Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Khi hai kẻ yêu nhau lúc xa nhau còn nói đến chuyện xa nhau là họ còn nhớ tới nhau.
Léon Tolstooi
Trang 1 / 3 123 Cuối Cuối
Results 1 to 10 of 26

Chủ Đề: Dexter Và Giấc Mơ Hắc Ám

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,707
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Dexter Và Giấc Mơ Hắc Ám

    Dexter Và Giấc Mơ Hắc Ám

    Jeff Lindsay

    Người dịch: Lê Đình Chi





    Giới thiệu nội dung

    Dexter Morgan, một anh chàng đẹp trai quyến rũ, nhưng bên trong vẻ ngoài đẹp đẽ ấy là một bí mật chết người - anh là một kẻ giết người hàng loạt. Nhưng không giống như những tên cuồng sát khác, anh luôn hành động theo một quy tắc vàng: chỉ giết kẻ có tội. Công việc phân tích máu giúp cho anh có thể dễ dàng xác định mục tiêu và cô bạn gái Rita là một vỏ bọc tuyệt vời giúp anh giống như một người hoàn toàn bình thường.

    Nhưng tới một ngày, nhận được cuộc điện thoại từ cô em Deborah, anh tới hiện trường một vụ án mạng mà kẻ thủ ác có cách ra tay gần như y hệt anh, thậm chí còn tinh vi hơn. Khi càng ngày càng có nhiều nạn nhân hơn, anh quyết tâm tìm ra hung thủ, vừa để giúp cô em gái thăng tiến trong sự nghiệp, và cũng để trả lời câu hỏi kinh hoàng nhất: liệu kẻ đó có phải là chính anh?



    Giới thiệu tác giả

    Jeff Lindsay (14/7/1952) là bút danh của Jeffry P. Freundlich, nhà biên kịch, tiểu thuyết gia chuyên về thể loại tội phạm, hiện ông đang sống ở Florida với vợ - nhà văn Hilary Hemingway, cháu gái đại văn hào Ernest Hemingway.

    Dexter Và Giấc Mơ Hắc Ám đã nằm trong top Một trăm tiểu thuyết trinh thám kinh dị hay nhất mọi thời đại do website uy tín NPR tổ chức.

    Năm 2005, Dexter và Giấc Mơ Hắc Ám đoạt giải thưởng Dilys Award.

    Phần một của xê ri phim truyền hình ăn khách tại Mỹ ra mắt năm 2006, Dexter, được chuyển thể rất thành công từ cuốn tiểu thuyết này.



    Nhận định về tác phẩm

    Một trong những kẻ giết người hàng loạt được yêu mến nhất trong dòng văn học trinh thám ly kỳ. - The New Yorker

    Hắc ám và lắt léo… Táo bạo và bất ngờ. - USA Today

    Dexter là một nhân vật có sức lôi cuốn, dù anh chàng không phải là típ người bạn muốn mời dùng chung bữa tối. - Chicago Sun-Times



    Lời cảm ơn

    Cuốn sách này hẳn không thể được hoàn tất nếu không có sự giúp đỡ nhiệt thành về nghiệp vụ và tinh thần của Einstein và Deacon. Họ đại diện cho những gì tốt nhất của cảnh sát Miami, họ đã dạy cho tôi hình dung ra ít nhiều cách thức để thực hiện công việc cực kỳ khó khăn này, tại một nơi còn khó khăn hơn.

    Tôi cũng muốn gửi lời cám ơn tới những người đã đưa ra gợi ý hết sức hữu ích, đặc biệt là vợ tôi, gia đình Barclay, Julio S., bác sĩ Freudlich, bà A. L. Freudlich, Pookie, Bear và Tinky.

    Tôi biết ơn sâu sắc Jason Kaufman về sự sáng suốt và nhìn xa trông rộng của ông trong việc định hình nên cuốn sách này.

    Cũng xin được cám ơn Doris, Quý bà của Tiếng cười cuối cùng.

    Và xin gửi lời cảm ơn đặc biệt tới Nick Ellison, người có tất cả các tố chất của một người đặc vụ nhưng chưa bao giờ là đặc vụ.



    Thân tặng Hilary, người là tất cả với tôi.



    Chương 1

    Trăng. Trăng lộng lẫy. Mặt trăng tròn trịa, đầy đặn, đỏ quạch, đêm sáng như ban ngày, với ánh trăng ngập tràn mặt đất, mang tới sự hân hoan, vui sướng. Mang tới cả tiếng gọi vang vọng hết cỡ của đêm nhiệt đới, âm thanh mềm mại và hoang dã của gió rin rít lướt qua những sợi lông trên hai cánh tay bạn, tiếng thở than trống rỗng của ánh sao, tiếng nghiến răng kèn kẹt của ánh trăng lan ra trên mặt nước.

    Tất cả cùng kêu gọi Nhu Cầu. Ôi, bản đồng ca gầm rít của hàng nghìn giọng nói đang ẩn kín, tiếng gào thét của Nhu Cầu từ bên trong, “thực thể đó”, kẻ quan sát im lặng, thực thể lạnh lùng trầm mặc, kẻ phá lên cười, kẻ nhảy dưới trăng. Phần tôi mà không phải là tôi, thực thể luôn mỉa mai, cười cợt, song hành với sự thúc giục đầy thèm khát. Với Nhu Cầu. Và lúc này, Nhu Cầu trở nên rất mạnh mẽ, chậm rãi lách cách len lỏi đi một cách lạnh lùng, tỉnh táo và sẵn sàng - tuy nhiên nó vẫn chờ đợi và theo dõi, buộc tôi cũng phải chờ đợi và theo dõi.

    Tôi đã chờ đợi và theo dõi gã mục sư từ năm tuần nay. Nhu Cầu đã thúc giục, hành hạ, đòi hỏi tôi phải tìm ra một ai đó, tìm ra kẻ tiếp theo, tìm ra gã mục sư này. Từ ba tuần nay, tôi đã biết hắn chính là kẻ tôi tìm, là kẻ tiếp theo, chúng tôi thuộc về Người lữ hành Tối Tăm, cả hắn và tôi. Trong ba tuần vừa qua, tôi đã phải đấu tranh với sức ép, với Nhu Cầu đang lớn dần, dâng lên trong tôi như một con sóng lớn gầm gào tràn lên trên bãi biển và không hề rút xuống, đang càng ngày càng trào lên dữ dội hơn sau mỗi tiếng tích tắc của đồng hồ trong đêm trăng sáng này.

    Nhưng đây cũng là quãng thời gian phải thận trọng, thời gian để bảo đảm chắc chắn. Không phải bảo đảm chắc chắn về gã mục sư, không, tôi đã chắc chắn về hắn từ lâu. Thời gian là để bảo đảm việc này có thể được thực hiện một cách đúng đắn, gọn ghẽ, mọi thứ đều được gói ghém kỹ lưỡng, được dọn sạch sẽ. Tôi không thể để bị bắt, không phải lúc này. Tôi đã nỗ lực quá vất vả, quá lâu, để chuyện này phục vụ cho bản thân, bảo vệ cuộc sống hạnh phúc quý báu của chính mình.

    Tới lúc này tôi đã trải nghiệm được quá nhiều niềm vui nên không thể dừng lại.

    Chính vì thế tôi luôn cẩn trọng. Luôn ngăn nắp. Luôn chuẩn bị sẵn sàng từ trước để mọi chuyện đều ổn thỏa. Và khi đã ổn, bỏ ra thêm thời gian để thật sự chắc chắn. Đó là cách của Harry, Chúa ban phước lành cho ông ấy, người cảnh sát hoàn hảo nhìn xa trông rộng, bố nuôi của tôi. Hãy luôn bảo đảm chắc chắn, hãy cẩn trọng, chính xác, ông đã nói như thế, từ một tuần nay tôi tin chắc mọi việc đều đúng như Harry mong muốn - tốt đến mức tối đa có thể. Và khi tôi rời nhiệm sở tối nay, tôi biết đã đến lúc. Tối nay sẽ là Đêm Hành Động. Tối nay có gì đó thật khác biệt. Tối nay chuyện đó sẽ xảy ra, phải xảy ra. Như đã từng xảy ra trước đây. Như nó sẽ còn xảy ra nữa.

    Tối nay chuyện đó sẽ xảy đến với gã mục sư.

    Hắn là Cha Donovan. Hắn dạy nhạc cho đám trẻ tại trại trẻ mồ côi St. Anthony ở Homestead, Florida. Bọn trẻ yêu quý hắn. Lẽ tất nhiên, hắn cũng yêu quý trẻ con, phải, rất yêu. Hắn đã dành trọn cả một đời cho chúng. Học tiếng Creole và tiếng Tây Ban Nha. Học âm nhạc của họ nữa. Tất cả vì lũ trẻ. Cho dù hắn làm gì, tất cả đều vì lũ trẻ.

    Mọi thứ.

    Tôi theo dõi hắn tối nay giống như đã từng theo dõi hắn bao buổi tối trước. Theo dõi trong lúc hắn dừng lại trước của trại trẻ mồ côi, trò chuyện với một cô bé da đen vừa đi theo hắn ra ngoài. Cô bé vẫn còn nhỏ, không quá tám tuổi, vóc dáng quá nhỏ so với lứa tuổi này. Hắn ngồi xuống bậc thềm, trò chuyện với cô bé khoảng năm phút. Cô bé cũng ngồi xuống và không ngừng nhún nhảy. Họ cùng phá lên cười. Cô bé tựa người vào hắn. Hắn vuốt tóc cô bé. Sau đó, cô bé mỉm cười và chìa một bàn tay ra rồi gục đầu áp vào người gã mục sư. Cha Donovan vỗ về cô bé, đứng dậy, rồi hôn tạm biệt. Người nữ tu bé bỏng bật cười và nói gì đó với Cha Donovan. Hắn cũng nói lại gì đó.

    Rồi sau đó, hắn bắt đầu bước về phía chiếc xe của mình. Cuối cùng, tôi cũng thu mình lại để tấn công và...

    Chưa đến lúc. Một chiếc xe tải nhỏ của dịch vụ lao công đỗ cách cửa tòa nhà bốn mét rưỡi. Khi Cha Donovan đi ngang qua nó, cánh cửa bên sườn xe trượt mở ra. Một người đàn ông ló ra ngoài, miệng ngậm một điếu thuốc lá đang hút dở, lên tiếng chào gã mục sư, còn hắn tựa người lên thành chiếc xe và trò chuyện với người đàn ông kia.

    May mắn. Lại là may mắn. May mắn luôn hiện hữu trong những “đêm như thế này”. Tôi không hề trông thấy người đàn ông đó, thậm chí cũng không ngờ anh ta có mặt ở đó. Nhưng hẳn anh ta đã nhìn thấy tôi. Nếu không nhờ “may mắn”.

    Tôi hít một hơi thật sâu. Rồi thở ra từ từ, đều đặn, lạnh như băng. Chỉ là một chi tiết nhỏ. Tôi đã không quên mất bất cứ chi tiết nào khác. Tôi đã chuẩn bị tất cả rất chu đáo, tất cả đúng như cũ, tất cả theo đúng cách cần phải làm. Sẽ ổn thôi.

    Bây giờ.

    Cha Donovan lại tiếp tục bước về phía chiếc xe của hắn. Hắn quay lại phía sau một lần, lên tiếng gọi ai đó. Người lao công vẫy tay từ trên ngưỡng cửa trại trẻ mồ côi, sau đó ném điếu thuốc lá của anh ta đi và biến mất vào bên trong tòa nhà. Biến mất.

    May mắn. Lại là may mắn.

    Cha Donovan lục túi tìm chìa khóa, mở cửa, chui vào trong xe. Tôi nghe thấy tiếng chìa khóa cắm vào ổ. Nghe thấy tiếng động cơ khởi động. Và rồi...

    BÂY GIỜ.

    Tôi ngồi bật dậy trên băng ghế sau xe và quàng nút thòng lọng quanh cổ hắn. Một cử động nhanh nhẹn, trơn tru, đẹp mắt, và sợi dây câu đã được thử có thể chịu được sức nặng năm mươi pound 1 thít chặt lại. Hắn hơi quay đầu đi vì hoảng hốt và hiểu ra tất cả.

    “Giờ mày là của tao,” tôi nói với hắn, khiến hắn cứng người lại ngay lập tức, hoàn hảo như thể đã được luyện tập trước, gần như có thể cho rằng hắn đã nghe thấy giọng nói còn lại, nghe thấy kẻ theo dõi đang phá lên cười trong tôi.

    “Hãy làm chính xác như tao nói,” tôi lên tiếng.

    Hắn khò khè thở đầy khó khăn và liếc mắt nhìn vào gương chiếu hậu. Khuôn mặt của tôi đã ở đó, đợi hắn, được bọc kín trong chiếc mặt nạ bằng lụa trắng chỉ để hở ra hai mắt.

    “Mày hiểu chứ?” Tôi nói. Lớp lụa của mặt nạ gập lại giữa hai môi trong lúc tôi nói.

    Cha Donovan không nói gì, chỉ nhìn chằm chằm vào đôi mắt tôi. Tôi siết sợi thòng lọng.

    “Mày hiểu chứ?” Tôi nhắc lại, có phần nhẹ nhàng hơn.

    Lần này hắn gật đầu. Hắn đưa một bàn tay run rẩy sờ lên nút thòng lọng, có vẻ không dám chắc chuyện gì sẽ xảy ra nếu hắn tìm cách nới nó ra. Khuôn mặt hắn đã trở nên tím bầm.

    Tôi nới nút thòng lọng cho hắn. “Hãy biết điều,” tôi nói, “và mày sẽ sống lâu hơn.”

    Hắn hít một hơi thật sâu. Tôi có thể nghe thấy tiếng không khí rít lên trong họng hắn. Nhưng hắn vẫn ngồi im, không cố gắng tìm cách bỏ chạy.

    Vậy là rất tốt.

    Chúng tôi lái xe đi. Cha Donovan làm theo chỉ dẫn của tôi, không giở trò, không do dự. Chúng tôi đi về hướng nam, qua thành phố Florida và chạy theo tuyến đường Card Sound. Tôi có thể thấy rõ tuyến đường đó làm hắn bất an, nhưng hắn không hề phản đối. Hắn không tìm cách bắt chuyện với tôi. Hắn giữ cả hai bàn tay trên vô lăng, nhợt nhạt và nắm chặt, vì thế khớp các đốt ngón tay đều gồ lên. Điều đó cũng rất tốt.

    Chúng tôi đi xe về phía nam thêm năm phút nữa, đồng hành cùng chúng tôi không còn âm thanh nào ngoài tiếng động phát ra từ các lốp xe, tiếng gió thổi và mặt trăng tròn trên bầu trời đang dạo những nốt nhạc hùng tráng của nó trong các mạch máu khắp người tôi, kẻ đang thận trọng theo dõi thầm cười khoan khoái trước dòng chảy gấp gáp của cảm xúc dữ dội ban đêm.

    “Rẽ vào đây,” cuối cùng tôi lên tiếng.

    Đôi mắt gã mục sư hướng vào mắt tôi qua gương chiếu hậu. Cơn hốt hoảng đang cố bò ra khỏi đôi mắt hắn, leo xuống khuôn mặt, tìm tới miệng hắn để nói ra thành lời, nhưng...

    “Rẽ!” Tôi nói, hắn rẽ. Bất thình lình như thể hắn đã chờ đợi điều này từ lâu rồi, đã luôn chờ đợi nó và rẽ.

    Con đường đất nhỏ mờ ảo, ẩn hiện phía trước. Bạn gần như cần phải biết trước nó nằm ở đó. Nhưng tôi biết. Tôi đã từng tới nơi này trước đây. Con đường chạy dài hai dặm rưỡi, uốn khúc ba lần, xuyên qua những bụi cỏ răng cưa, qua những hàng cây, chạy dọc bên một con mương nhỏ, đi sâu qua vùng đầm lầy và dẫn vào một trảng trống.

    Năm mươi năm trước, ai đó đã xây ở đây một căn nhà. Phần lớn những gì được xây lên vẫn còn nguyên đó. Những gì còn lại vẫn rất rộng. Vẫn còn nguyên ba căn phòng, một nửa mái nhà, dẫu rằng nơi này đã hoàn toàn bị bỏ hoang từ nhiều năm qua.

    Ngoại trừ khu vườn rau cũ nằm bên cạnh căn nhà. Có những dấu vết cho thấy ai đó mới đào đất ở đó cách đây chưa lâu lắm.

    “Dừng xe lại,” tôi nói khi ánh đèn pha chiếu sáng căn nhà đổ nát.

    Cha Donovan lảo đảo làm theo lệnh. Nỗi sợ hãi giờ đây đã bó chặt hắn bên trong thân xác, tứ chi và suy nghĩ của hắn tất cả đều trở nên cứng đờ.

    “Tắt động cơ đi,” tôi ra lệnh và hắn làm theo.

    Tất cả đột ngột trở nên thật im ắng.

    Có con vật nhỏ bé nào đó líu ríu trên một ngọn cây. Tiếng gió thổi lào xào qua mặt cỏ. Rồi xung quanh lại trở nên im ắng hơn, một sự im lặng sâu hun hút, tới mức gần như nuốt chửng giai điệu đang gầm gào của điệu nhạc đêm đang vang lên từ bản thể bí mật của tôi.

    “Ra ngoài,” tôi nói.

    Cha Donovan không động đậy. Đôi mắt hắn nhìn chằm chằm về phía khu vườn rau.

    Trong đó có bảy đống đất nhỏ nhô lên, hiện rõ trong tầm mắt. Những đống đất vừa được xúc lên trông thật tối tăm dưới ánh trăng. Chắc hẳn trông chúng còn tối tăm hơn với Cha Donovan. Hắn vẫn không nhúc nhích.

    Tôi siết mạnh nút dây, mạnh hơn so với mức hắn nghĩ có thể sống sót được, hơn những gì hắn biết có thể xảy đến với mình. Lưng hắn cong ra sau, áp vào lưng ghế, những đường mạch máu nổi hằn lên trên trán, hắn nghĩ mình sắp chết.

    Nhưng không phải thế. Chưa đến lúc. Thực ra là chưa trong một quãng thời gian ngắn nữa.

    Tôi đá mở cửa xe, lôi hắn ra, chỉ để hắn cảm nhận thấy sức mạnh của tôi. Hắn ngã vật xuống nền đường đất bụi, quằn người lại như một con rắn bị thương. Người lữ hành Tối Tăm phá lên cười thích thú, còn tôi diễn nốt phần của mình. Tôi giẫm một chân ủng lên ngực Cha Donovan và giữ chặt nút thắt.

    “Mày phải nghe và làm như tao nói,” tôi nói với hắn. “Mày phải làm thế.” Tôi cúi xuống, nhẹ nhàng nới lỏng nút thắt. “Mày nên biết thế. Điều đó rất quan trọng,” tôi nói.

    Và hắn lắng nghe. Đôi mắt hắn vằn lên, đau đớn, ứa nước ròng ròng trên khuôn mặt, rồi bắt gặp ánh mắt tôi trong một thoáng vỡ lẽ và tất cả những gì phải xảy ra đang phơi bày trước mắt hắn. Hắn đã thấy. Hắn biết cách xử sự đúng đắn quan trọng đến mức nào với mình. Hắn bắt đầu hiểu.

    “Giờ thì đứng dậy,” tôi nói.

    Chầm chậm, thật chậm, với ánh mắt không rời khỏi mắt tôi, Cha Donovan đứng dậy. Chúng tôi cứ đứng như thế một hồi lâu, mắt nhìn thẳng vào nhau, như hòa làm một và cùng chung một nhu cầu, rồi hắn run lẩy bẩy. Hắn giơ một bàn tay đưa lên mặt sau đó lại buông thõng ngay xuống nửa chừng.

    “Vào trong nhà,” tôi nói, thật nhẹ nhàng. Trong nhà mọi thứ đã sẵn sàng.

    Cha Donovan cúi gằm mắt xuống. Mặt đưa lên, hướng về phía tôi, nhưng không thể nhìn được nữa. Hắn quay về phía ngôi nhà, nhưng đứng sững lại khi nhìn thấy những đống đất tối sẫm trong vườn. Hắn muốn nhìn vào mắt tôi, nhưng không thể, đặc biệt là sau khi đã nhìn qua những đống đất đen thui dưới ánh trăng ấy.

    Hắn bắt đầu bước đi về phía ngôi nhà, còn tôi giữ chắc sợi dây tròng vào cổ hắn. Hắn bước đi ngoan ngoãn, đầu cúi gằm, một nạn nhân ngoan ngoãn. Leo lên năm bậc thềm tàn tạ, bước qua lối đi hẹp dẫn tới cửa trước, rồi đẩy cửa. Cha Donovan dừng lại. Hắn không nhìn lên. Hắn không nhìn tôi.

    “Đi qua cửa,” tôi nói bằng giọng ra lệnh mềm mỏng của mình.

    Cha Donovan run sợ.

    “Giờ hãy đi qua cửa,” tôi lặp lại.

    Nhưng hắn không thể.

    Tôi cúi người qua trước hắn, đẩy cánh cửa mở ra. Tôi dùng chân đạp gã mục sư đi vào trong. Hắn loạng choạng, đứng thẳng người dậy, sững lại ngay ngưỡng cửa, hai mắt nhắm nghiền.

    Tôi đóng cửa lại. Tôi đã để sẵn dưới sàn ngay cạnh cửa một cây đèn pin và bật đèn lên.

    “Nhìn đi,” tôi thì thầm.

    Cha Donovan chậm chạp, thận trọng mở một mắt ra.

    Người hắn đông cứng.

    Thời gian như ngừng trôi với Cha Donovan.

    “Không,” hắn nói.

    “Có,” tôi nói.

    “Ôi, không,” hắn nói.

    “Ồ, có,” tôi nói.

    Hắn gào lên, “KHÔÔÔÔNG!”

    Tôi kéo giật dây thòng lọng. Tiếng hét bị cắt ngang, hắn quỳ sụp xuống hai đầu gối, miệng bật ra một tiếng rên rỉ nức nở và đưa tay lên ôm lấy mặt. “Phải,” tôi nói. “Đúng là một cảnh tượng ghê tởm, phải không nào?”

    Hắn dùng cả khuôn mặt để khép chặt đôi mắt lại. Hắn không muốn nhìn, không phải vào lúc này, không phải như thế này. Tôi không chê trách hắn, thực sự là thế, vì đó quả là một cảnh tượng ghê tởm. Tôi đã chỉ bận tâm về điều đó kể từ lúc sắp đặt nó dành cho hắn. Nhưng hắn phải nhìn thấy nó. Bắt buộc. Không chỉ vì tôi. Không chỉ vì Người lữ hành Tối Tăm. Vì hắn. Hắn buộc phải nhìn. Và hắn không chịu nhìn.

    “Mở mắt ra, Cha Donovan,” tôi lên tiếng.

    “Làm ơn,” hắn khẩn khoản thì thầm một cách thật ghê tởm. Tiếng cầu khẩn của hắn chạm đến thần kinh của tôi một cách thật khó chịu, đáng ra không nên như thế, đáng ra phải là sự kiểm soát trọn vẹn lạnh như băng, nhưng những lời nói ấy đã chạm tới tôi, sự rền rĩ trên khuôn mặt của cái đống thối tha đó, tôi đá hai chân hắn duỗi ra khỏi dưới thân người. Tôi giật mạnh nút thòng lọng lên, dùng bàn tay phải chộp lấy gáy hắn, rồi dập thẳng tay khuôn mặt hắn xuống những tấm ván sàn bẩn thỉu bụi bặm. Có chút máu trào ra, điều đó càng khiến tôi điên hơn.

    “Mở mắt ra,” tôi ra lệnh. “Mở mắt của mày ra. Mở ra NGAY. Nhìn đi.” Tôi chộp lấy tóc hắn, kéo giật đầu ra sau. “Làm như tao bảo,” tôi nói. “Nhìn đi. Nếu không tao sẽ xẻo hai mi mắt của mày.”

    Lời nói của tôi tỏ ra cực kỳ có sức thuyết phục. Thế là hắn làm theo. Hắn làm như tôi yêu cầu. Hắn nhìn.

    Tôi đã nỗ lực rất nhiều để thu xếp mọi thứ chỉn chu, nhưng bạn buộc phải làm tốt nhất có thể với những gì bạn phải xử lý. Có lẽ tôi đã không thể chuẩn bị được màn chào đón này nếu những đứa trẻ đó không ở ngoài vườn đủ lâu để mọi thứ trở nên khô ráo hết, nhưng chúng vẫn rất bẩn. Tôi đã cố lau chùi đi phần lớn đất bẩn, nhưng một số thi thể đã ở trong vườn lâu đến nỗi bạn khó lòng phân biệt rõ những gì thuộc về chúng và những gì thuộc về đất vườn. Sự thực là bạn không bao giờ có được câu trả lời, khi bạn dừng lại để tâm nghĩ về điều đó. Quá bẩn…

    Có tất cả bảy nạn nhân, bảy thi thể nhỏ bé, bảy đứa trẻ mồ côi lẫn lộn trong đất bẩn được bày ra trên những tấm nệm cao su, loại này sạch sẽ hơn và không gây rỉ nước. Bảy đường vạch thẳng nằm ngang trong căn phòng.

    Chỉ thẳng về phía cha Donovan. Vậy là hắn biết.

    Hắn sắp sửa gia nhập vào chúng.

    “Hỡi Mary, đầy màu nhiệm…” Hắn bắt đầu lên tiếng. Tôi siết mạnh nút thòng lọng.

    “Không thêm một lời nào như thế nữa, Cha. Không phải lúc này. Giờ là lúc dành cho sự thật.”

    “Làm ơn,” hắn sặc sụa.

    “Phải rồi, cầu xin tao đi. Thế là tốt đấy. Tốt hơn rất nhiều.” Tôi lại giật thòng lọng lần nữa. “Mày có nghĩ rằng kia là tất cả không, Cha? Bảy thi thể? Chúng có cầu xin không?” Hắn không có gì để nói. “Mày có nghĩ kia là tất cả chúng không, Cha? Chỉ có bảy thôi sao? Liệu tao đã tìm ra hết chưa?”

    “Ôi, Chúa ơi,” hắn rên lên, với âm hưởng đau đớn thật êm tai khi nghe.

    “Thế còn ở các thành phố khác thì sao, Cha? Ở Fayetteville thì sao? Mày có muốn nói về Fayetteville không?” Hắn chỉ bật ra một tiếng nức nở tắc nghẹn, không phải lời nói. “Ở East Orange thì sao? Có phải ở đó là ba không? Hay tao còn thiếu mất một đứa trẻ nữa ở đó? Thật khó lòng biết chắc được. Có phải ở East Orange có bốn đứa không, Cha?”

    Cha Donovan cố thét lên. Không còn đủ không gian trong cổ họng hắn cho một tiếng gào ra trò, nhưng tiếng gào này thực sự có cảm xúc đằng sau nó, điều này đã bù lại cho kỹ thuật tệ hại nó được phát âm ra. Rồi hắn đổ vật ra trước, úp mặt xuống, tôi để mặc cho hắn sụt sùi rên rỉ một hồi trước khi lôi đứng dậy. Hắn không còn đứng vững, không còn giữ được tự chủ. Ý chí của hắn đã xẹp xuống, cằm ướt sũng nước dãi.

    “Làm ơn,” hắn nói. “Tôi không thể ngừng được. Chỉ là tôi không thể ngừng được. Làm ơn, ông cần phải hiểu…”

    “Tao hiểu hết, Cha,” tôi nói, lúc này có điều gì đó trong giọng nói của tôi, giọng nói của Người lữ hành Tối Tăm, âm hưởng của nó khiến hắn như hóa đá. Hắn từ từ ngước lên nhìn, sững sờ trước những gì thấy trong đôi mắt tôi. “Tao hiểu rất rõ,” tôi nói rồi bước lại ghé sát vào mặt hắn. Những giọt mồ hôi trên hai má hắn đông cứng. “Mày thấy đấy,” tôi tiếp tục, “tao cũng không thể ngừng được.”

    Lúc này chúng tôi đứng sát kề nhau, gần như chạm vào nhau, sự bẩn thỉu của hắn đột nhiên trở nên quá nhiều. Tôi giật lấy nút thòng lọng, đá hai chân hắn khuỵu xuống lần nữa. Cha Donovan bò lăn ra dưới sàn.

    “Nhưng còn những đứa trẻ?” Tôi nói. “Tao sẽ không bao giờ làm chuyện này với những đứa trẻ.” Tôi giẫm chiếc ủng đế cứng sạch bóng của mình lên sau đầu hắn, ấn mặt hắn úp xuống. “Không giống mày, Cha. Không bao giờ là trẻ con. Tao cần phải tìm ra những kẻ như mày.”

    “Ông là thứ gì?” Cha Donovan thì thào.

    “Sự khởi đầu,” tôi nói. “Và sự kết thúc. Hãy gặp kẻ Hủy Diệt của mày, Cha.” Tôi chuẩn bị sẵn sàng cái kim tiêm, khi nó đâm xuyên vào cổ hắn đúng như dự kiến, có một chút phản kháng từ những múi cơ căng cứng, nhưng từ gã mục sư thì không. Tôi ấn pít tông và chiếc xi lanh trở nên rỗng không, khiến Cha Donovan chìm vào sự bình yên nhanh chóng, sạch sẽ. Vài khoảnh khắc, chỉ cần vài khoảnh khắc, đầu hắn bắt đầu bồng bềnh, rồi quay mặt về phía tôi.

    Liệu lúc này hắn có thực sự nhìn thấy tôi không? Liệu hắn có nhìn thấy những chiếc găng tay cao su, chiếc áo khoác cẩn thận che kín người, chiếc mặt nạ bằng lụa? Liệu hắn có thực sự thấy tôi không? Hay điều đó chỉ xảy ra trong căn phòng khác, căn phòng của Người lữ hành Tối Tăm, Căn phòng Sạch Sẽ? Hai tối trước, nó đã được sơn trắng, được quét, lau, rửa sạch hết mức có thể. Ở giữa căn phòng đó, nơi các cửa sổ đã được dán chặt bằng những dải băng dính cao su trắng dày, dưới ánh sáng của những ngọn đèn giữa phòng, liệu cuối cùng hắn có nhìn thấy tôi ở đó, bên chiếc bàn tôi đã chuẩn bị, với những chiếc hộp đựng túi rác màu trắng, những chai hóa chất và một hàng nhỏ những cái cưa và dao không? Liệu cuối cùng hắn có nhìn thấy tôi không?

    Hay liệu hắn có thấy bảy thi thể nhem nhuốc kia, ai biết được còn bao nhiêu nữa? Liệu cuối cùng, hắn có hình dung ra chính hắn, không thể gào thét được nữa, dần biến thành một đám xương tàn như thế ngoài vườn?

    Hắn không thể, tất nhiên rồi. Trí tưởng tượng của hắn không cho phép hắn nhìn nhận chính mình như cùng một giống loài. Và theo cách nào đó, hắn có lý. Hắn sẽ không bao giờ biến thành một nắm xương tàn giống như đã làm với những đứa trẻ. Tôi sẽ không bao giờ làm thế, không bao giờ cho phép điều đó xảy ra. Tôi không giống Cha Donovan, không phải là thứ quái vật đó.

    Tôi là một con quái vật rất gọn ghẽ, sạch sẽ.

    Sự gọn ghẽ đòi hỏi thời gian, tất nhiên rồi, nhưng cũng đáng công sức bỏ ra. Đáng để làm Người lữ hành Tối Tăm vui vẻ, để giữ cho anh ta lặng yên thêm một thời gian dài nữa. Đáng để hoàn tất những gì phải làm một cách đúng đắn và chu toàn. Loại bỏ bớt một đám rác rưởi khỏi thế giới này. Thêm vài túi rác được gói ghém gọn gàng nữa, và góc thế giới nho nhỏ của tôi trở thành một nơi sạch sẽ hơn, hạnh phúc hơn. Một nơi tốt đẹp hơn.

    Tôi có khoảng tám giờ đồng hồ trước khi phải biến khỏi nơi này. Tôi sẽ cần đến toàn bộ quãng thời gian đó để thu xếp cho thỏa đáng.

    Tôi trói chặt gã mục sư xuống bàn bằng băng dính, cắt bỏ hết quần áo của hắn. Tôi thực hiện công việc chuẩn bị sơ bộ rất nhanh, cạo, lau, cắt đi những thứ thò ra một cách không ngăn nắp. Như mọi lần, tôi cảm thấy luồng cảm hứng đầy phấn khích từ từ dâng lên và bắt đầu chạy rần rật khắp cơ thể. Nó sẽ chập chờn lướt qua người tôi trong lúc làm việc, rồi dâng lên và mang tôi theo cùng với nó, cho tới tận khoảnh khắc cuối cùng, khi Nhu Cầu và gã mục sư cùng nhau trôi đi theo một ngọn triều đang lui dần rồi tan biến.

    Ngay trước khi tôi bắt đầu phần việc hệ trọng, Cha Donovan mở mắt ra nhìn tôi. Giờ đây trong đó không còn nỗi sợ hãi nữa, chuyện này đôi khi vẫn xảy ra. Hắn nhìn thẳng vào tôi, khuôn miệng mấp máy.

    “Cái gì?” Tôi hỏi và ghé đầu lại sát hơn một chút. “Tao không nghe thấy mày nói.”

    Tôi nghe thấy tiếng thở, một nhịp thở chậm rãi, bình thản, rồi hắn nói lại lần nữa trước khi đôi mắt nhắm lại.

    “Sẵn sàng phục vụ mày,” tôi nói, rồi bắt tay vào việc.

  2. #2
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,707
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 2

    Bốn giờ ba mươi phút sáng, gã mục sư đã được thu dọn sạch sẽ. Tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn nhiều. Tôi luôn có cảm giác đó sau khi xong việc. Giết chóc luôn đem đến cho tôi sự khoan khoái. Nó tháo gỡ những nút thắt khỏi các lược đồ yêu quý tối tăm của Dexter. Một sự giải thoát ngọt ngào, sự giải tỏa cần thiết cho tất cả những chiếc van thủy lực nho nhỏ trong người. Tôi ưa thích việc làm của mình; xin lỗi nếu điều đó làm các vị áy náy. Ồ, rất xin lỗi, thực sự đấy. Nhưng thực tế là vậy. Tất nhiên, không phải là với bất cứ sự giết chóc nào. Nó phải được làm đúng cách, đúng lúc, với đúng đối tượng - rất rắc rối, nhưng cũng rất cần thiết.

    Và luôn ít nhiều tốn sức. Vì vậy tôi thấy mệt mỏi, nhưng sự căng thẳng của tuần trước đã qua đi, giọng nói lạnh lẽo của Người lữ hành Tối Tăm đã im lặng, tôi lại có thể trở lại là mình. Một Dexter giỏi ngụy biện, hài hước, vô tư, trầm cảm một cách kín đáo. Không còn là Dexter với con dao trong tay, Dexter - kẻ Báo Thù. Cho tới lần tiếp theo.

    Tôi chôn tất cả các thi thể trở lại ngoài vườn, kèm thêm một vị hàng xóm mới và dọn dẹp lại mọi thứ bên trong ngôi nhà đang dần đổ nát ngăn nắp hết mức có thể. Tôi thu dọn đồ đạc của mình để vào trong chiếc xe của gã mục sư, lái về phía nam tới chỗ con kênh đào nhỏ nơi tôi để chiếc xuồng, một chiếc hiệu Whaler dài mười bảy foot 1, đáy nông với một động cơ mạnh mẽ. Tôi đẩy cái xe của hắn xuống kênh, phía sau chiếc xuồng của tôi, rồi leo lên xuồng, nhìn chiếc xe từ từ chìm xuống và biến mất. Tôi lái chiếc xuồng vòng lại, ra khỏi kênh đào, hướng về phía bắc qua bên kia vịnh. Mặt trời vừa lên, bắt đầu tỏa ánh nắng ra khắp nơi. Tôi chưng ra khuôn mặt hạnh phúc nhất của mình, thêm một người câu cá buổi sáng sớm đang trên đường về nhà. Có ai thích ăn cá hanh không?

    Sáu giờ ba mươi phút, tôi đã về tới nhà, an tọa trong căn hộ của mình tại Coconut Grove. Tôi lấy phiến kính ra khỏi túi áo, một phiến thủy tinh sạch sẽ đơn giản - với một giọt máu duy nhất của gã mục sư được cẩn thận lưu lại ở chính giữa. Đẹp đẽ và sạch sẽ, lúc này đã khô hẳn, sẵn sàng để đưa vào dưới kính hiển vi mỗi khi tôi muốn hồi tưởng lại. Tôi cất phiến kính vào cùng chỗ với những phiến khác, ba mươi sáu giọt máu gọn ghẽ được lưu giữ cẩn thận.

    Tôi tắm lâu hơn bình thường dưới vòi hoa sen, để làn nước nóng cuốn trôi đi những dư âm cuối cùng của sự căng thẳng, làm dịu xuống những múi cơ đang thắt lại, rũ bỏ những vết tích cuối cùng còn lưu lại, ám ảnh từ gã mục sư và khu vườn bên ngôi nhà nhỏ nằm gần đầm lầy.

    Trẻ con. Đáng ra mình phải giết hắn hai lần.

    Cho dù thứ gì đã tạo nên tôi đi nữa, nó đã để lại tôi trống rỗng, hổng toác bên trong, không còn khả năng cảm nhận. Điều đó xem chừng cũng không có gì ghê gớm lắm. Tôi dám chắc phần lớn con người ta phải giả bộ không ít trong những mối quan hệ hằng ngày. Còn tôi giả bộ tất cả. Tôi giả bộ rất giỏi, cảm xúc chưa bao giờ hiện diện. Nhưng tôi thích lũ trẻ. Tôi có lẽ sẽ không bao giờ có con được, vì ý tưởng về tình dục thật chẳng ra sao cả. Thử hình dung phải làm những chuyện đó - làm sao các vị có thể? Ý thức về lòng tự tôn của các vị đâu rồi? Nhưng còn lũ trẻ, những đứa trẻ thật đặc biệt. Cha Donovan xứng đáng phải chết. Luật của Harry đã được thỏa mãn và Người lữ hành Tối Tăm cũng vậy.

    Bảy giờ mười lăm phút, tôi lại cảm thấy sạch sẽ. Tôi uống cà phê, ăn bánh ngũ cốc, rồi lên đường đi làm.

    Tòa nhà nơi tôi làm việc có một kiến trúc hiện đại, đồ sộ, trắng toát với rất nhiều kính, tọa lạc gần sân bay. Phòng thí nghiệm của tôi nằm trên lầu hai, ở phía sau tòa nhà. Tôi có một phòng làm việc nhỏ bên cạnh phòng thí nghiệm. Không hẳn là một văn phòng đúng nghĩa, nhưng dù sao cũng là của tôi, một khoảng không gian nhỏ tách biệt khỏi phòng thí nghiệm chuyên giám định máu. Nơi đó hoàn toàn thuộc về tôi, không ai được phép vào, không ai được phép chia sẻ, làm rối tinh lãnh địa riêng đó lên. Một bàn làm việc với một ghế tựa, một ghế tựa nữa cho khách, nếu vị khách không quá to béo. Máy tính, giá sách, tủ đựng tài liệu. Điện thoại. Máy trả lời tin nhắn thoại.

    Chiếc máy trả lời tin nhắn đang nháy đèn khi tôi bước vào phòng. Một tin nhắn dành cho tôi là chuyện chẳng phải ngày nào cũng xảy ra. Vì một vài lý do, có rất ít người trên thế giới này có thể nghĩ ra chuyện gì đó để nói với một chuyên gia phân tích vết máu trong giờ làm việc. Một trong số những người ít ỏi có chuyện để nói với tôi là Deborah Morgan, cô em nuôi của tôi. Một cảnh sát, cũng như bố cô.

    Tin nhắn là do cô gửi.

    Tôi bấm nút và nghe thấy giai điệu một bản nhạc Tejano 2, rồi sau đó là giọng nói của Deborah. “Dexter, làm ơn gọi cho em, ngay khi anh tới. Em đang ở hiện trường một vụ án ngoài Tamiami Trail, tại nhà trọ Cacique Motel.” Sau đó là một quãng ngừng. Tôi nghe thấy cô áp một bàn tay lên ống nghe rồi nói gì đó với ai khác. Sau đó, lại có tiếng nhạc Mexico và cô tiếp tục nói. “Anh có thể tới đây ngay được không? Làm ơn đi, Dex?”

    Rồi cô gác máy.

    Tôi không có gia đình. Ý tôi là trong phạm vi những gì tôi biết. Ở đâu đó ngoài kia chắc chắn phải có những người cùng mang gen di truyền giống như tôi, chắc chắn là thế. Tôi thấy thương cảm thay cho họ. Nhưng tôi chưa bao giờ gặp họ. Tôi cũng chưa bao giờ cố thử và họ cũng chẳng cố tìm kiếm tôi. Tôi được Harry và Doris Morgan, bố mẹ Deborah, nhận làm con nuôi và dạy dỗ. Nếu xét đến con người tôi lúc này, quả là họ đã làm được một công việc tuyệt vời khi nuôi dạy tôi, các vị có nghĩ vậy không?

    Cả hai đều đã mất. Vì thế, Deb là người duy nhất trên đời này thực sự quan tâm tới chuyện tôi còn sống hay đã chết. Vì vài lý do nào đó mà tôi không thể đoán ra, cô thực sự thích tôi còn sống hơn. Tôi nghĩ thế cũng tốt và nếu có thể có cảm xúc, tôi sẽ dành cả cho Deb.

    Vậy là tôi đi tới đó. Tôi lái xe ra khỏi bãi để xe Metro - Dade, tới con đường xa lộ chạy qua gần đó, tuyến đường này dẫn tôi tới khu vực của Tamiami Trail nơi Cacique Motel tọa lạc, cùng vài trăm nhà trọ cùng kiểu. Theo cách riêng của nó, nơi này là một thiên đường. Đặc biệt nếu bạn là một con gián. Các dãy nhà vừa tỏa ra ánh sáng lấp lánh vừa dần dần mục nát. Những bảng đèn neon sáng rực rỡ trên những tòa nhà cũ kỹ, tàn tạ, mọt ruỗng. Nếu bạn không tới đó vào ban đêm, thì sẽ chẳng mò tới chốn này làm gì. Bởi vì ngắm nhìn những nơi như thế dưới ánh sáng ban ngày cũng chẳng khác gì nhìn xuống dòng cuối cùng trong bản hợp đồng mong manh hời hợt giữa chúng ta với cuộc đời.

    Mọi thành phố lớn đều có một khu vực như nơi này. Nếu một gã lùn lở loét tàn tạ mang trên mình bệnh hủi giai đoạn cuối muốn làm tình với một ả chân dài và một cô bé tuổi vị thành niên, hắn sẽ tìm đến nơi này và thuê một căn phòng. Sau khi đã thỏa mãn, hắn có thể kéo cả đám em út sang bên cạnh thưởng thức một tách cà phê Cuba và một chiếc sandwich Medianoche 3. Chẳng ai buồn bận tâm, chừng nào hắn trả tiền.

    Gần đây, Deborah đã dành quá nhiều thời gian ở khu này. Đó là theo quan điểm của cô, không phải tôi. Dường như đó là một nơi hay ho để tìm đến nếu bạn là cớm và muốn nâng cao cơ hội của mình, tính theo xác suất, để tóm cổ kẻ nào đó đang làm một việc tồi tệ.

    Deborah không nhìn nhận như thế. Có thể vì cô làm việc bên tội phạm xã hội. Một cô gái trẻ bắt mắt làm việc bên tội phạm xã hội ở khu Tamiami Trail thường xuyên phải vào vai mồi nhử cho một cuộc phục kích, đứng ngoài đường gần như khỏa thân để thu hút những gã đàn ông muốn ăn bánh trả tiền. Deborah ghét cay ghét đắng chuyện này. Cô không chấp nhận nạn mại dâm, ngoại trừ coi nó là một vấn nạn xã hội. Cô cũng không nghĩ tóm cổ những gã có thói trăng hoa thực sự là trấn áp tội phạm. Và, chuyện này chỉ mình tôi biết, cô căm ghét bất cứ thứ gì nhấn mạnh quá mức sự nữ tính và ngoại hình bắt mắt của mình. Cô em nuôi của tôi muốn được làm một cảnh sát, nhưng kì thực trông cô giống một người mẫu trên trang quảng cáo của các tạp chí dành cho đàn ông hơn.

    Khi tôi lái xe vào bãi đỗ, nằm giữa Cacique và quán Tito’s Café Cubano ngay bên cạnh, tôi có thể thấy cô đang phô bày ngoại hình của mình ra rất khêu gợi. Cô mặc một chiếc áo bó sát ngực màu hồng neon, một chiếc quần soóc bó sát bằng sợi spandex, tất lưới đen, đi đôi giày cao gót. Trông như thể cô vừa bước ra từ cửa hàng trang phục dành cho những ả làng chơi nóng bỏng nhất Hollywood phiên bản 3D.

    Mấy năm trước, một người ở Ban Tội phạm xã hội nghe nói đám gái làng chơi đang cười vào mũi họ trên các con phố. Dường như đám cảnh sát phụ trách tội phạm xã hội, phần lớn là nam giới, đã lựa chọn trang phục cho các phụ nữ tham gia vào các vụ thả mồi giăng bẫy. Những lựa chọn về trang phục của bọn họ cho thấy khiếu thẩm mỹ tồi tệ về sự khêu gợi, bởi chúng trông chẳng giống nhiều lắm với những gì gái làng chơi hay mặc. Vậy là tất cả mọi người trên đường đều có thể đoán chắc cô nàng mới xuất hiện đang mang theo phù hiệu cảnh sát và súng ngắn trong xắc tay.

    Hệ quả của thông tin này là Ban Tội phạm xã hội ra quyết định yêu cầu các nữ cảnh sát khi hóa trang làm nhiệm vụ phải tự lựa chọn trang phục cho mình. Nói cho cùng, các cô gái sẽ biết rõ về thứ gì phù hợp hơn, phải không nào?

    Có thể phần lớn họ biết. Nhưng Deborah thì không. Cô chưa từng cảm thấy thoải mái trong bất cứ thứ trang phục nào ngoài đồ jeans. Giá mà các vị trông thấy thứ cô em nuôi tôi muốn mặc trong buổi lễ tốt nghiệp. Còn lúc này - tôi chưa bao giờ thấy một phụ nữ xinh đẹp trong những món trang phục khêu gợi như thế lại ít gợi cảm hơn Deb.

    Nhưng cô em tôi thực sự nổi bật. Cô đang làm công việc kiểm soát đám đông, phù hiệu được cài trên ngực áo. Hình dáng còn nổi bật hơn nửa dặm băng vàng đánh dấu hiện trường vụ án đã được chăng ra, hơn cả ba chiếc xe tuần cảnh đã đậu ở đó với đèn tín hiệu nhấp nháy. Chiếc áo bó sát ngực màu hồng phát sáng còn rực rỡ hơn.

    Cô đứng ở một bên rìa bãi để xe, giữ đám đông cách xa các nhân viên phòng thí nghiệm có vẻ như đang kiểm tra thùng rác của tiệm cà phê. Tôi lấy làm mừng vì đã không bị chỉ định làm việc này. Mùi khó ngửi của nó lan khắp bãi để xe tới tận khung cửa xe của tôi - một thứ mùi đặc quánh tối tăm của bã cà phê pha trộn với quả nẫu và thịt lợn ôi.

    Tay cảnh sát ở lối vào bãi để xe là một anh chàng tôi quen mặt. Anh ta vẫy tay cho tôi vào và tôi tìm được một chỗ để đậu chiếc xe của mình.

    “Deb,” tôi lên tiếng gọi trong lúc bước lại. “Trang phục đẹp lắm. Thực sự tôn lên hết cỡ vóc dáng của em.”

    “Đồ chết tiệt,” cô em tôi đáp lại, mặt đỏ bừng. Quả là một trải nghiệm hiếm có với một cảnh sát đã trưởng thành.

    “Họ tìm thấy một cô gái điếm nữa,” cô nói. “Ít nhất, họ nghĩ đó là một cô điếm. Khó lòng nói chắc điều gì từ những thứ còn lại.”

    “Đây là vụ thứ ba trong năm tháng vừa qua,” tôi nói.

    “Vụ thứ năm,” cô nói với tôi. “Còn hai vụ nữa ở trên mạn Broward.” Cô lắc đầu. “Những gã ngốc đó cứ không ngừng khăng khăng nhắc đi nhắc lại rằng không có mối liên hệ chính thức nào.”

    “Như thế sẽ gây ra cả một núi giấy tờ,” tôi đấu dịu.

    Deb chưng cả hai hàm răng ra trước mắt tôi. “Thế còn một chút nghiệp vụ cơ bản của cảnh sát thì sao?” Cô em tôi nổi tam bành. “Một gã thiểu năng trí tuệ cũng có thể thấy ngay những vụ giết người này có liên hệ với nhau.” Và cô khẽ rùng mình.

    Tôi kinh ngạc nhìn cô chăm chú. Cô em nuôi tôi là một cảnh sát, con gái của một cảnh sát. Những cảnh tượng khủng khiếp tại hiện trường không mấy khi làm cô mất bình tĩnh. Khi còn là cảnh sát mới vào nghề và những tay lão làng hơn tìm cách trêu Deborah - chỉ cho cô thấy những thi thể nát tươm luôn xuất hiện mỗi ngày tại Miami - để khiến cô gái trẻ phải phun sạch bữa trưa ra, cô thậm chí đã chẳng buồn chớp mắt. Cô đã chứng kiến qua tất cả. Đến tận nơi, nhìn tận mắt, chạm tận tay.

    Nhưng vụ lần này khiến cô rùng mình.

    Thú vị đây.

    “Vụ này đặc biệt hơn, phải không?” Tôi hỏi.

    “Vụ này xảy ra trong lĩnh vực hoạt động của em, nạn nhân là các cô gái điếm.” Cô chỉ một ngón tay vào tôi. “Và điều đó có nghĩa là em có trách nhiệm tham gia vào vụ này, được chú ý và có cơ hội chuyển sang Ban Án mạng.”

    Tôi dành cho cô em nuôi nụ cười thật hạnh phúc. “Tham vọng sao, Deborah?”

    “Hoàn toàn đúng,” cô nói. “Em muốn biến khỏi Ban Tội phạm xã hội, muốn biến khỏi những món đồ khêu gợi này. Em muốn sang bên Án mạng, Dexter, đây có thể là giấy thông hành của em. Với một bước đột phá nhỏ…” Cô dừng lời. Rồi nói thêm những lời thực sự đáng kinh ngạc. “Làm ơn hãy giúp em, Dexter,” cô nói. “Em thực sự rất ghét làm công việc hiện tại.”

    “Làm ơn ư, Deborah? Em vừa nói làm ơn với anh sao? Em có biết nó làm anh bối rối đến thế nào không?”

    “Thôi nói linh tinh đi, Dex.”

    “Nhưng Deborah, thực tình…”

    “Em nói là thôi đi mà. Anh có định giúp em không hả?”

    Khi cô em tôi đã gặng hỏi theo kiểu đó, với lời nài nỉ “làm ơn” hiếm hoi vẫn còn dư âm trong không khí, tôi còn biết nói gì đây, ngoại trừ, “Tất nhiên là có rồi, Deb. Em biết thế mà.”

    Cô gái nhìn tôi thật dữ dằn, lấy lại hoàn toàn hai từ “làm ơn” lúc trước của mình. “Em không biết, Dex. Em chẳng biết gì liên quan tới anh hết.”

    “Tất nhiên anh sẽ giúp, Deb.” Tôi lặp lại, cố làm ra vẻ khổ sở. Thực hiện một màn giả bộ thực sự hoàn hảo về lòng tự tôn bị tổn thương, tôi hướng tới chỗ thùng rác cùng các kỹ thuật viên còn lại của phòng thí nghiệm.

    Camilla Figg đang bò trườn tìm kiếm các dấu vân tay trên túi rác. Cô ta là một phụ nữ thấp bé ba mươi lăm tuổi với mái tóc ngắn, người dường như chưa bao giờ phản ứng lại những câu pha trò vui vẻ rất có duyên của tôi. Nhưng khi nhìn thấy tôi, cô ta nhổm dậy trên hai đầu gối, đỏ mặt, nhìn tôi đi ngang qua mà không nói gì. Dường như cô ta luôn nhìn tôi chằm chằm rồi sau đó đỏ mặt.

    Ngồi trên một thùng nhựa đựng sữa úp ngược ở phía cuối thùng rác, Vince Masuoka đang cời một nắm rác. Anh ta mang trong mình nửa dòng máu Nhật và thích đùa rằng anh ta được thừa hưởng nửa ngắn. Hay ít nhất anh ta gọi nó là một cách bông đùa.

    Có chút gì đó hơi gượng gạo trong nụ cười châu Á rạng rỡ của Vince. Như thể anh ta đã học cách cười từ một cuốn sách ảnh. Thậm chí khi anh ta đưa ra những lời bỡn cợt tục tĩu lúc cần thiết với đám cảnh sát, chẳng ai nổi điên với anh ta cả. Cũng chẳng ai cười, nhưng điều đó cũng không khiến anh ta dừng lại. Anh ta luôn thực hiện đủ mọi cử chỉ lễ độ đúng đắn, nhưng dường như lúc nào cũng mang vẻ giả tạo. Tôi nghĩ có lẽ chính vì thế tôi thích anh ta. Một anh chàng nữa cũng đang giả bộ có nhân tính, giống như tôi vậy.

    “Thế nào, Dexter,” Vince lên tiếng nhưng không hề ngước mặt lên. “Chuyện gì lôi anh đến đây vậy?”

    “Tôi đến để chứng kiến những chuyên gia thực sự tác nghiệp ra sao trong một môi trường hoàn toàn nhà nghề,” tôi nói. “Anh đã thấy gì chưa?”

    “Ha - ha,” anh ta nói. Đó dường như là một tiếng cười, nhưng còn giả tạo hơn cả nụ cười của anh ta. “Chắc anh nghĩ mình đang ở Boston.” Anh ta tìm thấy thứ gì đó và giơ lên ánh sáng, nghiêng đầu ngắm nhìn. “Hỏi nghiêm chỉnh nhé, tại sao anh lại ở đây?”

    “Tại sao tôi lại không thể ở đây được, Vince?” Tôi hỏi lại, làm ra vẻ bực mình. “Đây là hiện trường một vụ án, phải không nào?”

    “Anh phụ trách phát hiện vết máu,” anh ta nói, rồi ném đi thứ vừa ngắm nghía và chuyển sang tìm kiếm thứ khác.

    “Tôi biết chứ.”

    Anh ta nhìn tôi với nụ cười giả tạo tươi tắn nhất của mình. “Ở đây chẳng có tí máu nào cả, Dex.”

    Tôi thấy ngạc nhiên. “Thế là sao?”

    “Chẳng có vết máu nào ở bên trong, bên ngoài hay gần kề cả, Dex. Không có vết máu nào hết. Điều kỳ quái nhất anh từng được thấy qua,” anh ta nói.

    Không có vết máu nào hết. Tôi có thể nghe thấy những từ đó lặp đi lặp lại trong đầu mình, lần sau to hơn lần trước. Không có vết máu dinh dính, nóng hổi, nhem nhuốc, đáng sợ nào cả. Không giọt. Không vết. KHÔNG HỀ CÓ MÁU.

    Tại sao tôi lại không nghĩ tới điều đó chứ?

    Nghe giống như mảnh ghép còn thiếu của một thứ mà trước đây tôi không hề biết là chưa hoàn chỉnh.

    Tôi không giả bộ mình hiểu điều đó có nghĩa là gì với Dexter và máu. Chỉ nghĩ tới điều đó thôi cũng đủ làm răng tôi nghiến chặt - ấy vậy mà, nói cho cùng, tôi đã lấy nó làm sự nghiệp, làm chủ đề nghiên cứu, một phần công việc thực sự của mình. Rõ ràng có điều gì đó rất bí hiểm đang diễn ra, nhưng tôi cảm thấy có chút khó khăn để lưu tâm. Tôi dù gì vẫn là tôi, đó chẳng phải là một đêm thật thú vị khi chặt một gã sát hại trẻ con ra từng khúc sao?

    Nhưng chuyện này…

    “Không sao chứ, Dexter?” Vince hỏi.

    “Tôi đang bị ấn tượng,” tôi nói. “Hắn làm chuyện đó thế nào?”

    “Còn tùy.”

    Tôi nhìn Vince. Anh ta đang nhìn chăm chăm vào một nắm bã cà phê, thận trọng bới gẩy nó bằng một ngón tay đi găng cao su. “Tùy vào cái gì, Vince?”

    “Vào việc hắn là ai và chuyện hắn đã làm là gì,” anh ta đáp. “Ha - ha.”

    Tôi lắc đầu. “Đôi khi anh cố gắng quá lố để tỏ ra khó hiểu,” tôi nói. “Kẻ sát nhân đã loại bỏ vết máu bằng cách nào?”

    “Ngay lúc này cũng khó nói,” anh ta đáp. “Chúng tôi chưa tìm ra vết nào cả. Thi thể nạn nhân quả thực không ở trong tình trạng lý tưởng, vì thế sẽ khó tìm được gì nhiều.”

    Nghe thực sự còn xa mới có thể coi là thú vị. Tôi thích để lại một thi thể gọn ghẽ. Không lôi thôi, không bừa bộn, không máu chảy ròng ròng. Nếu gã sát nhân này cũng chỉ lại là một con chó xẻ thịt róc xương nữa, điều đó với tôi chẳng là gì hết.

    Tôi hít thở có phần thoải mái hơn. “Thi thể nạn nhân ở đâu?” Tôi hỏi Vince.

    Anh ta hất hàm về một nơi cách đó chừng hai mươi foot. “Đằng kia,” anh ta nói. “Cùng với LaGuerta.”

    “Ôi trời,” tôi thốt lên. “LaGuerta đang phụ trách vụ này sao?”

    Anh ta lại dành cho tôi nụ cười giả tạo của mình. “Kẻ sát nhân may mắn.”

    Tôi đưa mắt nhìn. Một nhóm nhỏ đang đứng quanh một đám túi đựng rác gói buộc gọn ghẽ. “Tôi không thấy nó,” tôi nói.

    “Ngay đó thôi. Những cái túi đựng rác. Mỗi túi là một phần thi thể. Hắn đã cắt nạn nhân thành từng mảnh rồi gói ghém mỗi mảnh lại như một món quà Giáng sinh vậy. Anh đã từng bao giờ thấy chuyện gì tương tự trước đây chưa?”

    Tất nhiên là có.

    Đó là cách tôi vẫn làm.

    --------------------------------
    1 1 foot = 30 cm.
    2 Một loại nhạc dân gian có nguồn gốc từ Texas.
    3 Tên một loại sandwich kẹp thịt lợn, giăm bông, pho mát có nguồn gốc từ Cuba và Puerto Rico.

  3. #3
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,707
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 3

    Có điều gì đó kỳ lạ và khiến người ta dịu lại khi quan sát hiện trường một vụ án mạng dưới ánh nắng ban ngày rực rỡ của Miami. Nó khiến cho những vụ sát nhân ghê tởm nhất trông cũng thật sạch sẽ, như một cảnh trên sân khấu. Như thể bạn đang ở một khu vực mới lạ và mạo hiểm trong công viên Disney. Lãnh địa của Dahmer 1. Hãy tới mở tủ lạnh ra nào. Làm ơn hãy chỉ cho bữa trưa của bạn những hộp đựng đã được dành riêng cho nó.

    Không phải cảnh tượng những thi thể bị cắt rời từng mảnh, cho dù ở nơi nào, từng làm tôi bận lòng, không, còn xa mới là thế. Quả thực, tôi có bực bội đôi chút khi phải nhìn những cái xác bê bết, nhếch nhác khi những kẻ ra tay quá bất cẩn với thứ chất lỏng bên trong cơ thể - thứ thật khó chịu. Ngoài chuyện đó ra, cảnh tượng dường như cũng chẳng tệ hại hơn so với khi ngắm nghía những miếng sườn thừa ở cửa hàng thực phẩm. Nhưng đám lính mới và những người tới thăm hiện trường các vụ án thường có xu hướng nôn thốc nôn tháo - và vì vài lý do nào đó, ở đây bọn họ nôn mửa ít hơn trên phía Bắc. Chỉ đơn giản là mặt trời đã xua tan đi mùi xú uế. Nó làm sạch mọi thứ, làm chúng trông tươm tất hơn. Có lẽ đó là lý do tôi yêu Miami. Quả là một thành phố tươm tất và gọn ghẽ.

    Lúc này là một ngày đẹp trời, nóng bức, rất đặc trưng của Miami. Bất cứ ai đã khoác một bộ vét lên người lúc này đều đang tìm một chỗ để treo nó lên. Than ôi, ở trong bãi để xe bé tẹo bụi bặm nhếch nhác này chẳng có chỗ nào như thế cả. Chỉ có năm sáu chiếc xe và cái thùng rác. Nó được đặt ở góc bãi, cạnh tiệm cà phê, dựa vào một bức tường trát vữa hồng, trên đầu tường căng dây thép gai. Kia là cửa sau của tiệm cà phê. Một phụ nữ trẻ mặt mày sưng sỉa hết đi ra lại đi vào, hối hả phục vụ cà phê Cuba và bánh bột gạo cho đám nhân viên cảnh sát và pháp y có mặt tại hiện trường. Một nhóm nhỏ cớm đủ thành phần mặc cảnh phục đang có mặt tại hiện trường vụ án mạng, hoặc để được để ý tới, hoặc để gây áp lực, hoặc để bảo đảm chắc chắn họ biết chuyện gì đang xảy ra, giờ đây có thêm một việc nữa để loay hoay xử lý. Cà phê, một cái bánh bột gạo, một cái áo vét cảnh phục.

    Đám nhân viên phòng thí nghiệm pháp y không mặc cảnh phục. Những chiếc áo sơ mi hai túi ngực phù hợp với công việc của họ hơn. Tôi cũng mặc một chiếc như thế. Chiếc áo có in họa tiết những nhạc công đánh trống và cây cọ lặp đi lặp lại trên nền vải màu xanh lục. Rất phong cách, nhưng cũng thực dụng.

    Tôi hướng tới chiếc áo sơ mi hai túi ngực đứng gần mình nhất trong đám người đứng quanh thi thể. Chủ nhân của nó là Angel Batista - không - họ - hàng, như anh ta vẫn hay tự giới thiệu bản thân. Chào, tôi là Angel Batista, không họ hàng. Anh ta làm việc tại văn phòng bác sĩ pháp y. Lúc này, anh chàng đang ngồi xổm xuống bên một trong những chiếc túi đựng rác và nhìn chăm chú vào bên trong.

    Tôi đến bên anh ta, nóng lòng muốn tận mắt nhìn thấy những gì nằm trong túi. Bất cứ thứ gì đem lại một phản ứng tích cực từ Deborah cũng đáng bỏ công ra tìm hiểu.

    “Angel,” tôi nói trong lúc đi tới bên cạnh anh ta. “Chúng ta có gì nào?”

    “Ý anh nói ‘chúng ta’ là sao, chàng trai da trắng?” Anh ta hỏi. “Chúng ta chẳng có vết máu nào ở vụ này cả. Anh bạn thất nghiệp rồi.”

    “Tôi đã nghe qua rồi.” Tôi ngồi xổm xuống cạnh anh ta. “Chuyện này đã được thực hiện tại đây, hay chúng chỉ được ném vào đây thôi?”

    Anh ta lắc đầu. “Khó nói lắm. Người ta đổ thùng rác này hai lần mỗi tuần - có lẽ mấy cái túi đã nằm đây hai ngày rồi.”

    Tôi nhìn quanh bãi để xe, rồi ngước lên mặt tiền lở lói của Calcique. “Thế còn nhà trọ thì sao?”

    Angel nhún vai. “Bọn họ vẫn đang kiểm tra, nhưng tôi không nghĩ bọn họ sẽ tìm thấy gì. Những lần khác, hắn chỉ đơn giản là dùng một thùng rác xách tay. Hừm,” anh ta đột nhiên bật ra một tràng.

    “Cái gì?”

    Anh ta dùng một cái bút chì để vén túi đựng rác ra. “Nhìn qua vết cắt kia xem.”

    Khúc cuối của một cẳng chân bị cắt lìa lộ ra, trông nhợt nhạt và đượm vẻ chết chóc dưới ánh mặt trời. Khúc cẳng chân kết thúc ở cổ chân, phần bàn chân đã bị cắt lìa một cách gọn ghẽ. Trên đó còn lưu lại một hình xăm con bướm nhỏ, một bên cánh đã bị cắt rời đi cùng với bàn chân.

    Tôi huýt sáo. Gần như là giải phẫu vậy. Gã này đã thực hiện công việc rất chu đáo - tốt chẳng kém gì so với khả năng tôi có thể làm. “Rất sạch sẽ,” tôi nói. Quả đúng vậy, thậm chí không chỉ ở mức độ gọn ghẽ của vết cắt. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy xác thịt đã chết lại trông sạch sẽ, khô ráo, gọn gàng đến thế. Quả là một kỳ quan.

    “Quỷ tha ma bắt với thứ sạch sẽ của anh bạn đi,” anh ta nói. “Vẫn chưa kết thúc đâu.”

    Tôi đưa mắt nhìn qua người anh ta, ngó sâu hơn một chút vào trong túi đựng rác. Không có gì động đậy trong đó. “Với tôi, trông có vẻ thực sự kết thúc rồi đấy, Angel.”

    “Nhìn đi,” anh ta nói. Rồi mở một túi đựng rác khác. “Cái chân này hắn đã chặt ra thành bốn mảnh. Gần như thể có dùng đến thước kẻ hay thứ gì đại loại thế, thấy không? Còn cái này,” anh ta lại chỉ vào khúc cẳng chân thứ nhất tôi đã rất ngưỡng mộ, “hắn chỉ cắt thành có hai mảnh thôi phải không nào? Hừm, làm sao có thể thế được?”

    “Tôi dám chắc là mình không biết,” tôi nói. “Có thể thám tử LaGuerta sẽ hình dung ra được.”

    Angel nhìn tôi giây lát, cả hai chúng tôi phải cố gắng để giữ khuôn mặt nghiêm chỉnh. “Có lẽ cô ta sẽ làm được,” anh ta nói, rồi quay trở lại với công việc của mình. “Sao anh bạn không tới mà hỏi cô ta?”

    “Chuyện đó để sau, Angel,” tôi nói.

    “Gần như chắc chắn rồi,” anh ta trả lời, cúi đầu xuống cái túi.

    Vài năm trước, từng có tin đồn thám tử Migdia LaGuerta về được Ban Án mạng bằng cách ngủ với ai đó. Khi nhìn cô ta, rất có thể bạn sẽ tin chuyện này. Cô ta có tất cả những thứ cần thiết ở đúng vị trí để có được ngoại hình hấp dẫn một cách khinh khỉnh, cao ngạo. Một nghệ sĩ thực thụ trong phong cách trang điểm và ăn mặc rất thời trang, đệ tử ruột của Bloomingdale 2. Nhưng lời đồn đại đó không thể là sự thật. Trước nhất, cho dù cô ta có một ngoại hình cực kỳ nữ tính, tôi chưa bao giờ gặp một phụ nữ nào lại có nội tâm nam tính đến vậy. Cô ta cứng rắn, tham vọng theo cách ích kỷ và vụ lợi nhất, điểm yếu duy nhất của cô ta dường như là sở thích dành cho những anh chàng bảnh trai như người mẫu và trẻ tuổi hơn cô ta. Vì vậy, tôi tin chắc cô ta không cần viện đến tình dục để về được Ban Án mạng. Cô ta về được Ban Án mạng vì là người gốc Cuba, biết chơi trò chính trị và nịnh bợ. Sự kết hợp này còn hữu ích hơn nhiều so với tình dục tại Miami.

    LaGuerta cực giỏi trong trò nịnh bợ, một kẻ chuyên hôn mông người khác tầm cỡ thế giới. Cô ta đã hôn mông đủ người trên suốt con đường dài dẫn tới địa vị đầy thế lực của một thanh tra án mạng. Thật không may, đây là một công việc mà tài năng bợ đỡ của cô ta chẳng bao giờ có dịp trở nên hữu ích, cô ta quả là một thám tử kinh khủng.

    Chuyện này vẫn xảy ra, những kẻ kém cỏi vẫn thường được tưởng thưởng. Dù thế nào tôi vẫn phải làm việc với cô ta. Vì thế, tôi đã sử dụng sức hấp dẫn đáng kể của mình để làm cho cô ta thích tôi. Dễ dàng hơn nhiều so với những gì các vị có thể hình dung. Bất cứ ai cũng đều có khả năng trở nên hấp dẫn nếu họ không ngại giả vờ, nói ra tất cả những lời lẽ ngớ ngẩn, hời hợt, lộn mửa mà lương tâm ngăn không cho phần lớn mọi người thốt ra. Thật hạnh phúc làm sao, tôi chẳng hề có lương tâm. Vậy là tôi nói.

    Trong lúc tôi tới gần một nhóm nhỏ đang đứng xúm lại cạnh tiệm cà phê, LaGuerta đang thẩm vấn ai đó với thứ tiếng Tây Ban Nha nhanh như một tràng súng máy. Tôi nói được tiếng Tây Ban Nha; thậm chí còn hiểu được ít nhiều tiếng Cuba. Nhưng tôi chỉ có thể nghe được một phần mười những gì LaGuerta nói. Khẩu âm Cuba thực sự là nỗi tuyệt vọng của cộng đồng nói tiếng Tây Ban Nha. Mục đích duy nhất của thứ tiếng Tây Ban Nha - Cuba này dường như là chạy đua với một chiếc đồng hồ bấm giây vô hình và thể hiện được càng nhiều càng tốt những tràng phát âm dài đến ba giây mà không dùng tới bất cứ phụ âm nào.

    Bí quyết để theo kịp thứ ngôn ngữ này là biết người sử dụng nó sắp nói gì trước khi họ nói ra. Điều này thường có xu hướng đóng góp vào tính bè phái mà những người không phải gốc Cuba đôi lúc vẫn phàn nàn.

    Người đang bị LaGuerta thẩm vấn là một người đàn ông thấp lùn, to ngang, rám nắng, với những đường nét của dân da đỏ, rõ ràng đang bị khẩu âm, giọng điệu và tấm phù hiệu cảnh sát dọa cho chết khiếp. Người đàn ông cố không nhìn cô ta trong lúc nói và chuyện này dường như càng khiến cô ta nói nhanh hơn.

    “No, no hay nadie afuera,” anh ta nhẹ giọng và chậm rãi nói, mắt nhìn đi hướng khác. “Todos estan en café.” Không có ai ở bên ngoài, tất cả họ đều ở trong tiệm cà phê.

    “Donde estabas?” Cô ta hỏi. Lúc đó anh ở đâu?

    Người đàn ông nhìn về phía những chiếc túi đựng các mảnh thi thể, rồi nhanh chóng đảo mắt tránh đi. “Cocina.” Trong bếp. “Entonces yo saco la basura.” Sau đó tôi mang rác ra ngoài đổ.

    LaGuerta tiếp tục, gây sức ép với anh ta bằng lời nói, hỏi những câu hỏi sai lầm bằng một giọng điệu đầy đe dọa và nhục mạ với người đàn ông, cho tới khi anh ta dần dà quên đi nỗi kinh hoàng của việc tìm thấy những mảnh xác chết trong thùng rác và trở nên ương bướng, bất hợp tác.

    Quả là một màn trình diễn bậc thầy. Túm lấy nhân chứng chủ yếu và làm cho anh ta chống đối bạn. Nếu bạn có thể làm hỏng bét vụ án trong vài giờ đầu tiên kể từ lúc xảy ra án mạng, chuyện đó sẽ cho phép tiết kiệm thời gian và công việc bàn giấy sau này.

    Cô ta kết thúc bằng vài lời đe dọa rồi cho người đàn ông đi. “Đồ da đỏ thối tha,” cô ta khinh bỉ bật ra, khi người đàn ông đã đi ra ngoài tầm nghe.

    “Thế gian có đủ loại người mà, thám tử,” tôi nói. “Kể cả những người nông dân.” Cô ta quay lại và đưa mắt chậm rãi lướt trên người tôi, trong khi tôi đứng và tự hỏi tại sao. Chẳng lẽ cô ta đã quên hình dáng của tôi? Nhưng cuối cùng cô ta cũng kết thúc với một nụ cười hết cỡ. Cô ta thực sự thích tôi, ả ngốc.

    “Chào, Dexter. Cái gì đưa đẩy anh tới đây vậy?”

    “Tôi nghe nói cô đang ở đây và không thể không tìm đến. Làm ơn đi, thám tử, bao giờ cô mới chịu cưới tôi?”

    Cô ta cười khúc khích. Những cảnh sát còn lại trong tầm nghe đưa mắt nhìn nhau rồi cùng đưa mắt nhìn đi hướng khác. “Tôi không bao giờ mua giày cho tới khi đã đi thử,” LaGuerta nói. “Cho dù trông đôi giày có đẹp đến thế nào đi nữa.” Trong khi tôi tin chắc điều đó là đúng, nó cũng không thực sự giúp tôi giải thích được tại sao cô ta lại nhìn tôi chằm chằm với cái lưỡi nằm giữa hai hàm răng trong lúc nói ra những lời đó. “Giờ hãy đi đi, anh làm tôi phân tâm. Tôi có việc nghiêm túc cần làm ở đây.”

    “Tôi thấy rồi,” tôi đáp. “Cô đã bắt được tên sát nhân chưa?”

    Cô ta khịt mũi. “Nghe anh nói cứ như phóng viên vậy. Chỉ một giờ nữa thôi là đám thối tha đó sẽ bu cả lấy tôi.”

    “Cô sẽ nói gì với bọn họ?”

    Cô ta nhìn những cái túi đựng các mảnh thi thể và cau mày. Không phải vì cảnh tượng làm cô ta bận tâm. Cô ta đang cân nhắc tới sự nghiệp của mình, cố gắng hình dung ra những lời lẽ sẽ dùng để thông báo với đám phóng viên.

    “Chỉ là vấn đề thời gian trước khi tên sát nhân phạm sai lầm và chúng ta tóm được hắn…”

    “Nghĩa là,” tôi nói, “cho tới lúc này hắn chưa phạm bất cứ sai lầm nào, cô chẳng có bất cứ manh mối nào và phải đợi hắn tiếp tục giết người, trước khi làm được gì đó?”

    Cô ta lạnh lùng nhìn tôi. “Tôi quên mất. Tại sao tôi lại thích anh nhỉ?”

    Tôi chỉ nhún vai. Tôi chẳng có manh mối nào - nhưng vậy đấy, có vẻ cô ta cũng không.

    “Tất cả những gì chúng ta có là một con số không. Gã người Guatemala đó,” cô ta nhăn mặt hướng về phía người da đỏ đang tháo lui, “hắn ta tìm thấy thi thể khi mang rác từ trong nhà hàng ra đổ. Hắn không nhận ra những túi rác này và mở một túi ra xem liệu bên trong có món gì hời không. Và trong đó là cái đầu.”

    “Thấy rồi nhé,” tôi dịu giọng nói.

    “Hả?”

    “Không có gì.”

    Cô ta nhìn quanh, cau mày, có lẽ hy vọng một manh mối nào đó sẽ thò ra và có thể bắn vào nó.

    “Thế đấy. Không ai nhìn thấy gì, không ai nghe thấy gì. Chẳng có gì hết. Tôi buộc phải đợi đám nghiện máy tính các anh hoàn tất công việc trước khi biết được bất cứ điều gì.”

    “Thám tử,” một giọng nói vang lên sau lưng chúng tôi. Đại úy Matthews bước tới, cả người ngập trong mùi nước thơm dùng sau cạo râu hiệu Aramis, đồng nghĩa với việc đám phóng viên sắp sửa xuất hiện.

    “Xin chào đại úy,” LaGuerta nói.

    “Tôi đã yêu cầu sĩ quan Morgan tham gia điều tra ngoại vi trong vụ này,” ông ta nói. LaGuerta do dự. “Với tư cách là nhân viên hoạt động ngầm, cô ấy có các mối quan hệ trong cộng đồng gái mại dâm nên có thể trợ giúp chúng ta trong việc giải quyết khó khăn.” Viên đại úy nói như trong sách. Kết quả của quá nhiều năm ngồi viết báo cáo.

    “Đại úy, tôi không dám chắc chuyện này có cần thiết hay không,” LaGuerta nói.

    Viên đại úy nháy mắt và đặt một bàn tay lên vai cô ta. Quản lý con người là một kỹ năng. “Thoải mái đi nào, thám tử. Cô ấy sẽ không can dự tới quyền chỉ đạo cuộc điều tra của cô. Cô ấy sẽ chỉ làm việc với cô khi có điều gì cần báo cáo. Nhân chứng hay những thứ đại loại như thế. Bố cô ấy là một cảnh sát rất giỏi. Được chứ?” Đôi mắt ông ta sáng lên và tập trung sang thứ gì đó ở phía đối diện bãi để xe. Tôi nhìn theo. Xe của Bản tin kênh Bảy đang lăn bánh vào. “Thứ lỗi cho tôi,” Matthews nói. Ông ta chỉnh lại cà vạt, chưng lên mặt vẻ nghiêm trọng, bước về phía chiếc xe.

    “Con điếm,” LaGuerta khẽ rủa.

    Tôi không biết cô ta có ý dùng nó như một lời nhận xét chung chung, hay đang nói về Deb, nhưng tôi nghĩ lúc này cũng là thời điểm lý tưởng để rút êm trước khi LaGuerta nhớ ra sĩ quan Con điếm cũng chính là em gái tôi.

    Khi tôi tới bên Deb, Matthews đang bắt tay Jerry Gonzalez, người của kênh Bảy. Jerry là nhân vật tiên phong cổ súy cho phong cách đưa tin nếu - có - đổ - máu - nó - sẽ - là - tin - đầu - bảng ở khu vực Miami. Một gã cùng loại với tôi. Lần này ông ta sẽ phải thất vọng.

    Tôi chợt cảm thấy một cơn ớn lạnh lướt đi trên da mình. Không hề có vết máu.

    “Dexter,” Deborah nói, vẫn cố làm ra vẻ của một tay cớm, nhưng tôi dám chắc cô em tôi đang rất kích động. “Em đã nói chuyện với đại úy Matthews. Ông ấy sẽ cho phép em tham gia vào vụ này.”

    “Anh cũng nghe thấy thế,” tôi nói. “Cẩn thận đấy.”

    Cô chớp mắt nhìn tôi. “Anh nói chuyện quái gì vậy?”

    “LaGuerta,” tôi nói.

    Deborah bĩu môi. “Cô ta ư,” cô em tôi thốt lên.

    “Phải. Cô ta. Cô ta không ưa gì em, cô ta không muốn em quấy quả cô ta.”

    “Khó đấy. Cô ta đã nhận được lệnh từ đại úy.”

    “Phải rồi. Và cô ta đã dành ra được năm phút nghĩ ngợi xem có thể lách qua chúng bằng cách nào. Thế nên hãy cẩn thận sau lưng em, Deb.”

    Cô em tôi chỉ nhún vai. “Anh đã tìm thấy gì rồi?” Cô hỏi.

    Tôi lắc đầu. “Chưa gì hết. LaGuerta cũng đã cụt đường rồi. Nhưng Vince nói…” Tôi ngừng lại. Thậm chí nói về chuyện đó dường như vẫn quá riêng tư.

    “Vince nói gì cơ?”

    “Một chi tiết nhỏ thôi, Deb. Một chi tiết. Ai mà biết liệu nó có ý nghĩa gì?”

    “Sẽ chẳng ai biết nếu anh không nói về nó, Dexter.”

    “Thế này nhé… dường như không còn chút máu nào lưu lại trên thi thể. Không hề có vết máu.”

    Deborah lặng im ngẫm nghĩ trong một phút. Không phải là một quãng im lặng kính cẩn, không giống như tôi. Chỉ đơn giản là suy nghĩ. “Được thôi,” cuối cùng cô lên tiếng. “Em chịu thua. Điều đó có nghĩa là gì vậy?”

    “Còn quá sớm để nói,” tôi nói.

    “Nhưng anh nghĩ nó có ý nghĩa nào đó.”

    Nó có nghĩa là một sự nông nổi kỳ lạ. Nghĩa là muốn tìm ra thêm điều gì đó về gã sát thủ này sẽ là một thứ ám ảnh khó chịu. Nghĩa là một cái tặc lưỡi ngưỡng mộ từ Người lữ hành Tối Tăm, kẻ đáng ra phải nên im lặng vào lúc này, khi vừa mới trải qua cuộc phiêu lưu với gã mục sư. Nhưng thật khó giải thích những chuyện đó với Deborah, phải không nào? Vậy là tôi chỉ nói, “Có thể là thế, Deb. Ai có thể thực sự biết chắc đây?”

    Cô gay gắt nhìn tôi trong thoáng chốc, rồi nhún vai. “Được thôi,” cô em tôi nói. “Còn gì nữa không?”

    “Ồ, nhiều lắm,” tôi nói. “Những nhát cắt rất ngọt. Gần như một chuyên gia giải phẫu vậy. Trừ khi bọn họ tìm thấy gì tại nhà nghỉ, một chuyện không ai trông đợi, nạn nhân đã bị giết ở chỗ khác và mang đến ném ở đây.”

    “Ở đâu?”

    “Câu hỏi rất hay. Một nửa công việc của cảnh sát là đưa ra được những câu hỏi đúng.”

    “Nửa còn lại là trả lời chúng,” cô nói với tôi.

    “Vậy đấy. Vẫn chưa ai biết là nơi nào, Deb. Anh chắc chắn mình sẽ không có toàn bộ các thông tin pháp y…”

    “Nhưng anh bắt đầu có được một cảm nhận cho vụ này,” cô em tôi nói.

    Tôi nhìn cô. Cô nhìn lại. Trước đây tôi đã từng có những dự cảm. Thậm chí có một tiếng tăm nho nhỏ về chuyện này. Những dự cảm của tôi thường khá chính xác. Mà tại sao lại không chứ? Thường tôi biết rõ những kẻ sát nhân suy nghĩ như thế nào. Tôi cũng có cùng cách suy nghĩ. Tất nhiên không phải lúc nào tôi cũng đúng. Đôi lúc, tôi chệch đích khá xa. Sẽ không được hay lắm nếu lúc nào tôi cũng đúng. Tôi không muốn đám cớm tóm được hết những gã sát nhân hàng loạt còn lởn vởn ngoài kia. Khi đó tôi biết lấy gì làm thú vui nữa? Nhưng lần này, tôi cần chọn đi theo hướng nào với vụ điều tra cực kỳ thú vị này?

    “Nói cho em biết đi, Dexter,” Deborah giục giã. “Anh đã có dự đoán nào về vụ này chưa?”

    “Có thể lắm,” tôi nói. “Nhưng có lẽ vẫn còn hơi sớm.”

    “Được lắm, Morgan,” LaGuerta lên tiếng từ sau lưng chúng tôi. Cả hai cùng quay lại. “Tôi thấy đúng là cô đang mặc bộ đồ phù hợp với công việc của một cảnh sát thực thụ đấy.”

    Có chút gì đó trong giọng nói của LaGuerta nghe rất giống âm thanh của một cái tát lên mặt. Deborah cứng người lại. “Thám tử,” cô em tôi nói. “Bà đã tìm thấy gì chưa?” Cô đưa ra câu hỏi bằng giọng của người đã biết trước câu trả lời.

    Một hành động khiêu khích không cần thiết. Nhưng cũng chệch mục tiêu. LaGuerta dửng dưng phẩy tay. “Bọn họ chỉ là gái điếm,” cô ta nói, nhìn chằm chằm vào khe ngực Deb, lúc này càng phô ra rõ hơn bao giờ hết trong bộ đồ của gái đứng đường cô em tôi đang mặc. “Chỉ là đám gái đứng đường. Điều quan trọng ở đây là giữ không cho đám nhà báo phát cuồng lên.” Cô ta chậm rãi lắc đầu, như thể không tin nổi, rồi ngẩng lên. “Nếu tính đến những gì cô có thể làm với trọng lực, chuyện đó hẳn cũng dễ thôi.” Rồi cô ta nháy mắt với tôi và thủng thẳng bước đi về phía vành đai kiểm soát hiện trường, nơi đại úy Matthews đang nói chuyện với bộ dạng đầy trịnh trọng cùng Jerry Gonzalez đến từ kênh Bảy.

    “Con điếm,” Deborah nói.

    “Anh xin lỗi, Deb. Em có thích hơn nếu anh nói Chúng ta sẽ cho cô ta thấy? Hay anh nên nói là Anh đã nói với em rồi mà?”

    Cô lườm tôi. “Chết tiệt, Dexter,” cô em tôi thốt lên. “Em thực sự muốn là người tìm ra gã này.”

    Và khi tôi nghĩ tới chuyện không hề có vết máu…

    Cả tôi cũng vậy. Tôi cũng thực sự muốn tìm ra hắn.

    --------------------------------
    1 Jeffrey Lionel Dahmer, một kẻ sát nhân hàng loạt đã sát hại 17 người từ năm 1978 đến 1991.
    2 Một thương hiệu thời trang cao cấp.

  4. #4
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,707
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 4

    Tối hôm đó, tôi dong chiếc xuồng của mình ra ngoài sau khi làm về, để giải thoát bản thân khỏi những câu hỏi của Deb, đồng thời ngẫm nghĩ về những gì mình đang cảm nhận thấy. Cảm nhận. Tôi, cảm nhận. Một khái niệm mới hay làm sao.

    Tôi thong thả lái chiếc Whaler của mình ra kênh đào, không suy nghĩ gì, đắm chìm trong trạng thái thư giãn hoàn toàn, lướt đi với tốc độ chậm rãi qua những ngôi nhà lớn, tất cả đều được tách biệt khỏi nhau nhờ những bờ cây cao và hàng rào xích sắt. Tôi trưng ra, một cách rất tự nhiên, những cái vẫy tay hồ hởi và nụ cười rạng rỡ với tất cả những người láng giềng đang ở ngoài các khoảng sân nhà họ, nằm ngăn nắp trải dài cho tới tận bờ kênh đào. Đám trẻ con đang chơi trên thảm cỏ. Các ông bố bà mẹ đang nướng thịt, ngồi trên ghế dài hay lau dọn hàng rào, trong khi mắt vẫn không rời khỏi lũ trẻ. Tôi vẫy tay với từng người. Một số người trong bọn họ vẫy tay chào lại. Họ biết tôi, đều từng thấy tôi lái xuồng đi qua trước đây, luôn tươi cười, rạng rỡ chào mọi người. Anh ta thực là một người dễ mến. Rất thân thiện. Tôi không thể tin anh ta đã làm những chuyện khủng khiếp đó...

    Tôi mở van tiết lưu khi rời khỏi kênh đào, hướng ra eo biển, rồi ngoặt xuống phía đông nam, hướng tới mũi Florida. Gió táp vào mặt cùng vị mặn của nước biển bắn lên khiến đầu óc thoáng đãng, giúp tôi có cảm giác sáng suốt và tỉnh táo hơn. Tôi thấy dễ suy nghĩ hơn nhiều. Một phần nhờ vào sự yên bình và phẳng lặng của mặt nước. Phần còn lại nằm trong truyền thống tốt đẹp nhất của văn hóa giao thông đường thủy tại Miami, phần lớn những người lái thuyền khác dường như đang cố gắng tìm cách giết tôi. Tôi thấy chuyện đó thật thư giãn. Tôi đang ở đúng nơi của mình. Đây là lãnh địa của tôi; những người này là người của tôi.

    Cả ngày dài làm việc chỉ đem lại cho tôi thêm chút thông tin pháp y ít ỏi. Vào giờ ăn trưa, vụ án bùng nổ thành sự kiện toàn quốc. Sự quan tâm đổ dồn cả về những vụ sát hại gái mại dâm sau “khám phá rùng rợn” tại nhà nghỉ Cacique. Kênh Bảy đã thực hiện một công việc bậc thầy trong việc thể hiện trọn vẹn nỗi kinh hoàng ghê rợn về những mảnh thi thể bị cắt rời và bị vứt trong thùng rác mà không cần nói thêm bất cứ lời nào về chúng. Đúng như thám tử LaGuerta đã khôn ngoan nhận xét, những nạn nhân chỉ là gái đứng đường; nhưng một khi sức ép của công chúng bắt đầu tăng lên do truyền thông, khi đó họ sẽ chẳng khác gì những cô con gái của các thượng nghị sĩ. Và thế là sở cảnh sát bắt tay vào tung ra một loạt chiêu đòn hộ thân vì đã biết chính xác những gì sẽ tới từ những người lính chân trần can đảm không biết sợ của tầng lớp thứ năm 1 này.

    Deb đã ở lại hiện trường cho tới khi viên đại úy bắt đầu lo ngại về chuyện cho phép làm thêm giờ quá nhiều, sau đó cô em tôi bị yêu cầu quay về nhà. Cô bắt đầu gọi tôi lúc hai giờ chiều để biết những gì tôi đã khám phá ra, kỳ thực cũng rất ít ỏi. Người ta không tìm thấy bất cứ dấu vết nào của bất cứ thứ gì ở nhà nghỉ. Ngoài bãi để xe có nhiều dấu lốp đến mức không thể tách biệt ra được. Không có bất cứ dấu vân tay hay dấu vết nào khác trong thùng rác và các túi đựng rác, cũng như trên các mảnh thi thể. Mọi thứ đều sạch sẽ tinh tươm.

    Một đầu mối quan trọng của ngày hôm ấy là cái chân trái. Đúng như Angel đã nhận xét, chân phải nạn nhân đã bị cắt ra thành vài phần gọn ghẽ, bị cắt rời ở hông, đầu gối và cổ chân. Nhưng chân trái lại không như vậy. Nó chỉ gồm có hai phần, được bao gói gọn gàng. Vậy là thám tử LaGuerta, quý phu nhân thiên tài đó, cô ta đã nói gì nhỉ? Ai đó đã làm gã sát nhân bị gián đoạn, khiến hắn bị bất ngờ, làm hắn giật mình đến độ không thể hoàn tất việc cắt xẻ. Hắn đã phát hoảng khi bị trông thấy. Và cô ta hướng mọi nỗ lực của mình vào việc tìm cho ra nhân chứng nọ.

    Có một vấn đề nho nhỏ với giả thiết hung thủ bị quấy rầy của LaGuerta. Một chi tiết nhỏ xíu, có lẽ chỉ bằng một nửa sợi tóc, nhưng... toàn bộ thi thể nạn nhân đã được làm sạch và gói ghém lại một cách cẩn thận tỉ mỉ, nhiều khả năng sau khi nó đã bị cắt rời ra. Sau đó, nó lại được cẩn thận chở tới ném vào thùng rác, dường như có đủ thời gian và sự tập trung từ phía tên sát nhân để không gây nên bất cứ sai lầm nào, không để lại bất cứ dấu vết nào. Có thể không ai chỉ ra chi tiết này cho LaGuerta hay - quả là kỳ quan của kỳ quan! - có lẽ nào không ai khác nhận ra nó? Có thể lắm, phần lớn công việc cảnh sát mang tính thường quy, chắp ghép các chi tiết thành các khuôn mẫu. Và nếu khuôn mẫu hoàn toàn mới, cuộc điều tra có thể sẽ giống như ba gã mù xem xét một con voi bằng kính hiển vi vậy.

    Nhưng vì tôi chẳng mù cũng không hề bị các lề lối thường quy bó buộc, theo tôi, khả năng hợp lý hơn nhiều là gã sát thủ chỉ đơn giản không cảm thấy hài lòng. Thoải mái thời gian để ra tay, nhưng - đây đã là vụ án mạng thứ năm theo cùng một khuôn mẫu. Liệu việc chỉ đơn thuần cắt xẻ thi thể đã trở nên nhàm chán chăng? Liệu có phải Chàng trai của chúng ta đang tìm kiếm thứ gì khác, một điều gì đó mới mẻ? Một hướng mới, một thủ đoạn chưa từng được thử qua chăng?

    Tôi gần như có thể cảm thấy sự thất vọng của hắn. Sau khi đã đi xa đến thế, tới tận cùng, chia cắt những gì còn lại vào trong những tờ giấy gói quà. Và rồi đột nhiên vỡ lẽ: Không phải thế này. Có gì đó không đúng. Phí công vô ích.

    Cách thức này không còn đem đến khoái cảm cho hắn nữa. Hắn cần một cách tiếp cận mới. Hắn đang cố gắng thể hiện điều gì đó và vẫn chưa tìm ra cách trình bày ưng ý. Theo quan điểm cá nhân của tôi - ý tôi là, nếu tôi là hắn - điều đó sẽ làm hắn cực kỳ thất vọng. Và nhiều khả năng sẽ tiếp tục tìm kiếm câu trả lời.

    Sớm thôi.

    Nhưng cứ để LaGuerta tìm kiếm một nhân chứng. Sẽ chẳng có ai hết. Đây là một con quái vật lạnh lùng, cẩn trọng, với tôi thực sự rất ấn tượng. Tôi nên làm gì với sự ấn tượng đó? Tôi không chắc đã biết câu trả lời, vậy là tôi phải rút lui xuống chiếc xuồng của mình để suy nghĩ.

    Một chiếc Donzi lao cắt ngang qua sát trước mũi tôi ở tốc độ bảy mươi dặm 2 một giờ, chỉ cách có vài inch 3. Tôi vui vẻ vẫy tay chào và quay trở về thực tại. Tôi đang tới gần Stiltville, nơi tập hợp của những ngôi nhà nổi hầu hết bỏ hoang nằm trên mặt nước gần mũi Florida. Tôi lượn một vòng rộng, không hướng tới đâu cả, để tâm trí mình trở lại nhập vào đường lượn vòng chậm rãi đó.

    Tôi sẽ làm gì đây? Tôi cần quyết định ngay bây giờ, trước khi trở nên quá hữu ích cho Deborah. Tôi có thể giúp cô giải quyết vụ án này, chắc chắn rồi, không ai có thể tốt hơn tôi. Thậm chí còn chẳng có ai khác đi theo đúng hướng. Nhưng tôi có thực sự muốn giúp không? Tôi có thực sự muốn tên sát nhân này bị bắt không? Hay kỳ thực tôi muốn tự mình tìm hắn, chặn hắn lại? Mà hơn thế nữa - ôi, một ý nghĩ bé nhỏ mới xấu xa làm sao - thực ra tôi có muốn hắn dừng lại không?

    Tôi nên làm gì?

    Ở bên phải, tôi có thể nhìn thấy Elliott Key 4 trong những tia nắng cuối cùng của ban ngày. Như mọi khi, tôi nhớ lại chuyến đi cắm trại tới đó cùng Harry Morgan. Bố nuôi của tôi. Một cảnh sát tốt.

    Con rất khác biệt, Dexter.

    Vâng, Harry, chắc chắn là thế rồi.

    Nhưng con có thể học cách kiểm soát sự khác biệt đó và dùng nó một cách hữu ích.

    Được thôi, Harry. Nếu bố nghĩ con nên làm thế. Bằng cách nào đây?

    Và ông nói cho tôi biết.

    Chẳng có bầu trời đầy sao ở đâu giống bầu trời đầy sao ở Nam Florida khi bạn mười bốn tuổi và đang đi cắm trại với bố mình. Thậm chí dù cho ông chỉ là bố nuôi của bạn. Cho dù nếu tất cả những ngôi sao đó chỉ đơn thuần làm tràn ngập trong bạn một thứ cảm giác thỏa mãn, cũng không thể có chuyện cảm xúc ở đây. Bạn không cảm nhận thấy nó. Đó là một phần lý do khiến bạn có mặt tại đây.

    Đống lửa đã lụi, những vì sao sáng chói quá mức, còn bố nuôi yêu quý của tôi đã lặng im hồi lâu, nhấp từng ngụm nhỏ từ chai rượu dẹt kiểu cũ ông lấy ra từ túi ngoài ba lô của mình. Ông không khá lắm trong chuyện này, không giống như nhiều cảnh sát khác, không thực sự là người nghiện ngập. Nhưng giờ cái chai đã cạn sạch, đó là lúc để ông nói ra điều muốn nói, nếu ông định nói về nó.

    “Con rất khác biệt, Dexter,” ông nói.

    Tôi rời mắt khỏi những vì sao lấp lánh. Xung quanh tràng cát nhỏ, những ánh lửa cuối cùng đang hắt bóng. Một số trong chúng chập chờn vắt qua khuôn mặt Harry. Trông ông thật lạ lùng với tôi, như thể tôi chưa từng nhìn thấy ông trước đó. Cương quyết, phiền muộn, cùng một chút sững sờ. “Ý bố là sao cơ ạ?”

    Ông không nhìn vào tôi. “Gia đình Billup nói Buddy đã biến mất,” ông nói.

    “Đồ nhóc con ồn ào. Đêm nào nó cũng sủa suốt. Mẹ không thể nào ngủ được.”

    Mẹ cần đến giấc ngủ, tất nhiên rồi. Chết dần vì ung thư đòi hỏi rất nhiều sự nghỉ ngơi, bà không thể có được điều đó với con chó nhãi nhép khốn kiếp bên kia đường cứ sủa nhặng lên mỗi khi có một cái lá rơi xuống vỉa hè.

    “Bố đã tìm thấy cái hố chôn,” Harry nói. “Trong đó có rất nhiều xương, Dexter. Không chỉ của mình Buddy.”

    Ở đây chẳng có gì nhiều để nói. Tôi cẩn thận vơ lấy một nắm lá thông và đợi Harry.

    “Con đã làm chuyện đó bao lâu rồi?”

    Tôi lén nhìn khuôn mặt Harry, sau đó đưa mắt nhìn qua tràng cát về phía bãi biển. Chiếc xuồng của chúng tôi ở ngoài đó, nhẹ nhàng dập dềnh theo làn nước. Ánh sáng của Miami nằm xa xa phía bên phải, một quầng sáng trắng dìu dịu. Tôi không thể hình dung ra Harry đang nhắm tới điều gì, hay những gì ông muốn nghe. Nhưng bố nuôi tôi là người thẳng tính; nói sự thật thường là một ý tưởng tốt khi nói chuyện với Harry. Ông luôn biết, hoặc sẽ tìm ra.

    “Một năm rưỡi rồi,” tôi nói.

    Harry gật đầu. “Tại sao con bắt đầu?”

    Một câu hỏi rất hay, chắc chắn vượt quá tuổi mười bốn của tôi. “Chỉ là - con... buộc phải,” tôi nói với ông. Ngay cả hồi đó, còn trẻ như vậy, đã trơn tru đến thế.

    “Con có nghe thấy một giọng nói không?” Ông muốn biết. “Thứ gì đó hay ai đó nói với con điều phải làm và con buộc phải làm điều đó?”

    “À,” tôi nói, với tài hùng biện của tuổi mười bốn, “không chính xác là vậy.”

    “Kể cho bố biết đi,” Harry nói.

    Ôi mặt trăng, một mặt trăng đầy đặn tròn trịa, một thứ gì đó lớn hơn đó nhìn vào. Tôi nắm chặt lấy một nắm lá thông nữa. Khuôn mặt tôi nóng bừng, như thể bố đang yêu cầu tôi kể về những giấc mơ yêu đương. Mà chúng, theo cách nào đó. “Nó, à... như thể con, bố biết đấy, cảm thấy gì đó,” tôi nói. “Bên trong. Quan sát con. Có thể lắm, ừm. Phá lên cười ư? Nhưng không thực sự là một giọng nói, chỉ là...” Một cái nhún vai hùng biện của đứa trẻ mới lớn. Nhưng dường như lại có ý nghĩa với Harry.

    “Và thứ này. Nó khiến con giết các con vật.”

    Thật cao trên đầu, một chiếc máy bay phản lực béo ục ịch chậm chạp bay qua. “Không, ừm, nó không khiến con,” tôi nói. “Chỉ là - nó làm cho điều đó dường như là một ý tưởng hay thì phải?”

    “Đã bao giờ con từng muốn giết thứ gì khác chưa? Thứ gì to hơn một con chó?”

    Tôi cố trả lời nhưng có gì đó tắc nghẹn trong cổ họng. Tôi hắng giọng. “Có,” tôi nói.

    “Một người nào đó ư?”

    “Không ai cụ thể cả, bố. Chỉ là...” Tôi lại nhún vai.

    “Tại sao con không làm?”

    “Là vì... Con nghĩ hai người sẽ không thích điều đó. Bố và mẹ.”

    “Đó là tất cả lý do đã ngăn con lại?”

    “Con, ừm - con không muốn bố, ừm, bực mình với con. Ừm... bố biết đấy. Thất vọng.”

    Tôi liếc trộm về phía Harry. Ông đang nhìn thẳng vào tôi, không chớp mắt. “Có phải vì thế mà chúng ta có chuyến đi này không, bố? Để nói về chuyện này?”

    “Phải,” Harry nói. “Chúng ta cần thu xếp ổn thỏa cho con.”

    Thu xếp ổn thỏa, phải rồi, một ý tưởng hoàn toàn đúng kiểu Harry về cách sống trên cuộc đời này, với những góc ngăn nắp sạch sẽ và những đôi giày bóng loáng. Thậm chí ngay từ khi đó tôi đã biết; thỉnh thoảng cần phải giết thứ gì đó chắc chắn sớm muộn gì cũng xuất hiện trên con đường để thu xếp ổn thỏa cho tôi.

    “Bằng cách nào?” Tôi hỏi, ông nhìn tôi thật lâu và nghiêm nghị, sau đó gật đầu khi nhận ra tôi đang theo ông từng bước.

    “Cậu bé ngoan,” ông nói. “Bây giờ.” Cho dù nói vậy, phải một lúc lâu sau ông mới nói tiếp. Tôi nhìn ánh sáng của một chiếc xuồng chạy ngang qua, có lẽ cách bãi biển nhỏ bé của chúng tôi chừng hai trăm yard 5. Vọng lên trên tiếng động cơ của nó, một chiếc radio đang phát ra một bản nhạc Cuba ầm ĩ. “Bây giờ,” Harry lại nói và tôi đưa mắt nhìn ông. Nhưng ông đang nhìn đi chỗ khác, xa hơn đằng sau đống lửa đang lụi dần, mất hút vào một tương lai nằm đâu đó ngoài xa. “Nó giống như thế này,” ông nói. Tôi cẩn thận lắng nghe. Đó là câu Harry nói khi ông truyền cho tôi một sự thật ở cấp độ cao hơn. Khi ông chỉ cho tôi cách ném bóng chày sao cho bóng đi chìm xuống và làm thế nào để tung ra một cú đấm móc trái. Nó giống như thế này, ông sẽ nói thế, luôn như vậy.

    1 Cách gọi thay cho “đại chúng”.

    “Bố đang già đi, Dexter.” Ông đợi tôi lên tiếng bác bỏ, nhưng tôi không làm thế và ông gật đầu. “Bố nghĩ người ta hiểu mọi thứ khác đi khi về già,” ông nói. “Đây không phải là chuyện trở nên mềm yếu, hay nhìn nhận sự vật theo gam màu xám thay vì đen và trắng. Bố thực sự tin mình chỉ hiểu mọi thứ một cách khác đi. Tốt hơn.” Ông nhìn tôi, cái nhìn của Harry, Tình yêu Mạnh Mẽ với đôi mắt xanh.

    “Được thôi,” tôi nói.

    “Mười năm trước, hẳn bố sẽ muốn đưa con vào một trung tâm giáo dục ở đâu đó,” ông nói và tôi chớp mắt. Những lời nói đó gần như khiến tôi thấy đau khổ, ngoại trừ chính tôi đã từng nghĩ đến điều tương tự. “Bây giờ,” ông nói, “bố nghĩ mình đã hiểu rõ hơn. Bố biết con là người thế nào và biết con là một đứa trẻ ngoan.”

    “Không,” tôi nói, câu trả lời vang lên rất nhẹ nhàng yếu ớt, nhưng Harry vẫn nghe thấy.

    “Có,” ông quả quyết nói. “Con là một đứa trẻ ngoan, Dex, bố biết thế. Bố biết như thế,” lúc này gần như ông đang nói với chính mình, có thể để tạo hiệu quả giao tiếp, rồi sau đó ánh mắt ông nhìn thẳng vào mắt tôi. “Nếu không, con sẽ chẳng bận tâm tới những gì bố nghĩ, hay mẹ nghĩ. Con sẽ cứ làm những gì con muốn. Con không thể dừng được, bố biết. Bởi vì…” Ông dừng lại, chỉ nhìn tôi một lát. Tôi cảm thấy rất không thoải mái. “Con còn nhớ gì từ trước đây?” Ông hỏi. “Con biết đấy. Trước khi chúng ta đón con về nuôi.”

    Nó vẫn còn khiến tôi đau, nhưng tôi thực sự không biết tại sao. Hồi ấy tôi mới lên ba. “Không gì cả.”

    “Tốt,” ông nói. “Không ai nên nhớ về nó.” Trong suốt thời gian bố nuôi tôi còn sống, đó là tất cả những gì ông nói về nó. “Nhưng mặc dù con không nhớ, Dex, nó vẫn gây ảnh hưởng đến con. Những thứ đó biến con thành như hiện tại. Bố đã nói chuyện với vài người về việc này.” Lạ lùng hơn cả, ông dành cho tôi một nụ cười, dè dặt, gần như ngượng ngùng. “Bố đã trông đợi chuyện này. Những gì xảy đến với con khi còn là một đứa trẻ đã định hình nên con. Bố đã cố uốn nắn lại, nhưng...” ông nhún vai. “Nó quá mạnh, quá sâu sắc. Nó ngấm vào con quá sớm và sẽ lưu lại. Nó sẽ làm con muốn giết chóc. Và con không thể cưỡng lại được. Con không thể thay đổi điều này. Nhưng...” Ông nói và lại đưa mắt nhìn đi nơi khác, nhìn vào điều gì đó tôi không đoán ra được. “Con có thể định hướng nó. Kiểm soát nó. Lựa chọn...” tới lúc này những lời ông nói trở nên thận trọng, thận trọng hơn bất cứ lúc nào tôi từng nghe ông nói trước đây. “... lựa chọn thứ... hay kẻ... con giết...” Ông dành cho tôi một nụ cười khác hẳn những gì tôi từng thấy trước đó, một nụ cười cũng lạnh lẽo khô khan như đám tro tàn từ đống lửa đang lụi dần của chúng tôi. “Có vô số kẻ đáng bị như thế, Dex...”

    Và với vài lời ít ỏi ấy, ông đã định hình nên cả cuộc đời tôi, tất cả mọi thứ thuộc về tôi, con người và cá nhân tôi. Người đàn ông tuyệt vời đó, thấy tất cả, hiểu tất cả. Harry. Bố tôi.

    Giá như tôi có thể yêu, tôi hẳn đã yêu Harry biết chừng nào.

    Việc đó xảy ra đã lâu. Harry đã mất từ lâu. Nhưng bài học của ông vẫn sống mãi. Không phải vì bất cứ cảm xúc ấm áp, ướt át và ủy mị mà tôi có. Mà vì Harry đúng. Tôi đã chứng minh điều đó hết lần này tới lần khác. Harry biết và đã dạy dỗ tôi chu đáo.

    Hãy thận trọng, Harry từng nói. Ông dạy tôi sự thận trọng với sự chu đáo mà chỉ một cảnh sát mới có thể dạy được cho một sát thủ.

    Chọn lựa thật cẩn thận trong số những kẻ đáng bị giết. Bảo đảm điều đó hoàn toàn chắc chắn. Sau đó thu dọn ngăn nắp. Không để lại dấu vết nào. Luôn tránh để bất cứ cảm xúc nào can dự vào, điều có thể dẫn tới sai lầm.

    Sự thận trọng còn được đề cao hơn cả việc giết chóc, tất nhiên rồi. Thận trọng cũng đồng nghĩa với xây dựng một cuộc sống thận trọng. Chia tách các phần đời sống của mình. Hòa nhập vào xã hội. Bắt chước người đời.

    Tôi đã thực hiện tất cả, một cách rất thận trọng. Tôi trở thành một thứ kỹ xảo ảo ảnh ba chiều gần như hoàn hảo. Nằm ngoài mọi nghi ngờ, cách xa mọi chê trách, ở dưới sự coi thường. Một con quái vật ngăn nắp và lịch sự, chàng trai láng giềng dễ mến. Thậm chí cả Deborah cũng bị đánh lừa đến một nửa, vào một nửa thời gian. Tất nhiên, cô em tôi cũng tin vào những gì cô muốn tin nữa.

    Ngay lúc này, cô tin tôi có thể giúp giải quyết những vụ án mạng kia, thúc đẩy sự nghiệp và giúp cô thoát khỏi bộ đồ của một ả điếm Hollywood để chuyển sang một bộ vét cắt may đáng tôn trọng. Cô em tôi có lý, tất nhiên rồi. Tôi có thể giúp cô. Nhưng tôi thực sự không muốn, vì tôi thấy thích thú với việc quan sát gã sát nhân kia hành sự và cảm thấy có mối liên hệ gần gũi nào đó, hay...

    Sự can thiệp của cảm xúc.

    À. Đúng nó rồi. Rõ ràng tôi đang vi phạm Nguyên tắc của Harry.

    Tôi quay mũi xuồng trở lại kênh đào của mình. Lúc này trời đã tối hơn, nhưng tôi vừa lái qua một cột phát sóng radio nằm chệch vài độ so với hướng về nhà của mình.

    Cứ vậy đi. Harry đã luôn đúng, bây giờ cũng thế. Đừng để cảm xúc can dự vào, Harry đã nói thế. Vậy tôi sẽ không để chuyện đó xảy ra.

    Tôi sẽ giúp Deb.

    --------------------------------
    1 1 dặm Anh = 1,609 km.
    2 1 inch = 2,54 cm.
    3 Đầu cực bắc của bán đảo san hô nối Florida Key.
    4 1 yard = 0,91 m.

  5. #5
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,707
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 5

    Sáng hôm sau, trời mưa và giao thông thật hỗn loạn, như vẫn luôn như thế ở Miami mỗi khi trời mưa. Một số lái xe đi chậm lại trên những con đường trơn trượt. Điều đó làm những người khác phát điên, họ không rời tay khỏi còi, thò đầu qua cửa quát tháo ầm ĩ, tăng tốc lách qua bên, điên cuồng vượt mặt những kẻ rùa bò và giơ nắm đấm lên.

    Ở con dốc Lejeune, một chiếc xe tải lớn chở sữa đã rú ga lách vượt lên và đâm vào một chiếc xe khách chở đầy học sinh của một trường học Thiên chúa giáo. Chiếc xe chở sữa lật nhào. Lúc này, năm cô bé mặc váy len trơn đang ngồi giữa một vũng sữa to lênh láng với vẻ mặt kinh hoàng. Giao thông nghẽn lại trong gần một giờ. Một đứa trẻ được trực thăng đưa tới bệnh viện Jackson. Những đứa khác ngồi trong đống sữa với bộ đồng phục trên người, quan sát người lớn quát nạt nhau.

    Tôi bình thản nhích lên từng chút trong lúc nghe radio. Có vẻ như cảnh sát đang ráo riết lần theo tung tích tên Đồ Tể Tamiami. Chưa có gì cụ thể được đưa ra, nhưng đại úy Matthews có một bài diễn thuyết nghe thật đáng yêu. Ông ta khiến thính giả có cảm tưởng ông ta sẽ đích thân ra tay bắt thủ phạm ngay sau khi uống xong tách cà phê của mình.

    Cuối cùng, tôi cũng ra được tuyến đường thoáng đãng và phóng nhanh hơn một chút. Tôi dừng lại ở một tiệm bánh rán nằm không quá cách xa sân bay, mua một chiếc bánh táo và một chiếc bánh ca vát, nhưng chiếc bánh táo đã gần như hết nhẵn khi tôi chui trở vào xe. Tôi có cường độ chuyển hóa rất cao. Nó đến cùng với việc sống một cuộc sống lành mạnh.

    Mưa đã ngừng khi tôi tới chỗ làm. Mặt trời ló dạng, hơi nước bốc lên từ vỉa hè khi tôi bước vào tiền sảnh, quẹt thẻ và đi lên lầu.

    Deb đã chờ sẵn tôi.

    Sáng nay cô em tôi trông có vẻ không được hạnh phúc lắm. Tất nhiên, lâu nay cô không còn thường xuyên có được bộ dạng đó nữa. Nói cho cùng, cô em tôi là một cảnh sát, và phần lớn họ không thể thành công trong việc giải tỏa sức ép. Quá nhiều thời gian làm nhiệm vụ, luôn phải cố gắng để trông không quá nhân tính. Điều đó để lại dấu vết trên khuôn mặt.

    “Deb,” tôi nói và đặt cái túi bánh màu trắng nhàu nhĩ lên mặt bàn làm việc.

    “Tối qua anh ở đâu?” Cô hỏi, giọng cáu kỉnh, đúng như tôi đã lường trước. Không lâu nữa, những đường hằn đó sẽ trở nên vĩnh viễn, hủy hoại một khuôn mặt tuyệt tác: đôi mắt xanh sâu thẳm, sống động và thông minh, chiếc mũi nhỏ hếch lên với chỉ chút tàn nhang, bao quanh là mái tóc đen. Những đường nét đẹp đẽ, lúc này đang bị trát be bét một lớp hóa trang rẻ tiền dày bự.

    Tôi nhìn cô đầy trìu mến. Rõ ràng Deb vừa làm nhiệm vụ về, hôm nay diện một chiếc áo ngực ren, quần soóc spandex bó sát màu hồng sáng chói, đôi giày cao gót màu vàng. “Đừng bận tâm về anh,” tôi nói. “Em đã ở đâu?”

    Cô em tôi đỏ mặt. Cô ghét phải mặc bất cứ thứ gì ngoài những chiếc quần jeans bó sạch sẽ. “Em đã cố gọi điện cho anh,” cô nói.

    “Xin lỗi,” tôi đáp.

    “Phải. Đương nhiên rồi.”

    Tôi ngồi xuống cái ghế của mình và không nói gì. Deb thích trút bực bội xuống tôi. Gia đình là để cho những việc như thế mà. “Sao em lại nóng lòng muốn nói chuyện với anh thế?”

    “Bọn họ đang gạt em ra ngoài,” cô em tôi nói. Cô mở chiếc túi đựng bánh rán của tôi ra và ngó vào trong.

    “Em còn trông đợi gì đây?” tôi nói. “Em biết LaGuerta nghĩ thế nào về em mà.”

    Cô lấy chiếc bánh ca vát ra khỏi túi và ăn ngấu nghiến.

    “Em trông đợi được tham gia vào vụ này,” cô nói, mồm lúng búng đầy bánh. “Đúng như ông đại úy nói.”

    “Em chẳng có chút trưởng thành,” tôi nói. “Cũng như bất cứ chút khéo léo về ứng xử nào.”

    Cô vo viên cái túi lại và ném vào đầu tôi. Cô nàng đã trượt. “Quỷ tha ma bắt, Dexter,” cô kêu lên. “Anh biết quá rõ em xứng đáng được thuyên chuyển sang Ban Án mạng. Thay vì...” Deb bật dây đeo áo ngực và phẩy tay hướng vào bộ trang phục mát mẻ của mình. “Mớ thối tha này.”

    Tôi gật đầu. “Mặc dù mặc nó trông em được lắm,” tôi nói.

    Cô chưng ra một khuôn mặt thật kinh khủng: giận dữ và ghê tởm đang quyết liệt giành nhau không gian trên đó. “Em căm ghét thứ này,” cô nói. “Em không thể làm việc này lâu hơn nữa, hoặc em xin thề chắc mình sẽ hóa điên mất.”

    “Với anh vẫn còn quá sớm để có thể hình dung ra toàn bộ vụ việc, Deb.”

    “Chết tiệt,” cô nói. Cho dù bạn có thể nói bất cứ điều gì khác về công việc cảnh sát, có thể thấy chắc nó đang làm hỏng mất vốn từ vựng của Deborah. Cô ném về phía tôi một cái - nhìn - của - tay - cớm lạnh lùng, gay gắt, cái nhìn đầu tiên tôi từng thấy từ cô em gái mình. Đó là cái nhìn của Harry, cũng đôi mắt đó, cũng với cảm giác đang nhìn thấu qua bạn tới thẳng sự thật. “Đừng có nói lung tung với em, Dex,” cô nói. “Trong một nửa số trường hợp, tất cả những gì anh phải làm là quan sát thi thể nạn nhân và anh biết ngay kẻ nào gây án. Em chưa bao giờ hỏi anh làm được điều đó bằng cách nào, nhưng nếu anh có bất cứ manh mối nào trong vụ này, em muốn có chúng.” Cô vung chân đá thật dữ dằn và để lại một vết lõm nhỏ trên cái bàn bằng kim loại của tôi. “Chết tiệt, em muốn thoát khỏi bộ đồ mắc dịch này.”

    “Và tất cả chúng tôi đều rất vui được thấy điều đó, Morgan,” một giọng nói trầm trầm và sặc mùi giả tạo vang lên từ ngưỡng cửa sau lưng cô em tôi. Vince Masuoka đang mỉm cười với chúng tôi.

    “Anh sẽ không biết phải làm gì đâu, Vince,” Deb nói với anh ta.

    Nụ cười của anh ta càng mở rộng hơn, vẫn nụ cười rạng rỡ, giả tạo, hệt như trong sách đã dạy. “Sao chúng ta không thử nó xem sao nhỉ?”

    “Trong những giấc mơ của anh thôi, Vince,” Debbie nói, bĩu môi với bộ dạng tôi không còn thấy ở cô từ năm mười hai tuổi.

    Vince hất hàm về phía chiếc túi màu trắng bị vo viên trên bàn làm việc của tôi. “Lần này đến lượt cậu, anh bạn. Cậu mang gì tới cho tôi hả? Nó đâu rồi?”

    “Xin lỗi, Vince,” tôi nói. “Debbie chén mất cái bánh ca vát của cậu rồi.”

    “Vậy thì tôi ước gì,” anh ta nói, với cái nhìn bắt chước đểu cáng sắc lẻm, “tôi có thể ăn cái bánh ga tô của cô ấy. Cậu nợ tôi một cái bánh rán cỡ bự, Dex.”

    “Cái bánh cỡ bự duy nhất anh từng được ăn,” Deborah nói.

    “Quan trọng không phải là kích thước của cái bánh rán, mà là tay nghề của thợ nướng bánh,” Vince nói với cô.

    “Làm ơn nào,” tôi nói. “Hai người sắp sửa làm tôi ong đầu lên rồi đấy. Vẫn còn quá sớm để tỏ ra thông minh tới mức này.”

    “A ha,” Vince thốt lên, kèm theo tiếng cười giả tạo kinh khủng của anh ta. “A ha ha ha. Gặp lại các vị sau.” Anh ta nháy mắt. “Đừng quên bánh rán của tôi đấy.” Rồi anh ta thủng thẳng bước đi về phía chiếc kính hiển vi của mình ở phía cuối hành lang.

    “Vậy anh đã hình dung ra được những gì rồi?” Deb hỏi tôi.

    Deb tin rằng thỉnh thoảng tôi lại có những linh cảm may mắn. Cô em tôi có lý do để tin. Thường những dự đoán sáng suốt này của tôi liên quan tới những kẻ tâm thần hung hãn, cứ vài tuần lại thích đâm chém một kẻ khốn khổ nào đó chỉ để tận hưởng cảm giác mà hành động đó đem lại. Đã vài lần Deborah chứng kiến tôi nhanh chóng chỉ một ngón tay hoàn toàn sạch sẽ vào thứ gì đó không ai khác biết đang nằm ở đó. Cô không bao giờ nói gì, nhưng vì là một cảnh sát cừ nên cô đã nghi ngờ tôi có điều gì mờ ám suốt một thời gian. Cô không biết nó là gì, nhưng biết chắc có điều gì đó không đúng và chuyện này thỉnh thoảng lại khiến cô băn khoăn đến phát điên, vì nói cho cùng, cô rất yêu quý tôi. Sinh vật sống cuối cùng trên trái đất này thực sự yêu quý tôi. Đây không phải là sự thương thân mà là ý thức lạnh lùng, rõ ràng nhất về bản thân. Tôi là một kẻ không biết yêu. Tuân theo kế hoạch của Harry, tôi đã cố gắng hòa nhập bản thân với những người khác, trong những mối quan hệ, thậm chí - trong những khoảnh khắc ngớ ngẩn nhất của chính mình - cả trong tình yêu. Nhưng vô ích. Có thứ gì đó trong tôi đã đổ vỡ hoặc bị thiếu và sớm muộn gì người khác cũng sẽ bắt gặp tôi hành động, hoặc một trong những đêm đó lại tới.

    Tôi thậm chí không thể nuôi thú cưng. Những con vật ghét tôi. Có lần tôi từng mua một con chó; nó sủa và tru lên - nhằm vào tôi - với cơn giận dữ sôi sục không ngừng nghỉ trong suốt hai ngày trước khi tôi phải rũ bỏ khỏi nó. Tôi từng thử nuôi một con rùa. Tôi chạm tay vào nó một lần, vậy là sau đó nó không thò ra khỏi mai nữa, nó chết vài ngày sau đó. Thay vì phải nhìn thấy tôi hay để tôi chạm tay vào nó lần nữa, con rùa đã chọn cái chết.

    Không ai khác yêu tôi, hay sẽ yêu tôi. Thậm chí cả tôi nữa, đặc biệt là tôi. Tôi biết mình là ai và đó không phải thứ có thể yêu được. Tôi cô độc trên thế giới này, hoàn toàn cô độc, nếu không kể đến Deborah. Ngoại trừ, tất nhiên rồi, Thứ ở bên trong tôi, kẻ không mấy khi lộ diện. Hắn cũng không thực sự chơi với tôi, mà nhất thiết phải có một người khác nữa.

    Tôi chăm lo cho Deb hết mức có thể. Deborah yêu quý. Chắc hẳn đó không phải là tình yêu, nhưng tôi thích thấy cô hạnh phúc hơn.

    Cô ngồi kia, Deborah yêu quý, trông thật rầu rĩ. Gia đình của tôi. Nhìn chăm chăm vào tôi và không biết phải nói gì, nhưng sắp không kìm nén được nữa.

    “À,” tôi nói, “kỳ thực....”

    “Em biết mà! Anh CÓ biết điều gì đó!”

    “Đừng cắt ngang dòng suy nghĩ của anh, Deborah. Anh đang liên hệ với tâm thức.”

    “Phun nó ra đi.”

    “Đó là phần cơ thể bị cắt dở dang, Deb. Phần chân trái.”

    “Có gì ở nó sao?”

    “LaGuerta nghĩ tên sát nhân bị phát hiện. Trở nên bối rối và không thể hoàn tất việc hắn đang làm.”

    Deborah gật đầu. “Tối qua cô ta đã yêu cầu em hỏi đám gái đứng đường xem bọn họ có trông thấy gì hay không. Chắc chắn phải có ai thấy gì đó.”

    “Ồ, không phải cả em nữa chứ,” tôi nói. “Nghĩ đi nào, Deborah. Nếu hắn bị gián đoạn - trở nên quá sợ hãi để hoàn tất...”

    “Phần gói ghém,” cô em tôi buột miệng thốt lên. “Hắn vẫn có đủ thời gian để gói ghém thi thể, lau sạch dấu vết.” Cô có vẻ ngạc nhiên. “Chết tiệt. Sau khi hắn bị làm gián đoạn ư?”

    Tôi vỗ tay và mỉm cười với cô. “Hoan hô, cô Marple 1.”

    “Như thế thật không hợp lý.”

    “Ngược lại. Nếu thoải mái thời gian, nhưng nghi thức lại không được hoàn tất đúng kiểu - và hãy nhớ, Deb, phần nghi thức gần như là tất cả - lời giải thích ở đây là gì?”

    “Vì Chúa, tại sao anh không thể đơn giản nói luôn cho em biết?” cô cáu bẳn.

    “Như thế còn gì là vui nữa?”

    Cô thở hắt ra. “Quỷ tha ma bắt. Được rồi, Dex. Nếu hắn không bị làm gián đoạn, nhưng hắn không hoàn tất… Chết tiệt. Vậy là phần gói ghém còn quan trọng hơn phần của chặt chăng?”

    Tôi nhìn cô ái ngại. “Không, Deb. Nghĩ đi. Đây là lần thứ năm, giống hệt những lần khác. Bốn cái chân trái bị cắt rời ra một cách hoàn hảo. Và giờ tới cái thứ năm...” tôi nhún vai, nhướng một bên mày nhìn cô.

    “Trời ạ, mẹ kiếp, Dexter. Làm thế nào em biết được? Có thể hắn chỉ cần bốn cái chân trái. Có thể... em không biết, em xin thề có Chúa. Gì vậy?”

    Tôi mỉm cười và lắc đầu. Với tôi nó thật quá rõ ràng. “Sự phấn khích đã biến mất, Deb. Có gì đó chỉ đơn giản là không đúng. Không hiệu quả. Một phần thiết yếu nào đó của thứ ma thuật làm cho nó trở nên hoàn hảo, đã không còn hiện hữu nữa.”

    “Vậy là em sẽ phải khám phá ra chuyện đó?”

    “Ai đó cần làm thế, em không nghĩ vậy sao? Và như thế hắn có thể đã tạm dừng lại, tìm kiếm cảm hứng và chẳng tìm thấy gì.”

    Cô em tôi cau mày. “Vậy là hắn đã dừng lại. Hắn sẽ không tiếp tục nữa sao?”

    Tôi bật cười. “Ôi Chúa ơi, không, Deb. Ngược lại. Nếu em là một mục sư và thực sự tin vào Chúa, nhưng không tìm ra cách đúng đắn để tôn thờ người, em sẽ làm gì?”

    “Tiếp tục thử,” cô nói, “cho tới khi tìm được cách đúng đắn.” Cô nhìn tôi chằm chặp. “Chúa ơi. Đó là điều anh nghĩ sao? Hắn sẽ sớm lặp lại?”

    “Chỉ là một linh cảm thôi,” tôi khiêm tốn nói. “Anh có thể sai lắm chứ.” Nhưng tôi tin chắc mình không sai.

    “Chúng ta cần tìm ra cách để bắt hắn khi gây án,” Deb nói. “Chứ không phải tìm kiếm một nhân chứng không hề tồn tại.” Cô đứng dậy hướng ra cửa, “Em sẽ gọi lại sau. Tạm biệt!” và biến mất.

    Tôi ngó vào trong cái túi giấy màu trắng. Chẳng còn lại gì bên trong. Giống như tôi: một bề ngoài sạch sẽ, nhăn nhúm và chẳng có gì bên trong cả.

    Tôi gập cái túi lại, bỏ vào sọt rác bên cạnh bàn làm việc. Tôi có công việc phải làm sáng hôm nay, công việc chính thức của phòng thí nghiệm cảnh sát. Tôi cần gõ một bản báo cáo dài, kèm theo những bức ảnh cần lọc ra, các bằng chứng cần lập hồ sơ. Đó là công việc thường quy, một vụ án mạng kép nhiều khả năng sẽ chẳng bao giờ ra tới tòa án, nhưng tôi thích bảo đảm chắc chắn mọi thứ mình làm đều được sắp xếp chu đáo.

    Bên cạnh đó, vụ này cũng thực sự thú vị. Mẫu vết máu rất khó đọc; giữa dòng máu phụt ra từ động mạch, nhiều nạn nhân - hiển nhiên đã di chuyển quanh hiện trường - và những vết cần loại bỏ nhiều khả năng là của một cái cưa máy, gần như không thể tìm ra một dấu vết của vị trí gây án. Để phủ hết căn phòng, tôi đã phải dùng đến hai chai Luminol, thứ thuốc thử cho phép phát hiện những vết máu dù mờ nhạt nhất và có giá đắt choáng váng, đến mười hai đô la một chai.

    Trên thực tế, tôi đã phải chăng dây ra để giúp mình xác định được những góc máu phun ban đầu, một kỹ thuật đã xưa đến mức có vẻ giống như thuật giả kim. Những vạt máu trông thật đáng kinh ngạc, sống động; có những vết máu sáng chói, cuồng dại, dữ dằn tung tóe trên các bức tường, đồ đạc, tivi, khăn tắm, ga trải giường, rèm cửa - một khung cảnh man rợ kinh hoàng của những vạt máu bắn theo mọi hướng khiến người ta sững sờ. Thậm chí ở Miami bạn hẳn cũng sẽ nghĩ ai đó chắc chắn phải nghe thấy ít nhiều gì đó. Hai người đã bị chặt sống bằng một cái cưa máy, trong một phòng khách sạn sang trọng đắt tiền, còn những người ở kế bên chỉ đơn giản bật ti vi của họ lên.

    Bạn có thể nói anh chàng Dexter cần cù đáng mến đã bị cuốn vào công việc của anh ta, nhưng tôi muốn làm việc một cách chu đáo và tôi muốn biết tất cả các vết máu đang lẩn trốn ở đâu. Các lý do nghề nghiệp cho việc này thì đã hiển nhiên, nhưng với tôi vẫn không quan trọng bằng các lý do cá nhân. Có lẽ đến một ngày nào đó một bác sĩ tâm thần làm việc cho hệ thống nhà tù liên bang sẽ giúp tôi khám phá ra chính xác tại sao.

    Dù thế nào đi nữa, các mảnh thi thể cũng đã lạnh ngắt khi chúng tôi tới hiện trường, nhiều khả năng chúng tôi sẽ chẳng bao giờ tìm ra cái gã đi giày lười Italia cỡ 7½ được đóng thủ công này. Thuận tay phải và quá cân, với một cú tấn công bằng tay trái khủng khiếp.

    Nhưng tôi vẫn kiên trì và hoàn tất công việc rất chu đáo. Tôi không làm việc của mình để bắt những kẻ xấu. Sao tôi lại muốn làm vậy chứ? Không, tôi làm việc của mình để lập lại trật tự từ sự hỗn loạn. Để buộc những vết máu xấu xa cư xử một cách đúng đắn, rồi ra đi. Những người khác có thể dùng kết quả làm việc của tôi để bắt những tên tội phạm; với tôi vậy cũng tốt thôi, nhưng cũng chẳng quan trọng.

    Nếu có lúc nào đó tôi bất cẩn tới mức để bị bắt, họ sẽ nói rằng tôi là một con quái vật tâm thần, một con quỷ bệnh hoạn quái đản, thậm chí còn không phải là con người, chắc hẳn họ sẽ bắt tôi chết trên Old Sparky 2 với vẻ hân hoan chính trực đầy thiển cận. Nếu có lúc nào đó bọn họ tóm được gã đi giày lười cỡ 7½ kia, họ sẽ nói hắn là một kẻ xấu đã trở nên lầm lạc vì những thế lực mà hắn ta đã không may mắn khi chống lại, hắn sẽ ngồi tù mười năm trước khi họ thả hắn ra với đủ tiền để mua một bộ vét và một cái cưa máy mới.

    Cứ mỗi ngày làm việc, tôi lại hiểu Harry rõ hơn một chút.

    --------------------------------
    1 Nhân vật nữ thám tử trong nhiều tiểu thuyết của Agatha Christie.
    2 Từ lóng ám chỉ ghế điện.
    Last edited by Hansy; 04-13-2011 at 03:26 PM.

  6. #6
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,707
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 6

    Tối thứ Sáu. Tối của hẹn hò ở Miami. Và tin hay không tùy bạn, tối Hẹn Hò của Dexter. Thật lạ, tôi đã tìm được một người. Cái gì, cái gì? Gã Dexter đã chết cứng từ bên trong kia đang hẹn hò những ả làng chơi mới vào nghề ư? Tình dục giữa những kẻ Không Chết sao? Không lẽ sự cần thiết phải bắt chước cuộc sống của tôi đi xa tới mức phải giả vờ những cơn cực khoái?

    Thư giãn nào. Tình dục không bao giờ len lỏi vào chuyện này. Sau nhiều năm lóng ngóng dò dẫm và bối rối một cách khổ sở để cố trông có vẻ bình thường, cuối cùng tôi đã gặp được đối tượng hẹn hò hoàn hảo.

    Rita cũng bị tổn thương thảm hại gần như chẳng kém gì tôi. Kết hôn khi còn quá trẻ, cô nàng đã cố gắng để cuộc hôn nhân tồn tại trong mười năm và tạo ra hai đứa trẻ. Người bạn đời hấp dẫn của cô nàng có vài vấn đề nhỏ. Thoạt tiên là rượu, sau đó là heroin, cho dù bạn có tin hay không, cuối cùng là cocain. Hắn ta đánh cô, tên cục súc đó. Đập phá đồ đạc, la hét, ném bát quăng đĩa và đe dọa. Rồi hắn cưỡng hiếp cô. Lây nhiễm sang vợ một vài căn bệnh khủng khiếp của đám nghiện cocain. Tất cả đều diễn ra thường xuyên, Rita chịu đựng, làm việc, đưa hắn đi cai nghiện hai lần. Sau đó, vào một buổi tối, gã chồng chuyển sang tấn công lũ trẻ và cuối cùng Rita cũng vùng dậy.

    Tất nhiên, giờ đây khuôn mặt cô đã lành lặn lại. Còn những cánh tay và mấy cái xương sườn gãy vốn là chuyện thường ngày với các bác sĩ ở Miami. Trông Rita hoàn toàn có thể chấp nhận được, đúng thứ mà con quái vật yêu cầu.

    Cuộc ly hôn đã được giải quyết xong, gã cục súc bị tống giam, sau đó thì sao? A, những bí ẩn trong tâm trí con người. Bằng cách nào đó, vì lý do nào đó, Rita yêu quý quyết định hẹn hò trở lại. Cô tin chắc đây là điều đúng đắn để làm - nhưng từ hậu quả của những lần bị bạo hành thường xuyên dưới tay người đàn ông cô yêu, cô nàng hoàn toàn dửng dưng với tình dục. Có lẽ, điều cô cần chỉ là một người bạn khác giới để tâm tình trong một thời gian.

    Cô đã tìm kiếm mẫu người phù hợp: nhạy cảm, dịu dàng và sẵn sàng chờ đợi. Một cuộc tìm kiếm khá mất thời gian, tất nhiên rồi. Cô nàng đang tìm kiếm một anh chàng tưởng tượng nào đó quan tâm tới việc có một người để tâm tình và xem phim cùng hơn là một người để cùng lên giường, bởi vì đơn giản cô chưa sẵn sàng cho chuyện đó.

    Tôi đã nói là tưởng tượng phải không nhỉ? À, phải. Đám đàn ông của nhân loại không giống như thế, Phần lớn phụ nữ đều biết điều này khi họ đã có hai đứa con và trải qua lần ly hôn đầu tiên. Rita tội nghiệp đã kết hôn quá sớm và quá cuồng nhiệt để có thể học được bài học đáng giá này. Và như một sản phẩm phụ của quá trình hồi phục sau cuộc hôn nhân ác mộng, thay vì hiểu ra tất cả đàn ông đều là súc vật, cô nàng đã vẽ ra một bức tranh lãng mạn đáng yêu về một quý ông hoàn hào, người có thể chờ đợi mãi mãi trong khi cô từ từ hé mở như một bông hoa bé nhỏ.

    Thế đấy. Thực vậy. Có lẽ một người đàn ông như thế đã từng tồn tại ở nước Anh thời Victoria 1 - ở mỗi góc đường đều có một nhà thổ nơi anh ta có thể xả hết ham muốn của mình giữa những lời phản đối hoa mỹ của tình yêu thánh thiện. Nhưng theo những gì tôi biết, tại Miami của thế kỷ XXI thì không.

    Dẫu thế - tôi có thể bắt chước tất cả những thứ kể trên một cách hoàn hảo. Và tôi thực sự muốn làm thế. Tôi không hề có hứng thú với một mối quan hệ tình ái. Tôi muốn một tấm màn ngụy trang; Rita chính xác là thứ tôi tìm kiếm.

    Cô nàng, như tôi đã nói, có ngoại hình rất được. Nhỏ nhắn, hoạt bát và sôi nổi, với đường nét mảnh mai của một vận động viên điền kinh, mái tóc vàng cắt ngắn và đôi mắt xanh. Cô là một tín đồ cuồng nhiệt của sự rèn luyện thân thể, dành toàn bộ thời gian rảnh để chạy, đạp xe và những môn tương tự. Kỳ thực, làm cho cơ thể đổ mồ hôi là một trong những hoạt động ưa thích của chúng tôi. Chúng tôi đã đạp xe vòng quanh Everglades, chạy năm nghìn mét, thậm chí cùng nhau đi tập thể hình.

    Và tuyệt hơn cả là hai đứa con của cô ta. Astor tám tuổi còn Cody năm tuổi và chúng lặng lẽ tới mức thái quá. Chúng hẳn phải vậy thôi, tất nhiên rồi. Những đứa trẻ có bố mẹ thường xuyên tìm cách giết nhau bằng đồ đạc trong nhà thường có xu hướng thu mình lại. Bất cứ đứa trẻ nào lớn lên trong cảnh kinh hoàng đó đều như vậy. Nhưng cuối cùng vẫn có thể đưa được chúng ra khỏi tình cảnh đó - hãy nhìn tôi xem. Tôi đã phải chịu đựng những nỗi kinh hoàng không tên, xa lạ khi còn là một đứa trẻ, dẫu vậy tôi vẫn ở đây: một công dân hữu ích, một trụ cột của cộng đồng.

    Có thể đó là một phần trong thiện cảm lạ lùng tôi dành cho Astor và Cody. Vì tôi thực sự thích hai đứa, điều đó với tôi chẳng có ý nghĩa nào cả. Tôi biết mình là ai và hiểu nhiều điều về bản thân. Nhưng một trong số những tính cách hiếm hoi của bản thân thực sự khiến tôi khó hiểu là thái độ của tôi với trẻ con.

    Tôi thích chúng.

    Chúng quan trọng với tôi. Chúng có ý nghĩa.

    Tôi thực sự không hiểu nổi điều đó. Tôi thật lòng chẳng hề bận tâm nếu tất cả nhân loại trên thế giới này bỗng đột nhiên biến mất, có thể với hai ngoại lệ là bản thân tôi và có lẽ cả Deborah nữa. Những người khác với tôi còn ít quan trọng hơn những dụng cụ xén cỏ. Như các bác sĩ tâm lý vẫn hay nói ra một cách đầy hùng biện, tôi không có bất cứ cảm nhận nào của những người khác về thực tại. Và tôi không bị đè nặng với ý thức này.

    Nhưng lũ trẻ - chúng lại khác hẳn.

    Tôi đã “hẹn hò” với Rita được gần một năm rưỡi, trong thời gian đó tôi đã dần dần chiếm được cảm tình của Astor và Cody một cách có tính toán. Tôi không có gì đáng chê trách. Tôi không làm đau chúng. Tôi nhớ ngày sinh nhật, ngày tổng kết năm học và các kỳ nghỉ của chúng. Tôi có thể tới nhà chúng và không làm gì có hại. Tôi có thể tin tưởng được.

    Thực sự thật mỉa mai. Nhưng đó là sự thật.

    Tôi, người đàn ông duy nhất hai đứa trẻ có thể thực sự tin tưởng. Rita nghĩ đó là một phần trong cuộc theo đuổi lâu dài từ tốn tôi đang dành cho cô nàng. Cho cô thấy lũ trẻ thích tôi và ai biết được? Nhưng trên thực tế hai đứa trẻ với tôi còn có ý nghĩa nhiều hơn cô ta. Có thể đã là quá muộn, nhưng tôi không muốn thấy chúng lớn lên trở thành người giống như mình.

    Tối thứ Sáu này, Astor là người ra mở cửa. Cô bé mặc một chiếc áo phông rộng có in RUG RATS 2, dài thõng xuống tới tận đầu gối. Mái tóc đỏ của cô bé được buộc thành hai bím, trên khuôn mặt nhỏ nhắn lặng lẽ không thể hiện bất cứ cảm xúc nào.

    “Chào chú Dexter,” cô bé lên tiếng bằng giọng nói quá lặng lẽ của mình. Với cô bé, ba từ liền nhau đã là cả một cuộc hội thoại dài.

    “Chúc buổi tối tốt lành, quý tiểu thư trẻ xinh đẹp,” tôi nói bằng giọng bắt chước Lord Mountbatten 3 của mình theo cách tốt nhất có thể. “Tôi có thể mạo muội nhận xét là tiểu thư trông rất đáng yêu tối nay không?”

    “Được thôi,” cô bé nói, mở rộng cửa ra. “Chú ấy đến rồi,” cô bé ngoái lại nói với về phía bóng tối quanh chiếc trường kỷ.

    Tôi bước qua bên cạnh cô bé. Cody đứng sau lưng chị gái, ngay phía trong, như thể đang hỗ trợ cho cô chị trong trường hợp cần thiết. “Cody,” tôi gọi và đưa cho cậu nhóc một phong Necco Wafers 4. Cậu bé cầm kẹo mà không rời mắt khỏi tôi, sau đó chỉ đơn thuần buông thõng tay xuống bên sườn, không hề nhìn tới phong kẹo. Cậu bé không bóc kẹo ra cho tới khi tôi đã đi khỏi, khi đó cậu sẽ cùng chia sẻ nó với cô chị.

    “Dexter?” Rita hỏi với sang từ phòng bên.

    “Ở đây,” tôi lên tiếng. “Em không thể dạy những đứa trẻ này cách cư xử sao?”

    “Không,” Cody khẽ nói.

    Một câu nói đùa. Tôi nhìn chằm chằm vào cậu bé. Tiếp theo là gì đây? Liệu một ngày nào đó cậu bé sẽ hát chăng? Hay nhảy trên đường phố? Phát biểu tại Đại hội toàn quốc của Đảng Dân chủ?

    Rita hối hả bước ra, vừa đi vừa cài hoa tai. Trông cô nàng cỏ vẻ khá khiêu khích. Cô mặc một chiếc váy lụa màu xanh sáng dài tới giữa đùi, gần như nhẹ bỗng, và tất nhiên, đi đôi giày luyện tập hiệu New Balance đẹp nhất của mình. Trước đây, tôi chưa bao giờ gặp, hay thậm chí nghe nói tới, một phụ nữ đi giày thể thao vào những dịp hẹn hò. Một tạo vật thật hấp dẫn làm sao.

    “Chào, anh chàng đẹp trai,” Rita nói. “Đợi em nói chuyện với cô trông trẻ rồi chúng ta sẽ rời khỏi đây.” Cô nàng đi vào bếp, trong đó tôi nghe thấy cô đưa ra các chỉ dẫn cho cô láng giềng tuổi vị thành niên đang làm người trông trẻ. Giờ cho lũ trẻ đi ngủ. Bài tập ở nhà. Những gì được và không được xem trên ti vi. Số điện thoại di động. Số điện thoại khẩn cấp. Cần làm gì trong trường hợp vô tình bị ngộ độc hay đứt tay.

    Cody và Astor vẫn nhìn tôi chằm chằm.

    “Chú và mẹ cháu sẽ đi xem phim chứ?” Astor hỏi tôi.

    Tôi gật đầu. “Nếu chú và mẹ cháu có thể tìm được một bộ phim không làm chúng ta buồn nôn.”

    “Ái chà,” cô bé thốt lên và chưng ra một khuôn mặt với chút ít cáu kỉnh khiến tôi cảm thấy hơi thích thú vì đã thành công.

    “Chú bị nôn khi xem phim thật sao?” Cody hỏi.

    “Cody,” Astor nói.

    “Có đúng thế không?” Cậu nhóc khăng khăng gặng hỏi.

    “Không,” tôi nói. “Nhưng chú thường thấy buồn nôn.”

    “Đi thôi,” Rita nói, rồi hối hả bước vào và cúi xuống dành cho mỗi đứa con một nụ hôn lên má. “Hãy nghe lời Alice. Lên giường đi ngủ lúc chín giờ.”

    “Mọi người sẽ về chứ?” Cody hỏi.

    “Cody! Tất nhiên mẹ sẽ về,” Rita trả lời.

    “Ý con là chú Dexter cơ,” Cody tiếp tục.

    “Lúc đó cháu đã ngủ rồi,” tôi nói. “Nhưng chú sẽ vẫy tay chào cháu, được chứ?”

    “Cháu sẽ không ngủ,” cậu bé nói dứt khoát.

    “Vậy thì chú sẽ ghé qua và chơi bài với cháu,” tôi nói.

    “Thật chứ?”

    “Chắc chắn rồi. Chơi poker tiền thật. Ai thắng sẽ phải giữ ngựa.”

    “Dexter!” Rita chen vào, nhưng vẫn mỉm cười. “Con sẽ đi ngủ, Cody. Tạm biệt các con. Hãy ngoan nhé.” Và cô nàng cầm lấy tay tôi, dẫn ra ngoài cửa. “Thành thực mà nói,” cô lẩm bẩm. “Cả hai đứa đều thích mê anh.”

    Bộ phim cũng chẳng có gì đặc sắc. Tôi cũng không thực sự muốn nôn, nhưng gần như quên sạch nội dung của nó khi chúng tôi dừng lại ở một quán nhỏ tại South Beach để uống một ly muộn cho buổi tối. Đó là ý tưởng của Rita. Cho dù đã sống tại Miami phần lớn cuộc đời, cô nàng vẫn nghĩ South Beach thật hấp dẫn và cuốn hút. Có thể tất cả là từ những chiếc giày trượt gắn bánh xe Rollerblade. Hoặc có thể cô nàng nghĩ bất cứ nơi nào đầy ắp những kẻ có phong cách xấu xa đến thế đều hấp dẫn cuốn hút.

    Dù thế nào đi nữa, chúng tôi phải đợi hai mươi phút để có được một cái bàn nhỏ, sau đó ngồi xuống đợi thêm hai mươi phút nữa để được phục vụ. Tôi không hề bận tâm. Tôi thích thú quan sát những gã ngu ngốc tốt mã nhìn ngó nhau. Một môn thể thao thị giác tuyệt vời.

    Sau đó, chúng tôi tản bộ theo đại lộ Ocean, nói chuyện vu vơ - một nghệ thuật tôi đã nắm vững đến hoàn hảo. Một buổi tối thật đáng yêu. Mặt trăng tròn trịa của mấy tối trước, khi tôi thù tiếp Cha Donovan, giờ đã bị khuyết đi một góc.

    Trong khi lái xe trở về nhà Rita ở khu Nam Miami sau khi đã trải qua buổi tối hẹn hò bên ngoài đúng chuẩn mực, chúng tôi đi ngang qua một giao lộ tại khu vực ít lành mạnh hơn của Coconut Grove. Một ánh đèn đỏ nhấp nháy thu hút sự chú ý của tôi và tôi liếc mắt sang vệ đường. Hiện trường vụ án: dải băng vàng đã được chăng ra, vài chiếc xe tuần cảnh đang hối hả quay vòng.

    Lại là hắn, tôi thầm nghĩ, thậm chí trước khi hiểu ra ý mình là gì khi nghĩ vậy, tôi đã lái xe tới chỗ hiện trường vụ án.

    “Chúng ta đi đâu vậy?” Rita hỏi, một cách khá hợp lý.

    “À,” tôi nói. “Anh muốn ghé qua xem họ có cần anh không.”

    “Anh không có máy nhắn tin sao?”

    Tôi chưng ra nụ cười tối thứ Sáu khá nhất có thể của mình. “Không phải lúc nào họ cũng biết họ cần anh,” tôi nói.

    Có lẽ kiểu gì tôi cũng sẽ dừng lại, để chưng Rita ra. Tất cả mục đích của việc khoác một cái áo ngụy trang là để người khác thấy bạn mặc nó. Nhưng kỳ thực, giọng nói khe khẽ không thể chống lại đang thì thầm trong tai tôi hẳn sẽ buộc tôi dừng xe, bất chấp mọi thứ. Lại là hắn. Và tôi cần phải thấy hắn đang muốn làm gì. Tôi để Rita lại trong xe và hối hả tới hiện trường.

    Gã khốn, một lần nữa hắn lại làm điều tồi tệ. Vẫn là một dãy các mảnh thi thể được gói ghém gọn ghẽ. Angel - không - họ - hàng cúi xuống chúng gần như cùng tư thế với lúc tôi rời khỏi anh ta tại hiện trường vụ án trước.

    “Hijo de puta,” anh ta nói khi tôi lại gần. Đồ chết giẫm.

    “Tôi tin là không phải tôi,” tôi nói.

    “Phần còn lại trong chúng tôi đang phàn nàn rằng chúng tôi phải làm việc vào tối thứ Sáu,” Angel nói. “Anh bạn chường mặt ra cùng cô nàng anh đang hẹn hò. Và lại vẫn chẳng có gì cho anh bạn ở đây cả.”

    “Cùng một hung thủ, cùng một cách gây án?”

    “Y hệt,” anh ta nói. Anh ta dùng cái bút của mình lật lớp nilon. “Lại khô ráo đến tận xương,” anh ta tiếp tục nói. “Chẳng có lấy một giọt máu.”

    Những lời nói này khiến tôi cảm thấy có chút bàng hoàng. Tôi cúi xuống nhìn qua. Cả lần này nữa, các mảnh thi thể lại sạch sẽ và khô ráo đến mức đáng kinh ngạc. Chúng có màu hơi ngả xanh và dường như đã được lưu giữ trong một khoảng thời gian rất ngắn. Tuyệt tác.

    “Lần này có chút khác biệt nhỏ về các nhát cắt,” Angel nói. “Ở bốn chỗ.” Anh ta chỉ tay. “Rất cộc cằn ở đây, gần như đầy cảm xúc. Thế rồi đến chỗ này, không còn nhiều đến thế. Còn đây và đây, ở những cấp độ trung gian. Thế nào?”

    “Rất hay,” tôi nói.

    “Và giờ hãy nhìn đây,” anh ta nói và dùng một cái bút chì hất tảng thịt không dính chút máu nào ở phía trên sang một bên. Phía dưới, một mảnh màu trắng sáng lộ ra. Phần thịt đã bị lóc ra một cách rất cẩn thận, suốt dọc khúc thịt, để lộ ra một khúc xương sạch tinh tươm.

    “Tại sao hắn lại làm thế này chứ?” Angel khẽ hói.

    Tôi thở hắt ra. “Hắn đang thử nghiệm,” tôi nói. “Cố tìm ra cách thức đúng.” Tôi nhìn chằm chằm vào mảnh thi thể gọn ghẽ, khô ráo cho tới khi nhận ra Angel đã chăm chú nhìn mình từ lâu.

    “Giống như một đứa trẻ nghịch ngợm với đồ ăn của nó,” đó là cách tôi mô tả những gì vừa trông thấy với Rita khi tôi quay lại xe.

    “Chúa ơi,” Rita thốt lên. “Thật khủng khiếp.”

    “Anh nghĩ từ thích hợp là ghê tởm,” tôi nói.

    “Làm sao anh có thể đùa cợt về một chuyện như thế Dexter?”

    Tôi dành cho cô nàng một nụ cười trấn an. “Khi làm công việc như của anh, người ta sẽ dần trở nên quen với điều đó,” tôi nói. “Tất cả bọn anh đều pha trò để che giấu nỗi đau mình cảm thấy.”

    “Ôi, lạy Chúa lòng lành, em hy vọng người ta sớm bắt được tên bệnh hoạn này.”

    Tôi nghĩ tới những mảnh thi thể được gói ghém chu đáo, sự đa dạng của những nhát cắt và sự thiếu vắng hoàn toàn, thật đáng khâm phục, của vết máu. “Không quá sớm đâu,” tôi nói.

    “Anh nói gì thế?” Cô hỏi.

    “Anh vừa nói, anh không nghĩ việc đó sẽ sớm diễn ra. Tên sát nhân cực kỳ thông minh, còn thám tử phụ trách cuộc điều tra này lại bận tâm tới trò chơi chính trị hơn là giải quyết những vụ giết người.”

    Cô nàng nhìn tôi để xem có phải tôi đang đùa không. Sau đó, cô ngồi im lặng hồi lâu trong lúc chúng tôi lái xe hướng về phía nam trên tuyến đường U.S.1. Cô không nói gì cho tới khi về đến Nam Miami. “Em sẽ chẳng bao giờ quen được với việc nhìn... em không biết nữa. Mặt dưới ư? Cách nhìn bản chất thực của mọi thứ? Cách anh nhìn nhận nó,” cuối cùng cô lên tiếng.

    Cô nàng khiến tôi ngạc nhiên. Tôi đã dùng sự im lặng để nghĩ về những mảnh thi thể được sắp xếp đẹp đẽ khi chúng tôi vừa rời khỏi. Tâm trí tôi đã cồn cào quần lượn xung quanh những mảnh chân tay khô ráo bị chặt rời giống như một con đại bàng tìm kiếm súc thịt để xé ra. Nhận xét của Rita bất ngờ tới mức, trong một phút dài, tôi thậm chí không thể thốt ra nổi vài lời lắp bắp. “Ý em là gì?” cuối cùng tôi cũng đủ trấn tĩnh trở lại để hỏi.

    Cô nàng cau mày. “Em... em không rõ nữa. Chỉ là... Tất cả chúng ta đều cho rằng... mọi thứ... thực sự đều có cách thức chắc chắn của chúng. Cách mà người ta cho là chúng phải thế chăng? Và rồi chúng chẳng bao giờ như thế, chúng luôn… em không biết nữa. Tối tăm hơn chăng? Giàu nhân tính hơn. Như việc này chẳng hạn. Em đang nghĩ, tất nhiên người thám tử muốn bắt kẻ sát nhân, chẳng phải đó là việc các thám tử vẫn làm sao? Trước đây em chưa bao giờ nghĩ tới chính trị lại có gì đó dính dáng với những vụ án mạng.”

    “Kỳ thực thì là mọi thứ,” tôi nói và rẽ vào khu phố nhà Rita, rồi cho xe chạy chậm dần khi tới gần ngôi nhà gọn ghẽ và không có nét gì nổi bật của cô.

    “Nhưng anh,” cô nàng nói. Dường như không nhận ra chúng tôi đang ở đâu hay tôi vừa nói gì. “Đó là chỗ anh bắt đầu. Phần lớn mọi người sẽ chẳng bao giờ thực sự nghĩ về nó xa đến thế.”

    “Anh không sâu sắc đến thế đâu, Rita,” tôi nói. Tôi phanh xe dừng hẳn lại.

    “Nó giống như thể mọi thứ đều thực sự có hai mặt, mặt mà tất cả chúng ta đều tin chính là thứ đó và mặt thực sự của nó. Anh đã biết trước điều này, với anh nó giống như một trò chơi vậy.”

    Tôi chịu không hiểu cô nàng đang cố nói gì. Kỳ thực, tôi đã quyết định bỏ cuộc không cố hình dung ra nó nữa và trong khi cô nàng nói, tôi thả tâm trí mình quay lại vụ án mạng mới nhất; sự sạch sẽ của những mảnh thịt, tính chất ngẫu hứng của những nhát cắt và sự vắng mặt hoàn toàn, khô ráo, tinh tươm đến không một dấu vết, của máu...

    “Dexter...” Rita nói. Cô đặt một bàn tay lên cánh tay tôi.

    Tôi hôn cô.

    Tôi không biết ai trong hai chúng tôi ngạc nhiên hơn. Đó thực sự không phải là điều tôi đã nghĩ từ trước rằng sẽ làm. Chắc chắn đó không phải là do mùi nước hoa của cô nàng. Nhưng tôi ép môi mình lên môi cô và giữ chúng ở đó một hồi lâu.

    Cô nàng vùng ra.

    “Không,” cô nói. “Em... Không, Dexter.”

    “Được thôi,” tôi nói, vẫn còn choáng váng vì việc mình vừa làm.

    “Em không nghĩ mình muốn... Em vẫn chưa sẵn sàng... Quỷ tha ma bắt, Dexter,” cô nàng nói. Cô tháo dây an toàn, mở cửa xe và chạy vào trong nhà.

    Ôi trời ơi, tôi thầm nghĩ. Tôi vừa làm trò mắc dịch gì vậy?

    Tôi biết mình nên cân nhắc về chuyện đó, có lẽ cảm thấy thất vọng vì vừa mới phá hủy mất lớp áo ngụy trang của bản thân sau một năm rưỡi khổ công duy trì nó.

    Nhưng tất cả những gì tôi có thể nghĩ tới là những mảnh thi thể được gói ghém gọn gàng.

    Không máu.

    Không có lấy một giọt.

    --------------------------------
    1 Thời nữ hoàng Victoria trị vì (1837 - 1901).
    2 Chuột trong túi.
    3 Huân tước Mountbatten (1900 - 1979), chính trị gia và sĩ quan hải quân người Anh, em họ nữ hoàng Elizabeth II, phó vương cuối cùng của Ấn Độ, bị IRA ám sát năm 1979.
    4 Một loại sô cô la viên được đóng gói thành phong có tám loại màu sắc.
    Last edited by Hansy; 04-13-2011 at 03:27 PM.

  7. #7
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,707
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 7

    Thân thể này được căng ra theo đúng cách tôi thích. Hai cánh tay và chân bị trói chặt, miệng bị bịt bằng băng dính, như thế sẽ không có tiếng ồn và thứ gì trào ra khu vực làm việc của tôi. Bàn tay tôi cảm thấy thật chắc chắn với con dao, đến mức tôi tin chắc lần này sẽ là lần rất thành công, rất hài lòng...

    Ngoại trừ nó không phải là một con dao, mà là một cái...

    Ngoại trừ đây không phải là bàn tay tôi. Cho dù bàn tay tôi cũng di chuyển với bàn tay này, nhưng đang cầm lưỡi thép không phải là bàn tay tôi. Căn phòng thực sự rất nhỏ, rất chật hẹp, điều này cũng hoàn toàn có lý bởi vì nó là - gì nhỉ?

    Bây giờ, ở đây, tôi đang bồng bềnh phía trên khoảng không gian làm việc chật hẹp hoàn hảo này, cùng thân hình đầy cám dỗ ở trong đó, lần đầu tiên cảm thấy hơi lạnh thổi xung quanh mình, theo một cách nào đó, xuyên cả qua tôi nữa. Nếu có thể cảm nhận được hai hàm răng của mình, tôi dám chắc chúng đang gõ vào nhau lập cập. Bàn tay tôi, trong sự hợp nhất hoàn hảo với bàn tay đó, vung lên rồi hạ xuống để thực hiện một nhát cắt hoàn hảo...

    Tất nhiên, tôi choàng tỉnh dậy trong căn hộ của mình. Bằng cách nào đó, tôi đang đứng cạnh cửa trước, hoàn toàn trần truồng. Mộng du thì tôi có thể hiểu được, nhưng thoát y trong khi ngủ ư? Quả là lạ. Tôi loạng choạng quay trở lại chỗ cái giường nhỏ có bánh xe. Chăn đã bị hất thành một đống dưới sàn. Điều hòa nhiệt độ đã làm nhiệt độ trong phòng hạ xuống gần 60°F 1. Đây có vẻ là một ý tưởng hay vào thời điểm đó, tối hôm qua, việc cảm nhận một chút lạnh lẽo thù địch từ mọi thứ sau những gì đã xảy ra với Rita. Hoàn toàn lố bịch, nếu nó đã thực sự xảy ra. Dexter, kẻ du đãng đang yêu, đánh cắp những cái hôn. Thế là tôi tắm nước nóng dưới vòi hoa sen thật lâu khi về đến nhà và làm cột nhiệt kế tụt xuống hết cỡ khi leo lên giường ngủ. Tôi không giả bộ hiểu nguyên do tại sao, nhưng trong những khoảnh khắc tối tăm hơn của mình, tôi thấy cái lạnh đem đến sự thanh tịnh. Không làm người ta sảng khoái nhiều như cần thiết.

    Và quả là lạnh. Quá lạnh vào lúc này, với cà phê và việc khởi đầu ngày mới giữa những mảnh vỡ vụn nát cuối cùng của giấc mơ.

    Như một nguyên tắc, tôi không nhớ những giấc mơ của mình, cho dù có nhớ cũng không gắn cho chúng bất cứ tầm quan trọng nào. Vì vậy, thật ngớ ngẩn khi giấc mơ này lại bám dính lấy tôi.

    ... Bồng bềnh phía trên khoảng không gian làm việc chật hẹp hoàn hảo này... Bàn tay tôi, trong sự hợp nhất hoàn hảo với bàn tay đó, vung lên rồi hạ xuống để thực hiện một nhát cắt hoàn hảo…

    Tôi đã đọc qua nhiều cuốn sách. Có lẽ vì tôi sẽ không bao giờ là một con người đúng nghĩa, loài người làm tôi quan tâm. Vì thế tôi biết rõ mọi thứ biểu tượng: Trôi bồng bênh là một dạng bay, có nghĩa là tình dục. Còn con dao...

    Ja, Herr Doktor. The knife ist eine mother, ja? 2

    Thôi ngay đi, Dexter.

    Chỉ là một giấc mơ ngu ngốc, vô nghĩa thôi.

    Điện thoại đổ chuông và thiếu chút nữa tôi giật bắn mình.

    “Anh nghĩ thế nào về bữa sáng tại nhà hàng Wolfie?” Deborah nói. “Em khao.”

    “Bây giờ là sáng thứ Bảy,” tôi nói. “Chúng ta sẽ chẳng bao giờ chen nổi vào đâu.”

    “Em sẽ tới đó trước và đặt một bàn,” cô em tôi nói. “Hẹn gặp anh ở đó.”

    Nhà hàng Wolfie’s Deli tại Miami Beach là một truyền thống của Miami. Bởi vì nhà Morgan là một gia đình ở Miami, chúng tôi đã ăn tại đây vào những dịp đặc biệt. Tại sao Deborah lại nghĩ hôm nay có thể là một dịp như thế quả là vượt quá khả năng hiểu biết của tôi, nhưng tôi tin chắc cô sẽ khai sáng cho tôi đúng lúc. Vậy là tôi đi tắm, ăn mặc theo phong cách thoải mái nhất có thể vào ngày thứ Bảy, rồi lái xe tới Beach. Đường xá khá thông thoáng trên tuyến cầu cạn MacArthur mới được cải tạo, không lâu sau tôi đã có thể lịch thiệp lách đi giữa đám đông đang chen chúc nhau tại Wolfie.

    Giữ đúng lời mời, Deborah đã chiếm được một bàn trong góc. Cô đang tán chuyện với một người phục vụ lâu năm, một phụ nữ thậm chí cả tôi cũng nhận ra. “Chào Rose yêu quý,” tôi lên tiếng, cúi xuống hôn bờ má nhăn nheo của bà. Bà đáp trả lại tôi bằng cái quắc mắt muôn thuở của mình. “Bông hồng 3 Ireland hoang dại của tôi.”

    “Dexter,” bà cất giọng the thé, với thổ âm Trung Âu nặng trịch của mình. “Ngất ngây vì những cái hôn, như một vài faigelah.”

    “Faigelah 4. Có phải đó là tiếng Ireland của vị hôn phu không?” Tôi hỏi bà và ngồi xuống ghế của mình.

    “Feh,” bà nói, quay vào trong bếp và nhìn tôi lắc đầu.

    “Anh nghĩ bà ấy thích anh,” tôi nói với Deborah.

    “Ai đó cũng nên thế chứ,” Deb nói. “Cuộc hẹn hò tối qua của anh thế nào?”

    “Rất vui,” tôi nói. “Thỉnh thoảng em cũng nên thử.”

    “Feh,” Deborah nói.

    “Em không thể dành hết mọi buổi tối của mình để mặc đồ lót đứng bên đường ở Tamiami Trail, Deb. Em cần một cuộc sống.”

    “Em cần một cuộc thuyên chuyển,” cô gắt gỏng với tôi. “Tới Ban Án mạng. Sau đó chúng ta sẽ cùng xem xét về một cuộc sống.”

    “Anh hiểu,” tôi nói. “Chắc chắn bọn trẻ sẽ thích hơn khi được nói mẹ chúng làm ở Ban Án mạng.”

    “Dexter, vì Chúa, hãy thôi đi,” cô em tôi nói.

    “Một ý nghĩ tự nhiên thôi mà, Deborah. Những cậu cháu trai và những cô cháu gái. Thêm nhiều Morgan bé nhỏ. Sao lại không chứ?”

    Cô em tôi thở dài. “Em cứ nghĩ mẹ đã mất rồi cơ,” cô nói.

    “Anh đang kết nối với bà,” tôi nói. “Thông qua món bánh ngọt kiểu Đan Mạch có mứt anh đào.”

    “Thôi nào, chuyển kênh đi. Anh có biết gì về kết tinh tế bào không?”

    Tôi nháy mắt. “Ái chà,” tôi nói. “Em vừa phá vỡ mọi thành tích của cuộc thi Thay đổi chủ đề đấy.”

    “Em rất nghiêm chỉnh,” cô em tôi nói.

    “Vậy thì anh thực sự bị hạ đo ván rồi, Deb. Ý em là gì vậy, kết tinh tế bào à?”

    “Vì lạnh,” cô nói. “Những tế bào bị kết tinh lại vì lạnh.”

    Ánh sáng bừng lên trong đầu tôi. “Tất nhiên rồi,” tôi nói, “tuyệt vời,” ở đâu đó sâu thẳm bên trong, những tiếng reo vỡ lẽ nho nhỏ bắt đầu vang lên. Lạnh... Cái lạnh sạch sẽ, tinh khiết và con dao mát lạnh gần như kêu xèo xèo khi cắt vào da thịt nóng hổi. Sự lạnh lẽo vô trùng sạch sẽ, máu chậm lại, vô vọng, cực kỳ đúng đắn và hoàn toàn cần thiết, cái lạnh.

    “Tại sao lúc trước anh lại không...” tôi bắt đầu nói. Tôi vội im bặt khi nhìn thấy khuôn mặt Deborah.

    “Cái gì,” Deb hỏi. “Cái gì tất nhiên cơ?”

    Tôi lắc đầu. “Trước hết hãy cho anh biết tại sao em muốn biết.”

    Cô nhìn tôi chằm chằm hồi lâu, rồi nặng nề thở dài lần nữa. “Em nghĩ là anh biết,” cuối cùng cô lên tiếng. “Lại có thêm một vụ giết người nữa.”

    “Anh biết,” tôi nói. “Anh có đi ngang qua hiện trường tối hôm qua.”

    “Em nghe được thực ra anh không chỉ đi ngang qua.”

    Tôi nhún vai. Metro Dade 5 quả là một gia đình nhỏ.

    “Vậy thì hai từ ‘tất nhiên’ đó có nghĩa là gì?”

    “Chẳng là gì cả,” tôi nói, cuối cùng cũng thấy hơi bực. “Thịt của thi thể chỉ trông hơi khác. Như thể chúng phải trải qua điều kiện lạnh...” tôi giơ hai bàn tay ra. “Chỉ có thế thôi, được chưa? Lạnh đến mức nào vậy?”

    “Giống như bảo quản thịt đông lạnh vậy,” cô em tôi nói. “Tại sao hắn lại làm thế?”

    Bởi vì như thế thật đẹp đẽ, tôi thầm nghĩ. “Như thế sẽ làm chậm lại dòng máu chảy ra,” tôi nói.

    Cô săm soi nhìn tôi. “Điều đó có quan trọng không?”

    Tôi hít một hơi dài, có lẽ hơi run rẩy. Không chỉ vì tôi sẽ chẳng bao giờ giải thích được điều đó, mà Deb hẳn sẽ nhốt tôi lại nếu tôi thử. “Điều đó là sống còn,” tôi nói. Vì một vài lý do tôi cảm thấy bối rối.

    “Sao lại sống còn?”

    “Nó, à... anh không biết. Anh nghĩ hắn làm gì đó với máu, Deb. Chỉ là một cảm giác anh cảm thấy từ... anh không biết nữa, chẳng có bằng chứng nào hết, em biết đấy.”

    Cô lại hướng về phía tôi cái nhìn đó. Tôi cố nghĩ ra gì đó để nói, nhưng không thể. Anh chàng Dexter miệng lưỡi dẻo quẹo giờ lại rơi vào tình cảnh mồm miệng khô rang và không có gì để nói.

    “Chết tiệt,” cuối cùng cô em tôi lên tiếng. “Là thế sao? Lạnh làm máu chảy chậm lại, điều đó là sống còn? Thôi nào. Có cái quái gì hay ho ở đó, Dexter?”

    “Anh không bao giờ ‘hay ho’ trước khi dùng cà phê buổi sáng, Deborah,” tôi nói với một nỗ lực quả cảm để trấn tĩnh lại. “Chỉ chính xác thôi.”

    “Chết tiệt,” cô em tôi lại văng ra. Rose mang cà phê tới. Deborah nhấp một ngụm. “Tối qua em được mời tới cuộc họp báo cáo tình hình sau bảy mươi hai giờ,” cô nói.

    Tôi vỗ tay. “Tuyệt quá. Em đã tới đích rồi. Vậy em còn cần anh làm gì nữa?” Sở cảnh sát Metro - Dade có một quy định tập hợp nhóm điều tra án mạng lại sau khi một vụ án mạng xảy ra khoảng bảy mươi hai giờ. Sĩ quan phụ trách điều tra cùng nhóm của mình sẽ trao đổi với bác sĩ pháp y chính, đôi lúc cả với một người từ văn phòng công tố. Cuộc họp sẽ giúp tất cả mọi người đi cùng hướng. Nếu Deborah được mời tham dự, có nghĩa là cô em tôi đã ở bên trong cuộc điều tra.

    Cô quắc mắt bực bội. “Em không khéo léo trong cách ứng xử, Dexter. Em có thể cảm thấy LaGuerta đang đẩy mình ra ngoài, nhưng không thể làm được gì.”

    “Cô ta vẫn tiếp tục tìm kiếm gã nhân chứng bí hiểm của mình chứ?”

    Deborah gật đầu.

    “Thật vậy sao. Ngay cả sau vụ giết người mới xảy ra tối qua?”

    “Cô ta nói vụ án này chứng minh cho giả thiết đó. Bởi vì những vết cắt lần này đều được hoàn tất.”

    “Nhưng tất cả chúng đều khác biệt,” tôi phản đối.

    Cô nhún vai.

    “Và em đã đề xuất...?”

    Deb nhìn đi nơi khác. “Em nói với cô ta rằng tìm kiếm một nhân chứng chỉ tổ tốn thời gian vô ích khi đã rõ ràng là tên sát nhân không hề bị làm gián đoạn, hắn chỉ không cảm thấy hài lòng mà thôi.”

    “Ái chà,” tôi nói. “Em quả thực chẳng biết gì về cách xử thế cả.”

    “Được rồi, quỷ tha ma bắt nó đi, Dex,” cô nói. Hai bà già ngồi bàn kế bên đưa mắt nhìn. Cô em tôi chẳng hề nhận ra. “Những gì anh nói đều hợp lý. Điều đó quá hiển nhiên, vậy mà cô ta lờ tịt em đi. Thậm chí còn tệ hơn thế.”

    “Điều gì còn có thể tệ hơn cả bị lờ tịt đi vậy?” Tôi hỏi.

    Cô đỏ mặt. “Sau đó, em bắt gặp hai tay mặc đồng phục nhìn em cười khùng khục. Có một biệt danh mỉa mai đang lan truyền và nó ám chỉ em.” Cô em tôi cắn môi và quay mặt đi. “Einstein,” cô nói.

    “Anh e là mình không hiểu.”

    “Nếu ngực của em là bộ não, thì hẳn em đã là Einstein,” cô cay cú nói. Tôi hắng giọng thay vì bật cười. “Đó là điều cô ta đang bêu riếu về em,” Deb kể tiếp. “Những trò bỡn cợt nho nhỏ khốn kiếp đó dính chặt lấy em, sau đó người ta sẽ không đề bạt em vì nghĩ chẳng ai tôn trọng em với một biệt danh như thế. Quỷ tha ma bắt nó đi, Dex,” cô lặp lại, “cô ta đang hủy hoại sự nghiệp của em.”

    Tôi cảm thấy một cơn nhiệt huyết che chở sôi lên. “Cô ta là một con ngốc.”

    “Liệu em có nên nói cho cô ta biết điều đó không, Dex? Như thế có là biết cư xử không?”

    Đồ ăn của chúng tôi được mang đến. Rose nặng nề đặt như ném những đĩa đồ ăn xuống trước mặt chúng tôi như thể bà ta đã bị một tay thẩm phán tham nhũng kết án phải đi phục vụ bữa sáng cho những kẻ sát hại trẻ con. Tôi dành cho bà ta một nụ cười to hết cỡ và bà ta quay đi, vừa đi vừa lẩm bẩm một mình.

    Tôi ăn một miếng và quay sang suy nghĩ về khó khăn của Deborah. Tôi đã cố nghĩ về nó theo cách đó, khó khăn của Deborah. Không phải là “những vụ giết người đáng ngưỡng mộ đó”. Không phải là “cách gây án hấp dẫn đáng kinh ngạc đó”, hay “một thứ thật tương đồng với những gì tôi hẳn sẽ yêu thích được làm một ngày nào đó”. Tôi cần giữ mình không can dự vào, nhưng chuyện này đang dồn ép tôi rất dữ dội. Kể cả trong giấc mơ tối qua, với bầu không khí lạnh ngắt của nó. Chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên, tất nhiên rồi, nhưng dẫu sao cũng thật đáng lo ngại.

    Tên sát nhân này đã chạm được tới tận cốt lõi của những lần giết người mà tôi hướng tới. Trong cách hắn gây án, tất nhiên rồi, không phải trong cách hắn lựa chọn nạn nhân. Hắn cần phải bị ngăn lại, chắc chắn rồi, không cần phải đặt câu hỏi ở đây nữa. Những cô gái đứng đường khốn khổ đó.

    Dẫu vậy... Sự cần thiết của cái lạnh… Thật đáng quan tâm để thử khám phá một lúc nào đó. Tìm ra một chỗ tối tăm, chật hẹp đẹp đẽ nào đó...

    Chật hẹp? Nó từ đâu tới nhỉ?

    Giấc mơ của tôi, tất nhiên rồi. Nhưng điều đó chỉ có nghĩa là tiềm thức muốn tôi nghĩ về điều đó, phải không nào? Và chật hẹp nghe có vẻ hợp lý theo nghĩa nào đó. Lạnh và chật hẹp...

    “Xe tải đông lạnh,” tôi nói.

    Tôi mở mắt ra. Deborah mạnh mẽ vật lộn với một cái miệng đầy ắp trứng trước khi cô có thể nói.

    “Cái gì?”

    “Ồ, chỉ là một phỏng đoán thôi. Anh sợ không phải là một nhận thức thực sự. Nhưng chẳng phải nghe cũng hợp lý sao?”

    “Cái gì nghe cũng hợp lý cơ?” Deb hỏi.

    Tôi nhìn xuống đĩa của mình và cau mày, cố hình dung ra quá trình đó diễn biến như thế nào. “Hắn muốn một không gian lạnh. Để làm chậm dòng máu chảy ra và bởi vì như thế, ừm - sạch hơn.”

    “Có thể sao.”

    “Anh thực sự có ý đó. Và đó phải là một không gian chật hẹp...”

    “Tại sao? Ý tưởng quái quỷ đó từ đâu ra vậy, chật hẹp ư?”

    Tôi lựa chọn cách coi như không nghe thấy câu hỏi đó. “Vậy nên một xe tải đông lạnh sẽ thích hợp với những điều kiện đó và nó lại di động, như thế việc phi tang rác rưởi sau đó sẽ dễ dàng hơn.”

    Deborah cắn một miếng bánh sừng bò và ngẫm nghĩ một lát trong khi nhai. “Vậy là,” cuối cùng, cô em tôi lên tiếng và nuốt miếng bánh. “Tên sát nhân có thể có điều kiện tiếp cận một chiếc xe như thế? Hay sở hữu một chiếc?”

    “Ừm, có thể lắm. Ngoại trừ vụ tối hôm qua là lần đầu tiên có những dấu hiệu của cái lạnh.”

    Deborah cau trán. “Vậy là hắn đã mò đi mua một chiếc xe tải?”

    “Nhiều khả năng là không. Đây vẫn là một thử nghiệm. Nhiều khả năng đó là một cảm hứng thôi thúc hắn thử nghiệm với cái lạnh.”

    Cô em tôi gật đầu. “Và chúng ta sẽ chẳng bao giờ gặp may tới mức hắn lái một chiếc xe như thế để kiếm sống hay điều gì tương tự, phải không nào?”

    Tôi dành cho cô nụ cười cá mập hạnh phúc của mình. “A, Deb. Sáng nay em mới nhanh nhạy làm sao. Không, anh sợ rằng ông bạn của chúng ta quá khôn ngoan để bản thân bị liên hệ theo kiểu đó.”

    Deborah uống cà phê, đặt tách xuống và cúi người ra phía trước. “Vậy chúng ta cần tìm một xe tải đông lạnh bị đánh cắp,” cuối cùng cô nói.

    “Anh e là vậy,” tôi nói. “Nhưng liệu có bao nhiêu chiếc như thế trong bốn mươi tám giờ vừa qua?”

    “Ở Miami ư?” cô khịt mũi. “Ai đó đánh cắp một chiếc, lời đồn lan ra rằng thứ đó cũng đáng để ăn cắp, đột nhiên tất cả những gã du đãng hạng bét, đám nhập cư bất hợp pháp, bọn nghiện và những gã choai choai ranh mãnh cần phải đánh cắp một cái xe như thế, chỉ để giữ số má.”

    “Hãy hy vọng là chưa có lời đồn nào lan ra,” tôi nói.

    Deborah nuốt nốt miếng bánh sừng bò cuối cùng của mình. “Em sẽ kiểm tra,” cô nói. Sau đó, cô vươn người qua bàn và nắm lấy bàn tay tôi. “Em thực sự đánh giá cao việc này,” cô em tôi nói, dành cho tôi hai giây của một nụ cười ngượng ngùng, do dự. “Nhưng em thấy lo về cách anh tìm ra nó, Dex. Chỉ là em…” Cô nhìn xuống bàn và lại nắm lấy bàn tay tôi lần nữa.

    Tôi nắm lại bàn tay cô. “Hãy để phần lo lắng cho anh,” tôi nói. “Em chỉ cần tìm ra cái xe tải đó thôi.”

    --------------------------------
    1 60°F = 15,6°C.
    2 Phải rồi, ngài tiến sĩ. Con dao là một người mẹ phải không?
    3 Rose cũng có nghĩa là hoa hồng.
    4 Có nghĩa là con chim hoặc gã đồng tính.
    5 Hiện tại là Miami - Dade Police Department, Sở cảnh sát của hạt Miami - Dade, tiểu bang Florida, Mỹ.

  8. #8
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,707
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 8

    Về mặt lý thuyết, cuộc họp sau bảy mươi hai giờ tại sở cảnh sát cho phép tất cả mọi người có đủ thời gian để đạt được tiến triển nhất định trong một vụ án, nhưng cũng đủ sớm để các đầu mối vẫn còn nóng hổi. Vậy là vào sáng thứ Hai, trong một phòng họp trên lầu hai, đội quân chống tội phạm xuất sắc do thám tử LaGuerta - không gì khuất phục nổi, chỉ đạo lại được tập hợp cho cuộc họp sau bảy mươi hai giờ. Tôi cùng có mặt cùng họ. Tôi nhận được vài cái nhìn, chút ít ghi nhận chân thành từ những cảnh sát biết tôi. Chỉ là những câu đùa vui đơn giản, chẳng hạn, “Này, anh chàng máu, cái chổi quét của cậu đâu rồi?” Những con người tử tế hiếm có, không lâu nữa Deborah của tôi cũng sẽ là một trong số họ. Tôi cảm thấy tự hào và thấy mình thật khiêm nhường khi được ở trong cùng căn phòng đó.

    Thật không may, thái độ ấy không phải tất cả những người có mặt trong phòng đều chia sẻ. “Anh làm quái gì ở đây hả?” thượng sĩ Doakes hầm hừ. Anh ta là một anh chàng da đen rất đô con với bộ dạng như thể bị mếch lòng cùng sự thù địch thường trực. Anh ta sở hữu phong cách hung tợn lạnh lùng của riêng mình, một nét tính cách hiển nhiên sẽ rất hữu ích với một người có thú vui như của tôi. Thật xấu hổ khi chúng tôi không thể là bạn bè. Nhưng vì một lý do nào đó, anh ta căm ghét tất cả nhân viên phòng thí nghiệm, cũng vì một lý do bổ sung nào đó, cụ thể người đó luôn là Dexter. Anh ta cũng giữ kỷ lục của sở cảnh sát Metro - Dade về môn nằm ngửa đẩy tạ. Vậy là anh ta ngứa mắt với nụ cười xã giao của tôi.

    “Tôi chỉ ghé qua để nghe thôi, thượng sĩ,” tôi nói với anh ta.

    “Anh chẳng nhận được cuộc gọi chết tiệt nào yêu cầu phải tới đây cả,” anh ta nói. “Anh nên biến khỏi đây.”

    “Anh ta có thể ở lại, thượng sĩ,” LaGuerta nói.

    Doakes quắc mắt lên với cô ta. “Để làm cái chết tiệt gì?”

    “Tôi không muốn làm bất cứ ai mất vui,” tôi nói, làm bộ định đứng dậy ra cửa trong khi không hề có chút ý định thực sự nào.

    “Hoàn toàn không có vấn đề gì đâu,” LaGuerta nở một nụ cười tức thời dành cho tôi. Cô ta quay sang Doakes. “Anh ta có thể ở lại,” cô ta lặp lại.

    “Hắn làm tôi sởn gai ốc,” Doakes lẩm bẩm. Tôi bắt đầu tán thưởng những phẩm chất tinh tế hơn của anh ta. Tất nhiên là tôi khiến anh ta nổi gai ốc. Câu hỏi thực sự duy nhất ở đây là tại sao anh ta là kẻ duy nhất trong một căn phòng đầy ắp cớm có đủ linh tính để cảm thấy sởn gai ốc từ sự hiện diện của tôi.

    “Chúng ta hãy bắt đầu,” LaGuerta nói, nhẹ nhàng lên giọng, không cho phép ai còn lý do nghi ngờ việc cô ta là người chỉ huy. Doakes ngồi phịch xuống ghế của anh ta, quắc mắt lườm tôi lần cuối cùng.

    Phần đầu tiên của cuộc họp là những thủ tục thường quy: báo cáo, những mánh khóe xã giao, tất cả những chi tiết vụn vặt khiến chúng ta trở thành con người. Với những người thực sự thuộc về nhân loại trong chúng ta, ít nhất là thế. LaGuerta dặn dò các nhân viên phụ trách thông tin về những gì họ có thể và không thể tiết lộ cho báo chí. Những điều họ có thể cung cấp bao gồm cả một bức ảnh mới hào nhoáng của LaGuerta mà cô ta đã chuẩn bị cho dịp này. Trông rất nghiêm chỉnh nhưng vẫn hấp dẫn, gay gắt nhưng tinh tế. Trong bức ảnh đó bạn gần như có thể thấy cô ta trở thành trung úy. Giá như Deborah có được sự khôn ngoan trong quảng bá hình ảnh bản thân như thế.

    Phải mất gần một giờ đồng hồ trước khi chúng tôi bắt đầu thực sự đả động tới các vụ án mạng. Nhưng cuối cùng, LaGuerta cũng hỏi tôi các báo cáo về tiến triển trong việc tìm kiếm nhân chứng bí ẩn của cô ta. Chẳng ai có gì để báo cáo. Tôi cố hết sức để trông mình có vẻ ngạc nhiên.

    LaGuerta cau mày nhìn cả nhóm người đầy vẻ ra lệnh. “Thôi nào, mọi người,” cô ta nói. “Ở đây cần có người tìm ra được gì đó.” Nhưng chẳng ai tìm thấy gì cả, tiếp sau là một khoảng im lặng, trong khi các thành viên của nhóm ngắm nghía móng tay của mình, sàn nhà, lớp ngói cách âm trên trần.

    Deborah hắng giọng. “Tôi, à,” cô em tôi nói và lại hắng giọng lần nữa. “Tôi có, à, một ý tưởng. Một ý tưởng khác. Về việc thử tìm kiếm theo hướng hơi khác một chút.” Cô nói như thể đang trích dẫn lại lời ai đó và quả đúng vậy thật. Tất cả công sức huấn luyện cẩn thận của tôi cũng không giúp cô có được vẻ tự nhiên khi nói ra, nhưng ít nhất cô cũng bám chặt lấy những từ ngữ đã được tôi lựa chọn chu đáo cho hợp với phép xử thế.

    LaGuerta nhướng một bên lông mày được kẻ hoàn hào của cô ta lên. “Một ý tưởng? Thật thế sao?” Cô ta trưng ra một bộ mặt phù hợp để thể hiện vẻ ngạc nhiên và vui mừng của mình. “Vậy làm ơn hãy tìm mọi cách chia sẻ với chúng tôi, sĩ quan Ein - ý tôi là sĩ quan Morgan.”

    Doakes cười khùng khục. Một con người mới đáng mến làm sao.

    Deborah đỏ bừng mặt nhưng vẫn tiếp tục. “Đó là, à, sự kết tinh tế bào. Trên nạn nhân mới nhất. Tôi muốn thực hiện kiểm tra xem có chiếc xe tải đông lạnh nào đã bị báo mất cắp trong khoảng một tuần trở lại đây không.”

    Im lặng. Im lặng hoàn toàn, nặng nề. Sự im lặng của một đàn bò sữa. Bọn họ không hiểu được ý tưởng đó, cả một lũ đầu đất và Deborah đã không thể khiến bọn họ nhìn ra. Cô để sự im lặng ngự trị, một sự im lặng được LaGuerta nuôi dưỡng với một cái cau mày thật bắt mắt, một cái liếc mắt đầy vẻ lúng túng khắp quanh phòng để xem còn có ai khác theo dõi ý tưởng mới hay không, rồi sau đó là một cái nhìn lịch sự dành cho Deborah.

    “Xe tải... đông lạnh?” LaGuerta nói.

    Deborah trông hoàn toàn lúng túng, cô bé tội nghiệp. Đây không phải là một cô gái thích nói trước đám đông. “Đúng vậy,” cô em tôi nói.

    LaGuerta để câu nói lơ lửng trong không khí, thích thú nhâm nhi nó. “Ừm - ừm,” cô ta hầm hừ.

    Khuôn mặt Deborah tối sầm, không phải là một dấu hiệu hay. Tôi hắng giọng, khi cách này không đi đến đâu, tôi bật ho, đủ to để nhắc cô em tôi giữ bình tĩnh. Cô nhìn tôi. Cả LaGuerta cũng vậy. “Xin lỗi,” tôi nói. “Tôi nghĩ mình bị cảm lạnh.”

    Có ai có thể thực sự đòi hỏi một ông anh tốt hơn thế không?

    “Cái, ừm, lạnh,” Deborah buột miệng, bám lấy đầu mối tôi cung cấp. “Một chiếc xe tải đông lạnh rất có khả năng đã gây ra kiểu thương tổn mô đó. Nó lại di động, như thế sẽ khó tìm ra hơn. Việc phi tang thi thể cũng sẽ dễ dàng hơn nhiều. Vì thế, ừm, nếu có một chiếc bị đánh cắp, ý tôi là một chiếc xe tải... đông lạnh… việc đó có thể cho chúng ta một đầu mối.”

    À, thế là gần xong rồi, cô em tôi đã tạo ra được sự chú ý. Một hai cái cau mày nghĩ ngợi xuất hiện trong phòng. Tôi gần như có thể nghe thấy tiếng các bánh răng chuyển động.

    Nhưng LaGuerta chỉ gật đầu. “Đó là một suy nghĩ rất... đáng quan tâm, sĩ quan,” cô ta nói. Cô ta chỉ khẽ nhấn mạnh vào hai từ sĩ quan, để nhắc tất cả chúng tôi rằng đây là một nền dân chủ nơi tất cả mọi người đều có thể lên tiếng, nhưng kỳ thực… “Nhưng tôi vẫn tin cơ hội tốt nhất của chúng ta là tìm ra nhân chứng. Chúng ta biết anh ta đang ở ngoài kia.” Cô ta mỉm cười, một nụ cười dè dặt đầy thủ thuật xã giao. “Hay cô ta,” cô ta tiếp, để tỏ ra mình có thể sắc sảo nếu cần. “Nhưng đã có ai đó nhìn thấy gì đó. Chúng ta biết như vậy từ bằng chứng. Vậy hãy tập trung vào hướng này và để chuyện đoán mò cho đám bên Broward, được chứ?” Cô ta ngừng lời, đợi đến khi một tràng cười khúc khích khe khẽ đã kịp chạy vòng quanh phòng. “Nhưng sĩ quan Morgan, tôi sẽ đánh giá rất cao nếu cô tiếp tục giúp chúng tôi nói chuyện với đám gái đứng đường. Bọn họ đã quen cô ở dưới đó.”

    Chúa ơi, cô ta quả là khá. Cô ta đã làm rụt vòi bất cứ ai khỏi dự định thử suy nghĩ theo ý tưởng của Deb, đẩy Deb về chỗ cũ của cô, thu phục cả nhóm điều tra về sau lưng mình với câu đùa cợt về sự kình địch của chúng tôi với quận Broward. Tất cả chỉ sau vài lời ngắn ngủi. Tôi cảm thấy muốn vỗ tay hoan hô.

    Ngoại trừ, tất nhiên rồi, tôi lại đứng về bên Deborah tội nghiệp, cô em tôi vừa bị làm cho xẹp lép. Cô há hốc miệng ra một lúc, rồi khép lại, tôi quan sát các múi cơ hàm của cô căng ra trong khi cẩn thận chuyển khuôn mặt mình về trạng thái cảnh sát Trung tính. Bản thân nó quả là một màn thể hiện không tồi theo cách của mình, nhưng quả thực không thể bằng của LaGuerta.

    Phần còn lại của cuộc họp không có điều gì đáng chú ý diễn ra nữa. Quả thực chẳng có thêm gì để nói ngoài những gì đã được nói ra. Vậy là chỉ một lát sau màn kết bậc thầy của LaGuerta, cuộc họp giải tán và chúng tôi đã lại ở ngoài tiền sảnh.

    “Quỷ tha ma bắt cô ta đi,” Deborah khẽ lẩm bẩm. “Đồ chết tiệt, chết tiệt, chết tiệt!”

    “Chắc chắn rồi,” tôi đồng ý.

    Cô liếc mắt sang tôi. “Cám ơn, anh trai. Anh quả là hữu ích.”

    Tôi nhướng mày nhìn cô. “Nhưng chúng ta đã thống nhất anh sẽ đứng ngoài chuyện này. Như thế em sẽ lập được công trạng.”

    Cô gằn giọng. “Ít nhiều. Cô ta làm em trông giống một con ngốc.”

    “Với tất cả sự tôn trọng, em gái yêu quý, em đã ngáng giữa đường cô ta.”

    Deborah nhìn tôi, nhìn lảng đi, rồi bực bội giơ tay lên. “Vậy em phải nói thế nào đây? Thậm chí em còn không ở trong đội điều tra. Em có mặt ở đó chỉ vì ông đại úy nói họ nhất thiết phải cho em tham gia.”

    “Và ông ấy không hề nói họ cần lắng nghe em,” tôi nói.

    “Họ không nghe. Và sẽ không nghe,” Deborah cay đắng nói. “Thay vì đưa em tới Ban Án mạng, vụ này sẽ bóp chết sự nghiệp của em. Em sẽ chết dần chết mòn khi đi viết giấy phạt đỗ xe trái phép, Dexter.”

    “Có một lối thoát, Deb,” tôi nói và cái nhìn cô hướng về tôi lúc này chỉ có chừng một phần ba hy vọng.

    “Là gì,” cô hỏi.

    Tôi mỉm cười, nụ cười trấn an thách thức đậm chất anh - thực - sự - không - phải - là - một - con - cá - mập. “Tìm ra cái xe tải,” tôi nói.

    Phải ba ngày sau tôi mới lại được nghe tiếng cô em nuôi, khoảng thời gian dài nhất cô chịu đựng được mà không trò chuyện với tôi. Cô tìm tới phòng làm việc của tôi ngay sau giờ ăn trưa ngày thứ Năm, trông có vẻ ủ rũ. “Em tìm ra nó rồi,” cô nói và tôi không hiểu đó có nghĩa là gì.

    “Tìm ra cái gì cơ, Deb,” tôi hỏi. “Suối nguồn Cấm Cẳn ư?”

    “Chiếc xe tải,” cô nói. “Chiếc xe tải đông lạnh.”

    “Nhưng đó là tin tuyệt vời,” tôi nói. “Vậy sao trông em cứ như đang tìm ai để nện thế?”

    “Bởi vì đúng thế đấy,” cô em tôi đáp lại, rồi ném lên mặt bàn tôi bốn hay năm trang giấy được ghim lại. “Thử nhìn xem.”

    Tôi nhặt lên và liếc qua tờ trên cùng. “Ồ,” tôi ngạc nhiên. “Tất cả có bao nhiêu?”

    “Hai mươi ba,” cô nói. “Trong tháng trước, có hai mươi ba chiếc xe tải đông lạnh bị báo mất. Đám bên giao thông nói phần lớn chúng được tìm thấy dưới các con kênh, bị ném xuống để kiếm tiền bảo hiểm. Chẳng ai bận tâm quá nhiều để tìm ra chúng. Vậy là chẳng có ai được phân công điều tra những vụ như thế, sẽ chẳng có ai hết.”

    “Chào mừng tới Miami,” tôi nói.

    Deborah thở dài, cầm lại tập giấy từ tay tôi, ngồi phịch xuống chiếc ghế còn lại của tôi như thể đã mất sạch xương. “Em không thể nào kiểm tra được hết tất cả, một mình em thì không. Việc đó sẽ mất hằng tháng. Quỷ tha ma bắt nó đi, Dex,” cô thốt lên. “Giờ chúng ta làm gì đây?”

    Tôi lắc đầu. “Anh xin lỗi, Deb,” tôi nói. “Nhưng giờ chúng ta đành phải đợi.”

    “Vậy sao? Chỉ đợi thôi sao?”

    “Đúng thế,” tôi trả lời.

    Đúng là vậy. Trong hai tuần tiếp sau đó, chỉ có thế. Chúng tôi đợi.

    Và rồi...

  9. #9
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,707
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 9

    Tôi bừng tỉnh, cả người đẫm mồ hôi, không rõ mình đang ở đâu, và hoàn toàn chắc chắn một vụ giết người nữa sắp xảy ra. Ở đâu đó cách chỗ này không xa, hắn đang tìm kiếm nạn nhân tiếp theo của mình, lượn lờ trong thành phố như một con cá mập quanh rặng san hô. Tôi cảm thấy chắc chắn đến mức gần như có thể nghe thấy tiếng xé băng dính. Hắn đang ở ngoài kia, thỏa mãn Kẻ lữ hành Tối Tăm của hắn, và gã này đang nói với Kẻ lữ hành trong tôi. Trong giấc ngủ của mình, tôi đã song hành cùng hắn, như một con cá ép lởn vởn trong những vòng xoay lớn chậm rãi của hắn.

    Tôi ngồi dậy trên cái giường nhỏ của mình, hất tấm chăn nhàu nhĩ ra. Cái đồng hồ cạnh bên đầu giường cho biết lúc này là ba giờ mười bốn phút. Bốn tiếng đồng hồ kể từ khi tôi lên giường ngủ, cảm thấy như thể suốt thời gian đó mình đã phải chạy bộ qua rừng rậm với một chiếc piano trên lưng. Người đầm đìa mồ hôi, cứng đờ, đần độn, không thể định hình được ý nghĩ nào ngoài niềm tin chắc chắn vụ giết người sắp xảy ra ngoài kia không có tôi.

    Không còn nghi ngờ gì nữa, đêm nay là một đêm không ngủ. Tôi bật đèn lên. Hai bàn tay nhớp nháp, run rẩy. Tôi dùng ga trải giường lau tay, nhưng vô ích. Tấm ga trải giường cũng ướt sũng. Tôi vùng dậy, lảo đảo đi vào phòng tắm để rửa tay. Tôi giơ hai bàn tay ra dưới dòng nước xối xả. Vòi nước tuôn ra một dòng suối ấm áp ở nhiệt độ phòng, trong một khoảnh khắc, dường như tôi đang rửa tay trong máu và dòng nước biến thành đỏ sậm; chỉ trong một giây, trong không gian tranh tối tranh sáng của phòng tắm, chậu rửa chuyển sang đỏ ngầu như máu.

    Tôi nhắm mắt lại.

    Thế giới đang chuyển dịch.

    Tôi vốn định rũ bỏ trò đùa cợt của ánh sáng này, cũng như thức tỉnh bộ óc đang ngái ngủ của mình. Nhắm mắt lại, mở mắt ra, ảo giác sẽ kết thúc, trong bồn rửa của tôi sẽ lại chỉ là nước sạch. Thay vì thế, dường như khi nhắm mắt thì lại mở ra một đôi mắt thứ hai nhìn vào một thế giới khác.

    Tôi trở lại trong giấc mơ của mình, bồng bềnh như một lưỡi dao phía trên những quầng sáng của Đại lộ Biscayne, lao đi lạnh lẽo, sắc bén, hướng thẳng vào mục tiêu của tôi và...

    Tôi lại mở mắt ra. Nước vẫn chỉ là nước.

    Nhưng tôi thì sao?

    Tôi lắc mạnh đầu. Bình tĩnh nào, anh bạn, làm ơn đừng để Dexter trồi lên khỏi đáy vực sâu thẳm. Tôi hít một hơi dài và liếc nhìn chính mình. Trong gương, trông tôi đúng như tôi đã hình dung. Nét mặt kiềm chế thận trọng. Đôi mắt xanh bình thản và bỡn cợt, một sự bắt chước hoàn hảo về cuộc sống con người. Ngoại trừ mái tóc tôi lúc này đang dựng đứng lên như tóc của Stan Laurel, không còn bất kỳ dấu vết nào của những gì vừa lướt qua bộ óc nửa mơ nửa tỉnh làm tôi choàng tỉnh khỏi giấc ngủ.

    Tôi thận trọng nhắm mắt lại lần nữa.

    Bóng tối.

    Êm đềm, đơn giản, đen ngòm. Không bay lượn, không máu, không đèn đường. Chỉ có anh chàng Dexter dễ mến trước đây với đôi mắt nhắm nghiền đang đứng trước gương.

    Tôi lại mở mắt. Xin chào, anh bạn thân mến, thật vui đưa được anh trở lại. Nhưng anh bạn đã biến đi đâu vậy?

    Tất nhiên, đó là câu hỏi cần đặt ra. Tôi trải qua phần lớn cuộc sống của mình không hề bị quấy quả bởi những giấc mơ và, nếu xét về khía cạnh đó, cũng không có ảo giác. Với tôi, không có nào của Ngày Tận thế, chẳng có những biểu tượng theo thuyết Jung đáng lo ngại nào trồi lên từ tiềm thức, không hình ảnh tái hiện bí ẩn nào lướt qua ký ức vô thức của tôi. Chưa từng có gì đột ngột bùng lên trong đêm của Dexter. Khi tôi đi ngủ, tất cả con người tôi đều ngủ.

    Vậy thì chuyện gì vừa xảy ra vậy? Tại sao những bức ảnh đó lại hiện lên trước mắt tôi?

    Tôi hắt nước lên mặt và vuốt tóc xuống. Việc này không thể giúp trả lời câu hỏi, tất nhiên rồi, nhưng nó giúp tôi cảm thấy dễ chịu hơn một chút. Mọi sự liệu có thể tồi tệ đến đâu nếu mái tóc của tôi chỉn chu gọn ghẽ?

    Kỳ thực, tôi cũng không biết. Sự tình có thể trở nên rất tệ hại. Tôi có thể mất đi tất cả, hay rất nhiều, sự tỉnh táo lạnh lùng của mình. Sẽ thế nào nếu thực ra tôi vẫn đang trượt dần tới điên loạn một cách từ từ suốt nhiều năm qua, còn tên sát nhân mới này chỉ đơn giản đã kích hoạt cú ngã cuối cùng xuống vực thẳm điên loạn hoàn toàn? Làm thế nào tôi có thể hy vọng đo đạc mức độ tỉnh táo tương đối của một người như tôi?

    Những hình ảnh đó trông rất thực, cảm giác về chúng cũng vậy. Nhưng không thể, tôi đã ở ngay đây, trên giường của mình. Ấy thế nhưng tôi gần như có thể ngửi thấy mùi nước mặn, khói xả và mùi nước hoa rẻ tiền bồng bềnh trên đại lộ Biscayne. Hoàn toàn thực - và chẳng phải đó là một trong những dấu hiệu của sự mất trí, khi ta không còn có thể phân biệt giữa ảo giác và hiện thực sao? Tôi không có câu trả lời nào, cũng không có cách gì để tìm ra. Không thể nghĩ đến nói chuyện với một bác sĩ tâm lý, tất nhiên rồi; tôi hẳn sẽ làm anh chàng khốn khổ đó sợ chết khiếp, có khi anh ta lại cảm thấy có trách nhiệm yêu cầu nhốt tôi vào chỗ nào đó. Tất nhiên, tôi không thể tranh luận về sự sáng suốt của ý tưởng đó. Nhưng nếu tôi đang mất dần khả năng nắm lấy sự sáng suốt như đã tạo dựng, đó hoàn toàn là chuyện riêng của tôi và phần đầu tiên của vấn đề ấy là chẳng có cách nào cho phép biết chắc cả.

    Mặc dù, khi nghĩ về nó, tôi vẫn thấy có một cách.

    Mười phút sau, tôi đang lái xe qua Dinner Key. Tôi cho xe chạy thong thả, vì thực ra tôi không biết mình đang tìm kiếm cái gì. Khu này của thành phố đã chìm vào giấc ngủ, ở mức độ như nó vẫn từng, vẫn còn vài người lang thang qua tấm nền phong cảnh của Miami: những du khách uống quá nhiều cà phê Cuba và không ngủ được. Những người từ Iowa tới và đang đi tìm một cây xăng. Những người ngoại quốc tìm tới South Beach. Và những kẻ săn mồi, tất nhiên rồi - bọn sát nhân, trộm cướp, những kẻ nghiện ngập, những kẻ khát máu người, những gã ăn xác chết, những con quái vật giống như tôi. Nhưng ở khu vực này, vào giờ này, có rất ít những hạng người đó. Đây là Miami vắng vẻ, vắng vẻ nhất có thể, một nơi bị bóng ma của đám đông ban ngày làm trở nên cô độc. Một thành phố tự cắt gọt mình thành một bãi săn trần trụi, không còn được ngụy trang bởi ánh mặt trời và những chiếc áo phông đầy màu sắc.

    Vậy là tôi đi săn. Những cặp mắt đêm khác dõi theo và phớt lờ ngay khi tôi đi ngang qua mà không hề chậm lại. Tôi lái xe lên hướng bắc, qua cây cầu kéo cũ kỹ, qua khu trung tâm Miami, vẫn chưa biết chắc mình đang tìm cái gì, vẫn chưa nhìn thấy nó - và dẫu thế, vì một lý do phiền phức nào đó, hoàn toàn chắc chắn tôi sẽ tìm ra, rằng tôi đang đi đúng hướng, và nó đang chờ đợi tôi phía trước.

    Ngay sau khi đi quá Omni, cuộc sống về đêm bắt đầu sống dậy. Nhiều hoạt động hơn, nhiều thứ để nhìn hơn. Những tiếng la hét trên vỉa hè, tiếng nhạc rè phát ra từ các cửa sổ xe hơi để rồi vọng vào những cửa sổ xe hơi khác. Những cô nàng ăn sương xuất hiện, từng đám xúm lại ở góc đường, cười rúc rích với nhau, hoặc ngơ ngẩn nhìn những chiếc xe chạy ngang qua. Những chiếc xe chạy chậm lại, chủ nhân của nó ngó lại nhìn, trố mắt ra một cách ngớ ngẩn ngắm nghía trang phục của bọn họ và những gì còn được để hở ra ngoài. Phía trước tôi hai khối nhà, một chiếc Corniche mới tinh và một đám các cô nàng từ bóng tối sát mé trong vỉa hè lao xuống đường lập tức vây quanh xe. Dòng xe cộ lập tức bị nghẽn lại một phần, tiếng còi bấm lên inh ỏi. Phần lớn các lái xe dừng lại một phút, hài lòng ngắm nghía, song một chiếc xe tải sốt ruột đã lái vòng qua đám xe đang kẹt lại, tiếp tục lao đi.

    Một chiếc xe tải đông lạnh.

    Không là gì cả, tôi tự nhủ. Xe giao sữa chua ban đêm; xe chuyển xúc xích thịt lợn phục vụ ăn sáng, đảm bảo tươi ngon. Một xe chở cá chạy lên hướng bắc hoặc ra sân bay. Những chiếc xe tải đông lạnh chạy qua Miami bất kể ngày đêm, thậm chí cả vào lúc này, ngay cả giữa đêm khuya... Chỉ vậy thôi, không còn gì khác.

    Nhưng dù sao tôi vẫn nhấn chân ga. Tôi vọt lên, lượn qua lượn lại giữa dòng xe cộ. Tôi còn cách chiếc Corniche và người lái xe bị vây hãm của nó ba chiếc xe nữa. Dòng xe lưu thông nghẽn lại. Tôi ngước mắt nhìn lên phía chiếc xe tải. Nó đang chạy thẳng lên Biscayne, đi vào một dãy đèn tín hiệu giao thông. Tôi sẽ để mất dấu nó nếu tụt lại sau quá xa. Đột nhiên tôi cảm thấy không muốn để xổng mất nó bằng bất cứ giá nào.

    Tôi chờ một khoảng trống trong dòng xe cộ và nhanh chóng lái xe vượt lên, chuyển ra làn đường ngoài. Tôi vòng qua chiếc Corniche rồi tăng tốc, tiến sát tới chiếc xe tải. Cố không lao đi nhanh quá, không để mình có vẻ khả nghi, nhưng vẫn từ tốn thu hẹp khoảng cách giữa tôi và nó. Nó còn cách tôi ba lần đèn tín hiệu nữa, rồi hai.

    Sau đó, đèn phía trước nó chuyển đỏ, trước khi tôi kịp mừng, đèn trước mặt tôi cũng vậy. Tôi có chút ngạc nhiên khi nhận ra mình đang cắn môi. Tôi đang căng thẳng; tôi, Dexter, Tảng băng. Tôi đang cảm thấy sự bồn chồn đậm chất người, sự tuyệt vọng, cảm xúc phiền muộn thực thụ. Tôi muốn bắt kịp cái xe tải kia và tận mắt nhìn vào nó, phải, tôi muốn chạm tay vào nó biết chừng nào, được mở cửa buồng lái, nhìn vào trong...

    Sau đó thì sao đây? Một mình bắt hắn ư? Tóm hắn lôi tới cho thám tử LaGuerta? Có thấy tôi đang mắc kẹt vào cái gì không? Liệu tôi có thể giữ được hắn? Cũng nhiều khả năng ngang với chuyện hắn có thể tóm tôi. Hắn đang ở trạng thái tập trung cao độ nhất cho cuộc đi săn, còn tôi chỉ đang lẵng nhẵng đằng sau như một cậu em không được hoan nghênh. Tại sao tôi lại bám theo? Có phải chỉ vì tôi muốn chứng minh với bản thân mình rằng thủ phạm chính là hắn, là kẻ đó và hắn đang ra ngoài săn mồi, còn tôi không hề điên rồ chăng? Nếu tôi không điên rồ - làm sao tôi biết được? Cái gì đang diễn ra trong đầu tôi vậy? Suy cho cùng, sự điên rồ có khi lại là giải pháp hạnh phúc hơn.

    Một ông già lê bước qua trước đầu xe tôi, đi sang đường với những bước chân chậm chạp đau đớn đến khó lòng tin nổi. Trong chốc lát tôi quan sát ông ta, tự hỏi cuộc sống sẽ thế nào khi ta di chuyển chậm chạp như vậy, rồi liếc nhìn về cái xe tải đông lạnh phía trước.

    Đèn tín hiệu phía trước nó đã chuyển xanh. Còn trước mặt tôi thì chưa.

    Chiếc xe tải tăng tốc rất nhanh, phóng về hướng bắc với tốc độ tối đa, ánh đèn hậu nhỏ dần trong lúc tôi nhìn theo, đợi đèn tín hiệu phía trước mình chuyển màu.

    Nó vẫn khăng khăng chưa chịu. Vậy là hai hàm răng tôi nghiến lại - bình tĩnh nào, Dex! - tôi lao qua đèn, thiếu chút nữa đâm phải ông già. Ông lão chẳng buồn ngẩng lên nhìn hay dừng bước.

    Giới hạn tốc độ trên quãng này của đại lộ Biscayne là ba mươi lăm dặm một giờ. Ở Miami, như thế có nghĩa là nếu bạn chạy dưới năm mươi, người ta sẽ húc bạn tung ra khỏi đường. Tôi tăng tốc lên sáu mươi lăm, lướt qua dòng xe cộ thưa thớt, cố hết sức thu hẹp khoảng cách. Ánh đèn trên chiếc xe tải tắt ngấm khi nó đi vòng qua một đoạn đường cong - hay nó đã rẽ? Tôi tăng tốc lên bảy mươi lăm và rồ ga lao qua ngã rẽ lên cầu cạn ở phố 79, lượn vòng quanh khúc đường cong chạy qua bên Publix Market, rẽ vào đoạn đường thẳng, hối hả tìm kiếm chiếc xe tải.

    Và nhìn thấy nó. Kia... phía trước tôi...

    Đang lao về phía tôi.

    Gã con hoang khốn kiếp đã vòng lại. Không lẽ hắn đánh hơi được tôi đang bám đuôi mình? Hay ngửi thấy mùi khói xả của tôi bốc lên tận mũi hắn? Không quan trọng nguyên do là gì - đó chính là hắn, vẫn là cái xe đó, không còn nghi ngờ gì nữa, khi tôi lao vụt qua hắn, hắn đánh lái rẽ lên cầu cạn.

    Tôi đánh lái gấp làm chiếc xe rít lên quẹo vào một bãi để xe nhỏ, vòng xe lại và tăng tốc lao ra đại lộ Biscayne, lần này hướng về phía nam. Qua chưa tới một khối nhà nữa và tôi cũng rẽ lên cầu cạn. Xa, thật xa phía trước, gần cây cầu thứ nhất, tôi nhìn thấy những đốm đèn đỏ nhỏ xíu đang nhấp nháy giễu cợt mình. Chân tôi giậm mạnh xuống chân ga và tôi lao vùn vụt lên phía trước.

    Hắn đang ở trên phần dốc lên của cầu, tăng dần tốc độ, duy trì khoảng cách giữa chúng tôi. Bằng cách nào đó, chắc chắn hắn biết, chắc chắn hắn nhận ra đang có ai đó bám theo mình. Tôi thúc ép chiếc xe của mình lao đi quyết liệt hơn một chút. Tôi thu hẹp khoảng cách, từng chút một, tiến lại gần hơn và chỉ cách vài thân xe.

    Sau đó hắn biến mất, vượt qua điểm cao nhất của cây cầu và lao xuống phía bên kia, phóng tới quá nhanh vào North Bay Village. Đó là một khu vực được tuần tra gắt gao. Nếu phóng quá nhanh, thế nào hắn cũng bị phát hiện và truy đuổi. Khi đó…

    Tôi đã lên cầu, tới đỉnh giữa cầu và phía dưới tôi…

    Chẳng có gì cả.

    Con đường vắng tanh.

    Tôi lái xe chậm lại, nhìn quanh mọi hướng từ vị trí thuận lợi trên điểm cao nhất của cầu. Một chiếc xe chạy về phía tôi - không phải chiếc xe tải kia, chỉ là một chiếc Mercury Marquis với cản trước móp méo. Tôi bắt đầu lái xe xuống bên kia cầu.

    Dưới chân cầu, North Bay Village tách khỏi cầu cạn thành hai khu dân cư. Phía sau một cây xăng bên trái là một dãy các tòa căn hộ cao cấp và nhà chung cư, tạo thành một vòng quay chậm chạp. Bên phải là những ngôi nhà, nhỏ nhưng đắt đỏ. Chẳng có thứ gì chuyển động ở cả hai bên. Không có ánh đèn nào, không có bất cứ dấu hiệu nào, cho dù của giao thông hay cuộc sống.

    Tôi chậm rãi lái xe qua khu làng. Trống rỗng. Hắn đã biến mất. Trên một hòn đảo chỉ với một con đường duy nhất chạy ngang qua, hắn đã cắt đuôi được tôi. Nhưng bằng cách nào?

    Tôi quay xe, tấp xe vào bên vệ đường và nhắm mắt lại. Tôi không biết vì sao: có lẽ tôi hy vọng có thể lại nhìn thấy gì đó. Nhưng không. Chỉ có bóng tối, những đốm sáng nhỏ lấp lánh nhảy nhót bên trong mi mắt tôi. Tôi mệt mỏi. Tôi cảm thấy mình thật ngu ngốc. Phải, tôi, Dexter khờ khạo, cố vào vai người hùng, sử dụng quyền năng tâm lý lớn lao của mình để săn lùng kẻ xấu xa nham hiểm. Truy đuổi hắn trên cỗ xe siêu thanh chuyên dùng để chống lại tội ác. Rất có thể hắn chỉ là một gã nhóc giao hàng chơi trò thể hiện bản lĩnh đàn ông với gã lái xe duy nhất còn lại trên đường tối hôm đó. Một trò đậm chất Miami, xảy đến mỗi ngày với bất cứ ai lái xe trong thành phố xinh đẹp của chúng ta. Đuổi tao đi, mày không thể bắt kịp tao đâu. Liền sau đó là ngón tay giữa chĩa lên trên, là khẩu súng vung vẩy, hầm hừ và quay lại với công việc.

    Chỉ là một cái xe tải đông lạnh, không hơn, giờ đây đang lao đi băng qua Miami với tiếng nhạc rock oang oang phát ra từ radio. Không phải là gã sát nhân tôi tìm kiếm, không phải mối liên hệ bí hiểm đã dựng tôi dậy khỏi giường để lái xe khắp thành phố giữa đêm khuya. Bởi vì như thế chỉ đơn giản là quá ngớ ngẩn để nói, còn cực kì ngớ ngẩn đối với anh chàng Dexter có đầu óc sắc bén và trái tim trống rỗng.

    Tôi gục đầu xuống vô lăng. Thật tuyệt làm sao khi có được một trải nghiệm đúng chất người như thế. Giờ tôi biết đến cảm giác của một gã ngu ngốc hết thuốc chữa là như thế nào. Tôi có thể nghe thấy tiếng chuông vang lên từ cây cầu kéo gần đó, phát đi lời cảnh báo cho hay cây cầu chuẩn bị được nâng lên. “Ding, ding, ding”. Tiếng chuông ngân vang trong tâm trí đã kiệt quệ của tôi. Tôi ngáp dài. Đã đến lúc quay về nhà, trở lại giường.

    Phía sau lưng tôi, tiếng động cơ khởi động vang lên. Tôi liếc nhìn phía sau.

    Từ đằng sau cây xăng dưới chân cầu cạn, chiếc xe tải đông lạnh ngoặt rất gấp và lao vụt ra. Nó lao vụt qua trước mặt tôi, đuôi rê dài và tiếp tục tăng tốc, cùng với những cử động lờ mờ trên khung cửa phía người lái, một vật bị ném về phía tôi, điên cuồng và thật mạnh. Tôi cúi gập người xuống. Có vật gì đó đập vào sườn xe tôi, để lại sau nó âm thanh hứa hẹn một vết bẹp đắt đỏ. Tôi đợi một khoảnh khắc, chỉ để bảo đảm an toàn. Sau đó, tôi ngẩng đầu lên quan sát. Chiếc xe tải đang vùn vụt lao đi, đâm văng cây rào chắn bằng gỗ trên cầu kéo và lao vụt qua, vọt qua cầu trong lúc cây cầu bắt đầu nhấc lên, thoải mái tiếp tục cuộc hành trình ở bên kia cầu trong lúc người gác cầu ló đầu ra hò hét. Rồi chiếc xe biến mất, xuống khỏi đầu cầu phía xa và quay trở lại Miami, tránh xa khỏi phía đối diện của khoảng trống đang mở rộng dần khi cây cầu nâng lên. Biến mất, biến mất ngoài tầm với, biến mất như thể chưa từng xuất hiện. Tôi sẽ không bao giờ biết được đó là tên sát nhân mình đang tìm kiếm hay chỉ là một gã khùng thường gặp ở Miami.

    Tôi ra khỏi xe để xem xét vết bẹp. Một vết khá to. Tôi nhìn quanh xem vật hắn đã ném là cái gì.

    Nó đã lăn ra xa chừng mười hay mười lăm foot 1 và văng ra giữa đường. Thậm chí, ở khoảng cách này cũng chẳng thể nhầm nổi, song như thể để chắc chắn tôi không còn gì để nghi ngờ nữa, ánh đèn pha của một chiếc xe đang chạy tới chiếu sáng vật đó. Chiếc xe ngoặt gấp và đâm vào một hàng rào, vọng lên trên cả tiếng còi bây giờ đang kêu không ngừng, tôi có thể nghe thấy người lái xe thét lên kinh hoàng. Tôi bước lại gần vật đó để khẳng định chắc chắn.

    Phải, đúng thế. Đúng là thứ đó.

    Một cái đầu phụ nữ.

    Tôi cúi xuống nhìn. Một nhát cắt rất ngọt, một thành phẩm rất đẹp đẽ. Gần như không có máu quanh miệng vết thương.

    “Cảm ơn Chúa,” tôi nói, nhận ra mình đang mỉm cười - mà sao lại không chứ?

    Chẳng phải thật tuyệt sao? Cuối cùng, tôi cũng đâu có điên.

    --------------------------------
    1 1 foot = 30 cm.

  10. #10
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,707
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 11

    Tấm màn vĩ đại của sự im lặng sững sờ chỉ tồn tại trong một khoảnh khắc. Sau đó tiếng nói ồn ã trong nhà thi đấu chuyển sang một cung bậc mới khi mọi người đổ xô tới để nhìn, để giải thích, để phỏng đoán.

    Một cái gương. Thế có nghĩa là gì?

    Một câu hỏi rất hay. Bất chấp cảm thấy chấn động mạnh bởi nó, tôi chưa có ngay được giả thiết tức thời nào về ý nghĩa của cái gương. Đôi khi nghệ thuật đỉnh cao là như thế. Nó tác động lên bạn và bạn không thể nói được vì sao. Liệu có phải nó mang ý nghĩa biểu tượng sâu xa nào không? Hay một thông điệp mã hóa? Một lời cầu khẩn mong muốn được giúp đỡ và thấu hiểu? Khó có thể biết được và với tôi, thoạt đầu không phải là điều quan trọng nhất. Tôi chỉ muốn cảm nhận nó. Hãy để người khác băn khoăn về chuyện làm thế nào nó tới đó được. Suy cho cùng, hoàn toàn có thể nó đã rơi ra và hắn đã quyết định ném nó vào cái túi đựng rác gần tầm tay nhất.

    Không thể nào, tất nhiên là không. Tôi không thể ngừng nghĩ về nó. Cái gương có mặt ở đó vì một lý do rất quan trọng. Với hắn, đó không phải là những cái túi đựng rác. Như hắn lúc này đã chứng minh một cách thật thanh lịch với màn sắp đặt trên sân hockey này, trình bày là một phần quan trọng của điều hắn đang làm. Hắn không thể cẩu thả trong bất cứ chi tiết nào. Chính vì thế, tôi bắt đầu nghĩ đến những ý nghĩa có thể của cái gương. Tôi buộc phải tin, cho dù đúng là ý nghĩ thật đột xuất, rằng đặt cái gương vào cùng các mảnh thi thể là hành động cố ý một cách quá rõ ràng. Tôi có cảm giác xa hơn thế, phập phồng nổi lên từ đâu đó phía sau hai lá phổi, rằng đây là một thông điệp được tính toán rất cẩn thận, rất riêng tư.

    Dành cho tôi chăng?

    Nếu không phải tôi, thì là ai đây? Phần còn lại của màn sắp đặt là để nói với toàn thế giới: Hãy xem ta là ai. Hãy xem tất cả chúng ta là ai. Hãy xem ta đang làm gì với nó. Cái gương chiếu hậu của một chiếc xe tải không phải là một phần của thông điệp đó. Cắt khúc thi thể, loại bỏ sạch máu - điều này cần thiết và cũng thật thanh lịch. Nhưng cái gương, nhất là nếu thực sự nó thuộc về chiếc xe tôi đã săn đuổi, chi tiết này lại khác. Thanh lịch, đúng vậy. Nhưng liệu nó nói gì về bản chất thực của mọi vật? Chẳng gì hết. Nó được thêm vào nhằm một mục đích khác, mục đích ấy chắc chắn phải là một dạng thông điệp mới, khác biệt hơn. Tôi có thể cảm thấy luồng điện của dòng suy nghĩ lao đi trong mình. Nếu nó thuộc về chiếc xe tải đó, nó chỉ có thể dành cho tôi.

    Nhưng nó có nghĩa gì?

    “Nó có nghĩa là cái chết tiệt gì vậy?” Deb nói từ sau lưng tôi. “Một cái gương. Tại sao?”

    “Anh không biết,” tôi nói, vẫn cảm thấy sức mạnh của nó giần giật trong mình. “Những anh dám cá lấy bữa tối của em tại Joe’s Stone Crabs rằng nó thuộc về chiếc xe tải đông lạnh.”

    “Không cá vụ này,” cô nói. “Nhưng ít nhất nó giải đáp một câu hỏi quan trọng.”

    Tôi nhìn cô, sững sờ. Có thể nào cô em tôi đã thực sự có được một cú nhảy tư duy nào đó trong khi tôi để sót mất không? “Câu hỏi nào vậy, em gái?”

    Cô hất hàm về phía đám cảnh sát cấp chỉ huy vẫn đang cãi nhau ỏm tỏi bên rìa sân băng. “Thẩm quyền điều tra. Vụ này là của chúng ta. Đi tiếp nào.”

    Ngoài mặt, thám tử LaGuerta không có vẻ ấn tượng lắm với bằng chứng mới này. Có lẽ cô ta đang che giấu một tâm trạng băn khoăn sâu sắc và khó chịu về ý nghĩa biểu tượng của cái gương và những gì nó ám chỉ dưới bề ngoài dửng dưng. Hoặc thế, hoặc cô ta thực sự đần độn. Cô ta vẫn đứng cạnh Doakes. Rất đáng hoan nghênh, trông anh ta có vẻ băn khoăn, nhưng hoàn toàn có khả năng chỉ đơn giản là khuôn mặt của anh ta đã quá mỏi với những cái liếc mắt tầm thường liên tục, anh ta đang cố thử thứ gì đó mới mẻ.

    “Morgan,” LaGuerta nói với Deb, “Với trang phục trên người, tôi không nhận ra cô nữa.”

    “Tôi đoán người ta hoàn toàn có thể không nhận ra nhiều thứ rất hiển nhiên, thám tử,” Deb nói trước khi tôi kịp ngăn cô lại.

    “Đúng thế,” LaGuerta nói. “Chính vì thế một số người trong chúng ta không bao giờ trở thành thám tử được.” Một chiến thắng trọn vẹn không chút nhọc sức, thậm chí LaGuerta còn chẳng buồn đợi tới lúc cú đòn tới đích. Cô ta quay người khỏi Deb và nói với Doakes. “Tìm xem những ai có chìa khóa nhà thi đấu. Ai có thể vào trong này bất cứ lúc nào họ muốn.”

    “Được thôi,” Doakes nói. “Kiểm tra tất cả các ổ khóa xem có ai phá khóa vào không nữa chứ?”

    “Không,” LaGuerta nói với anh ta, kèm theo một cái nhíu mày khe khẽ thật bắt mắt. “Giờ ta đều biết nó có liên quan tới băng.” Cô ta liếc nhìn sang Deborah. “Chiếc xe tải đông lạnh kia chỉ để gây nhiễu chúng ta.” Rồi quay lại Doakes. “Tổn thương mô đã xuất phát từ băng, từ đây. Vì thế thủ phạm có dính dáng tới băng tại chỗ này.” Cô ta đưa mắt nhìn Deborah lần cuối. “Không phải từ chiếc xe tải.”

    “Phải,” Doakes nói. Giọng nghe không có vẻ như đã bị thuyết phục, nhưng anh ta không phải người chịu trách nhiệm ở đây.

    LaGuerta nhìn sang tôi. “Tôi nghĩ anh có thể về nhà, Dexter,” cô ta nói. “Tôi biết anh sống ở đâu khi cần đến anh.” Ít nhất cô ta cũng không nháy mắt.

    Deborah đi cùng tôi ra khung cửa lớn hai cánh của nhà thi đấu. “Nếu chuyện này cứ tiếp diễn, sau một năm nữa chắc em sẽ thành nhân viên gác đường,” cô càu nhàu với tôi.

    “Đừng ngớ ngẩn, Deb,” tôi nói. “Hai tháng, tối đa.”

    “Cảm ơn anh.”

    “Thật đấy. Em không thể công khai thách thức cô ta như thế. Em không thấy thượng sĩ Doakes làm thế nào sao? Hãy có một chút tế nhị, vì Chúa.”

    “Tế nhị.” Cô em tôi dừng phắt lại và quát. “Nghe đây, Dexter,” cô nói. “Đây không phải là một trò chơi.”

    “Có đấy, Deb. Một trò chơi ứng xử. Và em đang chơi sai cách.”

    “Em chẳng đang chơi gì cả,” cô em tôi gắt gỏng. “Chuyện này can dự đến mạng người. Có một tên sát nhân đang lang thang tự do và hắn sẽ còn tiếp tục tự do chừng nào ả đầu đất LaGuerta đó còn tiếp tục phụ trách điều tra.”

    Tôi nuốt xuống một gợn hy vọng vừa dâng lên. “Có thể là thế...”

    “Đúng là như thế,” Deborah khăng khăng.

    “... nhưng Deborah, em không thể thay đổi điều đó bằng cách khiến mình bị tống khứ đến Coconut Grove điều khiển giao thông.”

    “Không,” cô nói. “Nhưng em có thể thay đổi nó bằng cách tìm ra kẻ sát nhân.”

    À, đây rồi. Một số người chỉ đơn giản là không hiểu thế giới này vận hành ra sao. Ngoài chuyện đó ra, cô em tôi là một người rất thông minh, thực sự thông minh. Chỉ đơn giản cô được sở hữu tất cả tính cách thẳng thắn chân chất của Harry, phong thái bộc trực của ông trong xử thế, nhưng lại không hề hiểu những nét khôn ngoan tinh tế luôn đi kèm với chúng của ông. Với Harry, thẳng thừng là một cách để vượt qua những trò thối tha. Với Deborah, đó là cách để giả bộ như chúng không hề tồn tại.

    Tôi được một trong những chiếc xe tuần cảnh bên ngoài nhà thi đấu đưa trở lại xe của mình. Tôi lái xe về nhà, tưởng tượng ra mình đã giữ lại cái đầu, gói ghém nó cẩn thận trong giấy lụa, để trên băng ghế sau để mang về cùng. Thật khủng khiếp và vớ vẩn, tôi biết. Lần đầu tiên tôi thấu hiểu những con người khốn khổ đó, thường là những kẻ tôn thờ đồ vật, thường âu yếm vuốt ve những chiếc giày nữ hay mang theo người, hay những món đồ lót bẩn. Một cảm giác lộn mửa khiến tôi muốn lao vào dưới vòi hoa sen cũng nhiều như muốn nện cho cái đầu đó một cú.

    Nhưng tôi đâu có nó. Chẳng thể làm gì với nó ngoài đi về nhà. Tôi lái xe thong thả, dưới tốc độ giới hạn đến vài dặm mỗi giờ. Ở Miami, làm thế cũng giống như đeo sau lưng một tấm biển “ĐÁ TÔI ĐI”. Tất nhiên, thực ra chẳng có ai đá tôi. Muốn làm thế bọn họ hẳn nhiên phải đi chậm lại. Nhưng tôi đã bị bấm còi bảy lần, bị vượt mặt tám lần, có năm chiếc xe chỉ đơn giản là vòng qua tôi, hoặc lao lên vỉa hè, hoặc lấn sang phía dòng xe đi ngược chiều đang lao lại.

    Nhưng hôm nay, thậm chí cả tinh thần bốc đồng của các lái xe khác cũng chẳng giúp tôi phấn chấn lên được. Tôi đã mệt rũ, đang sửng sốt và cần suy nghĩ, tránh xa khỏi khung cảnh ồn ã trong nhà thi đấu cùng cô ả LaGuerta ngu ngốc, khó chịu. Việc lái xe thong thả cho tôi thêm thời gian để cân nhắc, để nghiền ngẫm ý nghĩa của tất cả những sự kiện đã xảy ra. Và tôi nhận thấy một câu nói ngớ ngẩn không ngừng vang lên trong đầu, ngân lên khắp nơi trong bộ óc mệt nhoài của chính mình. Nó trở nên sống động theo cách của riêng mình. Càng nghe thấy nó nhiều hơn trong dòng suy nghĩ của bản thân, tôi càng thấy nó có ý nghĩa. Xa hơn thế, nó trở thành một dạng bùa chú đầy quyến rũ. Nó trở thành chìa khóa cho suy nghĩ về kẻ sát nhân, cái đầu lăn lóc trên đường, cái gương chiếu hậu được nhét vào giữa những mảnh cơ thể khô ráo một cách kỳ diệu.

    Nếu là tôi...

    Giống như “Nếu là tôi, tôi sẽ nói gì với cái gương?” và “Nếu là tôi, tôi sẽ làm gì với cái xe tải?”

    Tất nhiên, hắn không phải là tôi, kiểu ghen tỵ đó rất có hại cho tâm hồn, nhưng vì tôi không hề thấy mình sở hữu thứ này, thành thử cũng không quan trọng. Nếu là tôi, chiếc xe tải sẽ bị tống xuống một con kênh đâu đó cách nhà thi đấu không xa. Sau đó tôi sẽ nhanh chóng chuồn xa khỏi đó - trên một chiếc xe giấu sẵn chăng? Hay xe đánh cắp? Còn tùy. Nếu là tôi, liệu tôi có lên kế hoạch trưng bày thi thể ra giữa nhà thi đấu ngay từ đầu không, hay ý tưởng đó xuất hiện như câu trả lời cho cuộc săn đuổi trên cầu cạn?

    Ngoại trừ chuyện đó chẳng có lý chút nào. Không thể có chuyện hắn trông đợi ai đó bám đuổi tới tận North Bay Village - có phải thế không nhỉ? Nhưng nếu thế tại sao hắn lại có cái đầu để sẵn sàng ném? Và sau đó, tại sao lại mang phần thi thể còn lại tới nhà thi đấu? Nghe có vẻ là một lựa chọn lạ đời. Phải, đúng là ở đó có vô khối đá và cái lạnh hoàn toàn phù hợp. Nhưng khoảng không gian rộng mênh mông ồn ào đó thực sự chẳng hề phù hợp với những khoảnh khắc riêng tư kiểu như của tôi - nếu hắn là tôi. Có một sự trống trải khủng khiếp, mênh mông không hề có lợi cho sự sáng tạo thực thụ. Để ghé thăm thì thật vui, nhưng không phải là chỗ làm việc cho một nghệ sĩ. Một chỗ để vứt rác, chứ không phải nơi sáng tạo. Chỉ đơn giản là nó không đem đến cảm giác phù hợp cho việc đó.

    Nếu là tôi, tất nhiên rồi.

    Vậy nên nhà thi đấu là một bước tấn công táo bạo vào một lãnh địa chưa được khai phá. Nó có thể làm cảnh sát bối rối, gần như chắc chắn sẽ dẫn họ đi sai hướng. Nếu như họ nhận ra ở đây có một hướng đi để lần theo, một khả năng xem ra khá mờ mịt.

    Và trên hết là cái gương - nếu tôi đúng về những lý do khiến hắn lựa chọn nhà thi đấu, khi đó việc thêm cái gương vào chắc chắn sẽ củng cố thêm giả thiết đó. Nó có thể là một lời bình luận về những gì vừa xảy ra, liên quan tới việc để lại cái đầu. Nó có thể là một thông điệp cho phép nối lại tất cả những đầu mối khác, lắp ghép chúng lại gọn ghẽ như những mảnh thi thể được xếp chồng lên nhau, một cách nhấn mạnh tinh tế cho một công việc đáng chú ý. Vậy thì đó là thông điệp nào đây, nếu là tôi?

    Tao đã thấy mày.

    À, phải. Tất nhiên là thế rồi, bất chấp việc nghe có vẻ quá hiển nhiên. Tao thấy mày. Tao biết mày đang ở sau lưng và đang quan sát mày. Nhưng tao cũng ở thật xa phía trước mày, kiểm soát lộ trình, áp đặt tốc độ và quan sát mày bám theo tao. Tao thấy mày. Tao biết mày là ai, mày ở đâu và tất cả những gì mày biết về tao là tao đang quan sát mày. Tao thấy mày.

    Nghe có vẻ đúng. Tại sao nó không hề khiến tôi cảm thấy dễ chịu hơn?

    Hơn nữa, tôi nên nói bao nhiêu với Deborah tội nghiệp về chuyện này? Chuyện này đã trở nên đậm chất cá nhân tới mức tôi phải thật vất vả để nhắc mình nhớ còn có một khía cạnh công chúng trong nó, khía cạnh rất quan trọng cho cô em tôi và sự nghiệp của cô. Tôi không thể bắt đầu nói với cô - hay bất cứ ai - rằng tôi nghĩ tên sát nhân đang muốn nói gì đó với tôi, nếu tôi có đủ trí khôn để lắng nghe và trả lời. Nhưng phần còn lại, liệu có điều gì tôi cần nói với cô, liệu tôi có thực sự muốn nói không?

    Thật quá nhiều. Tôi cần ngủ trước khi có thể giải quyết được mớ bòng bong này.

    Tôi vẫn chưa đến mức khóc rưng rức khi leo lên giường, nhưng cũng đã gần sát tới mức đó. Tôi cho phép giấc ngủ nhanh chóng bao trùm lấy mình, thả lỏng để mặc mọi thứ chìm vào bóng tối. Tôi có được gần hai giờ rưỡi đồng hồ ngủ yên giấc trước khi điện thoại đổ chuông.

    “Là em đây,” giọng nói ở đầu dây bên kia vang lên.

    “Tất nhiên rồi,” tôi nói. “Deborah, phải không nào?” Và dĩ nhiên là đúng rồi.

    “Em đã tìm thấy chiếc xe tải đông lạnh.”

    “À, chúc mừng, Deb. Một tin rất tốt.”

    Đầu dây bên kia chìm vào im lặng một hồi lâu.

    “Deb?” Cuối cùng tôi lên tiếng. “Đó là tin tốt, phải không nào?”

    “Không,” cô em tôi đáp lại.

    “Ồ.” Tôi cảm thấy cơn buồn ngủ nện thình thịch trong đầu mình như một người thợ giặt đập vào một tấm thảm cầu nguyện, nhưng tôi cố gắng tập trung, “Ừm, Deb, em đã… chuyện gì đã xảy ra vậy?”

    “Em đã kiểm tra sự tương thích,” cô nói. “Bảo đảm hoàn toàn chắc chắn. Các bức ảnh, số phần, mọi thứ. Vậy là em nói lại với LaGuerta như một trinh sát giỏi.”

    “Và cô ta không tin em?” tôi hỏi với vẻ không tin nổi.

    “Nhiều khả năng là có.”

    Tôi cố chớp mắt, nhưng đôi mắt muốn nhắm tịt lại, vậy là tôi đành bỏ cuộc. “Anh xin lỗi, Deb, một trong hai chúng ta đang có vẻ không được có lý lắm thì phải. Liệu có phải anh không?”

    “Em cố giải thích cho cô ta,” Deborah nói với giọng rất khẽ, rất mệt mỏi khiến cho tôi có cảm giác kinh khủng như bị nhấn chìm dưới những con sóng mà không có chỗ nào bấu víu. “Em cho cô ta biết tất cả. Thậm chí còn tỏ ra lịch sự nữa.”

    “Tốt lắm,” tôi nói. “Cô ta nói gì?”

    “Chẳng gì cả,” Deb nói.

    “Không gì cả ư?”

    “Không gì hết,” Deb lặp lại. “Ngoại trừ nói cảm ơn, giống như cách người ta vẫn nói với người phục vụ tại bãi đỗ xe vậy. Và cô ta dành cho em cái cười khẩy kỳ cục đó rồi quay đi.”

    “Được rồi, nhưng Deb,” tôi nói, “em không thực sự trông đợi cô ta...”

    “Sau đó em tìm hiểu được tại sao cô ta lại cười như thế,” Deb nói. “Như thể em là một kẻ đần độn bẩn thỉu và cuối cùng cô ta cũng tìm ra chỗ để nhốt em vào.”

    “Ôi, không,” tôi tỏ vẻ ngạc nhiên. “Ý em là em đã bị gạt ra khỏi cuộc điều tra?”

    “Tất cả chúng ta đều bị gạt ra ngoài, Dexter,” Deb nói, giọng cô cũng mệt mỏi chẳng kém gì tình trạng của tôi lúc đó. “LaGuerta vừa bắt một người.”

    Đột nhiên đầu dây bên kia lại trở nên quá im lặng và tôi không thể suy nghĩ được gì, nhưng ít nhất tôi đã tỉnh hẳn. “Cái gì?” Tôi sửng sốt hỏi.

    “LaGuerta đã bắt giữ một gã nào đó. Một người làm việc tại nhà thi đấu. Cô ta cho tạm giữ anh chàng này và tin chắc đó là thủ phạm.”

    “Không thể nào,” tôi nói, cho dù biết chuyện đó hoàn toàn có thể, ả điếm liệt não đó. LaGuerta, không phải Deb.

    “Em biết, Dex. Nhưng đừng tìm cách nói với LaGuerta. Cô ta tin chắc đã tóm đúng người.”

    “Chắc đến mức nào?” Tôi nghi ngờ. Đầu tôi bắt đầu quay cuồng và ít nhiều cảm thấy như bị vỡ tung ra. Tôi cũng thực sự không thể hiểu được lý do.

    Deb dài giọng. “Cô ta sẽ tổ chức họp báo sau một giờ nữa,” cô em tôi tiếp tục. “Với cô ta, điều đó là chắc chắn.”

    Tiếng đập thình thịch trong đầu tôi trở nên quá to để có thể nghe được những gì Deb nói sau đó. LaGuerta đã bắt một người? Ai vậy? Cô ta có thể nhằm vào ai? Chẳng lẽ cô ta có thể thực sự tảng lờ mọi đầu mối, mùi vị, cảm giác, phong cách của những vụ giết người này và bắt bừa ai đó sao? Bởi vì không ai có thể làm những gì tên sát nhân này đã làm, đang làm, lại có thể cho phép một cô ả đần độn như LaGuerta tóm được mình. Không bao giờ. Tôi dám mang tính mạng mình ra đánh cược điều đó.

    “Không, Deborah,” tôi nói. “Không. Không thể nào. Cô ta đã bắt nhầm người.”

    Deborah bật cười, một tiếng cười mệt mỏi, ngấy - đến - tận - cổ đậm chất cớm. “Phải,” cô em tôi nói. “Em biết thế. Anh biết thế. Nhưng cô ta không biết thế. Anh có muốn biết một chuyện buồn cười không? Cả gã kia cũng không.”

    Nghe chẳng ra đâu vào đâu cả. “Em đang nói gì vậy, Deb? Ai không biết kia?”

    Cô em tôi lặp lại với một tiếng cười chua chát. “Gã bị cô ta bắt. Em đoán hắn cũng lú lẫn chẳng kém gì LaGuerta, Dex. Vì hắn đã thú tội.”

    “Cái gì?”

    “Hắn đã thú tội, Dexter. Gã con hoang khốn kiếp đó đã thú tội.”


Trang 1 / 3 123 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-29-2014, 02:07 PM
  2. Nóng: Giết vợ, xối nước định giết hại con thơ
    By duyanh in forum Văn Hóa-Xã Hội-Kinh Tế
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 10-07-2014, 01:18 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •