chị cán bộ cứ ra Uỷ ban mà tổ chức đám cưới theo đời sống mới, hà cớ gì phải vào nhà thờ khẩn khoản cha cố “linh động giải quyết” và khi không được thì lập tức giở mặt buông lời riễu cợt mang đầy tính đe doạ, khi muốn nên vợ nên chồng trước mặt đức Chúa Giêsu.
    (còn tiếp)

  5. #34
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)




    Sau cha già , cha trẻ, Nguyễn Khải cho cha thứ ba ‘ra sân khấu”. Đó là cha Hoè người “đi làm phúc, đi thăm kẻ liệt” bằng xe máy. Một lần chẳng may cha đâm phải một bà lão, cha phải chở bà vào bệnh viện , phải trả “mười đồng năm hào” tiền thuốc tiền ăn, lại biếu cụ năm chục để cụ bồi dưỡng, ấy thế mà con gái cụ vẫn mò đến tận nhà xứ - mà theo lời cha - “cái con quỷ cái ấy nó vừa khóc lóc vòi tiền , lại vừa hăm doạ xa xôi, rút lại cha đành phải đưa thêm cho nó năm chục nữa. Vị chi là một trăm mười đồng năm hào.Ấy là chưa kể tiền xăng đi đi về về thăm nom bà lão suốt mười ngày điều trị…”

    Diễn tả vậy, giống thằng chạy mánh đâm phải bà cụ rồi xuýt xoa tính toán chi li số tiền phải móc ra đền, chứ chẳng phải một cha xứ gây tai nạn sau đó săn sóc họ với tình thương bao dong.

    Một hôm cha Hoè tới thăm cha Thư, dùng cơm trưa xong, “khách quý hớp một ngụm nước to, súc nhổ ầm ầm , lấy tăm gẩy giòn giã cả hai hàm răng vừa to vừa khoẻ rồi lại tiếp tục nói ào ào…”

    Đúng một anh lái trâu chứ không hề là một linh mục chăm sóc phần hồn con chiên. Tuy nhiên đọc tiếp , người ta lại thấy cái ông linh mục Hoè này ngoài hình hài lái trâu , bên trong lại đúng là một ông cha cố “quốc doanh” được cài vào giáo hội khủng bố tinh thần linh mục .

    Cơm nước xong, cha Hoè doạ cha Thư :
    “ Chắc là cha biết chuyện Uỷ ban xã Lạc Hồng mời cụ Vịnh ( linh mục) lên chất vấn chứ ?”
    Rồi cha Hoè kể tội :
    “ Thật không ai dại như cụ Vịnh. Người ta vừa bế mạc hội nghị Thiên Chúa Giáo chiều thứ bảy, sáng chúa nhật là ngày lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống, cụ dám lên Toà giảng nói xưng xưng :” Chúa Thánh thần lấy hình lưỡi lửa hiện xuống, cho nên người bổn đạo phải chú ý sửa lưỡi , phải nói ngay nói thật kẻo lỗi giới răn thứ tám…”. Nói thế bằng tuyên chiến công khai với mặt trận còn gì…”
    Và cha rủa cha Vịnh :
    “Mà ông ta đâu đã trọn, cũng gian dối, cũng mưu mẹo còn hơn kẻ khác…”

    Nghe cha Thư nói cha không làm gì cha đâu có sợ , cha Hoè lại doạ :

    Cha không làm gì nhưng kẻ khác làm người ta vẫn cứ lôi cha vào. Một thằng áo chùng làm láo thì cả bọn áo chùng phải mang tội mang vạ. Biết để còn kịp ngăn nhau chứ …”
    Rồi cha giở trò “tâm lý chiến :
    “ ……chỉ những tội trọng mà cụ Vịnh đã chủ mưu , đã nhúng tay trong thời kỳ sửa sai cải cách ruộng đất cũng đủ để chính phủ họ xử bắn rồi, không phải chỉ bắn một lần mà phải bắn đủ mười lần . mấy năm nay con đi hầu cụ Vĩnh tại xứ Nhất này , nên con biết…”

    Khủng bố tinh thần cha Thư chán chê, cha Hoè mới lộ ý đồ bêu xấu, báng bổ Chúa :

    Con được cử ra coi sóc xứ đạo trước cha vài năm, con xin thưa với cha một sự thật đau đớn . Nơi nào phần đời thịnh thì giáo hữu còn làm được việc này việc khác, yên ấm nhiều bề. Nơi nào phần đạo thịnh thì cờ bạc , rượu chè, kiện cáo, đôi khi còn đánh chém nhau ngay cả trong nhà xứ. Mắt con nhìn thấy, tự con là người trong cuộc, bảo rằng không nên tin thì chỉ còn cách đâm thủng cả hai tai, chọc mù hai mắt…”

    Sau khi mượn mồm giáo dân, chánh trương, trùm họ với cả cán bộ Đảng và Nhà nước bôi bác đạo chưa thoả , Nguyễn Khải chui cả vào mồm linh mục chửi cho bõ tức.

    Cứ theo đúng lời cha Hoè thì giải tán nhà thờ, bỏ mọi việc đạo xã hội sẽ “yên ấm” nhiều bề, còn không sẽ biến hết thành ma quỷ, xúm vào đâm chém nhau. Vốn là linh mục mới ra trường, đức tin còn nặng, cha Thư không sao lọt tai những lời phản Chúa, ông “cười nhợt nhạt” :

    “ Nếu tôi hiểu được lời cha nói thì cha đang làm lại giáo lý ?”

    Đây thật là một lời kết tội nặng nề với một đấng “chăn chiên”, nhưng với cha Hoè, chẳng là cái gì , cha vẫn thở ra cái “triết lý sống” vô thần sặc mùi chính trị thực dụng :

    “ nếu con làm theo ý muốn của đức Giám mục thì thân con phải ngồi tù, xứ đạo sẽ khô héo. Con làm theo cách hiểu của con thì việc đời sẽ vui vẻ mà sự đạo cũng trọn lành.”

    Cái cách của cha là cam chịu trở thành cái đuôi cho chính quyền tha hồ vẫy ngược vẫy xuôi, nhà thờ và giáo hội chỉ còn là một tổ chức quần chúng của Đảng, “ kính Chúa và yêu nước tức là yêu chủ nghĩa xã hội…” – chính là cái cách Đảng đưa tôn giáo theo con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội..

    Vài ngày sau, trên đường “kiệu mình Thánh” ở các xã, cha Hoè lại ghé vào thăm cha Thư. Lần này cha Thư còn kinh ngạc hơn nữa vì cha Hoè “ không mặc áo nhà tu mà vận sơ mi ngắn tay màu vàng nhạt, quần mầu sẫm, đi giày da nâu , đầu trần , lại cả kính râm nữa. Với bộ quần áo ấy nom cha trẻ đẹp hẳn , mà tự nhiên, thoải mái hết sức…”

    Đúng là một gã làng chơi chứ chẳng ai ngờ đó lại là cha xứ. Đã vậy ông còn chọc tức người đồng đạo :

    “ Con mang cái vỏ của thế gian nom có nghịch mắt quá không ?”
    Cha Thư kêu lên :
    “ Đi kiệu Mình Thánh mà mặc xống áo này ?”
    Rồi cha giảng giải :
    “ Tôi đi kiệu Mình Thánh phải đi từ sớm mai, túi Mình Thánh đeo trước ngực , áo phép phủ ngoài , dọc đường chỉ nghĩ tới những sự khốn khó Chúa phải chịu, ai hỏi không nói, ai gọi không thưa, mà còn hãi chưa được sùng kính…”

    Cha Hoè không những phớt lờ cả luật lệ nhà thờ mà còn trâng tráo, báng bổ :

    “Con thì khác. Đã hỏi là con phải thưa, phải chào. Còn nghiêm mặt đi thẳng họ lại nghĩ mình hờn giận việc gì, bực tức gì sinh hiểu nhầm nhau rồi khổ…”

    Thế rồi ông cha Hoè chở cha Thư đi tham dự “tuần chầu lượt thay địa phận”. lúc xe máy chạy qua chợ, các cô bỡn cợt , “hét lanh lảnh” :

    “Anh ơi…anh cho em đi cùng với…”
    Cha Hoè ngồi nhún nhảy, miệng trả lời, đầu vẫn không ngoảnh lại :
    “ lần sau, lần sau tôi sẽ cho ngồi cùng…”

    Cái cảnh “cha và con” chim chuột, bỡn cợt nhau giữa ban ngày ban mặt ngay giữa chợ liệu có thể có ở một xứ công giáo toàn tòng như Bùi Chu- Phát Diệm ? Thời bấy giờ, cả nước đang đói, nông dân vắt mình trên đồng ruộng hợp tác mỗi công tính ra cũng chỉ được vài lạng thóc, ngày hai bữa ngô sắn, rau muối là chính, vậy mà ông nhà văn tả bữa ăn của các cha xứ thật không thua gì mấy ông Uỷ viên Bộ chính trị :

    Thịt gà rán, miến xáo lòng, lại thêm bát riêu cá thật cay, ăn với rau ghém …”. Hai cha lại còn có cả rượu thuốc đưa cay. Cha xứ sống “sướng” như vậy, ai chẳng muốn đi tu.

    Sau bữa cơm có một cặp trai gái đến xin làm phép cưới. Khác với cái lần “anh bộ đội và chị cán bộ” bị cha Thư từ chối vì không thuộc kinh; lần này cha Hoè khôn hơn, gà cho hai con chiên :

    “ Thế nào, không thuộc được một câu nào hả ? Chỉ cần thuộc một câu là tôi làm tờ chứng cho ngay. Vậy kinh Tạ ơn Đức bà có thuộc không ? “ Kính mừng Maria đầy ơn phúc. Đức Chúa Lời ở cùng bà…”

    Vậy là xong, “thủ tục” lễ cưới tại nhà thờ được giản hoá tới mức độ hài hước làm cha Thư thắc mắc :

    “Họ làm những công việc thiêng liêng ấy một cách trần tục vậy sao ?”

    Khi còn lại hai cha với nhau, cha Hoè mới “truy vấn” cha Thư , dồn cha vào cái bẫy kết tội cha “lẹo tẹo” với con chiên:

    “ Con lạy cha, cha đừng diễn trò cả với con nữa. Cô ấy đã thú nhận với cả con rồi…cha đã lợi dụng lòng sùng kính thiêng liêng của những cô gái thơ ngây để mưu lợi lộc cho riêng mình….”

    Cha Thư choáng váng trước đòn vu cáo trắng trợn. Cha như “ người bị bóng đè, muốn kêu cứu thật to nhưng tiếng kêu không lọt qua được kẽ răng, muốn vùng chạy ra ngoài nhưng chân tay đã bị trói chặt . Còn cái mặt quỷ thì cứ sát gần lại mãi, đã nhìn rõ cả vè mắt của nó, chóp mũi của nó, chân răng của nó. Và cả cái giọng nói của quỷ, nhẽo nhợt, tanh tưởi, cứù bò bám lần lần lên khắp da thịt…”.

    Người đọc cảm giác hai linh mục giống y hai cán bộ . Họ cũng moi móc, sát phạt , nhìn nhau như quỷ dữ chẳng khác gì trong “đấu tố” . Cái lối trắng trợn lột trần nhau không phải của các nhà tu hành mà chính là của cán bộ Đảng:

    Cha phàn nàn kêu ca rằng diềm ren áo lễ của cha rách, rằng giây thắt lưng của cha ngắn , rằng vải may áo chùng thâm vừa thô vừa dày. Cha đã kêu than thì bọn họ phải góp sức mà lo liệu…Đến khi việc vỡ lở, chính quyền can thiệp, lập tức cha nhắm mắt, sõng tay, coi như kẻ đứng ngoài . “ Nào tôi được biết gì đâu. Họ đã lợi dụng danh nghĩa tôi để làm bậy đấy chứ.!”

    Cha Hòe chẳng những không còn “đức tin nơi đức chúa Giê xu” mà đối với đức cha bề trên cũng đầy tức tối :

    Quay mặt về toà giám thì đấng bề trên chỉ một mực hò hét chống cộng, bất hợp tác với chính quyền. Ấy là ngài xui bề tôi làm, còn chính ngài lại nhỏn nhẻn, nhũn nhẽo như kẻ biết vâng phục nhất. Rủi khi mình bị tóm gáy, còng tay thì ngài mới sửng sốt kêu lên : “ ơ, cái thằng ngu thế, Chúa nào bảo nó chống lại người cầm quyền. Nó có ngồi rục xương trong tù cũng là phải…”

    Cha bề trên đã vậy, đến các linh mục chăn chiên ở bên dưới cũng ma lanh không kém :

    “ Nhưng, thưa cha kính mến, chúng con cũng khôn lắm , chúng con đã liếc mắt, cười duyên với nhà cầm quyền từ lâu rồi. Hẳn là họ phải tin chúng con hơn, dẫu sao chúng con cũng được lớn khôn dưới chế độ mới. Còn cha quản hạt , người coi sóc giáo lý và tu đức của chúng ta ? Ông ấy mặc kệ, ai muốn làm gì thì làm miễn là đừng có lôi ông ta vào cùng một rọ…”

    Cứ thế, nhà văn tưởng tượng ra những “con ngựa thành Troie”, những cha cố phản Chúa “đi đêm với cộng sản”. Phải chăng đây là khía cạnh “triết luận “ giữa “công giáo” và “chủ nghĩa xã hội "mà phê bình gia Vương Trí Nhàn đã tâng bốc ngay khi tác phẩm Nguyễn Khải mới xuất bản ?
    (còn tiếp)

  6. #35
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)





    Sau vố bị cha Hoè truy vấn và mạt sát , cha Thư rút ẩn vào chính mình , “ đã hoá ra con người trầm lặng và buồn bã”. Trong số người giúp việc , cha chỉ quý mến có mỗi mình một cậu bé giúp lễ tên Tú với một tình cảm đặc biệt :

    “ Cậu bé chỉ đứng nhìn ông cha trẻ bằng cặp mắt trong suốt, nghiêm nghị và miệng hơi mỉm cười là bao nhiêu bực giận đã lập tức tiêu tan , là đã muốn mỉm cười đáp lại và thăm hỏi một câu thật dịu dàng”

    Tình cảm giữa ông cha trẻ và cậu bé giúp lễ được đẩy xa tới mức như tình cảm …cha con , anh em lại phảng phất mầu “đồng tính” :

    “ Vả lại cậu ta còn biết cách săn sóc người chủ vừa tỉ mỉ vừa âu yếm, đem lại cái vị mặn của trần tục vào cuộc sống nhạt nhẽo thiêng liêng. Chính là cái vị muối của thế gian đã gắn bó họ lại như anh em, như cha con, và nếu họ phải xa nhau thì nỗi đau đớn chia ly cũng sẽ rất xác thịt…”

    Mê mẩn cậu phụ lễ , đức cha lên giọng :

    “ Người lớn hay nghi ngờ, hay cứng cỏi, còn trẻ con thì tin tưởng và phó thác. Người lớn thì kiêu ngạo, tham lam, còn trẻ nhỏ thì hiền hoà , nhường nhịn. Người lớn gian xảo, dối trá, còn trẻ nhỏ chỉ nói có nếu là có , nói không nếu là không. Người lớn là con rắn, trẻ nhỏ là bồ câu. Chúa đã từng vẫy gọi :” Hãy để trẻ thơ đến cùng ta, đừng có cản chúng. Bởi chưng nước Trời thuộc về những kẻ giống như chúng…”

    Cha có thể ca ngợi trẻ con , nhưng sao lại gây cho chúng thù ghét, ngờ vực người lớn đến thế này :

    “ Con ơi ! Thầy ghê sợ mọi người, trừ trẻ nhỏ. Ai ai cũng có thể hãm hại được thày , trừ những kẻ trong trắng, ngây thơ như các con. Thầy nói bằng thật vì thầy đã từng biết. Lời nói ngọt ngào nhưng lại đọng vị đắng cay ; mời chào và cởi mở là bẫy vô hình : gương mặt thánh thiện che đậy những mưu mô hiểm độc. Thầy đã bị khốn mấy lần rồi. Con nên tin lời thầy dặn…”

    Xa hơn nữa, cha còn xúi bậy :

    “ …phải biết ngờ vực những cảm tưởng tốt đẹp ban đầu, phải biết tránh xa những cám dỗ có tính xác thịt. Mắt thấy đẹp tức là không đẹp, tai nghe hay tức là không hay, lưỡi nếm ngon tức là không ngon…”

    Linh mục là đấng chăn dắt linh hồn cho con chiên. Con chiên gần gũi linh mục ắt phải được học hỏi, trau dồi tâm hồn trong sáng và cao thượng. Vậy mà cậu bé phụ lễ gần gũi cha Thư, suốt ngày bị cha nhồi nhét tư tưởng thù hằn và mất lòng tin vào người, nhà thờ đã biến thành nơi đầu độc con người nguy hiểm như vậy, liệu có đáng tồn tại ? Phải chăng đó là “triết luận “ về đạo Thiên chúa và “chủ nghĩa xã hội” của Nguyễn Khải ?

    Cậu Tú phụ lễ sống trong nhà đạo vẫn phải đi lao động công ích với thanh niên trong xóm. Ra tiếp xúc với đời, cậu lại nghe lời khích bác rủ rê :

    “ Giả sử chúng tôi lại có một người con trai như cậu, nói cậu bỏ lỗi nhá, thì tôi chẳng còn ước ao cái nước thiên đàng nào khác. Cậu đưa bàn tay tôi xem, bàn tay đẹp quá, vừa mỏng vừa mềm, tay này có học nghề gì cũng mau giỏi, mau khéo…”

    Ra ngoài đời được tâng bốc rủ rê, trở về nhà đạo, cậu Tú lại ngập tai những chuyện bê bối xấu xa trong các thầy dòng, các cha cố. Nào chuyện khai gian tiền chợ , nào chuyên trai gái của các cha …Cứ một đằng “đời” thì kéo, một đằng “đạo” thì đẩy như vậy, trước sau cậu Tú phụ lễ cũng phải bỏ đạo mà về với đời. Cậu phàn nàn với ca xứ :

    “ Thưa thầy, ngày hôm nay con được nghe nhiều chuyện đến nhơ nhớp , chưa bao giờ con được nghe người ta nói với con, nói với nhau những chuyện lạ lùng đến thế …”

    Lẽ ra cha xứ là linh hồn của nhà thờ, phải bảo vệ uy tín cho đạo, phải tìm cho ra thực hư trong “những câu chuyện nhơ nhớp” mà cậu phụ lễ “buôn chuyện’ ở đâu , đằng này cha lại phụ hoạ , bôi thêm tiếng xấu , kể tội nhà thờ mà chính cha là đại diện:

    “ Một cặp kết bạn đến đưa cho đấng chăn chiên tám chục đồng, đấy là tiền biếu riêng , còn phí tổn dầu nến người ta đã chi một món khác rồi. Đấng chăn chiên đưa trả lại năm đồng, chỉ cầm có bảy mươi nhăm đồng, rồi bảo :” Cha chỉ lấy một nửa , còn cha cho con một nửa. Vậy là cha đã nâng giá lễ xin phép cưới từ tám chục lên trăm rưởi…”

    Vào những năm thập kỷ 60, chuyện cha bỏ túi tiền “làm lễ cưới” là “tội lỗi xấu xa” . Cha lại tố cáo tiếp :

    “ Có bảy cặp làm lễ vào tối thứ bảy . Sáng chúa nhật linh mục rao ở nhà thờ chỉ hoan hô có ba đôi sáu anh chị em đã có tinh thần ngoan đạo. Đấy là ba đôi có tiền xin lễ cưới, còn bốn cặp kia chỉ làm phép cưới suông thì coi như không có. Có tin được không ? Không thể tin được ! Không thể tin như vậy được ! Lạy Chúa…”

    Cha kêu lên vì phẫn nộ, cha không còn biết chia sẻ với ai cái nỗi ghê tởm đó ngoài cậu phụ lễ .Vậy là hai người đã ngầm họp thành một khối tách khỏi sự dơ bẩn của nhà thờ. Ông nhà văn không dừng ở đó, ông còn đẩy cha cố và thầy phụ lễ đi xa hơn nữa về phía…cách mạng để trong cuộc đối đầu giữa “ton giáo “ và “chủ nghĩa xã hội”, phần thắng phải thuộc về ‘sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân”, minh hoạ cho “luận thuyết “ “ai thắng ai” một thời bao trùm lên đời sống tinh thần dân miền Bắc.

    Thế rồi một ngày nọ, ông chánh trương trố mắt nhìn cha linh mục ăn mặc lạ đời :

    ” cha mặc chiếc quần xanh đã cũ, một cái áo cộc tay nhuộm nâu, chân đi dép cao su, đầu đội mũ lá như …một anh cán bộ”, khiến ông chánh trương phải kêu lên :

    “ Lạy Chúa ! cha đi đâu sớm vậy , mà lại ăn mặc như vầy ?”

    Hoá ra cha đi thăm…bà con đang lao động sản xuất, hơn thế nữa, cha muốn cùng lao động với bà con :

    “Ông chánh giới thiệu tôi với ông phụ trách tổ làm màu nhá. Tôi muốn hàng ngày tới đó làm một buổi. Còn việc nhà Chúa chỉ cần làm một buổi là đủ…”

    Ông nhà văn thật “to gan”, ông gán ghép cho cả cha cố “giác ngộ ý thức lao động”, coi “lao động là vinh quang” , từ bỏ vị trí “đạo cao đức trọng” để đòi “ba cùng” với nông dân không khác gì cán bộ cải cách ruộng đất. Tất nhiên ông chánh trương không đời nào để cha phá vỡ lề luật của nhà thờ như vậy . Ông nhắc nhở cha :

    “ Chúa đã phân mỗi người một việc. Việc của cha trọng hơn việc chúng con, sao lại bỏ việc trọng để làm những việc khác…”

    Cha chẳng những không nghe theo ông chánh trương mà còn tỏ vẻ thích thú được thoát cái vỏ làm cha :

    “ Tôi ra cùng làm với bà con chứ thăm thú gì ….
    Ra đến đường , cha Thư lấy kính râm đeo rồi hỏi nhỏ :
    “ Nom tôi đã ra anh cán bộ chưa ?”

    Ối Giêsuma lậy Chúa tôi, làm cha cố mà lại muốn..giống anh cán bộ, muốn học theo bác Hồ ‘đi sâu đi sát” , cùng lao động với nhân dân . Ông “cha cố” của Nguyễn Khải đúng là cha dở người, sắp bỏ áo choàng thâm để xin vào Đảng thật rồi. Quả nhiên ông chánh trương nghĩ thầm về cha :

    ” Ông này đã ra dở thật . Mặt mũi thì võ vàng , quầng mắt thì thâm đen, ăn nói lúc khôn lúc dại. Đến tội nghiệp!”
    và cố khuyên giải cha :

    “ Cán bộ họ không vận áo thâm chùng, thì người mặc áo thâm chùng không nên vận quần áo của cán bộ, ăn mặc phải cho nó phân minh…”

    Tất nhiên, cha Thư không hề có ý định bỏ đạo, ông chỉ muốn làm một thứ “linh mục đời mới” một chân trong nhà thờ, một chân thò ra ngoài xã hội , thực hiện đúng phương châm Nhà nước đề ra cho các nhà tu hành sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa :” tốt đời đẹp đạo”. Bởi thế, cha Thư mới tuyên bố :

    “ Tôi vẫn dâng trọn đời tôi để rao giảng Tin Mừng, nhưng không ở nhà tu, không mặc áo chức. Tôi sẽ sống như mọi người…”

    Đó chính là cái hình mẫu “ linh mục” “tốt đời đẹp đạo” mà Đảng và Nhà nước bấy lâu nay vẫn đưa ra làm mẫu mực trong Hội những “người công giáo yêu nước”. Hóa ra cái gọi là “triết luận về thiên chúa giáo và chủ nghĩa xã hội” mà phê bình gia Vương Trí Nhàn gán cho “ Cha và con” của Nguyễn Khải chẳng có gì ghê gớm mà chỉ “minh hoạ” chủ trương “tôn giáo vận” của Đảng và Nhà nước với hình mẫu quái thai “ cha cố tốt đời đẹp đạo’ mà thôi. Cái hình mẫu “quái gở “ ấy nhất định vấp phải sự phản đối của con chiên. Bởi thế khi cha Thư xin một chân “lao động sản xuất” ở trại rau để “tự nuôi mình” lập tức bị ông Tài – con chiên, phản đối :

    “ .Lạy cha, cha mà làm thế bằng trát bùn vào mặt chúng con còn gì. Xứ đạo này đâu đã đến nỗi túng thiếu ?”
    Cha xứ vẫn khăng khăng đòi đi “lao động sản xuất “ :
    “ Họ nghĩ sao mặc họ, miễn là mình làm không sai…”

    Quả thực nhà văn viết về linh mục hay về thanh niên “tích cực lao động xã hội chủ nghĩa” đây ? Chẳng thế mà ông cho linh mục hăng máu lên, mạt sát nhà thờ :

    Tôi không muốn sống như các linh mục khác, sống như thế nhơ nhớp lắm , mỗi người nhơ nhớp mỗi cách. Tôi còn trẻ, tôi còn đủ thời giờ để lại chút ít tiếng tốt cho xứ đạo. Bằng không làm được gì hơn thì trả lại áo chức mà về. Sống như kẻ có tội đã đau đớn, lại không được phép cứu chuộc mới thật là đau đớn hoàn toàn …”

    Trải qua mấy thập kỷ, Nguyễn Khải liệu đã thấy rõ, ai là người sống nhơ nhớp ? Các linh mục trong nhà thờ hay các quan chức ngoài đời ? Bàn tay dàn xếp của ông nhà văn quá lộ liễu làm mất đi phần chân thực là cái cốt lõi, không thể thiếu cho một tác phẩm văn chương.
    (còn tiếp)

  7. #36
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)




    Ban chánh trương không cho cha “tham gia lao động sản xuất” sợ mang tiếng, thì “cha đi lang thang khắp các dong xóm , vào nhiều nhà, hỏi han đủ chuyện và nếu chủ nhà giữ lại mời cơm thì cha trả lời rất nhũn nhặn :

    ” Tôi đã ăn rồi, tôi không ăn được nhiều, đừng có ép tôi…”.

    Xưa nay, các xóm đạo được cha tới thăm là một vinh dự cả làng cả xóm, rục rịch chuẩn bị đón cha từ mấy ngày trước. Riêng cha Thư thì ngược lại ,vì cha cứ tới luôn xoành xoạch “ngồi tiếp thì mất việc mà bỏ đi làm cũng không đành, nên vừa thấy sứ giả của Chúa lò dò vào cổng là trẻ con được bảo trước đã chạy vội ra nói dối bố mẹ hay ông bà nó vắng nhà…”

    Thật chưa ông linh mục nào giảm sút uy tín trong con mắt giáo dân như cha Thư cho dù đã cố gắng thực hiện phương châm “ tốt đạo đẹp đời” mà Đảng và Nhà nước cho kẻ thành khẩu hiệu dán đầy ở các xóm đạo.

    Đi xuống dân bị dân tránh mặt, cha Thư đành “đóng cửa ngồi lì trong phòng riêng đọc sách từ sáng đến tối , không tiếp một ai…”. Ngồi trong buồng chán, cha Thư mang sách ra ngoài trời đọc. Hôm đó cha tìm được “một cụm tre ngay sát một cái cầu đá” , rất yên ắng và mát mẻ để ngồi đọc sách. Dân làng dường như đã quen với những hành vi khác thường của cha xứ nên khi cha vừa đi qua “ họ liền ngoái cổ nhìn theo, cái nhìn bần thần xót tiếc :” Khốn nạn ! Con người khoẻ mạnh đẹp đẽ thế mà ra dở ?”.

    Cha xứ đã muốn “lìa đạo” , lại thêm ngồi đọc sách ở cái “cụm tre bên cái cầu đá” lại gặp một anh…tu xuất, bỏ đạo về đời. Anh này đã học ở “tràng lý đoán” – tức trường học ra làm cha xứ được vài năm, đã “ chịu phép cắt tóc là đã được vào sổ các thầy tư giáo”, trong Hội thánh có 7 chức thì anh ta đã “được chịu chức cầm nến” tức là chức thứ tư rồi, chỉ còn hai năm nữa là anh ta đã thành linh mục năm mới 24 tuổi. Tu sắp thành “chính quả” vậy mà ngang xương bỏ về bởi lẽ những thầy dậy anh trong hội thánh đều là bọn mà anh ta cho là “ học vấn thì tầm thường, mọi quan niệm đều lạc hậu, tư cách lại hèn kém, nói cho thật họ không được phép rao giảng những lời cao đẹp…

    Dựng nên nhân vật cha Thư chửi đạo dường như chưa thoả lòng , ông nhà văn Nguyễn Khải phải đẻ thêm chàng “tu xuất” nữa để mượn mồm chửi tiếp . Anh này đưa ra lý do bỏ tu thật ‘cao quý” :

    “ Con chỉ không muốn bị dắt kéo bởi những người mù. Theo chân họ rồi có ngày bị sa hố…”

    Ta hãy thử tưởng tượng một chàng thanh niên tuổi măng tơ, vào trường dòng từ nhỏ, sắp sửa tốt nghiệp thành cha, vậy mà dám chê bai những người thày của mình là hèn kém, là dốt, là mù….thì anh ta nếu không phải phường vô ơn bạc nghĩa cũng là quân đầu đường xó chợ, trốn học đi bụi đời.

    Sau lần cha Thư nghe thày “tu xuất” báng bổ đạo được vài ngày thêm ông cha Hoè hăng hái bôi đen cái áo choàng thâm nữa. Ông này kể về một “ chiến sĩ đầy lòng quả cảm của Hội thánh, một nhà lãnh đạo và tổ chức hết sức khôn ngoan của địa phận “, người đó là “cha Vinh” vừa mới bị ‘đuổi khỏi hàng ngũ giáo sĩ hết sức đột ngột” vì tội …hủ hoá.

    Bằng một giọng vô cùng khoái trá của kẻ tiểu nhân, cha Hoè kể lại vụ việc “ngã ngựa” của người đồng liêu. Trước hết cha mạt sát :

    “Ông Vinh được chết lành thì còn ai muốn giữ mình cho nên. Một đời mưu chước hại người, nay mới bị người hại lại. Mà dơ dáy vô cùng, dẫu người thân cũng phải che mặt mà tránh…

    Chửi bới chán chê rồi cha mới đi vào tường thuật chi li bằng thứ ngôn ngữ chẳng phải của nhà tu hành chút nào :

    “ Cái đứa nữ ấy cũng đã ngoài ba chục tuổi , vốn có tính huê nguyệt , người mỡ màng phốp pháp, ăn nói cũng khôn khéo, ngọt ngào… Cha đã có tuổi hay đau ốm vặt nên cái đứa kia mới có dịp bưng cơm lên dọn cơm xuống , rồi hầu nước hầu thuốc , lâu dần thành cô hầu phòng , ngày nào không thấy đến, ông già lại có ý giận, có ý ghen…”

    Lẽ ra nói về ‘cái sự trượt ngã của người khác”, nhất của đức cha Tổng Giám mục , nếu là người có đôi chút tự trọng, ắt chỉ nói qua loa, vắn tắt, bóng gió, ngờ đâu, cha Hoè càng kể càng chi li, thích chí :

    “ Mà chuyện cũng đã dăm sáu năm nay rồi, chứ chẳng phải mới có ngày hôm qua…Mãi đến đêm hôm vừa rồi , cái chuyện mờ ám giữa hai người mới hoàn toàn bị vỡ lở. Ai đời ngủ với nhau lại không cài then cửa bao giờ . ờ thì cái chuyện ăn vụng bị bắt quả tang tiếng là xấu nhưng thế gian cũng đã thường. Cái tâm lý con người mình có thể hiểu được

    Rào đón kỹ càng rồi, cha mới hạ nhục đồng liêu xuống đất đen :

    Nhưng cái ông già ấy lại quỳ sụp xuống mà xưng con xưng cháu, khóc lóc kêu van những kẻ đối địch hãy tha thứ , hãy làm ngơ , cần gì sẽ dâng hiến bằng hết thì tôi không thể nào hiểu nổi. Cái tâm lý ấy nó kỳ quái quá, làm sao mà hiểu được …”

    Cái giọng bôi bác “thày cả” độc địa không chút tình cảm thông , đập một nhát cho chết, rõ là không phải giọng của linh mục “đồng liêu” mà là của …ông nhà văn ra sức bôi bác nhà thờ lấy điểm với Đảng :

    Cấy ác thì gặp ác, dẫu là tôi tớ của Chúa cũng chẳng thể bênh . Chúa chẳngcó tội gì còn bị đẩy lên khổ giá huống hồ một kẻ tội lỗi chất chồng. Rồi còn nhục nhã hơn nữa kia, chưa hết đâu…

    Thật khó hiểu vì sao, đức cha Hoè sau khi đã thoả thuê mạt sát đức cha Vinh tội hủ hoá, lại còn lớn tiếng chửi bới suốt lượt cả giới linh mục nhà Chúa mà chính ông ta cũng là một thành viên :

    Có nhiều cha hễ mở miệng nói rặt điều nhân đức nhưng cách sống lại rất đáng phàn nàn . Chuyện ông Vinh chỉ là một chuyện vặt được lôi ra trước công luận . Còn lắm chuyện hệ trọng hơn vẫn được nhiều đấng bậc ở toà giám giữ kín trong bóng tối, con là cái thằng hay thóc mách nên cũng biết được ít nhiều. Vì được biết ít nhiều nên con mới dám nói này nói nọ mà không sợ bị phạt vạ treo chén. Họ làm bậy còn được quyền tế lễ Chúa, huống là con…”

    Thực là một lời tố cáo hết sức đanh thép “sự thối nát” của Toà Giám mục , nhất từ miệng đức cha sống ngay trong nhà Chúa thử hỏi ai còn dám nghi ngờ.

    Bôi đen đạo thiên chúa là cảm hứng xuyên suốt “ Cha và con và…” cho tới tận chương cuối . Ông cha Vinh sau khi bị bắt quả tang ngủ với cô hầu phòng đã “ cướp quyền của Đức Chúa Trời , tự huỷ hoại cuộc sống của mình. Khi người nhà xứ phá cửa vào đã thấy xác treo lủng lẳng.. .”.

    Thế rồi một hôm cha quản hạt cho gọi cha Thư – ông linh mục đang “chán đạo muốn về đời”, tra vấn :

    “Xin cha tha lỗi cho tôi nếu tò mò muốn hỏi một câu này : cha còn điều gì chưa được hoàn toàn hài lòng về những người cộng sản ?”

    Đó là một xúc phạm với cha Thư - vốn rất cảm tình với cách mạng, bởi vậy cha nghiêm mặt :

    “ Thưa cha, sao cha lại hỏi con chuyện đó ?:”
    Rồi cha bầy tỏ “lập trường cách mạng” :
    “ Con cảm phục cuộc cách mạng nói chung , có cách mạng chúng con mới được làm người tự do, làm một giáo sĩ tự do.Nhưng con chưa thể hoàn toàn bằng lòng những cán bộ cách mạng nói riêng. Đến là mâu thuẫn. Nhưng …thưa cha, con có thể sống được lâu dài với cái mâu thuẫn ấy. Vì con biết vâng lời người cầm quyền..”

    Ông nhà văn Nguyễn Khải quả rất ranh ma khi mượn lời toàn người nhà Chúa mạt sát các đấng chăn chiên.

    Cuốn sách gọi là tiểu thuyết “ Cha và con và…” thực ra là một bản án hết sức nặng nề đối với Thiên Chúa Giáo tại Việt Nam mà lạ thay gần 40 năm sau khi ra đời vẫn chưa một ý kiến phản biện nào thuộc phía những người bị bôi xấu. Cuốn sách vẫn nghiễm nhiên là một “thành tựu” trong kho tàng văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

    (còn tiếp)

  8. #37
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)




    Chính vì cuốn sách vẫn được coi như thành tựu văn học hiện đại , vẫn được rao giảng trong nhà trường nên cần thiết phải đi cho hết nó.

    Nhà văn cho ông cha trẻ nói năng “lập trường” vậy, đến ông cha già quản hạt lại còn ‘cách mạng” hơn. Cha ‘chỉnh” câu trả lời của cha Thư :

    “ Vâng lời chưa đủ, còn phải hiệp tác. Có hoan hỉ thật lòng thì mới hợp tác được.”

    Vậy cha quản hạt muốn cha Thư phải ngoan ngoãn vâng lời nhà cầm quyền một cách tự nguyện chứ không phải miễn cưỡng, tức phải “ hoan hỉ mà vâng lời” kia. Bởi vậy sau khi gặp cha quản hạt trở về, cha Thư vui vẻ cho phép cậu giúp lễ tham gia vào…đội gặt của hợp tác xã. Khi cậu ta đi rồi, cha càng thấy chán đạo, càng cảm thấy nhà thờ ngày càng giống như nhà tù :

    “ Rồi trong cái nhà tù này chỉ còn có ta thôi, một ông cha xứ đã lẩn thẩn , và mấy người hầu việc đã quá già. Nhà tu, nhà nguyện, nhà dòng, nơi chỉ chăm lo có sự cứu rỗi thì bóng tối và cái chết là ơn ích của nó…”

    Không hiểu ông nhà văn còn đòi hỏi nhà thờ những gì ngoài “chăm lo sự cứu rỗi ”, không lẽ ông muốn biến nhà thờ thành hợp tác xã thủ công sản xuất quạt nan hoặc đậu phụ thì mới xua được “bóng tối và cái chết” ? Nhìn nhận tôn giáo nông cạn thế mà ông muốn nhân danh “chủ nghĩa xã hội” để “triết luận” với thiên chúa giáo thì thật tức cười.

    Cái nỗi buồn chán đạo đẩy ông cha trẻ đến chỗ muốn cởi bỏ cái áo chùng thâm :

    “ Còn luyến tiếc làm gì , còn tìm cách lại gần làm gì cái thế gian của những bổn phận , những mưu trá , những khổ đau. Những…ngay trong toà nhà của ông thánh Phêrô vẫn có đầy đủ mọi tấn bi kịch đã từng xảy ra ở ngoài đời.”

    Nếu “ngoài đời “ cũng đầy rẫy những thối tha như trong “nhà thờ” thì đức cha cứ ở yên trong nhà Chúa tội gì về với đời ? Tuy nhiên, ông cha trẻ còn cho rằng “nhà thờ” còn thua cả “ngoài đời” ở chỗ :

    “ Ngoài đời còn có sự sống và ánh sáng , chứ còn ở đây thì chỉ có mùi ẩm mốc và cái chết…

    Thật là một câu chửi đạo thiên chúa mang đầy tính khái quát.

    Cha Thư đã chất chứa trong tâm can biết bao sự phiền muộn và khinh ghét giáo hội, lại thêm khi tới thăm gia đình ông chánh trương được bà vợ ông này “tố khổ” tội lỗi của các linh mục trước kia :

    “ Trình cha với cố , mấy năm Pháp nó đóng đồn ở đây, cha Hoàng Quỳnh từ Phát Diệm sang coi sóc xứ đạo này , chúng con đã tưởng tới ngày mạt thế. Cha đòi lại ruộng đất được chính phủ chia cho năm trước , rồi truy tô các chủ ruộng , thiếu một đồng cũng không được . Kẻ nào chậm chạp lập tức bị nhốt hầm ngay . Ông lão nhà con cũng bị nằm hầm cả mấy tháng. Kẻ có đạo chỉ biết kêu xin có Chúa , nhưng đấng thay mặt Chúa lại bịt chặt cả mọi đường. May mà anh em bộ đội về giải phóng sớm , chậm chút nữa không khéo các cụ ấy giết chết hết con chiên…”

    Đến vợ ông chánh trương tức phu nhân của ông đứng đầu các con chiên mà còn thở ra những lời lẽ “căm thù” các đấng chăn chiên như thế, thử hỏi cái xứ đạo này có đáng “giải tán” không ? Ông cha trẻ nghe chuyện không tin, hỏi lại :

    “ Trong nhà xứ có hầm nhốt người à ?’
    Ông chánh trương xác nhận :
    “ Thưa, nó vốn là cái hầm chứa đồ thánh, cha Quỳnh về mới cho xây rộng ra để nhốt người…Năm anh em bộ đội về đánh bốt chúng con cho xây bịt lại luôn…

    Chỉ tưởng tượng thêm chút nữa, ông nhà văn sẽ biến nhà thờ thành bốt Tây có súng lớn , có bãi mìn chống lại cách mạng. Bà vợ ông chánh trương lại tố cáo tội ác của các cha :

    “ Trình cha con cứ nghĩ cái năm thằng cháu trai đậy chiếu nằm đấy mà không có tiền mua áo. Chồng chạy vào cha Hiển, vợ chạy sang ông bà Tư van vỉ khóc lóc cả buổi , rút lại vợ về tay không, chồng cũng về tay không . mà là chánh trương với cha xứ cả đấy. Vậy là phải bó cháu bằng bao tải , bằng chiếu , chồng gánh một đầu. Vợ gánh một đầu , trời lại mưa tầm tã…”

    Rõ ra là một màn con chiên đấu tố “linh mục”, tự nguyện đấu tố chứ chẳng phải do Đảng “phóng tay phát động”. Bà vợ ông chánh trương khóc sụt sùi :

    “ Một đời người ngoảnh đi ngoảnh lại chỉ những khổ là khổ . Kêu Chúa, Chúa cao xa quá nên nghe không thấu, đến với cha, cha xua tay bảo :” Vậy cái khó của tôi thì tôi kêu ai ? Gắng mà chịu chứ !”

    Những lời “tố đạo” của con chiên làm ông linh mục trẻ như bừng tỉnh. Ông ngộ ra rằng :

    ” Nếu các đấng bậc ấy tin là có một Thiên Chúa thật, có hoả ngục và thiên đàng thật, có sự xét xử tối hậu thật,lẽ đâu họ dám hành động càn rỡ đến thế ? Hình như họ đã không còn tin ở những điều thiêng liêng đó nữa…”

    Thế là ông linh mục xét lại “đức tin’ của các cha. Ông cho rằng ‘đức tin’ ấy là không có thực, là vờ vịt, giả vờ để các cha “hành nghề” linh mục :

    “ Với họ đi tu là một nghề nghiệp , Hội Thánh là một tổ chức xã hội , danh vị và tiền bạc vẫn có sức mạnh vạn năng , mọi tội lỗi và đam mê chỉ khác đi là đã được thánh hoá…Các đấng bậc tự cho phép thoả mãn mọi dục vọng, còn giáo hữu thì è vai gánh vác mọi khó khăn thì vừa cuồng ngạo vừa ngu ngốc , bọn áo chùng chúng ta ở giáo phận này là sứ thần của quỷ chứ đâu phải của Chúa ?

    Than ôi, một khi linh mục Thư đã báng bổ đạo của chính ông như thế, đã vứt bỏ đức tin như vậy, con đường tất yếu dẫn ông tới là “bỏ đạo” về với “chính quyền”. Quả nhiên một tối cha Thư mặc ra ngoài chiếc áo chùng thâm một cái áo dài trắng – biểu tượng của sự từ chối chức linh mục và cho mời ông chủ tịch mặt trận và ông chánh trương xứ tới trịnh trọng đề nghị :

    Thưa hai cụ, hai cụ là đại diện có thẩm quyền của giáo dân xứ nhà…tôi cúi mình cầu xin hai cụ hãy rửa tội cho tôi lần nữa.. vì từ nay tôi là tôi tớ trung thành của các người…”

    Như vậy ông cha Thư không còn là “con cái Chúa “ nữa mà là tôi tớ của giáo dân trong mặt trận Tổ Quốc của Đảng, tức ‘đầy tớ của nhân dân” như cán bộ Đảng. Thế là ông Chủ tịch mặt trận làm lễ “rửa tội” cho ông linh mục theo kiểu chính quyền :

    “ Ông vục nước đổ lên đầu cha xứ lần nữa, miệng đọc to :

    “Tao rửa mày nhân danh Cha và Con và Giáo hữu xứ Nhất…”

    Như vậy, lẽ ra “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”, ông nhà văn đã cho ông Chủ tịch mặt trận sửa “ thánh thần” thành “giáo hữu” – tức là từ nay, ông linh mục sẽ từ bỏ “thánh thần” mà trở về với “nhân dân”.

    Thật là một hư cấu vừa lố bịch vừa ấu trĩ tới mức dở hơi trong “triết luận về chủ nghĩa xã hội và thiên chúa giáo” như phê bình gia “ Vương Trí Nhàn tôn vinh nhà văn Nguyễn Khải .
    (còn tiếp)

  9. #38
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)




    Sau tháng 4 năm 1975, Nguyễn Khải cho ra lò “Gặp gỡ cuối năm” viết về trí thức ở lại Sàigòn . Khoảng năm 1980, nhà viết kịch Hồng Phi ( anh ruột nhà văn Chu Lai) ghé tôi kể :

    Họp trao đổi về “Gặp gỡ cuối năm” tớ phát biểu : “Anh Khải ơi, thằng Nhật Tuấn nó bảo anh đánh người ngã ngựa , không quân tử”.

    Tôi bảo đây là ý kiến riêng , nói ra làm gì?

    Xin nhắc lại câu chuyện tôi đã viết trong phần đầu loạt bài chân dung này. Năm 1978-79, NXB Văn Học thực hiện biên soạn Tổng tập văn học Việt Nam . Tôi được giao gặp từng nhà văn để hỏi tác giả muốn chọn những tác phẩm nào. Một buổi sáng tôi tới nhà Nguyễn Khải ở bãi Phúc Xá. Lúc đó ông đang ngồi bàn viết, trước mặt là tranh vẽ bìa cuốn “Cha và con và…” sắp in. Nguyễn Khải chọn đi chọn lại trong kho chữ của mình rồi bất chợt kêu lên :

    ’'Tung tóe mẹ nó hết rồi Tuấn ơi…”. Ông nhìn tôi thất thần rồi cười khảy :” Nhưng không sao, tao sẽ vót nhọn gươm đâm một cú cuối cùng”.

    15 năm sau , Nguyễn Khải tưởng đã quên chuyện đó. Tuy nhiên, chuyển vào định cư ở Sàigòn, tư tưởng ông dần dà đã thay đổi . Vào khoảng đầu năm 1990, vào dịp đại hội nhà văn TP Hồ Chí Minh, ngoài hành lang vào giờ nghỉ, tôi gặp Nguyễn Khải hỏi thân mật :

    Anh Khải ơi, thanh gươm của anh sao rồi ? “.

    Nhà văn Nguyễn Khải cười bẽn lẽn :

    Tớ thương Đảng lắm. Tớ chưa có ý định ấy…”.

    Tuy nhiên , năm 2000 trong “Nghĩ muộn” , ông đã dám viết :

    Tôi là người viết báo, chính những đối tượng mà tôi tìm hiểu để viết bài cũng băn khoăn như thế, cũng có người nói thẳng việc này việc kia đã làm mất lòng người. Nhưng tôi đâu dám viết, nói cũng không dám, thành ra nói dối, viết dối và sống cũng dối. Căn bệnh nói dối bắt đầu từ lý thuyết Cách mạng dần dần tách khỏi thực tiễn Cách mạng, nhưng chỉ có một lựa chọn, hãy bênh vực đến cùng sự đúng đắn của lý thuyết đã trở thành bảo bối hộ thân của người cầm quyền.“.

    Ông đã nhận ra :

    “Nhà chính trị, nhà văn, nhà khoa học, những người hoạt động trong lĩnh vực trí tuệ điều cốt tử nhất là phải giữ được sự độc lập trong quan sát, suy nghĩ, tổng kết, không bị bó trong cái vòng kim cô nào cả, không là tín đồ trung thành của một học thuyết nào cả để có thể phát huy hết tiềm lực trí tuệ của riêng mình dấn bước vào những cuộc dò tìm mới.“

    Không đầy 6 năm sau, tháng 5 năm 2006, Nguyễn Khải đã viết xong tuỳ bút chính trị “Đi tìm cái tôi đã mất” như một bản tổng kết đời mình trong văn học. Và cũng không đầy 2 năm sau, bản “sám hối” này đã lan truyền khắp trên mạng trong nước và ngoài nước và nghe nói, vào dịp Ban chấp hành TƯ ĐCS VN họp Hội nghị 7, Giáo sư Chu Hảo đã chuyển bản “Đi tìm cái tôi đã mất” của Nguyễn Khải tới các quý vị trong Ban Bí thư Trung ương Đảng coi như tài liệu tham khảo cho Hội nghị dự định bàn về trí thức .

    Đã muộn, vào tuổi “xưa nay hiếm”, Nguyễn Khải mới đặt bút viết :

    “Năm 70 tuổi tôi bắt đầu chán viết, người rã ra, đọc sách cũng nằm, đọc được mười lăm phút chữ nghĩa đã loè nhoè, chả rõ mình đang đọc cái gì. Rồi ngủ. Ngủ như chim, một chớp mắt đã tỉnh, tiếp tục đọc nốt cái nửa trang đọc dở vẫn cứ lờ mờ vì chả còn nhớ họ viết cái gì trong cái nửa trang vừa đọc…”

    Vậy là khi ở đời chẳng còn chút lạc thú gì, nhà văn mới bắt đầu…chán, chán cả công danh , sự nghiệp :

    “ Cũng năm ấy tôi được trao giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 2. Mừng thì rất mừng nhưng tôi đã nhận ra ngay đây là tấm bia mộ sang trọng cắm lên một đời văn đã tới hồi phải kết thúc. Thế là lại buồn, ra vào ngẩn ngơ cả tháng. “

    Giải thưởng Hồ Chí Minh là tột đỉnh vinh quang của nhà văn cách mạng mà lại coi như “tấm bia sang trọng cắm lên một đời văn” thì quả thực nỗi chết đã ám ảnh Nguyễn Khải không rời ra rồi.

    Thế rồi như phản kháng chiều hướng ngưng trệ của cơ thể, Nguyễn Khải làm một cuộc xê dịch nữa ra Bắc , trở về quê, nơi nhà văn đã lớn lên và đã trưởng thành. Thế nhưng cái mảnh đất đầy kỷ niệm đó nay cũng đã trở thành một nỗi dửng dưng :

    “cái mảnh đất thân thuộc đã hoá ra xa lạ. Đạp xe cả ngày chả gặp người quen nào, hoặc có gặp nhưng đã là hai ông già ở tuổi bảy mươi làm sao nhớ lại gương mặt của nhau cái thời mới mười tám đôi mươi. …Đường phố không quen, mặt người không quen, còn lại một ông bạn thân tối ngày đi họp, đủ các thứ hội hè để ông đến họp, vẫn là cái khát khao của người đã già, đã nghỉ hưu có dịp gặp lại bạn cũ, trò chuyện là chính, nhắc lại chuyện ngày xưa là chính, rồi than thở, đủ thứ than thở, chuyện nhà chuyện nước. Cũng buồn nhỉ ? Chuyện người già có vui bao giờ, người đã xong một việc có làm gì cũng không thể vui.”

    Rõ ra là một cảm giác rã rời, không còn tha thiết, gắn bó , không còn bồi hồi kỷ niệm, không còn nghĩ ngợi lo toan trách nhiệm với quê nhà. Nếu như ngày xưa, trong tiểu thuyết “Chủ tịch huyện” chân dung những cán bộ xã, huyện , tỉnh được vẽ vời thành những “con người thời đại” đầy năng lượng, xốc vác, năng nổ vì dân vì nước thì bây giờ, dưới mắt nhà văn chỉ còn lại là các “quan tham” mặt mũi đầy…”thịt” :

    “Vì tôi là người có gốc địa phương nên tỉnh uỷ có gặp và mời ăn một lần cho phải phép. Nhưng nhìn những gương mặt quan chức của tỉnh hôm nay mà kinh ngạc. Mặt người nào cũng đầy những múi thịt, sần sùi, nói nhiều, cười to, lời lẽ nhạt nhẽo, dung tục, và không bao giờ nhìn thẳng vào mặt mình để nói, cứ như là đang nói với một ai khác ngồi cạnh mình hoặc ngồi sau mình.

    Dường như Nguyễn Khải đã hết e dè, hết giữ gìn, hết sợ ngay cả quan đầu tỉnh ông cũng hết nể vì như ngày xưa :

    “Bữa sắp về Hà Nội, bí thư tỉnh uỷ lại mời gặp, không phải là gặp chính thức mà là cùng ngồi ăn sáng với ông vì ông cũng đang bận. Buổi gặp vừa hình thức vừa khó chịu vì chỉ có người lãnh đạo của tỉnh nói, nói như người rao hàng, mắt nhìn đâu đâu, bụng nghĩ đâu đâu. Tôi chỉ còn nhớ một chuyện, có một ông tướng, là danh tướng, người địa phương, có đem một giống hoa lạ từ Hà Nội về, tự tay ông trồng ở vườn hoa của tỉnh uỷ vì phải chọn đúng ngày, đúng giờ, cả đúng hướng nữa mới đem lại thịnh vượng, hạnh phúc cho dân trong tỉnh. Thật vậy sao ? “

    Khác hẳn ngày xưa, nhà văn Nguyễn Khải đi đến đâu cán bộ Đảng, chính quyền cũng xúm lại hỏi han, mừng rỡ, bây giờ hầu như chẳng mấy ai quan tâm tới nhà văn :

    “Tôi về một xã, xã cho tôi ở nhà một anh bưu tá, lúc rảnh rỗi hỏi chuyện gì anh cũng bảo không biết. Ở xã ba ngày, đảng uỷ, uỷ ban không ai tiếp cả. “

    Và thật bất ngờ, cái anh Chủ tịch xã có tới nhưng nom anh thật chẳng khác gì một anh lái heo :

    “Có một buổi tối có một anh chàng to béo đến chơi với gia đình, cả vợ lẫn chồng nhà chủ ăn nói thưa gửi, bộ điệu khúm núm. Anh ta ngồi ưỡn người trên ghế tựa, hai chân xoạc rộng, hai bàn tay đặt lên bụng, nói hỏi trống không, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn tôi nhưng không hỏi gì, chào cũng không, mắt nhìn cứ lừ lừ, mà hắn chỉ đáng tuổi con tuổi cháu. Tôi cứ nghĩ tay này hẳn là dân buôn bán ở tỉnh có họ hàng gì với anh chủ nhà, tạt qua chốc lát rồi đi. Nhưng anh bưu tá lại bảo đó là ông chủ tịch xã. Lại một ngạc nhiên nữa ! “

    Vậy là trở lại quê cũ, con người cảnh vật đã đổi thay , khác trước hoàn toàn và ông nhà văn có cái nhìn “tổng kết” :

    “Trong mấy ngày xuống xã vừa vui vừa buồn. Ai cũng giàu có hơn trước, nấu cơm bằng nồi cơm điện, tối xem tivi mầu, giờ rảnh thì xem phim bộ. Mỗi xóm đều có cửa hàng cho thuê băng vidéo, có gái điếm cho ngủ chịu đến mùa trả bằng thóc, có cờ bạc, có hút thuốc phiện và chích heroin, thành phố có gì ở làng quê đều có, cả hay lẫn dở, dở nhiều hơn hay. “

    Chuyến đi đó càng làm Nguyễn Khải nhận rõ gánh nặng của tuổi già đã chất lên vai ông và từ nay mọi chuyện đã khác :

    “Sang tuổi 70, mọi hoạt động của con người đều chậm, đều kém, riêng cái chuyện viết lách của tôi vẫn giữ được phong độ gần như xưa, vẫn viết rất nhanh, riêng cái nhìn thì trào lộng nhiều hơn, ngậm ngùi nhiều hơn. Nó là thứ hương vị thơm ngát chắt ra từ hơn bảy mươi năm được làm người. “

    Tuổi 70 như Nguyễn Khải vừa diễn tả dường như đã trở thành một cái mốc, từ đó ông có những nghĩ ngợi vượt lên trên khỏi những chuyện “xã hội” – chuyện hàng xã, hàng huyện, ông nghĩ tới những chuyện cao xa hơn. Ông nghĩ về các thứ chủ thuyết, chủ nghĩa và phải chăng những suy nghĩ sau đây là nhắm vào học thuyết Mác Lê :

    “ Học thuyết là do con người làm ra, một trí tuệ sáng láng nhất vẫn cứ bị ràng buộc bởi nhiều vòng tự giác và không tự giác của thời thế, của cuộc đời. Bởi vì họ không thể là Thượng Đế để biết hết vô vàn nguyên nhân những tác động qua lại, uốn éo, bất ngờ của nó đưa đẩy mọi sự vật tới những thay đổi rất nhỏ, không mấy ai chú ý, cuối cùng là những biến thiên cực lớn. Chả có học thuyết nào dự đoán đúng những gì sẽ xảy ra trong tương lai và cũng chẳng thể dự đoán được cái kết cuộc của nhiều sự việc đang xảy ra trong hiện tại. Mọi lời tiên tri đều có tính mê sảng, đồng cốt. Dành cả một thời thanh xuân để tin vào những lời tiên tri ấy, về già nhìn lại cái tài sản tinh thần thâu góp một đời chỉ là một cái kho chứa đủ tạp nham chẳng có một chút giá trị gì.”

    Có nhiều cơ sở kết luận Nguyễn Khải nhắm vào cái chủ nghĩa bắt ông đội lên đầu cái vòng kim cô suốt một đời cho tới tận lúc chết vẫn chưa được tháo ra – chủ nghĩa Mác-Lênin . Cho đến tuổi 70 ông mới nhận ra đã dành cả một thời thanh xuân để tin vào chủ thuyết đó mà thực ra nó chỉ là một cái “kho tạp nham” chẳng có chút giá trị gì. Sám hối của “con chiên” Nguyễn Khải trước các Giáo chủ về mặt tư tưởng như vậy là đã không còn nhân nhượng, không còn nể nang mà đã quyết liệt sổ toẹt đi hết.
    (còn tiếp)

  10. #39
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)





    Chắc chắn phải sinh ra, lớn lên, bú mớm “sữa” của chủ nghĩa Mác-Lênin mới có nhận xét “gan ruột” như Nguyễn Khải khi ông hạ bút :

    “ Tính hài hước là cái thứ mà người cộng sản ghét nhất vì nó có thể biến mọi chuyện thiêng liêng thành trò cười.”

    Bởi vậy mọi chuyện tiếu lâm, chuyện cười trước khi Đảng ra đời thì được coi là “vốn quý dân tộc” còn ra đời sau khi “đời ta có Đảng” thì bị cấm đoán, rượt đuổi có khi tù tội như nhà thơ Tuân Nguyễn với hai câu thơ :

    “ Tiến lên ta quyết tiến lên
    Tiến lên ta gọi cấp trên bằng…thằng”.

    Để nói rõ hơn việc “biến mọi chuyện thiêng liêng thành trò cười.”, ông giải thích :

    “. Học thuyết xã hội đã phải đội lốt tôn giáo để tồn tại thì mọi thứ thuộc về nó đều là thiêng liêng. Lãnh tụ thành thần thánh, lời nói bài viết của họ thành kinh bổn, cuộc sống cá nhân và xã hội của họ đầy ắp những chuyện phi thường. Hình ảnh của Lenin và Stalin, của Mao Trạch Đông và Kim Nhật Thành và lời nói của các vị ấy bao trùm lên toàn bộ cuộc sống tinh thần của các quốc gia họ cầm quyền, làm gì, nói gì, nghĩ gì đều không thoát ra khỏi cái bóng che ấy.. “

    Vậy một cách không trực tiếp, Nguyễn Khải nói chủ nghĩa cộng sản chẳng qua cũng là một thứ tôn giáo vì những lãnh tụ của nó đều đã thành “thần thánh” như Lênin, Staline, Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành…tất nhiên ông không dám nói tới Hồ Chí Minh. Và một khi “chủ nghĩa cộng sản” đã trở thành tôn giáo thì tội ác của nó ghê gớm hơn tôn giáo nhiều :

    “Vì tôn giáo là niềm tin, là thói quen, là tập quán, là vâng phục, là ở thế giới này chỉ có một chân lý, ngờ vực nó, đặt quá nhiều câu hỏi về nó chỉ là kẻ phản đồ, phải bị trục xuất khỏi cộng đồng, phải bị cách ly, bị ngồi tù để tránh mọi sự truyền nhiễm có thể.”

    Tức là dưới cái bóng của lãnh tụ, con người đã bị tan biến thành những giun dế thấp nhỏ và run sợ :

    Bài hát về lãnh tụ trang nghiêm như thánh ca, người hát có dáng điệu sùng bái như tín đồ. Cái thế giới cá nhân của các công dân đã bị đốt cháy, đã thành tro bụi và tan biến trong hương khói của đền đài…”

    Trong cái đám quần chúng giun dế ấy, tội nghiệp nhất là những người trí thức, họ biết trốn vào đâu trong cái biển mê cuồng và tăm tối đó :

    “Trong không khí ngùn ngụt lửa cháy cùng với tiếng sóng hoan hô khi gần khi xa không lúc nào dứt, vậy những người làm việc bằng trí tuệ sẽ tìm đâu ra một khoảng trời yên tĩnh và tự do để suy nghĩ về những công trình một đời của riêng mình..”

    Ngay cả khi vạch trần thân phận trí thức dưới chế độ cộng sản, nhà văn Nguyễn Khải vẫn còn len lét sợ không dám gọi trực tiếp tên “trí thức” mà phải nhái thành “ những người làm việc bằng trí tuệ” đủ biết nỗi sợ trong ông vẫn còn dai dẳng biết chừng nào. Cái yêu cầu phải “nghĩ trong những điều Đảng nghĩ” đối với ông thật nực cười khi ông dám huỵch toẹt Đảng còn lâu mới hiểu nổi trí thức :

    “Người cộng sản sẽ không bao giờ hiểu được cách làm việc cá nhân, đơn độc, xa rời quần chúng, xa rời các phong trào cách mạng có tính địa phương của các nhà trí thức thấm đẫm “tư tưởng tư sản” ấy. Phải cải tạo họ bằng các chuyến đi thực tế, bằng các lớp học chính trị ngắn hoặc dài ngày, và bằng cả những lần được gặp gỡ thân mật với lãnh tụ để có thêm lòng tin vào những lý do phải tự phủ định, để khẳng định sự nghiệp vĩ đại của quần chúng. “

    Chính vì không hiểu nổi hoặc cố tình không hiểu, Đảng đã đề ra những yêu cầu thật quái gở đối với trí thức :

    Phải bỏ hẳn những tư tưởng triết học và thế giới quan phù hợp với cách nghĩ, cách nhìn, cách đánh giá của riêng mình, đã được chứng minh qua những trải nghiệm của bản thân để nhập vào dòng tư tưởng chính thống, cái triết học chính thống, cách nhìn nhận và đánh giá chính thống, xét cho cùng chả liên quan bao nhiêu tới cái tâm sự đang ấp ủ, tới những điều cần phải viết, và trên hết, máu thịt hơn hết là những phát hiện độc đáo của riêng mình trong lịch sử, trong văn hoá, trong nhân sinh.

    Vậy tất cả những gì “khác biệt” với tư tưởng của Đảng đều phải bị triệt bỏ. Toàn bộ xã hội chỉ duy nhất đượcphép có một dòng “tư tưởng chính thống, cái triết học chính thống, cách nhìn nhận và đánh giá chính thống “ mà hồi đương chức ông Bộ trưởng VHTT Lê Doãn Hợp gọi nó là “lề đường bên phải”. Vậy nhưng nếu chiều theo Đảng thì trí thức - ông nhà văn đâu còn là mình ? Nhà văn Nguyễn Khải không dám “chống lại” mà chỉ dám “than vãn” :

    “ Mất những cái đó thì còn sống tiếp làm gì, còn viết tiếp làm gì nên một số đã phải đổi nghề, bỏ nghề sáng tạo sang nghề cạo giấy, làm một anh công chức hiền lành, mẫu mực, vừa có quyền vừa có lợi. Cái danh cái lợi cũng có sức quyến rũ người ta lắm, qua nhiều năm tháng nó đã trở thành ý nghĩa quan trọng nhất để sống, sống với vợ con, với bạn bè, với xóm làng, với xã hội. “

    Đó là một lời than “nhói lòng” một lời cảnh báo cho an nguy dân tộc khi kẻ sĩ tự chối bỏ vai trò của mình nhưng lại là một “tiếng đàn gẩy tai trâu “ bên những ông quan văn hoá văn nghệ của Đảng vừa dốt nát lại vừa vô cảm.

    Tuy nhiên không phải văn nghệ sĩ nào cũng đổi nghề thành “cán bộ cạo giấy”, còn những người không chịu buông bút vì không thể kiếm sống bằng nghề khác đành cam chịu uốn ngòi bút theo yêu cầu của Đảng và lắm khi cũng bị đòn vọt trong những vụ án văn chương vì dám “buông thả mình theo cảm xúc tự nhiên “ mà đi trệch khỏi lề đường bên phải nên bị trừng phạt khiến tài năng bị thui chột :

    “ Còn một số nhỏ vì không làm nghề gì khác ngoài cái nghề văn chương nên đã đầu quân về các nhà xuất bản, tuần báo, tạp chí tiếp tục làm nghề nhưng phải viết trong khuôn phép đã quy định, cũng có đôi lúc đã tự buông thả theo những cảm xúc tự nhiên hoặc bất chợt bị mê hoặc bởi những hình tượng nghệ thuật quá đẹp đã trở thành những nạn nhân oan uổng của nhiều vụ án văn tự, nghĩ lại mà tiếc cho nhiều người, mộng mơ nhiều thì tài năng cũng nhiều đều bị thui chột ngay từ những năm còn trẻ.”

    Vậy là mấy chục năm qua, mấy chục triệu con người Việt Nam phải sống theo một dòng tư tưởng, đi theo một lề đường bên phải, tuân theo một cách đánh giá và nhìn nhận và theo nhà văn Nguyễn Khải đó là “một tai hoạ khôn lường” :

    “Trong suốt ba chục năm chiến tranh, mỗi người Việt Nam đã quên hẳn những nhu cầu vật chất và tinh thần của riêng mình để được cùng sống như mọi người, cùng cảm nghĩ như mọi người, sống cùng sống chết cùng chết. Học thuyết Mác và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản được tôn vinh đến tuyệt đối. Vì số phận cá nhân gắn liền với tập thể với dân tộc, trùng hợp khít khao với các mục tiêu chính trị của đảng cầm quyền và những tham vọng của người lãnh đạo. Nhưng cả mấy thế hệ cùng tham gia chiến tranh, sống trong một môi trường xã hội, chính trị của một đất nước đang có chiến tranh cũng là một tai hoạ khôn lường. “

    Cái tai hoạ khôn lường đó đã tác hại tới toàn thể dân tộc ra sao. Ta hãy coi nhà văn Nguyễn Khải phân tích về sự xoá bỏ “cá nhân” trong thời kỳ chiến tranh :

    “Trong chiến tranh tập thể gạt phắt cá thể sang một bên, có thể giẫm đạp lên nó cũng chả mất mát gì, vì chiến tranh đòi hỏi sự nhất trí, cần sự ra lệnh đúng lúc của một cái đầu chứ không có thời gian bàn luận, sai đúng có sự tham gia của nhiều cái đầu. Vả lại nếu người lãnh đạo tính toán sai lập tức sẽ bị đối phương trừng phạt ngay, không sớm tỉnh ngộ thì cả sự nghiệp có thể bị đổ vỡ. “

    Nhưng khi chiến tranh kết thúc rồi cái “cá nhân” vẫn bị xoá nhoà trong đám đông “quần chúng nhân dân” – tất nhiên là “ quần chúng cách mạng” của Đảng :

    ” Đến thời hoà bình thì chỉ còn dân chúng đối mặt với chính quyền, quyền lợi khác nhau, nguyện vọng khác nhau, có trăm ngàn thứ khác nhau trong một cộng đồng : dân tộc, tôn giáo, văn hoá, điều kiện sống… trong một thời gian dài tạm quên đi, tạm gác lại để lo việc lớn, lúc này nhất loạt trỗi dậy, đòi hỏi và mỗi cá nhân đều thấy cái mình đòi là quan trọng nhất, bức thiết nhất. Độc lập có rồi, tự do có rồi, vậy cái hạnh phúc của mỗi chúng tôi nhà nước định quên sao ?
    Nhưng để đòi hỏi cái quyền sống cho cá nhân đó, toàn xã hội đã bị bịt miệng :

    “Nhưng người dân phải tìm ra cơ hội nào để nói, đến chỗ nào để nói, dùng phương tiện gì để nói. Nói với tổ chức, với các đoàn thể mình là một hội viên, không ai nghe cả. Nói trên báo chí không báo nào dám đăng. Viết kế sách, thỉnh nguyện gửi lên các cấp có thẩm quyền thì chả bao giờ nhận được trả lời. Vậy phải làm gì nhỉ ? Làm loạn không dám, biểu tình đúng pháp luật cũng chưa có tiền lệ. Người đứng đắn bộc lộ sự không bằng lòng của mình tại các cuộc họp lập tức bị những kẻ cơ hội trấn áp tức thì, bị cơ quan an ninh ghi vào sổ đen, thăng chức nên lương từ nay không thể, chỉ còn đợi ngày về hưu thôi.”

    Vậy thì lương tri của dân tộc sẽ được cất lên từ diễn đàn nào ?
    (còn tiếp)

  11. #40
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo )



    Một khi các cơ quan truyền thông đều nằm trong tay Đảng, một khi 700 tờ báo trong cả nước chỉ có một ông Tổng biên tập – đó lại là một ông “cảnh sát văn nghệ” đầu óc vừa hũ nút , vừa ngạo mạn lúc nào cũng lăm lăm cái còi
    thổi bắt cả 85 triệu con người đi vào một “lề đường” quy định là…”lề bên phải”, vậy thì tiếng nói của sự bất bình, tiếng nói của sự phản kháng trước mọi cái ác, cái bất lương, cái ngu dốt của Nhà nước này sẽ được cất lên từ "cái lề" nào ?

    May thay dân tộc Việt Nam còn có truyền thống sáng tác…chuyện tiếu lâm. Nếu như ngày xưa “chuyện tiếu lâm” là vũ khí đánh vào cái thối nát, hủ lậu của chế độ quan lại phong kiến thì bây giờ nó nhằm vào các tầng lớp cán bộ từ sơ cấp đến trung cao cấp , và cao hơn nữa chuyện tiếu lâm ngày nay không chỉ nhằm vào các “thói hư tật xấu”, nó đã được dân chúng “nâng cấp lên” thành một thứ tiếu lâm…chính trị :

    “Nhưng dân chúng vẫn có cách xả nỗi bất bình của họ bằng cách sáng tạo ra nhiều chuyện tiếu lâm chính trị. Trong cả nước không đâu có nhiều chuyện tiếu lâm bằng Hà Nội vì nó là thủ đô hành chính, mọi chuyện cung đình vừa thật vừa giả tràn gập các quán cà phê mỗi ngày. Không ra được báo viết thì làm báo mồm vậy, lời nói bay đi lấy đâu làm bằng, tưởng như vô hại mà hại vô kể. Vì nó sẽ thành dư luận, không ai bắt giam được dư luận, giết được dư luận, cái dư luận hỗn tạp, vô sở cứ mở rộng mãi ra, bao trùm mọi việc mọi người trở thành mặt bằng mới để đặt ra các tiêu chuẩn sống cho một thời.”

    Tiêu biểu cho cái loại “tiếu lâm chính trị” này là truyện ba đồng chí “Ba Đồng Chinh “ đi máy bay. Truyện rằng trong một chuyến bay chuyên cơ , đồng chí Ba ( tức Ba Duẩn - Lê Duẩn), đồng chí Đồng ( Phạm Văn Đồng), đồng chí Chinh ( tức Trường Chinh) bàn nhau làm sao cho dân sướng ? Đồng chí Ba nói giờ tôi có một bao tải tiền vứt xuống hẳn dân sẽ sướng lắm. Ba đồng chí còn đang bàn nhau nên vứt xuống cái gì thì anh lái máy bay quay xuống xin thưa rằng :

    ” Báo cáo , bây giờ tốt nhất là vứt cả ba đồng chí xuống thì là dân sướng nhất đấy ạ…”

    Chính sống trong một xã hội mọi kỷ cương phép nước đều trong tay cán bộ Đảng, ngay cả hiến pháp cũng như pháp luật đều do Đảng nắm giữ, cá nhân không được phép tham dự , bàn thảo gì dẫu là đóng góp cho lợi ích xã hội nếu không nằm trong sự kiểm soát của Đảng thì cũng là…”thế lực phản động”.. Bởi vậy đã nảy sinh ra bệnh “thờ ơ”, mặc- kệ - nó phá huỷ ý thức công dân, tinh thần trách nhiệm với cộng đồng :

    “Cái tiêu chuẩn mới có tên gọi là "mặc kệ nó". Nó là người khác, là nhà nước, là bất cứ ai, bất cứ việc gì không có quan hệ trực tiếp tới các lợi ích cá nhân mình. Cái cá thể sau một thời gian dài nhập vào cái tập thể đã tự tách ra khỏi nó để tìm lại mình. Nhưng cách tìm lại ấy thường thuộc về phía tiêu cực của con người, lấy lợi ích bản thân làm mục tiêu nên không tạo ra được sự thăng hoa, sự tự do chân chính, là môi trường cho mọi sáng tạo độc đáo, vừa thấm đẫm tính cá nhân vừa thấm đẫm tính thời đại ở yếu tố tiền phong của nó.”

    Cái con người “mặc kệ nó” đó chính là dòng dõi chân truyền của “con người mới xã hội chủnghĩa”, bởi lẽ chỉ có trong một xã hội không có “tính công dân” như xã hội xã hội chủ nghĩa mới sản sinh ra thứ người “mặc kệ nó” như vậy.
    Mặc dầu ở Việt Nam còn chưa biết bao giờ mới có tự do nhưng quan sát sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa và sự hồi sinh sau đó, Nguyễn Khải phân biệt hai loại tự do : tự do trong các nước đã từ lâu có chế độ dân chủ và tự do tại các nước mới thoát khỏi chế độ cộng sản :

    “Ở đây tôi muốn nói thêm, tự do được nuôi dưỡng tự nhiên trong môi trường dân chủ là tự do của cống hiến, còn tự do vừa thoát ách chuyên chế thường có tính phá hoại, trả thù, để bù lại những năm tháng bị tước đoạt. Cứ so sánh về tự do của một xã hội dân chủ nhiều trăm năm như Hoa Kỳ và tự do vừa giành được của nước Nga Xô Viết là đủ rõ. Vì nó không được chuẩn bị, không được giáo dục, mọi bản năng của con người được xổng ra nhất loạt sẽ gây hỗn loạn cho cộng đồng, nhiều hơn là xây dựng. Dân chủ và tự do phải có thời gian để làm quen, để học cách sử dụng và bảo vệ, phân được ranh giới giữa cá nhân và cộng đồng. thành pháp luật, thành tập quán mới có thể đơm hoa kết trái được.”

    Phải chăng cái thứ “tự do” có “tính phá hoại, trả thù, bù lại những năm tháng bị tước đoạt” phần nào đang hoành hành trong cái đám con ông cháu cha dùng tiền tham nhũng của bố ra sức ăn chơi đập phá, mặc sức hưởng thụ , bất chấp đạo lý xã hội .

    Nguyễn Khải phê phán cách nhìn nhận xã hội tư bản theo hệ tư tưởng “chính thống của Đảng” :

    “ Ở xã hội tư bản mà chúng ta vốn có thành kiến là rất xấu xa lại thường hay cho những tiếng kêu cứu, bảo vệ những giá trị truyền thống của cá nhân, vì đồng tiền đang làm mất phẩm giá của con người, phá vỡ nền tảng đạo đức, làm rối loạn các mối quan hệ xã hội. Con người được sống no đủ, trong tiện nghi mà vẫn đối địch với nó, muốn thoát ly khỏi nó vì không được thoả mãn những nhu cầu về tinh thần. Ta hay lấy những chuyện đó để làm chứng một cách hả hê cho sự tha hoá của con người sống dưới chế độ tư bản.”

    Thực ra “Những cái giá trị cá nhân chỉ được nhìn nhận, được tôn vinh ở những xã hội tương đối tự do, các mối quan hệ giữa người với người tương đối tốt đẹp.” và xã hội đó không ở đâu khác chính là xã hội tư bản.

    Thế còn xã hội cộng sản thì sao ?

    Đáng sợ nhất là con người lúc nào cũng bị rình rập , bị sẵn sàng kiểm điểm phê bình, giáo dục chính trị tư tưởng :

    “Vậy các công dân của chế độ xã hội chủ nghĩa thì sao?”
    “Cuộc sống tập thể đã nhấn chìm cuộc sống cá nhân, cuộc sống trong chiến tranh đã xoá nhoà mọi thói quen của cuộc sống thời bình. Lúc nào cũng có kẻ thù rình rập đâu đó để tìm cớ lật đổchế độ bằng vũ trang, hay bằng diễn biến hoà bình. Lúc nào cũng được đồng chí trong chi bộ, bàn bè cơ quan giám sát mọi tư tưởng và hành vi để ngăn chặn mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân của mỗi thành viên.”

    Cái điều kinh khủng nhất là Đảng luôn luôn gieo giắc sự nghi kỵ trong toàn dân để rồi người với người luôn luôn phải dè chừng, đối phó nhau cho dù phương châm cao nhất về quan hệ xã hội lúc nào cũng đề cao “ người với người là bạn “ (!) :

    “Lúc nào cũng phải đề phòng, phải đề cao cảnh giác cách mạng, không tin cậy bất cứ ai, kể cả bạn bè.”

    Ngẫm nghĩ thân phận mình, thân phận của những đồng nghiệp cầm bút, Nguyễn Khải phải kêu lên :”

    “Chỉ có một điều lạ, là trong hoàn cảnh sống không có một tí tự do nào cho cá nhân mà chúng tôi vẫn sống được, lại còn viết văn làm thơ được!”

    Ông nhà văn quên béng một điều : đúng là “không có tý tự do nào mà chúng tôi vẫn viết văn làm thơ được ” nhưng mà là thứ văn thơ xu thời, thứ văn thơ phục vụ chính trị, thứ văn thơ dối trá kích động con người thực hiện những mục tiêu đầy tham vọng coi rẻ tính mạng con người của Đảng, thứ văn chương “minh hoạ” mà nhà văn Nguyễn Minh Châu đã “đọc lời ai điếu cho nó”.

    Mặc dầu bộ máy tuyên truyền của Đảng ra sức bôi xấu “80 năm thuộc địa của Pháp” nhưng Nguyễn Khải lại nhìn nhận đó mới chính là giai đoạn chói sáng của văn học nghệ thuật :

    “Suốt 80 năm sống dưới ách đô hộ của Pháp, chúng ta vẫn đặt được những viên gạch đầu tiên cho nền văn xuôi Việt Nam. Những truyện ngắn, tiểu thuyết, phóng sự, tuỳ bút của thời ấy được in trên các tuần báo hoặc xuất bản thành sách nay đọc lại vẫn thích thú, vẫn làm ta cảm động. Nhiều truyện được đọc từ tuổi niên thiếu vẫn ám ảnh ta tới tận lúc tuổi già, và một loạt các nhà thơ, nhà phê bình văn học của cái thời gọi là thuộc địa đã trở thành những tên tuổi lớn tồn tại mãi mãi trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc. Làm thân nô lệ mà vẫn trỗi lên thành những tài năng lớn là sao? Không chỉ trong văn chương mà còn cả trong mỹ thuật, trong kịch nghệ. Không chỉ trong văn nghệ mà trong cả khoa học, giáo dục, trong kinh doanh theo kiểu tư bản và trong nhiều nghề truyền thống. Tất cả đều được bắt đầu từ những năm đầu thế kỷ, được phát sáng, được bộc lộ mạnh mẽ các tài năng cá nhân và họ đã trở thành người khai sáng, người mở đường, thành tổ nghề, không chỉ có tài lớn mà còn có đức lớn, là những nhân cách kiểu mẫu cho con cháu, cho giống nòi, đều là chuyện có thật cả, không thể bóp méo hoặc bác bỏ. »

    Và ông nhà văn phải đau đớn thốt lên câu hỏi không chỉ dành riêng cho Đảng mà cho cả giới văn nghệ sĩ :

    « Làm thân nô lệ ( thời pháp thuộc) mà vẫn trỗi lên thành những tài năng lớn là sao ? »

    Và đến khi chuyển sang « đời ta có Đảng » thì các « tài năng lớn » đều bị thui chột. Vậy là sao ?
    (còn tiếp)

Trang 4 / 8 ĐầuĐầu ... 23456 ... Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-31-2014, 12:23 PM
  2. Châu Á "nghiện" thức ăn nhanh hay muốn sành điệu ?
    By duyanh in forum Văn Hóa-Xã Hội-Kinh Tế
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-14-2014, 01:03 PM
  3. Loài cá có "cánh bướm", "chân cua"
    By giahamdzui in forum Animals
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-01-2013, 03:55 AM
  4. Những loài cây "chờ cả đời người" mới ra hoa
    By giahamdzui in forum Chuyện Lạ Đó Đây
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 09-09-2013, 02:33 AM
  5. Đàn ông châu Á thua xa các "anh Tây" khoản việc nhà
    By sophienguyen in forum Xóm Nhỏ Thương Yêu
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 08-05-2013, 04:47 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •