Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Kẻ nào càng sung sướng, kẻ đó càng ít để ý đến hạnh phúc của họ.
Alberto Moravia
Trang 6 / 8 ĐầuĐầu ... 45678 Cuối Cuối
Results 51 to 60 of 73

Chủ Đề: Chân Dung hay "Chân Tướng" Nhà Văn ?

  1. #1
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết

    Chân Dung hay "Chân Tướng" Nhà Văn ?

    .

    Chân Dung hay "Chân Tướng" Nhà Văn ?
    Nhật Tuấn
    Kỳ 1





    Năm 1992 một sự kiện ầm ĩ nổ ra trong giới xuất bản. Chuyện bắt đầu từ tập thơ “Lên chùa” của nhà thơ Xuân Sách vốn được sáng tác lai rai từ 30 năm trước. Vào một dịp thăm Xuân Sách ở Vũng Tàu, tướng Trần Độ ghi âm Xuân Sách đọc gần 100 bài thơ này. Cuối năm 1992, nhà văn Hoàng Lại Giang lúc đó là Trưởng Chi nhánh NXB Văn Học tại TPHCM được nghe cuốn băng này và đề nghị Xuân Sách cho xuất bản với tên “ CHÂN DUNG NHÀ VĂN”.

    Mặc dầu NXB Văn học đã phải rào trước đón sau trong lời nói đầu :

    Chúng tôi chỉ coi đây là những nét tự trào của giới cầm bút Việt Nam. Cười đấy nhưng cũng tự nhận ra những xót xa, hạn hẹp của chính mình, những gì chưa vượt qua được trên chặng đường quanh co của lịch sử và thời đại. Tự soi mình hoặc hiểu mình thêm qua cái nhìn của người cùng hội, cùng thuyền lắm khi cũng hữu ích. Cái cười trong truyền thống dân gian vốn là vũ khí. Ngày nay còn có thể là sức mạnh thúc đẩy đi tới phía trước.Với ý nghĩ ấy, chúng tôi mong bạn đọc và các nhà văn thông cảm cho những gì bất cập hoặc chưa lột tả được thần thái của từng chân dung.Dù sao đây cũng là 100 bức tranh nhỏ về những người có công trong văn học, những người nổi tiếng trong làng văn, trong bạn đọc, bằng chính những tác phẩm có giá trị của mình. Bạn đọc và thời gian đã là người đánh giá chính thức và công bằng nhất đối với họ. Rất mong độc giả và các nhà văn nhận ra mối chân tình trong cuộc vui của làng văn, và lượng thứ cho những khiếm khuyết. “

    Nhưng khi sách in xong, chưa kịp phát hành, nhà văn Hoàng Lại Giang cho biết :

    ” Phản ứng của nhà văn rất lớn, và đấy là điều tôi không ngờ đến.Những nhà văn lớn có bản lĩnh, họ chịu đựng nổi, im lặng. Nhưng những nhà văn tầm tầm, lồng lộn, rất gay gắt yêu cầu Bộ Văn hóa kiểm điểm và thu hồi.”

    Một cuộc họp của Bộ Văn hóa diễn ra, với năm đại diện: Ba thứ trưởng (Phan Hiền, Huy Cận, và Nông Quốc Chấn), đại diện Hội Nhà văn Vũ Tú Nam, cùng Giám đốc NXB Văn học Lữ Huy Nguyên quyết định không thu hồi nhưng niêm phong số bản in 3000 cuốn. 20 năm sau, cho tới tận bây giờ, số sách này vẫn bị chôn dưới hầm cầu thang chi nhánh NXB Văn Học tại 290/20 Nam kỳ Khới nghĩa Q3 TP HCM, chắc đã làm mồi cho mối.

    Trước hết, hãy nghe nhà thơ Xuân Sách tâm sự về cái “cảm hứng chủ đạo” khi viết tập thơ “Lên chùa” sau đổi thành “Chân dung nhà văn “ :

    “Trước đây khi còn là lính ở địa phương, cái xã hội nhà văn đối với tôi đầy thiêng liêng bí ẩn. Đây là những con người dị biệt rất đáng ngưỡng mộ, rất đáng yêu mến, dường như họ là một siêu tầng lớp trong xã hội. Mỗi cử chỉ, mỗi hành động, lời nói của họ có thể trở thành giai thoại, và cả tật xấu nữa dường như cũng đứng ngoài vòng nhận xét thông thường... Tóm lại đó là thế gìới đầy sức hấp dẫn đối với người say mê văn học và tấp tểnh nuôi mộng viết văn như tôi. “
    Nhưng rồi khi tiếp cận với họ, ông cảm thấy “vỡ mộng “:

    Khi tôi được về Hà Nội vào cơ quan văn nghệ dù là ở quân đội (hoàn cảnh nước ta quân đội có vị trí đặc biệt trong xã hội kể cả lĩnh vực văn chương), tôi bắt đầu đi vào cái thế giới mà trước kia tôi mơ ước.

    Điều tôi nhận ra là, ngoài cái phần tôi hiểu trước đây, thì thế giới nhà văn còn có những chuyện khác. Đó là cái mặt đời thường, cái mặt rất chúng sinh, và chúng cũng góp phần quan trọng làm nên các tác phẩm và tính cách nhà văn…Khi tôi đã tìm hiểu được những ứng xử, những tính cách của những nhà văn, ngoài những tác phẩm mà tôi thường ngưỡng mộ, tôi cứ băn khoăn tự hỏi: ''Sao thế nhỉ, với bề dầy tác phẩm như thế, với vị trí trong xã hội như thế, trong lòng người đọc như thế, sao họ còn ham muốn những thứ phù phiếm đến thế... Một chức vụ, một quyền lực, một chuyến đi nước ngoài... Mà đã ham muốn thì phải mưu mẹo, phải dối trá và nhất là phải sợ hãi'' . Vì vậy chân dung của họ không thể bỏ qua. Hơn nữa, nếu ''Vẽ'' được chính xác những chân dung đó, thì bộ mặt xã hôi thời đại mà họ đang sống cũng qua đó mà hiện lên.”

    Và thế là Xuân Sách đặt bút viết tập thơ “Lên chùa” hàm ý gặp 100 pho tượng tức 100 chân dung ở đó. Nhà thơ Xuân Sách kể lại :

    Hồi đó Hồ Phương đã là tác giả in nhiều tác phẩm đã được giải thưởng các cuộc thi sáng tác văn học. Tôi dùng tên các tập truyện ngắn của anh ''Trên biển lớn''; ''Xóm mới''; ''Cỏ non'' và tên cái truyện đầu tay được nhắc đến: ''Thư Nhà''. Tôi viết bài thơ ra mẩu giấy :

    Trên Biển lớn lênh đênh sóng vỗ
    Ngó trông về xóm mới khuất xa
    Cỏ non nay chắc đã già
    Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem.

    Tôi đưa bài thơ cho Nguyễn Khải. Anh đọc xong trên mặt có thoáng chút ngạc nhiên và nghiêm nghị chứ không cười như tôi chờ đợi. Anh bỏ bài thơ vào túi chứ không chuyển cho người khác. Đến giờ giải lao chúng tôi ra ngồi cạnh gốc cây sấu già, Nguyễn Khải mới đưa bài thơ cho Hồ Phương. Mặt Hồ Phương hơi tái và cặp môi mỏng của anh hơi run, Nguyễn Khải nói như cách sỗ sàng của anh :

    - Thằng này (chỉ tôi) ghê quá, không phải trò đùa nữa rồi !

    Tôi hơi hoảng, nghĩ rằng đó chỉ là trò chơi chữ thông thường. Sau rồi tôi hiểu ngoài cái nghĩa thông thường, bài thơ còn chạm vào tích cách và đánh giá nhà văn. Mà đánh giá nhà văn có gì quan trọng hơn tính cách, và tác phẩm. Bài thơ ngụ ý, Hồ Phương có viết nhiều chăng nữa cũng không vượt được tác phẩm đầu tay và vẫn cứ ''Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem''!

    Bài thơ về Hồ Phương đã trở thành bài đầu tiên mở đường cho vệt thơ “Lên Chùa” trong suốt 30 năm của Xuân Sách.
    Mùa xuân năm Nhâm Thân (1992) ,vào dịp lần đầu tiên xuất bản tập thơ ông phát biểu :

    “ Nói về đồng nghiệp cũng là nói về mình. Cái hay cái dở của một người cũng là của một thời. Câu thơ “Từ thủa tóc xanh đi vỡ đất. Đến bạc đầu sỏi đá chưa thành cơm” đâu chỉ là số phận của một nhà thơ. Hơn ai hết, tôi nghĩ, nhà văn là đại diện của một thời, là lương tri của thời đại. Đã đành là khó ai vượt được thời đại mình đang sống, không dễ nói hết, nói công khai những điều suy nghĩ. Nhưng cũng thật đau lòng và xấu hổ khi những nhà văn bán rẻ lương tâm, còng lưng quỳ gối trước quyền uy, mê muội vì danh lợi. Có lẽ đó là động cơ thúc đẩy tôi viết, nếu có nói quá cũng dễ hiểu. Cái con quỷ ám nếu có thì cũng là ảnh hưởng những cảm xúc ấy, nỗi đau chung ấy. Nhiều nghịch lý vốn tồn tại trong cuộc đời cũng như nghệ thuật. Tiếng cười nhiều khi xuất phát từ nỗi đau ! Những bài thơ chân dung đã có cuộc sống riêng của nó. Không phải kỳ lạ nhưng cũng độc đáo. Nó được lan truyền đến nay đã 30 năm. Đã có nhiều bài ''khảo dị'', nhiều bài ‘’ngoài luồng’’ cũng được gán cho tác giả, bây giờ in ra cũng coi như một sự đính chính. Nó cũng là ''một cái gì đó'', như có người đã nói nên mới tồn tại được, nếu có ích thì tác giả lấy làm mãn nguyện.”

    Và chính với “cảm hứng chủ đạo” có phần thất vọng về phẩm chất nhà văn, tuy Xuân Sách gọi là viết “chân dung” mà thực ra ông đã vạch trần “chân tướng “ nhà văn vậy.

    Ông tên thật là Ngô Xuân Sách, sinh ngày 4-7-1932 tại Trường Giang, Nông Cống, Thanh Hoá. Năm 1960, ông bắt đầu công tác tại tạp chí Văn Nghệ Quân Đội. Từ năm 1981 đến năm 1986, ông làm Phó Giám đốc Nhà xuất bản Hà Nội. Năm 1987, ông chuyển vào làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Bà Rịa – Vũng Tàu đến năm 1997. Đầu năm 2008, nhà thơ Xuân Sách chuyển ra Hà Nội sống với con gái để có điều kiện chữa bệnh suy gan và suy thận. Thế nhưng, do tuổi cao sức yếu, sau mấy ngày nằm ở bệnh viện, khuya ngày 2-6 nhà thơ Xuân Sách đã lặng lẽ từ biệt cõi đời .

    Đọc Xuân Sách trước tiên ta cảm phục lòng dũng cảm của ông. Văn học Việt Nam vào những năm “trời đất nổi cơn gió bụi”, những năm thập kỷ 1970, xã hội còn chìm đắm trong nền kinh tế bao cấp, văn hoá văn nghệ bị “quản lý” đến nghẹt thở vậy mà Xuân Sách cả gan vạch trần chân tướng của tất cả những văn thi sĩ đang cúc cung tận tuỵ hiến dâng tài năng và tâm huyết cho …Đảng, cho chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa”.

    Đầu sổ là nhà thơ Tố Hữu, chủ soái của văn hoá nghệ thuật của Đảng, Xuân Sách vẫn không sợ , vẫn xỏ xiên :

    “Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng
    Mắt trông về tám hướng phía trời xa
    Chân dép lốp bay vào vũ trụ
    Khi trở về ta lại là ta

    Từ ấy tim tôi ngừng tiếng hát
    Trông về Việt Bắc tít mù mây
    Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt
    Máu ở chiến trường, hoa ở đây…”

    Với nhà thơ Chế Lan Viên, thi sĩ “nghĩ trong những điều Đảng nghĩ”, Xuân Sách thằng tay ra đòn :

    Điêu tàn ư ? Chả phải điêu tàn đâu
    Anh đã tính “Vàng Sao” từ độ ấy
    Chim báo bão gió chiều nào che chiều nấy
    Lựa ánh sáng trên đầu mà đổi sắc phù sa

    Trưước 1945, nhà phê bình Hoài Thanh nổi tiếng với cuộc tranh luận “ nghệ thuật vị nghệ thuật , nghệ thuật vị nhân sinh ?”, từ sau cách mạng chỉ còn là một anh hề đồng “ca ngợi cấp trên”, bởi thế Xuân Sách hạ bút :

    “ Vị nghệ thuật nửa đời người
    Nửa đời sau lại vị người cấp trên
    Thi nhân còn một chút duyên
    Lại vò cho nát lại lèn cho đau
    Bình thơ tới thủa bạc đầu
    Vẫn chưa thể tất nổi câu nhân tình
    Tàn canh tỉnh rượu bóng mình cũng tan”

    Nhà văn Nguyễn Tuân trước cách mạng nổi đình đám với “ Vang bóng một thời”, nhưng từ sau cách mạng ông tự tước bỏ gai góc, xù xì để trở thành một nhà văn chỉ “ngợi ca chế độ” :

    Vang bóng một thời đâu dễ quên

    Sông Đà cũng muốn đẩy thuyền lên
    Chén rượu tình rừng cay đắng lắm
    Tờ hoa lại chút lệ ưu phiền”

    Nhà thơ Lưu Trọng Lư, “con nai vàng “ đã thành “vờ ngơ ngác” để leo lên tới chức Vụ trưởng Vụ văn nghệ :

    “ Em không nghe mùa thu
    Mùa thu chỉ có lá
    Em không nghe rừng thu
    Rừng mưa to gió cả
    Em thích nghe mùa Xuân
    Con nai vờ ngơ ngác
    Nó ca bài cải lương…”

    Nhà thơ Huy Cận ngày xưa với “Lửa thiêng", từ sau khi đi theo cách mạng, thơ ông cũng “nói dối” :

    “ Các vị La hán chùa Tây Phương
    Các vị gầy quá còn tôi thì béo
    Năm xưa tôi hát vũ trụ ca
    Bây giờ tôi hát đất nở hoa
    Tôi hát chiến trường như trảy hội
    Đừng nên xấu hổ khi nói dối
    Việc gì mặt ủ với mày chau
    Trời mỗi ngày lại sáng có sao đâu ?”

    Nhà thơ Xuân Diệu ngày xưa có "Thơ thơ", nay thì :

    "Hai đợt sóng dâng, Một khối hồng
    Không làm trôi được chút Phấn thông
    Chao ơi Ngói mới, nhà không mới
    Riêng còn chẳng có, có gì Chung"

    Nhà văn Nguyễn Đình Thi tuy làm quan cách mạng nhưng vẫn viết “con nai đen” ngụ ý xỏ xiên :

    Xung kích tràn lên nước vỡ bờ
    Đã vào lửa đỏ hãy còn mơ
    Bay chi mặt trận trên cao ấy
    Quên chú nai đen vẫn đứng chờ…”

    Nhà văn Tô Hoài chỉ được “con dế mèn” từ thời trước cách mạng, sau đó “tàn phai” trong những tác phẩm viết phục vụ cách mạng :

    Dế mèn lưu lạc mười năm
    Để o chuột phải ôm cầm thuyền ai
    Miền Tây sen đã tàn phai
    Trăng thề một mảnh lạnh ngoài đảo hoang

    Nhà văn Nguyên Hồng nổi tiếng với Bỉ vỏ , đi với cách mạng viết khá nhiều tiểu thuyết “đồ sộ’ về số trang nhưng chẳng mấy giá trị :

    “ Bỉ vỏ một thời oanh liệt nhỉ
    Sóng Gầm sông Lấp mấy ai hay
    Cơn bão đã đến dộng rừng Yên Thế
    Con hổ già uống rươụ giả vờ say…”

    Nhà văn Nguyễn Công Hoan ngày xưa với Kép Tư Bền từ sau cách mạng thì …hết lộc trời, còn lại chỉ viết truyện lăng nhăng :

    “ Bác Kép Tư Bền rõ đến vui
    Bởi còn tranh tối bác nhầm thôi
    Bới trong đống rác nên trời phạt
    Trời phạt chưa xong bác đã cười..”

    Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh ngày xưa nổi tiếng làm thơ bí hiểm với câu thơ “nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm”. Than ôi từ ngày đi theo cách mạng, ông “làm công tác Hội” nhiều hơn làm thơ :

    “ Xưa thơ anh viết không người hiểu
    “Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà”
    Nay anh chưa viết người đã hiểu
    Sắp sáng thì nghe có tiếng gà…”

    Nhà văn Ngô Tất Tố sau cách mạng thời gian cầm bút ngắn ngủi cũng chưa làm nên dấu mốc nào sau “Tắt đèn” :

    “ tại ba thằng mõ cỡ chuyên viên
    Chia xôi chia thịt lại chia quyền
    Việc làng việc nước là như vậy
    Lộn xộn cho nên phải tắt đèn..”

    Cứ như vậy, không chừa một ai, từ những cây đại thụ trong rừng văn chương cách mạng cho tới những thế hệ sau, chỉ bằng một khổ thơ ngắn, bằng những cái tựa sách, Xuân Sách đã tạc nên bức chân dung chân thực hơn bất cứ một luận đề tâng bốc nào của mấy anh phê bình văn học “ăn theo nói leo”.
    (còn tiếp)
    Last edited by khieman; 04-04-2014 at 08:32 PM.

  2. #51
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    Kỳ 6

    Anh chàng Nhật Tân này với “vợ sắp cưới “ còn “chính trị” huống hồ với người ngoài. Và đây là dịp anh thể hiện lòng nhiệt huyết yêu nước và căm thù giặc :

    “ Trước cửa nhà hát Tố Như , một toán người kéo đi, ùn ùn, lộn xộn. Người xách vali, người đeo đẫy, người gồng gánh, phần lớn là những anh em lao động….”

    Giữa lúc nước sôi lửa bỏng, thanh niên phải ở lại sống chết với thủ đô , sao kéo nhau tản cư ? Lập tức Nhật Tân hò hét:

    Thanh niên phải sống chết với thủ đô. Các anh đi đâu ? Các anh không biết bỏ đi là hèn à ? Trở về ngay. Tôi bảo…”

    Và thế là chàng tự vệ khăng khăng bắt mọi người quay lui. Trong đám đó có anh tự vệ phàn nàn :

    “ Nhưng chúng tôi có được như các anh đâu . Không có cái gì vào miệng thì không ai nói cứng được . Chúng tôi không có hạt cơm nào vào bụng từ hôm qua rồi.”
    …Người thanh niên mũ xanh quăng cái va li xuống đất , tay đưa mũ cho người khác :
    “ Anh sẽ làm gì ? Khai trừ chúng tôi chắc ?”
    Nhật Tân thét :
    “ Khai trừ à ? Không, khai trừ một tự vệ không phải bằng một lời tuyên bố. Khai trừ tự vệ bằng súng đạn….”
    …Anh rút khẩu súng lục giơ lên trời … “

    Ghê chưa, giặc Pháp chưa thấy đâu, chưa chi chàng sĩ tự vệ đã bộc lộ tính sắt máu với đồng đội . Chẳng hiểu ngoài đời có tự vệ nào như chàng Nhật Tân này không chỉ thấy cái căn bệnh “nói quá”, khuếch đại tính cách nhân vật làm giảm nhiều tính chân thật của tác phẩm.

    Sống mãi với Thủ đô” được Nguyễn Huy Tưởng viết vào năm 1958, vào thời điểm này , căn bệnh “vót nhọn tính cách nhân vật” của các nhà văn Hà Nội – tước đi mọi suy tư, tước đi mọi vật vã cá nhân, tước đi mọi biểu hiện bản năng, mọi tính người - để tập trung duy nhất vào một tính cách :” yêu nước và căm thù giặc” mà đôi khi hoặc không có hoặc chỉ ẩn khuất trong từng mỗi người.

    Trong tiểu đội tự vệ Nguyễn Huy Tưởng dụng công , có tới 8,9 con người khác nhau mọi phương diện. Tiểu đội trưởng Tu, “anh phu khuân vác ở Cột đồng hồ , một người trạc bốn mươi tuổi, hai vai rộng và chắc như lực điền , da mặt dày lên vì sự vất vả và tính thật thà..”. Chẳng hiểu anh phu khuân vác này bỏ mặc bố mẹ, vợ con ở đâu mà chẳng thấy lo lắng gì chỉ thấy nói chính trị y như cán bộ với chú bé đang đòi ở lại với tự vệ :

    Vào tự vệ là cầm bằng cái chết trong tay . Các anh lớn phải ở lại. Em còn nhỏ ở lại làm gì ? Con anh bằng tuổi em, anh cũng phải cho nó đi tản cư với mẹ nó…”..

    Người thứ hai là Mộng Xuân, “ anh kép cải lương , khoảng mười bảy mười tám, người ẻo lả, mặt trắng bệu, tóc mai dài , ăn mặc chải chuốt một cách lẳng lơ…”. Tính cách có vẻ “bóng” ( bisexual) nhưng nói chính trị rất hùng hồn, mùi mẫn:

    Xin các huynh cho đệ ghi tên đã. Lần này chúng ta ở lại là sống chết với thủ đô thật, dù phải da ngựa bọc thây , thịt nát xương tan cũng không lùi bước. Trước đây ai muốn vào thì vào, ai muốn ra thì ra . Các huynh hiểu cho, như thế là không được . Các huynh đến là mừng rồi …”

    Người thứ ba là Long đen “ bộ răng vàng của anh rít chặt, cái mặt choắt đen thui, trước làm nghề nặc nô, sau làm yêu Nhà máy nước đá. Hồi cách mạng anh ta lấy cắp súng của Tàu trắng bán cho Cục Quân giới. Gần đây , anh đã báo cho công an bắt được ổ in bạc giả và làm giấy cải tà quy chính.” . Do xuất thân lưu manh, bất hảo nên Long đen tuy đã được nhận vào tự vệ nhưng chưa được tin cậy . Bởi vậy cả tiểu đội đều được phát chứng minh thư, riêng Long đen là chưa được. Anh chàng tức quá, kêu lên :

    Các anh còn đòi Long đen cái gì nữa ? Bao giờ mới hết nghi cái thằng Long đen chó má này ? Chả nhẽ tôi lại chờ để bị bắt. Không đâu, tôi không để cho ai bắt tôi như một đứa lưu manh nữa. Tôi không đến nỗi là không biết nghĩ đâu các anh ạ…”

    Bàn tay Long vả vào má đôm đốp…

    Lòng yêu nước trong Long đen làm anh cụt cả máu giang hồ hảo hớn tự rủa xả mình khi cách mạng chưa tin.

    Người thứ tư là Sởn “trạc ngót ba mươi tuổi, mặt vuông, cằm bạnh , thớ thịt hai bên quai hàm luôn luôn đụng đậy như đang nhai phải cái gì . Anh như không biết rét , chỉ phong phanh một bộ quần áo nâu, cổ quàng một cái khăn mặt bông còn mới…” . Cũng như những người khác, Sởn không mảy may lo lắng gia đình. bản thân chỉ lo…đánh giặc.

    Người thứ năm là Loan – chàng học sinh tiểu tư sản đặc sệt “trí tưởng tượng đưa anh từ cuộc đời còn thơm tho mùi sách vở tới những trận chiến đấu ngổn ngang xác giặc và chính anh có thể chết dưới đống gạch ngói của phố xá điêu tàn…”. Bây giờ Loan sống trong tiểu đội tự vệ làm chân vẽ bản đồ. “ Mơ mộng gì nữa khi bầu trời Tổ quốc không còn là bình minh của hương sắc mà đục ngầu những hình thù tối đen của mũ đỏ và thổ phỉ…Anh gắn mình vào cuộc sống chung quanh. Anh cố rập khuôn theo nguyên bản, sợ sai một tý thì ảnh hưởng đến những kế hoạch quân sự sau này…”.

    Vậy là cái bước đầu tiên của một anh học sinh tiểu tư sản khi tham gia cách mạng là phải “từ bỏ mình” để hoà mình vào quần chúng :

    Loan cảm động nhìn mọi người đang đứng sát lại. Những thân hình còn mảnh dẻ tương phản với những cái vóc nặng nề , cục mịch , những đầu bóng mượt với những mớ tóc rối. Những thư sinh mặt trắng mới từ bỏ mái trường họp với những người phu , người thợ chỉ có hai bàn tay trắng…”

    Những thư sinh mặt trắng này” rồi đây sẽ phải “rập theo khuôn của nguyên bản” là mấy anh thợ anh phu này đây. Một quá trình “tự cải tạo” không mấy dễ dàng và đầy khổ ải nhưng lại được ông nhà văn nói tới một cách vui vẻ và đầy nhiệt thành.

    Người thứ sáu là Lai , “một đứa trẻ khoảng mười ba, mười bốn tuổi, mặc một cái quần cộc , một cái áo sơ mi người lớn bằng kaki vàng, lùng bùng sau cái áo sợi đan màu đỏ kệch. Một tay nó cầm con dao, một tay xách một caí hòm nhỏ. Tóc nó dài đến mái tai, ngả nghiêng như lúc bị bão.” . Chú bé từa tựa nhân vật Gavơrốt trên chiến hào Paris trong truyện “Những người khốn khổ” của Victor Hugo . Chú khăng khăng đòi ở lại để …đánh Tây :

    “ Cháu đã đi tản cư với u. U cháu chẳng buôn bán gì được . Cháu nói với u cháu lại cho cháu ra Hà Nội. U cháu cho cháu một đồng bạc. Cháu đi qua chợ, mua được con dao này…”

    Vậy là bao nhiêu tiền mẹ cho, chú bé Lai dốc hết cả vào việc … mua dao giết Tây. Yêu nước ghê gớm vậy đó. Rồi khi bị tiểu đội tựï vệ từ chối không cho gia nhập, chú Lai phẫn uất :

    Ở đây cũng không nhận cháu ư ? Xin vào bộ đội , các anh ấy cũng không nhận, các anh ấy chỉ nhận con nhà giàu , chúng nó có quần áo, chúng nó biết hát. Nghèo thì Tây cũng khinh mà ta cũng khinh…”

    Chú bé Lai đã nói vậy, tất nhiên tiểu đội tự vệ phải nhận chú chứ còn biết nói sao ? Người thứ bảy không được tác giả đặt tên chỉ cho nói chuyện chính trị :

    Nó gây ra vụ Yên Ninh thì là nó chết. Bộ đội kéo về đông lắm rồi, đông hơn hôm qua, đông hơn hôm kia. Trong thành chúng nó lục đục, lính Đức nổi loạn, nó giết nhau chí choé, giải phóng Thủ đô đến nơi rồi…”

    Một anh khác cũng hăng hái :

    Cụ Hoàng Diệu thì hơi bi. Cụ chết nhưng thằng Pháp nó vẫn hạ được thành Thăng Long. Mình chết nhưng không để mất Hà Nội…”

    “ Cốt nêu cái tinh thần cảm tử thôi. Lính nhà Trần thích chữ Sát Thát thì mình viết lời thề sống chết…”

    Cứ như vậy dù miêu tả nhiều nhân vật với nhiều xuất thân khác nhau nhưng thực ra ông nhà văn chỉ xây dựng có một nhân vật : đó là lòng yêu nước một chiều – yêu cầu hàng đầu của Đảng đối với công việc sáng tác của các nhà văn trong vòng tay của Đảng.
    (còn tiếp)

  3. #52
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    Kỳ 7

    Trong cộng đồng người Hà Nội, không hiểu sao thương gia, doanh nhân giàu có luôn luôn bị các nhà văn cộng sản coi là xấu xa, tiến thân bằng lừa gạt phản trắc. Ông Cự Lâm là một thương gia như thế :

    “ Một người chú họ làm ở Hồng Kông mua được nhiều hàng quý như gương , thảm, giường Hồng Kông, len, dạ, tơ lụa, đồng hồ, bút máy…hàng tháng gửi về nhờ ông giữ hộ. Cư hàng chục năm như vậy. Nhưng ông Cự Lâm đã bội tín, chiếm hẳn những của ấy làm của mình, và từ một người buôn chè nhỏ , ông cứ phất mãi lên.. . ..”

    Ông Cự Lâm đã xấu vậy, bà vợ ông cũng chẳng tốt đẹp gì :

    Bà trông bệ vệ nhưng đần độn. Bà chỉ là một cái máy đẻ. Việc kinh doanh của chồng thì bà không biết gì, việc trông nom trong nhà , từ tiêu pha trong nhà đến bếp nước giỗ chạp thì đều do bà giáo ( em chồng) mà bà ta cũng rất sợ. “

    Thế hệ bố mẹ đã vậy, tất nhiên con cái phải khác, phải giác ngộ cách mạng thì mới phù hợp với chiều hướng xã hội mới - bởi vậy nhà văn cho cậu con trai tên Phúc và hai cô con gái tên Lan và Hương khăng khăng ở lại Hà Nội xin vào tự vệ. Hành động cách mạng đầu tiên của Phúc là “chơi” bố một vố choáng váng đúng vào ngày giỗ bà nội :

    “ Đêm hôm qua trong lúc ông Cự Lâm đang nằm nghe bên ngoài người nhà làm cỗ, lòng ngổn ngang vì tình hình , não ruột vì khu phố thúc giục tản cư thì một tin đưa tới làm cho ông rụng rời đổ đốt : Phúc đã tự tiện đến nhà Quảng Xương Long bắt người gác phải mở cửa và cùng một số đông tự vệ xông vào kho. Người gác giữ lại thì Phúc chửi mắng thậm tệ, đành phải báo bằng dây nói cho ông biết.”

    Hoá ra tự vệ cần cuốc xẻng đào hầm, ông Cự Lâm có cả một kho nhưng không ủng hộ nên con trai ông kéo tự vệ tới phá kho:

    Cửa hiệu lúc ấy như đang bị bọn kẻ cướp đánh phá. Phúc đứng ở ngoài vỉa hè hò hét giục mọi người . Cự Lâm nghe rõ tiếng Phúc oang oang :” Cần bao nhiêu cứ lấy. Càng nhiều càng tốt. Ông cụ đã muốn keo bẩn thì cho keo bẩn một thể…”

    Đã dắt tự vệ phá kho của bố , thoát ly gia đình đi tự vệ , Phúc còn ngoái cổ chửi bố . Anh thổ lộ với đồng đội :

    “ Các anh nên hiểu cho tôi. Tôi ngồi trên đống của thật đấy, nhưng tôi không muốn nối cái nghiệp làm giàu của cậu tôi. Cái dịp ấy bây giờ đã đến với tôi…”

    Cái dịp ấy chính là “vào làm giáo viên hội truyền bá mặc dầu nhà cấm vì sợ mật thám theo dõi . Đã có lúc anh đóng cửa buồng lại, đứng trước gương tập diễn thuyết để sau này ra làm việc xã hội …”

    Trong hội nghị quân sự của Liên khu 1 Hà Nội, tiểu đoàn trưởng vệ quốc quân đứng lên nói xấu người Hà Nội :

    Thì Hà Nội là đất của tiểu tư sản , bấp bênh và quay quắt , cách mạng lên thì nó ào ào đi, cách mạng xuống thì nó quay lưng lại, Pháp cũng theo, Nhật cũng theo , tàu trắng cũng theo, Việt Minh cũng theo và nếu Mỹ vào thì cũng đi với Mỹ…”

    Hội nghị quân sự Liên khu 1 Hànội vào trước đêm toàn quốc kháng chiến gồm các cán bộ quan trọng bàn về tác chiến mà lạ thay suốt hơn 30 trang diễn tả hội nghị , phần lớn các nhân vật chỉ hô khẩu hiệu suông :

    Đồng chí Bí thư nói:

    “ …Chúng ta phải làm những người tiên phong đi giải phóng dân tộc chúng ta. Trong ngày vừa qua, nhiều đảng phái đối lập công kích ta, hòng làm giảm uy tín của Đảng ta. Họ đòi chia quyền lãnh đạo , thậm chí đòi Đảng ta bỏ quyền lãnh đạo . Nhưng trong lúc Tổ Quốc lâm nguy này thì họ ở đâu ? Người đứng mũi chịu sào trung thành với dân tộc vẫn chỉ có Đảng ta. Trong cuộc kháng chiến này , một lần nữa , Đảng ta lại làm cái sứ mạng là lái con thuyền Tổ Quốc vượt qua bão táp phong ba tới bờ thắng lợi …”

    Hoá ra trong lúc nước sôi lửa bỏng, đảng ta vẫn lo việc giữ độc quyền lãnh đạo và suy cho cùng, chính cuộc kháng chiến chống Pháp đã giúp đảng loại bỏ các đảng đối lập một cách dễ dàng.

    “ Ông Khu phó phát biểu :

    “ Nói tóm lại, nếu các đồng chí có một quyết tâm thật là sắt đá , nếu các đồng chí dựa được vào lòng yêu nước của bộ đội , của nhân dân , nếu các đồng chí biết phát huy những điều kiện thuận lợi đặc biệt của Liên khu 1 thì các đồng chí nhất định chiến đấu lâu dài trong thành phố được . Chính phủ, Hồ Chủ tịch giao cho các đồng chí một nhiệm vụ rất vinh quang. Các đồng chí cố lên. Dù có phải hy sinh thế nào cũng phải cầm cự tới cùng…”

    Ông tiểu đoàn trưởng :

    “ Chúng tôi, những người Vệ quốc quân, chúng tôi quyết không để cho Pháp thực hiện cái ý đồ của chúng. Nghĩa là chúng tôi sẽ hy sinh đến giọt máu cuối cùng. Chúng tôi xin thề như thế trước chân dung Hồ Chủ tịch, trước mặt đồng chí Bí thư, đồng chí Khu phó và tất cả các đồng chí…”

    Ngày nay khi đã có một “độ lùi” nhất định nhìn lại các sự kiện lịch sử, người ta lấy làm lạ rằng trong những ngày đầu rơi máu chảy, biết bao nhiêu bà già con trẻ lạc lõng bơ vơ, biết bao gia đình tan nát như những tổ chim trước bão….Một xã hội đang vỡ tung trong loạn lạc, bi kịch về thân phận con người đang bị đẩy tới đỉnh điểm. Một khoảnh khắc lịch sử tràn đầy máu và nước mắt. Vậy mà thật đáng ngạc nhiên, ngòi bút của ông nhà văn không đi sâu khai thác những nỗi bất hạnh trong chiến tranh, ngược lại dùng rất nhiều trang ghi lại phát biểu “đao to búa lớn” của mấy ông cán bộ đảng khi súng sắp nổ trên toàn thành phố rồi vẫn còn cà kê ngồi khai hội.

    Ông Bí thư lại nói nữa :

    “ Chúng ta muốn hoà bình. Đến phút cuối cùng Hồ Chủ tịch vẫn cố gắng duy trì hoà bình. Nhưng chúng nó cố tình cướp nước ta lần nữa . Chúng đã khai chiến ở Hải Phòng , chúng đã khai chiến ở ngõ Yên Ninh rồi. Chúng ta muốn hoà bình , nhưng không phải hoà bình trong nô lệ. Chúng ta quyết đứng lên chiến đấu, bảo vệ quyền lợi cho dân tộc , đập tan sự nguy hại cho nền dân chủ và hoà bình …”

    Người ta không hiểu sao phần lớn cán bộ đảng cứ thích nói dài, nói dai, nói chính trị quanh đi quẩn lại vài điều người nghe dường như đã “biết rồi, khổ lắm…”. Rất có thể trong khi nói, khoái cảm “đứng trên đầu thiên hạ” tràn trề trong người làm cán bộ khó mà dứt được.

    Sau khi nhắc đến cụ Hồ rồi, ông Bí thư lại nhắc tới lãnh tụ khác :

    Như đồng chí Trường Chinh đã nói, chúng ta sẽ làm cho giặc đói không có ăn, khát không có uống, có chân như què, có mắt như mù, có miệng như câm. Các đồng chí hãy nêu cao tinh thần dũng cảm của người cộng sản quyết chiến quyết thắng…”

    Cứ như thế ông Bí thư độc chiếm diễn đàn cho tới khi cuộc họp kết thúc sau suốt một ngày một đêm “hô khẩu hiệu suông”.

    Lúc này ngoài cổng trụ sở có một cô gái chờ sẵn suốt trong lúc cán bộ họp. Đó là cô Quyên, nữ sinh Hà Nội , đang muốn “nằm gai nếm mật, ở mặt trận thì phải là màn sương gối đất chứ có đâu lại đi làm một công việc văn phòng chẳng có gì là khó nhọc, ro ró ở một xó nhà…” . Cô nữ sinh ôm ấp hình ảnh người chồng tương lai phải “ đã bị đầy ra Côn Đảo , đã phải vượt tù trốn về khu giải phóng, và lúc này phải gánh vác những công việc lớn lao.” để cô có thể “ hy sinh tất cả cho anh để bù lại trăm nghìn gian khổ mà anh đã phải chịu trong bao nhiêu năm…”.

    Với nhân vật Quyên , Nguyễn Huy Tưởng báo hiệu sự xuất hiện của thế hệ thứ nhất của hồng vệ binh Việt Nam theo sau những tên tuổi như Lý Tự Trọng và sau này là Võ thị Sáu.

    Vậy trong suốt một ngày một đêm cô Quyên chờ ai vậy ?

    Đó là “chị Oanh” , nguyên nữ sinh trường Đồng Khánh, “đã dẫn đầu các bạn học đi dự lễ kỷ niệm Gian Đa và Hai bà Trưng do trường Anbe Xarô và trường Bưởi cùng làm chung. …Thế rồi Oanh bị đuổi. Trước ngày Nhật đảo chính, Oanh tham gia cách mạng. Sau đảo chính Oanh càng hoạt động tích cực. Bị Nhật lùng bắt , Oanh phải thoát ly gia đình ra ngoại ô. Trước ngày cách mạng, Oanh là một trong những người phụ nữ cứu quốc đứng trên gác Nhà hát thành phố , diễn thuyết hô hào ủng hộ Việt Minh trước đám biểu tình ngày 17 tháng 8….”

    Vậy Oanh là một nữ cán bộ to, được dự Hội nghị quân sự Liên khu 1 lại được ngồi xe ô tô về Bắc bộ Phủ. Gặp được Quyên, cô kéo Quyên tiện thể ngồi ô tô luôn. Khi xe chạy qua Trường nữ học Đồng Khánh vốn là trường cũ của Quyên, “cô bỗng vịn lên vai Oanh, kêu :

    “ Chị ơi, trường Đồng Khánh của chúng ta đây này…”
    Oanh nói :
    “ Đừng gọi cái tên thằng vua ấy nữa . Bây giờ là Quận uỷ hội…”
    “ Không hiểu sao, em nhớ trường cũ qua, chị ơi…”

    Vậy là cô Quyên “lính mới” vẫn còn một chút nhớ nhung, xao xuyến về “mái trường xưa”, còn cô cán bộ Oanh, phản xạ đã sặc mùi chính trị , nghe nhắc tên trường đã giãy nảy vì nó là tên “cái thằng vua” bất chấp nó là “mái trường xưa đầy kỷ niệm”.. Có thể tiên đoán được rằng, sau này “khi cách mạng thành công” loại nữ cán bộ như Oanh sẽ trở thành những Bộ trưởng, Thứ trưởng và với cung cách suy nghĩ “lấy chính trị làm thống soái” như vậy, có thể thấy trước họ sẽ đưa đất nước đi tới đâu.
    (còn tiếp)

    Last edited by Nhan; 03-27-2011 at 02:09 AM.

  4. #53
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    Kỳ 8

    Lần trước, chị Oanh giao cho Quyên làm nhân viên mật mã, cô không chịu , thích chiến đấu ngoài chiến trường kìa. Lần này Oanh lại giao cho Quyên nhiệm vụ khác, ‘oách” hơn nhiều :

    “ Quyên này, em sẽ đóng vai thư ký cho một nhà trí thức mới ở Pháp về, một bác sĩ rất giỏi, rất có tiếng nhưng cũng khó hiểu lắm. Bề ngoài là thư ký, nhưng bề trong là theo dõi, có gì thì báo cho chị biết…”

    Thế là cô nữ sinh Đồng Khánh trở thành…tình báo viên, làm thư ký moi tin tay bác sĩ nước ngoài về. Đây là hư cấu tuỳ tiện của nhà văn, chứ thực tế, vai trò điệp báo nằm vùng như nhiệm vụ Oanh giao cho Quyên phải là một nữ đảng viên trung kiên, kinh qua công tác và được đào tạo công phu chứ đâu có “ngơ ngác con nai vàng” như Quyên ; khác nào đưa gà con vào miệng cáo? vả lại Oanh đang là cán bộ phụ vận, đùng cái trở thành tổ trưởng tổ tình báo từ lúc nào nhanh thế?

    Một yếu nhân cũng vừa ra khỏi cuộc họp quân sự – Quốc Vinh, Chủ tịch Liên khu 1. Vừa nãy trong hội nghị ông làm một “báo cáo thành tích” quân dân thủ đô dài dằng dặc gần hai trang in. Hoá ra mấy ông cán bộ chóp bu rất giống nhau : từ lời ăn tiếng nói cho đến suy nghĩ, cảm xúc…Nếu như cho rằng nhân vật tiểu thuyết là sự tổng hoà giữa tính cách cá lẻ với đặc tính chung của gốc gác xuất thân thì tiểu thuyết “ Sống mãi với Thủ đô” hầu như không có…nhân vật hoặc chính xác hơn chúng không có cá tính và giống nhau như đúc một khuôn. Trong con người của mỗi nhân vật chỉ thấy duy nhất cái ‘siêu ngã” đang hoạt động – tức là cái con người xã hội, con người công dân, yêu nước, căm thù giặc Pháp; ngoài ra hoàn toàn không thấy dấu vết của sự hoạt động bản năng nguồn gốc của mọi vượt trội, gây mất trật tự trong bầy đàn.

    Ta thấy câu nói của mấy ông sau đây đặt vào mồm ai cũng được – ông Bí thư, ông Khu phó, ông Chủ tịch Liên khu 1, ông Tiểu đoàn trưởng bảo vệ Bắc Bộ phủ :

    Tất cả những con người ấy , bị áp bức, bị bóc lột, bị đày đoạ về tinh thần và vật chất , dưới thời nô lệ , đã thấy rõ cách mạng đem lại quyền lợi cho mình. Từ ngày tiền khởi nghĩa đến giờ họ đã được giáo dục, được động viên, được tổ chức, nên họ có một lòng căm thù đối với giặc, một lòng tin tưởng tuyệt đối vào Chính phủ vào Hồ Chủ tịch…”

    Quả thật cái đoạn thoại này giống y như xã luận báo Đảng chứ chẳng phải ngôn ngữ của nhân vật. Văn chương của cuốn tiểu thuyết nằm ở đâu ?

    Từ hội nghị ra, ông Liên khu trưởng Liên khu 1 ngồi ô tô về cơ quan. Ông thấy “ đầu phố hàng Đào, phía Cầu Gỗ , sừng sững đỏ tươi , hai chữ CẢM TỬ kẻ từ bao giờ , chiếm cả cái bề dài bề rộng của bức tường vôi nham nhở của một dãy quán bán sách đã dọn đi. Hai chữ cảm tử như đôi mắt nhỏ máu lừ lừ nhìn Quốc Vinh . Dưới là một hàng chữ đen : “Chúng tôi , những thanh niên Hà Nội nguyện hy sinh đến giọt máu cuối cùng . Thề sống chết với Thủ đô!”. Phố hàng Gai , một biểu ngữ nữa kẻ bằng chữ đỏ :” Mỗi phố là một mặt trận, mỗi nhà là một pháo đài !

    Thực ra nếu cần ca ngợi tinh thần ‘sống chết bảo vệ thủ đô” của thanh niên Hà Nội thì khỏi cần “đi sâu” vào những khẩu hiệu vốn là thứ thật khó đưa vào tiểu thuyết – một thể loại văn học cần tình tiết sống động nhiều hơn là những chính luận khô khan. Tiếc thay sau khi đã dẫn tràng giang đại hải những phát biểu đậm đặc chính trị của các cấp cán bộ Đảng, ông nhà văn vừa cho độc giả thoát ra khỏi cái nặng nề u ám của không khí cuộc họp thì lại ấn cổ người ta vào ngay thế giới của những khẩu hiệu khô khan cho dù nó nói lên tinh thần quyết tử của thanh niên Hà Nội lúc đó.

    Vậy nhưng người ta thừa biết có phải tất cả bọn họ đều quyết tử cả đâu , một bộ phận không nhỏ thay vì nghĩ tới số phận của Hà Nội, của cách mạng họ lo tới bản thân và gia đình trước đã. Đó là quyền được sống, được tồn tại chính đáng của con người.Vậy nhưng cuộc đào thoát khỏi tử thần trong cái cối xay thịt Hà Nội vào những ngày mới bùng nổ chiến tranh của hàng ngàn hàng vạn người dân không được ông nhà văn nhắc tới hoặc giả có nhắc tới thì cũng với giọng khinh miệt coi họ là những kẻ đào nhiệm hèn nhát.

    Rõ ràng ông nhà văn đã chọn chỗ đứng trong chiến hào chỉ để nhìn địch ta giết nhau và nhất định không chịu xê dịch đi đâu để thấy bao cảnh đời khổ ải trong cõi nhân sinh mà máu và nước mắt đã chảy thành sông thành suối.

    Trở lại với anh giáo Trần Văn đưa mẹ ra ga về quê, gặp lại và coi khinh người yêu cũ khi cô hoà vào dòng người chạy loạn. Một anh giáo trường tư chưa bao giờ “tham gia cách mạng” ấy thế mà tâm tình lúc này còn rào rạt cách mạng hơn cả mấy anh cán bộ Việt Minh :

    Anh thấy rực rực trong người cái vinh quang của một dân tộc hiền hậu mà tự cường, cần cù mà tế nhị…Một dân tộc mà lòng yêu hoà bình cũng lớn như lòng yêu các dân tộc khác nhưng luôn luôn bị chà đạp , bị khinh miệt , bị chia rẽ, bị tàn phá và khi bắt đầu được thấy loé cái ánh sáng của tương lai thì kẻ ngoài lại đến để tiếp tục vùi dập…Cách mạng Việt Minh mới ra đời trong lụt lội, trong đói khổ và trong kiệt quệ, Hà Nội chưa hồi sinh đã lại chứng kiến đạo quân Tầu phù của Tiêu Văn, Lư hán, nhiễu nhương , bòn vét, giết người và ỉa bậy….Bóng ma thanh thiên bạch nhật vừa mờ đi thì đạo quân thiết giáp kéo cờ tam tài lại xuất hiện trên các đường phố Hà Nội …”

    Còn dài, còn miên man vậy nữa khiến tâm trạng anh giáo viên tiểu học Hà Nội chẳng khác gì tâm trạng chính uỷ lão luyện quanh năm chỉ lo việc Đảng việc nước. Người ta càng lấy làm lạ tại sao các nhân vật trong “ Sống mãi với thủ đô” giống nhau đến thế ? Chúng cứ như những hạt ngô trong cùng một bắp vậy. Viết lách thế này mà cũng mang danh “tác phẩm lớn” trong văn học Việt Nam thì kể cũng lạ.

    Tuyệt nhiên không nghĩ tới mẹ già đang sống ra sao nơi tản cư, anh giáo Trần Văn cho đầu óc phiêu diêu tới miền tưởng tượng :

    “ Trần Văn nhìn cái ụ bao cát …anh sẽ nấp ở đấy mà ném lựu đạn vào quân Pháp tiến vào…Khi xe tăng giặc đến thì mình phải nhảy ra mà ném chai ét xăng cơrếp rồi quăng lựu đạn. Dũng cảm hơn, phải lao vào xe, cầm một khúc gỗ đút vào xích xe cho nó bật ra khỏi bánh. Anh vốn chậm chạp , anh không hiểu con người phải nhanh đến như thế nào mới làm được ngần ấy việc trong nháy mắt…”

    Suốt nửa cuốn toàn mô tả các nhân vật sục sôi cách mạng, ông nhà văn chợt thấy bức tranh của mình không khéo thuần mầu đỏ, ông vội đưa ra một nhân vật “phản diện” phá thế đơn điệu. Đó là Tân – bạn của Nhật Tân, anh chàng tự vệ đòi bắn thanh niên tản cư, anh chàng nói chuyện chính trị cả với vợ chưa cưới khi chia tay.

    Nhật Tân với Tân là đôi bạn chí thiết từ nhỏ . Nhà giàu , Tân thường giúp đỡ Nhật Tân. . Sau ngày Nhật đảo chính Pháp , Nhật Tân vào Việt Minh, Tân không đồng ý nhưng vẫn giúp…”

    Vào lúc gần nổ ra chiến tranh, Nhật Tân tới nhà Tân lôi kéo bạn vào tự vệ . Anh nói :

    Có thể đêm nay nó đánh mình…”
    “ Trời ơi, trời ơi, trời ơi ! Mày doạ một thằng trẻ con đấy à , Nhật Tân ?”
    Rồi Tân vứt cái cốc xuống sàn vỡ tan , huỵch toẹt :
    “ Tao đi với Việt Minh thì rồi cũng thế này thôi. Nghĩa là đánh xong Pháp thì đến lượt chúng tao họ làm cỏ, của cải họ đem chia . Đấy, rồi mày xem, có đúng không ?”

    Thế là hai người bạn thân đứng về hai phe đối nghịch nhau, ngược nhau về quan niệm sống, về quan điểm chính trị. Hoá ra cái nhân vật “phản diện “ mà Nguyễn Huy Tưởng đưa ra, cũng chỉ là “con người chính trị” giống y nhân vật chính diện, chỉ khác dấu nhau mà thôi. Nói cách khác , dù là nhân vật cách mạng hay phản cách mạng, chúng đều được xây dựng từ những sơ đồ chính trị-xã hội theo nhãn quan cộng sản mà Đảng buộc mọi nhà văn trong xã hội đều phải tuân theo.

    Để cho nhân vật phản diện có vẻ có “tính người”, Nguyễn Huy Tưởng đã cho Tân làm một việc độc đáo. Vào ngày hoà bình cuối cùng của Hà Nội, Tân ra đầu phố mời 4 người đi qua đường, cho dù không quen biết , vào nhà để dự một bữa tiệc cuối cùng.

    Một trò chơi thật lãng mạn, thật độc đáo của người Hà Nội trước lúc cơn bão lửa nổ ra. Chỉ có điều 5 con người tập trung ở mâm rượu này, nếu do chủ nhà ra đầu phố chọn tuỳ hứng thì ông tác giả lại phải định hướng cho cuộc chọn lựa. Tất nhiên 5 con người đó không được gồm toàn “phản động” như Tân, hoặc những người cầu an sắp tản cư khỏi Hà Nội. Quả nhiên Nguyễn Huy Tường đã cho Tân chọn đúng ngay …anh giáo Trần Văn, một người đầu óc lúc nào cũng phiêu diêu trong giấc mơ làm liệt sĩ cách mạng. Rút cuộc lúc vào tiệc, Trần Văn đã giơ cao cốc :

    Đúng rồi. Chúng ta nâng cốc vì Tổ Quốc, vì cụ Hồ. Vận mạng của dân tộc chúng ta quyết định trong những ngày sắp tới, có khi ngay trong đêm nay. Sống chết vì Tổ Quốc, sống chết vì cụ Hồ, linh hồn của dân tộc…”

    Lẽ ra bữa tiệc 5 người này sẽ rất hay , sẽ đầy những tâm tình của người Hà Nội khi quê hương sắp chìm trong máu lửa. Tiếc thay, ông nhà văn đã “chính trị hoá” nó khiến nó trở nên giả tạo, sống sượng đến khó chịu…

    (còn tiếp)

  5. #54
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    Kỳ 9

    Giữa lúc Hà Nội sắp chìm trong bom đạn, dân tình nháo nhác tản cư , đời sống rất khó khăn, thiếu thốn, ông Tân chủ nhà vẫn bày tiệc rôm rả : ” nem chua, chim quay, vịt hầm, thang, thịt gà luộc , cơm trắng, tráng miệng cà phê…” và mời mọc hào phóng :

    Tất cả những chai rượu đây là để thết các bạn. Nút đã mở sẵn. Các bạn cứ tự ý rót, hoàn toàn tự do. Uống bằng hết. Không uống hết thì ta đổ đi. Bởi vì ngày mai, và có thể ngay lúc này , không có gì là chắc cả. Các món ăn, cũng gầy còm thôi, tôi sẽ đem hết lên đây, các bạn muốn ăn gì trước, muốn ăn gì sau, tuỳ hết. Bữa tiệc cuối cùng không có gì là gò bó…”

    Khách dự tiệc ngoài anh chỉ huy tự vệ Trần Văn ra còn có Vũ Minh , một học sinh phố nhà Thờ. Anh chàng này chẳng biết nói gì , chỉ thốt lên :

    “ Quái dị…”

    Người khách bất đắc dĩ thứ hai là nhạc sĩ Thu Phong “trong lúc buồn rầu nhớ tiệm và dàn nhạc , anh thuê xe lần xuống Bạch mai để hát cô đầu giải muộn và dối già …anh đang đói nên Tân mời là vào ngay…”

    Người khách thứ ba là Ben-la, một chủ hiệu ảnh đi mua được mấy chục cuốn phim dự trữ để tính chuyện về quê làm ăn …”Vẻ mặt nhạt nhẽo , tầm thường không có cá tính. Anh đeo cái máy Kodak một bên , một bên là cái túi da đựng phim , sẵn sàng có gì là chạy…”

    Tất cả bốn người đều tôn trọng đề nghị của ông chủ nhà kỳ dị, không ai tự giới thiệu với ai, không ai muốn phá cái không khí bí mật, gần như hoang đường ấy. Bởi thế Tân, chủ nhà phải khuyến khích mọi người nói :

    “ Các bạn cứ hoàn toàn tự do. Ta nói chuyện đi , chuyện trời đất, chuyện trai gái , chuyện dâm dục, chuyện chính trị , tha hồ. Miễn là tiệc của năm người Hà Nội không chết …”

    Người cao giọng, cà kê dê ngỗng dạy dỗ thiên hạ lại vẫn là anh cán bộ Trần Văn . Anh trách cứ thanh niên Hà Nội không có lý tưởng “thường chỉ đuổi theo cái ăn cái mặc, lao tâm khổ tứ vì cái ăn cái mặc , cả cuộc đời rút lại chỉ là cái ăn cái mặc. “. Anh trách “ cô tân thời ăn mặc sang trọng , ngồi trên xe tay nhà gọng đồng sáng loáng đi chợ Đồng Xuân “ sống làm gì ? Anh chê “ anh công tử một sơ mi hàng ngày chải đầu bóng mượt, thắng bộ quần áo bảnh bao đi diện phố , lậu vé xinê rồi buổi tối về , chờ cho mọi người đi ngủ , mới cởi áo đem giặt , phơi phóng rồi nằm ngủ cởi trần , kết thúc một ngày vô lý …”

    Anh cán bộ tự vệ phàn nàn :” Tôi đã từng trông thấy những người Hà Nội suốt đời chỉ một mục đích là cái bát phở buổi sáng , họ đem hành tây, họ đem trứng đi, đến hàng phở quen, họ đánh dấu bát để đưa chan, họ hỏi hồ tiêu , họ đòi ít ớt , họ xin ít nước béo , họ vùi đầu vào bát phở một cách thô tục , xấu xí, rồi họ ra đi một cách tự mãn …Con người mà thế thì buồn lắm….Phải khác …”

    Nhân danh người Hà Nội lại mạt sát văn hoá ẩm thực của Hà Nội, ông nhà văn tưởng rằng hạ thấp cách sống của người Hà Nội sẽ tôn vinh được “văn hoá cách mạng” vốn có cốt lõi là “diệt trừ sự hưởng thụ” , ngờ đâu, khi “cơn bão táp” cách mạng đi qua, cái còn lại với thời gian lại chính là những giá trị văn hoá. Nếu còn sống đến ngày nay, không hiểu ông nhà văn Nguyễn Huy Tưởng có chịu đục bỏ những lời lẽ xúc phạm nghệ thuật ăn phở của người Hà Nội thô bạo đến thế.
    Vậy ông nhà văn đòi hỏi người Hà Nội phải sống khác ra sao ? Ông nói :

    Ngoài cái ăn cái mặc ra , còn phải suy nghĩ làm sao có thể giúp ích cho đời , phải có cái gì đó để lại , nó đánh dấu sự tồn tại của một con người , nó nâng con người lên trên cái ăn cái mặc . Đấy là lý tưởng , đấy là lý do sự có mặt của mình trên trái đất…”

    Lời lẽ của anh cán bộ tự vệ lúc đã ngà ngà say thật đúng là văn…bia. Chỉ buồn một điều là cả cái thế hệ “tự vệ thủ đô” ngày ấy đã để lại được cái gì có ích cho đời ? Đưa cả dân tộc vào khói lửa 9 năm chinh chiến chống Pháp , 10 năm chống Mỹ, đói nghèo vẫn hoàn đói nghèo và chính họ lao vào cuộc đấu đá giành giật “ cái ăn cái mặc ” dẫn tới quốc nạn tham nhũng ngày nay.

    Có lẽ do ngán ngẩm bài “diễn văn” sặc mùi chính trị của ông cán bộ tự vệ, ông thợ ảnh rút lui trước, còn cậu học sinh phố nhà thờ Vũ Minh bỗng dưng cũng nổi máu “yêng hùng” đứng dậy hùng hồn :

    “ Rất đồng ý, nâng cốc vì Tổ Quốc, vì cụ Hồ. Tôi cũng rất phục cụ Hồ , hai tháng trước đây , tôi đã làm hàng rào danh dự đón ông Cụ ở Pháp về. Nhưng xin nói thêm : nâng cốc vì thắng lợi nữa…”

    Tuy thế, trong lời lẽ của anh học trò này còn có đôi chút ”lãng mạn”:

    Nếu có đánh nhau thì những người đã dự bữa tiệc này không ai chết…và ông chủ sẽ có thể một ngày nào đó lại cho chúng ta ăn một bữa cơm no say như thế này…:”

    Ông nhạc sĩ đã qua cơn đói, cũng bắt chước ông cán bộ tự vệ, đứng dậy hùng hồn :

    Tôi nói thật bởi vì trong cái đời giang hồ của tôi , hết bar này tới bar khác , Pháp đánh cũng có, Nhật chửi cũng có , Tàu bợp tai cũng có , trong nam ngoài bắc , cả cái đất của Thống chế họ Tưởng nữa , ở đâu cũng thế thôi , chưa bao giờ tôi được sống cái phút say sưa như thế này …”

    Bữa tiệc gặp gỡ ngẫu hứng của 5 văn nghệ sĩ trí thức Hà Nội là như thế, họ toàn nói những câu nặng mùi chính trị, bày tỏ lòng căm thù giặc Pháp, lòng tôn kính cụ Hồ, bài bác tính cách hưởng thụ của người Hà Nội .

    Khi tưởng tượng ra bữa tiệc đầy ý nghĩa này, ông nhà văn thiếu hẳn cái tình cảm xót xa của người Hà Nội khi Thăng Long sắp trở thành chiến địa, thiếu hẳn những phản ứng tâm lý, những hành vi rất riêng , đầy tính lãng mạn của người Hà Nội – nhất là văn nghệ sĩ trí thức – trong giờ phút hiểm nghèo này, thiếu hẳn những dự cảm tương lai của Hà Nội khi bước vào cuộc chiến đẫm máu. Nếu là một tài năng văn học thực sự, nhất định người đọc sẽ được thưởng thức một “bữa tiệc cuối cùng” của 5 người Hà Nội lãng mạn hơn , “con người” hơn là những đối thoại dài dòng, chính trị một chiều này.

    Không khí chuẩn bị chiến đấu mỗi lúc khẩn trương khắp thành phố và lạ thay càng tới gần giờ G đó, người Hà Nội càng có vẻ …hăng hái giác ngộ cách mạng , thấm nhuần tư tưởng “quốc tế vô sản” mác xít- lêninnít. Anh học sinh đặc sệt tiểu tư sản tên Loan, đang ở trong tiểu đội tự vệ làm chân vẽ bản đồ khi nhìn thấy người mẹ Tàu cho quà con nít Việt Nam đang theo mẹ tản cư cũng làm ngay một thuyết lý chính trị với cô Quyên – nữ sinh tham gia cách mạng :

    “ …Chị có thấy không, người mẹ Tàu chẳng khác gì mẹ Việt nam . Các bà mẹ đều là hiện thân của sự hy sinh lặng lẽ…”

    Vậy là đã có sự phân biệt giữa bọn Tàu ô mang cờ thiên thanh bạch nhật sang cướp bóc nước ta với người Trung Quốc chân chính như “người mẹ Tàu “ cho quà con nít Việt Nam kia. Cô Quyên vốn được chị Oanh, cán bộ phụ nữ giao nhiệm vụ làm thư ký cho ông bác sĩ Pháp mới về để “ khám phá ra một tổ chức phá hoại”. Ai ngờ, vừa gặp , ông bác sĩ – tên Pha, đã xổ ra một tràng ‘lập trường cách mạng” làm cô Quyên cứ tròn xoe cả mắt :

    Tôi đã sống những ngày kháng chiến Pháp ở Paris. Không có những việc đục tường , đào hố như ta. Thanh niên Pháp cũng không có những lời thề đanh thép :” Sống chết với Thủ đô” như thanh niên ta. Làm gì họ có người mẹ sắm súng cho con ở lại , chồng cho vợ về quê để vào tự vệ , em bé nằn nì xin vào bộ đội . Cả một dân tộc đứng lên. Quây chung quanh một chính phủ, thà hy sinh tất cả chứ không chịu trở về đời nô lệ., mais c’est inoui, c’est magnifique …”

    Một ông bác sĩ Việt kiều vừa Pháp trở về mà ăn nói không thua gì một ông cán bộ Việt Minh trong nước. Điều này càng chứng tỏ Nguyễn Huy Tưởng tuy đưa ra nhiều loại nhân vật trong tiểu thuyết mà rốt cuộc người ta chỉ thấy có một mà thôi: người công dân yêu nước, yêu cụ Hồ , giác ngộ cách mạng và nói năng như…cán bộ.
    (còn tiếp)

  6. #55
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    Kỳ 10

    Tất nhiên để xây dựng nhân vật bác sĩ mới từ Paris trở về theo lời kêu gọi của cụ Hồ, ông nhà văn phải cho nhân vật nói năng có tí ti tiếng tây không thì lẫn với các cán bộ :

    Tôi rất vui được sống ở Hà Nội những ngày tuyệt đẹp như thế này. Những cái phố rất Việt Nam, đi đâu về mới càng thấy quý, những tên phố rất nên thơ , những con người rất sympathiques, tout pour une noble cause , như cô chẳng hạn, gentile mademoiselle…C’est de quoi nous enorgueillir…”

    Rồi ông bác sĩ Việt kiều còn khuyên cả mấy anh cán bộ …”làm thơ” nữa :

    Phải làm thơ chứ . Kháng chiến Pháp buồn lắm . Paris vẫn yên như không , chẳng có gì là kháng chiến cả . Thế mà những nhà thơ của nó làm như đẹp lắm, to lắm . cả thế giới biết. Huống chi là ta …”

    Tính cách ông này giống một tay bẻm mép, một gã ba hoa, nhiều hơn là một ông đốc tờ. . Ấy thế mà lời “vàng ngọc” đó lại rúng động tâm can anh tự vệ tên Loan, vốn là học sinh đặc sệt tiểu tư sản, “ từ hôm đến đây , Loan đã cho rằng chẳng bao giờ mình còn làm thơ nữa. Cuộc đời sẽ chỉ còn chém giết , là đổ nát, là căm thù , là chết chóc , chẳng có gì là đẹp“,

    ... anh còn cực đoan hơn nữa khi cho rằng :

    ” Mơ mộng gì nữa khi bầu trời Tổ quốc không còn là bình minh của hương sắc mà đục ngầu những hình thù tối đen của mũ đỏ và thổ phỉ…”.

    Những tưởng anh chàng Loan này từ nay sẽ trở thành một chiến sĩ không tim , chỉ biết nhắm mắt cầm súng bắn quân thù, “may thay”, được nghe ông bác sĩ Việt kiều ‘diễn thuyết”, Loan bỗng tỉnh ngộ “ bàng hoàng như người tìm thấy một vật quý tưởng như đã mất…”.

    Mặc dầu sự “giác ngộ” của Loan là đáng ngờ, nhưng ông nhà văn quên khuấy mất “phận sự” nhà văn cách mạng , bởi lẽ vai trò “đả thông tư tưởng” cho cán bộ, nhân dân là thuộc về người của đảng chứ không phải ông bác sĩ Việt kiều. Ông này mặc dầuvề nước tham gia cách mạng nhưng vẫn thuộc “phần tử đáng ngờ “, bởi thế cô cán bộ Oanh phải cử hẳn cô nữ sinh Quyên luôn đi cặp kè để giám sát coi ông bác sĩ có “ tổ chức phá hoại “ nào không ? Ở đây ông nhà văn vô tình đã phản ánh cái bản tính luôn luôn nghi kỵ của đảng, luôn luôn ngờ vực và không tin bất kỳ ai ngay cả khi họ chỉ mang tới những điều tốt đẹp cho xã hội.

    Quả nhiên cô giám sát viên tên Quyên “ đưa mắt nhìn Loan như để bảo bạn không nên tin cái ông bác sĩ . Xui người ta làm thơ là để quên việc chuẩn bị đánh. Đi lang thang ngoài phố là để nghe ngóng tình tình hình. Khen mình giỏi để không ai nghi ngờ nữa…”.

    Đọc tới đây người đọc phải thắc mắc không hiểu đảng giáo dục cách nào mà cô nữ sinh Hà Nội tên Quyên này có được “tính đảng” nhanh quá vậy ? Cô nhìn nhận mọi sự trên đời qua đôi mắt “cảnh giác” của công an. Người ta khuyên nên làm thơ cô lại cho rằng đó là xui dại để quên chiến đấu, người ta đi lang thang phố cô lại nghi rằng đi nghe ngóng tình hình. Cô lại còn tự hào “ giấu thế nào được Quyên. Sắp đánh nhau rồi còn đi mua táo, kháng chiến gì những người này. Lại vẫn còn nói tiếng Pháp, chỉ riêng việc này cũng chứng tỏ rằng lão này nặng tình cảm với địch. Mới ở Pháp về yêu nước làm sao được ?”.

    Than ôi, với “ nữ giám sát viên” như cô nữ sinh Quyên , ông bác sĩ Pha khó sống được với cách mạng, chẳng bao lâu nữa chắc sẽ hối hận đã nghe theo cụ Hồ rủ rê về nước tham gia kháng chiến.

    Rất may “ Sống mãi với Thủ đô” mãi tới năm 1960 mới xuất bản chứ nếu nó ra đời từ năm 1945 là năm cụ Hồ kêu gọi trí thức Việt Nam ở Pháp về nước đóng góp cho cách mạng thì sau khi đọc tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng chắc bà con Việt kiều “bỏ của chạy lấy người” về Pháp.

    Càng gần tới giờ G, giờ nổ súng đánh Pháp, người bận rộn nhất trong hàng ngũ cách mạng phải kể tới ông Liên khu trưởng Liên khu 1 Quốc Vinh. Tất nhiên, ông phải là cộng sản gộc với đầy đủ phẩm chất cán bộ lãnh đạo đảng. Ông xuất thân thợ nhà in đi làm cách mạng.

    “ Hồi bí mật , có nhiều lúc khó khăn, anh bị đói khát, bị truy nã , nhưng việc tuyên truyền , vận động quần chúng thẳng một chiều anh thấy còn dễ . Ngày bị bắt , vấn đề chỉ là cắn răng chịu đựng để không phản bội…”.

    Vậy là cái cương vị Liên khu trưởng Liên khu 1, Nguyễn Huy Tưởng đã đặt một nhân vật đúng khuôn mẫu lý thuyết của cán bộ cộng sản : xuất thân công nhân, đi làm cách mạng, bị địch bắt , bị tra tấn vẫn giữ khí tiết cách mạng. Thế nhưng ở cái ghế lãnh đạo cao nhất một liên khu quan trọng nhất ở Hà Nội, cái ông xuất thân thợ in ấy, rồi xoay xở ra sao ?

    Nhưng bây giờ thì công việc như rừng . Anh chỉ nghĩ chung chung mấy điểm , nắm vững lực lượng đồng chí, dựa vào quần chúng, bồi dưỡng tinh thần kháng chiến quyết tâm diệt địch đến cùng…”.

    Vậy tức là “đồng chí” Liên khu trưởng chẳng cần tới kế hoạch tác chiến, nắm vững tình hình địch ta, chẳng cần suy nghĩ gì về chiến lược chiến thuật, chỉ cần nắm chung chung, nắm các đồng chí và dựa vào quần chúng giáo dục họ tinh thần quyết chiến là... hoàn thành nhiệm vụ. Ta hãy xem ông cán bộ lãnh đạo giải quyết sự vụ hàng ngày :

    “ Đồng chí thư ký đọc từng việc ghi trong sổ :
    Tuyên truyền đang bí bài hát . Đề nghị giải quyết…”
    Có Diệt phát xít , Bao chiến sĩ anh hùng, còn gì nữa…”
    Không đủ ạ…
    Thì có cậu gì mới đến đấy, bảo làm thơ thêm vào…
    Các chị đề nghị hát Suối mơ, Đàn chim Việt…
    Đánh nhau mà lại Suối mơ …”

    Rõ đúng tính cách cán bộ cộng sản, đang dầu sôi lửa bỏng mà vẫn không quên “lãnh đạo toàn diện” cấm đoán cả đến một bài hát. Vậy là ngay khi đảng vừa cầm quyền, những nhạc phẩm bị quy là “nhạc vàng” đã bị bỏ tù dài hạn mãi gần nửa thế kỷ sau vào thời đổi mới lần lượt mới được tha bổng.

    Vào trước ngày toàn quốc kháng chiến, người ta cứ tưởng sau lời hiệu triệu của ông Hồ Chí Minh muôn người sẽ kề vai sát cánh, chung một chiến hào mà đánh giặc Pháp. Sự thực nếu đi sâu vào cơ cấu quyền lực ta sẽ thấy đó chỉ là cái vỏ ngoài, thực chất những người cộng sản nắm quyền lãnh đạo tuyệt đối, thiết lập một ranh giới “trong đảng –ngoài đảng “ trong mọi công việc. Bởi thế ông Uỷ viên quân sự Văn Việt là người ngoài Đảng nên “mù tịt” chẳng biết sẽ đánh đấm ra sao.

    Văn Việt đẩy cửa chạy vào nét mặt hầm hầm . Cái ve áo blu-dông tím của Văn Việt đã đính cái huy hiệu Hồ Chủ tịch mà anh chỉ đeo khi có việc quan trọng hay trong ngày lễ. Văn Việt hỏi :
    “ Ông Quốc Vinh, tôi muốn ông nói rõ cho tôi.”
    “ Cái gì thế, tôi tưởng anh đang bố trí ở hãng Sauvage.
    Quốc Vinh bắt tay Văn Việt có điều không hài lòng. Văn Việt nói :
    “ Chúng ta chủ động đánh nó hay nó đánh ta ? Tối nay , mình hay là nó ? Tôi là uỷ viên quân sự, tôi phải biết chứ ?”

    Ông uỷ viên quân sự nhầm lẫn ở chỗ dù có là uỷ viên trời, nhưng không phải là đảng viên cộng sản thì ông chỉ được biết những gì đảng cho phép thôi. Bởi thế nghe ông Uỷ viên quân sự cằn nhằn , ông cán bộ cộng sản vẫn điềm nhiên :

    Tất cả những điều anh muốn biết rồi anh sẽ biết. Không có điều gì giấu anh cả. Kế hoạch sáng ngày đã bàn rồi, anh cứ làm như thế…”

    Vậy là ông uỷ viên quân sự không phải đảng viên chỉ được phép biết đến đó, cứ theo đó mà làm đừng có đòi cái quyền được cung cấp thông tin như của cán bộ đảng viên khác.

    Văn Việt cau mặt , nhún vai, tay đập mạnh vào bao súng . Lời nghẹn trong cổ:
    “ Được . Các ông bảo làm gì , tôi làm cái ấy . Tôi hoàn toàn chịu quyền chỉ huy của các ông kia mà. Cái kiếp một thằng quần chúng vĩnh viễn là như thế thôi. Nó có được biết cái gì đâu ?”

    Thật đúng là một ví dụ cụ thể và sinh động về việc đảng chiếm đoạt quyền lực của nhân dân từ rất sớm, từ ngay trong những ngày cần thiết phải huy động toàn dân tộc đương đầu với ngoại xâm. “ Cái kiếp một thằng quần chúng vĩnh viễn “ càng về sau càng thê thảm hơn : những giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, Bùi Huy Đáp, Lương Định Của , luật sư Trịnh Đình Thảo, Nguyễn Hữu Thọ…những trí thức “ngoài đảng” chắc sẽ thấm thía hơn ai hết khi đọc đoạn này trong tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng.
    (còn tiếp)

  7. #56
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    Kỳ 11

    Thế rồi cái giờ G., giờ tự vệ Hà Nội nổ súng vào quân đội Pháp cũng đã tới. Vào cái giờ phút long trọng này, ông Liên khu trưởng Quốc Vinh ngồi với chị cán bộ Oanh và nói vào máy điện thoại :

    “ Pháo đài Láng chuẩn bị pháo lệnh kháng chiến…”

    Trong giờ phút tối quan trọng, cần tập trung vào chỉ huy chiến đấu thì ông Liên khu trưởng lại …suy nghĩ về bác Hồ :

    “Quốc Vinh cầm lấy cái ảnh Hồ Chủ tịch đặt trên bàn rồi lại để xuống. Anh chưa được gần người đồng chí già ấy bao giờ. Trừ cái ngày mồng hai tháng chín ấy. . Đứng dưới lễ đài để bảo vệ , anh ngước lên, thấy lẫn với nhiều người, lẫn với cờ và ô, nhà cách mạng lăn lộn khắp năm châu trở về , đen sạm vì nắng mưa và sốt rét , vừa ho vừa đọc bản Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà . Lúc này đây , lãnh tụ đang trông ngóng chờ anh. …”

    Trong các nhà văn của Đảng, Nguyễn Huy Tưởng có lẽ quán quân về “nâng bi lãnh tụ”, chỉ sau Tố Hữu và ngang ngửa với Chế Lan Viên. Sau khi “cơn yêu lãnh tụ” đã qua , ông chỉ huy mới nhớ tới các đồng đội :

    “ Trong cái vắng lặng của một cuộc đời đang thay đổi lớn , anh cảm thấy đất ở dưới chân anh chuyển động. Anh như đang trông thấy , nghe thấy đồng chí và đồng bào tiến sát tới cầu Long Biên , Cửa Đông, Cửa Bắc ; Vi Dân đã chôn bom ở Cửa Nam ; những ống hơi của của Sinh sắp nổ trong lò than của xưởng giặc trong thành ; phủ Bắc bộ đã sẵn sàng , các ô cầu Rền, ô Chợ Dừa, ô Cầu Giấy đang vít chúng nó lại , trường bay Gia Lâm sắp bốc cháy ; xa xa cầu Đuống sắp được chiếm lại, xa nữa Bắc Ninh; xa nữa Huế, Sàigòn đang hướng cả về thủ đô…”

    Bỏ qua cái “lãng mạn không đúng lúc” ông chỉ huy quân sự lúc này lẽ ra phải tập trung hết tinh lực đón tin tức báo về và ứng phó kịp thời, bỏ qua tính cách vô lý đó, người đọc có thể thấy trên mặt trận toàn Hà Nội toàn tự vệ với nhân dân không thấy bóng dáng “bộ đội chính quy “ ở đâu ngoài mấy anh lính người Thượng canh gác Bắc Bộ phủ. Như vậy cho mãi tới 19 tháng 12 năm 1946, lực lượng vũ trang của đảng vẫn còn quá mỏng, bởi thế cuộc giành chính quyền tháng 8 năm 1945 chủ yếu do nhân dân đứng lên trong sự im lặng “bất can thiệp “của cả chục ngàn lính Nhật vẫn còn nguyên vũ khí. Từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội, những người cộng sản dường như đã “tiếp quản” chính quyền từ tay nhân dân mà không đổ một giọt máu và ngay lập tức họ biến nó thành của riêng và dồn hết tâm lực thiết lập chế độ độc quyền lãnh đạo, toàn trị cho tới tận ngày nay.

    Kim đồng hồ vẫn nhích tới giờ G và ông chỉ huy quân sự vẫn miên man trong những suy nghĩ “trừu tượng” tận đẩu tận đâu :

    “Trên con đường tiến lên đạp đổ mọi ngai vàng và xiềng xích , dẫn đến công lý và hạnh phúc , anh đã trông thấy nhiều máu phải chảy ra , nhiều đầu phải rụng xuống . Giờ đã đến mà sự chém giết sẽ dữ dội hơn nữa , đồng bào anh sẽ trải qua những tang tóc lớn lao. Nhưng cách mạng cứ phải đi và cuốn theo nó hàng vạn , hàng triệu con người trong đau thương và trong tin tưởng, đứng dậy, lớn lên…”

    Vậy người cộng sản đã biết trước cái giá phải trả của dân tộc cho cuộc cách mạng mà họ tiến hành. Dẫu rằng “nhiều máu phải chảy ra, nhiều đầu phải rụng xuống” , mặc kệ, “cách mạng cứ phải đi” kéo theo hàng triệu người chết trong đau thương . Có vẻ coi “‘cái chết “ của nhân dân “ nhẹ tựa lông hồng”, mạng sống của con người như con sâu cái kiến, nên những người cộng sản tuyệt nhiên không bao giờ nghĩ rằng liệu còn có con đường nào khác không phải đổ xương đổ máu mà vẫn giành được độc lập tự do cho dân tộc ? Không, họ không bao giờ có ý nghĩ “phản loạn “ thế. Họ coi hàng triệu người nông dân rồi đây sẽ ngã xuống chẳng có mấy ý nghĩa , cái cao hơn hết thảy là sự nghiệp của đảng, là sự tận diệt các đảng phái, các nhóm đối lập chính trị để đảng khư khư độc quyền lãnh đạo – đó mới là cái đích tối cao họ nhằm tới.
    Và rồi “ Phút cuối cùng . Và phút đầu tiên”.

    Quốc Vinh đứng dậy nói to như để bù lại những ngày uất ức :

    “ Tiêu diệt thực dân Pháp…”
    “… Họ ôm choàng lấy nhau trong bóng tối; giữa những tiếng reo ngoài phố khi đèn tắt , tiếng chân chạy ngoài đường và tiếng chó sủa vang. Họ chuyền cho nhau sổ tay để ký dưới ánh sáng lay động của những ngọn nến…”

    Thật không thể hiểu nổi tại sao vào giây phút thành phố bắt đầu vào cơn huỷ diệt , máu bắt đầu chảy, xác người bắt đầu chồng chất vậy mà các vị ‘cán bộ’ này lại trao sổ ký lưu niệm . Ba ông bà cộng sản có khi nào làm cái việc “ tiểu tư sản dở hơi” này đâu, nó chỉ là sản phẩm tưởng tượng của ông nhà văn để tăng thêm chất “tiểu thuyết” cho cuốn truyện vậy thôi.
    Tuy nhiên từ giờ phút này, sau tiếng pháo lệnh của pháo đài Láng, tất cả những người Hà Nội , người cách này, kẻ cách khác, nhưng tất cả đều đã bước vào cuộc chiến tranh mà ít ai ngờ ràng nó kéo dài tới 9 năm nữa.

    Trước tiên là Trần Văn – anh giáo trường tư , quên cả mẹ nơi tản cư mà mơ mộng :

    “Khi xe tăng giặc đến thì mình phải nhảy ra mà ném chai ét xăng cơrếp rồi quăng lựu đạn. Dũng cảm hơn, phải lao vào xe, cầm một khúc gỗ đút vào xích xe cho nó bật ra khỏi bánh…”.


    Ấy thế mà khi tiếng súng toàn quốc kháng chiến nổ ra, Trần Văn lại đang đi …hát cô đầu và ngủ dậy muộn. Thực ra sẽ có những trang tuyệt hay nếu ông nhà văn miêu tả cái cuộc hát cô đầu ấy vào lúc nổ ra tiếng súng toàn quốc kháng chiến. Nhưng ông đã không làm chuyện đó, ông cho Trần Văn tỉnh dậy và chạy thục mạng ra phố.

    “ Vừa nhảy xuống đường hàng Khay , anh vấp ngã , nằm lên một xác người, tay anh mó vào một khúc ruột lầy nhầy. Anh giật bắn người lên, rùng mình và nghẹn cổ…”


    Vậy là Trần Văn thay vì trở thành một dũng sĩ đánh bom ba càng thì lại trở thành một anh chạy trối chết trên đường phố Hà Nội để chứng kiến cuộc chiến đang diễn ra.

    Theo chân nhân vật Trần Văn, tác giả diễn tả cuộc chiến đấu ác liệt của người Hà Nội chống Pháp.

    “ Anh đi trên hè , phút lại lủi vào bờ, ôm lấy thân cây. Bên kia, trước cái bãi ô tô gần nhà bưu điện , lố nhố hai bóng người.Anh định thần thì thấy họ đang lúi húi mỗi người chặt một cây. Một đoàn xe Pháp chạy rầm rộ trên đường hàng Khay bắn lẹt đẹt sang….”

    Cuộc chạy trốn của Trần Văn đưa anh tới Nhà máy điện – ở đây anh chứng kiến bi kịch não lòng của Trinh, người yêu cũ, bỏ anh đi lấy chồng giàu. Hình như cái sự “tham vàng phụ ngãi” gây cho tác giả mối ác cảm ghê gớm lắm nên ông đã cho gia đình Trinh tan nát đứng vào lúc cả hai vợ chồng sắp lên máy bay đi Pháp.

    “ Bao – chồng Trinh đã lấy được vé máy bay để sáng mai cùng đi với vợ chồng viên Giám đốc sang Pháp. …Thế rồi nổ súng , điện tắt. . Vợ chồng Trinh và vợ chồng viên Giám đốc ở trên gác chạy xuống hầm. .Họ còn đứng trước thềm lúng túng trong bóng tối thì tên lính Pháp xồng xộc tới. Bao chỉ kịp thét Trinh ra hầm thì đã bị bắn gục ngay trên thềm….”

    Vậy là tai hoạ đã giáng xuống, chỉ trong nháy mắt gia đình Trinh đã tan vỡ. Đúng lúc này, Trần Văn, người yêu cũ của Trinh đã xuất hiện như một định mệnh để giúp cô qua được những bất hạnh đang đổ ụp xuồng đầu…

    Thấy Trần Văn ẵm giúp con mình , Trinh tưởng rằng “ anh nghĩ về mối tình cũ” với cô nên mới sốt sắng vậy. Nhưng cô đã nhầm ,“đối với mối tình đầu , anh gần như đã nguội lạnh và cho đấy là một thắng lợi lớn của tình cảm...”. Đã xác định tình yêu theo kiểu “ đánh trận” như vậy trách nào chàng chỉ huy tự về chẳng thấy “ trước mặt, Trinh chỉ là một người cơ nhỡ , một nạn nhân của chiến tranh . Nhìn Trinh nhỏ bé trong bóng tối, lảo đảo vì mệt mỏi, khuỵu luôn, trật giày luôn , anh thấy ngậm ngùi thương hại”.

    Vậy chỉ còn thương hại thôi, tình yêu đã chết thật rồi, lòng anh chỉ còn nghĩ tới “anh em sắp gặp”, tức nghĩ tới cuộc chiến đấu thôi.

    Thế rồi anh đưa Trinh và con cô tới nhà cụ Tĩnh Trai , “một tay thích chơi hoa, nhà ở giữa phố, chỉnh tề khăn xếp, cộp cộp giày ban đi ra.

    “ Thế là mừng. Sau cái vụ Yên Ninh, cái vụ Đồng Xuân, tưởng là chết hết. May ra yên được. Tôi đang lo cho cái hoa quỳnh nhà tôi mười hai giờ đêm nay nở, không ai đến xem. Chè bánh sẵn cả . Mời các đồng chí chốc nữa vào chơi. Hoa quỳnh nở là hiếm., lại vào đúng đêm nay. Điềm lành mừng cụ Hồ. Tới cả cho vui nhé.Đúng giờ , chỉ mấy phút nó tàn thôi. Phải xem lúc nó đang nở mới đẹp...”

    Người ta có thể đặt câu hỏi liệu giữa lúc đầu rơi máu chảy, bom đạn dày đặc như đêm mở đầu toàn quốc kháng chiến này, liệu có ai bầy tiệc để mời khách tới coi hoa quỳnh nở chăng ? Quả thực ông nhà văn đã quá đà trong mô tả cái ‘thong dong vào trận’ của người Hà Nội làm người đọc khó mà tin nổi phải đặt dấu hỏi về tính xác thực của nó.
    (còn tiếp)

  8. #57
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    Kỳ 12

    Ở nhà cụ Tĩnh Trai bất ngờ Trần Văn gặp lại đơn vị anh chỉ huy bị lạc sau đêm anh ...đi hát cô đầu và ngủ quên. Mọi người reo lên quây Trần Văn vào giữa . Người nào cũng có vẻ nai nịt như sắp đi đâu. Anh đứng tần ngần thấy mình như xa lạ. Hóa ra không có anh ở nhà cũng chẳng sao. Họ niềm nở, không lạnh lùng như anh tưởng…Mộng Xuân rỉ tai anh :

    “ Đi đánh nhà Sauvage. Thôi, ta nói chuyện sau. Đi thôi, mười một giờ rồi. Các chị đã sửa soạn chờ liên hoan chúng ta thắng trận trở về. Lệnh phải tiêu diệt cho bằng được bọn lính Pháp ở đấy. Thu bằng được toàn bộ vũ khí…Khẩu súng và lựu đạn của anh , chú Lai giữ…”

    Người ta thấy lạ khi đơn vị nhận nhiệm vụ chiến đấu, viên chỉ huy bỏ cả súng đạn ở nhà để đi hát…cô đầu, lạc mất đơn vị, thế mà vẫn không sao, lúc vô tình gặp lại đơn vị anh ta vẫn chỉ huy chiến đấu như không có chuyện gì xảy ra. Vậy kỷ luật chiến trường ở đâu, sắp chiến đấu mà đào nhiệm chắc chắn sẽ phải ra toà án binh lĩnh án tù.

    “ Trần Văn thắt dây súng lục, giắt hai quả lựu đạn của anh. Anh nghĩ sẽ không oán thán gì nếu anh được chết trong trận đánh này để chuộc lại cái hành động đáng tiếc của anh…”

    Và lúc này, lẽ ra phải nắm lại đơn vị để chỉ huy tác chiến, thật đáng ngạc nhiên, Trần Văn lại nhớ tới chuyện đâu đâu. Không phải cô người yêu cũ mà anh bỏ lại, cũng không phải cây hoa quỳnh của cụ Tĩnh Trai sắp nở mà là…” một câu thơ của Victor Huygo đến với anh. Những người đi chết cho Tổ Quốc được quyền có quần chúng đến bên linh cữu mình khấn vái…”

    Lại một áp đặt khiên cưỡng của ông nhà văn lên nhân vật. Cũng may, phút cuối cùng Trần Văn cũng còn nhớ tới người yêu cũ mà anh đang cưu mang, anh cũng chẳng giúp gì được ngoài một câu từ biệt :


    “ Tôi có nhiệm vụ phải đi ngay. Tôi sẽ nhờ ông cụ giữ nhà này để chị tạm nghỉ lại đây đêm nay. Nếu tôi được trở về tôi sẽ thu xếp sau…”

    Chỉ thế thôi, chàng chỉ huy tự vệ bỏ lại cô người yêu cũ với đứa con nhỏ trên tay bơ vơ giữa rừng tên mũi đạn để đi … chiến đấu. Sáng hôm sau Trinh đành phải bế con cùng bà vú xách va li tìm về nhà chồng – nhà Cự Lâm . Khi về gần tới nơi, bà vú bị đạn bắn chết , “ Trinh gục đầu vào cái bọc của con và lịm đi, không dám nhìn xác người vú và cũng không còn thiết gì đến xung quanh…”. Sau cùng nàng cũng ôm con lết được về tới nhà . Bố mẹ chồng đã đi tản cư, còn lại một lũ em đều là dân “ lá ngọc cành vàng” từ bé chưa biết thế nào là gian khổ. Trước hết là Lan, cô em chồng của Trinh. Khi điện tắt, súng nổ“ Lan nấp vào cái khe giữa thành bể cạn và bức tường ngăn với nhà bên cạnh. Cái khe đã có từ ngày Lan còn bé nhưng chưa bao giờ Lan vào đây và cũng chẳng để ý….”

    Lúc súng bắt đầu nổ, “một luồng chớp xanh lẹt. Có tiếng kêu : ” Núp xuống”. Mặt Lan vập vào thành bể và anh kia ngã dúi vào người Lan, như người đi tàu bị giật xô ngã vào nhau. Bỗng anh ta sát lại, hai cánh tay ghì chặt lấy ngực Lan, xoay mặt Lan lại, và hôn Lan. Lan ú ớ trong bóng tối, giãy ra, bất lực , sợ hãi, đê mê trong những vuốt ve điên dại mà Lan vừa muốn chống lại vừa muốn cho kéo dài. Rồi bóng người đàn ông ấy bị đẩy đi, người ta tranh nhau tìm những chỗ núp tốt nhất , chẳng hỏi gì Lan…”

    Trong lúc lộn xộn mọi người tìm chỗ trú ẩn, nếu có ai đó tranh thủ ôm hôn, vuốt ve điên dại cô gái bơ vơ trong hoảng hốt thì kẻ đó chỉ là một gã lưu manh, tranh thủ gỡ gạc và không dễ gì buông tha con mồi một khi đã buông thả. Với một kẻ như vậy , cô tiểu thư con nhà giàu Cự Lâm sống trong nề nếp gia giáo dễ gì trao thân cho gã một cách quá “bản năng” như vậy ? Những tình tiết tưởng như rất tiểu thuyết hoá ra lại đáng ngờ. Em gái của Lan là Hương – xinh đẹp, có vẻ như không sợ bom đạn, tìm sang hàng xóm tập hát. Anh của Lan là Phúc – người yêu của cô cán bộ Oanh. Mặc dầu là công tử con nhà giàu nứt đố đổ vách nhưng Phúc lại là một tự vệ chiến đấu hết sức anh dũng.

    Vậy là cả nhà Cự Lâm – cho dù là tư sản, từ con trai, con gái, dâu, rể đều tham gia chiến đấu hoặc ở lại với thủ đô trong giờ phút hiểm nghèo nhất. Phúc chạy về nhà gặp hai em gái là Lan và Hương , còn người yêu của anh là cô cán bộ Oanh thì bận đi chiến đấu. Một quả đạn rơi trúng nhà giết chết anh lái xe Thịnh và biến ngôi nhà thành cái địa ngục trong nỗi kinh hoàng của mọi người. Nghe tiếng cuốc đào huyệt ngay trong vườn, Trinh sợ chế tkhiếp, cứng người lại , lạnh như mình đang ở giữa một bãi tha ma…Trinh ôm lấy con nhưng tay cứ cứng đờ. Suốt mấy hôm nay, Trinh chỉ thấy những chết là chết..Lù lù những xác chết đưa những cánh tay nghều ngào vồ lấy hai mẹ con Trinh. Trinh ngất đi…

    Trong lúc nhà ông Cự Lâm tràn ngập không khí chết chóc và hoảng loạn, từ ngoài đường đưa vào tiếng loa dõng dạc :

    “ A lô a lô ( Thưa đồng bào yêu quý, Uỷ ban kháng chiến đã thành lập , kêu gọi toàn thể chúng ta đoàn kết, nhất trí, bình tĩnh và gan dạ, quyết tâm diệt địch, ra sức phá hoại để giữ nhà, giữ phố, chống giữ thủ đô đến cùng, xứng đáng với danh hiệu là người của đất ngàn năm lịch sử. Chúng ta hãy thực hiện đầy đủ các khẩu hiệu :” mỗi phố là một mặt trận, mỗi nhà là một pháo đài...”

    Những câu hô hào như vậy cứ trút vào tai dân chúng bất chấp cái Uỷ ban kháng chiến ấy ở đâu ra, do ai bầu nên, cứ nghiễm nhiên là một tổ chức lãnh đạo toàn dân kháng chiến chẳng cần hỏi ý kiến ai. Tuy thế , bất chấp điều đó người dân vẫn xông lên dũng mãnh diệt địch . Như cụ già bố của nữ cán bộ Oanh đã nêu một gương sáng về lòng dũng cảm tới ... đáng ngờ.

    Lúc đó “cả khu phố nhà Thờ sáng rực như ban ngày . Nhà Thờ Lớn sừng sững như hai cái tháp cao ngất đen xạm giữa một hào quang đỏ. Hai chiếc xe tănglồng lộn bò qua cái vườn hoa tròn trước mặt nhà thờ. Tượng đức Mẹ rung lên như trong đám rước. Mọi người lùi lại nhưng ông Lộc đã tiến gần cái xe trước, tay ném lựu đạn miệng hô xung phong. Cái điều mà ai nấy đều lo sợ đã xảy ra. Cái xe sau nhả đạn. Hai tay ôm ngực , chân loạng choạng, ông vẫn gượng đứng và thét to :

    “ Đuổi bắt cái xe tăng...”

    Bị đạn xe tăng bắn vào ngực không tan xác thì chớ, cụ già này còn đứng được và ra lệnh chiến đấu được thì thật...khó tin. Vậy mà còn hơn thế nữa “ông Lộc ngã khuỵu xuống , nhưng vẫn bò đuổi theo, tay phải giơ khẩu súng lục nhằm cái xe sau bắn luôn mấy phát...”.

    Tới mức này người ta đành phải hỏi ông tác giả tiểu thuyết, liệu có cụ già nào bị xe tăng bắn vào ngực còn đủ sức bò theo nó để bắn ...súng lục chăng ? Vậy mà “ông vẫn cứ lết đi, để lạiđằng sau một vết máu dài”.

    Đến khi có người tới đỡ ông đứng lên, “cái áo sơ miphờlanen của ông đỏ lòm máu từ ngực trở xuống”, vậy mà ông vẫn còn nói :


    “ Mặc tôi, chạy đi. Không phải lo cho tôi. Nếu tôi chết thì cũng đã làm tròn nhiệm vụ của tôi đối với phố của chúng ta. Anh đi đi. Để tôi nằm ở đây. Anh có gặp con Oanh nhà tôi thì nói với nó là tôi đã đánh xe tăng như tôi đã hứa với nó. Anh cầm lấy cái súng này và bảo tôi cho nó. Tôi đã cho nó lúcchiều mà nó không nhận...”

    Đây không phải lời lẽ và suy nghĩ của người sắp chết, lúc đó không biết ông già nghĩ gì, có điều chắc chắn không nghĩ về chuyện “đánh xe tăng” với “súng ống“ gửi lại con gái như vậy. Và lạ thay ông còn “lảo đảo đứng dậy, thânhình cao lớn của ông trông ngang tàng với cái ngực nở và hai vai rộng,cánh tay phải giơ lên :

    “ Việt Nam độc lập muôn năm. Hồ chủ tịch...

    Ông ngã xuống, một tảng gỗ cháy từ nóc nhà rơi xuống đè lên ông...”

    Tội nghiệp ông già, lẽ ra ông đã chết toi mạng từ lúc xe tăng bắn nát ngực ông, vậy mà ông nhà văn Nguyễn Huy Tưởng còn bắt ông bò lê theo xe, bắn súng lục vào xe tăng, rồi trối trăng giao súng cho con gái và lại còn hô cả khẩu hiệu “Hồ Chủ tịch...” nữa. Thật là một thứ văn chương tuyên truyền khó tin đến trắng trợn.
    (còn tiếp)
    Last edited by khieman; 06-09-2014 at 05:14 AM.

  9. #58
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    Kỳ 13

    Trong bữa tiệc ngẫu hứng 5 người Hà Nội do Tân tổ chức chiều hôm trước ngày toàn quốc kháng chiến có nhạc sĩ Thu Phong. Trước đây anh này lưu lạc sang Tàu kéo đàn cho tiệm nhảy. Rồi thấy “ở nhà, Pháp khủng bố ở Bắc Ninh, rục rịch chiếm Hải Phòng”, chẳng hiểu sao anh lại “sốt ruột “ tìm về nước. Tác giả không nói rõ, Thu Phong “giác ngộ cách mạng” chưa mà sốt ruột “tham gia cách mạng” quá vậy ? Về nước chẳng bắt mối được với ông cách mạng nào, “Thu Phương ngao ngán , không biết rồi mình sẽ đi đến đâu.. Cuộc đời anh rồi sẽ thế nào ?”.

    Chưa được cách mạng “giácngộ” chẳng hiểu sao Thu Phương đã nhớ ngay lời ...Bác dậy.

    “ Anh mang máng nhớ như đã có ai cho anh biết là Hồ Chủ tịch có nói :” Nước ta là một nước nhượctiểu , phải đánh lâu dài...”.

    Ghê chưa, nghệ sĩ như nhạc sĩ Thu Phương, chứng kiến bao gia đình tan nát, đầu rơi máu chảy, chẳng thấy con tim nghệ sĩ rung động chỉ thấy “ Anh nắm cái bao súng lục và một quả lựu đạn Mỹ còn nguyên vẹn. Từ đây có lẽ không bao giờ anh còn được đánh đàn nữa, mà chỉ còn dùng những thứ vũ khí này...”.

    Quả thực từ cây đàn tới lựu đạn, anh nhạc sĩ đã “nhảy vọt” khiến ta phải hỏi : ”có nhẽ đâu lại thế ?”. Ông nhà văn ép uổng nhân vật chăng ? Thế rồi ngẫu nhiên, ông nhạc sĩ gặp lại ông sinh viên luật Vũ Minh, người cùng dự bữa tiệc “cuối cùng của người Hà Nội “ hôm đó.

    Thế là cả hai ông dắt díu nhau vào “cái sân rộng của một cái nhà Tây. Chen chúc có hàng vài trăm người. Tiếng trẻ con khóc tru tréo. Tiếng đàn bà dỗ con, gắt gỏng. Tiếng phụ nữ léo xéo gọi mẹ gọi anh. Tiếng đại bác nổ rầm, người ta ngã lỏng chỏng như một cái toa tàu bị giật mạnh...”

    Lẽ ra hai ông phải giúp dân chạy loạn, ngược lại “Thu Phong và Vũ Minh xéo bừa lên vai, lên đầu mọi người, mặc cho bà con chửi rủa. Họ trèo tường sang nhà bên cạnh.”.

    Những tưởng hai chiến sĩ tự vệ sẽ lập ổ đề kháng chống Pháp, ai ngờ “lại cái tiếng huỳnh huỵch. Đúng Tây rồi. Tóc gáy hai người dựng đứng cả lên, mồ hôi toát ra đẫm cả sơ mi” khiến họ nghĩ tới chuyện ...tự sát. Thu Phong long trọng :

    “ Đêm nay, đêm nổ súng đầu tiên, có hai thằng thanh niên chưa quen biết nhau bao giờ , mới gặp nhau trong một bữa tiệc mà cũng chẳng biết chủ là ai , hai thằng thanh niên ấy đã thề sống chết với thủ đô, nay nguyện cùng chết để khỏi sa vào tay giặc...”

    Lạ chưa, mới nghe tiếng thằng Tây, tóc gáy đã dựng cả lên mà lại dám chết để khỏi sa vào tay giặc ? Và lại còn ngẫm nghĩ ý nghĩa của cái chết “ Anh không chết bên những gái truỵ lạc,mà bên một anh bạn sinh viên trong trắng. Từ giã cây đàn. Cái chết của hai anh tự vệ Hà Nội sẽ truyền mãi về muôn đời...”

    Dựng nên vụ tự tử của hai thanh niên trí thức Hà Nội phải chăng ông nhà văn muốn truyện phong phú hơn, đặc sắc hơn, nhưng sự vô lý của nó gây phản tác dụng, người đọc mất niềm tin vào sự trung thực của ông, tác phẩm vì thế giảm hẳn giá trị.

    Tất nhiên là Tây không tới và hai người sau đó lại nhận ra rằng :” Sao chúng mình lại chết. Cộng hai đứa mới được hơn bốn mươi tuổi hay hơn một tí chứ nhiều nhặn gì cho cam. Vô lý quá. Mà có gì đâu. Nếu Tây hay thổ phỉ thì nó phải làm ầm lên chứ, sao lại câm như hến thế này ? Vô lý...”.

    Và họ thôi không … tự tử nữa. Đọc tới đây người đọc phải hỏi : đưa ra hai nhân vật nhạc sĩ và sinh viên luật, Nguyễn Huy Tưởng xác định tính cách sao đây ? Có lúc ca ngợi lòng dũng cảm; lại có lúc riễu cợt sự nhát gan. Tính cách không rõ ràng khiến nhân vật mờ nhạt .

    Người ta còn nhớ từ mãi đầu truyện có một chú bé tên Thắng cứ khăng khăng đòi mẹ cho đi theo bộ đội. Từ lúc đó, chú “nhóc” trở thành liên lạc, xông pha đi trước cả tiểu đội.

    “Buổi chiều , Thắng đi liên lạc trở về , thấy tiểu đội nhộn nhịp một cách khác thường. Các anh đang chia nhau những quả lựu đạn tốt nhất và ngồi nhìn nhau hát Tiến quân ca...”

    Khác thường nữa là sau khi anh tiểu đội trưởng cho Thắng cây súng gỗ thì kéo Thắng lại , “ôm lấy Thắng và hôn lấy hôn để. Hôn xong anh quẳng Thắng cho anh khác hôn và Thắng bị quẳng như thế khắp mười mấy lượt anh trong tiểu đội. Thắng chóng cả mặt mũi, cười sặc sụa giữa những tiếng cười trêu ghẹo của các anh...”

    Chưa bao giờ các anh trong tiểu đội vui với Thắng vậy. Rồi sau đó “các anh đứng dậy, giơ tay hô quyết chiến rồi phân chia nhau đi bố trí. “. Hoá ra họ biết trước đã đến giờ G., giờ nổ súng vào quân Pháp. Quả nhiên “ một lúc thì điện tắt và súng nổ đùng đùng. Thắng sợ quá, đái tung toé ra cả ngoài quần, khóc gọi anh Dân...”

    Người ta không hiểu sao giữa nơi mũi tên hòn đạn, “tác giả” không trả Thắng - đứa bé lên 8 tuổi ấy về cho mẹ nó mà cứ khăng khăng đưa nó đi theo tiểu đội chiến đấu , bắt nó xông pha giữa mũi tên hòn đạn chẳng khác gì một chiến binh già giặn : “ Chợt có tiếng ríu rít trên đầu . Một viên đạn đỏ lạc vào như con đom đóm lừ lừ…”.

    Lẽ ra thằng bé conphải “sợ quá , đái cả ra quần, khóc gọi anh Dân “ như lúc tắt đèn vừa mới đây thôi, vậy mà không, mới qua chốc lát, thằng bé bỗng đổi khác , dũng cảm khó ngờ. “Thắng nghĩ :” Sao nó biết mình về đây mà nó bắn ? ”. Thắng kêu :” Chạy đi, các anh ơi, lộ rồi !”. Thắng nằm sấp xuống , nhưng viên đạn đã vập vào tường…”. Lạ thay, viên đạn cắm vập vào tường rồi không hiểu sao lại vẫn “xoay rít, vờn trên người Thắng…Viên đạn xì xì , Thắng chạy tới đâu viên đạn đuổi tới đó…”.

    Sao lại có viên đạn nào “thông minh” đến thế ? Anh tự vệ giải thích :

    “ Đạn lửa đây mà. Nó đang đà, gặp sức cản, nó đứng lại, nhưng nó còn thuốc, nên nó quay như pháo. Có gì đâu ?”

    Lạ thật, đạn gặp sức cản đứng lại rồi …lại quay như pháo chắc là đạn…ma, chỉ có trong tưởng tượng nhà văn. Thế rồi thằng bé con 8 tuổi cầm súng lục gỗ, lưng đeo hai quả lựu đạn thật, khi một anh chàng định bỏ trốn khỏi tiểu đội, nó khăng khăng không cho đi. Anh chàng kia “đút lót” gói kẹo , “Thắng đứng thẳng người , ưỡn ngực, mặt vểnh lên như muốn sinh sự, cái trống bỏi cầm tay kêu tong tong :” Anh vào ngay . Không tôi gọi các anh ấy đấy. “ . Thắng khum ngón tay cái và ngón tay trỏ như cái càng cua, đưa lên miệng, huýt một tiếng còi dài, ra ý như báo hiệu…”

    Thế rồi một anh vệ quốc đoàn đọc hiệu triệu của bác ông Hồ trong “ thứ ánh sáng tôi tối của mùa đông, trong một gian phòng đóng cửa ….Họ đứng lấp kín cả bàn và bộ ghế bành. Bộ đội đều lặc lè lựu đạn, súng không nhiều, có người không có. Anh nào cũng quàng trên áo trấn thủ đường may hình quả trám những ruột tượng gạo như những con rắn trắng cuộn khúc. Họ đứng thế nghiêm , nhìn thẳng, chăm chú nghe lời kêu gọi…”.

    Và rồi chẳng hiểu sao tiểu đội lại xuất hiện cả bà mẹ, con gái, cụ già, thanh niên để tạo nên “quần chúng” đầy đủ nam phụ lão ấu , nín thở nghe đọc lời kêu gọi của lãnh tụ:

    “ Giờ cứu nước đã đến ! Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước. Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng cương quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về ta…”

    Không một ai nghĩ tới nếu phải “hy sinh tới giọt máu cuối cùng” thì cái thắng lợi giành được đó còn có ýnghĩa gì , mang lại cho ai và để làm gì ? Tất cả còn đang thành kính lắng nghe anh vệ quốc đoàn cao giọng :

    “ Kháng chiến thắng lợi muônnăm ! Ngày 20 tháng 12 năm 1946, Hồ Chí Minh…”.

    “ Giọng anh khẽ xuống. Nhưng tên lãnh tụ âm vang lên. Mắt anh đưa đi đưa lại trên những dòng chữ cuối cùng như tìm kiếm một vật gì. Gian phòng im một cách lạ…”

    Cái giỏi của nhà văn trongviệc “nâng bi” lãnh tụ là sau khi nghe đọc xong lời kêu gọi của ông Hồ Chí Minh đám quần chúng không sôi sùng sục máu căm thù xông lên diệt giặc , không lớn tiếng hô khẩu hiệu mà chỉ để một bà mẹ đặt câu hỏi:

    “ Kháng chiến thật rồi ư, thưa đồng chí ?”

    Cái tài nhà văn chỗ này đây, nghe lời “Bác kêu gọi”, một bà mẹ bình thường bỗng thấy tin yêu bác Hồ, tin yêu cách mạng đến độ muốn đứng hẳn vào hàng ngũ cách mạng, trở thành “đồng chí” . Phản ứng “quần chúng” thì vậy, còn lực lượng vũ trang tất nhiên phải nhiệt thành hơn :

    “ Tiếng thét của anh tiểu đội trưởng bé nhỏ lút trong đám chiến sĩ :
    “ Tiêu diệt thực dân Pháp! Hồ Chủ tịch muôn năm…”

    Một anh thanh niên đeo cravate đỏ “ bỗng nhảy lên hô, thúc mọi người hô, quả đấm của anh giơ cao như đe mọi người ; mặt đen nhuốm đỏ như say rượu, mắt điên dại. Anh reo :

    “ Kháng chiến rồi. Toàn quốc kháng chiến rồi. Tôi biết. Tôi biết từ lúc nổ súng kia. Sướng quá! Hồ Chủ tịch đã ra lệnh. Hôm nay tất cả Nam bộ sẽ ăn mừng. Nam bộ không phải chiến đấu một mình nữa…”

    Chiến tranh là chết chóc, nhà sập, gia đình ly tán, thật hiếm có dân tộc nào lại ăn mừng khi nó nổ ra. Hiếm ai lại “sướng quá” khi súng đã nổ. Anh ta là ai vậy ? Hoá ra ông nhà văn muốn đám quần chúng lắng nghe lời Bác sao có đủ ba miền Bắc Trung Nam đã bất ngờ cho một ông miền Nam như đứt giây trên trời rơi xuống :

    “ Anh thanh niên cướp lời :
    “ Đúng, Nam Bộ đây. Tôi ra đây có công tác, vừa mới đến Hà Nội hôm qua. Chưa được gặp Chính phủ, chưa được gặp Hồ Chủ tịch. Nhưng được nghe lời hiệu triệu này thì cũng đã đời rồi. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm…Đúng như ở Nam Bộ. Trời ! Gặp kháng chiến ngay giữa thủ đô !”

    Rồi nhà văn cho anh thanh niên bày tỏ lòng yêu nước theo cách “Nam Bộ” :

    “ Tôi sẽ sống chết ở đây cùng với đồng bào miền Bắc. Tôi đã trông thấy những khẩu hiệu ở đây rồi. Đã lắm! Cho nhập bọn được không ? Không cũng được . Đơn thương độc mã cũng đánh…”
    (còn tiếp)

  10. #59
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    Kỳ 14

    Anh lại bắt tay mọi người. Anh ôm hôn người mẹ. Anh vẫy vẫy tờ hiệu triệu. Anh lại ấp nó vào ngực , toàn thân anh rung rung. Anh khóc rưng rức , mắt đỏ hoe:

    “ Đi lấy đầu mấy thằng Tây nhá. Trời ! Trời, sao Hà Nội nhiều súng thế này ?”
    Anh đến với chiến sĩ này lại đến với chiến sĩ nọ, rối rít, sốt sắng…”

    Thật đúng tính cách anh Hai, yêu nước kiểu nóng sốt, bộc trực người miền Nam theo cách…tưởng tượng của tác giả. Màn hưởng ứng “hiệu triệu của bác Hồ” lúc này mới nổ ra rầm rộ. Tiểu đội trưởng tự vệ phát biểu :

    “ Bây giờ thì tôi đề nghị thế này. Như Hồ Chủ tịch kêu gọi thì toàn dân, toàn quốc đều phải đứng lên kháng chiến. Tất cả chúng ta ở đây đều có nhiệm vụ bảo vệ Thủ đô đến cùng. Chúng ta phải giữ cái phố này…”

    Một ông già mặc quốc phục nói với bà con :

    “ Các đồng chí về đây, chúng tôi rất mừng. Chúng tôi như người được sống lại. Trông thấy các đồng chí như được trông thấy Chính phủ, thấy Cụ Hồ…”

    Tuy nhiên, không phải ai cũng thích được gọi đồng chí; Tân , anh chàng thanh niên Hà Nôi tham sống sợ chết, đã mở tiệc ngẫu hứng 5 người hôm trước, khi được đồng chí cán bộ tên Dân hỏi :

    “ Xin lỗi đồng chí nhé. Thế nào đồng chí ? Đồng chí sẽ kháng chiến ngay tại nhà mình. Không ngại gì cả …”

    …Tân choáng váng hơn là khi nghe tiếng cây đổ ngoài đường. Tai anh trối vì hai cái tiếng mà anh vẫn chế giễu và bây giờ người ta đem ra gọi anh . Cái tiếng ấy sẽ cột cổ anh lại. Anh nói :

    “ Thưa ông, có lẽ ông nhầm . Tôi, đồng chí ?”

    …Dân tới trước mặt Tân, vững như một lực sĩ, khói miệng bay ra như thở khói thuốc lá :

    “ Tôi chỉ muốn được gọi rất nhiều người là đồng chí . Có lẽ khi mọi người đều gọi nhau như thế thì đời đã sướng lắm…”

    Quả thực, cả ông nhà văn Nguyễn Huy Tưởng lẫn nhân vật Dân đều không tưởng tượng 50 năm sau, trong những cuộc họp nội bộ Đảng lôi nhau ra sát phạt, người ta mới lớn tiếng gọi nhau bằng hai tiếng “đồng chí”.

    Trong đám nhân vật của Nguyễn Huy Tưởng, người thích được gọi “đồng chí “ nhất cô nữ sinh Quyên, người được giao theo dõi ông bác sĩ Việt kiều mới về nước. Chỉ mới nghe tin “ một người về báo xe tăng đã húc đổ hàng rào sắt của dinh Chủ tịch, Quyên đã cãi lại anh ta và đuối lý, Quyên khóc. Quyên ghét cái người ấy và coi như Việt gian…”.

    Yêu Hồ Chủ tịch ghê gớm chưa ? Ai mà báo tin Phủ Chủ tịch bị xe Pháp ủi sập hàng rào lập tức kẻ đó là…địch. Tuy nhiên, khả năng xuất sắc của cô nữ sinh Hà Nội này lại là dò xét, theo dõi người khác. Được giao nhiệm vụ “bám sát” ông bác sĩ Việt kiều, lúc tắt điện ông ta kêu : ” Thế này mà mình không biết mua sẵn một cái đèn dầu”.

    Chỉ thế thôi, vậy mà cô báo cáo với tổ chức là “ ông ấy oán Chính phủ mình…”.

    Rồi khi ông bác sĩ giục :” Une lampe, une lampe, mademoiselle*…”, cô ta tức lắm bởi lẽ “ đánh nhau rồi mà vẫn nói tiếng Pháp, có vẻ như…muốn báo hiệu cho nó…”. Tinh thần cảnh giác của cô nữ sinh cán bộ này ghê gớm chưa ? Sắn “máu cá” trong người chắc sau này cô phải làm tới chức…Phó Chủ tịch nước như bà Phó Doan thời bây giờ ...

    Thật khó hiểu vì sao Nguyễn Huy Tưởng mô tả nữ sinh Hà Nội lại cứ biến thành toàn gái “cứng cỏi” đến “sắt đá” như cái cô Quyên chuyên theo dõi ông bác sĩ Việt kiều , như chị Oanh , cán bộ phụ nữ thành.

    Chị Oanh là vợ sắp cưới của con trai nhà buôn Cự Lâm giàu có, là con gái của một ông già cứ khăng khăng đòi “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Trong những ngày ly loạn, các gia đình nháo nhào chạy tản cư, chị ta chẳng ngó ngàng gì tới chồng cũng như gia đình chồng chưa cưới, cũng chẳng lo toan gì cho bố đẻ, mặc kệ hết chị cứ chạy khắp Hà Nội để đi… giết giặc.

    Ông bố chị ta chính là ông già Phùng Gia Lộc, người đuổi theo xe tăng “tay ném lựu đạn miệng hô xung phong. Cái xe sau nhả đạn. Hai tay ôm ngực , chân loạng choạng, ông vẫn gượng đứng và thét to :“ Đuổi bắt cái xe tăng...”. Khi hấp hối, ông vẫn còn đòi “ Anh có gặp con Oanh nhà tôi thì nói với nó tôi đã đánh xe tăng như tôi đã hứa với nó. Anh cầm lấy cây súng này và bảo tôi cho nó. Tôi đã cho nó lúc chiều mà nó không nhận...”.

    Khi khẩu súng của ông bố được đưa tới tận tay, lẽ ra Oanh phải rú lên mà hỏi bố chết rồi ư, vậy mà không, chị ta vẫn tỉnh bơ :

    “ Sao thế ? Chiều hôm qua tôi đã không nhận kia mà…Anh có thể đem về cho cậu tôi được không . Tôi cũng có rồi…”

    Khi người báo tin : “ Cụ mất rồi. Mất trong một trận đánh xe tăng …”, chị ta mới có phản ứng :“đôi lông mày kẻ của Oanh ríu lại. Trống ngực chị đập mạnh” – chỉ thế thôi, không thấy “la hoảng “ gì thêm. Người báo tin lại nhắc ” Cụ mất rồi. Cụ xông ra đánh xe tăng và bị trúng đạn vào ngực. Trước khi mất, cụ đã hô “ Việt Nam độc lập muôn năm”. Cụ nhờ tôi giao lại chị vật kỷ niệm. “.

    Vậy rõ ràng là bố đã chết, chị cán bộ Oanh cũng chỉ :” mím chặt môi, cái cằm hơi lẹm của chị như ngắn lại. Chị cầm lấy khẩu súng , tai văng vẳng lời của bố buổi chiều qua :” cầm lấy súng Oanh. Chị ngắm khẩu súng có khắc tên Phùng Gia Lộc…”

    Thế rồi chắc đau thương làm chị đánh rơi khẩu súng, người khác nhặt lên, chị cũng chỉ nói : “Cám ơn Quyên”. Mặt chị trở lại tự nhiên, Oanh hỏi Thu Phong ( người đưa tin):“ Thưa anh, xác cậu tôi bây giờ ở đâu ?”. Người nhạc sĩ nói dối : “ Chúng tôi đã chôn cất cho cụ rồi…”“ Cám ơn các anh…”. Chỉ thế thôi, không hỏi bố chết thế nào, được chôn ở đâu, đánh dấu ra làm sao mà lại hỏi : ” Phố ta vẫn giữ được chứ ?” Rồi quay sang mấy cô bạn :” Ta đi, các chị đi”. “ Tay Oanh nắm chặt cái nòng súng chìa ra ngoài miệng túi. Đoàn người lặng lẽ tản đi…”

    Ôi mẹ kiếp, đọc đến đây muốn văng tục quá, cái con mụ Oanh này phải chăng là mẫu người “tam vô” của cộng sản.

    Thực ra ông Nguyễn Huy Tưởng muốn tả cái sự nén đau thương để biến nó thành hành động . Tiếc rằng ông đã bắt Oanh “nén chặt” nỗi đau quá khiến chị ta trở thành mụ đàn bà bất hiếu, vô tình, sắt đá, dửng dưng cả với cái chết của bố đẻ để toàn tâm toàn ý” tập trung suy nghĩ và hành động vào việc đánh Pháp.

    Tiêu biểu cho tinh thần toàn tâm đánh giặc phải nói tới đơn vị bảo vệ dinh cụ Hồ :

    “ Phần lớn họ là những đồng chí người Thổ, nhiều người đã tham gia cách mạng từ hồi bí mật, đã xa rừng núi từ ngày khởi nghĩa. Hơn một năm ở Hà Nội, họ chỉ quanh quẩn hoặc ở trong dinh hoặc ở bên phủ. Những người ít nói ít cười và không đòi hỏi. Hơn một chục đồng chí đã nằm xuống để không bao giờ trông thấy xứ sở xanh xanh nữa.”.

    Những người lính gốc dân thiểu số khi chiến đấu cũng như lúc hy sinh ắt phải khác những người lính gốc kinh , tiếc thay ông nhà văn không diễn tả được sự khác biệt đó. Một anh thương binh người dân tộc lúc hấp hối được cấp chỉ huy hỏi han :

    Đồng chí thế nào ?”. Anh thương binh nói, giọng nói của một người còn tỉnh , nhưng đã yếu :“ Báo cáo anh, cũng thường thôi. Ngoài ấy thế nào ?”“ Nó chuẩn bị tấn công. Tôi sẽ cho người đưa đồng chí về trong phố, có quân y.”. Cái đầu lắc lắc một cách nhọc mệt, đôi mắt như cười :“ Không nên. Làm gì còn người. Tôi ở đây. Đem về cũng vô ích. Tôi biết.”Anh ta nghĩ một lúc :“ Tôi được đánh suốt từ chập tối đến giờ , chết cũng sướng.…”

    Chưa nói tới lúc sắp chết làm sao “đôi mắt như cười” được , chưa nói tới khi chết người miền núi thường nhớ về quê hương , bố mẹ, vợ con chứ đâu có còn nghĩ tới … tình hình chiến sự, chỉ riêng một điều tiếng kinh chưa sõi, sao mà lúc hấp hối, anh lính Thổ này nói được lưu loát quá vậy ?

    Một anh lính dân tộc khác khi bị thương “thấy mình khong sống được nữa đã cố gượng bò lên đây để nhìn lại lần cuối cùng cái phòng khách mà Bác Hồ thường hay đi qua…”.

    Có thật khi sắp về với tổ tiên, người lính Tày này đã thu hết sức tàn lực tận chỉ để nhìn cái nơi “bác Hồ qua lại” không ?
    Một anh lính khác lúc sắp chết “cũng nói giọng yếu dần :

    “ Tôi đi đi lính cho Pháp 3 năm. Bây giờ mới biết thế nào là vui. Hồi đảo chính, tôi ở trong thành, Pháp nó chạy như chuột.Đêm ấy buồn quá. Theo nó thì không muốn, trở về thì đồng bào hỏi tội, hàng Nhật thì nhục nữa. Chẳng biết làm gì, chẳng biết đi đâu , tôi cứ ngồi nhắm cái cột đèn trước mặt mà bắn. Lúc ấy sống mà như chết. Bây giờ sướng là được bắn thực dân , không phải bắn cột đèn.Tôi không chắc đã sống được để chiến đấu nữa. Tôi biết.Anh không phải nghĩ ngợi gì về tôi cả . Tơi không ngờ lại được nằm ở dinh Hồ Chú tịch…”

    Dù có là thực hay là bịa, nhưng mô tả 3 cái chết của 3 người lính dân tộc mà giống nhau y hệt, ông nào cũng chỉ nghĩ tới bác Hồ, tới niềm vinh dự được hy sinh cho cách mạng thì đủ thấy khả năng tưởng tượng của ông nhà văn nghèo tới mức nào !

    Thế rồi tới anh chính trị viên đơn vị là Gia Bảo, tuy là người kinh nhưng lúc sắp quyết tử cũng lại được mô tả “nhớ tới bác Hồ” y như mấy anh chiến sĩ người Thượng :

    “ Gia Bảo cũng đưa mắt quanh căn phòng đã đổ nát, nhưng vẫn như phảng phất sự có mặt của Hồ Chủ tịch mới hôm qua còn đến đây làm việc ( thực ra cụ đã lên an toàn khu từ tám đời rồi ) …Anh nhớ những tiếng ho của ông Cụ, nhớ những ngày tàu trắng và bọn Quốc dân đảng làm găng, ông Cụ làm việc không nghỉ, nhưng ăn cơm xong vẫn đi gặp bộ đội nói chuyện…Anh sẽ không rời khỏi nơi này. Trước khi chết anh sẽ không để cho cái dinh này lọt vào tay giặc. Những lời căn dặn của đồng chí Bí thư, đồng chí Khu phó trong buổi Hội nghị hôm qua văng vẳng đưa lại…”
    (còn tiếp)

  11. #60
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo và hết)
    Kỳ 15

    Như vậy đã thành một công thức trong “nghệ thuật xây dựng nhân vật tiểu thuyết” của Nguyễn Huy Tưởng : mọi chiến sĩ, dù là kinh hay thượng, dù là dân thường hay bộ đội, trước khi chết đều nhớ tới bác Hồ và Đảng. Sự thực ra sao chắc chỉ những “người trong cuộc” mới biết, chỉ tiếc họ đã ra người thiên cổ nên chẳng ai kiểm chứng được huyền thoại về những cái chết trong nỗi niềm thương nhớ Bác Đảng mà ông nhà văn đã tô vẽ.

    Một điều khá đặc biệt nữa là hầu hết những người lính của Nguyễn Huy Tưởng đều có “dính dáng” tới cụ Hồ. Thí dụ như Bảo, người lính cuối cùng trong trận chiến đấu bảo vệ Bắc bộ phủ “ là một thợ tiện tập sự của Sở máy nước đá . Ngày cách mạng , Bảo xin đi biểu tình , bố mẹ cấm vì Bảo còn nhỏ.Bảo trốn đi, theo anh em vào cướp dinh và được phát hai quả lựu đạn Nhật, một con dao găm. Một hôm có tin là cụ Hồ ở chiến khu về. Bảo hỏi một người đội viên Thổ “ Hồ Chủ tịch là gì ? “Anh Thổ nói :” là đứng đầu nước, giữ độc lập cho dân…”. Buổi chiều , một ông già áo kaki, dép con hổ, đi với nhiều người vào. Thấy nhiều người hô muôn năm, Bảo cũng hô. Bảo đoán đấy là Hồ Chủ tịch vì anh em đã cho xem ảnh trước…Từ đấy , Bảo yên tâm ở bộ đội…”

    Vậy đó, hình ảnh của cụ Hồ chẳng những ăn sâu trong tâm hồn những người lính của Nguyễn Huy Tưởng mà còn tràn lan trong những trang viết “Sống mãi với Thủ đô”.

    Hầu như tất cả các trận đánh giữa ta và Pháp ở Hà Nội đều được tác giả “Sống mãi với thủ đô” thuật lại. Nhà máy đèn, Bưu điện, Bắc bộ Phủ, Chủ tịch phủ, chợ Đồng Xuân, Nhà thờ lớn…nơi nào cũng có chung một tính chất , hết sức phổ biến là quân dân ta cực kỳ anh dũng, quân địch cực kỳ độc ác và hèn nhát. Tính đơn điệu và một chiều trong những nhân vật tự vệ thủ đô như Trần Văn, Thu Phong, Tân, Bảo, ông già Phùng Gia Lộc…những anh bộ đội người Thượng, những cô nữ sinh Hà Nội như Oanh, Quyên, những người cộng sản như Quốc Vinh , Bí thư…là ở chỗ cho dù họ mang những danh xưng khác nhau, tên tuổi khác nhau, cho dù là nghệ sĩ, trí thức, tư sản, công nhân…nhưng họ giống nhau y hệt như những hạt đậu trong hũ. Cái mẫu số chung đã được quy đồng cho mọi nhân vật đó là sự bỏ quên cá nhân, quên gia đình, quên mọi thứ trên đời để toàn tâm toàn ý tập trung vào đánh giặc và trong lòng người nào cũng có một vị thánh sống là …”bác Hồ”.

    Tuy thế, trong cái bức tranh rực một mầu hồng đó, đôi khi cũng lộ hé cái bệnh “ độc đoán”,”độc quyền lãnh đạo” của những người cộng sản đủ để cho ta thấy song song với việc đánh Pháp, Đảng cộng sản đã ráo riết thâu tóm quyền hành thiết lập chế độ độc đảng ngay từ khi còn trứng nước như thế nào.

    Nguyên ông Uỷ viên quân sự Văn Việt là người ngoài Đảng, chức quan trọng vậy nhưng không được họp nội bộ Đảng, không được biết những tin tức quan trọng, bởi vậy ông Uỷ viên quân sự này vẫn ấm ức về trò lén lén lút lút qua mặt ông của các đồng chí đảng viên. Khi nổ ra cuộc chiến đấu chống Pháp, ông Uỷ viên Văn Việt đưa lực lượng tự vệ tới đánh chiếm nhà Xôva của hãng tàu thuỷ Pháp. Khí thế hăng hái lắm.

    Trong đêm tối, bộ đội và tự vệ vây lấy cái hãng , bắn súng và ném lựu đạn. Giặc không dám bắn ra. Đánh mãi, đánh mãi, đến nửa tiếng đồng hồ. Ta trèo vào trong sân , tiến tới sát cửa , đập cửa ầm ầm. Người ta xông vào trong nhà, hô chiến thắng vang lừng . Người ở dưới nhà chạy lên gác, người trên gác chạy xuống dưới nhà , vào buồng này, sang buồng kia, gọi nhau í ới , ồn ào như vỡ chợ. Xục mãi không tìm được một tên giặc , không thu được một viên đạn….”

    Sao lạ thế ? Quân Pháp đâu hết cả rồi ?

    Thì ra họ đã rút từ tám đời, chi bộ Đảng biết điều đó nhưng lại không thông báo cho Văn Việt, vì anh ta là người ngoài Đảng. Bởi vậy khi có người hỏi :

    Nó rút từ lúc nào ?” Văn Việt buông cả hai tay , cay đắng :”“ Mình là quần chúng, ai cho biết mà chủ động…”

    Vậy đó, dù có là Uỷ viên quân sự đi nữa, nhưng không phải đảng viên thì cũng không được biết những “tin tức nội bộ”. Thực ra ông Uỷ viên muốn “đánh một trận ra trò , tiêu diệt hoàn toàn vị trí Xôva, để cho các ông đoàn thể – tức là Đảng, biết rằng dù bị thành kiến, một thằng quần chúng khi nhận nhiệm vụ , vẫn làm đâu vào đấy, vẫn cừ. Khi biết là đã đánh vào một vị trí không người, anh choáng đi, như bị sét đánh. Anh càng giận Quốc Vinh ( cán bộ Đảng đã dấu không cho biết chuyện Pháp đã rút khỏi nhà Xôva) . Giặc không tiêu diệt được, đoàn thể thành kiến, mất uy tín , không lập được công trong đêm đầu. Anh khóc vì tức vì xấu hổ…” .

    Thế rồi không chịu nổi đồng chí cấp uỷ Đảng chơi xỏ mình, ông Uỷ viên quân sự tìm tới tận trụ sở, xông lên phòng ông chính trị viên, “mặt tối sầm, giọng xẵng, lưỡi như rít lại :

    “ Sao anh không cho tôi biết trước ? Anh coi tôi là người thế nào mà phải giấu tôi ? Tôi là Uỷ viên quân sự để làm vì à?”

    Đồng chí cấp uỷ “ đối với quần chúng bao giờ cũng giữ được cái lễ độ và mềm mỏng cần thiết :

    “ Cứ bình tĩnh, anh ạ. Tôi nghĩ rằng việc thì có cái nói trước, có cái nói sau, người thì có người nói trước, có người nói sau…”

    Ông Uỷ viên quân sự ngoài Đảng tức giận :

    Thế nghĩa là chúng tôi là những người làm thì làm trước, biết thì biết sau chứ gì ? Anh giữ bí mật thế à ?”

    Không kìm nổi tức giận, ông Uỷ viên quân sự ngoài Đảng “ giáng một cái tát vào một má hóp” của ông cán bộ Đảng.

    Nếu là người bình thường thì ông bị ăn tát này đã nhảy xổ ra trả đũa rồi, nhưng ông cán bộ Đảng vốn cáo già về chính trị, ông chỉ “cau trán, loáng một ánh sáng nơi đuôi mắt “ rồi trở lại bình thường ngay :

    “ Bây giờ anh đang nóng. Để một dịp khác ta sẽ nói với nhau về chuyện này. Còn chuyện gì khác nữa không , anh Văn Việt ?”

    Ông cán bộ Đảng mềm mỏng nhưng mà dứt khoát, ông chỉ gọi ông Uỷ viên là “anh” thôi chứ không gọi “ đồng chí” . Vậy là ông ngầm tỏ ý sẽ không tha cho cái “tát hỗn xược “ ấy đâu, nhất định sẽ có ngày ông trả mối nhục này, nhất định sẽ có dịp cho ông “nói lại chuyện này.” Lúc đó ông sẽ phân tích trong cuộc họp nội bộ Đảng rằng quần chúng mà dám giang tay tát cả Đảng thì còn gì là uy tín đoàn thể nữa, đây không chỉ xúc phạm cá nhân mà xúc phạm cả tổ chức. Cánh cửa vào Đảng dành cho ông Uỷ viên quân sự như thế là vĩnh viễn đóng lại. Không phải đảng viên thì ông Uỷ viên quân sự cũng hết hy vọng thăng tiến theo con đường quan lộ, mai mốt leo được cái chức đại đội trưởng cũng là kịch trần rồi.

    Mấy trang cuối cùng của cuốn “ Sống mãi với thủ đô”, Nguyễn Huy Tưởng dành cho “chú bé Gavơrốt Việt Nam “, bé Thắng . Chú bé này mới 8 tuổi đã khăng khăng đòi mẹ theo các anh bộ đội đi đánh tây. Sau một trận đánh, lúc rút kinh nghiệm , bé Thắng cũng đòi … phê bình thủ trưởng :

    “ Thắng đứng dậy, hai tay buông thẳng cứng cỏi như một chiến sĩ. Thắng nhìn thẳng vào Dân – chỉ huy, vênh mặt lên :
    “ Báo cáo đồng chí . Đồng chí có một khuyết điểm . Sao đang chiến đấu , đồng chí lại đẩy tôi xuống hố…”
    Thắng cau trán lườm mọi người, nét mặt nghiêm nghị , mắt quắc lên nhìn Dân bĩu môi . Một chị đẩy chén chè tới trước mặt chú bé. Thắng gạt đi giận dữ. Dân nói :
    “ Tôi thấy đồng chí bò, tôi sợ nó bắn đồng chí nên phải đẩy đồng chí xuống hố. Nhưng đồng chí phê bình thì tôi chịu…”

    Quả thực khó mà tin được một chú bé đang tuổi nhi đồng mà lại hăng hái, coi thường cái chết một cách hỗn xược như vậy. Tính chất “giả” , bịa đặt theo yêu cầu tuyên truyền cứ bàng bạc trong suốt cuốn tiểu thuyết cho tới tận dòng cuối cùng của cuốn sách. Năm 1961 “ Sống mãi với thủ đô” ra mắt bạn đọc, lập tức nó được các nhà văn hàng đầu của cách mạng như Nguyễn Tuân , Nguyễn Khải, Tô Hoài …“bốc “ lên mây xanh dẫu rằng nó được viết theo cảm hứng chủ đạo là ca ngợi một chiều và vì thế nó mang nặng giá trị tuyên truyền hơn là giá trị nghệ thuật.

    Tổng kết về Nguyễn Huy Tưởng, nhà phê bình Phan Cự Đệ đã viết trong cuốn “ Nhà văn Việt Nam 1945-1975” :

    Nội dung tinh thần dân tộc trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng càng ngày càng sâu sắc trên cơ sở lập trường giai cấp được củng cố vững chắc hơn. Anh đã thấy được nội dung của hạt nhân dân tộc là lực lượng đông đảo quần chúng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng…”

    Sáng tác bám sát đường lối của Đảng vậy trách gì Nguyễn Huy Tưởng “Sống mãi trong lòng Hội nhà văn” chứ chẳng phải trong lòng độc giả.
    **
    *
    Nhật Tuấn

Trang 6 / 8 ĐầuĐầu ... 45678 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-31-2014, 12:23 PM
  2. Châu Á "nghiện" thức ăn nhanh hay muốn sành điệu ?
    By duyanh in forum Văn Hóa-Xã Hội-Kinh Tế
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-14-2014, 01:03 PM
  3. Loài cá có "cánh bướm", "chân cua"
    By giahamdzui in forum Animals
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-01-2013, 03:55 AM
  4. Những loài cây "chờ cả đời người" mới ra hoa
    By giahamdzui in forum Chuyện Lạ Đó Đây
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 09-09-2013, 02:33 AM
  5. Đàn ông châu Á thua xa các "anh Tây" khoản việc nhà
    By sophienguyen in forum Xóm Nhỏ Thương Yêu
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 08-05-2013, 04:47 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •