Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Không có đau khổ nào hoàn toàn là đau khổ, cũng như không có niềm vui nào hoàn toàn là niềm vui.
Leon Tolstoi
Trang 8 / 8 ĐầuĐầu ... 678
Results 71 to 73 of 73

Chủ Đề: Chân Dung hay "Chân Tướng" Nhà Văn ?

  1. #1
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết

    Chân Dung hay "Chân Tướng" Nhà Văn ?

    .

    Chân Dung hay "Chân Tướng" Nhà Văn ?
    Nhật Tuấn
    Kỳ 1





    Năm 1992 một sự kiện ầm ĩ nổ ra trong giới xuất bản. Chuyện bắt đầu từ tập thơ “Lên chùa” của nhà thơ Xuân Sách vốn được sáng tác lai rai từ 30 năm trước. Vào một dịp thăm Xuân Sách ở Vũng Tàu, tướng Trần Độ ghi âm Xuân Sách đọc gần 100 bài thơ này. Cuối năm 1992, nhà văn Hoàng Lại Giang lúc đó là Trưởng Chi nhánh NXB Văn Học tại TPHCM được nghe cuốn băng này và đề nghị Xuân Sách cho xuất bản với tên “ CHÂN DUNG NHÀ VĂN”.

    Mặc dầu NXB Văn học đã phải rào trước đón sau trong lời nói đầu :

    Chúng tôi chỉ coi đây là những nét tự trào của giới cầm bút Việt Nam. Cười đấy nhưng cũng tự nhận ra những xót xa, hạn hẹp của chính mình, những gì chưa vượt qua được trên chặng đường quanh co của lịch sử và thời đại. Tự soi mình hoặc hiểu mình thêm qua cái nhìn của người cùng hội, cùng thuyền lắm khi cũng hữu ích. Cái cười trong truyền thống dân gian vốn là vũ khí. Ngày nay còn có thể là sức mạnh thúc đẩy đi tới phía trước.Với ý nghĩ ấy, chúng tôi mong bạn đọc và các nhà văn thông cảm cho những gì bất cập hoặc chưa lột tả được thần thái của từng chân dung.Dù sao đây cũng là 100 bức tranh nhỏ về những người có công trong văn học, những người nổi tiếng trong làng văn, trong bạn đọc, bằng chính những tác phẩm có giá trị của mình. Bạn đọc và thời gian đã là người đánh giá chính thức và công bằng nhất đối với họ. Rất mong độc giả và các nhà văn nhận ra mối chân tình trong cuộc vui của làng văn, và lượng thứ cho những khiếm khuyết. “

    Nhưng khi sách in xong, chưa kịp phát hành, nhà văn Hoàng Lại Giang cho biết :

    ” Phản ứng của nhà văn rất lớn, và đấy là điều tôi không ngờ đến.Những nhà văn lớn có bản lĩnh, họ chịu đựng nổi, im lặng. Nhưng những nhà văn tầm tầm, lồng lộn, rất gay gắt yêu cầu Bộ Văn hóa kiểm điểm và thu hồi.”

    Một cuộc họp của Bộ Văn hóa diễn ra, với năm đại diện: Ba thứ trưởng (Phan Hiền, Huy Cận, và Nông Quốc Chấn), đại diện Hội Nhà văn Vũ Tú Nam, cùng Giám đốc NXB Văn học Lữ Huy Nguyên quyết định không thu hồi nhưng niêm phong số bản in 3000 cuốn. 20 năm sau, cho tới tận bây giờ, số sách này vẫn bị chôn dưới hầm cầu thang chi nhánh NXB Văn Học tại 290/20 Nam kỳ Khới nghĩa Q3 TP HCM, chắc đã làm mồi cho mối.

    Trước hết, hãy nghe nhà thơ Xuân Sách tâm sự về cái “cảm hứng chủ đạo” khi viết tập thơ “Lên chùa” sau đổi thành “Chân dung nhà văn “ :

    “Trước đây khi còn là lính ở địa phương, cái xã hội nhà văn đối với tôi đầy thiêng liêng bí ẩn. Đây là những con người dị biệt rất đáng ngưỡng mộ, rất đáng yêu mến, dường như họ là một siêu tầng lớp trong xã hội. Mỗi cử chỉ, mỗi hành động, lời nói của họ có thể trở thành giai thoại, và cả tật xấu nữa dường như cũng đứng ngoài vòng nhận xét thông thường... Tóm lại đó là thế gìới đầy sức hấp dẫn đối với người say mê văn học và tấp tểnh nuôi mộng viết văn như tôi. “
    Nhưng rồi khi tiếp cận với họ, ông cảm thấy “vỡ mộng “:

    Khi tôi được về Hà Nội vào cơ quan văn nghệ dù là ở quân đội (hoàn cảnh nước ta quân đội có vị trí đặc biệt trong xã hội kể cả lĩnh vực văn chương), tôi bắt đầu đi vào cái thế giới mà trước kia tôi mơ ước.

    Điều tôi nhận ra là, ngoài cái phần tôi hiểu trước đây, thì thế giới nhà văn còn có những chuyện khác. Đó là cái mặt đời thường, cái mặt rất chúng sinh, và chúng cũng góp phần quan trọng làm nên các tác phẩm và tính cách nhà văn…Khi tôi đã tìm hiểu được những ứng xử, những tính cách của những nhà văn, ngoài những tác phẩm mà tôi thường ngưỡng mộ, tôi cứ băn khoăn tự hỏi: ''Sao thế nhỉ, với bề dầy tác phẩm như thế, với vị trí trong xã hội như thế, trong lòng người đọc như thế, sao họ còn ham muốn những thứ phù phiếm đến thế... Một chức vụ, một quyền lực, một chuyến đi nước ngoài... Mà đã ham muốn thì phải mưu mẹo, phải dối trá và nhất là phải sợ hãi'' . Vì vậy chân dung của họ không thể bỏ qua. Hơn nữa, nếu ''Vẽ'' được chính xác những chân dung đó, thì bộ mặt xã hôi thời đại mà họ đang sống cũng qua đó mà hiện lên.”

    Và thế là Xuân Sách đặt bút viết tập thơ “Lên chùa” hàm ý gặp 100 pho tượng tức 100 chân dung ở đó. Nhà thơ Xuân Sách kể lại :

    Hồi đó Hồ Phương đã là tác giả in nhiều tác phẩm đã được giải thưởng các cuộc thi sáng tác văn học. Tôi dùng tên các tập truyện ngắn của anh ''Trên biển lớn''; ''Xóm mới''; ''Cỏ non'' và tên cái truyện đầu tay được nhắc đến: ''Thư Nhà''. Tôi viết bài thơ ra mẩu giấy :

    Trên Biển lớn lênh đênh sóng vỗ
    Ngó trông về xóm mới khuất xa
    Cỏ non nay chắc đã già
    Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem.

    Tôi đưa bài thơ cho Nguyễn Khải. Anh đọc xong trên mặt có thoáng chút ngạc nhiên và nghiêm nghị chứ không cười như tôi chờ đợi. Anh bỏ bài thơ vào túi chứ không chuyển cho người khác. Đến giờ giải lao chúng tôi ra ngồi cạnh gốc cây sấu già, Nguyễn Khải mới đưa bài thơ cho Hồ Phương. Mặt Hồ Phương hơi tái và cặp môi mỏng của anh hơi run, Nguyễn Khải nói như cách sỗ sàng của anh :

    - Thằng này (chỉ tôi) ghê quá, không phải trò đùa nữa rồi !

    Tôi hơi hoảng, nghĩ rằng đó chỉ là trò chơi chữ thông thường. Sau rồi tôi hiểu ngoài cái nghĩa thông thường, bài thơ còn chạm vào tích cách và đánh giá nhà văn. Mà đánh giá nhà văn có gì quan trọng hơn tính cách, và tác phẩm. Bài thơ ngụ ý, Hồ Phương có viết nhiều chăng nữa cũng không vượt được tác phẩm đầu tay và vẫn cứ ''Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem''!

    Bài thơ về Hồ Phương đã trở thành bài đầu tiên mở đường cho vệt thơ “Lên Chùa” trong suốt 30 năm của Xuân Sách.
    Mùa xuân năm Nhâm Thân (1992) ,vào dịp lần đầu tiên xuất bản tập thơ ông phát biểu :

    “ Nói về đồng nghiệp cũng là nói về mình. Cái hay cái dở của một người cũng là của một thời. Câu thơ “Từ thủa tóc xanh đi vỡ đất. Đến bạc đầu sỏi đá chưa thành cơm” đâu chỉ là số phận của một nhà thơ. Hơn ai hết, tôi nghĩ, nhà văn là đại diện của một thời, là lương tri của thời đại. Đã đành là khó ai vượt được thời đại mình đang sống, không dễ nói hết, nói công khai những điều suy nghĩ. Nhưng cũng thật đau lòng và xấu hổ khi những nhà văn bán rẻ lương tâm, còng lưng quỳ gối trước quyền uy, mê muội vì danh lợi. Có lẽ đó là động cơ thúc đẩy tôi viết, nếu có nói quá cũng dễ hiểu. Cái con quỷ ám nếu có thì cũng là ảnh hưởng những cảm xúc ấy, nỗi đau chung ấy. Nhiều nghịch lý vốn tồn tại trong cuộc đời cũng như nghệ thuật. Tiếng cười nhiều khi xuất phát từ nỗi đau ! Những bài thơ chân dung đã có cuộc sống riêng của nó. Không phải kỳ lạ nhưng cũng độc đáo. Nó được lan truyền đến nay đã 30 năm. Đã có nhiều bài ''khảo dị'', nhiều bài ‘’ngoài luồng’’ cũng được gán cho tác giả, bây giờ in ra cũng coi như một sự đính chính. Nó cũng là ''một cái gì đó'', như có người đã nói nên mới tồn tại được, nếu có ích thì tác giả lấy làm mãn nguyện.”

    Và chính với “cảm hứng chủ đạo” có phần thất vọng về phẩm chất nhà văn, tuy Xuân Sách gọi là viết “chân dung” mà thực ra ông đã vạch trần “chân tướng “ nhà văn vậy.

    Ông tên thật là Ngô Xuân Sách, sinh ngày 4-7-1932 tại Trường Giang, Nông Cống, Thanh Hoá. Năm 1960, ông bắt đầu công tác tại tạp chí Văn Nghệ Quân Đội. Từ năm 1981 đến năm 1986, ông làm Phó Giám đốc Nhà xuất bản Hà Nội. Năm 1987, ông chuyển vào làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Bà Rịa – Vũng Tàu đến năm 1997. Đầu năm 2008, nhà thơ Xuân Sách chuyển ra Hà Nội sống với con gái để có điều kiện chữa bệnh suy gan và suy thận. Thế nhưng, do tuổi cao sức yếu, sau mấy ngày nằm ở bệnh viện, khuya ngày 2-6 nhà thơ Xuân Sách đã lặng lẽ từ biệt cõi đời .

    Đọc Xuân Sách trước tiên ta cảm phục lòng dũng cảm của ông. Văn học Việt Nam vào những năm “trời đất nổi cơn gió bụi”, những năm thập kỷ 1970, xã hội còn chìm đắm trong nền kinh tế bao cấp, văn hoá văn nghệ bị “quản lý” đến nghẹt thở vậy mà Xuân Sách cả gan vạch trần chân tướng của tất cả những văn thi sĩ đang cúc cung tận tuỵ hiến dâng tài năng và tâm huyết cho …Đảng, cho chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa”.

    Đầu sổ là nhà thơ Tố Hữu, chủ soái của văn hoá nghệ thuật của Đảng, Xuân Sách vẫn không sợ , vẫn xỏ xiên :

    “Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng
    Mắt trông về tám hướng phía trời xa
    Chân dép lốp bay vào vũ trụ
    Khi trở về ta lại là ta

    Từ ấy tim tôi ngừng tiếng hát
    Trông về Việt Bắc tít mù mây
    Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt
    Máu ở chiến trường, hoa ở đây…”

    Với nhà thơ Chế Lan Viên, thi sĩ “nghĩ trong những điều Đảng nghĩ”, Xuân Sách thằng tay ra đòn :

    Điêu tàn ư ? Chả phải điêu tàn đâu
    Anh đã tính “Vàng Sao” từ độ ấy
    Chim báo bão gió chiều nào che chiều nấy
    Lựa ánh sáng trên đầu mà đổi sắc phù sa

    Trưước 1945, nhà phê bình Hoài Thanh nổi tiếng với cuộc tranh luận “ nghệ thuật vị nghệ thuật , nghệ thuật vị nhân sinh ?”, từ sau cách mạng chỉ còn là một anh hề đồng “ca ngợi cấp trên”, bởi thế Xuân Sách hạ bút :

    “ Vị nghệ thuật nửa đời người
    Nửa đời sau lại vị người cấp trên
    Thi nhân còn một chút duyên
    Lại vò cho nát lại lèn cho đau
    Bình thơ tới thủa bạc đầu
    Vẫn chưa thể tất nổi câu nhân tình
    Tàn canh tỉnh rượu bóng mình cũng tan”

    Nhà văn Nguyễn Tuân trước cách mạng nổi đình đám với “ Vang bóng một thời”, nhưng từ sau cách mạng ông tự tước bỏ gai góc, xù xì để trở thành một nhà văn chỉ “ngợi ca chế độ” :

    Vang bóng một thời đâu dễ quên

    Sông Đà cũng muốn đẩy thuyền lên
    Chén rượu tình rừng cay đắng lắm
    Tờ hoa lại chút lệ ưu phiền”

    Nhà thơ Lưu Trọng Lư, “con nai vàng “ đã thành “vờ ngơ ngác” để leo lên tới chức Vụ trưởng Vụ văn nghệ :

    “ Em không nghe mùa thu
    Mùa thu chỉ có lá
    Em không nghe rừng thu
    Rừng mưa to gió cả
    Em thích nghe mùa Xuân
    Con nai vờ ngơ ngác
    Nó ca bài cải lương…”

    Nhà thơ Huy Cận ngày xưa với “Lửa thiêng", từ sau khi đi theo cách mạng, thơ ông cũng “nói dối” :

    “ Các vị La hán chùa Tây Phương
    Các vị gầy quá còn tôi thì béo
    Năm xưa tôi hát vũ trụ ca
    Bây giờ tôi hát đất nở hoa
    Tôi hát chiến trường như trảy hội
    Đừng nên xấu hổ khi nói dối
    Việc gì mặt ủ với mày chau
    Trời mỗi ngày lại sáng có sao đâu ?”

    Nhà thơ Xuân Diệu ngày xưa có "Thơ thơ", nay thì :

    "Hai đợt sóng dâng, Một khối hồng
    Không làm trôi được chút Phấn thông
    Chao ơi Ngói mới, nhà không mới
    Riêng còn chẳng có, có gì Chung"

    Nhà văn Nguyễn Đình Thi tuy làm quan cách mạng nhưng vẫn viết “con nai đen” ngụ ý xỏ xiên :

    Xung kích tràn lên nước vỡ bờ
    Đã vào lửa đỏ hãy còn mơ
    Bay chi mặt trận trên cao ấy
    Quên chú nai đen vẫn đứng chờ…”

    Nhà văn Tô Hoài chỉ được “con dế mèn” từ thời trước cách mạng, sau đó “tàn phai” trong những tác phẩm viết phục vụ cách mạng :

    Dế mèn lưu lạc mười năm
    Để o chuột phải ôm cầm thuyền ai
    Miền Tây sen đã tàn phai
    Trăng thề một mảnh lạnh ngoài đảo hoang

    Nhà văn Nguyên Hồng nổi tiếng với Bỉ vỏ , đi với cách mạng viết khá nhiều tiểu thuyết “đồ sộ’ về số trang nhưng chẳng mấy giá trị :

    “ Bỉ vỏ một thời oanh liệt nhỉ
    Sóng Gầm sông Lấp mấy ai hay
    Cơn bão đã đến dộng rừng Yên Thế
    Con hổ già uống rươụ giả vờ say…”

    Nhà văn Nguyễn Công Hoan ngày xưa với Kép Tư Bền từ sau cách mạng thì …hết lộc trời, còn lại chỉ viết truyện lăng nhăng :

    “ Bác Kép Tư Bền rõ đến vui
    Bởi còn tranh tối bác nhầm thôi
    Bới trong đống rác nên trời phạt
    Trời phạt chưa xong bác đã cười..”

    Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh ngày xưa nổi tiếng làm thơ bí hiểm với câu thơ “nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm”. Than ôi từ ngày đi theo cách mạng, ông “làm công tác Hội” nhiều hơn làm thơ :

    “ Xưa thơ anh viết không người hiểu
    “Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà”
    Nay anh chưa viết người đã hiểu
    Sắp sáng thì nghe có tiếng gà…”

    Nhà văn Ngô Tất Tố sau cách mạng thời gian cầm bút ngắn ngủi cũng chưa làm nên dấu mốc nào sau “Tắt đèn” :

    “ tại ba thằng mõ cỡ chuyên viên
    Chia xôi chia thịt lại chia quyền
    Việc làng việc nước là như vậy
    Lộn xộn cho nên phải tắt đèn..”

    Cứ như vậy, không chừa một ai, từ những cây đại thụ trong rừng văn chương cách mạng cho tới những thế hệ sau, chỉ bằng một khổ thơ ngắn, bằng những cái tựa sách, Xuân Sách đã tạc nên bức chân dung chân thực hơn bất cứ một luận đề tâng bốc nào của mấy anh phê bình văn học “ăn theo nói leo”.
    (còn tiếp)
    Last edited by khieman; 04-04-2014 at 08:32 PM.

  2. #71
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    .




    NGUYÊN NGỌC
    Kỳ1

    Đất nước đứng lên – Tây Nguyên ngày ấy…

    “ Mấy lần “ Đất nước đứng lên “…
    Đứng lâu phải mỏi cho nên phải nằm…”

    Giới cầm bút trong nước ít ai không biết “ Đất nước đứng lên” là tiểu thuyết của nhà văn Nguyên Ngọc, còn các sinh viên khoa văn Đại học Sư phạm không ai là không biết truyện ngắn “ Trao kiếm” cũng của nhà văn này bởi lẽ nó đã được đưa vào giáo trình giảng dậy.

    Trao kiếm” viết vào những năm đầu thập kỷ 50 vào lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang loang rộng. “ Cụ Cư, 58 tuổi, nghèo xơ xác, chân lại có tật ở một thôn đất cát…” . Vì nhà nghèo, cụ được coi là nòng cốt cách mạng, nhà cụ được chọn để du kích dùng làm nơi “thảo luận tổ” trong khoá học “ du kích gương mẫu của Tỉnh mở”. Từ lúc đó, “cụ ngồi nép một bên phản nghe anh em thảo luận”, rồi mải mê quá, lúc đầu cụ còn ngồi một góc phản, lần lần anh em thảo luận hăng quá, cụ rút một chân lên, rồi rút cả hai chân lên ngồi nghe…”. Cứ như thế, cụ tự biến thành học viên và cũng giơ tay “Tui xin có ý kiến”. Cụ kể rằng năm 1949 giặc đổ bộ lên Tam Quam, cụ nằm dưới hầm nhìn thấy “ 4,5 thằng đi qua, xí lô xí là lia bừa cả súng , giựt nhau một miếng dừa mà ăn…giành nhau trã cá…ngủ bỏ cả súng …tui xin ý kiến là giặc sở hở lắm…”.

    Lính Tây mà giựt nhau cả một miếng dừa, tranh nhau ăn chả cá thì không hiểu “khẩu phần lê dương” của nước Cộng Hoà Pháp thằng nào ăn mất, các vị du kích chẳng cần đánh đấm, cứ ho một cái là địch bỏ chạy, khỏi cần tiến lên chính quy hiện đại. Từ đó cụ Cư biến thành học viên của khoá đào tạo “ du kích gương mẫu” , lên lớp cho tất cả mọi người :

    ” Cuộc kháng chiến của ta là toàn dân, nghèo giàu gì cũng kháng chiến cả, chỉ có số ít nhà giàu chưa giác ngộ …” làm anh em du kích cứ há cả mồm ra nghe. Nắm vững sách lược “đoàn kết toàn dân “vậy, không khéo ông cụ Cư là bác Hồ cải trang chăng ? Nhưng mà không, hàng ngày cụ vẫn đi cuốc đất, luộc khoai, bưng nước cho anh em, chỉ có buổi tối cụ mới tham gia “có ý kiến”. Thế rồi hôm kết thúc lớp học, thật bất ngờ, cụ vào buồng lấy ra một thanh kiếm trao cho một anh du kích:

    ” Ai ? Ai nói không có kiếm giết Tây ?…Cây kiếm này, lần trước nó vô đổ bộ Chợ Cát, sau tôi mới sắm đây. Tôi giữ rất kỹ, thường ngày lau chùi luôn, định chờ địch đổ bộ lên đây lần thứ hai, chặt đứt đầu nó…”.

    Cụ Cư trao kiếm cho du kích còn căn dặn :

    ” Tôi nghèo chớ giàu thì mua cho anh khẩu súng. Anh cứ về, nếu địch lên anh chặt đầu nó cho tôi. Nếu thắng tôi sẽ thưởng anh, nếu đánh không được tôi cũng xuống coi tại sao anh đánh không được ?”.

    Ông lão nhà quê mà ghê chưa , thật đúng là nhân dân ta rất anh hùng ? Nhà nghèo toàn ăn khoai, ngủ đất chẳng hiểu cụ già lấy tiền đâu ra mà sắm hẳn một cây kiếm để chặt đầu Tây?

    Trong chuyện cổ nước ta, có một anh bốc phét rằng :” tôi nhìn thấy một con trâu khổng lồ, liếm một cái hết ba sào mạ…” làm người nghe phải kêu lên :” Không nhẽ lại có thế ?”. Đọc truyện ngắn “Trao kiếm” nghe nhà văn Nguyên Ngọc tả lính Tây, cụ lão nông bỏ tiền mua kiếm, người ta cũng phải tự hỏi :

    ” Có nhẽ đâu thế ?”

    Trong kho tàng văn học cách mạng chống Pháp của Việt Nam, như Giáo sư Phong Lê nhìn lại, “tới “Đất nước đứng lên “ của Nguyên Ngọc thì “bức tranh kháng chiến mới thực sự được mở rộng trong một cảnh quan vừa có chuyện vừa có người, có quê hương và đất nước, có gắn nối giữa chất trữ tình và sử thi, có hài hoà giữa chủ thể và khách thể…”.

    Vậy là trong văn học kháng chiến chống Pháp, tiểu thuyết “ Đất nước đứng lên” của Nguyên Ngọc đứng đầu sổ. Cuốn truyện viết về Tây Nguyên thời chống Pháp, thời đất nước đang đứng lên, còn bây giờ “đứng lâu phải mỏi cho nên phải nằm” như hồi tháng Tư năm nào hàng ngàn người Ba Na, Ê Đê…”đứng lên” đập phá trụ sở Uỷ ban xã, phường… thì hiển nhiên hoàn toàn không có ngay cả trong tưởng tượng của nhà văn Nguyên Ngọc.

    Thời đó, ở làng Kông Hoa gần An Khê có anh chàng Núp cùng đám thanh niên trong buôn nghe già làng bok Sung kể chuyện. Bok kể rằng ngày trước có một ông tên là “ Tú người to lớn, râu lưa thưa, con mắt ướt mà ngó thẳng , trên khố giắt một cái gươm dài. Đất nước mình không có ai có cái gươm đó. Gươm ông Tú không phải gươm thường , đó là một cái gươm giàng , đem ra đánh Pháp, Pháp thua chạy hết. Nhưng có một bữa , trời mưa to gió lớn sấm sét…nước sông Ba lên to, chút nữa ngập hết làng. Ông Tú đem gươm ra múa, đánh mưa gió cứu dân…”

    Thế rồi ông Tú cao hứng, múa gươm vung mạng, chẳng may lưỡi gươm bị văng ra rơi xuống sống, trôi tuột về xuôi, lọt vào tay người kinh. Từ đó “người Kinh giữ cái lưỡi, người Thượng giữ cái cán, hai người ở xa nhau , Pháp tới không có cái gì đánh nên phải thua…Bởi vậy muốn đánh Pháp phải đi tìm người Kinh , chắp lại cái gươm mới đánh thắng…”

    Bài học về đoàn kết Kinh với Thượng như vậy kể cũng ghê, nhưng với đám thanh niên trong buôn nghe xong xem ra lại phản tác dụng vì thằng Pháp là ma là Giàng , không có gươm của Giàng đánh sao được nó ? “ Không khí nhà rông trở nên ồn ào. Người nói Pháp như hòn đá, như cái cây, nó là Giàng. Trên trời nó đi cũng được , dưới nước nó đi cũng được , đánh trúng nó , nó không chảy máu…Ngày trước bok Klăng đánh, nó đem máy bay tới bay trên làng, bok Klăng lấy ná bắn trúng máy bay, cũng không thấy chảy máu, cũng không thấy chết…” .

    Mang tên mà bắn trúng máy bay thì đúng là “thần diệu” hơn cả súng trường hạ máy bay Mỹ sau này. “ Không nhẽ lại có thế ?”

    Nghe chuyện anh chàng Núp tức trong bụng lắm, có thiệt thằng Pháp bắn không chảy máu không ? Phải đi “điều nghiên” coi sao. Anh bèn nói dối mẹ xuống thị trấn An Khê mua muối, nhưng chính là để “Tao đi coi mày cho kỹ, mai mốt phải đánh mày chảy máu mới được…”. Thế rồi đi mấy ngày mới tới An Khê, không thấy ông nhà văn kể Núp làm những chuyện gì, chỉ thấy anh về kể với mẹ :” Con đi coi Pháp cho biết, bữa sau đánh Pháp. Con coi nó kỹ rồi, cái súng nó, cái xe nó, cái tàu bay nó giỏi thật, nhưng con người nó cũng giống con người mình thôi, không phải ông trời. mai mốt con bắn thử xem có chảy máu không ?”

    Hoá ra chàng Núp mới chỉ xuống phố …đứng coi coi súng ống ,tàu bay, tàu bò thôi, người ngợm Tây ra sao cũng chưa biết, vẫn còn phải chờ coi bắn nó có chảy máu không ? Vậy thì nhà văn bắt nhân vật lặn lội từ trên núi cao xuống mãi tận nơi “ ngó lên thấy ông trời đất rộng, núi bốn phía thấp xuống” để làm gì ? Nắm tình hình địch tơ lơ mơ như vậy mà về buôn vẫn hạ quyết tâm tiêu diệt Pháp.

    Thế rồi một hôm “Buổi sáng đi rẫy, bỗng nghe tiếng súng nổ. Thôi, khổ rồi. Pháp đánh tới rồi. Súng nổ xa. Súng nổ gần. Súng nổ nhỏ, rồi súng nổ to..Không còn kịp dọn cái nhà, không kịp bắt con heo, con trâu, không kịp lấy cái áo, cái khố…”. Thế là tất cả buôn chạy dạt lên rừng. Mẹ Núp già nua, yếu đuối vẫn phải cõng em Núp trên lưng, giao cho Núp cõng gùi gạo. Ở gia đình người Thượng, gùi gạo nặng phải trên 50 kí lô, là thực phẩm sống còn, là sinh mạng của cả gia đình. Người con trai trụ cột trong nhà như Núp, khi có biến lẽ ra phải cõng em, gùi gạo, dắt mẹ chạy lên rừng. Nhưng không, anh ta mang gùi gạo…gửi hàng xóm cõng đi, làm “ mẹ ra tới đầu làng, quay lại không thấy Núp đâu , vừa kêu vừa khóc :

    “ Ới Núp ơi, Núp ơi…”

    Núp chạy đến :

    “ Mẹ đi đi, con gởi gùi gạo cho Xíp mang vô núi trước rồi. Con không đi đâu, con ở lại đánh Pháp thử đã. Mẹ đi trước, đánh Pháp chảy máu rồi con đi theo sau…”

    Than ôi, giữa cảnh nhà cháy, người chết, súng ống nổ ầm ầm, thật tội nghiệp cho bà mẹ Núp, có con trai lớn lại bỏ em nhỏ, bỏ mẹ già, bỏ cả miếng ăn của cả nhà để ở lại đánh Pháp. Người anh hùng bất hiếu hay là nhà văn cố tình quên không nhắc tới ? Có thằng con cột trụ trong nhà, lúc biến lại xử sự như thế, nhưng người mẹ vẫn không oán trách, vẫn lo cho nó :

    “ “ Ố ố…một mình con đánh nó không được đâu…”

    Vậy nhưng ông con vẫn bướng bỉnh vẫn như bị “ma ám “ :

    “ Được mẹ ạ. Con đánh thử trước, lũ làng bắt chước sau…”

    Bà mẹ nhìn Núp. Bà biết rằng “ cái miệng người già không nói được thanh niên đâu. ..”. Thế là bà đành chùi nước mắt đi theo lũ làng để con ở lại. Chẳng biết cái anh chàng Núp này căm thù giặc Pháp tới đâu, trong tay chỉ có mỗi cái ná, mà dám một mình ở lại đối chọi với cả đại đội lính Pháp có đầy đủ cả súng ống, mọoc-chi-ê…

    “Có nhẽ đâu thế ?”
    (còn tiếp)

  3. #72
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    Kỳ 2

    Dường như đãng trí , mau quên là cố tật của mấy ông nhà văn lớn. Mới vài trang trước, Nguyên Ngọc kể Núp xuống An Khê gặp cách mạng “ Đi một ngày, ở một đêm, về một ngày….”, trang sau Nguyên Ngọc đã lại cho Núp lang thang cả ban ngày giữa phố An Khê sạch bóng quân thù : “ người nào cũng đổ về chật ních. Núp chỉ thấy toàn đầu tóc đen lố nhố và cờ đỏ . Người kinh cũng đông, người Thượng cũng đông, lần đầu tiên Núp thấy người kinh, người Thượng đi chung với nhau, nắm tay nhau , ào ào như nước sông Ba chảy qua thác, người nào cũng nói, nghe không hiểu gì cả, nhưng vui lắm, thích lắm…”

    Ngày hội cách mạng trong con mắt Núp chỉ có nhiêu đó, riêng bok Hồ thì …chưa có gì .

    Núp cứ nghĩ mãi : bok Hồ là người thế nào ? Sao bok Hồ giỏi thế ?”.

    Rồi ông nhà văn cho chàng Núp ví von :”

    “ Bữa nay nhờ có bok Hồ mới biết đất nước mình rộng quá ( rõ khổ, chàng mới về tới phố An Khê thôi, đã đi được tới đâu) có nhiều con suối quá , nhiều con suối nhỏ, được bok Hồ khơi dòng cho, bây giờ đã chảy chung lại thành con suối lớn, càng ngày càng lớn.Pháp có như một trăm hòn đá lớn giữa dòng sông cũng cứ chảy qua hết…”.

    Hình ảnh rất hay, rất đẹp, chỉ tiếc ông nhà văn quên mất rằng suối nhỏ nào rồi cũng chảy vào suối lớn rồi suối lớn nào cũng phải chảy vào sông mà chẳng cần tới…bok Hồ khơi dòng. Từ một anh dân tộc Ba Na đầu óc hoang sơ, lo lắng ngớ ngẩn” sợ bắn thằng Pháp không chảy máu” bỗng chốc chỉ sau một đêm gặp cách mạng, trí tuệ đã được khai sáng có ngay khả năng trừu tượng hoá, ví von “trước kia làng Núp chống Pháp như dòng suối chảy giữa rừng, nay nhờ bok Hồ khơi dòng…” thì quả thực “ có nhẽ đâu lại thế?”.

    Vậy “ bok Hồ là người thế nào? Sao bok Hồ giỏi thế ?

    Anh chàng Núp nghĩ mãi không ra, sau rồi nhớ tới câu chuyện già làng kể chuyện ông Tú , anh đắc ý :

    Chắc bok Hồ cũng như ông Tú vậy …”. Ông Tú theo già làng là người “to lớn, râu lưa thưa…” thì đúng là bok Hồ rồi. “Khi giặc Pháp tới, ông Tú đem gươm ra đánh Pháp, Pháp thua chạy hết cả…” thì lại càng giống bok Hồ. Nhưng khi mưa gió sấm sét, ông Tú lại mang gươm ra múa, “múa mạnh quá, rớt mất cái lưỡi gươm xuống sông Ba, trong tay chỉ còn cái cán, còn cái lưỡi trôi về dưới xuôi, người Kinh lấy được…” thì lại không được phép giống bok Hồ.

    Bởi lẽ bok Hồ bao giờ cũng sáng suốt, cẩn thận không khi nào bốc đồng múa gươm mạnh đến văng cả lưỡi xuống sông. Mà nếu có lỡ tay, nhất định bok Hồ sẽ đi tìm bằng được lưỡi gươm trả về cho người Ba Na chứ chẳng bao giờ chịu để lọt vào tay người kinh. Ấy là chưa kể không biết lưỡi gươm nặng vầy có trôi được theo sông vượt cả trăm kilômét thác ghềnh để về tới tận dưới xuôi không, hay là vẫn còn mắc dưới đáy sông trên núi. Tuy nhiên đó không phải lỗi của anh chàng Núp, chẳng qua tại nhà văn quên mất tinh thần trách nhiệm cao cả của bok Hồ cũng như quên mất thanh gươm bằng sắt chứ không phải bằng gỗ để có thể nổi lềnh bềnh trên sông đó thôi.

    Sau cùng chàng Núp và dân làng Kông Hoa cũng được gặp bok Hồ, nhưng không phải…” người thiệt , chỉ thấy người trên tờ giấy…”. Đó là vật thể vật chất duy nhất mà cách mạng mang tới cho người dân Ba Na. Vậy mà ông nhà văn cũng để cho lũ làng “tưng bừng chào đón như chào đón mặt trời…”.

    Cái chỗ này cũng là lỗi của ông nhà văn, bởi lẽ dân Ba Na đang đói gạo, đói muối đến thế, cách mạng tiếc gì không gửi kèm vài chục ký lô theo ảnh bok Hồ làm quà cho dân hồ hởi phấn khởi mà cứ để cán bộ tay không trèo lên bản như thế? Đã không cho dân được ký lúa, lại hứa lèo “bộ đội bok Hồ sắp lên” làm dân mỏi mắt “đợi mãi, đợi ,mãi vẫn không thấy bộ đội đâu cả. Đê cán bộ cũng không thấy nữa”.

    Thế rồi cũng tới lúc bộ đội về làng thật , nhưng không phải đoàn quân chiến thắng mang quả thực về cho lũ làng mà là toán người “có khiêng người trúng đạn …Gặp lúc lúa chưa chín không có chi ăn cả. Núp đem cho bộ đội một rổ bắp. Lũ làng bắt chước đem cho rất nhiều. Bộ đội không ai biết nói tiếng Ba Na. Chỉ chào rồi đi ngay…”.

    Chưa giúp được dân cái gì mà đã nhiễu dân đang túng đói thế này, bác Hồ mà biết tất các chú bộ đội phải kỷ luật. Buồn cười nhất là ông nhà văn tả tình quân dân “ có bộ đội bị trúng đạn phải khiêng. Người đó không nói được, nhưng không khóc.Chỉ có các bà mẹ Kông Hoa khóc, sợ người đó đau…”. Hi hi, chồng chả phải, con trai thì không, thấy người lạ hoắc , lần đầu tiên khiêng qua làng mà các mẹ lại…khóc được mới tài.

    Pháp chiếm An Khê và các vùng xung quanh. Cán bộ cũng trốn mất hút luôn. Dân Kông Hoa lại “chờ hết một mùa lúa nữa mới có đê cán bộ của bok Hồ lên”. Anh cán bộ người kinh tên Cầm này cũng tay không lên bản và…kể chuyện bok Hồ :

    ” Bok Hồ chống Pháp từ khi còn nhỏ, cũng bị Pháp bỏ tù. Sau trốn ra được , đi khắp đất nước bày đất nước đứng lên chống Pháp, chống Nhật…”.

    Í trời, chỗ này ông nhà văn quên cả tiểu sử Hồ Chủ tịch. Chẳng lẽ hồi đó Pháp bỏ tù bác ở…ngõ Compoint, thủ đô Paris bắt làm nghề thợ ảnh ? Rồi lại từ đó trốn ra bày cho dân “chống Pháp, chống Nhật”. “Đất nước đứng lên” là tiểu thuyết lớn nhất thời chống Pháp, lầm lẫn lớn thế mà bao năm Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng không phát hiện ra để cải chính thì thật đúng là “cơm chúa múa tối ngày”.

    Từ ngày có cán bộ Cầm ở bản, tinh thần chống Pháp của lũ làng lên cao hẳn, cao nhất phải kể đến…bà mẹ của Núp. Một hôm Núp dẫn bộ đội đi đánh đồn Pháp, chạy về khoe mẹ :

    “Mẹ ơi, Pháp chết mười lăm đứa…”

    Thế là Mẹ Núp, giận luôn trong hai ngày ? Vì sao thế ? Nghe tin Pháp chết phải vui mừng chớ sao lại giận Núp ? Sau này Mẹ mới giải thích :

    “Mày thương Pháp lắm sao? Mẹ có hỏi mày Pháp chết mấy đâu . Chết mấy đứa kệ Pháp, nó chết hết cũng được…Sao bộ đội chết mấy người mày không nói, mày thương Pháp hơn bộ đội rồi…”

    Oái trời, Mẹ thương bộ đội thì Mẹ chỉ cần hỏi :” Thế ta chết mấy người ?” là…xong. Ép uổng Mẹ giận con những…hai ngày liền làm gì cho rắc rối cuộc đời ? Chắc ông nhà văn muốn xây dựng tính cách nhân vật cho “phong phú và đa dạng” đây mà. Chỉ tiếc, cảm hứng ca ngợi người dân tộc quá đà gây nên những cái “lỗi chính tả” như thế nhan nhản trong truyện làm người đọc cứ ngờ ngợ : ” có nhẽ đâu thế?” .

    Anh cán bộ Cầm và bộ đội ở bản ít ngày rồi lại rút đi, để Kông Hoa lại rơi vào thảm cảnh.

    Nắng như cầm lửa đổ xuống. Dưới suối nước trốn gần hết, dân phải dỡ từng hòn đá ra mới tìm được nước. Rẫy muốn cháy. Cây lúa thấp lè tè, hột cứng ít, lép nhiều…”.

    Kinh hoàng hơn cả là cái đói ….muối.

    “ Con nít khóc kêu mẹ :” Mẹ ơi, mẹ ơi, cho con cái mặn…”. Nước da người nào cũng tái lét , bủng rẹt. Hai ông già không có muối ăn, thở không nổi, rồi chết…”

    Trong cơn hoạn nạn, ông Chủ tịch Pok Pa và chỉ huy Núp muốn cứu dân thì chỉ việc cho phép lũ làng xuống phố An Khê làm thuê lấy tiền mua muối, đong gạo là vượt qua được mọi chuyện. Nhưng không, Núp khăng khăng ngăn không cho về :

    Không được đâu.. Về càng chết…Thà chết thôi..”.

    Ấy đấy, mới nho nhoe lên làm lãnh đạo, anh hùng Núp đã coi mạng người như cỏ rác ? Viết tới đây chắc ông nhà văn cũng cảm thấy cái lý do “ không cho dân xuống phố An Khê mua muối” là không được…chính đáng lắm, ông bèn cho mấy người trốn xuống núi và vài hôm sau họ trở về khóc to :

    “ Pháp lấy dao cắt lỗ mũi, cắt lỗ tai, chặt tay, chết hết bốn người rồi, ba người sợ quá trốn về đây…”

    Ôi chao ôi, Pháp nào mà ngu quá, bỏ công bỏ sức ra vận động người Thượng về với mình ; khi dân trở về lẽ ra phải mở rộng cửa mà đón vào, tặng gạo muối chớ ai lại đi cắt tai, xẻo mũi , chặt chân … thì thực là chuyện chỉ có trong…tưởng tượng của ông nhà văn.

    Bịa ra cái lý do “ đầy thuyết phục “ ấy rồi, từ nay tác giả tha hồ “nhốt “ dân Ba Na trên làng Kông Hoa để “xây căn cứ địa” chống Pháp bất chấp nạn đói đủ thứ. Tuy nhiên, sức chịu đựng của con người xem ra cũng còn có giới hạn, khi chỉ huy Núp kêu gọi mọi người bỏ làng lên núi cao lập làng mới để chống Pháp cho chắc ăn bị bà con phản đối :

    “Không có muối ăn làm sao ? Chân Núp thanh niên khoẻ, Núp leo núi được. Chân tôi không có muối, không biết leo núi đâu.. Ở đây không đi đâu cả. Đấy con nít đấy, đem nó lên núi, chết trên đó, chôn trên đó à…”.

    Phản đối thì phản đối, nhưng Núp nhớ lời anh Cầm dậy :” Mình phải đứng dậy cầm giáo mác, cung tên đánh lại Pháp mới lấy lại đất nước được…”. Bởi vậy dân đói cơm đói muối, con nít chết…mặc kệ, cứ phải là “lấy lại đất nước cái đã”, Núp quyết định cứ chuyển hết làng lên núi bất chấp “ bốn phía tiếng con nít đòi muối khóc ồn ào, tiếng bà già ông già chửi người xui bậy , tiếng thanh niên phản đối Núp nói to. Giải tán hết. Mỗi người đi một ngả…”

    Lúc này mới thấy cái bản tính sắt đá, kiên quyết mục tiêu cách mạng dẫu hy sinh tính mạng của dân cũng cứ mặc kệ mà đê cán bộ Cầm gieo vào tâm hồn anh thanh niên người Thượng nay đã sớm đơm hoa kết trái, bám chắc vào cái đầu vốn nguyên sơ trong trẻo như nước suối đầu nguồn của anh ta. Thế là anh quyết không chịu nhân nhượng dân làng mà đi từng nhà vận động :

    “ An tro tranh thay muối khổ lắm. Tôi cũng biết khổ. Nhưng ăn tro tranh khổ một đời mình thôi. Còn ăn muối của Pháp khổ hết đời mình, đời con mình khổ nữa , đời cháu mình khổ nữa…”

    Kỳ lạ thay , cái triết lý “ sống cho tương lai”, “sống là để sửa soạn sống cho mai sau ” – cốt lõi của nhân sinh quan cộng sản chẳng hiểu đã thấm sâu vào anh thanh niên Thượng này từ bao giờ mà anh “vận dụng” xuất sắc đến như vậy ?

    (còn nữa)

  4. #73
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    Kỳ 3 và hết


    Ngay khi cán bộ còn chưa mang “ cái ánh sáng của Đảng “ tới cho lũ làng, chẳng hiểu sao, anh chàng Núp đã đứng lên kêu gọi vanh vách :

    ”Đánh đến khi hơn Pháp, hết Pháp ở đất nước mình mới thôi. Đánh đời mình chưa xong, thì đánh đến đời con, đời cháu mình nữa…”.

    Ôi chao, cán bộ cao cấp cỡ Uỷ viên Trung ương Đảng ra lời kêu gọi toàn dân trường kỳ kháng chiến chắc cũng chỉ hùng hồn bằng anh thanh niên người Thượng này. Với tinh thần đó, quyết không chịu sống trong vùng tạm chiếm, Núp kéo luôn cả bản Kông Hoa chạy tuốt lên núi cao lập làng “tự do” thiếu gạo, ăn tro thay muối, khoác vỏ cây thay quần áo, thiếu cả rìu dựa bằng sắt phải thay bằng đá để chặt cây, phá rừng dựng nhà làm rẫy.

    Có ai chặt được cây lớn bằng đá không ? Có đấy, ông nhà văn kể :

    ” Đêm nay Núp phải ngả cho được cây này . Núp lại ôm hòn đá, lấy sức bửa vào gốc cây, hai cái, ba cái …làm mãi, làm mãi không nghỉ . Cho đến khi con gà thức giấc kêu ò ó o. Núp leo lên ngọn cây , cột một sợi dây rừng rồi ra sức kéo. Cây gẫy răng rắc, đổ ào xuống…”.

    Ngày nay nếu trở lại Tây Nguyên, ông Nguyên Ngọc thử treo giải thưởng trăm triệu đồng cho anh thanh niên nào khoẻ nhất làng dùng hòn đá trong có một đêm mà chặt được cây lớn “gẫy răng rắc” thì mới thật là không…bốc phét.
    Suốt ba năm 90 con người làng Kông Hoa sống trong khổ cực vậy để làm gì ?

    Xin thưa rằng chỉ là để…”…chờ bộ đội Bok Hồ, chờ anh Cầm, dài không biết bao nhiêu. Hòn đá dưới suối Đất Hoa trước kia nhọn, bây giờ nước đã mài tròn cả đầu nó rồi. Chín mươi người vẫn lầm lì đi theo Núp”.

    Sống cả ngàn ngày như trong thời đại đồ đá vậy mà không mong ăn no, không cầu mặc ấm mà lại chỉ “mong mãi lưỡi gươm ông Tú, mong mãi người Kinh, người của Bok Hồ lên” thì lũ làng Kông Hoa quả thực là mắc bệnh tâm thần cả rồi.
    Ấy thế nhưng chờ đợi trong khổ cực, mỏi mòn vậy mà cách mạng cũng vẫn chưa chịu lên cho, sau cùng anh chàng Núp đành phải tự mình đi tới rừng Ba Lang tìm gặp cán bộ chứ còn biết chờ tới bao giờ ?

    Không thấy tác giả kể cuộc gặp gỡ ấy ra sao, chỉ thấy Núp “đi gặp người Kinh “ về khoe với cả làng :

    ” Ô…người kinh này tốt lắm. Con mắt hiền lành đen lắm. Ít nói…Cái áo màu đen, thường thôi, không đẹp đâu. Đi dép làm bằng bánh xe lấy được của Pháp…”.

    Cũng giống như lần trước đi gặp cách mạng về, Núp chẳng mang được nắm gạo, hạt muối nào về, lại vẫn chỉ những câu chuyện về bok Hồ.

    “Thế bok Hồ ở đâu ?”- lũ làng hỏi.
    Núp nhìn quanh , suy nghĩ, rồi đứng dậy đi ra cửa quay về phía ông sao giống cái bánh lái của người Kinh , đưa tay chỉ vào đêm tối mờ mịt:
    “ Bok Hồ ở phía này…”
    Tất cả đều ra cửa nhìn. Ong sao bảy cái nhấp nhánh và rất sáng.
    “ Bok Hồ ở phía này”
    “ Phía này có một ông sao quanh năm không bao giờ thay đổi chỗ ở. Sáu ông sao lớn chạy quanh ông sao đó…”

    Ông sao đó chính là bok Hồ “ không bao giờ lặn nữa trong lòng đồng bào Kông Hoa.” Ghê chưa, một phát hiện thiên văn học vĩ đại, “ông sao 7 cái “ thì đúng là “đại hùng tinh rồi”, nhưng tìm đâu ra “một ông sao quanh năm không đổi chỗ” và lại có những “sáu ông sao lớn chạy quanh” để tượng trưng cho bok Hồ ?

    Lỗi kiến thức này không thuộc anh thanh niên người Thượng mà chính do tác giả đã nhét vào đầu anh ta. Vả lại, hình ảnh “ngôi sao dẫn đường” chỉ dành nói về đảng thôi , còn nói về bác thì phải dùng hình ảnh “cha già dân tộc” kìa, vậy mới đúng là kiểu nói chính thống.

    Nói chuyện bok Hồ xong rồi, tất nhiên phải nói tới chuyện…đảng. Chuyện này “trừu tượng” chứ không cụ thể như chuyện bok Hồ, làm sao nhét được vào đầu anh thanh niên “bán khai” đây ? Cái sự “giác ngộ về Đảng “ cho người dân tộc này xem ra khó quá, nên tác giả đành lờ đi cái quá trình mà chỉ trình bầy cái kết quả.

    Anh cán bộ Thế nói :
    “ Người mình đánh Pháp cứ thua mãi, thua mãi. Cho đến khi có Đảng chỉ huy mới thắng được tới bây giờ. Đánh Pháp ngày nay là do Đảng chỉ cho đấy…”
    “ Ô…thế Đảng là Bok Hồ phải không ?”
    “ Bok Hồ cũng là người Đảng đấy. Nhưng còn nhiều người Đảng khác…Ai người nghèo khổ , căm thù Pháp, căm thù người bóc lột , làm ăn tốt…người đó là người Đảng…”

    Chỉ có thế thôi, anh chàng Núp đã “giác ngộ Đảng “ rồi .

    “ Suốt đêm đó Núp không ngủ. Chung quanh thấy toàn sao là sao…”.

    Vậy là “mặt trời chân lý” đã “chói qua tim” anh người Thượng, thức trắng đêm là phải rồi, thật chẳng bù cho mấy anh trí thức, học đi học lại mãi mấy kỳ chỉnh huấn mà vẫn tơ lơ mơ chưa hiểu Đảng là gì.

    Thế rồi sau “ gần bốn năm sương mặn của núi Chư Lây đã làm đen sạm hết chín mươi khuôn mặt lũ làng. Gần bốn năm nay , chưa một ngày nào chín mươi người đó được ăn đủ no, đủ mặn. Thịt trong người teo lại. Má hóp xuống…”, sau cùng anh Thế, người của Đảng cũng đã trèo lên bản mang theo…9 cái rìu rựa để tặng lũ làng. Oi chao ôi, quà của bok Hồ chỉ có bấy nhiêu thôi, mà già làng đã “ múa tay, trợn tròn hai con mắt” :

    “ Bok Hồ gửi anh Thế mang lên cho bốn cái rựa, năm cái rìu …ô cái nào cũng mới tinh cả, sáng như là ông trăng, như thế cũng bằng cho người Kông Hoa…mấy cái ?Hai cái à…cũng chưa phải đâu…ba bốn năm sáu bảy…một trăm cái tay đấy…hà hà hà…”

    Anh chàng Núp cũng cầm cả 9 cái rìu rựa đưa lên cao mà rằng :

    “ Bây giờ có anh Thế mang rìu rựa của người kinh, của bok Hồ gửi cho mình đây, mình càng làm rẫy giỏi nữa , ăn no nữa, nhất định thằng Pháp phải chết trước mình…”

    Chỉ mất có 4 con dao và 5 cái rìu mà đã lôi kéo được cả làng người Thượng đi theo cách mạng, đánh Pháp đến cùng thì “công tác vận đồng quần chúng trong các dân tộc ít người” quả thực là quá…dễ . Viết như thế, người Pháp đọc được chắc phải tiếc hùi hụi vì đã bỏ ra biết bao tiền của cho các sắc tộc Tây Nguyên mà vẫn bị họ căm thù, đánh cho tơi tả thì là sao ? Ở đây ông nhà văn không muốn vạch ra cái “bí kíp” của cách mạng đó, chắc là sợ người Pháp học được dùng nó lôi kéo lại người Thượng thì rầy rà hay là trong thực tế chuyện giác ngộ đảng cho anh thanh niên dân tộc không diễn ra xuôi xẻ như ông nhà văn tưởng tượng khiến ông phải làm qua loa chiếu lệ vậy thôi.

    Cảm hứng ca ngợi quá đà tình cảm “Kinh-Thượng” cũng đã đưa ngòi bút Nguyên Ngọc diễn tả một thằng bé người Thượng lưu luyến anh cán bộ người Kinh chỉ về huyện họp có dăm ngày đến mức…lố bịch :

    “Bữa nay anh Thế về huyện. Nó ngồi trông mãi . Tay nó cầm sợi dây có cột nhiều gút. Anh Thế hẹn đi về huyện năm ngày thì trở lên. Mỗi ngày thằng Ngứt thắt một gút trên sợi dây . Sáng nay ngủ dậy , nó đem ra đếm , thấy đã đủ năm gút, nó ra ngồi chờ mãi, sao anh Thế không thấy lên ? Nó ngồi trên ngưỡng cửa , ai hỏi gì cũng không nói, chị Liêu đi ra rẫy cũng không đi theo, con mắt cứ ngó chăm chăm phía suối Đất Hoa…”

    Ôi chao, cái thứ nhớ nhung “bổi hổi bồi hồi, như đứng đống lửa như ngồi đống rơm “ thế này là thứ tình cảm trai gái đang yêu, ông nhà văn nỡ lòng nào nhồi nhét cho một thằng con nít người Thượng đang tuổi ham chơi ?

    Cứ phải chịu đựng một thứ cảm hứng “ca ngợi quá đà” như thế, người đọc kiên nhẫn lắm mới theo được Nguyên Ngọc dẫn dắt câu chuyện anh chàng Núp đi vận động các làng xung quanh : Đê ta, Đê ô, Đê mô, Đê lanh, Kông giàng…đi theo cái làng Kông hoa của anh đứng dậy đánh Pháp. Rồi Núp vào đảng, Núp thành cán bộ xã, cán bộ huyện, thành Chiến sĩ thi đua, thành Anh hùng Quân đội…và đi ra Bắc tập kết để tiếp tục đánh Mỹ- Diệm và được gặp bok Hồ.

    Anh chàng Núp và mọi nhân vật trong “ Đất nước đứng lên” được vẽ bằng toàn một mầu hồng đỏ chói không mảy may gợn một chút bụi trần của con người phàm tục. Đó toàn là những con người “ nghe theo người Kinh” cam chịu đóng đanh trên cây thập giá của chiến tranh với nỗi ham muốn tột bực chỉ là đánh Pháp . Nguyên Ngọc đã nhào nặn tuốt luốt những con người Thượng nhỏ bé, đầu óc giản đơn , chất phác , sống hoà hợp với thiên nhiên thành những kẻ say máu, chém giết bằng những vũ khí dã man như tên độc, chông đất, chông trời…và đưa họ vào bảng phong thần thành những thánh nhân của cách mạng.

    Tại sao vậy ? Đó là vì :

    “Tháng 8-1955, tôi được triệu tập về trại sáng tác về Anh hùng Quân đội , ở đây tôi được phân công viết về đồng chí Núp. Tôi viết “Đất nước đứng lên “trong dịp ấy, trong sách đó , tôi gửi tất cả những mong ước ca ngợi những người anh hùng Tây Nguyên mà từ trước đến nay tôi chưa thực hiện được qua mấy lần thất bại…”

    ( Nguyên Ngọc – Thư gửi ngày 9-11-1960 cho Tổ văn học hiện đại Trường đại học Tổng hợp Hà Nội)

    Vậy là đã rõ, “Đất nước đứng lên” được viết trong “trại sáng tác về anh hùng quân đội, chỉ nhằm ca ngợi những người anh hùng chứ không nhằm phản ánh hiện thực các sắc tộc Tây Nguyên trong những năm chiến tranh của thập kỷ 1950. Và bởi mục tiêu rõ ràng và rành mạch như vậy nên bức tranh mà Nguyên Ngọc dựng lên trong suốt hơn 200 trang giấy còn lâu lắm mới tiếp cận tới những sự thực dữ dội của đời sống người Thượng trên cao nguyên.

    Và như vậy, suy cho cùng, “Đất nước đứng lên “ cũng chỉ thuộc loại sách “Người tốt việc tốt” dùng để giáo dục chính trị tư tưởng trong một thời kỳ lịch sử đã qua.
    NT

Trang 8 / 8 ĐầuĐầu ... 678

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-31-2014, 12:23 PM
  2. Châu Á "nghiện" thức ăn nhanh hay muốn sành điệu ?
    By duyanh in forum Văn Hóa-Xã Hội-Kinh Tế
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-14-2014, 01:03 PM
  3. Loài cá có "cánh bướm", "chân cua"
    By giahamdzui in forum Animals
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-01-2013, 03:55 AM
  4. Những loài cây "chờ cả đời người" mới ra hoa
    By giahamdzui in forum Chuyện Lạ Đó Đây
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 09-09-2013, 02:33 AM
  5. Đàn ông châu Á thua xa các "anh Tây" khoản việc nhà
    By sophienguyen in forum Xóm Nhỏ Thương Yêu
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 08-05-2013, 04:47 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •