(tiếp theo)
Không nói một lời, Yến ngả người xuống nước nằm lên trên phần tay tôi. Tôi dùng hai tay đỡ lấy phần bụng của Yến, nâng người nàng ngang với mặt nước biển. Yến đập hai chân rồi khoát cả hai tay làm như nàng đang bơi trong lúc tôi đứng yên hoặc bước từng bước một chầm chậm. Có lúc tôi thử buông hai tay ra thì ngay sau đó đã phải vội đặt trở lại phần bụng của nàng liền vì rõ ràng Yến sẽ bị chìm. Cái áo thun ngắn Yến mặc, khi chìm dưới nước nó không còn ôm sát thân người mà có lúc lại tốc lên hoặc phủ xuống theo chuyển động tập bơi và tay tôi đã hai lần chạm vào phần ngực trần của nàng. Rồi, tôi giật thót người khi luống cuống đã để tay sờ ngay vào... cái núm nhỏ nữa vì sợ Yến hiểu lầm nhưng nàng vẫn để yên. Nàng để yên vì mải tập bơi nên không biết cái đụng chạm đó hay nàng biết nhưng không chút phản ứng như tôi đã nghĩ sẽ bị? Còn tôi? Trước giờ có những lần ngồi bên Yến, tôi đã từng mong ước có lúc sẽ đặt bàn tay mình vào phần ngực của nàng. Vậy mà giờ đây trong tôi lại không chút cảm giác ham muốn hay rạo rực. Những hoài niệm về Ánh Phương vẫn còn trong ký ức đã làm tôi không một hứng thú nhục thể gì với Yến. Làn da trắng hồng và thân người nàng lồ lộ qua bộ quần áo đẫm nước ngay trước mắt tôi khi nâng hai tay, đỡ cho nàng tập bơi như vậy cả một lúc lâu. Yến bảo tôi thử bỏ hai tay ra để tự bơi một mình nhưng rồi ngay sau đó vì thấy mình chìm xuống nên nàng hoảng hốt, vùng vẫy tay chân loạn xạ rồi còn ôm chầm lấy tôi nữa. Có lúc thì nàng bám hai tay vào bờ vai hoặc đu người hẳn lên lưng tôi trong tiếng cười vui nắc nẻ cùng không một chút e dè. Đến một chỗ cạn vắng người, Yến dừng lại đứng phơi nguyên thân mình lồ lộ của nàng trước mắt tôi, không một chút ngại ngùng và còn cười với tôi nữa. Nhìn ánh mắt tôi, Yến rất tự nhiên như đã biết trong tôi không một chút tà tâm nào với nàng và quả thực như vậy. Tôi vẫn đang nhớ về Ánh Phương và giờ đây trong lòng tôi, Yến thực sự như một cô em gái nhỏ.
Trời gần về chiều nên nắng gắt dữ và chính vì vậy mà có thêm nhiều người xuống tắm. Như chạy đua với chút thời gian còn lại trong ngày nên chỗ nào cũng đông nghẹt người chen chúc bên nhau đùa giỡn với nước. Tắm táp đã đời cho đến khi thấy mầu trời bắt đầu bảng lảng thì anh Khảm hối cả bọn thu xếp đồ đạc để chuẩn bị ra về. Như vậy, một ngày cuối tuần picnic thoải mái đã kết thúc, đám chúng tôi kéo nhau quay lại con đường đất đỏ dẫn về trại trong cái mệt mỏi bởi nguyên một ngày đùa giỡn với nước và nắng nóng. Đây đó, đi đằng trước hoặc đằng sau đám chúng tôi là từng nhóm người cùng rảo bước chung trong một ý nghĩ mau nhanh chân về nhà càng sớm càng tốt. Anh Khảm do cả ngày nằm trong bóng mát nên da dẻ trông vẫn bình thường còn tất cả chúng tôi thì từ mặt đến chân tay người nào cũng đỏ lừ vì bị bỏng nắng. Thêm vào đó thì ai cũng cảm thấy trong người hâm hấp nóng như đang bị một cơn sốt nhẹ. Dọc đường thì cô Đào cho biết trong buổi đi tắm biển hôm nay đã gặp người quen cũ từ hồi còn bên quê nhà giới thiệu cho một chỗ làm trong một tiệm ăn ở tuốt Galang 2 và có thể sẽ bắt đầu trong các ngày sắp tới. Ai nghe chuyện của Đào cũng mừng vì thực sự chúng tôi đã biết sẽ phải ở trong trại rất lâu mới đến lượt Cao Ủy thanh lọc nên người nào kiếm được việc làm mà có tiền thì còn mong gì hơn.
Về tới gần trại, đến ngã ba của con dốc phân chia khu vực zone 3 và 4 thì có tiếng còi xe hơi vẳng đến thật gần. Cả bọn chúng tôi vội nép vào vệ đường để tránh xe và khi nó chạy đến thì ra là xe của nhà thầu TiTan. Tôi thấy Tám Kiệt ngồi ngay trong buồng lái bên cạnh gã tài xế người Indo, mắt y nhìn chằm chằm vào Ánh Diễm và Đỉnh mà 2 người nầy lại cúi đầu trò chuyện riêng với nhau nên không biết. Mặt Tám Kiệt rất giống như lần trước khi tôi tình cờ trông thấy y núp sau một thân cây cạnh barrack để rình trộm Ánh Diễm và Đỉnh.
Làm ở tiệm ăn nên Đào sẽ phải ở lại Galang 2 luôn và chỉ quay về Galang 1 vào sáng thứ Tư để học English và nhận phần thực phẩm Cao Ủy cấp phát hàng tuần do Yến giữ hộ. Đào rời khỏi nhóm nên căn phòng của chúng tôi đã rộng hơn và thực tế là trong barrack giờ cũng đã có người bỏ ra bên ngoài cất chòi sống riêng. Một chuyện làm cho bararck cảm thấy xuống tinh thần là có vài người đã ghi danh hồi hương về lại Việt Nam. Người hồi hương đầu tiên trong tàu CL 135 của ghe chúng tôi chính là Năm, cậu thanh niên bị rắn cắn phải đưa đi nhà thương cấp cứu ngay trong đêm đầu tiên nhập trại. Một bữa tiệc nhỏ chia tay với Năm trong đêm cuối cùng trước chuyến hồi hương được cả barrack tổ chức trong cái buồn dù không ai nói ra vì rõ ràng ghe chúng tôi đến trại Galang chưa được bao lâu mà giờ đây đã có người phải bỏ cuộc sớm. Hỏi lý do sao lại hồi hương thì Năm nói vì nhận được thư bên quê nhà cho biết mẫu thân bệnh nặng, sợ không qua khỏi nên phải về. Có người thì bảo thực sự không phải vậy, chẳng qua vì Năm không đủ kiên nhẫn để chờ đến lúc thanh lọc và thâm tâm cậu ta nghĩ nếu Cao Ủy có phỏng vấn thì cũng chưa chắc bản thân sẽ lọt qua được.
Tuy có 2 chuyến hồi hương về lại quê nhà rồi mà vẫn có thêm những chuyến ghe vượt biên nữa đến trại. Lý giải cho việc này thì nhiều người cho biết là chính cái tin Cao Ủy thanh lọc lần cuối trước khi dẹp trại nên làm cho những ai còn chần chừ trước khi quyết định bỏ nước ra đi đã vội nhẩy xuống ghe vượt biên cấp tốc. Họ sợ sẽ không còn trại tị nạn nữa khi Cao Ủy dốc hết toàn lực để thanh lọc thuyền nhân Việt lần đầu và cũng sẽ là lần cuối cùng. Những chuyến ghe mới đến trại hầu như đều do hải quân Malaysia chuyển qua. Cao Ủy đã phải cho cất cấp tốc thêm những dãy barrack lợp lá mới sâu trong rừng nên nhiều căn dù chỉ có khung sườn và mái lá sơ sài mà đã lấp nhanh chóng người vào ở. Mỗi một chuyến ghe mới đến thì lại thêm cái vụ người trong trại đi tìm xem coi có ai là thân nhân của mình không? Tôi cũng đã cùng Yến đi vào các barrack của đoàn người say sóng mới đến nầy để mong gặp lại anh Tấn hay các người khác trong chuyến vượt biên chung vừa rồi nhưng không thấy ai cả. Họ bị công an bên quê nhà bắt tù như thằng Dũng hay sau một chuyến thoát chết từ tay hải tặc nên biết sợ và đã bỏ cuộc? Trong số ghe mới đến trại thì nổi cộm có một ông Trung tá Lữ đoàn phó Thủy Quân Lục Chiến miền Nam VNCH. Khi nghe phòng thông tin trại loan báo thì đám thuyền nhân gốc Thủy Quân Lục Chiến của cả Galang 1 lẫn Galang 2 vui mừng xiết bao vì binh chủng họ giờ đã có thầy hay ông niên trưởng đại diện. Vài cựu sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến cấp Úy đã vội tom góp bàn ghế, giường tủ cá nhân và dàn xếp với ông Bùi Thế Dung để dành cho ông trung tá chỗ ở khác trong barrack vách cây-mái tôn ở Zone 3 thay cho chỗ tạm trú tồi tàn trong barrack lợp lá. Sau đó, họ còn kéo ông ta ra quán cà phê Cam Ly làm một chầu chiêu đãi bia Heineken để mừng niên trưởng đến được bến bờ tự do. Ở trại tị nạn Galang thì có chuyện bất cứ thuyền nhân của binh chủng nào trong quân đội miền Nam VNCH đều họp mặt sinh hoạt với nhau như một hội ái hữu và đó là lý do mà những cựu binh Thủy Quân Lục Chiến mừng vì nay họ đã có thêm ông thuyền nhân trung tá trong dàn sĩ quan đàn anh đại diện. Chính ông Bùi Thế Dung trong lần ghé vào phòng Dịch thuật đã cho ông Bửu cùng nhóm thiện nguyện chúng tôi biết là sẽ mời ông trung tá Thủy Quân Lục Chiến nhận một chức vụ gì đó như Phó ban Đại diện và thực sự mọi việc sẽ êm xuôi nếu như không có một vụ tố giác từ một thuyền nhân về lý lịch thật của ông trung tá mới nhập trại.
- Ông ta có đi lính Cộng Hòa thiệt nhưng không phải trung tá trung tiếc gì đâu.
Thuyền nhân này quả quyết như vậy và sau đó bà ta còn chỉ thêm vài nhân chứng khác nữa.
Người nhận diện ông trung tá giả chính là một phụ nữ sống ngay trong cái barrack lợp tôn của Zone 3 nơi mà các cựu binh Thủy Quân Lục Chiến vì sự kính trọng với một sĩ quan niên trưởng đã thu xếp với ông Bùi Thế Dung cùng barrack trưởng để cho gia đình ông được vào ở. Bà nầy đã từng sống chung trong một con xóm với ông trung tá giả bên quê nhà và bà đã vượt biên đến trại Galang từ khá lâu rồi. Barrack trưởng sắp xếp lại chỗ ở của người trong barrack thu gọn lại để nhường một chỗ cho gia đình ông trung tá rồi khi gia đình ông ta dọn vào chỗ ở mới thì bà nầy nhận ra hàng xóm cũ ngay. Đám cựu quân nhân Thủy Quân Lục Chiến khi biết chuyện thật thì họ đã nổi nóng và lôi ông trung tá dỏm ra một chỗ vắng doạ sẽ đả thương một trận nếu như ông ta không khai thật về nhân thân mình. Người trong trại kể là ông ta khai cá nhân thực sự chỉ là một hạ sĩ cùng binh chủng thôi còn trung tá là cấp bậc khi gia nhập vào một nhóm Phục Quốc.
- Trung tá Phục Quốc. Mẹ kiếp! Vậy mà ông ta cũng khai ra ở đây, nó đâu có hợp lý. Lại còn cả gan lấy tên Nguyễn Văn T cùng chức vụ lữ đoàn phó của ông trung tá thật nữa. Đ.M cái ông già đó, đâu có biết là tụi tui tốn công sức, tiền bạc vì muốn làm đẹp mặt ổng. Một thuyền nhân cựu quân nhân Thủy Quân Lục Chiến kể lại.
Thực ra những cựu quân nhân Thủy Quân Lục Chiến đó nổi cơn giận ông già mạo danh cũng phải vì tiền bạc do thân nhân họ gửi tiếp tế khi ở trại đâu ai có nhiều. Họ đã phải góp tiền chung với nhau để tiếp đãi ông già mạo danh làm mất không cả trăm ngàn Rupias cho bữa bia Heneiken hôm đó chứ ít sao.
Ông trung tá dỏm Nguyễn Văn T đó đã phải năn nỉ rồi quỳ xuống van lạy đám cựu quân nhân Thủy Quân Lục Chiến xin họ tha tội vì đã tiếm danh và mạo nhận chức vụ cũng như cấp bậc làm họ tốn tiền và mắc cỡ với người trong trại vì mừng hụt. Ông ta năn nỉ hồi lâu thì các cựu quân nhân Thủy Quân Lục Chiến cũng nguôi ngoai bỏ qua vì họ nghĩ đến cái tình đồng hương cũng như đồng đội khi đang tạm dung ở xứ người. Thêm vào đó, ông ta cũng đã khá lớn tuổi, tóc tai bắt đầu muối tiêu cùng thân hình gầy gò nên không ai nỡ đánh dù chỉ một thoi. Ông trung tá Thủy Quân Lục Chiến dỏm đã thành một câu chuyện cười cho tất cả thuyền nhân sống trong trại.
- Phục Quốc còn phong tới cấp Tướng và Tư lệnh sư đoàn hay quân khu nữa nhưng hầu như họ chỉ có cái khung thôi, một thuyền nhân từng có chân trong tổ chức Phục Quốc tiết lộ.
Thực ra nếu không có người hàng xóm cũ tố giác thì với thời gian sống trong trại, trước sau gì chuyện giả mạo của ông trung tá dỏm cũng sẽ phải lộ tẩy. Vì, tuy nói là cựu khóa sinh khóa 10 Võ Bị Đà Lạt nhưng vẻ bề ngoài của ông ta trông còn trẻ hơn so với ông Bùi Thế Dung, cựu đại tá binh chủng Thiết Giáp thuộc khóa 13. Thêm vào đó, cung cách sống và hiểu biết cá nhân ông có vẻ như một nông dân hơn là một cựu sĩ quan cao cấp của miền Nam VNCH. Có người nói lúc đầu thì họ ngờ ngợ, không tin khi gặp mặt trò chuyện nhưng cứ nghĩ vì thời gian dài bị tù cải tạo Cộng Sản nên đã làm biến dạng phong thái thật của ông ta. Đâu dè!
Hai barrack lợp lá Dừa nước thô sơ ở Zone 4 của trại Galang 1.
Dãy barrack vách ván gỗ, mái lợp tole ở Zone 3 của trại Galang 1.
Giáng Sinh đến gần rồi qua đi chóng vánh trong khung cảnh thiếu thốn của đa số thuyền nhân sống trong trại. Với lại, đêm Giáng Sinh là một buổi tối trời mưa dầm kéo dài suốt từ lúc chiều nên hầu như ít người biết đến một ngày lễ lớn. Chỉ những ai có dịp đi ra ngoài thì mới nghe được những điệu nhạc Giáng Sinh vọng ra từ các quán hàng bên đường. Một buổi tối khi gặp nhau ở quán cà phê thì anh Khảm rủ cả bọn đi dự buổi dạ vũ của binh chủng Không Quân sẽ tổ chức trong trại Galang 2 có tên là Đêm Không Gian Hội Ngộ. Bữa dạ tiệc sẽ diễn tại quán cà phê Đại Dương trong đêm thứ Bẩy tới và theo lời anh Khảm cho biết vì các cựu quân nhân Không Quân thấy gần sắp đến Tết ta nên họ chung tiền với nhau mà thành. Coi như dịp mừng các thuyền nhân phe ta (gốc không quân miền Nam VNCH) mới đến trại cũng như những người sắp sửa đi định cư ở nước thứ 3. Anh Khảm còn hứa với riêng tôi:
- Anh sẽ giới thiệu em với những người bạn không quân đã thanh lọc rồi. Mấy người họ quen biết khá rộng ở Galang 2 nên may ra có thể giúp cho em chút hiểu biết khi gặp Cao Ủy thanh lọc.
Buổi tối ngày thứ Bẩy đến sau cơn mưa chiều nhè nhẹ làm cho không khí thoáng mát, dễ chịu hơn. Chỉ có anh chị Khảm-Phượng, Đỉnh, tôi và Yến đi thôi còn Bẩy vì cảm sốt nên buộc phải nằm nhà. Dưới ánh đèn pin soi đường, đám chúng tôi đi trên con đường nhựa tối đen giữa hai hàng cây rừng. Mưa chiều làm mát trời nhưng dường như cũng làm bầy muỗi đói kéo thêm nhau bay từ rừng ra kiếm ăn. Chúng bạo dạn bay vo ve bên tai và đáp cả lên cổ lên mặt chúng tôi để hút máu. Thỉnh thoảng xuất hiện bóng đèn pin của người bộ hành hay từ một chiếc xe đạp đi hướng ngược chiều về lại Galang 1. Mới 7 giờ hơn mà trời đã tối mịt làm rõ những đốm sáng xanh nhỏ chớp tắt của loài đom đóm trong các bụi cây rừng sát bên lề. Hai bên đường, văng vẳng các điệp khúc ngăn ngắn của côn trùng kêu rỉ rả đây đó.
Chúng tôi băng qua khu vực phòng An ninh P3V, đi qua văn phòng ban Đại Diện người Việt rồi vượt ngang nhà thương Galang 2 và tiến thẳng đến quán Đại Dương nằm gần khu Youth Center của nhóm thiện nguyện xã hội người Indo địa phương. Từ xa, cả bọn đã thấy quán cà phê Đại Dương lộ ra trong vầng sáng trên một sân trống khá rộng như một bãi đậu xe hơi bỏ hoang. Tiếng nhạc vang vang cùng bóng khá đông người bên trong quán đã làm phấn khích cả đám chúng tôi nên ai cũng quên ngay cái mệt mỏi của chuyến cuốc bộ vừa qua.
- May là anh Khảm nghe chị đi sớm chứ đến trễ thì chắc chắn là không còn chỗ cho bọn mình ngồi, chị Phượng nói.
Bước vào quán, vài nhân viên tiếp tân ra đón rồi hướng dẫn cả đám vào một chiếc bàn tròn ngồi chung với các người khách khác. Ở sân khấu, ban nhạc đang chơi bài Dừng Bước Giang Hồ thật sôi động. Một banner khá lớn cắt bằng giấy hàng chữ Đêm Không Gian Hội Ngộ treo ngay sau lưng mấy tay đàn Guitar, đánh trống của ban nhạc. Một ông trạc tuổi anh Khảm từ đâu bước lại bàn chúng tôi rồi nói:
- Các anh các chị từ Galang 1 ra đây phải không? Lội bộ chắc mệt dữ ha! Có khát thì cứ lấy nước uống tự nhiên nghe. Chúng tôi có cả bánh ngọt và bánh mặn nữa đó. Nằm trên bàn dài gần quầy tính tiền kia kìa.
Anh Khảm thay mặt cả bọn chúng tôi cảm ơn nhân viên tiếp tân rồi hỏi thăm ông ta về các bạn của anh trong Galang 2. Ngồi một lát thì chị Phượng và Yến đi lấy các ly giấy nước ngọt, bánh tráng miệng cùng thức ăn cho cả bọn. Trong quán có hơn 20 cái bàn và hầu như đều chật người ngồi. Chợt tôi thấy ông Bửu cùng cô Hòa ở một cái bàn gần phía cuối trong chỗ khuất của quán. Lấy tay chỉ cho anh Khảm thấy 2 người họ rồi tôi thắc mắc.
- Anh! Đêm Không Gian Hội Ngộ là một ngày vui truyền thống của riêng binh chủng Không Quân miền Nam VNCH hả? Nó có nhất định phải là một ngày trong năm như các ngày lễ Quốc Khánh 19 tháng 6 hay ngày Quân Lực 1 tháng 11 không?
- Đúng là một dạ tiệc có tính truyền thống của không quân tụi anh nhưng không ấn định ngày nhất định vì có thể tổ chức dạ vũ Đêm Không Gian Hội Ngộ ở bất cứ ngày nào trong năm. Đầu năm hay giữa hoặc cuối năm gì cũng được, tùy theo sắp xếp thuận tiện của từng đơn vị thôi Vũ. Bữa dạ vũ họp mặt tối nay là lần đầu tiên có tại Galang vì từ hồi lên đảo tới giờ đã mấy năm rồi mà đâu tổ chức được. Anh Khảm trả lời.
Ban nhạc vẫn chơi tiếp các bản nhạc lính rồi xen cả nhạc vàng cùng nhạc hòa tấu ngoại quốc nữa. Khách đến càng lúc càng đông làm nhân viên tiếp tân phải lúng túng kê thêm các bàn cùng ghế ngồi mới. Tiếng người nói, cười chung với tiếng nhạc trong một khung cảnh ánh sáng mầu lúc chớp lúc tắt đầy huyên náo, nhộn nhịp. Chợt tiếng nhạc im bặt đột ngột để nhường chỗ cho một người đàn ông khá lớn tuổi bước lên đứng trên sân khấu. Tay ông ta cầm cái micro nói những lời chào mừng khách tham dự.
- Ông nầy là Chủ tịch của binh chủng Không Quân miền Nam VNCH ở đây đó các em, anh Khảm nói với đám chúng tôi.
Kế đó, ông Bùi Thế Dung lên sân khấu thông báo các chuyện của cộng đồng người Việt xẩy ra trong trại và chia xẻ các âu lo của bản thân ông trong vụ phải chờ đợi các diễn biến thanh lọc. Trước khi đưa cái micro cho 2 người khác và rời khỏi sân khấu thì ông Dung nói:
- Hiện thời đã hơn mười bẩy ngàn thuyền nhân sống trong trại mà Cao Ủy tiên đoán dòng người Việt tại quê nhà sẽ còn kéo đến đây nữa.
Cầm cái micro trên tay, một người họ nói lớn như thét:
- Hãy cứ vui như mọi ngày... Cái gì đến thì sẽ đến... Come what may. OK.
Nhiều tiếng OK trả lời cùng tiếng vỗ tay trong quán phụ họa thật lớn sau lời nói đó của người đàn ông. Mở đầu, ban nhạc cùng ca sĩ giúp vui chơi các bài hát của riêng binh chủng Không Quân như Tuyết Trắng, Hát Cho Người Nằm Xuống, Không Quân Hành Khúc rồi sau đó là các bài ca về đời lính chiến như Kỷ Vật Cho Em, Rừng Lá Thấp... Hai người đàn ông vừa nói trên sân khấu, anh Khảm cho biết họ là 2 anh em ruột tên Lưu Sơn và Lưu Thủy. Anh nói thêm:
- Vừa là chủ quán Đại Dương mà cũng gốc lính không quân, dạ vũ Đêm Không Gian Hội Ngộ tối nay có được phần lớn do 2 người nầy sắp xếp.
Ở các bàn chung quanh, những teacher dạy Anh ngữ trong trại như thầy Hạnh, thầy Khiêm, thầy Kim Hằng, thầy Tâm... đều có mặt. Vậy ra mấy ông thầy nầy cũng đều gốc binh chủng Không Quân cả. Cũng như anh Khảm, là quân nhân trong một binh chủng thường gửi người đi Hoa Kỳ tu nghiệp nên họ mới có thể dạy Anh ngữ cách dễ dàng cho người trong trại. Từ khả năng cá nhân nói và nghe tiếng Anh trôi chảy nên hầu như họ chỉ dạy riêng biệt đàm thoại. Loáng thoáng tiếng trò chuyện với nhau bằng Anh ngữ vọng ra từ các bàn chung quanh chung với tiếng ai đó hắt hơi chắc ngộp vì khói thuốc lá như một làn sương mỏng bao phủ trong quán. Đỉnh khẽ hất tay báo cho tôi thấy vài cặp nam nữ bắt đầu kéo nhau ra sàn piste dã chiến khi ban nhạc đổi sang một điệu Tango lả lướt. Dạ vũ bắt đầu rồi.
Tay trong tay, từng đôi nam nữ già trẻ dìu nhau bước tới bước lui theo điệu nhạc dặt dìu. Sàn pist trong phút chốc đã chật vì thêm người ra khiêu vũ. Cứ vừa dứt một bài hát thì ban nhạc chuyển nhanh chóng sang bài mới khác và họ chỉ tạm ngưng khi giới thiệu người nào đó lên sân khấu ca giúp vui. Cứ vậy, ban nhạc lần lượt đổi tông bài hát từ buồn qua vui lẫn lộn và có lúc chơi cả nhạc ngoại quốc nữa. Tiếng cười tiếng nói vui đùa bên nhau ở trong các bàn chung với tiếng lách cách của ly muỗng cùng cả tiếng trò chuyện với nhau bằng Anh ngữ. Căn phòng của quán bình thường khá rộng giờ đã chật vì quá đông người thêm bầu không khí ngột ngạt từ khói thuốc lá đã làm ai đó không chịu nổi phải húng hắng ho. Tôi nhìn Đỉnh đang dìu chị Phượng trong một điệu Rumba thì nghe một giọng nói:
- Khoẻ không anh Khảm? Lâu quá không gặp anh. Lúc nầy công việc ra sao rồi? Còn dạy học không vậy? Một người đàn ông dừng lại bàn bắt tay anh Khảm rồi tiện tay, kéo một cái ghế trống gần bên và ngồi chung luôn.
Tiếng nhạc đột nhiên trổi lớn hơn khiến người đàn ông và anh Khảm phải cúi đầu thật gần để nói chuyện riêng mà tôi loáng thoáng nghe được những câu: " Nghe anh Luân nói vậy... thiệt vậy sao anh... cũng chưa rõ... phải chờ xem nữa... Chắc chắn phải có người đậu người rớt chứ " rồi cả hai im lặng nhìn nhau. Chợt anh Khảm hỏi:
- Nầy! Nghe đám thằng Sơn thằng Tuân kể là hôm sơ vấn, lão Peter Cao Ủy trưởng nghi ngờ giấy ra trại của anh là giấy giả hả? Kể đầu đuôi cho tôi nghe với anh Thành.
- Anh coi! Chả thấy khi đứt phim mình mới có 27 tuổi mà đã lon thiếu tá thêm cái giấy ra trại còn mới toanh nên nghi ngờ cứ hỏi dồn hoài. Người đàn ông tên Thành trả lời.
- Rồi sao nữa anh? Anh Khảm hỏi tiếp.
Người đàn ông tên Thành có nước da trắng, mái tóc bồng bềnh trông thật nghệ sĩ trong vóc dáng cao gầy. Ông vừa nói tuổi nhưng trông vẻ mặt thì trẻ hơn, tôi lắng nghe tiếp lời ông kể với cái giọng đều đều của người vùng miền tây Nam bộ.
- Chuyện là vầy! Anh biết mình là phi công phản lực F5, bị Việt Cộng bỏ tù cải tạo gần 10 năm trời. Khi được thả thì nó cấp cho mình cái giấy ra trại nên mình phải giữ thật kỹ, rủi bị mất là chết là tiêu tùng cuộc đời luôn vì nó là cái bùa hộ mạng của mình mà. Mình giữ kỹ nên nó trông mới toanh, đâu có gì lạ. Vậy mà lão Peter cũng nghi ngờ là giấy giả đấy. Lão cứ lấy tay chỉ vào cái giấy ra trại của mình rồi nói là giấy nầy giả.
Ông Thành ngừng nói, tay bật quẹt gas châm một điếu thuốc hút.
- Rồi anh nói sao với lão Peter? Giọng anh Khảm.
- Tui quật lại lão ta ngay. Ông nói giấy nầy giả hả? Hỏi sao ông biết nó là giấy giả thì lão Peter im lặng. Lão ta nhìn mặt tui chằm chằm nhưng tui cũng đâu sợ. Thấy lão cứ im lặng mãi tui hỏi tiếp. Bộ ông nghĩ tui làm được tờ giấy ra trại nầy thì lão ta lắc đầu, trả lời: " Không. Ông không làm được nhưng ông mua giấy nầy từ tay chính quyền CS Việt Nam ".
Ông Thành vừa nói vừa chỉ ngón tay trỏ mà mắt lúc nhìn tôi và anh Khảm.
- Trời! Căng thẳng quá ha! Nghe họ nói anh cãi lộn với lão Peter ngay tại bàn sơ vấn. Đó là lúc đang kể này, phải không? Anh Khảm cười cười sau câu nói.
- Họ kể trật rồi anh ơi. Đời nào mình dám làm vậy dù lúc đó tui rất bực. Máu nóng trong người tui nó chạy rần rần. Khi nghe lão ta nói mình mua giấy ra trại thì mình ngồi thẳng người lên rồi hỏi lại liền. Vậy là ông đã biết tui mua giấy ra trại, phải không? Lão Peter nghe mình nói vậy thì gật đầu cái rụp còn cười nữa chứ. Tui chỉ chờ có thế mới hỏi tiếp lão ta. Ông biết chỗ họ bán giấy ra trại không thì lão lắc đầu hỏi lại tui: " Anh nói như vậy với ý nghĩa gì? ". Tui cười trả lời là nếu ông biết chỗ bán thì để tui giới thiệu khách hàng cho. Ông biết là ở trong trại tị nạn Galang nầy có nhiều người hiện cần giấy ra trại lắm mà họ không biết kiếm đâu ra đó. Thật may hôm nay tui gặp ông rồi, thưa ông luật sư Peter.
- Nghe anh nói vậy thì cha nội Peter phản ứng làm sao?
- Vừa nghe xong câu tui nói đó thì lão ta đứng bật lên nói buổi sơ vấn hôm nay của tui tới đây là chấm dứt và bắt tay tui rồi còn nói sorry nữa chứ. Mẹ bà! Không hiểu sao lão ta tưởng cái thằng tui từng lái F5 oanh kích Việt Cộng mà nó để ngồi yên không bắt tù cải tạo! Việt Cộng từng xếp hạng nhất phi nhì pháo... hay lão ta biết mà vẫn cứ làm bộ hỏi như vậy. Ông Thành vừa nói vừa cười nhè nhẹ với tôi cùng anh Khảm.
- Khi anh nói vậy thì lão Peter có bực tức không?
- Lúc đó tui chẳng biết mà cũng chẳng quan tâm, có điều sau khi về tới barrack khi nghĩ lại thì thấy mình hơi nóng nhưng mà cái tính tui nó như vậy, đâu có kềm được. Anh biết tụi Việt Cộng nó bỏ tù tui lâu một phần cũng do cái tính nầy mà ra. Người đàn ông tên Thành trả lời.
Ông Thành là mẫu người miền Nam bộc trực, dễ nổi nóng nhưng cũng mau nguội. Những người như vầy thường rất thành thật. Tôi ngồi yên, ngầm quan sát ông ta cùng số cựu phi công trong quán cà phê tối nay rồi tự dưng tôi thắc mắc không hiểu sao mấy người nầy có sẵn máy bay lại không di tản trong những giờ phút cuối của chế độ miền Nam VNCH mà chịu kẹt lại rồi bị CS bắt bỏ tù để đến bây giờ phải làm một chuyến vượt biên? Tôi, anh Khảm hay những người lính, dân lành khác không có phương tiện để di tản thì đã đành, nhưng còn họ? Hỏi ông Thành thì ông ta cho biết:
- Trời! Máy bay là của phi đoàn chứ đâu riêng cho cá nhân mình được hả em. Hôm nào đến phiên mình trực chiến mà có lệnh yểm trợ hành quân thì mới bay được. Mà cũng còn tùy vào tình trạng máy bay nữa. Hôm 29, 30 năm đó mình đang ở trong Tân Sơn Nhứt chứ bộ.
- Ở trong phi trường Tân Sơn Nhất, vậy mà anh lại không di tản được? Tôi buột miệng.
- Lúc đó mình cũng hoang mang lắm nhưng nghĩ tụi Việt Cộng nó cũng người Việt mình chắc không đến nỗi xử tệ nhau nên mới ở lại. Tuy phi trường lúc đó trong tình trạng rối ren vì bị Việt Cộng pháo kích liên tục nhưng nếu cố gắng thì mình cũng có thể đi thoát ngay trong lúc đó. Trực thăng nhiều chiếc cất cánh gần trước mặt mình, muốn bay ra chiến hạm Mỹ quá dễ. Có ai ngờ được!
(còn tiếp)