Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Muốn biết thế nào là tình yêu thì phải biết sống cho kẻ khác. Sống cho kẻ khác tức là yêu.
Godwin
Trang 4 / 4 ĐầuĐầu ... 234
Results 31 to 35 of 35

Chủ Đề: Con Sóng Dữ - Phạm Thắng Vũ

  1. #1
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết

    Con Sóng Dữ - Phạm Thắng Vũ

    .
    Con Sóng Dữ
    Phạm Thắng Vũ

    Quyển Một

    Chương Một

    Chuyến Đi Không Thành.

    Tôi có mặt tại điểm hẹn ở trạm xe buýt gần rạp hát Opera vào lúc 8:45 sáng và theo lời dặn hễ thấy chiếc xe buýt nào mang số 225-434 ngừng gần thì bước lên ngay. Tôi chờ mà lòng thấp thỏm lo sợ công an có thể đang phục kích gần đâu đó. Giả vờ như khách bộ hành mệt mỏi ngồi nghỉ chân bên vệ đường đang xem báo mà thực sự trong tôi cầu mong chiếc xe buýt đến đúng giờ. 9 giờ rồi, đúng giờ hẹn mà xe vẫn chưa thấy. Lấy tờ báo trong túi sách ra rồi cúi xuống vờ đọc thì vừa lúc một xe buýt trờ đến, tôi vơ vội túi hành lý nhỏ nhưng hàng số bên hông xe không phải chiếc xe đón người. Vài người trên xe buýt bước xuống, xe chạy đi ngay. Tôi nhìn đồng hồ 9:10 rồi 9:20 và... 9:30 mà chưa thấy xe đâu. Lo lắng nhìn phía bên kia đường, bắt được vài tia mắt nhìn vội về tôi rồi quay đi. Tia mắt của những người ngồi gần gốc cây bên vệ đường và người nào cũng có một túi xách nhỏ. Tự nhiên tôi cảm thấy bất an vô cùng vì biết họ cũng đang chờ xe như tôi. Họ là bạn đồng hành với tôi qua thái độ và hành lý mang theo bên mình. 9:45 phút mà vẫn chưa thấy xe! Lo quá! Làm gì bây giờ đây? Phải quyết định ngay, tôi không thể chần chờ được. Nhớ lời dặn của chị Thu nếu xe trễ 30 phút thì bỏ về ngay vì chuyến đi coi như đã bị trục trặc. Nấn ná ở lại bị công an tó ráng chịu. Nhìn sang bên kia đường nơi có các bạn đồng hành của tôi, họ đã biến mất hết. Giờ chỉ còn có một mình tôi. Phải dọt ngay. Tôi đứng lên, định rảo bước thì tiếng xe thắng gấp gần bên. Chiếc xe mang biển số 225 434 tôi đang mong. Hấp tấp, tôi bước lên. Lơ xe ngó quanh quất chung quanh, miệng nói lớn:

    - Có ai nữa không, lên xe ngay.

    Lề đường vắng lặng, người lơ tiếp luôn:

    - Tới luôn, hết khách rồi bác tài.

    Tôi vội vàng ngồi ngay vào một ghế bên cửa sổ như thói quen khi đi xe buýt. Nhìn ra bên ngoài, tôi thấy bên kia đường, hai người trong số ngồi chờ xe lúc nãy đang chạy theo và cố sức ra dấu để mong xe ngừng lại. Xe bỏ mặc và chạy thẳng.

    Xe lần lượt ghé từng điểm hẹn để nhận khách rồi cứ thế chạy lần ra ngoại ô hướng về Thủ Đức và sau cùng trực chỉ Vũng Tàu. Đến thành phố biển Vũng Tàu vào giấc chiều và ngừng ở một bãi trống gần con đường mang tên Ba Cu. Tất cả khách trên xe được dặn nhỏ tạm thời tản ra, giả dạng khách du lịch đi lòng vòng đâu đó chơi nhưng phải quay về xe lúc 7:30 chiều.

    Nhập vào dòng người du lịch, tôi đi lòng vòng qua các con phố rồi ghé vào tiệm uống cà phê ngồi xem báo để hết thời gian. Thời gian nầy Vũng Tàu có khá đông khách ngoại quốc từ các nước CS Đông Âu hoặc từ Liên Xô đến. Họ là chuyên viên trong các công ty khoan dầu hoặc các công trình khác ở miền Nam và đổ về đây để nghỉ ngơi, để tắm biển...

    Quay về xe buýt lúc 7:10, tôi chọn một chỗ ngồi khá xa để phòng các bất trắc. Khi thấy khách kéo nhau lên xe buýt khá nhiều, tôi mới rời chỗ để lên xe. Trong xe chật cứng người, đám tổ chức đã nhét thêm khách cho chuyến hải hành tối nay. 7:30 chập choạng tối, xe buýt khởi hành nhưng chỉ chạy lòng vòng trong thành phố để chờ trời tối hẳn. Có lúc xe ngừng lại, tài xế và các lơ xe làm bộ sửa máy hoặc xem lại các bánh xe. Tôi ngồi im lặng, cầu mong mọi sự an lành.

    Trời tối hẳn, xe chạy nhắm hướng bãi trước và khi vừa ngừng sát cạnh bờ biển thì đột nhiên toàn bộ điện đường ngay khu vực bị cúp hẳn. Trong bóng tối đen, nhóm tổ chức hối thúc khách rời khỏi xe và chạy ngay xuống mép nước. Chạy đến mép nước, dưới ánh lờ mờ của ngọn đèn hải đăng xoay trên đỉnh núi, một ghe khá lớn đã có mặt sát bờ tự lúc nào. Nhiều người đang bước bì bõm để ra ghe.

    - Cá lớn đó... Lội ra ngay đi bà con, tiếng một người xì xào.

    Một đống dép, guốc của hành khách vất bỏ trên bãi cát chung với các túi xách. Kinh nghiệm của những lần vượt biên không thành từ trước, tôi không vất bỏ đôi dép mà cẩn thận lấy ra một sợi dây thủ sẵn trong túi. Luồn dây vào đôi dép rồi cột nó vào quai con đỉa của cái quần dài đang mặc, sau đó tôi bắt đầu lội từng bước ra ghe. Tối nay, không hiểu do một hiệu ứng gì mà mặt biến lấp lánh các vệt sáng màu xanh lá cây trông rất kỳ lạ. Các vệt sáng xanh phản chiếu những lọn sóng, thân người khi họ chuyển động gần bên ghe. Cố gắng hết sức để bước dần tới được cạnh ghe mà mực nước đã tới ngang cổ tôi. Sát bên ghe nhưng tôi không biết làm sao để có thể trèo lên được? Bất ngờ, tôi chạm phải một cạnh gỗ nằm ngang thân ghe và nhờ nó tôi có thể dựa vào để trèo lên. Một bàn tay của người đứng trên sàn đã nắm lấy tôi, kéo tôi lên rồi trong chớp mắt, người đó ấn tôi chui xuống ngay khoang hầm ghe. Trong khoang hầm chật cứng người. Chưa kịp nhìn rõ mọi thứ thì có thêm người nữa trèo xuống. Nước biển từ người họ văng tung toé vào thân, mặt tôi. Chợt máy ghe nổ to hơn và dường như nó chạy lùi rồi làm một vòng quay ra biển.

    Chuyến hải hành vượt biên đầu tiên trong đời tôi bắt đầu. Đó là 9 giờ tối của một ngày cuối tháng 7 năm 1984.

    Tôi ngồi yên, lưng dựa vào vách gỗ thân ghe, mắt nhắm nghiền vì mệt và vì có mở mắt cũng chẳng thấy chung quanh rồi thiếp đi lúc nào không hay. Ghe vẫn chạy êm ả nhưng chuyến đi thật không suôn sẻ. Không gặp ghe công an biên phòng và tàu hải tặc Thái Lan nhưng sau 4 ngày 5 đêm, các tài công đã quay mũi để trở về Việt Nam khi vừa lượn quanh một dàn khoan dầu Mã Lai Á. Khách trên ghe không ai biết hành động của đám tài công cho mãi hơn một ngày sau họ nói ra thì mọi người mới biết. Khách, hết hăm doạ rồi năn nỉ thậm chí cả lạy lục đám tài công để họ từ bỏ ý định điên rồ mà tiếp tục chuyến vượt biên nhưng vô vọng. Tôi biết bản thân phải chuẩn bị đối phó với những bất trắc sẽ xảy ra khi chiếc ghe cập vào một bờ bãi nào đó của nước Việt.

    Tài công và thợ máy của ghe gồm ba người. Hai anh em ruột và người kia là bạn của họ. Tất cả đều có bồ (bạn tình) nhưng đều vắng mặt trong chuyến đi. Sau 4 ngày 5 đêm hải hành, thấy những khách trên ghe có vợ, con đi theo làm họ nhớ đến các bạn tình. Đó là lý do khiến họ quyết định quay ghe trở về Việt Nam. Họ tính sẽ tắp ghe vào một bãi biển kín đáo nào đó để rồi từ chỗ trú ẩn tạm thời, họ đi về địa phương và đón bạn tình ra ghe xong sẽ khởi hành trở lại. Họ giải thích cho chúng tôi nghe về kế hoạch và cam đoan là sẽ không gặp khó khăn gì hết miễn là tất cả khách ém yên lặng dưới các khoang hầm trong thời gian dừng ghe. Một việc làm quá sức nguy hiểm và dại dột. Chúng tôi ai cũng biết nhưng không thể làm gì khác được vì họ khăng khăng không nghe. Hăm dọa sẽ đả thương nếu họ từ chối cũng không xong. Khách, ai cũng mệt mỏi vì say sóng nên đành thúc thủ trước các tài công khoẻ mạnh. Suy nghĩ đơn giản của các chàng ngư phủ ngang với trí não của người ít học. Lo lắng các tai ương sắp sửa ập xuống trên ghe mà lòng tôi vẫn thầm mong sẽ có sự may mắn xảy ra như ý muốn của ba tài công trẻ tuổi.

    Chúng tôi ngồi yên nhìn nhau buồn bã chung một nỗi lo những bất trắc sẽ giáng xuống đầu mình.

    Khi vừa thấy dạng đất liền, các tài công đã thúc hối mọi người trên sàn ghe phải chui ngay xuống các khoang hầm. Có người do say sóng quá sức nên không chịu chui xuống, viện lý do sức họ quá yếu nếu xuống khoang hầm lần nữa họ sẽ chết. Các tài công dùng vũ lực để xốc những người chống đối xuống lại khoang hầm. Nằm im trong khoang, chúng tôi phỏng đoán tình hình bên ngoài qua những lời tài công đối đáp. Có người lâm râm đọc kinh cầu nguyện. Thời gian trôi qua nặng nề. Tiếng máy vẫn nổ êm ả. Ghe đang ở trong vùng biển nào? Chỗ kín đáo tài công nói sẽ cho ghe tắp là đâu? Có thực an toàn không? Qua lời tài công trò chuyện, chúng tôi biết họ đã thấy hai chiếc ghe khác. Chúng tôi ai cũng lo lắng trong lòng. Hai ghe đó là ghe gì? Ghe đánh cá hay công an biên phòng? Đột nhiên tiếng súng vọng lại từ xa xa. Chết rồi. Tiếng người hét to cùng với tiếng khóc trong khoang hầm. Tài công tăng tốc cho ghe chạy thật nhanh. Tim tôi đập liên hồi, tay chân tự nhiên có lúc tê cóng. Tôi đang sợ. Thôi thế là chết. Đến được giàn khoan nước ngoài đã tưởng thoát để rồi quay về và bị rượt đuổi...

    - Giờ tụi mầy sáng mắt chưa. Thật một lũ ngu dốt. Tiếng ai đó nói khá to gần tôi.

    Cuộc rượt đuổi bên ngoài diễn biến ra sao chúng tôi không ai biết nhưng sau cùng, một tiếng sầm thật lớn như ghe đâm vào vật gì đó bên ngoài. Tài công bỏ ghe nhẩy ùm xuống nước cùng với tiếng khóc tiếng la của khách trong khoang hầm làm mọi người càng sợ hơn. Cùng với các người khác, tôi vội đu người nhẩy lên ngay sàn ghe thì mới biết trời bên ngoài đã nhá nhem tối. Ghe đang trong khúc rạch hẹp, vắng lặng và không một bóng người. Chúng tôi nhẩy ngay xuống nước để lội vào bờ theo dấu tài công. Vừa leo được lên bờ đất tai đã nghe tiếng súng nổ gần bên và bóng dáng của hai ghe lạ đang lướt sóng chạy đến. Chúng tôi cắm đầu bỏ chạy cả đám, thân ai nấy lo. Trời tối rất nhanh. Thêm tiếng súng nổ kèm với tiếng thét tiếng khóc.

    Tôi chạy... chạy mãi nhưng chỉ một lát sau, tôi đã mất dấu với người chạy đằng trước. Cảm giác đau chân mới nhớ mình còn đôi dép cột bên người nên tôi vội vã cởi nó ra và mang ngay vào chân. Đôi dép da có quai đeo sau gót và nhờ nó, tôi mới có thể bước những bước chân lần mò trong đêm tối lờ mờ. Tôi đi lầm lũi cho đến lúc không còn thấy rõ cảnh vật chung quanh nữa. Trời đã hoàn toàn tối đen. Ngồi xuống nghỉ ngơi, tôi ngước mắt lên bầu trời đầy sao và tự hỏi đây ở đâu và bây giờ mình phải làm gì? Không thoát khỏi đây đêm nay, chắc chắn ngày mai tôi cũng sẽ bị bắt.

    Ngồi trong chốc lát cảm thấy bớt mệt, tôi đứng lên ngó chung quanh và thấy thấp thoáng xa xa có ánh đèn dầu. Nhìn chăm chú, ánh đèn dầu thật nhưng không biết nơi đó là gì? Nhà dân lành hay cán bộ Việt Cộng? Đành nhắm hướng theo nó mà đi. Có đến gần mới biết. Ánh đèn lấp lánh trong đêm tối, tưởng gần nhưng thực sự rất xa. Tôi phải lần mò bước từng bước chân, tay vạch cây lá mà đi. Có lúc phải lội qua các vũng nước bất chấp gai cào và có khi bước hụt chân, lọt xuống các hố cạn. Tôi sợ ánh đèn dầu đó tắt mất và cả tiếng đồng hồ sau mới đến được. Nó chiếu ra từ căn nhà tranh nhỏ. Vừa đến trước cửa nhà, một con chó nhẩy xổ ra sủa inh ỏi làm tôi đứng yên không dám động đậy. Nghe tiếng chó, bóng một người từ trong nhà lách cửa bước ra nhìn. Thấy tôi đứng lù lù trong đêm tối, người đó hét lên một tiếng khá to rồi quay ngay vào bên trong. Tiếng hét của một phụ nữ. Chần chừ ít phút, tôi nói một hơi:

    - Chị à! tôi là người chứ không phải là ma quỷ, đừng sợ. Tôi lạc đường từ chiếu tới giờ cần chị giúp đỡ.

    Tôi lập lại vài lần như vậy, người phụ nữ mở hẳn cửa bước ra nhìn chăm chăm rồi nói hãy đứng yên chờ để chị ta đi gọi chồng về.

    Cầm cây đèn dầu bóng trứng vịt, người phụ nữ biến mất trong bóng đêm cùng với con chó, để mình tôi ngồi trước căn nhà nhỏ. Chờ khá lâu có tiếng chó sủa và bóng hai người trong ánh đèn bước đến bên tôi. Người chồng cầm cây đèn đến gần, nhìn rõ mặt tôi rồi hỏi đi đâu mà có mặt ở đây trong đêm tối? Ông ta chưa biết sự việc của chiếc ghe vượt biên? Thầm nghĩ thật nhanh, tôi nghĩ phải nói thật cho họ biết sự việc. Tôi liền kể tóm tắt câu chuyện. Nghe câu chuyện, hai vợ chồng chủ nhà nhìn nhau trong chốc lát và người chồng lắc đầu bảo tôi phải đi ra xa khỏi căn nhà họ. Đi đâu thì đi, họ không muốn liên lụy với người vượt biên rồi cả hai vợ chồng bước vào nhà và kéo ngay tấm phên che cửa.

    Tôi thất vọng nhìn căn nhà nhỏ bé trong bóng tối lờ mờ. Gặp người trong vùng nhưng không chịu giúp. Căn nhà lợp lá dừa nước như hầu hết nhà trong vùng sông nước miền Nam với một lu nước bên cạnh và cửa ra vào là miếng phên lớn khép hờ. Họ, một cặp vợ chồng trẻ ở riêng, tôi chắc vậy. Họ ở đây vậy có nhà người khác nữa không? Rồi vì quá mệt, tôi cứ ngồi lỳ tại chỗ và sự thực tôi chẳng biết đi đâu? Con chó vẫn đi quanh quẩn bên tôi. Có lúc nó sủa hoặc gầm gừ nho nhỏ. Tôi nằm lăn trên đất rồi ngủ. Ngủ ngon lành cho đến khi có người lay vào vai làm tôi thức dậy. Một ông già tay cầm cây đèn dầu ngồi trước mặt, nở nụ cười móm xọm với tôi. Hai vợ chồng đứng sau lưng ông già.

    - Tôi mời cậu vào nhà. Ông già nói.

    Theo chân ba người đi vào bên trong căn nhà, người vợ cho biết thấy tôi cứ ngồi lỳ rồi nằm ngủ tại chỗ nên cả hai đã đi gọi cha họ đến. Ông già nói tôi hãy đi nơi khác đi, nhà họ không thể giúp đỡ hay chứa chấp tôi được. Công an và du kích sẽ đi lùng sục ngay sáng mai để lùng bắt người trốn chạy trong chiếc ghe vượt biên mắc cạn.

    - Anh làm ơn đi nơi khác đi để cho tụi tui yên ổn làm ăn. Giúp anh rủi công an biết, chắc chắn gia đình sẽ bị liên lụy và có khi phải ở tù nữa. Nhà tui nghèo lắm, phải tìm đến phá đất lập nghiệp vùng sát biển như vầy anh biết rồi. Người chồng nói.

    - Muốn giúp cậu cũng không biết phải giúp như thế nào? Công an có tai mắt khắp nơi... Sớm muộn gì chúng cũng biết. Giúp cậu, nhà cửa tụi tui sẽ tan nát hết. Cậu thương thì đi nơi khác... Coi như gia đình tui và cậu chưa biết nhau, mong cậu thông cảm. Giọng ông lão khẩn khoản.

    Tôi im lặng nhìn chung quanh căn phòng. Chúng tôi ngồi ở một cái bàn gỗ nhỏ. Một tủ thờ cũ nằm sát bức vách ngay trước cái bàn. Trang thờ nhỏ nằm trên cao sát với mái lá có hình Phật Bà Quan Âm với bát hương với vài chân nhang đỏ. Hai ba hình mầu ca sĩ cắt từ các tấm lịch cũ dán trên bức vách. Sát bên vách nhà, một cái cái giường tre nhỏ với các vật dụng như cuốc, thuổng, đồ bắt cá... nằm lăn lóc dưới gầm. Một gia đình người miền Nam hiền lương thờ Phật. Không có dấu vết Việt Cộng như các tấm bảng đỏ ghi công ta thường thấy trong nhà cán bộ. Nhìn ông lão và hai vợ chồng chủ nhà, tôi nài xin hãy tìm cách nào đó giúp đỡ, đừng xua đuổi tôi.

    - Nếu bác và anh chị làm phước giúp tôi, Phật Bà Quan Âm sẽ phù hộ cho gia đình. Tôi vượt biên vì thuộc gia đình chế độ cũ VNCH. Sống không nổi trong chế độ mới, tôi vượt biên rồi chuyến đi không thành phải quay về. Tôi không muốn bị công an bắt chứ đâu phải thành phần bất hảo trộm cướp gì. Bác ơi! xin hãy giúp, không bao giờ gia đình con quên ơn việc bác và anh chị làm hôm nay.

    Cả ba người họ lắc đầu, nhất định không giúp còn tôi cứ ngồi lỳ một chỗ. Thấy không xong, họ kéo nhau ra ngoài sân, bỏ tôi ngồi một mình. Một lúc sau, cả ba quay vào và dặn tôi phải làm theo những gì họ sắp đặt. Nếu tôi trái lời để xẩy ra chuyện, tất cả đều chết với công an. Họ lăn một lu sành khá lớn từ bên ngoài và chuyển nó vào trong căn buồng của đôi vợ chồng trẻ. Họ ém tôi ngồi trong cái lu dưới lớp lưới, quần áo và các vật dụng lặt vặt trong nhà suốt cả ngày hôm sau và bốn ngày kế tiếp. Chỉ đêm khuya tôi mới được ra ngoài để ăn uống, rửa ráy qua loa, đi tiêu tiểu và thư giãn tay chân trong chốc lát. Sau đó phải vào ngồi lại trong lu sành.

    Trong lu sành ban ngày, tôi đã thót người khi nghe các mẩu đối đáp của dân trong vùng, du kích hoặc công an... ghé vào nhà nói chuyện với nhau về chiếc ghe vượt biên. Công an, bộ đội biên phòng và du kích đã bắt được toàn bộ người trên ghe kể cả các tài công cùng thợ máy. Tôi hồi tưởng lại các chuyện cũ đời mình. Đã nhiều lần vượt biên mà chưa lần nào tôi thoát ra khỏi nước. Đêm ngày 29 rạng 30 tháng 4 năm 1975 trong thủ đô Sài Gòn, mắt tôi đã tuyệt vọng nhìn máy bay trực thăng UH chở người từ các cao ốc bay di tản ra hướng biển. Người ngồi trên các trực thăng đó thật có phước. Còn tôi! Tôi làm sao để vào được các cao ốc như họ? Ra bến tàu nhưng cũng không vào được. Hàng rào kẽm gai cao vút và những họng súng của lính gác chỉa thẳng ra ngoài đã cản chân tôi cùng rất đông người đang có mặt tại đó. Khi trời quá trưa, tôi quay về nhà lúc bộ đội Việt Cộng làm chủ thành phố.

    Cuối năm đó, gia đình tôi đi vùng kinh tế mới ở Trị An thuộc tỉnh Đồng Nai. Chặt cây, phá rừng, cuốc đất dọn rẫy đến chai cả tay rồi những cơn sốt rét vật tôi quằn quại trên giường. Cái lạnh của cơn sốt dù trùm cả đống mền dầy lên người mà hai hàm răng vẫn đánh vào nhau lập cập. Cái lạnh thoát ra từ tận trong xương trong tủy. Bỏ rừng về lại thành phố cũng chẳng yên. Những ngày phải sống trốn tránh vì đã cố tình vắng mặt trong buổi tuyển quân nghĩa vụ quân sự tại văn phòng phường đội. Tôi không muốn chết oan ức hay bị tàn phế vô nghĩa tại chiến trường Kampuchia nên đã vượt biên. Những lúc hồi hộp nằm ém mình trong nhà dân để chờ ghe ta xi đón ra cá lớn để rồi phải quay về chờ chuyến khác. Giờ đây, thu mình trong lu sành, lúc nào tôi cũng sợ khi có tiếng chân người lại gần.

    Ém trong lu sành, tôi biết đã quá may mắn khi vô tình chạy đến nhà cặp vợ chồng trẻ (tên anh chị Tư) qua các câu chuyện họ đối đáp, đùa giỡn... lộ rõ là dân quê miền Nam hiền lương chất phác. Có đêm, tôi còn nghe tiếng ông lão niệm kinh Phật nữa. Hai cha con họ đã lấy quần áo cho tôi thay, múc nước mang khăn cho tôi rửa ráy người qua quýt hoặc ép tôi ăn thêm cơm nóng hổi. Mặt ba người đầy vẻ lo lắng cho tôi tưởng như đang săn sóc người thân thiết ruột thịt của họ.

    Bác Ba, tên ông lão, kể cho tôi biết những năm trước đây ông sống ở Bạc Liêu, làm việc trong một nhà máy xay lúa của Hoa kiều. Khi chủ nhân ghi danh xuất cảnh ra nước ngoài, nhà máy bị chính quyền địa phương tịch thu được một thời gian thì phải đóng cửa vì cán bộ Việt Cộng điều hành kém cỏi. Không có việc làm, ông theo bạn bè vào đây khai đất làm các vuông nuôi tôm.

    - Tui năm nay sáu mươi hai tuổi rồi cậu. Lập gia đình trễ, chỉ có ba đứa con. Đứa lớn là chị gái thằng Tư hiện đang sống với chồng con ngoài chợ cầu Cà Mau. Vợ tui sống chung với chúng. Bả buôn bán lặt vặt ở chợ kiếm thêm ít đồng. Cha con tui cũng thay nhau chạy ghe chở khách kiếm tiền ở ngoải... khi nào có việc thì vào đây như canh thay con nước. Thỉnh thoảng, tui đón vợ tôi vào sống ít ngày với vợ chồng thằng Tư cho vui. Đứa kế cũng gái... vắn số đã chết lúc còn nhỏ. Coi như chỉ còn có hai đứa. Thằng Tư, cậu gọi bằng Út cũng được, mới lo vợ cho nó hơn năm nay hà. Tối hôm cậu đến nhà, lúc đó tui và nó đang đi canh nước cho vào các vuông tôm. Cha con tui tự phá đất làm lấy nên vuông không được rộng mà cũng khá xa nhà. Đất chung quanh đây, cậu thấy... tuy còn bỏ hoang chứ có chủ hết rồi. Bác Ba bộc bạch.

    Hỏi ông lão, tôi mới biết ghe đã chạy vào vùng Cái Đôi của tỉnh Cà Mau. Bác Ba và hai vợ chồng anh Tư cũng thắc mắc hỏi tôi tại sao ghe vượt biên lại bị mắc cạn tuốt trong vùng Cái Đôi vì từ đây ra tới cửa vàm ngoài biển cách cả cây số ngàn. Nếu ra được ngoài vàm thì ghe tiếp với biển lớn. Cứ vậy mà chạy, du kích hay công an biên phòng sao mà bắt được. Tôi kể cho ba người biết về nguyên do ghe bị mắc cạn, bác Ba cho biết:

    - Thảo nào tụi thằng Sáu thằng Mai du kích nói ghe vượt biên bị bộ đội biên phòng đuổi bắt đâu tuốt ngoài biển vào tới đây mắc kẹt. Cậu kể ra tui mới biết, mấy thằng tài công sao mà ngu quá mạng vậy. Đi đã khó... quay trở về còn khó gấp bội. Sao tụi nó lại làm vậy để hại thân còn gây khổ thêm bao nhiêu người nữa?.

    Bác Ba cho tôi biết vùng Cái Đôi có khá nhiều gia đình cách mạng đến lập nghiệp. Phá đất làm vuông nuôi tôm, cất nhà ở cũng không xa trong vùng. Nghe chuyện, tôi biết quá sức may mắn vì gặp được nhà họ. Rủi gõ cửa đúng nhà dân chế độ mới, chắc chắn tôi đã nằm trong trại giam của bọn Việt Cộng.

    Sau bốn ngày đêm trốn tránh, bác Ba cho biết tình hình giờ thật yên ổn. Công an biên phòng đã giải giao người chúng bắt được ra trại giam huyện Cái Nước và bác nói sẽ thu xếp đưa tôi đi sớm. Nửa khuya về sáng ngày thứ năm, cả nhà thức dậy thật sớm. Ăn uống xong xuôi, hai cha con bác Ba xem xét thật kỹ lưỡng chung quanh căn nhà rồi dắt tôi xuống chiếc ghe nhỏ gắn máy đuôi tôm Kohler 4 nổ máy chờ sẵn. Ghe từ từ chạy một lúc lâu sau, bác Ba cho biết đã ra khỏi vùng Cái Đôi.

    - Từ lúc này an toàn vì công an du kích chỉ để ý chận xét những ghe từ Cà Mau chạy ra vàm thôi. Ghe mình từ vàm chạy vào chúng không thèm ngó. Anh Út nói.

    Tôi mặc lại bộ quần áo cũ, ngồi im trong ghe ngắm nhìn cảnh vật hai bên bờ vẫn còn mờ tối. Trời sáng dần, ghe vẫn êm ả chạy trong vùng sông nước miền quê tiếp giáp với biển yên ả. Những rặng cây chạy dài típ tắp hai bên bờ rạch. Thỉnh thoảng mới thấy vài mái ngói hoặc nếp nhà tranh xa xa. Xế trưa, anh Út tắp ghe vào một bóng mát kín đáo gần sát bờ để ăn uống qua loa và nghỉ ngơi chốc lát rồi sau đó lại chạy tiếp. Trời chạng vạng tối, ghe đến được chợ cầu Cà Mau vừa lúc phố xá trên bờ đã rực ánh đèn.

    - Đến đây bình an hoàn toàn. Anh Tư nói nhỏ.

    Tôi lấy trong mình ra chiếc khâu vàng 2 chỉ còn lại và nhờ sự chỉ dẫn của bác Ba, tôi đã đến một hiệu kim hoàn bán 5 phân vàng của chiếc nhẫn. Có tiền, tôi mời hai cha con bác Ba ăn hủ tiếu. Sau đó, tôi năn nỉ hai ân nhân vui lòng nhận 1 chỉ 5 phân vàng và số tiền mặt còn lại. Tôi chỉ giữ ít tiền lẻ đủ để đón xe về Sài gòn trong ngày. Biết đến bao giờ mới có dịp gặp lại hai người. Không có họ giúp, làm sao tôi chắp cánh chạy thoát được. Nguyên ngày trời ngồi trong lòng ghe nhỏ, tôi thấy hai cha con bác Ba chạy quành phải, quẹo trái qua cả trăm con kênh con rạch mới đến được chợ cầu Cà Mau.

    Về nhà sau gần nửa tháng vắng mặt, gia đình tôi mừng vô kể. Cả nhà đã biết chuyến đi không thành và đang dò hỏi trại giam để tìm cách thăm nuôi tôi. Ai cũng nghĩ tôi đã bị bắt. Không thể ngờ lại về được đến nhà an toàn. Chuyến vượt biên bất thành đó chỉ duy nhất một mình tôi thoát khỏi tay bọn công an, chị Thu người trong tổ chức cho biết.

    Tới bây giờ, mỗi lần nhớ lại chuyện vượt biên năm xưa, tôi vẫn không quên khuôn mặt của bác Ba và vợ chồng anh chị Tư. Nhớ để sau đó là một nỗi buồn vì chưa lần nào tôi tìm đến vùng Cái Đôi Vàm thăm hỏi tin tức các ân nhân. Tuy nghèo vật chất nhưng họ rất giàu lòng bác ái, thương người.

    Chương Hai
    Trở Về Từ Hoang Đảo.

    Khi về nhà an toàn, tôi đã tìm được các đường dây vượt biên khác. Có chuyến phải đi ra tuốt miền Trung và thậm chí tận miền Bắc nữa nhưng trong các lần đó đều không thành và đành phải về không. Có chuyến, tôi bị công an bắt khi vừa đặt chân xuống bến xe địa phương và phải vào tù, đi lao động cả gần năm trời mới được thả. Lần lữa 4, 5 năm trời kẹt lại Việt Nam làm tôi rất thất vọng nghĩ mình chắc không ra ngoại quốc được. Tôi tính, không vượt biên nữa khi bỏ tiền đi học lái xe tải và hùn vốn với bà con trong họ mua một chiếc xe chở hàng để sống. Vừa xong khóa học lái xe tải thì Dũng, một bạn thân đến nhà rủ tôi làm một chuyến vượt biên chung. Kỳ lạ thay, vừa nghe Dũng nói đã tìm ra chuyến đi, tôi gật đầu liền.

    Khởi hành từ xa cảng miền Tây lúc 5 giờ sáng, tôi và Dũng đi xe tốc hành đến được bến Cần Thơ rồi từ đây chúng tôi đi tiếp đến thành phố Long Xuyên thì được sắp xếp vào trú tạm trong căn phòng nhỏ của một khách sạn tư nhân gần khu thị tứ thành phố để chờ người trong nhóm tổ chức sẽ đón đi tiếp. Có thể sáng hoặc trưa chiều ngày mai. Buổi tối, sau khi ăn uống rồi tắm rửa thay quần áo sạch sẽ, tôi và Dũng thả bộ dạo mát trên các con đường trong thành phố.

    Long Xuyên là một trong các thành phố lớn của miền Nam Việt Nam. Phố xá buôn bán khá sầm uất như vài con phố ở Sài Gòn. Chúng tôi ngồi nghỉ ở ghế đá trong một công viên nhỏ, ngắm nhìn thiên hạ chạy xe trên đường hoặc đang dạo bước trong công viên. Cũng không dám ngồi lâu, chúng tôi lại lang thang đi lòng vòng đây đó. Tôi ghé vào một hiệu sách bên đường mua quyển Sư Thúc Hòa Hảo (tác giả Nguyên Hùng viết về nhân vật Mười Trí và các tâng bốc địch vận của đảng Cộng Sản Việt Nam về y với tôn giáo Hoà Hảo tại miền Nam VNCH trước đây), mang về phòng nằm đọc để giết thì giờ. Suốt đêm, thỉnh thoảng có tiếng gõ cửa phòng kêu chúng tôi mở cửa. Những lần đầu rất sợ vì nghĩ có chuyện không may sẽ xảy ra. Nhưng không, chỉ là các cô gái trẻ đẹp, hành nghề bằng vốn tự có, đang tìm khách vui vẻ trong chốc lát hoặc qua đêm. Còn lòng dạ nào để chúng tôi nghĩ đến những lời mời mọc của họ!

    Theo lời dặn, sáng hôm sau chúng tôi tìm đến quán ăn Hào Hoa lúc 8 giờ sáng ăn điểm tâm, uống cà phê lai rai để chờ. Nhìn vài khách ngồi ở bàn gần bên, tôi thót giật người vì thấy một khuôn mặt quen biết là thằng Minh con bà Sáu bán cà phê trong khu phố gần nhà tôi. Minh nở nụ cười và dù kín đáo nháy mắt với tôi, tôi vẫn chưa hiểu tại sao nó có mặt ở đây? Không lẽ nó cũng trong chuyến đi? Là con trai mới lớn trong gia đình cán bộ, cha mẹ Minh hoạt động nằm vùng cho CS từ trước ngày 30-4-1975. Gia đình Minh là dân giàu trong phường. Thằng Minh tối ngày ăn no, đi chơi, nhậu nhẹt phá làng xóm đâu chịu học hành gì. Tuy vậy, Minh thường nói chuyện vui vẻ với tôi mỗi khi tới ngồi uống cà phê nơi quán nhà nó. Minh xuống đây để cùng vượt biên hay chỉ một chuyến đi chơi và tình cờ gặp tôi? Tôi kín đáo liếc nhìn hai người lạ mặt ngồi cạnh nó tuổi cũng ngang lứa mà không biết họ là ai? Chưa biết thì cứ ngồi tỉnh bơ xem sao dù trong lòng tôi cũng chút lo lắng. Dũng hỏi nhỏ:

    - Chắc cùng phe mình hả?.

    Tôi im lặng, không trả lời Dũng. Chợt bóng anh Thành (người trong nhóm tổ chức) đi ngang qua trước cửa quán, chúng tôi vội vã trả tiền và vọt theo sau liền. Đi được một quãng ngắn đường, có chiếc xe lôi từ đâu chạy lại ngừng gần bên. Anh Thành nhảy lên xe và sau đó là tôi, Dũng và cả bọn ba người của thằng Minh. Vậy đúng thằng Minh đi chung chuyến này với tôi. Nó và tôi nhìn nhau, khẽ gật đầu, mỉm cười hiểu ý.

    Xe lôi chạy qua xứ đạo Thiên Chúa Bò Ót rồi chạy thẳng đến ngã ba Lộ Tẻ thì ngừng hẳn. Từ đây, một xe Van 16 chỗ ngồi chở chúng tôi chạy tuốt xuống bến xe Rạch Sỏi để rồi sau đó chuyển chúng tôi sang một xe bus khá lớn. Anh Thành cho biết xe sẽ đến bãi hẹn nằm đâu đó trong vùng bờ biển Hà Tiên.

    Trời chiều nhá nhem rồi tối hẳn. Hàng cây hai bên đường đen sẫm. Đường từ Rạch Sỏi chạy ra Hà Tiên thật xấu. Xe liên tục tránh các ổ gà lớn trên mặt đường nhựa trước xuống cấp thê thảm. Do chiến tranh và đã lâu mặt đường không được tu bổ. Ngồi trên xe, tôi cứ chao đảo vì đường hư hỏng quá. Xe chạy thật lâu và đã có người thò đầu ra bên ngoài cửa xe để ói mửa. Tôi cảm thấy bắt đầu mệt. Thình lình, xe thắng gấp sau một tiếng nổ nhỏ. Bánh xe xẹp rồi. Tài xế lẫn lơ xe vội vàng đội xe lên, tháo ngay cái bánh xe xẹp thay. Nhưng trên xe không có bánh sơ cua nào hết. Giờ phải làm sao đây?

    - Phải tìm chỗ vá ngay. Tổ chức chuyến đi mà làm ăn như vậy... chỉ có chết, người nào đó trên xe lầm bầm.

    Đường thật vắng vẻ, tài xế và lơ tính chạy kiếm nhà dân để hỏi thăm vừa lúc gặp người chạy xe đạp đi tới. Có tiệm sửa xe cách đây không xa nhưng khuya quá, họ còn mở cửa không?

    Chúng tôi phải ngồi yên gần hai tiếng đồng hồ để chờ lơ xe lăn cái bánh đi vá rồi về ráp trở lại vào xe. Xe chạy qua nhà máy xi măng Kiên Lương rồi đến Vàm Rầy. Tài xế cho xe chạy rề rề chờ đợi rồi xe ngừng bên cạnh đường vì chẳng thấy người trong tổ chức đón như dự liệu. Trời bắt đầu sáng dần, làm gì bây giờ? Ai nấy tự hỏi mình. Có tiếng xe Honda chạy đến và rồi chúng tôi được lệnh phải rửa mặt cho sạch sẽ, thay quần áo khác làm bộ đi du lịch Hà Tiên. Vụ xe xẹp bánh hồi khuya nên chuyến đi đã tạm thời hủy bỏ vì đến điểm đón quá trễ. Cứ làm một chuyến đi du lịch Hà Tiên, thăm lăng Mạc Cửu, Thạch Động hoặc ghé Mũi Nai đi, chờ đám tổ chức liên lạc trở lại xem sao!

    Chúng tôi đi qua bến phà nổi Tô Châu, ngắm nhìn dãy ghe đánh cá đậu san sát bên nhau trong dòng nước biển xanh mầu lá cây, thầm nghĩ không biết ghe mình đi có lớn có vững chắc như những chiếc ghe ở đây? Qua bến phà nổi, chúng tôi lên xe lôi chạy đến Thạch Động rồi ra Mũi Nai hóng mát. Do xe đến điểm trễ giờ nên tôi mới có dịp biết đến Thạch Động và bãi biển Mũi Nai Hà Tiên. Hà Tiên là nơi cư trú của vợ chồng nhà thơ Đông Hồ-Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội và cũng là quê quán của danh sĩ Mạc Thiên Tích ngày xưa. Tôi đang là khách du ghé thăm miền ước mơ trong bài hát Hà Tiên của nhạc sĩ Lê Dinh đây. Một thành phố nhỏ nhưng thật đẹp dù ở nơi tận cùng đất nước Việt.

    Tôi và Dũng làm quen được với Ánh Phương và Mỹ An, hai cô gái trẻ trong chuyến đi Mũi Nai. Ánh Phương 26 tuổi còn Mỹ An mới 24. Cả hai đều độc thân và cũng mới làm bạn với nhau từ lúc lên xe bus. Tôi cặp kè với Ánh Phương còn Dũng với Mỹ An như những cặp nhân tình của chuyến du lịch. Chúng tôi đi ăn uống lai rai rồi đi lòng vòng trong những con phố nhỏ của Hà Tiên. Có lúc ngồi bên nhau, làm vẻ tâm tình trong các quán cà phê để chờ 7 giờ tối sẽ về lại xe bus.

    Lúc ở Mũi Nai, tôi thấy thằng Minh và hai người bạn nó ngồi nhậu trong một quán sát bờ biển. Minh đã mời tôi ngồi vào bàn, đưa ly bia cho tôi rồi nói:

    - Uống lai rai với tụi em cho vui anh Vũ, em đâu dè có anh trong chuyến này luôn. Anh em mình cùng bên nhau nghe anh.

    Tôi cười, gật đầu đồng tình rồi từ chối:

    - Anh không uống bia được Minh à. Uống vô chút xíu say liền, em nên nhậu sương sương thôi... còn giữ sức nữa đó. Tôi nhắn nhủ với cả bọn.

    - Anh Vũ biết không, nhà em ở Quận 10 Sài Gòn. Thầy U em người Bắc đạo Phật di cư từ 1954. Anh trai em đang sống ở Úc, em đi hôm nay lần thứ ba đó anh, các lần trước đi không được lại phải quay về. May không bị bắt. Anh trai em chỉ đi có một chuyến lại thoát. Ánh Phương nói với tôi.

    Nhìn khuôn mặt Ánh Phương. Cô gái này đẹp thật, da lại trắng hồng, lời ăn tiếng nói ra vẻ con nhà hiền lành. Bản thân tôi đã ba mươi tuổi mà vẫn chưa lập gia đình. Nếu Ánh Phương là bạn tình của mình thì hay biết bao! Tôi lại nghĩ nếu mình có người yêu như Ánh Phương, liệu có dám cho nàng đi vượt biên không?

    Khi chúng tôi quay trở về bến xe thì nhóm tổ chức đã thay xe cũ bằng một xe bus khác lớn hơn. Họ đã nhét thêm cả chục người khách mới ngồi sẵn trên xe từ lúc nào. Tôi và Ánh Phương chọn chỗ ngồi nơi dãy hai ghế sát cạnh cửa lên xuống ở phía sau xe. Lần lượt từng người khách quay về bước lên xe. Xe chật kín, hết ghế trống mà khách còn đứng ngồi lổn nhổn ở lối đi giữa xe. Tôi nhẩm tính trong đầu, với 10 hàng ghế mà mỗi hàng 5 người rồi thêm 4 ghế phía trước gần tài xế và 6 ghế cuối, ít nhất phải có 60 khách vượt biên trong chuyến đi đêm nay. Cá lớn đón chúng tôi dài rộng cỡ nào? Có bằng chiếc ghe năm xưa tôi đi hay nó nhỏ hơn? Bây giờ đã gần 8 giờ tối, xe bus bắt đầu lăn bánh ra khỏi bến và chạy về hướng Rạch Sỏi.

    Tôi nhìn ra hai vệ đường, đèn nhà dân hắt ra soi rõ những cây dừa mọc sát mặt lộ. Đây đó vài trẻ em đùa giỡn trước cửa nhà. Một tiệm cà phê lác đác người ngồi ở các bàn trống. Qua hết dãy nhà, xe đi vào vùng cây cối bãi bồi gần biển. Cảnh vật hiện lờ mờ như là bụi cây đước, một bãi bùn hay là bờ đất tiếp giáp với lề đường. Xe chạy đều đều khá lâu thì rẽ trái vào một con đường nhỏ rồi chạy thêm một đoạn ngắn nữa thì tắp vào một khu vườn. Xe tắt máy dừng hẳn. Cây trong vườn xum xuê như rừng nhưng quá tối, tôi không biết loại cây gì.

    - Chúng ta phải chờ ở đây. Yêu cầu mọi người ngồi yên. Tiếng người lơ nói khá to trong xe.

    Mọi người giữ im lặng. Thỉnh thoảng có ánh đỏ chớp lên từ đầu một điếu thuốc lá của ai đó. Tôi bảo Ánh Phương:

    - Em có mệt thì nhắm mắt ngủ đi, họ nói thế thì chắc mình phải chờ khá lâu.

    Thực sự thì cơn buồn ngủ đã làm mắt tôi nhíu lại. Tôi và Ánh Phương ngủ ngồi trên ghế xe cả tiếng đồng hồ thì choàng tỉnh khi nghe tiếng xe Honda từ xa vọng lại. Ánh đèn hai chiếc Honda đến gần. Cả thẩy có 4 người tất cả. Một người trong bọn mặc sắc phục công an. Ba người còn lại, có kẻ tay vung vẩy cây súng AK 47. Tôi nói khẽ với Ánh Phương:

    - Công an, chết mồ rồi Phương ơi!

    Tim tôi đập thình thịch. Ánh Phươnh lộ vẻ thất sắc, tay nàng nắm lấy tay tôi run run. Chúng tôi đã vào rọ của công an? Bất chợt cánh cửa xe bật mở, tài xế và hai người lơ nhẩy xuống cùng nhập vào bọn bốn người mới đến. Tôi nghe rõ tiếng của anh Thành. Cả bọn ngồi bàn bạc trong chốc lát rồi một xe Honda chạy đi trước, kế tiếp chiếc xe bus. Ở một khoảng khá xa, chiếc Honda còn lại chạy bọc sau cùng .

    Bây giờ tôi và Ánh Phương cũng như khách trên xe buýt mới hoàn hồn bớt lo. Chuyến đi có công an-du kích bán bãi như lời nhóm tổ chức đã nói. Một làn gió mát thổi vào mặt làm tinh thần tôi phấn chấn vì nghĩ đến sự an toàn tối nay. Ánh Phương nói:

    - Ban nãy em sợ muốn chết đó anh Vũ. Rủi họ không cùng phe mình, không biết em sẽ làm sao nữa, rồi nàng cười vui vẻ.

    Xe tiếp tục chạy ngược về hướng Hà Tiên và sau cùng ngừng lại sát cạnh bên vệ đường. Chỗ nầy vắng vẻ không một bóng người qua lại. Chúng tôi được lệnh xuống xe ngay lập tức và nối đuôi nhau theo ánh đèn pin của một người dẫn đường đi phía trước. Cả bọn yên lặng, đi êm ả trên các bờ đất trong đêm tối tĩnh mịch. " Đây là Vàm Rầy ", tiếng người thì thào trong bóng tối. Khách vừa xuống hết, xe bus liền biến mất trong bóng đêm.

    Chúng tôi rồng rắn đi với nhau cho đến cuối bờ đất thì chân bắt đầu đặt xuống một bãi sình. Tôi và Ánh Phương bước lõm bõm gần bên nhau chung với các người khác. Thêm một ánh đèn pin nữa lúc chớp lúc tắt xuất hiện ở phía trước xa xa. Chúng tôi lần từng bước về hướng ánh đèn pin. Đến nơi, đoàn người được phân tán ra thành từng nhóm nhỏ, ngồi nấp ngay sát cạnh những đám cây mọc trong vùng đất sình. Dũng, Mỹ An cùng tụi thằng Minh bây giờ đang ở đâu trong các bụi cây nơi mép biển?

    Trăng khuya bắt đầu mọc, soi ánh sáng vàng vọt leo lét trên toàn vùng. Nước triều đang từ từ dâng lên. Đứng ở trên mặt đường lộ bây giờ, không ai ngờ ngay dưới chân những bụi cây sát biển này đang có cả một nhóm người ẩn nấp để chờ vượt biên. Nước triều dâng mỗi lúc một cao hơn, chúng tôi vẫn ngồi yên trong nước biển. Đến lúc chúng tôi phải đứng lố nhố vì không thể ngồi được nữa thì một cái xuồng ba lá nhỏ xuất hiện. Ghe chèo nhè nhẹ đến gần chúng tôi. Tiếng đàn ông ngồi trên xuồng hối thúc chúng tôi lội ra ngay. Tôi nắm tay Ánh Phương cùng bước lội từng bước về phía cái xuồng.

    - Đừng leo lên, chỉ bỏ túi xách thôi. Anh chị bám theo xuồng này để ra ghe, tiếng đàn ông trên xuồng nói.

    Tôi vất túi xách lên xuồng, tay bám và chân thì bước theo từng bước một. Ánh vàng vọt của trăng non, tôi thấy thấp thoáng một bóng một chiếc ghe nhỏ xa xa. Nước bắt đầu đến ngực rồi cổ. Chân tôi có lúc bước hụt xuống một hố khá sâu. May là trồi lên kịp. Ánh Phương tay bám chặt vào vai tôi. Sau cùng cả hai đến được sát bên ghe. Người đứng trên ghe cúi xuống nắm tay từng người dưới nước kéo lên. Đến lượt Ánh Phương, nàng cố gắng hết sức cũng không thể đưa tay tới được người trên ghe. Tôi phải giúp nàng bằng cách nhắm mắt, hụp hẳn xuống dưới nước và ôm thắt lưng nàng đẩy phụ lên. Lần đầu tiên tôi chạm vào thân thể Ánh Phương. Xong lượt nàng, đến lượt tôi lên được mặt sàn ghe. Tôi nhìn thật kỹ thân ghe, đúng nó nhỏ hơn chiếc ghe tôi vượt biên trong lần trước. Một gã đàn ông khác đã ấn tôi nhẩy xuống khoang trống. Không lẽ cá lớn đây thật sao? Tôi phân vân tự hỏi. Người mỗi lúc được nhét thêm xuống khoang chiếc ghe. Hơi nóng từ thân người hoà với mùi dầu gió xanh toả ra nồng nặc. Tuy trông không rõ mặt nhau trong bóng tối nhưng ai cũng biết khoang ghe đã chật cứng người. Ai ngồi đâu yên đó, không thể cục cựa được. Ánh đèn pin chợt loé lên từ cửa khoang và khuôn mặt của anh Thành hiện ra. Anh hỏi tên từng người khách cùng mật mã an toàn. Tôi nghe tiếng của Dũng, Mỹ An rồi Minh và Ánh Phương trong khoang ghe. Khi anh Thành vừa xong lượt tôi, tiếng một người vặn hỏi:

    - Ê! Thành. Ghe nầy ghe taxi hay cá lớn vậy... Người đầy nhóc cả rồi?

    - Taxi thôi. Nhỏ xíu vầy sao mà đánh chuyến được. Yên tâm đi đại huynh. Cá lớn chờ ngoài khơi kìa. Anh Thành quả quyết rồi sau khi lấy mật mã xong xuôi, anh chúc mọi người thành công trong chuyến đánh đêm nay trước khi theo xuồng ba lá để quay vào bờ. Đêm đó, nửa khuya về sáng của một ngày cuối tháng 5-1990.

    Ghe nổ máy rồi tấm nắp cửa khoang đã được đậy lại và qua chuyển động của thân ghe với làn nước bên ngoài, tôi biết là ghe đã khởi hành. Trong khoang hầm tối đen, tiếng người niệm Phật lầm thầm chung với tiếng người khác thở dồn dập. Chợt tiếng người đàn ông khi nãy đã vặn hỏi anh Thành vang lên:

    - Họ đánh bằng ghe này thật rồi bà con ơi, ai không tin cứ chờ thì biết... Taxi gì mà tập trung hết tất cả khách vào đây.

    Ông ta nói nhưng không một người nào lên tiếng trả lời. Tiếng máy ghe cứ chạy đều đều êm ả như vậy và tôi ngủ thiếp đi không biết bao lâu thì tỉnh dậy. Bây giờ trời đã sáng. Có người nào đó hỏi giờ thì được người khác trả lời là 8 giờ 15 phút sáng rồi. Dù ánh sáng ban ngày hắt từ khe hở cửa khoang và từ phía máy ghe nhưng tôi vẫn không thấy Ánh Phương, Mỹ An, Dũng và Minh. Chung quanh tôi bây giờ chật cứng người dù có muốn xoay chân, đảo người cho bớt mỏi cũng không thể. Sát cạnh tôi là một phụ nữ với mái tóc dài thỉnh thoảng gục đầu vào người tôi. Tôi biết chị này đang cơn say sóng. Vẫn còn tiếng người nôn oẹ đây đó trong khoang. Tôi nhắm mắt lại vì mệt vì mũi tôi khó chịu với mùi thức ăn người ói ra pha trộn với mùi dầu máy ghe, mùi dầu xanh con Ó, mùi hơi người và cả mùi nách nữa... Cảm giác nôn nao trong người bắt đầu đến với tôi. Tôi muốn ói và cổ đã ợ hơi vài lần. Tôi ngẩng đầu lên cố chống lại cơn ói nhưng rồi biết mình không thể. Gục đầu xuống tôi bắt đầu ói ngay vào quần áo của mình. Thể xác mệt mỏi khiến tôi ngủ rồi lại chợt thức mà không biết thời gian trôi qua bao lâu và tự hỏi ghe chạy đến đâu rồi lại ngủ tiếp sau đó. Cứ như vậy cho đến khi có tiếng mở cửa hầm kèm theo nghe tiếng người nói mình ra khỏi hải phận Việt Nam rồi. Hé mắt nhìn lên, tôi thấy một mặt người lem luốc đầy dầu mỡ. Người đàn ông này mở rộng cửa hầm, cúi đầu sát xuống nhìn vào đám người chúng tôi rồi anh ta nở nụ cười nói:

    - Bà con mệt dữ ha... Ráng chịu đựng đi nghen, có đồ ăn và nước đây, ai có khát có đói thì lấy dùng nha.

    Mấy đòn bánh tét, vài xâu củ sắn và hai bình nhựa đựng nước được chuyền xuống cho chúng tôi rồi nắp cửa hầm đóng sập trở lại liền.

    Mình ra khỏi hải phận Việt Nam rồi. Như vậy đây là cá lớn chứ không phải taxi gì hết. Tự nhiên tôi lại cảm thấy lo lắng khi biết anh Thành đã xí gạt chúng tôi nhưng bây giờ thì đã quá muộn. Câu nói quả quyết của anh: " Ghe nhỏ như vầy làm sao vượt biên được. Cá lớn chờ ngoài khơi kìa " trở về trong trí tôi. Biết nói như vậy nhưng sao anh Thành lại vẫn dùng ghe nầy cho chuyến vượt biên của chúng tôi? Giờ mình có muốn đổi ý, muốn quay về cũng không được nữa. Thôi đành phó mặc cho số phận vậy. Ghe tiếp tục chạy như vậy thật lâu thì tự dưng tốc độ giảm lại và ghe dừng hẳn dù máy vẫn nổ. Có nhiều tiếng người nói lao xao bên ngoài vọng vào tai tôi. Chuyện gì đây? Trong tiếng máy ghe tôi nghe thêm tiếng máy nổ khác. Vậy là có ghe hay tàu lạ ở gần bên ngoài rồi. Chợt cả hai cánh cửa lớn khoang ghe được mở tung ra hoàn toàn. Ánh sáng bên ngoài tràn đầy vào trong hầm làm mọi người phải nhắm ngay mắt lại. Lấy tay che mắt, tôi nhìn lên các khuôn mặt lạ đang quan sát chúng tôi. Họ là ai vậy? Một người đàn ông mỉm cười, nói:

    - Đông người dữ ha. Bà con đừng sợ, tụi tui cũng dân biển không hà. Chạy được tới đây coi như là thoát rồi có điều tối khuya nay trời có dông đó. Biển hơi động nghe bà con, ráng chịu cực thêm chút xíu qua cơn thì ghe chạy êm ru.

    Vài người ngồi dưới khoang ghe nhân cơ hội ngỏ ý muốn trèo lên để đi tiểu và họ leo lên thật. Tôi ráng hết sức cũng lách ra rồi đu người leo lên thành ghe. Một chiếc ghe kích cỡ bằng cá lớn chúng tôi đậu sát bên cạnh. Mấy người trong chiếc ghe đó cho chúng tôi biết họ là ngư dân của đảo Phú Quốc và vùng biển chúng tôi ở đây thuộc nước Khmer. Tôi nhìn chung quanh, ánh nắng chói chang trên đầu, nước biển mầu xanh lá cây xa tít tới tận chân trời. Chỉ toàn một màu xanh nước biển và không một bóng ghe, hòn đảo nào khác nữa. Tôi nằm vật xuống ngay trên thành ghe, tự nhủ là chắc mình nằm đây luôn không chui xuống khoang hầm chật hẹp nữa. Nằm trên sàn ghe thật là dễ chịu! Những người trên chiếc ghe Phú Quốc đó xin chúng tôi cho họ tất cả tiền Việt Nam còn mang trong người, nói là đến được trại tỵ nạn bên Thái thì cũng vất bỏ đâu có xài. Tôi ngồi dậy, móc tất cả tiền Việt trong bóp ra cho họ y như những người khác. Những người tài công trên ghe chúng tôi cho họ cả những tay lưới đánh cá luôn. Sau đó, những người trên ghe Phú Quốc này cùng với tài công trong ghe chúng tôi bàn bạc nhau về hướng đi của ghe và cách đối phó khi gặp trời dông gió trong tối nay.

    Phạm Thắng Vũ
    (còn tiếp)
    Last edited by khieman; 06-08-2014 at 09:02 PM.

  2. #31
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Bữa ăn dã chiến qua thật nhanh mà chưa thấy Đỉnh và Ánh Diễm lên bờ nghỉ. Tôi đảo mắt nhìn tìm mà không thấy hai người họ ở đâu trong số đông đang tắm lố nhố tuốt đằng xa. Chị Phượng cùng 3 cô Đào, Bẩy và Yến kéo nhau đi dạo trên bờ cho biết đây đó. Thấy đám 4 người của nhóm Thạc, Văn đi tắm biển chưa về, tôi liền hỏi anh Khảm về câu chuyện của họ. Ngồi lại gần bên tôi, anh Khảm kể:

    - Vũ biết là hai người họ đến trại trước ngày Cao Ủy tuyên bố Cut Off Day đóng cửa chỉ bằng một chiếc ca nô nhỏ. Galang cách nước mình bao xa thì Vũ cũng biết rồi mà họ dám khai là vượt biên thẳng từ Việt Nam sang đây bằng chiếc ca nô đấy. Khai vậy nhưng khi các nhân viên phòng an ninh P3V xuống kiểm tra dưới ca nô thì lại thấy có y phục của nữ giới gồm cả áo ngực, quần lót mà kích cỡ to nhỏ khác nhau. Thêm vào đó họ cũng thấy có cả vàng lá và tiền Đô cả cọc nữa mới chết.

    - Đi vượt biên từ Việt Nam sang Galang bằng ca nô! Làm sao có đủ xăng dầu mà chạy máy? Tôi hỏi anh Khảm dù đã nghe kể về chuyện vượt biên bằng ca nô của họ từ trước đó rồi.

    - Thì vậy! Thêm cái vụ y phục phụ nữ còn sót lại trong ca nô nữa lại càng làm cho Cao Ủy và phòng an ninh P3V nghi ngờ về câu chuyện của họ đã khai.

    - Rồi sao nữa hả anh.

    - Ca nô nhỏ như vậy thì ai cũng biết không thể nào làm một chuyến hải hành tuốt từ bên quê nhà để đến đây được. Không có mặt nữ giới trên ca nô vậy thì quần lót, xú chiêng đó là của ai? Hai người nầy khai là anh em ruột mà Vũ thấy họ thì một cao một lùn, một trắng một đen. Anh em ruột, thực ra cũng có thể có như vậy nhưng so khuôn mặt cả hai lại khác hẳn nhau và đặc biệt là một người nói giọng Bắc, một người nói giọng miền Nam. Chính vì vậy mà Cao Ủy và phòng an ninh P3V đã nghi ngờ về nhân thân của hai người nầy nên chẳng có phái đoàn nước thứ 3 nào chịu nhận cho họ đi định cư hết. Đến Galang lâu lắm rồi mà cả 2 anh em họ vẫn cứ phải ở lỳ trong trại. Có lẽ, luật sư phỏng vấn của phái đoàn các nước thứ 3 cũng sợ đưa lầm tội phạm vào nước họ nên mới từ chối chứ em. Anh Khảm lắc đầu sau khi ngừng kể.

    Ngồi yên lặng suy nghĩ về câu chuyện của Thạc, Văn trong chốc lát. Tôi quay lại hỏi anh Khảm:

    - Phòng an ninh P3V rồi cả trật tự của ban Đại diện người Việt mình có điều tra gì thêm về họ không hả anh?

    - Ôi! Anh cũng chẳng biết rõ nhưng nghĩ hơi sức nào mà họ làm chuyện ruồi bu. Người tị nạn nào mà có vấn đề khúc mắc về lý lịch thì họ sẽ bị kẹt ở trại rất lâu thôi. Như hai người nầy vậy đó. Kể ra thì cũng nhờ vậy mà trong trại ít nhiều mới có an ninh, chứ không thì dễ gì dân mình mà sống yên ổn với đám du côn du đảng trà trộn trong số thuyền nhân được hả em. Thực ra chuyện của hai người nầy thì anh đã nghe bác sĩ Luân kể rằng tụi Indo làm ở bệnh viện cho ông ta biết là phòng an ninh P3V nghi ngờ cái ca nô đã được thả xuống từ một tàu hàng viễn duyên nào đó ở gần Singapore. Tất nhiên là có cả vài phụ nữ đi chung với hai tay Thạc, Văn nầy và hai gã đã vất mấy người nầy xuống biển trước khi chạy ca nô vào Galang. Đại loại câu chuyện là vậy.

    - Họ đã vất phụ nữ cùng đi chung trên ca nô xuống biển? Tôi trợn mắt, hỏi.

    - Phải! Nếu căn cứ vào số y phục đó và thực sự là hai gã này đã không trả lời được về những câu hỏi nghi ngờ của phòng an ninh P3V.

    Trời bây giờ đã quá trưa, mặt trời vén mây giáng xuống những tia nắng nóng cháy da. Ngồi trong bóng mát của bụi cây rậm mà hai mắt tôi muốn loá vì ánh nắng sáng chói. Trời càng nắng thì càng thêm người kéo nhau nhào xuống đẫm mình trong làn nước biển mát lạnh. Được một lát thì anh Khảm lên nằm đung đưa người trên chiếc võng và rồi sau đó anh nhắm mắt như ngủ. Ngồi một mình cũng chán nên trùm chiếc khăn trên đầu che nắng, tôi rời khỏi lùm cây và đi tản bộ không chủ định trên con đường sát bờ. Có quá đông người đi tắm biển trong ngày Chủ Nhật hôm nay. Mùi thịt nướng thơm lừng bốc ra từ một cái bếp dã chiến của một nhóm người đóng trại dưới các tàng cây lớn. Tiếng mời nhau cụng ly uống bia của bọn 5 người mặt đỏ lừng ngay tại bụi cây rậm gần bờ cạnh bên con đường. Tiếng lốp cốp đập đá cục của chị phụ nữ ở cái bàn nhỏ bán hàng giải khát hòa với tiếng đàn Guitar từ tay một thanh niên đang ngồi trên một cành cây cong khá lớn sát bờ chung với tiếng hát nho nhỏ của 2 cô gái ngồi gần bên. Một nhân viên của phòng an ninh P3V trong bộ đồng phục đi tuần ngang qua, khoát tay chào và nở miệng cười với bọn người Việt chúng tôi. Tiếng động, hình ảnh của cảnh vật thật quá êm ả và an bình trong trại tị nạn.

    Cảnh vật êm ả và an bình trước mắt nhưng chính vì vậy lại gây cho tôi một xáo trộn trong lòng khi tôi thấy lại bản thân mình đang đi dọc theo bờ biển của đảo hoang trong chuyến vượt biên không thành vừa rồi. Cũng những bụi cây sát biển mang bóng mát cho đám người vượt biên chúng tôi khi phải đổ bộ lên hòn đảo vì chiếc ghe bị hỏng máy đây mà. Tôi đi... đi yên lặng mà dòng ký ức đang tuôn chảy trong trí. Ánh Phương, Mỹ An bây giờ đang ở đâu và ra sao rồi? Nắng lọt qua các cành cây soi ánh sáng lỗ chỗ xuống nền cát làm tôi đứng lại và khẽ lấy tay mình chao qua đảo lại như giỡn với tia nắng quái. Tia nắng in trên bàn tay làm tôi nhớ cũng tia nắng như thế này đã đọng lại trên cánh tay trần trắng đẹp của Ánh Phương trong buổi trưa ngày hôm đó. Tôi từ từ ngồi xuống, quay mặt ra hướng biển mà mường tượng như đang ngồi với Ánh Phương trong chung một tâm trạng lo âu với nàng về chuyến đi đột nhiên bị trục trặc bất ngờ. Anh, anh đây... còn em... Ánh Phương ơi! Em đâu rồi? Tôi gọi thầm trong gió.



    Bãi biển Galang nơi tôi đi... đi tiếp trong nỗi buồn
    vì các hoài niệm cũ dạt dào tuôn chảy trong lòng.

    Tôi đứng lên rồi lại bước đi tiếp trong nỗi buồn vì các hoài niệm cũ dạt dào tuôn chảy trong lòng. Kia rồi, các gò đá dưới các bóng cây sát biển y như nơi mà anh Tấn, thằng Minh cùng với Dũng và tôi từng ngồi lúp xúp bên nhau để tránh cơn mưa đến bất ngờ. Tôi lại nhìn ra hướng biển lần nữa như muốn tìm lại hình bóng của con tàu hải tặc đã mang Ánh Phương đi mất. Nhưng biển vắng lặng tuy vẫn màu xanh lơ cùng các dợn nước cuồn cuộn từ xa nối nhau tiến vào bờ làm thành các lượn sóng trắng xóa. Tôi bước từng bước đến gần mép nước hơn. Biển chỗ này không còn là bãi cát trắng dài phẳng lì nữa, thay vào đó là một hõm nước đọng cùng các bờ đá nhấp nhô. Các tảng đá lớn nhỏ nằm chìm hoặc nổi đây đó trong làn nước ngầu bọt chung với rác lá cùng từng chùm rong biển nổi vật vờ. Không một người nào ở bên cạnh, tôi biết mình đã đi xa khỏi chỗ người tắm biển. Đến một bóng cây gần nhất, tôi ngồi xuống trên một cành la đà sát với mặt cát trắng. Sóng biển vỗ vào bờ từng đợt kêu ùm à và nghe như lời rì rào từ các chỗ xa xa vọng lại. Tiếng sóng như tiếng thì thào của những người thân quen với tôi trong chuyến ghe gặp nạn. Cũng một thời điểm êm ả và an bình như ở đây bây giờ nhưng có ai biết ghe chúng tôi khi đó đang trong tay hải tặc tại một vùng biển giữa trời trưa nắng. Tôi nhắm mắt và thoáng thấy bóng dáng của Ánh Phương dọc con đường mình vừa đi qua. Ánh mắt Ánh Phương cùng nụ cười tươi chỉ hiển hiện trong có một giây như tôi vừa thấy nàng đâu đó ở bãi biển này. Phải rồi! Dáng ngồi cùng mái tóc dài, Ánh Phương là một trong hai cô gái ngồi hát chung với tiếng đệm đàn Guitar của anh thanh niên trong bóng cây mát. Tôi nhủ lòng khi quay trở lại thì sẽ phải xem mặt cô gái đó cho thật rõ.

    Tiếng chân người bước khẽ đến gần sau lưng và một bàn tay đặt nhẹ lên vai cùng với tiếng nói đã chận ngang luồng suy tưởng của tôi.

    - Anh Vũ làm gì mà đi ra tuốt tận ngoài đây vậy?

    Yến! Phải. Chính là Yến. Tôi đứng lên nhìn thẳng vào khuôn mặt nàng mà không nói một lời. Dòng ký ức cũ vẫn còn vướng vất trong tâm trí khiến tôi chân bước song song bên Yến nhưng vẫn giữ yên lặng.

    - Em có làm gì khiến anh giận thì cho em xin. Anh... anh.

    Yến ấp úng khi dứt câu. Tôi đứng lại, nắm lấy bàn tay của nàng và khẽ lắc đầu. Yến để yên tay nàng trong tay tôi và cũng nhìn tôi, miệng nàng thì thào:

    - Nhìn mặt anh kìa! Tự dưng sao anh lại buồn quá vậy. Em có lỡ lời gì với anh không?

    Tôi lắc đầu lần nữa và từ từ kể vắn tắt cho Yến nghe chuyến ghe mình gặp hải tặc nhưng không đả động một chút gì về chuyện Ánh Phương. " Khung cảnh ở bãi biển Galang này tự nhiên đã làm anh nhớ đến tấn thảm kịch của ngày hôm đó. Nếu không gặp em thì chắc giờ này anh vẫn còn ngồi nguyên một chỗ đấy ", rồi chấm dứt câu chuyện.

    - Anh vẫn dặn em đừng đi vào rừng hoặc ngồi ở chỗ vắng có một mình rủi gặp rắn độc cắn hay trúng gió không ai biết thì chết mà anh lại dám làm như vậy. Nói người ta được còn mình thì không. Yến trách nhẹ tôi.

    Hai đứa quay trở về lối cũ, Yến cho biết vì không gặp tôi nên nàng đi tìm và thấy tôi thơ thẩn xa xa rồi có lúc lại vào rừng và sau cùng ngồi một chỗ như một gã... khùng.

    - Lúc thấy anh thì em gọi mà chắc anh không nghe hoặc nghe mà cố ý không trả lời nên em đi theo xem coi ra sao.

    Tôi mỉm cười với Yến, tội nghiệp nàng vì đã hiểu lầm khi thấy bộ dạng của tôi. Yến nào biết những bồi hồi, xúc cảm trong lòng tôi khi đó. Đi ngang qua một bụi cây rậm rạp, chợt Yến dừng lại và chỉ cho tôi thấy những chùm trái nho nhỏ bằng đầu ngón tay có mầu tím sẫm rồi hỏi:

    - Anh! Cái trái này tên gì vậy? Mình ăn nó có được không? Xem hoa của nó nè. Đẹp quá ha!.

    - Ô! Hoa Sim đây mà. Trái nó ăn được nhưng sẽ làm răng mình đen đó em.

    Tôi trả lời Yến và hái vài trái bỏ vào miệng nhai cho nàng thấy. Một vị ngòn ngọt cùng cái hậu chan chát khi cắn bể những hạt nho nhỏ trong ruột trái Sim đó. Yến cũng làm theo tôi và sau đó nàng còn hái thêm cả vốc tay nữa. Nàng ăn hết trái này tới trái khác rồi nói:

    - Ăn cũng ngon chứ anh.

    Rồi Yến bẻ vài nhánh hoa Sim cầm trên tay, liến thoắng:

    - Để em mang về cho mấy chị xem. Hoa nó đẹp quá, tự dưng em thấy thích nó lắm.

    Tôi yên lặng, hái thêm các chùm trái khác và đưa hết cho nàng. Yến, một tay vung vẩy các nhánh hoa Sim còn tay kia bụm ngửa chứa đầy nhóc những trái chín tím sẫm của tôi với nàng vừa hái được.

    Quay về đến chỗ nghỉ chân của cả bọn thì hai đứa tôi gặp một người khách đang ngồi trên chiếc võng đó là ông Bửu. Ông ta đang dở chuyện với anh chị Khảm-Phượng cùng các cô Đào, Bẩy, Ánh Diễm và Đỉnh. Mỗi người họ trên tay cầm một mẩu kẹo kéo đang ăn dở. Xe mô tô của ông Bửu dựng cạnh bên chiếc xe đạp bán kẹo kéo của một thanh niên còn trẻ. Tay cậu ta thoăn thoắt kéo khối kẹo trắng thành khúc dài rồi sau đó búng gẫy từng đoạn ngắn độ gang tay và đưa nó cho người đến mua ăn. Thấy tôi và Yến thì anh Khảm bảo:

    - Cô cậu trốn đâu bây giờ mới thấy. Lại đây ăn kẹo kéo cho vui.

    - Em với anh Vũ đi tuốt vào trong kia hái trái Sim chín nè thầy. Lần đầu em mới biết đến nó đó. Ăn nó... thấy cũng là lạ. Mấy chị ăn thử đi. Em cũng hái cả hoa của nó nữa nè. Trông đẹp chưa... thích chưa! Yến nói một hơi khi nàng bỏ bụm trái chín cùng các nhánh hoa Sim xuống bên cạnh một cái dĩa nhỏ đựng vài đoạn kẹo kéo trên một tờ giấy báo nằm giữa chỗ ngồi của chị Phượng, Ánh Diễm cùng 2 cô Đào, Bẩy.

    Ngồi gần đấy, miệng đang nhai nhóp nhép nhưng Đỉnh đưa mắt ngầm mời tôi và Yến lấy kẹo kéo trong dĩa ăn rồi nhìn lên ông Bửu, nó hỏi:

    - Bác ơi! Kể tiếp nữa đi bác.

    Ông Bửu đong đưa người trên chiếc võng, nhìn tôi và Yến rồi mỉm cười, trả lời:

    - Cậu Vũ và cô này... đột ngột làm tôi ngưng ngang câu chuyện... Mà tôi kể đến đâu rồi?.

    - Anh đang đến đoạn nuôi ong có nhiều mật mà bán không được vì bị tụi thương lái ép giá đó. Chị Phượng xen vào.

    Ồ! Phải rồi. Ông Bửu thốt lên và nhìn đám chúng tôi rồi khẽ đằng hắng như lấy trớn nói tiếp:

    - Như tôi đã kể can nãy. Dạo đó ong tôi nuôi được mùa hoa trái xum xuê nên cho mật nhiều mà đám thương lái nó chơi ép, nại lý do mật của tôi vì ong lấy từ hoa ở rừng cao su không ngon nên bảo tôi phải hạ giá thì chúng mới chịu mua. Mật ong, bất cứ hút từ loài hoa nào thì vị cũng đều thơm ngọt như nhau. Có khác là khác cái mùi mật thôi và không bao giờ ong nó lại lấy mật từ các loài hoa độc. Tôi đâu chịu cái lối chơi ép đó của bọn thương lái nên đành phải đi tìm các mối hàng khác. Nhưng nói vậy mà không phải dễ vì tụi thương lái chúng biết mặt nhau hết cả nên về hùa với nhau chơi ép tôi. Ong tôi nuôi làm ra mật nhiều lại không bán được ngay nên có lúc đã tràn ra từ các thùng tổ rồi chảy nhễu nhão rớt xuống đất. Chính vì vậy mà tôi mới thấy một việc lạ đó là dù mật chảy vương vãi trên đất thành từng bệt nhưng lại không hề có một con ruồi hay con kiến nào tìm đến ăn như mình thường thấy ở các thứ có chất ngọt. Tôi có hỏi những người nuôi ong khác về chuyện này thì họ còn cho biết những tổ ong ở ngoài thiên nhiên cũng y vậy. Mật ong vàng óng lộ ra ngoài thành tổ, vừa ngọt vừa thơm mà không hề có bóng loài ruồi loài kiến nào héo lánh đến. Làm như trong mật ong nó có một chất gì đặc biệt lắm mới khiến loài ruồi loài kiến phải tránh xa.

    - Anh kể thì tôi mới để ý thấy có như vậy. Lạ quá ha. Anh Khảm xen vào.

    Chuyện ông Bửu vừa kể làm tôi nhớ có lần tại phòng Dịch thuật thì ông đã cho biết là bản thân từng có lúc mưu sinh bằng nghề nuôi ong lấy mật tại quê nhà. Ông Bửu sau khi thở ra một hơi thuốc lá, nhìn anh Khảm rồi tiếp:

    - Anh nói lạ nhưng chưa bằng cái chuyện mà tôi nghe được từ những người nuôi ong khác kể là mật ong còn có thể chữa được cả bệnh hủi nữa đó.

    Bệnh hủi, có nơi người ta gọi là phong cùi, một bệnh nan y mà ai cũng sợ vì hình ảnh ghê rợn của nó. Người bị bệnh cùi thì mặt mũi và tay chân họ bị lở lói hoặc cụt lủn vì vi trùng đục khoét cơ thể từ từ làm rụng từng lóng chân lóng tay một. Có người kể là người giàu bị bệnh cùi còn phải mài vàng y ra uống để mong nhờ vàng mà căn bệnh quái ác này sẽ chậm phát tác. Nhưng có uống vàng y thì cũng không trị dứt hẳn được bệnh cùi. Người bị bệnh cùi sống ở đâu thì cũng bị cộng đồng bỏ lơ, bà con và họ hàng trông thấy cũng tránh xa. Ai rủi mắc phải bệnh này thì ít nhiều cũng bị xã hội gán cho là hậu quả từ một việc làm ác đức nào đó mà họ đã tạo ra trong quá khứ.

    Như mỗi lần sắp sửa kể về một chuyện gì thì ông Bửu có thói quen hay nhắm mắt như để hồi tưởng về quá khứ và cái đầu của ông có lúc lại gật gù nhè nhẹ. Hôm nay cũng vậy làm đám chúng tôi phải chú ý đến bộ dạng của ông. Một khoảnh khắc chờ đợi qua đi, ông Bửu mở mắt ra và kể:

    - Ở rừng U Minh nơi tận cùng của nước Việt mình là một vùng rừng chạy từ trong đất liền ra tuốt ngoài biển lớn. Rừng ở đây bạt ngàn và rất nhiều nguồn lợi như cá, tôm, củi, than... tôi không nói làm gì. Trong số nguồn lợi thiên nhiên đó thì đáng kể là mật ong rừng. Ong tự chúng làm tổ dày đặc mà do người gác kèo giúp chúng dễ làm tổ cũng có nhưng dù bằng cách nào thì tổ cũng rất nhiều. Chính vì vậy mà hàng năm đã thu hút dân tứ xứ chèo ghe đến ăn dầm nằm dề để chờ lấy mật ong trong tổ bám dưới những kèo gác trên thân cây tràm. Kèo ong là do họ làm và cứ kèo làm năm nay thì họ sẽ đến lấy mật vào năm tới. Cứ làm kiểu gối đầu như vậy và có một quy luật bất thành văn của dân trong nghề ăn ong là không ai lấy trộm kèo mật của ai. Mỗi cây kèo sẽ là một hũ mật ong. Một nguồn lợi thiên nhiên, ai siêng năng làm thì nấy hưởng chứ không có vụ ăn sẵn, đi hớt ngang mật ong của người khác. Trong nhiều giống ong lấy mật ở đó thì có một loài ong lạ vì trên lưng có mầu ngũ sắc. Chúng khác các giống ong thông thường ở chỗ là không sợ khói và mật của chúng gom được thì rất ít nhưng lại vón thành cục như đường phèn. Đã thế, tổ của loài ong này lại nằm cheo leo trên các ngọn cây cao và rất khó tìm thấy. Khi lấy được mật của loài ong đó rồi thì người ta mang về để luyện thành thuốc dùng trị bệnh hủi. Luyện nó như thế nào mới thành thuốc? Là để hàng chục ngọn nến trắng chong chung quanh chén mật trong vòng một ngàn ngày thì sẽ thành và khi đó mật... Bây giờ là thuốc, có thể trị dứt bệnh hủi. Chữa dứt không phải là làm cho người bệnh đã lỡ rụng mất ngón chân ngón tay thì sẽ mọc lại các ngón mới mà chính là làm căn bệnh ngưng phát tác hoàn toàn. Các vết hủi trên cơ thể từ từ nó sẽ khô đi và người bệnh lành da trở lại.

    - Nghe thấy hoang đường và vô lý quá hả anh. Có thật được như vậy không? Chị Phượng cắt ngang khi hỏi ông Bửu.

    - Hừm!... hừm... Ông Bửu gắt giọng, tiếp:

    - Cái chị này lạ! Tôi chỉ kể lại những gì được nghe người khác nói thôi. Chị làm tôi hết muốn kể chuyện nữa.

    - Anh! Có ai khỏi bệnh cùi sau khi uống mật ong ngũ sắc hay thuốc luyện được đó không? Ý của em là thắc mắc vậy thôi chứ đâu có ám chỉ gì anh đâu... Kể tiếp đi mà, tụi em muốn nghe. Chị Phượng cười thật tươi sau câu nói nhằm xoa dịu cái bực bội nơi ông Bửu.

    - Được! Nghe tiếp đây. Ông Bửu đảo mắt nhìn chị Phượng như một trách móc rồi chậm rãi tiếp:

    - Có một cô gái con ông điền chủ ở vùng Bạc Liêu bị vướng bệnh hủi. Thuốc thang rồi uống vàng y mãi mà không thấy bệnh thuyên giảm. Nghe người ta kể về môn thuốc luyện từ mật ong này thì ông điền chủ và cô con gái liền thu xếp đi tuốt xuống vùng U Minh. Ông cất chòi ở giữa rừng và mướn người đi lấy mật loài ong lưng ngũ sắc về để ông ta luyện thuốc cho con gái. Sống biệt lập như vậy cả hàng mấy năm trời thì sau cùng ông điền chủ mới luyện được chút xíu thuốc để con gái mình uống. Tốn tiền của, công sức nhưng luyện được thuốc thì cũng bõ công. Có điều trong thời gian sống trong rừng thì cô gái hủi cũng đã bị ong đánh cho vài lần tưởng chết. Sau khi uống thuốc được thời gian ngắn thì bệnh hủi trên người cô đổi khác. Những vết lở lói chảy nước vàng khi trước lành miệng dần dần và rồi cô ta khỏi hẳn căn bệnh.

    - Thuốc trị bệnh cùi luyện từ mật ong thần kỳ như vậy mà tới hôm nay tôi mới biết đấy. Anh Khảm ngồi hẳn lên trong chiếc võng như một cử chỉ hoài nghi về câu chuyện của ông Bửu kể.

    Anh Khảm vừa dứt lời thì mấy cô gái cũng xì xào với nhau... Chuyện lạ quá... em mới nghe được bác này kể lần đầu... Ông Bửu ngồi ở võng nghe và thấy thái độ của họ nên cất tiếng:

    - Chuyện luyện mật ong thành thuốc trị bệnh hủi mà tôi kể đúng là đầy vẻ huyền bí và hoang đường thật nhưng thử nghĩ xem, ở cái thời buổi mà chưa có ánh sáng của cái gọi là khoa học như bây giờ thì người ta phải bám víu về một niềm tin siêu hình nào đó khi gặp chuyện không may trong đời để mà sống mà tồn tại chứ. Phải không nào? Thực tế là có nhiều chuyện huyền bí mà không thể nào dùng con mắt khoa học để giải thích được, chỉ biết là có chuyện đó... đã xẩy ra. Cá nhân tôi thì cho là có thể do bị ong đánh vài lần mà cô gái con ông điền chủ đó đã khỏi bệnh hủi. Anh chị cùng mấy cô cậu này chưa biết khi ong mà đã cố đánh ai thì nó khủng khiếp như thể nào. Nguyên đàn bay đến cả trăm con chứ ít gì, có nhẩy xuống nước thì bọn ong cũng chờ nổi lên để đánh tiếp cho kỳ được chúng mới thôi. Trong nọc ong và mật ong chắc phải có chất gì rất đặc biệt nên mới chống được với bệnh hủi, tôi nghĩ vậy.

    Vừa dứt lời thì ông Bửu đã vội rời khỏi chiếc võng khi một nhân viên phòng an ninh P3V từ đâu đi đến và y ta ra dấu tay như muốn nói chuyện với riêng ông. Sau đó, ông Bửu quay qua nói với đám chúng tôi là ông có chuyện phải đi gấp rồi đạp máy chiếc xe mô tô và chở gã nhân viên chạy thẳng ra hướng con đường chính.

    Bây giờ đã quá trưa và là lúc trời nóng nhất lại thêm đột nhiên gió biển ngừng không thổi như trước đó nữa nên càng nóng. Tuy ngồi trong bóng mát nhưng cái hừng hực bốc lên từ mặt cát nóng cùng không khí oi nồng khiến đám chúng tôi ai nấy đều cảm thấy phải lao ngay xuống làn nước biển nếu muốn tránh cơn nắng nóng. Đào, Bẩy, Yến kéo nhau chạy xuống mép nước đầu tiên rồi sau đó là Ánh Diễm và Đỉnh. Thấy người đi gần hết, chị Phượng lấy tay nhặt các nhánh hoa Sim vất bỏ ra ngoài khi khom người để rũ cho sạch tấm nylon trải trên mặt cát. Vừa làm chị vừa nói nho nhỏ và dường như biết mình lỡ miệng nên vội im bặt tiếng nhưng tôi đã nghe thấy " Con gái mà đụng vào hoa này xui xẻo lắm, không hiểu con Yến nó hái làm chi...". Tôi giả lả, làm như không nghe được những gì chị nói khi nhoài người lên chiếc võng căng cạnh bên võng anh Khảm đang nằm mà nhớ lại điều người ta kháo nhau rằng mầu tím là mầu buồn, mầu của tan tác và biệt ly như trong một bài thơ nổi tiếng về loài hoa Sim này. Tôi, nam giới không để ý gì về điều người ta nói như vậy thì đã đành nhưng còn Yến? Có lẽ thực sự nàng cũng chẳng biết vì bản thân còn quá trẻ. Mà, điều người ta nói như vậy có đúng không? Chẳng biết nữa.

    Chị Phượng sau khi dọn dẹp chỗ nghỉ chân của cả đám nhóm xong xuôi thì thấy tôi và anh Khảm nằm im trên võng nên đã đi thẳng ra biển tắm. Tôi muốn tán chuyện với anh Khảm nhưng thấy anh đã nhắm nghiền mắt nên thôi. Nằm đó, đung đưa người trên võng trong trạng thái nửa ngủ nửa thức chưa được bao lâu thì có người kéo chân tôi bắt tôi phải mở mắt ra nhìn. Yến đến trước mặt và thì thào bên tai:

    - Xuống tắm với em đi anh Vũ. Ra biển mà không tắm thì ra làm gì không biết... Với lại em muốn anh tập cho em bơi.

    Tôi đi với Yến từng bước trong làn nước nóng ở trên bề mặt nhưng mát lạnh ở phía dưới sâu. Biển bây giờ mới thực đông người thật không khác gì ở một chỗ tắm nào đó của Vũng Tàu hay Long Hải bên quê nhà. Tôi chẳng thấy Đỉnh, Ánh Diễm hay 2 cô Đào, Bẩy cùng chị Phượng ở đâu trong số người đông lố nhố giỡn nước trước mặt. Cứ bước như vậy tới chỗ nước ngang thắt lưng rồi đến phần bụng thì Yến ngừng lại và khe khẽ bên tai tôi: " Anh... anh... tập cho em nha. Em muốn biết bơi ".

    Tôi cũng đứng lại, lấy tay che nắng trên trán để nhìn mặt nàng cho rõ hơn rồi hỏi:

    - Em muốn biết bơi phải không? Tôi lập lại câu hỏi đó thêm lần nữa thì Yến nghe thấy đã vội gật đầu. Vài anh chàng gần bên cũng đưa mắt nhìn Yến chằm chằm, tôi mỉm cười vì thấy cạnh mình là một cô gái quá đẹp. Tôi lại gần bên Yến, nói nho nhỏ chỉ đủ để một mình nàng nghe.

    - OK! Nghe đây. Muốn biết bơi thì trước tiên em phải tìm bắt cho bằng được một con chuồn chuồn đã. Không phải chuồn chuồn kim đâu nha. Chuồn chuồn ngô hay lửa gì cũng được nhưng nếu có con chuồn chuồn trâu thì càng tốt.

    Tôi im lặng trong chốc lát rồi nhìn Yến và định nói thêm: " Rồi sau đó em phải để cho con chuồn chuồn nó cắn vào rốn... " thì nàng đã phản ứng:

    - Thôi đi! Em biết chuyện con chuồn chuồn đó rồi... Người ta muốn biết bơi thật chứ bộ!

    Khuôn mặt nàng phụng phịu, thấy vậy tôi liền bảo:

    - Đây! Nằm lên hai bàn tay này rồi thử bơi xem sao. Chịu vậy không?
    (còn tiếp)

  3. #32
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Không nói một lời, Yến ngả người xuống nước nằm lên trên phần tay tôi. Tôi dùng hai tay đỡ lấy phần bụng của Yến, nâng người nàng ngang với mặt nước biển. Yến đập hai chân rồi khoát cả hai tay làm như nàng đang bơi trong lúc tôi đứng yên hoặc bước từng bước một chầm chậm. Có lúc tôi thử buông hai tay ra thì ngay sau đó đã phải vội đặt trở lại phần bụng của nàng liền vì rõ ràng Yến sẽ bị chìm. Cái áo thun ngắn Yến mặc, khi chìm dưới nước nó không còn ôm sát thân người mà có lúc lại tốc lên hoặc phủ xuống theo chuyển động tập bơi và tay tôi đã hai lần chạm vào phần ngực trần của nàng. Rồi, tôi giật thót người khi luống cuống đã để tay sờ ngay vào... cái núm nhỏ nữa vì sợ Yến hiểu lầm nhưng nàng vẫn để yên. Nàng để yên vì mải tập bơi nên không biết cái đụng chạm đó hay nàng biết nhưng không chút phản ứng như tôi đã nghĩ sẽ bị? Còn tôi? Trước giờ có những lần ngồi bên Yến, tôi đã từng mong ước có lúc sẽ đặt bàn tay mình vào phần ngực của nàng. Vậy mà giờ đây trong tôi lại không chút cảm giác ham muốn hay rạo rực. Những hoài niệm về Ánh Phương vẫn còn trong ký ức đã làm tôi không một hứng thú nhục thể gì với Yến. Làn da trắng hồng và thân người nàng lồ lộ qua bộ quần áo đẫm nước ngay trước mắt tôi khi nâng hai tay, đỡ cho nàng tập bơi như vậy cả một lúc lâu. Yến bảo tôi thử bỏ hai tay ra để tự bơi một mình nhưng rồi ngay sau đó vì thấy mình chìm xuống nên nàng hoảng hốt, vùng vẫy tay chân loạn xạ rồi còn ôm chầm lấy tôi nữa. Có lúc thì nàng bám hai tay vào bờ vai hoặc đu người hẳn lên lưng tôi trong tiếng cười vui nắc nẻ cùng không một chút e dè. Đến một chỗ cạn vắng người, Yến dừng lại đứng phơi nguyên thân mình lồ lộ của nàng trước mắt tôi, không một chút ngại ngùng và còn cười với tôi nữa. Nhìn ánh mắt tôi, Yến rất tự nhiên như đã biết trong tôi không một chút tà tâm nào với nàng và quả thực như vậy. Tôi vẫn đang nhớ về Ánh Phương và giờ đây trong lòng tôi, Yến thực sự như một cô em gái nhỏ.

    Trời gần về chiều nên nắng gắt dữ và chính vì vậy mà có thêm nhiều người xuống tắm. Như chạy đua với chút thời gian còn lại trong ngày nên chỗ nào cũng đông nghẹt người chen chúc bên nhau đùa giỡn với nước. Tắm táp đã đời cho đến khi thấy mầu trời bắt đầu bảng lảng thì anh Khảm hối cả bọn thu xếp đồ đạc để chuẩn bị ra về. Như vậy, một ngày cuối tuần picnic thoải mái đã kết thúc, đám chúng tôi kéo nhau quay lại con đường đất đỏ dẫn về trại trong cái mệt mỏi bởi nguyên một ngày đùa giỡn với nước và nắng nóng. Đây đó, đi đằng trước hoặc đằng sau đám chúng tôi là từng nhóm người cùng rảo bước chung trong một ý nghĩ mau nhanh chân về nhà càng sớm càng tốt. Anh Khảm do cả ngày nằm trong bóng mát nên da dẻ trông vẫn bình thường còn tất cả chúng tôi thì từ mặt đến chân tay người nào cũng đỏ lừ vì bị bỏng nắng. Thêm vào đó thì ai cũng cảm thấy trong người hâm hấp nóng như đang bị một cơn sốt nhẹ. Dọc đường thì cô Đào cho biết trong buổi đi tắm biển hôm nay đã gặp người quen cũ từ hồi còn bên quê nhà giới thiệu cho một chỗ làm trong một tiệm ăn ở tuốt Galang 2 và có thể sẽ bắt đầu trong các ngày sắp tới. Ai nghe chuyện của Đào cũng mừng vì thực sự chúng tôi đã biết sẽ phải ở trong trại rất lâu mới đến lượt Cao Ủy thanh lọc nên người nào kiếm được việc làm mà có tiền thì còn mong gì hơn.

    Về tới gần trại, đến ngã ba của con dốc phân chia khu vực zone 3 và 4 thì có tiếng còi xe hơi vẳng đến thật gần. Cả bọn chúng tôi vội nép vào vệ đường để tránh xe và khi nó chạy đến thì ra là xe của nhà thầu TiTan. Tôi thấy Tám Kiệt ngồi ngay trong buồng lái bên cạnh gã tài xế người Indo, mắt y nhìn chằm chằm vào Ánh Diễm và Đỉnh mà 2 người nầy lại cúi đầu trò chuyện riêng với nhau nên không biết. Mặt Tám Kiệt rất giống như lần trước khi tôi tình cờ trông thấy y núp sau một thân cây cạnh barrack để rình trộm Ánh Diễm và Đỉnh.

    Làm ở tiệm ăn nên Đào sẽ phải ở lại Galang 2 luôn và chỉ quay về Galang 1 vào sáng thứ Tư để học English và nhận phần thực phẩm Cao Ủy cấp phát hàng tuần do Yến giữ hộ. Đào rời khỏi nhóm nên căn phòng của chúng tôi đã rộng hơn và thực tế là trong barrack giờ cũng đã có người bỏ ra bên ngoài cất chòi sống riêng. Một chuyện làm cho bararck cảm thấy xuống tinh thần là có vài người đã ghi danh hồi hương về lại Việt Nam. Người hồi hương đầu tiên trong tàu CL 135 của ghe chúng tôi chính là Năm, cậu thanh niên bị rắn cắn phải đưa đi nhà thương cấp cứu ngay trong đêm đầu tiên nhập trại. Một bữa tiệc nhỏ chia tay với Năm trong đêm cuối cùng trước chuyến hồi hương được cả barrack tổ chức trong cái buồn dù không ai nói ra vì rõ ràng ghe chúng tôi đến trại Galang chưa được bao lâu mà giờ đây đã có người phải bỏ cuộc sớm. Hỏi lý do sao lại hồi hương thì Năm nói vì nhận được thư bên quê nhà cho biết mẫu thân bệnh nặng, sợ không qua khỏi nên phải về. Có người thì bảo thực sự không phải vậy, chẳng qua vì Năm không đủ kiên nhẫn để chờ đến lúc thanh lọc và thâm tâm cậu ta nghĩ nếu Cao Ủy có phỏng vấn thì cũng chưa chắc bản thân sẽ lọt qua được.

    Tuy có 2 chuyến hồi hương về lại quê nhà rồi mà vẫn có thêm những chuyến ghe vượt biên nữa đến trại. Lý giải cho việc này thì nhiều người cho biết là chính cái tin Cao Ủy thanh lọc lần cuối trước khi dẹp trại nên làm cho những ai còn chần chừ trước khi quyết định bỏ nước ra đi đã vội nhẩy xuống ghe vượt biên cấp tốc. Họ sợ sẽ không còn trại tị nạn nữa khi Cao Ủy dốc hết toàn lực để thanh lọc thuyền nhân Việt lần đầu và cũng sẽ là lần cuối cùng. Những chuyến ghe mới đến trại hầu như đều do hải quân Malaysia chuyển qua. Cao Ủy đã phải cho cất cấp tốc thêm những dãy barrack lợp lá mới sâu trong rừng nên nhiều căn dù chỉ có khung sườn và mái lá sơ sài mà đã lấp nhanh chóng người vào ở. Mỗi một chuyến ghe mới đến thì lại thêm cái vụ người trong trại đi tìm xem coi có ai là thân nhân của mình không? Tôi cũng đã cùng Yến đi vào các barrack của đoàn người say sóng mới đến nầy để mong gặp lại anh Tấn hay các người khác trong chuyến vượt biên chung vừa rồi nhưng không thấy ai cả. Họ bị công an bên quê nhà bắt tù như thằng Dũng hay sau một chuyến thoát chết từ tay hải tặc nên biết sợ và đã bỏ cuộc? Trong số ghe mới đến trại thì nổi cộm có một ông Trung tá Lữ đoàn phó Thủy Quân Lục Chiến miền Nam VNCH. Khi nghe phòng thông tin trại loan báo thì đám thuyền nhân gốc Thủy Quân Lục Chiến của cả Galang 1 lẫn Galang 2 vui mừng xiết bao vì binh chủng họ giờ đã có thầy hay ông niên trưởng đại diện. Vài cựu sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến cấp Úy đã vội tom góp bàn ghế, giường tủ cá nhân và dàn xếp với ông Bùi Thế Dung để dành cho ông trung tá chỗ ở khác trong barrack vách cây-mái tôn ở Zone 3 thay cho chỗ tạm trú tồi tàn trong barrack lợp lá. Sau đó, họ còn kéo ông ta ra quán cà phê Cam Ly làm một chầu chiêu đãi bia Heineken để mừng niên trưởng đến được bến bờ tự do. Ở trại tị nạn Galang thì có chuyện bất cứ thuyền nhân của binh chủng nào trong quân đội miền Nam VNCH đều họp mặt sinh hoạt với nhau như một hội ái hữu và đó là lý do mà những cựu binh Thủy Quân Lục Chiến mừng vì nay họ đã có thêm ông thuyền nhân trung tá trong dàn sĩ quan đàn anh đại diện. Chính ông Bùi Thế Dung trong lần ghé vào phòng Dịch thuật đã cho ông Bửu cùng nhóm thiện nguyện chúng tôi biết là sẽ mời ông trung tá Thủy Quân Lục Chiến nhận một chức vụ gì đó như Phó ban Đại diện và thực sự mọi việc sẽ êm xuôi nếu như không có một vụ tố giác từ một thuyền nhân về lý lịch thật của ông trung tá mới nhập trại.

    - Ông ta có đi lính Cộng Hòa thiệt nhưng không phải trung tá trung tiếc gì đâu.

    Thuyền nhân này quả quyết như vậy và sau đó bà ta còn chỉ thêm vài nhân chứng khác nữa.

    Người nhận diện ông trung tá giả chính là một phụ nữ sống ngay trong cái barrack lợp tôn của Zone 3 nơi mà các cựu binh Thủy Quân Lục Chiến vì sự kính trọng với một sĩ quan niên trưởng đã thu xếp với ông Bùi Thế Dung cùng barrack trưởng để cho gia đình ông được vào ở. Bà nầy đã từng sống chung trong một con xóm với ông trung tá giả bên quê nhà và bà đã vượt biên đến trại Galang từ khá lâu rồi. Barrack trưởng sắp xếp lại chỗ ở của người trong barrack thu gọn lại để nhường một chỗ cho gia đình ông trung tá rồi khi gia đình ông ta dọn vào chỗ ở mới thì bà nầy nhận ra hàng xóm cũ ngay. Đám cựu quân nhân Thủy Quân Lục Chiến khi biết chuyện thật thì họ đã nổi nóng và lôi ông trung tá dỏm ra một chỗ vắng doạ sẽ đả thương một trận nếu như ông ta không khai thật về nhân thân mình. Người trong trại kể là ông ta khai cá nhân thực sự chỉ là một hạ sĩ cùng binh chủng thôi còn trung tá là cấp bậc khi gia nhập vào một nhóm Phục Quốc.

    - Trung tá Phục Quốc. Mẹ kiếp! Vậy mà ông ta cũng khai ra ở đây, nó đâu có hợp lý. Lại còn cả gan lấy tên Nguyễn Văn T cùng chức vụ lữ đoàn phó của ông trung tá thật nữa. Đ.M cái ông già đó, đâu có biết là tụi tui tốn công sức, tiền bạc vì muốn làm đẹp mặt ổng. Một thuyền nhân cựu quân nhân Thủy Quân Lục Chiến kể lại.

    Thực ra những cựu quân nhân Thủy Quân Lục Chiến đó nổi cơn giận ông già mạo danh cũng phải vì tiền bạc do thân nhân họ gửi tiếp tế khi ở trại đâu ai có nhiều. Họ đã phải góp tiền chung với nhau để tiếp đãi ông già mạo danh làm mất không cả trăm ngàn Rupias cho bữa bia Heneiken hôm đó chứ ít sao.

    Ông trung tá dỏm Nguyễn Văn T đó đã phải năn nỉ rồi quỳ xuống van lạy đám cựu quân nhân Thủy Quân Lục Chiến xin họ tha tội vì đã tiếm danh và mạo nhận chức vụ cũng như cấp bậc làm họ tốn tiền và mắc cỡ với người trong trại vì mừng hụt. Ông ta năn nỉ hồi lâu thì các cựu quân nhân Thủy Quân Lục Chiến cũng nguôi ngoai bỏ qua vì họ nghĩ đến cái tình đồng hương cũng như đồng đội khi đang tạm dung ở xứ người. Thêm vào đó, ông ta cũng đã khá lớn tuổi, tóc tai bắt đầu muối tiêu cùng thân hình gầy gò nên không ai nỡ đánh dù chỉ một thoi. Ông trung tá Thủy Quân Lục Chiến dỏm đã thành một câu chuyện cười cho tất cả thuyền nhân sống trong trại.

    - Phục Quốc còn phong tới cấp Tướng và Tư lệnh sư đoàn hay quân khu nữa nhưng hầu như họ chỉ có cái khung thôi, một thuyền nhân từng có chân trong tổ chức Phục Quốc tiết lộ.

    Thực ra nếu không có người hàng xóm cũ tố giác thì với thời gian sống trong trại, trước sau gì chuyện giả mạo của ông trung tá dỏm cũng sẽ phải lộ tẩy. Vì, tuy nói là cựu khóa sinh khóa 10 Võ Bị Đà Lạt nhưng vẻ bề ngoài của ông ta trông còn trẻ hơn so với ông Bùi Thế Dung, cựu đại tá binh chủng Thiết Giáp thuộc khóa 13. Thêm vào đó, cung cách sống và hiểu biết cá nhân ông có vẻ như một nông dân hơn là một cựu sĩ quan cao cấp của miền Nam VNCH. Có người nói lúc đầu thì họ ngờ ngợ, không tin khi gặp mặt trò chuyện nhưng cứ nghĩ vì thời gian dài bị tù cải tạo Cộng Sản nên đã làm biến dạng phong thái thật của ông ta. Đâu dè!





    Hai barrack lợp lá Dừa nước thô sơ ở Zone 4 của trại Galang 1.




    Dãy barrack vách ván gỗ, mái lợp tole ở Zone 3 của trại Galang 1.

    Giáng Sinh đến gần rồi qua đi chóng vánh trong khung cảnh thiếu thốn của đa số thuyền nhân sống trong trại. Với lại, đêm Giáng Sinh là một buổi tối trời mưa dầm kéo dài suốt từ lúc chiều nên hầu như ít người biết đến một ngày lễ lớn. Chỉ những ai có dịp đi ra ngoài thì mới nghe được những điệu nhạc Giáng Sinh vọng ra từ các quán hàng bên đường. Một buổi tối khi gặp nhau ở quán cà phê thì anh Khảm rủ cả bọn đi dự buổi dạ vũ của binh chủng Không Quân sẽ tổ chức trong trại Galang 2 có tên là Đêm Không Gian Hội Ngộ. Bữa dạ tiệc sẽ diễn tại quán cà phê Đại Dương trong đêm thứ Bẩy tới và theo lời anh Khảm cho biết vì các cựu quân nhân Không Quân thấy gần sắp đến Tết ta nên họ chung tiền với nhau mà thành. Coi như dịp mừng các thuyền nhân phe ta (gốc không quân miền Nam VNCH) mới đến trại cũng như những người sắp sửa đi định cư ở nước thứ 3. Anh Khảm còn hứa với riêng tôi:

    - Anh sẽ giới thiệu em với những người bạn không quân đã thanh lọc rồi. Mấy người họ quen biết khá rộng ở Galang 2 nên may ra có thể giúp cho em chút hiểu biết khi gặp Cao Ủy thanh lọc.

    Buổi tối ngày thứ Bẩy đến sau cơn mưa chiều nhè nhẹ làm cho không khí thoáng mát, dễ chịu hơn. Chỉ có anh chị Khảm-Phượng, Đỉnh, tôi và Yến đi thôi còn Bẩy vì cảm sốt nên buộc phải nằm nhà. Dưới ánh đèn pin soi đường, đám chúng tôi đi trên con đường nhựa tối đen giữa hai hàng cây rừng. Mưa chiều làm mát trời nhưng dường như cũng làm bầy muỗi đói kéo thêm nhau bay từ rừng ra kiếm ăn. Chúng bạo dạn bay vo ve bên tai và đáp cả lên cổ lên mặt chúng tôi để hút máu. Thỉnh thoảng xuất hiện bóng đèn pin của người bộ hành hay từ một chiếc xe đạp đi hướng ngược chiều về lại Galang 1. Mới 7 giờ hơn mà trời đã tối mịt làm rõ những đốm sáng xanh nhỏ chớp tắt của loài đom đóm trong các bụi cây rừng sát bên lề. Hai bên đường, văng vẳng các điệp khúc ngăn ngắn của côn trùng kêu rỉ rả đây đó.

    Chúng tôi băng qua khu vực phòng An ninh P3V, đi qua văn phòng ban Đại Diện người Việt rồi vượt ngang nhà thương Galang 2 và tiến thẳng đến quán Đại Dương nằm gần khu Youth Center của nhóm thiện nguyện xã hội người Indo địa phương. Từ xa, cả bọn đã thấy quán cà phê Đại Dương lộ ra trong vầng sáng trên một sân trống khá rộng như một bãi đậu xe hơi bỏ hoang. Tiếng nhạc vang vang cùng bóng khá đông người bên trong quán đã làm phấn khích cả đám chúng tôi nên ai cũng quên ngay cái mệt mỏi của chuyến cuốc bộ vừa qua.

    - May là anh Khảm nghe chị đi sớm chứ đến trễ thì chắc chắn là không còn chỗ cho bọn mình ngồi, chị Phượng nói.

    Bước vào quán, vài nhân viên tiếp tân ra đón rồi hướng dẫn cả đám vào một chiếc bàn tròn ngồi chung với các người khách khác. Ở sân khấu, ban nhạc đang chơi bài Dừng Bước Giang Hồ thật sôi động. Một banner khá lớn cắt bằng giấy hàng chữ Đêm Không Gian Hội Ngộ treo ngay sau lưng mấy tay đàn Guitar, đánh trống của ban nhạc. Một ông trạc tuổi anh Khảm từ đâu bước lại bàn chúng tôi rồi nói:

    - Các anh các chị từ Galang 1 ra đây phải không? Lội bộ chắc mệt dữ ha! Có khát thì cứ lấy nước uống tự nhiên nghe. Chúng tôi có cả bánh ngọt và bánh mặn nữa đó. Nằm trên bàn dài gần quầy tính tiền kia kìa.

    Anh Khảm thay mặt cả bọn chúng tôi cảm ơn nhân viên tiếp tân rồi hỏi thăm ông ta về các bạn của anh trong Galang 2. Ngồi một lát thì chị Phượng và Yến đi lấy các ly giấy nước ngọt, bánh tráng miệng cùng thức ăn cho cả bọn. Trong quán có hơn 20 cái bàn và hầu như đều chật người ngồi. Chợt tôi thấy ông Bửu cùng cô Hòa ở một cái bàn gần phía cuối trong chỗ khuất của quán. Lấy tay chỉ cho anh Khảm thấy 2 người họ rồi tôi thắc mắc.

    - Anh! Đêm Không Gian Hội Ngộ là một ngày vui truyền thống của riêng binh chủng Không Quân miền Nam VNCH hả? Nó có nhất định phải là một ngày trong năm như các ngày lễ Quốc Khánh 19 tháng 6 hay ngày Quân Lực 1 tháng 11 không?

    - Đúng là một dạ tiệc có tính truyền thống của không quân tụi anh nhưng không ấn định ngày nhất định vì có thể tổ chức dạ vũ Đêm Không Gian Hội Ngộ ở bất cứ ngày nào trong năm. Đầu năm hay giữa hoặc cuối năm gì cũng được, tùy theo sắp xếp thuận tiện của từng đơn vị thôi Vũ. Bữa dạ vũ họp mặt tối nay là lần đầu tiên có tại Galang vì từ hồi lên đảo tới giờ đã mấy năm rồi mà đâu tổ chức được. Anh Khảm trả lời.

    Ban nhạc vẫn chơi tiếp các bản nhạc lính rồi xen cả nhạc vàng cùng nhạc hòa tấu ngoại quốc nữa. Khách đến càng lúc càng đông làm nhân viên tiếp tân phải lúng túng kê thêm các bàn cùng ghế ngồi mới. Tiếng người nói, cười chung với tiếng nhạc trong một khung cảnh ánh sáng mầu lúc chớp lúc tắt đầy huyên náo, nhộn nhịp. Chợt tiếng nhạc im bặt đột ngột để nhường chỗ cho một người đàn ông khá lớn tuổi bước lên đứng trên sân khấu. Tay ông ta cầm cái micro nói những lời chào mừng khách tham dự.

    - Ông nầy là Chủ tịch của binh chủng Không Quân miền Nam VNCH ở đây đó các em, anh Khảm nói với đám chúng tôi.

    Kế đó, ông Bùi Thế Dung lên sân khấu thông báo các chuyện của cộng đồng người Việt xẩy ra trong trại và chia xẻ các âu lo của bản thân ông trong vụ phải chờ đợi các diễn biến thanh lọc. Trước khi đưa cái micro cho 2 người khác và rời khỏi sân khấu thì ông Dung nói:

    - Hiện thời đã hơn mười bẩy ngàn thuyền nhân sống trong trại mà Cao Ủy tiên đoán dòng người Việt tại quê nhà sẽ còn kéo đến đây nữa.

    Cầm cái micro trên tay, một người họ nói lớn như thét:

    - Hãy cứ vui như mọi ngày... Cái gì đến thì sẽ đến... Come what may. OK.

    Nhiều tiếng OK trả lời cùng tiếng vỗ tay trong quán phụ họa thật lớn sau lời nói đó của người đàn ông. Mở đầu, ban nhạc cùng ca sĩ giúp vui chơi các bài hát của riêng binh chủng Không Quân như Tuyết Trắng, Hát Cho Người Nằm Xuống, Không Quân Hành Khúc rồi sau đó là các bài ca về đời lính chiến như Kỷ Vật Cho Em, Rừng Lá Thấp... Hai người đàn ông vừa nói trên sân khấu, anh Khảm cho biết họ là 2 anh em ruột tên Lưu Sơn và Lưu Thủy. Anh nói thêm:

    - Vừa là chủ quán Đại Dương mà cũng gốc lính không quân, dạ vũ Đêm Không Gian Hội Ngộ tối nay có được phần lớn do 2 người nầy sắp xếp.

    Ở các bàn chung quanh, những teacher dạy Anh ngữ trong trại như thầy Hạnh, thầy Khiêm, thầy Kim Hằng, thầy Tâm... đều có mặt. Vậy ra mấy ông thầy nầy cũng đều gốc binh chủng Không Quân cả. Cũng như anh Khảm, là quân nhân trong một binh chủng thường gửi người đi Hoa Kỳ tu nghiệp nên họ mới có thể dạy Anh ngữ cách dễ dàng cho người trong trại. Từ khả năng cá nhân nói và nghe tiếng Anh trôi chảy nên hầu như họ chỉ dạy riêng biệt đàm thoại. Loáng thoáng tiếng trò chuyện với nhau bằng Anh ngữ vọng ra từ các bàn chung quanh chung với tiếng ai đó hắt hơi chắc ngộp vì khói thuốc lá như một làn sương mỏng bao phủ trong quán. Đỉnh khẽ hất tay báo cho tôi thấy vài cặp nam nữ bắt đầu kéo nhau ra sàn piste dã chiến khi ban nhạc đổi sang một điệu Tango lả lướt. Dạ vũ bắt đầu rồi.

    Tay trong tay, từng đôi nam nữ già trẻ dìu nhau bước tới bước lui theo điệu nhạc dặt dìu. Sàn pist trong phút chốc đã chật vì thêm người ra khiêu vũ. Cứ vừa dứt một bài hát thì ban nhạc chuyển nhanh chóng sang bài mới khác và họ chỉ tạm ngưng khi giới thiệu người nào đó lên sân khấu ca giúp vui. Cứ vậy, ban nhạc lần lượt đổi tông bài hát từ buồn qua vui lẫn lộn và có lúc chơi cả nhạc ngoại quốc nữa. Tiếng cười tiếng nói vui đùa bên nhau ở trong các bàn chung với tiếng lách cách của ly muỗng cùng cả tiếng trò chuyện với nhau bằng Anh ngữ. Căn phòng của quán bình thường khá rộng giờ đã chật vì quá đông người thêm bầu không khí ngột ngạt từ khói thuốc lá đã làm ai đó không chịu nổi phải húng hắng ho. Tôi nhìn Đỉnh đang dìu chị Phượng trong một điệu Rumba thì nghe một giọng nói:

    - Khoẻ không anh Khảm? Lâu quá không gặp anh. Lúc nầy công việc ra sao rồi? Còn dạy học không vậy? Một người đàn ông dừng lại bàn bắt tay anh Khảm rồi tiện tay, kéo một cái ghế trống gần bên và ngồi chung luôn.

    Tiếng nhạc đột nhiên trổi lớn hơn khiến người đàn ông và anh Khảm phải cúi đầu thật gần để nói chuyện riêng mà tôi loáng thoáng nghe được những câu: " Nghe anh Luân nói vậy... thiệt vậy sao anh... cũng chưa rõ... phải chờ xem nữa... Chắc chắn phải có người đậu người rớt chứ " rồi cả hai im lặng nhìn nhau. Chợt anh Khảm hỏi:

    - Nầy! Nghe đám thằng Sơn thằng Tuân kể là hôm sơ vấn, lão Peter Cao Ủy trưởng nghi ngờ giấy ra trại của anh là giấy giả hả? Kể đầu đuôi cho tôi nghe với anh Thành.

    - Anh coi! Chả thấy khi đứt phim mình mới có 27 tuổi mà đã lon thiếu tá thêm cái giấy ra trại còn mới toanh nên nghi ngờ cứ hỏi dồn hoài. Người đàn ông tên Thành trả lời.

    - Rồi sao nữa anh? Anh Khảm hỏi tiếp.

    Người đàn ông tên Thành có nước da trắng, mái tóc bồng bềnh trông thật nghệ sĩ trong vóc dáng cao gầy. Ông vừa nói tuổi nhưng trông vẻ mặt thì trẻ hơn, tôi lắng nghe tiếp lời ông kể với cái giọng đều đều của người vùng miền tây Nam bộ.

    - Chuyện là vầy! Anh biết mình là phi công phản lực F5, bị Việt Cộng bỏ tù cải tạo gần 10 năm trời. Khi được thả thì nó cấp cho mình cái giấy ra trại nên mình phải giữ thật kỹ, rủi bị mất là chết là tiêu tùng cuộc đời luôn vì nó là cái bùa hộ mạng của mình mà. Mình giữ kỹ nên nó trông mới toanh, đâu có gì lạ. Vậy mà lão Peter cũng nghi ngờ là giấy giả đấy. Lão cứ lấy tay chỉ vào cái giấy ra trại của mình rồi nói là giấy nầy giả.

    Ông Thành ngừng nói, tay bật quẹt gas châm một điếu thuốc hút.

    - Rồi anh nói sao với lão Peter? Giọng anh Khảm.

    - Tui quật lại lão ta ngay. Ông nói giấy nầy giả hả? Hỏi sao ông biết nó là giấy giả thì lão Peter im lặng. Lão ta nhìn mặt tui chằm chằm nhưng tui cũng đâu sợ. Thấy lão cứ im lặng mãi tui hỏi tiếp. Bộ ông nghĩ tui làm được tờ giấy ra trại nầy thì lão ta lắc đầu, trả lời: " Không. Ông không làm được nhưng ông mua giấy nầy từ tay chính quyền CS Việt Nam ".

    Ông Thành vừa nói vừa chỉ ngón tay trỏ mà mắt lúc nhìn tôi và anh Khảm.

    - Trời! Căng thẳng quá ha! Nghe họ nói anh cãi lộn với lão Peter ngay tại bàn sơ vấn. Đó là lúc đang kể này, phải không? Anh Khảm cười cười sau câu nói.

    - Họ kể trật rồi anh ơi. Đời nào mình dám làm vậy dù lúc đó tui rất bực. Máu nóng trong người tui nó chạy rần rần. Khi nghe lão ta nói mình mua giấy ra trại thì mình ngồi thẳng người lên rồi hỏi lại liền. Vậy là ông đã biết tui mua giấy ra trại, phải không? Lão Peter nghe mình nói vậy thì gật đầu cái rụp còn cười nữa chứ. Tui chỉ chờ có thế mới hỏi tiếp lão ta. Ông biết chỗ họ bán giấy ra trại không thì lão lắc đầu hỏi lại tui: " Anh nói như vậy với ý nghĩa gì? ". Tui cười trả lời là nếu ông biết chỗ bán thì để tui giới thiệu khách hàng cho. Ông biết là ở trong trại tị nạn Galang nầy có nhiều người hiện cần giấy ra trại lắm mà họ không biết kiếm đâu ra đó. Thật may hôm nay tui gặp ông rồi, thưa ông luật sư Peter.

    - Nghe anh nói vậy thì cha nội Peter phản ứng làm sao?

    - Vừa nghe xong câu tui nói đó thì lão ta đứng bật lên nói buổi sơ vấn hôm nay của tui tới đây là chấm dứt và bắt tay tui rồi còn nói sorry nữa chứ. Mẹ bà! Không hiểu sao lão ta tưởng cái thằng tui từng lái F5 oanh kích Việt Cộng mà nó để ngồi yên không bắt tù cải tạo! Việt Cộng từng xếp hạng nhất phi nhì pháo... hay lão ta biết mà vẫn cứ làm bộ hỏi như vậy. Ông Thành vừa nói vừa cười nhè nhẹ với tôi cùng anh Khảm.

    - Khi anh nói vậy thì lão Peter có bực tức không?

    - Lúc đó tui chẳng biết mà cũng chẳng quan tâm, có điều sau khi về tới barrack khi nghĩ lại thì thấy mình hơi nóng nhưng mà cái tính tui nó như vậy, đâu có kềm được. Anh biết tụi Việt Cộng nó bỏ tù tui lâu một phần cũng do cái tính nầy mà ra. Người đàn ông tên Thành trả lời.

    Ông Thành là mẫu người miền Nam bộc trực, dễ nổi nóng nhưng cũng mau nguội. Những người như vầy thường rất thành thật. Tôi ngồi yên, ngầm quan sát ông ta cùng số cựu phi công trong quán cà phê tối nay rồi tự dưng tôi thắc mắc không hiểu sao mấy người nầy có sẵn máy bay lại không di tản trong những giờ phút cuối của chế độ miền Nam VNCH mà chịu kẹt lại rồi bị CS bắt bỏ tù để đến bây giờ phải làm một chuyến vượt biên? Tôi, anh Khảm hay những người lính, dân lành khác không có phương tiện để di tản thì đã đành, nhưng còn họ? Hỏi ông Thành thì ông ta cho biết:

    - Trời! Máy bay là của phi đoàn chứ đâu riêng cho cá nhân mình được hả em. Hôm nào đến phiên mình trực chiến mà có lệnh yểm trợ hành quân thì mới bay được. Mà cũng còn tùy vào tình trạng máy bay nữa. Hôm 29, 30 năm đó mình đang ở trong Tân Sơn Nhứt chứ bộ.

    - Ở trong phi trường Tân Sơn Nhất, vậy mà anh lại không di tản được? Tôi buột miệng.

    - Lúc đó mình cũng hoang mang lắm nhưng nghĩ tụi Việt Cộng nó cũng người Việt mình chắc không đến nỗi xử tệ nhau nên mới ở lại. Tuy phi trường lúc đó trong tình trạng rối ren vì bị Việt Cộng pháo kích liên tục nhưng nếu cố gắng thì mình cũng có thể đi thoát ngay trong lúc đó. Trực thăng nhiều chiếc cất cánh gần trước mặt mình, muốn bay ra chiến hạm Mỹ quá dễ. Có ai ngờ được!
    (còn tiếp)

  4. #33
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Tôi mỉm cười chia xẻ cái bất ngờ với ông Thành. Phải! Không ai ngờ bọn CS lại tàn độc như vậy sau khi chúng chiếm được miền Nam VNCH. Người gốc Nam bộ không biết rõ tâm địa bọn Việt Cộng đã đành mà ngay cả những người thuộc dân di cư miền Bắc như tôi và anh Khảm mà còn lầm. Chẳng qua cứ nghĩ nhiều năm rồi thì Việt Cộng ít nhiều đã đổi khác. Ký ức tôi nhớ lại những giờ phút hối hả lẫn hốt hoảng chạy đôn đáo trên đường phố Sài Gòn để mong tìm cách vào được phi trường hoặc các cao ốc nơi những máy bay trực thăng thỉnh thoảng đáp xuống bốc người rồi bay ra hướng biển. Những ai trong các chuyến trực thăng hôm đó quả thật may mắn khi kịp thoát khỏi tay CS. Ông Thành có các cơ hội di tản mà không biết chộp ngay lấy nên đã chọn ở lại để nhận những năm học tập cải tạo. Ông không phải là người gốc miền Bắc di cư và vì quá tin vào tình người Việt nên phải trả giá bằng những năm tù. Phải vậy không hay vì sự kém hiểu biết về đối phương CS nên đã làm ông có cái nhận xét không đúng dẫn ông đến quyết định sai lầm chết người. Tự nhiên tôi nghĩ ông Thành sẽ qua được thanh lọc dù ngày Cao Ủy công bố kết quả chưa đến. Chỉ là một phi công bình thường và đã chọn ở lại Việt Nam thay vì di tản ra chiến hạm để sau đó bị CS bỏ tù gần mười năm thì không phải bị chế độ ngược đãi, ông Thành sẽ là hạng người gì khi phải vượt biên?

    - Anh! Em nghĩ anh sẽ qua được thanh lọc đó. Anh bị CS bỏ tù lâu quá mà, tôi nói với ông Thành.

    - Ồ! Cám ơn em. Bạn anh ai cũng nóĩ vậy. Anh nghĩ ông Cao Ủy trưởng Peter có bực tức thái độ anh khi đó nhưng vẫn phải làm đúng luật tị nạn em à. Không phải cứ thương hoặc ghét một người nào đó mà có thể thay đổi luật được, tụi Tây phương là vậy nên anh cũng chẳng lo lắng lắm. Cái gì tới thì rồi nó sẽ tới. Bây giờ mình cứ lạc quan mà sống thôi. Còn em, em sơ vấn hay thanh lọc gì chưa? Ở đây bao lâu rồi? Trước đây có lính tráng gì không? Ông Thành hỏi lại tôi.

    Kể sơ cho ông Thành biết về quãng thời gian vừa qua và công việc đang làm hiện nay của tôi ở phòng Dịch thuật cùng niềm hy vọng bản thân trong việc làm thiện nguyện của mình sẽ được Cao Ủy giúp đỡ thì ông lắc đầu.

    - Em lầm rồi! Tụi Tây phương họ cho chuyện thuyền nhân mình làm trong các phòng ban ở trại là một sự tình nguyện chứ không bắt buộc. Cao Ủy ở đây là ai? Ông Peter, một người Hòa Lan. Các luật sư sơ vấn đều là người Mỹ, người Anh... Họ chắc chắn biết tự người mình xin làm thiện nguyện chứ đâu có một ràng buộc kiểu khế ước hay giao kèo nào và như vậy thì sẽ không chút ảnh hưởng gì đến thanh lọc đâu. Nếu em làm việc cho tụi Indo thì may ra có thể họ sẽ giúp cho nhưng anh cũng không chắc lắm. May ra thôi vì cũng chưa chắc tụi Indo chịu giúp người mình. Đó là suy nghĩ của anh, không phải nói ra như vậy là để bảo em thôi đừng làm thiện nguyện nữa. Tùy em, nếu mình nghĩ làm thiện nguyện như một việc góp sức với cộng đồng thuyền nhân ở trại thì cứ vui mà làm, còn hơn ở không. Và, nếu em không có lính tráng gì thì lý lịch cũng đáng lo lắm đó.

    Ông Thành nói đến đây thì im lặng, ngồi trầm ngâm rồi đột ngột quay qua hỏi anh Khảm:

    - Ê bồ Khảm! Chú em này bà con sao với you vậy?

    Anh Khảm cho ông Thành biết sơ qua về tôi thì ông nói:

    - Hôm nào rảnh rỗi vào chỗ tôi, tôi sẽ giới thiệu chú em nàyy với một anh bạn có thể giúp đỡ trong việc thanh lọc.

    Giúp đỡ trong việc thanh lọc. Tôi, anh Khảm nhìn ông Thành mà chưa hiểu câu ông vừa nói thì ông tiếp:

    - Giúp là giúp chú em trong việc phải khai báo sao cho có lợi khi vào sơ vấn Cao Ủy và thanh lọc của tụi Indo thôi. Tay này rất rành về luật tị nạn, công ước Geneva hay nghị định thư gì gì đó...

    Trước khi từ giã anh Khảm để trở về chỗ cũ, ông Thành còn dặn tôi thu xếp một ngày nào đó để vào Galang 2 gặp ông.

    - Càng sớm thì càng tốt, nhớ nghe em, ông nói.

    Giống như mọi buổi dạ tiệc, khách cứ khiêu vũ cho đến khi chán hay mệt thì trở về chỗ ngồi nghĩ rồi sau đó lại tiếp tục. Thấy trống bớt người và ban nhạc đang dạo đầu một điệu Tango thì Yến kéo tay tôi ra sàn piste. Tôi choàng tay qua hông Yến dìu nàng từng bước, từng bước. Đêm nao cùng ai dưới trăng thanh... Yêu đương lòng chan chứa bao tình. Yến ngước mặt nhìn tôi, làn mi nàng chớp nhẹ. Xa xăm nhìn ai nay khuất bóng. Tự dưng lời hát của ca sĩ làm tôi chợt nhớ về Ánh Phương. Cũng lời hát nàng đã hát trên đảo hoang bên tôi đây trong ánh trăng sáng. Thấu chăng người ngàn phương trời xa... Gieo tình thương lòng ta... Tôi và Ánh Phương đã có lúc kề cận nhau như tôi và Yến bây giờ. Yến đang gần bên nhưng sao tôi lại nhớ đến Ánh Phương? Tôi bối rối ngắm khuôn mặt tuyệt đẹp của Yến. Nàng mỉm cười trong ánh mắt long lanh vì biết mình đẹp. Tôi thương Yến như đã thương Ánh Phương hay thực sự tôi chỉ thương nàng như tình thương đã dành cho Kim Thu, em gái ruột tôi. Khó hiểu quá! Mải suy nghĩ làm bài hát chấm dứt mau lẹ, tôi muốn tiếp tục khiêu vũ thêm nữa với Yến khi ban nhạc dạo tiếp qua điệu Slow nhưng nàng đã kéo tay tôi trở về bàn nói cảm thấy chân hơi đau.

    Trong số người kéo nhau ra sàn piste giờ có cả ông Bửu và cô Hoà nhưng vừa mới quay được vài vòng thì không hiểu sao, cô Hoà lại bỏ ngang điệu nhẩy và quay về chỗ để mặc ông Bửu đứng luống cuống một mình. Trông điệu bộ của ông thật tội nghiệp trong cái vẻ cố làm như tự nhiên khi nhún vai rồi tắp vào một bàn ngồi chung với những người khác gần đó. Yến lấy tay ngầm cho tôi thấy vài nhân viên của phòng An ninh P3V ngồi trong các bàn gần cái quầy sát vách tường chung với các cô gái Việt trong trại. Đây cũng là các cặp bồ bịch như papa Phước với cô gái tên Hướng ở ngoài Galang 1, tôi nghĩ vậy.

    Nhìn đồng hồ thấy gần 10 giờ và đã có người lục tục rời quán, chị Phượng hối cả bọn phải về sớm trước giờ giới nghiêm. Trong đêm tối, chúng tôi về lại Galang 1 chung với những người khác trong buổi dạ tiệc tối nay. Cũng như lần đi, lượt về anh Khảm soi đèn pin loang loáng dẫn đường cho cả bọn. Đỉnh thủ trên tay một đoạn cây tươi nó kiếm được đã vuốt sạch lá nói làm roi để phòng gặp rắn sẽ có cái mà quật. Ở Galang chỉ có 2 thứ mà thuyền nhân sợ là bị rắn độc cắn hoặc bị đau ruột thừa đột ngột. Bị rắn độc cắn mà không đưa đi cấp cứu liền thì có thể chết như chơi còn đau ruột thừa cũng rất dễ vong mạng. Có khi nhà thương cần phải chuyển bệnh nhân sang tận đảo Tanjung Pinang ngay nếu tiên lượng trầm trọng. Ai cũng sợ bị đau ruột thừa trúng vào 2 ngày thứ Bẩy, Chủ Nhật vì ở các ngày này, không có tàu cao tốc từ trại Galang để chuyển bệnh nhân sang đảo đó.

    Không có tàu cao tốc để chuyển bệnh nhân sang đảo Tanjung Pinang chính là một rầy rà cho thuyền nhân khi gặp chuyện cần phải cấp cứu gấp rút. Trong trại đã từng có chuyện thương tâm như vụ một bà người Việt vì bị hóc xương gà nơi cuống họng khi ăn cơm, bà ta đến nhà thương Galang 2 nhưng bác sĩ không chữa được lại trúng ngay vào ngày cuối tuần nên đành phải chờ. Chờ đến khi có tàu cao tốc trong ngày thứ Hai đầu tuần thì mới chuyển tiếp sang được đảo Tanjung Pinang nhưng khi đó, vết thương đã nặng, làm độc và kết quả bà ta đã chết oan uổng.

    Ngoài chuyện sợ rắn độc cắn, đau ruột thừa hoặc bệnh cấp tính nguy hiểm thì thêm một nỗi lo khác cho những người phải tạm trú trong các barrack lợp lá nằm gần các hàng cây lớn sát với rừng. Đó là nạn cây cạnh barrack gẫy đổ khi trời mưa to nổi giông gió lớn. Từ khởi đầu, bộ khung của barrack lợp lá chỉ được nhà thầu dựng rất sơ sài và dù thuyền nhân sau khi vào ở một thời gian ngắn đã phải gia cố thêm cây rừng kiếm được cùng các tấm bạt plastic mua ở tiệm nhưng nó vẫn mong manh mỗi khi có cơn gió mạnh. Nhóm 5 người chúng tôi đã có lần ngồi co cụm với nhau trong một đêm mưa trời nổi giông gió thật lớn. Tiếng cành cây vặn vào nhau kêu răng rắc trong cơn gió bão làm cả nhóm khiếp đảm vì sợ cây chịu không nổi sẽ gẫy, đổ thẳng xuống barrack và đè lên chúng tôi. Lần nào cũng vậy, khi trời nổi giông gió lớn thì thể nào cũng có barrack lợp lá nào đó trong trại bị hư hỏng nặng và chắc chắn thuyền nhân phải bỏ tiền túi mua dụng cụ để sửa lại hoặc đành bỏ mặc, kiếm chỗ ở khác.

    Chúng tôi đi về dưới bầu trời khuya đầy mây không trăng không sao nhưng vẫn có ánh sáng lờ mờ đủ để nhìn trong một khoảng cách gần. Vì Yến đau chân nên cả nhóm đành phải đi thật chậm dù ai cũng muốn về nhà càng nhanh càng tốt. Cơn mưa nhẹ hồi chập chiều tuy làm bầu không khí thoáng mát hơn nhưng vì không nhiều nước nên hơi nóng bốc lên từ hai bên vệ đường nồng nặc một mùi đất ẩm. Chúng tôi đi ngang qua những barrack lợp lá, nhà cửa nằm bên vệ đường nơi mới có mấy tháng trước vẫn còn là các bãi đất trống đầy cây mọc hoang giờ đã thành các xóm nhà nhỏ. Tuần nào cũng có ghe mới đưa người nhập trại và hầu hết là từ bên Malaysia chuyển qua. Qua khỏi nhà thờ Tin Lành, đồi có khu mộ địa thì cả bọn chúng tôi lại phải đi tiếp lên một đoạn dốc cong chữ C nơi mà các thuyền nhân từ các năm về trước đã xây bức tượng cement nhỏ hình người phụ nữ trong tay ôm một người lính nằm dài trên đất. Người trong trại gọi tượng này là Mẹ Bồng Con. Cây cối ở khu vực cua chữ C khá rậm rạp. Thêm vào đó, cách một đoạn ngắn cạnh bên đường lại có một cây cổ thụ to lớn xum xuê, cành lá um tùm cùng các rễ phụ của nó lòng thòng bám thẳng xuống đất. Không biết cây này là loại cây gì nhưng người trong trại cứ gọi nó là cây đa. Vào ban ngày, khi đi ngang qua đây thì ai cũng thấy cây đa cổ thụ này đứng lù lù gần vệ đường và dù gặp trời có nắng nóng, muốn nghỉ chân thì cũng chẳng ai dám mò vào các bóng mát của nó để trú. Cũng có thể vì họ sợ rắn rết hay vì hình ảnh tàng lá xum xuê với các đoạn rễ lòng thòng nên cây đa cổ thụ trông có vẻ linh thiêng, huyền bí như trong chuyện kể về ma quỉ khiến người trong trại phải ngần ngại mà không vào.

    Vừa lên tới ngay đoạn dốc cong chữ C thì cả bọn chúng tôi phải dừng lại vì một chuyện lạ đang xẩy ra trước mắt. Những đốm sáng vàng hoặc đỏ xuất hiện rồi tắt chóng vánh nơi vùng đen của cây đa cổ thụ. Các đốm sáng đó không phải là những con đom đóm vì đom đóm có mầu xanh vẫn còn chớp tắt bên vệ đường khi chúng tôi đi qua. Cả bọn đứng yên nhìn các đốm sáng cứ xuất hiện rồi tắt như vậy trong thắc mắc vì không hiểu nguồn gốc của chúng từ đâu mà có. Được một lát thì chị Phượng bảo đi về nhưng bất ngờ Đỉnh làm gan bước tới lấy tay dành cái đèn pin của anh Khảm và khẽ nói:

    - Mọi người cứ đứng yên đây, để tui xem coi nó là cái gì cho biết.

    Tay cầm đoạn cây, tay kia đèn pin chiếu thẳng vào cây đa cổ thụ rồi lại soi xuống đất để dò đường, Đỉnh bước tới trước trong sự hồi hộp của cả bọn. Nắm chặt lấy tay tôi, Yến lập cập nói từng câu đứt quãng:

    - Em... em... sợ... sợ... quá... anh.

    Tôi cố nhìn khuôn mặt Yến trong đêm tối lù mù, định trấn an nàng ít câu thì có tiếng thét hoảng hốt của Đỉnh và của cả anh chị Khảm-Phượng nên vội quay mặt lại thì kịp thấy vài đốm mầu xanh lơ to bằng bụm tay lóe sáng ngay sát bên thân người của Đỉnh. Đỉnh luống cuống vất bỏ đoạn cây rồi quay đầu chạy về chỗ 4 người chúng tôi đang đứng. Đến bên chúng tôi, Đỉnh thở hổn hển không nói nên lời. Như vừa thức dậy sau một giấc ngủ ngắn, cả bọn chúng tôi im lặng, không ai bảo ai mà vội rảo bước thật nhanh. Bước nhanh từng bước gần như chạy, chúng tôi đi thẳng một lèo cho tới khi về tới khu vực có ánh đèn đường của Zone 2 Galang 1 thì mới hoàn hồn và bớt sợ. Chị Phượng lên tiếng trước, hỏi anh Khảm:

    - Cái đó là gì vậy? Ma phải không anh?

    Anh Khảm im lặng một chốc khá lâu rồi mới trả lời:

    - Anh cũng không biết... nhưng nghe người ta nói là ma trơi đó.

    Chị Phượng chẳng hỏi thêm và 3 đứa tôi thì im lặng vì sợ vì theo đuổi riêng ý nghĩ của mình. Đốm sáng mầu xanh lơ vừa thấy làm tôi nhớ lại chuyện đã xẩy ra trong chuyến vượt biên lần trước khi ghe bị hỏng máy, phải đổ bộ lên tạm trú trên đảo hoang. Đốm sáng mầu xanh lơ mà cô gái trông thấy giữa khuya trên đảo chắc cũng giống như các đốm sáng ở đây trong tối hôm nay vì đã làm cô sợ phải thét lên. Chợt anh Khảm nói:

    - Theo anh nghe người ta kể là chất lân tinh trong xương cốt người hoặc động vật bị vùi dưới đất, sau cơn mưa chất lân tinh thoát ra, bốc lên rồi gặp khí trời thì tự nó phát sáng như vậy... Nhưng mà...

    Anh Khảm ngập ngừng trong chốc lát rồi tiếp:

    - Cũng có người nói đó là vong linh người khuất mặt muốn cho mình biết có sự hiện hữu của họ... Có thể đó là vong linh của họ hàng hay thân quyến hoặc người quen biết với mình... Mà thôi... Đừng hỏi nữa. Khó giải thích lắm... Tùy theo có tin hay không tin nơi mỗi người.

    Lời anh Khảm giải thích y chang những gì mà anh Tấn đã nói với đám người vượt biên chúng tôi ở đêm khuya đó tại hoang đảo. Nhớ lại thái độ hốt hoảng của anh Khảm vừa qua, so sánh lại thì rõ ràng anh đã thua anh Tấn cái gan dạ của người lớn tuổi từng trải. Phải chi tôi sẽ gặp lại được anh Tấn trong một chuyến vượt biên nào đó sắp đến trại trong các ngày tới. Nếu có cuộc tái ngộ như vậy, tôi sẽ kể cho anh nghe về chuyện đã thấy trong tối hôm nay để mong anh giải thích thêm.

    Về tới cổng dẫn vào Zone 3 của Galang 1 thì mới thấy trời đã khuya thật, hàng quán trống trơn ngoài các nhân viên đang lúi húi dọn dẹp trước khi ngủ. Dãy nhà dân đóng cửa im lìm cùng các barrack nằm yên lặng dưới ánh đèn đường. Mình về trễ quá, chúng tôi bảo nhau. Anh chị Khảm-Phượng chia tay 3 đứa tôi khi thấy một tốp năm, sáu người trong ban trật tự đi ngược chiều ở phía bên kia đường gần lối dẫn vào khu vực thanh lọc. Tốp trật tự đó đến gần và một người trong bọn họ bảo:

    - Mấy người ở barrack nào mà còn ở đây vậy? Nhanh chân lên đi, cúp điện rồi mà còn lảng vảng ngoài đường rủi đám police bắt gặp thì mệt với tụi nó đa.

    Tối hôm sau khi gặp lại ở quán cà phê của bác sĩ Luân thì anh Khảm đã không dấu khỏi vẻ mắc cỡ vì đã để cho 3 đứa tôi biết cái nhát gan của anh khi nhắc lại chuyện đã gặp. Tôi cũng nhát mà Đỉnh cũng vậy dù nó là đứa có bản lĩnh khi cố vào tận nơi để xem các đốm sáng. Đỉnh bào chữa:

    - Tự nhiên ở đâu ra mấy đốm lửa xanh lè ngay sát cạnh mình thì hỏi sao mà em không sợ. Ai trong hoàn cảnh đó mà hồn vía không lên mây.

    Chị Phượng cho là chỗ cây cổ thụ đó chắc cũng có người đã gặp y như đám chúng tôi và nói thêm:

    - Người vượt biên đến Galang từ bao lâu nay rồi mà người chết bỏ xác nằm lại đâu ít. Biết đâu, trong số họ có người còn chưa làm tròn một kỳ vọng gửi gấm của gia đình hoặc nguyện vọng của cá nhân họ nên vong linh vẫn nặng mối u uẩn chưa siêu thoát được. Có ma thì đâu gì lạ.

    Anh Khảm nghe vậy, đồng tình:

    - Anh thì chưa thấy ma bao giờ ngoại trừ chuyện tối hôm qua. Hồi còn trong quân đội thì anh đã từng nghe đám bạn kể họ đã gặp ma nhát ghê lắm. Cũng không hiểu tại sao có người lại gặp mà có người thì không? Có người nói do cái vía của mình, người nặng hay nhẹ thôi. Nhưng kể cũng lạ vì trời cũng thường mưa như vậy mà sao lại nhè ngay lúc bọn mình đi đến thì mới có các đốm sáng.

    - Không biết mấy người đi trước mình thì họ có thấy hiện tượng đó không nữa, em cũng thắc mắc. Chị Phượng nói.

    Đúng vậy! Khi rời khỏi buổi dạ vũ thì trên đường về lại Galang 1, nhóm chúng tôi đi cùng đường chung với một số người. Những người này lần lượt vượt qua mặt và sau đó chúng tôi đã mất dấu họ. Đỉnh nói không chừng đám người đó cũng thấy các đốm sáng nhưng họ bỏ đi thẳng chứ không như bọn mình, làm gan đứng lại xem. Anh Khảm thì bảo cũng có khi chỉ có bọn mình thấy hiện tượng đó thôi rồi anh lập lại: " Không biết đó có phải là ma không nữa? ".

    Như lời anh Khảm nói, tôi chẳng biết ma trông ra sao nhưng cũng mong đừng bao giờ trông thấy. Chúng tôi trò chuyện tới lui rồi cũng quay trở về chuyện thanh lọc của Cao Ủy và nước chủ nhà Indo với thuyền nhân sau ngày đóng cửa trại. Tôi thầm nghĩ bản thân mình phải cố làm sao để được Cao Ủy công nhận là người tị nạn khi nghe anh chị Khảm-Phượng kể về 2 chuyện đã xẩy ra từ cuối năm ngoái. Chuyện đầu là một thuyền nhân trẻ vào tiệm tạp hoá của người Nam Dương mua một đôi dép nhựa. Mua rồi, về barrack thì mới biết đôi dép đó cùng một phía chân phải nên anh ta mang lại tiệm để đổi lấy đôi khác. Nhưng gã chủ tiệm không chịu, nói anh đã đổi chiếc dép cho một người cụt chân phải nào đó. Đôi co qua lại thì gã chủ tiệm nổi nóng và đả thương thuyền nhân nầy. Anh ta liền đến kể chuyện với ban Đại diện người Việt để nhờ can thiệp. Ban Đại diện người Việt liền báo cho phòng An ninh P3V để nhờ họ phân xử vì chủ tiệm là người địa phương. Phòng an ninh P3V không xử và ban Đại diện người Việt cũng đành chịu lép, không giúp được. Tức mình vì nghĩ đã bị xử ức, thuyền nhân nầy liền đến gặp phòng Nhân quyền của Cao Ủy và trình bầy vụ việc của mình. Các nhân viên phòng nầy đã liên lạc với phòng An ninh P3V và chỉ ít ngày sau thì họ thông báo cho ban Đại diện người Việt là gã chủ tiệm đã chịu đổi lại đôi dép khác. Người trong trại nói phòng Nhân quyền Cao Ủy can thiệp vì anh ta là người tị nạn, đến Galang trước ngày đóng cửa và còn kẹt ở lại trại để trị bệnh lao.

    Chuyện thứ hai là có 2 anh em ruột người Việt khác cũng đến trại trước ngày đóng cửa. Người anh đã trên hai mươi còn người em thì khoảng 9 tuổi. Một hôm, người em mất tích khi đi vào rừng nằm mé sau căn chòi họ sống. Tên của anh em họ lại có trong danh sách những người sẽ đi định cư ở Pháp trong chuyến bay vào 3 tuần lễ sắp tới. Không thấy em mình đâu và sau ít ngày tìm kiếm ở các nơi quen biết mà không ra thì người anh liền báo cho phòng Định cư Cao Ủy biết về vụ mất tích. Biết tin đó, Cao Ủy báo ngay cho phòng An ninh P3V để làm một cuộc tìm kiếm trong tất cả các khu rừng trên đảo Galang. Cao Ủy cũng thông báo sẽ thưởng 500 đô la Mỹ cho bất cứ nhân viên An ninh P3V nào tìm được... xác người em vì họ nghĩ là đã chết. Đám nhân viên phòng An ninh P3V khoanh từng vùng rừng một và dàn hàng ngang lục lọi các bụi rậm để mong tìm thấy mà lãnh tiền thưởng. Galang chỉ là một hòn đảo nhỏ vì chiều dài và chiều rộng chỉ khoảng 3 hay 4 km nên sau hơn một tuần lễ thì đám nhân viên An ninh P3V đã quần nát mọi chỗ. Họ chỉ tìm được đôi dép của người em bỏ lại trên bờ cát của một chỗ khuất vắng sát với biển. Không thấy thi thể, vậy người em biến đi đâu? Phòng An ninh P3V cho là có lẽ người em đến chỗ bỏ lại đôi dép thì đã bị rắn độc cắn chết và sau đó thì thi thể bị thú rừng ăn mất sạch. Nhưng thú rừng ở Galang như heo rừng, kỳ đà... nếu có ăn thi thể người em thì cũng phải còn lại các mảnh xương hoặc quần áo. Phòng An ninh P3V dùng các xuồng máy chạy lùng sục dọc theo cạnh đảo khi nghi ngờ là người em đã chết đuối lúc tắm biển một mình nhưng cũng không thấy vết tích gì. Sau cùng khi đến kỳ hạn thì người anh đành phải rời trại đi định cư một mình mà không biết đích xác về tung tích của em trai. Không ai biết số phận của người em đó cho đến mãi mấy năm sau khi trong trại xẩy ra một vụ bắt cóc 2 đứa trẻ Việt khác ở Galang 1 thì mọi người mới giải thích được lý do mất tích này.

    Rõ ràng, Cao Ủy chỉ bảo vệ quyền lợi của những thuyền nhân đã được họ công nhận là tị nạn. Đó là trách nhiệm của họ. Thuyền nhân tạm dung, nó nằm lưng chừng giữa khái niệm phân biệt người tị nạn hay là di dân vì kinh tế. Thông thường khi đàn ông, thanh niên sống xa quê hương mà có chút tiền thì chuyện tụ họp nhau gầy sòng nhậu nhẹt là việc bình thường. Ở Galang cũng vậy nhưng rủi nhậu say mà đánh lộn với nhau mà để police bắt gặp có thể còn bị đánh, bị bắt nhốt ở chuồng cọp nữa. Nếu cá nhân người đó là thuyền nhân tạm dung thì có khi còn bị nhân viên phòng An ninh P3V ép phải ghi danh hồi hương về lại Việt Nam.

    Đã sắp sửa đến Tết ta, ban Đại diện các zone bắt đầu cho dựng cột nêu cùng làm các bàn thờ tổ quốc ở các lối đi chính trong trại. Một số thuyền nhân làng pháo bên quê nhà đã làm các dây pháo chùm thật to cho ban Đại diện để treo trên cột nêu. Có người bàn nhau vào rừng kiếm lá chuối hoang để gói bánh hoặc thử tìm mai rừng mang về chưng Tết. Một buổi tối, Đỉnh không đi ra quán cà phê của bác sĩ Luân chung với tôi, Yến, Bẩy cùng anh chị Khảm-Phượng mà lại đi đâu đó cùng với Ánh Diễm. Ngồi ở quán nói chuyện về Ánh Diễm và Đỉnh mà thực sự đám chúng tôi không hiểu mối quan hệ giữa 2 người họ bây giờ đã đến đâu. Cho đến khi về lại barrack để ngủ thì nó cho biết là sang năm mới Ánh Diễm cùng với một người quen sẽ sang lại một tiệm bán tạp hóa tại Galang 1.

    - Bả (Đỉnh có lúc gọi Ánh Diễm là bả) nói vì sẽ phải ở đây lâu nên mới sang tiệm để buôn bán kiếm thêm chờ tới lúc thanh lọc tính sau. Em sẽ lo việc chạy hàng hóa cho tiệm, họ bàn vậy.

    Ánh Diễm tính như vậy kể cũng được. Cũng ở quán cà phê bác sĩ Luân thì ông cho chúng tôi biết tin là xưởng workshop nhận lệnh của nhà thầu đóng gấp cả chục băng ghế gỗ để dùng cho người nhận kết quả thanh lọc. Như vậy, tin đồn Cao Ủy sẽ công bố kết quả thanh lọc vào đầu năm mới cũng khả tín. Thuyền nhân thanh lọc từ tuốt năm ngoái và chờ mãi để mong Cao Ủy công bố kết quả, nay nghe tin này thì họ lại lo lắng vì không biết con số người đậu người rớt sẽ được tỉ lệ bao nhiêu phần trăm. Chúng tôi cũng lo âu như họ. Những thuyền nhân liên can đến chế độ miền Nam VNCH như quân nhân, công chức... hoặc thành phần phục quốc, chống phá CS đều tin tưởng Cao Ủy sẽ công nhận họ là người tị nạn. Cộng Sản chiếm được miền Nam VNCH đã đày ải họ quá mà, trốn khỏi nước để tị nạn thì đúng rồi. Họ vui khi nghĩ đến lúc trong tay cầm được tờ giấy công nhận tị nạn từ nhân viên Cao Ủy. Trái lại, thuyền nhân nào không thuộc các diện này thì tự dưng cảm thấy lo vì thân phận của mình có lý lịch quá... yếu.

    Lo âu nhất là những người có liên hệ với chế độ Cộng Sản đang cai trị bên quê nhà như đảng viên, công an, công nhân hoặc bộ đội. Người trong trại cũng biết đến họ nhưng hầu như ai cũng nói:

    - Đám đó mà tị nạn cái gì... cũng chẳng nên lo vì có bị Cao Ủy đánh rớt thì họ hồi hương về Việt Nam sẽ gặp lại đồng chí thôi. Đời có vay thì có trả chứ. Vậy mới công bằng.
    (còn tiếp)

  5. #34
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Riêng cá nhân tôi vì chuyện thanh lọc còn xa nên vẫn tà tà 2 buổi đi làm ở phòng Dịch thuật. Một buổi trưa khi ở lại về sau cùng thì tôi gặp một người đàn ông dừng xe đạp ngay phía bên ngoài phòng dưới hàng cây tràm bông vàng. Ông ta bước vào phòng và chào tôi rồi nói:

    - Tui muốn dịch các tờ giấy nầy, xin anh giúp giùm.

    Đón xấp giấy tờ từ tay người đàn ông, tôi mở ra xem và ghi vào quyển sổ nhận hồ sơ chờ dịch. Khi kiểm lại số giấy tờ trước khi cất vào tủ, liếc nhìn chỗ ghi can tội trong Giấy Ra Trại thấy hàng chữ đánh máy: Di tản ra nước ngoài và xâm nhập Việt Nam bất hợp pháp bằng tàu Việt Nam Thương Tín thì tôi hỏi ông:

    - Ô! Ông là người trở về trong chuyến tàu Việt Nam Thương Tín đó hả?

    Người đàn ông gật đầu. Tôi đi về cùng với ông và hỏi chuyện con tàu hồi hương nổi tiếng năm đó thì ông kể:

    - Anh biết là khi sang được tới bển mới chỉ vài tháng trời mà tụi tui đã có người đòi về. Biết tụi tui nhớ nhà, tụi Mỹ trong trại mang phim chiếu cảnh người người chen chúc nhau ở bến xe đò chở đi vùng kinh tế mới và các chỗ tập trung dân đào kênh thủy lợi dẫn nước làm ruộng cạnh lá cờ Đỏ sao Vàng hoặc cờ Việt Cộng nửa Xanh nửa Đỏ cắm trên bờ đất với mục đích để tụi tui coi các phim đó xong sẽ sợ, sẽ từ bỏ ý định quay trở về Việt Nam. Nào ngờ, xem các phim đó rồi thì tụi tui càng nhớ nhà thêm. Nhiều người muốn trở về quê nhà quá nên họ họp nhau lại và làm dữ với bọn Mỹ. Tui còn nhớ cái ông gì người Bắc có tướng thấp lùn từng làm dân biểu Hạ Nghị Viện là kêu gọi nhiều người hồi hương nhất. Làm reo dữ nên bọn Mỹ đành phải chiều ý tụi tui, cấp cho cái tàu khá lớn để về lại Việt Nam.

    - Có ai đổi ý không ông và được bao nhiêu người về cả thẩy? Tôi hỏi.

    - Có chứ anh. Người đàn ông gật đầu rồi tiếp:

    - Có người vào phút cuối đã đổi ý không về nữa và số người trở về thì tui không nhớ rõ con số vì lâu quá rồi anh, thời gian mà... Nó làm mình cũng không còn minh mẫn như hồi trẻ... Hình như trên dưới 1500 người gì đó.

    Tôi và ông ta đi song song bên nhau trên con đường trưa dịu nắng. Một lát thì ông nhìn tôi và tiếp:

    - Tụi Mỹ cho làm một ngã 3 ngay tại con đường dẫn xuống gần chiếc tàu. Nếu trong tụi tui ai đi đến ngã 3 này mà đổi ý không muốn trở về thì cứ rẽ sang đường khác và quân cảnh Mỹ đậu xe chờ sẵn sẽ đón đưa trở lại về trại nhưng là một trại khác. Có lẽ họ muốn tránh chuyện lôi thôi hay giữ sĩ diện cho người đó. Còn ai vẫn muốn về thì cứ đi thẳng con đường để xuống chiếc tàu. Tui thì vì mẹ già mới về còn những người khác thì lo cho gia đình vợ con kẹt ở bển hoặc đổi ý vì muốn sống ở quê nhà hơn ở xứ người. Kết quả là về tới Việt Nam rồi thì bị bọn Việt Cộng bắt bỏ tù hết ráo.

    - Khi đó là ngày nào, tháng nào vậy? Tôi hỏi tiếp.

    - Tháng 10 trong năm 75... Hình như đâu ngày 16 hay 17 gì đó. Lâu quá rồi mà tui cũng chẳng rõ lắm.

    - Ban nãy khi coi giấy ra trại, tôi thấy ghi chữ Tập Trung Cải Tạo vậy ông bị Cộng Sản bỏ tù bao nhiêu năm thì mới được thả?

    - 8 năm 2 tháng đó anh.

    Rồi ông chua chát tiếp:

    - Mà cũng lỗi tại mình, tự dưng đưa đầu vào tù Cộng Sản. Có cái an ủi tui còn may mắn hơn những người khác về chung trong con tàu đó là khi được bọn nó thả tự do thì còn lành lặn chứ có người đã phát điên sau khi vào trại tù mới có vài năm. Anh biết tui là người miền Nam, nghĩ dù sao thì bọn Cộng Sản với phe Quốc Gia bên mình cũng người Việt da vàng máu đỏ với nhau và nhất là hết chiến tranh rồi, còn thù hận gì nữa. Với lại, tự ý tụi tui xin về công khai chứ có phải lén lút xâm nhập để phá phách gì đâu. Vậy mà về để rồi cả đám vào tù. Thiệt hết nói với bọn Cộng Sản, cũng nhờ vậy mà tui đã sáng mắt.

    Đến ngã 3 đường, một hướng rẽ xuống Zone 4 về barrack tôi đang ở. Hướng còn lại thì quay về khu buôn bán Galang 1 và cũng để về Galang 2 thì tôi dừng bước. Nhìn người đàn ông và chưa kịp nói lời chia tay thì ông ta đã hỏi:

    - Anh có bận gì không, nếu không thì mời anh vào quán mình dùng ly nước cho vui. Tui đạp xe tuốt trong Galang 2 ra đây giờ cũng muốn kiếm cái gì uống cho đỡ khát.

    Cả hai chúng tôi vào quán kiếm chỗ và gọi thức uống xong xuôi, tôi nói:

    - Tôi tên Vũ, còn ông?.

    Người đàn ông trả lời:

    - Tui tên Minh nhưng anh cứ gọi là Sáu được rồi.

    Ngồi yên chỗ mới có thì giờ để tôi quan sát ông Sáu. Thân hình ông gầy gò, khuôn mặt đen xạm đầy vẻ khắc khổ. Hơn 8 năm tù cải tạo thì chắc ông phải là một sĩ quan quân đội. Tôi hỏi nhưng ông lắc đầu, nói:

    - Tui chỉ là một cảnh sát viên bình thường thôi nhưng bọn Cộng Sản lại không tin anh Vũ à.

    Rồi ông tâm sự:

    - Tui là cảnh sát ở trạm kiểm tra hỗn hợp ngay lề quốc lộ 1 phía trước nhà máy dệt Vinatexco gần cửa ngõ vào Sài Gòn ở vùng Bà Quẹo-Tân Bình và hướng Hốc Môn-Củ Chi đi lên. Sáng ngày 30-4 khi phòng tuyến tại đây bị vỡ trước hỏa lực quá mạnh của Việt Cộng, tui và ông xếp trạm đã nhanh chân vọt ngay lên một xe gắn máy Honda và chạy thẳng vào nội đô Sài Gòn. Bộ đồng phục cảnh sát đã giúp tui và ông xếp trạm vượt qua được các chốt chặn của binh sĩ miền Nam VNCH trên các đường phố để đến được vùng thương cảng Bạch Đằng. Loay hoay trong dòng người chen chúc đen kịt trên các bờ cảng thì sau cùng tụi tui đã kịp trèo lên được một chiếc tàu nhổ neo chạy ra biển trong những phút cuối.

    - Ô vậy sao! Rồi ông xếp đó có về chung với ông không?

    - Không! Biết tui định về thì ông xếp đã cản nói chú mầy dân Nam Kỳ thì biết gì về Việt Cộng. Về Việt Nam nó sẽ bắt bỏ tù thì khốn cái thân nhưng tui không nghe.

    - Rồi nó bắt thật... Vậy là ông xếp ông nói đâu sai nhưng khi tàu về tới chỗ nào thì mới sa vào tay bọn chúng và sự việc ra sao? Tôi cười.

    - Nếu biết về để bị tụi nó bỏ tù như vậy thì đâu có ai dám về. Tàu vừa mới vào vùng biển Vũng Tàu thì đã bị 2 tàu hải quân tụi nó chờ sẵn đón bắt ngay. Bọn nó lên tàu, bắt mấy ông hải quân mình chỉ dẫn cách sử dụng máy móc rồi chúng tự lái vào cảng Nha Trang.

    Ông Sáu yên lặng, sửa thế ngồi rồi tiếp:

    - Đến Nha Trang thì chúng lùa cả bọn tụi tui vào trại. Bắt mọi người trút bỏ quần áo và phát cho 2 bộ đồ lính trận cũ của mình trước đây rồi nhốt tất cả. Trừ có một đứa nhỏ 7 tuổi thì chúng tha còn thì tất cả người lớn bất kể nam nữ chúng đều bắt khai lý lịch để phân loại. Người nào mà là sĩ quan thì chúng đưa thẳng ra ngoài Bắc luôn.

    - Trời ơi! Có bao nhiêu sĩ quan trên tàu và ai cấp bậc cao nhất, ông còn nhớ không?

    - Năm sáu trăm sĩ quan chứ ít gì anh. Cấp bậc cao nhất là trung tá như ông tên Trụ, thuyền trưởng của con tàu.

    - Rồi khi vào tù thì tụi nó đối xử ra sao. Có phải bị buộc lao động như những người khác không? Còn cái vụ ăn uống chắc có khác biệt chứ ? Dầu gì các ông cũng từ nước ngoài trở về mà? Tôi hỏi dồn.

    - Đó... đó... Cái cưỡng bức lao động khổ sai và cho ăn uống đói khát đó mới làm nhiều người tỉnh giấc vì đã lỡ tin vào lời bọn Cộng Sản chứ không phải riêng gì người quay về như đám tụi tui. Bọn Cộng Sản đối xử tụi tui y như các người bị kẹt lại chứ đâu có khác biệt gì. Ai cũng một củ khoai mì hay cục bột luộc hoặc chén bo bo như nhau thôi. Anh hỏi làm tui nhớ lại khi đó đã bị nhiều anh em trong tù chửi là đang ở bển ăn ration Mỹ, thịt thà cam nho bôm táo ê hề không muốn lại mò về để ăn khoai mì... lao động chết bỏ... Có người vì tức cái ngu dốt hoặc vì thương hại cái ngờ nghệch của tụi tui nên đã sỉ vả nói là tao muốn thoát tay lũ Việt Cộng mà thoát không được. Chúng mày đang bên ngoài yên ổn thì lại tự ý đưa đầu vào rọ... Rồi xem, còn khổ nữa chứ chưa hết đâu. Chúng mày là gián điệp CIA hết cho mà coi... Khi đó, tui không tin lắm lời họ nói dù có chút lo lắng trong lòng nhưng sau nầy mới thấy thật đúng. Ông Sáu cười hiền hậu.

    8 năm 2 tháng tù cải tạo với một cảnh sát viên khi thực lòng quay trở về quê nhà vì lo lắng cho thân nhân và vì nghĩ Cộng Sản dù sao cũng là người Việt cùng chung máu đỏ da vàng. Sao mà độc ác quá vậy hay là thực sự bọn Cộng Sản bỏ tù người đàn ông nầy lâu như vậy vì các lý do nào khác nữa? Tôi nói những thắc mắc của mình thì anh Sáu gật đầu, tán đồng:

    - Biết tui là cảnh sát viên nên bọn chúng nghĩ mình được chính quyền Mỹ đào tạo cấp tốc rồi gửi trà trộn trong số những người về để hoạt động gián điệp. Anh biết là tui đã phải khai đi khai lại cho bọn chúng nghe về cái lý lịch của mình đó.

    Ký ức tôi nhớ lại những tờ báo trong nước ở thời kỳ đó loan các tin về con tàu Việt Nam Thương Tín như: " Người bị ép di tản đòi chính phủ Mỹ phải cho họ được trở về đất mẹ ". Khi con tàu về đến Việt Nam rồi thì báo chí không còn đăng thêm các tin tức gì nữa. Không ai khi đó biết số phận của những người trở về ngoại trừ những thân nhân ruột thịt hoặc các bạn đồng tù. Tôi cũng vậy, cũng sẽ không biết số phận những người di tản trở về năm đó nếu như hôm nay không gặp được ông Sáu.

    Tôi ngồi khá lâu trong quán nước để nghe ông Sáu kể thêm về quãng thời gian sau khi được thả tù rồi những khó khăn trong đời sống hàng ngày đã khiến ông phải tìm cách vượt biên. Phải mất bao nhiêu công sức cùng thời gian và tiền của thì mới đến được trại tị nạn mà giờ đây lại có cái vụ thanh lọc. " Không biết có qua được không nữa ", ông Sáu ưu tư:

    - Tui... bây giờ có nỗi lo khác nữa là nếu mình may mắn mà qua được thanh lọc thì rồi không biết có vào Mỹ được không. Hồi đó, trước khi xuống tàu Việt Nam Thương Tín quay về Việt Nam thì người Mỹ coi trại đã nói hễ tụi tui quyết định trở về thì sau nầy sẽ không được họ cho phép vào Mỹ nữa đó anh. " Các ông về tới nơi chắc chắn sẽ bị Cộng Sản bỏ tù rồi cũng phải vượt biên ", họ nói vậy thấy thực đúng. Không đi được Mỹ thì cũng tiếc mà nếu có đi Canada hay Úc cũng chẳng bằng đi Mỹ.

    Lời bộc bạch của ông Sáu làm tôi nghĩ về anh Khảm cũng như người phi công phản lực cơ F5. Họ đều bị chế độ Cộng Sản bên quê nhà ngược đãi bỏ tù nhiều năm trời thì chắc chắn nay mai họ sẽ qua được thanh lọc dễ dàng. Ở đời, hễ có vay thì có trả. Một quy luật tự nhiên. Giờ đây, mối lo lắng của họ chính là sau khi cầm tờ giấy Cao Ủy xác nhận là người tị nạn thì đừng bị phòng JVA Hoa Kỳ tại trại từ chối. Lý lịch của họ chắc ăn quá. Còn tôi, bản thân thì chưa là lính miền Nam VNCH ngày nào. Có bị Cộng Sản bắt tù thì toàn là tù do chuyện vượt biên. Tôi ngồi im lặng, nghĩ về cá nhân mình cũng như về Yến, Đào, Bẩy và Đỉnh. Đám chúng tôi còn quá trẻ khi bọn Việt Cộng chiếm được miền Nam VNCH. Làm sao để chứng minh cho luật sư Cao Ủy cũng như với sĩ quan Bộ Nội Vụ Indo biết mình là người bị chế độ ngược đãi đây? Đi Mỹ hay đi Canada, Úc hay bất kỳ nước Âu Châu nào cũng được miễn là đừng bị gửi trả về Việt Nam. Tôi thở dài, bắt tay từ giã khi ông Sáu dắt chiếc xe đạp ra khỏi quán nước.

    Tôi đi bộ xuống con dốc hướng về barrack. Ngó đồng hồ tay đã hơn 2 giờ rồi. Hôm nay tôi về barrack trễ quá. Cảm giác đói bụng khiến tôi bước vội chân. Thế nào Yến cũng trách tôi đi làm thiện nguyện gì mà tới giờ mới về như nàng đã từng cằn nhằn:

    - Anh phải lo cho thân anh nữa chứ. Không ăn uống điều độ rồi đổ bệnh thì Cao Ủy nào lo cho anh. Làm thiện nguyện không lương nên làm vừa vừa thôi.

    Barrack buổi trưa thật im ắng không một tiếng người trò chuyện, tôi khẽ rảo chân bước nhẹ về phòng mình. Gió thổi mạnh làm lay động những tấm lá dừa nước trên mái tạo ra những tiếng lách cách nhè nhẹ. Gió mát làm nhiều người ngủ ngon hơn trên các tấm võng căng đây đó trong barrack.

    Lẩm nhẩm vậy mà đến gần Tết ta lúc nào không hay. Yến, Bẩy bàn nhau sẽ gói ít bánh tét, bánh chưng để ăn trong mấy ngày tết cho vui nhưng kẹt một cái là kiếm không ra lá chuối hay lá dong để gói bánh. Muốn có lá chuối thì chỉ có cách chịu khó lội vào rừng kiếm lá chuối hoang hoặc mạo hiểm vào tận Galang 4 để hỏi mua lá chuối của người bản xứ nhưng cũng ít người dám đi vì phòng An ninh P3V cấm thuyền nhân tiếp xúc với đám người Indo nầy. Họ là tàn dư của đám Cộng Sản Nam Dương trong cuộc thanh trừng sau đảo chính năm 1965. Thấy gói bánh khó quá, tôi bảo với 2 cô gái không có lá chuối thì thôi bọn mình đừng để ý đến bánh chưng bánh tét làm gì cho mệt thân... Có thì ăn, không thì thôi. Yến nói:

    - Em tính mua thịt làm giò thủ và muối dưa củ hành đỏ để mình có cái ăn trong ngày 3 ngày Tết cho vui. Cũng chẳng tốn kém gì nhiều.

    Như đã kể, Yến là người Bắc nên vẫn giữ cách làm món dưa củ hành đỏ cùng giò thủ để ăn trong các ngày Tết. Còn Bẩy thì nói sẽ nấu món thịt heo kho tàu và làm chút dưa giá để ăn cho ngon miệng. Đây là các món của người miền Nam. Đỉnh thì bảo hôm đó mình phải nhậu lai rai chút chút cho vui nha anh Vũ. Tự nhiên tôi nhớ đến mẹ tôi bên quê nhà năm nào cũng làm các món này. Gia đình tôi chỉ thờ ông bà và trên bàn thờ ngày Tết năm nào cũng có một mâm trái cây để cúng tổ tiên nhất là trong đêm giao thừa. Mẹ tôi vẫn thường đích thân nấu hẳn một mâm cỗ gồm các món mặn như giò chả, thịt gà, canh miến, bánh chưng... để cúng, cầu xin tổ tiên độ trì cho gia đình. Gần Tết, bên quê nhà hẳn rất vui vì cứ lấy khung cảnh trại tị nạn để so sánh thì cũng biết.

    Tuy không rõ người Indo Hồi giáo có ăn Tết ta như người Việt hay chỉ thuần Tết tây dương lịch nhưng rõ ràng, các chủ tiệm người bản xứ cũng biết chiều theo thị hiếu sắm tết của thuyền nhân mà cho chở thêm hàng hóa đến bán trong trại. Không có vụ họp chợ bán hàng Tết như bánh mứt, dưa hấu hoặc cây kiểng, mai vàng như bên quê nhà nhưng một không khí chờ ngày Tết đến thoang thoảng trong... gió, qua hình ảnh người người dọn dẹp chỗ sống của mình cho gọn sạch cùng điệu nhạc Xuân từ các hàng quán bán ở hai bên đường.

    Đêm giao thừa đến, những thuyền nhân có máy thu thanh đã mở thật lớn để cùng nghe các bài chúc tết phát ra từ đài truyền thông Việt như BBC, VOA... Một tay phóng viên nào đó đã đọc một bài viết về ngày tết trong các trại tị nạn.

    - ... Giờ phút này, xin quý khán thính giả hãy bỏ chút tâm tư để nghĩ đến các thuyền nhân đang sống vất vưởng trong các trại tị nạn. Hãy nhớ và cầu nguyện một sự an lành, may mắn sẽ đến với họ trong năm mới, những con dân Việt tha hương như người lính chiến trấn thủ lưu đồn ở vùng biên địa.

    Bài đọc đó kết thúc bằng ca khúc xuân bất hủ Ly Rượu Mừng đã làm tôi chảy nước mắt khi nhớ về gia đình bên quê nhà. Tết đến thật rồi.

    Ngày mùng Một đến, từ sáng sớm tôi theo chân Yến đi lễ nhà thờ cho vui. Đây là lần đầu tôi đi với nàng đến nhà thờ nằm tuốt luốt trên ngọn đồi khá cao. Đỉnh, Bẩy và Ánh Diễm thì kéo nhau đi chùa Quan Âm nằm trên đường ra hướng cầu tàu và cũng ở trên đỉnh một ngọn đồi. Sau đó, nghe nói cả 3 người họ còn vào chùa Kim Quang trong Galang 2 nữa. Tan lễ đạo, tôi và Yến đi ăn sáng xong rồi gặp anh chị Khảm-Phượng để chúc tết.

    - Hai em thì mới có một cái Tết đầu tiên ở trại còn anh chị thì lần thứ hai rồi. Chẳng biết Tết năm tới sẽ mừng xuân ở nước nào đây. Cầu mong là ở Hoa Kỳ, xin được như nguyện, anh Khảm cười vui sau câu nói.

    Chị Phượng sau khi chúc cho tôi và Yến được... đậu thanh lọc thì bảo:

    - Hôm nay đầu xuân, mời hai em đến ăn cơm với anh chị cho vui. Cũng chẳng có gì ngoài ít thịt thà, xôi chè cho có trong ngày tết.

    Trên đường về barrack, tôi lấy tay chỉ cho Yến thấy một người đàn ông đứng dưới giàn bầu đang giơ cái chân gà đã luộc chín để xem mà đoán vận hạn trong năm mới. Nhìn ông ta làm tôi nhớ đến buổi tối mấy hôm trước khi ngồi ở quán đã nghe anh Khảm nói là ở Galang coi vậy mà có nhiều người tài. Như ông cụ Hoàng sống ở zone 1 biết đoán vận hạn người chỉ qua một nhành lá nhỏ bẻ ngoài vườn mang vào nhà cho ông xem. Chính ông cụ Hoàng dặn dò đêm giao thừa nếu ai nghe tiếng loài vật nào kêu đầu tiên thì nói cho ông biết để đoán vận mạng thuyền nhân trong năm mới này. Nội quy trại vẫn 11 giờ là giới nghiêm thì có thể sẽ nghe được tiếng loài vật nào kêu trong giờ khắc tĩnh mịch của đêm giao thừa nhưng trại lại nằm trên đảo có cây rừng đầy thú hoang nên không biết rồi làm sao mà ông cụ Hoàng có thể đoán vận hạn nếu không biết chính xác con vật. Ngang qua cái sân trống cạnh đường gần lối vào khu vực thanh lọc, tôi và Yến thấy một cây cột tròn khá cao đã được dựng ở chính giữa cái sân. Chỗ này thường ngày là nơi đám thanh niên trong trại vẫn dùng để đá banh trong các buổi chiều. Cây cột to cỡ thân cây dừa và được bào tròn trơn láng. Vài người đang đứng sát bên, tay họ vỗ nhè nhẹ vào thân cột, miệng cười lẩm bẩm nói chuyện với nhau. Yến hỏi:

    - Họ dựng cây cột cao thế nầy để làm gì vậy hả anh Vũ?.

    Tôi lắc đầu với Yến rồi nhìn lại cây cột, nghĩ chắc đây là một cột cái của căn nhà nào đó mà ban Đại diện trại đang khởi sự làm. Nhưng cũng không chắc lắm vì cái cột gỗ này nó quá cao nếu để làm nhà. Gần cây cột là một cây nêu cao vút với các dây pháo đỏ to đùng bay phất phơ trong gió. Cạnh cây nêu là một bàn thờ tổ quốc giống như một mái chùa nhỏ với một lư hương cùng 2 chân nến đồng khá to được bày ở bên trong. Làm sao thuyền nhân trong trại có được cái lư hương cùng 2 chân nến đồng này? Không lẽ ai đó đã mang theo chúng khi vượt biên? Khói bay nhè nhẹ từ các thân nhang toả mùi thơm trong gió sớm. Ngay sau lư đồng là một tấm hình vẽ bản đồ nước Việt trên nền cờ Vàng ba sọc Đỏ với hàng chữ: Danh Dự-Tổ Quốc-Trách Nhiệm. Những câu đối mực đen trên nền giấy điều: Thiên Tăng Tuế Nguyệt Nhân Tăng Thọ-Xuân Mãn Càn Khôn Phúc Mãn Đường... Xuân Đáo Xuân Lai Xuân Bất Tận-Nhật Tân Nhật Tỉnh Nhật Vô Tư... được dán trên tấm bảng gần đó. Tôi kéo tay Yến dừng lại để cốt ý xem các câu đối nầy. Người nào đó đã viết những câu đối thật khéo vì thoạt trông thì tưởng chữ Tàu nhưng nhìn kỹ lại là chữ Việt. Chung quanh bàn thờ đầy những chậu hoa Cúc vạn thọ vàng tươi. Có thêm các câu khác không ăn nhập gì đến ngày xuân như: Quốc Thù Vị Báo Đầu Tiên Bạch-Kỷ Độ Long Tuyền Đới Nguyệt Ma. Hai câu kết trong bài thơ Cảm Hoài của Đặng Dung thời mạt Trần đây mà. Chắc ai viết để nói lên chí bình sinh của họ. Vài người chen vào đốt hương làm che mất các câu: Nguyên Đán Tha Hương Đón Tân Mùi-Giao Thừa Đất Khách... Tôi cũng chen vào, đốt vội cây nhang và lầm thầm cầu xin bình an cho gia đình bên quê nhà cũng như bản thân mình ở đây.

    Xong xuôi, vừa quay ra thì Yến vội kéo tay tôi, nói:

    - Giờ vẫn còn sớm, mình đi lòng vòng đây đó một chút cho vui. Coi như đón xuân đầu tiên tha hương há anh.

    Tôi gật đầu và cùng nàng đi tản bộ dọc theo con đường chính của zone 4 về phía dẫn ra cầu tàu Galang. Ngày mùng Một tết trong ánh nắng mai thật đẹp, nhà dân và các barrack nằm dọc theo bên đường đã được quét dọn sạch sẽ từ mấy hôm trước giờ trông thật khang trang trong buổi sớm đầu năm. Yến bảo là nghe nói ở trong Galang 2 tối nay sẽ có văn nghệ tại nhà thờ, chùa và các quán cà phê. Dọc đường ở trước mặt và sau lưng chúng tôi có người đi một mình hoặc trong nhóm 2, 3 tung tăng với nhau trong bộ áo quần mới, đẹp. Có người cầm trong tay bó nhang nhỏ và khi đến cổng chùa Quan Âm thì tất cả họ đều rẽ vào. Họ đi lễ chùa đầu năm.

    Hai đứa tôi vẫn đi... đi tiếp cho đến khi gặp khu vực trại tị nạn của người Khmer thì Yến bảo quay về lối cũ. Về lại khu buôn bán ở Galang 1 thì cả hai vào một quán nước và chọn một cái bàn ngồi quay mặt ra bên ngoài đường. Ngắm người đi qua lại trong ngày mùng Một tết cũng là cái thú đột ngột vì hàng ngày ở trại tuy đủ thứ lo trong trí nhưng hôm nay ai cũng tạm thời quên đi mọi chuyện để cùng vui với mình với người trong ngày đầu xuân. Hầu như ai đi ra đường hôm nay cũng đều mặc quần áo mới trông thật đẹp khác hẳn ngày thường. Hai đứa tôi cũng vậy, Yến mặc chiếc áo dài nàng mới may ở trại còn tôi thì quần đen sơ mi trắng đóng thùng gọn gàng. Bộ áo dài của Yến cùng mầu hồng nhẹ, bằng vải lụa với những cánh hoa nho nhỏ như hoa Cúc thêu nổi gồ lên trên mặt vải ở phần ngực, ở cổ và hai tay càng làm tăng thêm nhan sắc của nàng. Một bức chân dung người tuyệt đẹp! Tôi nhủ thầm. Áo dài của phụ nữ Việt trước giờ chỉ đi chung với quần mầu đen hoặc trắng. Nhưng ở trại tị nạn, phái nữ đã mặc nó chung với quần đồng mầu nên trông lạ và đẹp hơn. Với ai không biết nhưng cá nhân tôi thì phái nữ khi mặc áo dài họ còn trông rất hấp dẫn. Áo dài phụ nữ Việt nó bỏ xa bộ sari của nước Ấn hoặc xường xám cua người Trung Hoa. Tôi ngồi thẳng người lên, chồm đến sát bên Yến và nhìn chăm chú vào khuôn mặt nàng. Khuôn mặt trái soan có gò má hây hẩy hồng, môi đỏ và đôi lông mi đen cong vút. Thấy tôi chăm chú nhìn, nàng thoáng chút bối rối, e ấp nở nụ cười tươi. Trời ơi Yến đẹp quá, hấp dẫn quá... Tôi luống cuống, khẽ nắm lấy bàn tay nàng và thì thào:

    - Yến... Yến ơi!. Em sao đẹp quá vậy. Ở đây, anh thật mừng khi quen thân được em. Ngày đầu năm anh chẳng biết nói gì ngoài lời chúc cho em luôn may mắn và bình an trong cuộc sống.

    Tôi ngập ngừng trong chốc lát, nói tiếp:

    - Xin chúc cho em qua được... cái ải thanh lọc và mau chóng đi định cư nơi xứ người.

    Rồi tôi khẽ bóp nhẹ tay nàng mà Yến vẫn để yên còn thì thầm:

    - Em cảm ơn lời chúc đầu năm của anh. Phần em, trong năm mới nầy, em chúc anh luôn khỏe mạnh, ước gì thì sẽ được nấy và cũng được định cư nước thứ ba như anh đã chúc cho em.
    (còn tiếp)

  6. #35
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Như thường lệ của những ngày cuối tuần, sau bữa cơm tối ngày thứ Bẩy thì Yến và tôi cùng anh chị Khảm-Phượng kéo nhau ra quán cà phê. Tối hôm nay quán cà phê nào cũng đông nghẹt khách nên phải chờ một lát mới có một bàn trống cho cả bọn bốn người chúng tôi. Anh Khảm cho biết cả 2 người họ chưa có tên nhận kết quả trong đợt 300 người nầy và nói thêm:

    - Mấy bạn của anh làm ở phòng thông tin cho biết 300 người đợt nầy từ những chiếc ghe đến trại sau ngày 17 tháng 3 tới giữa tháng 6 năm 1989.

    - Anh nghĩ sẽ có bao nhiêu phần trăm người đậu và người rớt? Nhất là những người liên can đến chế độ miền Nam VNCH. Tôi hỏi.

    - Khó đoán lắm Vũ! Tụi bạn làm thiện nguyện ở phòng thông tin dò danh sách thì đã biết có bao nhiêu cựu quân nhân viên chức VNCH trong đợt nầy rồi và đều cho là tất cả thuyền nhân đó sẽ thắng nhưng anh thì không nghĩ như vậy. Phải chờ ngày hôm đó mới biết hết. Anh Khảm vừa cười vừa trả lời tôi.

    Tôi khẽ gật đầu tán đồng. Y như tôi, anh Khảm đã không nghĩ giống như những người ở phòng Thông tin là vì anh đã nghe những câu chuyện kể của Đoàn Thạnh Nam. Tiếng trò chuyện từ những người ngồi ở các bàn gần bên cho cả nhóm tôi biết là họ cũng đang bàn luận về chuyện sẽ đến trong ngày thứ Hai. Chị Phượng kể chuyện mà chị nghe từ những người trong barrack kể lại là có vài người sau khi biết mình có tên đi nhận kết quả thanh lọc, đã hẹn nhau sẽ đến quán ăn để làm một chầu bia Heineken ngay khi họ vừa cầm tờ giấy kết quả của Cao Ủy từ phòng thanh lọc ra. Mấy người này quả quyết 100% là họ sẽ thắng, chắc chắn thắng không thể nào thua được. Anh Khảm và tôi nhìn nhau không nói nhưng cầu mong những người mà chị Phượng vừa kể đó sẽ được những gì như họ đã nghĩ, đã tin. Bởi vì rủi bị Cao Ủy đánh rớt thanh lọc, họ sẽ thất vọng vô cùng vì đã đã quá tin tưởng về hồ sơ của cuộc đời mình.

    Sáng sớm ngày thứ Hai đến rồi, những quán cà phê ở Galang 1 chật cứng khách trong các dãy bàn. Đa số họ đều từ Galang 2 ra chung với các thân nhân. Sau chầu cà phê, ăn sáng ở các quán thì lần lượt từng người tạm chia tay để đi vào khu vực thanh lọc nơi mà các trật tự viên thiện nguyện đã kê sẵn các băng ghế dài dành cho người ngồi chờ kết quả. Chỉ những người có tên trong danh sách thì mới được vào khu vực này. Đứng trong phòng Dịch thuật, tôi dõi mắt nhìn ra bên ngoài xem các trật tự viên thiện nguyện ngồi tại một cái bàn cạnh ven đường đang dò tên, đối chiếu thẻ ID của những người mới đến. Đó đây, khá đông police Nam Dương trong bộ đồng phục áo tím quần đen cùng giầy saut đứng trò chuyện chung với các nhân viên phòng An ninh P3V gần bên chiếc xe van trắng có sơn huy hiệu Hồng Thập Tự của bệnh viện Galang 2 đậu chờ sẵn. Đúng như lời bác sĩ Luân đã nói cho chúng tôi biết trước đó, xe của nhà thương chực sẵn để phòng những người sẽ ngất xỉu hoặc tự sát khi biết số phận xấu của mình khi nhận kết quả.

    Dù còn xa mới đến lượt bản thân mình mới lập hồ sơ sơ vấn nhưng một mối lo lắng, hồi hộp tự nhiên đến với tôi. Tôi hít một hơi dài rồi thở thật mạnh. Tôi lo chung với những thuyền nhân đang ngồi chờ trong các dãy ghế không xa trước các cánh cửa của dãy phòng thanh lọc.

    Ba trăm người trong danh sách nhận kết quả đã vào ngồi kín trong khu vực chờ gọi tên rồi mà Cao Ủy vẫn chưa thông báo. Đông người ngồi sát bên nhau nhưng ai cũng im lặng và đều chung vẻ mặt lo âu thấy rõ. Đồng hồ chỉ 10:30 rồi, ngoài sân những tia nắng đã nóng hơn trước. Nhiều người đã lấy khăn ra thấm các vệt mồ hôi trên trán. Chợt tiếng một thiện nguyện viên trật tự gọi tên người đầu tiên rồi người thứ hai người thứ ba và người kế tiếp. Bốn người nầy, theo hướng dẫn của các nhân viên phòng An ninh P3V đi từng người vào trong dẫy nhà của phòng thanh lọc. Khoảng khắc trôi qua chóng vánh, 4 người họ quay ra rồi đi thẳng mà không nói không trả lời bất kỳ một câu hỏi nào của những thuyền nhân đang ngồi đang đứng ở gần đấy. Họ đậu hay rớt thanh lọc? Không ai biết! Những người được gọi tên kế tiếp, cả nam lẫn nữ cũng vậy, họ vào lấy tờ kết quả xong ra đi thẳng tuốt bên ngoài luôn. Thấy vậy, tôi liền nói với anh Đinh Vinh:

    - Anh cho phép tôi nghỉ việc buổi sáng nay nha, tôi muốn đi ra phía bên ngoài để xem coi những người vừa rồi đậu rớt ra sao?

    Đi ra khỏi khu vực thanh lọc, một đám đông làm thành một hàng rào người ở ngay đoạn khuất bức tường tole của zone 3 chắn ngay trước mặt tôi. Tôi mỉm cười với những người đứng gần nhất. Thấy tôi đi từ bên trong ra nên có người hiểu lầm khi tiếng ai đó vẳng tới:

    - Sao rồi huynh ơi? Ê! Chả cười kìa! Vậy là chả đậu rồi. Đậu phải không, sao không nói gì hết vậy?

    Nghe vậy, tôi lắc đầu, định cho họ biết là tôi đi ra ngoài đây để xem kết quả xổ thanh lọc thì tiếng một người nào đó trong đám đông nói khá lớn:

    - Chả nầy lắc đầu luôn. Mẹ bà! Nẫy giờ chưa có người nào đậu hết á.

    Tôi nhập ngay vào đám người náo nhiệt, ồn ào này. Quá đông người họ đứng chen chúc tại đây để chờ tin từ thân nhân hoặc vì hiếu kỳ đi xem... đã làm bít kín cả con đường dẫn vào khu vực thanh lọc. Vài người khá lớn tuổi choàng tay vào vai tôi, an ủi:

    - Thôi đừng buồn, đừng buồn nha chú em.

    Họ đã tưởng tôi là một trong số 300 thuyền nhân nhận kết quả của sáng hôm nay. Chợt một ý nghĩ thoáng qua trong trí làm tôi giật mình. Tại sao tôi lại lắc đầu khi nghe người nào đó hỏi tôi câu đậu thanh lọc? Tôi đã vô tình vừa làm một điều gở, làm một chuyện xui xẻo cho mình sáng nay rồi. Ý nghĩ thoáng qua này làm tôi cảm thấy buồn, lo sợ vẩn vơ trong lòng.

    Vòng người lại kích động, đổ dồn lại khi thấy có thêm các người khác từ bên trong đang đi ra. Nhìn mặt tôi, một người đàn ông đứng gần đó tiến đến hỏi nhỏ:

    - Giấy báo rớt thanh lọc của cậu đâu rồi? Làm ơn cho tui xem nó chút coi.

    Một người phụ nữ khác cũng bước đến lắc đầu và mỉm cười vẻ thông cảm, chia buồn với tôi. Tôi liền nói cho 2 người họ biết về mình xong nhập chung với đám đông để xem những người vừa đi ra tới. Không biết có ai trong số họ đậu thanh lọc không nhưng tất cả những người nầy khi ra tới nơi đều lắc đầu, mặt họ buồn so không nói một lời. Một người đứng gần tôi nói giọng miền Nam:

    - Trời ơi! 36 người xổ rồi mà không có mạng nào đậu hết. Rớt ráo trọi.

    Chợt có tiếng còi hụ vọng lại từ bên trong. Mọi người nhìn nhau tuy không nói ra nhưng ai cũng biết đó là tiếng còi của chiếc xe van cứu thương. Vậy là vừa có chuyện gì không hay xẩy ra ở bên trong đó rồi. Đám đông vội dãn rộng tấp vào hai bên lề để chừa ra một khoảng trống giữa đường cho chiếc xe cứu thương đang chầm chậm chạy đến. Xe lướt từ từ qua đám đông người vây quanh trong ánh mắt hiếu kỳ. Nhìn qua ô cửa kiếng, ai cũng thấy 2 nhân viên thiện nguyện của nhà thương đang lúi húi săn sóc một người nằm trên băng ca trong xe. Chiếc xe van cứu thương đó chạy ra tới ngã 3 đầu đường liền quẹo trái và thẳng về hướng Galang 2.

    Tôi nhìn đồng hồ tay, đã là 11:48 phút trưa ngày 4 tháng 3 năm 1991.

    Chiếc xe cứu thương đi rồi thì nhanh chóng, đám đông dồn trở lại khu vực cũ và dõi mắt vào bên phía trong chờ thêm có người sẽ ra tiếp. Nhưng chờ cả mười lăm phút trôi qua mà vẫn chưa thấy bóng ai. Trời bây giờ đã thật nóng, ánh sáng làm chói loà hai mắt người đứng ở ngoài nắng. Có người đã phải bung cây dù ra để che nắng, nhiều người đứng chen chúc nhau trong bóng mát của hàng cây ven đường. Dù vậy, tiếng trò chuyện vẫn lao xao như ở trong một cái chợ:

    - Chưa thấy ai đi ra nữa. Chắc có chuyện gì trong đó rồi?.

    Đám đông đứng chờ vậy cho đến khi chiếc xe cứ thương quay trở lại vào khu vực thanh lọc mà vẫn chưa thấy ai ra tiếp. Tại sao vậy? Hay là thấy có người phải đưa đi cấp cứu nên các sĩ quan phòng An ninh P3V đã cho ngưng việc công bố kết quả? Sẽ xổ tiếp tục trong ngày hôm nay hay dời qua ngày khác? Rồi đã hơn nửa giờ đồng hồ chờ đợi mà vẫn chưa thấy ai đi ra, tôi định quay trở vào phòng Dịch thuật thì có những tiếng nói khá lớn:

    - Xổ tiếp rồi nè. Có mấy người đi ra kia kìa.

    Tôi vội vàng chen vào dòng người đang dồn cục trở lại và cố nhìn về phía con đường bên trong. Lần lượt 3 thuyền nhân đang đi ra trên con đường vắng. Họ đến gần, miệng nở nụ cười rạng rỡ. Tiếng ai đó cạnh bên tôi la lớn:

    - Mấy người này đậu rồi, bà con ơi. Đậu rồi. Trời ơi! Họ đậu thanh lọc rồi.

    Những thuyền nhân đó đến gần nhóm người đang đứng chờ xem, 2 người đàn ông miệng cười thật tươi, đưa ngón tay trỏ lên trời còn chị phụ nữ thì nước mắt ràn rụa.

    - Cái bà này! Đậu thanh lọc tại sao bà lại khóc? Kỳ vậy, phải mừng chứ!.

    Tiếng người nào đó trong đám đông hỏi và rồi ngay sau đó một giọng đàn ông khác trả lời:

    - Đàn bà là vậy đó cha. Khổ cũng khóc mà vui quá, họ cũng khóc... Nước mắt nước mũi tùm lum, có khi thấy mà chán.

    Lần lượt 20 thuyền nhân đi ra đều cầm vé đậu hết. Mặt người nào người nấy rạng rỡ khác hẳn với những người bất hạnh trước đó. Thân nhân của họ xúm lại gần bên, chia xẻ niềm vui chung bằng nụ cười và bằng cả... những giọt nước mắt. Đậu thanh lọc nhưng ai nấy khóc ngon lành, tự nhiên bất kể những cặp mắt của đám đông vây quanh. Giọt nước mắt lăn trên bờ má của họ khác gì giọt nước mắt của những người vừa cầm tờ giấy rớt thanh lọc vẫn đang ngồi hoặc đứng thất thần, vô hồn ở nơi nầy hay nơi kia bên vệ đường, dưới các bóng cây.

    Sau đợt xổ 20 thuyền nhân đậu thanh lọc này thì những đợt ra tiếp sau đó cứ kẻ rớt người đậu ra chung với nhau. Bây giờ thì không cần ai phải cất tiếng hỏi nữa vì chỉ cần nhìn khuôn mặt từng người cầm giấy trên tay thì cũng biết kết quả thanh lọc của người đó rồi. Những người sau cùng còn lại đi ra là đám trật tự viên thiện nguyện thuộc ban Đại diện trại cùng với chiếc xe van cứu thương, xe chở đám phòng An ninh P3V và police Indonesia.

    Đám người đứng xem đã giải tán thưa bớt hẳn. Tôi đi dần ra phía ngoài đường, gặp một nhóm 4 người đứng dưới một lùm cây gần vệ đường đang chuyền tay nhau xem tờ giấy kết quả thanh lọc của một thuyền nhân vừa bị Cao Ủy đánh rớt. Ghé mắt vào tờ giấy, tôi đọc ké vội các hàng Anh ngữ:

    "This applicant's statement of the facts does not substantiate a well founded fear of persecution in the meaning of the 1951 Convention, because he was able to conduct a tolerable life in Vietnam. So, he can not be considered as refugee according to the 1951 Convention."

    Tờ giấy được người vừa xem trả về cho chủ nhân của nó kèm theo lời nói:

    - Mẹ bà nó! Tờ giấy nào cũng phán câu có thể sinh sống bình thường tại Việt Nam. Lính Cộng Hoà mà sao sống yên ổn với bọn Việt Cộng được hả trời! Thanh lọc như vậy là chết cha con người ta rồi.

    Thuyền nhân vừa nhận tờ giấy rớt thanh lọc đó lộ vẻ buồn rầu trên khuôn mặt khắc khổ gầy gò, đen sạm. Ông ta đứng dựa lưng vào thân cây, không nói lên lời khi một người trong nhóm khẽ hỏi ông:

    - Định nhờ ai viết kháng cáo đây anh? Thời hạn Cao Ủy quy định chỉ có mười lăm ngày đó.

    Người đàn ông vẫn im lặng chưa trả lời câu hỏi. Vẻ mệt mỏi, thất vọng hằn trên khuôn mặt, khoé mắt. Ông ta từ từ gấp tờ giấy và đút nó vào trong túi áo, thở dài rồi nói chậm rãi:

    - Tôi buồn quá các anh ơi. Với tôi, hôm nay nó như ngày 30 tháng 4 năm 75 vậy. Một lần nữa người Mỹ lại phản bội, bỏ rơi đồng minh miền Nam VNCH mình. Thôi mình đi về đã, việc kháng cáo sẽ tính sau.

    Tôi gật đầu đồng tình, tỏ ý chia tay với ông ta cùng những người đứng chung quanh trước khi bỏ đi. Nhưng đi được vài bước thì tự dưng tôi quay lại nhìn. Ông ta lê từng bước chân chầm chậm, nặng nhọc như người có cố tật. Không đúng! Hình như trong đôi giầy cũ của ông nơi bàn chân phải chỉ còn một nửa. Ông là người tàn phế? Một thương phế binh của chế độ miền Nam VNCH. Trời ơi!

    Ở ngã 3 đầu đường vẫn còn từng nhóm người đứng bàn bạc với nhau. Tiếng trò chuyện qua lại. Bao nhiêu người đậu người rớt trong ngày hôm nay? Chưa ai biết rõ con số nhưng chắc chắn người rớt thì phải nhiều hơn rồi. Bàn thờ Tổ Quốc ngày xuân vẫn còn đó với những câu đối, cây nêu cùng giây pháo đỏ bay lất phất trên cao. Chỉ mới vài tuần lễ đây thôi thì ai cũng hy vọng một niềm vui mới sẽ đến trong năm mới qua hình ảnh ngày Tết với bàn thờ Tổ Quốc, cây nêu, trò chơi trèo cột bôi mỡ lấy thưởng và ở các câu chúc tụng với nhau. Thế mà! Tuy chưa biết rõ chính xác con số người đậu rớt nhưng ai cũng thấy rõ là người cầm vé đậu thật ít so với người bị Cao Ủy bác đơn tị nạn. Sự việc chỉ xẩy ra trong buổi sáng nay thôi mà đã làm mọi người có mặt phải choáng váng, khó mà giữ được sự an ổn trong tâm hồn.

    Đi ngang qua các quán nước, nhìn khuôn mặt đỏ vênh vang của những người đậu thanh lọc đang chiêu đãi bạn bè bên các lon bia Heineken tự nhiên tôi thấy họ đáng ghét làm sao. Tôi đã ganh tị với niềm hạnh phúc của họ? Vô lý quá nhưng rõ ràng, những người ăn mừng nầy đang khoét thêm vết thương của các thuyền nhân vừa bị Cao Ủy đánh rớt thanh lọc.

    Mãi đến khi gặp lại anh chị Khảm-Phượng tại quán cà phê trong buổi tối thì mới biết tổng số người đậu thanh lọc hôm nay.

    - 81 trên 300 hồ sơ, như vậy tỉ lệ chỉ là 27%, anh Khảm nói.

    Con số quá ít so với sự suy nghĩ của nhiều người trong trại. Anh Khảm tiếp:

    - Số người rớt có cả cựu quân nhân, cảnh sát của chế độ miền Nam VNCH nữa. Hiện chưa biết rõ tất cả những người bị out thuộc loại gì chỉ biết có khá nhiều người được Cao Ủy phát giấy đậu là vì có vợ hay chồng đang sinh sống ở nước ngoài nào đó. Đau nhất là chiếc ghe vào Galang ngay trong đêm 17 tháng 3. Tất cả người trên ghe đó đều bị Cao Ủy đánh rớt sạch không được lấy một người đậu.

    Anh Khảm kể cho tôi và Yến nghe câu chuyện của 2 chiếc ghe cùng đi vào vùng biển Indonesia trong ngày 17 tháng 3 năm ngoái. Hôm đó vì trời đã tối trông không rõ đường và vì sợ gặp phải đá ngầm nên một trong hai chiếc đã quyết định bỏ neo nằm lại, chờ hôm sau sẽ đi tiếp cho an toàn. Điều đó đúng vì dầu sao cũng đã sắp đến được Galang rồi thì vội gì. Đoàn chúng tôi cũng đã phải quyết định giống như vậy khi ghe gần bị kẹt trên một bãi cạn. Chiếc kia, lầm lũi mò đi liều trong đêm tối và đã đến được trại tị nạn Galang trước nửa khuya ngày hôm đó. Vì đến trại kịp lúc nên tất cả người trong ghe được Cao Ủy coi là người tị nạn và họ đã lên đường định cư ở nước thứ 3 khá lâu rồi. Chiếc ghe còn lại, mờ sáng hôm sau khi đến được đảo Galang thì đã bị phòng An ninh P3V cho biết họ sẽ phải bị thanh lọc vì đã đến sau ngày Cut Off Day nầy. Đến trễ nên đành phải chờ thanh lọc và ai cũng nói đó là chiếc ghe bất hạnh và hôm nay điều đó đã thật đúng. Chỉ vì đến sớm đến trễ cách nhau có vài tiếng đồng hồ thôi mà số phận thật khác biệt. Anh Khảm nói thêm:

    - Hồi sáng nay vì thấy có người bị xỉu khi cầm giấy rớt nên phòng An ninh P3V đã cho ngừng xổ cả hơn nửa giờ đồng hồ để chúng bàn bạc riêng trong phòng với nhau. Sau đó thì mới cho ra một loạt cả hàng chục người đậu thanh lọc rồi lại xổ xen kẽ giữa người đậu người rớt chung với nhau. Tụi thiện nguyện viên trật tự cho anh biết như vậy đó. Tụi phòng An ninh P3V nầy đánh vào cái tâm lý của thuyền nhân mình khi thấy một loạt nhiều người vào phòng rồi cầm giấy đậu đi ra nên ai lúc đó cũng mong cũng nghĩ mình sẽ là một trong số họ nên tinh thần bớt căng thẳng liền. Vũ thấy sau đó xe van cứu thương đâu phải chở ai đi cấp cứu thêm nữa đâu.

    Tôi gật đầu với anh Khảm và kể lại chuyện đã thấy đoạn văn kết luận trong tờ giấy rớt thanh lọc của người cựu quân nhân VNCH lúc sáng. Anh Khảm nói thêm:

    - Trong số ghe xổ thanh lọc sáng nay, ngoài chiếc ghe bất hạnh vừa nói cho em nghe còn có chiếc chỉ đậu duy nhất một người thôi. Giờ thì ai cũng sợ hết còn nói cứng chắc ăn nữa.

    Những ngày kế, gạn lọc từ những nguồn tin từ các nhân viên thiện nguyện, từ phòng làm thẻ ID của P3V thì tôi được biết những người cầm vé tị nạn có lý lịch như sau: Người có chồng hoặc vợ đang định cư tại một nước thứ 3, tu sĩ, quân nhân-viên chức của chính quyền miền Nam VNCH từng bị Việt Cộng bắt học tập cải tạo, đảng viên các đảng phái hoặc hoạt động phục quốc sau ngày 30-4-1975 và đã từng bị bắt bỏ tù một thời gian từ 3 năm trở lên.

    Hết Quyển Một

    ***

    Last edited by khieman; 06-29-2014 at 01:20 AM.

Trang 4 / 4 ĐầuĐầu ... 234

Chủ Đề Tương Tự

  1. Muốn con hay chữ phải... “chiều” thầy cô
    By duyanh in forum Văn Hóa - Văn Nghệ
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-26-2014, 11:42 AM
  2. Thảm Họa Động Đất Sóng Thần Ở Nhật Bản Năm 2011
    By giavui in forum Audio Khoa Học Xã Hội
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-11-2014, 03:09 AM
  3. Làng quê dậy sóng vì con dê mang khuôn mặt người
    By hailua in forum Chuyện Lạ Đó Đây
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-27-2013, 03:45 AM
  4. 80 tuổi vẫn phải làm ruộng để nuôi các con tâm thần
    By duyanh in forum Mảnh Đời Nghiệt Ngã
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-13-2013, 01:09 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •