Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Những ai chưa từng đau khổ thì những kẻ ấy không bao giờ biết tận hưởng được hạnh phúc.
Ugo Foscolo
Trang 3 / 4 ĐầuĐầu 1234 Cuối Cuối
Results 21 to 30 of 35

Chủ Đề: Con Sóng Dữ - Phạm Thắng Vũ

  1. #1
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết

    Con Sóng Dữ - Phạm Thắng Vũ

    .
    Con Sóng Dữ
    Phạm Thắng Vũ

    Quyển Một

    Chương Một

    Chuyến Đi Không Thành.

    Tôi có mặt tại điểm hẹn ở trạm xe buýt gần rạp hát Opera vào lúc 8:45 sáng và theo lời dặn hễ thấy chiếc xe buýt nào mang số 225-434 ngừng gần thì bước lên ngay. Tôi chờ mà lòng thấp thỏm lo sợ công an có thể đang phục kích gần đâu đó. Giả vờ như khách bộ hành mệt mỏi ngồi nghỉ chân bên vệ đường đang xem báo mà thực sự trong tôi cầu mong chiếc xe buýt đến đúng giờ. 9 giờ rồi, đúng giờ hẹn mà xe vẫn chưa thấy. Lấy tờ báo trong túi sách ra rồi cúi xuống vờ đọc thì vừa lúc một xe buýt trờ đến, tôi vơ vội túi hành lý nhỏ nhưng hàng số bên hông xe không phải chiếc xe đón người. Vài người trên xe buýt bước xuống, xe chạy đi ngay. Tôi nhìn đồng hồ 9:10 rồi 9:20 và... 9:30 mà chưa thấy xe đâu. Lo lắng nhìn phía bên kia đường, bắt được vài tia mắt nhìn vội về tôi rồi quay đi. Tia mắt của những người ngồi gần gốc cây bên vệ đường và người nào cũng có một túi xách nhỏ. Tự nhiên tôi cảm thấy bất an vô cùng vì biết họ cũng đang chờ xe như tôi. Họ là bạn đồng hành với tôi qua thái độ và hành lý mang theo bên mình. 9:45 phút mà vẫn chưa thấy xe! Lo quá! Làm gì bây giờ đây? Phải quyết định ngay, tôi không thể chần chờ được. Nhớ lời dặn của chị Thu nếu xe trễ 30 phút thì bỏ về ngay vì chuyến đi coi như đã bị trục trặc. Nấn ná ở lại bị công an tó ráng chịu. Nhìn sang bên kia đường nơi có các bạn đồng hành của tôi, họ đã biến mất hết. Giờ chỉ còn có một mình tôi. Phải dọt ngay. Tôi đứng lên, định rảo bước thì tiếng xe thắng gấp gần bên. Chiếc xe mang biển số 225 434 tôi đang mong. Hấp tấp, tôi bước lên. Lơ xe ngó quanh quất chung quanh, miệng nói lớn:

    - Có ai nữa không, lên xe ngay.

    Lề đường vắng lặng, người lơ tiếp luôn:

    - Tới luôn, hết khách rồi bác tài.

    Tôi vội vàng ngồi ngay vào một ghế bên cửa sổ như thói quen khi đi xe buýt. Nhìn ra bên ngoài, tôi thấy bên kia đường, hai người trong số ngồi chờ xe lúc nãy đang chạy theo và cố sức ra dấu để mong xe ngừng lại. Xe bỏ mặc và chạy thẳng.

    Xe lần lượt ghé từng điểm hẹn để nhận khách rồi cứ thế chạy lần ra ngoại ô hướng về Thủ Đức và sau cùng trực chỉ Vũng Tàu. Đến thành phố biển Vũng Tàu vào giấc chiều và ngừng ở một bãi trống gần con đường mang tên Ba Cu. Tất cả khách trên xe được dặn nhỏ tạm thời tản ra, giả dạng khách du lịch đi lòng vòng đâu đó chơi nhưng phải quay về xe lúc 7:30 chiều.

    Nhập vào dòng người du lịch, tôi đi lòng vòng qua các con phố rồi ghé vào tiệm uống cà phê ngồi xem báo để hết thời gian. Thời gian nầy Vũng Tàu có khá đông khách ngoại quốc từ các nước CS Đông Âu hoặc từ Liên Xô đến. Họ là chuyên viên trong các công ty khoan dầu hoặc các công trình khác ở miền Nam và đổ về đây để nghỉ ngơi, để tắm biển...

    Quay về xe buýt lúc 7:10, tôi chọn một chỗ ngồi khá xa để phòng các bất trắc. Khi thấy khách kéo nhau lên xe buýt khá nhiều, tôi mới rời chỗ để lên xe. Trong xe chật cứng người, đám tổ chức đã nhét thêm khách cho chuyến hải hành tối nay. 7:30 chập choạng tối, xe buýt khởi hành nhưng chỉ chạy lòng vòng trong thành phố để chờ trời tối hẳn. Có lúc xe ngừng lại, tài xế và các lơ xe làm bộ sửa máy hoặc xem lại các bánh xe. Tôi ngồi im lặng, cầu mong mọi sự an lành.

    Trời tối hẳn, xe chạy nhắm hướng bãi trước và khi vừa ngừng sát cạnh bờ biển thì đột nhiên toàn bộ điện đường ngay khu vực bị cúp hẳn. Trong bóng tối đen, nhóm tổ chức hối thúc khách rời khỏi xe và chạy ngay xuống mép nước. Chạy đến mép nước, dưới ánh lờ mờ của ngọn đèn hải đăng xoay trên đỉnh núi, một ghe khá lớn đã có mặt sát bờ tự lúc nào. Nhiều người đang bước bì bõm để ra ghe.

    - Cá lớn đó... Lội ra ngay đi bà con, tiếng một người xì xào.

    Một đống dép, guốc của hành khách vất bỏ trên bãi cát chung với các túi xách. Kinh nghiệm của những lần vượt biên không thành từ trước, tôi không vất bỏ đôi dép mà cẩn thận lấy ra một sợi dây thủ sẵn trong túi. Luồn dây vào đôi dép rồi cột nó vào quai con đỉa của cái quần dài đang mặc, sau đó tôi bắt đầu lội từng bước ra ghe. Tối nay, không hiểu do một hiệu ứng gì mà mặt biến lấp lánh các vệt sáng màu xanh lá cây trông rất kỳ lạ. Các vệt sáng xanh phản chiếu những lọn sóng, thân người khi họ chuyển động gần bên ghe. Cố gắng hết sức để bước dần tới được cạnh ghe mà mực nước đã tới ngang cổ tôi. Sát bên ghe nhưng tôi không biết làm sao để có thể trèo lên được? Bất ngờ, tôi chạm phải một cạnh gỗ nằm ngang thân ghe và nhờ nó tôi có thể dựa vào để trèo lên. Một bàn tay của người đứng trên sàn đã nắm lấy tôi, kéo tôi lên rồi trong chớp mắt, người đó ấn tôi chui xuống ngay khoang hầm ghe. Trong khoang hầm chật cứng người. Chưa kịp nhìn rõ mọi thứ thì có thêm người nữa trèo xuống. Nước biển từ người họ văng tung toé vào thân, mặt tôi. Chợt máy ghe nổ to hơn và dường như nó chạy lùi rồi làm một vòng quay ra biển.

    Chuyến hải hành vượt biên đầu tiên trong đời tôi bắt đầu. Đó là 9 giờ tối của một ngày cuối tháng 7 năm 1984.

    Tôi ngồi yên, lưng dựa vào vách gỗ thân ghe, mắt nhắm nghiền vì mệt và vì có mở mắt cũng chẳng thấy chung quanh rồi thiếp đi lúc nào không hay. Ghe vẫn chạy êm ả nhưng chuyến đi thật không suôn sẻ. Không gặp ghe công an biên phòng và tàu hải tặc Thái Lan nhưng sau 4 ngày 5 đêm, các tài công đã quay mũi để trở về Việt Nam khi vừa lượn quanh một dàn khoan dầu Mã Lai Á. Khách trên ghe không ai biết hành động của đám tài công cho mãi hơn một ngày sau họ nói ra thì mọi người mới biết. Khách, hết hăm doạ rồi năn nỉ thậm chí cả lạy lục đám tài công để họ từ bỏ ý định điên rồ mà tiếp tục chuyến vượt biên nhưng vô vọng. Tôi biết bản thân phải chuẩn bị đối phó với những bất trắc sẽ xảy ra khi chiếc ghe cập vào một bờ bãi nào đó của nước Việt.

    Tài công và thợ máy của ghe gồm ba người. Hai anh em ruột và người kia là bạn của họ. Tất cả đều có bồ (bạn tình) nhưng đều vắng mặt trong chuyến đi. Sau 4 ngày 5 đêm hải hành, thấy những khách trên ghe có vợ, con đi theo làm họ nhớ đến các bạn tình. Đó là lý do khiến họ quyết định quay ghe trở về Việt Nam. Họ tính sẽ tắp ghe vào một bãi biển kín đáo nào đó để rồi từ chỗ trú ẩn tạm thời, họ đi về địa phương và đón bạn tình ra ghe xong sẽ khởi hành trở lại. Họ giải thích cho chúng tôi nghe về kế hoạch và cam đoan là sẽ không gặp khó khăn gì hết miễn là tất cả khách ém yên lặng dưới các khoang hầm trong thời gian dừng ghe. Một việc làm quá sức nguy hiểm và dại dột. Chúng tôi ai cũng biết nhưng không thể làm gì khác được vì họ khăng khăng không nghe. Hăm dọa sẽ đả thương nếu họ từ chối cũng không xong. Khách, ai cũng mệt mỏi vì say sóng nên đành thúc thủ trước các tài công khoẻ mạnh. Suy nghĩ đơn giản của các chàng ngư phủ ngang với trí não của người ít học. Lo lắng các tai ương sắp sửa ập xuống trên ghe mà lòng tôi vẫn thầm mong sẽ có sự may mắn xảy ra như ý muốn của ba tài công trẻ tuổi.

    Chúng tôi ngồi yên nhìn nhau buồn bã chung một nỗi lo những bất trắc sẽ giáng xuống đầu mình.

    Khi vừa thấy dạng đất liền, các tài công đã thúc hối mọi người trên sàn ghe phải chui ngay xuống các khoang hầm. Có người do say sóng quá sức nên không chịu chui xuống, viện lý do sức họ quá yếu nếu xuống khoang hầm lần nữa họ sẽ chết. Các tài công dùng vũ lực để xốc những người chống đối xuống lại khoang hầm. Nằm im trong khoang, chúng tôi phỏng đoán tình hình bên ngoài qua những lời tài công đối đáp. Có người lâm râm đọc kinh cầu nguyện. Thời gian trôi qua nặng nề. Tiếng máy vẫn nổ êm ả. Ghe đang ở trong vùng biển nào? Chỗ kín đáo tài công nói sẽ cho ghe tắp là đâu? Có thực an toàn không? Qua lời tài công trò chuyện, chúng tôi biết họ đã thấy hai chiếc ghe khác. Chúng tôi ai cũng lo lắng trong lòng. Hai ghe đó là ghe gì? Ghe đánh cá hay công an biên phòng? Đột nhiên tiếng súng vọng lại từ xa xa. Chết rồi. Tiếng người hét to cùng với tiếng khóc trong khoang hầm. Tài công tăng tốc cho ghe chạy thật nhanh. Tim tôi đập liên hồi, tay chân tự nhiên có lúc tê cóng. Tôi đang sợ. Thôi thế là chết. Đến được giàn khoan nước ngoài đã tưởng thoát để rồi quay về và bị rượt đuổi...

    - Giờ tụi mầy sáng mắt chưa. Thật một lũ ngu dốt. Tiếng ai đó nói khá to gần tôi.

    Cuộc rượt đuổi bên ngoài diễn biến ra sao chúng tôi không ai biết nhưng sau cùng, một tiếng sầm thật lớn như ghe đâm vào vật gì đó bên ngoài. Tài công bỏ ghe nhẩy ùm xuống nước cùng với tiếng khóc tiếng la của khách trong khoang hầm làm mọi người càng sợ hơn. Cùng với các người khác, tôi vội đu người nhẩy lên ngay sàn ghe thì mới biết trời bên ngoài đã nhá nhem tối. Ghe đang trong khúc rạch hẹp, vắng lặng và không một bóng người. Chúng tôi nhẩy ngay xuống nước để lội vào bờ theo dấu tài công. Vừa leo được lên bờ đất tai đã nghe tiếng súng nổ gần bên và bóng dáng của hai ghe lạ đang lướt sóng chạy đến. Chúng tôi cắm đầu bỏ chạy cả đám, thân ai nấy lo. Trời tối rất nhanh. Thêm tiếng súng nổ kèm với tiếng thét tiếng khóc.

    Tôi chạy... chạy mãi nhưng chỉ một lát sau, tôi đã mất dấu với người chạy đằng trước. Cảm giác đau chân mới nhớ mình còn đôi dép cột bên người nên tôi vội vã cởi nó ra và mang ngay vào chân. Đôi dép da có quai đeo sau gót và nhờ nó, tôi mới có thể bước những bước chân lần mò trong đêm tối lờ mờ. Tôi đi lầm lũi cho đến lúc không còn thấy rõ cảnh vật chung quanh nữa. Trời đã hoàn toàn tối đen. Ngồi xuống nghỉ ngơi, tôi ngước mắt lên bầu trời đầy sao và tự hỏi đây ở đâu và bây giờ mình phải làm gì? Không thoát khỏi đây đêm nay, chắc chắn ngày mai tôi cũng sẽ bị bắt.

    Ngồi trong chốc lát cảm thấy bớt mệt, tôi đứng lên ngó chung quanh và thấy thấp thoáng xa xa có ánh đèn dầu. Nhìn chăm chú, ánh đèn dầu thật nhưng không biết nơi đó là gì? Nhà dân lành hay cán bộ Việt Cộng? Đành nhắm hướng theo nó mà đi. Có đến gần mới biết. Ánh đèn lấp lánh trong đêm tối, tưởng gần nhưng thực sự rất xa. Tôi phải lần mò bước từng bước chân, tay vạch cây lá mà đi. Có lúc phải lội qua các vũng nước bất chấp gai cào và có khi bước hụt chân, lọt xuống các hố cạn. Tôi sợ ánh đèn dầu đó tắt mất và cả tiếng đồng hồ sau mới đến được. Nó chiếu ra từ căn nhà tranh nhỏ. Vừa đến trước cửa nhà, một con chó nhẩy xổ ra sủa inh ỏi làm tôi đứng yên không dám động đậy. Nghe tiếng chó, bóng một người từ trong nhà lách cửa bước ra nhìn. Thấy tôi đứng lù lù trong đêm tối, người đó hét lên một tiếng khá to rồi quay ngay vào bên trong. Tiếng hét của một phụ nữ. Chần chừ ít phút, tôi nói một hơi:

    - Chị à! tôi là người chứ không phải là ma quỷ, đừng sợ. Tôi lạc đường từ chiếu tới giờ cần chị giúp đỡ.

    Tôi lập lại vài lần như vậy, người phụ nữ mở hẳn cửa bước ra nhìn chăm chăm rồi nói hãy đứng yên chờ để chị ta đi gọi chồng về.

    Cầm cây đèn dầu bóng trứng vịt, người phụ nữ biến mất trong bóng đêm cùng với con chó, để mình tôi ngồi trước căn nhà nhỏ. Chờ khá lâu có tiếng chó sủa và bóng hai người trong ánh đèn bước đến bên tôi. Người chồng cầm cây đèn đến gần, nhìn rõ mặt tôi rồi hỏi đi đâu mà có mặt ở đây trong đêm tối? Ông ta chưa biết sự việc của chiếc ghe vượt biên? Thầm nghĩ thật nhanh, tôi nghĩ phải nói thật cho họ biết sự việc. Tôi liền kể tóm tắt câu chuyện. Nghe câu chuyện, hai vợ chồng chủ nhà nhìn nhau trong chốc lát và người chồng lắc đầu bảo tôi phải đi ra xa khỏi căn nhà họ. Đi đâu thì đi, họ không muốn liên lụy với người vượt biên rồi cả hai vợ chồng bước vào nhà và kéo ngay tấm phên che cửa.

    Tôi thất vọng nhìn căn nhà nhỏ bé trong bóng tối lờ mờ. Gặp người trong vùng nhưng không chịu giúp. Căn nhà lợp lá dừa nước như hầu hết nhà trong vùng sông nước miền Nam với một lu nước bên cạnh và cửa ra vào là miếng phên lớn khép hờ. Họ, một cặp vợ chồng trẻ ở riêng, tôi chắc vậy. Họ ở đây vậy có nhà người khác nữa không? Rồi vì quá mệt, tôi cứ ngồi lỳ tại chỗ và sự thực tôi chẳng biết đi đâu? Con chó vẫn đi quanh quẩn bên tôi. Có lúc nó sủa hoặc gầm gừ nho nhỏ. Tôi nằm lăn trên đất rồi ngủ. Ngủ ngon lành cho đến khi có người lay vào vai làm tôi thức dậy. Một ông già tay cầm cây đèn dầu ngồi trước mặt, nở nụ cười móm xọm với tôi. Hai vợ chồng đứng sau lưng ông già.

    - Tôi mời cậu vào nhà. Ông già nói.

    Theo chân ba người đi vào bên trong căn nhà, người vợ cho biết thấy tôi cứ ngồi lỳ rồi nằm ngủ tại chỗ nên cả hai đã đi gọi cha họ đến. Ông già nói tôi hãy đi nơi khác đi, nhà họ không thể giúp đỡ hay chứa chấp tôi được. Công an và du kích sẽ đi lùng sục ngay sáng mai để lùng bắt người trốn chạy trong chiếc ghe vượt biên mắc cạn.

    - Anh làm ơn đi nơi khác đi để cho tụi tui yên ổn làm ăn. Giúp anh rủi công an biết, chắc chắn gia đình sẽ bị liên lụy và có khi phải ở tù nữa. Nhà tui nghèo lắm, phải tìm đến phá đất lập nghiệp vùng sát biển như vầy anh biết rồi. Người chồng nói.

    - Muốn giúp cậu cũng không biết phải giúp như thế nào? Công an có tai mắt khắp nơi... Sớm muộn gì chúng cũng biết. Giúp cậu, nhà cửa tụi tui sẽ tan nát hết. Cậu thương thì đi nơi khác... Coi như gia đình tui và cậu chưa biết nhau, mong cậu thông cảm. Giọng ông lão khẩn khoản.

    Tôi im lặng nhìn chung quanh căn phòng. Chúng tôi ngồi ở một cái bàn gỗ nhỏ. Một tủ thờ cũ nằm sát bức vách ngay trước cái bàn. Trang thờ nhỏ nằm trên cao sát với mái lá có hình Phật Bà Quan Âm với bát hương với vài chân nhang đỏ. Hai ba hình mầu ca sĩ cắt từ các tấm lịch cũ dán trên bức vách. Sát bên vách nhà, một cái cái giường tre nhỏ với các vật dụng như cuốc, thuổng, đồ bắt cá... nằm lăn lóc dưới gầm. Một gia đình người miền Nam hiền lương thờ Phật. Không có dấu vết Việt Cộng như các tấm bảng đỏ ghi công ta thường thấy trong nhà cán bộ. Nhìn ông lão và hai vợ chồng chủ nhà, tôi nài xin hãy tìm cách nào đó giúp đỡ, đừng xua đuổi tôi.

    - Nếu bác và anh chị làm phước giúp tôi, Phật Bà Quan Âm sẽ phù hộ cho gia đình. Tôi vượt biên vì thuộc gia đình chế độ cũ VNCH. Sống không nổi trong chế độ mới, tôi vượt biên rồi chuyến đi không thành phải quay về. Tôi không muốn bị công an bắt chứ đâu phải thành phần bất hảo trộm cướp gì. Bác ơi! xin hãy giúp, không bao giờ gia đình con quên ơn việc bác và anh chị làm hôm nay.

    Cả ba người họ lắc đầu, nhất định không giúp còn tôi cứ ngồi lỳ một chỗ. Thấy không xong, họ kéo nhau ra ngoài sân, bỏ tôi ngồi một mình. Một lúc sau, cả ba quay vào và dặn tôi phải làm theo những gì họ sắp đặt. Nếu tôi trái lời để xẩy ra chuyện, tất cả đều chết với công an. Họ lăn một lu sành khá lớn từ bên ngoài và chuyển nó vào trong căn buồng của đôi vợ chồng trẻ. Họ ém tôi ngồi trong cái lu dưới lớp lưới, quần áo và các vật dụng lặt vặt trong nhà suốt cả ngày hôm sau và bốn ngày kế tiếp. Chỉ đêm khuya tôi mới được ra ngoài để ăn uống, rửa ráy qua loa, đi tiêu tiểu và thư giãn tay chân trong chốc lát. Sau đó phải vào ngồi lại trong lu sành.

    Trong lu sành ban ngày, tôi đã thót người khi nghe các mẩu đối đáp của dân trong vùng, du kích hoặc công an... ghé vào nhà nói chuyện với nhau về chiếc ghe vượt biên. Công an, bộ đội biên phòng và du kích đã bắt được toàn bộ người trên ghe kể cả các tài công cùng thợ máy. Tôi hồi tưởng lại các chuyện cũ đời mình. Đã nhiều lần vượt biên mà chưa lần nào tôi thoát ra khỏi nước. Đêm ngày 29 rạng 30 tháng 4 năm 1975 trong thủ đô Sài Gòn, mắt tôi đã tuyệt vọng nhìn máy bay trực thăng UH chở người từ các cao ốc bay di tản ra hướng biển. Người ngồi trên các trực thăng đó thật có phước. Còn tôi! Tôi làm sao để vào được các cao ốc như họ? Ra bến tàu nhưng cũng không vào được. Hàng rào kẽm gai cao vút và những họng súng của lính gác chỉa thẳng ra ngoài đã cản chân tôi cùng rất đông người đang có mặt tại đó. Khi trời quá trưa, tôi quay về nhà lúc bộ đội Việt Cộng làm chủ thành phố.

    Cuối năm đó, gia đình tôi đi vùng kinh tế mới ở Trị An thuộc tỉnh Đồng Nai. Chặt cây, phá rừng, cuốc đất dọn rẫy đến chai cả tay rồi những cơn sốt rét vật tôi quằn quại trên giường. Cái lạnh của cơn sốt dù trùm cả đống mền dầy lên người mà hai hàm răng vẫn đánh vào nhau lập cập. Cái lạnh thoát ra từ tận trong xương trong tủy. Bỏ rừng về lại thành phố cũng chẳng yên. Những ngày phải sống trốn tránh vì đã cố tình vắng mặt trong buổi tuyển quân nghĩa vụ quân sự tại văn phòng phường đội. Tôi không muốn chết oan ức hay bị tàn phế vô nghĩa tại chiến trường Kampuchia nên đã vượt biên. Những lúc hồi hộp nằm ém mình trong nhà dân để chờ ghe ta xi đón ra cá lớn để rồi phải quay về chờ chuyến khác. Giờ đây, thu mình trong lu sành, lúc nào tôi cũng sợ khi có tiếng chân người lại gần.

    Ém trong lu sành, tôi biết đã quá may mắn khi vô tình chạy đến nhà cặp vợ chồng trẻ (tên anh chị Tư) qua các câu chuyện họ đối đáp, đùa giỡn... lộ rõ là dân quê miền Nam hiền lương chất phác. Có đêm, tôi còn nghe tiếng ông lão niệm kinh Phật nữa. Hai cha con họ đã lấy quần áo cho tôi thay, múc nước mang khăn cho tôi rửa ráy người qua quýt hoặc ép tôi ăn thêm cơm nóng hổi. Mặt ba người đầy vẻ lo lắng cho tôi tưởng như đang săn sóc người thân thiết ruột thịt của họ.

    Bác Ba, tên ông lão, kể cho tôi biết những năm trước đây ông sống ở Bạc Liêu, làm việc trong một nhà máy xay lúa của Hoa kiều. Khi chủ nhân ghi danh xuất cảnh ra nước ngoài, nhà máy bị chính quyền địa phương tịch thu được một thời gian thì phải đóng cửa vì cán bộ Việt Cộng điều hành kém cỏi. Không có việc làm, ông theo bạn bè vào đây khai đất làm các vuông nuôi tôm.

    - Tui năm nay sáu mươi hai tuổi rồi cậu. Lập gia đình trễ, chỉ có ba đứa con. Đứa lớn là chị gái thằng Tư hiện đang sống với chồng con ngoài chợ cầu Cà Mau. Vợ tui sống chung với chúng. Bả buôn bán lặt vặt ở chợ kiếm thêm ít đồng. Cha con tui cũng thay nhau chạy ghe chở khách kiếm tiền ở ngoải... khi nào có việc thì vào đây như canh thay con nước. Thỉnh thoảng, tui đón vợ tôi vào sống ít ngày với vợ chồng thằng Tư cho vui. Đứa kế cũng gái... vắn số đã chết lúc còn nhỏ. Coi như chỉ còn có hai đứa. Thằng Tư, cậu gọi bằng Út cũng được, mới lo vợ cho nó hơn năm nay hà. Tối hôm cậu đến nhà, lúc đó tui và nó đang đi canh nước cho vào các vuông tôm. Cha con tui tự phá đất làm lấy nên vuông không được rộng mà cũng khá xa nhà. Đất chung quanh đây, cậu thấy... tuy còn bỏ hoang chứ có chủ hết rồi. Bác Ba bộc bạch.

    Hỏi ông lão, tôi mới biết ghe đã chạy vào vùng Cái Đôi của tỉnh Cà Mau. Bác Ba và hai vợ chồng anh Tư cũng thắc mắc hỏi tôi tại sao ghe vượt biên lại bị mắc cạn tuốt trong vùng Cái Đôi vì từ đây ra tới cửa vàm ngoài biển cách cả cây số ngàn. Nếu ra được ngoài vàm thì ghe tiếp với biển lớn. Cứ vậy mà chạy, du kích hay công an biên phòng sao mà bắt được. Tôi kể cho ba người biết về nguyên do ghe bị mắc cạn, bác Ba cho biết:

    - Thảo nào tụi thằng Sáu thằng Mai du kích nói ghe vượt biên bị bộ đội biên phòng đuổi bắt đâu tuốt ngoài biển vào tới đây mắc kẹt. Cậu kể ra tui mới biết, mấy thằng tài công sao mà ngu quá mạng vậy. Đi đã khó... quay trở về còn khó gấp bội. Sao tụi nó lại làm vậy để hại thân còn gây khổ thêm bao nhiêu người nữa?.

    Bác Ba cho tôi biết vùng Cái Đôi có khá nhiều gia đình cách mạng đến lập nghiệp. Phá đất làm vuông nuôi tôm, cất nhà ở cũng không xa trong vùng. Nghe chuyện, tôi biết quá sức may mắn vì gặp được nhà họ. Rủi gõ cửa đúng nhà dân chế độ mới, chắc chắn tôi đã nằm trong trại giam của bọn Việt Cộng.

    Sau bốn ngày đêm trốn tránh, bác Ba cho biết tình hình giờ thật yên ổn. Công an biên phòng đã giải giao người chúng bắt được ra trại giam huyện Cái Nước và bác nói sẽ thu xếp đưa tôi đi sớm. Nửa khuya về sáng ngày thứ năm, cả nhà thức dậy thật sớm. Ăn uống xong xuôi, hai cha con bác Ba xem xét thật kỹ lưỡng chung quanh căn nhà rồi dắt tôi xuống chiếc ghe nhỏ gắn máy đuôi tôm Kohler 4 nổ máy chờ sẵn. Ghe từ từ chạy một lúc lâu sau, bác Ba cho biết đã ra khỏi vùng Cái Đôi.

    - Từ lúc này an toàn vì công an du kích chỉ để ý chận xét những ghe từ Cà Mau chạy ra vàm thôi. Ghe mình từ vàm chạy vào chúng không thèm ngó. Anh Út nói.

    Tôi mặc lại bộ quần áo cũ, ngồi im trong ghe ngắm nhìn cảnh vật hai bên bờ vẫn còn mờ tối. Trời sáng dần, ghe vẫn êm ả chạy trong vùng sông nước miền quê tiếp giáp với biển yên ả. Những rặng cây chạy dài típ tắp hai bên bờ rạch. Thỉnh thoảng mới thấy vài mái ngói hoặc nếp nhà tranh xa xa. Xế trưa, anh Út tắp ghe vào một bóng mát kín đáo gần sát bờ để ăn uống qua loa và nghỉ ngơi chốc lát rồi sau đó lại chạy tiếp. Trời chạng vạng tối, ghe đến được chợ cầu Cà Mau vừa lúc phố xá trên bờ đã rực ánh đèn.

    - Đến đây bình an hoàn toàn. Anh Tư nói nhỏ.

    Tôi lấy trong mình ra chiếc khâu vàng 2 chỉ còn lại và nhờ sự chỉ dẫn của bác Ba, tôi đã đến một hiệu kim hoàn bán 5 phân vàng của chiếc nhẫn. Có tiền, tôi mời hai cha con bác Ba ăn hủ tiếu. Sau đó, tôi năn nỉ hai ân nhân vui lòng nhận 1 chỉ 5 phân vàng và số tiền mặt còn lại. Tôi chỉ giữ ít tiền lẻ đủ để đón xe về Sài gòn trong ngày. Biết đến bao giờ mới có dịp gặp lại hai người. Không có họ giúp, làm sao tôi chắp cánh chạy thoát được. Nguyên ngày trời ngồi trong lòng ghe nhỏ, tôi thấy hai cha con bác Ba chạy quành phải, quẹo trái qua cả trăm con kênh con rạch mới đến được chợ cầu Cà Mau.

    Về nhà sau gần nửa tháng vắng mặt, gia đình tôi mừng vô kể. Cả nhà đã biết chuyến đi không thành và đang dò hỏi trại giam để tìm cách thăm nuôi tôi. Ai cũng nghĩ tôi đã bị bắt. Không thể ngờ lại về được đến nhà an toàn. Chuyến vượt biên bất thành đó chỉ duy nhất một mình tôi thoát khỏi tay bọn công an, chị Thu người trong tổ chức cho biết.

    Tới bây giờ, mỗi lần nhớ lại chuyện vượt biên năm xưa, tôi vẫn không quên khuôn mặt của bác Ba và vợ chồng anh chị Tư. Nhớ để sau đó là một nỗi buồn vì chưa lần nào tôi tìm đến vùng Cái Đôi Vàm thăm hỏi tin tức các ân nhân. Tuy nghèo vật chất nhưng họ rất giàu lòng bác ái, thương người.

    Chương Hai
    Trở Về Từ Hoang Đảo.

    Khi về nhà an toàn, tôi đã tìm được các đường dây vượt biên khác. Có chuyến phải đi ra tuốt miền Trung và thậm chí tận miền Bắc nữa nhưng trong các lần đó đều không thành và đành phải về không. Có chuyến, tôi bị công an bắt khi vừa đặt chân xuống bến xe địa phương và phải vào tù, đi lao động cả gần năm trời mới được thả. Lần lữa 4, 5 năm trời kẹt lại Việt Nam làm tôi rất thất vọng nghĩ mình chắc không ra ngoại quốc được. Tôi tính, không vượt biên nữa khi bỏ tiền đi học lái xe tải và hùn vốn với bà con trong họ mua một chiếc xe chở hàng để sống. Vừa xong khóa học lái xe tải thì Dũng, một bạn thân đến nhà rủ tôi làm một chuyến vượt biên chung. Kỳ lạ thay, vừa nghe Dũng nói đã tìm ra chuyến đi, tôi gật đầu liền.

    Khởi hành từ xa cảng miền Tây lúc 5 giờ sáng, tôi và Dũng đi xe tốc hành đến được bến Cần Thơ rồi từ đây chúng tôi đi tiếp đến thành phố Long Xuyên thì được sắp xếp vào trú tạm trong căn phòng nhỏ của một khách sạn tư nhân gần khu thị tứ thành phố để chờ người trong nhóm tổ chức sẽ đón đi tiếp. Có thể sáng hoặc trưa chiều ngày mai. Buổi tối, sau khi ăn uống rồi tắm rửa thay quần áo sạch sẽ, tôi và Dũng thả bộ dạo mát trên các con đường trong thành phố.

    Long Xuyên là một trong các thành phố lớn của miền Nam Việt Nam. Phố xá buôn bán khá sầm uất như vài con phố ở Sài Gòn. Chúng tôi ngồi nghỉ ở ghế đá trong một công viên nhỏ, ngắm nhìn thiên hạ chạy xe trên đường hoặc đang dạo bước trong công viên. Cũng không dám ngồi lâu, chúng tôi lại lang thang đi lòng vòng đây đó. Tôi ghé vào một hiệu sách bên đường mua quyển Sư Thúc Hòa Hảo (tác giả Nguyên Hùng viết về nhân vật Mười Trí và các tâng bốc địch vận của đảng Cộng Sản Việt Nam về y với tôn giáo Hoà Hảo tại miền Nam VNCH trước đây), mang về phòng nằm đọc để giết thì giờ. Suốt đêm, thỉnh thoảng có tiếng gõ cửa phòng kêu chúng tôi mở cửa. Những lần đầu rất sợ vì nghĩ có chuyện không may sẽ xảy ra. Nhưng không, chỉ là các cô gái trẻ đẹp, hành nghề bằng vốn tự có, đang tìm khách vui vẻ trong chốc lát hoặc qua đêm. Còn lòng dạ nào để chúng tôi nghĩ đến những lời mời mọc của họ!

    Theo lời dặn, sáng hôm sau chúng tôi tìm đến quán ăn Hào Hoa lúc 8 giờ sáng ăn điểm tâm, uống cà phê lai rai để chờ. Nhìn vài khách ngồi ở bàn gần bên, tôi thót giật người vì thấy một khuôn mặt quen biết là thằng Minh con bà Sáu bán cà phê trong khu phố gần nhà tôi. Minh nở nụ cười và dù kín đáo nháy mắt với tôi, tôi vẫn chưa hiểu tại sao nó có mặt ở đây? Không lẽ nó cũng trong chuyến đi? Là con trai mới lớn trong gia đình cán bộ, cha mẹ Minh hoạt động nằm vùng cho CS từ trước ngày 30-4-1975. Gia đình Minh là dân giàu trong phường. Thằng Minh tối ngày ăn no, đi chơi, nhậu nhẹt phá làng xóm đâu chịu học hành gì. Tuy vậy, Minh thường nói chuyện vui vẻ với tôi mỗi khi tới ngồi uống cà phê nơi quán nhà nó. Minh xuống đây để cùng vượt biên hay chỉ một chuyến đi chơi và tình cờ gặp tôi? Tôi kín đáo liếc nhìn hai người lạ mặt ngồi cạnh nó tuổi cũng ngang lứa mà không biết họ là ai? Chưa biết thì cứ ngồi tỉnh bơ xem sao dù trong lòng tôi cũng chút lo lắng. Dũng hỏi nhỏ:

    - Chắc cùng phe mình hả?.

    Tôi im lặng, không trả lời Dũng. Chợt bóng anh Thành (người trong nhóm tổ chức) đi ngang qua trước cửa quán, chúng tôi vội vã trả tiền và vọt theo sau liền. Đi được một quãng ngắn đường, có chiếc xe lôi từ đâu chạy lại ngừng gần bên. Anh Thành nhảy lên xe và sau đó là tôi, Dũng và cả bọn ba người của thằng Minh. Vậy đúng thằng Minh đi chung chuyến này với tôi. Nó và tôi nhìn nhau, khẽ gật đầu, mỉm cười hiểu ý.

    Xe lôi chạy qua xứ đạo Thiên Chúa Bò Ót rồi chạy thẳng đến ngã ba Lộ Tẻ thì ngừng hẳn. Từ đây, một xe Van 16 chỗ ngồi chở chúng tôi chạy tuốt xuống bến xe Rạch Sỏi để rồi sau đó chuyển chúng tôi sang một xe bus khá lớn. Anh Thành cho biết xe sẽ đến bãi hẹn nằm đâu đó trong vùng bờ biển Hà Tiên.

    Trời chiều nhá nhem rồi tối hẳn. Hàng cây hai bên đường đen sẫm. Đường từ Rạch Sỏi chạy ra Hà Tiên thật xấu. Xe liên tục tránh các ổ gà lớn trên mặt đường nhựa trước xuống cấp thê thảm. Do chiến tranh và đã lâu mặt đường không được tu bổ. Ngồi trên xe, tôi cứ chao đảo vì đường hư hỏng quá. Xe chạy thật lâu và đã có người thò đầu ra bên ngoài cửa xe để ói mửa. Tôi cảm thấy bắt đầu mệt. Thình lình, xe thắng gấp sau một tiếng nổ nhỏ. Bánh xe xẹp rồi. Tài xế lẫn lơ xe vội vàng đội xe lên, tháo ngay cái bánh xe xẹp thay. Nhưng trên xe không có bánh sơ cua nào hết. Giờ phải làm sao đây?

    - Phải tìm chỗ vá ngay. Tổ chức chuyến đi mà làm ăn như vậy... chỉ có chết, người nào đó trên xe lầm bầm.

    Đường thật vắng vẻ, tài xế và lơ tính chạy kiếm nhà dân để hỏi thăm vừa lúc gặp người chạy xe đạp đi tới. Có tiệm sửa xe cách đây không xa nhưng khuya quá, họ còn mở cửa không?

    Chúng tôi phải ngồi yên gần hai tiếng đồng hồ để chờ lơ xe lăn cái bánh đi vá rồi về ráp trở lại vào xe. Xe chạy qua nhà máy xi măng Kiên Lương rồi đến Vàm Rầy. Tài xế cho xe chạy rề rề chờ đợi rồi xe ngừng bên cạnh đường vì chẳng thấy người trong tổ chức đón như dự liệu. Trời bắt đầu sáng dần, làm gì bây giờ? Ai nấy tự hỏi mình. Có tiếng xe Honda chạy đến và rồi chúng tôi được lệnh phải rửa mặt cho sạch sẽ, thay quần áo khác làm bộ đi du lịch Hà Tiên. Vụ xe xẹp bánh hồi khuya nên chuyến đi đã tạm thời hủy bỏ vì đến điểm đón quá trễ. Cứ làm một chuyến đi du lịch Hà Tiên, thăm lăng Mạc Cửu, Thạch Động hoặc ghé Mũi Nai đi, chờ đám tổ chức liên lạc trở lại xem sao!

    Chúng tôi đi qua bến phà nổi Tô Châu, ngắm nhìn dãy ghe đánh cá đậu san sát bên nhau trong dòng nước biển xanh mầu lá cây, thầm nghĩ không biết ghe mình đi có lớn có vững chắc như những chiếc ghe ở đây? Qua bến phà nổi, chúng tôi lên xe lôi chạy đến Thạch Động rồi ra Mũi Nai hóng mát. Do xe đến điểm trễ giờ nên tôi mới có dịp biết đến Thạch Động và bãi biển Mũi Nai Hà Tiên. Hà Tiên là nơi cư trú của vợ chồng nhà thơ Đông Hồ-Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội và cũng là quê quán của danh sĩ Mạc Thiên Tích ngày xưa. Tôi đang là khách du ghé thăm miền ước mơ trong bài hát Hà Tiên của nhạc sĩ Lê Dinh đây. Một thành phố nhỏ nhưng thật đẹp dù ở nơi tận cùng đất nước Việt.

    Tôi và Dũng làm quen được với Ánh Phương và Mỹ An, hai cô gái trẻ trong chuyến đi Mũi Nai. Ánh Phương 26 tuổi còn Mỹ An mới 24. Cả hai đều độc thân và cũng mới làm bạn với nhau từ lúc lên xe bus. Tôi cặp kè với Ánh Phương còn Dũng với Mỹ An như những cặp nhân tình của chuyến du lịch. Chúng tôi đi ăn uống lai rai rồi đi lòng vòng trong những con phố nhỏ của Hà Tiên. Có lúc ngồi bên nhau, làm vẻ tâm tình trong các quán cà phê để chờ 7 giờ tối sẽ về lại xe bus.

    Lúc ở Mũi Nai, tôi thấy thằng Minh và hai người bạn nó ngồi nhậu trong một quán sát bờ biển. Minh đã mời tôi ngồi vào bàn, đưa ly bia cho tôi rồi nói:

    - Uống lai rai với tụi em cho vui anh Vũ, em đâu dè có anh trong chuyến này luôn. Anh em mình cùng bên nhau nghe anh.

    Tôi cười, gật đầu đồng tình rồi từ chối:

    - Anh không uống bia được Minh à. Uống vô chút xíu say liền, em nên nhậu sương sương thôi... còn giữ sức nữa đó. Tôi nhắn nhủ với cả bọn.

    - Anh Vũ biết không, nhà em ở Quận 10 Sài Gòn. Thầy U em người Bắc đạo Phật di cư từ 1954. Anh trai em đang sống ở Úc, em đi hôm nay lần thứ ba đó anh, các lần trước đi không được lại phải quay về. May không bị bắt. Anh trai em chỉ đi có một chuyến lại thoát. Ánh Phương nói với tôi.

    Nhìn khuôn mặt Ánh Phương. Cô gái này đẹp thật, da lại trắng hồng, lời ăn tiếng nói ra vẻ con nhà hiền lành. Bản thân tôi đã ba mươi tuổi mà vẫn chưa lập gia đình. Nếu Ánh Phương là bạn tình của mình thì hay biết bao! Tôi lại nghĩ nếu mình có người yêu như Ánh Phương, liệu có dám cho nàng đi vượt biên không?

    Khi chúng tôi quay trở về bến xe thì nhóm tổ chức đã thay xe cũ bằng một xe bus khác lớn hơn. Họ đã nhét thêm cả chục người khách mới ngồi sẵn trên xe từ lúc nào. Tôi và Ánh Phương chọn chỗ ngồi nơi dãy hai ghế sát cạnh cửa lên xuống ở phía sau xe. Lần lượt từng người khách quay về bước lên xe. Xe chật kín, hết ghế trống mà khách còn đứng ngồi lổn nhổn ở lối đi giữa xe. Tôi nhẩm tính trong đầu, với 10 hàng ghế mà mỗi hàng 5 người rồi thêm 4 ghế phía trước gần tài xế và 6 ghế cuối, ít nhất phải có 60 khách vượt biên trong chuyến đi đêm nay. Cá lớn đón chúng tôi dài rộng cỡ nào? Có bằng chiếc ghe năm xưa tôi đi hay nó nhỏ hơn? Bây giờ đã gần 8 giờ tối, xe bus bắt đầu lăn bánh ra khỏi bến và chạy về hướng Rạch Sỏi.

    Tôi nhìn ra hai vệ đường, đèn nhà dân hắt ra soi rõ những cây dừa mọc sát mặt lộ. Đây đó vài trẻ em đùa giỡn trước cửa nhà. Một tiệm cà phê lác đác người ngồi ở các bàn trống. Qua hết dãy nhà, xe đi vào vùng cây cối bãi bồi gần biển. Cảnh vật hiện lờ mờ như là bụi cây đước, một bãi bùn hay là bờ đất tiếp giáp với lề đường. Xe chạy đều đều khá lâu thì rẽ trái vào một con đường nhỏ rồi chạy thêm một đoạn ngắn nữa thì tắp vào một khu vườn. Xe tắt máy dừng hẳn. Cây trong vườn xum xuê như rừng nhưng quá tối, tôi không biết loại cây gì.

    - Chúng ta phải chờ ở đây. Yêu cầu mọi người ngồi yên. Tiếng người lơ nói khá to trong xe.

    Mọi người giữ im lặng. Thỉnh thoảng có ánh đỏ chớp lên từ đầu một điếu thuốc lá của ai đó. Tôi bảo Ánh Phương:

    - Em có mệt thì nhắm mắt ngủ đi, họ nói thế thì chắc mình phải chờ khá lâu.

    Thực sự thì cơn buồn ngủ đã làm mắt tôi nhíu lại. Tôi và Ánh Phương ngủ ngồi trên ghế xe cả tiếng đồng hồ thì choàng tỉnh khi nghe tiếng xe Honda từ xa vọng lại. Ánh đèn hai chiếc Honda đến gần. Cả thẩy có 4 người tất cả. Một người trong bọn mặc sắc phục công an. Ba người còn lại, có kẻ tay vung vẩy cây súng AK 47. Tôi nói khẽ với Ánh Phương:

    - Công an, chết mồ rồi Phương ơi!

    Tim tôi đập thình thịch. Ánh Phươnh lộ vẻ thất sắc, tay nàng nắm lấy tay tôi run run. Chúng tôi đã vào rọ của công an? Bất chợt cánh cửa xe bật mở, tài xế và hai người lơ nhẩy xuống cùng nhập vào bọn bốn người mới đến. Tôi nghe rõ tiếng của anh Thành. Cả bọn ngồi bàn bạc trong chốc lát rồi một xe Honda chạy đi trước, kế tiếp chiếc xe bus. Ở một khoảng khá xa, chiếc Honda còn lại chạy bọc sau cùng .

    Bây giờ tôi và Ánh Phương cũng như khách trên xe buýt mới hoàn hồn bớt lo. Chuyến đi có công an-du kích bán bãi như lời nhóm tổ chức đã nói. Một làn gió mát thổi vào mặt làm tinh thần tôi phấn chấn vì nghĩ đến sự an toàn tối nay. Ánh Phương nói:

    - Ban nãy em sợ muốn chết đó anh Vũ. Rủi họ không cùng phe mình, không biết em sẽ làm sao nữa, rồi nàng cười vui vẻ.

    Xe tiếp tục chạy ngược về hướng Hà Tiên và sau cùng ngừng lại sát cạnh bên vệ đường. Chỗ nầy vắng vẻ không một bóng người qua lại. Chúng tôi được lệnh xuống xe ngay lập tức và nối đuôi nhau theo ánh đèn pin của một người dẫn đường đi phía trước. Cả bọn yên lặng, đi êm ả trên các bờ đất trong đêm tối tĩnh mịch. " Đây là Vàm Rầy ", tiếng người thì thào trong bóng tối. Khách vừa xuống hết, xe bus liền biến mất trong bóng đêm.

    Chúng tôi rồng rắn đi với nhau cho đến cuối bờ đất thì chân bắt đầu đặt xuống một bãi sình. Tôi và Ánh Phương bước lõm bõm gần bên nhau chung với các người khác. Thêm một ánh đèn pin nữa lúc chớp lúc tắt xuất hiện ở phía trước xa xa. Chúng tôi lần từng bước về hướng ánh đèn pin. Đến nơi, đoàn người được phân tán ra thành từng nhóm nhỏ, ngồi nấp ngay sát cạnh những đám cây mọc trong vùng đất sình. Dũng, Mỹ An cùng tụi thằng Minh bây giờ đang ở đâu trong các bụi cây nơi mép biển?

    Trăng khuya bắt đầu mọc, soi ánh sáng vàng vọt leo lét trên toàn vùng. Nước triều đang từ từ dâng lên. Đứng ở trên mặt đường lộ bây giờ, không ai ngờ ngay dưới chân những bụi cây sát biển này đang có cả một nhóm người ẩn nấp để chờ vượt biên. Nước triều dâng mỗi lúc một cao hơn, chúng tôi vẫn ngồi yên trong nước biển. Đến lúc chúng tôi phải đứng lố nhố vì không thể ngồi được nữa thì một cái xuồng ba lá nhỏ xuất hiện. Ghe chèo nhè nhẹ đến gần chúng tôi. Tiếng đàn ông ngồi trên xuồng hối thúc chúng tôi lội ra ngay. Tôi nắm tay Ánh Phương cùng bước lội từng bước về phía cái xuồng.

    - Đừng leo lên, chỉ bỏ túi xách thôi. Anh chị bám theo xuồng này để ra ghe, tiếng đàn ông trên xuồng nói.

    Tôi vất túi xách lên xuồng, tay bám và chân thì bước theo từng bước một. Ánh vàng vọt của trăng non, tôi thấy thấp thoáng một bóng một chiếc ghe nhỏ xa xa. Nước bắt đầu đến ngực rồi cổ. Chân tôi có lúc bước hụt xuống một hố khá sâu. May là trồi lên kịp. Ánh Phương tay bám chặt vào vai tôi. Sau cùng cả hai đến được sát bên ghe. Người đứng trên ghe cúi xuống nắm tay từng người dưới nước kéo lên. Đến lượt Ánh Phương, nàng cố gắng hết sức cũng không thể đưa tay tới được người trên ghe. Tôi phải giúp nàng bằng cách nhắm mắt, hụp hẳn xuống dưới nước và ôm thắt lưng nàng đẩy phụ lên. Lần đầu tiên tôi chạm vào thân thể Ánh Phương. Xong lượt nàng, đến lượt tôi lên được mặt sàn ghe. Tôi nhìn thật kỹ thân ghe, đúng nó nhỏ hơn chiếc ghe tôi vượt biên trong lần trước. Một gã đàn ông khác đã ấn tôi nhẩy xuống khoang trống. Không lẽ cá lớn đây thật sao? Tôi phân vân tự hỏi. Người mỗi lúc được nhét thêm xuống khoang chiếc ghe. Hơi nóng từ thân người hoà với mùi dầu gió xanh toả ra nồng nặc. Tuy trông không rõ mặt nhau trong bóng tối nhưng ai cũng biết khoang ghe đã chật cứng người. Ai ngồi đâu yên đó, không thể cục cựa được. Ánh đèn pin chợt loé lên từ cửa khoang và khuôn mặt của anh Thành hiện ra. Anh hỏi tên từng người khách cùng mật mã an toàn. Tôi nghe tiếng của Dũng, Mỹ An rồi Minh và Ánh Phương trong khoang ghe. Khi anh Thành vừa xong lượt tôi, tiếng một người vặn hỏi:

    - Ê! Thành. Ghe nầy ghe taxi hay cá lớn vậy... Người đầy nhóc cả rồi?

    - Taxi thôi. Nhỏ xíu vầy sao mà đánh chuyến được. Yên tâm đi đại huynh. Cá lớn chờ ngoài khơi kìa. Anh Thành quả quyết rồi sau khi lấy mật mã xong xuôi, anh chúc mọi người thành công trong chuyến đánh đêm nay trước khi theo xuồng ba lá để quay vào bờ. Đêm đó, nửa khuya về sáng của một ngày cuối tháng 5-1990.

    Ghe nổ máy rồi tấm nắp cửa khoang đã được đậy lại và qua chuyển động của thân ghe với làn nước bên ngoài, tôi biết là ghe đã khởi hành. Trong khoang hầm tối đen, tiếng người niệm Phật lầm thầm chung với tiếng người khác thở dồn dập. Chợt tiếng người đàn ông khi nãy đã vặn hỏi anh Thành vang lên:

    - Họ đánh bằng ghe này thật rồi bà con ơi, ai không tin cứ chờ thì biết... Taxi gì mà tập trung hết tất cả khách vào đây.

    Ông ta nói nhưng không một người nào lên tiếng trả lời. Tiếng máy ghe cứ chạy đều đều êm ả như vậy và tôi ngủ thiếp đi không biết bao lâu thì tỉnh dậy. Bây giờ trời đã sáng. Có người nào đó hỏi giờ thì được người khác trả lời là 8 giờ 15 phút sáng rồi. Dù ánh sáng ban ngày hắt từ khe hở cửa khoang và từ phía máy ghe nhưng tôi vẫn không thấy Ánh Phương, Mỹ An, Dũng và Minh. Chung quanh tôi bây giờ chật cứng người dù có muốn xoay chân, đảo người cho bớt mỏi cũng không thể. Sát cạnh tôi là một phụ nữ với mái tóc dài thỉnh thoảng gục đầu vào người tôi. Tôi biết chị này đang cơn say sóng. Vẫn còn tiếng người nôn oẹ đây đó trong khoang. Tôi nhắm mắt lại vì mệt vì mũi tôi khó chịu với mùi thức ăn người ói ra pha trộn với mùi dầu máy ghe, mùi dầu xanh con Ó, mùi hơi người và cả mùi nách nữa... Cảm giác nôn nao trong người bắt đầu đến với tôi. Tôi muốn ói và cổ đã ợ hơi vài lần. Tôi ngẩng đầu lên cố chống lại cơn ói nhưng rồi biết mình không thể. Gục đầu xuống tôi bắt đầu ói ngay vào quần áo của mình. Thể xác mệt mỏi khiến tôi ngủ rồi lại chợt thức mà không biết thời gian trôi qua bao lâu và tự hỏi ghe chạy đến đâu rồi lại ngủ tiếp sau đó. Cứ như vậy cho đến khi có tiếng mở cửa hầm kèm theo nghe tiếng người nói mình ra khỏi hải phận Việt Nam rồi. Hé mắt nhìn lên, tôi thấy một mặt người lem luốc đầy dầu mỡ. Người đàn ông này mở rộng cửa hầm, cúi đầu sát xuống nhìn vào đám người chúng tôi rồi anh ta nở nụ cười nói:

    - Bà con mệt dữ ha... Ráng chịu đựng đi nghen, có đồ ăn và nước đây, ai có khát có đói thì lấy dùng nha.

    Mấy đòn bánh tét, vài xâu củ sắn và hai bình nhựa đựng nước được chuyền xuống cho chúng tôi rồi nắp cửa hầm đóng sập trở lại liền.

    Mình ra khỏi hải phận Việt Nam rồi. Như vậy đây là cá lớn chứ không phải taxi gì hết. Tự nhiên tôi lại cảm thấy lo lắng khi biết anh Thành đã xí gạt chúng tôi nhưng bây giờ thì đã quá muộn. Câu nói quả quyết của anh: " Ghe nhỏ như vầy làm sao vượt biên được. Cá lớn chờ ngoài khơi kìa " trở về trong trí tôi. Biết nói như vậy nhưng sao anh Thành lại vẫn dùng ghe nầy cho chuyến vượt biên của chúng tôi? Giờ mình có muốn đổi ý, muốn quay về cũng không được nữa. Thôi đành phó mặc cho số phận vậy. Ghe tiếp tục chạy như vậy thật lâu thì tự dưng tốc độ giảm lại và ghe dừng hẳn dù máy vẫn nổ. Có nhiều tiếng người nói lao xao bên ngoài vọng vào tai tôi. Chuyện gì đây? Trong tiếng máy ghe tôi nghe thêm tiếng máy nổ khác. Vậy là có ghe hay tàu lạ ở gần bên ngoài rồi. Chợt cả hai cánh cửa lớn khoang ghe được mở tung ra hoàn toàn. Ánh sáng bên ngoài tràn đầy vào trong hầm làm mọi người phải nhắm ngay mắt lại. Lấy tay che mắt, tôi nhìn lên các khuôn mặt lạ đang quan sát chúng tôi. Họ là ai vậy? Một người đàn ông mỉm cười, nói:

    - Đông người dữ ha. Bà con đừng sợ, tụi tui cũng dân biển không hà. Chạy được tới đây coi như là thoát rồi có điều tối khuya nay trời có dông đó. Biển hơi động nghe bà con, ráng chịu cực thêm chút xíu qua cơn thì ghe chạy êm ru.

    Vài người ngồi dưới khoang ghe nhân cơ hội ngỏ ý muốn trèo lên để đi tiểu và họ leo lên thật. Tôi ráng hết sức cũng lách ra rồi đu người leo lên thành ghe. Một chiếc ghe kích cỡ bằng cá lớn chúng tôi đậu sát bên cạnh. Mấy người trong chiếc ghe đó cho chúng tôi biết họ là ngư dân của đảo Phú Quốc và vùng biển chúng tôi ở đây thuộc nước Khmer. Tôi nhìn chung quanh, ánh nắng chói chang trên đầu, nước biển mầu xanh lá cây xa tít tới tận chân trời. Chỉ toàn một màu xanh nước biển và không một bóng ghe, hòn đảo nào khác nữa. Tôi nằm vật xuống ngay trên thành ghe, tự nhủ là chắc mình nằm đây luôn không chui xuống khoang hầm chật hẹp nữa. Nằm trên sàn ghe thật là dễ chịu! Những người trên chiếc ghe Phú Quốc đó xin chúng tôi cho họ tất cả tiền Việt Nam còn mang trong người, nói là đến được trại tỵ nạn bên Thái thì cũng vất bỏ đâu có xài. Tôi ngồi dậy, móc tất cả tiền Việt trong bóp ra cho họ y như những người khác. Những người tài công trên ghe chúng tôi cho họ cả những tay lưới đánh cá luôn. Sau đó, những người trên ghe Phú Quốc này cùng với tài công trong ghe chúng tôi bàn bạc nhau về hướng đi của ghe và cách đối phó khi gặp trời dông gió trong tối nay.

    Phạm Thắng Vũ
    (còn tiếp)
    Last edited by khieman; 06-08-2014 at 09:02 PM.

  2. #21
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Ghe êm ả nhắm hướng ngọn đèn hải đăng chạy tới trong đêm trường tối đen như mực làm như chỉ có duy nhất đám chúng tôi đi trên biển. Đụng vào tay Đỉnh, tôi gọi nhỏ:

    - Đỉnh, Đỉnh ơi! nhưng không một tiếng trả lời. Đỉnh đã ngủ say!

    Tôi ngồi yên, nhắm hai mắt lại được một lát rồi nằm lăn ra ngủ như nó cho đến lúc bên tai nghe tiếng người nói lao xao:

    - Biết hướng nào mà chạy hả trời! Cứ như vậy, đi lạc là cái chắc.

    Tiếng nói đó làm tôi mở mắt rồi từ từ đứng hẳn lên ngó chung quanh. Đêm vẫn mầu tối đen nhưng nhìn kỹ mới biết có một làn mờ mờ trắng đục trên mặt biển bao phủ khắp chung quanh ghe. Sương mù trên mặt biển và ghe chúng tôi đã lần quần chạy vô định cả tiếng đồng hồ rồi. Tám Kiệt và Thuận đã để ghe chạy như một người mù sờ soạng lần từng bước chân trong bóng đêm, mong sẽ vượt qua được làn sương mù để bắt lại ánh hải đăng cũ nhưng vô vọng. Sương mù dầy đặc mà ghe lại không có hải bàn, chúng tôi chắc đã đi lạc cho dù nó có tan trước ánh sáng bình minh. Người đứng, người ngồi chung quanh tôi ai cũng lo vì làn sương mù quái ác thì chợt có tiếng la lớn ở nơi đầu ghe:

    - Coi chừng! Có cái gì trước mặt mình kìa. Thấy không?... Hình như ở chỗ có ánh đèn lờ mờ đó mấy ông.

    Tôi nhìn ngay về phía trước mặt ghe. Một vài chấm sáng nhỏ khá cao của một khối lù lù gần ngay trước mặt nhưng chưa ai biết đống lù lù đó là cái gì thì có tiếng thất thanh:

    - Trời ơi! Tàu lớn ở ngay trước mặt mình đó... Cẩn thận ông Tám, chú Thuận ơi!

    Đúng! Khối lù lù ai cũng thấy rõ là một con tàu lớn qua hình dáng của nó hiện ra lờ mờ chung với các bóng đèn điện nhỏ. Ghe chúng tôi đã đến sát thân tàu to đùng nằm chắn bất động ngay giữa đường trên biển. " Thuận đâu rồi, ông Tám đâu rồi, có thấy không vậy? Đụng vào nó bây giờ ". Nhiều tiếng la theo nhau trong hoảng hốt, tôi tỉnh hẳn giấc ngủ.

    La thì la, tốc độ cùng hướng chạy của ghe chúng tôi vẫn không đổi mà con tàu lớn trước mặt càng lúc càng rõ. Ông Tám hay anh Thuận đâu rồi. Có thấy tàu lớn ở trước mặt không hay cả hai đã ngủ gục hết cả? Chạy kiểu này cùng sức hút của dòng nước gần con tàu lớn đó sẽ kéo ghe chúng tôi vào và làm một cú đụng thật mạnh. Có thể vỡ tan ghe và chúng tôi trên mặt sàn sẽ văng hết xuống nước. Tự nhiên như một chuẩn bị cho việc sẽ phải ngâm mình trong nước biển khiến tôi đưa tay sờ vào chiếc áo phao đang mặc và cảm thấy bớt lo. Nhưng chợt nghĩ đến những người còn ở dưới khoang hầm, tôi dáo dác nhìn chung quanh xem coi có gặp Yến, Đào và Bẩy không thì ghe đã đến sát con tàu lớn bây giờ trông như một bức tường thành sừng sững trước mặt. Ghe chúng tôi lao vào khối sừng sững đó và thật may, nó lách qua được mà thực sự chúng tôi không biết ở phần mũi hay phần đuôi con tàu đó. Lách qua được nó trong khoảng cách chỉ vỏn vẹn vài thước kèm theo một tiếng kêu đánh rột khá lớn vọng lên từ dưới nước truyền vào người đám chúng tôi. Tim tôi thót lại, ghe vừa chạm vào phần gì đó chìm dưới nước của con tàu lớn nhưng sao nó vẫn chạy tiếp như thường. Đám chúng tôi quay đầu nhìn lại chiếc tàu đã trở lại nguyên khối lù mù và đột nhiên, đèn trên đó bật cháy sáng tạo thành một vầng vàng đục trong màn sương mù. Thủy thủ trên đó đã biết có chuyện vừa xẩy ra với tàu họ. Còn bên chúng tôi, rõ ràng ai cũng nghe thấy tiếng kêu vọng từ dưới nước nhưng sao ghe vẫn chạy bình thường?

    - Nhờ cái lai ký đó. May chưa! Nếu không có nó thì chết mẹ cả đám mình rồi. Tiếng một người trong nhóm Tám Kiệt nói.

    Lai ký là cái gì? Có người lên tiếng hỏi thì anh ta giải thích nó là cái đường sóng nổi gồ chính giữa thân ghe ngay dưới đáy. Những ghe thường chạy trong vùng biển có các rạn đá, người chủ thường cho làm thêm cái lai ký để giữ ghe tránh các va chạm mà có thể làm bể ván phần đáy hoặc làm gẫy các chân vịt. Ghe chúng tôi vừa vượt qua sợi dây neo của con tàu, đúng hơn là vừa cán lên nó nên đã gây ra tiếng động lớn làm mọi người có mặt phải hết hồn.

    Sau cú va chạm với con tàu lớn, Tám Kiệt và Thuận biết sợ nên cho ghe chạy chậm hẳn lại. Ai cũng căng mắt ráng quan sát màn sương mù càng lúc càng dầy hơn, mong tìm lại được ánh hải đăng dù trời đã bắt đầu hưng hửng sáng. Chúng tôi lần lượt thấy khá rõ các tàu lớn chạy gần ghe. Nhiều tàu lớn như vầy thì ắt phải có một bến cảng nào đó của nước Indonesia không xa lắm. Không có hải đăng dẫn đường cùng không hải bàn và chỉ chạy đại trong đêm tối, lại tránh được một tai nạn trong gang tấc để sau cùng, ghe chúng tôi cũng tìm đến được đất liền. Mọi người thở phào, nói Tám Kiệt cho ghe đi theo đuôi mấy con tàu lớn để mong tìm được lối dẫn vào bến cảng như hồi ở Kelang.

    Trời đã sáng hẳn nhưng sương mù vẫn phủ dầy đặc chung quanh. Sương lạnh gặp hơi nóng của thân người đã đọng thành từng giọt nước nhỏ li ti nhuộm tóc, râu và cả lông mày lông mi của từng người đang ngồi túm tụm trên mặt sàn ghe thành một mầu trắng. Chúng tôi nhìn nhau và cười vì mặt vài người trông giống hệt các kiếm sĩ trong phim võ hiệp Hồng Kông. Ai cũng tỉnh giấc hẳn, ngồi im lặng bên nhau trên mặt sàn ghe mà dõi mắt quan sát những bóng tàu lờ mờ xê dịch hay đậu bất động trên mặt biển ở gần xa chung quanh. Chợt một thiếu nữ đưa tay chỉ xiên về hướng bên phải ghe nói khá lớn:

    - Nhìn kìa mấy chú ơi. Có cái gì lạ quá, cháu không biết nữa.

    Theo hướng tay chỉ của cô gái, ai cũng thấy những khối thẳng khá cao nhưng bất động in hình lờ mờ trong sương mù xa xa. Những khối thẳng lờ mờ đó là cái gì ? Chắc chắn không phải các con tàu vì khác hình dáng mà cũng không phải núi vì núi nào ở giữa biển! Ai cũng cố đoán nhưng đành chịu. Tám Kiệt chắc lưỡi, lầu bầu nói phải chi mình còn giữ được cái ống nhòm thì chắc sẽ biết. Cái ống nhòm của Tám Kiệt đã bị lính Malaysia thu giữ khi cập vào cảng Kelang. Hơi giá từ các giọt nước sương mù đọng trên người làm ai nấy thấm lạnh, run rẩy dù có áo phao mặc phủ bên ngoài. Tóc, mặt và tay chân người nào cũng ướt đẫm nước như vừa trúng một cơn mưa rào nặng hạt. Chợt sương mù sáng hẳn lên, mặt trời bắt đầu lộ rạng khi ánh ban mai từ từ đục thủng dần làn sương để chúng tôi càng lúc càng thấy rõ hơn cảnh vật ở trên mặt biển. Nhiều tàu lớn hiện ra gần gần rồi cả ở xa xa nữa khiến chúng tôi thắc mắc không biết ghe đang chạy vào hải cảng nào đây?

    Một tiếng rít khá lớn từ xa vọng lại, tiếng của máy bay phản lực làm tôi nhìn lên bầu trời sương loãng. Hai chiến đấu cơ sơn mầu da ếch lượn sát mặt biển ngay phía trên đầu chúng tôi, giọng một người nói lẫn trong tiếng âm thanh ồn ĩ, chói tai: " Chiến đấu cơ Phantom F4 đó, không biết của nước nào đây cà! ".

    Hai F4, chiếc trước chiếc sau đánh một vòng khá rộng rồi biến mất trong đám sương mù xa xa. Tiếng động cơ nhỏ dần để sau đó nó vang vang trở lại và máy bay đánh thêm vòng tuần tra ngay trên đầu chiếc ghe chúng tôi khi phơi cái lườn trắng như mầu bụng ếch với hai cánh xiên cong cong. Người trên ghe đứng yên ngắm nhìn hai phản lực cơ vì chúng quá đẹp và hùng dũng lượn vòng như những cánh chim trong bầu trời sương mù đang tan loãng. Và, dưới các tia nắng sớm ban mai, những khối lờ mờ thẳng cao và bất động khi nãy, giờ đây đã lộ nguyên hình là những tòa cao ốc chọc trời sừng sững. Những tiếng ồ kinh ngạc, thán phục:

    - Nhìn kìa... Nhìn kìa. Đẹp quá sức đi! Singapore đó, đúng rồi!

    Những cao ốc chọc trời thẳng tắp như từ dưới đáy nước mọc vươn lên mặt biển cùng với quá nhiều tàu bè lớn nhỏ qua lại ngay phía trước các tòa cao ốc. Ai cũng nói hình ảnh các toà cao ốc trông rất quen như họ đã gặp đâu đó trên các trang báo. Vài người lao nhao, khẳng định: " Mình vào Singapore thật rồi, các ông ơi! ". Trên ghe tuy chưa người nào có lần đến Singapore nhưng nhìn các tòa cao ốc thấy đúng là nó nên rất mừng. Mừng nhưng trong lòng ai cũng phân vân vì nhớ lời dặn của ông Aleck và các sĩ quan hải quân Malaysia trước đó. Cả đám chúng tôi nhìn nhau, làm sao bây giờ? Tám Kiệt giảm tốc độ ghe và để Thuận cầm lái rồi bước hẳn ra ngoài buồng lái, hội ý với mọi người. Tám Kiệt hỏi:

    - Tính sao bây giờ hả mấy ông, mình cho ghe chạy vào hay quay ra đây?.

    Ông Thăng và ông Phát nói nên quay ghe ra ngay vì đã biết Singapore không có trại tị nạn dành cho người Việt, có vào được trong cảng thì cũng bị tàu hải quân của họ kéo ra biển lớn sẽ làm mất thời giờ của mình. Nhưng những người khác lại không chịu, bảo Tám Kiệt cứ chạy ghe vào trước đã, mọi chuyện khác nếu xẩy đến thì sẽ tính sau. Một người trong nhóm họ phân bua:

    - Cái gì mấy ông cũng tin lời bọn Malaysia không vậy? Tí xíu húc vào tàu lớn xém chết chưa sợ sao mà còn tính chuyện cho ghe quay ra chạy tiếp. Giờ gặp được Singapore thì còn chờ gì nữa mà không vào, vẫn tốt hơn là đi kiếm Galang ở tận đâu đâu. Ở dưới ghe tụi này ớn quá rồi.

    Nhiều người khác hùa theo đám họ, bảo mình cứ vào cảng rồi kiếm chỗ nào đó cho ghe làm y như lúc ở Kelang thì bọn Singapore cũng sẽ phải nhận. Tám Kiệt đành xuôi tay. Thuận cho ghe chạy nhắm vào hướng các toà bin đinh chọc trời cái thấp cái cao thẳng tắp, đứng liền bên nhau với các ô kính màu xanh lơ, lấp lánh hình phản chiếu từ bầu trời cùng mây trắng buổi ban mai. Cảnh quá đẹp, dấu vết của một xã hội tiên tiến, thịnh vượng và giàu có. Một máy bay thương mãi từ từ hạ xuống dần, lướt đằng sau các toà nhà khổng lồ rồi mất hẳn ở độ thấp làm chúng tôi ngẩn ngơ nhìn nhau. Singapore đây rồi! Chúng tôi đang đứng trước một hải cảng quốc tế lừng danh.

    Vài chiếc ghe nhỏ của dân địa phương chạy đến gần bên chúng tôi, người ngồi trên đó giơ tay vẫy vẫy và mỉm cười thân thiện. Chỉ lát nữa thôi, sẽ là dịp để cả ghe biết đến cái thành phố nổi tiếng sạch sẽ nhất thế giới nhưng không biết chính quyền địa phương sẽ đối xử với chúng tôi ra sao, tôi đang nghĩ thì tai nghe tiếng còi hú vang vang từ xa. Tiếng còi hú từ một chiếc tàu nhỏ nhưng chạy nhanh như tên bắn đang hướng thẳng về phía ghe chúng tôi. Ông Phát vội nói Tám Kiệt cho Thuận ngừng ghe lại để xem tình hình.

    Chiếc tàu nhỏ hú còi đó đã khá gần và rõ ràng nó chạy đến vì ghe chúng tôi. Ánh đèn từ các bóng chớp quay liên tục trên đỉnh cùng ổ súng đại liên hai nòng ở ngay ụ đầu mũi tàu nhắm thẳng vào ghe làm ai nấy đều biết đã gặp chuyện. Con tàu đó giảm dần tốc độ rồi cặp sát bên cạnh ghe, chúng tôi im lặng, đoán chắc việc sẽ không suôn sẻ. Bốn người trên con tàu mới đến mặc đồng phục áo xanh lơ, quần đen cùng vũ khí đeo bên hông, đưa mắt nhìn chằm chằm sang phía chúng tôi. Một người tay cầm cái loa chạy pin chĩa sang ghe, nói bằng Anh ngữ:

    - A lô, a lô! Nghe đây! Chúng tôi là lực lượng tuần duyên nước Singapore, quý vị không được phép vào cảng và phải ra khỏi khu vực này ngay lập tức, nếu không buộc lòng chúng tôi phải dùng vũ lực. Singapore không có trại tị nạn dành cho quý vị và không muốn quý vị xâm nhập, xin vui lòng tuân thủ.

    Hai ông Thăng ông Phát nhìn nhau cười vì thấy đúng như lời họ đã nói và vội giải thích cho các người trên con tàu tuần duyên biết lý do ghe đi lạc khi muốn trực chỉ đến Indonesia theo hải đăng chỉ đường. Một sĩ quan trên tàu tuần duyên gật đầu như thông cảm và ra lệnh ghe chúng tôi phải chạy theo sau con tầu họ. Con tầu tuần duyên và ghe chúng tôi quay mũi chạy ngược trở ra khỏi khu vực cảng trong sự tiếc nuối của nhiều người khi họ quay lưng nhìn những tòa cao ốc chọc trời cùng số tàu ghe chi chít trên mặt biển đang càng lúc càng xa dần. Vài người thắc mắc không hiểu sao tàu tuần duyên biết có ghe lạ vào mà chạy ra đón đầu chận bắt liền và còn biết mình là người Việt Nam nữa? Như vậy họ giỏi quá! Có người cho là vì cả ghe đầy nhóc người đứng, ngồi trên sàn lại mặc áo phao giống hệt nhau và rồi mặt mũi cả bọn nữa, trông đâu phải như ngư dân Singapore. Người khác nói là có thể do hai chiến đấu cơ F4 thấy ghe mình nên báo cho tàu tuần duyên biết nhưng cũng không chắc vì ghe chúng tôi nhỏ xíu so với cả trăm thương thuyền có mặt trong vùng. Có thể chính đám ngư dân Singapore thấy chúng tôi nên đã báo cho tàu tuần duyên biết vì họ đã được lệnh từ chính quyền lâu rồi.

    Chạy theo đuôi con tàu tuần duyên Singapore này độ một giờ đồng hồ thì chúng tôi đã thấy hình dáng lớn nhỏ các hòn đảo lộ dạng từ rất xa ở phía trước mặt. Tàu tuần duyên từ từ ngừng lại và chờ ghe chúng tôi chạy đến rồi tắt máy dừng sát bên cạnh họ, một sĩ quan bên đó lấy tay chỉ về hướng các đảo xa xa, nói:

    - Kia là các đảo của quốc gia Indonesia, quý vị biết rồi nha.

    - Đảo Galang ở đâu xin ông vui lòng chỉ cho chúng tôi biết. Ông Thăng hỏi viên sĩ quan nhưng y lắc đầu, trả lời:

    - Chúng tôi không biết, thật tình không biết vị trí của đảo Galang mà quí vị hỏi. Quý vị tự tìm lấy vậy nhưng hãy nhớ là không được quay vào hải cảng Singapore lần nữa. Chúng tôi vẫn tiếp tục tuần tra trong vùng và đã nhận diện được ghe quý vị rồi, mong quý vị tuân hành. Bây giờ là lúc chia tay, chúng tôi chúc quý vị may mắn.

    Con tàu tuần duyên đảo một vòng, từ từ tăng tốc độ và chạy mất dạng mà Tám Kiệt cùng Thuận vẫn chưa nổ máy trở lại. Một cảm giác hụt hẫng, buồn bã trong lòng những người ngồi trên mặt sàn ghe vì bị xua đuổi phũ phàng. Trời buổi sáng đầu ngày trên mặt biển thật quang đãng và mát mẻ. Vài người lôi các túi thức ăn tiếp tế ra, chia nhau thuốc lá hút hoặc cùng ăn các gói bánh bisquit. Phía sau buồng lái ghe có cái bếp dầu to cùng một số muỗng, bát nhựa và hai nồi nhôm khá lớn để sẵn, hai phụ nữ trong nhóm Tám Kiệt bắt đầu nổi lửa nấu mì gói cho mọi người ăn chung. Những túi thức ăn y chang một loại đã phát cho chúng tôi khi còn ở cảng Kelang. Cũng các lon sắt cá mòi đóng hộp sơn đen che kín chung quanh và không một dòng chữ nào trên các vỏ thuốc lá điếu, bao mì gói hoặc bánh ngọt bisquit. Tám Kiệt đảo mắt nhìn về hướng các hòn đảo xa xa, nói:

    - Ăn no rồi nghỉ ngơi chút xíu cho lại sức mới chạy ghe tiếp được. Đàng nào thì mình cũng biết hướng chạy vào rồi, chẳng cần đến hải đăng nữa. Nếu có gì kẹt thì ghé vào đảo nào đó hỏi thăm dân địa phương, mong là sẽ gặp được Galang nằm đâu đó trong vùng.

    Mì gói vừa chín, bốc mùi thơm làm chúng tôi ai cũng thấy đói bụng và đều ăn rất ngon nhưng chia chưa hết lượt mà đã hết sạch làm hai phụ nữ phải nấu thêm nồi nữa. Có người khui cá hộp ra ăn thêm cùng với bánh bisquit. Ghe im lặng bất động vì Tám Kiệt và Thuận đã nằm ngủ bù cho cả đêm thức trắng. Gió thổi trên mặt biển lao xao thành những lọn sóng nhỏ đập bì bọp vào thân ghe. Chúng tôi người ngồi kẻ nằm yên lặng trong giấc ngủ và nghỉ ngơi. Vài cụm mây trắng trôi lơ lửng trên bầu trời xanh. Xa xa những con tàu lớn chạy ngang nhưng những người còn thức, không ai thèm để ý đến chúng nữa. Có người thì dõi mắt nhìn theo những cánh hải âu rồi thắc mắc không biết chim làm tổ ở đâu mà cả ngày bay lượn không mỏi mệt trên mặt biển. Nghỉ ngơi mới đó mà đã gần trưa, ánh nắng bắt đầu chói chang khiến ai cũng bị loá mắt khi cố nhìn cái gì khá lâu trên mặt biển. Một ông ngồi gần tôi, lấy nước đổ ra tay và dấp vào mặt nói:

    - Tôi vẫn nhớ những ngày đi làm ruộng, cứ hôm nào sáng sớm mà có sương mù mịt thì y như rằng ngày hôm đó trời nắng lắm.

    Nắng nóng nhưng nhờ các cơn gió biển thổi liên hồi nên những người ngồi trên mặt sàn ghe vẫn còn chịu đựng được. Tuy vậy, vài người sau khi ăn xong bữa ăn dã chiến, đã vội rút xuống trở lại dưới khoang hầm ghe để nằm ngủ cho mát.

    Sau giấc ngủ ngắn, Tám Kiệt thức dậy rửa mặt qua loa xong y cho nổ máy ghe chạy tiếp, nhắm thẳng các hòn đảo trước mặt nhưng khi đến gần mới biết là các đảo hoang không người cư ngụ. Chạy thêm cả tiếng đồng hồ len lỏi trong các hòn đảo khác mà cũng không gặp một túp nhà, bóng người hay một ghe tàu nào cả. Cứ hòn đảo rồi lại hòn đảo tiếp nối nhau liên tục trong cái vắng vẻ, không một bóng người trên bờ và cả ở trên mặt biển. " Những đảo này nhỏ lắm, không thể làm một trại tị nạn đông người được. Mình phải tìm ở các cụm đảo nào lớn hơn thì may ra mới gặp Galang ", ông Thăng cho ý kiến mà ai cũng biết. Tưởng dễ tìm được Galang nhưng không dè quốc gia Indonesia có quá nhiều hòn đảo mà lại chỉ trong một khu vực không lớn lắm.

    Đến quá trưa thì chúng tôi gặp một hòn đảo rõ lớn nằm xiên ở phía tay phải của ghe, Tám Kiệt vội chạy tới ngay và khi đến gần mới thấy nó rộng hơn nhiều so với các hòn đảo đã đi qua từ sáng tới giờ. Trên đảo, có những cây rất to như đại thụ với những chấm đen lơ lửng cao thấp trên các cành khi ghe đến gần. Hòn đảo này, bề ngoài không thấy có dấu vết người ở nhưng ở sâu bên trong ra sao thì chúng tôi chưa biết. Chúng tôi đưa mắt nhìn Tám Kiệt thăm dò nên cho ghe ghé lại hay chạy tiếp nhưng rồi tất cả đồng ý thử cập vào. Ông Phát nói:

    - May gặp người Indonesia ở đây thì mình mới biết đường còn hơn cứ đi mãi mà chẳng kết quả.

    Tám Kiệt chạy ghe từ từ dọc bờ hòn đảo, kiếm chỗ thuận tiện để cập vào. Càng đến gần thì chúng tôi càng thấy rõ cây trên đảo to như những đại thụ trong mầu lá xanh đậm đan kịt bên nhau cùng với chi chít tổ chim mầu đen treo lơ lửng trên các cành. Có người cho là tổ chim dòng dọc nhưng lại phân vân vì nhiều tổ chim quá... Mà cũng có thể vì đảo hoang không người nên chim đã chiếm cứ làm giang sơn riêng. Tám Kiệt tìm được chỗ cho ghe cập bờ rồi ngừng lại ngay trên một vụng nhỏ có bãi cát mịn trải khá dài theo mép nước. Cạnh lườn ghe, nước trong vắt khiến chúng tôi trông rõ các hạt cát biển cùng vụn vỏ sò vỏ ốc chao qua đảo lại ở dưới đáy. Chúng tôi gọi nhau, đánh thức người nằm dưới khoang hầm dậy chuẩn bị rời ghe để vào bờ làm một vòng thám sát.

    Đột nhiên! Luồng gió mạnh từ phía trong bờ thổi tốc ra ngay ghe làm nhiều người phải đứng lại, hít hà hai lỗ mũi rồi nhìn nhau trong ngạc nhiên cùng vui mừng.

    Một mùi thân quen ở các vườn cây ăn trái xộc vào khứu giác chúng tôi. Tiếng lõm bõm từ các thân người chạm với nước cùng giọng một thanh niên lên tới bờ trước đó, xác nhận:

    - Sầu riêng chín. Bà con ơi! Đã quá, đã quá.

    Mùi sầu riêng chín bay nồng nặc trong gió, không lẫn vào đâu được. Chúng tôi đồng nhau bỏ ghe đánh rụp cùng bước lội thật nhanh vào bờ. Vượt qua một thôi đường để cả đám thấy không xa sau những cây bụi là những quả sầu riêng gai nhọn ở ngay các cành thâm thấp. Vạch những cây bụi chận đường, chúng tôi tìm lối đi vào để kiếm quả chín rụng. Một đàn chim cao cát lông đen mỏ vàng chanh nghe động, vỗ cánh, kêu táo tác gọi bầy bay vút cao làm cả đám chúng tôi giật mình. Mặt đất dưới các gốc cây là những quả sầu riêng nằm sẵn không biết rụng từ bao lâu rồi. Vài thanh niên nhanh chân chạy ngay đến, khom người, nhặt những quả gần nhất rồi đi ra nhưng có người lại vất bỏ ngay để quay vào tìm quả khác. Quả sầu riêng bị vất bỏ vì đã nẫu. Lần lượt từng người nam hay nữ trong chúng tôi đều vội vàng rúc vào các tàng cây nhặt các quả mới rụng rồi tự kiếm chỗ ngồi và lấy tay tách vỏ móc múi ăn liền. Đang chần chừ chưa biết chọn cây nào thì có tiếng Đỉnh gọi tôi:

    - Anh Vũ! Lại đây nè, cứ đứng sớ rớ ở đó hoài vậy.

    Ngay giữa quãng trống gần các cây sầu riêng, Đỉnh đứng đó, mỉm cười khoe tôi hai quả gai hở, vỏ căng tròn mầu vàng đậm trông thật hấp dẫn. Tôi tiến lại, Đỉnh đưa cho tôi một quả rồi ngồi xổm tại chỗ, hai đứa tôi dùng tay khẽ tách từ vết nứt nhỏ nơi cuống trái. Những múi vàng nằm phơi giữa bờ mép trắng toả mùi ngào ngạt. Cái mùi thật đặc biệt mà người ăn được sầu riêng thì cho là thơm, còn không lại lắc đầu, bịt mũi. Tôi và Đỉnh móc từng múi ra ăn ngon lành. Dưới các gốc cây sầu riêng, quả nằm la liệt đầy trên mặt đất. Có những quả nằm như vậy từ rất lâu giờ đây đã thành một nhúm đen mốc bên cạnh các quả vừa mới rụng, gai còn cứng mầu nâu xanh. Sầu riêng ở đây quả nhỏ, múi vàng ngọt béo thật nhưng phải cái, cơm mỏng mà hột lại to nên hai đứa tôi phải nhặt các quả khác ăn tiếp cho đến lúc cảm thấy ngán mới thôi.

    Sau bữa ăn sầu riêng quá ể, đám chúng tôi tập họp nhau ngồi nghỉ ngơi dưới một bóng mát cạnh bờ đất gần lối đi xuống ghe và trò chuyện rôm rả. Thấy vài phụ nữ vẫn đang cho các trẻ em ăn thêm sầu riêng, ông Phát vội khuyên:

    - Mấy chị đừng cho sắp nhỏ ăn no quá không tốt. Sầu riêng coi vậy chứ độc lắm.

    Có thì giờ quan sát, ai cũng nói lần đầu mới thấy sầu riêng ở đây to cao như đại thụ. Có lẽ, cây sầu riêng lão ở vùng Lái Thiêu-Bình Dương có lớn lắm thì cũng chỉ bằng một cành to của cây ở đây. Nhưng ai cũng thắc mắc tại sao lại có sầu riêng mọc hoang nhiều đến như rừng? Hay do tay người trồng? Có thể lúc khởi đầu, dân địa phương đã mang sầu riêng đến đây ăn rồi vất hột và các hột đó mọc thành cây lớn rồi rụng trái, phát tán thêm thành các cây khác. Cây già chết đi được thay bằng các cây trẻ, cứ tiếp nối sinh sôi nẩy nở như vậy, để đến bây giờ mọc dầy đặc như một khu rừng. Chúng tôi thấy có các cây sầu riêng nhỏ, nhú lá non từ phần hư nát của các quả mốc đen ở các khoảnh đất trống. Phỏng đoán vậy nhưng cũng có thể từ các hột còn sót lại từ một loài chim lớn nào đó đã kẹp sầu riêng chín đến đây ăn từ thời xa xưa? Nhìn sầu riêng dầy đặc, thân mọc sát cạnh nhau, cành đan qua lại chặt cứng khác với tay người trồng mà mọi người đồng ý là sầu riêng mọc hoang vì khoảng cách không đều đặn. Vì nếu trồng, ít nhất thì mỗi cây cũng phải cách nhau 7 hoặc 8 m như trong các vườn cây và giống phải to trái cho cơm dầy cùng hột nhỏ. Các cây sầu riêng ở đây tuy to cao nhưng đã kém giống, già lão mà người ta thường gọi là thoái hoá. Không biết nó cùng loại với các giống sầu riêng khổ qua, sầu riêng bí, sữa cơm vàng... như bên Việt Nam không? Vài phụ nữ đi gom các hột sầu riêng lại nói mang về ghe để luộc ăn. Đảo nầy không có giống khỉ vì nếu có chúng thì đã không có sầu riêng chín rụng đến hư thúi dưới gốc và khi cầm xem các trái mốc đen không còn hột bên trong, ai cũng cho là có loài bò sát nào đó tìm ăn các hột sầu riêng rụng.

    Vài thanh niên thả bộ tà tà đi ra từ tuốt phía trong rừng cây sầu riêng, trên tay mỗi người cầm theo vài quả chín nói mang về dưới ghe ăn dần, đến chỗ đám chúng tôi ngồi, một cậu bảo:

    - Sầu riêng cây nào cây nấy khổng lồ mà trên đảo lại không có ai ở mới lạ! Vô hơi sâu chút chút, có cả một con suối nước ngọt nữa.

    - Hồi tôi làm việc chung với bọn Mỹ ở Bình Dương, có dịp đưa mấy chả đến vườn cây ở Lái Thiêu chơi trong dịp hè, tiện lúc đó hỏi về gốc gác cây sầu riêng thì một ông trả lời nó có nguồn gốc từ Indonesia ra. Và, cũng như người mình, trong số mấy người Mỹ hôm đó, có người ăn được sầu riêng, người thì không mấy ông ạ. Người Mỹ họ cho trái sầu riêng là loại quả bổ dưỡng nhất và cái mùi mà người nào ăn được bảo thơm hoặc không thì nói thối, thực ra chính là các chất ether thơm hay thối khi quả chín mà có nhiều nhất ở phần cơm vàng. Tùy theo khứu giác của từng người khi ngửi và cảm nhận nó trước hoặc sau mới khiến nghĩ vậy. Chất ether gây mùi thối có thành phần lưu huỳnh và đó cũng là điều người ta cho là ăn sầu riêng quá nhiều sẽ không tốt y như anh Phát nói can nãy. Mấy chả Mỹ nói cây sầu riêng có thể mọc cao tới 40, 50 thước nhưng tôi đâu tin, giờ ghé đảo nầy mới thấy đúng như vậy. Ông Thăng kể.

    Phải công nhận sầu riêng chín tỏa mùi thật nồng mà có lẽ không loại trái cây nào sánh kịp. Ních đầy một bụng sầu riêng, giờ đây ai cũng cảm thấy khát nước rồi thấy trời đã bắt đầu về chiều nên mọi người gọi nhau tụ họp lại để chuẩn bị về dưới ghe. Tám Kiệt nhổm người đứng lên, vỗ hai tay vào nhau kêu bôm bốp và nói lớn:

    - Xong hết cả chưa bà con? Ai cần tiểu tiện vệ sinh gì thì làm ngay đi, nửa tiếng đồng hồ nữa phải về lại ghe đó.

    Rồi ông mỉm cười, dọa:

    - Ai mà ham sầu riêng không về dưới ghe, bị bỏ lại làm Robinson Cruso (nhân vật sống trên hoang đảo, truyện của Daniel De Foe) ở đảo này thì ráng chịu nghe.

    Tám Kiệt nói vậy nhưng phải đến 5 giờ chiều thì chúng tôi mới lục tục kéo hết nhau rời hòn đảo sầu riêng hoang đó. Nhúng chân xuống bờ nước để lội trở về ghe, ai cũng cảm thấy lành lạnh. Tám Kiệt cùng hai ông Thăng, Phát bàn định đúng 6 giờ chiều sẽ cho ghe nổ máy và cứ để chạy suốt đêm may ra trong đêm tối, chúng tôi sẽ dễ dàng gặp lại ngọn hải đăng chỉ đường. Ông Phát nói:

    - Chúng ta bắt đầu kiểm danh xem coi còn đủ 135 người không. Cứ ai đến chỗ mình thì làm ơn đọc to con số lên nghe bà con.

    Chúng tôi kiểm danh xong và không vắng một người nào rồi sau đó cho ghe nổ máy đi tiếp cuộc hành trình, từ từ rời bỏ hòn đảo lạ kỳ mới thấy lần đầu trong đời.

    Chúng tôi chạy tiếp qua nhiều hòn đảo nhưng đều không một bóng dáng dân cư ngụ cùng ghe xuồng trên mặt biển vắng lặng. Có lúc, từ xa xa, mọi người thấy rõ một nếp nhà tranh dựng sát bờ cạnh đảo nên vội cho ghe chạy đến định hỏi thăm đường nhưng khi lại gần mới biết căn nhà đã bị bỏ phế từ lâu. Trời bắt đầu sẩm tối kéo theo những cơn gió mạnh và lạnh hơn làm nhiều người phải mặc lại bộ áo phao cho ấm. Ăn sầu riêng quá no lúc xế trưa, giờ đã làm khổ vài người trong chúng tôi khi phải chờ đến lượt ngay trước chỗ tiêu tiểu ở phần đuôi ghe. Bị tháo dạ, trên ghe lại không có thuốc cầm nên người đó đành dùng dầu xanh con Ó bôi lỗ rún cho đỡ. Trời bắt đầu tối, chúng tôi cứ chạy thong thả mong nhìn thấy ánh hải đăng hay bóng leo lét của ghe xuồng dân địa phương từ màn đen tĩnh mịch. Lầm lũi chạy như vậy cho đến khi ghe bị vướng vào một bãi cạn nhưng may mắn Thuận đã khéo léo lái trườn ra kịp thời. Thấy tình cảnh nguy hiểm và sau khi hỏi ý các ông Thăng, Phát cùng nhiều người khác, Tám Kiệt quyết định cho tắt máy ghe, nghỉ đêm tại chỗ chờ mai trời sáng sẽ tính sau.

    Trong đêm trường, chúng tôi nằm lăn ra trên sàn ghe, trò chuyện hoặc rút xuống dưới khoang hầm cho bớt lạnh vì gió. Có gió và vì ghe ở xa bờ nên không một tiếng muỗi vo ve. Ngửa mặt nhìn bầu trời sao, có người chỉ cho thấy từng chùm riêng biệt và cố đoán ra vị trí của ghe khi căn cứ vào một vầng sáng rực nổi rõ ở một hướng mà ai cũng cho là Singapore. Dần dần tất cả đều chìm vào giấc ngủ cho đến khi nắng ban mai vừa lộ rạng, giọng một người nói lớn chung với tiếng máy nổ nhè nhẹ vọng lại.

    - Có ghe ngay kia kìa mấy ông ơi! Dậy đi.

    Tôi nhổm dậy, giương mắt nhìn một chiếc ghe nhỏ xíu chạy không xa lắm. Vài người trong đám chúng tôi vẫy tay, la hét mừng rỡ. Chiếc ghe nhỏ đổi hướng, từ từ đến gần trong kỳ vọng của chúng tôi. Hai người đàn ông một già một trẻ ngồi trên ghe tuôn ra những câu... anda... sayra... Việt Nam... nhưng không ai trong chúng tôi hiểu được ý nghĩa. Chiếc ghe đó không mái, cũ kỹ với cái máy đuôi tôm nhỏ xíu tương tự loại Kohler 4 gắn trên tắc rán của người dân vùng sông rạch miền Nam bên quê nhà. Ông Phát hỏi vài câu tiếng Anh nhưng hai người đó lắc đầu. Họ không biết Anh ngữ còn chúng tôi mù tịt tiếng Indo thì làm sao hỏi thăm nhau được? Tám Kiệt suy nghĩ chốc lát rồi lấy một tờ giấy, vẽ hình bản đồ nước Việt, vạch một đường thẳng xuống phía Nam vào một vòng tròn nhỏ trong khu vực nước Indonesia và ghi rõ hàng chữ Galang chung với một dấu hỏi rồi đưa cho hai người này xem. Cả hai người Indo nhìn vào tờ giấy rồi nhìn chúng tôi và gật đầu điệu bộ đã hiểu ý. Sau đó, dùng ngay cây viết của Tám Kiệt, một người họ vẽ từng cụm đảo, vị trí ghe của chúng tôi và chỉ dẫn hướng sẽ phải đi tiếp để đến một hòn đảo lớn khác không xa trong vùng. Nơi đó, chúng tôi sẽ gặp các orang American và orang Việt Nam, theo cử chỉ diễn giải của họ.

    Chúng tôi chia tay hai người dân Indo đó sau khi tặng họ nguyên cả bao thực phẩm tiếp tế cùng một can nhựa 20 lít dầu diesel chạy máy.
    (còn tiếp)

  3. #22
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Rong ruổi tiếp hải trình từ bản vẽ nguệch ngoạc của hai ngư dân Indo, chúng tôi vượt qua nhiều hòn đảo và ngay cả các ghe xuồng nhỏ của dân địa phương khi gặp dọc đường mà giờ đây thấy không cần hỏi thăm họ nữa. Chúng tôi cần phải đến nơi vừa biết càng sớm càng tốt. Cứ tiếp tục chạy ghe như vậy cho đến gần trưa thì chúng tôi đã trông thấy từ xa xa hình dáng một hòn đảo thật lớn làm ai cũng mừng. Đến gần, thấy lố nhố những cụm nhà cửa cùng bóng dáng người đi bộ, người chạy xe gắn máy hai bánh và cả xe hơi ở những cung đường vòng gần bờ biển. Tuy vậy, những cung đường vòng đó lại có các mỏm đá sát bờ hoặc vách đất cao vút cùng cây cối mọc lởm chởm nên chúng tôi không thể cho cập ghe vào được. Đây đúng hòn đảo mà hai ngư dân Indo đã vẽ chỉ đường trong tờ giấy. Tám Kiệt đành để ghe chạy từ từ dọc theo bờ tìm chỗ thuận tiện và thật may, khi vừa qua khỏi một doi đất thì chúng tôi thấy lừng lững một toà nhà chín tầng mầu trắng cao vút nằm sát liền cạnh bờ biển trên một mỏm đồi khá cao. Một căn nhà thuỷ tạ khá lớn được vây chung quanh bởi các canoe nhỏ đủ màu nằm liền sát bờ và nó nối thẳng lên tòa nhà trên cao bằng cầu thang trắng nhỏ. Thấy không một bóng người trong căn nhà thủy tạ, Tám Kiệt liền cho ghe tắp vào rồi lần lượt từng người chúng tôi bỏ ghe, nối đuôi theo một cầu thang nhỏ và kéo nhau vào hẳn bên trong.

    Đến nơi thì vài người sức quá bết đã nằm lăn ra ngay trên mặt sàn gỗ, mắt nhắm nghiền như ngủ như bất cần biết sự việc sẽ diễn tiến ra sao. Người khác thì ngồi ngả lưng vào các băng ghế trống rồi nhìn nhau trong yên lặng chờ đợi. Tưởng không ai thấy ghe chúng tôi vậy mà chỉ lát sau đã có hai nhân viên nam nữ mặc đồng phục chạy đến gần nhìn cả bọn trong giọng xì xồ địa phương rồi họ quay lưng bỏ đi mất. Họ đi báo cáo, chúng tôi nghĩ vậy nhưng tới đâu thì tới, chỉ mong mọi việc sẽ suôn xẻ. Căn nhà thủy tạ này có mặt sàn bằng gỗ rất rộng cùng các băng ghế kê sát vách và không có bàn hoặc giường gì cả. Có vẻ nhà thủy tạ ở đây chỉ là chỗ để người địa phương xuống chơi, dùng canoe đi câu cá hoặc nghỉ mát vì ngồi ở các băng ghế, tầm mắt của bất cứ ai cũng ngắm được phong cảnh biển xanh lơ cùng các hòn đảo nằm ở xa xa thật đẹp. Hai nhân viên bỏ đi để chúng tôi chờ đợi trong làn gió biển buổi sáng thổi liên tục mát rượi.

    - Dám mình ghé vào ngay một khách sạn quá mấy ông! Cứ nhìn căn nhà này, số canoe đậu ngay dưới, đồng phục hai người Indo vừa rồi cùng cầu thang trắng dẫn lên tòa nhà mà xem. Khách sạn sát bờ biển cho dân du lịch đó. Vị trí này đắc địa lắm chứ. Mình đến lúc trời còn sớm chứ thử trễ trễ hay lúc xế chiều xem, chắc chắn đầy nghẹt người, Tám Kiệt nói cho cả bọn nghe, ai cũng đồng ý.

    Không lâu sau, có một nhóm người từ trên toà nhà cao vút lục tục theo cầu thang trắng chạy xuống căn nhà thủy tạ liền. Đi đầu là hai người nam nữ trẻ tuổi trong y phục sang trọng cúi đầu chào chúng tôi rồi hỏi bằng Anh ngữ:

    - Quý vị là người Việt Nam phải không? Cần gì? Chúng tôi sẵn sàng giúp. Đừng ngại!

    Hai ông Thăng, Phát gặp họ và kể tóm tắt về tình cảnh của đoàn ghe cho hai người biết. Nghe xong, hai người quay sang nói nhỏ với những nhân viên mặc đồng phục đứng chờ ngay sau lưng họ điều gì đó. Đám nhân viên bỏ đi ngay để rồi nhanh chóng quay lại với các khay tròn bằng Inox rộng tương tự như một cái mâm với nắp thủy tinh đậy kín bên trên và đứng sau lưng hai người trẻ tuổi, chờ lệnh.

    - Ghe mình ghé vào khách sạn Perang của đảo Batam. Chủ là người Singapore sang đây mở khách sạn và bây giờ gặp ghe mình, mời tất cả dùng bữa điểm tâm. Vậy ai thấy đói, cứ tự nhiên ăn nhưng phải giữ thể diện nghe, ông Phát dặn dò sau khi trò chuyện thêm với hai người chủ.

    Liền sau đó thì những nhân viên tay bưng các mâm sáng loáng tản ra đến từng người chúng tôi đang ngồi, nằm la liệt trên sàn nhà và mời ăn. Trong lòng mâm có bánh ngọt đủ loại nóng hổi, ngào ngạt mùi thơm được xếp chặt từng hàng ngay ngắn. Món ăn ngọt thì có thứ giống y như bánh chuối, bánh bò hoặc bánh bông lan bên quê nhà. Còn món mặn lại có loại bánh mì kẹp trứng tráng hoặc mì sợi xào khô với tôm tươi hoặc cá. Cuối bữa điểm tâm đó họ mang nước lã đóng chai hoặc Coca Cola lon nhôm cùng chuối tráng miệng cho cả bọn. Theo yêu cầu của ông Thăng, nhân viên khách sạn còn mang thuốc tiêu chẩy cho những người bị tháo dạ vì ăn sầu riêng hôm qua và rồi còn có cả thuốc lá điếu cho chúng tôi hút nữa. Thuốc lá điếu nhân viên khách sạn đem cho là một loại thuốc hút lạ vì sợi của nó không phải lá cây thuốc lá thông thường mà từ lá của một loài cây có tên Garam, họ nói. Khi mấy người trong đám chúng tôi hút nó, khói thở ra có mùi thơm ngọt là lạ khác biệt và thoang thoảng giống mùi thuốc hút ống pipe hiệu Haft & Haft.

    - Thuốc lá này mắc tiền lắm nghe, không vấn chung với đầu lọc khói đâu... Nhân viên khách sạn cho tui biết đó, ông Phát cho cả bọn biết.

    Rồi hai vợ chồng chủ khách sạn bảo nhân viên họ mang ra cho chúng tôi các phong bì thư loại dán tem sẵn và nhận sẽ gửi giúp thư. Ai thấy vậy cũng mừng liền vội vàng nhận phong bì thư và hí hoáy viết vội nhưng chưa ai kịp viết xong thì đã có tiếng la hét ồn ĩ ngay ở chân cầu thang chỗ nối vào tòa khách sạn. Nhìn ra, tôi thấy hai gã đàn ông da ngâm đen mặc đồng phục với dây thắt lưng có súng ngắn bên hông tiến vào nhìn cả bọn chúng tôi đang đứng, ngồi thành từng nhóm trên mắt sàn căn nhà. Hai gã nầy xì xào tiếng địa phương với các nhân viên khách sạn rồi khoát tay ra dấu cho chúng tôi phải đi ngay trong điệu bộ hất xua ra hướng biển. Mặt hai gã lộ vẻ bực tức, mắt ánh lên các tia hung hiểm làm chúng tôi ai cũng sợ. Nghe báo, người chủ khách sạn vội chạy lại tiếp xúc với hai gã và dù cố thuyết phục mà hai gã đó vẫn không đổi ý.

    - Quý vị phải ra khỏi đây. Đi ngay bây giờ... Đi... Đi ngay, họ không đồng ý cho chúng tôi giữ quý vị ở lại lâu thêm, người chủ khách sạn nói với đám chúng tôi.

    Nhân viên khách sạn, người nào cũng mặt lộ vẻ sợ hai gã khi họ bỏ ra đứng tuốt ở đằng xa.

    Thấy đám chúng tôi vẫn còn ngồi lại trên sàn căn nhà, đôi vợ chồng chủ khách sạn đến thổ lộ với ông Thăng, Phát mong thông cảm cho hoàn cảnh của họ. Người chồng cho biết hai gã da đen đó là nhân viên an ninh của địa phương.

    - Họ không cho phép khách sạn được lưu giữ quý vị lâu thêm. Đành phải chia tay sớm vậy, ông ta nói.

    Chúng tôi nhìn nhau trong buồn bã lẫn bực tức vì niềm vui mới có mà đã sắp sửa vuột mất. Có người xì xào đoán chắc lại dân địa phương nào đó đã báo tin cho hai gã an ninh biết về chiếc ghe của chúng tôi.

    Chúng tôi lục tục kéo nhau xuống trở lại ghe và nổ máy khởi hành trong ánh mắt lo lắng cùng buồn bã của hai vợ chồng chủ nhân và các nhân viên khách sạn. Phải đi tiếp thì trong lòng chúng tôi ai cũng buồn khi nghĩ lúc vào được Malaysia bị tàu hải quân kéo ra khỏi hải phận rồi đi lạc vào Singapore lại gặp tàu tuần duyên ở đó từ chối. Niềm vui mới có trong những giờ ngắn ngủi ở sàn căn nhà thủy tạ đã tan biến mau lẹ. Chúng tôi buồn khi nghĩ việc đi tìm tự do thật không dễ dàng, đến được Malaysia rồi Singapore và giờ đây là Indo mà vẫn chưa xong... vì rõ ràng dân địa phương có người sẵn lòng chào đón chúng tôi nhưng có người thì lại không chịu. Tuy cùng một khối nước tự do nhưng thấy vậy mà không phải vậy. Trời bây giờ đã gần trưa nắng nóng, đảo Batam nhỏ dần dần sau lưng chúng tôi. Một người trong chúng tôi than:

    - Mình đi đâu tiếp bây giờ đây? Galang ơi, mày nằm ở đâu? Sao khó tìm quá vậy!

    Trong đầu chúng tôi, lập đi lập lại câu hỏi đó. Nhìn những đảo to nhỏ gần nhau, có lác đác đác vài căn nhà ở sát bờ mà chúng tôi thấy buồn. Không lẽ lại cho ghe ghé vào các chỗ đó hỏi? Tám Kiệt và Thuận im lặng chạy ghe như vậy khoảng một giờ đồng hồ thì có tiếng người kêu to:

    - Có canoe đuổi theo đằng sau ghe mình kìa anh Tám! Dừng máy xem sao, đừng chạy nữa.

    Quay đầu nhìn về phía sau, ai cũng thấy một chiếc canoe nhỏ chạy với tốc độ thật nhanh cố đuổi theo chúng tôi. Tám Kiệt tắt máy dừng lại và trong chớp mắt, chiếc canoe lạ đến sát bên ghe. Mọi người reo mừng khi thấy ở ngay tay lái canoe là người chủ khách sạn. Ông ta mỉm cười, vẫy tay chào chúng tôi rồi bảo các ông Thăng, Phát bước sang bên canoe của ông. Trải tấm bản đồ khá lớn ngay trên mặt phẳng của mũi canoe và chỉ tay vào các chấm nhỏ trong đó, ông ta nói:

    - Tôi phải tháo tấm bản đồ này ở phòng khách để mang tặng cho quý vị. Đây! Vị trí của chiếc ghe quý vị và đây là đảo Batam. Quý vị hãy đi theo hướng này sẽ đến được đảo Tanjung Pinang chỉ nội trong chiều tối hôm nay.

    Ngừng một lát chờ hai ông Thăng, Phát xem kỹ vị trí các hòn đảo trên tấm bản đồ, ông ta tiếp lời:

    - Đến được Tanjung Pinang thì quý vị sẽ dễ dàng tìm được đảo Galang như ý muốn. Vợ chồng tôi xin lỗi về chuyện vừa xẩy ra ở nhà thủy tạ và mong quý vị hiểu cho hoàn cảnh khi đó vì đã không giúp gì thêm được. Giờ đây, tôi chúc quý vị lên đường may mắn.

    Khởi động cho máy nổ trở lại, người đàn ông tốt bụng đó tạm biệt chúng tôi và chỉ trong chốc lát chiếc canoe đã mất dạng sau các hòn đảo xa xa. Có bản đồ chỉ đường, ai nấy trong ghe phấn chấn lên tinh thần trở lại và trò chuyện rôm rả. Rồi ghe chạy êm ả hàng giờ trên vùng biển kín, vượt qua nhiều hòn đảo lơn lớn, nho nhỏ cho đến xế chiều thì chúng tôi tìm được đảo Tanjung Pinang. Hòn đảo này mới nhìn bên ngoài thì thấy còn trù phú hơn đảo Batam nữa qua các toà cao ốc cùng dòng xe cộ chạy vi vút trên các con đường gần bờ. Cũng gặp lại cảnh cũ là thấy nhiều ghe thuyền chạy tới chạy lui trên mặt biển cạnh hòn đảo. Tám Kiệt cho ghe tiến từ từ sát bờ mà chưa biết phải cập vào nơi nào thì có một chiếc xuồng gắn máy đuôi tôm nhỏ đang đậu ở khá xa trông thấy chúng tôi đã vội nổ máy chạy ngay đến. Hai ngư dân Indo ngồi trên đó miệng gọi và khoát tay ra dấu ghe chúng tôi dừng lại. Có chuyện gì nữa đây? Tám Kiệt và Thuận liền cho ghe ngừng máy. Một ngư dân trên xuồng đó nhìn đám chúng tôi và hỏi bằng Anh ngữ :

    - Có phải quý vị là người Việt Nam và đang tìm chỗ để cập bến?.

    Chúng tôi gật đầu, hai ngư dân cho biết sẽ chỉ chỗ để chúng tôi cập ghe vào và họ kể thêm là hiện đang có người Việt Nam ở trong đó. Nhưng muốn được như vậy, hai ngư dân cười cười và nói chúng tôi phải cho họ ít dầu chạy ghe, thực phẩm cùng vài bộ áo phao.

    Tưởng họ đòi vàng bạc gì chứ mấy thứ này thì dễ ẹt. Tám Kiệt gật đầu rồi nói mấy cậu thanh niên chuyển sang cho họ một can nhựa 20 lít dầu, một bao thức ăn và năm chiếc áo phao. Xong xuôi, chiếc xuồng đó liền chạy lên trước dắt đường ghe chúng tôi đánh vòng trở ra ngoài khơi để tiến về một hướng khác của hòn đảo. Sau gần nửa giờ đồng hồ thì chiếc xuồng ngừng lại, hai ngư dân đó chỉ cho chúng tôi thấy một cầu tàu hải quân thấp thoáng xa xa trong làn khói sóng của mặt nước biển đang về chiều. Giơ tay ra dấu từ giã, một người họ nói:

    - Quý vị cứ chạy vào đó thì sẽ gặp người Việt Nam liền. Chúng tôi không được phép chạy vào vì lệnh cảnh sát cấm ngặt. Xin tạm biệt.

    Chiều đã bảng lảng xâm xẩm tối. Chờ chốc lát để chiếc ghe nhỏ chạy thật xa, Tám Kiệt mới cho ghe nhắm hướng chạy vào và khi đến gần, chúng tôi đã thấy lố nhố nhiều người đang đứng hoặc ngồi trên sàn cầu bê tông vẫy tay mừng rỡ với đoàn chúng tôi. Những giọng nói quen thuộc, đồng hương Việt Nam thật rồi. Có khá đông người trong số họ cũng mặc cái áo phao giống hệt với loại của chúng tôi. Chạy đến gần, đã thấy lù lù cạnh bên chiếc thang sắt dẫn lên mặt sàn cầu tàu bê tông là một ghe đi biển còn lớn hơn chiếc ghe của chúng tôi nữa.

    - Nhìn áo phao họ mặc kìa mấy ông! Sao giống mình quá vậy! Không lẽ họ cũng do tàu hải quân Malaysia kéo ra? Tám Kiệt phân vân.

    Tám Kiệt cho ghe cập nhẹ nhàng vào một cầu thang sắt khác nằm không xa với chiếc ghe lớn đó rồi lần lượt từng người chúng tôi đu xuống cầu thang để trèo lên mặt sàn cầu tàu bê tông. Vài người đứng trên đó tiến lại, vẻ mặt tươi cười với chúng tôi. Một người trong số họ hỏi:

    - Nhìn áo phao mấy ông, tụi tui nghĩ chắc cũng từ Malaysia chạy đến đây phải không?.

    Chúng tôi gật đầu và cũng hỏi lại câu tương tự. Họ kể tóm tắt thì chúng tôi biết là ghe họ đã ghé vào cảng Kuantan của tiểu bang Pahang vào hai tuần lễ trước đó và cùng một bài bản y như bên cá lớn. Đám lính Malaysia đã cho họ sống tạm trú trong một căn trại bỏ hoang sát bờ biển và cung cấp thức ăn đồ uống giống hệt chúng tôi. Họ cũng gặp ông Aleck, nhân viên hội Hồng Nguyệt và các sĩ quan hải quân ở cảng Johor. Cảng Kelang nơi cá lớn ghé vào cũng nằm trong tiểu bang Pahang vậy mà đám ông Aleck lại dấu không cho chúng tôi biết về chiếc ghe của đồng hương Việt Nam này? Sao không để cả hai ghe chúng tôi đi cùng một lúc cho gọn mà lại tách riêng biệt chuyến trước chuyến sau? Thật không hiểu việc họ làm. Một ông tuổi cỡ trung niên của ghe đó cho biết thêm:

    - Chiều tối hôm qua tụi tui còn ở cảng Johor rồi tàu hải quân kéo ra biển lớn sau đó chỉ đường đi theo ngọn hải đăng đầu tiên...

    Kể chưa dứt câu thì có tiếng của một thanh niên trong nhóm Tám Kiệt chận đầu:

    - Lần lượt gặp thêm bốn hải đăng cho đến cái thứ năm là vào tới đây phải không? Tụi nầy cũng y như mấy ông vậy. Cũng do đám hải quân Malaysia kéo ra từ buổi tối hôm trước nữa nhưng khi tàu họ vừa bỏ đi thì bị mất phương hướng lại còn đi lạc vào Singapore. May sao, tụi tui gặp người chủ khách sạn tốt bụng giúp cho bản đồ thì mới chạy được đến đây đó.

    Những người trên ghe đó im lặng, vậy đúng y boong rồi! Cùng cảnh ngộ nên người của hai chiếc ghe thân thiện với nhau nhanh chóng. Người trong ghe chúng tôi kéo lên hết trên sàn cầu bê tông, đứng từng đám riêng biệt bỡ ngỡ chưa biết sẽ phải làm gì. Bề ngang sàn cầu bê tông này khá rộng và chạy dài thăm thẳm vào bờ, chỗ thấp thoáng những tòa nhà sơn trắng. Vài người của ghe đến trước chỉ cho chúng tôi biết một căn nhà nhỏ ở cuối cầu tàu bê tông và dặn:

    - Ai muốn tắm rửa hay đi vệ sinh gì thì vào nhà đó đó và nhớ là đừng để con nít xả rác hoặc phóng uế bừa bãi trên sàn tàu nha.

    -Tụi Indo ở đây không như đám Malaysia đâu, gặp ai làm bậy thì đánh thẳng tay đấy. Chẳng cứ phụ nữ hay con nít gì hết. Một phụ nữ thêm vào.

    Vài người tuổi trung niên từ xa đi đến chỗ chúng tôi, một trong số họ giới thiệu:

    - Tôi là Chức, leader của ghe... Chuyến đi bên các ông ra sao, kể cho tụi tôi nghe cho vui.

    Hai ông Thăng, Phát rồi cả Tám Kiệt kể vắn tắt cho đám người họ về hành trình của cá lớn. Người bên ông Chức cũng kể sơ cho chúng tôi biết về chuyến đi của họ:

    - Tụi tui khởi hành từ Sài Gòn bằng ba chiếc xe buýt lớn. Vì phải nhận khách tuốt tận trên Đà Lạt, Phương Lâm và cả Biên Hoà nữa nên đã dàn cảnh làm chuyến đi du lịch cho công nhân. Xe buýt đi đầu có cả một banderole giả dạng công đoàn nhà máy Bột Ngọt Thiên Hương để che mắt công an. Chúng tôi đón khách ở Đà Lạt xong liền quay trở về Vũng Tàu tắm biển rồi chờ tối đến bỏ xe đi xuống thẳng dưới ghe, đánh ngay tại bãi sau luôn. Đi được ba ngày bốn đêm thì gặp ghe của ngư dân Malaysia, tụi tui mừng quá ngừng lại hỏi thăm đường mới biết ở gần cảng Kuatan. Vậy mà cũng phải chật vật mới tìm được chỗ để ghe ủi thẳng vào và chúng tôi phá cho hư rồi ngồi chờ đó cho đến khi gặp bọn lính. Đám lính đến xem xét ghe tụi tui kỹ lắm trước khi cho vào trại rồi nhờ vụ điểm danh thì mới biết tổng cộng có tới 233 người. Nói là trại nhưng thực ra chỉ là một khu nhà bỏ hoang từ lâu. Ở đó được hơn hai tuần lễ, chúng tôi tưởng sẽ được họ chuyển vào Bidong hay Sungei Besi nhưng không, đám lính dùng xe buýt chở cả đám xuống cảng Johore và cấp cho chiếc ghe rồi dùng tàu hải quân kéo ra biển để mình tự đi tiếp.

    Ghe của đám người đến trước trông to lớn và vững chắc với mũi kiểu Thái Lan cao vút. Loại ghe lưới cào, đi biển xa và có động cơ loại Ray 6 rất khỏe. Cả ghe tới 233 người nên mới được đám ông Aleck cho chiếc ghe lớn như vậy. Một người họ cho chúng tôi biết thêm:

    - Sáng sớm nay khi tụi tui ghé vào thì có mấy sĩ quan an ninh ra gặp, hỏi sơ sơ nhưng cho biết phải ngày mai họ mới có tài công vì hôm nay là Chủ Nhật, ngày nghỉ việc cuối tuần. Thấy ghe mấy ông vào, thế nào họ cũng ra ngay bây giờ cho coi.

    Trời bắt đầu tối và khi ánh sáng từ các dàn đèn cao áp chạy dọc theo sàn cầu bê tông vừa bật cháy thì nhiều người lấy tay chỉ về phía nơi có hai đốm sáng của một chiếc xe hơi đang tiến chầm chậm ra chỗ chúng tôi. Chiếc xe hơi chạy đến và ngừng tại chỗ chúng tôi đang đứng, ba người đàn ông da đen mặc thường phục bước ra khỏi xe và một trong số họ nói bằng Anh ngữ:

    - Tôi là Ubino, sĩ quan trực chiến hôm nay, xin quý vị cho tập trung những người của chiếc ghe vừa mới đến lại đây ngay. Tôi muốn biết ghe đó có bao nhiêu người và ai là leader?.

    Nghe vậy, ông Thăng vội tiến ra khỏi hàng và trả lời:

    Tôi đây. Trong ghe có tổng cộng là 135 người lớn cùng trẻ nhỏ, thưa ông.

    Rồi ông nhanh chóng gọi cả đoàn chúng tôi gom lại đứng thành từng hàng người. Tuy vậy, cũng vẫn còn thiếu một số nên ông Phát cùng Tám Kiệt phải cho người đi kiếm về trình diện cho đủ số vừa báo cáo. Ông Ubino cùng hai người Indonesia đưa tay đếm sơ qua đầu người chúng tôi đứng thành từng hàng trên mặt sàn cầu bê tông rồi sau đó quay nhìn khắp lượt, nói:

    - Rất tiếc trại chúng tôi trong bờ lại không có nhà lớn đủ cho tất cả mọi người ngủ qua đêm nên chúng tôi buộc lòng để quý vị nghỉ ngơi tạm thời ở đây, mặt sàn cầu bê tông này. Sáng ngày mai thì chúng tôi sẽ sắp xếp ghe tàu để đưa quý vị sang Galang và điều quan trọng là những ai có con nít đi cùng phải tự trông chừng lấy. Cầu tàu này tuy có lan can an toàn nhưng nếu có trẻ em lọt xuống nước thì chúng tôi sẽ không chịu trách nhiệm về các rủi ro đó và quý vị phải nhắc nhở nhau để giữ kỷ luật cùng vệ sinh chung.

    Coi như xong việc, ba người Indonesia đó đánh xe quay đầu tại một chỗ sàn cầu bê tông khá rộng có hình chữ I rồi sau đó họ chạy mất biến vào bến cảng xa tuốt nằm trong bờ.

    Chúng tôi từ từ tản ra, một số thì đi xem coi có ai quen ở trong chiếc ghe 233 người, số khác lại vội vã vào ngay căn nhà cuối sàn tàu để tắm rửa cùng giặt giạ qua loa. Tôi cũng vậy, đi dọc theo sàn cầu bê tông và nhìn mặt người trong chiếc ghe đến trước đang ngồi nằm đây đó mong thấy được người quen nhưng không gặp ai. Mặt sàn cầu tàu bê tông ở đây vì được nước mưa gột rửa cùng các cơn gió thổi mạnh thường xuyên nên trông rất sạch. Tôi thấy Đỉnh đang ngồi trò chuyện chung một nhóm mấy thanh niên mà nó mới làm quen của chiếc ghe 233 người. Sẵn trà, cà phê, bánh và thuốc lá từ các bao thực phẩm tiếp tế, mọi người của hai chiếc ghe quây quần thành từng đám nhỏ ngồi ăn uống chung với nhau. Cứ thấy nước nóng dùng để pha trà, cà phê vừa cạn thì họ lại xuống bếp dưới ghe nấu tiếp nồi mới lên thay. Khách đi trong ghe chúng tôi hầu hết là dân miền Tây Nam Bộ và Sài Gòn còn ghe 233 người đó lại là dân tứ xứ bên quê nhà qua các giọng họ nói ra khi trò chuyện. Người miền Nam, miền Trung vùng Bình Định, Phú Yên, dân xứ Quảng, Huế và cả giọng miền Bắc rặc nữa. Bẩy và Đào ngồi chung với một đám phụ nữ miền Nam có con nhỏ còn Yến thì nhập bọn với những người vùng Hố Nai-Biên Hoà.

    Người của hai ghe thân thiện nhau cách dễ dàng. Đây đó trên mặt cầu tàu bê tông là từng nhóm 4, 5 người ngồi quây quần kể lại chuyến đi của mỗi bên. Tôi ghé vào một nhóm và nghe một người nói:

    - Mấy ông sướng quá trời! Đi tắm suối y như cắm trại rồi còn gặp đảo sầu riêng ăn no chán chê lại được chủ khách sạn chiêu đãi bữa điểm tâm nữa! Vậy mà còn than thở cái chi. Chẳng bù tụi tui phải ở trong cái trại bỏ hoang ngó chung quanh toàn các chấn song sắt khác chi ở tù rồi khi xuống ghe thì đi một lèo tới đây luôn. Tụi tui cầu ghe được đi lạc như mấy ông đó. Gặp đảo sầu riêng, cứ ở lại ăn hai ba ngày cho đã miệng rồi mới xuống ghe đi tiếp.

    Một thanh niên bên ghe chúng tôi trả lời:

    -Ăn liên tiếp hai ba ngày sầu riêng không được đâu cha! Tiêu chảy thấy mẹ luôn... Tụi tui có người bị nè, tới giờ còn xanh mặt.

    Ai cũng vui vẻ trong câu truyện kể cho nhau nghe về những tuần lễ sống tạm dung tại Malaysia và lúc nhắc lại lời nói của ông Ubino, một cảm giác phấn khởi khi nghĩ chỉ trong ngày mai, chúng tôi sẽ đặt chân lên Galang và không còn nỗi lo bị kéo ghe ra biển lớn nữa. Đến được Galang rồi coi như chỉ trong một thời gian ngắn thì chúng tôi sẽ đi định cư ở Hoa Kỳ, Canada, Úc, Nhật hay các nước phương Tây như Pháp, Đức, Anh... thôi.

    - Trong thời gian chờ đợi đi định cư thì chỉ có một việc bọn mình phải lo phải làm là ráng học Anh ngữ cho giỏi, một người hào hứng kết luận.

    Hơn 8 giờ tối, gió đột nhiên thổi mạnh làm ai cũng cảm thấy lạnh nên uống cà phê, nước trà nóng nhiều hơn. Ánh lửa bếp dầu dưới ghe lúc nào cũng sáng xanh lơ vì luân phiên có người xuống nấu nước để pha trà, cà phê hoặc mì gói ăn thêm trước khi ngủ. Người của ghe đến trước kể cho chúng tôi biết là bọn hải quân Indonesia ở đây chẳng ngó ngàng gì đến chuyện ăn uống mà để người Việt mình phải tự lo lấy. Có lẽ, họ biết dưới ghe vượt biên nào cũng thủ đầy thực phẩm hoặc biết chúng tôi sẽ không ở cầu tàu nầy lâu. Ngồi chán rồi lại bỏ đi lòng vòng cho đỡ cuồng chân, tôi thấy một nhóm gồm Tám Kiệt, Thuận cùng các ông Thăng ông Phát và những người của chiếc ghe đến trước đang ngồi chung một đám ở ngay trên mặt sàn hầm của chiếc ghe chúng tôi. Thấy tôi, Thuận ngoắc tay nói:

    - Xuống đây ngồi uống trà, cà phê nóng cho vui anh Vũ. Có gặp người quen nào không vậy anh?.

    Tôi theo cầu thang sắt bước chuyền xuống ghe. Một bình cà phê và một nồi nước trà lớn còn khá đầy toả hơi thơm nghi ngút cùng 5, 6 cái bát nằm ngay chính giữa vòng người ngồi. Thuận múc một bát nước cho tôi. Trà này thật thơm, không phải loại trà đen trong bao thực phẩm của Malaysia. Thấy tôi ngạc nhiên, Thuận nói:

    - Trà Blao ướp hoa lài đó, đã chưa!.

    Tôi hớp thêm một ngụm nữa, trời lạnh uống trà nóng mà nhất là trà Blao ngon như vầy thì còn gì. Nhưng không biết ở đâu mà Thuận lại có loại trà này? Tôi đã biết khi gặp ánh mắt vui vui của một người trong ghe đến trước. Chắc ông này dân Blao hay Di Linh gì đây vì nhớ lại lời của đám ông Chức kể, xe của họ còn đón cả khách tuốt tận trên Đà Lạt nữa mà. Chợt một người hỏi:

    - Cái nước Indonesia sao lắm đảo quá hả mấy ông? Ông nào đọc sách nhiều, biết nước nầy có bao nhiêu hòn đảo không vậy?

    Ông Thăng ngồi gần tôi, đáp:

    - Tôi thì không biết rõ con số bao nhiêu nhưng nghe nói Indonesia là nước có nhiều hòn đảo nhất trên thế giới đó.

    - Sáng nay, lúc có mấy tay Indo ở đây thì tôi đã nghe có người hỏi câu này mà mấy cha nội trả lời lúc hơn 3000 lúc lại nói 5000 hòn đảo. Thiệt tình! Người nước họ mà còn không biết rõ có bao nhiêu hòn đảo nữa. Vậy quá dở đi chứ. Một ông bên ghe đến trước góp lời.

    Nhưng Tám Kiệt lắc đầu bất đồng, nhỏ nhẹ:

    - Cũng không chê trách họ được. Vì nói ngay như bọn mình đây nè, bây giờ có ai hỏi nước Việt mình có bao nhiêu đảo lớn nhỏ thì ai trả lời ngay xem thử? Có bao nhiêu? Trả lời coi!.

    Không ai lên tiếng đáp lại câu hỏi của Tám Kiệt. Đúng vậy! Ai mà nhớ mà biết chính xác con số bao nhiêu hòn đảo nhưng quả thật, chúng tôi cảm thấy nước Indonesia có quá nhiều đảo lớn nhỏ. Bằng chứng đoạn đường ghe chạy qua, chúng tôi đã gặp rất nhiều chuỗi đảo vắng lặng. Indonesia còn có tên trong Việt ngữ là Nam Dương quần đảo cơ mà. Trên bản đồ địa lý thế giới thì đất đai thuộc lãnh thổ quốc gia này rộng lớn tới 4 múi giờ và nhiều vùng, khu vực cùng hòn đảo chưa hề có dấu chân người. Trời bắt đầu vào khuya, lần lượt từng người cáo lui, đứng dậy kiếm chỗ nghỉ ngơi. Ông Thăng thấy vậy, nói:

    - Mình cũng tan hàng thôi mấy ông. Đi ngủ lấy sức mai còn phải ngồi tiếp dưới ghe nữa đó, đâu biết Galang cách nơi này bao xa.

    Nhìn số người đang nằm la liệt ngủ dọc theo suốt chiều dài cầu tàu bê tông, giang sơn tạm thời của đoàn người Việt tha hương trên xứ lạ, tôi nghĩ ngày mai nếu đám ông Ubino chở cả bọn người Việt sang đảo Galang bằng tàu hay bằng ghe gì của họ thì cũng phải rất to mới chứa hết được ngần này người. Tha hương là bạc phận. Câu nói mà những người bên quê nhà từng nói khi trỏ về số phần vất vả của một ai đó khi phải rời bản quán, xứ sở để tìm kế mưu sinh. Vậy mà chúng tôi phải rất chật vật mới đến đây được, cầu tàu bê tông này để làm một người tha hương. Đỉnh và các cô Đào, Bẩy, Yến chắc đã nằm ngủ lẫn trong đám người ở đâu đó. Đến một chỗ trống cách xa cột đèn cao áp, tôi nằm xuống mong ở chỗ có ít ánh sáng, sẽ dịu mắt và dễ ngủ. Ngửa mặt nhìn các vì sao xanh sao vàng lấp lánh trong bầu trời đen thẩm không một gợn mây cùng ánh trăng sáng, tôi dễ dàng nhìn ra chùm Bắc Đẩu bẩy ngôi thân quen. Indonesia nằm trong vùng xích đạo nên vẫn thấy được chùm sao nầy nhưng những nước nằm hoàn toàn trong nam bán cầu như Úc và Tây Tân Lan thì chắc không thể. Sao Bắc Đẩu ở đây còn đâu là sao Nam Tào? Tôi thực không biết. Giờ giấc chênh lệch nhanh hơn một tiếng đồng hồ, như vậy, ở nhà tôi cũng đang 11 giờ hơn. Không biết mẹ và em tôi đã ngủ hay còn thức? Lúc còn ở trại lính giữa rừng, nếu viên sĩ quan hải quân Malaysia gửi hộ các thư cho chúng tôi thì thân nhân mọi người trên ghe đã biết chuyến đi an toàn, nhưng cũng không chắc vì nếu người nầy nhận thư lại không gửi thì sao? Và nếu thực như vậy thì chắc mẹ và em gái tôi phải lo lắng lắm vì thời gian đã qua cả tháng trời rồi. Ghé vào khách sạn Perang, thêm một cơ hội để chúng tôi báo tin cho thân nhân khi được phân phát các phong bì in sẵn tem, nhưng đã bị vuột mất vì sự phá đám của hai gã an ninh địa phương. Trong túi tôi vẫn còn giữ lá thư viết dở dang đó. Chỉ cần hai gã hắc ám đó đến trễ chừng nửa giờ thì chắc chắn mẹ và các em gái tôi sẽ nhận được tin về chuyến đi. Tôi còn nhớ buổi sớm mai trước lúc đi vội cùng đứa em gái nơi nhà người cậu ruột ở Hố Nai, mẹ tôi trông đã yếu lắm khi bà dặn dò tôi làm điều nầy điều kia. Những khi xa nhà, cô quạnh như bây giờ, tôi mới có lúc nhớ đến bà. Tôi, đứa con trai quá tệ vì khi còn ở nhà chỉ dành thời gian cho bà thật ít. Có đi xa thì mới biết lòng mình, tôi chẩy nước mắt lúc nào mà không hay.

    Đêm rồi cũng từ từ trôi qua và dù chung quanh khu vực cầu tàu bê tông vẫn còn mờ mờ chưa rõ sáng mà tiếng ồn ào từ các ghe, thuyền chạy tấp nập băng ngang đã đánh thức đám chúng tôi dậy. Tuy không nói nhưng ai cũng đoán các ghe, thuyền đó là của cư dân Indonesia từ các đảo trong vùng đổ về Tanjung Pinang để mua bán và trao đổi hàng hoá. Ghe, thuyền chạy tấp nập như vậy thì thương mãi trên đảo Tanjung Pinang chắc phải phồn thịnh lắm. Chỉ tiếc là ghe chúng tôi tuy đậu vào một cầu tàu bê tông của đảo nhưng lại không có dịp để lên bờ vào xem phố xá cho biết.

    Trời đã sáng rõ, sinh hoạt trên cầu tàu bê tông khác hẳn. Tiếng người gọi nhau í ới nơi này nơi kia hoặc người đi lên đi xuống bếp của hai chiếc ghe để nấu nước nóng pha trà, cà phê hay làm mì gói ăn sáng. Một dòng người xếp hàng chờ trước căn nhà vệ sinh ở cuối cầu tàu. May mắn là nhà vệ sinh này tuy nhỏ nhưng có đầy đủ nước cho nhu cầu và người của hai ghe đã biết phải sắp hàng chờ theo lượt nên đã không xẩy ra vụ cãi cọ gì. Chưa biết vào lúc nào trong ngày hôm nay thì chúng tôi sẽ đến đảo tị nạn Galang nhưng chắc chắn một điều là chúng tôi sẽ được sống một trong những dãy nhà dài sơn trắng nằm sát nhau trên cao hay dưới thấp theo thế đất hoặc ở ven đồi như trong các tấm hình chụp tôi xem được. Những tấm hình của người từ Galang gửi về cho thân nhân trong khu phố khi còn ở bên quê nhà. Tôi sẽ gặp bãi biển có làn nước xanh lơ trong vắt cùng bờ cát trắng xoá như ở Long Hải-Vũng Tàu. Tôi sẽ đi trên những con lộ hẹp với các tiệm bán hàng nho nhỏ của người tị nạn ở hai bên đường trong trại. Tôi mỉm cười khi nghĩ rốt cuộc thì mình cũng đã đến được nơi từng ao ước.
    (còn tiếp)

  4. #23
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Chúng tôi chờ cho đến 9 giờ mà vẫn chưa thấy bóng dáng của đám ông Ubino tối hôm qua đâu cả. Ai cũng lộ vẻ sốt ruột, vài người đi tới đi lui mắt ngóng về hướng các căn nhà sơn trắng tuốt trong bờ nơi đầu cầu tàu bê tông để mong thấy bóng một ai đó. Rồi cho đến khi thấy có xe hiện ra xa xa thì mọi người báo cho nhau biết và thu gọn đứng nép vào bên cạnh lan can cầu. Chiếc xe đó chạy đến từ từ rồi ngừng lại ngay đoạn giữa nơi có hai chiếc ghe chúng tôi. Một toán 7 người trong đồng phục hải quân áo xanh lơ quần đen bước ra khỏi chiếc xe và lệnh cho chúng tôi đến gần, dồn lại với nhau trước mặt họ. Cái ông Ubino chúng tôi chờ thì lại không thấy trong số 7 người họ. Bằng Anh ngữ, một người Indo ra lệnh cho chúng tôi hễ ai thuộc chiếc ghe nào thì phải xuống trở lại ghe đó trong sự yên lặng và trật tự. Riêng với các tài công và leader thì phải đứng yên tại chỗ để chờ lệnh khác.

    Tuần tự, đám chúng tôi gọi nhau rồi chen chân theo cầu thang nhỏ để xuống dưới ghe. Vậy là họ không có ghe tàu nào hết, 7 người Indo này sẽ cùng đi chung với chúng tôi sang đảo Galang. Kiểm tra nhà vệ sinh ở cuối cầu tàu xong xuôi, 7 người Indo đó chia thành hai toán theo các tài công và leader xuống thẳng theo ghe. Tám Kiệt, Thuận và hai ông Thăng, Phát cùng 3 người Indo đứng chụm đầu bàn bạc với nhau cái trong buồng lái ghe nhỏ hẹp.

    Tiếng nổ bụp bụp của máy 2 chiếc ghe vang lên ròn rã, Tám Kiệt và Thuận bắt đầu cho ghe trở lui chầm chậm. Một gã Indo còn lại ở trên sàn cầu bê tông nhanh chóng tháo các dây cột từ các chốt cố định ra. Hai chiếc ghe lần lượt nối đuôi nhau tách ra khỏi cầu thang sắt để bắt đầu chuyến hành trình mới mà cũng là chuyến đi cuối của đám chúng tôi trên đường vượt biên. Từ từ, hai ghe chạy ra khỏi khu vực cầu tàu hải quân vắng lặng. Ngư dân địa phương trên các tàu xuồng gần đó giương mắt nhìn đám chúng tôi lạ lẫm với bộ áo phao đồng màu đang đứng ngồi lố nhố trong ghe. Gió buổi sớm mai mát lạnh làm chúng tôi phấn chấn tinh thần, háo hức chờ đón hình ảnh của nơi sắp đến. Bầu trời trong xanh với các cụm mây trắng và xa xa ở phía gần bờ đảo, những cánh hải âu xam xám chao lượn lên xuống kiếm ăn sát với những bóng thuyền ghe trên mặt biển.

    Tám Kiệt, Thuận và 3 người Indo đi theo thay phiên nhau vừa lái ghe vừa chỉ hướng của hải trình. Hai ghe của chúng tôi chạy cách xa chiếc trước chiếc sau ở một quãng ngắn. Từng hòn đảo lớn nhỏ lần lượt xuất hiện rồi từ từ chạy lùi và biến mất trong các bọt sóng trắng ở sau lưng ghe. Chạy được khoảng 4 giờ đồng hồ thì ghe đi vào một vùng nước êm ả có các hòn đảo nho nhỏ nối liền nhau. Một gã Indo cho chúng tôi biết sắp sửa đến đảo Galang và tin đó đã gây một phấn khích làm ai cũng tỉnh táo hết còn cảm giác say sóng. Rồi không lâu sau thì ai cũng hồi hộp khi thấy ghe giảm dần tốc độ. " Mình sắp đến nơi rồi ", tiếng xì xào giống nhau.

    Nhiều người nháo nhác nhìn về phía trước ghe và rồi khi vừa qua một khúc ngoặt của bờ đá cao từ một đảo nhỏ thì ai cũng thấy thấp thoáng một cầu tàu bê tông xa xa. Cầu tàu bê tông đó nhỏ và ngắn, nằm sát bờ của một hòn đảo trước mặt 2 ghe chúng tôi. Đúng nó Galang rồi! Nằm kín ở đây, bố ai mà biết đường để chạy ghe đến được. Cầu tàu hẹp và ngắn ngủn nên hai ghe chúng tôi phải cập sát đuôi nhau mới có chỗ để trèo lên bờ. Những tiếng reo vì mừng của đám chúng tôi khi thấy có khá đông đồng hương người Việt đang chờ sẵn trên bờ đảo. Sau một hồi còi báo lảnh lót, máy hai chiếc ghe tắt lịm, chúng tôi cầm hành lý trên tay để chờ lệnh.

    Nhìn vào bờ, một tấm bảng sơn trắng kẻ hàng chữ đen Welcome to Galang Refugee Camp được đóng cứng ở hai cây cọc nằm ngay phía trước căn nhà vách ván gỗ ép mái lợp tôn khá rộng tiếp nối với sàn gỗ. Lệnh rời ghe vừa được một gã Indo loan báo, ai nấy vội vàng thu tóm hành lý cá nhân rồi lần lượt từng người trèo xuống cầu tàu bê tông. Đồng hương người Việt đứng lố nhố thành từng đám trong căn nhà và ở cả ngoài sân đã ùa ra đón chúng tôi. Tiếng hỏi thăm về chuyến đi, nơi xuất bến... trong nụ cười tươi của những đồng hương Việt đã tăng thêm những háo hức về trại Galang, chỗ ở mới của đám người 2 chiếc ghe chúng tôi. Tuy vậy, chúng tôi vẫn phải đứng tập trung ở cầu tàu bê tông để chờ lệnh.

    Vài police Indo trong đồng phục áo tím quần đen với dây da bao súng lục cùng gậy dùi cui đeo bên hông đi tới lui hoặc đứng im ở một chỗ quan sát. Đám người Indo đi theo trên ghe ra lệnh cho tất cả mọi người chúng tôi phải cởi áo phao xếp gọn ở một chỗ trên sàn cầu bê tông trước khi vào trại.

    - Quý vị không cần đến áo phao nữa, chúng tôi có trách nhiệm thu hồi chúng cùng với 2 chiếc ghe nầy. Ngoài hành lý cá nhân thì không ai được lấy bất cứ thứ gì khác của ghe, một gã trong số họ miệng nói, tay thì gom gọn các áo phao vừa được cởi ra rồi vất chúng trở về sàn của 2 chiếc ghe.

    Có người trong đám chúng tôi cố tình vác bao thực phẩm tiếp tế theo mình thì đã bị các gã Indo đó buộc phải vất trở lại ghe như các áo phao.

    Một banner vải trắng kẻ đậm hàng chữ xanh dương: " Chào Mừng Đồng Bào Đã Vượt Thoát Và Đến Bờ Tự Do " được căng ngay trên khoảng trống của khuôn cửa căn nhà ván gỗ ép mái lợp tôn. Những đồng hương Việt trên bờ chỉ chỗ cho đám chúng tôi đi vào bên trong căn nhà đó, nói để họ làm hồ sơ nhập trại. Họ là nhân viên thiện nguyện của ban Đại Diện người Việt và đều đã đến trại Galang từ các chuyến ghe trước chúng tôi khá lâu rồi. Chờ mọi người vào hết trong căn nhà mà giờ đây đã trở nên quá chật so với số người của 2 chiếc ghe, một ông tuổi ngoài trung niên, mặc áo xanh lơ có các sọc trắng nhỏ cùng khuôn mặt rạng rỡ trong tay cầm cái loa chạy pin, cất tiếng:

    - A lô! Yêu cầu đồng bào im lặng, giữ trật tự để nghe đại diện chính quyền Nam Dương và Cao Ủy Liên Hiệp Quốc tại trại tị nạn nói chuyện.

    Ông này phải lập đi lập lại vài lần cùng những nhắc nhở của các thiện nguyện viên trong trại thì tiếng ồn ào trong đám người chúng tôi mới từ từ chấm dứt. Một người da ngâm đen mặc đồng phục mầu nâu tím, đội mũ kết trên đầu đứng ở cái bục gỗ, đảo mắt nhìn đám người chúng tôi đang đứng ngồi lố nhố cả trong nhà lẫn ngoài sân rồi sau đó, ông ta nói một hơi dài bằng tiếng địa phương. Khi ông ta dứt lời, dù không hiểu nghĩa nhưng mọi người Việt có mặt đều vỗ tay rồn rã. Kế đó, một người Âu châu da trắng-tóc nâu với thân hình vạm vỡ bước đến và đón cái loa chạy pin từ tay một nhân viên thiện nguyện. Người đàn ông Âu châu này nói bằng Anh ngữ:

    - Tôi là Peter, đại diện Cao Ủy Liên Hiệp Quốc tại trại tị nạn Galang đây. Chúc mừng quý vị người Việt đến nơi bình an... Ông Peter nói liền một hơi dài, có lúc ông gằn mạnh từng tiếng hoặc lập lại một câu ông vừa nói và khi kết thúc, ông ta mỉm cười, giơ tay vẫy đám người chúng tôi rồi bước ra khỏi cái bục gỗ.

    Hết ông Peter thì đến phần ông người Việt mặc áo xanh lơ có các sọc trắng nhỏ ban nẫy liền tiến lại cái bục gỗ rồi cũng cầm lấy cái loa chạy pin, giới thiệu:

    - Tôi, Bùi Thế Dung, là chủ tịch ban Đại Diện người Việt ở đây xin chào mừng đồng bào đã đến được trại tị nạn Galang thành công.

    Ông ta vừa dứt lời, tiếng vỗ tay xen lẫn các tiếng hét cùng huýt sáo vang lên ồn ĩ và có người chẩy nước mắt vì quá mừng. Một ông đứng gần bên tôi, nói nhỏ:

    - Có mặt Cao Ủy Liên Hiệp Quốc là mừng rồi, mình không còn lo chuyện phải ngồi ở dưới ghe đi tiếp nữa.

    Ông Dung cho đám người chúng tôi biết là ông da đen nói trước có tên Agus Sulistiyono, cấp bậc Thiếu tá, trưởng đảo Galang rồi sau đó, ông tiếp:

    - Galang hiện nay rất khó khăn vì phải tiếp nhận thêm nhiều thuyền nhân đến trong một thời gian ngắn nên trại rất thiếu thốn về nhiều mặt và do vậy, mong mọi người thông cảm cùng chấp nhận hoàn cảnh.

    Nhìn đám người mới đến chúng tôi trong chốc lát, ông thêm:

    - Cao Ủy Liên Hiệp Quốc sẽ sắp xếp theo thứ tự ghe đến trại kể từ tháng Ba năm ngoái để thanh lọc từng người một. Hễ ai được công nhận là người tị nạn thì người đó sẽ đi định cư ở một quốc gia đệ tam, còn người bị coi là di dân kinh tế thì phải hồi hương về lại Việt Nam.

    Như vậy, theo lời ông Dung thì 2 ghe chúng tôi đến trại hôm nay đã sau ngày Cao Ủy ấn định nên cũng sẽ phải bị thanh lọc. Các chữ hồi hương làm chúng tôi hoảng hồn và thanh lọc cũng khiến chúng tôi thắc mắc, chưa hiểu rõ nghĩa. Một ông bên chiếc ghe đến trước liền hỏi và ông Dung giải thích:

    - Tất cả chúng ta không còn tự động là người tị nạn khi đặt chân đến được trại Galang như trước đây nữa và đều phải bị thanh lọc, dù không ai muốn. Người Việt ở các trại tị nạn khác bên Mã Lai Á, Thái Lan, Phi Luật Tân hay Hồng Kông... cũng đều bị thanh lọc như vậy. Thanh lọc là gì? Là một cuộc điều tra giữa Cao Ủy và nước chủ nhà đối với thuyền nhân, để xem coi cá nhân người đó tại sao lại phải vượt biên và chuyến vượt biên đó có thực sự cần thiết hay không? Tôi chỉ biết khái quát là vậy, còn các chi tiết khác thì cũng phải chờ xem. Bản thân tôi, dù là một cựu Đại tá trong quân lực VNCH và nguyên Thứ trưởng quốc phòng của nội các Tổng thống Dương Văn Minh nhưng tôi cũng sẽ phải bị Cao Ủy thanh lọc như tất cả mọi người Việt ở trong trại chứ cũng chẳng được dành cho một ưu tiên gì, ông Peter đã nói rõ như vậy. Tôi nói điều đó ra đây để mong đồng bào hiểu ra vấn đề tị nạn của thuyền nhân chúng ta đối với cách giải quyết của cộng đồng quốc tế hiện thời, để mà bình tĩnh và chọn lựa cho mình cách khai báo sao cho tốt nhất hay nhất khi ngồi vào bàn thanh lọc, đối diện với nhân viên Cao Ủy cùng nước chủ nhà.

    Nhiều người trong chúng tôi nhìn nhau với ánh mắt ngạc nhiên lẫn lo lắng vì như vậy, chuyện vượt biên đến được trại tị nạn bây giờ đã khác với khi trước. Từ nay, thôi không còn cảnh được nấn ná vài tháng hay cùng lắm là một hai năm ở trại rồi sau đó sẽ thơ thới đáp máy bay đến định cư ở nước thứ ba như suy nghĩ khi còn ngồi dưới ghe cũng như lúc sống trong trại nơi rừng Mã Lai. Chúng tôi đã bị lâm vào hoàn cảnh " Trâu chậm, uống nước đục " thật rồi. Mọi người chúng tôi đang xì xào, bàn tán râm ran về các lời của ông Dung vừa nói thì có tiếng loa tay gọi ai đi trong ghe 233 người ra xếp hàng làm thủ tục nhập trại trước.

    Một nhân viên thiện nguyện đứng giữa căn phòng, nói thật lớn:

    - Ai thuộc quân-công-cán-cảnh của chính quyền miền Nam VNCH thì đứng ở hàng bên phải, còn không... thì sang đứng ở hàng bên trái.

    Sau đó, một nhân viên khác nói tiếp:

    - Đồng bào nào mang được các giấy tờ cá nhân thì càng tốt, nếu không có thì nhớ được cái gì khai cái nấy nhưng phải khai đúng sự thật nghe.

    Ghe 135 người chúng tôi chưa đến lượt nên tản ra, đứng chờ dưới các bóng cây mát hoặc đi lòng vòng phía bên ngoài căn nhà. Có người thì lò dò lại gần chỗ đang khai báo lý lịch cá nhân để xem, để lấy kinh nghiệm cho phiên mình. Khu vực của cầu tàu Galang này khá rộng, có những căn nhà gạch nhỏ, mái lợp tôn nhưng cửa đóng im ỉm không biết của dân địa phương hay của chính quyền coi trại. Vài người đứng gần một hàng cây um tùm, ngoắc tay chỉ về một chỗ khuất khiến tôi để ý liền bước lại xem. Ở một con rạch cạn phía bên tay phải cầu tàu, 4 xác ghe cũ đã hỏng nằm phơi mình im lìm trong làn nước dưới các bóng cây.

    - Ghe của dân vượt biên người Việt mình. Thấy chưa! Họ vào được tới đây nè, một người trong bọn nói.

    Thấy đám chúng tôi tản ra khá xa khu vực, một gã cảnh sát Indo từ xa tiến lại và lấy tay ra dấu cho chúng tôi phải đi về. Cả đám lục tục trở lại chỗ cũ, đứng ngồi chùm nhum thành từng đám nhỏ chung quanh căn nhà. Không thấy mặt ông Thiếu tá trưởng đảo cùng ông Peter-Cao Ủy trưởng, tôi nghĩ cả hai người họ chắc đã bỏ về trước. Ở một chỗ không xa, ông Dung đang đứng trò chuyện cùng với các gã police Indo.

    Chợt một nhân viên thiện nguyện nói to từ bàn làm thủ tục tiếp nhận làm tôi chú ý.

    - Anh vừa nói anh là cựu quân nhân VNCH và thuộc binh chủng Phòng Không-Không Quân. Anh cũng nói sinh năm 1950 và số quân của anh là... Phải không? Anh nhắc lại cho tôi nghe lần nữa xem.

    Dãy bên phải nơi kê các bàn gỗ dài có từng cặp hai người ngồi đối diện nhau, một bên là nhân viên thiện nguyện và bên kia là người mới đến. Cứ hỏi, nghe rồi ghi tóm tắt lời khai của người nhập trại vào các tập giấy. Ở bàn vừa có tiếng hỏi của nhân viên thiện nguyện trại, một người đàn ông nói giọng Bắc lí nhí đang nhắc lại lời của mình vừa khai. Nghe dứt câu trả lời từ miệng người đàn ông thì nhân viên thiện nguyện đó đứng lên gọi lớn:

    - Ê! Mấy ông lại xem thử bản lý lịch của cha nầy khai nè.

    Hai, ba nhân viên thiện nguyện khác liền tiến đến chiếc bàn đó và sau khi nghe kể lại tự sự, một người trong đám họ nói với ông khai báo:

    - Nè! Quân lực VNCH không có binh chủng phòng không-không quân đâu nghe cha nội. Tụi Việt Cộng còn chưa có xe tăng thì nói gì đến máy bay và không bao giờ máy bay của bọn Cộng Sản Bắc Việt dám xuất hiện tại miền Nam mà anh dám khai là lính của cái binh chủng này.

    Ngừng vài giây để đọc kỹ tờ khai, thiện nguyện viên nầy lẩm bẩm:

    - Sinh năm 1950 mà anh khai số quân... là xạo chuyện nha.

    Rồi ông ta đưa tờ giấy đó cho các nhân viên khác đứng gần bên xem. Sau khi lướt mắt qua tờ giấy đó, một nhân viên thiện nguyện chỉ tay vào ông khai báo, nói lớn:

    - Đ.M thằng này giả dạng quân nhân VNCH nè mấy ông. Mày là Việt Cộng phải không? Đi vượt biên sang đây làm gì hở mày?

    Ngồi yên cúi đầu, bờ vai người đàn ông khẽ run rẩy cùng tay chân luống cuống. Một nhân viên thiện nguyện khác hỏi lại ông về lý lịch nhưng người đàn ông vẫn khăng khăng bản thân mình là cựu quân nhân trong binh chủng phòng không-không quân của chính quyền miền Nam VNCH. Nghe tiếng đôi co, vài thiện nguyện viên khác kéo đến và một người trong số hỏi thêm:

    - OK! Anh cho tụi tui biết loại vũ khí phòng không trong đơn vị anh coi? Súng gì? Nòng cỡ bao nhiêu ly?.

    Người đàn ông đó im lặng, vẻ mặt xuống sắc khi đảo mắt nhìn những thiện nguyện viên đang vây chung quanh. Thấy vẻ lúng túng của ông ta, một thiện nguyện viên cười gằn, nói:

    - Mày! Việt Cộng rõ ràng nha. Tụi tao khốn khổ vì bọn mày nên phải bỏ nước vượt biên mà mày chưa vừa lòng hay sao lại chạy theo sang đây. Định trà trộn vượt biên để phá hoại nữa hử? Đ.M chắc tao phải đập mày một trận cho bỏ tật dối trá rồi tính sau.

    Dứt câu, thiện nguyện viên đó nhào đến người đàn ông rồi dơ cao nắm tay nhưng... các người khác gần đó đã cản liền. Một người nói có mặt đám police Indo ở đây thấy xô xát thì mất công chúng phải can thiệp, sẽ thêm rối. Đám chúng tôi thấy sự vụ xẩy ra liền chen vào để hóng chuyện. Ông Dung đang tản bộ ở ngoài sân thì được nhân viên trật tự báo, nên vội đi đến nơi xem. Thấy ông Dung, một nhân viên thiện nguyện trình bày:

    - Thưa Đại tá! Có tên bộ đội dám giả dạng lính VNCH mình vừa bị tụi em phát giác. Thằng Việt Cộng đó đây nè.

    Ông Dung đến bên chiếc bàn gỗ, các nhân viên thiện nguyện tản ra đứng sớ rớ chung quanh chờ xem. Một nhân viên thiện nguyện đưa tờ khai cho ông Dung xem. Ông ta cầm lấy, đọc qua và đưa mắt nhìn người khai lý lịch đang ngồi im lìm, bất động. Từ tốn, ông Dung nói cho người khai lý lịch đó và cả những người chúng tôi đang chờ làm thủ tục nhập trại nghe:

    - Đã bỏ nước trốn nạn Cộng Sản đến đây thì tất cả chúng ta đều là anh em con một mẹ Việt Nam. Nếu anh đã từng là bộ đội hay công an Việt Cộng thì cứ khai ra, có gì phải sợ mà gian trá. Thiếu gì đảng viên Cộng Sản, du sinh, lao động hợp tác rồi cả công an Việt Cộng nữa... vượt biên, vượt biển xin tị nạn và ngay trong trại nầy hiện giờ cũng đang có một số họ. Biết anh có thái độ dối trá thì người ta càng thêm ghét thêm khinh.

    Tôi chen vào đám đông để xem mặt người mạo nhận. Thì ra ông ta là người có ánh mắt vui vui khi đã nhìn tôi trong tối hôm qua ở nhóm ngồi uống trà Blao ướp hoa lài đây mà. Một người trong ghe 233 đứng gần đó, tiết lộ thêm:

    - Ông này lúc còn trên xe buýt nói sống ở trong nông trường Lâm Hà thì tôi đã nghi nghi là dân Bắc Kỳ 2 nút... Vậy mà đúng chứ. Cứ nghe giọng nói của ông ta kìa.

    Nông trường Lâm Hà. Nó nằm ở đâu? Có người hỏi thì ông đó cho biết Lâm Hà là khu định cư mới do chính quyền Cộng Sản lập dành cho cư dân Hà Nội từ ngoài miền Bắc kéo vào Nam sau ngày 30-4-1975 ở trên vùng cao nguyên Lâm Đồng gần Di Linh. Lâm Hà là cái tên ghép chung giữa Lâm Đồng và Hà Nội.

    Không biết tại sao khi chỉ nghe khai năm sinh và số quân của ông miền Bắc người nông trường Lâm Hà mà nhân viên thiện nguyện lại biết ông ta đã khai man lý lịch? Phải có một cái gì đó như một quy tắc liên đới giữa năm sinh và số quân của người lính miền Nam VNCH để người biết sự việc thì sẽ dễ dàng nhận ra sai phạm, điều mà ông người nông trường Lâm Hà tưởng cứ nói bừa ra các con số là sẽ xong việc.

    Phải mất một thời gian khá lâu thì mới xong thủ tục nhập trại cho chiếc ghe 233 người rồi mới đến lượt ghe chúng tôi. Tuy bản khai lý lịch cá nhân mỗi người không dài và dù có khá đông thiện nguyện viên giúp sức nhưng cũng phải mất gần 2 tiếng đồng hồ nữa mới xong hết cả ghe. Tôi quay ra nhập bọn với những người đứng ở ngoài sân khi trời đã về chiều. Nắng tắt khá lâu rồi, mặt nước trước cửa ngõ vào cầu tàu Galang bây giờ đã đổi sang mầu tim tím. Chợt một tiếng ùm thật lớn từ dưới mặt nước vọt lên tạo thành một vòng sóng rộng có hình tròn đồng tâm nối tiếp nhau chạy lăn tăn vào bờ làm cả đám chúng tôi giật mình.

    - Cá đớp bóng đó. Con này lớn lắm nha! Mỗi khi có dịp ra ngoài đây thì thỉnh thoảng tôi lại gặp như vậy. Chỗ này có cá lớn thì ở bên dưới phải sâu lắm và thể nào cũng có các hang động ngầm gì đây, một thiện nguyện viên nói.

    Chúng tôi nhìn mặt nước vẫn trong cơn sao động, mong sẽ thấy hình dáng của con cá lớn đó khi làm thêm cái đớp bóng nữa. Nhưng không, con cá đã lặn mất.

    Các nhân viên thiện nguyện tay ôm chồng giấy tờ lý lịch đoàn người của hai ghe đứng tập trung với chúng tôi để chờ xe cùng vào trại chung. Tay cầm cái loa chạy pin, ông Dung nói ít lời cuối cùng cho cả đoàn người mới đến.

    - Như tôi đã nói ban nãy, chỗ ở trong trại hiện giờ rất chật chội vì quá đông người tị nạn. Cao Ủy đã phải cất thêm các dẫy nhà lợp lá cho đồng bào mới đến. Người quá đông ngoài dự liệu của họ, do đó sẽ có những khó khăn trong sinh hoạt và cả trong việc chờ đợi để đến phiên thanh lọc, mong đồng bào thông cảm. Bây giờ mời đồng bào chuẩn bị lên xe để vào trại.

    Hai chiếc xe tải của phòng an ninh Indonesia từ từ chạy đến đón đám người chúng tôi. Lần lượt người của chiếc ghe 233 leo lên nhưng vẫn không đủ chỗ nên một số phải ở lại chờ đi chuyến sau. Ưu tiên cho phụ nữ và trẻ nít lên xe trước, một nhân viên thiện nguyện thông báo. Hai xe đó chạy vào trại rồi chạy ra chở tiếp rồi chở tiếp nữa nhưng đám chúng tôi phải chờ đến tua thứ tư thì mới đến lượt. Tôi và Đỉnh cùng đi chung trong một chiếc, thấy xe đầy người, gã tài xế sang số chạy tiếp ngay. Sợ ngã, đám chúng tôi kẻ đứng người ngồi mà tay thì bám chắc vào thành xe hoặc bấu vào vai của nhau. Xe chạy vòng vèo trên các con đường trải nhựa nhỏ hẹp rồi qua một khu toàn những căn chòi tranh nhỏ hoặc trông khá giống nhà sàn nằm không xa bên vệ đường.

    - Chắc đây là khu nhà của dân Indonesia?, người đứng trên xe hỏi nhưng một nhân viên thiện nguyện lắc đầu, trả lời:

    - Không phải đâu, đây là trại tị nạn của người Campuchia đó.

    Tôi đưa mắt nhìn các căn nhà lần lượt hiện ra ở hai bên đường. Vài đàn ông, trẻ em cùng phụ nữ quấn xà rông đi lại trên các con đường nhỏ gần các căn nhà thấp dù không phải là nhà sàn như hình ảnh tôi đã từng thấy khi trên đường từ cảng Kompong Som về Nông Pênh trong chuyến vượt biên của lần trước nhưng đúng họ là dân Khmer thật. Dân Khmer mà phải vượt biên tới tận đảo Galang! Sao họ không đi bằng đường bộ hay chạy ghe thẳng sang Thái Lan cho gần hơn thay vì làm một chuyến hải trình xa tít đầy nguy hiểm? Chúng tôi nhìn nhau, phân vân không hiểu.

    Hết khu vực trại của dân tị nạn Khmer thì xe tải chở chúng tôi chạy ngang qua một cổng gỗ chùa Phật giáo có sơn hàng chữ Quan Âm Tự nằm sát bên trái vệ đường. Dù xe chạy khá nhanh nhưng cũng kịp để tôi thấy sau cổng là một chiếc cầu gỗ nhỏ cong cong được nối vào con đường dốc lên hình bậc thang dẫn lên cao của ngọn đồi. Xe chạy qua được một quãng đường khá xa, tôi quay đầu nhìn lại thì thấy các mái cong nâu đỏ của chùa nhỏ nầy nằm đơn độc tuốt trên đỉnh đồi khá cao đó. Xe băng qua một nhà thương với dấu hiệu Hồng Thập Tự đỏ ngay trước cổng rồi chạy tiếp trên con đường nhỏ hẹp trong trại và rồi nhà, những căn nhà nhỏ xíu như chòi đã bắt đầu xuất hiện chung với tiếng người reo vui xa xa làm chúng tôi nhao hẳn người lên nhìn. Rất đông người đứng ở hai bên vệ đường nhìn đám chúng tôi với cánh tay vẫy chào thân thiện. Sau cùng thì chiếc xe từ từ dừng lại bên một dẫy các nhà lợp lá dừa nước liền sát cạnh nhau. Đến nơi rồi! Có lệnh cho chúng tôi xuống xe. Nhà lá ở đây, căn nào căn nấy dài thòong và đầy nhóc người đứng gần tò mò nhìn đoàn người chúng tôi mới đến. Một căn nhà gần chúng tôi thì đang làm dở dang toang hoác hai bên vách và mới chỉ có mái lá. Đám đàn bà-con gái đi trong chuyến xe đến trước cho biết căn nhà đó là chỗ ở của đoàn ghe chúng tôi. Đến gần xem, căn nhà có hình tam giác, sườn là các thân cây rừng được cột dây chặt vào nhau trông rất thô sơ như để ở tạm. Căn nhà này và những căn khác cũng cùng một kiểu như nhau, rộng hơn 6 m, dài khoảng 30 m và được lợp lá ở hai mái nhưng bên hông lại để trống. Cỏ lau cùng các bụi cây nhỏ mọc dầy đặc chen chúc bên trong nền căn nhà mà trại tị nạn dành cho đám chúng tôi. Trông căn nhà, ai cũng chán nản vì nó giống như một chỗ dùng để nuôi gia súc hơn là để dành cho người ở. Vài người trong số nhân viên thiện nguyện đã đón chúng tôi khi ở ngoài cầu tàu bảo chúng tôi tập họp lại và một người trong số họ, xác nhận:

    - Đây là barrack của các anh chị. Ai là leader thì vui lòng sắp xếp chỗ ở ngay cho từng cá nhân. Mỗi barrack là chỗ tạm trú của 100 người. Phải làm nhanh lên, để còn ra xếp hàng nhận đồ cấp phát của Cao Ủy nữa đó.

    Lại có thêm vài người khác đến gặp đám chúng tôi, tự xưng họ là ban Đại diện của zone 4. Khi nghe các nhân viên thiện nguyện cho biết đoàn người trong ghe chúng tôi có tổng cộng 135 người thì một người trong số họ nói:

    - Cứ 100 người ở trong cái nầy và số còn lại thì mấy ông cho san bớt sang bên cái barack kia.

    Cái kia! Là barrack nằm sát bên cạnh nhưng mới được lợp hơn phân nửa lá trên mái và hai bên hông thì vẫn để trống toác hoác. Người đàn ông vừa nói đó lại hỏi thêm:

    - Ai là leader của chiếc ghe nầy? Tôi muốn gặp có chuyện để bàn.

    Nghe người đàn ông hỏi, ông Thăng và ông Phát vội tiến đến gặp. Thấy hai ông Thăng, Phát thì ông đó tiếp:

    - Leader có tới 2 người à! Vậy càng tốt. Nghe đây! Bây giờ trong hai ông thì phải chọn một người làm barrack trưởng và người nầy sẽ thay mặt ban Đại diện zone để giải quyết các việc sinh hoạt chung trong ghe kể từ lúc này. Trước mắt thì barrack trưởng sắp xếp công việc dọn dẹp chỗ ở và cắt vài người theo tôi đi lấy cuốc xẻng dao nha. Trẻ-già, nam-nữ gì cũng phải góp một tay để có chỗ ngủ ngay tối nay. Phải làm nhanh lên, trời sắp tối rồi.

    Hai ông Thăng, Phát liền chọn người đi lấy xẻng cuốc dao cùng sắp xếp số còn lại đi hẳn vào trong lòng barrack dọn dẹp những thân cây, rác rưởi vương vãi trên mặt đám cỏ tranh và các bụi cây nhỏ. Tôi ở trong số người dọn dẹp căn nhà. Dao cuốc xẻng chưa có, mỗi người chúng tôi tùy sức mà làm bất cứ việc gì thấy chướng trước mắt. Người nhặt rác, kẻ lấy tay nhổ các bụi cây nhỏ nhưng có một mùi hôi bốc vào mũi chúng tôi làm ai nấy ngán ngẩm, ghê tay. Đó là phân người. Barrack chúng tôi ở là như vầy sao! Nó khác hẳn những gì có trong đầu khi nghĩ về chỗ tị nạn của mình khi còn ở ngoài cầu tàu. Mùi hôi đó làm mọi người phải bỏ dở việc và chờ cho đến khi nhóm đi lấy dao cuốc xẻng về tới thì mới tiếp tục công việc trở lại. Nam giới cuốc đất ban mặt nền cho bằng phẳng hoặc chặt các bụi cây nhỏ còn nữ giới thì gom các thân cành, rác rưởi... rồi vất gọn vào một chỗ sát ở bìa rừng. Đông người làm, chẳng mấy chốc trong lòng barrack đã được dọn dẹp nên quang đãng, gọn ghẽ hơn trước. Dù sao, vẻ thất vọng vẫn hiện rõ trong mắt nhiều người vì ai cũng thấy chỗ ở trong trại tị nạn do Cao Ủy bảo trợ lại thiếu thốn và còn tệ hơn ở bên quê nhà nữa.

    Trời bắt đầu xâm xẩm tối, người nào người nấy cũng cảm thấy đói bụng, mồ hôi nhễ nhại trên lưng trên mặt nhưng bảo nhau cố làm một lần cho xong việc để còn đi kiếm nước tắm và nghỉ ngơi.

    Có tiếng xe vận tải nhỏ ngừng ngay phía trước barrack, một người đàn ông đi vào nói với đám chúng tôi:

    - Tôi là Viết, Nguyễn Văn Viết... zone trưởng của zone 4 này. Barrack mới đến cho người ra lãnh đồ Cao Ủy cấp phát nha.

    Ông Thăng, giờ đã lãnh trách nhiệm barrack trưởng liền cùng vài người khác vội chạy ra đón hàng tiếp liệu. Hàng hoá trên xe tải lần lượt được chuyền xuống, xếp gọn thành một đống trên mặt đất. Chúng tôi xếp thành hàng để nhận mỗi người một đôi dép, một bàn chải cùng ống kem đánh răng, một khăn mặt, một cục xà bông, một ca nhựa đựng nước, một cái bát nhựa, một muỗng nhôm, một cái chiếu cói nhỏ và ba túi nylon mầu đen khá lớn nói dùng để đựng rác. Đồ cấp phát cho cá nhân chỉ có vậy còn tập thể thì cứ 5 người dùng chung nhau một chậu nhựa lớn, một thau nhựa nhỏ, một cái bếp với 5 lít dầu hôi, một nồi lớn, một nồi nhỏ, một chảo nhỏ, một dao con và một thớt gỗ tròn nhỏ xíu. Vừa nhận đồ tiếp liệu xong, một thanh niên ấp úng hỏi ông Viết:

    - Trại có phát quần áo cho người lớn hoặc sữa bột gì cho trẻ em không hở chú?

    - Cái gì? Cậu nói cái gì, nhắc lại tôi nghe. Ông zone trưởng hỏi anh thanh niên đó và sau khi nghe rõ chuyện thì ông ta cười lớn, trả lời:

    - Làm gì có mấy thứ đấy, cậu tưởng mình đang ở bên Mỹ chắc. Nghe đây! Hàng tiếp liệu nhận hôm nay, Cao Ủy chỉ phát cho mỗi người duy nhất một lần nầy thôi. Dùng hết, nếu muốn có nữa thì tự móc tiền túi mua ngoài shop còn không thì ráng chịu nghe.

    Nói xong câu, ông ta bỏ ra bên ngoài căn barrack rồi trèo lên chiếc xe đang từ từ quay trở ra mặt đường lộ.
    (còn tiếp)

  5. #24
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Chúng tôi chờ cho đến 9 giờ mà vẫn chưa thấy bóng dáng của đám ông Ubino tối hôm qua đâu cả. Ai cũng lộ vẻ sốt ruột, vài người đi tới đi lui mắt ngóng về hướng các căn nhà sơn trắng tuốt trong bờ nơi đầu cầu tàu bê tông để mong thấy bóng một ai đó. Rồi cho đến khi thấy có xe hiện ra xa xa thì mọi người báo cho nhau biết và thu gọn đứng nép vào bên cạnh lan can cầu. Chiếc xe đó chạy đến từ từ rồi ngừng lại ngay đoạn giữa nơi có hai chiếc ghe chúng tôi. Một toán 7 người trong đồng phục hải quân áo xanh lơ quần đen bước ra khỏi chiếc xe và lệnh cho chúng tôi đến gần, dồn lại với nhau trước mặt họ. Cái ông Ubino chúng tôi chờ thì lại không thấy trong số 7 người họ. Bằng Anh ngữ, một người Indo ra lệnh cho chúng tôi hễ ai thuộc chiếc ghe nào thì phải xuống trở lại ghe đó trong sự yên lặng và trật tự. Riêng với các tài công và leader thì phải đứng yên tại chỗ để chờ lệnh khác.

    Tuần tự, đám chúng tôi gọi nhau rồi chen chân theo cầu thang nhỏ để xuống dưới ghe. Vậy là họ không có ghe tàu nào hết, 7 người Indo này sẽ cùng đi chung với chúng tôi sang đảo Galang. Kiểm tra nhà vệ sinh ở cuối cầu tàu xong xuôi, 7 người Indo đó chia thành hai toán theo các tài công và leader xuống thẳng theo ghe. Tám Kiệt, Thuận và hai ông Thăng, Phát cùng 3 người Indo đứng chụm đầu bàn bạc với nhau cái trong buồng lái ghe nhỏ hẹp.

    Tiếng nổ bụp bụp của máy 2 chiếc ghe vang lên ròn rã, Tám Kiệt và Thuận bắt đầu cho ghe trở lui chầm chậm. Một gã Indo còn lại ở trên sàn cầu bê tông nhanh chóng tháo các dây cột từ các chốt cố định ra. Hai chiếc ghe lần lượt nối đuôi nhau tách ra khỏi cầu thang sắt để bắt đầu chuyến hành trình mới mà cũng là chuyến đi cuối của đám chúng tôi trên đường vượt biên. Từ từ, hai ghe chạy ra khỏi khu vực cầu tàu hải quân vắng lặng. Ngư dân địa phương trên các tàu xuồng gần đó giương mắt nhìn đám chúng tôi lạ lẫm với bộ áo phao đồng màu đang đứng ngồi lố nhố trong ghe. Gió buổi sớm mai mát lạnh làm chúng tôi phấn chấn tinh thần, háo hức chờ đón hình ảnh của nơi sắp đến. Bầu trời trong xanh với các cụm mây trắng và xa xa ở phía gần bờ đảo, những cánh hải âu xam xám chao lượn lên xuống kiếm ăn sát với những bóng thuyền ghe trên mặt biển.

    Tám Kiệt, Thuận và 3 người Indo đi theo thay phiên nhau vừa lái ghe vừa chỉ hướng của hải trình. Hai ghe của chúng tôi chạy cách xa chiếc trước chiếc sau ở một quãng ngắn. Từng hòn đảo lớn nhỏ lần lượt xuất hiện rồi từ từ chạy lùi và biến mất trong các bọt sóng trắng ở sau lưng ghe. Chạy được khoảng 4 giờ đồng hồ thì ghe đi vào một vùng nước êm ả có các hòn đảo nho nhỏ nối liền nhau. Một gã Indo cho chúng tôi biết sắp sửa đến đảo Galang và tin đó đã gây một phấn khích làm ai cũng tỉnh táo hết còn cảm giác say sóng. Rồi không lâu sau thì ai cũng hồi hộp khi thấy ghe giảm dần tốc độ. " Mình sắp đến nơi rồi ", tiếng xì xào giống nhau.

    Nhiều người nháo nhác nhìn về phía trước ghe và rồi khi vừa qua một khúc ngoặt của bờ đá cao từ một đảo nhỏ thì ai cũng thấy thấp thoáng một cầu tàu bê tông xa xa. Cầu tàu bê tông đó nhỏ và ngắn, nằm sát bờ của một hòn đảo trước mặt 2 ghe chúng tôi. Đúng nó Galang rồi! Nằm kín ở đây, bố ai mà biết đường để chạy ghe đến được. Cầu tàu hẹp và ngắn ngủn nên hai ghe chúng tôi phải cập sát đuôi nhau mới có chỗ để trèo lên bờ. Những tiếng reo vì mừng của đám chúng tôi khi thấy có khá đông đồng hương người Việt đang chờ sẵn trên bờ đảo. Sau một hồi còi báo lảnh lót, máy hai chiếc ghe tắt lịm, chúng tôi cầm hành lý trên tay để chờ lệnh.

    Nhìn vào bờ, một tấm bảng sơn trắng kẻ hàng chữ đen Welcome to Galang Refugee Camp được đóng cứng ở hai cây cọc nằm ngay phía trước căn nhà vách ván gỗ ép mái lợp tôn khá rộng tiếp nối với sàn gỗ. Lệnh rời ghe vừa được một gã Indo loan báo, ai nấy vội vàng thu tóm hành lý cá nhân rồi lần lượt từng người trèo xuống cầu tàu bê tông. Đồng hương người Việt đứng lố nhố thành từng đám trong căn nhà và ở cả ngoài sân đã ùa ra đón chúng tôi. Tiếng hỏi thăm về chuyến đi, nơi xuất bến... trong nụ cười tươi của những đồng hương Việt đã tăng thêm những háo hức về trại Galang, chỗ ở mới của đám người 2 chiếc ghe chúng tôi. Tuy vậy, chúng tôi vẫn phải đứng tập trung ở cầu tàu bê tông để chờ lệnh.

    Vài police Indo trong đồng phục áo tím quần đen với dây da bao súng lục cùng gậy dùi cui đeo bên hông đi tới lui hoặc đứng im ở một chỗ quan sát. Đám người Indo đi theo trên ghe ra lệnh cho tất cả mọi người chúng tôi phải cởi áo phao xếp gọn ở một chỗ trên sàn cầu bê tông trước khi vào trại.

    - Quý vị không cần đến áo phao nữa, chúng tôi có trách nhiệm thu hồi chúng cùng với 2 chiếc ghe nầy. Ngoài hành lý cá nhân thì không ai được lấy bất cứ thứ gì khác của ghe, một gã trong số họ miệng nói, tay thì gom gọn các áo phao vừa được cởi ra rồi vất chúng trở về sàn của 2 chiếc ghe.

    Có người trong đám chúng tôi cố tình vác bao thực phẩm tiếp tế theo mình thì đã bị các gã Indo đó buộc phải vất trở lại ghe như các áo phao.

    Một banner vải trắng kẻ đậm hàng chữ xanh dương: " Chào Mừng Đồng Bào Đã Vượt Thoát Và Đến Bờ Tự Do " được căng ngay trên khoảng trống của khuôn cửa căn nhà ván gỗ ép mái lợp tôn. Những đồng hương Việt trên bờ chỉ chỗ cho đám chúng tôi đi vào bên trong căn nhà đó, nói để họ làm hồ sơ nhập trại. Họ là nhân viên thiện nguyện của ban Đại Diện người Việt và đều đã đến trại Galang từ các chuyến ghe trước chúng tôi khá lâu rồi. Chờ mọi người vào hết trong căn nhà mà giờ đây đã trở nên quá chật so với số người của 2 chiếc ghe, một ông tuổi ngoài trung niên, mặc áo xanh lơ có các sọc trắng nhỏ cùng khuôn mặt rạng rỡ trong tay cầm cái loa chạy pin, cất tiếng:

    - A lô! Yêu cầu đồng bào im lặng, giữ trật tự để nghe đại diện chính quyền Nam Dương và Cao Ủy Liên Hiệp Quốc tại trại tị nạn nói chuyện.

    Ông này phải lập đi lập lại vài lần cùng những nhắc nhở của các thiện nguyện viên trong trại thì tiếng ồn ào trong đám người chúng tôi mới từ từ chấm dứt. Một người da ngâm đen mặc đồng phục mầu nâu tím, đội mũ kết trên đầu đứng ở cái bục gỗ, đảo mắt nhìn đám người chúng tôi đang đứng ngồi lố nhố cả trong nhà lẫn ngoài sân rồi sau đó, ông ta nói một hơi dài bằng tiếng địa phương. Khi ông ta dứt lời, dù không hiểu nghĩa nhưng mọi người Việt có mặt đều vỗ tay rồn rã. Kế đó, một người Âu châu da trắng-tóc nâu với thân hình vạm vỡ bước đến và đón cái loa chạy pin từ tay một nhân viên thiện nguyện. Người đàn ông Âu châu này nói bằng Anh ngữ:

    - Tôi là Peter, đại diện Cao Ủy Liên Hiệp Quốc tại trại tị nạn Galang đây. Chúc mừng quý vị người Việt đến nơi bình an... Ông Peter nói liền một hơi dài, có lúc ông gằn mạnh từng tiếng hoặc lập lại một câu ông vừa nói và khi kết thúc, ông ta mỉm cười, giơ tay vẫy đám người chúng tôi rồi bước ra khỏi cái bục gỗ.

    Hết ông Peter thì đến phần ông người Việt mặc áo xanh lơ có các sọc trắng nhỏ ban nẫy liền tiến lại cái bục gỗ rồi cũng cầm lấy cái loa chạy pin, giới thiệu:

    - Tôi, Bùi Thế Dung, là chủ tịch ban Đại Diện người Việt ở đây xin chào mừng đồng bào đã đến được trại tị nạn Galang thành công.

    Ông ta vừa dứt lời, tiếng vỗ tay xen lẫn các tiếng hét cùng huýt sáo vang lên ồn ĩ và có người chẩy nước mắt vì quá mừng. Một ông đứng gần bên tôi, nói nhỏ:

    - Có mặt Cao Ủy Liên Hiệp Quốc là mừng rồi, mình không còn lo chuyện phải ngồi ở dưới ghe đi tiếp nữa.

    Ông Dung cho đám người chúng tôi biết là ông da đen nói trước có tên Agus Sulistiyono, cấp bậc Thiếu tá, trưởng đảo Galang rồi sau đó, ông tiếp:

    - Galang hiện nay rất khó khăn vì phải tiếp nhận thêm nhiều thuyền nhân đến trong một thời gian ngắn nên trại rất thiếu thốn về nhiều mặt và do vậy, mong mọi người thông cảm cùng chấp nhận hoàn cảnh.

    Nhìn đám người mới đến chúng tôi trong chốc lát, ông thêm:

    - Cao Ủy Liên Hiệp Quốc sẽ sắp xếp theo thứ tự ghe đến trại kể từ tháng Ba năm ngoái để thanh lọc từng người một. Hễ ai được công nhận là người tị nạn thì người đó sẽ đi định cư ở một quốc gia đệ tam, còn người bị coi là di dân kinh tế thì phải hồi hương về lại Việt Nam.

    Như vậy, theo lời ông Dung thì 2 ghe chúng tôi đến trại hôm nay đã sau ngày Cao Ủy ấn định nên cũng sẽ phải bị thanh lọc. Các chữ hồi hương làm chúng tôi hoảng hồn và thanh lọc cũng khiến chúng tôi thắc mắc, chưa hiểu rõ nghĩa. Một ông bên chiếc ghe đến trước liền hỏi và ông Dung giải thích:

    - Tất cả chúng ta không còn tự động là người tị nạn khi đặt chân đến được trại Galang như trước đây nữa và đều phải bị thanh lọc, dù không ai muốn. Người Việt ở các trại tị nạn khác bên Mã Lai Á, Thái Lan, Phi Luật Tân hay Hồng Kông... cũng đều bị thanh lọc như vậy. Thanh lọc là gì? Là một cuộc điều tra giữa Cao Ủy và nước chủ nhà đối với thuyền nhân, để xem coi cá nhân người đó tại sao lại phải vượt biên và chuyến vượt biên đó có thực sự cần thiết hay không? Tôi chỉ biết khái quát là vậy, còn các chi tiết khác thì cũng phải chờ xem. Bản thân tôi, dù là một cựu Đại tá trong quân lực VNCH và nguyên Thứ trưởng quốc phòng của nội các Tổng thống Dương Văn Minh nhưng tôi cũng sẽ phải bị Cao Ủy thanh lọc như tất cả mọi người Việt ở trong trại chứ cũng chẳng được dành cho một ưu tiên gì, ông Peter đã nói rõ như vậy. Tôi nói điều đó ra đây để mong đồng bào hiểu ra vấn đề tị nạn của thuyền nhân chúng ta đối với cách giải quyết của cộng đồng quốc tế hiện thời, để mà bình tĩnh và chọn lựa cho mình cách khai báo sao cho tốt nhất hay nhất khi ngồi vào bàn thanh lọc, đối diện với nhân viên Cao Ủy cùng nước chủ nhà.

    Nhiều người trong chúng tôi nhìn nhau với ánh mắt ngạc nhiên lẫn lo lắng vì như vậy, chuyện vượt biên đến được trại tị nạn bây giờ đã khác với khi trước. Từ nay, thôi không còn cảnh được nấn ná vài tháng hay cùng lắm là một hai năm ở trại rồi sau đó sẽ thơ thới đáp máy bay đến định cư ở nước thứ ba như suy nghĩ khi còn ngồi dưới ghe cũng như lúc sống trong trại nơi rừng Mã Lai. Chúng tôi đã bị lâm vào hoàn cảnh " Trâu chậm, uống nước đục " thật rồi. Mọi người chúng tôi đang xì xào, bàn tán râm ran về các lời của ông Dung vừa nói thì có tiếng loa tay gọi ai đi trong ghe 233 người ra xếp hàng làm thủ tục nhập trại trước.

    Một nhân viên thiện nguyện đứng giữa căn phòng, nói thật lớn:

    - Ai thuộc quân-công-cán-cảnh của chính quyền miền Nam VNCH thì đứng ở hàng bên phải, còn không... thì sang đứng ở hàng bên trái.

    Sau đó, một nhân viên khác nói tiếp:

    - Đồng bào nào mang được các giấy tờ cá nhân thì càng tốt, nếu không có thì nhớ được cái gì khai cái nấy nhưng phải khai đúng sự thật nghe.

    Ghe 135 người chúng tôi chưa đến lượt nên tản ra, đứng chờ dưới các bóng cây mát hoặc đi lòng vòng phía bên ngoài căn nhà. Có người thì lò dò lại gần chỗ đang khai báo lý lịch cá nhân để xem, để lấy kinh nghiệm cho phiên mình. Khu vực của cầu tàu Galang này khá rộng, có những căn nhà gạch nhỏ, mái lợp tôn nhưng cửa đóng im ỉm không biết của dân địa phương hay của chính quyền coi trại. Vài người đứng gần một hàng cây um tùm, ngoắc tay chỉ về một chỗ khuất khiến tôi để ý liền bước lại xem. Ở một con rạch cạn phía bên tay phải cầu tàu, 4 xác ghe cũ đã hỏng nằm phơi mình im lìm trong làn nước dưới các bóng cây.

    - Ghe của dân vượt biên người Việt mình. Thấy chưa! Họ vào được tới đây nè, một người trong bọn nói.

    Thấy đám chúng tôi tản ra khá xa khu vực, một gã cảnh sát Indo từ xa tiến lại và lấy tay ra dấu cho chúng tôi phải đi về. Cả đám lục tục trở lại chỗ cũ, đứng ngồi chùm nhum thành từng đám nhỏ chung quanh căn nhà. Không thấy mặt ông Thiếu tá trưởng đảo cùng ông Peter-Cao Ủy trưởng, tôi nghĩ cả hai người họ chắc đã bỏ về trước. Ở một chỗ không xa, ông Dung đang đứng trò chuyện cùng với các gã police Indo.

    Chợt một nhân viên thiện nguyện nói to từ bàn làm thủ tục tiếp nhận làm tôi chú ý.

    - Anh vừa nói anh là cựu quân nhân VNCH và thuộc binh chủng Phòng Không-Không Quân. Anh cũng nói sinh năm 1950 và số quân của anh là... Phải không? Anh nhắc lại cho tôi nghe lần nữa xem.

    Dãy bên phải nơi kê các bàn gỗ dài có từng cặp hai người ngồi đối diện nhau, một bên là nhân viên thiện nguyện và bên kia là người mới đến. Cứ hỏi, nghe rồi ghi tóm tắt lời khai của người nhập trại vào các tập giấy. Ở bàn vừa có tiếng hỏi của nhân viên thiện nguyện trại, một người đàn ông nói giọng Bắc lí nhí đang nhắc lại lời của mình vừa khai. Nghe dứt câu trả lời từ miệng người đàn ông thì nhân viên thiện nguyện đó đứng lên gọi lớn:

    - Ê! Mấy ông lại xem thử bản lý lịch của cha nầy khai nè.

    Hai, ba nhân viên thiện nguyện khác liền tiến đến chiếc bàn đó và sau khi nghe kể lại tự sự, một người trong đám họ nói với ông khai báo:

    - Nè! Quân lực VNCH không có binh chủng phòng không-không quân đâu nghe cha nội. Tụi Việt Cộng còn chưa có xe tăng thì nói gì đến máy bay và không bao giờ máy bay của bọn Cộng Sản Bắc Việt dám xuất hiện tại miền Nam mà anh dám khai là lính của cái binh chủng này.

    Ngừng vài giây để đọc kỹ tờ khai, thiện nguyện viên nầy lẩm bẩm:

    - Sinh năm 1950 mà anh khai số quân... là xạo chuyện nha.

    Rồi ông ta đưa tờ giấy đó cho các nhân viên khác đứng gần bên xem. Sau khi lướt mắt qua tờ giấy đó, một nhân viên thiện nguyện chỉ tay vào ông khai báo, nói lớn:

    - Đ.M thằng này giả dạng quân nhân VNCH nè mấy ông. Mày là Việt Cộng phải không? Đi vượt biên sang đây làm gì hở mày?

    Ngồi yên cúi đầu, bờ vai người đàn ông khẽ run rẩy cùng tay chân luống cuống. Một nhân viên thiện nguyện khác hỏi lại ông về lý lịch nhưng người đàn ông vẫn khăng khăng bản thân mình là cựu quân nhân trong binh chủng phòng không-không quân của chính quyền miền Nam VNCH. Nghe tiếng đôi co, vài thiện nguyện viên khác kéo đến và một người trong số hỏi thêm:

    - OK! Anh cho tụi tui biết loại vũ khí phòng không trong đơn vị anh coi? Súng gì? Nòng cỡ bao nhiêu ly?.

    Người đàn ông đó im lặng, vẻ mặt xuống sắc khi đảo mắt nhìn những thiện nguyện viên đang vây chung quanh. Thấy vẻ lúng túng của ông ta, một thiện nguyện viên cười gằn, nói:

    - Mày! Việt Cộng rõ ràng nha. Tụi tao khốn khổ vì bọn mày nên phải bỏ nước vượt biên mà mày chưa vừa lòng hay sao lại chạy theo sang đây. Định trà trộn vượt biên để phá hoại nữa hử? Đ.M chắc tao phải đập mày một trận cho bỏ tật dối trá rồi tính sau.

    Dứt câu, thiện nguyện viên đó nhào đến người đàn ông rồi dơ cao nắm tay nhưng... các người khác gần đó đã cản liền. Một người nói có mặt đám police Indo ở đây thấy xô xát thì mất công chúng phải can thiệp, sẽ thêm rối. Đám chúng tôi thấy sự vụ xẩy ra liền chen vào để hóng chuyện. Ông Dung đang tản bộ ở ngoài sân thì được nhân viên trật tự báo, nên vội đi đến nơi xem. Thấy ông Dung, một nhân viên thiện nguyện trình bày:

    - Thưa Đại tá! Có tên bộ đội dám giả dạng lính VNCH mình vừa bị tụi em phát giác. Thằng Việt Cộng đó đây nè.

    Ông Dung đến bên chiếc bàn gỗ, các nhân viên thiện nguyện tản ra đứng sớ rớ chung quanh chờ xem. Một nhân viên thiện nguyện đưa tờ khai cho ông Dung xem. Ông ta cầm lấy, đọc qua và đưa mắt nhìn người khai lý lịch đang ngồi im lìm, bất động. Từ tốn, ông Dung nói cho người khai lý lịch đó và cả những người chúng tôi đang chờ làm thủ tục nhập trại nghe:

    - Đã bỏ nước trốn nạn Cộng Sản đến đây thì tất cả chúng ta đều là anh em con một mẹ Việt Nam. Nếu anh đã từng là bộ đội hay công an Việt Cộng thì cứ khai ra, có gì phải sợ mà gian trá. Thiếu gì đảng viên Cộng Sản, du sinh, lao động hợp tác rồi cả công an Việt Cộng nữa... vượt biên, vượt biển xin tị nạn và ngay trong trại nầy hiện giờ cũng đang có một số họ. Biết anh có thái độ dối trá thì người ta càng thêm ghét thêm khinh.

    Tôi chen vào đám đông để xem mặt người mạo nhận. Thì ra ông ta là người có ánh mắt vui vui khi đã nhìn tôi trong tối hôm qua ở nhóm ngồi uống trà Blao ướp hoa lài đây mà. Một người trong ghe 233 đứng gần đó, tiết lộ thêm:

    - Ông này lúc còn trên xe buýt nói sống ở trong nông trường Lâm Hà thì tôi đã nghi nghi là dân Bắc Kỳ 2 nút... Vậy mà đúng chứ. Cứ nghe giọng nói của ông ta kìa.

    Nông trường Lâm Hà. Nó nằm ở đâu? Có người hỏi thì ông đó cho biết Lâm Hà là khu định cư mới do chính quyền Cộng Sản lập dành cho cư dân Hà Nội từ ngoài miền Bắc kéo vào Nam sau ngày 30-4-1975 ở trên vùng cao nguyên Lâm Đồng gần Di Linh. Lâm Hà là cái tên ghép chung giữa Lâm Đồng và Hà Nội.

    Không biết tại sao khi chỉ nghe khai năm sinh và số quân của ông miền Bắc người nông trường Lâm Hà mà nhân viên thiện nguyện lại biết ông ta đã khai man lý lịch? Phải có một cái gì đó như một quy tắc liên đới giữa năm sinh và số quân của người lính miền Nam VNCH để người biết sự việc thì sẽ dễ dàng nhận ra sai phạm, điều mà ông người nông trường Lâm Hà tưởng cứ nói bừa ra các con số là sẽ xong việc.

    Phải mất một thời gian khá lâu thì mới xong thủ tục nhập trại cho chiếc ghe 233 người rồi mới đến lượt ghe chúng tôi. Tuy bản khai lý lịch cá nhân mỗi người không dài và dù có khá đông thiện nguyện viên giúp sức nhưng cũng phải mất gần 2 tiếng đồng hồ nữa mới xong hết cả ghe. Tôi quay ra nhập bọn với những người đứng ở ngoài sân khi trời đã về chiều. Nắng tắt khá lâu rồi, mặt nước trước cửa ngõ vào cầu tàu Galang bây giờ đã đổi sang mầu tim tím. Chợt một tiếng ùm thật lớn từ dưới mặt nước vọt lên tạo thành một vòng sóng rộng có hình tròn đồng tâm nối tiếp nhau chạy lăn tăn vào bờ làm cả đám chúng tôi giật mình.

    - Cá đớp bóng đó. Con này lớn lắm nha! Mỗi khi có dịp ra ngoài đây thì thỉnh thoảng tôi lại gặp như vậy. Chỗ này có cá lớn thì ở bên dưới phải sâu lắm và thể nào cũng có các hang động ngầm gì đây, một thiện nguyện viên nói.

    Chúng tôi nhìn mặt nước vẫn trong cơn sao động, mong sẽ thấy hình dáng của con cá lớn đó khi làm thêm cái đớp bóng nữa. Nhưng không, con cá đã lặn mất.

    Các nhân viên thiện nguyện tay ôm chồng giấy tờ lý lịch đoàn người của hai ghe đứng tập trung với chúng tôi để chờ xe cùng vào trại chung. Tay cầm cái loa chạy pin, ông Dung nói ít lời cuối cùng cho cả đoàn người mới đến.

    - Như tôi đã nói ban nãy, chỗ ở trong trại hiện giờ rất chật chội vì quá đông người tị nạn. Cao Ủy đã phải cất thêm các dẫy nhà lợp lá cho đồng bào mới đến. Người quá đông ngoài dự liệu của họ, do đó sẽ có những khó khăn trong sinh hoạt và cả trong việc chờ đợi để đến phiên thanh lọc, mong đồng bào thông cảm. Bây giờ mời đồng bào chuẩn bị lên xe để vào trại.

    Hai chiếc xe tải của phòng an ninh Indonesia từ từ chạy đến đón đám người chúng tôi. Lần lượt người của chiếc ghe 233 leo lên nhưng vẫn không đủ chỗ nên một số phải ở lại chờ đi chuyến sau. Ưu tiên cho phụ nữ và trẻ nít lên xe trước, một nhân viên thiện nguyện thông báo. Hai xe đó chạy vào trại rồi chạy ra chở tiếp rồi chở tiếp nữa nhưng đám chúng tôi phải chờ đến tua thứ tư thì mới đến lượt. Tôi và Đỉnh cùng đi chung trong một chiếc, thấy xe đầy người, gã tài xế sang số chạy tiếp ngay. Sợ ngã, đám chúng tôi kẻ đứng người ngồi mà tay thì bám chắc vào thành xe hoặc bấu vào vai của nhau. Xe chạy vòng vèo trên các con đường trải nhựa nhỏ hẹp rồi qua một khu toàn những căn chòi tranh nhỏ hoặc trông khá giống nhà sàn nằm không xa bên vệ đường.

    - Chắc đây là khu nhà của dân Indonesia?, người đứng trên xe hỏi nhưng một nhân viên thiện nguyện lắc đầu, trả lời:

    - Không phải đâu, đây là trại tị nạn của người Campuchia đó.

    Tôi đưa mắt nhìn các căn nhà lần lượt hiện ra ở hai bên đường. Vài đàn ông, trẻ em cùng phụ nữ quấn xà rông đi lại trên các con đường nhỏ gần các căn nhà thấp dù không phải là nhà sàn như hình ảnh tôi đã từng thấy khi trên đường từ cảng Kompong Som về Nông Pênh trong chuyến vượt biên của lần trước nhưng đúng họ là dân Khmer thật. Dân Khmer mà phải vượt biên tới tận đảo Galang! Sao họ không đi bằng đường bộ hay chạy ghe thẳng sang Thái Lan cho gần hơn thay vì làm một chuyến hải trình xa tít đầy nguy hiểm? Chúng tôi nhìn nhau, phân vân không hiểu.

    Hết khu vực trại của dân tị nạn Khmer thì xe tải chở chúng tôi chạy ngang qua một cổng gỗ chùa Phật giáo có sơn hàng chữ Quan Âm Tự nằm sát bên trái vệ đường. Dù xe chạy khá nhanh nhưng cũng kịp để tôi thấy sau cổng là một chiếc cầu gỗ nhỏ cong cong được nối vào con đường dốc lên hình bậc thang dẫn lên cao của ngọn đồi. Xe chạy qua được một quãng đường khá xa, tôi quay đầu nhìn lại thì thấy các mái cong nâu đỏ của chùa nhỏ nầy nằm đơn độc tuốt trên đỉnh đồi khá cao đó. Xe băng qua một nhà thương với dấu hiệu Hồng Thập Tự đỏ ngay trước cổng rồi chạy tiếp trên con đường nhỏ hẹp trong trại và rồi nhà, những căn nhà nhỏ xíu như chòi đã bắt đầu xuất hiện chung với tiếng người reo vui xa xa làm chúng tôi nhao hẳn người lên nhìn. Rất đông người đứng ở hai bên vệ đường nhìn đám chúng tôi với cánh tay vẫy chào thân thiện. Sau cùng thì chiếc xe từ từ dừng lại bên một dẫy các nhà lợp lá dừa nước liền sát cạnh nhau. Đến nơi rồi! Có lệnh cho chúng tôi xuống xe. Nhà lá ở đây, căn nào căn nấy dài thòong và đầy nhóc người đứng gần tò mò nhìn đoàn người chúng tôi mới đến. Một căn nhà gần chúng tôi thì đang làm dở dang toang hoác hai bên vách và mới chỉ có mái lá. Đám đàn bà-con gái đi trong chuyến xe đến trước cho biết căn nhà đó là chỗ ở của đoàn ghe chúng tôi. Đến gần xem, căn nhà có hình tam giác, sườn là các thân cây rừng được cột dây chặt vào nhau trông rất thô sơ như để ở tạm. Căn nhà này và những căn khác cũng cùng một kiểu như nhau, rộng hơn 6 m, dài khoảng 30 m và được lợp lá ở hai mái nhưng bên hông lại để trống. Cỏ lau cùng các bụi cây nhỏ mọc dầy đặc chen chúc bên trong nền căn nhà mà trại tị nạn dành cho đám chúng tôi. Trông căn nhà, ai cũng chán nản vì nó giống như một chỗ dùng để nuôi gia súc hơn là để dành cho người ở. Vài người trong số nhân viên thiện nguyện đã đón chúng tôi khi ở ngoài cầu tàu bảo chúng tôi tập họp lại và một người trong số họ, xác nhận:

    - Đây là barrack của các anh chị. Ai là leader thì vui lòng sắp xếp chỗ ở ngay cho từng cá nhân. Mỗi barrack là chỗ tạm trú của 100 người. Phải làm nhanh lên, để còn ra xếp hàng nhận đồ cấp phát của Cao Ủy nữa đó.

    Lại có thêm vài người khác đến gặp đám chúng tôi, tự xưng họ là ban Đại diện của zone 4. Khi nghe các nhân viên thiện nguyện cho biết đoàn người trong ghe chúng tôi có tổng cộng 135 người thì một người trong số họ nói:

    - Cứ 100 người ở trong cái nầy và số còn lại thì mấy ông cho san bớt sang bên cái barack kia.

    Cái kia! Là barrack nằm sát bên cạnh nhưng mới được lợp hơn phân nửa lá trên mái và hai bên hông thì vẫn để trống toác hoác. Người đàn ông vừa nói đó lại hỏi thêm:

    - Ai là leader của chiếc ghe nầy? Tôi muốn gặp có chuyện để bàn.

    Nghe người đàn ông hỏi, ông Thăng và ông Phát vội tiến đến gặp. Thấy hai ông Thăng, Phát thì ông đó tiếp:

    - Leader có tới 2 người à! Vậy càng tốt. Nghe đây! Bây giờ trong hai ông thì phải chọn một người làm barrack trưởng và người nầy sẽ thay mặt ban Đại diện zone để giải quyết các việc sinh hoạt chung trong ghe kể từ lúc này. Trước mắt thì barrack trưởng sắp xếp công việc dọn dẹp chỗ ở và cắt vài người theo tôi đi lấy cuốc xẻng dao nha. Trẻ-già, nam-nữ gì cũng phải góp một tay để có chỗ ngủ ngay tối nay. Phải làm nhanh lên, trời sắp tối rồi.

    Hai ông Thăng, Phát liền chọn người đi lấy xẻng cuốc dao cùng sắp xếp số còn lại đi hẳn vào trong lòng barrack dọn dẹp những thân cây, rác rưởi vương vãi trên mặt đám cỏ tranh và các bụi cây nhỏ. Tôi ở trong số người dọn dẹp căn nhà. Dao cuốc xẻng chưa có, mỗi người chúng tôi tùy sức mà làm bất cứ việc gì thấy chướng trước mắt. Người nhặt rác, kẻ lấy tay nhổ các bụi cây nhỏ nhưng có một mùi hôi bốc vào mũi chúng tôi làm ai nấy ngán ngẩm, ghê tay. Đó là phân người. Barrack chúng tôi ở là như vầy sao! Nó khác hẳn những gì có trong đầu khi nghĩ về chỗ tị nạn của mình khi còn ở ngoài cầu tàu. Mùi hôi đó làm mọi người phải bỏ dở việc và chờ cho đến khi nhóm đi lấy dao cuốc xẻng về tới thì mới tiếp tục công việc trở lại. Nam giới cuốc đất ban mặt nền cho bằng phẳng hoặc chặt các bụi cây nhỏ còn nữ giới thì gom các thân cành, rác rưởi... rồi vất gọn vào một chỗ sát ở bìa rừng. Đông người làm, chẳng mấy chốc trong lòng barrack đã được dọn dẹp nên quang đãng, gọn ghẽ hơn trước. Dù sao, vẻ thất vọng vẫn hiện rõ trong mắt nhiều người vì ai cũng thấy chỗ ở trong trại tị nạn do Cao Ủy bảo trợ lại thiếu thốn và còn tệ hơn ở bên quê nhà nữa.

    Trời bắt đầu xâm xẩm tối, người nào người nấy cũng cảm thấy đói bụng, mồ hôi nhễ nhại trên lưng trên mặt nhưng bảo nhau cố làm một lần cho xong việc để còn đi kiếm nước tắm và nghỉ ngơi.

    Có tiếng xe vận tải nhỏ ngừng ngay phía trước barrack, một người đàn ông đi vào nói với đám chúng tôi:

    - Tôi là Viết, Nguyễn Văn Viết... zone trưởng của zone 4 này. Barrack mới đến cho người ra lãnh đồ Cao Ủy cấp phát nha.

    Ông Thăng, giờ đã lãnh trách nhiệm barrack trưởng liền cùng vài người khác vội chạy ra đón hàng tiếp liệu. Hàng hoá trên xe tải lần lượt được chuyền xuống, xếp gọn thành một đống trên mặt đất. Chúng tôi xếp thành hàng để nhận mỗi người một đôi dép, một bàn chải cùng ống kem đánh răng, một khăn mặt, một cục xà bông, một ca nhựa đựng nước, một cái bát nhựa, một muỗng nhôm, một cái chiếu cói nhỏ và ba túi nylon mầu đen khá lớn nói dùng để đựng rác. Đồ cấp phát cho cá nhân chỉ có vậy còn tập thể thì cứ 5 người dùng chung nhau một chậu nhựa lớn, một thau nhựa nhỏ, một cái bếp với 5 lít dầu hôi, một nồi lớn, một nồi nhỏ, một chảo nhỏ, một dao con và một thớt gỗ tròn nhỏ xíu. Vừa nhận đồ tiếp liệu xong, một thanh niên ấp úng hỏi ông Viết:

    - Trại có phát quần áo cho người lớn hoặc sữa bột gì cho trẻ em không hở chú?

    - Cái gì? Cậu nói cái gì, nhắc lại tôi nghe. Ông zone trưởng hỏi anh thanh niên đó và sau khi nghe rõ chuyện thì ông ta cười lớn, trả lời:

    - Làm gì có mấy thứ đấy, cậu tưởng mình đang ở bên Mỹ chắc. Nghe đây! Hàng tiếp liệu nhận hôm nay, Cao Ủy chỉ phát cho mỗi người duy nhất một lần nầy thôi. Dùng hết, nếu muốn có nữa thì tự móc tiền túi mua ngoài shop còn không thì ráng chịu nghe.

    Nói xong câu, ông ta bỏ ra bên ngoài căn barrack rồi trèo lên chiếc xe đang từ từ quay trở ra mặt đường lộ.

    Có đồ tiếp liệu tập thể, đoàn người trong ghe tự động rủ nhau gom thành từng nhóm 5 người một. Rồi Đào, Bẩy, Yến nói Đỉnh cùng tôi nhập thành nhóm sống chung vì dù sao thì cả bọn cũng đã biết nhau và khá thân từ khi còn ở bên Malaysia. Cũng giống như hồi mới vào ở căn nhà lều trong rừng, ông Thăng bắt đầu chia lô và bắt thăm chọn chỗ cho từng nhóm trong cái nền barrack vừa được dọn sạch. Cũng theo cách của các barrack đã làm từ trước, ông Thăng cũng để hai bên chái căn nhà là chỗ người ở và chừa một khoảng rộng 1 m làm lối đi ngay chính giữa. Nhận được chỗ của cả nhóm rồi thì tôi và Đỉnh dùng dao con cắt các bao nylon đen thành tấm lớn để lót trên mặt đất rồi sau đó mới trải chiếu lên. Chiếu cói Cao Ủy phát cho chúng tôi rất mỏng, chỉ rộng 80 cm và dài gần 2 m. Chỗ ở cho mọi người trong ghe vừa tạm ổn thì ông Thăng báo tin là ông Viết cho người khiêng đến hai nồi lớn mì gói nấu chín, nói do ban xã hội của zone gửi tặng cho đồng bào ăn đỡ bữa tối vì sáng hôm sau, phòng tiếp liệu trại mới phát thực phẩm. Có sẵn bát nhựa, chúng tôi liền chia nhau mì gói nóng bốc hơi thơm phức. Chỉ nấu xuông nhưng ăn bát mì ai cũng thấy nó quá ngon. Nhân viên trong ban xã hội của zone chắc rành chuyện người mới nhập trại nên đã nấu mì gói nóng tiếp tế vì thực sự, từ lúc rời cầu tàu bên Tanjung Pinang tới giờ, có ai trong ghe được ăn uống gì đâu. Trời đã tối hẳn, thấy người chung quanh làm các cây đèn từ các lon nhôm nước ngọt Cocacola cũ, Đỉnh đi rảo kiếm được hai cái lon không rồi đục lỗ, xỏ dây bấc và đổ dầu hôi làm ngay đèn dã chiến cho cả bọn. Ánh sáng bập bùng soi từng nhóm người đứng ngồi lố nhố trong lòng căn nhà lợp lá dài thòong trông thật lạ mắt. Hành lý cá nhân của 5 người chúng tôi đã xếp gọn gàng hẳn vào một góc và bây giờ thì ai cũng thấy cần phải đi tắm một cái cho sạch cho mát người nhưng chưa biết chỗ tắm ở đâu? Tôi và Đỉnh lại phải đi ra phía bên ngoài, tìm đến barrack gần đó hỏi thăm một người đàn ông đang nằm đung đưa trên chiếc võng căng ngang hai thân cây gần lối đi nhỏ. Biết chúng tôi là đám say sóng mới nhập trại hồi chiều, ông ta vui vẻ cho mượn cái gầu múc nước cùng chỉ hướng để đến con suối và nói:

    - Hai cậu tắm giờ nầy thì nước hơi cạn và đục đấy... Hàng tiếp liệu Cao Ủy cấp phát hoặc quần áo cá nhân giặt mang về phơi, mấy cậu phải coi chừng cái đám đi chợ đêm ở đây nghe.

    Gầu múc nước là cái thùng sắt độ chừng được 5 lít nối với sợi dây nhựa khá dài, Đỉnh bảo tôi đi trước với ba cô gái còn nó ở lại trông chừng hành lý của cả bọn. Đi cùng ba cô gái, chúng tôi theo con đường tráng nhựa nhộn nhịp người đi tắm hoặc tản bộ hóng mát dưới ánh sáng của các ngọn đèn bên cột sát lề đường. Tôi nghĩ suối ở đây chắc cũng tương tự con suối có nước trong vắt chảy lững lờ uốn cong qua các phiến đá bằng phẳng rồi luồn khuất sau các hàng cây rừng xa xa... như khi ở trại trong rừng bên Malaysia. Đi gần tới bệnh viện, bốn người chúng tôi rẽ vào một con đường hẹp để đến chỗ tắm là vũng nước khá lớn trông từa tựa một cái hồ nhỏ. Một bóng đèn ống neon treo khá cao soi rõ đám đông người đang lúi húi tắm giặt bên nhau. Hầu hết là nam giới đứng múc nước dội ào ào từ đầu đến chân ngay trên bờ được lót bằng các tấm gạch cement bằng phẳng. Chỉ có vài phụ nữ ngồi riêng biệt giặt quần áo trong các chậu nhựa khá xa. Hai phòng vuông nhỏ làm bằng các tấm ván gỗ ghép lại dùng để thay y phục sau khi tắm ở tuốt ngoài bìa sàn nước. Ánh sáng ngọn đèn ống neon chiếu vào nước suối có mầu cà phê sữa loãng làm Yến vừa thấy đã thất vọng, nói nhỏ:

    " Nước nầy mà tắm giặt cái gì mấy chị! Thua xa nước suối ở bên Malaysia ".

    Ba cô gái thấy người đang tắm toàn nam giới nên họ cũng ngần ngại, chần chừ đứng yên tại chỗ. Càng chần chừ thì nguồn nước suối sẽ càng cạn càng đục. Tôi liền thả gầu kéo nước tắm trước làm gương và múc đổ nước vào đầy chậu nhựa, hối ba cô gái cứ tắm đại ngay đi rồi mai tính sau.
    (còn tiếp)
    Last edited by khieman; 06-28-2014 at 12:46 AM.

  6. #25
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Con suối, sau này thì tôi được biết khởi đầu là lạch nước nhỏ chảy từ trong rừng ra rồi được người tị nạn đào rộng, khoét sâu thêm và dùng các thân cây lớn cùng đá tảng kè lại để giữ nước như một cái đập nhỏ. Khi bốn đứa chúng tôi ra về mà dòng người trong trại vẫn còn kéo đến để tắm, giặt. Đến chỗ ở của cả nhóm, thấy Đỉnh đang đóng mấy cọc cây sát vách, hỏi làm cái gì thì Đỉnh cho biết đang tạo một con heo để có cái ngày mai đựng nước dùng. Con heo là các bao nylon đen dùng để đựng rác nhưng Đỉnh đã chồng nó vào nhau và cố định đứng một chỗ bằng các cọc gỗ nhỏ chung quanh. Đỉnh cũng cho biết nó vừa nấu xong một nồi nước có bỏ chút trà cho dễ uống và bảo chúng tôi ai có khát thì dùng. Ba cô gái hỏi nước lấy đâu ra thì Đỉnh trả lời:

    - Tui xin chỗ ông cho mượn cái gầu đó. Ổng còn cho thêm cả một chậu đầy nước để bọn mình có cái mà xúc miệng, đánh răng nữa nè.

    Rồi nó hỏi lại ở dưới suối có đông người tắm không, tôi trả lời ngay:

    - Cũng khá đông, toàn là người của hai chiếc ghe mới nhập trại hôm nay không hà. Em đi tắm ngay đi, còn cái gì chưa xong thì để anh làm tiếp cho.

    Phần vách barrack của ghe chúng tôi ở vẫn còn trống toác hoác và nhớ lời dặn của người đàn ông cho mượn cái gầu, Đỉnh nói ba cô gái nên cất quần áo ướt vừa giặt để chờ ngày mai sẽ phơi sau. Riêng tôi vì bộ quần áo vừa giặt đã cũ mèm, không sợ mất nên cứ phơi nó ở trên các hàng cọc gỗ sát vách. Ba cô gái ngồi chụm lại với nhau vừa nói chuyện vừa chải tóc cho mau khô. Trong barrack dưới ánh đèn lập lòe khi tỏ khi mờ, chỗ này người đang sắp xếp lại chỗ ở, chỗ kia người soạn đồ đạc cá nhân cho gọn gàng hoặc đã nằm im như đang ngủ. Mùi đất thoang thoảng chung với tiếng vo ve của muỗi rừng bay kiếm ăn bên tai.

    Barrack chúng tôi bắt đầu có khách ghé thăm, họ là những người đã nhập trại từ trước nay nghe nói có hai ghe mới đến thì vội vào, tìm xem coi có gặp thân nhân hay người quen. Họ đi lẻ từng người hoặc từng cặp với nhau, dõi mắt nhìn lom lom vào mặt chúng tôi trong ánh đèn leo lét, mờ vàng. Đang ngồi bó gối trên tấm chiếu chưa biết tối nay cả đám năm người chúng tôi sẽ ngủ nghê ra sao thì tôi nghe có tiếng hỏi: " Vũ! Phải là Vũ không hả? ". Ngẩng đầu, tôi nhìn lên hai người một nam một nữ đang đứng trước mặt, thầm nghĩ họ là ai mà biết tên mình. Tôi chưa kịp hỏi thì tiếng đàn ông nói:

    - Đúng là Vũ rồi. Anh là Khảm nè Vũ!.

    Tôi liền kéo cái đèn lại gần chỗ hai người đang đứng, ba cô gái cũng ngừng chải tóc và nhìn họ. Anh Khảm! Tôi nhận ra rồi. Nhà anh ở gần tiệm chạp phô nhỏ trong cùng khu phố bên quê nhà. Nhưng, tôi nhớ anh đã vượt biên từ năm ngoái và sống ở bên Malaysia mà. Sao bây giờ anh lại có mặt ở đây? Không lẽ anh cũng bị y như ghe chúng tôi? Tôi liền mời hai người họ ngồi xuống chiếu, cô Đào lật đật mang nước trà nóng ra mời. Anh Khảm cười với cả bọn chúng tôi và kể:

    - Hồi chiều khi biết tin có hai ghe mới đến trại, anh hỏi thằng bạn làm trong phòng hành chính thì nó dò hồ sơ, nói có vài người thuộc quận Tân Bình mà không rõ ở phường nào. Do vậy, khi vừa cơm nước xong thì anh chị vội tìm đến, xem coi có gặp người quen nào trong khu phố không. Ghé qua mấy cái barrack của chiếc ghe trước nhưng không gặp friend nào cả, vào đây thời may anh gặp Vũ. Mừng quá đi!

    " Anh-Chị "! Khi vừa từ Campuchia trở về, tôi vẫn còn gặp vợ và hai đứa con anh Khảm, vậy thì người phụ nữ trẻ cạnh bên anh ở đây là ai? Sẽ hỏi anh sau vậy, chắc chắn! Vừa lúc thì Đỉnh đi tắm về tới, anh Khảm mời cả nhóm chúng tôi đi ra quán uống nước tán chuyện cho vui. Lời mời của anh thật đúng lúc vì ba cô gái mới vừa ban nãy đã bàn nhau khi Đỉnh tắm về, cả bọn sẽ đi một vòng xem coi phố xá Galang cho biết. Chúng tôi liền gom các túi xách để gọn chính giữa một tấm chiếu và phủ kín lên bằng các tấm khác rồi kéo nhau đi theo anh Khảm cùng người phụ nữ.

    Ba cô gái bám sát người phụ nữ hỏi chuyện huyên thuyên để tôi, Đỉnh và anh Khảm lẽo đẽo theo sau lưng họ. Lấy tay chỉ người phụ nữ đó, tôi hỏi nhỏ anh Khảm:

    - Chị nầy là ai vậy hả anh?. Anh Khảm mỉm cười, khẽ khàng:

    - Xe của anh đó Vũ.

    Tôi thắc mắc:

    - Xe là nghĩa gì, em không hiểu?.

    Anh Khảm giải thích:

    - Ở Galang, người ta gọi bồ bịch với nhau là Xe mấy em à. Đẩy xe nghĩa là có bồ, có girlfriend hoặc boyfriend đó.

    Khi còn ở trong barrack đèn vàng lù mù mờ mịt, giờ theo lời mời của anh Khảm đến quán thì chúng tôi mới thấy phố xá Galang thật nhộn nhịp. Tiệm tạp hóa, quán ăn, quán nước và cả nhà ở nằm sát bên nhau dọc theo cạnh đường có đèn chiếu sáng chưng. Thêm vào đó, vài xe bán bánh mì, nước mía hoặc sữa đậu nành nóng lạnh... làm khu phố thêm sinh động. Quán cà phê nào đám chúng tôi đi qua cũng đông nghẹt khách vừa uống nước vừa xem TV khá lớn được treo ở hộc trên tường. Anh Khảm dẫn chúng tôi vào một quán cà phê có những bàn phía ngoài sân và chọn một cái bàn rộng nằm cạnh một cây dù nylon lớn phòng mưa. Anh Khảm lấy thuốc lá ra mời tôi và Đỉnh rồi nói khi thấy một cô hầu quán đến bên bàn.

    - Ba người mình uống cà phê sữa đá nha hai em? Còn Phượng và ba cô gái thích thứ gì thì cứ gọi tự nhiên nghe.

    Bẩy, Đào, Yến và người phụ nữ đi cùng anh Khảm đều gọi trái Vải đóng hộp. Nhìn bên trong và ngoài sân quán, khách đông nghẹt ngồi ken chật với nhau ở các bàn, tôi nghĩ ít nhất cũng phải trên dưới 200 người. Phía bên ngoài hàng rào của quán cà phê, người đi kẻ lại đông đúc trên đường hoặc dừng chân trò chuyện với nhau. Đèn điện sáng chưng trong các tiệm ăn phía bên kia đường soi rõ khá đông thực khách đang dùng bữa tối với nhau. Một hình ảnh giống như của khu phố buôn bán náo nhiệt cuối năm gần Tết bên quê nhà. Không biết đảo tị nạn Galang rộng cỡ nào mà trước mắt tôi lại có quá đông người Việt. Nghe tôi giới thiệu tên của Đỉnh và của ba cô gái xong, anh Khảm hỏi:

    - Nhập trại Galang, rồi thấy barrack Cao Ủy cho mình ở đâu dè lại tệ như vậy hả mấy em? Hàng tiếp liệu họ phát cho được những thứ gì rồi, kể anh nghe xem?

    Tôi kể tên các món hàng mới nhận được lúc xẩm tối, anh Khảm nghe qua từng thứ rồi bảo:

    - Thế thì còn thiếu một cái chăn len. Có lúc thì thiếu chiếu hoặc thiếu khăn, thiếu nồi... Vậy là hàng tiếp liệu chưa về kịp rồi, còn phải chờ vài ngày mới có đấy.

    Hàng tiếp liệu về không kịp thì số người nhập trại Galang phải rất đông. Anh Khảm lại tiếp:

    - Hiện giờ, Galang có khoảng 15.000 người Việt tị nạn và sẽ còn thuyền nhân tiếp tục đổ đến nữa. Chưa bao giờ trại Galang lại đông người như vậy, cứ nhìn các quán cà phê ở đây thì biết. Không còn chỗ chứa, Cao Ủy phải cấp tốc làm các loại barrack lợp lá cho người mới đến trại như chỗ mấy em ở đó.

    Các thức uống được cô hầu bàn mang ra, anh Khảm và chị Phượng mời đám chúng tôi dùng. Cà phê sữa đá đã làm tôi sảng khoái tỉnh cả người. Nó quá ngon vì đã bao nhiêu ngày rồi nay chúng tôi mới có miếng nước đá để uống. Đào, Bẩy, Yến và Đỉnh cùng mỉm cười nhìn nhau sau ngụm nước mát lạnh. Anh Khảm hỏi thăm về gia đình tôi cùng các người quen khác trong khu phố bên quê nhà. Anh Khảm lớn hơn tôi 6 tuổi, gốc lính không quân và có vợ tên Hoa cũng người sống chung trong khu phố. Tôi còn nhớ vào cuối năm 1974, cả khu phố đã kéo nhau ra xem đám cưới của anh Khảm khi họ hàng hai bên đi rồng rắn từ nhà trai qua nhà gái rồi đến nhà thờ để làm lễ hôn phối. Ai cũng khen đôi vợ chồng anh thật đẹp. Anh Khảm tính tình hiền lành, rất thương vợ con và lúc nào cũng sống hoà thuận với chòm xóm-láng giềng. Tôi chưa thấy vợ chồng anh gây gỗ, to tiếng với nhau. Có người ở trong khu phố còn lấy gia đình anh Khảm để làm gương mẫu cho con cái trong nhà học theo. Khi đám Việt Cộng chiếm được miền Nam VNCH thì anh Khảm bị tù cải tạo hơn 4 trời vì chuyện đi tu nghiệp một khoá 8 tháng ở Mỹ lúc trước. Khi ra tù, anh Khảm phải làm đủ nghề từ đạp xích lô, bỏ mối nước đá, sửa xe đạp... phụ với chị Hoa buôn bán lặt vặt ở chợ để sống. Vậy mà cũng không yên với Hai Lùn, gã công an trong khu vực. Hai Lùn vẫn nói dân buôn, người bỏ mối hàng như vợ chồng anh Khảm... thuộc thành phần ăn bám xã hội. Hai Lùn là con trai một gia đình cán bộ mới chuyển đến sống ở khu phố trong thời gian nhiều gia đình phải bỏ nhà để đi vùng kinh tế mới. Không lâu sau đó thì Hai Lùn được chính quyền địa phương chọn để làm công an khu vực. Trình độ văn hóa thấp và bản thân còn đang học bổ túc nên Hai Lùn luôn có thành kiến với những người học hành đàng hoàng và đặc biệt, y rất ghét người từng du học nước ngoài bất kể về một chuyên môn gì. Người chế độ miền Nam VNCH còn sống trong khu phố đã phải khổ và điêu đứng vì y. Lấy cớ là thăm hỏi bà con cùng đi sâu đi sát quần chúng, Hai Lùn thường bất ngờ đi vào nhà những người nằm trong sổ đen. Y làm ra vẻ quan tâm hỏi han nạn nhân nhưng thực ra là để dò xét, theo dõi.

    Chị Phượng bảo xong chầu nước thì cả bọn sẽ đi quán hủ tiếu nhưng anh Khảm góp ý nên ăn bánh mì cho gọn. Thấy năm đứa chúng tôi đồng ý, chị Phượng kéo Yến đi ra ngoài rồi sau đó mang về các ổ bánh mì thịt còn ấm. Nghe Đỉnh thắc mắc về chủ quán cà phê, quán ăn ở Galang là người bản xứ hay người Việt thì anh Khảm cho biết:

    - Galang nó như một cái phường ở bên Việt Nam. Dân tứ xứ người vượt biên mình được Cao Ủy tập trung về hết nơi đây. Người có tiền nhiều thì mở quán bán cà phê, tiệm may quần áo hoặc quán ăn. Vốn nhỏ thì bán bánh mì, gánh nước, làm công... để sống lây lất qua ngày chờ đi định cư.

    Ăn bánh mì xong, chị Phượng rủ 3 cô gái đi lòng vòng cho biết phố xá, để anh Khảm cùng tôi với Đỉnh ngồi lại quán. Anh Khảm lúc này mới hỏi:

    - Vũ thấy chị Hoa và hai con anh vẫn khoẻ chứ? Có nghe bà con chòm xóm nói gì về anh không vậy?.

    Thực tình, tôi chẳng nghe bà con chòm xóm nào trong khu phố nói gì về anh cả. Hỏi vậy, chắc anh Khảm muốn thăm dò chuyện đang sống chung với chị Phượng ở đây? Thấy tôi lắc đầu, anh Khảm bộc bạch:

    - Anh và Phượng quen nhau từ lúc sống bên Malaysia rồi khi chuyển đến trại Galang, cả hai càng thân hơn và... bồ bịch với nhau từ lúc nào cũng chẳng nhớ.

    - Chị ấy có biết anh còn gia đình bên quê nhà không? Tôi hỏi.

    - Biết chứ em! Anh đâu dấu diếm gì. Những lần anh viết cho Hoa hoặc nhận được thư gửi sang thì Phượng cũng được đọc. Không biết cứ sống với Phượng mãi như thế nầy rồi anh sẽ phải làm gì? Cũng khổ tâm lắm Vũ ơi!

    Hỏi thêm về vợ và hai người con anh nhưng thấy tôi chẳng biết nhiều hơn thì anh Khảm im lặng, ngồi dựa lưng vào thành ghế tư lự. Đỉnh nháy mắt nhìn tôi rồi nó bỏ vào bên trong quán kiếm chỗ để xem TV đang chiếu một đoạn phim cao bồi miền viễn Tây-Hoa Kỳ có tài tử Clint Eastwood đóng. Tôi và anh Khảm ngồi nói chuyện quê nhà được độ gần một tiếng đồng hồ thì chị Phượng cùng ba cô gái quay về mà trên tay mỗi người lỉnh kỉnh vài thứ đồ gồm xô đựng nước, bình, ly và các món lặt vặt cá nhân. Yến cho biết:

    - Chị Phượng cho tụi em mượn tiền để mua đó anh Vũ.

    Thấy Đỉnh trở lại bàn, anh Khảm gọi quán tính tiền rồi rủ cả bọn ghé vào barrack nơi anh sống cho biết chỗ. Theo chân anh Khảm-chị Phượng, đám chúng tôi băng qua cổng lớn của một bức tường bằng tôn ngăn cách với phía ngoài đường nhựa rồi đi vòng vèo, xuyên thẳng ngang ruột các barrack nằm liền sát bên nhau.

    - Đây là zone 3, nơi ở của những người đến từ đầu năm 1989 ngay sau ngày Cao Ủy tuyên bố đóng cửa trại, anh Khảm kể.

    Khác hẳn với các barrack lợp lá thô sơ tạm bợ như ở zone 4 chỗ ban Đại diện vừa sắp xếp cho chúng tôi nhập trại hồi lúc chiều, những barrack ở trong zone 3 đều cất bằng gỗ ván có mái lợp tôn vững chắc nhưng có điều phải nằm trong một hàng rào ngăn cách với bên ngoài. Có lẽ lúc đầu, Cao Ủy nghĩ chỉ còn ngần đấy người Việt vượt biên đến trại nên mới thiết lập barrack kiểu biệt lập như vậy. Đèn neon treo đều trên các cột điện ở các lối đi nên trông khu vực zone 3 thật sáng sủa, sạch sẽ. Barrack nào cũng vậy, đều một kiểu có sập gỗ ở hai bên để làm giường cho người ở và một lối đi tráng cement ngay chính giữa căn nhà. Chỗ ở của anh Khảm-chị Phượng ở gần cuối barrack nơi đã được họ quây kín bằng các tấm plastic mầu thành một căn phòng nho nhỏ khá kín đáo. Lấy tay vén các tấm plastic về một phía cho gọn, anh Khảm-chị Phượng mời đám chúng tôi ngồi lên phần ván gỗ, giang sơn riêng của hai người họ.

    - Đây là nhà của anh chị. Lúc đầu, khi Cao Ủy cho tụi anh vào sống trong barrack nầy thì ai cũng thấy nó quá tệ so với các bararck ở trong Galang 2. Bây giờ, so sánh với barrack của người mới đến như các em thì mới thấy trại tị nạn càng ngày càng tệ hơn. Anh Khảm nói.

    Chị Phượng cho biết mỗi barrack ở zone 3 đều có 10 phòng vệ sinh cùng một nhà bếp tập thể. Sáng nào cũng vậy, trại sẽ bơm nước phân phối vào từng dẫy barrack và mỗi đầu người thì được cấp cho 30 lít nước dùng để nấu ăn, sinh hoạt. Tuy vậy, chuyện tắm táp hoặc giặt rũ thì cũng phải xuống dưới suối ở zone 4, chỗ mà chập tối chúng tôi vừa tắm. Ai có tiền thì mua thùng phi sắt hoặc thuê người đóng các con heo lớn để chứa nước mưa xài thêm. Anh Khảm-chị Phượng cũng có một con heo lớn và hai cái phi sắt chứa nước mưa nằm phía bên ngoài sát cạnh các cửa sổ. Như vậy, cuộc sống của họ quá ngon so với đám chúng tôi cùng các barrack lợp lá tạm bợ ở zone 4 bây giờ. Vậy mà anh Khảm còn so sánh chỗ đang ở với các barrack bên trong Galang 2, tôi liền hỏi:

    - Có Galang 2 nữa hả anh? Trước giờ em chỉ nghe nói đến Galang không mà thôi.

    - Phải! Chỗ mình là Galang 1 em à. Galang 2 cách xa đây độ 3 km đường mà còn có Galang 3 và cả Galang 4 nữa... cũng ở trên đảo nầy. Các barrack trong Galang 2 sạch và tiện nghi hơn ngoài Galang 1 mình nhiều. Mỗi barrack trong đó có 10 phòng và cứ 2 hoặc 3 người thì ở chung một phòng mà còn có cả bếp riêng nữa đó.

    Rồi anh Khảm lấy ra một cái thùng gỗ khá rộng, nói của đám bạn đi định cư để lại cho anh nhưng không dùng đến nên giờ cho tôi để có cái mà chứa đồ đạc riêng. Ngồi chơi thêm một lát thì đám chúng tôi cáo từ anh chị Khảm-Phượng để về chuẩn bị ngủ. Đi ngược theo lối cũ quay trở ra khu phố, tôi thấy trời tuy đã hơn 10 giờ đêm nhưng trong các quán cà phê vẫn còn khách ngồi đồng ở các bàn không khác gì bên quê nhà. Các tiệm tạp hoá của người địa phương thì đang dọn dẹp hàng hóa bày bán ở phía bên ngoài nhà họ. Trên đường, vài người Việt tản bộ hoặc ngồi im lặng hút thuốc ở các băng ghế dựng sát bên các hàng cây.

    Về tới barrack thì tôi thấy ông Thăng đang trò chuyện với một thanh niên trong nhóm của Tám Kiệt ngay giữa lối đi sát bên chỗ ở của cả đám. Gặp bọn tôi, ông Thăng liền nói:

    - Hai cậu Vũ và Đỉnh ở gần bên, có gì thì giúp cho mấy người hàng xóm mới nầy nghe.

    Thì ra, ông Thăng vừa đổi chỗ cho một nhóm người khác thế vào chỗ của nhóm cũ. Hàng xóm mới của chúng tôi là hai đứa bé một nằm và một ngồi trên tấm chiếu sát cạnh cây đèn dã chiến cùng ba phụ nữ đang loay hoay bên đống đồ đạc của họ. Một trong số họ là người phụ nữ mà tôi và Đỉnh đã bắt gặp trong rừng bên Malaysia thuộc nhóm Tám Kiệt. Hai phụ nữ kia cùng hai đứa bé là khách đi trong ghe. Anh thanh niên trong nhóm Tám Kiệt đã giúp làm một con heo nước nhỏ cùng sắp xếp gọn gàng chỗ ở mới của 5 người, nói với người phụ nữ đó:

    - Chị Tư! Tạm thời tối nay mấy chị ở như vậy đi, mai sáng thì em sẽ dọn cho gọn hơn.

    Người phụ nữ có tên chị Tư đáp:

    - Chú làm gọn lắm, thôi về nghỉ đi, chị cảm ơn nhiều.

    Từ lúc được ban Đại diện trại sắp xếp ghe chúng tôi vào zone 4 cho đến giờ vì lu bu việc dọn dẹp sau đó thì ra suối tắm rồi theo anh Khảm-chị Phượng đi quán, tôi cũng chưa biết chỗ ở của từng nhóm người trong hai barrack nầy. Hai cô Đào, Bẩy trải lại các tấm chiếu còn Yến thì ngồi lúi húi mồi lửa một khoanh nhang trừ muỗi. Đỉnh khen Yến giỏi vì cả bọn đang lo tối nay ngủ không có mùng sao chịu nổi với bầy muỗi đói. Yến trả lời:

    - Chị Phượng bảo ba đứa em mua chứ có ai biết gì đâu hả anh Đỉnh. Ban nãy đi mấy tiệm kiếm mua cái mùng lớn mà cũng hết, phải vào Galang 2 mới có.

    Thấy mọi việc đã tạm ổn, tôi và Đỉnh bỏ ra ngoài barrack thì gặp một nhúm người đang đứng trò chuyện ở bãi đất trống ngăn cách giữa hai barrack. Có cả ông Thăng, Phát trong số họ nên tôi và Đỉnh tò mò dừng lại nghe chuyện.

    - Mình phải làm cấp tốc ngay sáng mai anh Thăng à! Không thì kẹt lắm, ông Hưng nói.

    Đỉnh chen vào hỏi thì mới biết 2 bararck mà zone 4 cấp cho ghe chúng tôi ở lại chưa có cái nhà cầu nào. Ông Thăng tiếp lời:

    - Tụi Tây Phương đi đến đâu thì họ đều làm cái chỗ đi vệ sinh trước hết sau mới tới nhà ở. Tôi đang lo sáng mai không biết mấy người trong ghe mình lấy chỗ nào mà xả bầu tâm sự đây? Trước mắt thì thân ai nấy lo rồi, đành phải vậy thôi. Chắc tôi phải hỏi xem ông zone trưởng coi có dư nhà vệ sinh nào khác để cho ghe mình dùng tạm nhưng giờ thì tối quá rồi không dám làm phiền ông ấy nữa. Chưa bao giờ tôi mệt như ngày hôm nay, còn chưa đi tắm được nữa nè.

    Trăng bây giờ mới mọc, chiếu ánh sáng vàng vọt trên khu barrack lợp lá nằm sát bìa rừng trông tương tự những nhà sàn của người thiểu số ở vùng cao nguyên nước Việt. Tôi và Đỉnh quay về barrack, dưới ánh đèn lù mù, mọi người đã nằm yên lặng trên các tấm chiếu. Đến chỗ của cả bọn, 3 cô gái đã nằm gọn co quắp sát bên nhau và chừa phân nửa phần chiếu còn lại cho Đỉnh với tôi. Đỉnh ngồi vụt xuống nơi mép tấm chiếu sát bên chỗ của nhóm phụ nữ-con nít bên cạnh và nó nói nhỏ:

    - Em xí chỗ này, cho anh nằm gần mấy cô đó.

    Coi lại thì chỗ tôi nằm sát bên với Yến. Tôi nằm yên, ngửa mặt lên trần căn barrack lá tối đen và dù mắt đã nhắm thật lâu nhưng vẫn chưa ngủ được trong đêm trường tĩnh mịch. Tôi nhổm đầu lên nhìn chung quanh, các ngọn đèn dã chiến đã tắt nhưng nhờ có trăng sáng bên ngoài hắt vào qua các chỗ trống nên vẫn trông rõ nhiều thân người nằm dài im lặng bên nhau. Tôi buông xuôi hai tay dọc theo thân mình vừa lúc thì Đỉnh xoay tấm thân và hẩy người tôi về sát bên Yến rồi ngay sau đó nó lại lấn sang đẩy tôi thêm lần nữa. Hai tay tôi giờ đã chạm sát bên thân người của Yến và tai tôi thì nghe nàng thở nhè nhẹ cùng tiếng của Đỉnh chép miệng ngủ mê. Nhìn đồng hồ dạ quang đã 2 giờ sáng mà tôi vẫn thức, không biết do lạ chỗ, vì ly cà phê sữa đá uống lúc chập tối hay vì nằm sát bên người Yến? Đỉnh lại xoay người, ép sát vào tôi nên buộc tôi phải xoay thân mình nằm nghiêng như nó. Đỉnh vẫn thở đều đều, có lúc cục cựa thân mình rồi nó choàng một tay lên bờ vai tôi. Gió đêm thổi qua thông vào barrack làm tóc của Yến bay loà xoà vào cổ và vào cả mặt tôi. Tôi khẽ dơ tay vuốt bỏ những sợi tóc của nàng xuống thì trời ơi, tay của Đỉnh đã chộp lấy tay tôi và nó đặt nhẹ lên người của Yến. Tôi hốt hoảng vì việc làm bất ngờ của Đỉnh nhưng chưa kịp có phản ứng gì thì Yến đã nắm lấy bàn tay tôi và hất ra khỏi thân người nàng ngay.

    Phản ứng của Yến thật nhanh, đột ngột làm tôi có chút sững sờ. Thì ra nãy giờ, 3 đứa tôi nằm đó nhưng vẫn thức. Tôi nằm yên, chút áy náy lẫn bực bội vì việc xảy ra. Không biết Yến có hiểu cho tôi không?

    Vừa lúc, có tiếng thét ở cuối barrack làm nhiều người lồm cồm chồm dậy. Các đèn dã chiến được người trong barrack thắp lên chung với ánh đèn pin từ tay người nào đó loang loáng soi đường. Tôi và Đỉnh cùng các người khác vội chạy đến chỗ có tiếng thét đó.

    - Con gì vừa cắn tui xong ở chỗ này nè. Đau quá! Không biết có phải rắn độc không? Cứu tui ngay, bà con ơi.

    Một thanh niên khuôn mặt thất thần, hai tay anh đang ôm phần dưới bắp chân trái mà miệng run run, nói lắp bắp đứt quãng. Ánh đèn pin chiếu ngay phần chân gần mắt cá của anh ta, soi rõ một vết đỏ nhỏ còn ri rỉ máu.

    - Rắn rồi mà chưa rõ độc hay lành đây... Để phòng cho chắc, mình phải làm ga rốt ngay kẻo không nọc chạy vào tim, người cầm đèn pin đó nói.

    Một sợi dây được mang đến và nhanh chóng nó được cột chặt ở phần trên chỗ bị thương của nạn nhân. Ông Thăng đã có mặt liền, trong vẻ mệt mỏi vì mất ngủ, bảo với anh thanh niên:

    - Tôi đi báo cho ông zone trưởng biết để gọi xe cấp cứu ngay đây, cậu ráng chịu đựng một chút nha.

    Tin rắn bò vào chỗ ngủ cắn người loan ra làm ai trong barrack cũng sợ, đảo mắt nhìn những chỗ tối đen của phần vách trống bên phía rừng và nghĩ còn vài con rắn nữa đang chờ sẵn đâu đó. Một ông bày cách lấy ít dầu hôi đem rảy về phía vách trống và cả những chỗ nghi ngờ khác, mong để rắn hay bọ cạp ngửi thấy mùi sẽ sợ, phải bỏ đi. Trời khuya lạnh lại chưa có mền đắp nên hầu như người nào cũng phải khoác thêm quần áo lên người cho ấm. Ông Phát nói:

    - Tôi nghĩ, barrack mình ở là đám đất hoang cây cối um tùm, hang con rắn nầy nằm đâu đó đến khi mình vào dọn dẹp, nó bỏ đi rồi khuya quay về và chân cậu này chạm phải nên đã bị cắn chứ thực ra giống rắn thường tránh người.

    Cậu thanh niên được dìu từ barrack ra gần đường nhựa để chờ xe nhà thương đón trong tình trạng người rũ rượi, có lẽ do nọc độc chạy và vì sợ hãi mà thực sự chúng tôi cũng đang sợ đây. Ra tới ngoài sân, chúng tôi cùng đứng chùm nhum từng đám nhỏ ba, bốn người với nhau. Trời về sáng, trăng mọc từ lâu trải ánh vàng trên các hàng cây cùng mái lá của các bararck nằm im trong cái tĩnh mịch chung quanh trông như một làng quê đêm khuya. Vài trật tự viên của zone đi tuần nghe chuyện cũng ghé vào chỗ chúng tôi, một người trong bọn họ nói:

    - Mấy ông cột ga rốt ngay coi như an toàn. Galang nhiều rắn lắm nhưng được cái tụi Indo trị rắn cắn và sốt rét rất tài. Cậu này đến nhà thương, bác sĩ nó chích cho một mũi là khoẻ ngay. Sống ở đây, mình chỉ ớn bị đau ruột dư thôi.

    Người khác thì khe khẽ:

    - Không phải rắn độc cắn đâu. Nếu đúng rắn độc cắn thì khác. Cái này tại quá sợ nên chả mới vậy, tui nhìn biết mà.

    Tiếng động cơ vọng đến và rồi ánh đèn pha xe hơi xuất hiện ở đầu bờ dốc, ông Thăng cùng các trật tự viên vội chạy ra đón. Chiếc xe trắng cùng huy hiệu Hồng Thập Tự liền ngừng, hai nhân viên y tế người Việt nhẩy xuống phụ sức với các thanh niên trong barrack dìu nạn nhân lên xe. Ông Thăng cắt một thanh niên khác đi theo xe trông chừng, thấy việc đã xong, các trật tự viên bảo chúng tôi tan hàng về lại barrark ngủ. Vừa tới cửa barrack, tôi gặp một bóng người đang đứng và khi lại gần thật không ngờ đó là Yến. Lúc nãy, tôi vẫn thấy nàng nằm tại chỗ bên cạnh Đào và Bẩy sao giờ lại có mặt ở đây. Thấy tôi, Yến ra dấu đứng lại rồi nàng nói chầm chậm thật rõ:

    - Anh Vũ không được làm như vậy nữa với em.

    Nàng lập lại thêm lần nữa trước khi bỏ vào barrack, để tôi đứng đó một mình trong sượng sùng lẫn mắc cỡ.

    -Trời ơi! Đỉnh! Mày đâu rồi, tôi than thầm.

    Tôi đứng yên tại chỗ rồi từ từ ngồi bệt xuống đất, nghỉ là phải chi có Đỉnh ở đây để nghe được lời Yến vừa nói thì hay biết bao! Và, chắc tôi sẽ mắng cho nó một trận cho hả. Ngồi đó nhưng lại sợ gió khuya lạnh làm tôi cảm nên phải quay về chỗ của mình. Yến đã nằm yên co quắp thân như con tôm, nhắm mắt như đã ngủ từ lâu. Nhẹ nhàng tôi nằm xuống, cố tránh đụng vào nàng. Tiếng Đỉnh thở nhè nhẹ đều đều, tôi đá nhẹ vào chân nó nhưng nó vẫn bất động. " Không biết thằng này mày đã ngủ thật hay còn giả vờ ", tôi lầm thầm.
    (còn tiếp)

  7. #26
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Một buổi sáng sớm cách hai ngày sau, 5 đứa chúng tôi theo anh chị Khảm-Phượng vào Galang 2 để mua đồ dùng cá nhân. Galang 1 cách Galang 2 độ 3 km và chỉ có một đường đi độc nhất. Nhiều khúc đường, cây rừng lẫn lau sậy hoặc cỏ chùm mọc lấn ra tận hai bên mép lộ. Chúng tôi đi ngang qua các barrack lợp lá của zone 2 rồi tiếp đến zone 1 nằm dọc theo bên đường. Barrack nào trông cũng cũ, bầy hầy vì chắp vá của người tị nạn ngay chỗ họ tá túc. Vài nơi bên cạnh đường là nguyên cả vườn rau cải chung với các giàn bầu, bí nằm xen lẫn với các nếp nhà nho nhỏ như chòi lá. Chị Phượng nói các căn nhà đó đều của người Việt vì khi ghe chị đến trại thì chỗ này vẫn còn là bãi rừng thưa. Biết phải tạm dung ở đây lâu và vì không thích sống chung đụng trong barrack chật hẹp nên một số người xin phép tụi P3V ra đây trồng trọt rau trái bán kiếm thêm. Dọc đường, theo anh Khảm cho biết thì trong trại tị nạn Galang có 2 nhà thờ Công Giáo, 2 nhà thờ Tin Lành, 2 chùa Phật Giáo, 1 Thánh Thất Cao Đài, 1 nhà thờ phượng Hòa Hảo và 1 Trung Tâm Chơn Lý của một tín đồ Thông Thiên Học.



    Barrack thuộc zone 4-Galang 1, tương tự barrack của PTV từng sống.


    Vừa đổ xuống một con dốc thì chúng tôi băng ngang qua nghĩa địa của thuyền nhân nằm sát bên đường. Nghĩa địa cũng nằm trên một triền đồi thấp. Bậc thang xi măng dẫn lên lối vào có nguyên một tấm bia mầu trắng khắc chìm những hàng chữ sơn đỏ: ... Dedicated to the people who died in the sea on the way to the freedom... Tưởng niệm đồng bào đã tử nạn trên đường vượt biển tìm tự do... đã làm tôi nhớ đến khu mộ địa người Việt khi ở trại trong rừng Malaysia. Gần như chắc chắn là ở trại tị nạn người Việt nào cũng có người phải bỏ xác nằm lại, anh Khảm nói nghĩa địa Galang có tới mấy trăm ngôi mộ làm cả bọn nghe mà giật mình. Bị cái gì mà chết nhiều dữ vậy! Hết nghĩa địa thì gặp nhà thờ Tin Lành rồi quẹo vào một con đường phía tay phải, chúng tôi đi ngang qua văn phòng P3V. P3V là tên gọi của an ninh địa phương lo chuyện trị an tại trại, anh Khảm giải thích. Tầng dưới của một barrack dành cho đám police ở gần đó để nguyên một căn dùng làm nơi nhốt người gọi là chuồng cọp. Có vài người ngồi sau song sắt đưa cắp mắt buồn bã nhìn đám chúng tôi đi ngang.

    - Họ là người Việt mình phải không chị và tại sao lại bị bắt nhốt vậy?, Bẩy hỏi nhưng anh chị Khảm-Phượng chỉ gật đầu và hối cả bọn chúng tôi rảo bước chân nhanh hơn.

    Đi hối hả cho đến khi gặp được nhà ở cùng hàng quán thì chị Phượng mới trả lời:

    - Ban nãy anh chị hối mấy em đi cho lẹ vì sợ mấy người bị nhốt ở trỏng gọi mình giúp họ một việc gì đó. Nếu không giúp thì mình áy náy trong lòng mà giúp lại sợ bọn police cà khịa kiếm chuyện. Đám police ở đây có vài thằng nói tiếng Việt sõi lắm. Nghe nói tụi nó từng sống bên nước mình rồi khi đám Việt Cộng vào Sài Gòn thì hồi hương về lại Indo rồi được tuyển đến đây làm việc đó.

    Chúng tôi đến một ngã ba đường, văn phòng ban Đại Diện Galang 2 là một barrack hai tầng nằm ở bên phải. Barrack này có một phòng nhỏ ở tầng trệt mang tên PKL của một nhà thầu địa phương. Nhà thầu này nhận thư bảo đảm từ bưu điện bên đảo Tanjung Pinang rồi mang sang Galang phát lại cho người tị nạn Việt Nam và cả người Khmer nữa. Thường thì thư bảo đảm nào cũng đều có check hoặc money order kèm ở trong và vì vậy, PKL nhận đổi check hoặc money order sang Rupiat (tiền Indo) để kiếm lời. Hối suất cứ 100 Đô la Mỹ bằng 160.000 Rupiat. Còn thư thường thì lại do phòng TMS thuộc ban Đại diện người Việt nhận từ phòng P3V về và lập danh sách người nhận thư rồi thông báo cho đồng bào biết qua hệ thống loa truyền thanh giăng khắp nơi trong trại.

    Trời tuy còn sớm mà quán nước nào trông cũng đầy nghẹt người ngồi bên nhau nói truyện bù khú, nhâm nhi ly cà phê nóng. Anh Khảm kéo chúng tôi vào một tiệm bên đường nói bọn mình ăn sáng rồi nghỉ một lát trong lúc chờ mấy chỗ bán vàng mở cửa. Được một chốc thì phòng Thông Tin trại bắt đầu đọc các bản tin sinh hoạt buổi sáng và khi kết thúc, loa phóng thanh phát ra một điệu nhạc Mỹ. Vừa nghe đoạn nhạc đó thì anh Khảm liền nói:

    - Ô! Hôm nay có chuyến định cư nè mấy em.

    Thì ra, như một thông lệ, hễ trong trại có chuyến định cư thì phòng Thông Tin đều phát thanh bài hát này. Không biết hôm nay sẽ có bao nhiêu người rời khỏi Galang đây? Họ quá may mắn. Lời hát nửa buồn nửa vui trôi lãng đãng trong điệu nhạc: ... When will I see you again... When will we share precious moments... Will I have to wait forever... Or will I have to suffer and cry the whole night through... When will I see you again... When will our hearts beat together... Are we in love or just friends... Is this my beginning or is this the end... When will I see you again...

    Những người rời trại hôm nay đều đã đến Galang trước ngày Cao Ủy tuyên bố đóng cửa, không bị thanh lọc như đám chúng tôi bây giờ và sở dĩ họ còn kẹt lại là vì bị trục trặc giấy tờ hoặc phải uống cho xong thuốc trị bệnh lao.

    Gần 10 giờ thì đám chúng tôi ghé vào một tiệm vàng nằm trong con phố chính của Galang 2. Mấy tiệm vàng ở đây ngoài chuyện mua đi bán lại thì họ còn làm kiểu như nhà thầu PKL là đổi ngoại tệ để kiếm lời. Tiền của quốc gia nào thì cũng được chủ tiệm nhận đổi sang Rupiat ngoại trừ tiền in hình lão già bên quê nhà. Trong các tủ kiếng của tiệm, ngoài dây chuyền, nhẫn, bông tai vàng còn thấy bầy cả tiền Canada, tiền Úc và tiền Franc nữa nhưng nhiều nhất vẫn là Đô la Mỹ. Gần bên cửa sổ mở, một thợ bạc lớn tuổi đang dùng cây đèn khò thổi chảy lỏng các mẩu vàng vụn trong cái khuôn nhỏ.

    - Ông này khéo tay lắm nha. Dây chuyền, cà rá bày bán ở đây là do một tay ổng làm ra, chị Phượng thì thào.

    Thấy đám chúng tôi, hai vợ chồng chủ tiệm cười thật tươi. Trước mắt thì 5 đứa chúng tôi đổi mỗi người 50 đô la Mỹ để có tiền trả lại cho chị Phượng cùng để mua sắm những thứ mà cả bọn cần dùng.

    Có các dụng cụ mới mua, tôi và Đỉnh đã bỏ nguyên tuần lễ liền để sửa sang lại chỗ ở chung của cả bọn. Giống như những nhóm người khác trong barrack, chúng tôi đã làm chỗ ở như một cái phòng nhỏ và có cửa gắn bản lề cùng ổ khóa cẩn thận. Rồi đóng cái giường bằng ván gỗ to đùng cho cả bọn 5 người ngủ chung trong một cái mùng thật rộng. Ở trại tị nạn thì việc nam nữ thuyền nhân trong các buổi đầu mới đến phải sống chung đụng trong một chỗ với nhau là chuyện bình thường. Tách ra sống riêng là chuyện về sau. Bây giờ, cả đám phân công là nấu ăn thì do 3 cô gái lo còn việc gánh nước từ suối về xài chung là nhiệm vụ của tôi và Đỉnh.

    Chúng tôi đã trở thành ma cũ khi có thêm nhiều chiếc ghe khác đến được Galang. Trong trại tị nạn, ngày tháng rất dài vì dư thừa thời gian ở không mà không biết làm gì. Thời khóa biểu sinh hoạt hàng ngày giông giống nhau cứ buổi sáng sau khi thức dậy thì ra ngồi quán cà phê cho đến gần trưa mới về barrack kiếm cái ăn qua loa rồi ngủ. Chiều thức dậy, đi tắm rồi ăn tối sau đó lại mò ra quán cà phê ngồi tiếp cho đến khi gần giới nghiêm mới về lại barrack để ngủ. Biết anh Khảm dạy Anh ngữ, tôi khuyến khích Đỉnh và 3 cô gái nên theo học nhưng lớp của anh lại mở ở tận ngoài Galang 2. Nghe 3 cô gái than phải ra tận Galang 2 học quá xa, anh Khảm bảo anh sẽ hỏi một người bạn là chủ quán cà phê ở Galang 1 để anh mượn chỗ dạy Anh ngữ khi quán này vẫn chưa mở hàng vào lúc sáng sớm.

    Một buổi tối có hẹn trước với anh chị Khảm-Phượng, đám chúng tôi đến quán cà phê có tên là Dạ Lý nằm ở trên một ngọn đồi thấp dọc theo con đường dẫn ra bãi biển. Bước vào quán, thấy anh chị Khảm-Phượng đã ngồi sẵn với một người lạ ở một bàn ngoài sân. Chúng tôi rụt rè ghé vào bàn thì anh Khảm liền giới thiệu với người lạ đó:

    - Anh Luân! Đây là các em tôi vừa mới đến trại.

    Ông tên Luân gật đầu chào đám chúng tôi và hỏi cả bọn uống thứ gì rồi ông bỏ đi vào bên trong. Thì ra ông ta là chủ quán cà phê này. Anh Khảm kể:

    - Ông ấy gốc bác sĩ quân y miền Nam VNCH và đã bị Việt Cộng bắt tù cải tạo gần 3 năm nhưng buộc phải làm việc cho chúng ở nhà thương Chợ Rẫy sau khi trả tự do. Ông vượt biên đến Galang trước ngày đóng cửa và lẽ ra phải đi định cư lâu rồi nhưng, bọn P3V cố tình dìm hồ sơ vì chúng cần bác sĩ phục vụ ở trại.

    Tôi nhìn chung quanh, quán Dạ Lý này bài trí khung cảnh khá đẹp, đèn mầu ở các chỗ khuất soi mờ mờ ảo ảo các bàn ghế lộ thiên chung với các chậu kiểng cùng các chùm lan rừng ở cạnh các lối đi. Đó là ở ngoài sân, còn bên trong là gian phòng nhỏ kê gọn 4 bộ bàn ghế hình vòng cung trước một TV khá lớn. Khách ngồi ở các bàn đó đang dõi mắt xem các đoạn tin thời sự địa phương. Vài tấm hình phong cảnh treo trên vách cùng các sợi kiểng trầu bà buông lõng thõng gần các cột nhà. Quán cà phê này là nơi mà anh Khảm sẽ mở lớp Anh ngữ vì bác sĩ Luân phải đi làm thiện nguyện ở nhà thương Galang 1 vào buổi sáng và ông ta chỉ mở bán vào giấc chiều cho tới khuya.

    Trong tuần lễ này, tối nào thì 5 đứa chúng tôi vẫn cùng anh chị Khảm-Phượng đến quán Dạ Lý ngồi uống nước, trò chuyện. Một buổi tối khi đang ngồi đồng ở cái bàn lộ thiên ngoài sân, trong lúc 3 cô gái đang hỏi chuyện học Anh ngữ với anh Khảm thì có một cặp nam nữ vào quán và họ ngồi gần một bàn không xa chỗ chúng tôi. Chị Phượng kín đáo hất mắt về hai người họ để chúng tôi nhìn. Người đàn ông thì lớn tuổi, da hơi đen, thân hình chắc nịch, mặc áo ngắn tay in mầu loè loẹt. Cô gái đi cùng có vóc dáng nhỏ nhắn và mặc áo thun ngắn quần jean xanh. Mặt cô gái đẹp, tuổi cỡ thiếu niên và có mái tóc đen dài.

    - Papa Phước và xe của lão đó mấy em, chị Phượng nói nho nhỏ.

    Papa! Cái tiếng mà người tị nạn gọi các sĩ quan Indo ở trong trại. Sao ông papa này lại có tên Phước của Việt Nam? Biết chúng tôi thắc mắc, chị Phượng tiếp:

    - Lão ta là sĩ quan thuộc bộ Nội Vụ Indo chuyên thanh lọc thuyền nhân mình, còn con nhỏ tên Hướng mới đến đảo trước ghe mấy em không lâu. Nó đi cùng với bà già ruột và đang chờ đến lượt làm hồ sơ sơ vấn đó.

    Từ ngày vào trại, chúng tôi coi anh chị Khảm-Phượng là thổ công ở Galang, giờ nghe chị Phượng nói chuyện về lão papa nên 3 cô gái liền hỏi tới. Anh Khảm kể:

    - Lão này rành tiếng mình lắm. Mấy em còn nhớ có lần đi ngang qua chuồng cọp của tụi P3V, anh-chị đã nói trong đám police có đứa biết tiếng Việt không? Cái đám biết tiếng Việt đó nguyên đã từng sống bên nước mình từ nhỏ nên chuyện bọn họ rành tiếng nước mình cũng không lạ. Chỉ riêng lão papa này mới độc. Lão học tiếng Việt trong thời gian bị bọn Việt Cộng bắt bỏ tù, mà tù cải tạo nha mấy em.

    Bị Việt Cộng bắt tù cải tạo! Chắc lão ta là sĩ quan hay viên chức của chính quyền miền Nam VNCH trước đây? Có lẽ! Vì đã có nhiều người gốc Tàu làm việc trong chính quyền nhưng nếu có thêm lão người gốc Indo này nữa thì thật lạ vì tôi biết người gốc Indo, Mã Lai, Phi hay Ấn Độ sống ở Việt Nam lâu đời nhưng chưa thấy có người nào cộng tác với chế độ cũ của miền Nam. Hầu hết họ được người Việt mình gọi bằng cái tên là dân Chà Và, Ma Ní, Ma Rốc Cốc ken... và họ sống bằng nghề buôn bán, cho vay tiền hoặc nuôi dê lấy sữa đem bán. Tôi và Đỉnh nhìn nhau, nói ra với anh Khảm điều suy đoán của mình nhưng anh lắc đầu, kể tiếp:

    - Lão bị bắt khi đang công tác trong cái gọi là Ủy Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên trước ngày 30-4-1975 và khi đó lão đang là một sĩ quan của Indonesia.

    Nói xong câu đó, anh Khảm ngồi thừ người im lặng rồi dường như thấy lời mình nói ra có thể gió sẽ mang đến... tai papa Phước cùng cô gái nên anh vội lấy ngón tay trỏ đưa lên miệng và kín đáo chỉ về chỗ hai người họ đang ngồi. Tôi và Đỉnh hiểu ý nên không dám hỏi nữa. Bác sĩ Luân sau khi mang thức uống cho papa Phước và cô gái xong đã ghé lại ngồi bên anh Khảm và cho anh biết lớp dạy Anh ngữ có thể khởi sự vào đầu tháng tới. Bác sĩ cũng tỏ ý sẵn sàng giúp 5 đứa chúng tôi nếu ai có chuyện gì cần khi phải đi khám bệnh hoặc muốn xin thuốc ở nhà thương. Nghe ông ta nói vậy, chúng tôi rất mừng vì biết mỗi ngày thì nhà thương chỉ phát ra 100 phiếu khám bệnh cho cả số người Việt ở Galang.

    - Anh cứ tới dạy học từ 9 giờ đến 11 giờ trưa vì buổi sáng tôi đóng cửa quán đi làm cho đến lúc xế xế mới về và nếu cần bàn ghế thì anh cứ sử dụng tự nhiên. Ông Luân bảo thêm lần chót với anh Khảm trước khi bỏ đi.
    (còn tiếp)

  8. #27
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Như đã kể ở các phần trước, tại Galang ngoài chuyện lấy cắp vặt quần áo phơi ngoài dây, cắt trộm bầu bí trên giàn thì hầu như không có vụ nhập nha nên nhiều căn nhà và thậm chí ngay cả ở các tiệm, quán bán hàng dù cửa nẻo gia chủ chỉ khóa sơ sài nhưng vẫn yên ổn. Một đời sống tương đối an bình trong khung cảnh thiếu thốn làm tôi ngạc nhiên. Chưa biết sau này khung cảnh sống trong trại Galang sẽ ra sao nhưng hiện tại được như vậy cũng là điều đáng mừng trong một khối tập thể người Việt tứ xứ sống tập trung xô bồ ở đây. Ai cũng nghĩ nếu người nào mà làm bậy để police bắt được thì sẽ ảnh hưởng đến hồ sơ định cư và chính nhờ vậy nên đã chùn tay đám người xấu. Quán cà phê của bác sĩ Luân cũng thế, ông bận làm việc tại nhà thương nên đành khóa trái bỏ mặc khi vắng nhà trong suốt buổi sáng. Không lo chuyện trộm cắp nhưng dẫu sao có anh Khảm đến mượn quán làm chỗ dạy học vẫn hơn là để không người coi nên ông Luân gật đầu liền. Có điều tuy ông Luân không nói nhưng anh Khảm cũng biết là phải có trách nhiệm đến sớm để dọn dẹp căn phòng chính của tiệm để có chỗ dạy học. Ly, tách khách bỏ lại cùng vụn tàn thuốc vương vãi trên mặt bàn và sàn phòng đều phải được dọn dẹp thật nhanh rồi anh còn phải sắp xếp kê lại bàn ghế, đặt tấm bảng đen sao trông cho ra một cái lớp trước khi các học trò đến. Dạy xong buổi học rồi thì anh Khảm còn phải dọn dẹp, kê trả các bàn ghế vào chỗ cũ nữa. May cái 3 cô gái cùng Đỉnh đã phụ giúp anh Khảm làm các việc này và đổi lại, anh sẽ dạy học miễn phí cho cả đám 4 người họ.

    Lớp Anh ngữ của anh Khảm đã bắt đầu mở ở quán cà phê Dạ Lý trong các ngày thứ Hai, Tư và Sáu từ đầu tháng và anh chỉ dạy mỗi buổi từ 9:00 cho đến 10:30 là tan. Hồi còn bên quê nhà, tôi biết anh Khảm chưa lần nào dạy học vậy mà ở đây, vì việc mưu sinh khi tạm dung và chiều theo nhu cầu cần biết Anh ngữ của người tị nạn nên anh đã trở thành một teacher dễ dàng từ khả năng English của bản thân.

    - Em biết đó, anh làm thầy giáo bao giờ đâu vậy mà thử dạy Anh ngữ một thời gian ngắn thì lớp anh đã có khá đông người theo học. Chính cái thời gian tu nghiệp tại Mỹ đã khiến anh dạy đàm thoại dễ dàng và thực sự anh chỉ có khả năng đến thế thôi. Anh chỉ nói khái quát chút văn phạm nhưng chú ý nhiều về đàm thoại vậy mà người ta lại thích. Có lẽ, người theo học nơi lớp của anh chỉ mong sao trong thời gian ngắn thì họ có thể đàm thoại những câu ngăn ngắn là đủ, anh Khảm thố lộ với riêng tôi.

    Một buổi sáng ngày thứ Sáu, tôi theo chân 3 cô gái cùng Đỉnh đến lớp Anh ngữ của anh Khảm xem cho biết. Cái phòng mà khách mỗi tối đến ngồi quán uống cà phê, xem TV giờ được anh Khảm dùng làm lớp dạy Anh ngữ trông cũng ổn. Bàn ghế được vần thêm từ ngoài sân vào mới đủ chỗ và anh chia lớp học thành từng nhóm ngồi riêng các bàn tùy theo trình độ từng người để họ vừa học vừa kèm cặp lẫn nhau. Người theo học trong lớp anh Khảm nếu gọi chung bằng hai chữ học trò thì thật ngại miệng vì ngoài những số tre trẻ như Đào, Bẩy hay Yến... thì có những người chỉ nhìn mặt không, cũng biết tuổi họ còn phải lớn hơn cả anh Khảm nữa. Coi như xí xóa chuyện xưng hô trong lớp học vì ai cũng hiểu đến được trại tị nạn thì chuyện phải lo trước mắt là chuyện thanh lọc rồi trang bị kiến thức để chuẩn bị bước vào sống trong một xã hội khác ở nước thứ ba nào đó và biết tiếng Anh là một trong những điều họ cần phải có. Mối quan hệ với nhau, nếu có thì khi chia tay đi định cư rồi cũng sẽ phôi pha theo thời gian. Anh Khảm cũng hiểu chuyện anh dạy họ học Anh ngữ như là việc người đã biết chỉ dẫn cho người chưa biết biết nên ai gọi anh bằng chữ thầy hay chỉ là anh, anh chẳng quan tâm.

    Ở đảo tị nạn Galang qua tới tháng thứ hai thì phòng P3V gọi barrack chúng tôi đi chụp hình để làm thẻ ID tạm dung. Trừ con nít đi với cha mẹ thì tất cả người trong ghe đều có thẻ mang số thứ tự theo vần ABC. Ghe chúng tôi mang số CL 135 và là ghe thứ 366 đến trại tị nạn Galang. Thời gian sống ở bên Malaysia thì phòng P3V ở đây không tính đến. Họ chỉ tính khi ghe cập vào một chỗ nào đó như đảo hay cảng và tiếp xúc được với chính quyền địa phương Indonesia nước họ. Vì vậy, dù ghe 233 người đến Malaysia sau nhưng vì họ cập vào cầu tàu Tanjung Pinang trước chúng tôi nên họ đã mang số thứ tự 365. Cứ ghe nào đến trước thì Cao Ủy sẽ thanh lọc trước và như vậy, ghe 233 người sẽ nằm trong danh sách thanh lọc trước ghe CL 135 chúng tôi. Hàng số CL 135 in trên thẻ ID mang nghĩa là ghe khởi hành từ Cửu Long và chở tổng cộng 135 người. Ghe 233 người mang số VT 233 vì họ ra đi từ bãi biển Vũng Tàu. Cái thẻ ID của những người đến sau ngày Cao Ủy tuyên bố đóng cửa chỉ khác với thẻ của thuyền nhân đến trước ngày đó ở hàng chữ Asylum Seeker (người tìm nơi tạm trú) thay cho Refugee (người tị nạn). Có thẻ tạm dung rồi thì người trong ghe chúng tôi mới có thể viết thư gửi đi cho thân nhân và nhận thư đến trại. Dù là chiếc thẻ mỏng manh nhưng cầm nó trên tay, ai nấy trong barrack đều mừng vì đã qua được một khúc ngắn của đoạn đường tị nạn còn dài thăm thẳm trước mặt. Nhưng cũng có người khi thấy con số thứ tự trên thẻ đã than:

    - Ghe mình mang số 366 thì không biết đến khi nào mới gặp được Cao Ủy phỏng vấn đây. Trời hỡi!.

    Ông Thăng và Tám Kiệt thì an ủi nói là đừng để ý đến thời gian thì sẽ thấy nó qua rất mau.



    Thẻ ID Tạm Dung của Phạm Thắng Vũ khi sống tại trai tị nạn Galang.

    Đỉnh và 3 cô gái học Anh ngữ rất chăm, khi rảnh rỗi thì họ đều lấy bài ra học và có nhiều bữa vì lo làm bài tập để nộp nên đã bỏ hẳn chuyện đi ra quán ngồi bù khú như trước. Theo lời giới thiệu từ 3 cô gái, trong barrack đã có thêm ít người đến học Anh ngữ của lớp anh Khảm. Khung cảnh trong barrack thật vui khi nghe tiếng hỏi thăm bài vở mới học được của nhau và chỉ duy nhất một người muốn cắp sách đi học Anh ngữ nhưng lại không thể. Đó là Thuận, tài công của ghe.

    Chàng ngư phủ trẻ tuổi nầy chỉ nói nhưng lại không thể đọc cũng như viết tiếng mẹ đẻ vì thời gian ở bên quê nhà, Thuận chỉ biết đến biển. Thật tội! Đành phải chờ Cao Ủy xây xong khu giáo dục cho người tạm dung thì khi đó Thuận mới có thể bắt đầu khởi sự việc học tiếng... Việt chung với các trẻ em trước rồi sau đó anh chàng mới nghĩ đến chuyện học Anh ngữ sau.

    Một buổi tối khi cùng anh Khảm vào quán cà phê Sài Gòn thì có một người đàn ông ngồi sẵn ở cái bàn lộ thiên gần bờ rào vẫy tay và cất tiếng gọi hai chúng tôi. Anh Khảm kéo tôi đến bàn của người đàn ông đó. Ông ta, nhìn mặt, tôi đoán tuổi đã ngoài sáu mươi nhưng trông còn nhanh nhẹn, có vẻ chịu chơi qua bộ dạng và y phục quần soọc ngắn với áo thun bó, đi giầy cùng vớ dài. Da ông ta xạm đen, khuôn mặt khắc khổ, đầu hơi hói nhưng tóc lại để dài nên trông có vẻ kỳ quái. Ông ta mỉm cười, thân mật nói giọng miền Bắc với anh Khảm:

    - Lúc này thế nào? Nghe nói anh mới mở thêm lớp ở chỗ anh Luân phải không? Dạy nhiều như vậy tiền sao tiêu hết? Tiếp máu cho anh em với chứ!

    - Cũng vẫn như thường thôi, mở lớp mới chỗ anh Luân thì tôi lại bỏ mấy chỗ cũ ngoài Galang 2. Dạy nhiều sao mà lết mà soạn bài được hả anh, còn phải giữ sức gìn sức khỏe nữa chứ. Anh Khảm trả lời.

    Anh Khảm giới thiệu với tôi người đàn ông đó tên là Bửu, cùng binh chủng không quân với anh và sau đó cả hai người họ xoắn lấy nhau trò chuyện về các tin thời sự đang nghe trong trại. Tôi ngồi yên nhìn ra phía bên ngoài quán nơi người Việt kéo nhau đi lên đi xuống thành từng nhóm dạo mát. Chợt tôi thấy một người đàn ông khá lớn tuổi cùng đi với một cô gái trẻ tóc dài ngang lưng lướt qua trước mắt. Trông hai người họ có vẻ quen quen, dường như tôi đã gặp mặt ở lần nào đó. Người đàn ông miệng hút thuốc lá còn cô gái cầm một gói đồ trong tay như vừa từ một tiệm tạp hoá nào đó đi ra. Anh Khảm và ông Bửu cũng thấy hai người này khi cả hai bỏ dở câu chuyện đang nói. Đang cố lục lọi ký ức thì tôi nghe tiếng ông Bửu:

    - Lúc vào thanh lọc anh gặp lão phải không?.

    Anh Khảm gật đầu xác nhận rồi hỏi lại:

    - Sao lão nói sõi tiếng Việt quá vậy hả anh Bửu?.

    Ồ! Tôi đã nhận ra hai người họ rồi, papa Phước và cô gái tên Hướng đây mà.

    - Anh biết tại sao lão lại nói tiếng Việt sõi như vậy không?, ông Bửu trả lời rồi ngừng lại chốc lát để hớp một ngụm cà phê sữa nóng và kéo thêm một hơi thuốc lá trước khi kể tiếp sau làn khói trắng.

    - Lão nói sõi tiếng Việt là vì đã từng ở Việt Nam khá lâu anh à. Đúng ra, lão bị Việt Cộng giam tới 7 năm trời đó anh. Chính vì đã bị tù lâu như vậy nên lão rất rành về dân mình, nước mình.

    Bị Việt Cộng bỏ tù 7 năm trời, tai tôi có nghe lầm không. Papa Phước là sĩ quan Indo nhưng sao lại bị Việt Cộng bỏ tù. Nguyên do và sự việc đó xẩy ra khi nào? Giọng ông Bửu khàn khàn nói quá nhỏ so với tiếng ồn của dàn máy nhạc trong quán nước làm tôi phải kéo ghế ngồi sát lại để nghe cho rõ. Anh Khảm cũng ngồi im chờ nghe chuyện ông Bửu sắp kể.

    - Tôi bắt đầu bằng cái gì về lão papa Phước nầy đây?

    Ông Bửu khẽ nhắm mắt như đang hồi tưởng lại câu chuyện và ngay sau đó ông mở mắt ra nhìn hai chúng tôi rồi kể bằng cái giọng đều đều:

    - A! Chúng ta phải trở lại thời điểm của tháng Giêng năm 1973 khi mà hoà ước Paris về ngưng chiến tại miền Nam VNCH ra đời trước đã. Có một điều khoản hay chương gì đó trong bản hoà ước quy định phải thành lập ngay một ủy ban quốc tế nhằm kiểm soát và giám sát việc thi hành của các phía chính quyền liên quan. Hình như là Chương 6, nếu tôi nhớ không lầm. Có 4 nước là đại diện cho cái ủy ban quốc tế nầy gồm 2 nước thuộc phe CS là Ba Lan, Hung Ga Ri và 2 nước bên phe tự do là Canada, Indonesia. Lão papa Phước nầy đã đến Việt Nam trong thời gian đó và tên thật của lão là Suriahdy chứ không phải cái tên Phước như chúng ta thường nghe gọi ở đây. Các anh còn nhớ các xe hơi và máy bay trực thăng UH với các vạch sơn mầu cam hoặc hàng chữ ICCS bên thân trong thời kỳ đó không?

    Ông Bửu ngừng nói trong giây lát rồi không đợi chúng tôi trả lời câu hỏi mà lại kể ngay:

    - Đó... đó! Ký hiệu dành riêng cho các xe hơi, máy bay mà cái ủy ban quốc tế nầy sử dụng trong các chuyến đi kiểm tra cùng giám sát việc thi hành các điều của bản hoà ước. Họ sơn các vạch mầu cốt để phân biệt với xe cùng máy bay của chính quyền miền Nam VNCH.

    Ông hắng giọng, nói liền một hơi:

    - Theo lời kể của lão papa Phước thì một trực thăng UH chở toán nhân viên ICCS trong chuyến bay con thoi từ thủ đô Sài Gòn đến thành phố Lộc Ninh công tác đã bị trục trặc máy móc và phải đáp khẩn cấp xuống một cánh rừng. Lộc Ninh, chỗ này trước đây thuộc tỉnh Bình Long và rất gần biên giới Việt-Kampuchia, thì đã thành thủ đô của đám Việt Cộng sau khi chúng chiếm được vào năm 1972. Máy bay vửa đáp xuống đất thì đám Việt Cộng trong rừng xồ ra bắt hết cả từ phi công cho đến các nhân viên trong đoàn công tác. Lão Phước là nhân viên của phái đoàn Indo trong chiếc trực thăng đó.
    Khi còn ở bên Indo thì lão đã biết bập bẹ chút tiếng Việt nên mới được chính quyền Jakarta tuyển làm nhân viên cho phái đoàn nhưng có ngờ đâu đó cũng là nguyên do khiến lão bị Việt Cộng bắt tù oan uổng. Khi đám Việt Cộng xuất hiện, ỷ mình là nhân viên của Ủy Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên nên lão đã xổ tiếng Việt với bọn khỉ. Đoàn nhân viên ICCS bị áp giải vô rừng được vài ngày thì Việt Cộng phải trả tự do cho toàn bộ người đi trong chiếc trực thăng nhưng chỉ giữ lại riêng mình lão. Bọn khỉ khăng khăng quả quyết lão là sĩ quan miền Nam VNCH giả dạng nhân viên Indo để hoạt động gián điệp. Dù hết hơi thanh minh bằng tiếng Việt rồi cả với tiếng Bahasa (ngôn ngữ Indo) nhưng bọn Việt Cộng vẫn không tin lời lão nói. Chúng đã tống lão vô tuốt hậu cứ nằm sâu trong rừng rồi sau đó, chuyển lão ra ngoài miền Bắc luôn.

    - Chuyện kỳ vậy! Bộ phái đoàn Indo không biết Việt Cộng bắt lầm người của họ sao? Họ có phản kháng không? Anh Khảm nóng nẩy hỏi.

    - Chắc chắn phải có chứ!

    Ông Bửu chậm rãi tiếp:

    - Tôi cũng hỏi lão Phước câu nầy. Ừ... ừm...

    Rồi sau đó ông Bửu hắng giọng lấy hơi:

    - Lão kể sau khi được bọn Việt Cộng trao trả tự do, về tới thủ đô Jakarta rồi thì mới biết rõ mọi chuyện. Đó là khi đám nhân viên quốc tế trong chiếc trực thăng UH được bọn Việt Cộng thả về Sài Gòn, phái đoàn Indo không thấy mặt lão đã phản kháng ngay với đám Cộng Sản Bắc Việt cùng Việt Cộng ở trại Davis trú đóng trong phi trường Tân Sơn Nhứt về vụ bắt giữ phi pháp nhân viên họ. Lúc đầu bọn khỉ đại diện trong trại Davis chối biến nói là không có lão trong chuyến bay đó rồi thấy phái đoàn Indo làm dữ thì chúng liền đánh bài vờ, nói sẽ cho điều tra các đơn vị Việt Cộng đóng quân trong vùng và trả lời sau. Thế rồi các chuyển biến của thời cuộc miền Nam VNCH đến quá nhanh trước các vi phạm của bọn Cộng Sản Bắc Việt, Việt Cộng miền Nam cũng như sự làm ngơ đồng loã của 2 thành viên phái đoàn Ba Lan, Hung Ga Ri nên đã vô hiệu hóa công việc của Ủy Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên và họ phải giải tán vào ngày 30-4-1975. Thế giới lưu tâm đến các việc mới và rồi ngay cả chính phủ Indo cũng... quên luôn chuyện mất tích của lão Phước. Thế mới đau! Lão thực sự thành một tù nhân gián điệp của miền Nam VNCH với cái tên Phước do chúng gán cho.

    - Trời! Thật không ngờ. Tiếng anh Khảm đột ngột thốt ra cắt lời kể của ông Bửu.

    - Bị tù y như các sĩ quan miền Nam VNCH khác sau ngày phe Việt Cộng chiếm được thủ đô Sài Gòn, lão Phước bị Việt Cộng chuyển qua nhiều trại giam cho đến khi tình cờ kết bạn được với một thẩm sát viên cảnh sát chế độ cũ trong tù. Rồi viên cảnh sát được thả tù và sau đó, ông ta liền vội gửi ngay một lá thư cho tòa đại sứ Indo ở Hà Nội biết về câu chuyện của lão Phước. Toà đại sứ Indo nhận được thư, liền báo tin cho Bộ Ngoại Giao nước họ biết và rồi sau các trao đổi giữa hai quốc gia, chuyện ngồi tù của lão papa coi như kết thúc. Xe của Bộ Nội Vụ CS Việt Nam đến tận trại giam đó gọi lão ra rồi chở lão về lại Hà Nội để gặp mặt các nhân viên tòa đại sứ Indo trước khi đáp máy bay hồi cố quốc.

    Kể đến đây, ông Bửu im bặt rồi đảo mắt nhìn chăm chú khá lâu ở phía bên ngoài quán, thấy vậy, tôi cùng anh Khảm liền nhìn theo và kìa, papa Phước cùng cô gái trẻ tóc dài ngang lưng đang rảo qua trước mắt. Họ đi ngược với chiều đường ban nãy, chắc cả hai vừa ghé vào đâu đó rồi bây giờ quay về. Papa Phước và cô gái tay trong tay bên nhau, vừa đi vừa trò chuyện trông rất tình dù tuổi tác cả hai thật chênh lệch. Ông Bửu quay lại nhìn hai chúng tôi, khẽ cười mỉm rồi hỏi:

    - Không biết lúc nằm trong trại giam Việt Cộng, có khi nào lão ta nghĩ ngày nào đó sẽ vớ được một em bé xinh như mộng, thơm như mít này không? Đã thế, lão lại vừa có quyền vừa có chức nữa chứ! Thật tình, cuộc đời không ai có thể ngờ trước được.

    Dứt câu, ông Bửu châm thuốc lá hút, ngả dựa lưng vào thành ghế và ngước mặt nhìn lên bầu trời. Tôi và anh Khảm nhìn nhau, mỗi người theo đuổi các ý nghĩ riêng trong đầu về câu chuyện của lão papa Phước vừa mới nghe được. Đột nhiên anh Khảm lên tiếng:

    - Anh nói sao chứ tôi thấy không lẽ cả một thời gian dài như vậy mà Jakarta lại để yên. Anh kể hồi Ủy Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên còn hoạt động thì phái đoàn Indo họ cũng đã phản kháng mà... , nhưng anh chưa nói dứt câu thì ông Bửu đã khoát tay ra cử chỉ chận lại không cho tiếp nữa rồi ông ta ngồi thẳng dậy, nhìn anh Khảm và nói:

    - Thật ra chuyện papa Phước kể nó không ngắn ngủi như vậy. Khi vừa gặp mặt các viên chức trong tòa Đại sứ Indo ở Hà Nội thì lão ta đã nộ khí xung thiên làm dữ vì nghĩ họ đã không chịu dùng quyền ngoại giao để can thiệp và kéo lão ra khỏi trại giam. Phải ở trong tình cảnh bị giam giữ vô cớ lâu năm, ta mới thấu nỗi niềm khi lão nổi cơn giận dỗi đó. Nhưng thật không ngờ, các viên chức trong tòa đại sứ không ai biết chút mảy may gì về chuyện lão bị Việt Cộng bắt giữ trong ngần ấy năm trời nếu như không có lá thư do viên sĩ quan cảnh sát thông báo. Khi lê tấm thân về được thủ đô Jakarta, papa Phước quyết tìm cho ra lẽ tại sao chính phủ Indo lại bỏ mặc lão trong trại giam Việt Cộng. Lão đã tìm đến bộ Quốc Phòng rồi cả bộ Ngoại Giao để gặp mặt những người liên can và lục xem các phúc trình cùng tài liệu thì lão mới biết được sự thật trong câu chuyện bản thân đã bị Việt Cộng bắt giam năm xưa. Thì ra phái đoàn Indo trong Ủy Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên cũng như chính quyền Jakarta đã gặp một bối rối trong việc phản kháng với phe Việt Cộng về chuyện bắt giữ phi pháp lão papa.

    - Sao kỳ vậy! Nhân viên của mình trong nhiệm vụ được cộng đồng quốc tế ủy thác kiểm sát và giám sát việc thi hành hiệp định lại bị Việt Cộng bắt giam phi pháp, rõ ràng chính phe Việt Cộng đã vi phạm hiệp định ngay cả với nhân viên của phái đoàn quốc tế. Phản kháng là chuyện đương nhiên mà sao họ lại bối rối? Anh Khảm hỏi lại.

    - Ậy! Vậy mới có chuyện. Ông Bửu ngừng kể để vất bỏ mẩu tàn thuốc lá và mồi ngay một điếu mới thay thế.

    (còn tiếp)

  9. #28
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Nhìn ông Bửu rít thuốc rồi thả khói thành một vòng tròn thật đẹp, tôi thầm nghĩ ông ta đã khá lớn tuổi nhưng nếu cứ cái kiểu hút thuốc liên tục như vầy thì sẽ làm hại đến sức khỏe không ít. Ông có lo lắng đến điều đó không hay biết mà không thể bỏ được?

    Ông Bửu quay lại nhìn anh Khảm và tiếp:

    - Bọn Cộng Sản Bắc Việt và Việt Cộng miền Nam tức cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng gì gì đó... tuy 2 nhưng thực sự chúng là một. Cái này, người Việt mình đến đứa con nít cũng biết nhưng cộng đồng thế giới thì lại khác. Một thời gian dài trước đây, cộng đồng thế giới cứ nghĩ Cộng Sản Bắc Việt và bọn Mặt Trận Giải Phóng là 2 thực thể chính trị không hề có can hệ gì với nhau. Họ bị lừa... bị lừa dài dài như vậy chỉ cho đến vài năm sau ngày phe Việt Cộng bức tử miền Nam VNCH thì mới tỉnh ngộ nhưng lúc đó thì cục diện đã rồi. Phái đoàn Indo năm đó cũng thế, dù đã phản kháng với các gã đại diện phe Việt Cộng là Hoàng Anh Tuấn và Võ Đông Giang tại các buổi họp ở trại Davis nhưng họ lại không rõ thực sự phe nào của Việt Cộng đã bắt giữ lão papa Phước. Cộng Sản Bắc Việt hay Việt Cộng miền Nam? Khi nghe phái đoàn Indo phản kháng chuyện bắt giữ phi pháp nhân viên mình trong các buổi họp thì phe Việt Cộng nào cũng lẩn tránh trách nhiệm, đánh bài vờ làm như không phải do binh lính thuộc quyền đã hành động. Papa Phước bị mất tích trong vùng lãnh thổ thuộc miền Nam Việt Nam nên phái đoàn Indo không thể ra kháng thư với Cộng Sản Bắc Việt được dù chính phủ nước họ đã có quan hệ ngoại giao cấp đại sứ từ năm 1964. Sự việc cứ dậm chân tại chỗ cho đến khi chính quyền miền Nam VNCH bị bức tử trong ngày 30-4-1975. Thời điểm tiếp theo thì Jakarta vẫn chưa thể phản kháng theo thông lệ quốc tế vì họ vẫn chưa có mối quan hệ ngoại giao với cái gọi là chính phủ Cộng Hòa miền Nam Việt Nam khi đó. Anh biết cái bọn gọi là chính phủ Cộng Hòa miền Nam Việt Nam chỉ được có số ít các nước trong khối Cộng Sản quốc tế thừa nhận thôi và thực sự thì Jakarta không thèm biết đến bọn này. Rồi, cái chính phủ Việt Cộng miền Nam đó lại biến mất ngay sau thời gian cầm quyền ngắn ngủi vì bọn đầu lãnh Cộng Sản Hà Nội thấy không còn cần đến bọn tay sai này để làm bình phong che mắt thiên hạ như trước nữa. Trong nước Việt, không ai lạ chuyện hạ màn đột ngột này nhưng thế giới vẫn còn trong màn hỏa mù. Họ không hiểu và chính quyền Jakarta cũng vậy khi tự đặt câu hỏi chủ nhân thật sự của nước Việt là ai? Chính phủ Indo bối rối và có lúc họ cũng đã tin về một phúc trình cho rằng papa Phước không có mặt trong chuyến trực thăng UH năm đó nên đành xếp hồ sơ của lão papa lại cho đến khi có tin báo về từ tòa đại sứ nước họ ở Hà Nội.

    - Kể ra cha papa Phước tốt số đã gặp được người bạn tù có tình chứ nếu không có lá thư báo tin thì tòa đại sứ Indo làm sao biết mà can thiệp. Anh Khảm chen vào.

    - Đúng! Papa Phước nói với tôi rằng suốt đời lão không bao giờ quên người bạn tù đó và rất mong có ngày sẽ gặp lại. Ông Bửu trả lời.

    - Ồ! Không biết lão ta có bị bọn Việt Cộng bắt làm... tự khai hay bản kiểm điểm nhận tội như cánh sĩ quan VNCH mình không anh? Anh Khảm thắc mắc.

    - Không hề!

    Ông Bửu lắc đầu, trả lời cộc lốc rồi sau đó tiếp:

    -Như vậy, rõ ràng bọn Việt Cộng biết lão Phước là nhân viên Indo tuy lão kể ở những buổi đầu tiên, bọn Việt Cộng khăng khăng cho lão thuộc sắc dân Chàm hay người Việt gốc Khmer mà thực sự mình nhìn vẻ bề ngoài thì lão trông cũng giông giống thật. Mà này! Không thể ngờ chuyện của lão papa đã xảy ra phải không các anh? Ngay tôi, nếu không được nghe chính miệng lão Phước kể ra thì cũng chẳng tin. Lão hỏi tôi tại sao phái đoàn Indo đã phản kháng rồi phe Việt Cộng cũng biết nhân thân thực của lão mà sao họ vẫn không thả tự do? Thời điểm đó, phái đoàn Indo trong cung cách ngoại giao thì vẫn cho việc cầm giữ papa Phước là một sự hiểu lầm và nghĩ cách giải quyết sự vụ rất đơn giản nhưng phe Việt Cộng vẫn không làm. Theo anh, anh trả lời thế nào?.

    - Tụi nó nghi là bắt, lỡ bắt rồi biết lầm nhưng không thả... Có bao giờ bọn Việt Cộng nhận trách nhiệm chúng làm đâu. Anh Khảm lập cập đáp.

    - Đúng! Nhưng không đơn giản như anh nghĩ vậy đâu.

    Ông Bửu trả lời rồi tiếp:

    -Cộng Sản Bắc Việt hay Việt Cộng miền Nam thì thằng nào khi làm cái gì cũng sa sả cái mồm là vì nước vì nhân dân mà thực ra chỉ vì đảng vì bác hoặc vì các toan tính điên cuồng của chúng thôi. Trong chuyện của lão papa Phước, nếu đúng thật lão là gián điệp miền Nam VNCH giả dạng nhân viên phái đoàn Indo để hoạt động thì khi bắt được, thằng Việt Cộng nào cũng to họng để tranh công nhưng khi biết đã bắt lầm nhân viên phái đoàn quốc tế rồi thì tên nào tên nấy đều lẩn tránh trách nhiệm và đó cũng là cái may cho lão Phước. Không nhận trách nhiệm đã gây ra, cả hai phe Cộng Sản Bắc Việt lẫn Việt Cộng miền Nam đã cố tình để mặc lão sống trong tù, coi như không có lão trên đời. Chúng nghĩ rồi thời gian sẽ giết lão nhanh chóng và như thế là xong của nợ. Tôi thấy bản thân mình hay cả như anh mà bị Việt Cộng bắt giam như tình cảnh của lão Phước thì sẽ phát điên là cái chắc.

    - Đúng! Mà ở tù lâu như vậy, hèn chi lão papa nói tiếng Việt sõi quá. Anh Khảm gục gặc cái đầu, thừa nhận.

    - Thì vậy! Anh biết là người mình mỗi khi vào thanh lọc gặp được papa Phước thì đâu có cần phải có mặt cha Ô Ma hay thằng Sari Mun thông dịch cho đâu. Lão phỏng vấn thẳng bằng tiếng Việt. Mà nầy, tôi có nhận xét là papa Phước hình như có vẻ thiện cảm với người vượt biên mình nhất là với những ai từng bị Việt Cộng bỏ tù cải tạo. Tôi nhớ anh nói đã gặp lão papa hôm thanh lọc phải không? Vậy hồ sơ anh ngon rồi, hy vọng tràn trề. Ông Bửu mỉm cười sau câu nói.

    - Anh biết lúc tôi vào gặp lão papa như thế nào không?

    Anh Khảm nói với ông Bửu nhưng đảo mắt nhìn sang cả phía tôi rồi tiếp lời:

    - Cứ nghĩ lão sẽ hỏi mình các chuyện hồi còn ở trong tù cải tạo như bị quản giáo bắt lao động ra sao? Phải nộp bao nhiêu cây tre mỗi ngày? Hoặc lão sẽ hỏi về chuyện ăn uống, thuốc men... như mình đã nghĩ đã chuẩn bị trước câu trả lời trong đầu. Ngờ đâu, chẳng hề có như vậy. Khi đám thiện nguyện viên trật tự gọi tên rồi dắt vào phòng thì đã thấy lão papa ngồi sẵn tại bàn đang đọc bản khai của tôi. Lão xem tới xem lui các trang giấy khá lâu rồi đưa mắt nhìn tôi và bảo cứ tự thân kể chuyện bị tù cải tạo ra cho lão nghe. Lúc đó, tôi rất ngạc nhiên vì không ngờ lão ta nói rất sõi tiếng Việt, y như người mình. Tôi từ từ kể lại những giai đoạn bị tù cải tạo và lão ngồi yên lặng nghe mà chỉ đôi lúc gật gù đầu. Cuối buổi thanh lọc thì lão papa chỉ nói tôi phải giữ gìn sức khoẻ khi sống ở đây đã làm tôi mỗi lần nhớ lại mà vẫn có lúc lo lắng vì thái độ của lão. Nay được nghe anh kể chuyện về lão papa, tự dưng đã làm làm tôi bớt lo.

    Ông Bửu đột nhiên nhìn chằm chằm vào tôi và anh Khảm rồi nói:

    - Thực ra bọn Việt Cộng ngoài việc tránh né trách nhiệm khi lỡ tay bắt lầm lão Phước thì còn một lý do khiến chúng đã không thủ tiêu lão cho xong chuyện, các anh biết tại sao không?.

    Anh Khảm, tuy là một quân nhân miền Nam VNCH nhưng khi nghe câu ông Bửu hỏi mà vẫn bí nên đành ngồi thừ tại chỗ. Còn tôi, tất cả lời ông Bửu đã kể liên quan đến chuyện về papa Phước như bản Hiệp Định Paris, Ủy Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên rồi trại Davis... đều lạ lẫm vì trong thời điểm quá khứ đó, tôi chỉ là một thiếu niên nào biết gì khác ngoài việc học hành. Tôi luống cuống và đành giương mắt ếch ngồi yên chờ nghe. Thấy hai chúng tôi im lặng, ông Bửu cười thỏa mãn rồi tiếp:

    - Bọn Việt Cộng, nhất là cái đám đầu lãnh ở Hà Nội thì đều một lũ kiêu căng, ngạo mạn dù thực lực của chúng cũng chỉ dựa vào bọn Cộng Sản đàn anh là Nga Xô và Tàu Cộng. Tuy thế, trí não chúng vẫn coi các nước lân bang như Malaysia, Thái Lan, Nam Dương... chẳng ra cái thớ gì. Chúng có cái tham vọng là sẽ thôn tính toàn thể khu vực Đông Nam Á trong chiến lược nhuộm đỏ toàn cầu của khối Cộng Sản quốc tế. Giấc mơ Liên Bang Đông Dương dưới quyền cai quản của Cộng Sản Hà Nội là một ví dụ. Rêu rao nói các nước phương Tây và Mỹ là bọn đế quốc nhưng bọn Cộng Sản lại có tham vọng trở thành đế quốc. Bọn Việt Cộng nước mình cũng thế. Sau ngày chiếm được miền Nam VNCH thì đám đầu lãnh ở Hà Nội cho là đã đánh bại được Hoa Kỳ và tự chúng xếp hạng đứng hàng thứ 3 trên thế giới chỉ có sau Nga Xô và Tàu Cộng. Vì coi thường các nước lân bang nên chúng đã bỏ mặc các phản kháng của phái đoàn Indo trong Ủy Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên cũng như không thèm ngó tới số phận của papa Phước và đó là điều may cho lão. Nhờ vậy mà papa Phước đã không bị chúng thủ tiêu rồi như một cái cây mọc ở chỗ còi cọc, lão trụ được trong nhà giam và may mắn lại gặp được người bạn tù có lòng.




    Nhân viên Ủy Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên (gồm Ba Lan, Hung Ga Ri và Indonesia)
    tại một địa điểm giám sát. Phía sau là một sĩ quan miền Nam VNCH.

    Thật vậy, nếu không nhờ lá thư của viên sĩ quan cảnh sát báo tin thì rồi về lâu về dài, papa Phước cũng sẽ chết rũ tù và chắc đó là lý do khiến lão có mối thiện cảm với người Việt vượt biên. Chợt anh Khảm bực tức, nói:

    - Thiện cảm với người Việt mà lão lại đi cặp bồ với đứa con gái đáng tuổi cháu như anh vừa thấy đó. Phải chi lão cặp với dân Indo thì không nói làm gì, đằng này lại với dân tị nạn người Việt mình. Khác gì hành động... trả thù dân tộc.

    - Gái Indo bản xứ thì có đứa nào thèm lão, chỉ dân Việt mình thôi. Nhưng ở đâu cũng vậy, thiên hạ hễ gặp ông già đi với gái trẻ lại nhiếc móc nói lớn tuổi còn bày trò... chơi trống bỏi mà đâu biết ông già đó phải có cái gì khiến cho gái trẻ lao đầu vào. Đây cũng thế, con bé vừa rồi phải biết papa Phước có quyền đảo ngược quyết định bên phía sơ vấn Cao Ủy nên tự nó chủ động bắt bồ trước với lão ta đấy. Ông Bửu trả lời chung với vẻ mặt nhấm nhẳn.

    Đảo ngược quyết định bên phía Cao Ủy, điều ông Bửu nói ra nó có nghĩa một hồ sơ thuyền nhân nào đó mà bị Cao Ủy bác bỏ tư cách tị nạn thì bên phía nước chủ nhà lại có thể đảo ngược quyết định đó. Đó là quyền của nước chủ nhà dành cho thuyền nhân tạm dung. Khi đảo ngược quyết định, thuyền nhân đó sẽ thành người tị nạn, thơ thới chờ ngày đi định cư nước thứ 3 và không còn mối lo bị cưỡng bức hồi hương về lại quê nhà nữa. Kể ra, cô gái tóc dài tên Hướng đó cũng lém lỉnh chẳng vừa, tôi nói ra điều mình vừa nghĩ thì ông Bửu cười nhạt, trả lời:

    - Con bé làm gì có cặp mắt xanh mà biết nhìn người, tất cả dàn dựng đều một tay của bà mẹ thôi.

    Nói đến đây chợt ông Bửu đột ngột đứng dậy, thái độ hoảng hốt:

    - Chết! Tôi phải gặp ông Thụy bên workshop để nhờ mai chở hộ cái xe máy ra ngoài Galang 2 xem coi nó bị hỏng hóc cái gì mà chiều nay đạp hoài vẫn không nổ. Không biết giờ này thì ông ấy còn thức hay đã ngủ rồi? Thôi! Hai anh ngồi lại về sau nha.

    Chờ ông Bửu đi khuất tôi thắc mắc hỏi anh Khảm:

    - Ông này làm cái gì ở trong trại mà có xe máy ngon vậy và sao ông ta lại có dịp được papa Phước kể chuyện đời cho nghe hả anh?

    Anh Khảm liền đáp:

    - Ồ! Quên chưa cho em biết về ông Bửu, ông ta là thông dịch viên cả bên sơ vấn Cao Ủy lẫn bên thanh lọc Indo đó em. Ông là người Việt duy nhất trong trại được phòng P3V cấp riêng cho một xe gắn máy đó.

    Rồi anh Khảm cho biết thêm là ông Bửu gốc người Bắc di cư năm 1954 và đã vài lần đi tu nghiệp tại Mỹ từ những năm đầu trong thập niên 1960. Tuy đến trại Galang cuối năm ngoái nhưng nhờ thông thạo Anh ngữ nên ông đã được Cao Ủy tuyển dụng vào làm việc. Dù phòng thanh lọc Indo cùng Cao Ủy chưa thông báo kết quả thanh lọc thuyền nhân nhưng ai trong trại cũng kháo nhau là ông Bửu chắc chắn sẽ đoạt giấy tị nạn vì thực sự Cao Ủy hay chính quyền Indo chẳng thiệt gì khi làm như vậy. Nếu ông không giúp việc thông dịch thì Cao Ủy sẽ phải tuyển người Việt từ hải ngoại về và phải tốn thêm tiền trả lương. Gần kề với các luật sư Cao Ủy cùng sĩ quan thanh lọc Indo nên ông Bửu biết rất nhiều chuyện đã xẩy ra trên đảo và thường kể lại cho anh Khảm nghe.

    Chợt anh Khảm nhìn tôi, khẽ hỏi:

    - Ban nãy em để ý thấy ông ta có vẻ bực bội khi nói về chuyện bồ nhí của papa Phước không? Thấy tôi lắc đầu, anh Khảm cười cười, tiếp:

    - Ông Bửu nói vậy vì hiện thời ông đang cặp bồ với một cô gái trẻ mà tuổi thì cũng trạc cỡ con ông ta đó em.

    - Trời! Có chuyện đó sao.

    Tôi nói khẽ rồi hỏi lại anh Khảm:

    - Tuổi trạc cỡ con ông ta... mà... cô ấy có đẹp gái không anh, tên gì vậy?.

    Anh Khảm nhìn tôi mỉm cười, khẽ gật đầu rồi nói:

    - Cô ta tên là Hòa, thỉnh thoảng thì vẫn ngồi chung trên xế nổ lượn phố ngoài Galang 2 hoặc sát nút đi với lão Bửu trong mấy quán ở đây nè. Ai cũng thấy rõ hai người họ cặp kè với nhau nhưng lão ta thì cứ chối đây đẩy.

    Anh Khảm đã dùng chữ lão để gọi ông Bửu và rồi anh cho biết thêm ngoài papa Phước thì hầu như bất kỳ một nhân viên Indo nào làm việc trong trại cũng đều bắt bồ với người Việt. Mức độ thân mật thì có người ra mặt công khai kè kè đi bên nhau, người thì vẫn cái màn lén lén lút lút không muốn ai biết rõ.

    Rồi anh tiếp:

    - Cái phong hóa của nước mình cứ cho đàn bà-con gái mà lấy người ngoại quốc thì đều xuất thân từ một gia đình không ra gì. Khách quan mà nói ngoài tình cảm ra thì chuyện nam nữ đến với nhau trong tình dục chính là bản năng của giống loài. Thượng Đế khiến vậy để giống người mới tiếp nối sinh tồn được. Nam nữ như thỏi nam châm khác chiều mà đặc biệt, việc dị chủng lại cuốn hút nhau dữ lắm Vũ. Đừng nhìn papa Phước là một người Indo mà giả dụ lão ta là một người Việt đi thì chuyện một người đàn ông khỏe mạnh và có chức có quyền sẽ cuốn hút đám đàn bà-con gái như thể nào. Khi bỏ nước vượt biên, đâu phải ai cũng có người thân thuộc bên cạnh rồi sống một mình trong hoàn cảnh thiếu thốn vật chất cùng không gian hạn hẹp của trại tị nạn nên họ mới dễ dàng... tìm đến với nhau để mà sống để mà tồn tại trong quãng thời gian dài tạm dung xứ người. Người mình đã vậy, đám nhân viên Indo làm việc ở đây có mấy ai mang theo gia đình. Nếu gần gần, nhà họ cũng nằm đâu đó bên đảo Tanjung Pinang, còn ở xa như papa Phước thì tuốt Jakarta lận.

    Dứt câu, anh Khảm ngồi yên hút thuốc rồi thừ người trên ghế như suy nghĩ về một mối gút mắc trong lòng. Thái độ của anh Khảm giống hệt như ở lần đã phân trần về việc sống chung với chị Phượng khi hỏi thăm tôi về chuyện vợ con anh còn bên quê nhà. Lần đó, tôi đã hỏi sao anh không cu ky một mình cho khỏe mà còn đèo bòng thêm chị Phượng làm gì để giờ phải than van, kêu khổ. Anh nói cố tránh nhưng thoát không được rồi đổ thừa vì hoàn cảnh đã khiến anh và chị Phượng cứ gặp mặt thường xuyên mãi nhất là trong những lần hai người họ bên nhau. Tránh không được thì đành phải đến với nhau cho xong chuyện. Bộc bạch tâm sự riêng của mình, anh Khảm không dùng chữ cặp bồ khi nói về quan hệ giữa anh và chị Phượng mà lại nói tránh đi bằng ba tiếng đến với nhau. Tôi buột cười vì nói theo kiểu anh Khảm thì tôi và Yến hiện cũng đang... đến với nhau nếu kể từ sự tình cờ khởi đầu trong cái khoang hầm chật hẹp của ghe vượt biên rồi ra vào đụng mặt nhau hàng ngày khi sống tận bên Malaysia cho đến bây giờ. Mới tháng trước, cả đoàn người trong barrack đi Galang 2 làm thẻ ID tạm dung và khi xong việc thì trời đã quá trưa, 5 đứa chúng tôi kéo nhau đi ăn ở một quán sau đó lại ghé vào một tiệm cà phê để tránh cơn nắng gắt. Rồi Đào, Bẩy và Đỉnh phải quay trở về Galang 1 ngay vì buổi tối cùng ngày thì 3 người họ có cái hẹn đi chùa Quan Âm với những đồng đạo mới quen trong zone. Ngồi tiếp lại trong quán cho đến lúc thấy trời đã dịu nắng, tôi đã nói với Yến:

    - Em chịu khó về một mình nha, anh đi đằng nầy chút xíu để mượn ít tờ báo về xem chứ ngồi không cả ngày ở barrack buồn lắm.

    - Không! Em muốn đi với anh rồi cùng về luôn. Yến trả lời.

    Tôi định bụng khi gần tối thì sẽ về lại Galang 1 nhưng một hai Yến nói muốn đi cùng cho vui vì trời vẫn còn sớm lắm. Thực ra, chủ tâm đi một mình để ngoài chuyện tìm thư viện cộng đồng mượn báo xem thì tôi còn muốn la cà trọn buổi chiều trong Galang 2 để biết thêm các chỗ. Nghe Yến nói, tôi rất vui dù chưa biết cả hai sẽ đi đâu vì không lẽ cứ cặp kè lòng vòng trên đường nhưng nếu chỉ có một mình tôi thì khác. Khi ra khỏi tiệm cà phê, đột nhiên trời nắng trở lại chiếu những tia nóng chói chang lên người làm Yến phải bật cây dù ra che. Suốt buổi sáng trời ui ui không một chút nắng rồi lúc gần trưa thì mây kéo xám xịt tưởng sẽ mưa nhưng lại không vì mây từ từ loãng dần và tan mất. Bật dù che nắng cho cả hai, việc Yến làm khiến cõi lòng tôi nở hoa và cơn nóng nực ngoài trời tự nhiên đã biến mất. Đi song song bên nhau qua nhiều khu phố nhỏ rồi chợt nhìn xuống bóng nắng trên mặt đường, tôi thấy Yến che dù chỉ cho một mình tôi, riêng nàng vẫn đi ngoài nắng. Tôi liền bảo:

    -Yến đưa anh cầm dù chứ để người ta thấy con gái che dù cho con trai, trông kỳ lắm.

    Nàng liền đưa cây dù và tôi có lý do để đi sát bên cạnh nàng hơn. Ngang qua vài hàng quán, tiếng ai đó rất quen từ bên trong gọi vọng ra tên hai đứa nhưng dù cố nhìn vào, mắt tôi chỉ thấy bàn ghế lờ mờ chung một khối đen hù. Tôi và Yến vẫn bước đều bên nhau. Tôi muốn nói một chuyện gì đó với nàng nhưng lại thôi vì sợ vì ngại hay vì điều gì tôi cũng không biết. Chợt nhìn xuống mặt đường lộ, thấy chỉ mình tôi trong bóng tròn của cây dù còn Yến vẫn đi ngoài nắng như ban nãy. Tôi liền đứng lại, đưa cây dù cho nàng và nói:

    - Thôi em che dù lấy đi. Anh đi đầu trần được rồi.

    - Tại sao? Yến tròn xoe mắt nhìn tôi, hỏi.

    - Mình đi chung một cây dù mà em thì cứ ở ngoài nắng, anh che cho có mình anh không hà. Người ta trông vào thì họ sẽ nghĩ anh như thế nào đây? Kỳ lắm. Em nói anh đừng mua dù, mình xài chung với nhau cho đỡ tốn tiền mà em cứ như vậy thì thà để anh vào tiệm mua cho anh một cây khác. Của ai nấy xài, khỏi mất công che chung.
    (còn tiếp)

  10. #29
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Tôi nói một hơi và đưa cây dù cho nàng nhưng Yến không cầm. Thay vào đó, nàng ép sát lại bên tôi, nhìn tôi trong một khoảng khắc im lặng rồi cả hai đứa đi tiếp. Hành động của Yến làm tôi buột miệng cười, thấy thế, nàng lên tiếng:

    - Anh cười cái gì? Nhạo em phải không?

    - Không. Em có gì đâu mà anh phải cười nhạo. Tôi trả lời.

    - Nhưng sao anh lại cười. Phải có lý do chứ? Yến hỏi dồn.

    - Trời ơi! Có lúc cảm thấy vui vui thì mình cười. Ai mà chả vậy... mà... mà...

    Tôi luống cuống rồi ngập ngừng khi Yến đưa mắt nhìn sang. Tôi định nói không vui sao được khi có em đi bên cạnh nhưng lại ấp úng. Hình như gã con trai nào cũng đều nhút nhát vụng về như tôi khi muốn tỏ bày mối tình cảm thực đang dào dạt trong lòng với đứa con gái ở lần đầu gặp gỡ. Câu tán tỉnh ngắn gọn như vậy nhưng sao tôi cứ ú ớ nói không nên lời. May mắn là Yến chỉ im lặng, khẽ bước đều từng bước. Có lẽ nàng không biết sự rụt rè vừa rồi trong tôi, tự nhiên tôi lại mong nó như vậy. Khẽ liếc mắt nhìn lén Yến, gò má nàng hây hẩy hồng làm tôi nhớ lại câu nói của Đỉnh và tấm hình trái đào khi nó đưa cho xem hồi còn ở bên Malaysia. Vài đôi tình nhân đi ngược chiều với hai đứa tôi, họ cũng tay trong tay bên nhau với một cây dù che chung trên đầu. Có thể nhiều bạn đọc sẽ ngạc nhiên là tại sao chúng tôi còn trẻ, đi với nhau ngoài đường mà lại cầm dù? Thực tế ở trại tị nạn Galang khi đó là như vậy, ai đi đâu thì cũng phải kè kè cây dù bên tay để phòng mưa nắng. Indonesia nằm ngay đường xích đạo nên ở Galang mỗi khi trời nắng rất nóng. Đôi tình nhân nào trông cũng rất đẹp và tự nhiên làm như họ đã bồ bịch với nhau từ lâu lắm. Khi đụng mặt nhau, chắc họ đã nghĩ về Yến và tôi cũng tương tự. Nghĩ vậy nên tôi buột miệng cười lần nữa vì vui, vì hoa đời đang nở trong lòng. Tôi cười lớn cố ý cho Yến biết và nghĩ nàng sẽ lại hỏi lý do tại sao cười như lần vừa rồi. Nhưng không, Yến lại nói:

    - Mình chỉ là bạn của nhau... mà cũng không phải là bạn. Không phải là bạn. Em coi anh như anh trai của em.

    Chỉ là bạn của nhau! Nàng coi tôi như người anh trai! Có thật như vậy không hay Yến đã đọc được tình cảm riêng trong hồn tôi nên mới nói vậy. Nếu điều đó đúng thì thật đáng sợ cái trực giác của phái nữ.

    - Lão chối đây đẩy, nói chỉ coi con bé như con cháu trong nhà. Có lúc lại úp úp mở mở làm như đã xong hàng rồi nên cũng khó đoán nhưng qua cách ăn mặc của lão thì rõ ràng ai trong trại cũng biết lão Bửu có tình ý với cô gái.

    Lời anh Khảm đã kéo tôi về với câu chuyện đang nói dở tại bàn. Tôi ngồi ngay ngắn lại khi nghe anh Khảm tiếp:

    - Từ hồi có cô gái đó cặp kè bên cạnh, lão Bửu đã thay đổi cách phục sức của mình. Can nãy em có để ý thấy lão ta mặc quần sọoc áo thun bó cùng giầy vớ láng cóong không? Già cúp bình thiếc rồi không lẽ diện bộ cánh đó vào thì trông sẽ trẻ hơn nhưng cũng có thể lão lại nghĩ như vậy. Ai mà lỡ miệng nói đùa về chuyện se sua quần áo vì có bồ nhí, lão chửi đổng cho nghe đấy.

    - Cái cô Hòa mà anh kể đó, thực ra cô ta có tình ý gì với ông Bửu không? Tôi thắc mắc.

    - Làm sao mà biết em.

    Anh Khảm lắc đầu khi nói rồi tiếp:

    - Anh nghĩ, có khi cô ta tính toán thấy phải cần đến lão Bửu trong thời buổi thanh lọc này nên mới xáp vào. Chứ cứ lấy lý mà suy thì gái trẻ đời nào nó chịu dính không với ông già. Tre trẻ thì tìm đến tre trẻ, sồn sồn thì tìm đến sồn sồn. Có cô đơn có lạnh lẽo trong đêm trường, cần một vòng tay ấm thì người ta cũng phải tìm đúng đối tượng để ôm chứ. Luật tự nhiên là vậy như em và cái Yến đấy.

    Người trong cùng barrack đều nghĩ tôi và Yến đã có gì với nhau và giờ đây qua câu nói của anh Khảm thì thấy anh cũng nghĩ y chang khiến tôi lại cười thầm. Tôi cười là vì đã có một lần Yến dám... ôm chặt lấy tôi nhưng tiếc là khi tôi biết đến niềm hạnh phúc đột nhiên có bất ngờ đó thì nó chỉ kéo dài trong khoảnh khắc ngắn ngủi.

    Hôm đó, một buổi tối Yến rủ tôi đến chỗ anh chị Khảm-Phượng để hỏi về một bài học của buổi học trong một ngày ở tuần lễ trước khi nàng vắng mặt vì bị cảm không đến lớp được. Hai đứa tôi tìm đến barrack nhưng không gặp, nghĩ anh chị Khảm-Phượng lại đến quán cà phê nào đó và định sẽ tìm. Vừa lúc, một người đàn ông trong barrack thấy chúng tôi liền bảo anh chị Khảm-Phượng dặn nếu có ai tìm thì nói cứ đến quán Cam Ly thì sẽ gặp. Tôi và Yến liền đi trở lại con đường chính của Galang 1 rồi đi thẳng đến ngã ba đường về hướng quán cà phê Cam Ly. Quán này nằm ở hướng đi về Galang 2 gần một khúc quanh đường. Đoạn đường nầy có vài căn nhà nhỏ của người Indo cư ngụ vì họ buôn bán trong trại. Ngang qua một hàng cây khá lớn dọc theo đường thì đột nhiên tôi và Yến nghe các tiếng sủa lớn rồi một con chó từ đâu chạy xồ lại gần bên. Yến hoảng hốt, thét lên và ôm lấy tôi thật chặt. Nàng rúc đầu vào ngực tôi, thân hình run lẩy bẩy trong lúc tôi cũng đang cơn sợ vì chưa biết phải làm gì thì con chó đã lủi nhanh vào một bụi cây gần đó. Hai thiếu niên dân địa phương đuổi theo con chó, miệng hai đứa xì xồ vài câu lạ. Trong tay cậu bé đứng gần tôi thủ gậy gỗ dài còn cậu kia thì đang săm soi các bụi rậm bên đường bằng một đèn pin nhỏ. Hai đứa bé đi rảo dọc theo con đường, thỉnh thoảng nhặt các viên đá rồi ném vào các bụi cây, gò đất để cố tìm lại con chó nhưng nó đã chạy mất dạng. Mãi đến lúc đó, Yến mới buông tôi ra, nói lí nhí:

    - Em sợ quá. Nó mà cắn trúng mình thì chết.

    Tôi cũng sợ như nàng vì rủi bị nó cắn và là chó dại thì thật khốn. Có lẽ đây là chó nuôi của gia đình người Indo nào đó và vì đã bị hai đứa bé đuổi đánh nên mới sủa rồi chạy hoảng như vậy. Khoảnh khắc vừa qua tan đi chóng vánh. Cơn sợ lan tỏa chung với niềm thích chí vì được Yến ôm chặt. Tóc nàng ngay sát mặt và mặt nàng đã gục vào ngực tôi. Tôi thở nhẹ, người ta khi yêu nhau, có đắm đuối có ôm ấp cũng chỉ đến vậy. Niềm vui đến bất ngờ và đi thật nhanh làm tôi... tiếc và khiến tôi bật cười vì thích. Yến vuốt lại mái tóc, sửa qua quần áo, thấy tôi cười nên hỏi:

    - Anh Vũ cười cái gì vậy?, tôi đã trả lời nàng là cười cái con chó vừa rồi làm nàng ngạc nhiên, hỏi tiếp:

    - Nó làm em sợ muốn chết mà anh lại cười được. Anh Vũ hay nhỉ!

    - Anh cười vì nghĩ phải chi lâu lâu đi với em rồi gặp một con chó nào đó lại chạy xồ đến và sủa y như vậy, để em...

    Tôi bỏ lửng câu khi nghe Yến lập lại câu đã nói:

    - Em sợ muốn chết mà anh chỉ nghĩ bậy không hà!, rồi nàng cũng tủm tỉm cười với tôi.

    Nghĩ tới đây, tôi lại cười một mình và anh Khảm thấy vậy cũng cười theo rồi nói:

    - Em và Yến đến với nhau trông được lắm chứ. Còn Đỉnh thì với ai trong 2 cô Đào và Bẩy vậy?.

    Tôi kể vắn tắt cho anh Khảm nghe về gia cảnh của Đỉnh và quả quyết nó chẳng chút tình ý nào với 2 cô gái sống chung trong nhóm. Nói vậy nhưng thực lòng, tôi cũng khó đoán được tâm tư của Đỉnh dù chuyện gái gú thì nó đã từng. Anh Khảm lại tiếp:

    - Cái Yến trông kháu lắm, anh biết nó là đứa có tâm hồn và anh mừng cho em đã gặp được. Đàn bà-con gái dù người xinh đẹp đến đâu mà không có tâm hồn thì cũng là hạng bỏ đi. Mà thôi mình về chứ, cũng sắp tới giờ giới nghiêm rồi.

    - Tâm hồn! Anh nói nhưng em thật không hiểu rõ nghĩa. Tôi hỏi lại vì câu anh Khảm nói ra đã khiến tôi thắc mắc.

    Anh Khảm không trả lời ngay mà lại đứng lên và kéo tôi ra khỏi quán khi người hầu bàn lăng xăng đến dọn ly-tách cùng xếp các chiếc ghế cho gọn. Ra tới bên ngoài, nhìn đường phố vắng ngắt thì mới biết vì mải chuyện nên hai chúng tôi đã ngồi quán lâu hơn mọi bận. Sắp tới giờ giới nghiêm thật rồi, vài người hớt hải bước nhanh trên đường như cố chạy đua với chút thời gian còn sót lại. Chúng tôi rảo vội chân qua các khúc đường có nhà dân tối thui dọc theo hai bên con lộ dẫn về hướng các barack của zone 3. Chân bước nhưng lòng tôi vẫn thắc mắc vì câu nói vừa rồi của anh Khảm nên liền hỏi anh thêm lần nữa nhưng anh chưa kịp trả lời thì một bóng người quen quen từ xa chạy sầm đến trước mặt, kèm theo tiếng nói:

    - Anh Vũ! Khuya quá rồi mà em không thấy về nên...

    Thì ra người đó là Yến. Nàng bỏ lửng câu nói khi thấy có mặt anh Khảm gần bên, tôi hiểu ý nên lí nhí chống chế:

    - Ồ! Mải nói chuyện với anh Khảm mà anh quên cả giờ giấc... nhưng về barrack vẫn còn kịp mà.

    - Quên cả giờ giấc để đến nỗi em gái phải lo lắng cho như vậy... Ha ha! Sống với nhau chứ chưa bao giờ chị Phượng đi kiếm anh đâu nhé. Thấy anh nói đúng không hở Vũ?

    Anh Khảm nói lớn tiếng rồi khẽ dùng khuỷu tay huých nhẹ vào be sườn tôi, ngầm cho biết điều anh đã nói về Yến khi còn ở quán. Tôi khẽ gật đầu còn Yến thì giương mắt nhìn vì không hiểu chuyện. Trời khuya thật rồi, cứ còn ở trong quán dưới các ngọn đèn thì nào để ý đến giờ giấc. Cả 3 chúng tôi im lặng, vội chân bước cho đến chỗ đường vào zone 3 thì anh Khảm chia tay.

    Anh Khảm vừa khuất dạng sau con ngõ vào zone, Yến hỏi liền:

    - Anh Khảm nói cái gì về em vậy?.

    Tôi im lặng, thả trí về câu nói của anh Khảm. Khoảnh khắc vụt qua đi, Yến hỏi thêm lần nữa. Tôi biết trả lời nàng sao bây giờ nên đành nói thật:

    - Anh ấy nói mừng cho anh là đã gặp được một người như em, vừa có tâm hồn lại... đẹp... dễ gì gặp.

    Tôi đã nói thêm chút xíu và không ngờ, Yến im lặng không nói một lời và chỉ cười cười khi liếc mắt nhìn tôi. Nàng đang vui vì các lời nói đó nhưng với tôi, Yến là người có tâm hồn... nghĩa là sao, hở anh Khảm? Là Yến biết nghĩ, biết lo lắng cho an nguy của người khác hơn cho bản thân nàng? Không lẽ chỉ đơn giản như vậy. Im lặng đi bên Yến mà trí tôi vẫn thắc mắc về câu nói đó của anh Khảm. Đường phố vắng ngắt trong cảnh im lìm chỗ sáng chỗ tối cùng vài cơn gió nhẹ thổi tốc những mẫu giấy nằm vương vãi trên mặt lộ. Chợt Yến thông báo:

    - Chú Thăng hồi tối kiếm anh không gặp, dặn em nói lại ngày mai anh có tên trong danh sách mà zone cần người đi sửa lại ao nước tắm. Nghe chú ấy nói có thể anh sẽ phải đi vào rừng nữa đó, em chờ anh về để nói lại mãi mà không thấy.

    Ở trại tị nạn Galang thì cứ mỗi sáng thứ Bẩy hàng tuần đều có vụ làm tổng vệ sinh toàn trại. Người ở trong bất cứ barrack nào trong ngày này cũng phải dọn dẹp rác rưởi cùng thông sạch sẽ cống rãnh chung quanh. Trước mặt nhà, hàng quán cũng phải dọn cho sạch vì trọn buổi sáng, đám police của phòng P3V đi kiểm tra mà thấy dơ bẩn thì chủ gia sẽ mệt với bọn chúng. Có gã police cắc cớ đi luồn lách qua từng barrack kiểm tra nên người tị nạn khó mà thấy được y ta ngay. Có người vừa làm vệ sinh xong, mới rửa tay ngồi hút thuốc lá thì bất ngờ gã police đó ở đâu đi đến. Ngôn ngữ bất đồng, tưởng người đó làm biếng ngồi không và thế là đã bị gã police bợp tai, đá đít thẳng tay. Thường thì vào buổi sáng thứ Bẩy, văn phòng của zone cần một số người đi làm các công việc chung và họ lên danh sách để gọi người làm việc thiện nguyện theo thứ tự thay phiên. Có những việc khá nặng như đi vào rừng, chặt các thân cây to về làm các cổng chào dựng trên đường mừng ngày lễ quốc gia Indonesia hoặc ban một khu đất cho phẳng để làm cái sân đá banh. Lần này, việc văn phòng zone cần người làm thiện nguyện là để sửa lại cái ao tắm tập thể cho rộng thêm. Việc này cần làm vì trại Galang đã nhận thêm nhiều người nên cái ao cũ đã không đủ lượng nước cho việc tắm và giặt rũ quần áo. Ngoài chuyện có cái ao nước thì hàng ngày trong trại cũng có nguồn nước sạch khác được bơm đến từng zone chia cho mỗi đầu người nhưng chỉ độ 20 lít. Vì quá ít nên hầu như ai cũng cần thêm nguồn nước khác như từ ao của suối hoặc từ giếng đào lấy gần nhà. Từ trước khi có làn sóng người tị nạn Việt đổ vào trại thì dân địa phương đã ngăn phần trũng giữa hai con đồi để tạo thành một vũm nước khá rộng gọi là sông Gông. Vũm nước này nằm gần đường đi giữa Galang 1 và Galang 2 và phòng an ninh P3V đặt biển cấm thuyền nhân lai vãng gần. Họ muốn giữ nguồn nước trong vũm luôn sạch rồi sau đó, chờ khi nước trong thì bơm thẳng lên chứa vào các bồn sắt lớn được đặt cố định trên các đỉnh đồi cao. Từ các bồn sắt lớn đó, nước sạch được truyền xuống từng zone và các khu vực của Cao Ủy cùng các phòng ban trong trại theo nguyên lý bình thông nhau. Tuy có sông Gông nhưng vào mùa nắng thì trại giới hạn phân phối nước cho thuyền nhân và chỉ dành ưu tiên cho Cao Ủy cùng các phòng ban khác của toàn trại. Nói chung thì nguồn nước sạch cũng tạm đủ cho nhu cầu nếu thuyền nhân khéo tiện tặn.

    Đã vài lần cùng Đỉnh đi vào rừng để chặt cây khi sửa chữa căn phòng chung cho cả bọn nên tôi không ngại khi nghe Yến nói có tên trong danh sách thiện nguyện đi sửa cái ao tắm tập thể. Vả lại, núi rừng từ trước tới giờ vẫn là nơi bí hiểm, kích thích sự khám phá trong con người tôi. Khi còn ở bên quê nhà thì tôi đã từng phải ở trên vùng kinh tế mới vùng Vĩnh Cửu-Trị An vài năm. Nên, tôi nghĩ mình sẽ xung phong vào toán người đi vào rừng để chặt cây hoặc khơi nguồn của con suối. Nói ra điều đó với Yến thì nàng dặn dò phải cẩn thận phòng rắn rít, cây đổ khi tôi vào làm việc trong rừng. Hồi còn ở trên vùng kinh tế mới, tôi vẫn thường vẩn vơ cạnh một con suối, ngồi trên bờ đá hay đứng yên trước những hàng cây bên lối mòn trong rừng. Có lẽ, rừng rậm là một trong số ít cảnh vật hiếm hoi còn giữ được vẻ nguyên sơ ban đầu. Rừng ở Galang cũng vậy. Vẫn còn vẻ nguyên sơ chưa dấu vết người khai phá mà lại còn rất nhiều muông thú như heo rừng, kỳ đà, chồn, thỏ, sóc, khỉ, rắn... Khỉ nhiều và dạn dĩ đến mức chúng dám mò ra sát bên cạnh các barrack cùng nhà dân tị nạn để kiếm món ăn lạ. Thỉnh thoảng có người còn bắt gặp kỳ đà, cheo chạy vút băng ngang qua đường. Đó là thú, ngoài ra trong rừng còn có các loại cây cho trái ăn được như thanh trà, bứa và xà lắc... Thanh trà là một loại xoài rừng, trái nhỏ chỉ bằng ngón chân cái nhưng có vị rất ngọt. Bứa thì giống như quả măng cụt nhưng vỏ có khía màu vàng cam và ruột rất chua. Hai loại trái cây này, rừng bên quê nhà cũng có riêng loại trái xà lắc thì không. Cây xà lắc trông tương tự một thân cau ăn trầu cùng quày trái chi chít. Trái xà lắc thì lớn bằng hột gà cùng vỏ gai cứng bọc bên ngoài nhưng bên trong có ruột tương tự như trái nhãn với cơm trắng bao hạt nhân cứng ăn rất ngọt. Rừng ở Galang còn có loại chuối hoang cho quày như chuối nhà thông thường tuy mùi rất thơm nhưng trái nào ruột cũng đầy hột bên trong. Có người hiếu kỳ đã chặt mang về barrack cả quầy chuối hoang này nhưng sau phải vất bỏ vì không ăn được.

    Sau lần sửa lại cái ao tắm đó thì tôi nghĩ mình cần phải kiếm một việc làm thiện nguyện nào đó như ở trong văn phòng zone hoặc ban đại diện trại cho vui cho dãn gân cốt, thay vì ngồi không một chỗ hoài rất chán. Nói ra điều đó với anh Khảm, anh đồng ý ngay nhưng bảo tôi nên kiếm một chân thiện nguyện của phòng an ninh P3V hoặc làm cho văn phòng Cao Ủy sẽ tốt hơn khi nói:

    - Em không hề lính tráng mà cũng không thuộc thành phần phản cách mạngbe6n quê nhà thì nên cần phải làm thiện nguyện để có điểm khi vào thanh lọc. Càng ở đây lâu, anh nghĩ việc thanh lọc không dễ dàng như những gì mình đã tưởng ở các ngày đầu khi mới nhập trại. Làm một nhân viên cho phòng an ninh P3V hay cho Cao Ủy, chắc chắn họ sẽ nương tay khi phỏng vấn em. Túng thì phải tính, Vũ ạ.

    Nghe anh Khảm nói nhưng thực sự khó mà kiếm được một chân thiện nguyện trong ban Đại diện trại vì người thì đông trong khi việc làm chỉ có giới hạn. Dò hỏi thêm nơi ông Thăng thì tôi được biết ở zone cũng như tại ban Đại diện trại, nhân số đều dư và họ không nhận thêm người mới nữa. Vậy mà anh còn bảo tôi cố sức kiếm việc trong phòng an ninh P3V hoặc với Cao Ủy, những nơi mà ai cũng muốn đầu quân vào làm và tất nhiên, chẳng còn chỗ trống.

    Tìm không ra chỗ làm thiện nguyện cho đến một buổi tối khi ngồi ở quán cà phê Sài Gòn thì bất ngờ tôi và anh Khảm gặp lại ông Bửu. Lần này thì ông đi cùng với một cô gái trẻ, da trắng và khá đẹp. Cố gái, vì cột tóc thành chùm đuôi gà nên làm khuôn mặt trông có vẻ khỏe khoắn nhưng bướng bỉnh. Anh Khảm nhìn thấy cả 2 từ ngoài hướng cổng quán, liền quay sang nói nhỏ với tôi:

    - Cô đó tên Hòa đấy! Nay gặp ông Bửu thì mới nhớ đến chuyện của em, anh thật dở!, rồi anh đứng lên, mời cô gái và ông Bửu ngồi vào chung bàn.

    Như lần trước, hôm nay ông Bửu diện bộ quần short áo thun cùng giày-vớ cẩn thận trông như người vừa đi chơi tennis về. Ngồi chung bàn chưa được lâu thì cô gái tên Hòa đó xin đi vào bên trong quán để xem tiếp phim bộ chiếu trên TV, nhân đó anh Khảm mới nói với ông Bửu về chuyện làm thiện nguyện của tôi.

    - Vũ, em tôi đây... anh đã gặp rồi. Ở Galang anh quen biết nhiều, xem coi có phòng ban nào cần người làm thiện nguyện thì giúp cho Vũ nó một chỗ. May ra, có thể nhờ đó mà em tôi lọt lưới thanh lọc chứ tôi thấy tình hình càng lúc càng khó anh.

    Ông Bửu nhìn anh Khảm rồi gục gặc cái đầu làm tôi mừng thầm nhưng không, ông ta rút thuốc lá ra hút rồi nói:

    - Phòng ban nào bây giờ cũng nghẹt người làm. Anh biết, thằng Niên lái xe cho phòng an ninh P3V chưa rời trại đi định cư thì đã có tới 8 cái đơn từ ban Đại diện trại, hội Cựu quân nhân, bên Tin Lành... nộp để xin thế chỗ làm của nó đấy. Ông Nasir xếp phòng tiếp liệu của bên an ninh P3V cũng chẳng biết sẽ nhận ai, phải bỏ ai vì... tờ đơn nào cũng kèm theo một bản sao bằng lái quân xa cùng giấy giới thiệu gửi gấm. Mật ít-ruồi nhiều, thật khổ cho người tị nạn mình bây giờ, việc đã không lương lại còn phải giành giật nhau từng chỗ một.

    Ông Bửu rít thêm hơi thuốc lá rồi ngần ngừ đôi chút, nói tiếp:

    - Cũng vì có vụ thanh lọc chứ theo lời kể của đám tị nạn đến trại trước ngày Cao Ủy tuyên bố đóng cửa thì thời của họ, có bói cũng không ra một mống chịu làm thiện nguyện.

    Lời ông Bửu nói đã gây một thất vọng và làm cho tôi buồn. Cả ông Bửu lẫn anh Khảm tỏ vẻ ái ngại và thông cảm khi nhìn vẻ mặt tôi nên hai người họ không ai nói với ai một lời. Được một lúc, như vừa nghĩ ra một điều gì thì ông Bửu hỏi tôi:

    - Anh Vũ trước giờ học hành ra sao? Có biết English không?

    Thấy tôi gật đầu, ông Bửu liền lôi từ trong cái túi xách tay ra một quyển sách, dùng ngón trỏ lật vài trang xem qua rồi đưa nó cho tôi và nói:

    - Đâu! Anh dịch thử đoạn in này cho tôi nghe xem nào.

    Đón quyển sách từ tay ông, tôi liếc qua trang báo viết về bất đồng chủng tộc giữa các sắc dân Serb, Croat và Bosnia của liên bang Nam Tư cũ bên trời Đông Âu. Đây là quyển Reader's Digest, một tạp chí nhỏ giống quyển Phổ Thông, Tân Học hay Kiến Thức Ngày Nay... như bên quê nhà. Tôi đọc đoạn tin và từ từ dịch lại được hơn nửa trang thì ông Bửu giơ tay ra dấu ngưng lại rồi nói:

    - Đủ rồi! Cậu vào làm trong phòng Dịch thuật của tôi nha.

    Nghe những lời ông Bửu vừa nói, anh Khảm nhìn tôi với ánh mắt thật phấn khởi. Ông Bửu đã thân mật hơn khi gọi tôi bằng cậu thay vì bằng anh như vừa trước đó. Nghe ông nói, tôi rất mừng vì kiếm được việc làm thiện nguyện thật bất ngờ nhưng liền đó, một mối lo trong tôi khiến muốn nói ra lại sợ có thể vì đó mà ông Bửu sẽ... rút lời, không nhận nữa. Tôi phân vân, ngồi im nhưng nhìn vẻ mặt tôi, ông Bửu đoán biết khi ướm lời:

    - Cậu Vũ hình như đang lo lắng cái gì đó phải không, chuyện gì vậy?

    Tôi cho ông Bửu cùng anh Khảm biết là bản thân mình thì có thể đọc sách báo tiếng Anh để hiểu để dịch như vừa rồi nhưng khả năng chỉ đến thế. Còn dịch thuật từ tiếng Việt sang Anh ngữ, đâu phải là việc từng làm nhưng ông Bửu khi nghe tôi nói xong, mỉm cười và trấn an:

    - Cậu đừng lo. Vào làm việc chung sẽ gặp các anh em khác trong phòng, có gì khó thì cứ hỏi, họ sẽ giúp. Với lại, nghề sẽ dạy nghề.

    Anh Khảm cũng nói vài câu khuyến khích mong tôi yên tâm đi làm. Vừa lúc, cô gái tên Hòa ở bên trong đi ra đến ngồi chung gần bên, ông Bửu lấy tay chỉ vào tôi và nói với cô ta:

    - Cậu Vũ này sẽ làm việc trong phòng Dịch thuật, thấy cậu ta biết lo cho bản thân không. Còn Hòa, tôi nói hoài mà Hòa không chịu làm thiện nguyện thì trước sau gì cũng bị rớt thanh lọc rồi có ngày sẽ phải về lại Việt Nam đó.

    Dứt câu, ông Bửu nheo nheo cặp mắt và cười vui với cả bọn.

    - Thầy cứ nói vậy mà em thì biết làm thiện nguyện việc gì. Ở đâu? Cô Hòa nhỏ nhẹ trả lời.

    - Ở phòng Dịch thuật... tôi nói nhiều lần rồi mà Hòa còn cứ hỏi.

    - Em có biết tiếng Anh nhiều nhặn gì mà dám vào làm trong đó. Người ta cười chết... Thầy cứ chọc.

    - Ôi dào! Vào làm mỗi cái việc nhận-trả hồ sơ thôi. Dịch! Thì để các anh em khác người ta lo. Hòa vào làm nhá... nhá. Ông Bửu nài nỉ cô gái trẻ.

    Lời ông Bửu nói với cô Hòa khiến tôi nghĩ tới Yến rồi Đỉnh cùng 2 cô Đào, Bẩy đang sống chung trong nhóm. Đỉnh đã nói không lo cái chuyện thanh lọc vì nó ỷ có giấy bảo lãnh của gia đình bên Mỹ và quả quyết sẽ vượt qua cái ải thanh lọc này dễ dàng. Đào và Bẩy nói nếu người ta ra sao thì 2 cô cũng sẽ như vậy, kể cả chuyện phải hồi hương về lại bên quê nhà. Còn Yến nói có anh ruột sống bên Úc và đã lập hồ sơ bảo lãnh xong cả rồi nên nếu bị rớt thanh lọt, nàng sẽ hồi hương ngay. Về Việt Nam rồi thì Yến sẽ chờ đi định cư tại Úc. Kể ra, như vậy thì 4 người sống chung với tôi cũng ổn. Trước khi cùng cô gái tên Hòa đó bỏ ra về, ông Bửu dặn tôi đến nhận việc vào buổi sáng ngày thứ Hai tuần tới. Kiếm được việc làm thiện nguyện, tôi vui nhưng thêm nỗi lo sẽ phải sắm thêm quần áo cùng giầy-vớ mới. Tiền Rupiat mà tôi mới đổi vừa rồi, sau lần mua sắm nầy thì sẽ chẳng còn được bao nhiêu trong tay.

    Khi thấy tôi được nhận vào làm thiện nguyện ở phòng Dịch thuật cách dễ dàng thì anh Khảm rất vui vì khởi đầu khi hỏi chuyện, anh chỉ mong ông Bửu biết có phòng ban nào đó trong trại trống chỗ thì xin hộ cho. Nào ngờ diễn biến lại quá tốt, anh nói:

    - Thiện nguyện viên ở các nơi đặc biệt như phòng định cư, IOM, phòng JVA, P3V hay Dịch thuật... đụng mặt với các luật sư bên Cao Ủy và bên chính quyền Indo hàng ngày thì thể nào họ cũng giúp khi vào thanh lọc. Mình giúp công việc cho họ thì họ phải giúp lại mình chứ.
    (còn tiếp)

  11. #30
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Anh Khảm cho biết phòng Dịch thuật là căn nhà nhỏ nằm ở đầu trong dãy nhà của khu thanh lọc thuộc bộ Nội vụ Indo. Thông thường, phòng P3V sẽ sắp xếp danh sách thuyền nhân theo thứ tự từng chuyến ghe đến trại cho Cao Ủy sơ vấn trước rồi sau đó thì họ sẽ chuyển hồ sơ sang cho sĩ quan bộ Nội vụ Indo thanh lọc. Khu vực thanh lọc nằm biệt lập trên một triền đồi, có cắm bảng giới hạn người vào ngoại trừ vì công việc hoặc có giấy mời và nó cách xa với zone 3 của Galang 1. Tôi đến khu vực này theo lời dặn của ông Bửu vào buổi sáng ngày thứ Hai đầu tuần. Vào đến nơi mới thấy những dãy nhà sơn trắng, cửa sổ gắn kiếng nằm im lìm dưới bóng mát của các cây tràm bông vàng, phi lao cao to. Trong những băng ghế dài, một số người Việt quần áo chỉnh tề đang ngồi chờ được nhân viên trật tự gọi tên vào thanh lọc. Thấy tôi, một nhân viên trật tự trẻ tuổi tiến đến hỏi và sau khi nghe tôi nói về chuyện làm việc với ông Bửu thì anh ta lấy tay chỉ về căn phòng ở đầu của dãy nhà. Nơi đó, một xe mô tô hai bánh dựng cạnh bên tấm bảng kẻ hàng chữ Eligibility Unit không xa thân cây kiểng lạ như dừa nhưng có các tàu lá lớn tương tợ lá chuối xòe đều ra hai bên giống hệt cái quạt khổng lồ. Xe mô tô của ông Bửu, tôi nghĩ vậy. Đến trước cửa phòng Dịch thuật thì may mắn ông Bửu đứng bên trong nhìn ra thấy liền ngoắc tay gọi tôi vào và giới thiệu với các thiện nguyện viên khác gồm các anh Đinh Vinh, Đặng Phúc Nhân, Nguyễn Thanh Danh, Tám Miễu cùng các cô Triệu Lệ Lan, Lê Anh Hà... Thật không ngờ cái phòng Dịch thuật nhỏ xíu mà lại có khá đông người làm thiện nguyện như vậy.

    - Mỗi ngày cả mấy chục thuyền nhân vừa sơ vấn bên Cao Ủy lẫn thanh lọc bên Indo mà ai nấy đều mang theo cả xấp giấy tờ để chứng minh cho lời khai của họ. Giấy tờ nào thì phòng mình cũng phải phiên dịch ra Anh ngữ hết... Nay có thêm anh đến góp sức nữa thì càng tốt. Anh Đinh Vinh nói.

    Ông Bửu chỉ cho tôi thấy các tệp hồ sơ nằm trong kệ và ở cả trên mặt các bàn giấy gần các quyển tự điển dầy cộm rồi nói cho chúng tôi nghe:

    - Cậu Vũ hỏi cô Lan hay cô Hà đưa cho vài hồ sơ ngăn ngắn gì đó để dịch thử. Những buổi đầu cứ làm vậy đi, nếu cần giúp đỡ gì khi dịch các văn bản thì cậu cứ hỏi tôi hoặc các anh em trong phòng. Đừng ngại!

    Căn phòng quá nhỏ so với số nhân viên ngồi làm việc trong các bàn kê cạnh nhau cộng thêm người ra vào để nhận hồ sơ cũ hoặc gửi giấy tờ mới nhờ dịch. Có lẽ đây là một trong các phòng làm việc bận rộn nhất trong trại tị nạn Galang. Tiếng máy chữ gõ lách cách tạm ngưng khi chúng tôi thấy ông Bửu khoát tay ra dấu muốn nói thêm điều gì đó.

    - Nghe đây, dịch giấy tờ thì mình cốt làm sao để luật sư Cao Ủy hay bên phía Indo người ta hiểu được đúng nội dung và không sai văn phạm là được. Câu dịch có dài hay ngắn không thành vấn đề.

    Ông Bửu dứt lời, đưa trả lại một bản dịch vừa duyệt xong cho cô thư ký ngồi gần đó rồi dặn dò thêm:

    - Các cô cậu làm việc chung vui vẻ nha, bây giờ thì tôi phải chạy vào Galang 2 vì có hẹn với ông Peter.

    Xong, ông ta rời khỏi căn phòng, đến bên xe mô tô, đạp nổ máy rồi rú ga vọt nhanh về hướng dẫn ra bên ngoài đường.

    Làm việc được hơn một tuần lễ thì tôi đã quen với các sinh hoạt chung trong phòng Dịch thuật. Hai cô thư ký tên Lan và Hà lo việc quản lý giấy tờ của thuyền nhân gửi tại phòng và đả tự các bản viết tay của nhóm nam giới chúng tôi mỗi khi vừa được dịch xong. Có lúc cần gấp giấy tờ cho thuyền nhân nào đó đang chờ bên ngoài phòng thì đám nam giới chúng tôi cũng phải tự tay đánh máy bản viết mình vừa dịch xong. Riêng cô Lan là người Việt gốc Hoa lại có kỹ năng nói và nghe thành thạo nhiều phương ngữ nước Tàu như Tiều Châu, Quảng, Phổ Thông, Phước Kiến... Thật là một cô gái hiếm có, có được tài năng như vậy mà lại trông rất dễ thương. Thỉnh thoảng, các sĩ quan bộ Nội vụ Indo gọi cô vào để phiên dịch cho thuyền nhân Việt gốc Tàu vì người đó chỉ bập bẹ chút ít tiếng Việt khi vào thanh lọc. Trong tuần từ thứ Hai đến thứ Sáu thì phòng Dịch thuật làm việc từ sáng cho đến chiều và chỉ ngưng khoảng 2 tiếng đồng hồ giấc trưa để đám nhân viên chúng tôi về lại barrack cơm nước. Chúng tôi làm việc thiện nguyện không lương và chỉ thỉnh thoảng được một thuyền nhân nào đó hào phóng mời đi uống cà phê, hút điếu thuốc lá cho vui như một sự trả công và chỉ có vậy. Riêng chỉ có mình ông Bửu là đã qua các thủ tục sơ vấn cùng thanh lọc còn tất cả nhân viên cũ-mới trong phòng đều chưa ai đến lượt dự buổi sơ vấn của Cao Ủy.

    Cùng thời gian này thì Tám Kiệt và ông Phát đã được nhà thầu Titan nhận vào làm việc có trả lương theo kiểu công nhật. Công việc của Tám Kiệt là dựa vào khối vật liệu cơ bản do nhà thầu cung cấp như cây, ván gỗ, lưới sắt... mà vẽ thành các họa đồ blue print cho những dãy nhà khá lớn sẽ được dựng ở một bãi đất trống dưới chân đồi của nhà thờ Công giáo Galang 1. Những dãy nhà gỗ nầy sẽ là khu Consortitum mà Cao Ủy sử dụng để huấn nghệ cho thuyền nhân trước khi rời khỏi trại tị nạn Galang. Là một chuyên viên về đồ hoạ nên việc làm nầy đối với Tám Kiệt không khó. Còn ông Phát thì thành thông dịch viên vì có khá đông thuyền nhân được tuyển vào làm việc xây dựng các dãy nhà.

    Không hiểu trước ngày Cao Ủy đóng cửa trại tị nạn thì thuyền nhân thời đó cần các giấy tờ gì để chứng minh cho lời khai của bản thân? Còn bây giờ, tôi thấy có nhiều loại giấy do thuyền nhân ký gửi nơi phòng để nhờ dịch. Ngoài các giấy của thời miền Nam VNCH như Khai sinh, văn bằng, thẻ Lãnh lương, Chứng chỉ tại ngũ... thì còn có các loại giấy tờ khác như Giấy ra trại do chính quyền Việt Cộng cấp cho một sĩ quan quân đội miền Nam VNCH sau khi người này được thả từ một trại tù học tập cải tạo cho đến Lệnh tha của các chiến sĩ phục quốc hoặc thành phần phản cách mạng (chống lại Việt Cộng). Có những giấy mang cái tên lạ hoắc như Quyết định hủy bỏ biện pháp ngăn chận của nạn nhân sau khi bị công an Việt Cộng bắt nhốt một thời gian khá dài. Giấy tịch thu nhà-xưởng, xe hoặc tàu-thuyền... của dân lành trong các đợt chính quyền Cộng Sản chiếm đoạt của cải. Giấy mời người nào đó đến văn phòng công an địa phương để rồi họ lọt bẫy, bị bắt giữ và phải chịu cảnh tù đày. Lệnh tạm tha của một thuyền nhân kèm theo quyển sổ nhỏ buộc người này phải đến trụ sở công an để trình diện hàng ngày với những con dấu mực dầu đỏ chói đóng chi chít trong các trang giấy. Con dấu đỏ nào của chế độ Việt Cộng cũng đều một kiểu ngôi sao năm cánh nằm chính giữa mà có trang giấy vì dấu đóng quá đậm mực nên nhoè làm cho ngôi sao trông giống như hình cái đầu lâu người với hai khúc xương bắt chéo. Có tờ thì các con dấu vì đóng liền sát nhau bên cạnh chữ ký cá nhân cán bộ cấp giấy dài loằng ngoằng nên trông như một còng số 8 cùng đoạn dây xích nhỏ. Qua những tờ giấy của thuyền nhân gửi dịch, tôi biết chúng gắn liền với chủ nhân một quãng đời tươi vui xưa cũ đã bị cướp mất hoặc ghi lại đoạn ngắn buồn thảm vừa qua ở bên quê nhà. Đủ loại giấy tờ mà nhiều nhất vẫn là các giấy do chế độ Việt Cộng cấp và có lẽ chúng xuất hiện nhiều như vậy tại miền Nam VNCH chỉ không lâu sau khi thủ đô Sài Gòn bị bọn người này chiếm đoạt.

    Đặc biệt, trong số giấy tờ ký gửi chờ dịch thì tôi đã tận mắt thấy các bản sao Giấy ra trại của vài viên tướng miền Nam VNCH như Trần Bá Di, Nguyễn Thanh Sằn và Hồ Trung Hậu... do các thuyền nhân mang đến mà nơi mục can tội, quản giáo Việt Cộng chỉ ghi vỏn vẹn hàng chữ đánh máy là Chuẩn tướng hay Trung tướng Ngụy quyền.

    - Trên thế giới, xã hội Cộng Sản của nước nào thì cũng đều giống nhau ở chỗ người dân là một tù nhân dự bị và chỉ chờ có dịp là họ bị bọn công an bắt giam. Anh không nhớ tên của người đã phát ngôn ra câu nầy nhưng nghĩ nó thật đúng.

    Lời anh Khảm nói sau khi nghe tôi kể về chuyện giấy tờ của thuyền nhân mang theo gửi trong phòng Dịch thuật và anh tiếp:

    - Anh đọc sách thấy nói ở bên Liên Xô hay Đông Đức gì đó thì nhiều người dân mỗi tối trước khi đi ngủ đều phòng sẵn một túi nhỏ có đựng bàn chải, kem đánh răng, thuốc trị bệnh, xà phòng... để nếu giữa khuya họ bị công an ập vào bắt bất ngờ thì sẽ có cái dùng trong nhà tù. Anh em mình sống nơi đây tuy chưa biết số phận sẽ như thể nào trong thời buổi thanh lọc nhưng dẫu sao, vẫn may mắn hơn những người còn kẹt ở bên quê nhà.



    Phạm Thắng Vũ cùng các bạn thiện nguyện viên của phòng Dịch Thuật
    trong một chầu cà phê-bánh ngọt tại quán nước ở Galang 1.

    Một hôm, cô Hà thư ký của phòng đã mời cả nhóm anh em chúng tôi đến nhà riêng để ăn giỗ người cha chồng nên anh Đinh Vinh quyết định cho đóng cửa nghỉ làm sớm lúc gần trưa. Chúng tôi cùng kéo nhau đi ra đường lộ chính rồi băng ngang qua khu công trường Consortitum đang được xây dựng dở dang. Cây ván, cỏ tranh đánh thành từng tấm lá để lợp mái, gạch, cát và các cuộn lưới sắt... bỏ nằm ngổn ngang trên mặt đất. Nhân công chia thành từng tốp nhỏ đang hì hục dọn bỏ cây cối, khuân gạch-đá hoặc ban cho bằng phẳng các chỗ gồ lồi và hố đất trũng.

    Căn nhà nhỏ của vợ chồng cô Hà nằm ở cuối vùng đất công trường dọc theo một lối đi khác ở cạnh chân đồi. Đám nhân viên chúng tôi hùn tiền với nhau mua một thùng bia lon Foster và hai chai rượu trắng hiệu Arak có hình ông già chống gậy để làm quà ăn giỗ. Đến nơi thì ai cũng cảm thấy đói bụng khi mùi thơm món ăn bay ngào ngạt và rồi vì chờ mãi mà không gặp ông Bửu cùng cô Hòa nên cả bọn chúng tôi đành quây quần thành một vòng tròn trên nền nhà. Cả đám ngồi vây chặt các tô cà ri gà, dĩa cá chiên xù vẩy, bát khổ qua nhồi thịt, thố kiểm, thố chè đậu trắng cùng các khay bún sợi và bánh mì xắt thành lát mỏng... Bữa giỗ thật quá ngon và thịnh soạn trong khung cảnh thiếu thốn của trại tị nạn.

    Ngồi ăn một lúc, vì không uống được rượu-bia nên tôi xin kiếu vợ chồng cô Hà cùng các nhân viên khác để ra về trước. Khi quay ngược lối cũ thì tôi gặp Tám Kiệt và ông Phát đang ngồi nghỉ dưới bóng một cây thấp trong khu vực công trường. Thấy tôi, Tám Kiệt giơ tay vẫy và nói:

    - Cậu Vũ đi đâu vào tuốt trong này vậy? Công việc làm trên phòng Dịch thuật đó chắc bận dữ ha. Có gấp gáp gì không, ngồi chơi uống trà với tụi nầy cho vui.

    Nghe vậy, tôi liền ghé lại ngồi với hai ông. Không như lúc còn ở trại trong rừng bên Malaysia, từ hồi nhập vào Galang tới giờ thì tôi cũng ít có dịp ngồi trò chuyện với Tám Kiệt. Ông Phát rót một ly nước trà còn nóng mời tôi uống và nở miệng cười, xuề xòa:

    - Cậu làm ở phòng Dịch thuật tuy không lương nhưng thấy vậy mà có tương lai hơn tụi tui nhiều. Biết chuyện gì là lạ... liên quan tới thanh lọc xin cậu làm ơn nói cho tụi tui biết với nha. Mai mốt khi gần ngày sơ vấn chắc phải nhờ đến cậu dịch hộ cho các giấy tờ tui mang theo đó.

    Trong barrack thì ai cũng biết tôi làm thiện nguyện ở phòng Dịch thuật và họ nói coi như tôi không phải lo lắng gì về chuyện thanh lọc nữa. Cao Ủy cũng như bên thanh lọc Indo sẽ giúp nhân viên của phòng Dịch thuật vì thực tế, chúng tôi đã phụ giúp công việc của họ. Ngay ông Bửu thì cũng nhiều bận quả quyết với đám nhân viên chúng tôi y vậy. Còn chúng tôi, ai nghe các điều này cũng thấy ngon ơ.

    Công trường bề bộn vật liệu nằm vương vãi đây đó trong một khu vực khá rộng và theo như Tám Kiệt nói thì nhà thầu Titan sẽ cất 9 dãy nhà ván gỗ lợp tranh thật lớn mà họ dành để huấn nghệ cho thuyền nhân trong trại. Cao Ủy bỏ tiền dựng khu Consortitum và họ để cho hai người Mỹ da trắng quản lý.

    - Chừng xây xong, Cao Ủy họ sẽ dạy người mình những nghề gì vậy hả anh Tám? Tôi hỏi thăm.

    - Ô! Sửa xe gắn máy, thợ điện, thợ nề, thợ mộc, may cắt quần áo, hớt tóc, đánh máy chữ và buôn bán nhỏ... nè. Tui nghe nói vậy đó. Tám Kiệt trả lời.

    Nghề mà Cao Ủy huấn nghiệp cho thuyền nhân như vậy không phải dành cho người sắp đi định cư ở nước thứ 3. Nói với Tám Kiệt và ông Phát về suy nghĩ của riêng tôi thì cả hai người họ gật đầu.

    - Cậu nói đúng! Ông Bob quản lý có nói với tụi tui là dạy các nghề này cho thuyền nhân trước khi họ hồi hương về lại Việt Nam. Chính vì nghe vậy nên tụi tui mới lo mới rầu nè. Ông Phát chậm rãi trả lời trong làn khói thuốc.

    Một ngôi trường với 9 dãy nhà quá rộng như diện tích hiện có thì Cao Ủy sẽ huấn nghệ được rất đông người cùng một lúc và chỉ trong thời gian ngắn là hoàn tất khoá học. Điều ông Phát lo lắng rất đúng vì rõ ràng Cao Ủy đã chuẩn bị các phần việc họ sắp làm trong ý định hồi hương thuyền nhân về lại quê nhà. Ở đây có trường dạy nghề thì các trại tị nạn khác bên Thái Lan, Malaysia, Phi, Hồng Kông... chắc cũng tương tự.

    Tám Kiệt ngồi yên lặng hút thuốc lá và dù vẫn luôn cười niềm nở thân mật nhưng khuôn mặt y đã lộ vẻ lo âu. Không như ông Phát là một cựu thông dịch viên cho quân đội Mỹ trước đây thì tôi nghe kể thời miền Nam VNCH, Tám Kiệt chưa hề đi lính hoặc là nhân viên trong guồng máy hành chánh công quyền. Tám Kiệt chỉ là dân buôn bán bình thường như nhiều người khác. Những điều vừa trò chuyện với nhau, tự dưng làm cả 3 người chúng tôi đâm lo về một tương lai dữ nhiều-lành ít đang chờ trước mắt. Khi còn ở dưới ghe, người nào cũng nghĩ một khi đến được trại tị nạn thì chỉ còn chờ ngày thơ thới định cư ở nước thứ 3 nào đó như Úc, Mỹ hoặc Canada... Nghĩ vậy nhưng chỉ cần một thời gian ngắn sống trong trại thì nhiều người đã tan biến mọi hy vọng sau khi dò hỏi tin tức từ những thuyền nhân đến trước đó. Người phải lo lắng cùng ít có hy vọng về cuộc thanh lọc là những thuyền nhân mà bản thân không hề dính líu chút nào với chính quyền miền Nam VNCH trước đây. Có làm việc thiện nguyện thông thường như ở zone hoặc ở ban Đại diện người Việt thì cũng chưa chắc. Ai cũng nói phải làm việc cho phòng An ninh P3V hay phòng thanh lọc Indo hoặc bên phía Cao Ủy... như phòng Dịch thuật tôi đang làm thì mới có hy vọng.

    Ngồi trò chuyện với Tám Kiệt và ông Phát, tự nhiên tôi thắc mắc không biết cái phòng Dịch thuật nơi mình đang làm thiện nguyện, thực sự nó có trực thuộc bên Cao Ủy hay bên phía thanh lọc Indo như lời đã nghe? Và, ông Peter Cao Ủy trưởng cũng như các sĩ quan bộ Nội vụ Indo thực có biết chúng tôi giúp sức hàng ngày cho công việc của họ hay không? Chắc tôi phải dò hỏi điều này với các bạn đồng sự trong phòng xem sao.

    Nhìn lại vẻ mặt gầy gò, hốc hác, mệt mỏi pha lẫn lo lắng của Tám Kiệt trước mắt, tôi phân vân không biết chuyện tình ái giữa y cùng Ánh Diễm nay ra sao rồi? Hai người họ vẫn lén lút với nhau như hồi còn ở trại trong rừng bên Malaysia hay giờ đây, vì lo lắng chuyện thanh lọc nên cũng chẳng thiết đến nhau nữa.

    Những lần trò chuyện qua lại với nhau trong barrack cũng như khi cả đoàn ghe đi khai báo lý lịch cá nhân, tôi biết thời còn miền Nam VNCH, Tám Kiệt từng dạy hoạ kỹ thuật tại trường cơ khí Cao Thắng và có lúc từng làm chủ một garage sửa xe hơi cho đến khi Việt Cộng tràn vào Sài Gòn thì y xoay qua buôn bán. Những năm gần đây thì y tổ chức vượt biên và đã đánh nhiều chuyến thành công. Tám Kiệt sống rất thoải mái trong trại và thực sự gia đình y chẳng phải thiếu thốn gì đến nỗi phải đi làm cho nhà thầu Titan để nhận lương công nhật hàng ngày. Đệ tử rồi người ơn trong các chuyến vượt biên năm xưa đã gửi tiền đến trại tiếp tế cho gia đình y đều đều. Điều mà Tám Kiệt lo âu giống như mọi thuyền nhân khác trong trại Galang là chuyện thanh lọc. Tám Kiệt bây giờ trông khác hẳn một Tám Kiệt khi ở trại trong rừng bên Malaysia dù lúc nào y cũng vẻ mặt niềm nở khi tiếp chuyện với bất kỳ ai. Tôi không ngạc nhiên khi nhìn Tám Kiệt gầy gò, hốc hác trước mặt rồi nhớ lại có lần nghe y than với người trong barrack rằng có lúc ăn uống không vô.

    Còn Ánh Diễm? Như đã kể ở trên, Ánh Diễm đi vượt biên một mình và khi nhập trại Galang đã sống chung với 2 phụ nữ cùng con nhỏ của họ sát bên cạnh chỗ ở của nhóm chúng tôi. Sáng nào cũng vậy, nhiệm vụ của tôi và Đỉnh là dậy thật sớm để quẩy đôi thùng xuống suối gánh nước về barrack cho cả nhóm 5 người dùng trong ngày. Yến, Đào và Bẩy không còn phải xuống tắm dưới suối nữa. Khi trời mới tang tảng sáng thì suối mới có nước trong. Không lâu sau, Đỉnh nhận gánh nước thuê cho riêng mình Ánh Diễm rồi sau đó cũng chính nó đã dẫn Ánh Diễm ra mắt anh Khảm để xin học Anh ngữ. Có những buổi trưa, Đỉnh và Ánh Diễm ngồi với nhau tại cái bàn cây cạnh barrack để ôn bài cũ vừa học. Một lần tình cờ khi vừa từ phòng Dịch thuật về barrack ăn cơm trưa thì tôi đã thấy Tám Kiệt đứng nấp sau thân cây Tràm bông vàng gần đó và đang dõi mắt quan sát hai người họ. Kể lại cho Đỉnh nghe và mong biết để phòng nhưng nó chỉ cười cười mà không nói gì với tôi.

    Một sáng Chủ Nhật, nhóm chúng tôi làm một chuyến pinic đi tắm biển Galang theo lời hẹn với anh chị Khảm-Phượng. Đây là lần đi tắm biển đầu tiên của nhóm chúng tôi. Thấy Đỉnh loay hoay bên các món ăn-thức uống mang theo, tôi hỏi thì nó cho biết vì có thêm cả Ánh Diễm đi cùng. Gặp nhau ngay trước quán cà phê Dạ Lý của bác sĩ Luân, nhóm chúng tôi cùng anh chị Khảm-Phượng đi qua kho trữ dầu hôi của Cao Ủy rồi men theo con đường đất đỏ quanh co bên các hàng cây rừng xanh rậm cùng bờ đất đồi thoai thoải chạy dài gần cả cây số thì mới ra được bãi biển. Đây rồi, làn nước xanh dương bên bờ cát trắng quen thuộc như mọi bãi biển đang trải dài trước mắt chúng tôi. Một làn gió mát từ hướng biển thổi vào làm cả đám chúng tôi khoan khoái vì thấy nỗi mệt phải cuốc bộ đoạn đường khá dài đã tan mất hẳn. Dọc theo bờ cát trắng, dưới các tán lá rộng của các bụi cây ven đường đã có từng nhóm người khác trong trại xí chỗ từ lúc nào rồi nên nhóm chúng tôi đành phải đi tiếp vào sâu hơn để mong tìm được nơi nghỉ chân. Ở đảo tị nạn Galang vì phòng an ninh P3V cho phép thuyền nhân đi tắm biển chỉ nội trong ngày Chủ Nhật nên vào ngày này, lúc nào bãi biển cũng đông người. Tiếng í ới gọi giúp nhau căng các tấm bạt che nắng gần các bụi cây cùng tiếng đệm đàn Guitar vang vang từ một nhóm trẻ nam nữ đang đùa cười nắc nẻ với nhau trong một lùm mát. Vài trẻ nít chạy tới chạy lui chơi trò cút bắt hoặc khoe cho nhau xem những con còng nhỏ xíu mà chúng vừa bắt được. Gió biển thổi mát lạnh nhưng ánh nắng đã bắt đầu chói chang làm cả nhóm chúng tôi rảo nhanh chân kiếm chỗ nhưng vì đi trễ nên khó tìm được một nơi ngon lành.

    - Mình đành phải đi sâu vào phía trong thôi, anh Khảm bảo.

    Như hình ảnh thường thấy ở các đảo hoang, bãi biển Galang thật đẹp vì nó vẫn còn nguyên những cảnh của thiên nhiên. Nước biển xanh lơ cùng bãi cát trắng phẳng chạy thật xa mới đến mép nước y như bãi biển ở Long Hải gần Vũng Tàu. Sát bờ là các bụi cây nhỏ như Ô rô, Cóc kèn hoặc các cây nhơ nhỡ như Mù u, Đước, Trâm biển... Trên bờ, cạnh bên đường đi là các bụi cây thấp mọc nối nhau từng vạt tiếp giáp liền với rừng rậm. Đi mãi đến khúc bờ thưa người thì cả nhóm mới chọn được một chỗ vừa ý ở dưới bóng hai bụi cây Mù u thấp để làm nơi nghỉ chân. Trải tấm nylon khá rộng trên nền cát, đám chúng tôi ngồi nghỉ ngơi, dõi mắt nhìn chung quanh. Người người kéo nhau xuống tắm xa xa nơi mép nước của biển đang cơn triều cường. Tôi, Đỉnh và anh Khảm lấy các tấm võng nhựa căng dưới những cành thấp của bụi cây trong lúc chị Phượng kéo cả bọn Yến, Đào, Bẩy cùng Ánh Diễm vào trong rừng để thay quần áo tắm. 3 người nam giới chúng tôi chỉ trần xì với một quần short và tuy chưa xuống nước mà đã cảm thấy lạnh. Có lẽ vì chúng tôi ngồi trong bóng cây mát lại có gió biển. Anh Khảm cũng rùng mình nhưng khích lệ nói là cứ xuống nước tắm một lát thì sẽ thấy ấm thấy quen ngay.

    Khi các cô gái trong nhóm từ rừng ra tới nơi thì anh Khảm bảo cả bọn ai muốn tắm thì tắm nhưng nên để một người ở lại trông chừng đồ đạc và sẽ ăn uống chung một lượt cho tiện vào lúc trời trưa. Nhìn chung quanh, không hiểu sao nữ giới ở trại tị nạn Galang lại không mặc bikini như ở các bãi biển bên quê nhà mà thay vào đó là bộ quần short-áo thun y như với nam giới chúng tôi. Đỉnh hỏi thì anh Khảm trả lời:

    - Cũng chẳng hiểu tại sao nữa em, thực ra Cao Ủy và phòng an ninh P3V đâu có cấm nhưng người mình ở đây khi tắm biển thì anh chưa thấy ai mặc bikini. Có lẽ vì đang ở nước Hồi giáo nên người tị nạn mình e dè.

    Vừa lúc, có hai cặp nam nữ ghé vào một bụi cây bên cạnh chỗ chúng tôi. Anh Khảm thấy họ thì hỏi nhỏ với tôi và Đỉnh.

    - Các em biết hai cha nội đó không vậy?

    Nhìn hai người đàn ông một cao một thấp đang lúi húi sắp xếp các túi đồ đạc, tôi và Đỉnh lắc đầu. Anh Khảm tiếp.

    - Thạc và Văn đó. Lát nữa có dịp thì anh sẽ kể cho tụi em nghe chuyện về họ. Giờ mình đi tắm trước đã.

    Thạc, Văn! Ra là hai người nầy. Đến trại mới có vài tuần lễ thì chúng tôi đã nghe các chuyện kể về họ. Hai người tị nạn mà không một phái đoàn của nước thứ 3 nào dám nhận cho định cư vì câu chuyện vượt biên của họ. Nhưng chỉ là các câu chuyện vụn vặt được nghe mà không rõ ràng làm tôi háo hức muốn anh Khảm kể liền nhưng anh đã xua tay ngầm bảo đi tắm ngay. Tôi và Đỉnh kéo nhau xuống bãi cát mà giờ đây ngấn nước triều lên đã gần với bờ hơn trước. Chân tôi dẵm lên những viên tròn nhỏ nằm dầy chi chít trên mặt bãi cát mịn do bầy Dã tràng vừa se để lại mà chỉ chốc lát nữa thôi thì nước biển sẽ làm mất đi công trình của chúng. Gần đó, vài người đi lòng vòng lật các hòn đá khá lớn để mong bắt được các con ốc biển hoặc ghẹ bị mắc kẹt khi nước rút. Bãi biển ở đây khá đẹp vì có bãi cát trắng mịn trải dài song song với rừng cây trên bờ và khi lội ra thật xa nhưng vẫn chỉ ngập tới phần bụng. Tôi gặp lại Ánh Diễm, chị Phượng rồi thấy cả Bẩy, Đào và Yến nữa đang vùng vẫy trong nước giữa đám đông người tắm biển.

    Tiếng ai đó trong bọn họ gọi lớn hai đứa tôi:

    - Anh Đỉnh, anh Vũ ơi! Lại đây với tụi em cho vui.

    Tôi và Đỉnh từ từ tiến lại chỗ họ. Trong làn nước trong vắt ngập gần tới ngực, các cô gái nầy thật đẹp. Làn da trắng hồng, các lọn tóc đen trên cổ trên bờ vai của họ. Nước biển đã dán y phục sát vào người họ cho thấy lờ mờ nhưng rõ ràng là các bờ ngực căng tròn với các núm nho nhỏ. Nước trong vắt có thể thấy cả phần bụng của họ với lỗ rốn sâu cùng cặp đùi đứng trên mặt cát. Tôi và Đỉnh nhìn họ mà ngơ ngẩn. Đó là họ mặc quần short-áo thun chứ nếu mà là bikini thì còn đẹp còn quyến rũ tới đâu nữa. Thấy tôi và Đỉnh cứ nhìn xăm soi lại cười tủm tỉm nên các cô gái đã lộ vẻ mắc cỡ trên khuôn mặt đỏ hồng. Kể cũng lạ, không muốn hai đứa tôi ngắm thì mấy cô gọi đến để làm gì. Đã thế lại mặc quần áo mỏng nữa, ai bảo!

    - Phải chi mình giữ lại các áo phao thì có nó mặc vào mới dám lội ra ngoài xa. Ánh Diễm lên tiếng.

    - Tụi em lội dở ẹt à. Anh Vũ, anh Đỉnh chắc lội giỏi lắm ha? Đào góp lời.

    Đỉnh mỉm cười, nói:

    - Không biết anh Vũ sao chứ tui lội thì dở nhưng lặn lại rất giỏi... tới 3 ngày mới nổi đó.

    - Đang tắm biển mà Đỉnh nói nghe thấy ghê vậy. Chị Phượng hấp tấp cắt lời.

    Ngoại trừ Đào và Bẩy là dân vùng sông nước nên bơi lội dễ dàng chỉ có chị Phượng, Ánh Diễm và Yến là không biết bơi thật. Rồi đám chúng tôi lần lượt tản ra nhập chung với những người khác đang ngụp lặn đây đó. Tắm, đùa nghịch cho đến khi chị Phượng và Đào đến gần bảo cả đám lên bờ nghỉ. Đỉnh và Ánh Diễm đang gần bên nhau trong một chỗ khá xa, tôi vòng tay làm loa gọi to nhưng cả hai vẫn không nghe.

    Lên bờ đến chỗ dừng chân thì thấy anh Khảm đã làm xong các ổ bánh mì kẹp thịt hộp pate cùng dưa leo, muối tiêu sẵn sàng cho cả bọn rồi lại có cả xôi vò, chuối và cả nước ngọt Pepsi nữa. Thấy người anh Khảm vẫn khô rang, tôi hối anh đi tắm đi thì chị Phượng cười, nói:

    - Trời ơi! Ổng làm như dân nghiện thuốc phiện đó em, ra biển toàn ngồi hóng gió hoặc đi lòng vòng trên bờ không hà.

    Tôi cũng ít tắm biển vì cái cảm giác khó chịu khi nước mặn nó dính vào người sau mỗi lần tắm. Biển ở Galang không có vụ tắm lại bằng nước ngọt để xả chất mặn như bên quê nhà nên tôi đành phải lấy khăn lông ra cố lau cho khô người rồi ngồi xuống lấy nước và cùng ăn uống chung với cả bọn.
    (còn tiếp)

Trang 3 / 4 ĐầuĐầu 1234 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Muốn con hay chữ phải... “chiều” thầy cô
    By duyanh in forum Văn Hóa - Văn Nghệ
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-26-2014, 11:42 AM
  2. Thảm Họa Động Đất Sóng Thần Ở Nhật Bản Năm 2011
    By giavui in forum Audio Khoa Học Xã Hội
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-11-2014, 03:09 AM
  3. Làng quê dậy sóng vì con dê mang khuôn mặt người
    By hailua in forum Chuyện Lạ Đó Đây
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-27-2013, 03:45 AM
  4. 80 tuổi vẫn phải làm ruộng để nuôi các con tâm thần
    By duyanh in forum Mảnh Đời Nghiệt Ngã
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-13-2013, 01:09 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •