.
Một bia mộ
cho dòng văn học đô thị
tranhoaithu / November 14, 2013
Cụm từ “văn học đô thị miền Nam” không phải có sau 1975. Nó được xuất hiện truớc 1975, từ những cây bút nhận định phê bình miền Bắc hay từ nhũng đặc công văn hóa như Vũ Hạnh, Lữ Phương. Nó đồng nghĩa với “văn học nô dịch”, “văn học đồi trụy”, “văn học hiện sinh”, “văn học thực dân kiểu mới”, “nọc độc văn hóa”. Nó là một mũi dùi trong số những mũi dùi tiến công mà cấp lãnh đạo miền Bắc tận dụng trong mục đích thôn tính miền Nam. Nó cũng là cái cớ ngay sau tháng 4–1975, để cả một nền văn học miền Nam bị truy diệt tận gốc, sách vở bị đốt hủy tận tình.
Chỉ cần google “Văn học đô thị miền Nam”, ta có thể hiểu tại sao lại có sự đồng nghĩa ác nghiệt này. Người viết này khỏi cần nhắc lại. Nhắc lại cũng thừa. Bởi ai cũng biết. Và hầu như trong trái tim của mỗi người đều có những vết chém, vết cứa rỉ máu khi nhớ lại những rừng sách vở chìm trong lửa ngọn…
Mãi đến những năm gần đây, thực chất của nền văn học miền Nam trong thời chiến kia mới được các nhà phê bình, nhận định thuộc thế hệ trẻ sau này nhìn lại với một cái nhìn quay 180 độ:
“…đến thời điểm này chúng ta vẫn chưa hiểu và khai thác hết cái di sản văn học nghệ thuật nói chung hay thơ ca nói riêng của cha ông ở “khu vực” mà các nhà nghiên cứu hiện nay vẫn gọi đó là “văn học đô thị miền Nam” những năm đất nước còn bị chia cắt (– một di sản văn học được đánh giá là rất phong phú và đa dạng). Trong cái nhìn cầu thị và chân thành nhất, riêng ở chỗ này chúng ta cũng lại chưa kịp hiểu hết những tâm tư, tình cảm, những trăn trở của cha ông ta trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc trên dãy đất hình chữ S thống nhất. Một lần nữa, có thể nói, chúng ta vẫn chưa kịp hiểu hết cha ông mà đã vội hát câu“ví dầu tình bậu muốn thôi/bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra” rồi.”
(Nguồn Internet: Nguyễn Trọng Bình – Chưa hiểu hết cha ông thì đừng tính chuyện “soán ngôi” thơ ).
Chúng ta không ngạc nhiên trước sự thay đổi quan niệm 180 độ trên. Internet đã mở ra bát ngát và mênh mông kiến thức và tầm nhìn. Những tiếng nói đòi lại quyền được viết, được nghĩ, càng nhiều và càng được lắng nghe. Đám cuồng tín giáo điều đã bị gạt ra ngoài sân chơi. Những tên tuổi mà một thời được đánh bóng, lớp trẻ xem là thần tượng, nay đã bị lột trần cái vỏ giả dối hay hèn nhát. Hoặc qua những lời thú tội ở cuối đời hoặc qua những hồi ký của người trong cuộc. Trong các đại học, những luận án tốt nghiệp về khoa văn, thắp đuốc đi tìm không còn thấy những nhà văn nhà thơ của chế độ mà trái lại là Thanh Tâm Tuyền, là Sáng Tạo, là văn chương đô thị miền Nam. Bằng chứng cho sự thay đổi quan niệm là việc cho tái bản những tác phẩm mà tên tuổi tác giả trước đây được xem là cấm kỵ với chế độ. Tuy nhiên việc cho tái bản vẫn còn dè dặt, dựa vào những tác phẩm mà nội dung thì vô thưởng vô phạt. Chỉ mới gần đây nhất, vào đầu năm 2013, thi phẩm “Ngậm Thẻ Qua Sông” của Phù Hư mới là một hiện tượng lạ. Những bài thơ viết về thời làm lính “Mỹ ngụy” miền Nam, có cả ba-lô nón sắt, với những câu thơ chan chứa tình người, tình yêu quê hương sống núi, tình đồng đội lại được Hội Nhà Văn tp HCM cho phép xuất bản với tất cả những lời ngợi khen nồng nhiệt!
Đây có phải là cuối cùng văn học miền Nam đã khôi phục lại danh dự? Và cũng là lúc cái mà nền văn chương tuyên huấn, chỉ thị đã bị đào thải?
Nhưng vẫn có một thứ không thay đổi. Đó là nhãn hiệu “văn học đô thị miền Nam”.
Hễ nhắc đến văn chương miền Nam là nhắc đến văn chương đô thị. Làm như tất cả đội ngũ người viết văn làm thơ đều được sống ở đô thị, và lấy đô thị làm xúc tác, môi trường để viết. Làm như văn chương miền Nam chỉ quanh quẩn với phòng trà, vũ nữ, ăn chơi, ánh đèn màu, hay bị tiêm nhiễm bởi những triết lý hư vô, hiện sinh, nôn mửa… Làm như văn chương miền Nam chỉ bị bao trùm bởi bóng Sáng Tạo, với Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, hay những ngòi viết nữ như Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trùng Dương, Nhã Ca, Lệ Hằng … chỉ sống và viết ở thành thị?
Ngay cả một người viết về nhận định văn học được xem là thuộc lớp mới tiến bộ là Lại Nguyên Ân cũng đã xem nhà văn đô thị là nhà văn “từng nổi tiếng trong văn học đô thị miền Nam trước 1975”:
“Mươi năm trước, lần đầu tới một thành phố miền Trung, tôi đã tò mò muốn hỏi xem tại thành phố này liệu có còn “nhà văn đô thị” nào (nghĩa là nhà văn từng nổi tiếng trong văn học đô thị miền Nam trước 1975) sống ở thành phố này không? Một cán bộ trong ngành văn hóa nói với tôi theo cách nói suồng sã giữa những người thân quen:
“Không còn ai đâu ông, ai không di tản ra nước ngoài thì cũng đã chạy vào sống ở Sài Gòn rồi. Ông tính, siết con người ta như kiểu tuyên huấn nhà mình thì anh nhà văn cũ nào mà sống nổi ở địa phương?
(nguồn Internet: Mênh mông chật chội, chật chội mênh mông)
***
Vâng, nếu hỏi có nền văn học đô thị không, tôi sẽ không ngần ngại trả lời: Có. Đó là vào những năm của thời đệ nhất cộng hòa (từ 1955-1962) lúc mà con quái vật chiến tranh chưa thật sự vồ chụp miền Nam. Saigon vẫn là nơi dung thân của nhà văn, nhà thơ và nhà nghiên cứu cùng với Báo chí, nhà phát hành, nhà in… Đó là những năm mà Sáng Tạo được mùa. Từ số đầu xuất hiện vào năm 1956 đến số cuối phát hành vào năm 1961 không thấy một từ bom đạn, chết chóc, lửa khói. Trái lại là những cuộc thảo luận văn học nghệ thuật bàn tròn, khi thì 8, khi thì 10, khi thì 12 người. Đông đúc. Náo nhiệt như chợ Tết. Đến nỗi Mai Thảo đã phải dành trang đầu của số đầu tiên để đội vương miện cho Saigon, goi nó là thủ đô văn hóa của Việt Nam.
Như vậy, gọi văn học miền Nam là văn học đô thị thì cũng thấy có lý. Trong khi Mai Thảo xem SG là :
Không còn là chân tay, SàiGòn đã là một trái tim. Những biến cố trọng đại của lịch sử đất nước từ một ngày nào đã chuyển đổi trọng tâm sinh hoạt dân tộc, và Sàigòn đang phát triển, thay thế cho một Hà-Nội đã tàn lụi, đã nghiễm nhiên biến thành một thứ cứ điểm chính yếu quy tụ mọi thiện chí xây dựng và mọi nỗ lực đóng góp của những hoạtđộng, văn-hóa hiện hữu, trên mọi ngành mọi mặt … (1)
Trong khi đó thì Vũ Hạnh dưới bút danh Cô Phương Thảo, một nhà văn mà sau này chúng ta biết là một đặc công văn hóa nằm vùng cũng vẫn xem đô thị là nơi mà văn học có mặt:
“Giữa các cù lao đô thị, giữa các tường phố cao dày rũ bóng ta gặp những văn nghệ sĩ đang đi. Họ đi về đâu ?” (2)
Có nghĩa là dù hoan hô hay đả đảo, văn học miền Nam trong thời bình vẫn là văn học ở thành thị. Ít có nhà văn nào, ở tận đồng tháp mười hay tuốt trên đỉnh núi Trường sơn, hay một vùng quê hẻo lánh viết bài và gởi về đóng góp. Ví dụ Võ Hồng thì ở Nha Trang. Nguyễn văn Xuân thì ở Đà Nẳng… Phan Du ở Huế, Quách Tấn ở Nha Trang. Họ đều sông và viết ở thành thị…Sơn Nam viết về nhà quê, nhưng ông vẫn ở ngay tại Saigon viết lách….Saigon rõ ràng là thủ đô văn hóa. Thành thị, đô thị là nơi trú ẩn của văn học nghệ thuật miền Nam. Độc giả thì cũng vậy. Giới trí thức, có học thì có Sáng Tạo, Hiện Đại, Thế Kỷ 20. Giới ưa chính trị thì có Quan Điểm, Chỉ Đạo. Giới bình dân thì có những tuần báo hay những nhật báo với những truyện ngắn hay truyện dài kiểu feuilleton…
Có nghĩa là người viết và người đọc hầu hết đều ở thành thị,
Lúc bấy giờ, chiến tranh chỉ nghe nói bằng những tin tức không đáng quan tâm. Sáng Tạo vẫn hô hào cổ xúy cho việc làm mới văn học nghệ thuật. Cuộc thảo luận thứ tư đã gây nên nhiều bất bình vì họ đòi thanh toán với thế hệ đi trước, bằng cách từ khước văn học tiền chiến. Kẻ đánh mạnh nhất là Vũ Hạnh, dùng bút hiệu Nguyên Phủ sau đó là Cô Phương Thảo. VH cũng không nương tay một người đã chết: nhà thơ Quách Thoại:
“…Chưa có năm nào - trong khoảng thời gian 6 năm lại đây – nhiều báo văn – nghệ ra đời như thế. Một tờ Sáng Tạo cố gượng ngoi lên sau lần ngã quỵ. đem cái cầu kỳ và sự lập dị làm nền giá – trị của mình. Ngoài những cuộc mạn-đàm trong nhóm về các vấn-đề văn – nghệ không dẫn đến đâu – trừ dẫn đến cái giả-tạo của sự sáng tạo – tờ báo còn tự tố cáo một sự bế- tắc bằng cách phí công phủ nhận văn-nghệ tiền chiến và suy tôn quá đáng một nhà thơ trẻ tầm thường thỉnh thoảng mới tỏ xuất – sắc trong một đôi câu, nhưng nhờ cái chết làm cho tự – ái của những người khen không bị thương-tổn và nhờ cái chết mà chóng . . . hiển thánh trong một tôn giáo chưa tìm đâu ra thần tượng. (2)
Đến nỗi, Mai Thảo phải phản công qua bài viết “ Con đường trở thành và tiến tới của nghệ thuật hôm nay” trên Sáng Tạo số 6 Bộ mới đầu năm 1961. Chưa bao giờ ông lại dùng những lời lẽ hằn học, nặng nề như thế này:
“Những khuynh hướng mới. tồng hợp thành trào lưu tưtưởng nghệ thuật mới, trào lưu đó đang hình thành rực rỡ, đã bắt đầu gây những tác động mãnh liệt sâu rộng trong tâm hồn người sáng tác trong đời sống xã hội, khảnăng xây dựng và hủy phá của nó đang tạo thành mộtđổi mới, một đảo lộn chưa từng thấy trong lịch sửnghệthuật Việt Nam, những khuynh hướng đó có thực là những trạng thái tiêu biểu cho một thứnghệthuật vô luân, xa đọa, phản luân lý đạo đức, vong bản, ngoại lai, phản loạn, nhưbọn bão thủphản tiến hóaởđây đang điên cuồng gào thét, đòi tốcáo trước chính quyền, đòi trừng phạt…, đòi đền tội trước tiền nhân hay không ? Những khuynh hướng đó có thực là hiện thân của một lớp người vô trách nhiệm, vong bản, lập dị, của những tâm hồn điên loạn, những kẻ vọng ngoại, “hiện sinh” bắt chước vô ý thức một trào lưu nghệ thuật suy đồi Tây phương hay không ? Người ta có thể nhân danh một nhà luân lý của một thứ luân lý nào đó, nhân danh đạo đức của một thứ đạo đức nào đó, nhân danh nghệ thuật (cũng được) của một thử nghệ thuật nào đó đề trả lời có. Và để đi xa hơn, lên án, đòi tố cáo, đòi trừng phạt những khuynh hướng đó như những sản phầm tinh thần độc hại, những người chủ trương những khuynh hướng đó như những tội phạm chính trị nguy hiểm cho xã hội và chính quyền. (3)
Làm sao ông biết VH là một đặc công văn hóa nằm vùng, gia nhập Mặt Trân Giải Phóng vào năm 1960 !
Trong lúc đó, chiến tranh bắt đầu gia tăng cường độ. Mức độ xâm nhập người và vũ khí từ miền Bác vào Nam đến mức quan ngại đến nỗi vào năm 1962, Mỹ bắt đầu dùng thuốc khai quang thả xuống đường mòn HCM. Các toán lực lượng đặc biệt Mỹ bắt đầu huấn luyện những đơn vị người Thượng để chống lại sự xâm nhập của bộ đội Bắc Việt qua ngả cao nguyên.
Sỡ dĩ tôi lái qua những tin nóng chẳng liên quan đến bài viết về văn học, không ngoài mục đích chứng minh là chiến tranh đã thật sự bủa chụp xuống miền Nam, ảnh hưởng từng đời sống cá nhân nói chung và văn nghệ sĩ nói riêng. Có nghĩa là chiến tranh đã không từ một ai.
Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Nguyên Sa, Du Tử Lê, Doãn Dân, Lê Tất Điều. Thảo Trường, Tạ Tỵ, Song Linh, Dương Nghiễm Mậu, Viên Linh. Y Uyên…. kẻ trước người sau bị động viên. Có người thì may mắn được ở lại SG tiếp tục viết văn viết báo như Thanh Tâm Tuyền, Du Tử Lê, Tô Thùy Yên, Dương Nghiễm Mậu, Nguyên Sa, Tạ Tỵ… Có người phải mang ba lô về nơi heo hút và tử trận như Dõan Dân, Y Uyên, Hoàng Yên Trang, Song Linh…
Từ đó, từ 1962, văn học thành thị đã thấy rả ra từng mảng. Trong một bài phỏng vấn của tạp chí Khởi Hành. TTT cho biết ông không làm thơ trong 10 năm. (*). Tuy nhiên chúng tôi đã sưu tầm được hai bài thơ liên quan đến cuộc chiến.
Trời còn đêm nay còn mãi mãi
Sao như lệ ướt chưa muốn rơi
Anh ném hồn dong ngoài bãi trận
Mai Hoa Mai Hoa em
(Tặng Phẩm)
…..
Trong hang động vô cùng rét lạnh và cô đơn
Lô cốt thả neo giữa không trung
Trái phá nổ ngậm miệt rừng chồi, hàng dừa nước ven sông ùa sáp tới
Anh bảo: Đừng ngủ em, chống mắt lên, chờ kẻ địch
Đừng ngủ em, trời sắp sáng, đừng ngủ em
Anh trở xuống lẩn vào đám cao ướt sắc vượt đầu
Và lại nghe khúc hát mỏng như tợ sợi rét dăng ngang mặt
- Em ơi, em ơi, ngồi đây anh nhớ em.
(Tuần gác – Văn số 18-1964 – chủ đề thơ văn Có Lửa)
(Bìa của tạp chí Văn số 18 chủ đề “ Thơ văn có lửa”
vào ngày 18-9-1964)
Chúng tôi xin đăng lại Phần Mục Lục của số báo Văn quan trọng này:
- Nguyễn Quang Hiện SỰ ANH HÙNG CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐANG SỐNG 2
- Hoàng Yên Trang MỘT LẦN THÔI CŨNG ĐỦ 6
- Thế Uyên VẤN ĐỀ 7
- Thanh Tâm Tuyền TUẦN GÁC 15
- Tạ Tỵ ĐỒN C.K. 17
- Hữu Phương MÙA BIỂN ĐỘNG 34
- Hoàng Ngọc Liên MŨ ĐỎ TRỜI XANH 40
- Thao Trường DỌC ĐƯỜNG 41
- Tường Linh NIỀM VUI HÔM NAY 51
- Phan Lạc Tiếp NHỮNG NGÓN TAY CỦA BIỂN 53
- Thái Tú Hạp LÒNG MẸ 59
- Duy Lam NỖI CHẾT KHÔNG RỜI 61
- Du Tử Lê TÂM SỰ NGƯỜI LÊN MẶT TRẬN 71
- Thanh Đào GIẤC HỒ 72
- Đỗ Thúc Vịnh NƯỚC ĐỔ LƯNG ĐÈO 73
- J. D. Saligner Trần Đình Phong dịch TẶNG NÀNG ESMÉ, VỚI TÌNH YÊU VÀ LÒNG ĐÊ TIỆN
- H.L. Nguyên Trần HOÀNG HÔN CHIẾN ĐỊA 112
- Nguyên Vũ THƯ CON PHƯƠNG XA 113
- Dương Nghiễm Mậu ĐÊM TÓC RỐI 115
Bạn tìm thử xem: Văn học đô thị ở chỗ nào ?
Tạ Tỵ viết về đồn bót.
Thảo Truờng ghi lại những dặm đường hành quân.
Du Tử Lê thì nói hộ dùm những người lên mặt trận.
Phan Lạc Tiếp thì mang chiến hạm, biển cả, và bất trắc vào văn chương.
Văn học đô thị ở chỗ nào chứ ?
Có thể nói, bìa của tạp chí Văn số 18 này là tấm cáo phó cho một dòng văn học mà phía miền Bắc quen gọi là văn học đô thị bắt đầu từ 1955 và chấm dứt vào 1962. 7 năm có lẽ. Chiến tranh đã tạo nên một thế hệ khác tiếp nối, nhưng cũng tạo nên một giòng văn học khác, lẫy lừng, và tấp nập vô cùng.
(còn tiếp)