Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “* Muốn hiểu thế nào là Tình Yêu và Hạnh Phúc, phải biết sống cho kẻ khác, nghĩa là phải biết yêu
Godwin
Trang 1 / 2 12 Cuối Cuối
Results 1 to 10 of 19

Chủ Đề: Kim Các Tự - Yukio Mishima viết

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    03 Rose

    Kim Các Tự ( Kinkakuji )
    Yukio - Mishima

    Dịch giả : Đỗ Khánh Hoan và Nguyễn Tường Minh




    Chương 1
    Lời Giới Thiệu

    Yukio Mishima (三島由紀夫 Tam Đảo Do Kỉ Phu) 1925 - 1970: Văn hào Nhật Bản và là một nhà hoạt động chính trị hữu khuynh. Ông nỗi tiếng với các tác phẩm có khuynh hướng Hư Vô, cùng tinh thần phục hưng các truyền thống võ sĩ đạo cổ điển của Nhật. Người Nhật cho ông là người Hiệp-Sĩ cuối cùng của Nhật Bản (the last Samurai); Ông đã thực hành cuộc tự sát theo nghi lễ hiệp sĩ đạo - Harakiri (Seppuku) - để phản đối chính phủ Nhật vào ngày 25-11-1970. (theo wikipedia.org)
    Trong cuộc đời ngắn ngủi của mình ông viết 40 cuốn tiểu thuyết, 18 vở kịch, nhiều tập truyện ngắn, và một số lớn bài khảo luận khác. Tác phẩm được dịch sang tiếng Việt có: Kim Các Tự - Kinkakuji, Chiều Hôm Lỡ Chuyến - Gogo no Eikō .
    Bản dịch Kim Các Tự, gồm mười chương sẽ lần lượt đăng dưới đây (trong khoảng thời gian ngắn nhất cho phép để vừa đọc vừa hiệu đính lỗi kỹ thuật), do 2 dịch giả Đỗ Khánh Hoan và Nguyễn Tường Minh dịch, được đánh máy và trình bày bởi Nguyên Trang và Linh Thoại, đăng trên trang nhà của tu viện Quảng Đức ( http://www.quangduc.com/TruyenNgan/index.html ).
    Kim Các Tự là một ngôi chùa, và là một thắng cảnh ở cố đô Kyoto. Xin được gởi kèm theo truyện một bức hình chụp thắng cảnh này, để độc giả cảm nhận được phần nào nỗi ám ảnh vì vẻ đẹp huyền bí và quyến rũ của nó và hiểu được sự đấu tranh vật vã giữa thực tại và ý niệm trong tâm thức của nhân vật chính.
    Có thể xem thêm hình ảnh của thắng cảnh Kim Các Tự ở : http://www.shokoku-ji.or.jp/english/...tos/index.html


    Chương 2


    Ngay từ khi tôi còn thơ ấu, Ba vẫn thường kể câu chuyện về Kim Các Tự cho tôi nghe.
    Tôi ra đời trên một mũi biển hiu quạnh nhô ra ra biển Nhật Bản ở phía đông bắc Maizuru. Tuy nhiên, nguyên quán của Ba không ở đây mà ở Shiraku, miền ngoại ô phía đông thành phố Maizuru. Ba được thúc đẩy gia nhập giáo hội và trở nên tu sĩ trụ trì một ngôi chùa tên một mỏm đất xa xôi. Ba lập gia đình ở nơi này và sinh ra một đứa con trai, ấy chính là tôi vậy.
    Trong khắp miền lân cận ngôi chùa, trên mỏm đất Nariu, không hề có một trường trung học nào thích hợp cho tôi. Kết cục, tôi phải rời cha mẹ đến ngụ ở nhà chú tôi tại sinh quán của Ba ngày trước; trong thời gian sống ở nơi này, tôi theo trường trung học Đông Maizuru, cuốc bộ đi học cũng như lúc về nhà.
    Bầu trời nơi quê cũ của Ba rất trong sáng. Nhưng mỗi năm vào tháng mười một và mười hai ngay trong những ngày trên trời dường như không có lấy một cụm mây, mỗi ngày chúng tôi vẫn bị bốn năm trận mưa rào đột ngột đổ ụp xuống đầu. Tôi nghĩ là chính vì miền đất này mà tôi đã có cái tâm tính thực là hay thay đổi.
    Vào những chiều tháng Năm, sau khi đi học về, tôi thường ngồi trong phòng học trên tầng gác thứ nhì trong căn nhà chú tôi và mơ màng ngắm nhìn những vì ngọn đồi trước mặt. Ánh chiều tà lấp lánh trên các cành lá non bao phủ sườn đồi trông như giữa những cánh đồng người ta đã dựng lên một bức bình phong bằng hoàng kim óng ánh. Mỗi khi trông thấy cái này, tôi lại tưởng tượng đến hình ảnh Kim Các Tự.
    Mặc dù thỉnh thoảng tôi vẫn nhìn thấy Kim Các Tự thật sự trong các tấm ảnh và các sách giáo khoa, song hình ảnh chế ngự tâm hồn tôi vẫn là hình ảnh Kim Các Tự theo lời Ba miêu tả. Ba chưa bao giờ kể cho tôi nghe là Kim Các Tự thật sự óng ánh hoàng kim hoặc có một vẻ gì na ná như thế; tuy vậy, theo Ba, trên khắp trái đất này chẳng có gì đẹp đẽ cho bằng Kim Các Tự hết. Vả lại, chính mặt chữ và chính âm vận của từ ngữ đã gán cho Kim Các Tự một vài tính chất hoang đường nào đó in sâu trong tâm khảm tôi.
    Khi nhìn ánh mặt trời, tôi cảm thấy chắc chắn đó là một ánh hoàng kim do ngôi chùa vô hình rọi đến. Hiệp lộ Yoshizaka, ranh giới giữa huyện Fukui và phủ Kyoto thực sự nằm ở hướng đối nghịch, tôi vẫn quen nhìn thấy Kim Các Tự hiện hình vụt lên bầu trời buổi sớm giữa những ánh triêu dương trong khi mặt trời lên sau những rặng đồi chập chùng ở phía đông.
    Như thế là Kim Các Tự hiển hiện ở khắp mọi nơi. Chừng nào mà tôi chưa được thực sự để mắt ngắm nhìn, Kim Các Tự vẫn còn giống như bể cả. Vì mặc dù vịnh Maizuru chỉ cách làng Shiraku nơi tôi cư ngụ có ba dặm rưỡi về phía Tây, những ngọn đồi vẫn chặn lấp không cho người ta nhìn thấy nước bể; tuy vậy trong không khí luôn luôn phảng phất một thứ dự cảm về bể cả; một đôi khi gặp thời tiết xấu, từng đàn chim hải âu bay xà xuống những cánh đồng kế cận để tìm chỗ ẩn náu.
    Tôi vốn yếu đuối và tôi vẫn luôn luôn bị những thằng bạn khác đánh bại trong những cuộc chạy đua hay là đánh thiết bổng. Ngoài ra, ngay từ khi lọt lòng tôi đã mắc tật nói lắp và cái tật này lại càng làm cho tôi có khuynh hướng khép kín không ưa giao tế hơn. Và ai nấy đều biết tôi là con một thầy tu ở chùa. Một vài thằng bé tai ác vẫn thường chế nhạo tôi bằng cách bắt chước một tu sĩ nói lắp trong khi ông ta đang khó nhọc mà lắp bắp từng câu kinh. Trong một quyển sách của chúng tôi có một câu truyện trong đó xuất hiện một nhà trinh thám nói lắp và mấy thằng kia thường đặc biệt cao giọng đọc những đoạn đó cho tôi nghe.
    Chẳng cần phải nói là tật nói lắp của tôi đã dựng một chướng ngại vật giữa tôi và ngoại giới. Tôi vẫn thường vấp váp khi phát ra âm thanh đầu tiên. Cái âm thanh đầu tiên này giống như một cái chìa khóa của cánh cửa ngăn cách thế giới nội tâm của tôi và thế giới và thế giới ngoại tại, và tôi chưa bao giờ được thấy cái chìa khóa này xoay vặn trơn tru trong ổ khóa. Phần lớn người đời nhờ tài nói năng trôi chẩy có thể giữ cho cánh cửa giữa thế giới bên trong và thế giới bên ngoài luôn mở rộng để cho không khí tự do qua lại giữa hai thế giới này, nhưng với tôi thì điều đó hoàn toàn không thể có được. Trên chìa khóa đã có một lớp rỉ sắt dầy đặc mất rồi.
    Khi một kẻ nói lắp vật lộn một cách tuyệt vọng để thốt ra được âm thanh đầu tiên, hắn ta thực giống như một con chim bé nhỏ đang cố gắng gỡ mình ra khỏi một vũng bùn dầy đặc. Cuối cùng khi nó xoay xỏa để tự giải thoát thì đã quá muộn mất rồi. Tất nhiên là có những lúc mà thực tế của thế giới bên ngoài dường như đã chờ đợi tôi, khoanh tay nơi nó đứng trong khi tôi đang cố gắng vật lộn để tự giải thoát. Nhưng cái thực tại đang đợi chờ tôi không phải là một thực tại tốt tươi. Khi mà cuối cùng sau biết bao cố gắng mới tới được thế giới bên ngoài tôi chỉ còn thấy một thực tại vừa mới tức thời thay đổi màu sắc và vượt ra ngoài tiêu điểm - một thực tại đã mất hết các màu sắc mới mẻ mà tôi coi là thích hợp với chính mình, và đến lúc đó đã bốc ra một mùi hôi hôi ung ủng.
    Như ai nấy có thể tưởng tượng dễ dàng, một thiếu niên như tôi sẽ đi tới chỗ ôm ấp hai hình thức tương phản về ước vọng quyền lực ý chí. Trong sử học, tôi thích thú những đoạn kể lại truyện các bạo quân. Tôi tự thấy mình như là một bạo chúa lầm lì nói lắp: những kẻ thị tòng của tôi sẽ dán mắt theo dõi từng sắc diện của tôi và sẽ sống cả ngày lẫn đêm trong hãi hùng run rẩy kinh sợ tôi. Không cần phải biện minh cho sự tàn ngược của tôi bằng những lời nói rõ ràng trơn tru. Chỉ riêng sự lầm lì ít nói của tôi cũng thừa đủ để biện minh tất cả mọi cung cách tàn ngược. Một mặt tôi thường thích thú tưởng tượng xem mình sẽ lần lượt trừng trị từng người một, gieo rắc hình phạt lên đầu các giáo sư và các bạn học vẫn hằng đày đọa tôi mỗi ngày làm sao, một mặt tôi lại tưởng tượng ra mình là một đại nghệ sĩ được trời phú cho một thị lực quang minh tột độ - một vị vương giả chân thực của thế giới nội tại. Dáng vẻ bên ngoài của tôi không ra gì, nhưng chính vì thế mà thế giới nội tại của tôi lại phong phú hơn của bất kỳ một ai khác. Với một thiếu niên phải chịu một cố tật không sao sửa chữa được như tôi, kết cục đi đến chỗ nghĩ rằng mình như là một con người được bí mật lựa chọn, há chẳng phải là một điều tự nhiên hay sao? Tôi cảm thấy như là ở một nơi nào đó trên cõi đời này có một sứ mệnh đang chờ đợi chờ tôi mà cho đến nay tôi vẫn chưa hề hay biết gì cả.
    Tâm trí tôi vẫn còn ghi nhớ mãi một biến cố suốt từ lúc đó đến nay. Trường trung học Đông Maizuru có những bãi đất rộng rãi chung quanh có những ngọn đồi thực là ngoạn mục và những tòa nhà sáng sủa tân kỳ.
    Vào một ngày trong tháng năm, một cựu học sinh đã tốt nghiệp ở trường chúng tôi ngày trước bây giờ là sinh viên trong Hải Quân Cơ Khí Học Hiệu tại Maizuru được nghỉ lễ một ngày và trở về thăm lại trường cũ.
    Anh ta có nước da xạm nắng thật là quyến rũ và cái mũi thực là to lớn mạnh mẽ nhô ra từ dưới cái mũ lưỡi trai mà anh ta kéo sụp xuống tận mắt; từ đầu tới chân anh ta thật là một trang anh hùng hoàn toàn. Bấy giờ anh ta đứng lại kể cho các đàn em nghe cuộc sống khắc khổ trong hiện tại của anh ta với tất cả những quy luật nhà binh khe khắt. Tuy nhiên, mặc dù dụng tâm miêu tả một cuộc đời đầy những gian khổ, anh ta vẫn nói với một giọng như thể là anh ta đang kể cho chúng tôi nghe những truyện về một cuộc đời xa hoa cực độ. Mỗi cử chỉ của anh ta đều đầy vẻ ngạo mạn kiêu căng, nhưng dù còn ít tuổi, anh ta cũng thấy cần phải làm dáng khiêm nhượng. Khung ngực anh ta trong bộ đồng phục có viền hoa ưỡn ra như là khung ngực của một hình người nơi mũi tàu khi con tầu đang rẽ sóng lướt gió trên mặt biển. Anh ta lúc đó đang ngồi trên một bậc đá thoai thoải chạy xuống sân chơi nhà trường. Chung quanh anh ta một nhóm học sinh xúm xít hăm hở lắng nghe từng lời anh ta nói, và trong những thửa vườn trên dốc đồi, những bông hoa tháng Năm đang nở rộ - nào hoa mã lan, hoa thượng uyển đầu, nào hoa dã trượng nhân, hoa sồ bạch cúc; và trên đầu họ rủ buông những nụ hoa mộc lan trắng đang nở tưng bừng.
    Cả người nói lẫn những người nghe đều bất động như những pho tượng kỷ niệm. Tôi không ngồi riêng một mình trên sân đất cách xa họ một vài thước. Tôi vẫn có cái cung cách như thế. Đó là cung cách của tôi đối với những bông hoa tháng Năm và đối với với bộ đồng phục đầy kiêu hãnh cùng những chuỗi cười trong trẻo vang vang của họ.
    Lúc này anh chàng hùng trẻ tuổi lại quan tâm đến tôi hơn là đến những kẻ sùng bái anh ta. Chỉ có riêng tôi là không có vẻ cúi mình trước cái oai phong của anh chàng và điều đó làm cho anh chàng thấy lòng tự ái bị xúc phạm. Anh ta hỏi những thằng khác xem tên tôi là gì.
    “Hầy, Mizoguchi!” Anh ta gọi to; đó là lần thứ nhất anh ta để mắt nhìn tới tôi. Tôi trừng trừng nhìn lại anh ta, không nói lấy một lời. Trong cái nụ cười mà lúc này anh ta hướng về phía tôi, tôi có thể khám phá một cái gì giống như sự hợm hĩnh phỉnh phờ của một người có quyền lực.
    “Tại sao chú mày không trả lời ta câu nào vậy? Câm đấy ư?”
    “Tơ… tô… tôi nói lắp,” một trong những thằng ngưỡng mộ anh ta thay tôi mà trả lời và tất cả bọn đều phá ra cười ha hả. Cái tiếng cười chế nhạo này làm tôi lóa mắt làm sao! Đối với tôi, có một cái gì rực rỡ - rực rỡ như ánh sáng phản chiếu từ các chòm lá cây - trong cái tiếng cười vang vang ác độc của lũ bạn học vốn là cái đặc điểm của những thiếu niên cùng lớp tuổi chúng nó.
    “Sao, chú mày nói lắp ư? Tại sao không vào Hải Quân Cơ Khí Học Hiệu? Họ sẽ dùng roi quất cho chú mày hết hẳn nói lắp chỉ trong một ngày thôi!”
    Tôi không biết mình xoay xỏa ra sao nhưng tức thời vọt miệng trả lời được một câu rõ ràng. Những lời nói trôi chẩy tuôn ra chẳng hề do ý chí của tôi lấy một mảy may.
    “Tôi sẽ chẳng vào trường ấy. Tôi sắp trở thành tu sĩ”.
    Tất cả mọi người đều im lặng. Anh chàng anh hùng trẻ tuổi cúi đầu, nhặt một cọng cỏ và đưa lên miệng.
    “Vậy thì,” anh ta nói, “một năm nào đó, đến lúc nằm xuống mồ, tôi sẽ cho anh một việc gì đó để mà làm.”
    Cuộc chiến Thái Bình Dương đã thực sự bùng nổ. Vào lúc này chắc chắn là tôi đã trải qua kinh nghiệm của một sự tự giác nào đó - ý thức rằng tôi sẽ giơ cả hai tay đứng đợi chờ trong một thế giới đen tối. Rằng một ngày nào đó những bông hoa tháng Năm, những bộ đồng phục, những thằng bạn học xấu tính nết của tôi, tất cả sẽ tìm đến những bàn tay giang ra của tôi. Chợt có ý thức là chính tôi đương nắm chặt thế giới, đang ép nó xuống tận dưới đáy… Nhưng một ý thức như vậy thì quá nặng nề để có thể trở nên một nguồn kiêu hãnh cho một thiếu niên như tôi.
    Niềm kiêu hãnh phải là một cái gì nhẹ nhàng hơn, tươi vui hơn, sáng sủa hơn, rực rỡ hơn. Tôi muốn một cái gì đó có thể thấy được. Tôi muốn niềm kiêu hãnh của mình phải là một cái gì mà tất cả mọi người đều có thể trông thấy được. Chẳng hạn như thanh đoản kiếm mà hắn đeo lủng lẳng ngang lưng đúng là một vật như thế.
    Cái loại kiếm này mà tất cả học sinh trung học đều trầm trồ ca ngợi ngắm nghía thực là một đồ trang sức đẹp đẽ. Người ta bảo các sinh viên trong Hải Quân Học Viện vẫn thường lén lút dùng các thanh kiếm của mình để vót nhọn bút chì. Tôi nghĩ thực là thanh lịch biết bao khi dùng một biểu tượng trang nghiêm như thế vào những việc tầm thường đại loại như vậy.
    Chàng thanh niên lúc đó đã cởi bỏ bộ đồng phục Cơ Khí Học Hiệu ra và đem treo lên cái hàng rào sắt sơn mà trắng. Cái quần dài và áo sơ mi trắng treo ngay đó gần sát tất cả những bông hoa - phải, đúng là chúng tỏa ra mùi mồ hôi lấm tấm trên làn da của anh chàng thanh niên ấy. Một con ong lầm lẫn hạ cánh đậu trên cái áo chen hoa trắng tinh chói rạng. Cái mũ lưỡi trai có viền thêu vàng óng nằm trên một phần bờ rào; thực là nghiêm chỉnh y như là trên đầu người đội, kéo sụp xuống tận mắt. Chủ nhân của nó được một thằng đàn em mời ra thử sức và đã đi đến đài đấu vật ở phía sau để tỉ thí một keo.
    Nhìn vào những đồ vật mà anh ta đã để ra một chỗ, tôi có ấn tượng là đang nhìn một thứ mộ phần danh dự. Những bông hoa xum xuê của tháng Năm càng làm tăng cảm giác này. Cái mũ phản ánh sắc đen huyền của vành lưỡi trai, và thanh kiếm cùng cái thắt lưng da treo ngay bên cạnh, tất cả đều đã tách rời khỏi thân mình anh ta ra một vẻ đặc biệt trữ tình. Chính tự chúng cũng hoàn toàn như là ký ức của tôi về chàng sinh viên ấy - thật vậy, đối với tôi chúng trông giống như những di vật của một trang thanh niên anh hùng sau khi đã lên đường ra trận.
    Tôi để ý canh chừng chắc chắn là không có ai quanh quẩn gần đó. Tôi nghe thấy tiếng hoan hô từ phía bãi đấu vật vọng lại. Tôi móc từ trong túi quần ra một con dao díp mà tôi vẫn dùng để gọt bút chì; rồi tôi leo lên hàng rào và khắc lên bao kiếm đẹp đẽ màu đen nhiều vết dao nham nhở…
    Nghe tôi kể truyện như thế thiên hạ có thể vội vàng phán đoán là tôi phải có cơ chất của một thanh niên thi sĩ. Nhưng cho đến ngày hôm nay, chẳng những tôi chưa hề viết một bài thơ nào mà còn chưa viết ngay cả một đoạn nhật ký trên cuốn sổ tay nữa. Tôi không hề cảm thấy một thôi thúc đặc biệt nào muốn vượt qua người khác bằng cách vun bồi năng lực nào mới để nhờ đó có thể bù đắp lại những điểm mà tôi thua kém hẳn thiên hạ. Nói cách khác, tôi quá ngạo mạn để có thể rở thành một nghệ sĩ. Ước mơ muốn trở thành một bạo quân hay một đại nghệ sĩ của tôi không bao giờ vượt quá giai đoạn của một mộng mơ, và tôi chẳng hề thấy có một mảy may ước muốn thực hiện một cái gì bằng cách thực sự mó tay vào công việc.
    Vì rằng việc không được người khác hiểu mình đã trở nên nguồn gốc kiêu hãnh duy nhất và thực sự của tôi, nên tôi không bao giờ cảm thấy một xung động muốn biểu hiện các sự vật và làm cho người khác hiểu được một điều gì mà tôi biết rõ. Tôi nghĩ những điều mà kẻ khác có thể nhìn thấy thì không phải những điều được số mệnh dành riêng cho tôi. Sự cô độc của tôi ngày càng béo phì ra giống hệt một con lợn.
    Đột nhiên tôi hồi tưởng tới một bi kịch xẩy ra trong làng tôi. Mặc dù không ai tưởng tượng là tôi thực sự có một chút liên hệ nào với biến cố này, đến bây giờ tôi vẫn còn không làm sao gạt được cảm giác rõ rệt là mình có tham gia vào biến cố đó.
    Qua biến cố này đột nhiên tôi thấy mình đối diện với tất cả mọi sự. Với cuộc đời, với thú vui xác thịt, với lường gạt phản trắc, với thù hận và tình yêu - phải, với tất cả những sự có thể có trên đời. Và ký ức của tôi vẫn ưa phủ nhận cái yếu tố sùng cao trong tất cả những sự vật này.
    Có một thiếu nữ xinh đẹp sống trong căn nhà cách nhà chú tôi hai căn. Tên nàng là Uiko. Mắt nàng to và trong sáng. Có lẽ gia đình nàng giầu có nên nàng có thái độ kiêu kỳ. Mặc dù thiên hạ có thói quen đề cao cô nàng, người ta không thể tưởng tượng cô nàng nghĩ gì khi chỉ có một mình. Có lẽ Uiko hãy còn là một trinh nữ, nhưng những mụ đàn bà ghen tị vẫn thường nhỏ to tán gẫu với nhau về nàng và bảo rằng nàng có cái tướng vẻ của một thạch nữ chẳng sinh đẻ gì được.
    Ngay sau khi tốt nghiệp trường Nữ Trung Học, Uiko trở nên một nữ khán hộ tình nguyện tại Y Viện Hải Quân Maizuru. Y viện gần nhà nên nàng có thể đi làm bằng xe đạp. Nàng phải có mặt ở sở vào sáng sớm tinh sương, nên phải ra đi từ lúc trời còn mờ sáng, khoảng chừng hai giờ trước khi tôi đi học.
    Một tối, tôi nằm đắm mình trong những tư tưởng mịt mù, nghĩ đến thân hình Uiko. Đêm đó tôi ngủ không yên và khi trời còn tối, tôi lén ra khỏi giường xỏ chân vào đôi giầy tập thể dục và mò ra ngoài bóng tối của một bình minh mùa hạ.
    Đêm đó chẳng phải là đêm đầu tiên mà tôi tự họa ra cho mình hình ảnh của thân hình Uiko. Có một cái gì thỉnh thoảng len lỏi qua tâm trí tôi dần dần kết hợp vào hình ảnh đó. Thân mình Uiko dường như là một sự kết tụ những ý nghĩ của tôi, chìm đắm trong một bóng tối mịt mù, vừa trắng trẻo mà vừa mềm mại, cuối cùng kết tụ lại thành hình thịt da ngọt ngào hương thơm. Tôi thường hay nghĩ tới sự nồng ấm mà những ngón tay tôi sẽ cảm thấy khi sờ vào làn da thịt này. Tôi cũng nghĩ tới cảm giác mềm mại dẻo dai dưới đầu ngón tay và làn hương thơm có lẽ giống như hương thơm của phấn hoa vậy.
    Tôi chạy thẳng theo con đường còn tối mịt mù. Những cục đá không làm cho tôi chệch choạng bước chân và màn tối mở rộng trên con đường trước mặt.
    Tôi tới một nơi mà con đường mở rộng sau khi chờ đợi. Tôi đã chạy hết hơi tới đây, nhưng bây giờ đã nghỉ ngơi dưới bóng cây cử; chính tôi cũng không biết mình định làm gì nữa. Tuy nhiên, tôi đã biết sống cách biệt thế giới bên ngoài quá nhiều và do đó đã ôm ấp ảo tưởng rằng một khi nhẩy vọt ra thế giới bên ngoài, việc gì cũng trở nên dễ dàng, việc gì cũng có thể làm được.
    Mấy con muỗi xúm nhau lại đốt hai chân tôi. Tôi nghe thấy tiếng gà gáy ở nơi này nơi nọ. Tôi nhìn lên con đường. Tôi thấy ở phía xa một cái gì trăng trắng và mịt mờ. Tôi nghĩ đó là màu sắc bình minh, nhưng thực ra đó là Uiko.
    Nàng đang đạp xe. Đèn xe bật sáng. Chiếc xe đạp lặng lẽ lướt trên mặt đường. Tôi rời gốc cây cử lao đầu chạy ra đứng ngay trước mũi xe. Chiếc xe nghiêng ngả mãi mới cấp tốc dừng lại được.
    Và rồi tôi cảm thấy mình hóa đá. Ý chí của tôi, dục vọng của tôi - tất cả đều biến thành đá hết. Thế giới bên ngoài đã mất hết tương quan với thế giới bên trong của tôi, và một lần nữa, lại bao vây lấy tôi và khoác lấy tấm áo hiện hữu tích cực. Cái “Tôi” đã lén lút lẻn khỏi nhà ông chú, đã xỏ chân vào đôi giầy tập thể dục màu trắng và đã chạy theo con đường còn tối mịt mờ cho đến lúc tới cây cử này - cái “Tôi” này chỉ thúc đẩy con người bên trong của mình xả hết tốc lực mà chạy đến đây. Trong những mái nhà trường nét mịt mờ của thôn làng mới nhô khỏi bóng tối của bình minh, trong những lùm cây tối đen, trong những mỏm núi đen xì của rặng Thanh Diệp Sơn, phải, và ngay cả trong Uiko lúc này đang đứng trước mặt tôi, hoàn toàn không có một ý vị nào hết. Có một cái gì đó đã ban cho tất cả những cái này một thực tại to lớn, vô nghĩa, đen ngòm đã được đem cho tôi, đè nén lên tôi với một sức nặng từ xưa đến giờ tôi chưa từng thấy.
    Như thông lệ, tôi nghĩ chỉ có lời nói là có thể cứu thoát tôi khỏi tình trạng này. Đó là một ngộ nhận đặc biệt của tôi. Khi cần phải hành động, tôi luôn luôn chuyên chú đến ngôn từ, và vì ngôn từ chui ra khỏi miệng tôi một cách khó khăn như thế nên tôi chỉ chuyên tâm nghĩ đến chúng và quên hết mọi hành động. Tôi thấy đường như hành động vốn là những việc chói lòa, rực rỡ, luôn luôn phải có những ngôn từ cũng chói lòa, cũng rực rỡ như thế đi kèm.
    Tôi chẳng nhìn đến cái gì hết cả. Như tôi nhớ lại, ban đầu Uiko hoảng sợ; nhưng khi thấy rõ là tôi, nàng chỉ chăm chú nhìn vào miệng tôi mà thôi. Tôi phỏng đoán là nàng đang nhìn vào cái lỗ hổng đen sì hư hỏng này, cái lỗ hổng bé nhỏ méo mó này vấy đất bẩn như là cái tổ của một con vật nhỏ bé ngoài ruộng đồng, và bây giờ đang vặn vẹo một cách vô nghĩa trong ánh sáng ban mai - nàng chỉ nhìn đến cái miệng của tôi mà thôi. Và nàng đã đắc ý thấy rằng nàng không hề có một mảy may sức lực nào sắp sửa phát ra từ cái miệng này để móc nối tôi với thế giới bên ngoài, nàng cảm thấy yên lòng.
    “Trời đất ơi!” Nàng nói. “Thực là một điều kỳ cục quá chừng. Mà anh chỉ là một thằng nói lắp”.
    Trong giọng nói Uiko có cái vẻ tươi mát của một làn gió nhẹ sớm mai. Nàng bấm chuông xe đạp kêu vang và một lần nữa lại đặt chân lên bàn đạp. Nàng vòng xe quanh tôi, làm như là muốn tránh một tảng đá trên đường đi vậy. Mặc dù chẳng có một ma nào quanh đó, Uiko vẫn nhấn đi nhấn lại cái chuông xe một cách chế giễu và trong khi nàng đạp xe ra xa, tôi còn nghe thấy tiếng chuông xe vọng lại từ những cánh đồng phía xa.
    Tối hôm đó, và Uiko về mách nhà, mẹ nàng đã sang nhà chú tôi. Chú tôi lúc thường vốn ôn hòa là thế, vậy mà hôm đó cũng mắng tôi như tất nước vuốt mặt không kịp. Tôi nguyền rủa Uiko và rồi cầu mong sao nàng lăn ra mà chết; và một vài tháng sau lời nguyền rủa của tôi biến thành sự thật. Từ đó đến giờ tôi vững tin vào sức mạnh của những lời nguyền rủa.
    Khi ngủ cũng như khi thức lúc nào tôi cũng cầu mong Uiko chết đi. Tôi ước ao con người đã chứng kiến sự sỉ nhục của tôi phải tiêu tan đi mất. Chỉ khi không còn một nhân chứng nào nữa niềm sĩ nhục của tôi mới có thể tuyệt diệt trên mặt đất này. Những người khác đều là chứng nhân. Nếu không còn một người nào nữa tồn tại thì trên đời này không có sự xấu hổ nào nữa. Điều mà tôi đã nhìn thấy trên nét mặt Uiko, sau cặp mắt nàng long lanh như mặt nước trong ánh sáng mịt mờ của buổi bình minh, thuộc về thế giới của những kẻ khác - nghĩa là thế giới của những kẻ khác, những kẻ không bao giờ để chúng ta yên thân, những kẻ đứng sẵn sàng làm kẻ tiếp tay, kẻ làm chứng cho những tội ác của chúng ta. Cần phải tiêu diệt hết tất cả những người khác. Nếu muốn tôi có thể thực sự đối diện với mặt trời, thì chính cái thế giới này phải được hủy diệt…
    Hai tháng sau khi về nhà mách lỗi của tôi, Uiko từ bỏ việc làm ở Bệnh Viện Hải Quân và nằm lì ở nhà. Trong xóm người ta thì thào bàn tán đủ mọi thứ truyện. Rồi tới cuối thu xẩy ra biến cố.
    Chúng tôi chẳng bao giờ có thể nghĩ là một tên đào ngũ khỏi Hải Quân đã đến ẩn náu ở trong thôn làng. Một hôm vào khoảng giữa trưa, một nhân viên hiến binh tới trụ sở hội đồng xã. Tuy nhiên việc một nhân viên hiến binh tới làng không phải là một điều hiếm thấy, vì thế cũng chẳng làm chúng tôi quan tâm gì nhiều.
    Đó là một ngày trong sáng gần cuối tháng mười. Tôi đã đi học như thường lệ, đã làm xong các bài buổi tối ở nhà và sửa soạn leo lên giường đi ngủ. Khi sắp sửa tắt đèn, tôi đưa mắt nhìn qua cửa sổ và nghe thấy tiếng người chạy rầm rập dọc theo đường xá trong thôn; họ thở hổn ha hổn hển như một bầy chó. Tôi đi xuống cầu thang. Chú thím tôi đã thức dậy và chúng tôi cùng bước ra ngoài. Một trong những thằng bạn học cùng trường với tôi đang đứng trước cổng lớn vào nhà. Nó trợn tròn đôi mắt vì kinh ngạc.
    “Hiến binh vừa mới bắt Uiko.” Nó réo lên cho chúng tôi nghe. “Họ đã dẫn cô nàng đến đằng kia kìa. Chúng ta hãy tới đó xem đi!”
    Tôi vội vã xỏ chân vào đôi dép và bắt đầu chạy. Đó là một đêm trăng sáng nên thơ, và đó đây những cánh đồng vừa gặt, những cọng giạ in bóng lồ lộ trên mặt đất.

  2. #2
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Sau một khóm cây, tôi có thể thấy những bóng người đen xì đang chuyển động. Uiko mặc một cái áo đen đang ngồi bệt ngay trên đất. Khuôn mặt nàng trắng bệch. Đứng xung quanh nàng là bốn năm người hiến binh cùng song thân của nàng. Một người hiến binh đang cầm một cái gì trông giống như một hộp đồ ăn và đang giận dữ quát tháo. Thân phụ nàng quay đầu hết bên này tới bên nọ, lúc thì xin lỗi người hiến binh, lúc thì trách móc con gái mình. Thân mẫu nàng ngồi sụp trên mặt đất và đang khóc thút thít.
    Chúng tôi đứng chăm chú theo dõi quang cảnh đó từ cuối một thửa ruộng lúa. Số người đứng xem mỗi lúc một gia tăng, và trong đêm họ lặng lẽ đứng sát vào nhau vai người này chạm vai người khác. Trên đầu chúng tôi mặt trăng treo lơ lửng nhỏ bé như là đang teo lại.
    Thằng bạn học thì thầm vào tai tôi mà giải thích. Dường như là Uiko đã lấy trộm hộp đồ ăn đem ra khỏi nhà và đang đi sang làng bên thì bị nhân viên cảnh bị, đã nằm phục kích từ trước, tóm được. Hiển nhiên là nàng định đem hộp đồ ăn cho người đào ngũ. Uiko đã giao du thân mật với người đào ngũ này trong khi nàng làm việc ở Bệnh Viện Hải Quân. Kết cục nàng có thai và bị sa thải. Người hiến binh lúc này đang cật vấn nàng về chỗ ẩn náu của kẻ đào ngũ, nhưng Uiko chi ngồi trơ ra đó không hề nhúc nhích mảy may và nhất định giữ im lặng một cách ngoan cố.
    Về phần tôi, tôi chỉ có thể chăm chăm nhìn vào khuôn mặt Uiko, không chớp mắt. Trông nàng giống như một người đàn bà điên vừa bị bắt. Khuôn mặt nàng hoàn toàn bất động dưới ánh trăng.
    Cho đến lúc đó, chưa bao giờ tôi thấy một khuôn mặt lại tràn đầy dáng vẻ cự tuyệt đến như thế. Tôi nghĩ khuôn mặt tôi là một khuôn mặt đã bị thế giới cự tuyệt, nhưng khuôn mặt Uiko thì đang cự tuyệt thế giới. Ánh trăng chan hòa trên trán nàng, trên mắt nàng, trên má nàng, trên sóng mũi nàng; nhưng trên khuôn mặt bất động của nàng chỉ có ánh trăng tràn ngập. Nếu như nàng chỉ đưa mắt hay chỉ nhếch miệng lấy một chút xíu mà thôi, cái thế giới mà nàng đang nỗ lực cự tuyệt đó sẽ coi là một dấu hiệu để ào ào tràn ngập vào trong con người nàng.
    Tôi nín thở giương mắt nhìn. Nhìn vào cái khuôn mặt mà lịch sử đã bị đứt đoạn vào đúng điểm này và sẽ không chịu nói lấy một điều nào hoặc tới quá khứ hoặc tới tương lai. Một đôi khi chúng ta nhìn thấy một khuôn mặt như thế trên một khúc cây vừa mới bị đốn xuống. Mặt dù khúc cây bị chặt ngang ngoài mặt hãy còn màu sắc tươi mát, nhưng ở điểm này tất cả mọi sự tăng trưởng đã ngưng hẳn lại; nó bị bất chợt phơi bày ra một thế giới vốn không phải là một thế giới của nó - và ở trên mặt khúc cây bị chặt ngang này. Chúng ta thấy một khuôn mặt lạ lùng do những mắt gỗ đẹp đẽ vẽ nên. Một khuôn mặt chường ra thế giới này chỉ để mà cự tuyệt…
    Tôi không sao ngăn được cái ý nghĩ là chẳng còn bao giờ, hoặc trong đời Uiko hoặc trong đời chính tôi, người đứng xem, lại có một lúc nào nữa được thấy khuôn mặt nàng xinh đẹp cho bằng lúc này. Nhưng cái đó không kéo dài như là tôi mong đợi. Vì đột nhiên khuôn mặt đẹp đẽ của nàng bị biến dạng.
    Uiko vụt đứng dậy. Tôi có cảm tưởng là trong lúc đó tôi thấy nàng mỉm miệng cười. Tôi có cảm tưởng là tôi thấy hàm răng trắng bong của nàng lóng lánh dưới ánh trăng. Tôi không thể nói gì hơn về sự biến dạng này, vì khi Uiko đứng lên khuôn mặt nàng chìm dưới bóng cây chứ không ở ngoài ánh trăng sáng nữa.
    Thực ra đáng tiếc cho tôi không nhìn thấy được sự thay đổi trên khuôn mặt Uiko vào lúc mà nàng quyết định phản bội. Giả như tôi đã thực sự nhìn thấy tất cả mọi chi tiết sự đổi thay trên khuôn mặt nàng thì rất có thể trong con người tôi đã nẩy nở một tinh thần khoan dung tha thứ cho tất cả mọi thứ xấu xa trên đời.
    Uiko chỉ tay về phía hốc núi Kahara ở làng bên.
    “A! vậy ra nó ở trong Kim Cương Viện!” Người hiến binh kêu to.
    Lúc đó tôi thấy trong lòng mình nẩy sinh một niềm thích thú rộn rã thực là trẻ con. Toán hiến binh quyết định chia ra làm nhiều tốp riêng rẽ và bao vây kín cả Kim Cương Viện. Người ta kêu gọi dân làng đến trợ lực. Vì một hứng thú đầy ác ý, tôi gia nhập toán thứ nhất cùng với năm sáu thiếu niên khác. Uiko đi trước toán chúng tôi làm người hướng đạo. Tôi phải ngạc nhiên khi thấy những bước chân vững vàng tin tưởng của nàng trong khi nàng cất bước đằng trước chúng tôi trên con đường sáng trăng, có hiến binh kèm theo hai bên.
    Kim Cương Viện vốn vẫn lừng danh. Viện được xây trong một hốc núi cách xa thôn làng Yasuoka chừng mười lăm phút đi bộ và được người ta biết đến vì cây cử do Thân vương Takaoka trồng và ngọn tháp ba tầng trang nhã mà người ta vẫn cho là công trình tạo tác của Hidari Jingoro. Vào mùa hè chúng tôi thường đến đó tắm ở thác nước đàng sau dẫy đồi.
    Bức tường ngôi chánh điện dựng ngay sát bên cạnh dòng sông. Cỏ hoang mọc đầy trên những tảng đất long lở, bông cỏ trắng phau lấp lánh trong đêm. Gần cổng vào chính điện cây sơn trà đang tưng bừng nở hoa. Toán chúng tôi lặng lẽ cất bước dọc theo bờ sông.
    Ngự đường của Kim Cương Viện nằm ngay trên đầu chúng tôi. Khi bước qua cái hoàn mộc kiều, người ta thấy ngôi tháp ba tầng nằm bên tay phải: rừng cây với lá thu đỏ rực trải dài bên tay trái, và ở sâu tít trong các lùm cây là một trăm lẽ năm bậc thềm đá rong rêu phủ đầy nằm cao ngất ngưỡng. Các bậc thềm đều bằng đá vôi và thực là trơn trượt.
    Trước khi đi ngang qua cái hoàn mộc kiều, những người hiến binh quay nhìn lại phía sau đưa tay ra hiệu cho toán chúng tôi dừng bước. Người ta bảo rằng ngày xưa vẫn có một cái cổng Nhân Vương Môn do hai nhà điêu khắc lừng danh Unkei và Tankei dựng lên ở nơi này. Phía ngoài là những ngọn đồi trên thung lũng Kujuku thuộc về vùng đất Kim Cương Viện.
    Chúng tôi nín thở.
    Những người hiến binh thúc giục Uiko tiếp tục tiến bước. Nàng một mình băng qua cây hoàn mộc kiều, và một lúc sau chúng tôi đi theo nàng. Phần dưới các bậc thềm đá vẫn đắm chìm trong bóng tối những phần trên lại chan hòa ánh trăng. Chúng tôi ẩn mình đó đây phía dưới các bậc thềm. Lá cây bắt đầu nhuốm màu hung hung đỏ vào mùa thu, nhưng dưới ánh trăng trông lại như ngã sang màu đen.
    Căn chính điện của Kim Cương Viện ở phía trên các bậc thềm đá. Một độ điện chạy xiên từ đó tới một không ngự đường có lẽ như để trình diễn các điệu vũ thần nhạc. Căn không ngự đường này đã được xây dựng theo kiểu mẫu vũ đài Thanh Thủy, vươn ra ngoài không trung và có những cây cột gỗ bắc dọc bắc ngang nâng đỡ cho tựa vào vách núi. Cả căn ngự đường, độ điện lẫn tổ hợp kèo cột bằng gỗ đều phơi mình cho mưa gió dập vùi, đều bóng lộn trong sạch trắng tinh như một bộ xương. Khi mà lá cây nhuốm sắc thu đỏ rực, màu đỏ của lá cây pha trộn thực là đẹp mắt với màu trắng của tòa kiến trúc trắng toát như bộ xương này; nhưng về đêm cái khung gỗ nhuốm trắng loang lỗ ánh trăng trông lại có vẻ huyền bí và ma quái.
    Đường như kẻ đào ngũ đang ẩn núp trong căn ngự đường bên trên vũ đài. Những người hiến binh muốn dùng Uiko làm mồi nhử để bắt hắn.
    Là những nhân chứng của sự bắt bớ sắp xảy ra trước mặt, chúng tôi núp mình và nín thở. Mặc dù khí đêm lạnh đến cuối tháng mười đang bao phủ thân mình, tôi vẫn thấy hai má nóng bừng.
    Uiko một mình leo lên một trăm lẻ năm bậc thềm đá vôi. Kiêu hãnh như một mụ đàn bà điên khùng. Nét mặt nàng nhìn nghiêng trắng trẻo đẹp đẽ nổi bật lên giữa tấm áo đen và mái tóc huyền.
    Giữa những vì sao, giữa những áng mây êm, giữa những núi đồi viền lấy bầu trời với nhiều hình bóng tráng lệ của các chòm cây tùng bách nhọt hoắt, giữa những đốm trăng lọt qua lá cành, giữa những tòa kiến trúc sừng sững long lanh trắng toát - giữa tất cả những cái đó, vẻ đẹp tươi sáng trong sự phản trắc do Uiko làm tôi say mê. Người con gái này một mình bước lên những bậc thềm đá trắng tinh, kiêu hãnh ưỡn ngực ra đằng trước. Sự phản trắc của nàng cũng giống như sự phản trắc của các vì sao và những chòm tùng bách nhọn hoắt. Nói cách khác, nàng đương ở trong cùng một thế giới với chúng tôi, những nhân chứng, và nàng đương chấp nhận cái thiên nhiên đang vây quanh tất cả chúng tôi. Nàng đương bước lên những bậc thêm ấy, như là đại biểu của chúng tôi. Và tôi không sao ngăn được mình nghẹn thở mà nghĩ rằng: “Do sự phản trắc của nàng, cuối cùng nàng cũng chấp nhận tôi. Bây giờ nàng là của tôi!”
    Tới một điểm nào đó, cái mà chúng ta gọi là biến cố sẽ biến mất khỏi ký ức. Cái con người Uiko đang leo lên một trăm lẻ năm bậc thềm rong rêu phủ đầy ấy đến bây giờ hãy còn hiển hiện trước mắt tôi. Đối với tôi dường như nàng cứ vĩnh viễn cất bước leo lên không bao giờ ngừng.
    Nhưng từ điểm này trở đi, nàng trở nên một con người hoàn toàn khác biệt. có lẽ là cái con người Uiko đang leo lên những bậc thềm ấy một lần nữa lại phản bội tôi, phản bội chúng tôi. Từ điểm này trở đi nàng không còn cự tuyệt thế giới trong cái toàn thể của nó nữa. Mà nàng cũng không hoàn toàn chấp nhận nó. Nàng tự cúi mình theo mệnh lệnh riêng lòng đam mê ái dục; nàng tự hạ mình xuống hàng ngũ một người đàn bà đã trao thân cho riêng một người đàn ông mà thôi.
    Vì lẽ đó mà tôi chỉ còn nhớ được những gì xẩy ra tiếp theo như là quang cảnh trong một bức thạch ấn xưa cũ nào đó. Uiko bước dọc theo độ điện và cất tiếng gọi vào căn ngự đường tối om. Bóng một người đàn ông hiện ra. Uiko nói điều gì đó với người này. Người đàn ông chĩa khẩu súng lục về phía các thềm đá và nổ súng. Từ một bụi cây gần đó những người hiến binh chĩa súng tay mà bắn trả lại. Người đàn ông đang sửa soạn nổ súng một lần nữa thì Uiko quay mình về phía độ điện và bắt đầu co giò chạy. Người ấy bắn hết phát nọ đến phát kia vào lưng nàng. Uiko ngã lăn ra. Người ấy chĩa họng súng lục vào thái dương mình và nổ súng lần nữa.
    Trước tiên các hiến binh, rồi sau tất cả những người khác, chen nhau chạy lên các bậc thềm và đổ xô về phía hai xác chết. Tôi vẫn im lặng ẩn mình dưới bóng các lá thu đỏ ối. Những khung cột gỗ bắc dọc bắc ngang của ngôi chùa chồng chất lên nhau ở phía trên đầu tôi. Tiếng giầy của mọi người, trong khi họ cất bước dọc theo những tấm ván độ điện trên đầu tôi, nhẹ nhàng từ trên vang xuống. Ánh vài ba ngọn đèn bấm chạy dọc ngang chiếu rọi từ lan can độ điện tới những cành cây lá hung hung đỏ.
    Tôi chỉ nghĩ là tất cả những việc này đã xẩy ra trong một quá khứ xa xôi. Những người kém nhạy cảm chỉ bị nhiễu loạn khi nào trong thấy máu đổ thực sự. Tuy nhiên, lúc máu đã đổ ra rồi thì tấn bi kịch cũng đã chấm dứt. Tôi ngủ thiếp đi. Khi thức dậy, tôi thấy ai nấy đều đã bỏ đi nơi khác cả rồi. Hiển nhiên họ đã quên tịt mất tôi. Không gian đầy tiếng chim ríu rít và ánh mặt trời buổi sáng chiếu rọi qua cành lá đỏ hung trên những cây xung quanh. Tòa kiến trúc như bộ xương trắng trên đầu tôi dường như sống lại khi được mặt trời rọi sáng từ phía dưới. Lặng lẽ và kiêu hãnh, căn không ngự đường hắt bóng vào thung lũng lá cành nhuốm đỏ.
    Tôi đứng dậy, run rẩy, tự chà sát thân mình để kích thích sự tuần hoàn. Trong thân xác tôi chỉ còn sự giá lạnh. Tất cả chỉ còn là sự giá lạnh mà thôi.
    Trong những ngày nghỉ mùa xuân năm kế Ba tới chơi nhà chú tôi. Trên bộ đồng phục dân sự thời chiến, cha tôi choàng chiếc áo cà sa. Ông nói là ông sẽ đưa tôi đi Kyoto trong vài ba ngày. Bệnh phổi của Ba đã trầm trọng hơn nhiều và tôi buồn lòng khi thấy Ba suy sút đến thế. Chẳng phải chỉ riêng tôi mà chú thím tôi, tất cả đều cố gắng can Ba đừng đi Kyoto nữa, nhưng ông không chịu nghe theo. Sau này khi nghĩ tới việc đó tôi mới biết là Ba muốn tự mình dẫn tôi tới ra mắt viện chủ Kim Các Tự trong khi Ba còn sống trên thế gian này.
    Tới thăm Kim Các Tự đối với tôi dĩ nhiên đã là một mơ ước từ bao nhiêu lâu, nhưng nghĩ tới việc thực hiện một cuộc hành trình với Ba dù Ba đã cố gắng hết sức vẫn khiến bất cứ ai nhìn ông phải thấy ngay là Ba đang ốm rất nặng - tôi không thấy gì làm thích thú. Khi mà thời gian đối mặt với Kim Các Tự tới gần, cái Kim Các Tự mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy tận mắt, lòng tôi mỗi lúc lại thêm trù trừ. Dù thế nào đi nữa, điều cốt yếu là Kim Các Tự phải thật đẹp đẽ. Do đó, tôi đem đánh cá tất cả không phải lên cái đẹp khách quan của chính ngôi chùa cho bằng cái khả năng tưởng tượng ra vẻ đẹp của nó nơi riêng tôi.
    Tôi hoàn toàn thông hiểu về những điều liên hệ tới Kim Các Tự, ít nhất là trong phạm vi hiểu biết của một thiếu niên vào tuổi tôi. Qua một cuốn sách nghệ thuật, tôi đã học lời giải thích sơ lược sau đây về lịch sử Kim Các Tự.
    “Ashikaga Yoshimitsu (1358-1408) được gia đình Saionji nhượng lại Bắc sơn điện và biến nó thành một biệt thự rộng lớn. Những tòa kiến trúc chủ yếu là Xá Lợi điện, Hộ Ma đường, Sám Pháp đường và Pháp Thủy viện xây dựng theo kiến trúc Phật giáo cùng Thần điện. Công Khanh gian Hội Sở, Thiên Kính các, Truyền điện và Khán Tuyết đính theo lối kiến trúc có quan hệ với các trú xá. Xá lợi điện là kiến trúc được xây dựng cẩn thận nhất và về sau được gọi là Kim Các Tự. Thực khó mà xác định nó đã mang cái tên này lần đầu tiên vào lúc nào, nhưng có vẻ sau cuộc biến loạn Ojin (1467-77). Trong thời đại Bummei (1469-87) tên này được phổ biến và trở nên thông dụng.
    “Kim Các Tự là một kiến trúc ba tầng hình tháp nhìn xuống một uyển trì (Kính Triều trì). Có lẽ đã được hoàn tất vào khoảng năm thứ năm đời Oei (1389). Hai từng dưới được xây theo kiểu tẩm điện với lối kiến trúc cổ truyền và có những cánh cửa chớp có thể xếp lại, nhưng tầng thứ ba là một căn phòng sáu thước vuông xây theo kiểu Thiền đường thuần túy của nhà Phật ở giữa có sạn đường hộ, hai bên phải và trái có hoa đầu song. Mái lợp bằng vỏ cây trắc bách diệp dựng theo kiểu bảo bình, bên trái có một con chim phượng hoàng bằng đồng thau đứng cao chót vót. Điếu điện với cái mái nhấp nhô vươn ra ngoài đối diện cái ao làm cho các kiến trúc chung quanh bớt phần đơn điệu. Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên, điều hòa hai lối trú xá và Phật đường. Như thế ngôi thần điện này đã biểu lộ thị hiếu của Ashikaga Yoshimitsu, con người từng hết lòng thâu nhập văn hóa Hoàng triều và diễn tả trung thực khí vị của đương thời.
    “Sau khi Yoshimitsu qua đời, theo di mệnh của ông, Bắc Sơn điện được biến thành một Thiền sát và được gọi là Lộc Uyển tự. Sau đó, những kiến trúc này được chuyển đi nơi khác hoặc bị bỏ mặc cho hoang phế. May mắn là còn lại Kim Các Tự…”
    Như một vầng trăng lơ lửng trong bầu trời ban đêm, Kim Các Tự đã được xây dựng để tượng trưng cho những thời đại đen tối. Như thế cái Kim Các Tự trong mộng tưởng của tôi tất phải có bóng tối làm bối cảnh. Trong cái bóng tối âm u này, những cây cột đẹp đẽ, mảnh mai của tòa nhà đứng lặng lẽ và vững vàng tỏa từ bên trong ra một ánh sáng lắt leo. Dù cho thiên hạ có nói gì về Kim Các Tự chăng nữa, nó vẫn phải tiếp tục đứng đó lặng lẽ phơi bầy công trình kiến tạo mĩ lệ, tiêm tế của mình trước mặt thế giới và chịu cho bóng tối vây kín khắp chung quanh.
    Tôi cũng thường nghĩ đến con phượng hoàng bằng đồng thau ngự trị trên mái Kim Các Tự và đã đứng đó mãi mãi phơi mình trong mưa nắng gió sương với năm tháng. Con chim vàng óng thần bí này chẳng bao giờ cất tiếng gáy sáng, chẳng bao giờ vỗ cánh - thực vậy, hiển nhiên tự nó đã quên phứt mình là một con chim. Tuy nhiên, nếu bảo rằng trông nó không có vẻ như đang bay thì thật là không đúng sự thực. Những còn chim khác bay trong không gian, nhưng con phượng hoàng vàng óng này vĩnh viễn bay qua thời gian trên đôi cánh chói rạng. Thời gian đập vào đôi cánh ấy và bềnh bồng trôi lại đằng sau. Để tung cánh bay, con phượng hoàng đứng yên bất động, với ánh nhìn giận dữ trong cặp mắt, giương đôi cánh giữa trời, ve vẩy lông đuôi và kiêu hùng giăng đôi chân oai nghi vàng óng.
    Trong những khi nghĩ ngợi mông lung như thế tôi thấy Kim Các Tự giống như một con tầu đẹp đẽ nào đó đang vượt qua mặt biển thời gian. Cuốn sách mĩ thuật nói đến “những tòa nhà lộng gió thiếu tường”, và cả điều này nữa cũng đem hình dạng một con tầu vào trong trí tưởng tượng của tôi. Cái ao nơi tòa nhà ba tầng hình chiếc tầu này soi bóng có thể được coi là tượng trưng cho bể cả. Kim Các Tự đã băng mình qua một đêm vô tận. Một chuyến vượt biển mà người ta đoán trước được kết quả. Ban ngày, con tầu kỳ dị này hạ neo với một dáng vẻ thơ ngây và chịu phơi mình cho người ta ngắm nhìn; nhưng khi đêm đến, bóng tối bao quanh làm cho nó có một thế mới và nó bồng bềnh trôi xa với cái mái như một cánh buồm lớn căng phồng.
    Thực không phải nói quá lời khi bảo rằng vấn đề tối sơ mà tôi thực sự phải đối phó trên đời là giữa hai con người này. Chẳng bao lâu nữa, khi đến tuổi, tôi sẽ bị gọi vào lính. Tuy nhiên, tôi vẫn không tin chắc là ngay khi đã ở trong binh đội, tôi lại có thể sống trung thành với nhiệm vụ của mình như chàng hạ sĩ quan ngồi trước mặt tôi đây. Dù sao đi chăng nữa, trong hiện tại hiển nhiên tôi đang chễm chệ ngồi giữa hai thế giới. Mặc dù hãy còn ít tuổi như thế này, tôi vẫn ý thức, dưới vầng trán xấu xí bướng bỉnh của mình, rằng chiến tranh đang làm môi giới đem lại gần nhau thế giới của sự chết mà cha tôi coi sóc thế giới của sự sống mà những thanh niên chiếm giữ. Chính tôi cũng có thể trở nên một người móc nối giữa hai thế giới này. Nếu tôi bị giết trong cuộc chiến, thực rõ rệt là trước con đường rẽ ngang đang nằm trước mặt, dù tôi có chọn con đường nào đi nữa thì kết cục cũng vẫn là một chẳng có mảy may khác biệt nào hết.
    Tôi cố gắng chăm sóc Ba mỗi khi ông ho. Thỉnh thoảng tôi nhìn thấy dòng sông bên ngoài khung cửa sổ toa tầu. Dòng sông xanh đậm hầu như sẫm mầu giống hệt mầu sulfat đồng dùng trong những thí nghiệm hóa học. Mỗi lần con tầu chui khỏi một đường hầm, thung lũng Hozu lại hiện ra trước mặt có lúc ở khá xa đường tầu có lúc lại bất chợt ở sát ngay bên. Dòng nước xanh đậm uốn khúc như một cái dòng dọc bốn bên có những tảng đá nhẵn nhụi bao quanh.
    Ba có đem một vài nắm cơm gạo trắng trong hộp đựng bữa ăn và ông thấy xấu hổ khi mở hộp ra trước mắt mọi người trong toa tầu.
    “Không phải là gạo chợ đen đâu,” ông nói cho tất cả mọi người đều nghe biết. “Đó là đồ cúng dường của các đạo hữu. Mình có thể vui sướng và biết ơn mà ăn thứ cơm gạo này.”
    Ba nói để cho tất cả mọi người trên toa tầu ai ai cũng có thể nghe thấy, nhưng khi bắt đầu ăn thực sự thì ông chỉ ăn được có một nắm nhỏ xíu.
    Tôi không nghĩ là đoàn tầu cổ lổ đầy mồ hóng này thực sự chạy tới đô thị. Tôi nghĩ nó đang chạy đến nhà ga của tử thần. Một khi tư tưởng này đã lẫn vào đầu óc tôi, mỗi lần con tầu chui qua một đường hầm, tôi lại thấy có cái mùi của một lò đốt xác người.
    Dù sao cuối cùng khi đứng trước tổng môn của Lộc Uyển tự, tôi vẫn thấy tim nện thình thịch trong lồng ngực. Bây giờ tôi sắp sửa được thấy một trong những cái đẹp vào hạng nhất trên đời.
    Mặt trời đã bắt đầu lặn xuống và sương mù đã phủ kín núi đồi. Có nhiều du khách khác bước chân qua cổng vào khoảng cùng một lúc với cha con chúng tôi. Gác chuông đứng bên trái cổng vào, xung quanh có cả một rừng mai còn đầy những cánh hoa tàn.
    Một cây lịch lớn mọc trước huyền quang của chính điện. Ba đứng trước cửa và nói với người đưa đường xin phép đi vào. Viện trưởng viết mấy chữ cho biết ông ta đang bận tiếp một lai khách và yêu cầu chúng tôi vui lòng chờ đơi chừng hai ba mươi phút nữa.
    “Mình hãy dùng thời gian này đi một vòng mà ngắm Kim Các Tự,” Ba nói.
    Hiển nhiên, Ba muốn cho tôi thấy rằng ông được nể nang đôi chút ở nơi này nên ông thử cố đi qua tham quan môn, cái cổng dành cho du khách mà không trả tiền mua vé vào cửa.
    Nhưng từ thời gian mười mấy năm trước lúc ba thường hay tới thăm nơi này, cả người bán vé và vừa lẫn người thu vé vào cửa tự dạo đó đều đã đổi hết cả rồi.
    “Lần sau mình tới đây,” Ba nói với một giọng lạnh lùng, “chắc là họ lại thay đổi nữa mất”.
    Nhưng tôi cảm thấy là Ba không còn thực sự tin tưởng vào cái “lần sau” ấy nữa.
    Tôi vội vã cất bước gần như chạy lên đàng trước Ba. Tôi cố ý hành động như một thằng bé con vui mừng hớn hở. (Chỉ trong những trường hợp cố làm ra vẻ như thế tôi mới có được dáng vẻ của một thiếu niên.) Rồi Kim Các Tự mà tôi vẫn hằng mơ tưởng bấy lâu phơi bày trọn vẹn hình dáng trước mặt tôi làm cho tôi thất vọng hết chỗ nói.
    Tôi đứng bên bờ ao Kính Hồ, và bên kia bờ nước, Kim Các Tự phơi bày chính diện của mình dưới ánh chiều tà. Thấu Thanh bị che khuất một nửa xa về một chút về phía bên trái. Kim Các Tự rọi bóng hình tuyệt đẹp trên mặt ao, nơi những cây hoa súng và lá những cây thủy thảo đang nổi bồng bềnh. Bóng hình này còn đẹp hơn chính Kim Các Tự nữa. Ánh mặt trời đang ngả về Tây phản chiếu trên mặt ao rập rờn phía dưới các mái hiên của cả ba tầng lầu. So sánh với ánh sáng bao quanh, ánh sáng phản chiếu dưới các mái hiên thực quá rực rỡ, chói chan; Kim Các Tự cho tôi cảm tưởng là nó đang kiêu hãnh ưỡn mình ra đằng sau.
    “Thế nào,” ba hỏi “thực là đẹp phải không?” Tầng thứ nhất gọi là Pháp Thủy viện, tầng thứ nhì là Triều Âm động và tầng thứ ba là Cứu Cánh đính. Ba đặt bàn tay gầy guộc ốm yếu trên vai tôi.
    Tôi thay đổi vị trí một vài lần và nghiêng đầu ngắm nhìn theo nhiều góc cạnh khác nhau; tuy nhiên, Kim Các Tự chẳng hề gây nên một cảm xúc nào trong lòng tôi hết. Nó chỉ là một tòa kiến trúc ba tầng cổ kính, tối tăm và nhỏ bé. Con phượng hoàng trên nóc mái giống như một con quạ khoang hạ cánh xuống đó để nghĩ ngơi. Chẳng những tòa nhà đã không làm tôi xúc động mạnh mẽ vì vẻ đẹp mà còn làm tôi có ý niệm là nó thật lạc điệu và bất điều hòa nữa. Tôi ngạc nhiên tự hỏi có thể nào cái đẹp lại là một sự vật không đẹp đẽ như thế này sao?
    Nếu là một thiếu niên khiêm nhượng và chuyên cần có lẽ tôi đã thấy tiếc là mình không có đủ khả năng thẩm thức nghệ thuật trước khi tỏ ra chán nản một cách vội vã như thế. Nhưng đau xót vì thất vọng ở cái mà mình kỳ vọng quá nhiều đã làm cho tôi mất hết mọi ý thức phản tỉnh.
    Tôi chợt nghĩ có thể Kim Các Tự đã hóa trang để che giấu vẻ đẹp chân thực của mình. Để tự vệ chống lại con người, có thể nào cái đẹp đã lừa gạt con mắt người nhìn mình hay không? Tôi phải đến gần Kim Các Tự hơn nữa; tôi phải loại bỏ những trở ngại đối với tầm mắt mình; tôi phải xem xét lại toàn bộ từng li từng tí với đôi mắt của mình nhìn tới tận hạch tâm của cái đẹp. Vì rằng tôi chỉ tin vào cái đẹp mà người ta có thể nhìn thấy bằng mắt, thái độ của tôi trong lúc đó thực là đương nhiên.
    Với vẻ tôn kính, bây giờ Ba dắt tôi đi lên hành lang trống tung của Pháp Thủy viện. Trước hết tôi nhìn tới mô hình Kim Các Tự, thực hiện một cách khéo léo, nằm trong một lồng kính. Tôi thích mô hình này lắm. Nó gần với Kim Các Tự trong mộng tôi hơn. Quan sát hình ảnh nhỏ bé hoàn hảo của Kim Các Tự trong chính ngôi thần điện này tôi nhớ đến hàng loạt những sự chiếu ứng vô hạn khi một tiểu vũ trụ được đặt trong một đại vũ trụ và rồi một tiểu vũ trụ nhỏ hơn nữa đặt trong một tiểu vũ trụ nhỏ bé kia. Đó là lần đầu tiên tôi có thể mơ mộng. Mơ đến Kim Các Tự nhỏ bé nhưng hoàn hảo còn nhỏ hơn cả mô hình này nữa; và đến Kim Các Tự rộng lớn hơn tòa nhà thực sự không biết bao nhiêu lần mà kể cho xiết - thực vậy, rộng lớn đến độ hầu như bao trùm cả thế giới.
    Tuy nhiên, tôi không đứng ì mãi một chỗ trước mô hình. Kế đó Ba dẫn tôi tới bức tượng gỗ của Yoshimitsu vốn lừng danh là Bảo Vật Quốc Gia. Bức tượng được gọi là Lộc Uyển Viện Điện Đạo Nghĩa, gọi theo cái tên của Yoshimitsu lúc ông cắt tóc đi tu.
    Bức tượng này nữa, tôi cũng chẳng thấy nó đẹp chỗ nào cả, chỉ là một hình ảnh kỳ cục nhuốm đầy mồ hóng. Sau đó, chúng tôi lên Triều Âm động tầng thứ nhì ngắm nhìn những bức họa trên trần mà người ta bảo là tác phẩm của Kano Masanobu, vẽ những thiên thần đang tấu nhạc. Trên tầng thứ ba Cứu Cánh đính, tôi thấy những dấu vết đáng buồn của lá cây bằng vàng ban đầu phủ kín khắp bên trong tầng này. Nhìn tất cả những thứ này tôi chẳng thấy đẹp ở chỗ nào cả.
    Tôi dựa mình vào hàng lan can mảnh mai và lơ đãng nhìn xuống cái ao đang lấp lánh ánh mặt trời chiều. Mặt nước trông như một tấm gương, như một tấm gương cổ bằng đồng nhẵn thín; và Kim Các Tự rọi thẳng bóng mình trên mặt gương này. Bầu trời buổi chiều phản ánh trên làn nước, ở tít dưới những cây hoa súng và những cây thủy thảo. Bầu trời này khác hẳn bầu trời trên đầu chúng tôi. Trong trẻo và sáng sủa, từ phía dưới và từ bên trong, nó nuốt trọn thế giới trần tục của chúng tôi, và Kim Các Tự đắm chìm trong đó như là một cái neo tầu thực lớn bằng vàng ròng đã biến sắc thành đen tuyền vì rỉ sắt.
    Hòa thượng Tayama Dosen, viện chủ Kim Các Tự, vốn là bạn của Ba từ khi hai người cùng học trong một thiền đường nào đó. Cả hai đều đã sinh hoạt ba năm tại thiền đường này và sống chung với nhau trong thời gian đó. Cả hai thanh niên đều tham dự chuyên môn đạo trường tại Tướng Quốc Tự (cũng được kiến tạo dưới thời tướng quân Yoshimitsu) và sau khi qua một vài thủ tục cổ xưa của Thiền phái, cả hai đều gia nhập hàng ngũ tăng sĩ. ngoài tất cả những cái đó, mãi về sau, tôi còn được sư phụ Dosen cho biết, trong một ngày mà ông vui vẻ trò chuyện với tôi, rằng ông và ba chẳng những đã cùng nhau chia xẻ những tháng ngày huấn luyện khắc khổ, trong một vài buổi tối, sau khi đã đến giờ đi ngủ, hai người còn cùng nhau leo tường ra ngoài và tìm mua vui thú nơi những cô gái bán phấn buôn hương nữa.
    Ba và tôi đã đi một vòng bái kiến Kim Các Tự rồi trở lại huyền quan của ngôi chánh điện. Người ta dẫn dắt chúng tôi đi xuống một hành lang rộng dài và chỉ lối đi vào phòng viện chủ, nằm trong Đại Thư Viện, nhìn xuống hoa viên có cây lục chu tùng lừng tiếng.
    Tôi ngồi đó thẳng người cứng nhắc trong bộ đồng phục học sinh, nhưng ba lúc đó lại có vẻ dễ chịu bất ngờ. Mặc dù Ba và Viện chủ đã cùng xuất thân từ một Thiền đường, song về ngoại diện, thực khó lòng mà hai người lại có thể khác biệt nhau hơn. Ba thì quéo quắt vì bệnh tật, trông nghèo nàn, làn da có vẻ khô khan, trắng bệch. Hòa thượng Dosen, trái lại, trông giống như một cái bánh ngọt hồng đào. Trên chiếc kỷ của ông chồng chất những gói hàng chưa mở, tạp chí, sách vở, thư từ từ nhiều nơi trong nước gởi tới và có vẻ như biểu hiện sự trù phú của ngôi thần điện. Ông đưa những ngón tay tròn trặn múp míp nhặt cái kéo và khéo mở tung một trong cái gói đồ.
    “Đó là cái bánh ngọt từ Đông Kinh gửi đến,” ông giải thích. “Trong lúc này ít khi anh thấy được một cái bánh như thế. Người ta cho tôi hay họ không còn phân phát loại bánh này cho các cửa hiệu nữa mà đem nạp hết cho quân đội hay công sở.”
    Chúng tôi uống thứ trà Nhật Bản thực ngon và ăn một cái bánh ngọt Tây Phương mà từ trước đến giờ tôi chưa hề được nếm mùi bao giờ. Tôi càng thấy căng thẳng bao nhiêu thì những mẫu bánh vụn càng rơi trên cái quần nỉ đen bóng của tôi nhiều bấy nhiêu.
    Ba và Viện chủ đang tỏ bầy sự bất bình phẫn nộ về việc giới quân đội và quan liêu chỉ kính trọng những Thần Xã và coi rẽ những ngôi chùa Phật giáo - thực ra không những chỉ coi nhẹ mà còn thực sự áp chế nữa; rồi hai người thảo luận về phương cách quản trị hay nhất cho các ngôi chùa trong tương lai.
    Viện chủ là một người mập mạp. Dĩ nhiên, khuôn mặt ông có những nếp nhăn, song mỗi nếp nhăn có vẽ như đã được lau đi hết sạch. Khuôn mặt ông tròn trặn, nhưng ông ta có cái mũi dài khiến người ta có cảm tưởng là nhựa cây chảy ra kết đặc lại ở đó. Tuy nét mặt ông có dáng vẻ khá dễ dãi, song hình dáng cái đầu cạo nhẵn - dường như là nơi tập trung tất cả tinh lực của ông - lại có dáng vẻ dữ dằn của một con vật.
    Câu truyện của hai người tu sĩ xoay về những ngày họ cùng sống với nhau trong tăng đường. Tôi đang ngắm nhìn cây lục chu tùng trong hoa viên. Người ta uốn thấp các cành lá của một cây thông lớn và cuốn lại với nhau thành hình một con thuyền với những cành lá ở đằng mũi được nâng cao lên hơn ở các phần còn lại. Hiển nhiên là có một đoàn thể đã đến vãng cảnh ngay trước giờ đóng cửa vườn và tôi nghe thấy tiếng người ồn ào từ phía Kim Các Tự ở bên kia bờ đường vọng lại. Tiếng chân và tiếng nói của họ tan chìm trong làn không khí buổi chiều mùa xuân: tiếng động họ gây ra êm nhẹ và tròn trặn, chẳng hề có dấu vết gì đặc sắc nhọn. Rồi thì bước chân họ lùi xa như làn sóng thủy triều, tôi thấy thật đúng là tiếng chân của chúng sinh băng qua trái đất này. Tôi ngước mắt nhìn con phượng hoàng trên nóc Kim Các Tự; nó đang thu hút tất cả ánh sáng tàn lụi của chiều hôm.
    “Anh ạ… cái thằng bé này.” Nghe thấy Ba nói, tôi quay lại nhìn. Trong căn phòng hầu như tối om, Ba đang sắp sửa đem phó thác cả tương lai tôi cho sư phụ Dosen.
    “Tôi nghĩ chẳng còn sống được bao lâu nữa,” Ba nói, “tôi muốn xin anh đến lúc ấy trông nom cho thằng bé này.”
    Mặc dù là một tu sĩ và quen an ủi người khác trong những dịp tương tự, thượng tọa Dosen không có một lời an ủi êm dịu nào trong dịp này, nhưng chỉ trả lời “Được lắm, tôi sẽ trông nom nó.”
    Điều làm tôi thực sự ngạc nhiên là sau đó hai người vui vẻ quay sang kể cho nhau nghe những giai thoại về cái chết của những tu sĩ nổi tiếng. Một vị đã nói lúc sắp qua đời “Ôi ta không muốn chết.” Một vị khác kết thúc cuộc đời mình bằng chính những lời của Goethe: “Cho thêm ánh sáng.” Lại còn một tu sĩ lừng danh nữa vẫn còn tự mình xem xét lại tiền quĩ của chùa cho đến lúc nhắm mắt lìa đời.
    Người ta mời chúng tôi ăn cơm tối, mà người theo đạo Phật gọi là “dược thạch” và sắp đặt để chúng tôi ngủ lại đêm đó ở trong chùa. Sau bữa cơm, tôi Ba đi ngắm Kim Các Tự một lần nữa. Vì mặt trăng lưng trời đã ló dạng.
    Ba bị kích động quá nhiều vì cuộc tái ngộ với vị viện chủ sau bao nhiêu năm xa cách nên hết sức mệt mỏi, nhưng khi nghe tôi nói đến Kim Các Tự ông liền ra ngay, dựa mình trên vai tôi mà thở hổn hển.
    Mặt trăng mọc lên sau riềm núi Fudo. Ánh trăng chiếu rọi phía sau Kim Các Tự. Ngôi chùa hình như đã xếp hình ảnh tối om phức tạp của mình lai và lặng lẽ chìm xuống; chỉ còn những khung cửa hoa đầu song trên Cứu Cánh đính là để cho bóng trăng êm ả len vào. Tầng Cứu Cánh đính không có tường riêng, và vì thế có vẻ là ánh trăng mờ nhạt đã chọn nơi này làm chỗ cư ngụ.
    Từ phía đảo Ashiwara có tiếng chim đêm vọng lại trong khi chúng bay về phía xa. Tôi thấy rõ sức nặng những bàn tay quắt quéo của Ba tỳ trên vai mình. Khi liếc nhìn lên vai, tôi thấy dưới ánh trăng một bộ xương bàn tay trắng hếu.
    Sau khi tôi trở về Yasuoka, Kim Các Tự đã làm tôi thất vọng biết bao nhiêu khi nhìn thấy lần đầu, đến lúc này lại gợi lại vẻ đẹp của nó trong lòng tôi càng ngày càng sâu đậm hơn cho đến lúc trở thành một Kim Các Tự còn đẹp đẽ hơn là trước khi tôi được nhìn tận mắt nữa. Tôi không nói được vẻ đẹp đó nằm ở chỗ nào. Dường như những gì được nuôi dưỡng trong các cơn mộng tưởng của tôi một sớm đã trở thành thực sự và bây giờ lại có thể được dùng làm động lực thôi thúc các cơn mộng tưởng khác nữa.
    Bây giờ tôi không còn đeo đuổi cái huyễn ảnh của Kim Các Tự trong phong cảnh và trong các sự vật nữa. Dần dà Kim Các Tự càng ngày càng hiện diện trong tôi một cách sâu xa và vững chắc hơn trước. Mỗi một cây cột, một khung cảnh hoa đầu song, cái mái nhà, con chim phượng hoàng ở trên nóc đều bềnh bồng rõ rệt trước mắt tôi như là tôi có thể giơ tay sờ mó chúng được. Phần nhỏ bé nhất của ngôi chùa cũng hòa hợp hoàn toàn với toàn bộ kiến trúc phức tạp của nó. Giống hệt như là nghe một vài nốt nhạc và thấy toàn thể khúc nhạc tuôn trào qua tâm trí: bất kỳ bộ phận nào của Kim Các Tự mà tôi nhặt ra cũng làm cho toàn bộ kiến trúc vang âm trong con người của tôi cả.
    “Khi Ba bảo con rằng trên mặt đất này không có gì đẹp bằng Kim Các Tự thì quả thật là đúng.” Đó là lời lẽ trong lá thư đầu tiên tôi viết cho Ba. Sau khi đưa tôi trở lại nhà chú, Ba tức thời trở về chùa của ông trên mỏm đất xa xôi. Và như để trả lời lá thư của tôi, một bức điện tín do má gửi đến báo tin là Ba bị một trận thổ huyết kinh khủng và ông đã lìa đời.
    Hết phần 1

  3. #3
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 3
    Hôm đó là ngày giỗ Ba. Má có ý nghĩ kỳ cục. Tôi khó có thể về nhà vì đang bị động viên lao động nên bà nghĩ đến việc đích thân đi Kyoto, đem theo bài vị của Ba để Hòa thượng Dosen có thể tụng kinh trước bài vị dù chỉ trong vài phút vào ngày giỗ người bạn xưa của ông. Dĩ nhiên Má không có tiền lo cho buổi lễ, nên bà đã viết thư nhờ cậy Hòa thượng Dosen xin Hòa thượng chấp nhận lời vào báo cho tôi biết điều ấy.
    Nghe tin này tôi không vui lòng một tí nào. Có một lý do đặc biệt khiến cho tôi bây giờ vẫn cố ý không viết về mẹ tôi. Tôi không muốn đả động đến bất cứ cái gì dính dáng đến mẹ tôi cả.
    Tôi chẳng bao giờ buông lời trách móc Má về một sự việc nào đó. Tôi chẳng bao giờ hé miệng nói về điều đó. Có nhẽ Má cũng không nghĩ là tôi biết việc đó. Nhưng kể từ khi việc đó xảy ra, tôi giận không sao có thể nén lòng tha thứ cho bà được.
    Việc đó xẩy ra sau khi tôi được giao phó cho ông chú để theo học trường trung học Đông Maizuru và trở về nhà trong dịp nghỉ hè niên khóa đầu tiên. Vào dạo đó, một người bà con của Má tên là Kurai đã từ Osaka trở về Nairu, sau khi thất bại trong việc làm ăn. Người vợ phải nương nhờ vào gia đình mình nên không chịu cho chồng trở về nhà, vì thế Kurai buộc lòng phải nấn ná nương thân trong chùa của Ba đợi cho câu chuyện bớt sôi nổi cái đã.
    Trong chùa của Ba, chúng tôi không có đủ màn ngăn muỗi. Thực là một điều lạ lùng khi Má và tôi không bị lây bệnh lao của Ba, bởi cả ba người đều ngủ chung trong một cái màn; và bây giờ lại thêm cả cái ông Kurai này vào nữa. Tôi nhớ một đêm hè vào lúc rất khuya một con ve sầu bay dọc theo hàng cây trong vườn và buông những tiếng kêu cộc lốc. Có lẽ chính những tiếng kêu ấy đã làm tôi thức dậy. Tiếng sóng biển vọng lại ầm ầm và cái màn xanh nhợt che muỗi rập rờn theo gió biển. Tuy nhiên, có cái gì khác thường trong cách lay động, rập rờn của cái màn.
    Tấm màn căng phồng khi gió thổi tới, rồi miễn cưỡng lay động để gạn lọc gió biển. Như thế, hình dạng cái màn rung rinh gợn nếp không phản ảnh trung thực làn gió. Làn gió dường như yếu hẳn đi. Có tiếng gì giống như tiếng tre sột soạt, cọ sát vào mặt chiếu; đó là mép màn cọ mạnh vào sàn nhà. Một chuyển động nào đó, không phải vì gió, đang được truyền đến tấm màn che muỗi. Một chuyển động lại còn tế vi hơn chuyển động của gió, một chuyển động toàn thể giống như đợt sóng lăn tăn chạy theo suốt tấm màn làm cho chất tơ thô cứng chốc chốc lại co rúm lại và khiến, từ bên trong nhìn ra, tấm màn rộng trông giống như mặt hồ nước đang trương lên vì bất an. Phải chăng đó là một ngọn sóng nào đó do con tầu tạo ra khi rẽ nước mặt hồ đi về phía xa, hoặc phải chăng đó là phản ánh của những dư ba sau khi con tầu đã đi rồi?
    Tôi sợ sệt đưa mắt tìm nguồn gốc chuyển động đó. Thế rồi, trong khi giương mắt cố soi qua bóng tối, tôi cảm thấy dường như có một cái dùi nhọn đang xoáy vào ngay chính giữa con ngươi của mình.
    Lúc đó tôi đang nằm cạnh Ba; tấm màn che muỗi thật quá chật đối với bốn người; và trong lúc ngủ chắc hẳn tôi đã xoay trở nhiều lần và đã dồn Ba ép về một góc. Bởi vậy mới có khoảng khăn giải giường trắng rộng nhăn nheo ngăn cách tôi và cái vật tôi đang nhìn thấy lúc này; còn Ba nằm cuộn tròn đằng sau lưng tôi thì đang thở phì phò ngay vào gáy tôi.
    Điều làm tôi nhận ra ba đã thực sự thức giấc ấy là nhịp thở không đều, tắc nghẹn của Ba ở đằng sau gáy tôi, vì tôi nhận thấy rằng ba đang ngăn chặn cho khỏi ho. Bất thình lình đôi mắt mở to của tôi bị một cái gì to lớn, ấm áp che kín, và tôi chẳng thấy gì. Tôi hiểu ngay tức khắc. Từ đằng sau Ba đã đưa hai bàn tay ra để che cho tôi khỏi nhìn thấy.
    Truyện này xẩy ra nhiều năm về trước lúc tôi mới mười ba tuổi; tuy nhiên, tôi vẫn nhớ như in hình ảnh hai bàn tay ấy. Những bàn tay to lớn kinh khủng. Những bàn tay từ đằng sau đã quàng quanh tôi, trong tích tắc che dấu cái hình ảnh địa ngục ấy, mà tôi đã chợt nhìn thấy. Những bàn tay từ thế giới khác. Có phải đó là do yêu thương hoặc từ bi hoặc khuất nhục tôi không biết; nhưng những bàn tay ấy trong chốc lác đã nhận bít cái thế giới kinh khủng mà tôi chạm trán và đã chôn vùi thế giới ấy vào trong tăm tối.
    Tôi khe khẻ gật đầu trong lòng những bàn tay ấy. Thấy tôi gật gật cái đầu nhỏ bé, Ba liền hiểu rằng tôi đã hội ý và tôi sẵn sàng chấp nhận; ông buông hai tay ra. Rồi lúc sau, theo đúng mệnh lệnh của hai bàn tay ấy, tôi nhất định nhắm kín đôi mắt lại, và cứ thế nằm đó không ngủ nghê gì cho đến tận sáng, đến lúc tia nắng chói lòa từ bên ngoài xuyên thẳng vào mi mắt tôi.
    Xin nhớ lại giùm là năm sau, lúc người ta đang khiêng quan tài của Ba ra khỏi nhà, tôi quá bận bịu nhìn vào khuôn mặt chết ấy đến nỗi đã không hề nhỏ một giọt nước mắt. Xin nhớ lại giùm là với cái chết của ông, tôi đã cởi gỡ sự trói buộc của hai bàn tay ông, và xin nhớ lại giùm là do nhìn chăm chú vào khuôn mặt ông, tôi có thể xác định sự hiện hữu của chính mình. Tới giới hạn này tôi quả có nhớ lại là muốn tỏ ý phục thù đôi bàn tay ấy, nghĩa là, cái mà thế gian này gọi là yêu thương; còn đối với Má, ngoài việc không thể nào quên được nỗi giận vì đã nhớ lại điều đó, chẳng một lần nào tôi nghĩ đến truyện phục thù đối với bà cả.
    Như đã giàn xếp, Má sẽ tới Kim Các Tự vào hôm trước ngày giỗ và sẽ nghỉ lại chùa một đêm. Hòa thượng viện chủ đã viết thư cho trường để xin phép cho tôi nghỉ học vào ngày đó. Những đứa chúng tôi bị động viên lao động đều không ở nơi làm việc mà thường tới đó vào giờ ấn định, rồi sau đấy lại trở về bất kỳ nơi nào mình đang sống. Vào hôm trước ngày giỗ, tôi ngại ngùng mà quay về Lộc Uyển tự.
    Với tâm hồn trong sáng, đơn thuần, Tsurukawa lấy làm vui mừng cho tôi sắp được gặp lại má tôi sau một thời gian xa cách lâu dài; cả lũ bạn sa di của tôi cũng tò mò muốn biết Má nữa. Nhưng tôi thấy bực tức vì đã có một người mẹ trông rách rưới và nghèo nàn như thế. Tôi thấy lúng túng về truyện sẽ phải giải thích làm sao cho thằng Tsurukawa thân thiết hiểu vì đâu tôi lại không muốn gặp mẹ tôi.
    Tệ hại hơn nữa là ngày khi chúng tôi vừa xong việc ở công trường, Tsurukawa nắm chặt tay tôi và nói: “Thôi, tụi mình chạy về nhà đi!”
    Kể cũng là nói quá lời khi bảo rằng tôi không hề muốn gặp má tí nào. Không phải là tôi không thích đối đầu với sự biểu lộ tình thương của những người cùng máu mủ với mình, và sự thực có lẽ là tôi chỉ đang thử tìm đủ mọi lý do giải thích sự không ưa này theo nhiều cách khác nhau. Cái tính cách xấu xa của tôi là ở đó. Kể cũng chẳng sao khi tôi phải cố gắng chứng minh những cảm tình ngay thẳng của mình bằng đủ mọi lý do. Tuy nhiên, đôi khi có vô số lý do từ đầu óc tôi chui ra vẫn thường ép buộc tôi có những tình cảm đã đến như một xúc động mạnh mẽ ngay cả đối với chính tôi; và những tình cảm ấy thực ra không phải là của tôi.
    Chỉ trong sự ghét bỏ của tôi mới có một cái gì chính xác. Bởi lẽ chính tôi là một con người mà chỉ có sự ghét bỏ mới có thể làm xúc động.
    “Cần gì phải chạy, ” tôi đáp. “Chỉ tổ mệt mà thôi. Mình cứ thủng thẳng mà đi!”
    “Tao hiểu, ” Tsurukawa nói. “Như vậy mày muốn làm nũng và lấy lòng Má mày phải không?”
    Cứ thế Tsurukawa diễn tả tâm tình tôi và cứ như thế nó luôn luôn lầm lẫn. Tuy niên, nó chẳng làm tôi bực bội mảy may và sự thực nó đã trở nên tất yếu đối với tôi. Bởi lẽ nó thực sự là kẻ thông dịch đầy thiện ý của tôi - một người bạn không thể thay thế được đã có khả năng phiên dịch những lời tôi nói ra ngôn ngữ của thế giới bên ngoài.
    Đúng thế, có nhiều lúc tôi thấy Tsurukawa dường như là một tay thợ luyện kim đã có tài biến chì thành vàng vậy. Tôi làm âm bản còn nó là dương bản của tấm hình. Đã biết bao lần tôi chẳng ngạc nhiên khi nhận thấy những tình cảm vẩn đục, đen tối của mình trở nên trong trẻo và sáng ngời nhờ được lọc qua tâm hồn của Tsurukawa. Trong lúc tôi trù trừ và lắp bắp, nó thường nắm lấy cảm xúc của tôi trong tay lộn ngược mặt trong ra ngoài mà truyền ra hiệu thế. Tôi học được từ sự việc lạ lùng này rằng, giới hạn trong lãnh vực tình cảm, thì giữa những tình cảm tối ác và tối thiện trên đời không hề có một sự khác biệt nào rõ rệt giữa ý niệm sát nhân với tấm lòng từ bi hết. Dẫu cho tôi có đủ khả năng dùng lời nói mà giải thích điều đó thì hiển nhiên Tsurukawa cũng chẳng bao giờ có thể tin nổi, song đối với tôi đó là một phát hiện khủng khiếp. Giả như bây giờ tôi không ngại là Tsurukawa coi tôi như một kẻ giả đạo đức, ấy chỉ vì trong tâm trí tôi ý niệm giả đạo đức chỉ còn là một tội lỗi tương đối mà thôi.
    Ở Kyoto tôi chưa bao giờ chứng kiến một cuộc không tập, nhưng có một lần khi được phái tới công trường chính ở Osaka để mua một số bộ phận máy bay tình cờ có một cuộc không tập và tôi đã thấy người ta khiêng trên cáng một công nhân bị thương ruột gan lòi cả ra ngoài.
    Ruột gan lòi ra ngoài thì có gì là thê thảm? Tại sao, khi nhìn thấy nội tạng một con người chúng ta lại khiếp sợ và che mắt đi? Tại sao người ta lại xúc động khi nhìn thấy máu chẩy? Tại sao nội tạng con người lại khó coi? Thế nó không đồng chất với da thịt mát mịn đẹp tươi hay sao? Nếu tự tôi bảo cho nó hay rằng chính do nó mà tôi đã đọc được cái lối suy nghĩ này - cách suy nghĩ đã biến sự xấu xí của riêng tôi thành hư vô chẳng hay Tsurukawa sẽ thộn mặt ra làm sao? Tại sao dường như có cái gì phi nhân trong việc coi con người giống như những bông hồng và không chịu phân biệt phần tinh thần bên trong với phần nhục thể bên ngoài? Ước chi con người có thể lộn ngược tinh thần và nhục thể từ trong ra ngoài giống như những bông hồng và duyên dáng phơi bày phần bên trong của mình dưới gió nhẹ mùa Xuân, dưới ánh sáng của mặt trời tháng năm.
    Má đã tới và đang nói chuyện với Lão sư phụ ở trong phòng ông, Tsurukawa và tôi quỳ ở ngoài hành lang trong ánh hoàng hôn đầu hạ và thưa với Lão sư phụ là chúng tôi đã trở về.
    Lão sư phụ chỉ gọi riêng mình tôi vào trong phòng. Trước mặt Má ông đại khái nói rằng tôi là một thằng bé ngoan ngoãn làm mọi công việc trong chùa rất chu đáo. Tôi cúi đầu và hầu như không nhìn gì đến Má. Từ khóe mắt mình, tôi có thể nhìn thấy màu vải xanh bạc phếch của chiếc quần rộng thùng thình Má mặc trong thời chiến và những ngón tay bẩn thỉu lem luốc Má đặt trên đầu gối quần.
    Lão sư phụ bảo mẹ con tôi có thể trở về phòng. Hai mẹ con tôi cúi đầu chào lia lịa rồi rời căn phòng. Phòng tôi ở là căn phòng nhỏ trải vừa năm chiếc chiếu, ở phía nam tiểu thư viện, trông ra một cái sân trong. Ngay khi hai mẹ con đặt chân vào phòng. Má đã bậc lên khóc. Vì đã biết trước điều này nên tôi vẫn có thể thản nhiên không xúc động.
    “Bây giờ con đang sống dưới sự chăm sóc của Lộc Uyển tự, “ tôi nói với Má, “xin Má đừng thăm con trước khi con trở thành một người đàng hoàng”.
    “Má hiểu, má hiểu, ” Má nói.
    Tôi lấy làm bằng lòng là đã có thể tiếp đón mẹ tôi bằng những lời tàn khốc như thế. Tuy nhiên, tôi cảm thấy bứt rức trong lòng là cũng như ngày xưa bà chẳng tỏ dấu hiệu xúc động hoặc chống đối nào cả. Đồng thời, tôi lại cảm thấy hãi hùng khi tưởng tượng Má sẽ có thể vượt qua ngưỡng cửa và bước vào bên trong con người của tôi.
    Nhìn khuôn mặt xạm nắng của Má, tôi thấy đôi mắt nhỏ bé sâu thẳm, láu lỉnh. Chỉ có đôi môi bà là đỏ và bóng dường như thể có một cuộc sống riêng; bà có hàm răng to cứng của người nhà quê. Bà đã tới cái tuổi mà những người ở đô thị nếu có trát phấn son dầy đặc lên mặt cũng chẳng phải là điều lạ kỳ. Má đã làm cho bộ mặt mình trông thật xấu xí. Tôi nhận thấy ngay rằng ở một chỗ nào đó trên khuôn mặt ấy vẫn còn rơi rớt lại một dáng vẻ nhục cảm làm cho tôi càng thêm ghét.
    Sau khi đã rời khỏi phòng Lão sư phụ và đã khóc một trận cho hả. Má bèn rút ra chiếc khăn mặt bà đã mang theo từ lúc rời làng và bắt đầu lau bộ ngực xạm nắng trần trụi của mình. Chiếc khăn bằng vải thô thuộc loại đồ được phối cấp. Chất vải có một vẻ bóng thô lậu và nó lại càng bóng lộn hơn khi ướt đẫm mồ hôi.
    Đoạn Má vốc từ trong cái túi đeo ở lưng ra một ít gạo. Bà nói bà sẽ mang gạo này biếu Lão sư phụ. Tôi chẳng nói một lời. Kế đó bà móc ra tấm bài vị thờ Ba gói ghém rất cẩn thận trong một chiếc vải cũ màu xám, rồi đặt lên giá sách của tôi.
    “Má hết sức biết ơn về việc này, ” bà nói.
    “Ba sẽ rất lấy làm sung sướng khi biết rằng Hòa thượng viện chủ đang cầu siêu cho mình.”
    “Sau ngày giỗ, Má sẽ trở lại Nairu chứ Má?” tôi hỏi.
    Câu trả lời của bà làm tôi hết sức ngạc nhiên. Thì ra Má đã nhượng hết quyền lợi trong ngôi chùa Nairu cho một người khác rồi và đồng thời bán cả mảnh đất nhỏ nữa. Bà đã trang trải hết tiền thuốc men cho ba và đã thu xếp để một mình về sống nhờ đàng nhà ông bác tại Kasagun gần Kyoto. Thế là ngôi chùa tôi sắp sửa quay về sống không còn là của chúng tôi nửa! Ở cái thôn trên mũi biển hoang lạnh ấy chẳng còn có cái gì chờ đón tôi nữa.
    Tôi không rõ Má đã diễn dịch cái dáng vẻ giải thoát trên mặt tôi ra làm sao, nhưng bà đã cúi sát vào tôi và nói: “Con thấy không, con không còn ngôi chùa của riêng con nữa. Điều duy nhất con phải làm bây giờ là trở thành người trụ trì Kim Các Tự này. Con phải ăn ở sao cho Hòa thượng thấy con đáng yêu để rồi con có thể kế vị ông khi ông giã từ cõi đời này. Hiểu không con của Má? Bây giờ Má chỉ còn sống vì điều đó mà thôi.”
    Tôi thấy bàng hoàng, chấn động nhìn lại khuôn mặt của Má, nhưng quá sửng sốt, sợ sệt để có thể nhìn thẳng vào mặt.
    Căn phòng nhỏ bé đằng sau tối om. Bà “từ mẫu” của tôi đã kề ngay miệng vào tai tôi mà nói, và bây giờ mùi mồ hôi của bà đang rập rờn trước lỗ mũi tôi. Tôi nhớ lại lúc đó Má bật cười thành tiếng. Những ký ức xa xôi về việc được cho bú, những hoài niệm về cái bầu vú đen đủi - những hình ảnh chen lấn nhau loạn xạ trong đầu óc tôi. Trong những đóm lửa đồng nội vẫn còn có một cái gì mạnh gò ép của nhục thể này dường như đã làm tôi hoảng sợ. Khi những lọn tóc loăn quăn của Má chạm vào má tôi, tôi nom thấy một con chuồn chuồn hạ cánh đậu vào bể nước bằng đá phủ đầy rêu ở ngoài sân tối om. Bầu trời chiều hôm phản ánh trên mặt nước trong cái bể tròn nhỏ hình đồng tiền ấy. Không gian im lặng, không một tiếng động, và vào lúc đó Lộc Uyển tự dường như là một ngôi chùa không có bóng người.
    Cuối cùng tôi cũng có thể nhìn thẳng vào mặt Má. Đôi môi bóng nhẫy của bà thỉnh thoảng một nụ cười khiến tôi còn nhìn thấy cả hàm răng vàng bóng lộn nữa.
    “Vâng, ” tôi lắp bắp kịch liệt mà trả lời, “nhưng theo con biết, chắc con sẽ bị gọi vào lính và sẽ chết trận tới nơi còn gì.”
    “Thằng điên ở đâu!” bà nói. “Nếu họ bắt những đứa nói lắp như con vào quân đội thì thôi nước Nhật thực đã đến lúc tàn rồi.”

    Tôi ngồi đó ngay đơ người thấy ghét Má tôi ghê gớm. Tuy nhiên, những lời nói lắp bắp thốt ra chỉ là những lời nói lảng không hơn không kém. Tôi nói “Kim Các Tự có thể cháy rụi trong một cuộc không tập.”
    “Cứ như sự việc xẩy ra hiện này, ” Má nói, “chắc Kyoto sẽ không bị oanh tạc. Tụi Mỹ sẽ nghĩ xa mà không động đến thành phố này đâu.”
    Tôi không đáp lời. Cái sân đang tràn ngập bóng tối mờ mờ trở thành màu đáy biển. Những viên đá chìm vào bóng tối, và nhìn hình thù của chúng người ta có thể nghĩ rằng chúng đang giao đấu với nhau. Má đứng dậy, không buồn để ý đến sự im lặng của tôi và lơ đãng ngắm khung cửa gỗ căn phòng nhỏ bé nơi tôi đang ở.
    “Đá đến giờ dược thạch chưa nhỉ?” bà nói.
    Sau này khi nghĩ lại tôi thấy rằng cuộc đối diện với Má đã có ảnh hưởng đáng kể với tâm hồn tôi. Chính vì dịp này tôi mới hiểu rằng Má sống trong một thế giới hoàn toàn khác biệt với thế giới của tôi và cũng chính nhờ dịp này tôi mới hiểu rằng lần đầu tiên cách suy nghĩ của bà đã có tác dụng mạnh mẽ đến tôi.
    Má thuộc hạng người sinh ra không hề bận tâm tới vẻ đẹp của Kim Các Tự; thay vào đó, bà có một cảm giác hiện thực thật xa lạ đối với tôi. Bà đã bảo Kyoto không sợ bị oanh tạc, và trái hẳn điều tôi mơ tưởng, điều này có vẻ như là đúng sự thực. Và nếu Kim Các Tự không có nguy cơ bị oanh tạc, hẳn rằng lúc này đây tôi đã mất lẽ sống ở đời và thế giới trong đó tôi đang nương thân sẽ phải tan ra từng mảnh vụn.
    Mặt khác, cái dã tâm mà Má đã bất thần bộc lộ cho tôi hay lôi cuốn tôi ghê gớm chừng nào thì tôi lại càng ghê tởm nó chừng ấy. Trước khi Ba chưa bao giờ nói một lời nào, nhưng có lẽ ông cũng có một dã tâm như Má khi gửi tôi tới ngôi chùa này. Thượng tọa Dosen sống độc thân. Chính ông cũng đã được sư phụ đời trước dặn dò gửi gắm mà rồi kế vị ở Lộc Uyển tự, cho nên không lý gì chính tôi lại không thể thực sự kế nghiệp sư phụ Dosen ở Kim Các Tự này một khi tôi vận dụng hết khả năng mình cho đúng cách. Nếu việc này mà xẩy ra được, thì Kim Các Tự sẽ thuộc về tôi!
    Tư tưởng tôi trở nên hỗn loạn. Khi cái dã tâm thứ hai của tôi đè nặng, tôi quay về với mộng tưởng thứ nhất (Kim Các Tự sắp sửa bị không tập tới nơi) và khi mộng tưởng ấy bị sự phán đoán thực tế của Má đập tan thì tôi lại quay về cái dã tâm thứ nhì, cho tới khi tôi mệt đừ người vì phải luôn luôn nghĩ ngợi lung tung, và rồi kết quả là tôi bị một cái nhọt to tướng đỏ ửng mọc ngay đằng sau gáy.
    Tôi không hề mó tay đến nó. Nó cứ sưng phồng lên và bắt đầu nhức nhối, nóng ran, khó chịu ngay sau gáy. Trong giấc ngủ chập chờn, tôi nằm mơ thấy một làn ánh sáng vàng chóe không một gợn nhơ đang phát ra từ sau gáy, bao vây phía sau đầu tôi tạo thành vầng hào quang hình bầu dục va lan rộng dần dần. Nhưng khi tỉnh giấc hóa ra chỉ là sự đau đớn do cái nhọt làm đau chết người.
    Sau cùng tôi phát sốt và phải vào giường nằm. Thượng tọa trù trì bảo tôi tới một y sĩ ngoại khoa. Mình mặc quốc phục, đi chân giày ống, ông này sau khi chẩn bệnh gọi cái nhọt của tôi bằng tên đơn giản là Furunkeru. Vì tiếc rượu cồn, ông ta sát trùng con dao bằn cách hơ lên ngọn lửa rồi áp mạnh vào gáy tôi. Tôi rên rỉ. Cái thế giới nóng ran, khó chịu nổ tung ra ở sau đầu tôi; thế rồi, tôi cảm thấy nó teo đi và xẹp hẳn.
    Chiến tranh kết liễu. Lúc đang ở công trường lắng nghe Chiếu Sắc tuyên cáo chấm dứt cuộc chiến, tôi không nghĩ tới gì ngoài Kim Các Tự.
    Vừa rời công trường về, tự nhiên tôi vội vã đi tới mặt tiền Kim Các Tự. Trên lối đi hai khách thường dùng để vào chùa, những hòn sỏi đang tắm nắng dưới ánh mặt trời mùa hạ, hết hòn này đến hòn khác dính chặt vào đế giầy thể dục bằng cao su cứng ngắc của tôi.
    Ở Tokyo, sau khi nghe Chiếu Chỉ, dân chúng có lẽ đã tới đứng trước Hoàng cung. Tại đây, rất nhiều người đã đến ngay trước kinh đô ngự sở hoang vắng mà khóc. Kyoto có nhiều Thần xã và Phật các để cho dân chúng có thể tới khóc vào những dịp như thế này. Các tu sĩ phải làm việc khá nhiều ngày hôm đó. Tuy vậy, như người ta đoán trước, trong ngày hôm ấy chẳng ai tới Kim Các Tự hết.
    Cũng vì thế chỉ riêng có bóng tôi in trên những lớp sỏi đá ngập nắng. Nếu muốn ghi lại hình ảnh xác đáng, tôi phải nói tôi đang đứng ở một bên còn Kim Các Tự đang đứng ở bên kia. Và hôm đó kể từ lúc để mắt nhìn đến ngôi chùa, tôi cảm thấy mối quan hệ giữa “chúng tôi” đã thay đổi mất rồi. Trong nỗi xung động vì chiến bại, trong nỗi bi ai của quốc dân, Kim Các Tự thực sự là siêu việt. Trong những lúc như thế này nó thật siêu việt hoặc ít nhất là làm ra vẻ siêu việt. Cho đến lúc này, Kim Các Tự trong quá khứ chưa bao giờ như thế. Hiển nhiên là việc nó khỏi bị cháy rụi trong một cuộc không tập và bây giờ không còn bị nguy hiểm đe dọa đã giúp nó tỏ được cái tình cảm buổi đầu: “Ta đã có mặt tại đây thời xưa đến giờ, và ta sẽ còn có đây mãi mãi.
    Nó ngồi đó trong im lặng hoàn toàn, giống như đồ đạc lộng lẫy nhưng vô ích nào đó, với phiến lá cổ xưa ở bên trong được vẻ sáng bóng của mặt trời mùa hạ đang chập trùng trên những bức tường ngoài che chở hoàn toàn. Những khung gỗ phía ngoài rộng lớn, trống trơ nằm chình ình trước màu xanh chói rạng của rừng cây. Người ta có thể đặt những vật trang trí nào trên các khung gỗ như thế? Chẳng có cái gì vừa với kích thước của chúng ngoại trừ một cái gì đó giống như một bình hương khổng lồ hoặc một hư vô mênh mang vĩ đại. Nhưng Kim Các Tự đã hoàn toàn mất hết những cái đó rồi; bất chợt nó đã rửa trôi tuột mất hết thực chất của mình và bây giờ đang phơi bầy một hình dạng hư không một cách kỳ lạ. Điều kỳ lạ nhất tôi nhận thấy từ trước đến giờ trong bao nhiêu lần Kim Các Tự phô bầy vẻ đẹp của nó trước mắt tôi thì lần này đẹp hơn hết. Chưa bao giờ ngôi chùa lại phơi bầy một vẻ đẹp vững bền đến thế - một vẻ đẹp vượt qua chính tâm tưởng của tôi, đúng thế, vượt qua cả toàn thể thế giới thực tại, một vẻ đẹp không hề có dây dưa gì với bất kỳ một chủng loại siêu thoát nào! từ trước đến giờ chưa bao giờ nó mang một vẻ đẹp lộng lẫy, cự tuyệt tất cả mọi ý vị như lần này.
    Kể cũng chẳng phải quá lời khi bảo rằng trong lúc ngắm nhìn ngôi chùa, chân tôi đã run rẩy và trán tôi đã ướt đẫm những giọt mồ hôi lạnh. Trong một bận trước trở về làng, sau khi đã ngắm nghía ngôi chùa, tôi thấy những bộ phận nhỏ nhặt, toàn thể kiến trúc của nó hòa hợp như một khúc nhạc âm chiếu ứng nhịp nhàng. Nhưng bây giờ tôi chỉ nghe tiếng im lặng hoàn toàn, tĩnh mịch hoàn toàn. Ở đó chẳng có gì trôi chẩy, chẳng có gì đổi thay. Kim Các Tự đứng chót vót trước mặt tôi, vượt cao trước mặt tôi giống như sự ngưng nghỉ kinh hoàng nào đó trước âm nhạc, giống như một thứ trầm mặc ngân vang nào đó.
    “Mối liên hệ giữa Kim Các Tự và chính tôi đã bị cắt đứt, ” tôi nghĩ. “Kể từ đây mộng tưởng cho rằng Kim Các Tự và tôi đang sống trong cùng một thế giới đã sụp đỗ. Kể từ đây, tôi sẽ trở lại trạng thái trước kia của mình, nhưng còn tuyệt vọng hơn trước kia nữa. Một trạng thái trong đó tôi ở đằng này và vẻ đẹp ở đằng kia. Một trạng thái chẳng bao giờ biến đổi trên cõi đời này.”
    Sự chiến bại của đất nước đối với tôi thật đúng chỉ là một kinh nghiệm tuyệt vọng. Ngay cả tới bây giờ tôi vẫn còn có thể nhìn thấy cái ánh sáng màu hè giống như ánh lửa vào cái ngày thất trận ấy, ngày 15 tháng Tám. Dân chúng nói rằng mọi giá trị đều băng hoại; nhưng chính trong lòng tôi ngược lại, sự vĩnh viễn đã bừng tỉnh, hồi sinh và đòi hỏi quyền lợi của mình. Cái sự vĩnh viễn đã bảo tôi rằng Kim Các Tự sẽ vĩnh viễn tồn tại ở đó. Cõi vĩnh cửu đã từ trên trời giáng xuống, dính chặt vào má, vào tay, vào bụng chúng tôi, rồi cuối cùng chôn vùi chúng tôi. Cái đó chính là một lời nguyền rủa. Đúng thế, vào cái ngày chiến tranh chấm dứt, trong những tiếng ve sầu từ các núi đồi chung quanh vọng lại, tôi có thể nghe thấy sự vĩnh viễn này, giống như một lời nguyền rủa lửng lơ trên đầu tôi, nó đã khép chặt tôi vào chất vữa vàng óng.
    Tối hôm đó trong buổi tụng kinh trước giờ khai chẩm, chúng tôi đặc biệt tụng những bài kinh cầu an cho Hoàng đế và an ủi vong linh những người đã chết trong cuộc chiến. Kể từ khi chiến tranh bắt đầu, mặc áo cà sa đơn giản đã trở thành thói quen trong những tông phái, nhưng đêm nay Lão sư phụ đặc biệt mặc chiếc áo cà sa ngự điều bằng lụa đào mà ông đã cất kỹ từ nhiều năm qua. Bộ mặt đầy đặn, mở màng của ông, trông giống như thể không hề còn một nếp nhăn nào, hôm nay có vẻ hồng hào, mạnh khỏe và dường như đang tươi tắn nở nang hẳn lên vì thỏa mãn về cái gì đó. Trong đêm tối nóng bức, tấm áo cà sa nhẹ mát của ông sột soạt nghe rõ mồn một trong ngôi chùa.
    Sau buổi tụng niệm mọi người trong chùa được gọi tới phòng Lão sư phụ nghe thuyết giảng. Công án lão sư phụ đã chọn là “Nam Toàn Trảm Miêu” từ đệ thập tứ tắc trong Vô Môn Quan. “Nam Toàn Chém Mèo” (cũng thấy xuất hiện trong đệ lục thập tam tắc trong Bích Nham Lục dưới nhan đề “Nam Toàn Trảm Miêu” và đệ lục thập tứ tắc nhan đề “Triệu Châu Đầu Đái Thảo Hài”) từ xưa vẫn nổi tiếng là một trong những công án nan giải nhất.
    Vào đời nhà Đường có một danh tăng, Phổ Nguyện Thiền Sư, sống trên núi Nam Toàn Từ Châu, do đó được gọi là Nam Toàn Hòa thượng theo tên quả núi. Một hôm, sau khi mọi tu sĩ đã ra đồng cắt cỏ, một con mèo nhỏ xuất hiện trong ngôi sơn tự nhàn tịch. Ai nấy đều đuổi và bắt được con mèo nhỏ này. Sau đó con vật trở thành đối tượng cả Đông Tây lưỡng đường đều tranh nhau con vật. Hai phe cãi nhau và tranh nhau giữ con miu đó.
    Hòa thượng Nam Toàn thấy vậy bèn nắm lấy gáy con mèo con rồi dí lưỡi liềm phạt cỏ vào cổ nó mà nói: “Trong lũ người ai nói được một lời thì cứu ngay được con mèo này; nếu không ai nói được gì cả thì nó sẽ bị chém đầu ngay.” Không ai có thể đáp lời nào, thế là Hòa thượng Nam Toàn liền chém ngay con mèo rồi quẳng xác nó đi.
    Tối đến, Triều Châu, cao đồ Hòa thượng, trở về chùa. Hòa thượng Nam Toàn liền kể lại câu truyện đã xảy ra và hỏi ý kiến anh ta. Tức thì Triều Châu tuột đôi dép đôi lên đầu và bước ra khỏi căn phòng. Thấy vậy, Hòa thượng Nam Toàn cất tiếng thở than: “Ồ, giả chi bữa nay có con ở đó thì con đã cứu được con mèo con rồi.”
    Đó là đại thể câu truyện. Cái đoạn kể truyện Triều Châu tuột đôi dép đôi lên đầu được coi là điều hết sức khó hiểu. Nhưng theo lời giảng của Lão sư phụ vấn đề không đến nỗi khó hiểu đến thế.
    Sở dĩ Hòa thượng Nam Toàn chém mèo vì ông muốn cắt đứt mọi mê vọng về tự ngã và dứt hết mọi vọng niệm, vọng tưởng từ căn nguyên. Thực hiện việc tàn nhẫn không xót thương đem chém đầu con mèo con là ông đã dứt khoát cắt đứt hết mọi mâu thuẫn, bất hòa giữa thân mình và kẻ khác. Việc làm này được gọi là Sát Nhân Đao trong hành động của Triều Châu được gọi là Hoạt Nhân Kiếm. Có thái độ khoan dung đem đồ lấm bùn bẩn thỉu để giày dép mà đội lên đầu, anh ta đã thực hành đúng Bồ-tát đạo.
    Sau khi nghe giảng giải như thế, Lão sư phụ chấm dứt buổi thuyết pháp mà chẳng hề đá động đến vấn đề Nhật Bản bại trận một chút nào. Chúng tôi cảm thấy dường như đã bị một con cáo thôi miên. Chúng tôi chẳng hề mảy may tại sao Lão sư phụ lại chọn lựa cái công án đặc biệt này vào ngày Nhật Bản thất trận. Trong khi mọi người đi dọc theo hành lang trở về phòng, tôi tỏ bầy những băn khoăn của mình cho Tsurukawa hay. Chính nó cũng ngạc nhiên và lắc đầu.
    “Tao không hiểu, ” nó nói. “Tao nghĩ người nào chưa sinh hoạt trọn đời ở tăng đường thì không sao hiểu nổi. Nhưng tao nghĩ thực ra trong buổi thuyết giảng tối nay vào ngày nước thua trận, ông chẳng nên nói lời nào về truyện ấy mà chỉ nên nói về truyện chém đầu con mèo.”
    Riêng về phần tôi, tôi chẳng hề cảm thấy một chút bất hạnh nào về truyện thất trận cả; tuy nhiên cái vẻ mặt tràn trề hạnh phúc của Lão sư phụ đã khiến tôi khó chịu. Niềm tôn kính đối với sư phụ trụ trì vẫn là thông lệ để bảo vệ trật tự trong một ngôi chùa. Thế nhưng trong suốt năm qua sống dưới sự chăm sóc của ngôi chùa này tuyệt đối chẳng có lúc nào tôi cảm thấy thương yêu hoặc kính trọng đối với Lão sư phụ cả. Truyện ấy chính nó cũng chẳng sao. Song, kể từ lúc Má châm cái ngọn lửa dã tâm cháy bùng trong tôi, nhiều lúc tôi bắt đầu nhìn Lão sư phụ với con mắt phê phán, soi mói của một thiếu niên mười bảy tuổi.
    Lão sư phụ là người công bình và vô tư. Nhưng đó là sự công bình và vô tư mà tôi có thể tưởng tượng dễ dàng là mình có được nếu tôi trở thành một sư trưởng trụ trì. Con người này thiếu hẳn chúng cái khí vị khôi hài đặc biệt của một tu sĩ Thiền tông. Điều này kể cũng kỳ lạ, vì lẽ thường thường những người dáng vẻ đầy đặn, mỡ màng như ông ta vẫn luôn luôn có khí vị hài hước.
    Từ lâu tôi đã nghe thấy nói rằng Lão sư phụ từng ham chơi gái. Lúc thực sự tưởng tượng ông đang đắm mình trong cuộc vui, tôi vừa buồn cười mà cũng vừa cảm thấy khó chịu. Một người đàn bà sẽ thực sự cảm thấy gì khi được một thân hình giống như cái bánh ngọt màu hồng ôm chặt trong tay! Có lẽ người ấy sẽ cảm thấy như thể cái khối thịt hồng hồng, mềm mại ấy trải rộng đến tận cùng thế giới, như thể người ấy đang bị chôn vùi trong một nầm mồ da thịt.
    Điều làm tôi thấy kỳ lạ là một tu sĩ Thiền tông mà cũng cần đến nhục thể. Sở dĩ Lão sư phụ đã ham mê đàn bà như thế có thể là vì ông muốn bày tỏ sự khinh miệt của mình đối với xác thịt bằng cách tống khứ nó đi. Nhưng nếu quả thực như vậy thì kể cũng kỳ lạ; kỳ lạ ở chỗ cái xác thịt mà ông khinh miệt đến như thế lại phải được nuôi dưỡng thừa thãi lại phải quấn lấy tinh thần ông. Xác thịt khiêm nhường, ngoan ngoãn giống như một gia súc đã được huấn luyện thuần thục. Xác thịt giống hệt một người vợ lẽ đối với tinh thần của Lão sư phụ.
    Tôi phải nói rõ đối với tôi sự bại trận đã thực sự có nghĩa ra sao. Đó không phải là sự giải phóng. Không, nhất định đó chẳng hề là sự giải phóng. Chẳng qua là sự quay lại nếp sống vĩnh viễn bất biến đã thẩm nhập vào đời sống hàng ngày của chúng tôi. Bây giờ là thời gian phục hồi nếp sống trong chùa trở về nếp cũ: khai định, triêu khóa, chúc tọa, tác dịch, trai tọa, dược thạch, khai dục, khai chẩm. Lão sư phụ tuyệt đối nghiêm cấm việc mua gạo chợ đen dùng trong chùa. Vì thế, những hột gạo duy nhất mấy đứa sa di chúng tôi thấy nổi lõng bõng trong các bát cháo của mình là do các đàn gia cho hoặc do viên Phó ti lén mua ngoài chợ đen vì nghĩ rằng lũ chúng tôi đang vào tuổi lớn. Tuy lén mua gạo chợ đen nhưng ông luôn luôn phải nói tránh đó là gạo của các đàn gia đem cúng hiến. Chúng tôi vẫn thường phải ra ngoài mua khoai lang về ăn; không phải chỉ vào buổi chúc tọa chúng tôi phải ăn cháo mà ngay cả bữa trưa và bữa tối cũng có cháo và khoai lang nữa, vì thế chúng tôi lúc nào cũng thấy đói bụng.
    Tsurukawa thường hay xin nhà gửi kẹo ngọt cho nên cha mẹ nó thường mua kẹo gửi từ Tokyo đến cho nó. Đến khuya nó mang số kẹo viện trợ đó vào phòng tôi để hai đứa cùng ăn với nhau. Thỉnh thoảng một ánh sáng lại lóe lên trong trời đêm đen kịt.
    Tôi hỏi Tsurukawa tại sao nó lại đến đây trong khi nhà nó giầu có và cha mẹ nó thương yêu nó như thế.
    “Đây chỉ là một nơi để tao tu hành khổ hạnh, nó giải thích. “Rồi đây khi tới lúc, tao sẽ thừa kế ngôi chùa của Ba tao.”
    Ít có cái gì khiến Tsurukawa khổ tâm. Nó hòa mình vào lối sống ở đây, y như chiếc đũa nằm khít trong ống đũa. Tôi tiếp tục câu truyện và nói cho Tsurukawa hay từ đây một thời đại mới và thật khó tưởng tượng, sắp đến với đất nước chúng ta. Tôi nhớ câu truyện đã nghe mọi người bàn tán ở trường vài ba ngày sau khi chiến tranh chấm dứt. Đó là câu truyện về một sĩ quan có nhiệm vụ chỉ huy một công trường nào đó; ngay sau khi chiến cuộc chấm dứt, người sĩ quan ấy vừa tự mình đem hàng hóa chất đầy lên một chiếc xe vận tải rồi lái thẳng về nhà mình, vừa nói chẳng úp mở gì hết: “Từ nay tôi sẽ đi buôn bán chợ đen”.
    Tôi nghĩ đến người sĩ quan liều lĩnh, tàn bạo, mắt sáng quắc này, trong lúc anh ta đứng đó, sắp sửa lao đầu dấn thân vào tội ác. Con đường anh ta sắp sửa lao vào trong đôi giầy ống ngắn cũng mang bộ mặt chết chóc như là chiến tranh vậy; nó có vẻ vô trật tự khiến tôi nghĩ đến ánh sáng đỏ rực lúc bình minh. Khi anh ta lái xe chạy đi, tấm khăn quàng cổ màu trắng bay lất phất trên ngực, và đôi má chìa ra trước gió đêm lạnh lẽo hãy còn đang phảng phất trong buổi sớm tinh sương. Lưng anh ta sẽ cuối gập xuống dưới sức nặng của những món đồ ăn cắp: anh ta sẽ chạy thục mạng cho đến lúc mỏi mòn kiệt sức. Nhưng ở phía xa hơn, nhẹ nhàng hơn, tôi có thể nghe thấy tiếng chuông từ trên gác chuông ngân nga hỗn độn, vô trật tự.
    Tôi hoàn toàn xa cách những sự việc như thế. Tôi không có tiền bạc, không có sự tự do, không có giải phóng gì hết. Tuy nhiên, chắc chắn rằng trong tâm trí một thiếu niên mười bảy tuổi như tôi, mấy tiếng “một thời đại mới” hàm chứa một quyết ý theo đuổi một chiều hướng nào đó, dù cho chưa thành hình rõ rệt.
    “Nếu con người trên thế gian này, ” tôi nghĩ, “sắp sửa nếm mùi điều ác qua cuộc sống và hành động của họ, lúc đó mình sẽ đắm mình thực sâu trong nội giới của điều ác.”

  4. #4
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Nhưng cái điều ác mà tôi nghĩ đến cho riêng mình thoạt nhiên chỉ là dùng mọi cách khéo léo để chinh phục lòng tin yêu của Lão sư phụ để chiếm lấy Kim Các Tự, hoặc một không tưởng như đầu độc giết chết Lão sư phụ mà thay thế ông. Những kế hoạch này của tôi lại còn có thể làm yên lương tâm tôi, một khi tôi đã biết chắc rằng Tsurukawa không hề có dã tâm như thế.
    “Thế mày không có băn khoăn hay hy vọng gì riêng cho tương lai hay sao?” tôi hỏi nó.
    “Không, chẳng hề có hy vọng hoặc băn khoăn gì hết. Nếu có thì tao đã được cái gì nào?”
    Chẳng có điều gì hắc ám trong câu trả lời của nó mà cũng không phải là nó trả lời bừa bãi. Vào đúng lúc ấy một tia chớp lóe sáng cặp lông mày nhỏ dài hơi cong của nó, bộ phận tiêm tế duy nhất trên toàn thể khuôn mặt nó. Hiển nhiên Tsurukawa đã để cho người thợ hớt tóc tự ý cạo phần đầu và phần đuôi lông mày của mình; vì thế cặp lông mày của nó vốn đã nhỏ càng nhỏ hơn, và mình có thể nhìn thấy vết xanh mờ ở hai đầu chỗ lưỡi dao cạo đã cạo lướt.
    Khi liếc nhìn vệt xanh này, tôi có một cảm giác bất an. Thằng thiếu niên ngồi trước mặt tôi chói rực ở cái cực thuần khiết của cuộc đời. Nó khác hẳn tôi. Tương lai của nó được giấu kín đến nỗi đang bừng cháy. Cái nhị đèn thắp sáng trong tương lai nó đang nổi bồng bềnh trong chất dầu trong vắt, mát lạnh. Có ai lại ở cõi đời này lại thấy trước được sự trong trắng không gợn chút nhơ của chính mình? Giả như sự ngây thơ và tinh khiết còn mãi với người đó trong tương lai.
    Tối đó sau khi Tsurukawa đã trở về phòng, tôi không sao ngủ được vì trời cuối hạ nóng quá. Ngoài ra còn sự cố ý chống lại thói thủ dâm cũng làm cho tôi mất ngủ…
    Đôi khi tôi cũng bị mộng tinh. Việc này không liên hệ đến hình ảnh sắc dục nào hết, chẳng hạn, một con chó mực đang chạy xuống một đường phố tối om: tôi có thể nhìn thấy hơi thở hổn hển, nóng hổi từ mỏm nó toát ra, và sự kích thích trong tôi gia tăng theo tiếng vang của cái nhạc trên cổ nó; thế rồi, khi tiếng nhạc đạt tới cực độ thì tinh khí của tôi liền bắn vọt ra ngoài.
    Khi tôi thủ dâm, tâm trí tôi thường chứa đầy huyễn tượng của địa ngục; tôi thấy bầu vú của Uiko, rồi cặp đùi nàng hiện ra trước mắt. Và trong lúc ấy tôi trở thành một thứ côn trùng vô cùng nhỏ bé, vô cùng xấu xí.
    Tôi nhảy ra khỏi giường rồi len theo cửa hậu của tiểu thư viện mà đi ra ngoài. Sau Lộc Uyển tự và phía đông Tịch Giai đình ngọn núi là Bất Động Sơn đứng sừng sững. Những cây xích tùng bao phủ ngọn núi và giữa những đám cỏ gianh mọc đầy quanh các gốc cây, chen lộn những cây trịch trục, cây quán mộc và nhiều thứ cây tương tự. Đã quá quen thuộc với những ngọn núi này nên giữa đêm tôi có thể mò đường leo lên mà không hề vấp váp gì hết. Leo lên đỉnh núi người ta có thể thấy miền Thượng Kyoto và Trung Kyoto cùng ngọn Duệ Sơn và Đại Văn Tự Sơn ở phía xa hơn.
    Tôi leo lên dốc núi giữa những tiếng chim nháo nhác vỗ cánh vì sợ hãi; tôi không nhìn sang bên và cố tránh những những gốc cây đã bị đốn. Tôi cảm thấy nhờ bấu víu, leo trèo như thế đầu óc không nghĩ gì mà bỗng nhiên tôi khỏi được bệnh. Khi leo lên đến đỉnh núi, một làn gió lạnh ban đêm thổi tới lùa vào thân mình: tôi đang ướt đẫm mồ hôi.
    Quang cảnh trước mắt làm tôi ngạc nhiên nghi ngờ chính cả mắt mình. Từ lâu rồi người ta đã bãi bỏ hạn chế đèn lửa trong thị xã Kyoto và bây giờ ánh đèn trải dài đến tít phía xa như một biển ánh sáng. Quang canh này đối với tôi hầu như một phép lạ, vì kể từ khi chiến tranh chấm dứt tôi chưa một lần nào tới chỗ này về ban đêm cả.
    Những ngọn đèn điện tạo thành một lập thể. Những ngọn đèn ấy rải rác khắp một bình diện rộng rãi làm người ta mất hết cảm giác ở gần hoặc ở xa; trước mặt tôi dường như có một tòa đại kiến trúc trong suốt mắc đầy đèn điện đang nhô lên trong đêm tối, như đang trải rộng những dực lâu thành những ăng ten phức tạp. Có như thế mới đáng gọi là nơi đô thị. Chỉ có khu rừng quanh hoàng cung là không có ánh đèn và trông giống như một động lớn đen ngòm. Thỉnh thoảng từ hướng núi Duệ Sơn lại có một tia chớp lóe lên trên bầu trời đêm đen tối.
    Tôi nghĩ: “Đây là cuộc đời trần tục. Bây giờ chiến tranh đã chấm dứt người người đang bị những tư tưởng tà ác thôi thúc lăng quăng chen chúc dưới những ngọn đèn này. Biết bao đôi trai gái đang đắm đuối nhìn mặt nhau dưới những ngọn đèn này, và mùi của cái hành vi giống như cái chết vốn đã trực tiếp thúc bách họ đang bốc lên dưới mũi họ. Khi nghĩ rằng những ngọn đèn điện nhiều vô số này đều là những ngọn đèn của tà ác, lòng tôi thấy được an ủi. Xin để cho điều tà ác đang nằm trong lòng tôi nảy nở thực nhiều, nẩy nở mãi mãi để nó có thể tương ứng hoàn toàn với làn ánh sáng của những ngọn đèn trước mắt tôi kìa! Xin để cho sự đen tối đang bao phủ tim tôi được ngang hàng với sự đen tối của đêm hôm đang bao phủ những ngọn đèn nhiều vô số kể kia!”
    Càng ngày số lai khách tới vãn cảnh Kim Các Tự càng gia tăng. Lão sư phụ đã làm đơn xin và đã được phép tăng giá tiền vào cửa để theo kịp lạm phát.
    Cho đến bây giờ những lại khách lẻ tẻ mà tôi đã thấy là những người bình dân chất phác mặc những bộ quân phục, quần áo làm việc rộng thùng thình. Nhưng bây giờ Quân đội Chiếm đóng đã tới, và chẳng bao lâu phong tục dâm đãng của thế giới trần tục bắt đầu tràn lan quanh Kim Các Tự. Tuy nhiên, không phải chỉ có những đổi thay theo chiều hướng xấu xa, vì lẽ người ta đã làm sống lại những tập quán hiến trà và bây giờ những đàn bà con gái đến vãn cảnh chùa đều mặc những chiếc áo xiêm hoa mỹ mà họ đã phải cất giấu trong thời chiến. Lũ chúng tôi trong các bộ tăng y nâu sồng trông tương phản với họ thực là rõ rệt; thật thế chúng tôi như đang đóng vai trò tăng lữ để mua vui, hoặc như thể chúng tôi là cư dân của một địa phương nào đó đã khởi công cố giữ phong tục xưa cũ lạ kỳ để làm đẹp lòng những người khách đến ngoạn cảnh và quan sát. Bọn lính Mỹ thường chẳng giữ gìn gì: chúng thường vén phăng tay áo cà sa của chúng tôi lên mà cười. Đôi khi chúng xuất tiền để chúng tôi cho chúng mượn áo cà sa mà mặc vào để chụp ảnh kỹ niệm. Những việc như vậy thường xảy ra khi Tsurukawa hoặc chúng tôi được lôi ra sử dụng cái tiếng Anh lõm bõm của mình với du khách ngoại quốc mà thay thế người đưa đường thường nhật vốn không biết một tí tiếng Anh nào cả.
    Đó là mùa đông đầu tiên sau chiến tranh. Vào buổi tối thứ sáu tuyết bắt đầu rơi và tiếp tục rơi suốt thứ bảy. Buổi sáng lúc đang ở trường tôi đã trông chờ được trở về vào giữa trưa để ngắm Kim Các Tự dưới làn tuyết trắng.
    Đến chiều tuyết vẫn còn rơi. Tôi rời con đường mà khách vãn cảnh thường đi; và chân đi ủng cao su, vai đeo cặp sách lủng lẳng tôi ra tận bờ ao Kính Triều. Tuyết đang rơi nhanh một cách lạ kỳ. Lúc còn nhỏ tuổi, tôi thường ngẫng đầu ngữa mặt lên nhìn tuyết trong khi miệng thì há hốc. Bây giờ tôi cũng làm như thế, bông tuyết chạm vào răng tôi thành tiếng động như thể đang đập vào một tấm lá thiếc mỏng dính. Tôi cảm thấy tuyết đang tung rắc khắp khẩu xoang âm ấm của tôi và đang tan ra khi chạm tới màng thịt đo đỏ. Vào lúc ấy tôi tưởng tượng cái miệng con chim phượng hoàng trên nóc Cứu Cánh đính. Cái miệng nhẵn nhụi, nóng bỏng của con chim sắc vàng kỳ quái ấy.
    Tuyết rơi làm cho tất cả chúng tôi cảm thấy trẻ lại. Và đâu phải hoàn toàn sai sự thật khi nói rằng tôi, một thằng chưa tới mười tám tuổi tròn, hiện đang cảm thấy dấy lên trong mình một vài rung động tuổi trẻ.
    Kim Các Tự đẹp không gì sánh kịp khi bốn bề có tuyết trắng bao quanh. Với những bông tuyết thổi hắt vào bên trong, với những hàng cột mảnh mai đứng san sát bên nhau, tòa kiến trúc đứng phơi da thịt trắng nõn mát tươi trong lớp tuyết.
    “Tại sao tuyết lại không nói lắp?” Tôi tự hỏi. Thỉnh thoảng, khi vướng vào lá cây bát thủ, tuyết thường thường rơi xuống đất như thể là thực sự nói lắp. Nhưng khi thấy chính mình tắm trong tuyết từ trên trời nhẹ nhàng rơi xuống đất không ngừng, tôi quên bẵng những niềm khuất khúc trong lòng, và dường như tinh thần tôi quay về với một nhịp rung động nhẹ nhàng nào đó, như thể tôi đang đắm mình trong âm nhạc. Sự thực vì có tuyết mà cái Kim Các Tự lập thể đã trở nên Kim Các Tự bình diện, một Kim Các Tự nằm trong tranh, không còn gạt bỏ bất cứ cái gì ở bên ngoài nữa. Những cành khô lá đỏ ở hai bên bờ không còn đủ sức hứng tuyết nữa. Và rừng cây trông trần trụi hơn thường lệ. Đó đây tuyết chất thành đống thực đẹp mắt trên những cây tùng. Tuyết còn trải dày trên mặt ao băng giá; nhưng lạ kỳ thay, có những chỗ tại mặt ao chồng chất bừa bãi từng mảng lớn trắng xóa trông giống các đám mây trong một hình vẽ trang sức thì đỉnh Cửu Sơn Bát Hải và đảo Đam Lộ nối liền với tuyết trên mặt ao giá băng, những cây thông nhỏ mọc ở đó trông thật như thể chúng đã ngẫu nhiên nhô nẩy lên từ giữa cánh đồng băng tuyết. Mái Cứu Cánh đỉnh và Triều Âm động cùng mái nhỏ của Thấu Thanh - phần có người ở trong Kim Các Tự - cả ba bộ phận đó trắng xóa lạ kỳ. Phần còn lại không có người ở thì tối om, dường như có cái gì tươi mát trong cái sắc đen của tòa nhà kiến trúc bằng gỗ tăm, phức tạp này nổi bật trên tuyết trắng. Cũng như khi người ta nhìn một bức tranh của Họa phái phương Nam vẽ một lâu đài ẩn mình giữa những trái núi và áp mặt vào tấm phông mà nhìn xem có thể nào có người đang sống ở bên trong hay không, cái màu gỗ cổ xưa đen bóng cũng khiến tôi cảm thấy muốn ghé sát mặt mà dòm xem trong Kim Các Tự có người ở hay không. Nhưng dù có áp mặt lại gần hơn, tôi cũng chỉ đụng đầu vào bức tranh lụa giá lạnh của băng tuyết mà thôi.

    Cả hôm nay nữa, các cửa Cứu Cánh đính cũng mở toang hướng ra bầu trời đầy tuyết. Khi ngước nhìn lên tôi đưa mắt theo dõi những bông tuyết đang rơi đã tung bay trong khoảng không gian nhỏ hẹp, nơi không có chút gì thuộc về Cứu Cánh đính, rồi xem những bông tuyết ấy đã đậu trên những phiến hoàng kim cũ kỹ, han rỉ tên mặt tường ra làm sao và rồi vương tụm lại đó cho đến khi kết thành những giọt sương nho nhỏ vàng óng.
    Hôm sau là chủ nhật. Buổi sáng người dẫn đường già nua đến gọi tôi. Hiển nhiên một người lính ngoại quốc đã tới để vãn cảnh chùa trước giờ mở cửa thường lệ. Người dẫn đường đã giơ tay làm dấu hiệu bảo người lính này đứng chờ để ông ta đi gọi người biết tiếng Anh đến, và tới gọi tôi. Kể cũng khá lạ, tôi lại khá tiếng Anh hơn Tsurukawa và khi nói tiếng Anh thì tôi lại chẳng hề lắp bắp.
    Một chiếc xe Jeep đang đậu trước huyền quan. Một người lính Mỹ say mềm đang đứng dựa vào một cây cột. Khi trông thấy tôi, người ấy cuối xuống nhìn và mỉm cười khinh miệt.
    Tiền đình trắng xóa vì tuyết mới rơi. Nổi bật trên bối cảnh trắng toát này, khuôn mặt người lính trẻ tuổi, hằn lên những múi thịt, đứng phà ra những hơi rượu trắng xóa đầy mùi uýt-ki về phía tôi. Như thường lệ, tôi cảm thấy khó chịu khi cố gắng tưởng tượng những tình cảm đang sôi động bên trong một con người tầm vóc khác tôi kinh khủng đến thế.
    Đã có thói quen không phản kháng người khác, tôi liền bằng lòng dẫn anh ta quanh chùa, dù chưa đến giờ mở cửa. Tôi hỏi tiền vào cửa và tiền cho người đi đường. Tôi thật ngạc nhiên khi thấy tên lính to lớn say mèm không hề có ý gì thắc mắc. Rồi anh ta nhìn vào chiếc xe Jeep và nói điều gì có ý “Đi ra!”
    Vì tuyết trắng phản ánh nên đến lúc ấy tôi vẫn chưa nhìn được cái gì bên trong chiếc xe Jeep tối om, nhưng bây giờ tôi nhận ra có cái gì trăng trắng đang động đậy sau tấm kính phía mũi xe. Tôi cảm thấy dường như có một con thỏ đang loay hoay trong đó.
    Một bàn chân trong chiếc giầy cao gót nhỏ nhắn thò ra trên cái bực đặt chân của chiếc xe Jeep. Tôi lấy làm lạ mặc dù trời lạnh lẽo như thế mà bàn chân đó vẫn không đi bí tất. Mới nhìn tôi đã nhận biết ngay người con gái đó là một con hát cặp kè với bọn lính ngoại quốc; vì lẽ nàng mặc một áo choàng màu đỏ chói, móng tay móng chân cũng bôi màu đỏ chót như vậy. Khi phần dưới tấm áo choàng mở tung ra, tôi nhận thấy bên dưới nàng mặc một chiếc áo ngủ, bẩn thỉu bằng vải khăn tắm. Cả người nàng cũng say sưa bét nhè, mắt đứng tròng đờ đẫn. Người đàn ông thì chững chạc trong bộ quân phục, nhưng người đàn bà thì chỉ khoác vội tấm áo choàng và chiếc khăn quàng cổ lên chiếc áo ngủ, hiển nhiên vừa mới rời khỏi giường ngủ.
    Phản chiếu ánh tuyết, khuôn mặt người con gái xanh xao khủng khiếp. Trên làn da xanh trắng, nhợt nhạt, thiếu máu, chất son tô môi đỏ chót nổi bật thực là khó coi. Vừa đặt chân xuống đất, nằng hắt hơi soàn soạt; những đường nhăn nheo nho nhỏ tụ lại trên cái sống mũi nhỏ nhắn, và nàng đưa cặp mắt mệt mỏi, đờ đẫn nhìn về đàng xa trông chốc lát, rồi sau đó lại đắm chìm trở lại trong ánh mắt sâu thẳm nặng chĩu. Rồi nàng gọi tên người đàn ông.
    “Dzách, Dzách!” nàng nói.”Tsù kòrudo, tsù kòrudo!” (1)
    Tiếng người con gái buồn bã lạc lõng qua làn tuyết khi kêu lạnh. Người đàn ông không trả lời.
    Đây là lần đầu tiên tôi gặp một người đàn bà buôn phấn bán hương mà đẹp thật sự không phải trông nàng giống Uiko. Nàng giống một bức chân dung đã được vẽ cẩn thận để cho khỏi giống Uiko ở bất kỳ một nét nào. Người con gái này có một vẻ đẹp tươi mát, mời mọc, thách thức đường như để phản kháng cái ký ức của tôi về Uiko. Và có một cái gì phỉnh phờ trong sự phản kháng này chống lại những cảm giác ấy của tôi về xác thịt, vốn là hậu quả của chính kinh nghiệm đầu tiên trên đời của tôi về cái đẹp.
    Nàng chỉ có mỗi một điểm giống với Uiko; đó là nàng không thèm đưa mắt nhìn tôi lấy một cái trong khi tôi đứng đó. Tôi đã cởi bỏ tăng y trong chùa và đang mặc một áo len bẩn thỉu, chân đi đôi ủng cao su.
    Ngay từ sáng sớm mọi người đã đi ra ngoài cả để xúc tuyết đổ đi, tuy nhiên mới chỉ vừa quét dọn xong lối đi dành cho khách vãn cảnh. Cho đến lúc này nếu có một đoàn thể nào tới, có lẽ cũng khốn; tuy vậy cũng có đủ chỗ cho một nhóm nhỏ đi theo từng hàng một. Tôi đi lên trước người lính Mỹ và người con gái.
    Khi đi tới bờ ao và thấy quang cảnh trước mắt thì hắn giơ hai tay cao lên trời tỏ sự vui thích bằng cách lớn giọng hét những tiếng tôi không hiểu ý nghĩa là gì cả. Thế rồi hắn ôm ghì lấy thân mình người còn gái mà lắc lắc thực cuồng bạo. Người con gái chau mày và chỉ nhắc đi nhắc lại: “Ô, Dzách! tsù kòrudo!”
    Người Mỹ hỏi tôi về cây thanh mộc (aoki) đỏ thắm, tốt tươi mà người ta có thể nhìn thấy ở sau các lùm lá chất nặng tuyết trắng, nhưng tôi chẳng tìm ra được điều gì khác nên chỉ nói “aoki”. Có lẽ bên trong cái thân cái thân mình khổng lồ của hắn có một thi nhân trữ tình, tuy nhiên trong cặp mắt xanh và trong của hắn tôi cảm thấy có cái gì tàn ác. Bài đồng dao Tây phương “Mẹ Ngỗng” bảo những cặp mắt đen có vẻ tàn ác và tinh ma; sự thực khi tưởng tượng ra sự tàn ác con người thường có thói quen gán cho nó một cái gì của người khác.
    Tôi bắt đầu dẫn giải về Kim Các Tự theo khuôn mẫu thông thường của người dẫn đường. Người lính vẫn còn say mèm và bước chân ngã nghiêng không vững. Với những ngón tay lạnh cóng tôi rút từ trong túi ra một quyển sách dẫn giải bằng tiếng Anh mà tôi thường đọc và những dịp như thế này. Nhưng tên lính Mỹ chộp phăng lấy quyển sách tôi đang cầm rồi bắt đầu ê a đọc bằng một giọng hài hước. Tôi nhận thấy mình không cần dẫn giải gì nữa.
    Tôi dựa lưng vào lan can Pháp Thủy viện và đưa mắt nhìn cái mặt ao sáng loáng lạ kỳ. Chưa bao giờ bên trong Kim Các Tự lại được chiếu sáng đến thế này - sáng chói đến nỗi làm người ta khó chịu.
    Khi ngước lên tôi nhận thấy người đàn ông và người đàn bà đã bắt đầu cãi nhau trong lúc cả hai đang đi về phía Thấu Thanh. Cuộc cải vã mỗi lúc một thêm dữ dội; tuy nhiên, tôi chẳng nghe rõ được một tiếng nào. Người con gái trả lời cái gì đó bằng một giọng gắt gỏng; tôi chẳng rõ là nàng đang nói tiếng Anh hay tiếng Nhật nữa. Hai người vừa quay trở lại Pháp Thủy viện vừa cải nhau. Dường như họ đã quên phứt là có tôi ở đó.
    Tên lính Mỹ vênh mặt nhìn người con gái và bắt đầu chửi mắng. Nàng lấy hết sức mà tát vào mặt hắn, rồi chạy quay đầu về phía con đường khách vãn cảnh ra vào, chân vẫn trong đôi giầy cao gót. Tôi chẳng hiểu cái gì đã xảy ra, nhưng cũng đi xuống Kim Các Tự rồi bắt đầu chạy dọc theo bờ ao. Khi tôi xuống chỗ người con gái thì tên lính Mỹ dài cẳng cũng đã đuổi bắt được nàng và đang nắm chặt vạt trước tấm áo choàng màu đỏ của nàng.
    Trong lúc đứng đó và giữ chặt lấy nàng, người thanh niên đưa mắt nhìn tôi. Hắn buông tay khỏi vạt trước tấm áo choàng đỏ rực. Trong cái bàn tay ấy của hắn chắc hẳn phải có một sức mạnh không phải là tầm thường, vì khi hắn buông tay thì người con gái liền từ từ ngả người ra đằng sau và nằm lăn trên tuyết. Phần dưới tấm áo choàng hở tung và cặp đùi trần trụi trắng nõn của nàng duỗi thẳng trên mặt tuyết.
    Người con gái cũng không nhỏm dậy nữa, từ chỗ mình nằm nàng dương mắt nhìn thẳng vào mắt tên khổng lồ cao lênh khênh đang đứng sừng sững phía trên mình. Tôi chẳng thể không quỳ xuống đỡ nàng đứng dậy. Khi tôi sắp sửa làm như thế, tên lính Mỹ quát to: “Hầy”. Tôi quay ngoát lại. Hắn đứng đó xoạc hai chân giạng hắn ngất ngưỡng trên đầu tôi. Hắn giơ ngón tay ra hiệu. Thế rồi hoàn toàn đổi giọng - một giọng nói ấm áp, dịu dàng - hắn nói bằng tiếng Anh: “Giẫm chân lên mình nó! Giẫm chân lên người nó đi!”
    Tôi không hiểu hắn định nói gì. Nhưng cặp mắt xanh của hắn từ trên cao nhìn xuống tôi có vẻ sai khiến. Đằng sau đôi vai dài rộng của hắn, tôi có thể nhìn thấy Kim Các Tự tuyết phủ đầy đang lấp lánh dưới bầu trời màu đông xanh đều tẻ nhạt. Trong cặp mắt xanh của hắn không hề có một vẻ gì tàn ác. Tôi không hiểu tại sao, nhưng vào lúc ấy tôi cảm thấy đôi mắt hắn trông trữ tình hết sức.
    Hắn hạ bàn tay to lớn xuống, nắm lấy cổ áo tôi và dựng tôi đứng lên. Tuy nhiên cái giọng hắn sai khiến tôi vẫn còn ấm áp dịu dàng.
    “Giẫm chân lên người nó!” hắn nói. “Mày phải giẫm chân lên mình nó.”
    Chẳng thể cưỡng lại, tôi giơ chân đi đôi giày cao cổ lên. Tên Mỹ vỗ vào vai tôi. Tôi buông chân xuống và giẫm lên một cái gì mềm mại như chất bùn mùa Xuân. Đó là bụng người con gái. Nàng nhắm mắt lại và rên rỉ.
    “Giẫm chân lên mình nó! Cứ tiếp tục như thế nữa!”
    Tôi hạ thấp bàn chân mình lên cô gái, cảm giác khó chịu lúc mới đạp chân lên mình nàng giờ đây đã trở thành một niềm vui rào rạt. “Đây là bụng một người đàn bà, ” tôi nghĩ. “Đây là ngực nàng.” Tôi chưa bao giờ tưởng tượng làn da thịt người khác lại có thể đáp ứng bàn chân mình giống hệt một quả bóng da với sức co dãn trọn vẹn đến như thế.
    “Thôi đủ rồi, ” tên Mỹ nói rành rọt. Đoạn hắn trịnh trọng ôm lấy thân mình người con gái mà dựng dậy, lau sạch bùn và tuyết bám trên quần áo nàng và dìu nàng ra xe Jeep; hắn để người con gái leo lên trước. Mùi rượu uýt-ki đường như đã tan hết; tên Mỹ quay về phía tôi và trịnh trọng nói bằng tiếng Anh “Thank you.” Hắn tỏ ý muốn cho tôi ít tiền, song tôi từ chối. Sau đó hắn lấy từ dưới ghế ngồi trong xe hai tút thuốc lá Mỹ và nắm chặt cổ tay mà ép tôi cầm lấy.
    Hai má nóng bừng, tôi đứng trước huyền quan, trong ánh tuyết phản chiếu chói rực. Chiếc xe Jeep chồm chồm lăn bánh về phía xa vung lên một đám mây tuyết rồi biến khỏi tầm mắt. Toàn thân tôi run lên vì kích động.
    Khi sự kích động đã lắng dịu, tôi nghĩ đến một mưu kế để tôi có thể giả vờ tốt lành một cách vui thích. Lão sư phụ thích thuốc lá. Ông sẽ hết sức vui lòng khi nhận được món quà biếu này! Chẳng hay biết gì hết.
    Tôi chẳng cần phải kể lể cho ai rõ tí gì về việc đã xẩy ra. Tôi chỉ hành động như vậy bởi vì tôi bị sai khiến và bó buộc phải hành động như thế.
    Nếu như tôi phản kháng lại thì không biết tự thân tôi sẽ phải gánh chịu điều tai họa gì?
    Tôi đi tới phòng Lão sư phụ trong Đại Thư Viện. Viên Phó ti đang cạo đầu cho ông; Phó ti là người rất khéo tay. Tôi đứng đợi ở ven hành lang chỗ mặt trời buổi sáng đang chiếu chói chang. Ngoài vườn tuyết chất thành đống trên các bụi chu tùng và óng ánh thật đẹp mắt, trông giống hệt cánh buồm mới tinh gấp lại.
    Lão sư phụ nhắm kín hai mắt khi cạo đầu. Hai tay ông cầm một mảnh giấy để đựng tóc từ trên đầu rơi xuống. Viên Phó ti càng cạo thì cái vòng ngoài tươi mới, đầy nhựa sống của cái đầu Lão sư phụ càng lộ rõ ra. Khi đã cạo xong viên Phó ti lấy cái khăn mặt nóng phủ kín đầu Lão sư phụ lại. Sau một lúc viên Phó ti lôi cái khăn ra, một cái đầu mới tinh, bóng lộn hiện ra trông như thể mới bị luộc chín.
    Tôi khó nhọc lắm mới nói được ra lời và cúi đầu dâng hai tút thuốc lá Chesterfkelds.
    “Hô hô, ” Lão sư phụ nói. “Khó nhọc cho con quá nhỉ.”
    Ông thoảng mỉm cười và nụ cười dường như chỉ thoáng qua ngoài mặt. Chỉ có thế. Rồi thì với dáng điệu như đang làm việc, Lão sư phụ cầm hai tút thuốc lá và quăng trên mặt bàn giấy đang đầy ắp giấy tờ và thư tín đủ mọi loại. Lúc viên Phó ti bắt đầu thoa bóp vai ông. Lão sư phụ một lần nữa lại nhắm nghiền đôi mắt.
    Tôi chẳng biết làm gì hơn là lui bước. Toàn thân tôi nóng ran vì bất mãn. Cái hành vi độc ác không thể nói rõ của tôi, rồi những tút thuốc lá người ta cho tôi để mà khen thưởng, Lão sư phụ nhận mà chẳng hề biết tại sao tôi lại có được - tất cả những cái này lại càng làm cho câu truyện thêm phần bông đùa mà đau xót. Một người như Lão sư phụ làm lại hoàn toàn mù tịt về những việc xẩy ra cho tôi một lý do quan trọng để khinh miệt ông.
    Vào đúng lúc tôi sắp sửa lui bước thì Lão sư phụ bảo tôi nán lại. Ông bảo tôi nán lại đó để ông ban cho một ân huệ.
    “Này, con nghe đây!” Ông nói. Thầy định cho con lên đại học Otani sau khi con tốt nghiệp trung học. Bây giờ con phải chăm chỉ học hành, con ạ, để đoạt thành tích tốt đẹp khi ghi tên vào đại học. Đó hẳn là điều ba con lúc sinh thời hằng lo lắng và mong ước.”
    Tin này tức khắc được ông chấp sự truyền miệng khắp chùa. Việc một chú tiểu được Lão sư phụ để ý muốn cho vào đại học đủ chứng tỏ chú tiểu đó phải có nhiều triển vọng lắm. Ngày xưa đồ đệ phải lên phòng sư phụ trụ trì mà đấm bóp trong hàng trăm đêm liền chỉ với hy vọng được ông cho lên đại học, và trong nhiều trường hợp những ước vọng này cũng thành sự thực. Tsurukawa đang chờ gia đình cho tiền để lên ăn học tại đại học Otani, hí hửng vỗ vai tôi khi hay tin. Tuy vậy, một chú tiểu khác trong bọn chẳng được Lão sư phụ nhắc nhở gì đến truyện cho vào đại học chẳng thèm hé miệng nói với tôi một lời sau khi nghe tin này.
    Hết phần 3

  5. #5
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 4
    Mùa Xuân năm Chiêu Hòa thứ 22 (1947) đã đến lúc tôi bắt đầu học năm Dự Bị tại đại học Otani. Tuy nhiên, việc nhập học chẳng phải là điều đáng dương dương tự đắc mà chỉ nhờ lòng tin yêu không thay đổi của Lão sư phụ và chỉ gợi sự thèm muốn của lũ bạn đồng liêu. Nhìn từ ngoài có thể đó là một biến cố đáng tự hào đối với tôi, nhưng thực ra sự tiến thân trên đường học vấn của tôi đã bị một sự tình làm lu mờ nên nghĩ đến lại càng thấy đáng ghét.
    Một hôm lúc ở trường về, khoảng một tuần lễ sau buổi sáng tuyết rơi ấy, cái buổi sáng Lão sư phụ hứa cho tôi lên đại học, tôi nhận thấy một chú tiểu khác, từ lâu đã bị gạt bỏ không được lên đại học, hôm đó đã nhìn tôi với vẻ sung sướng cực kỳ. Cho mãi tới lúc ấy, thanh niên này chẳng thèm hé miệng nói với tôi một lời. Cả viên thủ tự và Phó ti dường như cũng có thái độ khác thường. Tuy vậy, tôi khám phá ra rằng bề ngoài trong cách cư xử đối với tôi họ vẫn cố làm ra vẻ như thường không có gì khác trước.
    Tối hôm đó đến phòng Tsurukawa và tỉ tê cho nó biết thái độ kỳ cục của những người trong chùa đối với tôi. Mới nghe nó ngoẹo đầu sang một bên rồi tìm đủ cách làm cho tôi tin rằng không có gì đáng tiếc xẩy ra; tuy nhiên, nó che giấu tình cảm thực vụng về rồi giương mắt nhìn tôi trân trân.
    “Tớ có nghe một thằng nói về truyện ấy,” nó vừa nói vừa kể tên chú tiểu bạn thân với cả hai đứa chúng tôi, “nhưng nó cũng chỉ nghe hơi như vậy thôi, vì khi truyện xẩy ra nó cũng đi học. Dầu sao, tớ thấy dường như có cái gì khác thường đã xẩy ra trong khi cậu vắng mặt trong chùa.”
    Tôi cảm thấy hơi sờ sợ, gạn hỏi. Tsurukawa bắt tôi thề phải giữ bí mật câu truyện. Nhìn chằm vào mắt tôi, nó bắt đầu kể.
    Vào buổi chiều hôm đó có một con hát đã tới chùa xin phép vào gặp mặt Thượng tọa trụ trì. Người đó mặc một một tấm áo choàng màu đỏ và rõ rệt là một cô gái làng chơi cho tụi ngoại quốc. Thay mặt Thượng tọa trụ trì, ông Phó ti ra tiếp cô ta ở huyền quan. Thiếu nữ ấy nặng lời với ông Phó ti và bảo rằng nếu ông muốn yên thân thì nên để cô ta vào gặp Thượng tọa trụ trì. Chẳng ngờ đúng lúc đó Lão sư phụ lại đang đi dọc theo hành lang. Trông thấy người con gái, ông đi ra trước huyền quan. Cô ta nói với ông rằng khoảng một tuần trước đó, vào buổi sáng tuyết vừa ngừng rơi cô ta đã cùng một tên lính ngoại quốc tới vãn cảnh chùa. Tên lính này đã đánh cô ngã lăn xuống đất và một chú tiểu trong chùa a dua với hắn đã giẫm chân lên bụng cô ta. Tối hôm ấy cô ta bị đọa thai. Vì thế, cô ta thấy mình có lý đến yêu cầu nhà chùa cho ít tiền. Nếu nhà chùa không chịu, cô ta sẽ phanh phui tất cả đầu đuôi câu truyện và tố cáo cái hành vi không nên không phải của Lộc Uyển tự cho thiên hạ đều biết. Chẳng nói chẳng rằng Lão sư phụ cho cô ta ít tiền và bảo cô ta hãy ra về. Trong chùa ai cũng biết hôm đó tôi đóng vai hướng dẫn cho du khách vãn cảnh, nhưng Lão sư phụ nói vì không có ai ở trong chùa mục kích cái hành vi không nên không phải của tôi nên không bao giờ buộc chặt cho tôi tội đó. Chính ông chủ tâm nhắm mắt làm ngơ. Song le, khi nghe ông Phó ti thuật lại truyện này thì trong chùa ai ai cũng nghĩ quả tôi đã có cái hành vi tồi tệ ấy.
    Tsurukawa nắm lấy tay tôi. Tôi nhận thấy hầu như mắt nó rướm lệ. Nó nhìn tôi với cặp mắt trong sáng và gạn hỏi bằng một giọng trẻ con, thực thà: “Có thật mày đã làm như vậy không?”
    Tôi đang trực diện với những tình cảm đen tối của chính mình. Khi tiếp tục chất vấn, Tsurukawa đã buộc tôi trực diện với những tình cảm ấy. Tại sao nó lại gạn hỏi tôi như thế? Có phải vì tình bạn hay không? Nó có ý thức được rằng nó đang bỏ rơi phần việc thực sự đã được chia cho nó khi nó chất vấn tôi như thế? Nó có tự biết vì câu chất vấn này nó đang phản bội tôi trong phần sâu nhất nơi con người tôi hay không?
    Tôi sẽ phải nhắc đi nhắc lại: Tsurukawa là dương bản tấm phim chụp hình tôi. Nếu làm tròn bổn phận một cách trung thực. Tsurukawa đã chẳng vặn hỏi, mà ngược lại đã chấp nhận những tình cảm đen tối của tôi đúng như nguyên trạng rồi đem phiên dịch thành tình cảm trong sáng tươi vui. Như vậy, dối trá sẽ trở thành chân thực và chân thực sẽ trở thành dối trá. Nếu Tsurukawa đã giữ đúng lề lối đặc biệt của mình - cái lề lối phiên dịch bóng tối thành ánh sáng, ban đêm thành ban ngày, ánh trăng thành mặt trời, sự ẩm ướt của màng rêu ban đêm thành tiếng rì rào của lá xanh tươi óng ánh ban ngày - thì chính tôi có thể lắp bắp mà ngỏ lời sám hối. Nhưng vào đúng lúc này nó lại không làm như thế. Do đó, tình cảm hắc ám của tôi lại càng mạnh mẽ hơn.
    Tôi cười vẩn vơ. Đêm khuya trong ngôi chùa không có một ánh lửa. Đầu gối giá lạnh. Mấy hàng cột lớn cổ kính đứng san sát xung quanh trong khi chúng tôi ngồi dựa bên nhau thì thầm trò chuyện.
    Tôi chỉ mặc có bộ quần áo ngủ và run rẩy có lẽ vì trời lạnh. Tuy nhiên, cái thú lần đầu tiên công nhiên nói dối với bạn thật cũng thừa đủ làm đầu gối tôi run lập cập.
    “Tao chẳng làm gì hết,” tôi nói.
    “Thật không?” Tsurukawa nói. “Vậy ra con ấy đến đây nói láo. Đồ súc sinh ở đâu! Mày xem, cả lão Phó ti cũng tin lời nó cơ chứ!”
    Tsurukawa tỏ ra hết sức bất bình; rồi nó bảo ngày mai nhất định nó sẽ thưa cho lão sư phụ nghe dùm tôi và nói rõ những gì đã xảy ra. Vào lúc ấy hình ảnh cái sọ dừa cạo nhẵn thín của Lão sư phụ giống như củ khoai luộc vụt qua óc tôi. Rồi tôi nhìn thấy hai má ửng hồng, phúng phính của ông. Không biết vì sao bỗng làm cho tôi thấy ghê tởm quá chừng.
    Điều cần thiết là tôi phải làm sao chôn vùi cái cảm nghĩ có chính nghĩa của Tsurukawa trước khi nó phát lộ ra.
    “Nhưng cậu có thực nghĩ là Lão sư phụ tin rằng tớ đã làm bậy như thế không?” Tôi hỏi.
    “Ừ nhỉ,” Tsurukawa nói, nghĩ đến đó chợt lúng túng.
    “Kẻ khác cứ việc mà nói ra nói vào sau lưng tớ. Chừng nào Lão sư phụ còn thấy rõ đầu đuôi câu truyện, tớ còn cảm thấy an tâm. Tớ nghĩ thế đó.”
    Do đó, tôi đã nói cho Tsurukawa tin chắc rằng nó càng cố gắng bênh vực cho tôi bao nhiều thì thực ra nó càng khiến thiên hạ thêm nghi ngờ tôi bấy nhiêu. Tôi nói đúng ra chỉ Lão sư phụ biết rõ là tôi vô tội nên ông đã cố giữ im lặng và hoàn toàn không đá động gì đến câu truyện đó nữa. Lúc tôi nói lòng tôi tràn ngập vui sướng, và niềm vui này dần dần bắt rễ vững vàng, sâu xa trong lòng. Nguồn vui đó đã nói: “Không có một ai mục kích hết. Không có một chứng nhân nào hết.
    Tuy nhiên, chẳng những không tin là chỉ riêng Lão sư phụ tin tưởng rằng tôi vô tội mà ngược lại: tôi nghĩ là chỉ riêng có một mình ông biết chắc rằng tôi đã phạm tội. Việc ông không thèm nhắc đến vấn đề tự nó đã biện minh cho điều suy đoán này. Có lẽ ông đã thấy rõ hết đầu đuôi câu truyện rồi khi tôi đem dâng ông hai tút thuốc lá Chesterfields ấy, có lẽ ông bỏ qua không nhắc nhở gì đến câu truyện là vì ông đang từ xa thầm lặng chờ đợi tôi tự ý tìm tới sám hối với ông. Không phải chỉ có vậy mà thôi. Có lẽ việc ông tiến dẫn cho tôi lên đại học cũng chỉ là cái mồi để nhử tôi sám hối, ông sẽ rút lại lời tiến dẫn để trừng phạt sự không ngay thẳng của tôi; tuy nhiên, nếu tôi thực tâm sám hối, và nếu ông nghĩ rằng tôi đã thực sự ăn năn, sửa lỗi, chắc ông sẽ, như một đặc ân, tiếp tục tiến dẫn cho tôi lên đại học.
    Cái bẫy to lớn hơn hết chính là việc Lão sư phụ dặn ông Phó ti đừng có nói cho tôi biết gì về việc ấy. Một mặt, nếu quả thực tôi vô tội thì tôi có thể sống bình thản ngày này qua ngày khác, không cần biết hoặc cảm thấy có gì bất thường đã xẩy ra hết. Mặt khác, nếu tôi có hành vi không nên không phải, nếu quả thực tôi có chút trí tuệ tôi sẽ phải khéo léo làm ra vẻ đang sống trong một trạng thái tâm linh thực là trầm mặc và thuần khiết, chứng tỏ rõ rệt là mình không có lỗi lầm gì - nói cách khác, cái tâm trạng của một người nào đó chẳng có gì phải sám hối cả. Ừ mà phải, tôi nên giả vờ như vậy đối với tôi. Đó là phương cách hoàn toàn nhất, đó là phương cách duy nhất khiến cho tôi có thể tỏ ra mình vô tội. Lão sư phụ đang nói bóng gió ghê gớm lắm. Đó là cái bẫy ông giương ra để dẫn dụ tôi bước vào. Nghĩ đến đây, tôi giận điên người lên. Bởi vì chẳng phải là vì tôi không thể bào chữa cho hành vi của mình. Nếu tôi không giẫm chân lên mình đứa con gái kia thì có thể thằng lính Mỹ đã móc súng ra đe dọa mạng sống của tôi. Hơn thế, ai mà dám chống đối Quân đội chiếm đóng. Những gì tôi đã làm chẳng qua là vì bị ép buộc cả.
    Nhưng cảm thấy cái bụng cô gái dưới đế giầy cao su, cảm thấy sức dẽo dai mềm mại như nịnh nọt của thịt da nàng, cảm thấy tiếng rên rỉ phát ra từ thân hình ấy, thật giống như một bông hoa bằng thịt bị vò bóp sắp sửa bừng nở; cái cảm giác ngây ngất, choáng váng của các giác quan tôi, cái cảm giác ấy lúc giống như một tia chớp huyền bí nào đó lướt qua từ thân thể người con gái vào chính thân xác tôi - tôi không thể bảo tôi đã thưởng thức tất cả việc đó vì bị cưỡng ép. Đến bây giờ tôi chẳng thể quên được cái khoảnh khắc ngọt ngào tươi đẹp ấy. Lão sư phụ biết rõ tới tận hạch tâm cảm giác của tôi và ông biết rõ tới hạch tâm của sự ngọt ngào tươi đẹp đó. Suốt năm sau tôi như con chim bị nhốt trong lồng. Tôi luôn luôn thấy cái lồng ở trước mặt. Đã quyết tâm không bao giờ sám hối nên suốt ngày không lúc nào tôi sống thanh thản. Thật là một sự lạ lùng. Cái hành vi ấy của tôi vào lúc ấy không làm cho tôi có chút cảm giác tội lỗi nào cả, cái việc giẫm chân lên bụng người con gái đã dần dần bắt đầu rực sáng trong ký ức tôi. Thực không phải chỉ vì tôi biết rằng kết quả là cô gái bị đọa thai. Bởi lẽ việc làm của tôi đọng lại như những hạt cát vàng chìm đọng trong ký ức tôi và bắt đầu tỏa ra một tia sáng lấp lánh luôn luôn bắn thẳng vào mắt tôi. Vẻ óng ánh của tội ác. Phải, chính nó đấy. Có thể đây chỉ là một tội ác rất nhỏ bé, song lúc này, tôi ý thức rõ rệt tôi đã thực sự phạm tội ác. Ý thức này treo lơ lửng giống như một tấm huân chương nào đó ở bên trong ngực tôi.
    Còn về những vấn đề thực tế đối với tôi cho tới khi tôi qua kỳ thi vào đại học Otani bây giờ không có gì đáng kể, ngoại trừ việc phải sống trong một tâm trạng bối rối, cố gắng hết sức mình mò mẫm đoán xem ý hướng Lão sư phụ đối với tôi ra sao, không có một lần nào Lão sư phụ nói lời trái ngược lời hứa của ông cho tôi lên đại học. Mặt khác, không có lần nào ông nói điều gì liên quan đến truyện chuẩn bị cho tôi thi vào đại học. Tôi nóng lòng chờ đợi Lão sư phụ nói điều gì đó về mình biết là bao nhiêu dù điều đó có thế nào đi nữa! Nhưng ác hại thay ông cứ giữ im lặng và bắt tôi phải chịu sự khảo vấn vĩnh cửu đó. Còn về phần tôi trong lúc đó có lẽ vì hãi hùng, có lẽ vì muốn phản kháng, tôi không muốn hỏi Lão sư phụ về ý hướng của ông. Ngày trước tôi nghĩ đến Lão sư phụ với kính ý thường lệ, nhưng có nhiều lúc tôi đã nhìn ông với con mắt phê phán. Nhưng bây giờ ông đã dần dần mang một dáng vẻ quái vật to lớn kinh khủng nên tôi chẳng còn tin được rằng trong cái hình dáng ấy lại có một trái tim bình thường của người đời. Tuy biết bao lần đã cố gắng tránh né không để mắt nhìn, song hình thù ấy vẫn cứ lù lù hiện ra trước mắt tôi giống như một lâu đài kỳ quái.

    Truyện xảy ra cuối thu. Lão sư phụ được người ta mời đến đám tang một đàn gia quen biết lâu ngày; và vì phải đi mất hai giờ đi xe lửa mới tới nơi nên chiều tối hôm trước ông đã cho mọi người biết ông sẽ rời chùa ra đi vào lúc năm giờ rưỡi sáng hôm sau, ông Phó ti sẽ đi theo Lão sư phụ. Để sửa soạn cho kịp lúc Lão sư phụ xuất môn, tất cả chúng tôi đều thức dậy lúc bốn giờ, quét dọn sửa soạn bữa ăn sáng. Vừa rời khỏi giường, chúng tôi liền bắt đầu tụng “triêu khóa” kinh trong khi ông Phó ti sửa soạn hành trang cho Lão sư phụ. Từ trong khố lý giá lạnh tối om của chiếc gầu múc nước kêu cót két liên hồi vọng lại. Chúng tôi vội vã rửa mặt. Tiếng gà gáy trong sân xuyên thủng màn tối của buổi sớm cuối thu, trong âm thanh ấy có một vẻ trắng trong và tươi mát.
    Chúng tôi vén tay áo lên, rồi vội vã tập trung quì trước bàn thờ trong khách điện. Trong cái giá lạnh của buổi bình minh những chiếc chiếu cói trong căn đại điện, trên đó không có ai nằm, có một cảm giác đặc biệt như thể chúng muốn xô đẩy không muốn da thịt con người sờ vào. Còn ngọn nến trên bàn thì lung linh. Chúng tôi cung kính lễ. Thoạt tiên, chúng tôi đứng cúi đầu, rồi quỳ trên chiếu và cúi đầu vài ba lần theo tiếng chiêng.
    Trong tiếp hợp xướng của đàn ông cùng nhau tụng kinh vào triêu khóa luôn luôn tôi nhận thấy có một cái gì tươi mát. Những bài kinh buổi sáng ấy là những bài kinh tụng lớn giọng nhất trong ngày. Những giọng nói mạnh mẽ ấy dường như đang thổi tan tất cả những vọng niệm đã tập trung lại trong đêm, và thật như thể có một tia nước màu đen từ thanh đới những người đang tụng niệm bắn phọt ra tung tóe khắp nơi. Tôi không biết gì về chính tôi nữa. Tôi không biết, tuy nhiên tôi cảm thấy phấn khởi lạ kỳ khi nghĩ rằng giọng nói của tôi đang xua đuổi, đánh tan cùng những tư tưởng tà ác của đàn ông con trai như những người khác.
    Trước khi chúng tôi chấm dứt buổi “chúc tọa”, Lão sư phụ đã sẵn sàng rời chùa đi ra đi. Theo tục lệ tất cả những người trong chùa đều ra sắp hàng nghiêm chỉnh ngoài huyền quan để tiễn đưa ông. Trời hãy còn tối. Bầu trời còn sao. Dưới ánh sao sáng bờ đường lát đá trải dài mơ hồ đến cửa Sơn Môn, những bóng cây lịch to lớn, những cây mai và những cây tùng vươn rộng ngoằn ngoèo trên mặt đất, bóng này tan biến vào bóng kia ở bên cạnh che kín cả mặt đất. Cái áo len của tôi có nhiều lỗ thủng, 季hơi lạnh lùa vào làm cánh tay tôi tê cóng lại.
    Mọi việc đều tiến hành trong im lặng. Chúng tôi cúi thấp đầu chào Lão sư phụ, chúng tôi không nói năng gì; ông đáp lại vài lời hầu như không nghe thấy rõ. Rồi tiếng guốc Lão sư phụ và ông Phó ti chìm lặng dần đi, khi hai người xa dần trên con đường trải đá. Theo nghi lễ Thiền gia người ta chờ cho đến khi người mình tiễn đưa đã hoàn toàn mất hút ở đàng xa rồi mới trở về. Bây giờ theo rõi hai hình bóng đang đi xa ấy, chúng tôi không thể nhìn thấy toàn bộ hình dáng họ. Chúng tôi chỉ còn thấy vạt áo cà sa trắng cùng bít tất trắng của họ. Đến một chỗ nào đó họ dường như mất hút hẳn. Tuy nhiên, đó chỉ vì họ đi khuất sau hàng cây. Sau một lúc vạt áo trắng và những đôi bít tất trắng hiện ra một lần nữa; chẳng hiểu vì sao tiếng chân họ lại vang xa hơn trước. Chúng tôi đứng đó chăm chăm nhìn theo, và hình như đứng đó thật là lâu cho đến lúc hình bóng hai người đi qua tổng môn lần cuối cùng biến hẳn.
    Chính vào lúc này trong da thịt tôi lại nẩy sinh một xung động lạ kỳ. Vừa khi vài lời nói quan trọng đang cố gắng thoát khỏi miệng nhưng bị tiếng nói lắp chặn lại thì cái xung động này nóng ran ở cuống họng tôi. Xung động này là sự khao khát bất ngờ được mong cởi gỡ buông thả. Vào lúc này những tham vọng trước kia của tôi biến hẳn đi - ước muốn vào đại học, và hơn thế, hy vọng Má ngấm ngầm gợi ý mong tôi có thể nối nghiệp Lão sư phụ trụ trì ngôi chùa này. Tôi muốn thoát khỏi một sức mạnh âm thầm nào đó đã chi phối và đè nặng lên tôi.
    Tôi không thể nói rằng vào lúc ấy tôi đang thiếu can đảm. Cái can đảm cần có để thú tội chỉ là một truyện hết sức tầm thường. Đối với một người như tôi đã sống lặng lẽ trong hai mươi năm qua, giá trị của sự sám hối thật nhỏ nhoi. Thiên hạ có thể cho là tôi đang nói quá lời. Tuy nhiên, sự thực là do việc tự mình chống đối thái độ yên lặng của Lão sư phụ và khước từ việc thổ lộ tâm can cho đến lúc ấy tôi chỉ trải qua có một thử thách này: “Liệu ở đời có tội ác hay không?” Nếu tôi cứ khăng khăng cho đến phút chót không chịu sám hối, thì điều đó chứng tỏ rằng tội ác dẫu cho chỉ là một tội nhỏ, thực sự có ở đời. Nhưng khi tôi chợt nhìn thấy qua hàng cây tà áo trắng và những đôi tất trắng của Lão sư phụ đã khuất vào màn tối buổi sớm, cái sức mạnh đang nóng ran trong cuống họng tôi trở nên hầu như không chịu nổi và tôi muốn tỏ bầy hết tất cả. Tôi muốn chạy theo Lão sư phụ, bám chặt tay áo ông rồi lớn giọng kể ông nghe rõ những gì đã xẩy ra vào cái buổi sáng đầy tuyết ấy. Chắc chắn là trong tôi không hề có sự tôn kính nào đó đối với cái người đã khiến cho tôi có ý tưởng này. Sức mạnh của Lão sư phụ giống như một loại cường lực vật lý nào đó.
    Tuy nhiên, ý nghĩ nếu tỏ bầy hết mọi sự thì sẽ đánh tan ngay các tội lỗi nhỏ nhoi đầu tiên trong đời mình lại làm tôi trù trừ. Và tôi cảm thấy có cái gì đang giật mạnh đằng sau lưng. Rồi hình bóng Lão sư phụ đi qua tổng môn và tan biến dưới bầu trời hãy còn mù mịt.
    Tất cả ai nấy đều cảm thấy nhẹ nhõm, mọi người vội vã chạy xô ra huyền quan đàng trước. Trong lúc đó tôi đứng đó thẫn thờ. Tsurukawa vỗ vào vai tôi. Vai tôi rung lên. Đôi vai gầy guộc xương xẩu ấy của tôi lại hồi phục được niềm kiêu hãnh.
    Như tôi đã nói mặc dù có rất nhiều điêu rắc rối cuối cùng tôi vẫn được vào đại học Otani. Tôi chẳng hề sám hối. Một vài ngày sau, Lão sư phụ gọi Tsurukawa và tôi tới; ông vắn tắt cho hai chúng tôi biết rằng chúng tôi sẽ phải bắt đầu sửa soạn để thi vào trường và trong khi học thi chúng tôi được miễn các công việc trong chùa.
    Thế rồi, tôi trúng tuyển kỳ thi nhập học. Tuy nhiên, việc này chẳng phải là cái cớ để giải quyết mọi khó khăn. Thái độ của Lão sư phụ thật ra chẳng cho tôi biết lấy mảy may là ông nghĩ thế nào về truyện xẩy ra hôm tuyết rơi ấy, mà tôi cũng chẳng thể nào đoán được lòng dạ của ông đối với kẻ kế nghiệp ngày sau ra làm sao nữa.
    Đại học Otani tiêu biểu cho những khúc quanh trong đời tôi. Chính tại đây lần đầu tiên trong đời, tôi làm quen với nhiều tư tưởng, với những tư tưởng chính tôi đã cẩn thận lựa chọn. Otani được xây dựng gần ba trăm năm trước đây vào năm Khoan Văn thứ năm (1663) khi đại học liêu của chùa Chúc Tử Quan Thế Âm được di chuyển tới Chỉ Xác đại dinh ở Kyoto. Từ đó trở đi đại học này sử dụng làm tu đạo viện dành cho đệ tử Bản Nguyện tự của phái Otani. Vào đời Thế thường tông chủ thứ mười lăm của Bản Nguyện tự có một môn đồ tên Soken Takagi trú quán tại Naniwa đã đem lòng hỉ xả đóng góp nhiều công của. Người ta đã đến ở trên miếng đất hiện tại nơi khu Lạc Bắc Ô Hoàn Đầu phía bắc kinh đô rồi xây dựng lại đại học này. Toàn thể khu đất chỉ có bốn mươi nghìn thước vuông, như vậy kể ra không phải là rộng lớn đối với một đại học. Tuy nhiên, chính tại đây rất nhiều thanh niên, không những chỉ thuộc phái Otani mà còn từ mọi tông phái Phật giáo, đã nghiên cứu học hỏi và được huấn luyện về căn bản triết lý Phật giáo.
    Một cái cổng gạch cũ kỹ ngăn khu đại học với đường phố và đường xe điện bên ngoài. Cổng nầy quay về hướng tây trông lên núi Bỉ Duệ. Có một xa đạo trải cát vàng chạy từ cổng lớn vào trong. Đi vào cổng ngoài có một đường cho xe chạy qua cái cổng lớn xe ngựa có thể đi lọt tới ba tòa nhà chính - một kiến trúc hai tầng có mái đỏ cổ lỗ và trầm uất. Trên nóc huyền quan một ngọn tháp bằng đồng xanh dựng đứng thật là hấp dẫn trông không ra một cái tháp chuông mà cũng chẳng ra một ngọn tháp đồng hồ; dưới cây cột thu lôi mảnh mai, một cửa sổ vô dụng hình vuông cắt gọn hẳn một khoảng trời xanh.
    Gần huyền quan có một cây bồ đề lâu đời, cao vút có các tùm lá trang nghiêm óng ánh dưới mặt trời tựa như đồng đỏ. Ban đầu nhà trường chỉ gồm có tòa nhà chính. Sau dần dần xây cất rộng thêm ra nhiều phần chắp nối lại với nhau chẳng theo một trật tự nào cả. Phần lớn là một tòa kiến trúc bằng gỗ, cổ kính. Không ai được phép đi giầy vào bên trong. Tòa nhà có nhiều cánh ăn thông với nhau bằng những hành lang dài như vô tận lát bằng giống tre vì lâu đời nên đã bắt đầu ọp ẹp. Thỉnh thoảng những bộ phận gãy rập đã được sửa sang; vì đó khi đi từ cánh này sang cánh kia người ta như bước lên một khảm gỗ đen bóng gồm đủ mầu đậm nhạt, vì cứ sau một khoảng sàn sắc gỗ cực kỳ lâu đời lại có một khoảng sàn gỗ sắc rất là tươi mới.
    Cũng giống như người mới vào học bất kỳ một trường mới nào, tuy mỗi ngày đều có cảm giác mới mẻ, thích thú, tôi vẫn thấy trong sự vật có một cái gì lang bang, mờ mịt. Chỉ quen biết có một mình Tsurukawa nên tôi chỉ có thể trò chuyện với một mình nó mà thôi. Tuy nhiên, vài ngày sau tôi thấy rằng nếu cứ tiếp tục chỉ có hai đứa với nhau thì thực chẳng bõ cái công phu khó nhọc ngoi đầu lên góp mặt với thế giới mới mẻ này. Hiển nhiên là Tsurukawa cũng cảm thấy như thế, vì vậy bắt đầu từ vài hôm sau đó chúng tôi định tâm là trong giờ nghỉ học, mỗi đứa phải đi một đường và cố gắng khai thác những tình bạn mới. Thế nhưng, vì cái tật nói lắp, tôi không được bạo dạn như Tsurukawa cho nên trong khi nó càng ngày càng có thêm bạn bè thì riêng tôi càng ngày càng cô độc.
    Trong năm học Dự Bị có cả thảy mười môn: Tu thân, Quốc ngữ, Hán văn, Hoa văn, Anh ngữ, Lịch sử, Phật điển, Luận lý, Số học và Thể thao. Ngay từ những ngày giảng nghĩa đầu tiên về luận lý, tôi định tâm mon men làm quen một thằng sinh viên để hỏi đôi ba điều. Từ ít lâu nay tôi hy vọng trở thành bạn thân với thằng này. Thằng sinh viên này luôn luôn ngồi riêng một mình và đem hộp đồ ăn ra cạnh những luống hoa ở vườn đàng sau. Tập quán này của nó giống như một loại nghi thức. Chẳng đứa nào muốn lại gần thằng này, nhất là vì có một cái vẻ vô cùng yếm thế trong cái lối nhìn hết sức vô cùng chán chường vào món ăn của nó. Về phần nó, nó không bao giờ hé miệng chuyện trò với bất cứ thằng bạn học nào và có vẻ như nhất định không thèm nghĩ đến cái việc kết thân với bất kỳ ai.
    Tôi biết tên nó là Kashiwagi. Nét đặc biệt của nó là hai chân hết sức cong queo quặp hẳn vào bên trong. Nó đi đứng vô cùng cẩn thận y như luôn luôn cất bước trong bùn: sau khi xoay xỏa rút một chân khỏi bùn nó mới cắm chân kia xuống. Vào những lúc dó toàn thân nó nhảy nhót, múa may, bước chân đi giống hệt như một lối dẫm chân trong vũ điệu hoàn toàn xa lạ với cuộc sống thường nhật.
    Cố nhiên là ngay từ ngày đầu tiên mới bước chân vào đại học tôi đã phải để ý đến Kashiwagi. Tôi thấy an tâm trước sự tàn tật của nó. Ngay từ đầu cặp chân cong queo của nó đã có nghĩa là đồng ý với điều kiện của chính thân tôi.
    Kashiwagi đã mở hộp đồ ăn trưa trên một khoảng đất đầy kim hoa thảo ở vườn sau. Vườn này nằm sát cạnh một tòa nhà hoang phế, trong đó có nhiều phòng chúng tôi tập võ karaté hoặc đánh bóng bàn nữa; các khung cửa sổ chẳng còn lấy một miếng kính che. Trong vườn có năm sáu cây tùng khẳng khiu và mấy cái khung nhỏ bằng gỗ lửng lơ trên mấy cái giường ngủ trẻ con rỗng không. Nước sơn trên mấy cái khung đã tróc trông khô queo như những bông hoa nhân tạo. Bên cạnh vài ba cái giường ngủ trẻ con trống không là một cái bệ với mấy cái giá ngang dùng làm chỗ xếp mấy chậu lan lùn tịt; gần đó là một đống ngói và sỏi, còn có cả một luống ngọc trâm hoa và một luống dạ hương lan nữa.
    Ngồi trên kim hoa thảo thật thú vị. Những chiếc lá non mềm hút lấy ánh sáng mặt đám kim hoa thảo có đầy những hình ảnh nho nhỏ khiến cho tất cả lối đi như đang nhẹ nhàng bồng bềnh trên mặt đất. Trong lúc ngồi đó Kashiwagi trông chẳng khác gì những sinh viên kia: chỉ khi đi lại mới thấy khác. Khuôn mặt xanh xao của nó có một vẻ đẹp cứng cỏi mạnh mẽ. Về phương diện thể xác, nó là một đứa trẻ tàn tật; tuy nhiên khuôn mặt nó vẫn có vẻ đẹp lạ lùng giống như vẻ đẹp của một người đàn bà duyên dáng. Những người què quặt và những người đàn bà xinh đẹp thường không thích bị người ta ngắm nhìn mình mãi, họ chán ngấy cái cuộc đời cứ bị thiên hạ dòm ngó mãi mãi không thôi, họ có cảm tưởng bị vây hãm và họ đáp lại ánh sáng của thiên hạ bằng chính cuộc sống của mình. Kẻ nào nhìn là kẻ ấy thắng. Kashiwagi đang nhìn xuống khi ăn cơm trưa; tuy nhiên, tôi cảm thấy đôi mắt nó đang nhìn soi mói tất cả thế giới xung quanh.
    Nó có vẻ tự mãn trong lúc ngồi đó dưới ánh sáng chói chan. Đó là ấn tượng đã thu hút tôi mạnh mẽ. Chỉ cần nhìn nó ngồi giữa đám hoa dưới ánh sáng trời xuân là tôi có thể nói ngay rằng nó không hề cảm thấy chút thẹn thùng hoặc chút tội lỗi giấu giếm nào như tôi vẫn thường thấy. Nó là một cái hình bóng có chủ trương, hoặc hơn thế nữa, nó chính là hình bóng của chính hiện hữu. Chắc chắn ánh sáng mặt trời chẳng bao giờ có thể xuyên vào các lớp da cứng cáp của nó được.
    Món ăn mà nó đang dốc một lòng ngồi ăn với một vẻ chán chường cho đến thế xem ra có vẻ thực tồi tệ. Tuy nhiên, cũng chẳng tồi tệ cho bằng bữa ăn tôi vẫn thường tự dọn cho mình mỗi sáng bằng những đồ ăn thừa trong bữa điển tọa buổi sớm trong chùa. Lúc đó và năm Chiêu Hòa thứ 22 (1947) trừ khi tìm mua được thực phẩm ở ngoài chợ đen, người ta không thể nào ăn uống đầy đủ được. Tôi đứng bên cạnh Kashiwagi hai tay cầm quyển vở và cái hộp đựng bữa thức ăn trưa. Bóng tôi hắt xuống che lấp món ăn làm Kashiwagi ngửng mặt lên nhìn. Nó tiếp tục nhấm nhót đều đều giống hệt con tằm nhai lá dâu vậy.
    “Xin lỗi,” tôi lắp bắp kinh khủng, “tôi muốn hỏi anh một vài điểm trong bài giảng hôm nay, tôi chưa hiểu rõ cho lắm.” Tôi nói bằng giọng tiêu chuẩn Tokyo, vì tôi quyết định, sau khi vào đại học, không dùng thổ ngữ Kyoto nữa.
    “Tôi chẳng hiểu anh đang nói cái quái gì cả,” Kashiwagi nói. “Tôi chỉ nghe thấy toàn một chuỗi lắp bắp.”
    Tôi cảm thấy mặt mình đỏ ửng lên. Le lưỡi liếm đầu đũa. Kashiwagi tiếp tục: “Tôi hiểu rõ tại sao anh lại bắt chuyện với tôi, Mizoguchi ạ - đó là tên anh phải không? Được, nếu đằng ấy nghĩ chúng mình cần trở thành bè bạn chỉ bởi vì hai thằng ta đều tật nguyền thì tớ chẳng thèm để ý làm gì. Nhưng so với sự bất hạnh của tớ, cậu có cho là cái tật nói lắp của cậu thực sự to truyện đến như thế hay không? Cậu để ý nhiều đến bản thân mình có phải không? Do đó, cậu đã làm to truyện quá về cái tật nói lắp cũng như về chính bản thân mình.”
    Về sau, khi khám phá ra rằng Kashiwagi xuất thân từ một gia đình Thiền phái cũng thuộc tông Lâm tế, tôi nhận thấy trong những câu vấn đáp đầu tiên này nó có ít nhiều dáng vẻ đặc biệt của tăng sĩ Thiền phái; tuy nhiên, tôi chẳng thể phủ nhận cái ấn tượng mảnh liệt mà nhận xét của nó đã gây ra trong con người tôi vào lúc ấy.
    “Nói lắp!” nó nói. “Cứ nói lắp bừa đi!”
    Tôi lắng nghe rất đỗi ngạc nhiên đối với cái cách tỏ bày lý thú của nó.
    “Ít nhất cậu đã gặp một đứa để yên tâm tha hồ mà nói lắp. Có phải thế không nào? người đời đều như thế cả, cậu ạ. Con người thảy đều muốn tìm kiếm người đồng hội đồng thuyền. Mà này, cậu có còn là trai tân không vậy?
    Tôi gật đầu mà chẳng hề mỉm cười. Kashiwagi đặt câu hỏi theo lối một bác sĩ khiến tôi cảm thấy chẳng nên nói dối làm gì.

  6. #6
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    “Ừ, tớ cũng nghĩ thế,”nó nói. “ Vậy ra cậu hãy còn đồng trinh. Nhưng cậu không phải là một đồng trinh xinh đẹp. Quanh cậu chẳng có cái cóc gì là đẹp đẽ hết. Cậu không thành công với bọn con gái và cậu đâu có gan giao thiệp với gái làng chơi. Tất cả vấn đề chỉ có vậy. Nhưng nếu cậu nghĩ khi bắt chuyện với tớ là cậu sắp sửa kết thân với một thằng đồng trinh khác thì cậu lầm bét. Cậu có thích nghe câu truyện tớ đã mất tân ra làm sao không?
    Chẳng đợi cho tôi trả lời, Kashiwagi nói tiếp liền.
    “Tớ là con trai một tu sĩ Thiền phái ở Samnomiya và ngay khi ra đời tớ đã bị tật nguyền ở chân rồi. khi cậu nghe thấy tớ kể lể như thế này, chắc cậu lại tưởng tượng tớ là một thằng ốm yếu đáng thương nào đó chẳng cần biết là mình đang nói chuyện với ai miễn là có người để dốc bầu tâm sự về chính mình. Này, tớ không phải là thằng như thế đâu nhá. Tớ chẳng hề nói chuyện như thế này với bất kỳ ai đâu. Nói ra tớ cũng thấy khỉ khỉ thế nào ấy, nhưng sự thực là ngay từ đầu tớ đã nhắm chọn cậu để cho cậu nghe câu truyện của tớ. Thấy không, tớ loáng thoáng cảm thấy rằng khi biết tớ đã làm những gì thì cậu sẽ học được nhiều cái hay hơn bất kỳ ai khác. Tốt nhất là cậu nên làm y hệt như tớ. Như cậu thừa rõ, đó là cái cách những nhà tôn giáo đã đánh hơi tìm kiếm tín đồ và đó là cái cách những tay không uống rượu đã đánh hơi tìm những người đồng hội.
    “Ấy đấy, tớ vẫn thường xấu hổ về những điều kiện sinh sống của mình. tớ nghĩ rằng hòa giải bản thân mình với những điều kiện ấy, sống ôn hòa với những điều kiện ấy tức là tiêu biểu cho sự thất bại. Nếu tớ muốn oán hận thì tất nhiên chẳng thiếu gì lý do. Đáng lẽ cha mẹ tớ đã phải lo liệu nhờ nhà thủ thuật uốn nắn lại đôi chân cho tớ ngay khi tớ còn nhỏ xíu. Bây giờ thì muộn quá mất rồi. Tuy nhiên, tớ hoàn toàn đếch có quan tâm gì đến cha mẹ và ý tưởng oán hận cha mẹ làm tớ khó chịu lắm.
    “Tớ vẫn thường tin rằng đàn bà con gái chẳng bao giờ có thể yêu tớ được. Cậu thừa hiểu, tin tưởng như thế lại làm cho mình dễ chịu hơn và an vui hơn là người ta có thể tưởng tượng. Hiển nhiên là không nhất thiết phải có mâu thuẫn nào giữa sự tin chắc này với việc tớ không chịu hòa giải với những điều kiện sống của tớ. Cậu thấy đấy, nếu như tớ đã tin tưởng rằng đàn bà con gái có thể yêu mình như tớ nghĩ, thế nghĩa là, trong những điều kiện sinh sống của mình, rồi đến giới hạn mà tớ có thể tin tưởng được, có lẽ tớ sẽ hòa giải với những điều kiện ấy. Tớ nhận thấy rằng hai loại can đảm - cái can đảm phán đoán thực tại chính xác, và cái can đảm chiến đấu chống lại sự phán đoán ấy - có thể thuận hợp vói nhau rất dễ dàng. Chẳng cần nhúc nhích, tớ cũng có thể có được những cảm tưởng là mình đang chiến đấu.
    “Vì tớ như thế, nên dĩ nhiên là tớ sẽ chẳng thể mất tân với gái làng chơi như nhiều thằng bạn tớ. Đương nhiên, điều ngăn cản tớ ấy là việc chị em ta không ăn nằm với khách buôn hoa vì thương yêu họ. Đối với các ả thì ai cũng là khách cả, nào những ông già lọm khọm, nào những tên ăn mày, nào những thằng chột mắt, nào những chàng trai bảnh bao - ngay cả những thằng hủi. Sự tiếp đãi bình đẳng này sẽ khiến đa số người đời an tâm; họ sẽ vui vẻ tiến tới mà mua cho kỳ được những người đàn bà đầu tiên họ gặp. Nhưng riêng tớ, tớ cóc có khoái sự bình đẳng này. Cứ nghĩ một người đàn bà lại tiếp đón người đàn ông hoàn toàn bình thường và một người nào giống như tớ trên căn bản bình đẳng là tớ không thể chịu nổi. Đối với tớ thế thật giống một sự tự mình khinh nhờn rất đáng ghê sợ. Cậu thấy đấy, tớ lo sợ là nếu người đời bỏ qua hoặc không thấy tình trạng tật nguyền của tớ, chỉ hiểu theo nghĩa đặc biệt mà thôi, thì tớ sẽ không tồn tại nữa. Đó cũng là mối sợ hãi đang chất nặng trong lòng cậu vào lúc này có phải vậy không? điều kiện cho tớ được người đời hoàn toàn công nhận và chấp nhận thì mọi việc cần phải được thu xếp sao cho thừa thãi, xa xỉ hơn gấp bội người khác. Tớ nghĩ dù cho có xẩy ra điều gì đi nữa thì đó cũng là cái lề lối mà cuộc đời phải dành ra cho tớ.
    “Hẳn rằng khắc phục cái cảm giác bất mãn kinh khủng của tớ - bất mãn ở chỗ thế giới và tớ đã bị đặt vào một trạng thái đối lập - có lẽ cũng không phải là điều không thể làm được. Kể cũng có thể làm được nếu thay đổi chính tớ hoặc thế giới. Nhưng tớ lại ghét mộng tưởng đến những đổi thay như vậy. Tớ ghê tởm những giấc mơ dớ dẫn thuộc loại này. Sau khi đã nghĩ rất nhiều, tớ đi đến sự tin tưởng chắc chắn rất phù hợp lý luận là nếu thế giới thay đổi, tớ sẽ không tồn tại nữa. Kể cũng nghịch thường lắm, kết luận này tiêu biểu cho một thứ hòa giải, một thứ dung hòa. Cậu ạ, nói trắng ra thế giới có thể sống chung với cái ý nghĩ giống như tớ thấy là tớ chẳng bao giờ có thể được ai yêu. Và sau cùng một người tật nguyền sẽ rơi vào cái bẫy không ở chỗ người ấy giải tiêu cái trạng thái đối lập giữa mình và thế giới, mà chính ở chỗ nó mang hình dáng chấp nhận hoàn toàn sự đối lập này. Đó là lý do khiến một người tật nguyền trở thành bất trị.
    “Ừ, chính vào cái tuổi thanh xuân của tớ - tớ dùng những chữ này sau khi cân nhắc kỹ càng - một điều hết sức khó tin đã xẩy ra cho tớ. Có một người con gái xinh đẹp nổi tiếng con một đàn gia giầu có thuộc chùa nhà tớ, đã tốt nghiệp trường nữ trung học Kobe, bất ngờ một hôm thổ lộ cho tớ hay rằng nàng yêu tớ. Thoạt nghe tớ không thể tin chính đôi tai mình nữa. Vì sự bất hạnh của mình, tớ là tay thành thạo đo lường tâm lý người khác. Vì thế, tớ đã không ngốc nghếch gạt bỏ tất cả câu truyện, như nhiều người thường làm, bằng cách nghĩ rằng nàng yêu tớ hoàn toàn chỉ do đồng tình với tớ. Tớ đã biết rất rõ rằng không một người con gái nào lại yêu tớ chỉ vì đồng tình với tớ. Bởi thế, tớ đoán nguyên nhân khiến nàng yêu tớ chỉ là tấm lòng tự tôn rất khác thường của nàng. Thiếu nữ này ý thức rõ rệt, sắc đẹp và giá trị của mình, song nàng không thể chấp nhận bất kỳ một kẻ nào mong được thương yêu mà lại tỏ ra có lòng tự tin. Nàng nhất định chẳng chịu để người ta bắc cân bắc lạng đem sánh lòng tự tôn của mình với tính hợm hĩnh của một chàng trai tự tin nào đó mong được thương yêu. Nàng may mắn có rất nhiều mối lương duyên nhưng những mối ấy càng hay bao nhiêu thì nàng lại càng ghét bấy nhiêu. Rốt cuộc, nàng khăng khăng cự tuyết bất kỳ mối tình nào có vẻ dính dáng đến sự bằng vai phải lứa - và rồi để tớ lọt vào mắt xanh.
    “Tớ đã biết sẵn phải trả với nàng như thế nào. Cậu có thể cười tớ, nhưng tớ chỉ cộc lốc bảo: ‘Tôi không yêu cô’ Liệu tớ còn có thể trả lời gì hơn? Câu trả lời này thành thực và hoàn toàn không có chút vờ vĩnh. Bởi lẽ, nếu như tớ đã quyết tâm không bỏ lỡ một cơ hội tốt và khi nàng tỏ tình nếu như tớ đáp lại rằng: ‘ Anh cũng yêu em’ thì sẽ lố bịch hết chỗ nói, gần như là có vẻ bi thảm nữa. Những thằng con trai trông có dáng hoạt kê như tớ thường có tài tránh né khéo léo để khỏi tỏ ra bi thảm vì lầm lẫn. Tớ biết chắc chắn rằng một khi tớ bắt đầu lộ vẻ bi thảm thì người đời sẽ không còn cảm thấy an lòng trong khi tiếp xúc với tớ nữa. Đối với tâm hồn kẻ khác, điều trọng yếu đặc biệt là không bao giờ tớ tự tỏ ra là một con người tàn phế đáng thương hết. Đó là lý do tại sao tớ dứt khoát cự tuyệt: ‘Tôi không yêu cô!’
    “Cô bé chẳng hề lùi bước vì câu trả lời của tớ. Chẳng một phút trù trừ, nàng bảo ngay là tớ nói dối. Thật là một cảnh sống động khi nhìn nàng giở đủ mọi trò để cố gắng thuyết phục tớ trong khi vẫn dụng tâm để khỏi làm thương tổn lòng tự tôn của tớ. Cô bé không thể tưởng tượng rằng trên đời này có một thằng con trai lại có thể không yêu mình khi hắn có cơ hội. Nếu thực có một thằng như thế, ắt là nó chỉ có thể tự lừa dối chính nó mà thôi. Và thế là nàng tiếp tục phân tích tỉ mĩ, rồi rút cuộc đi đến kết luận là thực ra tớ đã đem lòng yêu nàng từ trước. Nàng là một thiếu nữ thông minh. Cho rằng đã thực sự yêu tớ, nàng hẳn phải nhận ra là nàng đang yêu một người hết sức khó mà ai vói tới. Hầu như bất kỳ điều gì nàng nói cũng sai bét cả. Nếu nàng bảo rằng tớ có một bộ mặt xinh trai trong khi thực ra tớ làm gì có được, hẳn là nàng sẽ làm tớ nổi giận. Nếu nàng bảo đôi chân què của tớ đẹp mắt dễ coi thì càng làm tớ nổi giận hơn nữa. Và nếu nàng làm cái điều không yêu tớ vì ngoại mạo mà vì nội tâm có lẽ nàng sẽ làm tớ nổi giận thực sự. Tuy nhiên, nàng đã khám phá thấy một cảm tình đối ứng bên trong con người tớ, cảm tình ấy đối với sự thương yêu của nàng.
    “Tớ không hề chấp nhận điều bất hợp lý này. Đồng thời, tớ lại đâm ra thèm muốn cô bé dữ dội, tuy nhiên, tớ không nghĩ rằng cái dục vọng ấy sẽ đem cô bé lại gần tớ. Tớ chợt nhĩ nếu nàng thực lòng yêu tớ và không yêu một người nào khác tất là tớ hẳn phải có một vài đặc điểm cá biệt nào làm cho tớ khác hẳn những người khác. Như vậy còn là cái gì ngoại trừ đôi chân què của tớ. Bây giờ, theo như chỗ suy nghĩ riêng tư của tớ, điều này thật hoàn toàn không thể chấp nhận được. Nếu đặc điểm cá biệt của tớ không thực sự ở đôi chân què thì có lẽ tình yêu này có thể chấp nhận được. Song le, nếu tớ phải công nhận đặc điểm cá biệt của mình - lý do tồn tại của tớ - như là nằm ở chỗ nào đó ngoài cặp chân tàn tật thì điều này chỉ là một thứ công nhận bổ túc mà thôi. Như vậy, tất nhiên tớ sẽ đi tới chỗ công nhận lý lẽ tồn tại của người khác cũng theo cái lối bổ túc này, và rồi sẽ tới chỗ tớ công nhận luôn một cái ngã nằm gọn lọn bên trong thế giới. Vậy thì không thể có tình yêu được. Điều nàng nghĩ là nàng yêu tớ chẳng qua chỉ là một cảm giác sai lầm; và tớ không thể làm sao yêu nàng được. Do đó, tớ cứ tiếp tục lặp lại: Tôi không yêu cô.’
    “Kể cũng kỳ lạ, tớ càng bảo tớ không yêu nàng thì nàng lại càng đắm chìm trong cảm giác sai lầm là nàng yêu tớ. Và rút cuộc, một tối, chẳng lý luận gì nữa nàng đem thân tới trước mặt tớ. Nàng hiến dâng thân mình cho tớ; tớ có thể nói đó làm một thân mình cực kỳ đẹp đẽ. Thế nhưng khi cần hành sự, tớ lại cóc làm được gì được.
    “Sự thất bại khủng khiếp này của tớ khiến cho câu truyện được giải quyết một cách dễ dàng. Thấy lời tớ nói ‘tôi không yêu cô’ đã được chứng minh, nàng bỏ tớ đi luôn.
    “Tớ lấy làm xấu hổ vì sự bất lực của mình, tuy nhiên, so sánh với sự xấu hổ vì đôi chân tàn tật thì chẳng có gì đáng nói. Điều thực sự làm tớ khốn đốn là cái gì khác hẳn cơ. Tớ hiểu lý do đã làm tớ bất lực. Đó là ý nghĩ đôi chân tật nguyền của tớ áp vào đôi chân trần trụi xinh đẹp của nàng trong lúc hành sự. Và bây giờ sự phát giác này hoàn toàn tiêu hủy sự yên bình bên trong tớ đã từng làm tớ tin chắc rằng tớ chẳng bao giờ được một người đàn bà yêu.
    “Vào lúc ấy, cậu ạ, tớ cảm thấy một niềm vui không thành thật khi nghĩ rằng do dục vọng của mình - do ý muốn chạy theo dục vọng của mình - tớ đã chứng thực được tính bất khả của tình yêu. Nhưng da thịt tớ đã phản bội lại tớ. Điều tớ muốn làm bằng tinh thần mình thì da thịt tớ đã làm thay mất rồi. Và do đó tớ bị đặt trước một mâu thuẫn khác. Nói một cách có vẻ hơi phàm tục, từ trước đến giờ tớ đã mơ tưởng đến tình yêu trong tin tưởng sắt đá rằng tớ không thể được ai yêu, nhưng chung cuộc tớ đã đem dục vọng thay thế cho ái tình, và rồi cảm thấy an lòng. Nhưng kết cục tớ đã hiểu rằng dục vọng tự nó cũng đòi hỏi phải được thỏa mãn, tớ đã phải quên đi những điều kiện sinh sống của mình và phải từ bỏ cái đã tọa nên trở ngại duy nhất dẫn tới tình yêu đối với tớ nghĩa là điều tin tưởng rằng tớ sẽ không được ai yêu. Tớ đã luôn luôn nghĩ tới dục vọng như làm một cái gì sáng sủa rõ ràng hơn chính bộ mặt thực của nó, song tớ đã không nhận thấy rằng dục vọng đòi hỏi người ta phải nhìn thấy chính mình theo một lối mờ mờ ảo ảo như trong mộng vậy.
    “Từ đó trở đi, tớ lại quan tâm tới nhục thể nhiều hơn tinh thần tớ. Tuy nhiên, tớ không thể trở thành một sự hóa thân của dục vọng thuần túy. Tớ chỉ có thể mơ tưởng về điều đó. Tớ hóa ra như luồng gió. Tớ trở thành một vật mà những người khác không thể nhìn thấy, nhưng tự nó nhìn thấy mọi vật, nó nhẹ nhàng tiến lại gần đối tượng, âu yếm vỗ về toàn thân và rồi sau hết thẩm nhập vào phần sâu kín nhất bên trong đối tượng. Nếu tớ có nói đến sự tự giác về nhục thể, tớ mong rằng cậu sẽ tưởng tượng ra một sự tự giác có liên quan tới một vật có chất lượng đục ngầu, vững chắc nào đó. Nhưng tớ không giống cái đó. Đối với tớ, ý thức chính mình như một nhục thể duy nhất có nghĩa là tớ lại trở thành trong suốt, vô hình, nói khác đi, giống như một làn gió.
    “Nhưng đôi chân què quặt của tớ luôn luôn tự tỏ ra là một chướng ngại vật to lớn. Riêng chúng chẳng bao giờ có thể trở thành trong suốt. Dường như chúng không giống chân người cho bằng một cặp tinh thần ngoan cố. Chúng là thế đấy - nhưng đối tượng còn chắc chắn hơn cả chính nhục thể của tớ.
    “Có nhẽ người đời nghĩ rằng họ không thể nhìn thấy chính mình trừ phi có tấm gương. Nhưng đã là một đứa tàn tật thì luôn luôn có một tấm gương ngay trước mũi rồi. Toàn thân tớ phản ảnh một tấm gương ấy trong từng giờ từng phút. Chẳng làm sao có thể quên được. Kết quả là cái mà thế gian cho là bất an thì đối với tớ chỉ là thứ trò chơi trẻ con. Trong trường hợp của tớ, chẳng làm gì có sự bất an. Bảo rằng tớ hiện hữu trong hình thức này là một sự kiện rõ rệt, rõ rệt như sự hiện hữu của mặt trời, như trái đất hoặc những con chim xinh đẹp và những con cá sấu xấu xa. Thế giới im lìm như một tấm mộ bia vậy.
    “Chẳng có chút bất an cũng chẳng hề có chút vững bước - đó là phương cách sinh hoạt độc sáng của tớ. Tớ sống để làm cái quái gì? Nghĩ đến chuyện ấy, người đời sẽ cảm thấy khó chịu và còn tự sát nữa. Những điều đó cóc có làm tớ bực bội, thắc mắc chút nào. Có được đôi chân què quặt - đó là điều kiện, đó là lý do, mục đích, lý tưởng của cuộc sống; đó là chính cuộc sống vậy. Chỉ nguyên một việc sinh ra trên đời, sống ở trên đời, cũng đã làm tớ thỏa mãn. Trước tiên, có phải cái cảm giác khó chịu đối với sự hiện hữu của chính mình sự bắt nguồn từ một thứ xa xỉ cho là mình không thể sống được một cách trọn vẹn?
    “Tớ bắt đầu để ý một quả phụ già sống một mình cùng một thôn với tớ. Người ta bảo bà ấy sáu mươi tuổi, hoặc theo vài người còn già hơn thế nữa. Ngày giỗ bố bà ta tớ được mời tới nhà tụng kinh thay cho bố tớ. Không một người thân thích nào của bà ta tới dự lễ, và chỉ có người đàn bà già ấy và tớ trước bàn thờ thôi. Khi tớ tụng kinh xong bà ta mời tớ sang phòng riêng uống trà. Vì hôm đó là một ngày hè nóng bức, tớ mới hỏi bà ta liệu có nước cho tớ tắm một cái hay không. Tớ cởi quần áo ra và người đàn bà lấy nước lạnh dội lên lưng tớ. Tớ để ý bà ta nhìn chăm chăm vào đôi chân tớ với con mắt có thiện cảm, tức thì trong lòng tờ nẩy ra một kế hoạch.
    “Tắm rửa xong xuôi tớ trở lại căn phòng chỗ ban nẫy hai người đã ngồi. Trong khi lau mình cho khô, tớ lên giọng thịnh trọng trang nghiêm mà nói với bà ta rằng khi sinh ra tớ má tớ đã nằm mộng thấy đức Phật hiện lên phán rằng khi đứa trẻ này khôn lớn, người đàn bà nào thành tâm tôn thờ đôi chân nó thì khi nhắm mắt sẽ được vãng sinh cực lạc. Trong khi tớ nói, quả phụ già nua ngoan đạo tay cầm tràng hạt mắt chăm chăm nhìn vào mắt tớ. Tớ nằm ngữa trần truồng ngay đơ như một xác chết; hai tay chắp lên ngực nắm chặt chuỗi tràng hạt và tớ khe khẻ lẫm nhẩm bài kinh bố láo. Hai mắt tớ nhắm nghiền, đôi môi tớ tiếp tục lẩm nhẩm đọc kinh.
    “Cậu có thể tưởng tượng tớ muốn phá ra cười đến mức độ nào. Tớ buồn cười đến vỡ bụng. Tớ chẳng hề có chút mộng tưởng nào về mình cả. Tớ biết rằng bà già ấy đang vừa đọc kinh vừa đắm mình trong sự sùng kinh đôi chân của tớ. Đầu óc tớ chỉ loáng thoáng nghĩ đến hai cái chân và tớ thấy khoái trá vô kể trong cái tình trạng nực cười này. Đôi chân què quặt. Đôi chân què quặt - đó là những gì tớ đang nghĩ, đó là những gì tớ có thể nhìn thấy trong đầu óc mình. Cái hình thù kỳ quái của đôi chân. Cái trạng huống vô cùng xấu xa tớ đã bị đặt vào. Cái trò cười man dại trạng huống ấy tạo nên! Buồn cười hơn nữa là mấy lần khấu đầu làm lễ, mớ tóc buông thả của bà ấy quệt vào gót chân tớ làm tớ buồn buồn đếch có thể chịu được.

    “Thì ra trước đó tớ đã lầm to vì những dục vọng kể từ cái lần tớ chạm vào đôi chân đẹp đẽ của cô gái ấy và trở nên bất lực. Bởi vì trong suốt buổi lễ ác ôn này, tớ nhận thấy tớ bị kích thích không sao chịu nổi. Đúng thế, tớ không hề có chút mộng tưởng về con người tớ một tí nào cả! Đúng thế, ở trạng huống tàn tệ quá đổi này!
    “Tớ nhỏm dậy và bất thần đè ngữa bà già ấy ra. Tớ cũng không kịp nghĩ đến điều lạ lùng là bà ta chẳng tỏ vẻ kinh ngạc mấy trước hành động của tớ. Người quả phụ già nua ấy nằm tại chỗ tớ đã đẩy bà ta ngã lăn ra, hai mắt nhằm nghiền và miệng vẫn lầm dầm đọc kinh. Kể thực kỳ diệu, tớ liền nhớ ra rằng bài kinh bà ta đang tụng là ở chương nói về Lòng Đại Từ Bi: “Y-ê, y-ê, thất-na thất-na A-la sam. Phật la xá lị, phạt sa phạt sam. Phật la xá lị.” Cậu biết đoạn này đã được giải thích trong đoạn bình chú như thế nào không, dĩ nhiên là: ‘Trăm lậy Ngài, nghìn lậy Ngài vì bản thể thanh tịnh vô cấu hãy hủy diệt ba điều xấu - tham, sân, si’.
    “Trước mắt tớ, khuôn mặt một người đàn bà già sáu mươi tuổi - một khuôn mặt sạm nắng không chát phấn son - dường như đang chào mời tớ. Sự kích thích chẳng hề giảm bớt chút nào trong con người tớ. Điểm phi lý tối hậu của trò hề nằm ở chỗ đó, nhưng chẳng thể ngờ được chính tớ đang được điều phi lý đó xỏ mũi lôi đi. Hơn thế, không phải là tớ vô ý thức - tớ nhìn thấy rõ ràng tất cả. Đặc sắc nổi bật của địa ngục là nhìn thấy mọi thứ rõ rệt từng chân tơ kẻ tóc. Và lại nhìn thấy tất cả những cái ấy trong bóng tối đen ngòm!
    “Nét mặt nhăn nheo của bà già chẳng có gì là đẹp đẽ và chẳng có gì là thiêng liêng hết. Tuy thế, vẻ xấu xí và tuổi tác của bà già dường như luôn luôn xác định trong cái trạng thái nội tại ấy của tớ trong đó chẳng có mộng mơ gì hết. Ai dám nói nếu mình nhìn một mỹ nữ mà không mơ mộng, dù cho người ấy đẹp đến đâu đi nữa, thì nét mặt người đó cũng không bị biến dạng thành nét mặt của bà già này? Đôi chân què quặt của tớ và khuôn mặt này. Ừ, đúng thế đó. Ngắm nhìn thực tướng vẫn là tình trạng kích thích nhục thể của tớ. Bây giờ lần đầu tiên tớ đã có thể tin tưởng vào dục vọng của chính thể xác mình với một cảm tình thân ái. Và tớ nhận thấy rằng vấn đề không nằm ở chỗ cố gắng rút ngắn khoảng cách này sao cho đối tượng vẫn còn là một đối tượng.
    “Kể ra nhìn đến thì cũng hay hay. Vào lúc ấy tớ phát minh ra lý luận về eroticism (1) của tớ xuất từ luận lý của thằng què quặt chủ trương rằng trong khi đứng ỳ một chỗ đồng thời nó cũng đã đi tới rồi - từ cái luận lý chủ trương rằng nó không bao giờ bị khó chịu cả. Tớ khám ra cái điều giả vờ giả tảng ẩn trong cái mà người đời gọi là cái say đắm. Nhục dục thật giống như một luồng gió hoặc một tấm áo phù thủy nào đó để che dấu người mặc bên trong. Và sự kết hợp phát sinh từ dục vọng như thế thì không khác gì hơn trong giấc mộng. Đồng thời trong khi đang đắm chìm, chính tớ cũng trở thành đối tượng đang bị ngắm thật kỹ lưỡng. Lúc ấy và tại đó tớ tung hê khỏi thế giới của mình cả cặp chân tật nguyền lẫn những người con gái mình biết. Nhưng cái chân tật nguyền và những người đàn bà của tớ thảy đều đứng cách xa tớ. Thực tại nằm ở đó; dục vọng chỉ là bóng ma ẩn ẩn hiện hiện. Và trong khi ngắm nhìn, tớ thấy mình vấp ngã liên hồi vào bóng ma ấy và đồng thời đang bị bắn tung lên tận bề mặt của thực tại mà tớ đang ngắm nhìn. Đôi chân tật nguyền và những người đàn bà của tớ chẳng bao giờ gặp gỡ nhau; vậy mà cả hai sẽ bị tống khứ ra ngoài thế giới. Thèm khát liên tục chỗi dậy bên trong con người tớ. Bởi lẽ đôi chân tật nguyền của tớ và đôi chân xinh đẹp kia sẽ vĩnh viễn chẳng bao giờ va chạm nhau vào nhau.
    “Cậu có hiểu rõ điều tớ nói không? những lời tớ nói có cần nói rõ gì thêm? Tuy nhiên, tớ tin chắc cậu hiểu rằng sau lần này tớ có thể hoàn toàn an tâm tin rằng ‘Tình yêu là cái gì không thể có được.’ Không còn bất an, không còn tình yêu nữa. Thế giới đã tới một sự đình chỉ vĩnh cửu và đồng thời cũng đã đi tới. Liệu tớ có cần làm sáng tỏ điều này bằng câu ‘Thế giới của chúng ta?’ Như vậy chỉ trong một câu, tớ có thể định nghĩa cái mê vọng lớn lao liên hệ ới ‘tình yêu’ của thế gian này. Đó là nỗ lực móc nối thực tại với mê vọng ấy. Hiện tại tớ đã đi đến chỗ tin chắc rằng - tin chắc tớ không bao giờ được ai yêu hết - điều tin chắc của tớ tự nó là tình trạng căn bản của cuộc sống trên đời. Bởi thế đến đây cậu mới hiểu được từ đầu đến đuôi là tớ đã mất tân như thế nào?
    Kashiwagi ngừng kể. Từ nẫy đến giờ tôi đã nín thở lắng nghe nó. Thế rồi bây giờ tôi buộc ra một tiếng thở dài. Câu truyện của nó đã làm tôi xúc động mạnh mẽ và tôi không làm sao ngăn được cảm nghĩ đau xót là đã tiếp xúc với một lối suy tư từ trước đến giờ chưa bao giờ có tôi cả. Một vài phút sau khi Kashiwagi đã dứt lời, mặt trời ngày Xuân bừng dậy quanh tôi, bụi cây xa trục thảo sáng rực bắt đầu óng ánh. Tiếng reo hò từ sân chơi bóng rổ đằng sau tòa nhà lại bắt đầu vang lên. Tuy nhiên, mặc dù vẫn là buổi trưa ấy, vẫn là ngày Xuân ấy, ý vị của tất cả những cái này dường như đã thay đổi hoàn toàn.
    Tôi không thể ngồi im lặng. Tôi muốn phụ họa theo. Để bổ sung cho những lời nó nói. Tôi lắp bắp một câu nhận xét vụng về: “Từ đó đến nay chắc hẳn là cậu cô đơn lắm nhỉ.”
    Một lần nữa Kashiwagi lại chơi ác giả vờ không hiểu tôi và bảo tôi nhắc tại điều tôi đã nói một lần nữa. Tuy nhiên, trong câu trả lời nó đã để thoáng lộ đôi chút thân thiện.
    “Cậu bảo tớ cô độc ấy à? Tại sao tớ lại cô độc nhỉ? Rồi cậu sẽ dần dần thấy từ đó về sau tớ đã tìm cách phụ hợp ra làm sao một khi cậu hiểu tớ.”
    Chuông reo báo hiệu giờ giảng bài học buổi chiều. Tôi sắp sửa đứng dậy thì Kashiwagi, lúc đó hãy còn đang ngồi trên cỏ, nắm ngay lấy tay áo tôi mà kéo thực mạnh. Bộ đồng phục sinh viên đại học của tôi cũng vẫn là bộ tôi đã dùng trước kia ở Thiền môn học viện đem sửa lại. Chỉ có những cái khuy là mới mà thôi; vải áo đã vá chằng chịt và lợt chỉ hết cả rồi. Ngoài ra, nó lại quá chật và làm cho cái thân hình gầy guộc của tôi đã nhỏ trông lại càng nhỏ hơn.
    “Bây giờ tới giờ Hán văn phải không? Chán chết được. Bỏ quách và tụi mình đi tản bộ một vòng chơi.” Nói rồi tôi đứng dậy. Thật là cả một cố gắng kinh khủng: thoạt tiên dường như nó tách rời toàn thân rồi sau đó mới đem ghép cả lại. Nhìn nó đứng dậy mà tôi nhớ đến con lạc đà có lần tôi đã nom thấy nhỏm mình đứng dậy trong cuốn phim chiếu bóng.
    Từ trước đến giờ tôi chưa lần nào bỏ học, nhưng lần này tôi không muốn bỏ lỡ cơ hội nghe Kashiwagi kể chuyện. Chúng tôi cất bước đi về phía cổng chính.
    Sau khi hai đứa đã qua cổng chính, bất chợt tôi để ý đến cách cất bước thật kỳ cục, đặc biệt của Kashiwagi, và một tình cảm gần như bối rối, thẹn thùng đã xâm chiếm lòng tôi. Kỳ dị ở chỗ là cứ như thế tôi đã đồng lõa với tình cảm thông thường của thế gian và cảm thấy xấu hổ khi đi cùng với Kashiwagi.
    Chính Kashiwagi đã cho tôi biết tường tận ngọn ngành hang ổ về niềm hổ thẹn của tôi. Đồng thời cũng chính nó đã thôi thúc tôi tiến tới nhân sinh. Lời nói của nó đã uốn nắn, nung đúc toàn thể cái khía cạnh tủi hổ và tất cả những sự xấu xa trong lòng tôi thành một cái gì tươi mới. Cũng có lẽ chính vì thế mà trong khi hai đứa chúng tôi đi trên lối sỏi qua cổng chính, có mái ngói đỏ, ngọn núi Tỉ Duệ sừng sững đằng xa ngay trước mặt đang ẩn mình trong sương mờ dưới ánh mặt trời mùa Xuân trông như thể hôm nay mới hiện ra trước mắt tôi lần đầu. Và dường như nó tái hiện ở đó trước mắt tôi sau khi đã tìm lại những ý vị riêng biệt cũng như nếu nhiều sự vật quanh tôi giờ lại phục sinh ý vị của chúng sau một thời gian ngủ dài. Đỉnh núi Tỉ Duệ nhọn hoắt, nhưng chân đồi quanh núi lại trải rộng ra thật xa, giống y như dư âm một chủ đề âm nhạc nó đó còn ngân nga, dặt dìu trong không khí. Khi ngắm ngọn núi Tỉ Duệ phía bên kia dãy mái nhà thấp, tôi thấy chỉ có mép núi là nổi bật lên tươi sáng và trông như rất gần còn tất cả lòng núi chỗ đậm chỗ nhạt như là sắc xuân thì chìm sâu trong một màu xanh đậm.
    Ngoài cổng chính của đại học Otani có rất ít người đi lại và hầu như cũng chẳng có một cái xe hơi nào. Thỉnh thoảng người ta chỉ nghe thấy tiếng xe điện chạy leng keng trên đường sắt từ trước ga Kyoto tới trước bến xe điện. Phía trên kia đường phố là những cây trụ cổng cũ kỹ của đại học đối diện với cổng chính nơi chúng tôi đang đứng; một hàng cây ngân hạnh đầy lá non mùa Xuân chạy dài sang phía bên trái.
    “Mình dạo quanh các sân chơi một lát đi!” Kashiwagi nói.
    Tôi đi trước bước qua đường xe điện về phía bên kia dẫy phố. Kashiwagi nặng nề lệt bệt qua đường phố hầu như vắng tanh, toàn thân nó run rẩy vì những cử động mãnh liệt như một con tầu chạy qua một dòng nước chẩy điên cuồng. Sân đại học thật là rộng rãi. Ở phía xa nhiều tốp sinh viên, vì không có giờ học hoặc vì muốn trốn học, đang chơi bắt banh; gần hơn nữa năm sáu người đang tập chạy đường trường. Chiến tranh chỉ mới kết liễu chừng hai năm, nhưng các thanh niên một lần nữa lại đã tìm cách tiêu hao tinh thần của họ. Tôi nghĩ đến các món ăn nghèo nàn mà chúng tôi đã được ban phát ở trong chùa. Chúng tôi ngồi gần trên cái đu gỗ đã mục một nữa và lơ đễnh nhìn những sinh viên bạn học đang chạy về phía chúng tôi rồi chạy qua cái sân chơi hình bầu dục để tập dượt lối chạy đua đường trường. Việc trốn học như lần này cho tôi một cảm giác thích thú giống như cái áo sơ mi mới cọ sát vào thịt da vậy; ánh sáng xung quanh và làn gió mát nhẹ đã làm cho tôi thấy rõ cảm giác này mạnh hơn. Một nhóm người chạy đua đang từ từ tiến về phía chúng tôi; họ thở hổn hển. Vì đã mệt nhoài nên bước chân nện bành bạch; rồi họ chuyển về phía xa hất bụi tung lên từng đám.
    “Mấy thằng ngốc,” Kashiwagi nói. “Tụi nó vậy mà!” Lời nó nói không hề có một tí gì chua chát. “Trời đất ơi! Chúng nó diễn trò đó để làm gì vậy? Chúng nó bảo làm như vậy để cho thân mình được khang kiện, tớ nghĩ vậy. Nhưng liệu có lợi gì khi đem công khai cho mọi người xem sự khang kiện của mình như thế? Tụi nó biểu diễn thể thao ở khắp nơi phải không? Thực là một dấu hiệu cho chúng ta thấy đã tới mạt thế rồi. Cái cần phải công khai trưng bầy cho công chúng xem thì chưa bao giờ thấy trưng bầy cả. Cái mà ta thực sự cần công khai trưng bày cho công chúng biết thì lại chưa bao giờ thấy trưng bầy cho quần chúng thấy là - những vụ hành án tử hình! Tại sao chúng nó lại không công khai trình diễn án tử hình hở?”
    Kashiwagi ngừng một lúc rồi lại tiếp tục bằng một giọng mơ màng: “Mày nghĩ mà xem muốn giữ an ninh trật tự trong thời chiến tranh thì phải làm gì nếu không phải là công khai trình diễn cho dân chúng xem những cái chết bi thảm? Lý do khiến chúng nó ngừng những cuộc hành quyết công khai theo tin tao thu lượm được là vì chúng sợ cảnh đó sẽ làm lòng người thêm ham chém giết. Mẹ kiếp! Nếu mày muốn hỏi ý kiến thì tao bảo chúng nó là đồ ngu si một lũ! Những người đã dọn xác kẻ chết sau các cuộc không tập thảy đều có nét mặt khoái hoạt. Nhìn thấy con người buồn khổ, nhìn thấy con người máu me đầy mình và nghe thấy con người rên rỉ, hấp hối sẽ làm cho người ta trở nên khiêm hư. Cảnh đó làm cho lòng người tiêm tế, trắng trong, êm ả. Vào những lúc như thế, chúng ta quyết chẳng bao giờ trở nên tàn ngược hoặc khát máu. Không, chính vào một buổi chiều xuân nên thơ như thế này con người mới bất chợt trở nên tàn ác. Chính vào cái giây phút như thế này, mày có nghĩ thế không, trong khi người ta mơ màng ngắm mặt trời mới nhô lên qua đám lá cây trên một bãi cỏ cắt tỉa cẩn thận? Mọi cơn ác mộng trong thế giới, mọi cơn ác mộng trong lịch sử đều đã phát sinh trong những giây phút giống như những giây phút này. Nhưng khi người ta ngồi đó dưới thanh thiên bạch nhật, chính cái ý nghĩ về những hình người đẫm máu đang ngất lịm trong hấp hối đã làm cho cơn ác mộng có đường nét rõ rệt và đã tạo những phương tiện để biến những ác mộng thành thực tại. Ác mộng thôi không còn là sự khổ não của chúng ta nữa, nhưng là nỗi đau đớn mãnh liệt của thân xác người khác. Và chúng ta đã bị bó buộc phải cảm thấy sự đau đớn của kẻ khác. A, thực là một sự cứu rỗi khó tả nên lời!”
    Cái lối lý luận độc đoán, khái quát này của Kashiwagi đã có ma lực quyến rũ tôi hết sức; thật thế, những điều mà lúc này tôi muốn được nghe ấy là tất cả những sự nó đã trải qua khi mất tân. Bởi vì, như tôi đã nói, tôi đang hăm hở trông đợi ở Kashiwagi để hiểu biết nhân sinh. Tôi tìm cách xía vào và gợi ý cho nó nói đến sự ham thích của tôi.
    “Mày muốn nói con gái hả?” nó nói. “Hừm, tao đã đi đến kết luận này hiện giờ tao có thể dùng trực giác mà nói một cách chính xác là đứa con gái nào thuộc loại người ta ưa thích một thằng con trai có cặp chân què quặt. Mày ạ, có những loại như thế đấy! Có thể rằng một đứa con gái như vậy sẽ giữ kín suốt đời sự ưng thích của mình đối với những thằng con trai què quặt. Nàng ta cũng sẽ không ngần ngại đem theo điều bí mật xuống dưới đáy mồ. Điều này có thể là sự thất bại duy nhất về thị hiếu mà loại con gái ấy đã có; điều này có thể là giấc mộng duy nhất của các nàng… Ờ, xem nào. Mày nghĩ thế nào về loại con gái thích những thằng con trai què quặt? Thường thường nàng là một mỹ nhân nghiêng nước nghiêng thành. Nàng có cái mũi thon thon, man mát. Nhưng miệng nàng có hơi he hé trễ xuống một chút…”
    Đúng lúc đó một thiếu nữ cất bước đi về phía chúng tôi.
    Hết phần 4

    1) Nguyên tác dùng chữ này và phiên âm. Tiếng Anh có nghĩa là tính dâm dật dâm đãng

  7. #7
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 5
    Tuy nhiên, lúc đó nàng không đi trong sân đại học. Bên ngoài những sân chơi còn có những con đường chạy san sát khu trú xá. Con đường thấp hơn mặt sân chơi độ khoảng nửa thước tây. Nàng đang đi trên con đường đó.
    Người thiếu nữ bước ra từ cổng bên một ngôi nhà đồ sộ kiến trúc theo lối Tây Ban Nha. Căn nhà này trong khá mong manh, có hai ông khói, nhiều cửa sổ chấn song đan chéo nghiêng nghiêng và có mái kính che ôn thất để ươm cây; tuy nhiên toàn cảnh đã bị cái hàng rào sắt làm hư hỏng hết cả; hàng rào này, vươn lên cao ngất phía bên kia đường gần khu sân chơi đại học, hiển nhiên là đã được dựng lên vì những lời kháng nghị của chủ căn nhà đó.
    Kashiwagi và tôi đang ngồi trên một cái ghế đu bên ngoài hàng rào sắt. Tôi nhòm khuôn mặt người thiếu nữ và thấy ngạc nhiên vô cùng. Khuôn mặt nàng thanh tú thật giống với tướng người Kashiwagi đã tả khi nói về loại con gái “thích những thằng con trai què quặt’. Sau này khi nghĩ lại sự ngạc nhiên mà lúc ấy tôi đã trải qua, tôi thấy mình thực là ngớ ngẩn và tự hỏi không biết Kashiwagi có quen biết hay nằm mơ thấy khuôn mặt ấy từ trước hay không.
    Chúng tôi ngồi đó chờ đợi người thiếu nữ. Dưới tia sáng chan hòa mặt trời mùa Xuân đỉnh Tỉ Duệ xanh biếc nhô lên ở phía xa trong khi người thiếu nữ đang dần dần tiến lại gần chỗ chúng tôi ngồi. Tôi vẫn chưa hết nôn nao trong dạ vì những lời nói mới rồi của Kashiwagi - nó bảo cặp chân què quặt của nó và những người con gái của nó đã sờ sờ hiện ra đó đây trong thế giới của thực tướng, giống như hai ngôi sao ở trên trời, chẳng bao giờ va chạm vào nhau, và những lời nói kỳ quái của nó về truyện vẫn có thể thỏa mãn dục vọng trong khi tự thân vẫn chôn vùi trong thế giới mong manh và dường như thế giới của chúng tôi đã bắt đầu bất thần phơi bầy khía cạnh giả tưởng của nó. Mọi vật đều có vẻ mịt mờ màu tro than và ngay cả sự hiện hữu của chính tôi nữa cũng có vẻ mịt mờ. Dường như chi có đỉnh núi Tỉ Duệ tía hồng và người thiếu nữ xinh đẹp kia đang tiến lại gần chúng tôi là đang chói rạng trong thế giới của thực tướng và có một kiếp sống xác thực.
    Chắc chắn là người thiếu nữ đang đi về phía chúng tôi. Nhưng với những giây phút trôi qua thời gian trở thành như một nỗi thống khổ mỗi lúc một to lớn, và nàng càng tiến lại gần chúng tôi thì một nét mặt khác lại càng hiện ra rõ rệt mỗi lúc một tươi sáng hơn - nét mặt của người khác không mang liên hệ gì với nàng.
    Kashiwagi đứng phắt dậy, ghé vào tai tôi thì thào hổn hển: “Cất bước đi đi, Tao bảo mày mà. ”
    Tôi phải cất bước theo lời nó. Hai đứa chúng tôi đi dọc theo bức tường bằng đá, cao hơn mặt đường khoảng chừng nữa thước tây, song song với người thiếu nữ và đi cùng về một hướng với nàng.
    “Bây giờ nhẩy xuống đó!” Kashiwagi vừa nói vừa bấm móng tay sắc nhọn vào lưng tôi. Tôi bước qua bức tường đá thấp và nhẩy xuống đường, không khó khăn gì vì chỉ có nhẩy nửa thước tây xuống dưới. Nhưng khi mới vừa nhẩy xuống thì Kashiwagi đã ngã lăn đánh rầm một tiếng ngay bên cạnh. Vì cố gắng nhẩy bằng đôi chân què nên nó đã lăn kềnh ra. Cúi xuống nhìn tôi thấy cái lưng áo đồng phục đen của nó rập rờn như sóng lượn trên mặt đất. Trong khi nằm thừ lừ một đống, nó trông không có vẻ gì là một con người; trong một lúc tôi thấy nó giống như một vệt nhơ to tướng, đen ngòm, vô vị, giống như một trong những cái ổ gà đục ngầu những nước mà người ta thấy trên mặt đường sau khi trời mưa.
    Kashiwagi đã nằm thù lù một đống ngay trước chỗ người thiếu nữ đang đi. Nàng đứng ngay sững như trời trồng tại đó. Khi quì xuống để nâng nó đứng dậy, tôi ngước mắt nhìn nàng - khi nom thấy cái mũi man mát và cao cao, cặp mắt vươn buồn của nàng, trong chớp nhoáng tôi thấy xuất hiện trước mình một khuôn mặt tôi đã nhìn thấy dưới ánh trăng, khuôn mặt Uiko ngày nào.
    Ảo ảnh tan biến ngay tức khắc và giờ đây tôi trông thấy một thiếu nữ chưa quá hai mươi tuổi đang đưa mắt nhìn xuống tôi một cách khinh miệt. Tôi thấy hình như nàng sắp sửa nặng lời. Đối với những truyện này Kashiwagi lại còn nhậy cảm hơn tôi nữa. Nó bắt đầu lớn giọng kêu la. Tiếng kêu của nó âm vang khắp khu phố biệt thự vắng lặng ngắt.
    “Hỡi con người lòng dạ sắt đá trơ trơ kia! Nỡ lòng nào bước bỏ mặc người ta như thế này ư? Vì ai mà người ta mới đến nông nổi này!”
    Thiếu nữ quay trở lại. Nàng sợ run cả người, và đưa những ngón tay thon thon, khô ráo nàng hình như đang xoa cặp má trắng bệch của mình. Một lúc sau nàng quay về phía tôi và nói: “Tôi biết làm gì bây giờ?”
    Tức thì Kashiwagi ngước lên trừng trừng nhìn người thiếu nữ. Rồi nó dằn giọng nói rõ từng tiếng một:
    “Có phải là cô muốn bảo trong nhà cô cũng không có lấy một tí thuốc nào hay không?”
    Thiếu nữ đứng đó lặng thinh trong giây lát. Đoạn nàng quay lưng và bắt đầu đi về phía mà vừa nẫy nàng đã từ đó đi ra. Tôi nâng Kashiwagi đứng dậy. Trước khi nó đứng hẳn dậy. Trước khi nó đứng hẳn lên, người nó nặng kinh khủng, hơi thở nó ngắt quãng, mệt nhọc, đau đớn. Nhưng khi tôi chìa vai cho nó tựa vào mà đi thì tôi thấy nó cất bước chân đi thật nhẹ nhàng mau mắn không sao ngờ nổi.
    Tôi chạy tới chỗ xe điện ngừng trước bến xe Karasumaru rồi nhẩy tót lên một chiếc. Mãi tới lúc xe điện bắt đầu chạy về hướng Kim Các Tự tôi mới thể được ra hơi. Hai bàn tay tôi ướt đầm mồ hôi.
    Vừa khi dìu Kashiwagi bước qua cổng bên căn nhà xây theo kiểu Tây Ban Nha ấy, tôi thấy vô cùng khiếp đảm. Tôi đã để mặc nó đứng đó với người thiếu nữ - nàng đứng trước mắt nó - rồi chẳng hề nhìn lại đằng sau, tôi co giò chạy thẳng. Tôi không có thì giờ dừng lại ở đại học, nhưng cứ cắm cổ chạy dọc theo đường phố vắng tanh, qua các hiệu thuốc, các hiệu bánh và các hiệu bán đồ điện. Tôi nhớ lại, qua khóe mắt mình, đã nhìn thấy cái gì màu tim tím và đo đỏ phất phơ trong gió nhẹ. Dường như khi qua trước cửa phân giáo hội Hoàng Đức thuộc Thiên Lý giáo, tôi đã nhìn thấy những cái đèn lồng với chụp đèn màu hoa mai nổi bật trên bức tường đen và những bức mành màu tím treo ở cổng ra vào cũng có chụp đèn màu hoa mai tương tự. Tôi chẳng rõ là mình đang chạy đi đâu. Khi xe điện dần dần tới ga Murasakino, tôi nhận thấy rằng nỗi lòng rối beng đang đem tôi trở lại Kim Các Tự.
    Bây giờ chúng tôi đang ở giữa mùa du ngoạn: tuy hôm đó là ngày thường, song có rất nhiều người đến vãn cảnh chùa. Ông lão đưa đường già nua nhìn tôi một cách nghi ngờ khi tôi lách mình qua đám đông để chạy về chùa.
    Và rồi tôi đứng đó - đứng trước Kim Các Tự, vào buổi chiều mũa Xuân này, giữa đám cát bụi quay cuồng và đám người lúc nhúc vây quanh. Trong lúc tiếng người dẫn đường lớn giọng vang xa, ngôi chùa dường như luôn luôn che giấu một nửa vẻ đẹp của nó và làm ra vẻ ngây ngô, ngốc nghếch. Chỉ có những hình ảnh rọi trên mặt ao là trong sáng mà thôi. Nhưng nếu nhìn ở một hướng nào đó thì những đám bụi trông sẽ giống như những đám mây, óng ánh sắc vàng bao quanh, các vị Bồ-tát trong bức tranh vẽ Chư Thánh họa cảnh đức Phật Di Đà giáng trần có những vị Bồ-tát vây quanh. Kim Các Tự cũng giống như thế trong khi đứng mịt mờ giữa các đám mây bụi trông nó giống như một bức họa cũ kỹ phai màu loang lổ. Kể cũng chẳng có gì kỳ dị khi bao nhiêu tiếng huyên náo hỗn tạp xung quanh đều tan chìm trong những hàng cột mảnh mai của ngôi chùa, loãng dần rồi tan biến vào bầu trời trăng trắng tiếp giáp với Cứu Cánh đính nhỏ bé cùng con chim phượng hoàng trên mái chùa trong khi chúng vươn mình lao vút trên mái chùa trong khi chúng vươn mình lao vút lên không gian. Nguyên một việc đứng sững ở đó, tòa kiến trúc này cũng đã là một sức mạnh tóm thâu và khuôn phép. Tiếng ồn ào chung quanh càng gia tăng thì Kim Các Tự - tòa kiến trúc mảnh mai, bất quân xứng ấy với Thấu Thanh ở một bên và trên đó là Cứu Cánh đính hai tầng bổng dưng thót lại ở trên đỉnh - lại càng có tác dụng một cái màng lọc biến nước đục thành nước trong. Ngôi chùa không hề gạt bỏ tiếng nói cười vui vẻ của khách vãn cảnh, nhưng thay vào đó nó gạn lọc những âm thanh ấy để cho chúng tan biến vào giữa những hàng cột thẩm thấu âm thanh và để trở nên thành phần của sự êm lặng và trong sáng. Như thế ngôi chùa đã thành tựu trên mặt đất đúng cái mà những bóng rọi trên mặt ao phẳng lặng đã thành tựu dưới nước vậy.
    Tim tôi đã ôn hòa trở lại và cuối cùng sự sợ hãi của tôi cũng tan biến dần đi. Đối với tôi, vẻ đẹp là cái gì có bản chất như thế. Vẻ đẹp như vẻ đẹp này có thể tách rời tôi khỏi cuộc đời và che chở tôi trước cuộc đời.
    “Nếu cuộc đời con mà giống cuộc đời Kashiwagi thì xin hãy che chở con. Bởi vì con không thể chịu đựng được nó. ” Đó là lời cầu nguyện tôi vẫn hằng thốt ra khi đứng đó đối diện với ngôi chùa. Điều mà Kashiwagi đã gợi cho tôi hay trong câu truyện của nó và điều mà nó đã trực tiếp diễn ra ngay trước mắt tôi chỉ có thể có nghĩa coi sinh và diệt là một và có cùng một ý vị như nhau. Một cuộc sống như thế thiếu tất cả những gì tự nhiên và cũng thiếu cả vẻ đẹp của một tòa nhà giống như Kim Các Tự; thực vậy, chẳng qua chỉ là một thứ run rẩy co quắp đau đớn. Tôi chẳng chối cãi rằng tôi đã bị một cuộc sống như vậy lôi cuốn ghê gớm và tôi tìm thấy trong cuộc sống ấy hướng đi của chính mình; tuy nhiên, kể cũng ghê tởm khi nghĩ rằng trước hết người ta phải khổ công xoay xỏa đến đổ máu bàn tay vì những mảnh vụn gai góc của cuộc đời. Kashiwagi khinh miệt cả bản năng lẫn lý trí con người. Giống như một quả bóng da có hình thù kỳ quái, chính cuộc sống của nó đã lăn lộn nhiều lần và cố gắng phá vỡ bức tường thực tại. Cuộc sống ấy chẳng hề dính dáng gì đến một hành vi nào hết. Tóm lại, cái cuộc sống mà nó đã gợi ra cho tôi là một trò hề nguy hiểm để con người cố gắng phá tan cái thực tại đã đánh lừa mình bằng một bộ áo giả trang chưa ai hay biết, và với cái này con người tảo thanh thế giới để cho trần thế không phải bao giờ chứa đựng cái gì chưa ai hay biết nữa.
    Tôi hiểu tất cả những cái này là nhờ về sau có nhìn thấy một bức tranh ở căn nhà trọ của Kashiwagi. Đó là một tấm tranh thạch bản đẹp đẽ in hình dẫy núi Alpes của Nhật Bản do một hiệp hội du lịch ấn hành. Trên những đỉnh núi trắng nhô lên cao lên bầu trời xanh, có một hàn chữ viết ngang “Xin mời quí vị đi tới thế giới chưa ai hay biết!” Kashiwagi đã lấy loại mực đỏ rất đậm bôi xóa hết những hàng chữ nầy. Và bên cạnh đó, với nét chữ bay bướm đặc biệt của nó, nét chữ làm tôi nhớ đến dáng điệu đôi chân tật nguyền của nó, nó đã phóng bút: “Ta không thể chịu được một cuộc sống không ai hay biết.”
    Ngày hôm sau khi đi đến trường, tôi rất đổi lo lắng về Kashiwagi. Nghĩ cho cùng kể ra bỏ nó mà chạy như thế thực là không nên không phải với bạn bè, tuy vậy tôi không hề cảm thấy có một trách nhiệm đặc biệt nào. Tôi thấy khó chịu là khi nghĩ là sáng hôm đó nó có thể không đến lớp để nghe giảng. Tuy nhiên, ngay khi bài giảng sắp sửa bắt đầu, thì tôi thấy Kashiwagi nghênh ngang lết vào trong phòng học vẫn với dáng điệu không tự nhiên thường lệ.
    Vừa đến lúc nghỉ sau giờ giảng tôi liền mau mắn chạy đến nắm lấy tay Kashiwagi. Một cử chỉ khoái hoạt như vậy, tự nó đối với tôi, thật đã có vẻ lạ lùng. Kashiwagi nhếch mép mỉm cười, rồi theo tôi đi ra hành lang.
    “Mày không bị đau lắm đấy chứ?”
    “Bị đau?” Kashiwagi vừa nhìn tôi vừa mỉm cười một cách thương hại. “Tao bị đau lúc nào vậy? Hê? Cái gì đã khiến cho mày nghĩ là tao bị đau hả?”
    Tôi đứng câm như hến chẳng nói được câu nào trước những lời nói ấy. Sau khi đã châm chọc tôi bằng thích. Kashiwagi mới giải rõ: “Trò đó chỉ là đóng kịch mà thôi. Tao đã tập luyện cách ngã xuống con đường ấy không biết bao nhiêu lần rồi. Giờ tao đạt đến cái công phu có thể ngã lăn lóc khiến ai cũng lầm tưởng là tao ngã đến gẫy xương. Tao phải thú nhận tao chưa hề tính tới truyện cô bé ấy làm quá đến cái độ bước qua chúng mình với nét mặt lãnh đạm hoàn toàn như thế. Nhưng mày phải thấy những gì đã xẩy ra sau đó mới được. Cô ả đã bắt đầu phải lòng tao rồi. Hoặc hơn thế nữa, nói cho đúng ra, cô ả đã bắt đầu phải lòng đôi chân què quặt của tao. Mày ạ, em bé đã tự tay lấy thuốc đỏ bôi vào đôi chân tao đó!”
    Nó kéo ống quần lên cho tôi xem ống chân bôi thuốc loe loét vàng khè. Bây giờ tôi mới hiểu rõ cái trá thuật của nó. Hiển nhiên, khi cố ý ngã lăn xuống mặt đường là nó muốn làm cho cô bé phải thích nó, nhưng há nó đã chẳng che giấu đôi chân què quặt bằng cách giả vờ bị thương đó hay sao? Nhưng sự thắc mắc này chẳng những đã không làm tôi khinh miệt nó mà ngược lại còn khiến tôi càng thêm thân thiết với nó hơn. Ngoài ra, tôi lại có cảm nghĩ rằng - một cảm nghĩ thật trẻ con - triết lý của nó càng có nhiều trò lừa dối bao nhiêu thì lại càng chứng tỏ là nó thành thật với cuộc đời bấy nhiêu.
    Tsurukawa không bằng lòng cho tôi chơi với Kashiwagi và nó đã lấy tình thân mà ngay thẳng khuyên can tôi nhiều lần; tuy nhiên những lời khuyên can ấy chỉ làm tôi khó chịu. Để trả lời sự phản đối của nó tôi đã đi xa đến độ nói rằng đối với một người như nó muốn tìm những người bạn tốt thì chẳng khó khăn gì, nhưng tôi cũng cho nó biết là riêng phần tôi, Kashiwagi là một người bạn rất là tương ứng. Sau này tôi hối hận biết bao khi hồi tưởng lại vẻ buồn không nói nên lời trong ánh mắt Tsurukawa vào lúc ấy!
    Vào tháng năm, Kashiwagi dự định tổ chức một cuộc du ngoạn đến vùng Arashiyama kế cận Kyoto. Vì ghét những ngày nghỉ quá đông người đi, nó quyết định bỏ học để đi chơi trong một ngày thường. Điều lạ đời là nó bảo rằng nếu trời đẹp thì nó sẽ không đi, và chỉ hôm đó mây trời u ám, vần vũ. Nó sẽ dắt theo cô bé ở căn nhà kiến trúc Tây Ban Nha, đồng thời thu xếp để dẫn theo cho tôi một cô bé ở căn phòng bên cùng nhà trọ với nó.
    Chúng tôi sẽ chờ gặp nhau ở ga Kitano trên đường xe điện đi đến Keifuku. May thay hôm đó là một ngày khác thường trong năm - u ám và ủ dột đúng như ý muốn Kashiwagi.
    Đúng vào lúc Tsurukawa đang có truyện rắc rối trong nhà nên đã nghỉ học một tuần để đi về Tokyo. Thật là tiện lợi cho tôi. Tuy Tsurukawa chắc chắn không phải là loại người về chùa mách tội tôi song tôi cảm thấy yên lòng là không cần phải lẻn đi mà không cho nó biết sau khi đi cùng với nó đến trường vào buổi sáng.
    Nghĩ đến cái buổi đi chơi núi hôm ấy là tôi lại thấy khó chịu. Cả bốn đứa chúng tôi đi chơi hôm đó đều trẻ tuổi cả, nhưng hình như suốt ngày hôm đó chỉ thấy toàn những điều u ám, bực bội, khó chịu, trống rỗng riêng của tuổi trẻ. Chắc hẳn là Kashiwagi đã tiên liệu điều này nên đã dụng ý chọn một ngày khi trời mây thật u ám. Có một trận gió từ hướng tây nam thổi lại; đúng vào lúc mình tưởng nó sẽ thổi hết sức mạnh mẽ thì bất thình lình trận gió lại tan đi để sau đó chỉ còn những làn gió khó chịu. Bầu trời vần vũ, nhưng thỉnh thoảng mặt trời cũng ló ra ánh sáng chói lọi. Có những đám mây sáng rực trắng xóa, y như bộ ngực trắng nõn của một người đàn bà mà mình có thể loáng thoáng nhìn ra qua bao nhiêu lớp vải, nhưng ở phía xa hơn, màu trắng ấy trở nên mơ hồ, và tuy mình vẫn có thể ngó mặt trời ở chỗ nào, song thực ra mặt trời đã chìm tan với màu sắc đều đặn buồn bã của bầu trời.
    Kashiwagi không hề nói dối trong những lời ước hẹn. Nó đã xuất hiện đúng giờ ở cửa ga, hai người con gái trẻ tuổi cặp kè hai bên. Một trong hai người quả thực là người mà chúng tôi đã gặp. Một thiếu nữ xinh đẹp, với sóng mũi cao cao, man mát và cái miệng hơi trề; nàng mang một bình nước trên vai áo đầm, theo như tôi thấy, may bằng vải nhập cảng. Bên cạnh nàng là cô gái hơi mập ở nhà trọ, kém cả y phục và dung mạo. Chỉ có cái cầm nhỏ bé và cặp môi trông như thể mím chặt lại và có vẻ hấp dẫn của con gái mà thôi.

    Không khí cuộc đi chơi núi đáng lẽ phải vui vẻ lại đã hỏng bét ngay khi còn ở trong xe. Tôi chẳng nghe rõ Kashiwagi và thiếu nữ trẻ đẹp nói gì với nhau, song suốt thời gian ấy tôi chỉ thấy họ cãi lộn. Thỉnh thoảng nàng lại bấm chặt môi lại như thể ngăn chặn cho khỏi rơi nước mắt. Thiếu nữ từ nhà trọ có vẻ chẳng thèm quan tâm đến bất cứ truyện gì, cô nàng ngồi đó khe khẽ cất giọng ngân nga bài dân ca. Rồi đột nhiên, quay lại phía tôi, cô nàng kể câu truyện: ‘Gần chỗ ở của bọn này có một bà đẹp lắm dậy cách cắm hoa. Hôm nọ bà kể cho tôi nghe một thiên tình sử thật là buồn. Trong thời chiến bà có quen rồi yêu một sĩ quan lục quân, thế rồi chàng phải lên đường ra chiến địa. Hai người chỉ có đủ thì giờ tiễn đưa ngắn ngủi ở chùa Nam Thiền. Cha mẹ đôi bên tuy không chịu nhưng vẫn không ngăn cản nổi họ vì trước khi chia cách ít lâu người thiếu nữ đã có mang. Tội nghiệp cho đứa bé, nó qua đời ngay khi lọt lòng. Khi hay tin người sĩ quan than thở không cùng, và rồi đến lúc chia tay với người yêu, chàng bảo rằng nếu không có được đứa con thì ít nhất chàng cũng muốn chất sữa vắt ra từ vú người mẹ. Hai người không có thì giờ để đi ngay chỗ nào khác, bởi thế lúc đó và ngay đấy nàng đã vắt sữa từ vú mình vào cốc trà và đưa chàng uống. Chừng một tháng sau, người yêu của nàng chết trận. Từ đó trở đi, nàng chỉ sống một mình và không nghĩ đến truyện yêu thương gì với ai khác. Bà ta thực là một người xinh đẹp và hãy còn trẻ lắm.
    Tôi nghi ngờ ngay cả tai mình. Cái tình cảnh khó tin ấy mà tôi đã cùng Tsurukawa chứng kiến vào lúc chiến tranh sắp kết thúc từ trên nóc sơn môn của Nam Thiền tự vụt tái hiện trong trí. Tôi đã định tâm không kể lại những hồi tưởng của mình cho cô gái nghe. Bỡi lẽ tôi cảm thấy nếu lúc này tôi kể những hồi tưởng ấy cho cô bé nghe sau khi nghe cô bé kể chuyện, tôi sẽ cảm động mà để lộ mối cảm động thần bí đã làm hai đứa chúng tôi say sưa, ngây ngất vào hôm đó tại chùa Nam Thiền. Giữ kín câu truyện của mình, tôi thấy dường như chẳng ai đã không đưa ra lời giải cho cái câu đố thần bí ấy mà thực ra lại còn đào sâu, tô đậm câu truyện ấy thần bí thêm bội phần.
    Lúc đó tầu điện đang chạy gần khu rừng lớn đầy tre kế cận thác nước Narutaki. Vì vào cuối tháng năm, nên lá tre đang ngả sắc vàng. Gió sột soạt lùa qua cành cây, thổi những lá vàng khô rơi xuống trải đầy trên mặt đất; tuy nhiên phần gốc các cây tre, dường như không dây dưa gì với việc này, lặng lẽ quấn chằng chịt những gióng đốt to lớn với nhau. Chỉ đến lúc xe điện chạy vút sát bên cạnh những cây tre mới nghiêng ngả, lắc lư dữ dội. Giữa bụi tre có một cây tre non bóng lộn hiện ra lồ lộ. Nhìn nó uốn mình tôi thấy một ấn tượng đẹp đẽ lạ lùng trong sự vận động; tôi nhìn nó vặn vẹo uốn mình; rồi nó rời xa và biến dạng.
    Khi tới Arashiyama chúng tôi đi bộ về phía cầu Togetsu rồi đến mộ nàng Kogo, mà không một đứa nào trong bọn để ý nhìn thấy từ trước. Ngày xửa ngày xưa cung nữ Kogo phải đến ẩn thân ở Sagano để tránh cơn giận dữ của Tairo Kiyomori. Vâng theo sắc mệnh, Minamoto Nakakuni đi dò xét tìm kiếm và một đêm trăng sáng giữa mùa thu nghe tiếng đàn văng vẳng dặt dìu, đã tìm ra nơi nàng cư ẩn. Đó là khúc đàn “Tưởng Phu Luyến”. Dao khúc Kogo có ghi: “Khi dấn mình vào trong bóng đêm thiết tha mong mỏi ánh trăng, chàng tới Horin và chính tại đây chàng nghe thấy tiếng đàn vẳng tới. Chàng chẳng rõ đó là tiếng phong ba đang thét gầm trên đỉnh núi hay làn gió đang nỉ non qua hàng thông. Tìm hỏi tiếng đàn nó là khúc nhạc gì, chàng được cho hay đó là điệu “Tưởng Phu Luyến”. Thấy vậy chàng mừng rỡ khôn tả, bởi vì điệu nhạc cho thấy người dạo đàn đang tha thiết thương yêu tưởng nhớ chồng mình.” Cung nữ Kogo đã sống trọn nữa sau đời mình ở Sagano để cầu nguyện cho vong hồn Hoàng đế Takakura.
    Nấm mộ nằm ở cuối lối mòn nhỏ hẹp chỉ là một ngọn thạch tháp nhỏ bé dựng lên ở giữa cây phong to lớn và cây mai mục nát, héo khô. Kashiwagi và tôi đọc một bài kinh ngắn để làm lễ cho vong hồn nàng. Trong cách đọc kinh của Kashiwagi có một giọng cực kỳ báng bổ. Và rồi tôi cũng lây luôn cái giọng đọc đó, tôi cũng đọc một cách nhởn nhơ theo lối ngân nga bằng mũi của bọn học sinh khi tụng kinh vậy. Chút giọng báng bổ này đã làm cho tôi cảm thấy thực là cởi mở và hăng hái.
    “Một nấm mồ ưu nhã như thế này mà trông có vẻ tàn tạ quá đỗi phải không?” Kashiwagi nói. “Bọn có quyền lực chính trị và kim tiền khi chết đều nằm ở những nấm mồ đẹp đẽ hơn cả. Mày thấy đó, thực là một nấm mồ đường đường tráng lệ phải không. Nhưng bọn nó trong lúc sinh tiền chẳng bao giờ có một chút tưởng tượng nào, và tất nhiên, bọn nó thường thường chỉ sống bằng sức tưởng tượng, vì thế chúng để lại những nấm mồ này thể nào cũng khuấy động sức tưởng tượng của người đời. Sau khi chết rồi, mày ạ, bọn nó vẫn còn tiếp tục van xin người đời dùng đến sức tưởng tượng của họ nữa.”
    “Mày muốn nói sự ưu nhã chỉ có trong sức mạnh của trí tưởng tượng?” Tôi vui vẻ góp truyện. “Mày vẫn thường hay nói đến thực tướng. Thế theo mày nghĩ thì thực tướng của sự ưu nhã là cái quái gì?”
    “Là cái này!” Kashiwagi vừa nói vừa lấy tay vỗ vào đỉnh ngọn thạch tháp phủ đầy rêu. “Đó là đá hoặc xương - bộ phận vô cơ mà con người bỏ lại sau khi đã nhắm mắt lìa trần. ”
    “Mày có giọng con nhà Phật ghê gớm nhỉ?”
    “Ăn thua gì đến Phật giáo hay cái quái gì tương tự?” Kashiwagi nói. “Ưu nhã, văn hóa, những gì người đời coi là cái đẹp - thực tướng của tất cả những thứ ấy chỉ là cằn cỗi và vô cơ. Mày há chẳng thấy Long An tự đấy ư, chẳng qua chỉ là một đống đá mà thôi. Điều quan tâm duy nhất của con người thực sự có tính cách hữu cơ ấy là chính trị. Thật là xấu hổ có phải không? Người ta chỉ còn có thể nói nhân gian chẳng qua chỉ là sinh vật tự mình bôi nhọ chính mình mà thôi. ”
    “Thế còn tình dục? Đặt nó vào chỗ nào vậy mày?”
    “Tình dục ấy à? Ừ, nó nằm ở trung gian. Đó là một cái vòng luẩn quẩn. Nhân gian và thạch chất chỉ nằm trong một vòng luẩn quẩn, giống như trò chơi bịt mắt bắt dê vậy. ”
    Bỗng dưng tôi muốn thêm thắt vào đôi điều để gạt bỏ cái vẻ đẹp trong tư tưởng của nó, nhưng hai cô gái đã chán ngấy cuộc nghị luận của chúng tôi và đang quay trở lại đi dọc lối mòn nhỏ hẹp. Chúng tôi cũng quay lại và đuổi theo họ. Từ lối đi này mình có thể trông thấy giòng sông Hozu. Chúng tôi đã đến đúng ngay chỗ cái đập phía bắc cầu Togestu. Dẫy đồi Ranzan bên kia bờ sông mọc đầy cây cối xanh um, nhưng đúng tại quãng này một giải bọt nước trắng xóa trải dài qua dòng sông và tiếng reo vang dội khắp nơi chốn.
    Chúng tôi cất bước dọc theo dòng sông cho lúc đi tới công viên Kameyama ở cuối đường. Trên sông có khá nhiều thuyền; nhưng khi đến cổng công viên, chúng tôi thấy chỉ toàn là giấy bẩn vất tứ tung: hiển nhiên là trong công viên hôm đó có rất ít khách đi dạo.
    Đến cổng chúng tôi quay lại, rồi một lần nữa nhìn dòng sông Hozu và màu lá xanh xanh của ngọn Arashiyama. Người ta có thể nhìn thấy ở bờ sông đối diện một thác nước nhỏ.
    “Cảnh sắc đẹp đẽ là địa ngục có phải không mày?” Kashiwagi lại nói.
    Tôi cảm thấy khi nói năng như thế, Kashiwagi đã nói năng bừa phứa không đắn đo gì hết. Tuy nhiên, tôi thử đưa mắt nhìn cảnh sắc ấy với con mắt của Kashiwagi và nhận thấy rằng quả đúng như lời nó nói, cảnh sắc ấy chính là địa ngục. Sự cố gắng của tôi không phải là vô ích. Bởi vì lúc này tôi có thể nhìn thấy rằng địa ngục đang thực sự run rẩy trong cái cảnh im lìm, hỗn độn nằm trước mắt tôi. Cuộn tròn gói kín trong cái lớp lá xanh non tươi thắm. Hình như địa ngục có thể xuất hiện cả ngày lẫn đêm, vào bất kỳ lúc nào, tại bất kỳ chỗ nào chỉ để đáp ứng những suy tư hay dục vọng của con người. Hình như chúng ta có thể mời gọi nó bất kỳ lúc nào chúng ta muốn và địa ngục sẽ xuất hiện ngay tức khắc.
    Những cây anh đào ở Arashiyama, theo như người ta nói được mang từ rừng cây nổi tiếng ở núi Yashimo về trồng lại vào thế kỷ mười ba, đã hoàn toàn trụi hết hoa và đang bắt đầu trổ lá xanh. Khi mùa hoa anh đào chấm đứt, những cây này chỉ có thể được gọi bằng cái tên mà người ta thường dùng để gọi những mỹ nhân đã chết.
    Phần lớn cây cối trong công viên Kameyama đều là những cây tùng, và ở đây, vào cuối mùa, màu lá vẫn không thay đổi. Đó là một công viên rộng lớn và có những đồi cây trùng điệp. Những cây tùng đều cao vút và trơ trụi chỉ tít trên cao mới có lá mà thôi. Xa gần có một cái gì lộn xộn, bừa bãi trong công viên này với biết bao thân cây trần trụi chằng chịt cuốn lấy nhau không theo khuôn phép gì cả. Một lối đi rộng chạy quanh công viên; lối đi này có nhiều quãng dốc gồ ghề; vì vậy khi mình tưởng nó sắp sửa đi lên thì nó lại đi xuống. Đó đây tôi thấy có những gốc cây bị đốn, những lùm cây và những cây tùng nhỏ bé. Gần chỗ những tảng đá lớn trắng toát nửa mình vùi dưới đất nửa mình nhô lên trên, cây đỗ quyên trổ hoa nửa tím nửa hồng xum xuê. Dưới bầu trời vần vũ sắc hoa trông trông như chứa đựng đầy ác ý. Chúng tôi trèo lên một ngọn đồi nhỏ rồi ngồi xuống nghỉ chân dưới một lùm cây có hình một chiếc ô. Phía dưới chúng tôi, trên một đoạn dốc thoai thoải có một chiếc ghế xích đu, trên đó một cặp tình nhân đang ngồi. Từ chỗ đang ngồi, chúng tôi có thể nhìn thấy toàn thể công viên trải dài đến tận hướng đông, và ở hướng tây, qua hàng cây, chúng tôi có thể nhìn xuống mặt nước sông Hozu. Tiếng chiếc ghế đu cót ca cót két vang tới chỗ chúng tôi ngồi dưới tàn cây nghe như tiếng răng nghiến trèo trẹo.
    Cô bạn trẻ đẹp của Kashiwagi mở gói đồ ăn mà nàng đã mang theo từ trước. Chẳng phải là nói đùa, thằng này thật chí lý khi bảo rằng chúng tôi chẳng cần đi đâu để ăn cơm trưa cả. Trước mặt chúng tôi bày la liệt đủ thứ, nào là sandwich, nào là bánh bích qui nhập cảng, lúc đó hãy còn khó khăn lắm mới mua được, và cả một chai uýt ky Suntory nữa, vào lúc ấy chỉ có thể mua ở chợ đen, bởi vì chính phủ đã thông cáo tất cả đồ tiếp tế đều dành cho Quân đội Chiếm đóng. Trong vùng Osaka - Kyoto - Kobe thành phố Kyoto vẫn được người ta cho là trung tâm mua bán đồ chợ đen.
    Tôi phải khó khăn lắm mới nuốt được rượu mạnh; tuy nhiên, khi cô gái mời Kashiwagi và tôi mỗi đứa một ly nhỏ, tôi đưa cả hai tay cung kính đón nhận liền. Hai thiếu nữ uống hồng trà rót từ bình nước ra. Tôi vẫn còn nửa tin nửa ngờ, băn khoăn không biết tại sao mà Kashiwagi và cô bạn nó đã đi tới chỗ thân thiết với nhau đến như thế được. Tôi không thể hiểu tại sao thiếu nữ này, trông thật kiêu kỳ, lại đã có thể trở nên thân thiết với một thằng thư sinh què quặt, nghèo kiết như Kashiwagi. Sau khi đã uống ba cốc uýt ky, nó mới bắt đầu nói như thể để giải đáp những nghi vấn hãy còn vướng mắc trong đầu tôi.
    “Mày còn nhớ sáng nay ở trên xe điện hai đứa tụi tao cãi nhau ầm ĩ không?” Nó nói. “Ấy chỉ bởi vì gia đình cô bé này cứ nằng nặc bắt cô ta phải kết hôn với một thằng mà cô bé chẳng hề thương yêu. Đối với vấn đề ấy cô bé có vẻ như sắp sửa mềm lòng và sẵn sàng chịu lời ép buộc của cha mẹ vào bất cứ lúc nào. Vì thế tao đã phải an ủi cô bé, đe dọa cô bé và bảo cô bé rằng tao sẽ ngăn cản đến cùng cái đám cưới này. ”
    Lẽ ra nó chẳng nên nói năng như thế trước mặt thiếu nữ này, ấy thế nhưng Kashiwagi cứ tỉnh bơ làm như thể nàng không có mặt ở đó. Thiếu nữ chẳng hề lộ một chút xúc động nào, nét mặt nàng chẳng hề thay đổi mảy may. Quanh cái cổ thon thon, mềm mại nàng đeo một chuỗi hạt ngọc thạch màu xanh. Nét mặt nàng hầu như in hằn nổi bật quá rõ trên nền trời vần vũ, nhưng đã được mớ tóc rậm và đen làm dịu bớt đi. Đôi mắt nàng sâu thẳm; chỉ có đôi mắt này thôi cũng đã cho mình một ấn tượng trần trụi, tươi sáng. Như thường lệ, cái miệng có vẻ trề của nàng hé mở. Trong khoảng cách he hé giữa hai làn môi, hàm răng nhỏ, sắc và đều của nàng trông tươi mát, ráo khô và trắng bong, giống như răng của một động vật nhỏ bé.
    “Ối, đau, đau quá!” bổng đưng Kashiwagi khom mình ôm chặt lấy chân mà kêu rầm lên. Tôi hoảng hốt chạy xổ lại và tìm cách giúp đỡ nó, nhưng nó đẩy tay tôi ra, đồng thời nhe răng cười một cách lạnh lùng, châm chọc. Tôi vội rụt tay lại.
    “Ối ối đau!” nó rền rĩ bằng một giọng vô cùng thảm thiết. Lúc đó tôi tình cờ đưa mắt nhìn thiếu nữ trẻ đẹp bên cạnh. Nét mặt nàng thay đổi rõ rệt. Mắt mất hẳn ánh bình thản và miệng đang run lên bần bật. Chỉ có cái mũi man mát, cao cao là hình như bất động trước những gì đang xảy ra và tạo nên một nét tương phản lạ kỳ. Vẻ điều hòa và cân xứng trên khuôn mặt ấy đã hoàn toàn tan nát.
    “Ôi, chịu khó một chút!” nàng nói. “Chịu khó một chút nào! em sẽ làm cho anh bớt đau ngay lập tức mà. ” Đây là lần đầu tiên tôi nghe thấy nàng nói bằng cái giọng thất thanh này, làm như thể chỉ có nàng ở đó với thằng bạn trai mà thôi. Ngửa cái cổ thon dài, duyên dáng lên nàng nhìn thẩn thờ đó đây một lúc, rồi quỳ ngay xuống hòn đá dưới tàn cây và ôm lấy chân Kashiwagi. Nàng áp má vào chân nó, rồi cứ thế mà hôn.
    Một lần nữa tôi lại bàng hoàng sợ hãi như trước. Tôi quay sang thiếu nữ ở nhà trọ. Nàng đang nhìn đi nơi khác và đang ngân nga giọng mũi mà hát một mình.
    Vào lúc ấy dường như mặt trời đã xuyên thủng qua đám mây, nhưng tôi nhận thấy đó chỉ là một ảo giác. Tuy vậy, cách bố cục toàn cảnh công viên đã mất vẻ điều hòa của nó. Tôi cảm thấy nhiều nếp rạn nứt nho nhỏ đã bắt đầu hiện rõ khắp trên bề mặt bức tranh trong sáng bao gồm cả chúng tôi - cái bức tranh trong sáng ấy bao gồm rừng thông, ánh sáng phản chiếu trên mặt sông, dẫy đồi phía xa xa, những tảng đá trắng toát và những cây đỗ quyên mọc rải rác đó đây.
    Hiển nhiên phép lạ hằng mong đợi đã xẩy ra và những tiếng rên la của Kashiwagi cũng nguôi dần. Nó ngẫng đầu lên đồng thời lại quay về phía tôi nhoẻn nụ cười lạnh lùng nhăn nhở.
    “Khỏi hẳn rồi,” nó nói. “Em đã chữa cho anh hết đau rồi. Thật lạ kỳ có phải không? Khi nó bắt đầu làm anh đau và em làm như thế cho anh thì anh hết đau liền tức khắc. ”
    Nó lùa hai tay vào mái tóc thiếu nữ và nâng mặt nàng lên. Thiếu nữ nhìn nó với dáng vẻ của một con chó trung thành, rồi mỉm cười. Vào lúc ấy ánh sáng xuyên qua những đám mây lúc tăng lúc giảm là cho nét mặt thiếu nữ xinh đẹp này trông giống hệt nét mặt bà lão sáu mươi tuổi ấy mà Kashiwagi đã có lần kể truyện cho tôi nghe.
    Sau khi đã làm xong phép lạ, Kashiwagi vui mừng hớn hở. Quả vậy nó hớn hở vui mừng đến độ như điên cuồng. Nó cười hô hố, bế xốc thiếu nữ đặt lên đầu gối rồi hôn lấy hôn để. Tiếng nó cười ngân vang đến tận những cành thông ở tận chân đồi.
    “Tại sao nhà ngươi không tỏ tình với cô bé ấy hử?” nó nói với tôi trông lúc tôi ngồi im lặng ở đó. Ta tổn hao công phu đem cô bé đến đây là để riêng cho nhà ngươi, ngươi có biết không. Hay là ngươi e ngại, thẹn thùng khi nghĩ cô bé sẽ cười khi nhà ngươi nói không ra lời? Mạnh dạn lên nào - nói lắp, nói lắp! Ví như nhà ngươi biết, rồi ra cô nàng sẽ chợt thấy mình đem lòng yêu một thằng nói lắp cho mà coi!”
    Lời nói của nàng châm chọc tôi dữ dội và khiến tôi cảm thấy không thể ngồi yên một chỗ nữa. Nhưng, lạ lùng thay, sự ghét bỏ của tôi đối với cô gái đột nhiên biến thành một thèm muốn làm cho tôi choáng váng cả người.
    “Tại sao tụi mình không thể tách thành hai nhóm nhỉ?” Kashiwagi vừa nói vừa nhìn cặp tình nhân trẻ hãy còn ngồi trên ghế đu. “Mỗi đứa dẫn em bé của mình tới một nơi vắng vẻ rồi hai giờ sau lại gặp nhau ở đây. ”
    Tôi và cô gái từ nhà trọ rời Kashiwagi và người tình của nó; chúng tôi xuống đồi rồi đi lên một con dốc thoai thoải về hướng đông.
    “Thằng cha sẽ bầy trò làm cho con bé ấy tưởng mình là một thánh nữ. Ấy, thằng cha ấy vẫn có cái trò như thế. ”
    “Tại sao em biết?” tôi nói ấp a ấp úng thực tàn tệ hỏi lại.
    “Ừ, chính em trước kia cũng có dính líu với Kashiwagi, anh ạ. ”
    “Bây giờ giữa hai người thì hết rồi phải không? tôi nói. “Vậy mà em vẫn coi nhẹ việc đó quá chừng.”
    “Vâng, em coi truyện đó không có gì, đúng thế. Với một người tật nguyền như vậy biết làm thế nào được.”
    Lần này những lời nàng nói thay vì làm tôi cáu giận thì khiến tôi bạo dạn thêm và tôi buộc miệng khẻ hỏi: “Em yêu đôi chân tàn tật của nó phải không?”
    “Xin can!” nàng nói. “Em không muốn nói đến cặp chân ếch của hắn. Nhưng em nghĩ rằng hắn có đôi mắt đẹp thật dễ yêu. ”
    Đến đây một lần nữa tôi lại mất lòng tự tin. Dù cho Kashiwagi có nghĩ gì đi nữa thì cô gái này cũng đã yêu một cái đẹp nào đó của nó mà chính nó không hay; và bây giờ như chỗ tôi nhận ra, điều tôi cứ ngạo mạn tin tưởng rằng bản thân tôi chẳng có cái gì là tôi không biết thực ra là do kết quả việc tôi đã đặt riêng mình ra như một con người chẳng hề có lấy riêng mình ra chút gì là đẹp đẽ.
    Khi tới đầu dốc, chúng tôi rẽ vào một thửa ruộng nhỏ, yên tịnh. Phía xa xa, qua hàng cây thông và cây sam, người ta có thể loáng thoáng nhìn thấy ngọn núi Daimonji, Nyoigatake và những ngọn núi khác. Một rừng tre xanh chạy từ quả đồi, chỗ chúng tôi đứng, xuống tới con dốc dẫn về phía thành phố. Ở ven rừng tre ấy chỉ còn có một cây anh đào nở muộn duy nhất hoa chưa hề rụng đang đứng nghênh ngang. Hẳn rằng đó là những bông hoa nở muộn và tôi tự hỏi có phải vì khi mới đâm nụ chúng cứ nói lắp mãi nên mới muộn mằn như thế.
    Tôi cảm thấy tức ngực và bụng nặng chình chịch. Tuy nhiên, đó không phải vì rượu. Bây giờ thì gần tới giây phút gay cấn, sự thèm khát của tôi mỗi lúc một nặng thêm để trở thành một cấu tạo trừu tượng tách riêng khỏi chính thân xác tôi rồi đi xuống hai vai tôi khiến chân tôi cảm thấy như một cái máy bằng sắt nặng chịch, đen sì.
    Như tôi đã nói nhiều lần tôi hết sức biết ơn Kashiwagi khi nó hoặc vì thân tình hoặc vì ác ý, thúc đấy tôi tiến tới cuộc đời. Từ lâu tôi đã tự mình thấy rõ rằng ngay khi còn học trung học tôi đã chủ tâm vạch nát cái bao kiếm của người đàn anh, thực không có tư cách để đáng được bước vào cuộc đời qua mặt tiền xán lạn. Chính Kashiwagi là thằng bạn đầu tiên đã dậy cho tôi biết con đường hẻm tối om để tôi men theo mà có thể bước vào cuộc đời bằng cổng hậu. Thoạt nhìn cái này có vẻ như một đường lối tất yếu dẫn tới sự phá diệt; tuy vậy, nó lại chứa đầy những thuật số chẳng ngờ; nó biến hèn yếu thành bạo dạn và có thể gọi nó là thứ thuật luyện kim, biến cái chúng ta vẫn gọi là ác đức trở lại thành cái năng lượng thuần túy ban đầu. Và cái này thực ra là một loại cuộc đời. Đó là một cuộc đời tiền tiến, một cuộc đời hoạch đắc, một cuộc đời suy di, một cuộc đời có thể táng thất. Khó lòng gọi nó là cuộc đời điển hình, tuy vậy nó may mắn có đầy đủ mọi cơ năng của một cuộc sống. Cho là tại một nơi nào đó chẳng ai trông thấy, chúng ta phải đối đầu với tiền đề rằng mọi hình thức của cuộc đời đều vô mục đích, do đó cuộc đời mà Kashiwagi đã chỉ cho tôi biết hẳn dần dần phải có một giá trị tương đương với những loại cuộc đời theo thông lệ.
    Tôi nghĩ chẳng thể nào nói rằng Kashiwagi không bị say sưa. Từ lâu tôi đã nhận thức được rằng trong bất kỳ hình thức hiểu biết nào, dù cho có u tối đến đâu đi nữa, vẫn thấy thập thò sự say sưa của chính sự nhận thức. Như vậy thì chung cục rượu là cái được dùng để làm cho người ta say sưa vậy.
    Tôi và cô gái trong nhà trọ ngồi xuống bên cạnh đám hoa đỗ nhược tàn úa và đây sâu. Tôi không hiểu tại sao cô ả lại muốn làm thân với tôi theo lối này. Tôi không hiểu - tôi cố ý dùng lời nói tàn ác này - có cái xung động nào đó đã thúc đẩy nàng muốn bị dây bẩn như thế này. Trong thế giới chúng ta này nên có sự vô-để-kháng tràn đầy hổ thẹn và dịu dàng, nhưng thiếu nữ này chỉ để cho đôi tay tôi chạm vào bàn tay nho nhỏ, mũm mĩm của nàng, giống như đàn ruồi bậu trên một người đang ngủ trưa mà thôi. Tuy nhiên, cái hôn kéo dài và làn da mềm mại, mát mịn trên cầm nàng đã đánh thức dục vọng của tôi trỗi dậy. Đó là điều tôi vẫn hằng mơ tưởng bây lâu nay, tuy vậy thực ra chính cái cảm giác này thì lại hời hợt và mong manh. Dục vọng của tôi không có vẻ tiến lên thẳng, nhưng lại chạy vòng quanh. Bầu trời đầy mây trắng, tiếng bụi tre sột soạt, cố gắng khó nhọc của con cánh cam trong lúc bò lên cây đỗ nhược - tất cả những thứ này vẫn ở trạng thái vô trật tự y hệt như lúc trước.
    Tôi cố gắng trốn chạy bằng cách nghĩ rằng thiếu nữ trước mặt tôi chính là đối tượng cho dục vọng của tôi. Tôi phải nghĩ đến cái này như là lằn ranh duy nhất trên con đường tiến tới và nắm giữ của tôi. Bởi vì, nếu tôi bỏ lỡ dịp may này thì nhân sinh sẽ vĩnh viễn chẳng bao giờ đến thăm tôi nữa. Tôi nhớ lại biết bao nhiêu lần chỉ vì tật nói lắp mà lời nói của tôi đã bị chặn lại và không làm sao thoát ra khỏi miệng. Vào lúc này, hẳn tôi phải quyết tâm mở miệng. Vào lúc và nói điều gì, dù cho có phải lắp bắp cũng mặc. Như thế tôi mới có thể biến cuộc đời thành của riêng tôi. Lời thúc đẩy tàn ác của Kashiwagi, cái lời hối thúc đầy tàn ác của Kashiwagi, cái lời hối thúc thô lậu của nó: “Nói lắp, cứ nói lắp bừa phứa đi!” vang vang bên tai cổ vũ cho tôi. Sau cùng tôi lùa tay dần dà vén váy nàng lên.
    Vào lúc đó Kim Các Tự hiển hiện trước mắt tôi.
    Một tòa nhà kiến trúc âm u, tiêm tế, nhưng đầy vẻ uy nghi. Tòa kiến trúc có tấm lá vàng nhiều chỗ rách nát và trông tựa như nắm xương tàn của vẻ lộng lẫy xưa kia. Đúng. Kim Các Tự hiện ra trước mắt tôi - cái tòa nhà kiến trúc kỳ lạ ấy khi mình tưởng là gần kề thì lại hóa ra xa cách, cái tòa nhà luôn luôn bồng bềnh rõ rệt ở một cự li lạ lùng nào, thân thiết mà cách xa với người ngắm nhìn. Chính tòa kiến trúc đó lúc này dã tới đứng giữa tôi và cuộc đời tôi đang định tiến tới. Thoạt đầu nó nhỏ bé như một bức tranh thu gọn, nhưng một lúc sau trở nên to lớn dần đến độ hoàn toàn chôn vùi cái thế giới bao quanh tôi, lấp đầy mọi hoắm, mọi khe của thế giới này, y như trong cái mô hình khéo léo mà đã có lần tôi thấy Kim Các Tự, cái mô hình đồ sộ đến nỗi nó bao trùm hết mọi thứ khác. Nó lấp đầy thế giới như một thứ âm nhạc mênh mang nào đó, và chính âm nhạc này đã đủ để chiếm hết tất cả những ý vị của thế giới. Kim Các Tự có những lúc thường như quá ư xa lạ với tôi và vươn lên không gian vượt khỏi tầm tay tôi, đến lúc này lại hoàn toàn bao trùm lấy tôi và cho tôi một vị trí trong nội bộ cấu tạo của nó.

  8. #8
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Cô gái trong nhà trọ vụt bay xa giống như một hạt bụi nhỏ xíu. Nàng đã bị Kim Các Tự gạt bỏ ra sao thì những cố gắng tìm kiếm cuộc đời của tôi cũng bị gạt bỏ như vậy. Làm sao tôi có thể vươn tay ra, tìm kiếm cuộc đời khi bị bao trùm trong cái đẹp như thế này? Có lẽ cái đẹp có lập trường đòi hỏi tôi phải từ bỏ những quyền lợi trước kia của mình. Vì rõ ràng là chẳng làm sao có thể đưa tay này sờ tới vĩnh viễn và tay kia sờ tới cuộc đời. Nếu như ý vị của những hành vi mà ta hướng về cuộc đời là ta có thể thề nguyền trung thực đối với một khoảnh khắc nào đó và làm cho khoảnh khắc ấy ngưng đọng hẳn lại, thì có nhẽ Kim Các Tự đã hiểu rõ được điều này và đã có lúc chối bỏ thái độ xa lạ thường lệ của nó đối với tôi. Hình như ngôi chùa đã hóa thân trong một khoảnh khắc như chính ngôi chùa đã làm lúc này. Chính vào những lúc như thế này mà sự hiện hữu vĩnh viễn của cái đẹp mới thực sự làm tắc nghẽn cuộc đời và đầu độc cuộc đời chúng ta. Cái đẹp khoảnh khắc mà cuộc ngắn ngủi và đã đến công viên này thăm tôi nên tôi mới hiểu rõ nỗi khát vọng của tôi đói với cuộc đời mới thực trống rỗng biết bao. Trong cuộc sống, cái khoảnh khắc hóa thân thân vĩnh cữu thường làm chúng ta say sưa ngây ngất; nhưng Kim Các Tự thừa hiểu rằng một khoảnh khắc như thế chẳng có ý nghĩa gì nếu đem so với những gì đã xẩy ra khi vĩnh viễn hóa thân thành một khoảnh khắc như chính ngôi chùa đã làm lúc này. Chính vào những lúc như thế này mà sự hiện hữu vĩnh viễn của cái đẹp mới thực sự làm tắc nghẽn cuộc đời và đầu độc cuộc đời chúng ta. Cái đẹp trong khoảnh khắc cho ta nhìn thấy thường vô hiệu đối với chất độc như thế. Chất độc sẽ nghiền nát và tiêu hủy nó ngay tức khắc và cuối cùng phơi bầy chính cuộc đời ra dưới ánh sáng nhợt nhạt của diệt vong.
    Thực ra, tôi chỉ bị cái ảo tưởng này của Kim Các Tự bao trùm kín mít trong một chốc lát mà thôi. Khi tôi quay lại với mình, ngôi chùa đã nấp kín rồi. Đó chỉ là một tòa kiến trúc hãy còn xa tít tận phía đông bắc ở Kinugasa mà từ đây tôi không thể nhìn được. Giây phút ảo ảnh trong đó tôi tưởng tượng thấy chính mình đang được Kim Các Tự chấp nhận và ôm ấp đã trôi qua. Tôi đang nằm trên đỉnh một ngọn đồi trong công viên Kameyama. Gần chỗ tôi chẳng có một chút gì chỉ trừ một thiếu nữ đang nằm tênh hênh, buông thả giữa đám cỏ, vầng hoa và những tiếng đập cánh buồn tẻ của côn trùng. Trước vẻ rụt rè bất chợt của tôi, thiếu nữ đứng dậy và nhìn tôi chằm chằm. Tôi nom thấy cặp mông nàng chuyển động trong lúc nàng quay lưng về phía tôi rồi lấy từ trong sắc ra cái gương soi bỏ túi. Nàng không nói năng gì, nhưng sự khinh miệt của nàng xuyên thủng da thịt tôi giống như cỏ may cắm vào quần áo mình về mùa thu vậy.
    Bầu trời thấp hẳn xuống. Mưa bắt đầu rơi lấm tấm trên đám cỏ xung quanh và trên những cành lá cây đỗ nhược. Chúng tôi vội vã đứng dậy đi dọc theo lối mòn trở về chỗ tàn cây phía đông con đường.
    Chuyến chơi núi chấm dứt một cách tệ hại nên ngày hôm đó để lại một ấn tượng hết sức u ám trong lòng tôi. Tối đó, trước giờ khai chẩm, Lão sư phụ nhận được một bức điện tín từ Tokyo gửi đến. Nội dung bức điện tín được thông báo ngay lập tức cho tất cả mọi người trong chùa đều biết.
    Tsurukawa đã chết. Bức điện tín chỉ nói vắn tắt rằng nó đã chết vì một tai nạn, nhưng về sau nhận được một lá thư chúng tôi mới biết rõ ràng vì đâu nó đã lìa đời. Vào tối hôm trước Tsurukawa đi thăm một ông bác ở Asakusa và đã uống rất nhiều rượu. Nó vốn không quen uống rượu và chắc rằng rượu đã làm nó chuếch choáng. Trên đường về nó đã bị một xe cam-nhông bất chợt từ một ngõ hẻm gần nhà ga đâm ngang và xô ngã. Nó bị vỡ xương sọ và chết ngay lúc đó. Gia đình nó cuồng cuống cả lên và chẳng biết làm gì cho mãi đến chiều hôm sau mới nhớ ra rằng phải đánh điện tín báo cho Lộc Uyển tự biết tin.
    Khi ba tôi mất, tôi đã không khóc; nhưng bây giờ tôi đã rơi nước mắt. Bởi vì cuộc sống của Tsurukawa hình như có liên hệ mật thiết với những vấn đề khẩn cấp đang bao quanh tôi hơn là cuộc sống của Ba. Kể từ lúc quen biết Kashiwagi tới giờ, tôi đã có vẻ hơi lạnh nhạt với Tsurukawa; nhưng bây giờ, sau khi đã mất nó rồi, tôi mới nhận ra rằng cái chết của nó đã cắt đứt sợi dây duy nhất và độc nhất hãy còn nối tôi liền với cái thế giới rạng rỡ của ban ngày. Chính vì cái ban ngày bí mật ấy, cái ánh sáng bí mật ấy, cái mùa hè bí mật ấy mà tôi đang nhỏ lệ khóc đây.
    Mặc dù muốn chấp cánh bay đi ngay Tokyo để chia buồn với gia đình Tsurukawa, song tôi lại không có tiền. Mỗi tháng tôi chỉ được Lão sư phụ cho năm trăm yen để làm tiền tiêu vặt. Dĩ nhiên, mẹ tôi rất nghèo. Cố gắng hết sức mỗi năm bà có thể đôi lần gửi cho tôi hai hoặc ba trăm yen. Sở dĩ bà bị bó buộc phải đến sống ở nhà một ông bác tại Kasagun sau khi thu xếp gia sản là vì bà làm sao có thể xoay xỏa để sống trong một năm với số tiền năm trăm yen do các đàn gia đóng góp để mua gạo (gọi là phù trì mễ) và một món tiền nhỏ mọn do phú trợ cấp.
    Làm sao tôi có thể chắn chắn lòng tự nhủ lòng là Tsurukawa đã chết một khi tôi không được nhìn thấy thi hài và không được dự đám tang nó? Vấn đề cứ day dứt tôi mãi. Cái bụng dưới làn áo sơ mi tràng của nó mà tôi đã có lần nhìn thấy rập rờn, óng ánh dưới tia nắng mặt trời đổ xuyên qua lá cây giờ đây đã trở thành tro bụi. Ai có thể tưởng tượng thân xác và tinh thần của người thanh niên này được tạo tác ra chỉ để mà rực sáng và chỉ để hòa hợp với ánh sáng đến lúc này còn bị chôn vùi dưới nấm mồ? Nó không hề có tướng chết non; nó không hề bị bất an hoặc ưu sầu và không hề có một yếu tố nào na ná giống như cái chết. Có lẽ đúng vì vậy mà nó đã bị chết quá đột nhiên như thế. Có lẽ cũng chẳng thể cứu Tsurukawa khỏi tay tử thần vì rằng con người nó chỉ gồm có toàn những thành phần thuần túy của cuộc sống và cái sinh mệnh động vật có loại máu tinh thuần. Còn tôi thì hình như là, ngược lại, đã bị số phận bắt phải trường thọ cho đến cái tuổi già nua khốn khổ.
    Cái cấu tạo trong sáng của thế giới mà nó trú ngụ, đối với tôi, từ trước đến giờ luôn luôn có cái vẻ sâu xa của một câu đố; nhưng bây giờ với cái chết của nó, cái vẻ sâu xa khó giải của câu đố ấy lại còn trở nên đáng sợ hơn nữa. Chiếc xe cam nhông đã nghiền nát thế giới trong suốt của nó đúng y như đã đâm sầm vào một tấm kính trong suốt nên không ai nhìn ra. Việc Tsurukawa đã không chết vì bệnh não thật ăn khớp với cái tỉ dụ này. Xét cho cùng, sở dĩ nó phải chịu một cái chết thuần túy là vì cuộc đời nó là một cấu tạo thuần túy không gì sánh kịp. Trong sự xung đột trong chớp mắt ấy đã có một sự tiếp xúc đột ngột và cuộc sống của nó đã hòa hợp, chìm tan với cái chết của nó. Một tác dụng hóa học mau chóng. Thật ra chỉ nhờ cái phương pháp quá khích như thế người thanh niên kỳ lạ, không hình ảnh này mới có thể đuổi kịp và móc nối cả hình ảnh lẫn cái chết của mình.
    Thế giới trong đó Tsurukawa đã sống thì tràn đầy những tình cảm, những thiện ý trong sáng. Tuy thế, tôi có thể nói chắc rằng thực không phải do những nhận định lầm lẫn hoặc phán đoán ngọt ngào, êm dịu mà nó đã sống ở đó. Trái tim sáng ngời của nó, cái trái tim không thuộc về thế giới này, đã trở nên một sức mạnh dẻo dai, mạnh mẽ nâng đỡ; và chính những cái này đã tới để sắp đặt, điều hòa những vận động của nó. Trong cung cách phiên dịch mỗi một cảm nghĩ đen tối của tôi thành những cảm nghĩ tươi sáng, có một cái gì cực kỳ chính xác. Đôi khi tôi đâm ra nghi là thực ra Tsurukawa đã trải qua chính những cảm nghĩ của tôi, chỉ vì vẻ rực sáng của nó tương ứng thật chính xác với sự tối tăm của tôi, và vì nét tương phản giữa cảm nghĩ của hai đứa chúng tôi thật chính xác với sự tối tăm của tôi, và vì nét tương phản giữa cảm nghĩ hai đứa chúng tôi thật quá ư rõ rệt. Nhưng không. Thực không phải thế! Vẻ rực sáng trong thế giới của nó vừa thuần túy lại vừa đơn điệu. Vẻ ấy đã khai sinh ra một hệ thống tiêm tế của riêng nó và chứa đựng một sự tinh mật dường như gần với sự tinh mật của điều ác. Nếu cái thế giới trong sáng của người trẻ tuổi này đã không luôn luôn được sức mạnh thể xác kiên cường của nó chống đỡ thì sẽ sụp đổ chỉ trong nháy mắt. Nó đã mở hết tốc lực chạy về đằng trước, và chiếc xe vận tải đã đè lên cái thể xác đôn đáo của nó.
    Ánh mắt vui tươi và dung mạo hồn nhiên của Tsurukawa, nguồn gốc phát ra mối hảo cảm mà nó đã gây nên ở người khác, giờ đây không còn trên thế gian này nữa, đã dẫn dắt tôi ngụp lặn trong những suy tư thần bí về những khía cạnh hữu hình của nhân gian. Tôi nghĩ thật là kỳ lạ làm sao khi một sự vật gì đó chỉ cần tồn tại và va chạm tới tầm mắt chúng ta mà đã có thể hành sử một sức mạnh trong sáng thế. Tôi nghĩ tinh thần phải học hỏi ở thể xác biết bao nhiêu mới có thể cảm thấy rõ cái thực tại bảo cái thể của Thiền là vô tướng và cái kiến tính thực sự nằm ở chỗ biết được rằng trái tim con người là vô hình, vô tướng. Tuy nhiên, năng lực và kiến tính vốn có thể quan niệm đúng mức được vô tướng, hẳn cũng phải luôn luôn mẫn duệ cực độ mới có thể chống lại cái sức mê hoặc của các hình thái. Làm sao một người đã không thể nhìn hình tướng với sự mẫn duệ cực độ mới có thể chống lại cái sức mê hoặc của các hình thái. Làm sao một người đã không thể nhìn hình tướng với mẫn duệ vô tư lại có thể thấy được vô hình, vô tướng một cách rõ ràng, sống động cho đến thế? Như thế hình thái minh liệu của một người như Tsurukawa đã từng tỏa ra ánh sáng chỉ nhờ sự tồn tại của mình, của một người mà người ta có thể vói tới bằng cả tầm tay lẫn tầm mắt, có thể thực sự được gọi là sống để mà sống - và giờ đây con người này đã chết - một tỉ dụ rõ ràng nhất để mô tả sự vô hình thái bất minh liệu; và cái cảm giác thực tại của người ấy về sự hiện hữu của chính mình có thể trở thành cái mô hình thực tại nhất về hư vô vô hình. Thực vậy, hình như chính con người nó lúc này đây đã có thể trở thành một tỉ dụ như thế không hơn không kém. Chẳng hạn, sự tương tự giữa Tsurukawa và những bông hoa tháng Năm thật tương tự với những bông hoa ấy đã được ném vào trong quan tài của nó, sau khi nó bất chợt qua đời vào tháng Năm.
    Cuộc đời của tôi thiếu hẳn tính cách tượng trưng rõ rệt như cuộc đời của Tsurukawa. Vì lý do này nên nó đã trở thành tất yếu cho tôi. Và điều làm tôi ghen tị nhất với nó ấy là nó đã xoay xỏa để đi tới đoạn chót của cuộc đời mà chẳng hề ý thức lấy mảy may về một cá biệt tính hay một sứ mệnh đặc biệt nào đè nặng như bản thân tôi cả. Cái ý thức về cá biệt này đã cướp mất tính cách tượng trưng của cuộc đời tôi, nghĩa là, cái khả năng giống như của Tsurukawa, được dùng như một tỉ dụ cho cái gì ở bên ngoài nó; do đấy, nó đã cướp mất của tôi cái cảm giác liên đới với cuộc đời và trở thành nguồn gốc của cái ý thức cô độc cứ theo đuổi tôi mãi mãi chẳng buông tha. Kể cũng kỳ lạ. Tôi cũng chẳng cảm thấy có chút liên đới nào với hư vô hết nữa.
    Một lần nữa tôi lại cảm thấy cô độc. Tôi không còn gặp lai cô gái ừ nhà trọ nữa và sự liên lạc của tôi với Kashiwagi cũng không thân mật như trước. Tuy lối sống Kashiwagi vẫn còn có ma lực lôi cuốn tôi mãnh liệt, song tôi cảm thấy rồi ra nếu cố sức một phần nào để chống lại và gắng gượng tránh xa sự quyến rũ này, ấy là tôi đã có một cái gì cúng dường vong hồn Tsurukawa vậy. Tôi viết thư cho mẹ tôi nói rõ rằng bà không nên đến thăm tôi làm gì trước khi tôi thành người thực sự. Tôi đã nói với bà như thế trước rồi. Nhưng tôi không cảm thấy yên tâm chừng nào chưa dùng những lời mạnh mẽ viết trắng cho bà hay. Bà đã trả lời bằng một thứ văn chương vụng về. Bà kể cho tôi hay bà đang phải làm việc cầy cấy vất vả ra làm sao trong trang trại của ông bác, và tiếp theo là một vài câu giáo huấn sơ đẳng. Rồi ở cuối thư bà còn thêm vào một câu này: “Chừng nào còn chưa được nhìn tận mắt thấy con thành sư trưởng trụ trì Lộc Uyển tự thì Má chưa thể nào nhắm mắt được.” Tôi ghét câu này quá chừng và nó đã làm tôi cảm thấy khó chịu, bực dọc đến mấy ngày liền.
    Ngay cả trong suốt mùa hè tôi cũng không đến nơi Má đang ở nhờ một lần nào. Vì trong chùa ăn uống kham khổ, nên sức nóng hè đã làm cho tôi rất khó chịu. Vào ngày mồng mười tháng chín người ta dự báo có thể sắp có bão lớn. Cần phải có người túc trực ở Kim Các Tự và tôi đã xung phong nhận công tác này.
    Tôi thấy chính vào thời gian này trong tình cảm của tôi đối với Kim Các Tự đã bắt đầu có một sự biến hóa vi diệu. Đó không phải là sự chán ghét nhưng là một dư cảm và vào một lúc nào đó sẽ không sao tránh khỏi sự trạng đã từng manh nha trong con người tôi: Kim Các Tự và tôi quyết không sao có thể dung được nhau nữa. Kể từ lúc xẩy ra câu truyện ở công viên Kameyama tình cảm này cứ dâng lên, mỗi lúc một rõ ràng, nhưng tôi sợ hãi không dám đặt cho nó một cái tên nào cả. Tuy vậy, tôi thấy sung sướng được biết rằng trong phiên túc trực vào đêm duy nhất này, ngôi chùa sẽ được trao phó cho tôi và tôi không hề giấu giếm niềm vui của mình.
    Người ta trao cho tôi chìa khóa Cứu Cánh đính. Tầng thứ ba này của ngôi chùa vẫn được coi là rất quý giá, vì có một bức hoành mang bút tích của Hoàng đế Go-Komatsu treo trên xà ngang, cách mặt đất chừng mười ba mét.
    Đài phát thanh nói rằng cơn bão sắp sửa đến vùng chúng tôi trong phút chốc. Mưa rả rích suốt buổi chiều, bây giờ trời đã quang đãng và vầng trăng tròn sáng hiện ra trên nền trời đêm. Mọi người đã ra ngoài vườn tản bộ và đang ngắm nhìn trời đất. Tôi nghe thấy một người trong bọn họ nói đây chỉ là sự êm đềm trước cơn bão tố.
    Ngôi chùa đang ngủ yên. Lúc này chỉ có một mình tôi ở trong đó. Khi thơ thẩn tới nơi ánh trăng lọt vào, tôi hoảng hốt nghĩ rằng vẻ âm u tràn ngập, nặng chĩu của ngôi chùa đang vây kín lấy tôi. Tôi dần dà ngụp lặn mỗi lúc một sâu trong cảm giác rất hiện thực này cho đến lúc nó trở thành một thứ ảo giác. Bất thình lình tôi nhận ra rằng lúc này tôi đi vào ảo ảnh như thật - ảo ảnh đã tách tôi ra khỏi cuộc đời trong buổi chiều hôm ấy tại công viên Kameyama.
    Tôi ở đó một mình và Kim Các Tự - cái Kim Các Tự tuyệt đối - đã bao trùm lấy tôi. Tôi đã chiếm được ngôi chùa làm sở hữu hay ngôi chùa đã chiếm được tôi làm sở hữu? Hoặc nói cho đúng ra có phải đã có một trạng thái quân xứng lạ kỳ xuất hiện vào lúc ấy cho phép tôi là Kim Các Tự và Kim Các Tự chính là tôi?
    Sau khoảng mười một rưỡi, gió nổi lên mạnh hơn. Tôi chiếu đèn bấm và trèo lên các bậc thềm. Khi leo lên tới đỉnh, tôi lấy chìa khóa mở cửa Cứu Cánh đính.
    Tôi đứng dựa lưng vào lan can của Cứu Cánh đính. Gió từ hướng đông nam thổi tới. Tuy thế, cho đến lúc này bầu trời vẫn không có gì thay đổi; mặt trăng rãi ánh sáng trên mặt nước trong khi các khoảng cách giữa những cây hoa súng trên mặt Kính Triều trì. Tiếng côn trùng rả rích và tiếng ếch nhái inh ỏi tràn ngập bầu không khí.
    Lúc làn gió mạnh đầu tiên vừa thổi trúng ngay vào má tôi, tức thì tất cả các quan năng trong toàn thân tôi hầu như run rẩy, da thịt tôi nổi gai. Gió càng lúc càng mạnh mẽ vô chừng, rồi trở thành cuồng phong. Lúc này hình như có một thứ điềm báo là tôi sắp sửa sẽ bị tiêu hủy cùng với Kim Các Tự. Lòng tôi đã ở trong Kim Các Tự và đồng thời cũng ở trên cánh gió. Kim Các Tự, cái ngôi chùa đã quy định chính lối cầu tạo cho thế giới của tôi, lại không có mành che lắc lư trong gió, như cứ đứng đó thầm lặng đắm mình trong ánh trăng. Tuy thế, hiển nhiên là làn gió ấy, cái ý chí hung ác của tôi ấy, sẽ thực sự lay chuyển ngôi chùa, đánh thức nó dậy và vào giờ phút sụp đổ cướp đoạt tính kiêu ngạo của nó đi.
    Sự thể là như thế. Tôi bị bao trùm trong cái đẹp, tôi chắc chắn nằm ở trong cái đẹp ấy; tuy thế tôi đâm ra nghi ngờ không biết có phải là tôi mười phần chìm đắm cả mười trong cái đẹp đến độ không cần phải được ý chí hung bạo của trận gió mỗi lúc một gia tăng sức mạnh cho đến vô cùng kia nâng đỡ hay không? Đúng như Kashiwagi đã bảo tôi: “Nói lắp! Cứ nói lắp phứa đi!”, nên bây giờ tôi đem hết sức mà thử sức mạnh trận gió bằng cách kêu lớn những tiếng người ta thường dùng để thúc dục con tuấn mã đang phi: “Nhanh lên! Nhanh nữa lên nào!” Tôi kêu lớn: “Mạnh lên! Cố sức thêm nữa nào!”
    Rừng cây bắt đầu xào xạc; cành lá bên bờ ao cọ mạnh vào nhau. Màu trời ban đêm đã mất dần mầu lam lúc bình thường để ngả sang màu sẫm đục. Tiếng côn trùng vẫn chẳng hề dịu bớt mà đang rộn rã khắp đó đây. Tiếng gió từ xa đổ tới nghe thần bí như tiếng sáo dặt dìu.
    Tôi ngắm nhìn vô số những đám mây đang vùn vụt bay qua đằng trước mặt trăng. Hết đám mây này đến đám mây khác từ phía sau dẫy núi ở hướng nam lần lượt nhô ra giống như những đoàn quân lớn. Có những đám mây dầy. Có những đám mây mỏng. Có những đám mây lớn lao trải rộng. Có không biết bao nhiêu những cụm mây nhỏ bé rạc rời. Chúng đều xuất hiện từ phương nam, rồi băng ngang mặt trăng, băng qua nóc Kim Các Tự, và chạy ùa về phương bắc như thể đang hối hả chạy đi làm một đại sự nào đó. Tôi tưởng như mình có nghe thấy cả tiếng con chim phượng hoàng bằng vàng kêu rít ở trên đầu.
    Bỗng dưng gió lặng, rồi lại trổi mạnh ào ào. Rừng cây yên lặng lắng nghe và tỏ ra hết sức mẫn cảm, im lìm rồi lại xao động khủng khiếp. Ánh trăng chiếu trên mặt ao cũng đã thay đổi lúc tỏ lúc mờ, thỉnh thoảng cố thu góp những tia sáng lạc loài vãi vung lại rồi nhanh nhẹn lướt trên mặt nước. Những đám mây lớn chồng chất bên kia dẫy núi trải rộng ra giống như một bàn tay vĩ đại vươn qua bầu trời. Lúc lại gần nhau chúng vặn vẹo, xô đẩy nhau trông thực là khủng khiếp. Thỉnh thoảng, trên bầu trời, qua những đám mây lại có một khoảng trống không mây quang đãng, nhưng rồi mây lại giăng đày ngay lập tức. Thỉnh thoảng trong những lúc có một làn mây mỏng bay qua, tôi lại có thể loáng nhìn thấy mặt trăng giữa vầng sáng lờ mờ.
    Cứ thế, cả bầu trời chuyển động suốt đêm. Không có dấu hiệu gì cho thấy là gió sẽ thổi mạnh trở lại. Tôi nằm ngủ ngay bên song sắt. Sáng sớm hôm sau - một buổi sáng quang đãng - ông lão gác chùa tới báo cho tôi hay may mắn là trận bão đã thổi qua bên ngoài thị trấn Kyoto.
    Hết phần 5

    Chương 6
    Đến bây giờ tôi đã chịu tang Tsurukawa được gần một năm tròn. Mỗi khi thấy mình cô độc, tôi lại nhận thấy làm quen với những nếp sống này, đối với tôi, thật là dễ dàng; và rằng, cuộc sống ít phải cố gắng nhất đối với tôi chính là cuộc sống tôi không bị bó buộc phải nói năng gì với ai hết. Tôi đã bỏ được sự bực tức đối với cuộc đời. Mỗi một ngày chết đi đều có niềm vui riêng của nó.
    Thư viện đại học là nơi duy nhất tôi thích tới lui. Tôi không đọc sách nói về Thiền, nhưng ham những tiểu thuyết phiên dịch và tác phẩm triết học mà tôi tình cờ vớ được. Tôi ngại ngùng không muốn kể tên những văn gia và triết gia ấy. Tôi nhận rằng họ đã ảnh hưởng ít nhiều đến tôi và tôi cũng nhận rằng chính họ đã là nguyên nhân chính yếu của hành vi ấy; tuy thế tôi lại cho rằng hành vi ấy chính là sự độc sáng của tôi; đặc biệt, tôi không hề muốn bào chữa cho rằng đã có một triết học ký thành nào đó thúc đẩy hành vi này cả.
    Như tôi đã giải thích việc những người khác không hiểu tôi đã là nguồn kiêu hãnh duy nhất đối với tôi ngay từ thời niên thiếu, và tôi chẳng hề cảm thấy có chút mảy may xung động nào cổ vũ tôi tỏ bầy sao cho người khác hiểu được mình. Khi tự mình cố gắng làm sáng tỏ tư tưởng và hành động của mình, tôi không có chút đắn đo, châm chước nào hết. Tôi không rõ có phải đó là vì tôi muốn tự hiểu chính mình hay không. Một xung động như vậy thường theo bản tính chân thực của một người đến để tạo nên nhịp cầu nối liền người đó với những người khác. Vẻ đẹp của Kim Các Tự đã làm tôi say sưa và làm cho một bộ phận trong con người của tôi trở nên mịt mờ; và vì sự say sưa này đã cướp mất của tôi những hình thức say sưa khác nên buộc lòng tôi phải đối kháng bằng cách dùng ý chí mà giữ gìn những bộ phận minh triết của riêng tôi. Tôi không biết gì về người khác, nhưng trong trường hợp của tôi, chính sự minh triết là tôi và ngược lại, tôi không phải là người chủ trì sự minh triết ấy.
    Bây giờ là thời gian nghỉ đầu Xuân niên khóa (1948) Chiêu Hòa năm thứ hai mươi ba, năm thứ hai tôi lên đại học. Một tối Lão sư phụ có việc bận nên đi vắng. Vì không có một người bạn nào nên phương cách duy nhất để tôi khai thác thời gian tự do may mắn này là đi tản bộ một mình. Tôi rời chùa, đi bộ ra bên ngoài Tổng môn. Phía bên ngoài có một rãnh nước chạy ven cổng chùa; bên cạnh rãnh nước này có dựng một tấm bảng gỗ. Tôi đã nhìn quen tấm bảng cũ kỹ này từ lâu lắm rồi, nhưng bây giờ tôi đang dừng lại trước nó và vẩn vơ đọc những hàng chữ đắm mình trong ánh trăng:

    CHÚ Ý


    1- Cấm tất cả mọi biến cải chạm tới hiện trạng bên ngoài của nơi này, trừ trường hợp có giấy phép đặc biệt.
    2- Cấm tất cả những hành vi có thể ảnh hưởng tới sự bảo tồn nơi này.
    Yêu cầu dân chúng chú ý đến những điều kể trên. Bất kỳ người nào vi phạm cũng sẽ bị xử phạt theo quốc pháp.
    Bộ Trưởng Nội Vụ Ngày 31 tháng 3, (1928)
    Chiêu Hòa năm thứ ba
    Rõ ràng là tấm bảng này nhắm vào Kim Các Tự. Tuy nhiên, thực khó mà nắm vững được ám thị trong những ngữ cú trừu tượng ấy. Tôi không sao ngăn được ý nghĩ cho rằng một tấm bảng bố cáo như thế này thực ra chỉ tồn tại ở một thế giới nào hoàn toàn khác biệt với thế giới của ngôi chùa bất biến này. Chính lời bố cáo cũng dự liệu một hành vi khó hiểu hoặc khó thực hiện nào đó. Nhà lập pháp đã soạn ra những luật lệ này và đã mô tả hành vi này một cách khái quát như thế hẳn phải là một người đã hoàn toàn mù mịt, không biết đường nào mà mò. Vì lẽ chỉ có người điên mới có thể mưu đồ những hành vi này. Mà làm sao người ta có thể làm cho một thằng điên sợ trước bằng cách đe dọa trừng phạt hành vi của nó? Điều cần thiết có nhẽ là một thứ văn tự đặc biệt mà chỉ những thằng điên mới có thể đọc nổi.
    Đang bận bịu với những ý nghĩ vẫn vơ, trống rỗng này thì tôi nhìn thấy một bóng người đang đi trên con đường lớn ở trước cổng chùa. Vào giờ này không có một dấu vết gì của những đám người đến vãn cảnh vào ban ngày, chỉ có hàng thông tắm ánh trăng và đèn trước mũi xe hơi tràn ngập bóng đêm khi xe đang chạy ngược chạy xuôi trên xa lộ cách chỗ tôi đang đứng.
    Bất chợt tôi nhận ra hình dáng Kashiwagi. Nhìn cách bước đi, tôi có thể bảo đúng là nó. Lúc ấy và tại đó tôi quyết định chấm dứt sự xa cách giữa hai đứa mà tôi đã lựa chọn trong suốt năm học vừa qua để chỉ nghĩ tới sự cảm tạ của tôi đối với nó, vì nó đã chữa cho tôi khỏi bệnh trong quá khứ. Bởi vì quả chính là nó đã chữa cho tôi khỏi bệnh vào thời gian ấy. Từ cái ngày đầu tiên tôi gặp nó, nó đã chữa cho tôi khỏi những ý nghĩ què quặt bằng cặp chân què quặt xấu xí của nó, bằng sự phơi bầy triệt để tâm tình của nó. Đáng lẽ tôi phải nhận ra ngay niềm vui khi, lần đầu tiên, có thể tiếp truyện với một người trên căn bản bình đẳng với mình mới phải. Hẳn tôi phải tận hưởng niềm vui gần như nguồn vui làm một việc ác đức tự đắm mình xuống đáy của ý thức chính xác rằng mình vừa là người đi tu vừa là đứa nói lắp. Tuy nhiên, vì tôi chơi với Tsurukawa nên tất cả những cái này đã bị quét sạch.
    Tôi mỉm cười chào đón Kashiwagi. Nó mặc bộ đồng phục sinh viên và vác một bó nho nhỏ, dài dài.
    “Sắp sửa đi đâu đấy à?” nó hỏi.
    “Không.”
    “May quá gặp cậu,” nó nói. Nó ngồi xuống một bậc đá rồi mở tung cái bó ấy ra.
    “Cậu thấy đây này.” Nó vừa nói vừa đưa cho tôi xem hai ống dài bóng lộn, đen nhánh lắp lại thành cái sáo tre. “Ông bác mình ở quê vừa mới qua đời có để lại cho mình cây sáo này làm kỷ vật. Nhưng mình còn có cái khác ông đã cho mình từ lâu khi ông dạy mình chơi sáo. Cái này xem ra lại còn đẹp hơn, nhưng mình thích cái mình đã quen rồi và chẳng có lý gì mình lại dùng hai ống sáo một lúc. Bởi thế mình mang cái này đến cho cậu.”
    Đối với một người như tôi chưa hề bao giờ được nhận quà tặng cả bất kỳ ai, đây thật là niềm vui to lớn khi được một tặng vật không cần biết cái đó là cái gì. Tôi cầm cây sáo lên và xem kỹ. Mặt trước có bốn lỗ và mặt sau có một lỗ.
    “Mình đã học cách thổi sáo của dòng Kinko,” Kashiwagi nói tiếp. “Vì đêm nay trăng đẹp, để thay đổi một chút, mình nghĩ phải sang Kim Các Tự mà thổi sáo đấy. Đồng thời mình lại nghĩ có thể dậy cho cậu thổi sáo nữa.”
    “Cậu chọn thật đúng lúc,” tôi nói. “Lão sư phụ đi vắng không về chùa đêm nay, cậu ạ. Ngoài ra, lão quản gia già nua lười biếng vẫn chưa quét tước xong. Chỉ khi nào quét tước đâu vào đấy người ta mới đóng các cổng chùa lại.”
    Nó đường đột hiện ra ở cổng chùa và cũng đường đột ngỏ ý muốn thổi sáo ở trong chùa vì đêm trăng thật đẹp. Đúng là thằng Kashiwagi quen thuộc của tôi. Mặt khác, trong cuộc sống đơn điệu của tôi, nguyên sự ngạc nhiên cũng đã làm tôi vui thích rồi. Tay cầm cái sáo mới có, tôi dẫn Kashiwagi vào chùa.
    Tôi không rõ đêm ấy chúng tôi đã nói chuyện về những gì. Tôi không nghĩ chúng tôi đã nói đến cái gì đó thực rõ rệt. Kashiwagi không tỏ vẻ gì muốn đi sâu vào thứ triết học kiêu kỳ thường lệ và những nghịch thuyết gai góc của nó. Có lẽ nó đã dụng tâm tìm tới để cho tôi thấy một khía cạnh riêng biệt của nó mà từ trước đến giờ chưa bao giờ tưởng tượng đến. Và quả vậy, đêm ấy, người thanh niên này với miệng lưỡi báng bổ, độc địa dường như chỉ để ý đến cái đẹp khi nào có thể đem ra bôi lọ, đã để lộ cho tôi thấy một khía cạnh vô cùng tiêm tế riêng của con người nó. Nó có một lý luận tinh mật về cái đẹp hơn tôi rất nhiều. Nó không nói ra lời cho tôi hay, nhưng bằng dáng điệu và ánh mắt, bằng điệu nhạc nó thổi trên ống sáo và vầng trán nhô ra dưới ánh trăng.
    Chúng tôi dựa lưng vào hàng song sắt tầng hai của Kim Các Tự, nghĩa là Triều Âm động. Hàng hiên dưới mái chùa hơi cong cong lên có tám cây sà theo lối Thiên Trúc chống đỡ, hình như nhô lên từ mặt ao, nơi mặt trăng đang nằm ngủ. Thoạt tiên, Kashiwagi thổi một tiểu khúc tên là “Ngự Sở Xa”. Tài khéo của nó làm tôi kinh ngạc. Tôi cố gắng bắt chước nó, kề môi vào lỗ sáo nhưng tôi không làm sao thổi nên thành tiếng được. Sau đó, nó cẩn thận dạy tôi dùng tay trái giữ phần trên ống sáo ra làm sao và để ngón tay vào đúng lỗ sáo ra làm sao; nó lại còn chỉ tôi cách há mồm để ngậm miệng sáo và cách thổi hơi vào mảnh kim khí mỏng ở trong như thế nào. Tuy thế, mặc dù đã thử đi thử lại nhiều lần, tôi vẫn không sao tạo nên được âm thanh nào cả. Tôi hết sức phồng mang trợn mắt; và tuy không có gió, tôi vẫn có cảm giác mặt trăng đang nằm ngủ dưới ao đã vỡ tan ra thành hàng nghìn mảnh vụn.
    Thổi được một lúc tôi mệt đừ cả người; bất giác tôi sinh nghi có thể Kashiwagi đã dụng tâm làm thế này chỉ cốt để trêu chọc tôi về tật nói lắp. Tuy nhiên, cái khổ công cố gắng tạo nên một âm thanh nhất định không bật ra dường như gạn lọc cái nổ lực tinh thần thông thường ấy của tôi, nhờ đó tôi đã cố gắng hết sức tránh lắp bắp bằng cách xô đây những lời nói đầu tiên ra khỏi miệng mình. Tôi cảm thấy dường như những âm thanh ấm ức, tắt nghẹn chưa chịu thoát ra ấy tồn tại xác thực ở một nơi nào đó trong cái thế giới tĩnh mịch, chan hòa ánh trăng này. Nếu như tôi đạt tới và đánh thức những âm thanh ấy sau nhiều phen cố gắng khác nhau thì tôi cũng đã thỏa mãn lắm rồi.
    Làm cách nào tôi có thể đạt tới âm thanh ấy - cái âm thanh huyền diệu giống như âm thanh Kashiwagi đang thổi ra từ ống sáo của mình? Phải có huấn luyện tinh thục thì mới làm được việc đó. Cái đẹp là sự huấn luyện tinh thục. Trong óc tôi nẩy ra một ý nghĩ khiến cho tôi phấn khởi; nếu như Kashiwagi mặc dù có đôi chân què quặt xấu xí có thể đạt tới những âm thanh trong vắt, tuyệt vời như thế thì hẳn là tôi cũng có thể đạt tới cái đẹp nhờ sự rèn luyện tinh thục. Nhưng tôi còn nhận thức được một điều khác nữa: Kashiwagi chơi bài “Ngự Sở Xa” nghe thật hay, không phải chỉ vì bối cảnh đêm trăng sáng nên thơ mà còn vì cặp chân tật nguyền, xấu xí của nó nữa.
    Sau này khi hiểu rõ Kashiwagi hơn, tôi mới biết rằng nó ghét vẻ đẹp lâu bền. Sự ưa thích của nó giới hạn trong những thứ như là âm nhạc, vì âm nhạc biến tan tức khắc; hoặc các lối cắm hoa vì hoa tàn úa trong vài ngày; nó ghét kiến trúc và văn chương. Rõ ràng là nó chẳng bao giờ nghĩ đến việc tới thăm Kim Các Tự nếu như không có một đêm trăng như đêm nay.
    Tuy nhiên, cái đẹp của âm nhạc mới lạ lùng làm sao! Cái đẹp ngắn ngủi mà người tấu nhạc làm nên biến đổi một khoảng thời gian nhất định thành một giai đoạn liên tục thuần túy; chắc chắn chẳng bao giờ lặp lại; giống như cuộc đời của những con phù du hoặc những sinh vật đoản mệnh như thể đẹp là một cái gì hoàn toàn trừu tượng và là sự sáng tạo ra chính cuộc sống vậy. Không có gì giống cuộc đời cho bằng âm nhạc; tuy nhiên, mặc dù Kim Các Tự cũng có vẻ đẹp như thế, song không có cái gì lại có thể xa cách hơn và khinh miệt cuộc sống hơn là vẻ đẹp của ngôi chùa này. Kashiwagi vừa chấm dứt bài “Ngự Sở Xa” thì âm nhạc - cái cuộc đời hư huyễn ấy - cũng chết theo, và không còn gì sót lại ở đấy ngoại trừ với những nhận thức đen tối, tất cả đều không suy suyển, không đổi thay.
    Hẳn rằng chẳng phải là Kashiwagi tìm kiếm niềm ai ủi ở trong cái đẹp. Chẳng cần bàn cãi lôi thôi gì hết tôi cũng biết rõ điều ấy. Trong một khoảnh khắc sau khi làn hơi của nó đã tạo nên cái đẹp trong không khí, cặp chân què quặt, tật nguyền và cái nhận thức hắc ám của nó vẫn tồn tại ở đó, rõ rệt hơn và tươi mát hơn trước. Tính cách vô ích của cái đẹp, việc cái đẹp ấy đã đi qua thân xác nó mà chẳng để lại bất kỳ một dấu vết gì, tuyệt đối không thay đổi cái gì hết - đó là điều Kashiwagi yêu thích. Nếu đối với tôi nữa cái đẹp có thể là một cái gì giống như thế, thì đời tôi sẽ trở nên nhẹ nhõm biết bao!
    Tôi cứ cố gắng làm theo lời Kashiwagi chỉ dẫn không biết đến bao nhiêu lần. Máu dồn lên làm cho mặt tôi đỏ bừng và hơi thở dồn dập, hổn hển. Rồi thì, y như là tôi bất chợt biến thành một con chim, y như là một tiếng chim chợt buột ra khỏi cổ họng tôi, ống sáo bỗng bật ra thành một âm thanh thực vang to, thực man rợ.
    “Đó, được rồi đó!” Kashiwagi vừa nói vừa kêu to. Hiển nhiên đó không phải là một tiếng nhạc êm tai nhưng vẫn cùng một âm ấy cứ lần lượt ra khỏi ống sáo. Rồi tôi mơ màng tưởng tượng rằng âm thanh thần bí này như không phải do tôi phát ra mà chính là tiếng hót của con phượng hoàng bằng đồng vàng óng ấy ở trên đầu chúng tôi vậy.
    Sau đấy tôi dùng cuốn sách tự luyện mà Kashiwagi cho tôi để mỗi đêm tập dượt thật kỹ cho mỗi ngày một khá hơn. Chẳng bao lâu tôi đã có thể thổi những bài như “Mặt Trời Đỏ Nhuộm Màu Trên Mặt Đất Trắng Xóa” và phục hồi mối thân tình trước kia của tôi đối với Kashiwagi.
    Vào tháng năm tôi nghĩ là phải cho Kashiwagi cái gì để chứng tỏ với nó là tôi thích ống sáo lắm lắm. Nhưng tôi lại không có tiền để mua quà tặng cho nó. Tôi thành thực nói cho Kashiwagi hay nỗi khó khăn của tôi. Nó bảo tôi rằng nó không muốn cái gì phải mua tốn tiền cả. Rồi thì chẩu cái mỏ ra một cách kỳ diệu, nó nói: “Ừ, vì cậu đã lỡ nói đến điều này, thực ra tớ có thích một cái. Đã mấy ngày nay tớ muốn cắm hoa một bận chơi, nhưng hoa lại đắt quá là đắt. Tớ nghĩ lúc này đang vào mùa hoa đỗ nhược và Bạc xương bồ trong Kim Các Tự. Cậu thử nghĩ xem cậu có thể mang cho tớ bốn năm bông hoa đỗ nhược - một loại bông hoa còn đang nụ, hai bông mới chớm nở và hai bông đã nở trọn rồi - hay không? Cậu cũng nên cho tớ sáu bảy bông mộc tặc nữa. Đêm nay chắc được lắm. Thế tối nay mang đến chỗ nhà trọ của tớ có được không?”
    Chỉ sau lúc đã nhẹ dạ nhận lời tôi mới ý thức được rằng thằng này đang thực sự xúi tôi bước vào vòng trộm cắp. Muốn cho khỏi mất mặt tôi chỉ còn có cách đi ăn trộm hoa mà thôi.
    Tối đó trong bữa dược thạch chúng tôi không có gạo để nấu cháo, chỉ có rau luộc và bánh mì đen ném chó chó chết. May thay hôm đó là ngày thứ bảy và vào lúc chiều đã có mấy người đi vắng khỏi chùa. Đêm nay là đêm “Nội Khai Chẩm”: mọi người có thể rời chùa từ sáng sớm đến mười một giờ đêm mới trở về; ngoài ra, buổi sáng hôm sau, gọi là “Tẩm Võng”, chúng tôi được phép dậy trưa. Lúc chúng tôi thức dậy, Lão sư phụ dã đi ra khỏi chùa rồi.
    Mặt trời lặn hồi sáu rưỡi chiều. Trời bắt đầu nổi gió. Tôi ngóng chờ hồi chuông sơ dạ bắt đầu. Lúc tám giờ tối tiếng chuông lanh lảnh, cao vút từ Hoàng Chung điện bên trái cổng giữa báo hiệu phiên gác đầu tiên; cả thảy mười tám tiếng gióng lên ngân nga, lơ lửng vang dội mãi trong không khí.
    Gần Thấu Thanh trong Kim Các Tự có một thác nước nhỏ có hàng rào bao quanh nửa vòng; thác này dẫn nước từ ao sen vào Kính Triều trì rộng lớn. Chính ở chỗ này những cây đỗ nhược mọc lên rậm rạp, chi chít. Vào lúc ấy hoa đã nở được vài ngày trông cực kỳ đẹp đẽ. Khi tiến lại gần, tôi chợt nghe tiếng các bụi đỗ nhược sột soạt cọ vào nhau trong gió đêm. Những cánh hoa màu tím cao chót vót rung rinh trong tiếng nước chẩy thì thầm. Khu vườn ở chỗ này tối như bưng; màu tím của hoa và màu lục nhợt của lá trông đều đen xì như nhau. Tôi cố sức ngắt hai ba bông hoa đỗ nhược: nhưng vì gió thổi hoa và lá cứ tuột khỏi tầm tay và một chiếc lá đã làm tay tôi chảy máu.
    Sau cùng, tôi tới phòng trọ của Kashiwagi, hai tay ôm đầy những bó hoa đỗ nhược và xương bồ thì Kashiwagi đang nằm đọc sách. Tôi lo sợ phải gặp cô gái trong nhà trọ trước đây dã đi chơi núi với bọn tôi, nhưng may thay hình như cô ả không có nhà.
    Một đồ ăn trộm nhỏ mọn đã khiến tôi cảm thấy vui thích. Lần nào móc nối với Kashiwagi là tôi cũng có trước tiên những việc làm bội đức, những báng bổ và những độc ác nho nhỏ. Những cái đó luôn luôn làm cho tôi vui thích; tuy nhiên, tôi không rõ sự tiếp tục gia tăng phân lượng điều ác liệu có lôi cuốn theo một sự gia tăng tương xứng về phân lượng vui thích hay không.
    Kashiwagi rất thích món quà tôi tặng. Nó đi vào phòng bà chủ nhà mượn cái gàu nước và nhiều dụng cụ cần thiết khác nữa để cho nó cắm hoa. Nhà trọ chỉ có một tầng; Kashiwagi sống trong một phòng nhỏ ở căn nhà xép.
    Tôi cầm chiếc sáo của nó đang dựng ở chỗ kệ giường ngủ, áp môi vào lỗ sáo rồi cố gắng thổi bài nhạc ngắn đã tập dược kỹ lưỡng. Tôi thổi thực hay khiến lúc trở về phòng nó hết sức ngạc nhiên. Nhưng cái thằng Kashiwagi tôi đã gặp đêm nay thực không phải là cái thằng đã tới thăm Kim Các Tự .
    “Cậu không nói lắp tí nào khi thổi sáo có phải không? lúc dậy cậu thổi sáo tớ vẫn có ky vọng được nghe tiếng sáo lắp bắp ra làm sao kia đấy chứ!”
    Chỉ với một lời nói này nó đã kéo cả hai đứa tôi trở lại cái tình trạng lúc chúng tôi mới gặp nhau lần đầu. Nó trở lại vị trí riêng của nó. Nhờ thế tôi có thể bình thản hỏi xem người thiếu nữ trong căn nhà kiểu Tây Ban Nha này ra sao.
    “Ồ, con bé ấy hả?” nó chỉ đáp cộc lốc. “Nó lấy chồng từ đời nào rồi. Tớ đã chỉ cho nó đủ mọi phương pháp để che giấu việc nó không còn là trinh nữ nữa. Nhưng được cái thằng chồng nó thuộc loại ngây ngô, khỏe mạnh nên đường như mọi việc đều êm xuôi tất cả.”
    Trong khi nói, nó nhấc từng bông hoa đỗ nhược lên từ cái bát nước đã dùng để ngâm những bông hoa mà ngắm kỹ càng. Đoạn nó nhúng cái kéo vào bát nước rồi cắt những cọng hoa ngâm dưới nước đó. Mỗi lần nó cầm một bông hoa đỗ nhược trong tay, cái bông hoa to lớn lại di động trên nền nhà trải chiếu cói. Rồi nó đột nhiên nói: “Cậu có biết những câu văn nổi tiếng trong chương Thị Chúng của Lâm Tế Lục không? ‘Khi gặp đức Phật, người hãy giết phức Phật đi!’” Và tôi tiếp lời: ‘Khi gặp La Hán, người hãy giết phăng La Hán đi! Khi gặp cha mẹ mình, người hãy giết ngay cha mẹ đi! Khi gặp người bà con thân thuộc, người hãy giết béng bà con thân thuộc đi! Chỉ làm như vậy thì ngươi mới được giải thoát.’
    “Đúng vậy đó. Chính thế đó. Con bé ấy là La Hán, cậu ạ”.
    “Và như thế là cậu đã tự giải thoát?”
    “Hừm,” Kashiwagi nói trong khi cắm lại mấy bông đỗ nhược nó đã cắt rồi và chăm chú ngắm nghía. “Hãy còn nhiều thứ để mà giết nữa cậu ạ.”

  9. #9
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Bát cắm hoa đầy nước trong vắt; bên trong óng ánh màu bạc. Kashiwagi ngắm nghĩa cái giàn sắt để cắm hoa cẩn thận xếp ngay lại cái mấu nào đã hơi nghiêng nghã. Tôi cảm thấy ngột ngạt, khó chịu nên nói vu vơ cố mong lấp đầy im lặng.
    “Có có biết cái công án ‘Nam Toàn Trảm Miêu’ không? Ngay sau khi chiến tranh chấm dứt, Lão sư phụ tụ tập tất cả tụi tớ lại và thuyết giảng cho tụi tớ nghe câu truyện ấy.”
    “Ồ, ‘Nam Toàn Trảm Miêu’ ”? Kashiwagi nói trong khi ước lượng chiều dài một bông mộc tặc và câm bông hoa ấy đó theo bình nước. “Đó là cái công án mà mỗi một con người nhiều lần bất ngờ đã bắt gặp trong đời, tuy dáng vẻ có đổi thay đôi chút. Cậu ạ, công án ấy hơi bí hiểm. Mặc dù cũng vẫn cái công án ấy nhưng mỗi lần bắt gặp ở một khúc quanh trên đường đời mình lại thấy nó thay đổi cả dáng vẻ lẫn ý vị. Trước hết, để tớ nói cho cậu hay con mèo mà Thượng tọa Nam Toàn đã chém đầu là một sinh vật ác ôn! Nó đẹp, đẹp vô cùng phải không nào. Mắt vàng óng, lông mượt mịn. Tất cả mọi niềm vui và vẻ đẹp trên trần gian này đều che giấu, lèn chặt như một cái lò so bên trong thân mình mềm mại, nhỏ nhắn của nó. Nhiều người chú thích câu truyện đã quên bẳng mất rằng con mèo ấy là một khối thể đẹp đẽ. Ngoại trừ với tớ. Con mèo đã đột nhiên từ một bụi cỏ nhẩy vọt ra. Đôi mắt dịu dàng, láu lỉnh của nó sáng rực và một tu sĩ đã tóm được nó - y bệt là nó có dụng ý làm vậy. Kết cục lưỡng đường cãi lộn nhau. Bỡi lẽ, tuy vẻ đẹp nó thể tự hiến mình cho bất kỳ ai, song thực ra nó không hề thuộc riêng một ai hết. Xem nào.
    “Tớ sẽ nói thế nào bây giờ nhỉ. Vẻ đẹp - phải, vẻ đẹp giống như một cái răng sâu. Nó chạm vào lưỡi người ta, lủng lẳng trong miệng người ta, làm cho người ta đau nhức trong khi lại bắt người ta để ý sự tồn tại của chính mình. Cuối cùng đến độ người ta không chịu nổi đau nhức, phải đi đến nha sĩ để nhổ quách nó đi. Rồi, khi nhìn thấy cái răng nho nhỏ, bẩn thỉu, vàng khè, đẩm máu nằm trong lòng bàn tay mình, người ta mới nghĩ như thế này: ‘Có phải nó không? Có phải trước kia nó chỉ có thế này thôi ư? Cái vật nó đã làm cho mình đau đớn không biết chừng nào, đã khiến mình luôn luôn bận tâm đến nó, đã ngoan cố cắm rễ trong con người mình, bây giờ chỉ là một vật chất đã chết. Nhưng có phải vật này thực sự giống vật kia không? Nếu vật này tự căn nguyên đã thuộc về cuộc sống bên ngoài của mình, thì tại sao - do nhân duyên nào - nó lại gắn liền vào cuộc sống bên trong của mình và trở thành căn nguyên biết bao đau đớn cho mình như thế? Có phải căn cứ của nó là ở bên trong mình hay không? Hoặc là ở bên trong chính nó? Thế nhưng cái vật đã bị nhổ ra khỏi miệng mình và hiện đang nằm trong tay mình lại là một vật riêng biệt tuyệt đối. Chắc chắn nó không thể là cái ấy.
    “Cậu thấy không,” Kashiwagi tiếp, “cái đẹp giống như vậy. Do thế, chém đầu mèo ấy thật giống như moi móc ra cái đẹp. Tuy nhiên, chẳng rõ liệu điều này có thực sự là cách giải thoát tối hậu hay không. Gốc rễ của cái đẹp chưa bị chặt đứt và, mặc dù con mèo đã chết, song vẻ đẹp của nó có thể hãy còn sống. Và như thế, cậu ạ, chính để chế giễu tính cách dễ dàng của giải pháp này mà Triệu Châu đã đội giầy lên đầu. Có thể nói rằng anh ta biết là không thể có giải pháp nào khác hơn là chịu đựng sự đau đớn của một cái răng sâu.”
    Cách giải thích của Kashiwagi hoàn toàn độc đáo; tuy nhiên, tôi không thể ngăn mình tự hỏi liệu có phải chính nó, sau khi đã nhìn vào đáy lòng tôi, đang định đem tôi ra mà chế giễu hay không?
    Lần đầu tiên tôi đâm ra sợ nó thực sự. Tôi sợ phải ngồi im lặng nên vội hỏi: “Như vậy trong hai người cậu là người nào? Thượng tọa Nam Toàn hay Triệu Châu?”
    “Ừ, để xem nào. Như hiện tại, tớ là Nam Toàn và cậu là Triệu Châu. Song một ngày nào đó cậu có thể trở thành Nam Toàn và tớ có thể trở thành Triệu Châu. Công án này có mòi thay đổi - giống như mắt một con mèo.”
    Trong khi Kashiwagi nói chuỵên, tay nó từ nẫy đến giờ vẫn cử động thực là nhẹ nàng, mềm mại. Thoạt tiên, đặt lại cái đài cắm hoa bằng sắt hoen rỉ, nho nhỏ vào bát nước, rồi mới cắm hoa bằng mộc tặc - hoa này ở vào vị trí Thiên cung trong lối cắm hoa - tiếp theo cài thêm những bông hoa đỗ nhược mà nó đã xếp thành một khóm ba chiếc lá. Dần dần nó đã cắm xong theo lối Quán Thủy hoạt. Một đống sỏi nhỏ rữa sạch, hòn trắng hòn vàng, nằm chờ sẵn ngay cạnh bát nước để dùng vào việc điểm xuyết cuối cùng.
    Kashiwagi đưa tay thoan thoát nhịp nhàng. Hết quyết định nhỏ này lại đến quyết định nhỏ kia tạo nên một hiệu quả đối xứng và quân bình hết sức nghệ thuật. Thực vật trong thiên nhiên được được dời đổi đưa vào một trật tự của con người để hòa hợp với một quy luật nhất định. Những bông hoa và những chiếc lá đã đổi thay từ khuôn mặt chúng có trước kia sang khuôn mặt chúng phải nên có. Những cây mộc tặc và đỗ nhược không còn là những thực vật đồng loạt vô danh nữa mà đã trở thành những biểu hiện sơ giản, thanh khiết và trực tiếp của cái có thể được gọi là bản chất của mộc tặc và bản chất của đỗ nhược.
    Tuy nhiên, trong cách nó cử động đôi tay vẫn có một cái gì tàn khốc. Những bàn tay ấy cư xử làm như thể chúng có một đặc quyền tối tăm nào đó đối với những thực vật ấy. Có lẽ vì vậy mà mỗi lần nghe thấy tiếng kéo cắt một cuống hoa tôi có cảm tưởng như nhìn thấy cả máu chẩy.
    Hoa đã cắm xong theo lối Quán Thủy hoạt. Phía bên phải cái chậu, chỗ đường thẳng của mộc tặc pha trộn vào đường cong của đỗ nhược, có một bông hoa đang nở bung và hai bông mới hé nụ sắp nở. Kashiwagi đặt chậu hoa vào hốc tường; chậu hoa lấp gần kín khoảng trống. Chẳng mấy chốc mặt nước trong chậu hoa im lìm, phẳng lặng. Những viên sỏi che khuất cái vĩ sắt để gài các cọng hoa, và đồng thời tạo nên đúng cái dáng vẻ trong sáng của một bờ nước.
    “Tuyệt diệu!” tôi nói. “Cậu học được ở đâu vậy?”
    “Gần đây có một cô dạy cắm hoa tươi. Tớ chắc là chốc nữa cô ta sẽ tới đây. Tớ đã kết thân với cô ả và đồng thời cô ả đã dậy tớ cách cắm hoa. Nhưng bây giờ thì tớ đã có thể cắm hoa một mình được rồi cho nên tớ cũng hơi chán cô ả. Cô giáo này hãy còn trẻ và đẹp lắm. Tớ được biết trong thời chiến tranh cô ta đã đem lòng yêu một quân nhân và đã có mang với anh ta. Đứa hài nhi chết lúc lọt lòng và chàng quân nhân chết ngoài chiến trận, từ đó đến nay cô ả luôn luôn chạy theo đàn ông. Cô ta có dư dả tiền tiêu và hiển nhiên chỉ dậy cắm hoa cho vui mà thôi. Tuy nhiên, nếu cậu mà thích đêm nay cậu có thể dẫn cô ả đi chơi chỗ nào đó cũng được. Cô ả sẵn lòng đi bất kỳ nơi nào.”
    Khi nghe kể, tôi thấy lòng mình tràn ngập mối cảm động lung tung. Lúc đứng trên nóc sơn môn Nam Thiền và nhìn thấy cô ta thì có Tsurukawa ở ngay cạnh tôi. Hôm nay, đúng ba năm sau, cô ta lại sắp sửa xuất hiện trước mặt tôi và tôi sắp sửa nhìn thấy cô ta có khác chăng là qua con mắt Kashiwagi. Cho đến bây giờ tôi đã nhìn cái bi kịch của người đàn bà này với cái nhìn rực sáng vẻ thần bí; nhưng từ đây trở đi tôi sẽ nhìn cái bi kịch ấy với cái nhìn đen tối của một người không tin tưởng điều gì hết. Vì lẽ rõ ràng là bầu vú cô ta mà tôi đã nhìn thấy từ xa trông giống như một mặt trăng trắng bạch hiện giữa ban ngày, từ đó đến nay đã bị tay Kashiwagi sờ mó, nắn bóp, và chân nàng, lúc đó cuộn tròn trong bộ kimono óng mượt, hoa mỹ ấy, đã cọ sát cặp chân què của Kashiwagi. Rõ ràng là cô ta đã bị Kashiwagi làm ô uế, thế có nghĩa là, bị nhận thức làm cho ô uế.
    Ý nghĩ này dằn vặt đầu óc tôi ghê gớm khiến tôi cảm thấy không thể làm sao mà ngồi lại nơi này nữa. Nhưng vì hiếu kỳ tôi không sao đi về được. Thực ra, tôi khó lòng có thể ngồi chờ người đàn này này, chính người mà ban đầu tôi đã coi như Uiko tái sinh, nhưng bây giờ sắp sửa chỉ là con bồ bị bỏ rơi của một thằng sinh viên què quặt. Bởi vì sau khi đã a tòng với Kashiwagi tôi rắp tâm đắm mình trong niềm vui hư huyễn là đã tự tay làm ô uế những hồi tưởng quí báu của mình.
    Khi thiếu phụ tới, tôi chẳng thấy lòng mình rung động mảy may. Đến nay tôi vẫn còn nhớ rất rõ cái khoảnh khắc ấy. Giọng nói hơi khàn khàn, dáng điệu thịnh trọng và lối nói năng kiểu cách của cô ta thảy đều tương phản một cách rõ rệt với cái ánh mắt rực sáng hoang dại, với giọng buồn toát ra từ tiếng nói khi cô ta nói với Kashiwagi mặc dù cô ta có vẻ lúng túng rõ rệt về sự hiện diện của tôi - tôi đã nhìn thấy hết sự thể và rồi lần đầu tiên tôi mới hiểu rõ lý do khiến Kashiwagi gọi tôi đến phòng nó tối hôm đó: nó định dùng tôi như một chướng ngại vật.
    Không có một liên hệ nào giữa thiếu phụ này với thiếu nữ nhân vật trong ảo tưởng của tôi hết. Tôi có cảm tưởng nàng là một cá thể hoàn toàn khác biệt mà tôi mới nhìn thấy lần đầu. Tuy cách nói năng bặt thiệp của nàng không hề thay đổi, song tôi có thể đoán nàng đang dần dần trở nên luống cuống, hoảng hốt. Nàng không hề để ý tôi một chút nào.
    Thế rồi dường như nàng không làm sao chịu đựng nổi nỗi khổ nữa và tôi có cảm tưởng trong khoảnh khắc nàng quyết định bỏ rơi hết mọi cố gắng để làm cho Kashiwagi thay đổi lòng dạ. Nàng giả vờ như bất chợt bình tĩnh trở lại và đưa mắt nhìn quanh căn phòng. Tuy đã ở trong phòng đến nữa tiếng đồng hồ song hiển nhiên bây giờ nàng mới để ý tới chậu hoa đã được bầy rõ lồ lộ ở trên hốc tường.
    “Đó là một kết cấu tuyệt diệu theo phái Quán Thủy,” nàng nói. “Anh thật khéo tay quá chừng, anh ạ.”
    Từ nãy đến giờ chờ mãi cho nàng nói theo điều này, bây giờ Kashiwagi mới chấm dứt mọi truyện.
    “Chẳng đến nỗi tệ quá, có phải không?” nó nói. “Đến bây giờ tôi đã khéo léo tới mức độ này, thực cô chẳng còn có thể dậy tôi điều gì nữa. Tôi không cần cô nữa. Phải, tôi nghĩ đúng như vậy.”
    Kashiwagi nói nhấn mạnh từng tiếng. Tôi thấy sắc mặt thiếu phụ tái nhợt, tôi quay mặt đi. Nàng dường như đang mỉm cười, song vẫn chưa từ bỏ cái cung cách trang trọng khi quì gối lết về hốc tường. Thế rồi tôi nghe tiếng nàng nói: “Sao? Loại hoa nào thế? Ờ, những bông hoa gì vậy?” Bỗng chợt nước từ chậu hoa bắn tung tóe trên sàn nhà, những bông hoa mộc tặc bị hất tung, những bông hoa đỗ nhược đã bị vò nát; tất cả những bông hoa tôi hái trộm đem đến đang nằm ngổn ngang dưới đất. Tôi đã quì xuống sàn nhà, nhưng bây giờ lại tự động đứng dậy. Chẳng làm gì cả tôi ngã người dựa vào cửa sổ. Tôi thấy Kashiwagi nắm cổ tay mảnh mai của thiếu phụ, rồi nắm lấy mớ tóc và thẳng tay tát đôm đốp vào hai má nàng. Những động tác vũ phu liên tục của Kashiwagi đã phơi bày rõ rệt sự tàn nhẫn trầm lặng tương tự mà tôi đã thấy trước kia nó đang tỉa cắt những bông hoa; thực vậy, những hành động đó hình như là một sự héo dài tự nhiên những động tác trước kia của nó.
    Thiếu phụ lấy cả hai tay che mặt rồi chạy ra khỏi căn phòng. Còn Kashiwagi thì ngẩng mặt nhìn tôi trong lúc tôi bàng hoàng đứng đó. Nó mỉm một nụ cười hết sức trẻ con và nói với tôi: “Bây giờ đến lượt cậu đó. Đuổi theo mà an ủi cô ả đi! Mau lên!”
    Tôi không rõ uy lực lời nói của Kashiwagi hay vì bản tâm mình cảm thấy ái ngại cho thiếu phụ mà tôi tức thời co giò đuổi theo nàng. Còn cách nhà trọ hai ba căn thì tôi đuổi kịp nàng. Đó là góc ngã tư Itakuramachi đằng sau bến xe điện Karasumaru. Dưới bầu trời đêm vần vũ tôi nghe thấy tiếng xe điện leng keng chạy vào nhà ga, và những tia lửa tím lòe lên tan biến vào trong màn tối. Thiếu phụ rảo bước đi từ Itakuramachi về hướng đông và bước lên một đường hẻm. Tôi cứ lẳng lặng bước đi bên cạnh nàng. Nàng đang khóc. Chỉ trong chốc lát nàng nhận ra tôi và tiến lại gần tôi. Thế rồi, bằng một giọng khàn khàn như thường lệ vì đang khóc, nàng bắt đầu than vãn đủ điều với tôi về việc làm không nên không phải của Kashiwagi.
    Đêm ấy nàng và tôi đã cùng nhau đi qua các phố xá không biết bao lâu! Trong lúc nàng rót vào tai tôi bao nhiêu lời kể lể về những việc làm không ra gì, về tính tình ác độc, hèn mọn của Kashiwagi thì tôi chỉ nghe thấy có một tiếng “nhân sinh” vang dội trong không khí ban đêm. Tính tình tàn nhẫn, những mưu mẹo nhỏ nhen, những phản bội lừa dối, sự lạnh lùng ác độc, những mánh lới bịp bợm để bòn tiền đàn bà con gái của nó - tất cả chỉ làm cho người ta hiểu rõ sức lôi cuốn ma quái của Kashiwagi mà thôi. Điều duy nhất riêng tôi cần tin tưởng ấy là sự thành thật của chính Kashiwagi đối với cặp chân què quặt của nó.
    Sau cái chết bất ngờ của Tsurukawa, tôi đã sống một thời gian dài khá lâu mà không động chạm gì đến cuộc đời. Rồi rút cuộc tôi đã bị thúc đẩy để va chạm với một nếp sống mới - một cuộc đời đen tối hơn, nhưng ít bạc mệnh hơn, một cuộc đời càng sống thì càng thôi thúc, cổ võ cho người ta gây đau thương cho kẻ khác. Những lời nói gọn gàng của Kashiwagi: “Không phải chỉ có giết có thế này mà thôi đâu!” một lần nữa lại vang dội bên tai và thu hút hồn tôi. Và vào giây phút ấy tôi cũng nhớ lại lời nguyện cầu của mình lúc trèo lên đỉnh núi Bất Động sơn đằng sau ngôi chùa khi chiến tranh chấm dứt và nhìn hằng hà sa số những ngọn đèn rọi sáng Kyoto: “Xin cho bóng tối trong tim tôi cũng dầy đặc, mênh mông như bóng tối ban đêm đang bao trùm vô số những ngọn đèn kia!”
    Thiếu phụ không đi về phía nhà mình, mà lại lang thang qua những ngõ ngách rất ít người qua lại; như vây nàng có thể nói chuyện tự do. Đến lúc chúng tôi tới trước cửa căn nhà của nàng sống một mình thì tôi không còn biết hiện chúng tôi đang ở khu nào trong thành phố nữa.
    Lúc ấy đã mười giờ rưỡi. Tôi muốn quay về chùa, nhưng thiếu phụ nài nỉ bảo tôi đừng bỏ nàng, vì thế tôi đã đi vào nhà với nàng. Nàng cất bước dẫn đường rồi bật đèn lên.
    “Đã bao giờ anh nguyền rủa một người nào và mong cho người ấy chết chưa?”
    “Có,” tôi trả lời ngay tức khắc. Kể cũng lạ mãi đến lúc ấy tôi chưa hề nghĩ tới truyện này, nhưng bây giờ thì rõ ràng là tôi cầu mong sao cho cô gái trong căn nhà trọ chết đi, nàng đã chứng kiến sự hổ thẹn của tôi.
    “Thật là một điều khủng khiếp,” nàng vừa nói vừa gieo mình xuống sàn nhà trải chiếu cói và nằm nghiêng về một phía. “Tôi cũng thế.”
    Đèn trong phòng nàng kể ra thực sáng lạ lùng vào những ngày mà điện bị hạn chế này. Bóng đèn hẳn phải đến một trăm watts, sáng gấp ba lần ngọn đèn trong phòng Kashiwagi. Lần đầu tiên nhìn rõ thân mình nàng dưới ánh đèn sáng rực. Tấm thắt lưng Danh cổ ốc trắng muốt nổi bật trên tấm áo Hữu thiền bằng vải tím hình hoa đằng bằng hà. Giữa sơn môn chùa Nam Thiền với phòng khách Thiên Thụ am có một khoảng cách mà chỉ có chim chóc mới bay qua được, nhưng lúc này tôi cảm thấy trong mấy năm vừa rồi tôi đã dần dần vượt qua khoảng cách đó và bây giờ đã đến gần tới nơi. Kể từ buổi chiều ấy ở trên nóc cổng tôi đã băm vằm thời gian ra từng khoảnh khắc vụn nhỏ và lúc này tôi đã thực sự tới gần cái ý vị của tình cảm thần bí ấy ở phòng khách Thiên Thụ am. Tôi nghĩ là phải như thế. Đó là điều chẳng thể tránh nổi - người thiếu phụ này phải đổi thay y như những đường tướng mạo trên trái đất này đã đổi thay vào lúc một tia sáng từ một ngôi sao xa xôi đã rọi đến. Nếu vào lúc mà tôi nhìn thấy nàng từ trên nóc sơn môn chùa Nam Thiền nàng và tôi đã cùng nhau dự liệu buổi gặp gỡ ngày hôm nay thì đã có thể xóa mờ đi những sự thay đổi như thế trong con người nàng từ lúc ấy đến giờ; chỉ cần sửa đổi đôi chút là có thể phục hồi sự vật trở lại trạng thái trước kia của chúng và cái tôi vào lúc đó có thể tương kiến với cái nàng vào lúc ấy.
    Vì vậy tôi kể cho nàng nghe câu truyện. Tôi kể một mạch hụt hơi và lắp bắp liên hồi. Trong lúc tôi nói, những chiếc lá non một lần nữa lại bắt đầu óng ánh, các vì tiên và con phượng hoàng đường vẽ ở trên trần lại trở về cuộc sống. Đôi má thiếu phụ thắm hồng và ánh mắt hoang dại của nàng lúc này thành mơ màng, rối loạn.
    “Thế vậy ư?” nàng nói: “Trời ơi! Có thực đã như vậy không? Thật là một mối kỳ duyên! Phải. Chính là mối kỳ duyên!”
    Lúc nàng nói, mắt nàng ràn rụa những giọt lệ vui mừng. Nàng đã quên sự tủi nhục ban nẫy của mình và thay vì thế lại đắm mình vào những hoài niệm. Từ niềm vui thích này sang niềm vui thích khác nàng ngã nghiêng như điên như dại, cái vạt áo in hình hoa đằng nát nhầu.
    “Bây giờ em chẳng còn tí sữa nào nữa,” nàng nói. “Ôi, đứa con bé nhỏ đáng thương của em! Không, em chẳng còn tí sữa nào, nhưng bây giờ em cũng làm cho anh điều em đã làm lần trước. Vì anh yêu em kể từ dạo đó, em sẽ coi anh cũng như anh ấy. Chừng nào còn có thể nghĩ như vậy, em thấy chảng có gì phải xấu hổ hết. Vâng, đúng vậy. Em sẽ làm y như trước kia em đã làm.”
    Nàng nói như thể sắp sửa đưa ra một quyết định quan trọng. Hành động sau đó của nàng dường như phát xuất từ một nỗi vui sướng điên cuồng hoặc một miềm tuyệt vọng không bờ bến. Tôi cho rằng chính nỗi vui sướng điên cuồng đã đưa nàng tới hành vi mê dại ấy, nhưng sức mạnh gò ép thực sự vẫn là nỗi tuyệt vọng mà Kashiwagi đã đem lại cho nàng, hoặc ít nhất là cái dư vị đắng cay của nỗi tuyệt vọng ấy còn dính mãi trong miệng.
    Thế rồi ngay trước mặt tôi nàng tháo tung giải lụa thắt quanh thân mình và gỡ bỏ những dây chằng chịt. Tiếng lụa sột soạt và giải thắt lưng bung ra; và không còn bị thắt chặt, chiếc áo nàng mặc hở tung. Tôi có thể loáng thoáng nhìn thấy bộ ngực trắng nõn của người thiếu phụ. Đưa tay vén áo nàng lên nàng nâng bầu vú bên trái chìa ra ngay trước mặt tôi.
    Nếu bảo rằng tôi không hề cảm thấy choáng váng, ngất ngây thì không đúng. Tôi nhìn bộ ngực của nàng. Tôi nhìn từng li từng tí. Tuy thế tôi vẫn giữ mình ở địa vị chứng nhân. Cái điểm trăng trắng thần bí mà tôi đã nhìn thấy từ xa mãi tít trên nóc sơn môn không pahỉ là cái chất lượng nhất định của một khối thịt như thế này. Ấn tượng ấy đã ấp ủ đến lên men trong lòng tôi quá lâu nên bầu vú mà tôi nhìn thấy lúc này hình như chỉ là một khối thịt, một thứ vật chất không hơn không kém. Khối thịt này tự nó cũng không có sức mạnh để mời mọc hoặc quyến rũ. Phơi trần ra đó trước mắt tôi và hoàn toàn xa rời cuộc đời, khối thịt ấy chỉ làm chứng cứ tố cáo tính cách khô cằn của cuộc sống.
    Tuy vậy, tôi không muốn nói điều gì dối trá; và rõ ràng là khi nhìn thấy bộ ngực nõn nà của nàng tôi liền bị choáng váng, ngây ngất ngay tức thì. Chỉ phiền một nỗi là tôi nhìn quá kỹ lưỡng, tường tận cho nên cái bầu vú mà tôi nhìn thấy đã vượt ra khỏi tình trạng bầu vú đàn bà để dần dần biến dạng trở nên một mảnh vụn vô ý vị.
    Chính vào lúc ấy đã xẩy ra một sự lạ. Sau khi trải qua sự thích thú đau đớn như thế cuối cùng bầu vú nàng làm tôi ngây ngất vì vẻ đẹp. Nó được trời cho một vẻ đẹp có tính chất cằn cỗi, trơ trơ và trong lúc vẫn hiện ra sờ sờ trước mắt tôi bầu vú đó từ từ vùi mình vào cái nguyên lý tự thể của một bông hoa hồng. Tôi nhận ra cái đẹp rất chậm. Người khác nhận ra cái đẹp và nhục cảm trong cùng một lúc; còn đối với tôi cái đẹp luôn luôn đến chậm hơn. Bây giờ trong khoảnh khắc bầu vú thiếu phụ nối lại những liên quan với toàn thể, nó vượt lên khỏi tình trạng chỉ là một khối thịt để trở thành vật chất bất cảm bất hủ, gần với vĩnh cửu.
    Tôi hy vọng là đang nói rõ để cho người khác hiểu mình. Một lần nữa Kim Các Tự lại hiện ra trước mắt tôi. Hoặc hơn thế, tôi cần nói rằng bầu vú ấy đã biến dạng trở thành Kim Các Tự.
    Tôi nhớ lại phiên túc trực trong đêm bão tố đầu thu. Nếu như ngôi chùa đã phơi mình dưới sánh trăng thì cũng có một màn tối dầy đặc bao phủ lên ngôi chùa và màn tối này đã lẻn vào bên trong ngôi chùa âm u, len qua các cửa sổ, qua các cửa gỗ lớn, qua các trần nhà với phiến lá vàng long lở bên dưới. Và đó là sự đương nhiên. Vì lẽ chính Kim Các Tự thực ra chỉ là hư vô đã được tạo hình và kiến trúc hết sức công phu. Đúng như vậy, bầu vú nàng bên ngoài có tỏa ra ánh da thịt sáng rực, nhưng bên trong lại chứa đầy bóng tối âm u. Thực chất của nó cũng bao gồm cái bóng tối âm u dầy đặc ấy.
    Chắc chắn là tôi không say sưa, ngây ngất vì nhận thức của mình. Nhận thức của tôi đã bị chà đạp và khinh miệt; dĩ nhiên là cuộc đời và dục vọng cũng vậy. Tuy nhiên, cảm giác hoảng hốt sâu xa vẫn chưa tan hết và tôi đã ngồi ì ra đó khá lâu như thể bị tê liệt trước bầu vú phơi bầy của người thiếu phụ.
    Tôi cứ ngồi đó nghĩ ngợi miên man về cái bầu vú phơi bầy của người thiếu phụ. Nàng nhét vú vào trong áo. Tôi cho nàng hay là tôi phải ra về. Nàng tiễn tôi ra cổng rồi đóng sầm cửa lại.
    Đến lúc về tới chùa tôi vẫn còn hoảng hốt ngây ngất cả người. Trong lòng tôi cứ nhìn thấy hết Kim Các Tự rồi lại đến bầu vú của nàng. Lòng tôi tràn ngập một niềm hạnh phúc rã rời.
    Tuy nhiên, khi nhìn thấy hình dáng Tổng môn của Lộc Uyển tự bắt đầu hiện ra sau rừng thông âm u đang rì rào trong gió, lòng tôi dần dần mát dịu đi, cảm giác vô lực rã rời và sự ghét bỏ - chính tôi cũng không biết là ghét bỏ cái gì nữa - nổi bật lên trong tôi.
    “Như thế là một lần nữa mình lại ngăn cách với nhân sinh!” tôi tự nhủ. “Tại sao Kim Các Tự lại che chở cho mình mãi thế? Tại sao nó lại cố gắng ngăn cách mình với cuộc đời trong khi mình không bảo nó làm như vậy? Dĩ nhiên, có thể là Kim Các Tự đang cứu mình khỏi rơi xuống địa ngục. Song làm như thế, Kim Các Tự lại càng làm cho mình độc ác, xấu xa hơn những con người đã thực sự sa xuống địa ngục; nó đang làm cho mình biến thành “thằng con trai biết rõ địa ngục hơn bất cứ ai.”
    Cổng chính của ngôi chùa tối đen và im lặng. Ở cổng bên, ngọn đèn chỉ tắt khi nào tiếng chuông triêu minh ngân vang lúc này còn đang le lói sáng. Tôi đẩy cửa bên. Trong chiếc xích sắt cũ kỹ han rỉ kêu loảng xoảng bên trong. Cửa mở, Ông gác cổng đã đi ngủ từ lâu. Bên trong cổng có một tấm biển ghi rõ nội quy nói rằng người nào về chùa sau mười giờ tối phải khóa cổng lại. Hai thẻ gỗ khắc tên người cho thấy chủ nhân chúng vẫn chưa về chùa. Một tấm thẻ của Lão sư phụ còn tấm kia là của ông lão bộc già nua.
    Trong lúc đi về phía chùa, tôi nom thấy dựng ở bên phải nơi thợ làm việc một số những tấm ván dài khoảng năm thước đang được dùng vào việc xây cất gì đó. Dù đêm tối mình cũng có thể nhìn thấy đường vân mờ mờ trên các tấm ván. Khi tới gần hơn, tôi thấy mạt cưa rơi tung tóe khắp chỗ đó giống như những bông hoa vàng vàng nho nho rãi khắp nơi, mùi gỗ thơm phưng phức tỏa lan trong màn đêm. Trước khi vào bếp, tôi quay lại ngắm Kim Các Tự một lần nữa. Tôi đi xuống lối mòn dẫn về phía ngôi chùa và tòa kiến trúc ấy hiện rõ dần dần. Tiếng lá cây sột soạt bao quanh trong khi nó đứng đó hoàn toàn bất động giữa lòng đêm tối nhưng tỉnh táo vô cùng, thật như thể nó làm hộ vệ cho đêm tối vậy. Phần có người ở trong Lộc Uyển tự ngủ vào ban đêm, song chưa bao giờ tôi nhìn thấy Kim Các Tự ngủ cả. Tòa kiến trúc không có người ở này có thể quên không biết ngủ. Vẻ âm u ẩn kín bên trong nó hoàn toàn vượt ra khỏi mọi phép tắc của nhân gian.
    Thế rồi bằng một giọng hầu như là nguyền rủa, lần đầu tiên trong đời, tôi sỗ sàng với Kim Các Tự: “Rồi một ngày kia thế nào ta cũng chi phối được ngươi. Đúng, rồi một ngày kia ta sẽ bắt người uốn mình trong phép tà ma của ta để ngươi chẳng bao giờ còn có thể chắn đường ngăn lối ta nữa.”
    Tiếng tôi vang chìm trong đêm sâu của Kính Triều trì.
    Hết phần 6
    ]

  10. #10
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 7
    Kinh nghiệm tổng quát của tôi về cuộc đời dường như chỉ là một thứ số không. Giống y như trong một dẫy dài những tấm gương soi dưới hàng hiên một hình ảnh cứ phản chiếu mãi mãi cho đến vô hạn. Những sự vật mà tôi mới nhìn thấy đã phản chiếu rõ rệt trên hình ảnh những sự vật mà tôi đã nhìn thấy trong quá khứ và tôi cảm thấy mình đang bị những sự vật tương tự dẫn dắt đi sâu tới tận cùng hành lang, vào một căn phòng mênh mang tối tăm nào đó. Chúng ta không bao giờ đụng đầu với vận mệnh của mình một cách bất ngờ. Một người sau này bị hành án tử hình - cứ mỗi khi nhìn thấy một cột điện trên đường đi làm, cứ mỗi khi băng qua một khúc đường xe lửa - là anh ta lại luôn luôn mường tượng trong óc mình hình ảnh nơi hành án và rồi dần dần trở nên quen thuộc với hình ảnh đó.
    Do đó, trong kinh nghiệm của tôi không hề có cái gì chồng chất tích lũy. Không một lớp đất nào đủ dầy để có thể làm nên một ngọn núi bằng cách chồng hết lớp đất này đến lớp đất kia. Ngoài Kim Các Tự ra, tôi không hề cảm thấy thân thiết với bất kỳ một sự vật nào trên đời, thực vậy, tôi cũng thấy mình cách biệt chẳng hề thắm thiết với những kinh nghiệm đã qua của chính mình nữa. Tuy nhiên, có một điều tôi biết chắc là trong mớ kinh nghiệm này có những tiểu bộ phận chưa bị cái biển thời gian tối om nuốt chửng, chẳng hề tan biến trong sự lặp lại vô nghĩa và bất tận - đã móc nối với nhau và sẽ làm thành một bức họa xấu xí, gớm ghiếc nào đó.
    Vậy thì những tiểu bộ phận đặc biệt ấy là những cái gì vậy? Tôi đã nghĩ đi nghĩ lại tới chúng. Tuy nhiên, những mảnh kinh nghiệm vãi vung, chói sáng này lại cũng còn thiếu cả phép tắc lẫn ý vị hơn cả những mảnh vỏ chai mà mình thấy bên vệ đường nữa. Tôi không thể làm sao tin được rằng những mảnh vụn này là những miếng vỡ nát của cái mà trong quá khứ đã được tạo hình cho thành một sự vật có dáng vẻ đẹp đẽ tuyệt vời. Bởi vì trong sự khiếm khuyết hoàn toàn về ý vị và phép tắc hết sức khó coi của chúng mỗi mảnh vụn đã bị vứt bỏ rã rời này đường như vẫn còn mơ đến tương lai. Phải, tuy chúng chỉ là những mảnh vụn mà thôi, song mỗi một mảnh vụn vẫn nằm ở đó trơ trơ lặng lẽ để mơ đến tương lai! Đến một tương lai! Đến một tương lai chẳng bao giờ có thể bình phục hay là khôi phục, một tương lai chẳng bao giờ đưa tay với tới được, một tương lai từ trước đến giờ chưa có ai nghe thấy, nhìn thấy.
    Những hoài niệm mơ hồ như thế đôi khi cũng đem lại cho tôi một miềm hưng phấn trữ tình mà chính tôi cũng phải thấy là không thích hợp với mình. Vào những dịp như thế nếu may mắn vào đêm có trăng tôi sẽ mang sáo ra thổi ngay bên Kim Các Tự. Bây giờ tôi đã đạt đến mức độ có thể chơi bài “Ngự Sở Xa” của Kashiwagi mà không cần nhìn vào bản âm nhạc. Âm nhạc thật giống như là mộng mơ. Ngược lại, đồng thời nó cũng giống như một trạng thái thức tỉnh còn rõ rệt hơn cả hình thức của những giờ tỉnh táo thông thường của chúng ta nữa. Tôi vẫn thường tự hỏi trong hai cái này cái nào thực sự là âm nhạc? Nhiều khi âm nhạc có khả năng làm đảo lộn hai cái trái ngược nhau này. Và có những lúc dường như tôi đã có thể hóa thân thành điệu nhạc “Ngự Sở Xa” mà tôi đang chơi. Tinh thần tôi hằng quen với niềm vui khi hóa thân thành âm nhạc. Bởi vì đối với tôi, khác hẳn trường hợp Kashiwagi, âm nhạc quả thực là một nguồn an ủi.
    Lần nào thổi sáo xong, tôi cũng thường tự hỏi: “Tại sao Kim Các Tự lại làm ngơ trước sự hóa thân này của tôi? Tại sao nó chẳng chê trách hoặc can thiệp khi tôi hóa thân thành âm nhạc như thế này? Chưa có một lần nào ngôi chùa lại làm ngơ đối với tôi khi tôi cố gắng hóa thân vào hạnh phúc và khoái lạc của cuộc đời. Trong tất cả mọi trường hợp như thế, ngôi chùa vẫn có thói quen ngăn cản tức khắc cố gắng của tôi và ép buộc tôi quay về với chính mình. Tại sao Kim Các Tự lại chỉ cho phép tôi được ngây ngất hoạc tìm lãng quên trong âm nhạc mà thôi?”
    Mỗi khi nghĩ ngợi như thế, tôi lại thường thấy sức lôi cuốn của âm nhạc phai tàn chỉ vì Kim Các Tự đã cho phép tôi được hưởng nguồn vui đặc biệt này. Nhân vì ngôi chùa đã mặc nhiên chấp nhận việc làm của tôi cho nên âm nhạc, mặc dù có giống cuộc đời đến thế nào đi nữa, cũng đã trở thành một hình thức đó thì sự hóa thân ấy tự nó lại càng chỉ có thể là một cái gì tạm bợ.
    Tôi không muốn để thiên hạ nghĩ là mình đã cúi đầu cam chịu và co đầu rút cổ lại chỉ vì đã hai lần điêu đứng với đàn bà cuộc sống. Cho đến cuối năm Chiêu Hòa thứ hai mươi ba (1948) tôi vẫn còn bao nhiêu là cơ hội nữa, kể cả sự dẫn dắt của Kashiwagi; rồi chẳng hề sờn lòng nhụt chí, tôi bắt tay vào việc. Tuy nhiên, kết quả luôn luôn vẫn như thế.
    Giữa con gái và chính tôi, giữa cuộc đời và chính tôi, lúc nào cũng có Kim Các Tự đứng sừng sững. Do đó, khi tôi cố nắm lấy vật gì thì vừa chạm vào tay tôi vật đó tức thời biến thành tro bụi và cái triển vọng trước mắt tôi biến ngay thành bãi sa mạc.
    Có một lần khi dừng tay làm việc ngồi nghỉ trong thửa ruộng sau nhà bếp tình cờ tôi có dịp quan sát một con ong sà xuống một bông hoa cúc mùa hè nho nhỏ màu vàng. Nó bay tới giang rộng đôi cánh màu vàng óng ánh. Chọn một bông giữa biết bao hoa cúc rồi cứ vo vo bay lượn xung quanh. Tôi cố gắng nhìn bông hoa qua con mắt của con ong. Bông hoa cúc đứng im xòe rộng cánh vàng vàng và mượt mịn. Trông nó thật xinh đẹp y như một Kim Các Tự nhỏ bé và thật hoàn toàn y như Kim Các Tự vậy; tuy nhiên nó không biến dạng trở thành ngôi chùa và vẫn giữ nguyên hình dạng chỉ là một bông hoa cúc mùa hè. Đúng thế, nó vẫn cứ là một bông cúc chẳng hề đổi thay, một bông hoa, một hình thái không hề bao hàm một ám thị siêu hình nào hết. Nhờ biết giữ những tiết độ trong cuộc sống, nó đã tỏa ra một mỹ cảm tràn trề và trở thành một đối tượng thích hợp cho dục vọng của con ong mật. Ẩn mình và thở hút nơi đó làm một đối tượng cho cái dục vọng vù vù, bay lượn, quấn quít không có dạng hình ấy mới thật là điều thần bí biết bao. Dần dà hình thái ấy mỗi lúc một mong manh hơn trông như thể sắp sửa tan vỡ, nó rung rinh và run rẩy. Điều này thật hoàn toàn tự nhiên, bởi vì chính hình thái đoan chính của bông cúc đã được đúc khuôn theo dục vọng của con ong và chính vẻ đẹp của nó đã bừng nở trong dự cảm về dục vọng ấy. Bấy giờ là lúc ý vị của hình thái bông hoa sắp sửa chói rạng trong cuộc đời. Chính hình thái ấy là sự đúc khuôn của cuộc đời. Luôn luôn trôi chẩy không có khuôn đúc; đồng thời sự bay lượn của cuộc đời không hình dáng lại là sự đúc khuôn cho tất cả mọi hình thái ở trần gian này… Cứ như thế con ong mật nhào đầu châm sâu vào bông hoa và khi phấn hoa đã bám đầy mình, nó say sưa ngất lịm. Khi đã đón tiếp con ong mật vào trên thân thể mình, bông cúc mùa hè đã tự trở thành như một con ong vàng óng, rực rỡ, có mặc áo giáp và tôi ngắm bông hoa cúc lắc mình dữ dội như thể sắp lìa cuống hoa mà bay đi bất kỳ lúc nào.
    Ánh sáng và cái việc làm dưới ánh sáng hầu như đã làm tôi choáng váng. Rồi đúng vào lúc rời bỏ cái nhìn của con ong để trở về với cái nhìn của chính mình, tôi chợt nhận thấy rằng con mắt tôi từ nãy đến giờ vẫn ngắm cảnh này ở đúng vị trí con mắt của Kim Các Tự. Quả thực là như thế. Cũng như tôi đã rời bỏ cái nhìn của con ong trở về cái nhìn của chính mình vào những giờ phút ấy cuộc đời nhích lại gần tôi, tôi lại từ bỏ con mắt của chính mình và đem con mắt Kim Các Tự làm mắt mình vậy. Và chính vào những giây phút như thế ngôi chùa thường chen vào giữa để ngăn cách thân tôi với cuộc đời.
    Tôi trở về với con mắt của chính mình. Trong thế giới sự vật bao la, mông lung này, con ong mật và bông cúc mùa hè chỉ còn đó để được “phối liệt”. Con ong mật bay lượn và bông hoa cúc rung rinh chẳng khác nào ngọn gió rì rào lấy mảy may. Trong cái thế giới băng giá im lìm này mọi vật đều đồng cách với nhau, và cái hình thái đã tỏa ra một sức lôi cuốn mãnh liệt như thế đã chết rồi, tuyệt rồi. bông hoa cúc chẳng còn đẹp vì hình thái của nó nữa, nhưng vì cái tên gọi mơ hồ là “hoa cúc” mà chúng ta gán cho nó và vì sự hứa hẹn chứa đựng trong cái tên gọi ấy. Vì không phải là con ong nên tôi không bị bông hoa cúc quyến rũ và vì tôi không phải là bông cúc nên chẳng con ong nào thèm muốn tôi hết. Mối ràng buộc thân thiết của tôi trước đây đối với các hình thái và với dòng đời đến nay đã tan biến mất rồi, thế giới đã bị vứt bỏ vào trong tính cách tương đối và chỉ còn có thời gian là chuyển động mà thôi. Tôi không muốn nhiều lời kể lể dài dòng, tôi chỉ muốn nói là khi cái Kim Các Tự vĩnh viễn, tuyệt đối xuất hiện và khi con mắt tôi biến thành con mắt Kim Các Tự thì thế giới quanh tôi đã biến thành dạng theo chiều hướng tôi đã mô tả, và theo chiều hướng là trong cái thế giới biến đổi này chỉ có Kim Các Tự là giữ nguyên được hình thái cùng vẻ đẹp riêng biệt của nó, đồng thời biến tất cả những cái khác thành cát bụi. Kể từ khi giẫm chân lên bụng cô gái điếm ấy ở trông sân chùa và đặc biệt từ sau cái chết đột ngột của Tsurukawa, tôi vẫn hằng tự mình nhắc đi nhắc lại câu hỏi này: “Thế nhưng có thể nào vẫn có tội ác hay không?”
    Một ngày thứ bảy tháng giêng năm Chiêu Hòa, thứ 24 (1948), lợi dụng một buổi chiều nhàn rỗi, tôi đến một rạp chiếu bóng hạng ba. Sau khi xem phim xong, đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu lần tôi mới lại đi bộ một mình qua khu phố Shinkyogoku. Giữa đám người đông đúc, bất chợt tôi thấy mình đang đi cạnh một khuôn mặt rất quen thuộc, nhưng trước khi tôi có thể nghĩ ra người đó là ai, khuôn mặt ấy đã chìm vào trong làn sóng người đang cuồn cuộn trên hè phố rồi biến mất đằng sau lưng tôi.
    Đầu đội mũ dạ mềm, mình khoác áo choàng hạng sang, cổ quấn khăn quàng, người ấy đang đi với một người con gái mặc chiếc áo ngoài đỏ ửng, rõ ràng là một cô gái geisha. Khuôn mặt hồng hào mụ mẫm, dáng vẻ sạch sẽ như trẻ con của người đàn ông thật khác hẳn khuôn mặt, dáng vẻ của đa số các thân sĩ, trung niên thông thường, cái mũi dài - đúng rồi, tất cả là những nét đặc biệt của Lão sư phụ và chỉ có cái mũ dạ mềm là che giấu được những nét đặc biệt ấy đi trong chốc lát mà thôi. Tuy chẳng có gì phải xấu hổ vì chính mình, song tôi sợ rằng tôi đã bị thượng tọa nhìn thấy. Vì lẽ ngay sau đó tôi cảm thấy phải tránh sao cho khỏi trở thành nhân chứng cho cuộc chơi hoang của Lão sư phụ rồi âm thầm dây dưa tới truyện tin cậy hoặc không tin cậy đối với ông.
    Rồi tôi thấy một con chó đi qua đám đông dưới trời đêm trong sáng. Con chó này to lớn, lông sù sì và hiển nhiên đã quen đi lại ở những chỗ đông người, vì nó len lách rất khéo qua chân những người đàn bà ăn vận hoa mỹ và những người đàn ông trong những bộ động phục quân đội chiếm đóng, rồi thỉnh thoảng dừng lại đánh hơi bên ngoài một cửa hiệu bán đồ cổ, chẳng hề thay đổi kể từ thời Shogoin Yatsunashi. Lúc đó là lần đầu tiên tôi có thể nhìn rõ khuôn mặt con chó dưới ánh đèn của hiệu ấy. Một mắt nó bị bẹp dí, máu và mủ đọng lại ở nơi đuôi mắt trông giống như một viên mã não. Con mắt lành lặn thì đang nhìn thẳng xuống mặt đất. Phần lông sù sì trên lưng kết chặt lại với nhau thành cụm lớn dắn chắc.
    Tôi không hiểu tại sao con chó này lại làm tôi chú ý. Có lẽ bởi vì khi lang thang ngoài phố nó đã bướng bỉnh mang theo trong mình một thế giới hoàn toàn khác hẳn đường phố phồn hoa, sáng rực này. Nó đi qua một thế giới tối đen tràn ngập khứu giác. Thế giới này chồng chất lên thế giới phố xá của nhân gian và quả thực ánh đèn của đô thị, lời ca phát ra từ những đĩa hát, tiếng cười vang vang của con người đang bị những mùi tối tăm dai dẳng đe dọa. Vì lẽ trật tự của mùi ấy xác thật hơn, và mùi nước đái bám ở những cái chân ướt át của con chó quả thực có dây dưa với cái mùi khó ngửi thoang thoảng do nội tạng con người tiết ra.
    Trời rét như cắt. Mấy người thanh niên trông giống những tay chạy hàng chợ đen trong khi đi xuống phố đã bẻ những cây thông trang hoàn trong dịp đầu năm hãy còn bầy ở ngoài một vài cửa hiệu mặc dù những ngày nghỉ lễ đã chấm dứt. Họ xòe lòng bàn tay đeo găng da để xem ai đã bứt được nhiều nhất. Một người trong bọn chỉ nắm được vài chiếc lá thông trong tay; một người khác có cả một cành thông nho nhỏ. Họ phá ra cười rồi đi mất hút.
    Tôi thấy mình đang đi theo con chó. Có lúc đã nghĩ là mất hút nó rồi, nhưng lại thấy nó hiện ra ngay tức khắc. Nó rẽ vào con đường dẫn tới Kawaramachi. Tôi cứ bước theo sau nó và đi tới chỗ đường xe điện chạy. Khu này tối hơn là khu Shikyogoku. Con chó biến đâu mất. Tôi dừng lại và đưa mắt nhìn quanh khắp bốn phía.Tôi đi dến góc phố và cứ tiếp tục kiếm tìm nó. Vừa lúc đó một chiếc xe hơi có tài xế lái thuê, khung xe bóng lộn dừng lại trước mặt tôi. Người tài xế mở cửa và liền đó một thiếu nữ bước lên xe, tôi nhìn nàng chằm chằm. Người đàn ông sắp sửa bước theo cô gái lên xe, nhưng khi nhận ra tôi, người ấy chôn chân tại chỗ.
    Đó là Lão sư phụ. Tôi chẳng hiểu trời đất run rủi làm sao mà Lão sư phụ lúc nẫy đã vượt qua tôi đến bây giờ lại đụng đầu tôi đánh đốp như thế này. Dù sao đúng là Lão sư phụ rồi, tôi còn nhớ rõ tấm áo người con gái mặc bước vào trong xe màu đỏ thẫm.
    Lúc này thì không còn cách nào tránh né nữa. Những cuộc chạm trán đã làm tôi bàng hoàng chấn động cả người mà chẳng nói được câu nào. Trước khi tôi lắp bắp thốt ra được một lời thì những âm thanh ngọng nghịu cứ sôi lên ở trong miệng tôi. Cuối cùng khuôn mặt tôi phơi bầy một tình cảm hoàn toàn ngoài ý muốn của mình. Thực ra, tôi đã làm một điều hoàn toàn không đúng chỗ: tôi đã nhìn về phía Lão sư phụ và bật ra một tiếng cười.
    Tôi không thể giải thích tiếng cười này. Hình như nó đã từ bên ngoài đi tới rồi đột nhiên chui vào miệng tôi. Tuy nhiên, khi Lão sư phụ nhìn thấy tôi cười, nét mặt ông thay đổi hẳn.
    “Thằng nhãi con điên khùng này!” ông nói “Có phải mày định theo dõi tao hay không thì bảo?”
    Nói rồi ông bước vào xe, đóng cửa đánh sầm như đập vào mặt tôi. Khi chiếc xe đã đi rồi tôi mới biết ra Lão sư phụ quả thực đã nhìn thấy tôi lúc ông và tôi chạm trán nhau ở Shinkyogoku.
    Ngày hôm sau tôi cứ chờ đợi mãi Lão sư phụ gọi mình lên mắng mỏ. Nếu vậy tôi sẽ có cơ hội để tỏ bầy tự sự. Nhưng, cũng như lần trước, sau hôm tôi giẫm chân lên bụng con điếm, lần này Lão sư phụ cũng vẫn hành hạ tôi bằng cách bắt tôi chịu một cuộc khảo vấn không lời.
    Vào đúng lúc đó tôi nhận được một lá thứ nữa của Má. Bà cũng vẫn chấm dứt lá thư bằng những lời dặn dò thường lệ là chỉ sống trong hy vọng được nhìn thấy tôi trở thành sư trưởng trụ trì Kim Các Tự.
    “Thằng nhãi con điên khùng kia có phải mày định theo dõi tao hay không thì bảo?” khi tôi nhớ lại những lời Lão sư phụ đã gầm lên với tôi thì mỗi lúc tôi lại càng thấy những lời đó không xứng hợp chút nào. Nếu là một tu sĩ Thiền tông thuần thành hơn, có đầu óc rộng rãi và hài hước hơn thì có lẽ Lão sư đã chẳng bao giờ dùng những lời mắng nhiếc tầm thường như thế đối với môn đệ của mình. Đáng lẽ ông phải ban ra một lời răn dậy đanh thép, hữu hiệu hơn. Dĩ nhiên, bây giờ Lão sư phụ chẳng làm sao rút lại lời nói của mình, nhưng tôi biết chắc thật ra ông đã hiểu lầm khi cho rằng tôi có dụng tâm theo dõi ông và đã tỏ ý cười nhạo ông như thể tôi đã gặp ông phạm vào một điều phi pháp nào đó; do vậy ông phát cáu và tự nhiên tỏ ra giận dữ một cách tầm thường.

Trang 1 / 2 12 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Các blogger phương Tây viết về Ngải Vị Vị
    By Hansy in forum Thời Sự Chính Trị
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-13-2011, 03:12 PM
  2. Kim tự tháp phát nổ, 3 trẻ em gặp nạn
    By duyanh in forum Tin Tức Quốc Tế
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-08-2011, 11:50 AM
  3. Kim tự tháp búp bê ra mắt tại Nhật Bản
    By giavui in forum Chuyện Lạ Đó Đây
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-26-2011, 04:25 AM
  4. Các Món Cơm (Kim Khanh)
    By Nhất Như in forum Góc Bếp Ngũ Vị
    Trả Lời: 2
    Bài Viết Cuối: 10-15-2010, 06:11 AM
  5. Kim Cang Tát Đỏa - Lực Tự Minh Chú
    By Nonregister in forum Kinh Tụng & Hình Ảnh
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 10-06-2010, 11:37 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •