Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Bí quyết để sống hạnh phúc là biết chờ đợi hạnh phúc của mình.
H. Riviere
Trang 2 / 3 ĐầuĐầu 123 Cuối Cuối
Results 11 to 20 of 26

Chủ Đề: Dexter Và Giấc Mơ Hắc Ám

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Dexter Và Giấc Mơ Hắc Ám

    Dexter Và Giấc Mơ Hắc Ám

    Jeff Lindsay

    Người dịch: Lê Đình Chi





    Giới thiệu nội dung

    Dexter Morgan, một anh chàng đẹp trai quyến rũ, nhưng bên trong vẻ ngoài đẹp đẽ ấy là một bí mật chết người - anh là một kẻ giết người hàng loạt. Nhưng không giống như những tên cuồng sát khác, anh luôn hành động theo một quy tắc vàng: chỉ giết kẻ có tội. Công việc phân tích máu giúp cho anh có thể dễ dàng xác định mục tiêu và cô bạn gái Rita là một vỏ bọc tuyệt vời giúp anh giống như một người hoàn toàn bình thường.

    Nhưng tới một ngày, nhận được cuộc điện thoại từ cô em Deborah, anh tới hiện trường một vụ án mạng mà kẻ thủ ác có cách ra tay gần như y hệt anh, thậm chí còn tinh vi hơn. Khi càng ngày càng có nhiều nạn nhân hơn, anh quyết tâm tìm ra hung thủ, vừa để giúp cô em gái thăng tiến trong sự nghiệp, và cũng để trả lời câu hỏi kinh hoàng nhất: liệu kẻ đó có phải là chính anh?



    Giới thiệu tác giả

    Jeff Lindsay (14/7/1952) là bút danh của Jeffry P. Freundlich, nhà biên kịch, tiểu thuyết gia chuyên về thể loại tội phạm, hiện ông đang sống ở Florida với vợ - nhà văn Hilary Hemingway, cháu gái đại văn hào Ernest Hemingway.

    Dexter Và Giấc Mơ Hắc Ám đã nằm trong top Một trăm tiểu thuyết trinh thám kinh dị hay nhất mọi thời đại do website uy tín NPR tổ chức.

    Năm 2005, Dexter và Giấc Mơ Hắc Ám đoạt giải thưởng Dilys Award.

    Phần một của xê ri phim truyền hình ăn khách tại Mỹ ra mắt năm 2006, Dexter, được chuyển thể rất thành công từ cuốn tiểu thuyết này.



    Nhận định về tác phẩm

    Một trong những kẻ giết người hàng loạt được yêu mến nhất trong dòng văn học trinh thám ly kỳ. - The New Yorker

    Hắc ám và lắt léo… Táo bạo và bất ngờ. - USA Today

    Dexter là một nhân vật có sức lôi cuốn, dù anh chàng không phải là típ người bạn muốn mời dùng chung bữa tối. - Chicago Sun-Times



    Lời cảm ơn

    Cuốn sách này hẳn không thể được hoàn tất nếu không có sự giúp đỡ nhiệt thành về nghiệp vụ và tinh thần của Einstein và Deacon. Họ đại diện cho những gì tốt nhất của cảnh sát Miami, họ đã dạy cho tôi hình dung ra ít nhiều cách thức để thực hiện công việc cực kỳ khó khăn này, tại một nơi còn khó khăn hơn.

    Tôi cũng muốn gửi lời cám ơn tới những người đã đưa ra gợi ý hết sức hữu ích, đặc biệt là vợ tôi, gia đình Barclay, Julio S., bác sĩ Freudlich, bà A. L. Freudlich, Pookie, Bear và Tinky.

    Tôi biết ơn sâu sắc Jason Kaufman về sự sáng suốt và nhìn xa trông rộng của ông trong việc định hình nên cuốn sách này.

    Cũng xin được cám ơn Doris, Quý bà của Tiếng cười cuối cùng.

    Và xin gửi lời cảm ơn đặc biệt tới Nick Ellison, người có tất cả các tố chất của một người đặc vụ nhưng chưa bao giờ là đặc vụ.



    Thân tặng Hilary, người là tất cả với tôi.



    Chương 1

    Trăng. Trăng lộng lẫy. Mặt trăng tròn trịa, đầy đặn, đỏ quạch, đêm sáng như ban ngày, với ánh trăng ngập tràn mặt đất, mang tới sự hân hoan, vui sướng. Mang tới cả tiếng gọi vang vọng hết cỡ của đêm nhiệt đới, âm thanh mềm mại và hoang dã của gió rin rít lướt qua những sợi lông trên hai cánh tay bạn, tiếng thở than trống rỗng của ánh sao, tiếng nghiến răng kèn kẹt của ánh trăng lan ra trên mặt nước.

    Tất cả cùng kêu gọi Nhu Cầu. Ôi, bản đồng ca gầm rít của hàng nghìn giọng nói đang ẩn kín, tiếng gào thét của Nhu Cầu từ bên trong, “thực thể đó”, kẻ quan sát im lặng, thực thể lạnh lùng trầm mặc, kẻ phá lên cười, kẻ nhảy dưới trăng. Phần tôi mà không phải là tôi, thực thể luôn mỉa mai, cười cợt, song hành với sự thúc giục đầy thèm khát. Với Nhu Cầu. Và lúc này, Nhu Cầu trở nên rất mạnh mẽ, chậm rãi lách cách len lỏi đi một cách lạnh lùng, tỉnh táo và sẵn sàng - tuy nhiên nó vẫn chờ đợi và theo dõi, buộc tôi cũng phải chờ đợi và theo dõi.

    Tôi đã chờ đợi và theo dõi gã mục sư từ năm tuần nay. Nhu Cầu đã thúc giục, hành hạ, đòi hỏi tôi phải tìm ra một ai đó, tìm ra kẻ tiếp theo, tìm ra gã mục sư này. Từ ba tuần nay, tôi đã biết hắn chính là kẻ tôi tìm, là kẻ tiếp theo, chúng tôi thuộc về Người lữ hành Tối Tăm, cả hắn và tôi. Trong ba tuần vừa qua, tôi đã phải đấu tranh với sức ép, với Nhu Cầu đang lớn dần, dâng lên trong tôi như một con sóng lớn gầm gào tràn lên trên bãi biển và không hề rút xuống, đang càng ngày càng trào lên dữ dội hơn sau mỗi tiếng tích tắc của đồng hồ trong đêm trăng sáng này.

    Nhưng đây cũng là quãng thời gian phải thận trọng, thời gian để bảo đảm chắc chắn. Không phải bảo đảm chắc chắn về gã mục sư, không, tôi đã chắc chắn về hắn từ lâu. Thời gian là để bảo đảm việc này có thể được thực hiện một cách đúng đắn, gọn ghẽ, mọi thứ đều được gói ghém kỹ lưỡng, được dọn sạch sẽ. Tôi không thể để bị bắt, không phải lúc này. Tôi đã nỗ lực quá vất vả, quá lâu, để chuyện này phục vụ cho bản thân, bảo vệ cuộc sống hạnh phúc quý báu của chính mình.

    Tới lúc này tôi đã trải nghiệm được quá nhiều niềm vui nên không thể dừng lại.

    Chính vì thế tôi luôn cẩn trọng. Luôn ngăn nắp. Luôn chuẩn bị sẵn sàng từ trước để mọi chuyện đều ổn thỏa. Và khi đã ổn, bỏ ra thêm thời gian để thật sự chắc chắn. Đó là cách của Harry, Chúa ban phước lành cho ông ấy, người cảnh sát hoàn hảo nhìn xa trông rộng, bố nuôi của tôi. Hãy luôn bảo đảm chắc chắn, hãy cẩn trọng, chính xác, ông đã nói như thế, từ một tuần nay tôi tin chắc mọi việc đều đúng như Harry mong muốn - tốt đến mức tối đa có thể. Và khi tôi rời nhiệm sở tối nay, tôi biết đã đến lúc. Tối nay sẽ là Đêm Hành Động. Tối nay có gì đó thật khác biệt. Tối nay chuyện đó sẽ xảy ra, phải xảy ra. Như đã từng xảy ra trước đây. Như nó sẽ còn xảy ra nữa.

    Tối nay chuyện đó sẽ xảy đến với gã mục sư.

    Hắn là Cha Donovan. Hắn dạy nhạc cho đám trẻ tại trại trẻ mồ côi St. Anthony ở Homestead, Florida. Bọn trẻ yêu quý hắn. Lẽ tất nhiên, hắn cũng yêu quý trẻ con, phải, rất yêu. Hắn đã dành trọn cả một đời cho chúng. Học tiếng Creole và tiếng Tây Ban Nha. Học âm nhạc của họ nữa. Tất cả vì lũ trẻ. Cho dù hắn làm gì, tất cả đều vì lũ trẻ.

    Mọi thứ.

    Tôi theo dõi hắn tối nay giống như đã từng theo dõi hắn bao buổi tối trước. Theo dõi trong lúc hắn dừng lại trước của trại trẻ mồ côi, trò chuyện với một cô bé da đen vừa đi theo hắn ra ngoài. Cô bé vẫn còn nhỏ, không quá tám tuổi, vóc dáng quá nhỏ so với lứa tuổi này. Hắn ngồi xuống bậc thềm, trò chuyện với cô bé khoảng năm phút. Cô bé cũng ngồi xuống và không ngừng nhún nhảy. Họ cùng phá lên cười. Cô bé tựa người vào hắn. Hắn vuốt tóc cô bé. Sau đó, cô bé mỉm cười và chìa một bàn tay ra rồi gục đầu áp vào người gã mục sư. Cha Donovan vỗ về cô bé, đứng dậy, rồi hôn tạm biệt. Người nữ tu bé bỏng bật cười và nói gì đó với Cha Donovan. Hắn cũng nói lại gì đó.

    Rồi sau đó, hắn bắt đầu bước về phía chiếc xe của mình. Cuối cùng, tôi cũng thu mình lại để tấn công và...

    Chưa đến lúc. Một chiếc xe tải nhỏ của dịch vụ lao công đỗ cách cửa tòa nhà bốn mét rưỡi. Khi Cha Donovan đi ngang qua nó, cánh cửa bên sườn xe trượt mở ra. Một người đàn ông ló ra ngoài, miệng ngậm một điếu thuốc lá đang hút dở, lên tiếng chào gã mục sư, còn hắn tựa người lên thành chiếc xe và trò chuyện với người đàn ông kia.

    May mắn. Lại là may mắn. May mắn luôn hiện hữu trong những “đêm như thế này”. Tôi không hề trông thấy người đàn ông đó, thậm chí cũng không ngờ anh ta có mặt ở đó. Nhưng hẳn anh ta đã nhìn thấy tôi. Nếu không nhờ “may mắn”.

    Tôi hít một hơi thật sâu. Rồi thở ra từ từ, đều đặn, lạnh như băng. Chỉ là một chi tiết nhỏ. Tôi đã không quên mất bất cứ chi tiết nào khác. Tôi đã chuẩn bị tất cả rất chu đáo, tất cả đúng như cũ, tất cả theo đúng cách cần phải làm. Sẽ ổn thôi.

    Bây giờ.

    Cha Donovan lại tiếp tục bước về phía chiếc xe của hắn. Hắn quay lại phía sau một lần, lên tiếng gọi ai đó. Người lao công vẫy tay từ trên ngưỡng cửa trại trẻ mồ côi, sau đó ném điếu thuốc lá của anh ta đi và biến mất vào bên trong tòa nhà. Biến mất.

    May mắn. Lại là may mắn.

    Cha Donovan lục túi tìm chìa khóa, mở cửa, chui vào trong xe. Tôi nghe thấy tiếng chìa khóa cắm vào ổ. Nghe thấy tiếng động cơ khởi động. Và rồi...

    BÂY GIỜ.

    Tôi ngồi bật dậy trên băng ghế sau xe và quàng nút thòng lọng quanh cổ hắn. Một cử động nhanh nhẹn, trơn tru, đẹp mắt, và sợi dây câu đã được thử có thể chịu được sức nặng năm mươi pound 1 thít chặt lại. Hắn hơi quay đầu đi vì hoảng hốt và hiểu ra tất cả.

    “Giờ mày là của tao,” tôi nói với hắn, khiến hắn cứng người lại ngay lập tức, hoàn hảo như thể đã được luyện tập trước, gần như có thể cho rằng hắn đã nghe thấy giọng nói còn lại, nghe thấy kẻ theo dõi đang phá lên cười trong tôi.

    “Hãy làm chính xác như tao nói,” tôi lên tiếng.

    Hắn khò khè thở đầy khó khăn và liếc mắt nhìn vào gương chiếu hậu. Khuôn mặt của tôi đã ở đó, đợi hắn, được bọc kín trong chiếc mặt nạ bằng lụa trắng chỉ để hở ra hai mắt.

    “Mày hiểu chứ?” Tôi nói. Lớp lụa của mặt nạ gập lại giữa hai môi trong lúc tôi nói.

    Cha Donovan không nói gì, chỉ nhìn chằm chằm vào đôi mắt tôi. Tôi siết sợi thòng lọng.

    “Mày hiểu chứ?” Tôi nhắc lại, có phần nhẹ nhàng hơn.

    Lần này hắn gật đầu. Hắn đưa một bàn tay run rẩy sờ lên nút thòng lọng, có vẻ không dám chắc chuyện gì sẽ xảy ra nếu hắn tìm cách nới nó ra. Khuôn mặt hắn đã trở nên tím bầm.

    Tôi nới nút thòng lọng cho hắn. “Hãy biết điều,” tôi nói, “và mày sẽ sống lâu hơn.”

    Hắn hít một hơi thật sâu. Tôi có thể nghe thấy tiếng không khí rít lên trong họng hắn. Nhưng hắn vẫn ngồi im, không cố gắng tìm cách bỏ chạy.

    Vậy là rất tốt.

    Chúng tôi lái xe đi. Cha Donovan làm theo chỉ dẫn của tôi, không giở trò, không do dự. Chúng tôi đi về hướng nam, qua thành phố Florida và chạy theo tuyến đường Card Sound. Tôi có thể thấy rõ tuyến đường đó làm hắn bất an, nhưng hắn không hề phản đối. Hắn không tìm cách bắt chuyện với tôi. Hắn giữ cả hai bàn tay trên vô lăng, nhợt nhạt và nắm chặt, vì thế khớp các đốt ngón tay đều gồ lên. Điều đó cũng rất tốt.

    Chúng tôi đi xe về phía nam thêm năm phút nữa, đồng hành cùng chúng tôi không còn âm thanh nào ngoài tiếng động phát ra từ các lốp xe, tiếng gió thổi và mặt trăng tròn trên bầu trời đang dạo những nốt nhạc hùng tráng của nó trong các mạch máu khắp người tôi, kẻ đang thận trọng theo dõi thầm cười khoan khoái trước dòng chảy gấp gáp của cảm xúc dữ dội ban đêm.

    “Rẽ vào đây,” cuối cùng tôi lên tiếng.

    Đôi mắt gã mục sư hướng vào mắt tôi qua gương chiếu hậu. Cơn hốt hoảng đang cố bò ra khỏi đôi mắt hắn, leo xuống khuôn mặt, tìm tới miệng hắn để nói ra thành lời, nhưng...

    “Rẽ!” Tôi nói, hắn rẽ. Bất thình lình như thể hắn đã chờ đợi điều này từ lâu rồi, đã luôn chờ đợi nó và rẽ.

    Con đường đất nhỏ mờ ảo, ẩn hiện phía trước. Bạn gần như cần phải biết trước nó nằm ở đó. Nhưng tôi biết. Tôi đã từng tới nơi này trước đây. Con đường chạy dài hai dặm rưỡi, uốn khúc ba lần, xuyên qua những bụi cỏ răng cưa, qua những hàng cây, chạy dọc bên một con mương nhỏ, đi sâu qua vùng đầm lầy và dẫn vào một trảng trống.

    Năm mươi năm trước, ai đó đã xây ở đây một căn nhà. Phần lớn những gì được xây lên vẫn còn nguyên đó. Những gì còn lại vẫn rất rộng. Vẫn còn nguyên ba căn phòng, một nửa mái nhà, dẫu rằng nơi này đã hoàn toàn bị bỏ hoang từ nhiều năm qua.

    Ngoại trừ khu vườn rau cũ nằm bên cạnh căn nhà. Có những dấu vết cho thấy ai đó mới đào đất ở đó cách đây chưa lâu lắm.

    “Dừng xe lại,” tôi nói khi ánh đèn pha chiếu sáng căn nhà đổ nát.

    Cha Donovan lảo đảo làm theo lệnh. Nỗi sợ hãi giờ đây đã bó chặt hắn bên trong thân xác, tứ chi và suy nghĩ của hắn tất cả đều trở nên cứng đờ.

    “Tắt động cơ đi,” tôi ra lệnh và hắn làm theo.

    Tất cả đột ngột trở nên thật im ắng.

    Có con vật nhỏ bé nào đó líu ríu trên một ngọn cây. Tiếng gió thổi lào xào qua mặt cỏ. Rồi xung quanh lại trở nên im ắng hơn, một sự im lặng sâu hun hút, tới mức gần như nuốt chửng giai điệu đang gầm gào của điệu nhạc đêm đang vang lên từ bản thể bí mật của tôi.

    “Ra ngoài,” tôi nói.

    Cha Donovan không động đậy. Đôi mắt hắn nhìn chằm chằm về phía khu vườn rau.

    Trong đó có bảy đống đất nhỏ nhô lên, hiện rõ trong tầm mắt. Những đống đất vừa được xúc lên trông thật tối tăm dưới ánh trăng. Chắc hẳn trông chúng còn tối tăm hơn với Cha Donovan. Hắn vẫn không nhúc nhích.

    Tôi siết mạnh nút dây, mạnh hơn so với mức hắn nghĩ có thể sống sót được, hơn những gì hắn biết có thể xảy đến với mình. Lưng hắn cong ra sau, áp vào lưng ghế, những đường mạch máu nổi hằn lên trên trán, hắn nghĩ mình sắp chết.

    Nhưng không phải thế. Chưa đến lúc. Thực ra là chưa trong một quãng thời gian ngắn nữa.

    Tôi đá mở cửa xe, lôi hắn ra, chỉ để hắn cảm nhận thấy sức mạnh của tôi. Hắn ngã vật xuống nền đường đất bụi, quằn người lại như một con rắn bị thương. Người lữ hành Tối Tăm phá lên cười thích thú, còn tôi diễn nốt phần của mình. Tôi giẫm một chân ủng lên ngực Cha Donovan và giữ chặt nút thắt.

    “Mày phải nghe và làm như tao nói,” tôi nói với hắn. “Mày phải làm thế.” Tôi cúi xuống, nhẹ nhàng nới lỏng nút thắt. “Mày nên biết thế. Điều đó rất quan trọng,” tôi nói.

    Và hắn lắng nghe. Đôi mắt hắn vằn lên, đau đớn, ứa nước ròng ròng trên khuôn mặt, rồi bắt gặp ánh mắt tôi trong một thoáng vỡ lẽ và tất cả những gì phải xảy ra đang phơi bày trước mắt hắn. Hắn đã thấy. Hắn biết cách xử sự đúng đắn quan trọng đến mức nào với mình. Hắn bắt đầu hiểu.

    “Giờ thì đứng dậy,” tôi nói.

    Chầm chậm, thật chậm, với ánh mắt không rời khỏi mắt tôi, Cha Donovan đứng dậy. Chúng tôi cứ đứng như thế một hồi lâu, mắt nhìn thẳng vào nhau, như hòa làm một và cùng chung một nhu cầu, rồi hắn run lẩy bẩy. Hắn giơ một bàn tay đưa lên mặt sau đó lại buông thõng ngay xuống nửa chừng.

    “Vào trong nhà,” tôi nói, thật nhẹ nhàng. Trong nhà mọi thứ đã sẵn sàng.

    Cha Donovan cúi gằm mắt xuống. Mặt đưa lên, hướng về phía tôi, nhưng không thể nhìn được nữa. Hắn quay về phía ngôi nhà, nhưng đứng sững lại khi nhìn thấy những đống đất tối sẫm trong vườn. Hắn muốn nhìn vào mắt tôi, nhưng không thể, đặc biệt là sau khi đã nhìn qua những đống đất đen thui dưới ánh trăng ấy.

    Hắn bắt đầu bước đi về phía ngôi nhà, còn tôi giữ chắc sợi dây tròng vào cổ hắn. Hắn bước đi ngoan ngoãn, đầu cúi gằm, một nạn nhân ngoan ngoãn. Leo lên năm bậc thềm tàn tạ, bước qua lối đi hẹp dẫn tới cửa trước, rồi đẩy cửa. Cha Donovan dừng lại. Hắn không nhìn lên. Hắn không nhìn tôi.

    “Đi qua cửa,” tôi nói bằng giọng ra lệnh mềm mỏng của mình.

    Cha Donovan run sợ.

    “Giờ hãy đi qua cửa,” tôi lặp lại.

    Nhưng hắn không thể.

    Tôi cúi người qua trước hắn, đẩy cánh cửa mở ra. Tôi dùng chân đạp gã mục sư đi vào trong. Hắn loạng choạng, đứng thẳng người dậy, sững lại ngay ngưỡng cửa, hai mắt nhắm nghiền.

    Tôi đóng cửa lại. Tôi đã để sẵn dưới sàn ngay cạnh cửa một cây đèn pin và bật đèn lên.

    “Nhìn đi,” tôi thì thầm.

    Cha Donovan chậm chạp, thận trọng mở một mắt ra.

    Người hắn đông cứng.

    Thời gian như ngừng trôi với Cha Donovan.

    “Không,” hắn nói.

    “Có,” tôi nói.

    “Ôi, không,” hắn nói.

    “Ồ, có,” tôi nói.

    Hắn gào lên, “KHÔÔÔÔNG!”

    Tôi kéo giật dây thòng lọng. Tiếng hét bị cắt ngang, hắn quỳ sụp xuống hai đầu gối, miệng bật ra một tiếng rên rỉ nức nở và đưa tay lên ôm lấy mặt. “Phải,” tôi nói. “Đúng là một cảnh tượng ghê tởm, phải không nào?”

    Hắn dùng cả khuôn mặt để khép chặt đôi mắt lại. Hắn không muốn nhìn, không phải vào lúc này, không phải như thế này. Tôi không chê trách hắn, thực sự là thế, vì đó quả là một cảnh tượng ghê tởm. Tôi đã chỉ bận tâm về điều đó kể từ lúc sắp đặt nó dành cho hắn. Nhưng hắn phải nhìn thấy nó. Bắt buộc. Không chỉ vì tôi. Không chỉ vì Người lữ hành Tối Tăm. Vì hắn. Hắn buộc phải nhìn. Và hắn không chịu nhìn.

    “Mở mắt ra, Cha Donovan,” tôi lên tiếng.

    “Làm ơn,” hắn khẩn khoản thì thầm một cách thật ghê tởm. Tiếng cầu khẩn của hắn chạm đến thần kinh của tôi một cách thật khó chịu, đáng ra không nên như thế, đáng ra phải là sự kiểm soát trọn vẹn lạnh như băng, nhưng những lời nói ấy đã chạm tới tôi, sự rền rĩ trên khuôn mặt của cái đống thối tha đó, tôi đá hai chân hắn duỗi ra khỏi dưới thân người. Tôi giật mạnh nút thòng lọng lên, dùng bàn tay phải chộp lấy gáy hắn, rồi dập thẳng tay khuôn mặt hắn xuống những tấm ván sàn bẩn thỉu bụi bặm. Có chút máu trào ra, điều đó càng khiến tôi điên hơn.

    “Mở mắt ra,” tôi ra lệnh. “Mở mắt của mày ra. Mở ra NGAY. Nhìn đi.” Tôi chộp lấy tóc hắn, kéo giật đầu ra sau. “Làm như tao bảo,” tôi nói. “Nhìn đi. Nếu không tao sẽ xẻo hai mi mắt của mày.”

    Lời nói của tôi tỏ ra cực kỳ có sức thuyết phục. Thế là hắn làm theo. Hắn làm như tôi yêu cầu. Hắn nhìn.

    Tôi đã nỗ lực rất nhiều để thu xếp mọi thứ chỉn chu, nhưng bạn buộc phải làm tốt nhất có thể với những gì bạn phải xử lý. Có lẽ tôi đã không thể chuẩn bị được màn chào đón này nếu những đứa trẻ đó không ở ngoài vườn đủ lâu để mọi thứ trở nên khô ráo hết, nhưng chúng vẫn rất bẩn. Tôi đã cố lau chùi đi phần lớn đất bẩn, nhưng một số thi thể đã ở trong vườn lâu đến nỗi bạn khó lòng phân biệt rõ những gì thuộc về chúng và những gì thuộc về đất vườn. Sự thực là bạn không bao giờ có được câu trả lời, khi bạn dừng lại để tâm nghĩ về điều đó. Quá bẩn…

    Có tất cả bảy nạn nhân, bảy thi thể nhỏ bé, bảy đứa trẻ mồ côi lẫn lộn trong đất bẩn được bày ra trên những tấm nệm cao su, loại này sạch sẽ hơn và không gây rỉ nước. Bảy đường vạch thẳng nằm ngang trong căn phòng.

    Chỉ thẳng về phía cha Donovan. Vậy là hắn biết.

    Hắn sắp sửa gia nhập vào chúng.

    “Hỡi Mary, đầy màu nhiệm…” Hắn bắt đầu lên tiếng. Tôi siết mạnh nút thòng lọng.

    “Không thêm một lời nào như thế nữa, Cha. Không phải lúc này. Giờ là lúc dành cho sự thật.”

    “Làm ơn,” hắn sặc sụa.

    “Phải rồi, cầu xin tao đi. Thế là tốt đấy. Tốt hơn rất nhiều.” Tôi lại giật thòng lọng lần nữa. “Mày có nghĩ rằng kia là tất cả không, Cha? Bảy thi thể? Chúng có cầu xin không?” Hắn không có gì để nói. “Mày có nghĩ kia là tất cả chúng không, Cha? Chỉ có bảy thôi sao? Liệu tao đã tìm ra hết chưa?”

    “Ôi, Chúa ơi,” hắn rên lên, với âm hưởng đau đớn thật êm tai khi nghe.

    “Thế còn ở các thành phố khác thì sao, Cha? Ở Fayetteville thì sao? Mày có muốn nói về Fayetteville không?” Hắn chỉ bật ra một tiếng nức nở tắc nghẹn, không phải lời nói. “Ở East Orange thì sao? Có phải ở đó là ba không? Hay tao còn thiếu mất một đứa trẻ nữa ở đó? Thật khó lòng biết chắc được. Có phải ở East Orange có bốn đứa không, Cha?”

    Cha Donovan cố thét lên. Không còn đủ không gian trong cổ họng hắn cho một tiếng gào ra trò, nhưng tiếng gào này thực sự có cảm xúc đằng sau nó, điều này đã bù lại cho kỹ thuật tệ hại nó được phát âm ra. Rồi hắn đổ vật ra trước, úp mặt xuống, tôi để mặc cho hắn sụt sùi rên rỉ một hồi trước khi lôi đứng dậy. Hắn không còn đứng vững, không còn giữ được tự chủ. Ý chí của hắn đã xẹp xuống, cằm ướt sũng nước dãi.

    “Làm ơn,” hắn nói. “Tôi không thể ngừng được. Chỉ là tôi không thể ngừng được. Làm ơn, ông cần phải hiểu…”

    “Tao hiểu hết, Cha,” tôi nói, lúc này có điều gì đó trong giọng nói của tôi, giọng nói của Người lữ hành Tối Tăm, âm hưởng của nó khiến hắn như hóa đá. Hắn từ từ ngước lên nhìn, sững sờ trước những gì thấy trong đôi mắt tôi. “Tao hiểu rất rõ,” tôi nói rồi bước lại ghé sát vào mặt hắn. Những giọt mồ hôi trên hai má hắn đông cứng. “Mày thấy đấy,” tôi tiếp tục, “tao cũng không thể ngừng được.”

    Lúc này chúng tôi đứng sát kề nhau, gần như chạm vào nhau, sự bẩn thỉu của hắn đột nhiên trở nên quá nhiều. Tôi giật lấy nút thòng lọng, đá hai chân hắn khuỵu xuống lần nữa. Cha Donovan bò lăn ra dưới sàn.

    “Nhưng còn những đứa trẻ?” Tôi nói. “Tao sẽ không bao giờ làm chuyện này với những đứa trẻ.” Tôi giẫm chiếc ủng đế cứng sạch bóng của mình lên sau đầu hắn, ấn mặt hắn úp xuống. “Không giống mày, Cha. Không bao giờ là trẻ con. Tao cần phải tìm ra những kẻ như mày.”

    “Ông là thứ gì?” Cha Donovan thì thào.

    “Sự khởi đầu,” tôi nói. “Và sự kết thúc. Hãy gặp kẻ Hủy Diệt của mày, Cha.” Tôi chuẩn bị sẵn sàng cái kim tiêm, khi nó đâm xuyên vào cổ hắn đúng như dự kiến, có một chút phản kháng từ những múi cơ căng cứng, nhưng từ gã mục sư thì không. Tôi ấn pít tông và chiếc xi lanh trở nên rỗng không, khiến Cha Donovan chìm vào sự bình yên nhanh chóng, sạch sẽ. Vài khoảnh khắc, chỉ cần vài khoảnh khắc, đầu hắn bắt đầu bồng bềnh, rồi quay mặt về phía tôi.

    Liệu lúc này hắn có thực sự nhìn thấy tôi không? Liệu hắn có nhìn thấy những chiếc găng tay cao su, chiếc áo khoác cẩn thận che kín người, chiếc mặt nạ bằng lụa? Liệu hắn có thực sự thấy tôi không? Hay điều đó chỉ xảy ra trong căn phòng khác, căn phòng của Người lữ hành Tối Tăm, Căn phòng Sạch Sẽ? Hai tối trước, nó đã được sơn trắng, được quét, lau, rửa sạch hết mức có thể. Ở giữa căn phòng đó, nơi các cửa sổ đã được dán chặt bằng những dải băng dính cao su trắng dày, dưới ánh sáng của những ngọn đèn giữa phòng, liệu cuối cùng hắn có nhìn thấy tôi ở đó, bên chiếc bàn tôi đã chuẩn bị, với những chiếc hộp đựng túi rác màu trắng, những chai hóa chất và một hàng nhỏ những cái cưa và dao không? Liệu cuối cùng hắn có nhìn thấy tôi không?

    Hay liệu hắn có thấy bảy thi thể nhem nhuốc kia, ai biết được còn bao nhiêu nữa? Liệu cuối cùng, hắn có hình dung ra chính hắn, không thể gào thét được nữa, dần biến thành một đám xương tàn như thế ngoài vườn?

    Hắn không thể, tất nhiên rồi. Trí tưởng tượng của hắn không cho phép hắn nhìn nhận chính mình như cùng một giống loài. Và theo cách nào đó, hắn có lý. Hắn sẽ không bao giờ biến thành một nắm xương tàn giống như đã làm với những đứa trẻ. Tôi sẽ không bao giờ làm thế, không bao giờ cho phép điều đó xảy ra. Tôi không giống Cha Donovan, không phải là thứ quái vật đó.

    Tôi là một con quái vật rất gọn ghẽ, sạch sẽ.

    Sự gọn ghẽ đòi hỏi thời gian, tất nhiên rồi, nhưng cũng đáng công sức bỏ ra. Đáng để làm Người lữ hành Tối Tăm vui vẻ, để giữ cho anh ta lặng yên thêm một thời gian dài nữa. Đáng để hoàn tất những gì phải làm một cách đúng đắn và chu toàn. Loại bỏ bớt một đám rác rưởi khỏi thế giới này. Thêm vài túi rác được gói ghém gọn gàng nữa, và góc thế giới nho nhỏ của tôi trở thành một nơi sạch sẽ hơn, hạnh phúc hơn. Một nơi tốt đẹp hơn.

    Tôi có khoảng tám giờ đồng hồ trước khi phải biến khỏi nơi này. Tôi sẽ cần đến toàn bộ quãng thời gian đó để thu xếp cho thỏa đáng.

    Tôi trói chặt gã mục sư xuống bàn bằng băng dính, cắt bỏ hết quần áo của hắn. Tôi thực hiện công việc chuẩn bị sơ bộ rất nhanh, cạo, lau, cắt đi những thứ thò ra một cách không ngăn nắp. Như mọi lần, tôi cảm thấy luồng cảm hứng đầy phấn khích từ từ dâng lên và bắt đầu chạy rần rật khắp cơ thể. Nó sẽ chập chờn lướt qua người tôi trong lúc làm việc, rồi dâng lên và mang tôi theo cùng với nó, cho tới tận khoảnh khắc cuối cùng, khi Nhu Cầu và gã mục sư cùng nhau trôi đi theo một ngọn triều đang lui dần rồi tan biến.

    Ngay trước khi tôi bắt đầu phần việc hệ trọng, Cha Donovan mở mắt ra nhìn tôi. Giờ đây trong đó không còn nỗi sợ hãi nữa, chuyện này đôi khi vẫn xảy ra. Hắn nhìn thẳng vào tôi, khuôn miệng mấp máy.

    “Cái gì?” Tôi hỏi và ghé đầu lại sát hơn một chút. “Tao không nghe thấy mày nói.”

    Tôi nghe thấy tiếng thở, một nhịp thở chậm rãi, bình thản, rồi hắn nói lại lần nữa trước khi đôi mắt nhắm lại.

    “Sẵn sàng phục vụ mày,” tôi nói, rồi bắt tay vào việc.

  2. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 12

    Tên anh chàng nọ là Daryll Earl McHale và anh ta là thứ người chúng ta thích gọi là một kẻ hai lần thất bại. Mười hai trong hai mươi năm gần nhất của cuộc đời mình, anh ta được làm khách mời của tiểu bang Florida. Thượng sĩ Doakes đáng mến đã xoay xở moi được tên anh ta ra từ đống hồ sơ nhân viên của nhà thi đấu. Trong quá trình dùng máy tính kiểm tra chéo giữa các nhân viên làm việc tại đây và hồ sơ các trường hợp đã bị kết án vì hành vi bạo lực hay tội ác, tên của McHale đã bị trưng ra hai lần.

    Daryll Earl là một kẻ nát rượu và chuyên gia đánh vợ. Có vẻ như thỉnh thoảng anh ta còn đi cướp ở các cây xăng nữa, chỉ đơn thuần vì giá trị giải trí thu được. Có thể trông cậy vào chuyện anh chàng này chịu yên ổn với một công việc có mức lương tối thiểu trong một hay hai tháng. Nhưng sau đó, đến một tối thứ Sáu đẹp trời, anh ta sẽ nốc sạch vài xách bia sáu chai và bắt đầu tin rằng mình chính là Cơn phẫn nộ của Chúa. Vậy là anh ta lái xe vòng vèo cho tới khi tìm ra một trạm xăng, rồi chỉ đơn giản nổi khùng lên. Tay này hùng hổ lao vào với một món vũ khí vung vẩy trên tay, cướp tiền và phóng đi. Sau đó, anh ta mang xấp tiền chừng tám hay chín mươi đô la vừa cướp được đi mua thêm vài xách bia nữa, uống cho tới khi cảm thấy lâng lâng tới mức nhất thiết phải nện ai đó một trận. Daryll Earl chẳng phải là kẻ to cao: chỉ vẻn vẹn một mét sáu mươi lăm, chẳng những thế lại gầy giơ xương. Thế nên để cho an toàn, ai đó bị tay này nện thường xuyên lại là vợ anh ta.

    Với lối sống này, kỳ thực tay du côn cũng đã vài lần gây chuyện mà chẳng hề hấn gì. Thế nhưng đến một tối nọ, anh chàng đi quá xa với vợ mình và khiến cô vợ phải ngồi xe đẩy một tháng. Cô này đâm đơn kiện, vì Daryll Earl đã có tiền sự, anh ta đã được một phen rũ tù.

    Anh ta vẫn tiếp tục uống, nhưng có vẻ Raiford 1 đã khiến anh ta đủ sợ hãi để biết thân biết phận hơn một chút. Anh ta kiếm việc và làm lao công ở nhà thi đấu, trên thực tế rất chịu khó làm việc. Từ những gì chúng tôi có thể nói chắc chắn, đã lâu lắm anh ta không còn đánh vợ.

    Còn nữa, anh chàng của chúng tôi thậm chí đã có vài khoảnh khắc nổi tiếng khi Panthers thi đấu tại cúp Stanley. Một phần công việc của anh ta là chạy ra sân dọn dẹp khi các cổ động viên ném đồ xuống mặt băng. Tại cúp Stanley năm đó, chuyện này trở thành một công việc cam go thực sự, vì cứ mỗi lần Panthers ghi điểm, các cổ động viên lại ném đến hàng ba bốn nghìn con chuột bằng nhựa xuống sân. Daryll Earl đã phải lao ra và nhặt nhạnh bằng hết, một công việc chán ngắt, cái này thì chẳng còn gì phải ngờ vực nữa. Vậy là đến một tối, được động viên bởi vài tợp vodka rẻ tiền, anh ta nhặt một con chuột nhựa lên và bắt đầu biểu diễn một chút “Vũ điệu chuột”. Đám đông hào hứng đón nhận và yêu cầu thêm nữa. Họ bắt đầu hò reo đòi hỏi điệu nhảy mỗi khi Daryll Earl trượt ra sân băng. Anh ta trình diễn vũ điệu đó trong suốt phần còn lại của mùa giải.

    Hiện tại những con chuột nhựa đã bị cấm tiệt. Thậm chí cho dù chúng có được luật liên bang yêu cầu, cũng sẽ chẳng có ai ném chúng xuống sân. Đội Panthers đã chẳng ghi nổi bàn nào kể từ khi Miami có một ông thị trưởng trung thực, đâu đó hồi thế kỷ trước. Nhưng McHale vẫn tiếp tục xuất hiện tại các trận đấu, hy vọng có được vũ điệu cuối cùng lọt vào camera quay trực tiếp.

    Tại cuộc họp báo, LaGuerta đã diễn thật tuyệt vai của mình. Cô ta làm cho nó nghe có vẻ như những ký ức về chút nổi tiếng của anh ta đã thúc đẩy Daryll Earl tới chỗ gây án mạng. Tất nhiên với thói nát rượu và tiền sử bạo lực với phụ nữ, anh ta quả là đối tượng nghi vấn hoàn hảo cho chuỗi án mạng ngu ngốc và tàn nhẫn này. Nhưng các cô gái đứng đường Miami giờ có thể yên tâm, cơn điên khùng giết chóc đã chấm dứt. Dưới sức ép quyết liệt của cuộc điều tra khẩn trương và không khoan nhượng, Daryll Earl đã nhận tội. Vụ án được khép lại. Quay lại vỉa hè đi, các cô gái.

    Đám báo chí háo hức nuốt từng từ. Tôi chắc bạn thực sự cũng không thể trách cứ họ. LaGuerta đã có một màn trình diễn bậc thầy khi đưa ra vừa đủ dữ kiện thực tế được tô vẽ thêm bằng những điều tưởng tượng bóng bẩy luôn khiến cho hầu hết mọi người bị thuyết phục. Tất nhiên, kỳ thực bạn đâu cần phải trải qua một cuộc kiểm tra IQ để trở thành phóng viên. Thậm chí là vậy, tôi vẫn luôn hy vọng được thấy một đốm sáng dù nhỏ nhất. Và luôn phải thất vọng. Có lẽ vì hồi nhỏ tôi đã xem quá nhiều phim đen trắng. Tôi vẫn nghĩ anh chàng say mèm với bộ dạng hoài nghi từ tờ nhật báo lớn của thành phố đáng lẽ phải hỏi một câu hóc búa nào đó và buộc các nhân viên điều tra phải cẩn thận xem xét lại điều tưởng như hiển nhiên.

    Nhưng buồn thay, cuộc sống không phải lúc nào cũng bắt chước nghệ thuật. Tại cuộc họp báo của LaGuerta, phần vai diễn của Spencer Tracy 2 được đảm nhiệm bởi một đám người mẫu nam và nữ với kiểu tóc hoàn hảo và những bộ đồ kiểu nhiệt đới. Những câu hỏi sắc sảo nhất của họ lên tới mức, “Cảm giác khi tìm thấy cái đầu như thế nào?” và “Liệu chúng tôi có thể chụp vài kiểu ảnh không?”

    chính năm 1938 (phim “Captain Courageous”) và 1939 (phim “Boys Town”).

    Một phóng viên duy nhất, một anh chàng Nick gì đó từ chi nhánh của đài truyền hình NBC có hỏi LaGuerta liệu cô ta có tin chắc McHale là thủ phạm không. Nhưng khi cô ta nói ra những bằng chứng hiển nhiên không thể phủ nhận chỉ ra khả năng này, thêm vào đó bản thú tội hoàn toàn rõ ràng, anh ta đã thôi không hỏi gì thêm nữa. Có thể anh ta đã hài lòng, mà cũng có thể câu trả lời quá đao to búa lớn.

    Và thế là vậy đấy. Vụ án khép lại, công lý được thực thi. Cỗ máy hùng mạnh của lực lượng trấn áp tội phạm xuất sắc tại sở cảnh sát Metro Miami thêm một lần nữa lại ca khúc khải hoàn trước thế lực hắc ám đang quấy nhiễu Thành phố xinh đẹp của chúng ta. Quả là một màn trình diễn đẹp như mơ. LaGuerta đưa ra một vài trong số những bức hình chụp Daryll Earl trong bộ dạng bặm trợn nhất được gắn kèm những bức ảnh bóng bẩy chụp chính cô ta đang thẩm vấn một tay phó nháy chuyên chụp ảnh thời trang cao cấp với mức thù lao hai trăm năm mươi đô la một giờ ở South Beach.

    Tất cả tạo thành một bản hợp ca mỉa mai đến thần kỳ, diện mạo của mối nguy hiểm và thực tế chết chóc, thật khác biệt. Bởi vì, cho dù Daryll Earl trông có thô lỗ hung bạo đến mấy chăng nữa, mối đe dọa thực sự cho xã hội chính là LaGuerta. Cô ta đã huýt sáo gọi bầy chó săn quay về, khép lại các lệnh truy nã, cho phép mọi người quay về lên giường đi ngủ trong một tòa nhà đang cháy đùng đùng.

    Chẳng lẽ tôi là người duy nhất có thể thấy Daryll Earl McHale không thể nào là kẻ sát nhân? Rằng trong những vụ án mạng đó có một phong cách và sự khôn ngoan mà một gã đầu đất như McHale thậm chí còn không thể hiểu nổi?

    Tôi chưa bao giờ đơn độc hơn so với lúc này, khi ngưỡng mộ cách ra tay của gã hung thủ thực sự. Bản thân những mảnh thi thể dường như đang ca hát với tôi, một khúc cuồng tưởng của kỳ quan không vương chút máu làm trái tim tôi bừng sáng, các mạch máu đầy ắp cảm giác kính nể đến mê hoặc. Nhưng tất nhiên nó sẽ không làm ảnh hưởng tới sự hăng hái của tôi muốn tóm cổ thủ phạm thực sự, một kẻ tàn sát một cách lạnh lùng, bệnh hoạn những người vô tội và dứt khoát phải bị lôi ra trước công lý. Phải không nào, Dexter? Phải không? Nào?

    Tôi ngồi trong căn hộ của mình, dụi đôi mắt đầy dử và nghĩ về màn trình diễn vừa được chứng kiến. Nó gần đạt được tới mức hoàn hảo nhất mà một cuộc họp báo có thể đạt tới khi không có thức ăn miễn phí và vài màn khỏa thân. LaGuerta rõ ràng đã viện đến mọi mối quan hệ cô ta có để biến nó thành buổi họp báo lớn nhất, long lanh nhất có thể và kết quả đúng là như vậy. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong sự nghiệp mặc đồ hiệu đi bợ đỡ cấp trên của mình, LaGuerta thực sự và hoàn toàn tin rằng cô ta đã tóm đúng kẻ cần tóm. Cô ta buộc phải tin như vậy. Quả thực, kể cũng đáng buồn. Cô ta nghĩ lần này mình đã làm chỉn chu mọi việc. Cô ta không chỉ thực hiện những bước đi thuần túy chính trị trong đầu, mà còn nghĩ đang đặt cửa vào một cuộc điều tra có triển vọng rất sáng sủa và chắc ăn. Cô ta đã giải quyết được tội ác, làm được chuyện đó theo cách của mình, tóm được thủ phạm, chặn đứng chuỗi án mạng. Những tràng vỗ tay hoan hô xứng đáng cho một công việc được thực hiện chu đáo. Và cô ta sẽ được tặng cho một điều ngạc nhiên đáng yêu khi xác chết tiếp theo lộ diện.

    Bởi vì tôi biết, không còn nghi ngờ gì nữa, tên sát nhân vẫn còn ở ngoài kia. Có thể hắn đang theo dõi cuộc họp báo trên kênh Bảy, kênh truyền hình ưa thích của những ai thích ngắm nghía cảnh máu chảy đầu rơi. Vào lúc này, chắc hắn phải cười ngặt nghẽo đến mức không thể cầm vững một lưỡi dao, nhưng trạng thái đó rồi sẽ trôi qua. Và khi nó trôi qua, khiếu hài hước hiển nhiên sẽ thúc giục hắn đưa ra lời bình luận.

    Vì một lý do nào đó, ý nghĩ này không làm tôi tràn ngập sợ hãi, ghê tởm và một quyết tâm tột bậc nhằm ngăn gã điên này lại trước khi quá muộn. Thay vào đó tôi lại thấy có chút mong chờ. Tôi biết như thế thật không phải, có lẽ chính vì thế càng làm tôi thấy thích thú hơn. Ồ, tôi muốn tên sát nhân bị chặn lại, bị đưa ra công lý, phải, tất nhiên rồi, nhưng có nhất thiết phải thật sớm không?

    Ngoài ra, cũng còn có một chút thỏa hiệp nho nhỏ cần thực hiện. Nếu tôi phải góp phần nhỏ bé của mình để chặn đứng tên sát nhân thực sự, vậy thì ít nhất tôi cũng nên giúp cho điều gì đó tích cực diễn ra đồng thời. Trong lúc đang nghĩ tới điều đó, điện thoại của tôi lại đổ chuông.

    “Có, anh xem rồi,” tôi nói vào ống nghe.

    “Chúa ơi,” Deborah lên tiếng ở đầu dây bên kia. “Em nghĩ mình sẽ phát ốm mất.”

    “À, anh sẽ không lau vầng trán sốt bừng bừng của em đâu, em gái. Còn có việc cần phải làm.”

    “Chúa ơi,” cô lặp lại, rồi hỏi tiếp, “Việc gì vậy?”

    “Nói cho anh biết,” tôi hỏi cô. “Có phải em đang bị mọi người bịt mũi khi nhìn không, em gái?”

    “Em mệt mỏi lắm, Dexter. Chưa bao giờ trong đời em thấy ngán ngẩm như lúc này. Mà câu đó có nghĩa là gì vậy?”

    “Anh hỏi có phải em đang ở vào tình thế mà bố hẳn sẽ gọi là ở trong chuồng chó không. Có phải tên em đã trở nên tai tiếng ở sở không? Có phải năng lực nghề nghiệp của em đang bị bôi xấu, hủy hoại, bị đặt dấu hỏi không?”

    “Giữa nhát đâm sau lưng của LaGuerta và cái biệt danh Einstein đó ư? Năng lực nghề nghiệp của em bây giờ bị coi là phân rồi,” cô em tôi nói với giọng chua chát hơn nhiều so với những gì tôi nghĩ có thể chờ đợi ở một người còn trẻ đến vậy.

    “Tốt. Quan trọng là em chẳng còn gì để mất nữa.”

    Cô em tôi khịt mũi. “Thật mừng em có thể giúp. Vì đúng là em lâm vào nước đó rồi đấy, Dexter. Nếu em chìm xuống thấp hơn nữa tại sở, chắc em sẽ phải làm chân pha cà phê ở Ban Quan hệ cộng đồng. Chuyện này sẽ đi đến đâu đây, Dex?”

    Tôi nhắm mắt lại và tựa người vào lưng ghế. “Em sẽ đi báo cáo với đại úy và cả sở rằng em tin Daryll Earl không phải người cần bắt và một vụ án mạng nữa sắp xảy ra. Em sẽ đệ trình một vài lý do thuyết phục thu được từ cuộc điều tra của mình, rồi em sẽ là trò cười cho cả sở cảnh sát Miami Metro trong một thời gian ngắn.”

    “Em đã là thế rồi,” cô nói. “Chẳng có gì ghê gớm. Nhưng ở đây có lý do nào chăng?”

    Tôi lắc đầu. Đôi khi tôi thấy thật khó tin nổi cô em mình lại có thể ngây thơ đến thế. “Em gái yêu quý ơi,” tôi nói, “thực sự em không tin Daryll Earl có tội, phải không nào?”

    Cô không trả lời. Tôi có thể nghe thấy tiếng thở và chợt hiểu ra rằng cô em tôi hẳn cũng đang rất mệt mỏi, mệt mỏi không kém gì tôi, nhưng không có được nguồn năng lượng tôi sở hữu từ việc biết chắc mình đúng. “Deb?”

    “Gã đó đã thú tội, Dexter,” cuối cùng cô lên tiếng và tôi nghe thấy trong giọng nói của cô có sự mệt mỏi đến tột độ. “Em không... trước đây em đã từng sai lầm, ngay cả khi... ý em là, nhưng hắn đã thú tội. Chẳng phải việc đó, việc đó... Mẹ kiếp. Có lẽ chúng ta chỉ nên mặc kệ, Dex.”

    “Ồ, em thật thiếu niềm tin,” tôi nói. “Cô ta đã tóm nhầm người, Deborah. Bây giờ em sẽ viết lại lịch sử.”

    “Chắc thế rồi.”

    “Daryll Earl không phải là thủ phạm,” tôi nói. “Không còn gì phải nghi ngờ về điều đó hết.”

    “Cho dù anh đúng, thì sao đây?” cô em tôi hỏi.

    Giờ đến lượt tôi phải chớp mắt ngỡ ngàng. “Anh xin lỗi?”

    “Thế này nhé, hãy xem nhé, nếu em là gã sát nhân, tại sao em lại không nhận ra giờ đây em đã lọt lưới? Với việc gã kia bị bắt, sức nóng đã tắt, anh biết đấy. Vậy tại sao em không chỉ đơn giản là dừng lại? Hay thậm chí tìm đến một nơi khác và bắt đầu lại?”

    “Không thể nào,” tôi nói. “Em không hiểu cách hắn suy nghĩ.”

    “Phải, em biết,” cô nói. “Vậy làm sao anh biết được?”

    Tôi lựa chọn tảng lờ câu hỏi. “Hắn sẽ tiếp tục ở lại ngay đây và sẽ lại giết người. Hắn cần cho chúng ta thấy hắn nghĩ gì về chúng ta?”

    “Thế có nghĩa là gì?”

    “Là không hay,” tôi thừa nhận. “Chúng ta đã làm một việc ngu ngốc khi bắt một gã dở người rõ mồn một như Daryll Earl. Thật buồn cười.”

    “Ha, ha,” Deb nói, không tỏ chút thú vị nào.

    “Nhưng chúng ta cũng đã sỉ nhục hắn. Chúng ta đã dành cho gã dở hơi thiểu năng trí tuệ này toàn bộ danh tiếng từ những việc hắn làm, như thế chẳng khác nào nói với Jackson Pollock 3 rằng một cậu nhóc sáu tuổi cũng có thể vẽ như thế.”

    “Jackson Pollock? Người họa sĩ ư? Dexter, đây là một tên đồ tể.”

    “Theo cách riêng của hắn, Deborah, hắn là một nghệ sĩ. Và hắn nghĩ về bản thân như thế.”

    “Lạy Chúa. Đây là ý tưởng ngu ngốc nhất...”

    “Hãy tin anh, Deb.”

    “Chắc rồi, em tin anh. Tại sao em lại không nên tin anh chứ? Vậy là chúng ta đang có một nghệ sĩ ở tâm trạng vừa thú vị vừa giận dữ sẽ nhất định không chịu đi đâu hết, phải không nào?”

    “Phải,” tôi nói. “Hắn cần phải ra tay thêm nữa, phải ngay trước mũi chúng ta và nhiều khả năng sẽ là một vụ bự hơn.”

    “Ý anh là lần này hắn sẽ giết một cô gái đứng đường béo tốt?”

    “Bự hơn ở quy mô, Deborah. Rộng lớn hơn về ý tưởng. Hoành tráng hơn.”

    “Ôi. Hoành tráng hơn. Chắc rồi. Với một cái máy xới đất chẳng hạn.”

    “Mức độ đã leo thang, Deb. Chúng ta đã truy đuổi hắn, sỉ nhục hắn và vụ giết người tiếp theo sẽ phản ánh điều đó.”

    “Hay lắm,” cô em tôi nói. “Và sẽ theo cách nào?”

    “Anh thực sự không biết,” tôi thừa nhận.

    “Nhưng anh tin chắc kia mà.”

    “Đúng thế,” tôi nói.

    “Tuyệt,” cô nói. “Giờ em biết phải để mắt tìm kiếm cái gì.��

    --------------------------------
    1 Nhà tù tiểu bang Florida, đặt gần thị trấn Raiford.
    2 Diễn viên Mỹ nổi tiếng (1900 - 1967), hai lần đoạt giải Oscar cho Diễn viên Nam.
    3 Họa sĩ nổi tiếng người Mỹ (1912 - 1956), theo trường phái trừu tượng.

  3. #12
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 13

    Khi bước qua cửa vào nhà sau giờ làm ngày thứ Hai, tôi biết ngay có gì đó không ổn. Người nào đó đã có mặt trong căn hộ của tôi.

    Cửa ra vào không bị phá, các cửa sổ không bị cạy, tôi cũng không thể trông thấy dấu vết phá hoại nào, nhưng tôi biết. Cứ gọi đây là giác quan thứ sáu hay bất cứ thứ gì các vị thích. Ai đó đã có mặt ở đây. Có lẽ tôi đang ngửi thấy mùi pheromone của kẻ xâm nhập còn lưu lại trong không khí. Hay chiếc ghế tựa hiệu La - Z - Boy của tôi đã bị động đến. Bằng cách nào tôi biết không quan trọng: Chỉ là tôi biết. Ai đó đã đột nhập vào căn hộ khi tôi còn ở chỗ làm.

    Có thể chẳng có gì ghê gớm. Nói cho cùng, đây là Miami. Dân tình vẫn về nhà hằng ngày để rồi phát hiện ra ti vi của họ đã biến mất, những món đồ trang sức và đồ điện tử trong nhà đã không cánh mà bay, không gian sống của họ bị vi phạm, tài sản bị cuỗm sạch, con chó của họ bỗng dưng ễnh bụng ra. Nhưng lần này lại khác. Kể cả khi đang soát nhanh căn hộ một lượt, tôi đã biết trước sẽ không tìm thấy gì bị mất.

    Và tôi đã đúng. Không có gì bị mất.

    Nhưng có một thứ được để lại.

    Tôi phải mất vài phút để tìm ra nó. Tôi đoán rằng phản xạ nghề nghiệp đã khiến tôi kiểm tra trước tiên những gì hiển nhiên nhất. Khi một kẻ đột nhập ghé thăm bạn, theo chu trình tự nhiên của sự việc, những món đồ sở hữu của bạn phải biến mất: đồ chơi, tư trang có giá trị, kỷ vật cá nhân, mấy chiếc bánh giòn sô cô la cuối cùng còn sót lại. Vậy là tôi kiểm tra.

    Nhưng mọi thứ của tôi vẫn yên vị không hề bị suy suyển. Máy tính, dàn âm thanh, ti vi và đầu đĩa, tất cả vẫn nằm nguyên ở nơi tôi đặt chúng. Thậm chí cả bộ sưu tập nhỏ những phiến kính quý giá được giấu trên giá sách, mỗi phiến kính mang một giọt máu khô duy nhất. Mọi thứ đều chính xác như tôi đã để chúng.

    Tiếp theo tôi kiểm tra đến khu vực sinh hoạt cá nhân, chỉ để chắc chắn: phòng ngủ, phòng tắm, tủ thuốc. Tất cả cũng đều ổn, tất cả đều có vẻ chưa hề bị đụng đến, dẫu vậy vẫn có một cảm giác lạ lùng trong không khí trên từng đồ vật cho biết nó đã bị xem xét, sờ mó vào, bị di chuyển - với sự cẩn thận hoàn hảo đến mức ngay cả những vết bụi cũng vẫn ở đúng vị trí của chúng.

    Tôi quay trở ra phòng khách, ngồi phịch xuống cái ghế của mình, đưa mắt nhìn quanh, đột nhiên trở nên nghi hoặc. Tôi hoàn toàn chắc chắn rằng có ai đó đã ở đây, nhưng vì sao? Và ai lại có thể quan tâm đến một anh chàng nhỏ bé như tôi tới mức cất công đột nhập vào và để lại ngôi nhà giản dị của tôi chính xác như cũ vậy? Vì không có thứ gì bị mất, không thứ gì bị di chuyển. Có thể chồng báo trong thùng rác hơi ngả sang trái một chút - nhưng có phải đó là do trí tưởng tượng của tôi không nhỉ? Có thể nào đó là do luồng gió thổi từ điều hòa nhiệt độ? Không có thứ gì thực sự khác biệt, không có gì thay đổi hay bị mất; không gì hết.

    Tại sao ai đó lại đột nhập vào căn hộ của tôi cơ chứ? Nó chẳng có gì đặc biệt cả - tôi bảo đảm chắc chắn điều đó. Đó là một phần trong việc thiết lập Tính cách Harry của tôi. Hòa nhập vào đời thường. Cư xử bình thường, thậm chí tẻ nhạt. Không làm bất cứ điều gì, sở hữu bất cứ thứ gì có thể gây ra lời bàn tán. Tôi đã làm đúng như thế. Tôi không có món đồ nào giá trị ngoài một dàn âm thanh stereo và một bộ máy tính. Còn có những mục tiêu khác, hấp dẫn hơn nhiều ở ngay những nhà láng giềng xung quanh.

    Dù thế nào đi nữa, tại sao ai đó lại đột nhập vào rồi chẳng lấy đi thứ gì cả, không làm gì hết, cũng chẳng để lại dấu vết nào? Tôi ngả người ra sau và nhắm mắt lại, gần như chắc chắn đã tưởng tượng ra toàn bộ sự việc. Đây chắc chắn chỉ là những tế bào thần kinh quá căng thẳng. Một dấu hiệu của chứng thiếu ngủ và lo lắng quá nhiều cho sự nghiệp đang tổn thương nghiêm trọng của Deborah. Thêm một dấu hiệu nhỏ cho thấy Dexter Già nua tội nghiệp đang trôi dần ra vùng Nước Sâu. Thực hiện bước chuyển êm dịu cuối cùng từ yếm thế sang điên loạn. Cho rằng bạn đang bị những kẻ thù vô danh bủa vây bốn phía không nhất thiết là một ý nghĩ điên rồ ở Miami - nhưng về mặt xã hội hành động kiểu đó là không chấp nhận được. Cuối cùng, chắc hẳn họ sẽ phải tống khứ tôi đi.

    Ấy thế nhưng cảm giác kia vẫn thật mạnh mẽ. Tôi cố giũ bỏ nó, chỉ là một suy nghĩ vẩn vơ chợt nảy ra, một trò đùa cợt của đầu óc, một cơn rối loạn thoáng qua. Tôi đứng dậy, vươn vai, hít một hơi thật sâu, cố nghĩ tới những chuyện hay ho. Chẳng có gì xuất hiện. Tôi lắc đầu, đi vào bếp lấy nước uống và thấy nó.

    Nó ở đó.

    Tôi đứng trước tủ lạnh và nhìn, tôi không rõ trong bao lâu, chỉ trơ mắt ra nhìn trân trối một cách ngớ ngẩn.

    Một cái đầu búp bê Barbie đã được gắn lên cửa tủ lạnh, mái tóc được ghim lên cánh tủ bằng một trong những miếng nam châm nhỏ hình các loại quả nhiệt đới của tôi. Tôi không hề nhớ từng để nó ở đó. Cũng không hề nhớ từng sở hữu một con búp bê như thế. Mà dường như đó là thứ kiểu gì tôi cũng sẽ nhớ.

    Tôi đưa tay ra chạm vào cái đầu nhỏ bằng nhựa. Nó lắc lư nhè nhẹ, đập vào cửa ngăn lạnh với một tiếng cạch khe khẽ. Chiếc đầu búp bê Barbie xoay thành một phần tư vòng nho nhỏ cho tới khi nó ngước mắt nhìn tôi với vẻ quan tâm háo hức của một con chó Collie 1. Tôi nhìn lại.

    Không thực sự biết mình đang làm gì hay lý do tại sao, tôi mở cửa ngăn lạnh ra. Bên trong, được đặt nằm cẩn thận trên mặt khay làm đá, là phần thân của Barbie. Hai chân và hai cánh tay đã bị tháo ra, phần thân bị cắt đôi ở chỗ eo. Các mảnh được xếp lại cẩn thận, gói ghém, buộc lại bằng một dải ruy băng hồng. Trong một bàn tay tí xíu của Barbie là một món phụ kiện nhỏ, một cái gương soi đồ chơi của Barbie.

    Sau một hồi lâu, tôi đóng cửa ngăn lạnh lại. Tôi muốn nằm xuống và áp má lên lần vải sơn mát rượi. Thay vì thế, tôi đưa ngón út ra gạt đầu Barbie. Nó đung đưa, đập cạch cạch vào cửa tủ. Tôi lại gạt lần nữa. Cạch cạch. Ái chà. Tôi đã có thêm một thú vui mới.

    Tôi để con búp bê lại chỗ của nó, quay lại cái ghế của mình, ngồi sâu vào tấm đệm và nhắm mắt lại. Tôi biết mình nên cảm thấy bực bội, giận dữ, sợ hãi, cảm thấy bị xúc phạm, bị tràn ngập trong tâm trạng thù địch một cách hoang tưởng cùng cơn phẫn nộ chính đáng. Nhưng tôi chẳng hề cảm thấy thế. Thay vào đó, tôi cảm thấy - gì nhỉ? Nhiều hơn một chút mê hoảng nhẹ. Lo lắng, có thể lắm - hay đó là sự hồ hởi?

    Tất nhiên, chẳng còn nghi ngờ gì nữa về danh tính kẻ đã đột nhập vào căn hộ của tôi. Trừ khi tôi có thể tiêu hóa được ý tưởng một người xa lạ nào đó, vì một lý do không rõ, đã tình cờ chọn căn hộ của tôi như địa điểm lý tưởng để trưng bày con búp bê Barbie bị chặt đầu của hắn.

    Không. Gã nghệ sĩ tôi ngưỡng mộ đã ghé thăm tôi. Hắn tìm ra tôi bằng cách nào không quan trọng. Nhận ra biển số xe của tôi trên cầu cạn tối hôm đó cũng là chuyện khá dễ dàng. Hắn có thoải mái thời gian để quan sát tôi từ nơi ẩn náu sau trạm xăng. Và sau đó, bất cứ ai biết cách dùng máy tính cũng có thể tìm ra địa chỉ của tôi. Một khi đã tìm ra nó, đột nhập vào trong cũng là việc không mấy khó khăn, để rồi cẩn thận xem xét một vòng và để lại một thông điệp.

    Đây là thông điệp: cái đầu bị treo riêng biệt, các phần thân được xếp trên khay làm đá của tôi và lại là cái gương đáng nguyền rủa đó. Cộng với sự thờ ơ hoàn toàn trước mọi thứ khác trong căn hộ, tất cả cộng lại thành một thứ duy nhất.

    Nhưng là cái gì?

    Hắn đang muốn nói gì?

    Hắn đã có thể để lại bất cứ thứ gì hoặc không gì cả. Hắn có thể cắm một con dao đồ tể bê bết máu xuyên qua tim một con quạ và lần vải bọc đệm ghế của tôi. Tôi biết ơn hắn đã không làm thế - nếu vậy thì quả là một màn bừa bộn - nhưng sao lại là Barbie? Liệu có phải thông điệp này đậm mùi sát khí hơn những thông điệp khác, nhớp nháp hơn - hay ít hơn? Có phải là, “Tao đang theo dõi và sẽ tóm được mày?”

    Hay hắn đang nói, “Chào! Muốn chơi không?”

    Tôi muốn. Tất nhiên là muốn.

    Nhưng còn cái gương thì sao? Thêm vào lần này đem đến cho nó ý nghĩa vượt xa khỏi chiếc xe tải và cuộc đuổi bắt trên cầu cạn. Giờ đây nhất định nó phải có nhiều ý nghĩa hơn thế. Tất cả những gì tôi có thể nghĩ tới là, “Hãy nhìn vào chính mày.” Thông điệp này có ý gì đây? Sao tôi lại phải nhìn vào chính mình? Tôi không tự phụ đến mức thấy khoan khoái với trò này - ít nhất tôi không hề tự phụ về vẻ bề ngoài của mình. Và tại sao tôi lại muốn nhìn vào chính mình, trong khi thứ tôi thực sự muốn nhìn là tên sát nhân? Vậy phải có ý nghĩa khác gắn liền với cái gương mà tôi chưa hiểu ra.

    Nhưng ngay cả chuyện này tôi cũng không thể đoán chắc. Cũng có thể chẳng hề có ý nghĩa thực sự nào hết. Tôi không muốn tin vào chuyện đó ở một tay nghệ sĩ lịch lãm, nhưng khả năng này vẫn hoàn toàn có thể. Đấy rất có thể là một thông điệp mang tính cá nhân, điên loạn và ma quái. Hoàn toàn chẳng có cách nào để biết được. Vì thế, cũng chẳng có cách nào để biết tôi nên làm gì. Nếu kỳ thực có điều gì đó tôi nên làm.

    Tôi đưa ra lựa chọn đậm tính nhân văn. Thật buồn cười khi ta nghĩ tới điều đó: tôi, đưa ra một lựa chọn đậm tính nhân văn. Harry hẳn sẽ tự hào. Theo đúng tính người, tôi quyết định không làm gì hết. Cứ chờ đợi và quan sát đã. Tôi không thể trình báo chuyện đã xảy ra. Vì nói cho cùng, có gì để trình báo đây? Chẳng thứ gì bị mất cả. Hoàn toàn chẳng có gì để nói một cách chính thức ngoài: “A, đại úy Matthews, tôi nghĩ ông cần biết có vẻ như ai đó đã đột nhập vào căn hộ của tôi và để lại một con búp bê Barbie trong tủ lạnh.”

    Một ý tưởng có vẻ rất triển vọng. Tôi dám chắc nó sẽ thành công quá sức tưởng tượng trong sở. Có thể thượng sĩ Doakes sẽ tự mình điều tra và cuối cùng được cho phép vận dụng một vài tài năng còn ẩn giấu về thẩm vấn không bị giới hạn. Cũng có thể bọn họ chỉ đơn giản ném tôi vào danh sách “Không đủ năng lực tâm thần để thực thi công vụ”, bên cạnh cô em Deb tội nghiệp, vì về mặt chính thức, cuộc điều tra đã khép lại, mà ngay cả khi còn đang tiến hành, nó cũng chẳng có gì dính dáng tới những con búp bê Barbie.

    Không, thực sự chẳng có gì để trình báo cả, ít nhất không phải theo bất cứ cách nào cho phép tôi có thể giải thích. Vì nguy cơ lĩnh một màn cùi chỏ tàn bạo nữa, thậm chí tôi cũng không thể hé răng với Deborah. Vì những lý do tôi không thể bắt đầu bằng việc giải thích, ngay cả với chính bản thân mình, chuyện này phải dừng lại ở mức độ cá nhân. Bằng cách giữ nó như thế, tôi sẽ có cơ hội sáng sủa hơn để tiếp cận vị khách không mời này. Để lôi hắn ra trước công lý, tất nhiên rồi. Hoàn toàn tự nhiên.

    Sau khi đi đến kết luận, tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn nhiều. Thực ra là gần như ngây ngất. Tôi không biết nó sẽ dẫn tới đâu, nhưng tôi sẵn sàng đối diện với bất cứ biến cố nào xuất hiện. Cảm giác đó ở lại trong tôi suốt đêm, thậm chí cả ngày hôm sau ở chỗ làm, trong lúc chuẩn bị một báo cáo cho phòng thí nghiệm, an ủi Deb và đánh cắp một chiếc bánh rán của Vince Masuoka. Nó ở lại trong tôi suốt quãng đường trở về nhà qua dòng xe cộ tấp nập luôn sẵn sàng gây án mạng của buổi chiều tối. Tôi đang ở trong một trạng thái sẵn sàng, đậm chất Thiền, được chuẩn bị chu đáo cho bất cứ ngạc nhiên nào.

    Hay ít nhất tôi đã nghĩ như vậy.

    Tôi vừa về đến căn hộ của mình, ngả lưng lên ghế tựa tìm một chút thư giãn thì điện thoại đổ chuông. Tôi cứ để mặc chuông reo. Tôi muốn hít thở vài phút, không thể nghĩ ra chuyện gì khẩn cấp tới mức không thể đợi được. Hơn nữa, tôi đã phải trả gần năm mươi đô la cho một chiếc máy trả lời cuộc gọi. Hãy để nó xứng đáng được duy trì.

    Hai hồi chuông. Tôi nhắm mắt lại. Hít vào. Thư giãn đi, anh bạn già. Ba hồi chuông. Thở ra. Máy trả lời bật sáng và bản thông điệp tuyệt hảo đậm chất thành thị của tôi bắt đầu được bật lên.

    “Xin chào, hiện tôi không có nhà, nhưng tôi sẽ gọi lại cho bạn ngay lập tức nếu bạn vui lòng để lại một lời nhắn sau tiếng bíp. Xin cảm ơn.”

    Quả là một giọng nói mê hồn. Quả là một trí tuệ thâm thúy! Toàn bộ thực sự là một lời nhắn xuất chúng. Nghe gần như rất nhân văn. Tôi rất lấy làm tự hào. Tôi lại hít vào, lắng nghe tiếng “Bíp!” du dương vang lên sau đó.

    “Chào anh, em đây.”

    Giọng nữ. Không phải Deborah. Tôi cảm thấy một bên mi mắt đang giật giật một cách khó chịu. Tại sao lại có quá nhiều người bắt đầu tin nhắn bằng “anh đây” hay “em đây” đến vậy chứ? Tất nhiên là các người rồi. Chúng ta ai chả biết thế. Nhưng các người là ai mới được chứ? Trong trường hợp của tôi các lựa chọn cũng khá ít ỏi. Tôi biết đó không phải là Deborah. Nghe cũng không giống LaGuerta, cho dù chuyện gì cũng có thể xảy ra được. Vậy là còn lại...

    Rita ư?

    “À, em xin lỗi, em...” Một hơi thở dài thườn thượt. “Nghe này, Dexter, em rất tiếc. Em nghĩ anh sẽ gọi cho em, rồi sau đó, khi anh không gọi, em chỉ…” Lại thêm một tiếng thở dài nữa. “Dù thế nào đi nữa, em cần nói chuyện. Vì em đã nhận ra... ý em là... ôi, khỉ thật. Anh có thể, à, gọi cho em được không? Nếu... anh biết đấy.”

    Tôi không biết nữa. Không hề. Thậm chí còn chẳng dám chắc người gọi là ai. Có thể thực sự là Rita không?

    Thêm một tiếng thở dài nữa. “Em xin lỗi nếu...” Một khoảng ngừng rất dài. Hai nhịp thở ra hít vào. Hít vào sâu, thở ra. Hít vào sâu, rồi đột ngột thở hắt ra. “Làm ơn hãy gọi cho em, Dexter. Chỉ...” Một khoảng ngừng dài. Thêm một tiếng thở dài. Rồi cô ta gác máy.

    Đã nhiều lần trong đời, tôi từng cảm thấy mình đang thiếu vắng thứ gì đó, một mảnh ghép quan trọng của bức tranh ghép mà những người khác ai cũng mang đi cùng họ nhưng thậm chí không hề nghĩ tới nó. Tôi thường không mấy bận tâm, vì phần lớn trong những trường hợp như thế, nó hóa ra lại là một mảnh chi tiết ngớ ngẩn đến mức đáng kinh ngạc của đời sống con người, như hiểu luật bóng chày và không tỏ ra thẳng tuột trong buổi hẹn hò đầu tiên.

    Nhưng có những lần khác, tôi cảm giác mình đang lạc mất một bể chứa khổng lồ đầy ắp sự thông thái, kho hiểu biết của một thứ giác quan tôi không sở hữu nhưng nhân loại lại cảm nhận được sâu sắc đến mức họ không cần nói về nó và thậm chí không thể diễn tả thành từ ngữ.

    Lúc này là một trong những lần như thế.

    Tôi biết mình được trông đợi phải hiểu Rita thực ra đang nói điều gì đó rất cụ thể, những khoảng ngừng, những chỗ lắp bắp của cô được thêm vào để tạo nên một thứ vĩ đại và huyền diệu mà một gã đàn ông sẽ nghiễm nhiên thấu hiểu. Nhưng tôi chẳng hề có manh mối nào về ý nghĩa của nó, hay làm cách nào để lần ra nó. Tôi có nên đếm những nhịp thở không nhỉ? Hay tính thời gian của những khoảng ngừng và quy đổi con số sang số thứ tự của các câu trong Kinh Thánh để đi tới mật mã bí ẩn? Cô ta đang cố nói gì với tôi vậy? Và tại sao, nếu cân nhắc theo hướng đó, tại sao cô ta lại cố nói với tôi bất cứ điều gì chứ?

    Như cách tôi hiểu mọi sự, khi tôi hôn Rita trong khoảnh khắc thôi thúc kỳ lạ và ngu ngốc đó, tôi đã bước qua một ranh giới cả hai chúng tôi đều đồng ý sẽ không vượt qua. Một khi nó bị vượt qua, sẽ không thể vãn hồi, không thể thoái lui được. Theo cách của nó, cái hôn kia đúng là một hành động giết người, ở bất cứ cấp độ nào, suy nghĩ như thế cũng đem lại cảm giác nhẹ nhõm. Tôi đã giết chết mối quan hệ được giữ gìn cẩn thận giữa hai chúng tôi bằng cách đâm xuyên lưỡi mình qua tim nó và hất xuống vách núi. Bùm, vậy là chết cứng. Thậm chí tôi còn chẳng nghĩ tới Rita từ sau lần đó. Cô ta đã biến mất, bị xóa sạch khỏi cuộc đời tôi bởi một ý thích bất chợt không sao hiểu nổi.

    Và bây giờ cô ta gọi điện, ghi âm lại tiếng thở dài của mình để mua vui cho tôi.

    Tại sao? Cô ta muốn trừng phạt tôi chăng? Gọi tôi bằng những cái tên quỷ quái, gí mũi tôi vào sự điên rồ của chính mình, ép buộc tôi phải hiểu rằng mình đã gây ra hành động xúc phạm nghiêm trọng đến thế nào chăng?

    Tất cả chuyện này bắt đầu làm tôi thấy cực kỳ bứt rứt khó chịu. Tôi bồn chồn đi đi lại lại quanh căn hộ của mình.

    Sao tôi lại phải nghĩ tới Rita cơ chứ? Vào lúc này, tôi còn nhiều mối bận tâm quan trọng hơn. Rita chỉ đơn thuần là bộ râu giả, là bộ quần áo trẻ con ngớ ngẩn tôi khoác lên người vào những dịp cuối tuần để che giấu sự thật rằng tôi là loại người thích làm điều mà gã đầy thú vị kia đang làm còn tôi thì không.

    Có phải đó là sự ghen tỵ không? Tất nhiên, không phải tôi đang làm những chuyện đó. Tôi mới vừa tạm kết thúc cho thời gian hiện tại. Chắc chắn tôi sẽ không sớm bắt đầu lại. Quá nguy hiểm. Tôi vẫn chưa chuẩn bị gì.

    Nhưng…

    Tôi quay trở vào bếp và gạt đầu con búp bê Barbie. Cạch. Cạch cạch. Dường như tôi đang cảm thấy gì đó ở đây? Đùa cợt chăng? Hay sự quan tâm sâu sắc và thường trực? Hay ghen tuông nghề nghiệp? Tôi không thể nói rõ và Barbie cũng không nói gì.

    Như thế chỉ đơn giản là quá nhiều. Lời thú tội hiển nhiên là giả tạo kia, cuộc xâm phạm vào chốn riêng tư của tôi, giờ lại là Rita nữa sao? Một con người chỉ có thể chịu đựng đến thế là quá nhiều. Kể cả một con người giả tạo như tôi. Tôi bắt đầu thấy bứt rứt, chóng mặt lẫn lộn, vừa hưng phấn quá mức vừa như đang mê ngủ. Tôi bước tới bên cửa sổ, nhìn ra ngoài. Lúc này trời đã tối và ở đằng xa, trên mặt nước, một vầng sáng nhô lên trên bầu trời và khi nó xuất hiện, một giọng nói ma quỷ cất lên đón chào nó từ đâu đó sâu thẳm bên trong.

    Mặt trăng.

    Một tiếng thì thầm trong tai tôi. Thậm chí không phải là một âm thanh; chỉ là cảm giác thoảng qua như có ai đó đang nhắc tên bạn, đủ để có thể nghe thấy, ở đâu đó ngay bên. Rất gần, có thể đang sát lại gần hơn. Không phải là từ, nhưng là tiếng lào xào khô khốc của thứ không - phải - là - giọng - nói, một âm điệu không - âm - điệu, một ý nghĩ về một hơi thở. Khuôn mặt tôi nóng rực, đột nhiên tôi có thể nghe thấy mình đang thở. Giọng nói nọ lại tới, một âm thanh nhè nhẹ rơi xuống rìa tai tôi. Tôi quay lại, cho dù biết rõ chẳng có ai ở đó, không phải tai tôi mà là ông bạn thân mến ở bên trong tôi, bị kẻ kia và mặt trăng đánh thức dậy.

    Một mặt trăng tròn trịa đang vui vẻ ba hoa. Ôi, nó có biết bao thứ cần phải nói. Cho dù tôi cố gắng nói với nó lúc này không phải là thời điểm phù hợp, rằng vẫn còn quá sớm, lúc này có những việc khác cần làm, những việc quan trọng - mặt trăng có thể nói về tất cả những điều đó và còn hơn thế. Vậy là, cho dù tôi đứng đó suốt mười lăm phút và tranh luận, chưa bao giờ thực sự có một câu hỏi nào.

    Tôi trở nên tuyệt vọng, tranh đấu với nó bằng mọi mánh khóe mà mình có và khi cách đó thất bại, tôi làm một điều khiến tôi choáng váng tới tận xương tủy. Tôi gọi cho Rita.

    “Ôi, Dexter,” cô ta nói. “Em chỉ... Em rất sợ. Cảm ơn anh đã gọi. Em chỉ...”

    “Anh biết,” tôi nói, mặc dù rõ ràng tôi chẳng biết gì cả.

    “Chúng ta có thể... Em không biết liệu anh... Em có thể gặp anh sau và chỉ... Em thực sự rất muốn nói chuyện với anh.”

    “Tất nhiên rồi,” tôi nói với cô và chúng tôi nhất trí sẽ gặp nhau sau đó tại nhà cô, tôi băn khoăn tự hỏi cô đang có gì trong đầu. Bạo lực chăng? Hay những giọt nước mắt buộc tội? Hay lấy hết gân sức ra gọi tên tôi? Tôi là kẻ hoàn toàn xa lạ với địa hạt này, tôi có thể phải đối diện với bất cứ điều gì.

    Sau khi gác máy, chuyện này cho tôi thư giãn một cách kỳ diệu trong gần nửa giờ đồng hồ trước khi giọng nói êm dịu bên trong lại len lỏi vào trong đầu, khăng khăng một cách lặng lẽ rằng tối nay dứt khoát phải đặc biệt.

    Tôi cảm thấy mình bị lôi trở lại bên cửa sổ và nó lại kia rồi, khuôn mặt tròn vành vạnh và đầy hạnh phúc trên bầu trời, mặt trăng đang cười khúc khích. Tôi kéo rèm và quay đi, lượn một vòng quanh căn hộ từ phòng này qua phòng khác, chạm vào vật nọ vật kia, tự nhủ như đang kiểm tra thêm một lần nữa xem có thứ gì bị mất không, cho dù biết chắc không có gì bị mất và cũng biết rõ tại sao. Cứ mỗi lần vòng quanh căn hộ, tôi lại lượn qua ngày một gần hơn cái bàn làm việc nhỏ ngoài phòng khách, nơi tôi để máy tính, hiểu điều gì tôi muốn làm và lại không muốn làm, cuối cùng sau ba phần tư giờ đồng hồ, sự thôi thúc trở nên quá mạnh mẽ. Tôi quá chóng mặt để có thể đứng nổi và nghĩ sẽ gieo mình xuống chiếc ghế tựa vì nó ở ngay gần, vì kiểu gì tôi cũng đã ở đó, tôi liền bật máy tính lên và khi nó đã khởi động...

    Nhưng không được, tôi thầm nghĩ, tôi chưa sẵn sàng.

    Tất nhiên, chuyện đó chẳng quan trọng. Cho dù tôi đã sẵn sàng hay chưa cũng không tạo ra chút khác biệt nào. Nó đã sẵn sàng.

    --------------------------------
    1 Giống chó cảnh lông dài.

  4. #13
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 14

    Tôi gần như chắc chắn chính là hắn, nhưng cũng chỉ gần như, trước đây tôi chưa bao giờ ở vào tình thế chỉ gần như chắc chắn. Tôi cảm thấy yếu ớt, chếnh choáng, gần như phát ốm với một cảm giác lẫn lộn gồm cả kích động, không chắc chắn và hoàn toàn sai trái - nhưng tất nhiên, Người lữ hành Tối Tăm lúc này đang điều khiển xe từ băng ghế sau và những gì tôi cảm thấy không còn quan trọng tới mức khủng khiếp nữa vì nó có vẻ mạnh mẽ, lạnh lùng, hăm hở và sẵn sàng. Tôi có thể cảm nhận được nó đang nở căng ra trong tôi, hiện ra từ những góc Dexter Tối Tăm trong bộ não thằn lằn của mình, một cảm giác dâng tràn và căng nở chỉ có thể kết thúc theo một cách, trong trường hợp đó tốt nhất là theo cách này.

    Tôi đã tìm ra hắn vài tháng trước, nhưng sau một thời gian theo dõi ngắn, tôi đi đến quyết định gã mục sư là một vụ chắc chắn, còn tên này có thể đợi lâu hơn một chút, cho tới khi hoàn toàn khẳng định được.

    Tôi đã sai lầm biết bao. Giờ đây tôi phát hiện ra hắn không thể đợi thêm một giây nào nữa.

    Hắn sống trên một con phố nhỏ ở Coconut Grove. Một vài khối nhà cùng một phía với ngôi nhà nhỏ nhếch nhác của hắn, cư dân láng giềng, là những khu nhà của người da đen có thu nhập thấp, vài hàng đồ nướng và những ngôi nhà thờ xập xệ. Chạy dài suốt nửa dặm theo hướng ngược lại là các triệu phú sống trong những ngôi nhà hiện đại to quá cỡ và được xây tường cao kiên cố để ngăn cản những kẻ như hắn. Nhưng Jamie Jaworski lại ở đúng chính giữa, trong một căn nhà hắn chia sẻ cùng cả triệu con rận và con chó xấu xí nhất tôi từng nhìn thấy.

    Tuy vậy, đó vẫn là một căn nhà đáng ra hắn không thể có được. Jaworski làm lao công bán thời gian tại trường Cấp hai Ponce de Leon và từ tất cả những gì tôi biết, đó là nguồn thu nhập duy nhất của hắn. Hắn làm việc ba ngày một tuần, có nghĩa là chỉ vừa đủ để sống chứ không hơn. Tất nhiên, tôi không quan tâm tới khía cạnh tài chính của hắn. Tôi ngược lại rất quan tâm tới số lượng trẻ con bỏ nhà đi ở Ponce đã tăng lên một con số nhỏ nhưng đáng kể từ lúc Jaworski bắt đầu làm việc tại đó. Tất cả đều là các cô bé từ mười hai đến mười ba tuổi, tóc sáng màu.

    Tóc sáng màu. Chi tiết này rất quan trọng. Vì một lý do nào đó, đây là loại chi tiết dường như cảnh sát hay bỏ qua nhưng lại luôn thu hút sự chú ý của những kẻ như tôi. Có lẽ vì điều đó không được đúng đắn về mặt chính trị, những cô bé tóc sẫm và có nước da sẫm đáng ra cũng phải có cơ hội tương đương trong chuyện bị bắt cóc, lạm dụng tình dục, rồi bị cắt thành từng mảnh trước máy quay, các vị có nghĩ vậy không?

    Jaworski dường như cũng thường xuyên là nhân chứng cuối cùng nhìn thấy đứa trẻ mất tích. Cảnh sát đã nói chuyện với hắn, giữ lại qua đêm, thẩm vấn và không thể tìm ra bất cứ manh mối nào có dính dáng đến hắn. Tất nhiên, họ đã phải đối diện với những yêu cầu pháp lý rắc rối. Chẳng hạn như hình thức tra tấn gần đây đã bị cấm ngặt trong phần lớn trường hợp. Nếu không có một phương án thuyết phục đầy sức mạnh nào đó, Jamie Jaworski sẽ chẳng bao giờ chịu mở miệng về thú vui của hắn. Tôi biết, với tôi chắc chắn là không.

    Nhưng tôi biết hắn đã làm chuyện đó. Hắn đang giúp những cô bé đó biến mất vào những sự nghiệp phim ảnh rất nhanh chóng và tối hậu. Tôi gần như chắc chắn. Tôi vẫn chưa tìm thấy mảnh thi thể nào và chưa nhìn thấy tận mắt hắn làm điều đó, nhưng mọi thứ đều khớp. Trên mạng, tôi đã tìm ra được một số bức ảnh đặc biệt sáng tạo của ba trong số những cô bé mất tích. Trông chúng có vẻ không hạnh phúc lắm trong những bức ảnh đó, cho dù một số việc chúng đang làm vốn được coi là để mang lại niềm vui, như tôi vẫn được cho hay.

    Tôi không thể khẳng định được mối liên hệ giữa Jaworski với những bức ảnh. Nhưng địa chỉ hòm thư là khu Nam Miami, chỉ cách trường học vài phút. Hắn đang sống nhờ mức thu nhập của mình. Mà dù thế nào đi nữa, tôi đang bị nhắc nhở mỗi lúc một quyết liệt hơn từ băng ghế sau rằng không còn thời gian nữa, rằng đây không phải là một vụ trong đó sự chắc chắn là vô cùng quan trọng.

    Nhưng con chó xấu xí kia làm tôi lo lắng. Những con chó luôn là một mối rắc rối. Chúng không thích tôi và thường xuyên không tán thành những gì tôi làm với chủ của chúng, nhất là khi tôi không chịu chia sẻ những miếng ngon. Tôi cần phải tìm ra cách vượt qua con chó để tiếp cận Jaworski. Có thể hắn sẽ mò ra ngoài. Nếu không, tôi buộc phải tìm cách vào trong.

    Tôi lái xe chạy qua trước nhà Jaworski ba lần, nhưng vẫn chưa có ý tưởng nào đến. Tôi cần chút may mắn, cần nó trước khi Người lữ hành Tối Tăm khiến tôi làm điều gì đó hấp tấp. Đúng lúc người bạn quý hóa của tôi bắt đầu thì thầm những lời gợi ý bất cẩn, tôi có được chút may mắn của mình. Jaworski ra khỏi nhà và bắt đầu leo lên chiếc Toyota bán tải màu đỏ méo mó của hắn khi tôi lái xe ngang qua. Tôi chạy chậm lại hết mức có thể và sau khoảnh khắc, hắn đã lùi xe ra và lao chiếc bán tải về phía đường Douglas. Tôi vòng lại bám theo.

    Tôi không biết mình sẽ thực hiện việc này như thế nào. Tôi chưa được chuẩn bị. Tôi không có căn phòng an toàn nào, chưa có tấm ga sạch sẽ nào, chẳng có gì ngoài một cuộn băng dính và một con dao lạng thịt để dưới ghế. Tôi cần phải làm gì đó để không bị phát hiện, không bị chú ý, phải hoàn hảo, nhưng tôi chưa có ý tưởng nào. Tôi ghét phải tùy cơ ứng biến, nhưng lúc này tôi không có quyền lựa chọn.

    Thêm một lần nữa tôi lại gặp may mắn. Mật độ xe cộ rất thoáng trong lúc Jaworski lái xe về hướng nam tới đường Old Cutler và sau khi đi thêm chừng một dặm, hắn ta rẽ trái về phía biển. Một dự án phát triển mới đang được tiến hành để cải thiện cuộc sống của tất cả chúng ta bằng cách biến cây cối và động vật thành xi măng và những người già đến từ New Jersey. Jaworski thong thả lái xe qua các công trình xây dựng, ngang qua một nửa sân golf với những cây cờ đã cắm vào đúng vị trí nhưng chưa hề có thảm cỏ, cho tới khi hắn gần tới mép nước. Bộ khung của một khu căn hộ cao cấp lớn đang xây dở dang nhô lên che khuất mặt trăng. Tôi tụt lại sau thật xa, tắt đèn pha, rồi nhích lại đủ gần để quan sát xem con mồi của mình đang định làm gì.

    Jaworski đã dừng xe cạnh khối nhà sẽ trở thành khu căn hộ cao cấp, rồi đỗ hẳn xe lại. Hắn ra khỏi xe, đứng giữa chiếc bán tải và một đống cát lớn. Trong giây lát, hắn chỉ đứng nhìn quanh và tôi dạt vào vệ đường, tắt động cơ. Jaworski nhìn chằm chằm lên phía khối nhà, rồi sau đó đi xuống con đường dẫn ra biển. Hắn có vẻ hài lòng và đi vào trong tòa nhà. Tôi gần như chắc chắn hắn đang tìm kiếm một nhân viên bảo vệ. Cả tôi cũng vậy. Tôi hy vọng hắn là kẻ biết mình làm gì. Thường thì tại những khu dự án phát triển xây dựng cỡ lớn như thế này, một nhân viên bảo vệ sẽ dùng xe điện đi tuần từ địa điểm này qua địa điểm khác. Điều đó sẽ tiết kiệm tiền bạc, nhưng dù sao, đây là Miami. Một phần chi phí dự kiến cho bất cứ dự án nào đều được dành cho phần vật liệu được lường trước rằng sẽ lặng lẽ biến mất. Theo nhận định của tôi, có vẻ như Jaworski đã lên kế hoạch giúp nhà thầu rải ngân hết kinh phí.

    Tôi ra khỏi xe, nhét con dao lạng thịt và cuộn băng dính vào cái túi rẻ tiền mang theo. Tôi đã cho sẵn vào trong đó vài đôi găng tay làm vườn tráng cao su và vài bức ảnh, ngoài ra không còn gì khác. Chỉ là những thứ vặt vãnh tôi tải về từ Internet. Tôi khoác túi lên vai, lặng lẽ bước đi trong đêm cho đến khi tới chỗ chiếc xe bán tải rách tã của hắn. Thùng xe cũng trống trơn như trong buồng lái. Từng chồng cốc giấy và giấy gói Burger King cùng những vỏ bao thuốc lá rỗng hiệu Camel nằm dưới sàn. Chẳng có thứ gì không nhỏ nhặt và bẩn thỉu, hệt như chính con người Jaworski.

    Tôi ngước mắt nhìn lên. Phía trên rìa khối nhà đang xây dở, tôi chỉ có thể nhìn thấy vầng sáng của ánh trăng. Một cơn gió đêm thổi ngang qua mặt tôi, mang theo nó tất cả những thứ mùi quyến rũ của chốn thiên đường nhiệt đới nơi chúng tôi đang sống: dầu diesel, thực vật mục ruỗng và xi măng. Tôi hít thật sâu và hướng suy nghĩ trở lại Jaworski.

    Hắn ở đâu đó bên trong bức tường của tòa nhà. Tôi không biết mình có bao nhiêu thời gian, một giọng nói khe khẽ cất lên thúc giục tôi hãy khẩn trương. Tôi rời khỏi chỗ chiếc xe bán tải và đi vào trong tòa nhà. Khi bước qua cửa, tôi nghe thấy hắn. Hay đúng hơn là một thứ âm thanh vo vo, rào rạo là lạ hẳn phải thuộc về hắn, hoặc…

    Tôi dừng lại. Tiếng động vọng tới, nghiêng theo một bên và tôi khẽ rón rén tiến về hướng đó. Một đường ống chạy ngược lên theo bức tường, một đường dây điện. Tôi áp một bàn tay lên đường ống và thấy nó rung động, như thể có thứ gì đang chuyển động bên trong.

    Một tia sáng lóe lên trong đầu tôi. Jaworski đang lôi dây điện ra. Đồng rất đáng tiền, có một thị trường chợ đen cực kỳ phát đạt buôn bán đồng dưới mọi dạng. Thêm một cách thức khiêm tốn nữa để bổ sung cho đồng lương lao công eo hẹp, giúp hắn trải qua quãng thời gian dài đói kém giữa những lần mất tích của các cô bé. Hắn có thể kiếm được vài trăm đô la cho mỗi mớ dây điện ăn cắp.

    Bây giờ, tôi hiểu hắn đang định làm gì, một ý tưởng lờ mờ bắt đầu định hình trong đầu tôi. Từ tiếng động, có thể suy ra hắn đang ở đâu đó phía trên đầu tôi. Tôi có thể dễ dàng bám theo hắn, ẩn kín đằng sau hắn cho tới thời điểm thích hợp, sau đó ra đòn. Nhưng tại đây tôi hoàn toàn trần trụi, hoàn toàn lộ diện và chưa sẵn sàng. Tôi đã quen thực hiện những chuyện kiểu này một cách chắc chắn. Bước chân ra khỏi những giới hạn thận trọng của mình làm tôi cảm thấy cực kỳ bất an.

    Một cơn gai lạnh lặng lẽ trườn lên dọc sống lưng. Sao tôi lại làm chuyện này?

    Câu trả lời nhanh chóng xuất hiện, dĩ nhiên rồi, không phải tôi đang làm chuyện này. Ông bạn quý hóa ngồi trên băng ghế sau tối tăm của tôi mới là kẻ đang làm chuyện đó. Tôi chỉ lái xe đi vì tôi có bằng lái. Nhưng giữa chúng tôi đã đi tới một thỏa thuận chung, giữa anh ta và tôi. Chúng tôi đã đạt được một phương thức tồn tại cân bằng, thận trọng, một cách chung sống, thông qua giải pháp theo kiểu Harry của chúng tôi. Giờ đây anh ta đang điên cuồng xông ra ngoài những đường ranh giới được vạch bằng phấn cẩn thận, đẹp đẽ của Harry. Tại sao? Tức giận ư? Chẳng lẽ cuộc xâm nhập tư gia của tôi thực sự là một hành động xúc phạm tới mức làm anh ta thức tỉnh để ra tay báo thù?

    Anh ta không tức giận với tôi - như mọi khi, anh ta dường như vẫn bình thản, phấn khích một cách lặng lẽ, háo hức với con mồi của mình. Và tôi cũng vậy. Tôi cảm thấy hơi chếnh choáng, lơ lửng như cánh diều cao vút, đùa nghịch trên lưỡi dao đầy phởn phơ khoan khoái, lắc lư qua một chuỗi những tiếng rì rầm nội tại giống đến kỳ lạ với những gì tôi luôn nghĩ về biểu hiện của các cảm xúc. Vũ điệu lắc lư chao đảo của nó đã lôi tôi đến nơi nguy hiểm, bẩn thỉu, chưa hề được lên kế hoạch trước để làm một việc do sự thôi thúc của khoảnh khắc mà trước đây luôn xuất hiện khi tôi đã lên kế hoạch chu đáo. Thậm chí kể cả khi biết rõ tất cả, tôi vẫn muốn thực hiện nó đến cùng cực. Tôi phải thực hiện nó.

    Vậy thì được thôi. Nhưng tôi không nhất thiết phải thực hiện nó một cách trần trụi. Tôi đưa mắt nhìn quanh. Một đống lớn những tấm thạch cao hiệu Sheetrock xếp ngổn ngang ở phía cuối phòng, được buộc chằng lại bằng bao vải. Chỉ trong khoảnh khắc, tôi đã cắt được cho mình một cái tạp dề và một cái mặt nạ trong suốt kỳ cục từ tấm vải bọc: mũi, miệng, mắt được khoét lỗ để tôi có thể thở, nói và nhìn. Tôi áp chặt nó lên mặt, cảm thấy nó làm biến dạng các đường nét trên khuôn mặt mình thành một thứ không thể nhận ra được nữa. Tôi buộc hai đầu ra sau gáy, thắt mảnh vải phủ nhựa lại thành một nút thắt vụng về. Vô danh hoàn toàn. Có vẻ hơi ngớ ngẩn, nhưng tôi đã quen đi săn với một cái mặt nạ. Và bên cạnh thôi thúc đòi hỏi thực hiện mọi thứ một cách đúng đắn trong đầu, như thế đơn giản giúp bớt đi một thứ cần bận tâm đến. Nó giúp tôi thư giãn hơn chút ít, thế nên đây là một ý tưởng hay. Tôi lấy găng tay từ trong túi ra và xỏ vào. Giờ tôi đã sẵn sàng.

    Tôi tìm thấy Jaworski trên tầng ba. Một cuộn dây điện khoanh tròn dưới chân hắn. Tôi đứng trong bóng tối của cầu thang, quan sát trong lúc hắn lôi dây điện ra. Tôi lại rút lui vào dưới cầu thang và mở túi ra. Dùng cuộn băng dính, tôi treo những bức ảnh mang theo lên. Những bức ảnh bé nhỏ ngọt ngào của các cô bé mất tích, trong một loạt tư thế đáng yêu và lộ liễu khác nhau. Tôi dán chúng lên tường bê tông ở chỗ Jaworski có thể thấy khi hắn đi qua cửa xuống cầu thang.

    Tôi quay lại nhìn Jaworski. Hắn lại rút thêm chừng hai mươi yard 1 dây nữa. Đoạn dây kẹt vào thứ gì đó và không thể lôi thêm được nữa. Jaworski giật mạnh hai lần, sau đó lấy một cái kìm nặng trịch từ trong túi đeo sau lưng ra và cắt dây. Hắn cầm cuộn dây dưới chân lên và cuộn chặt thành một cuộn lên cánh tay. Sau đó hắn bước ra phía cầu thang - ra phía tôi.

    Tôi lùi vào trong cầu thang và chờ đợi.

    Jaworski không cố tỏ ra im lặng. Hắn không hề trông đợi bị bất cứ ai làm gián đoạn và chắc chắn hắn càng không hề trông đợi gặp tôi. Tôi nghe thấy tiếng bước chân của hắn, tiếng lạo xạo khe khẽ của cuộn dây bị lôi đi sau lưng. Gần hơn...

    Hắn đi qua cửa, bước qua một bước mà không hề thấy tôi. Thế rồi hắn nhìn thấy các bức ảnh.

    “Ái chà,” hắn thốt lên, như thể vừa bị đấm mạnh vào bụng. Hắn trợn tròn mắt, há hốc miệng, không thể cử động, rồi tôi đã ở sau lưng hắn, kề dao vào cổ họng hắn.

    “Đừng động đậy, không một tiếng động nào hết,”chúng tôi nói.

    “Này, xem nào...” hắn nói.

    Tôi khẽ xoay cổ tay, ấn mũi dao vào da hắn ngay dưới cằm. Hắn thở hắt ra tuyệt vọng, một tia máu nhỏ xấu xí vọt ra. Thật không cần thiết. Tại sao người ta chẳng bao giờ biết lắng nghe vậy chứ?

    “Tao nói, không một tiếng động nào hết,” chúng tôi bảo hắn, giờ thì hắn im bặt.

    Sau đó, âm thanh duy nhất là tiếng xoèn xoẹt của cuộn băng dính được bóc ra, tiếng Jaworski thở dốc và những tiếng tặc lưỡi êm ái của Người lữ hành Tối Tăm. Tôi dán băng dính lên miệng hắn, quấn một đoạn dây đồng quý báu của gã lao công quanh cổ tay hắn, lôi tới bên một đống Sheetrock được bọc trong vải nhựa. Trong chốc lát, tôi đã lôi hắn lên trói chặt vào cái bàn tự tạo.

    “Chúng ta hãy nói chuyện nào,” chúng tôi nói bằng giọng ôn tồn, lạnh lẽo của Người lữ hành Tối Tăm.

    Hắn không biết mình có được phép nói hay không, trong trường hợp nào đi nữa miếng băng dính cũng sẽ làm chuyện đó trở nên khó khăn, vậy là hắn giữ im lặng.

    “Hãy nói chuyện về những cô bé mất tích,” chúng tôi nói, đồng thời giật băng dính khỏi miệng hắn.

    “Oao... cái… ý ông là gì?” Hắn nói. Nhưng hắn diễn không được thuyết phục lắm.

    “Tao nghĩ mày biết ý tao muốn nói gì,” chúng tôi nói với hắn.

    “Không... không,” hắn nói.

    “Ồ, có đấy,” chúng tôi nói.

    Có lẽ là hơi thông minh. Việc tính toán thời điểm của tôi đã sai lệch, cả buổi tối này đều sai lệch. Nhưng hắn đã trở nên bạo gan hơn. Hắn ngước mắt lên nhìn vào khuôn mặt sáng lóa của tôi. “Ông là ai, cớm hay là gì?” Hắn hỏi.

    “Không,” chúng tôi nói và cắt rời tai trái của hắn ra. Đó là thứ gần lưỡi dao nhất. Con dao sắc lẻm và trong giây lát, hắn không thể tin nổi chuyện đó vừa xảy đến với mình, vĩnh viễn, mãi mãi không còn tai trái nữa. Vậy là tôi ném cái tai lên ngực hắn để hắn tin. Đôi mắt hắn trợn tròn, hít đầy hai buồng phổi để hét lên, nhưng tôi đã nhét một mớ vải nhựa vào mồm hắn trước khi kịp làm chuyện đó.

    “Đừng có làm vậy,” chúng tôi nói. “Những chuyện còn tồi tệ hơn có thể xảy ra.” Và sẽ là thế, chắc chắn rồi, nhưng hắn không cần phải biết.

    “Những cô bé mất tích?” Chúng tôi lại hỏi, dịu dàng, lạnh lùng, rồi đợi một lát, quan sát đôi mắt hắn, để bảo đảm chắc chắn hắn không gào lên, sau đó tháo cuộn vải bịt miệng hắn ra.

    “Chúa ơi,” hắn rên lên. “Tai tôi...”

    “Mày còn cái nữa, cũng tốt chẳng kém,” chúng tôi nói. “Hãy nói cho bọn tao biết về các cô bé trong mấy bức hình kia.”

    “Các ông? Ý ông là sao, các ông? Chúa ơi, đau quá,” hắn rên rỉ.

    Vài người chỉ đơn giản là không chịu hiểu. Tôi lại nhét nắm vải nhựa vào miệng hắn và bắt tay vào việc.

    Tôi gần như bị mất kiểm soát; thật dễ bị cuốn đi như thế trong hoàn cảnh này. Tim tôi đang đập thình thịch như hóa dại và tôi buộc phải tranh đấu quyết liệt để giữ cho tay mình khỏi run rẩy. Nhưng tôi tiếp tục công việc của mình, khám phá, tìm kiếm thứ gì đó luôn nằm ngay ngoài tầm tay với. Phấn khích và cực kỳ thất vọng. Áp lực đang tăng dần trong tôi, dâng lên tai, gào thét đòi được giải thoát, nhưng chẳng có sự giải thoát nào tới. Chỉ có áp lực cứ tăng lên mãi và cảm giác một thứ gì đó tuyệt vời đang nằm ngoài khả năng giác quan của tôi có thể cảm nhận, chờ đợi tôi tìm thấy, lao ùa vào nó. Nhưng tôi không thể tìm thấy, không có chuẩn mực cũ nào cho tôi được chút hào hứng. Phải làm gì đây? Trong lúc bối rối, tôi mở phanh một tĩnh mạch ra, một vũng máu kinh khủng xuất hiện trên mặt vải nhựa dọc theo người gã lao công. Tôi dừng lại một lát, tìm kiếm câu trả lời và không tìm thấy gì. Tôi quay mặt nhìn đi, ra ngoài khung cửa sổ. Tôi nhìn chằm chằm, đến nín thở.

    Mặt trăng hiện rõ mồn một trên mặt nước. Vì một lý do nào đó tôi không giải thích được, một lý do thật hợp lý, thật cần thiết, mà trong khoảnh khắc tôi chỉ nhìn về phía mặt nước, ngắm nhìn nó sáng lấp lánh, thật hoàn hảo. Tôi loạng choạng, vấp vào cái bàn tự tạo của mình và trở lại là chính tôi. Nhưng mặt trăng... hay đó là mặt nước?

    Thật gần... tôi đang ở thật gần thứ gì đó, tới mức hầu như có thể ngửi được nó - nhưng là thứ gì? Một cơn rùng mình lan khắp người tôi - cảm giác này cũng thật đúng, đến mức nó làm bùng lên một loạt cơn rùng mình nữa cho tới khi hai hàm răng tôi va vào nhau lập cập. Nhưng tại sao? Thế có nghĩa là gì? Có thứ gì đó ở kia, thứ gì đó quan trọng, một thứ gì đó tinh khiết và rõ ràng đến tột độ đang bao phủ lên mặt trăng, trùm lên mặt nước, ngay gần mũi con dao lạng thịt và tôi không thể bắt kịp nó.

    Tôi quay lại nhìn gã lao công. Hắn làm tôi thật tức giận bởi cái cách hắn nằm đó, trên người đầy những vết cắt và vết máu không cần thiết. Nhưng thật khó lòng tức giận mãi khi mặt trăng Florida lộng lẫy chiếu rọi vào tôi, những cơn gió nhiệt đới hây hẩy thổi, những âm thanh kỳ diệu ban đêm của băng dính bị xé và những nhịp thở kinh hãi. Tôi gần như phải bật cười. Một số người lựa chọn cái chết vì những điều rất lạ thường, những con rận nhãi nhép đáng ghê tởm này lại chết vì dây đồng. Và vẻ mặt hắn: thật đau đớn, bối rối và tuyệt vọng. Đáng ra đã có thể thật buồn cười nếu tôi không cảm thấy thất vọng đến thế.

    Hắn thực sự không đáng để tôi phải cố gắng nhiều hơn, nói cho cùng, chẳng phải lỗi của hắn nếu tôi không có được phong độ thông thường. Thậm chí hắn còn chẳng đủ xấu xa để được nằm trên đầu danh sách CẦN XỬ LÝ của tôi. Hắn chỉ là một gã khốn nhãi nhép ghê tởm đã giết trẻ con vì tiền và dục vọng, chỉ là bốn hay năm đứa, theo những gì tôi biết. Tôi gần như thấy thương hại cho hắn. Quả thực hắn vẫn chưa sẵn sàng để gia nhập sân chơi đỉnh cao.

    A, được rồi. Trở lại công việc thôi. Tôi quay lại bên Jaworski. Bây giờ hắn không còn giãy giụa nhiều nữa, nhưng hắn vẫn còn quá nhiều sinh lực cho những phương pháp thông thường của tôi. Tất nhiên, tối nay tôi không có những món đồ chơi đẳng cấp nhà nghề của mình và cuộc hành trình hẳn đã có phần hơi gai góc với Jaworski. Nhưng như một người lính thực thụ, hắn đã không hề phàn nàn. Tôi chợt cảm thấy một chút cảm tình và chậm lại một chút quá trình tiếp cận cẩu thả của mình, dành thời gian tỉ mỉ trau chuốt hơn cho hai bàn tay của hắn. Hắn đáp lại với thái độ nhiệt tình thực sự và tôi lướt đi, đắm chìm trong cuộc nghiên cứu đầy hạnh phúc.

    Cuối cùng, những tiếng gào thét bị bịt kín và những cơn quẫy đạp điên cuồng của hắn gọi tôi trở về với bản chất của mình. Tôi nhớ thậm chí còn chưa bảo đảm chắc chắn về tội lỗi của hắn. Tôi đợi hắn bình tâm lại, sau đó tháo nắm vải nhựa khỏi mồm hắn.

    “Những cô bé mất tích?” Chúng tôi hỏi.

    “Ôi Chúa ơi. Lạy Chúa. Ôi Chúa ơi,” hắn thều thào yếu ớt.

    “Tao không nghĩ thế,” chúng tôi nói. “Tao nghĩ có lẽ chúng ta đã để họ lại sau.”

    “Làm ơn,” hắn nói. “Ôi, làm ơn...”

    “Hãy nói cho tao biết về những cô bé mất tích,” chúng tôi nói.

    “Được,” hắn thở hắt ra.

    “Mày đã bắt những cô bé đó.”

    “Phải...”

    “Bao nhiêu?”

    Suốt một hồi hắn chỉ thở dốc. Mắt hắn nhắm lại và tôi nghĩ có thể mình đã để mất hắn hơi sớm. Cuối cùng hắn cũng mở mắt ra nhìn tôi. “Năm,” hắn lên tiếng. “Năm vẻ đẹp bé nhỏ. Tao không thấy tiếc.”

    “Tất nhiên là không rồi,” chúng tôi nói. Tôi đặt một bàn tay lên cánh tay hắn. Đó là một khoảnh khắc tuyệt đẹp. “Và bây giờ, tao cũng không thấy tiếc.”

    Tôi nhét nắm vải nhựa vào mồm hắn và quay lại công việc. Nhưng tôi chỉ mới thực sự lấy lại được nhịp điệu khi nghe thấy tiếng nhân viên bảo vệ bước tới ở dưới nhà.

    --------------------------------
    1 1 yard = 0,91 m.

  5. #14
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 15

    Chính những âm thanh từ chiếc radio của tay nhân viên bảo vệ đã làm lộ anh ta. Tôi đang mê mải bận rộn với một thứ chưa từng bao giờ thử qua thì nghe thấy nó. Tôi đang xử trí phần thân mình với mũi dao và có thể cảm nhận được sự hưởng ứng thực sự đầy kích thích đầu tiên chạy dọc sống lưng và xuống hai chân, vì thế tôi không muốn dừng lại. Nhưng một cái radio... Đó là tin xấu hơn là chỉ đơn thuần chuyện một nhân viên bảo vệ đang tới. Nếu anh ta gọi tăng viện hay yêu cầu phong tỏa đường, rất có thể tôi sẽ thấy vài điều mình vừa làm có phần hơi khó giải thích.

    Tôi nhìn xuống Jaworski. Hắn đã gần xong xuôi, dẫu vậy tôi vẫn không thấy hạnh phúc với cách thức mọi thứ đã diễn ra. Quá nhiều sự lôi thôi bừa bãi và tôi đã không thực sự tìm thấy cái mình tìm kiếm. Đã có vài khoảnh khắc ngắn ngủi tôi cảm thấy đã tiến tới cận kề điều gì đó kỳ diệu, một phát kiến kinh ngạc về... cái gì kia? Mặt nước đang bập bềnh ngoài ô cửa sổ chăng? Nhưng chuyện đó đã không xảy ra, cho dù nó có là gì đi nữa. Giờ đây tôi bị bỏ lại với một gã cưỡng bức trẻ em chưa được xử trí hoàn tất, chưa sạch sẽ, chưa gọn gàng, chưa làm tôi hài lòng, một tay nhân viên bảo vệ đang trên đường tới gặp chúng tôi.

    Tôi ghét phải kết thúc một cách hấp tấp. Đó thực sự là một khoảnh khắc quan trọng, một sự giải tỏa cho cả hai chúng tôi, Người lữ hành Tối Tăm và tôi. Nhưng tôi còn lựa chọn nào khác đây? Trong một quãng thời gian thật lâu - quá lâu, quả thực là vậy và tôi thấy thật sự xấu hổ, tôi nghĩ tới chuyện giết tay bảo vệ và tiếp tục công việc của mình. Hẳn sẽ rất dễ dàng và tôi có thể tiếp tục khám phá với một sự khởi đầu mới mẻ...

    Nhưng không. Tất nhiên là không. Làm vậy không ổn. Người bảo vệ hoàn toàn vô tội, cũng vô tội như bất cứ ai có thể và vẫn sống được tại Miami. Chắc chắn anh ta chưa hề làm gì tồi tệ hơn ngoạc mồm ra chửi những tay lái xe khác vài lần trên cao tốc Palmetto Expressway. Có thể nói là trắng bong như tuyết. Không, tôi cần khẩn trương rút lui, đó là tất cả những gì tôi có thể làm. Nếu tôi buộc phải để gã lao công lại đó chưa được hoàn tất chu đáo và chưa được hài lòng - được thôi, chúc may mắn hơn lần sau vậy.

    Tôi nhìn chằm chằm xuống gã sâu bọ bẩn thỉu và cảm thấy mình tràn ngập cảm giác ghê tởm. Hắn là một đống bầy nhầy bê bết máu, trên mặt bê bết thứ chất lỏng ướt nhẫy bẩn thỉu. Một dòng máu đỏ kinh khủng rỉ ra từ miệng hắn. Trong một cơn phẫn nộ bùng phát, tôi vung dao cắt ngang cổ họng Jaworski. Ngay lập tức, tôi hối tiếc sự cộc cằn của mình. Cả một vòi máu ghê rợn òng ọc phun ra, cảnh tượng làm cho hành động của tôi càng thêm đáng tiếc, một sai lầm thảm hại. Cảm thấy bị vấy bẩn và không hài lòng, tôi vùng dậy lao ra cầu thang. Một tràng cằn nhằn lạnh lùng hờn dỗi từ Người lữ hành Tối Tăm bám theo sau.

    Tôi rẽ ra khỏi cầu thang ở lầu hai, nép sát tường và lần tới bên một ô cửa sổ chưa lắp kính. Phía dưới, tôi có thể thấy chiếc xe chạy điện của người bảo vệ đã đỗ lại, quay mũi về hướng Old Cutler - điều này, tôi hy vọng, có nghĩa là anh chàng đã tới theo hướng khác và không thấy chiếc xe của tôi. Đứng bên cạnh xe, một anh chàng trẻ tuổi béo tròn có nước da màu ô liu, tóc đen và một bộ ria con kiến cũng màu đen đang ngước nhìn lên tòa nhà - thật may vào lúc này anh ta đang nhìn về đầu kia của tòa nhà.

    Anh chàng này đã nghe thấy gì? Hay chỉ đơn thuần đang thực hiện cuộc tuần tra như thường lệ? Tôi buộc phải hy vọng là thế. Nếu đúng là anh ta đã nghe thấy gì đó. Nếu anh ta đứng ngoài tòa nhà và gọi tăng viện, rất có khả năng tôi sẽ bị tóm. Cho dù tôi là một anh chàng thông minh ăn nói hoạt bát, tôi không cho rằng mình đủ cừ khôi để dùng miệng lưỡi mở đường thoát khỏi chuyện này.

    Tay bảo vệ trẻ tuổi đưa một ngón cái lên bộ ria gãi như thể động viên nó dài thêm ra. Anh ta cau mày, đưa mắt nhìn lên khắp mặt tiền tòa nhà. Tôi lùi vào trong. Một lát sau, khi thò đầu ra, tôi chỉ còn nhìn thấy đỉnh đầu anh ta. Tay bảo vệ đang đi vào.

    Tôi đợi cho tới khi nghe thấy tiếng bước chân anh ta trên cầu thang. Sau đó, tôi lao ra ngoài cửa sổ, nằm giữa lầu một và lầu hai, bám các ngón tay vào gờ xi măng của khung cửa, rồi buông tay nhảy xuống. Tôi tiếp đất thật thảm hại, một cổ chân bị trẹo trên một hòn đá, một bên khuỷu tay trầy da. Nhưng bằng tốc độ khập khiễng xuất sắc nhất của mình, tôi hối hả lần vào màn đêm và tìm tới chỗ chiếc xe.

    Tim tôi đập thình thịch khi cuối cùng cũng ngồi được lên ghế lái xe. Tôi ngoái đầu nhìn lại phía sau và không thấy bóng dáng tay bảo vệ đâu. Tôi nổ máy, với đèn pha vẫn đang tắt, tôi lái xe đi nhanh và êm ái nhất có thể ra đường Old Cutler, hướng về phía Nam Miami và chọn con đường dài để quay về nhà, theo tuyến xa lộ Dixie Highway 1. Mạch của tôi vẫn còn đập giần giật trong tai. Thật là một mối nguy hiểm ngớ ngẩn tôi vừa chuốc lấy. Trước đây, tôi chưa bao giờ làm chuyện gì bột phát đến thế, chưa bao giờ làm bất cứ điều gì mà không lên kế hoạch cẩn thận. Đó là Phương pháp Harry: cẩn thận, an toàn, chuẩn bị chu đáo. Những chiến binh của Bóng tối.

    tiểu bang vùng Trung Tây và vùng miền Nam nước Mỹ.

    Thay vì thế là thế này đây. Tôi đã có thể bị tóm. Tôi đã có thể bị nhìn thấy. Ngu ngốc, hết sức ngu ngốc, nếu tôi không kịp nghe thấy sự xuất hiện của anh chàng bảo vệ trẻ tuổi kia đúng lúc, rất có thể tôi đã phải giết anh ta. Giết một người vô tội bằng bạo lực, tôi dám chắc Harry sẽ không tán thành. Và chuyện đó cũng thật bừa bộn, khó chịu.

    Tất nhiên, tôi vẫn chưa được an toàn, tay bảo vệ hoàn toàn có thể dễ dàng ghi lại biển kiểm soát xe tôi nếu anh ta đi ngang qua trên chiếc xe điện bé nhỏ của mình. Tôi đã mạo hiểm một cách thiếu suy nghĩ đến khủng khiếp, đi ngược lại mọi quy trình cẩn trọng của mình, đã mạo hiểm cả cuộc đời được xây dựng một cách cẩn trọng để đổi lấy cái gì chứ? Một lần giết chóc đầy kịch tính chăng? Thật xấu hổ cho tôi. Tận sâu thẳm trong những ngóc ngách tăm tối của tâm trí, một tiếng vọng vang lớn, Ồ phải, thật đáng xấu hổ, cùng tiếng tặc lưỡi quen thuộc.

    Tôi hít một hơi thật sâu và nhìn xuống bàn tay đang đặt trên vô lăng của mình. Nhưng cũng thật hồi hộp, phải không? Những gì vừa diễn ra quả là kích động đến hoang dại, ngập tràn sức sống, những cảm giác mới lạ và sự thất vọng sâu sắc. Đó là một trải nghiệm hoàn toàn mới mẻ và thú vị. Cảm giác lạ lùng rằng tất cả sẽ đi tới đâu đó, một nơi quan trọng, mới mẻ nhưng lại rất quen thuộc, tôi thực sự cần khám phá nó sâu hơn vào lần sau.

    Nhưng tất nhiên sẽ chẳng có lần sau nào hết. Chắc chắn tôi sẽ không bao giờ làm chuyện gì ngu ngốc và bốc đồng như thế nữa. Không bao giờ. Nhưng trải qua nó một lần - quả là một cảm giác thú vị.

    Đừng bận tâm. Tôi sẽ quay về nhà, tắm dưới vòi hoa sen lâu hơn thường lệ và một khi đã tắm xong...

    Thời gian. Nó cứ thế thâm nhập vào tâm trí tôi và cũng chẳng cần xin phép. Tôi đã đồng ý gặp Rita vào - ngay lúc này, theo đồng hồ trên bảng điều khiển. Vì mục đích tối tăm nào? Tôi không thể biết được những gì diễn ra trong đầu óc phụ nữ. Tại sao, thậm chí tôi lại phải nghĩ tới “vì cái gì” vào một thời điểm như lúc này, khi tất cả các đầu dây thần kinh của tôi đang căng ra và gào thét đầy thất vọng? Tôi chẳng quan tâm Rita muốn than vãn với tôi về điều gì. Chuyện đó sẽ không thực sự khiến tôi bận tâm, cho dù cô ta có thể hiện sự quan sát sắc bén thế nào đi nữa về những thiếu sót trong tính cách của tôi, cũng thật khó chịu khi phải mất thời gian lắng nghe trong lúc tôi có những chuyện khác, quan trọng hơn nhiều, cần phải nghĩ đến. Nhất là tôi đang tự hỏi mình về những gì muốn làm nhưng chưa kịp thực hiện với anh chàng Jaworski đáng mến đã quá cố. Cho tới khoảnh khắc cao trào dang dở bị làm gián đoạn một cách tàn nhẫn, đã có quá nhiều điều mới mẻ xảy ra cần đến những nỗ lực tốt nhất về trí tuệ của tôi. Tôi cần suy nghĩ, cân nhắc và hiểu tất cả những thứ đó dẫn mình tới đâu. Nó có liên hệ như thế nào tới anh chàng nghệ sĩ còn lại ở ngoài kia, ẩn sau tôi, thách thức tôi với những tác phẩm của hắn?

    Trong lúc cần nghĩ tới tất cả những việc đó, làm sao tôi lại cần Rita ngay lúc này chứ?

    Nhưng tất nhiên, tôi sẽ đi. Và dĩ nhiên rồi, điều đó sẽ thực sự có ích cho một vài mục đích khiêm nhường nào đó nếu tôi cần tới bằng chứng ngoại phạm cho cuộc phiêu lưu của mình cùng anh chàng lao công bé nhỏ. “Sao chứ, thám tử, lẽ nào cô có thể nghĩ rằng tôi...? Hơn nữa, lúc ấy tôi đang cãi nhau với cô bạn gái. À - thực ra là cô bạn gái cũ.” Bởi vì hoàn toàn không còn chút nghi ngờ nào trong đầu tôi rằng Rita đơn thuần chỉ muốn... từ tất cả chúng ta gần đây vẫn dùng là gì nhỉ? Trút bầu tâm sự chăng? Phải, Rita muốn tôi tới gặp để cô có thể trút tâm sự lên tôi. Tôi có một vài khiếm khuyết quan trọng trong tính cách cô cần chỉ ra kèm theo một cơn bùng phát cảm xúc, sự hiện diện của tôi là tối cần thiết.

    Vì thế tôi dành thêm một phút cho việc lau rửa. Tôi lượn vòng trở lại hướng Coconut Grove và dừng xe đậu phía bên kia cây cầu bắc qua kênh. Phía dưới là một con kênh sâu chảy qua. Tôi vẫn lấy vài tảng đá san hô lớn khỏi những gốc cây bên rìa kênh, nhét vào chiếc túi đựng mặt nạ, găng tay và con dao, rồi ném nó xuống giữa dòng kênh.

    Tôi dừng lại thêm một lần nữa ở một công viên nhỏ tối tăm gần sát nhà Rita, rửa ráy thật cẩn thận. Tôi cần xuất hiện với bộ dạng sạch sẽ và tươm tất vừa phải, chường mặt ra cho một phụ nữ đang nổi xung trút cơn thịnh nộ nên được coi là một duyên cớ bán chính thức.

    Nhưng hãy hình dung tôi kinh ngạc đến cỡ nào khi bấm chuông cửa nhà cô vài phút sau. Cô không hề mở tung cửa ra rồi bắt đầu ném đồ đạc và trút đủ thứ chửi rủa lên người tôi. Kỳ thực, bà chủ nhà mở cửa rất từ tốn và thận trọng, giấu nửa người sau cánh của, như thể sợ chết khiếp điều có thể đang đợi cô ở phía bên kia. Nếu tính đến người cô đang đợi là tôi, thái độ này quả là một sự tỉnh táo hiếm gặp.

    “Dexter?” Cô nói, nhẹ nhàng, e dè, nghe như thể không chắc muốn nghe tôi trả lời đúng hay không. “Em... không nghĩ anh lại đến.”

    “Thế nhưng anh đây rồi,” tôi nói động viên.

    Cô không trả lời trong một quãng thời gian dài hơn nhiều so với chừng mực hợp lý. Cuối cùng, cô nhích cửa mở rộng thêm một chút và nói, “Anh có thể... vào nhà không? Làm ơn?”

    Nếu giọng nói thiếu chắc chắn, ủ rũ của cô, khác hẳn bất cứ cung bậc nào tôi từng nghe cô sử dụng trước đây, có thể coi là một điều ngạc nhiên, hãy hình dung xem tôi kinh ngạc đến thế nào trước trang phục của cô. Tôi tin món trang phục này được gọi là áo choàng tắm, hay cũng có thể là một chiếc áo ngủ, vì thứ trang phục cô đang mặc rõ ràng rất tiết kiệm nếu nói đến lượng vải được dùng để tạo nên nó. Cho dù tên gọi đúng là gì đi nữa, một điều chắc chắn là bà chủ nhà đang mặc nó. Cho dù ý tưởng này có vẻ thật kỳ cục, tôi tin món trang phục thoáng đãng này nhắm tới chính mình.

    “Làm ơn?” Cô lặp lại.

    Hơi nhiều một chút. Ý tôi là thực sự tôi định làm gì ở đây? Tôi mới vừa phải trải qua một thử nghiệm không hài lòng chút nào với anh chàng lao công, vẫn còn những tiếng lẩm bẩm bất bình lọt vào từ băng ghế sau xe. Đánh giá bao quát tình hình một cách nhanh chóng cho thấy tôi đang bị mắc kẹt giữa Deb yêu quý và tay nghệ sĩ hắc ám, bây giờ tôi lại bị trông đợi phải làm một việc đầy chất nhân văn nào đó ở đây, chẳng hạn như, mà nói cho cùng nó là gì nhỉ? Hiển nhiên cô ta không thể muốn, ý tôi là, chẳng lẽ cô ta đang PHÁT ĐIÊN vì tôi sao? Có chuyện gì đang xảy ra ở đây vậy? Và tại sao nó lại xảy đến với tôi chứ?

    “Em đã gửi bọn trẻ sang hàng xóm rồi,” Rita nói. Cô dùng hông đóng sập cửa lại.

    Tôi bước vào.

    Tôi có thể nghĩ tới rất nhiều cách để mô tả chuyện xảy ra tiếp theo, nhưng dường như chẳng có cách nào hoàn toàn thích hợp. Cô ta đi tới bên trường kỷ. Tôi theo sau. Cô ngồi xuống. Tôi cũng ngồi. Cô nhìn quanh lúng túng, bàn tay phải bóp chặt bàn tay trái. Dường như cô đang chờ đợi điều gì đó, vì không thật sự chắc là gì, tôi nhận thấy mình đang nghĩ về việc làm còn dang dở với Jaworski. Giá như tôi có thêm chỉ một chút thời gian nữa! Thử nghĩ tới những gì tôi đã có thể làm!

    Trong lúc nghĩ tới những chuyện như thế, tôi dần nhận ra Rita bắt đầu lặng lẽ khóc. Tôi trơ mắt nhìn cô trong giây lát, cố xua đi hình ảnh anh chàng lao công được lột da tinh tươm, không vấy một chút máu. Xin lấy cả mạng sống của tôi ra thề, tôi không hiểu nổi tại sao cô lại khóc, nhưng vì tôi đã luyện tập rất lâu và chuyên cần trong việc bắt chước nhân loại, tôi biết mình được trông đợi để an ủi cô. Tôi ngả người về phía Rita, khoác một cánh tay lên vai cô. “Rita,” tôi nói. “Thôi nào, thôi nào.” Không phải một màn trình diễn thực sự xứng đáng với tôi, nhưng lại là kết quả của sự nghiên cứu kỹ lưỡng từ nhiều chuyên gia. Nó đã có hiệu quả. Rita đổ người về phía trước, úp mặt vào ngực tôi. Tôi dùng cánh tay ôm chặt lấy cô, một cử chỉ đưa bàn tay tôi quay trở lại tầm nhìn. Gần một giờ trước, cũng bàn tay đó đã cầm một con dao lạng thịt chĩa xuống anh chàng lao công bé nhỏ. Ý nghĩ ấy làm tôi thấy chóng mặt.

    Quả thực tôi không biết chuyện đó xảy ra như thế nào, nhưng nó đã xảy ra. Một khoảnh khắc trước, tôi còn đang vỗ về cô và nói, “Thôi nào, thôi nào,” rồi nhìn chăm chăm vào những sợi cơ nổi lên trên bàn tay mình, cảm nhận ký ức đang truyền qua các ngón tay, ngọn sóng trào dâng của sức mạnh và chói sáng khi con dao khám phá bụng Jaworski. Và khoảnh khắc tiếp theo...

    Tôi tin Rita đã ngước lên nhìn mình. Tôi cũng khá chắc chắn rằng mình đã nhìn lại. Thế nhưng theo cách nào đó, thứ tôi nhìn thấy không phải Rita mà là một đống những khúc chân tay được xếp ngăn nắp, không hề dính máu. Không phải bàn tay Rita tôi đang cảm thấy trên khóa thắt lưng của mình, mà là bản đồng ca không thỏa mãn của Người lữ hành Tối Tăm đang cất lên. Và vài khoảnh khắc sau đó...

    Vậy đấy. Đó là một việc đến lúc này vẫn không thể tin nổi. Ý tôi là, ngay tại đó, trên trường kỷ.

    Làm thế nào chuyện đó có thể xảy ra chứ?

    Khi leo được lên chiếc giường bé nhỏ của mình, tôi đã mệt lử. Bình thường tôi không cần ngủ nhiều lắm, nhưng có cảm giác tối nay có lẽ mình cần đến ba mươi sáu tiếng đồng hồ liên tục. Những biến cố chóng mặt của buổi tối, một chuỗi của quá nhiều trải nghiệm mới mẻ - tất cả thật mệt mỏi. Còn mệt hơn cả Jaworski, cái đống ướt át xấu xa bé nhỏ đó, tất nhiên rồi, nhưng tôi đã dùng cạn số adrenalin dự trữ cho một tháng chỉ trong buổi tối dữ dội này. Thậm chí tôi còn chưa thể bắt đầu suy nghĩ về ý nghĩa của bất kỳ sự kiện nào trong đó, từ cơn thôi thúc kỳ lạ muốn lao ra ngoài đêm tối một cách điên dại và thô bạo đến thế, cho tới tận những điều không thể tưởng tượng nổi đã xảy ra với Rita. Tôi rời khỏi đó trong lúc cô còn đang say ngủ và có vẻ đã hạnh phúc hơn nhiều. Nhưng anh chàng Dexter tăm tối tội nghiệp bị quấy rầy một lần nữa lại chẳng có chút manh mối nào, và khi đầu chạm xuống gối, tôi thiếp đi gần như ngay lập tức.

    Và kia, tôi đang ở bên ngoài, bay trên thành phố như một con chim không xương, bồng bềnh, uốn lượn, bầu không khí lạnh lẽo di chuyển quanh tôi, kéo đi, lôi xuống nơi ánh trăng lấp lánh rải trên mặt nước, rồi rơi tõm vào căn phòng giết chóc lạnh lẽo chật chội, nơi gã lao công bé nhỏ ngước lên nhìn và bật cười, nằm dang tay chân ra dưới mũi dao và bật cười, nỗ lực để cười làm khuôn mặt hắn méo mó, biến đổi. Giờ đây, hắn không còn là Jaworski nữa mà là một phụ nữ, còn người đàn ông cầm dao ngước mắt nhìn lên nơi tôi đang bồng bềnh phía trên các phủ tạng đỏ ngầu đang quay cuồng, khi khuôn mặt ngẩng lên, tôi có thể nghe thấy tiếng Harry bên ngoài cánh cửa, vậy là tôi quay đi ngay trước khi có thể nhìn thấy ai đó đang nằm trên bàn nhưng...

    Tôi choàng tỉnh. Cơn đau dữ dội trong đầu có thể xé toang cả một quả dưa ruột vàng. Tôi cảm thấy như thể chưa hề chợp mắt, nhưng chiếc đồng hồ đầu giường cho biết lúc này là năm giờ mười bốn phút.

    Lại một giấc mơ khác. Một cuộc gọi đường dài nữa theo đường dây ma quái của tôi. Chẳng lạ khi tôi đã cương quyết từ chối có những giấc mơ trong phần lớn cuộc đời mình. Thật ngu ngốc, những thứ biểu tượng quá hiển nhiên, vô nghĩa. Một mớ hỗn độn của lo lắng không thể kiểm soát được, một thứ vớ vẩn rành rành thật đáng ghét.

    Giờ tôi không thể ngủ trở lại được nữa, khi nghĩ tới những hình ảnh của lũ trẻ con. Nếu tôi nhất thiết phải mơ, tại sao nó không thể trở nên giống tôi hơn, thú vị và khác biệt?

    Tôi ngồi dậy, xoa xoa hai bên thái dương đang rần rật. Cơn vô thức khủng khiếp, tẻ ngắt trôi dần đi như hạch xoang nhĩ 2 đang yếu dần, tôi ngồi bên thành giường lơ mơ mụ mị. Chuyện gì đang xảy ra với tôi vậy? Tại sao nó không thể xảy đến với một ai khác?

    Giấc mơ này có vẻ khác biệt và tôi không dám chắc đâu là sự khác biệt đó, hay ý nghĩa của nó là gì. Lần cuối cùng trước đó, tôi đã hoàn toàn chắc chắn một vụ án mạng nữa sắp xảy ra, thậm chí còn biết ở đâu. Nhưng lần này...

    Tôi thở dài và lê bước vào bếp tìm nước uống. Cái đầu Barbie lại kêu cạch, cạch khi tôi mở tủ lạnh ra. Tôi đứng đó, ngắm nhìn, uống một cốc lớn đầy nước lạnh. Đôi mắt màu xanh sáng chăm chú nhìn lại tôi không chớp.

    Tại sao tôi lại có một giấc mơ? Liệu có phải đó chỉ là sự căng thẳng sau những cuộc phiêu lưu tối hôm trước đang bật ngược trở lại từ phần vô thức đã tả tơi của tôi không? Trước đây, tôi chưa bao giờ cảm thấy căng thẳng, kỳ thực, luôn là sự giải tỏa căng thẳng. Tất nhiên, trước đây tôi cũng chưa bao giờ ở cận kề tai họa đến vậy. Nhưng sao lại mơ về nó? Một vài hình ảnh quá hiển nhiên đến mức không chịu nổi: Jaworski và Harry, rồi cả người đàn ông khuất mặt cầm con dao. Lại đúng lúc này. Tại sao lại quấy quả tôi với những thứ từ tâm lý học cho người nhập môn vậy?

    Mà tại sao lại quấy rầy tôi với một giấc mơ? Tôi đâu cần đến nó. Tôi cần nghỉ ngơi, nhưng thay vào đó, tôi đang ở đây, trong bếp, đùa nghịch với một cái đầu búp bê Barbie. Tôi lại gạt cái đầu lần nữa: cạch cạch. Mà nghĩ tới chuyện này, con búp bê Barbie rốt cuộc có ý nghĩa gì? Làm cách nào tôi có thể hình dung ra nó kịp thời để cứu vãn sự nghiệp của Deborah đây? Làm cách nào tôi có thể lảng tránh được LaGuerta khi cô nàng khốn khổ cứ thích bám lấy tôi như thế? Nhân danh tất cả những gì thiêng liêng, nếu thực sự có thứ gì như thế, tại sao Rita nhất thiết phải làm ĐIỀU ĐÓ với tôi?

    Dường như tất cả đột nhiên trở thành một bộ phim truyền hình rẻ tiền rối tinh rối mù, nó đã đi quá xa. Tôi tìm được mấy viên aspirin và tựa người vào bàn bếp trong lúc nhai ba viên. Tôi không quan tâm lắm tới vị của chúng. Tôi chưa bao giờ thích bất cứ loại thuốc nào, ngoại trừ theo một mục đích thiết thực.

    Nhất là kể từ khi Harry qua đời.

    --------------------------------
    1 �Hệ thống xa lộ được xây dựng và mở rộng từ năm 1915 đến 1927 để nối giữa các.
    2 Hạch xoang nhĩ (Keith - Flack) nằm tiếp giáp giữa xoang tĩnh mạch và tâm nhĩ phải, được gọi là nút tạo nhịp làm tim có khả năng phát động làm tim đập nhịp nhàng, ở người nút này tạo khoảng 70 - 78 nhịp/phút.

  6. #15
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 16

    Harry không chết một cách nhanh chóng và cũng chẳng chết một cách dễ dàng. Ông đã trải qua một thời gian dài khủng khiếp của riêng mình, điều ích kỷ đầu tiên và cuối cùng ông từng làm trong đời. Harry chết trong vòng một năm rưỡi, chết dần chết mòn, hôn mê trong vài tuần, rồi lại hồi tỉnh gần như bình thường, khiến tất cả chúng tôi chóng mặt vì phỏng đoán. Liệu có phải lần này ông sẽ ra đi, hay ông đã đánh bại hoàn toàn bệnh tật? Chúng tôi chẳng bao giờ biết được, nhưng vì đó là Harry, với chúng tôi bỏ cuộc dường như thật ngu ngốc. Harry sẽ làm điều gì đúng đắn, cho dù có khó khăn đến thế nào đi nữa, nhưng với cái chết điều đó có nghĩa là gì đây? Liệu có đúng đắn không khi chiến đấu quyết liệt bám trụ lại và làm cho chúng tôi phải chịu khổ sở qua một cái chết dài vô tận, trong khi cái chết kiểu gì cũng sẽ tới bất chấp Harry có làm gì đi nữa? Hay đúng đắn có nghĩa là ra đi một cách trang nhã, không gây ồn ào?

    Ở tuổi mười chín, chắc chắn tôi chưa thể biết câu trả lời, cho dù tôi đã biết về cái chết nhiều hơn phần lớn những gã trai mới lớn khác trong lớp, đần độn và mặt đầy trứng cá, hồi năm thứ hai tại Đại học Miami.

    Một buổi chiều mùa thu đẹp trời sau giờ hóa học, trong lúc tôi bước đi qua khuôn viên trường tới câu lạc bộ sinh viên, Deborah xuất hiện bên cạnh. “Deborah,” tôi gọi cô, nghe có vẻ rất có chất sinh viên, tôi nghĩ vậy, “lại đây uống một lon Coke nào.” Harry đã bảo tôi nên la cà tới câu lạc bộ sinh viên và uống Coke. Ông nói như thế sẽ giúp tôi hòa nhập vào nhân loại và học được cách những người khác cư xử. Tất nhiên rồi, ông đã đúng. Bất chấp những tồn hại mà hàm răng của tôi phải chịu, tôi đã học được rất nhiều về những giống người khó chịu.

    Deborah, ở tuổi mười bảy, ngay từ lúc ấy đã quá nghiêm túc, lắc đầu. “Bố,” cô em tôi nói. Ngay sau đó, chúng tôi đi xe băng qua thành phố tới bệnh viện nơi người ta đã đưa Harry vào. Bệnh viện không phải là tin tốt lành. Thế có nghĩa là các bác sĩ muốn nói Harry đã sẵn sàng để chết và đề nghị ông nên hợp tác.

    Harry trông không được tốt khi chúng tôi tới nơi. Ông xanh xao và bất động trên tấm ga trải giường tới mức tôi nghĩ chúng tôi đã đến quá muộn. Ông gầy xọp đi và hốc hác sau cuộc tranh đấu kéo dài, với mọi người dường như có thứ gì đó bên trong ông đang gặm nhấm dần mọi thứ. Chiếc máy thở bên cạnh rít lên khe khẽ, âm thanh như của Darth Vader 1 vọng lên từ một nấm mồ sống. Nói một cách chính xác, Harry vẫn còn sống. “Bố,” Deborah cầm tay ông gọi. “Con đưa Dexter đến đây.”

    Harry mở mắt, nghiêng đầu về phía chúng tôi, gần như thể một bàn tay vô hình nào đó đã đẩy nó từ phía bên kia cái gối. Nhưng chúng không còn là đôi mắt của Harry. Đó là hai hố sâu mờ đục màu xanh, đờ đẫn, trống rỗng, vô hồn. Thân thể Harry có thể vẫn còn sống, nhưng ông không còn ở trong đó nữa.

    “Không khả quan,” y tá nói với chúng tôi. “Bây giờ chúng tôi đang cố giúp ông ấy cảm thấy dễ chịu.” Cô ta đang bận rộn với một bơm tiêm lớn vừa cầm từ trên khay lên, hút đầy thuốc vào trong đó, rồi giơ ngược lên để đẩy không khí ra.

    “Đợi đã...” tiếng nói yếu ớt đến mức thoạt đầu tôi nghĩ có thể đó là âm thanh của chiếc máy thở. Tôi nhìn quanh phòng và đôi mắt tôi cuối cùng dừng lại trên những gì còn sót lại của Harry. Sau tấm màn trống rỗng đờ đẫn của đôi mắt ông, một đốm sáng nhỏ đang lóe lên. “Đợi đã...” ông lặp lại, hất hàm về phía người y tá.

    Cô ta không nghe thấy ông nói gì, hoặc quyết định tảng lờ ông. Cô ta bước tới bên cạnh, nhẹ nhàng nâng cánh tay gầy gò xương xẩu lên. Người y tá bắt đầu lấy bông cồn lau trên da.

    “Không...” Harry khẽ thều thào, gần như không thể nghe thấy.

    Tôi đưa mắt nhìn Deborah. Cô dường như đang đứng đợi với điệu bộ hoàn toàn không chắc chắn. Tôi quay lại nhìn Harry. Đôi mắt ông chăm chăm nhìn vào mắt tôi.

    “Không...” ông nói, lúc này trong mắt có điều gì đó rất gần với nỗi kinh hoàng. “Không... tiêm…”

    Tôi bước tới, đưa tay ngăn y tá lại, ngay trước khi cô ta đâm kim tiêm vào tĩnh mạch Harry. “Đợi đã,” tôi nói. Cô ta ngước mắt lên nhìn tôi và trong một phần ngắn ngủi của giây, có gì đó lóe lên trong mắt cô ta. Tôi gần như bật lùi lại vì kinh ngạc. Đó là một cơn điên khùng giá lạnh, vô nhân tính của kẻ Tao Muốn, một niềm tin rằng thế giới là một trò chơi dành riêng cho cô ta. Chỉ một khoảnh khắc chớp nhoáng, nhưng tôi hoàn toàn chắc chắn. Cô ta muốn đâm kim tiêm vào mắt tôi vì đã ngăn trở. Cô ta muốn đâm ngập nó vào ngực tôi, ngoáy cho tới khi xương sườn gãy vụn và trái tim tôi bật ra rơi vào tay để cô ta có thể bóp, vặn, giật đứt mạch sống khỏi tôi. Đây là một con quái vặt, một thợ săn, một kẻ sát nhân. Đây là một con thú săn mồi, một thứ ma quỷ, không có linh hồn.

    Giống như tôi.

    Nhưng nụ cười ngọt ngào của cô ta quay trở lại rất nhanh. “Có chuyện gì vậy, chàng trai?” Cô ta nói, cũng ngọt ngào như thế, một Y tá cuối cùng hoàn hảo.

    Lưỡi tôi như trở nên quá to so với khoang miệng, có vẻ tôi đã phải mất đến vài phút để trả lời, nhưng cuối cùng cũng nói ra được. “Ông ấy không muốn tiêm.”

    Cô ta lại mỉm cười, một thứ tuyệt đẹp hiện diện trên khuôn mặt như lời ban phúc của một vị Chúa toàn năng. “Bố cậu rất yếu,” cô ta nói. “Ông ấy đang rất đau đớn.” Cô ta giơ bơm tiêm lên, một luồng sáng chói lòa từ cửa sổ chiếu tới chạm vào nó. Bơm tiêm lóe sáng lên như chiếc Chén thánh của cô ta. “Ông ấy cần một mũi tiêm,” cô ta nói.

    “Bố tôi không muốn nó,” tôi nói.

    “Ông ấy đang đau đớn,” cô ta giải thích.

    Harry nói gì đó tôi không thể nghe thấy. Đôi mắt tôi nhìn chằm chặp vào người y tá, mắt cô ta cũng nhìn thẳng vào mắt tôi, hai con quái vật đứng bên cùng một con mồi. Không rời mắt khỏi cô ta, tôi cúi xuống cạnh ông.

    “Bố... MUỐN... đau...” Harry nói.

    Những lời của ông làm tôi đưa mắt nhìn xuống. Đằng sau bộ xương nhô ra dưới làn da, dưới mái tóc đột nhiên trở nên quá rộng với cái đầu của ông, Harry đã quay trở lại và đang quyết liệt tìm đường vượt qua màn sương mù. Ông gật đầu, chầm chậm đưa tay với tới bàn tay tôi, nắm lấy nó.

    Tôi đưa mắt trở lại Y tá cuối cùng. “Ông ấy muốn đau,” tôi nói với cô ta, ở đâu đó trong vầng trán khẽ cau lại, trong cái lắc đầu hờn dỗi của cô ta, tôi nghe thấy một tiếng gầm của con thú hoang đang phải nhìn con mồi của nó chui tụt xuống lỗ.

    “Tôi cần nói lại với bác sĩ,” cô ta nói.

    “Được thôi,” tôi đáp lại. “Chúng tôi sẽ đợi ở đây.”

    Tôi quan sát cô ta lướt ra ngoài lối đi như một con chim lớn chết chóc. Tôi cảm thấy sức ép đè lên bàn tay mình. Harry dõi theo trong lúc tôi quan sát Y tá cuối cùng.

    “Con... có thể nói...” Harry thều thào.

    “Về người y tá?” Tôi hỏi ông. Ông nhắm mắt lại và khẽ gật đầu, chỉ một lần. “Vâng,” tôi nói. “Con có thể.”

    “Giống... con...” Harry nói.

    “Cái gì?” Deborah hỏi. “Hai người đang nói chuyện gì vậy? Bố, bố ổn chứ? Chuyện này có nghĩa gì vậy, giống anh ấy?”

    “Cô ta thích 2 anh,” tôi nói. “Bố nghĩ có thể cô ta phải lòng anh, Deb,” tôi nói với cô, rồi quay lại bên Harry.

    “Ồ, phải rồi,” Deborah lẩm bẩm, nhưng lúc đó tôi đã để tâm cả vào Harry.

    “Cô ta đã làm gì?” Tôi hỏi ông.

    Ông cố lắc đầu và chỉ hơi nhúc nhích được một chút. Bố nuôi tôi nhăn mặt. Tôi có thể thấy rõ cơn đau đang quay trở lại, đúng như ông muốn. “Quá nhiều,” ông nói. “Cô ta... tiêm quá nhiều...” lúc này ông hổn hển và nhắm mắt lại.

    Ngày hôm đó hẳn tôi đã rất khờ, vì không thể hiểu được ý ông ngay lập tức. “Quá nhiều gì cơ ạ?” tôi hỏi.

    Harry mở một bên mắt đờ dại vì đau đớn ra. “Morphin,” ông thì thầm.

    Tôi cảm thấy như một luồng sáng chói lóa vừa chọc vào mắt mình. “Quá liều,” tôi nói. “Cô ta giết người bằng cách gây quá liều. Ở một chỗ như nơi này, nơi việc đó gần như là toàn bộ công việc của cô ta, sẽ chẳng ai đặt câu hỏi... tại sao, đó...”

    Harry lại nắm lấy bàn tay tôi và tôi thôi không lắp bắp nữa. “Đừng cho phép cô ta,” ông nói với giọng khàn khàn mạnh mẽ đến bất ngờ. “Đừng cho phép cô ta... tiêm thuốc cho bố lần nữa.”

    “Làm ơn đi,” Deborah nói với giọng của người sắp không kìm nổi cơn bực mình, “hai người đang nói gì vậy?” Tôi đưa mắt nhìn Harry, nhưng ông vừa nhắm mắt lại khi một cơn đau vừa đột ngột đâm lên giằng xé.

    “Bố nghĩ là, ừm...” tôi bắt đầu nói rồi ngừng bặt. Tất nhiên Deborah không hề biết tôi là người thế nào, cũng như Harry đã rất kiên quyết yêu cầu tôi không được để lộ ra với cô. Vậy thì làm thế nào tôi có thể cho cô biết chuyện này mà không làm lộ ra điều gì có nguy cơ gây rắc rối. “Bố nghĩ cô y tá tiêm cho ông quá nhiều morphin,” cuối cùng tôi nói. “Một cách có chủ ý.”

    “Thật điên rồ,” Deb nói. “Cô ta là một y tá.”

    Harry nhìn cô nhưng không nói gì. Nói thực lòng, tôi cũng chẳng nghĩ ra nổi cách nào để nói về sự ngây thơ đến không thể tin nổi của Deb.

    “Con cần làm gì?” Tôi hỏi Harry.

    Harry nhìn tôi một hồi lâu. Thoạt đầu, tôi nghĩ có vẻ đầu óc ông không còn minh mẫn do những cơn đau, nhưng khi nhìn lại, tôi nhận ra Harry vẫn hiện diện ở đó. Quai hàm nghiến chặt tới mức tôi nghĩ những cái xương có thể chọc qua làn da mong manh tái nhợt của ông, nhưng đôi mắt vẫn sáng, vẫn sắc sảo như tôi luôn biết, hệt như lần đầu tiên ông đưa ra cho tôi giải pháp Harry để giúp tôi tìm lại cân bằng. “Ngăn cô ta lại,” cuối cùng ông nói.

    Một cơn phấn khích tột độ lan khắp người tôi. Ngăn cô ta lại? Có thể được không? Có thực sự ý ông là - ngăn cô ta lại? Cho tới lúc này, Harry đã giúp kiểm soát Người lữ hành Tối Tăm trong tôi, cung cấp cho hắn những con thú cưng thất lạc, những con hươu săn được, vào một dịp huy hoàng tôi đi cùng ông để bắt một con khỉ hung dữ đã làm kinh hoàng cả một khu vực ở Nam Miami. Lần đó đã rất gần, gần như là một con người - nhưng vẫn chưa đúng, tất nhiên rồi. Chúng tôi đã trải qua tất cả những lý thuyết của việc hạ con mồi, thủ tiêu dấu vết, vân vân và vân vân. Harry biết một ngày kia chuyện đó sẽ xảy ra và ông muốn tôi sẵn sàng để thực hiện chuyện đó một cách chu đáo. Ông luôn kìm hãm tôi khỏi việc thực sự thực hiện chuyện đó. Nhưng bây giờ... ngăn cô ta lại? Có thể nào ông có ý đó?

    “Con sẽ đi nói chuyện với bác sĩ,” Deborah nói. “Ông ấy sẽ bảo cô ta điều chỉnh lại liều cho bố.”

    Tôi há miệng định nói, nhưng Harry đã siết lấy bàn tay tôi và gật đầu một cái, thật khó nhọc. “Đi đi,” ông nói và Deborah nhìn ông một lát trước khi quay ra đi tìm bác sĩ. Khi cô đi khỏi, căn phòng chìm trong một bầu không khí im lặng và hoang dã. Tôi không thể nghĩ tới gì khác ngoài điều Harry đã nói: “Ngăn cô ta lại.” Tôi không thể nghĩ ra cách nào khác để hiểu nó, ngoài việc cuối cùng ông đã thả tôi tự do, cuối cùng đã cho tôi làm thật. Nhưng tôi không dám hỏi liệu đó có phải là những gì ông nói hay không, sợ rằng ông sẽ trả lời tôi ý ông hoàn toàn khác. Vậy là tôi đứng đó, trong một quãng thời gian dài nhất mà tôi từng biết, nhìn chằm chằm ra khu vườn bên ngoài qua khung cửa sổ nhỏ, nơi có một vạt hoa đỏ bao quanh đài phun nước. Thời gian trôi qua. Miệng tôi khô khốc. “Dexter...” cuối cùng Harry lên tiếng.

    Tôi không trả lời. Tôi không thể nghĩ ra thứ gì có vẻ thích hợp. “Giống như thế này,” Harry nói một cách khó khăn và đau đớn khiến tôi đột ngột cúi xuống nhìn ông. Ông trao cho tôi nụ cười nửa miệng đầy gắng sức khi nhận ra rằng tôi là người cuối cùng bên cạnh mình. “Ta sẽ ra đi sớm thôi,” Harry thều thào. “Ta không thể ngăn cản con trước... người thực sự là con.”

    “Thứ thực sự là con, bố,” tôi trả lời.

    Ông xua đi bằng bàn tay yếu ớt và mỏng manh. “Sớm muộn gì... con sẽ - cần - phải làm việc đó với một người,” ông nói, khiến ý nghĩ vừa lóe lên làm tôi cảm thấy máu mình sôi sục. “Một người... cần điều đó...”

    “Giống như người y tá,” tôi dè dặt nói.

    “Phải,” ông nói, nhắm mắt lại hồi lâu và khi ông tiếp tục, giọng nói trở nên méo mó vì đau đớn. “Cô ta cần nó, Dexter. Đó là...” Ông thở hắt ra vỡ vụn. Tôi có thể nghe lưỡi ông lạch cạch như thể miệng đang khô nẻ. “Cô ta cố ý… tiêm quá liều cho các bệnh nhân... giết họ... giết họ... một cách có chủ đích... Cô ta là một kẻ sát nhân, Dexter… một kẻ sát nhân...”

    Tôi hắng giọng, cảm thấy có chút bối rối, đầu nhẹ hẫng, nhưng nói cho cùng, đây là một khoảnh khắc rất quan trọng trong đời tôi. “Bố có muốn...” tôi nói và ngừng lại khi giọng mình vỡ ra. “Có được không nếu con... ngăn cô ta lại, bố?”

    “Được,” Harry nói. “Ngăn cô ta lại.”

    Vì một vài lý do, tôi cảm thấy mình cần phải hoàn toàn chắc chắn. “Ý bố là, bố biết. Như con đã làm? Với, bố biết đấy, con khỉ ấy?”

    Mắt Harry nhắm lại, rõ ràng ông đang bị cuốn trôi đi theo một cơn thủy triều đau đớn. Ông thở khẽ, ngắt quãng. “Ngăn... người y tá lại,” ông nói. “Giống... với con khỉ...” Đầu ông hơi ưỡn ra sau, ông bắt đầu thở nhanh hơn, nhưng vẫn rất khổ sở.

    Được thôi.

    Đã tới lúc rồi.

    “Ngăn người y tá lại giống như với con khỉ.” Có chút hoang dại ở đây. Nhưng trong bộ óc đang vo vo điên loạn của tôi, tất cả rộn rã như nhạc điệu. Harry đã cho tôi tự do. Tôi đã được phép. Chúng tôi từng nói về một ngày sẽ làm việc này, nhưng ông đã kìm tôi lại. Cho tới bây giờ.

    Bây giờ.

    “Chúng ta đã nói... về chuyện này,” Harry nói, mắt vẫn nhắm nghiền. “Con biết phải làm gì...”

    “Con đã nói với bác sĩ rồi,” Deborah nói trong lúc hối hả bước vào phòng. “Ông ấy sẽ tới chỉnh lại thuốc trên phác đồ điều trị.”

    “Tốt,” tôi nói, cảm thấy có thứ gì đó đang dâng lên trong mình, từ tận dưới đáy cột sống lên tận trên đầu, một luồng điện chạy nhằng nhịt, bao phủ lấy tôi như một chiếc áo trùm tối tăm. “Anh sẽ đi nói chuyện với cô y tá.”

    Deborah trông có vẻ sững sờ, có lẽ vì giọng nói của tôi. “Dexter...” cô nói.

    Tôi dừng lại, cố kiểm soát cơn hưng phấn man dại đang cuồn cuộn dâng lên trong người. “Anh không muốn có bất cứ hiểu nhầm nào,” tôi nói. Giọng nói nghe thật xa lạ, thậm chí với chính tôi. Tôi đi qua trước mặt Deborah trước khi cô kịp ghi lại vẻ mặt của tôi.

    Ngoài lối đi trong bệnh viện đó, len lỏi tìm đường đi giữa những đống ga trắng tinh sạch sẽ và nhăn nhúm, lần đầu tiên tôi cảm thấy Người lữ hành Tối Tăm trở thành kẻ cầm lái mới. Dexter trở thành thứ yếu, gần như vô hình, là những vằn màu nhạt trên mình một con hổ sắc bén, vô hình. Tôi hòa lẫn vào nó, gần như không thể nhìn thấy, nhưng tôi ở đó và tôi đang săn lùng, quần lượn trong ngọn gió để tìm con mồi của mình. Trong giây phút tự do vô cùng đó, trên con đường thực hiện chuyện đó lần đầu tiên, được Harry vĩ đại phê chuẩn, tôi lùi lại, mờ nhạt trong cái bóng của chính phần bản ngã tăm tối, trong khi một cái tôi khác vùng dậy, gầm vang. Cuối cùng tôi đã có thể làm chuyện đó, điều tôi được sinh ra để làm.

    Và tôi đã làm.

    --------------------------------
    1 Nhân vật phản diện trong phim Star Wars.
    2 Tác giả chơi chữ, trong tiếng Anh “like” có thể hiểu là “thích” hay “giống” tùy theo ngữ cảnh.

  7. #16
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 17

    Tôi đã làm. Đã lâu lắm rồi, nhưng ký ức vẫn còn sống động trong tôi. Tất nhiên, tôi vẫn còn giữ giọt máu khô đầu tiên đó trên phiến kính dành cho nó. Đó là lần đầu tiên và tôi có thể hình dung lại ký ức đó bất cứ lúc nào bằng cách lấy phiến kính nho nhỏ đó ra và ngắm nhìn. Tôi vẫn hay làm thế. Hôm ấy là một ngày rất đặc biệt với Dexter. Y tá cuối cùng trở thành Bạn chơi đầu tiên, cô ta đã mở ra thật nhiều cánh cửa tuyệt vời cho tôi. Tôi đã học được rất nhiều, tìm ra vô vàn điều mới.

    Nhưng tại sao lúc này tôi lại nhớ tới Y tá cuối cùng? Tại sao toàn bộ chuỗi sự kiện này dường như đang ném tôi trở lại qua thời gian? Tôi không thể cho phép bản thân có một ký ức dịu dàng về chiếc quần dài đầu tiên của mình. Tôi cần bùng nổ thành hành động, đưa ra những quyết định lớn lao, bắt đầu những chiến tích quan trọng, thay vì ngớ ngẩn lang thang theo con đường mòn của ký ức, đắm mình trong những kỷ niệm ngọt ngào về phiến kính đựng giọt máu đầu tiên của mình.

    Giò đây khi nghĩ lại, tôi chợt nhận ra đó là thứ tôi chưa kịp thu thập từ Jaworski. Đó là một chi tiết nhỏ xíu, vặt vãnh đến mức lố bịch khiến cho những con người ưa hành động mạnh mẽ biến thành những kẻ rối loạn thần kinh luôn bứt rứt, than thở. Tôi cần phiến kính đó. Không có nó, cái chết của Jaworski trở thành vô nghĩa. Toàn bộ câu chuyện ngớ ngẩn này giờ đây còn tồi tệ hơn cả một sự rồ dại ngu ngốc bột phát. Nó chưa hoàn tất. Tôi chưa có phiến kính.

    Tôi lắc đầu, cố gắng điên cuồng để kết nối hai tế bào thần kinh vào cùng một synapse 1. Tôi nửa muốn nhảy xuống chiếc xuồng của mình để dạo một vòng lúc sáng sớm. Có khi không khí đượm muối biển sẽ tống khứ đưọc sự ngu ngốc ra khỏi đầu tôi. Hoặc tôi có thể đi về hướng nam tới Turkey Point và hy vọng chất phóng xạ sẽ biến tôi trở lại thành một tạo vật biết điều. Nhưng thay vì làm thế, tôi đi pha cà phê. Không phiến kính, vậy đấy. Nó làm toàn bộ trải nghiệm nghèo nàn hẳn đi. Không có phiến kính, thà rằng tôi ở nhà còn hơn. Hay gần như thế, ở bất kỳ mức độ nào. Còn có những phần thưởng khác. Tôi mỉm cười một cách ngớ ngẩn, nhớ lại bản hòa tấu giữa ánh trăng và những tiếng gào thét bị bịt kín. Ôi, tôi quả là một con quái vật bé nhỏ điên dại. Một trải nghiệm không hề giống bất kỳ trải nghiệm nào khác của tôi. Thật hay khi thỉnh thoảng phá vỡ sự đơn điệu của những nguyên tắc thường quy. Còn có cả Rita nữa, tất nhiên rồi, nhưng tôi không có ý tưởng nào về việc nên nghĩ sao về chuyện đó, vậy là tôi không nghĩ gì nữa. Thay vào đó, tôi nghĩ tới làn gió hây hây mát mẻ thổi qua anh chàng bé nhỏ thích làm những đứa trẻ đau đớn đang quằn quại. Gần như có thể coi đó là một khoảng thời gian hạnh phúc. Nhưng tất nhiên, trong mười năm nữa, ký ức rồi sẽ phai nhạt dần, không có phiến kính kia tôi sẽ không thể hồi tưởng lại được. Tôi cần những kỷ vật của mình. Được thôi, chúng ta sẽ thấy.

    Trong lúc cà phê sôi, tôi kiểm tra tin tức trên báo, xuất phát từ hy vọng nhiều hơn trông đợi. Hiếm khi có tờ báo nào được giao trước sáu rưỡi, vào những ngày Chủ nhật chúng thường tới sau tám giờ. Thêm một ví dụ hiển nhiên nữa cho sự tan rã của xã hội vẫn làm Harry lo lắng. Thật thế, giờ hãy thử nghĩ xem: Nếu các vị không thể mang báo đến cho tôi đúng giờ, làm thế nào các vị có thể trông đợi tôi kiềm chế không giết người?

    Không báo, cũng chẳng sao. Những gì báo chí tường thuật về các cuộc phiêu lưu của tôi chưa bao giờ thực sự làm tôi quan tâm. Harry đã cảnh cáo tôi về sự ngu ngốc khi duy trì bất cứ hình thức lưu giữ nào. Ông không cần phải làm thế, tôi thậm chí hiếm khi đưa mắt đọc qua các bài tường thuật lại những màn trình diễn của mình. Lần này có một chút khác biệt, tất nhiên rồi, vì tôi đã quá bốc đồng và cảm thấy hơi lo lắng rằng mình đã không xóa dấu vết một cách chu đáo. Tôi chỉ có chút tò mò xem người ta có thể nói gì về cuộc phiêu lưu tình cờ đó. Vậy là tôi ngồi xuống cùng tách cà phê của mình khoảng chừng bốn mươi lăm phút cho tới khi nghe thấy tiếng cuộn báo đập vào cánh cửa. Tôi cầm báo vào và mở ra.

    Cho dù người ta còn có thể nói gì khác nữa về các vị phóng viên - có vô số điều để mà nói, gần như cả một quyển bách khoa toàn thư - bọn họ hiếm khi bị trí nhớ quấy rầy. Vẫn cùng tờ báo mới gần đây đã hò hét TÓM ĐƯỢC KẺ SÁT NHÂN Ở BÃI ĐỂ XE giờ đây lại gào lên CÂU CHUYỆN VỀ NGƯỜI BĂNG TAN CHẢY! Đó là một bài báo dài và đáng yêu, được viết thật lâm ly, thuật lại tỉ mỉ việc phát hiện ra một thi thể bị hành hạ tàn nhẫn ở công trường xây dựng ngay gần phố Old Cutler. “Một người phát ngôn của Sở Cảnh sát Metro Miami” - có nghĩa là thám tử LaGuerta, tôi chắc vậy - tuyên bố vẫn còn quá sớm để nói được gì chắc chắn, nhưng nhiều khả năng đây là một vụ giết người do hội chứng bắt chước. Bài báo đã tự đi đến những kết luận của chính nó - thêm một điều nữa chẳng mấy khi làm cánh phóng viên ngượng ngùng - giờ đây lên tiếng băn khoăn liệu quý ông đáng mến đang bị bắt giữ, ông Daryll Earl McHale, trên thực tế có đúng là kẻ sát nhân hay không. Hay kẻ sát nhân vẫn còn nhởn nhơ bên ngoài, như hành động mới nhất gây phẫn nộ sâu sắc về mặt đạo đức trong cộng đồng đã chứng tỏ? Bởi vì, bài báo cẩn thận chỉ ra, làm sao chúng ta có thể tin có tới hai tên sát nhân cùng ra tay vào cùng thời điểm? Bài viết lập luận rất chặt chẽ, tôi chợt nghĩ nếu người ta cũng tập trung nhiều nỗ lực và trí tuệ tương tự cho việc giải quyết những vụ án mạng, lúc này tất cả hẳn đã xong xuôi.

    Nhưng tất nhiên, nói một cách toàn diện đó quả là một bài báo thú vị. Chắc chắn nó làm tôi phải suy ngẫm. Có Chúa chứng giám, lẽ nào con quái vật điên rồ đó thực sự vẫn đang tự do? Liệu còn ai được an toàn nữa không?

    Điện thoại đổ chuông. Tôi liếc mắt nhìn lên đồng hồ treo tường, sáu giờ bốn mươi lăm phút. Chỉ có thể là Deborah.

    “Anh đang đọc bài báo,” tôi nói vào điện thoại.

    “Anh đã nói là to chuyện hơn,” Deborah nói với tôi. “Và ầm ĩ hơn.”

    “Không phải thế chứ?” Tôi hỏi với vẻ ngây ngô.

    “Thậm chí nạn nhân còn không phải là gái đứng đường,” cô nói. “Một lao công bán thời gian tại trường Trung học cơ sở Ponce, bị chặt thành từng mảnh ở một công trường xây dựng bên đường Old Cutler. Chuyện quái quỷ gì vậy, Dexter?”

    “Em phải biết là anh không hề hoàn hảo chứ, phải không nào, Deborah?”

    “Thậm chí còn không khớp với phương thức gây án - cái lạnh anh nói sẽ hiện diện đâu rồi? Có gì xảy ra với không gian chật hẹp vậy?”

    “Đây là Miami, Deb, người ta ăn cắp mọi thứ.”

    “Thậm chí không phải là một vụ gây án do bắt chước,” cô nói. “Nó chẳng có điểm nào giống các vụ khác. Ngay cả LaGuerta cũng thấy được chuyện này. Cô ta đã nói vậy trên báo rồi. Quỷ tha ma bắt tất cả chuyện này đi, Dexter. Em đang phải phơi mông ra trước gió ở đây, chỉ là một vụ bạo lực tình cờ, hay một vụ ma túy vặt vãnh.”

    “Trách cứ anh về tất cả những chuyện đó có vẻ không được công bằng thì phải.”

    “Quỷ tha ma bắt, Dex,” Deborah nói, rồi gác máy.

    Chương trình ti vi buổi sáng dành trọn chín mươi giây cho việc một thi thể bị băm chặt thật kinh hoàng được phát hiện. Kênh Bảy đã chọn được những tính từ đắt giá nhất. Nhưng không ai biết gì nhiều hơn bài báo. Tất cả sặc mùi phẫn nộ và âm hưởng u ám của tai họa thậm chí còn kéo dài sang phần dự báo thời tiết, nhưng tôi chắc một phần lớn nguyên nhân là do thiếu ảnh.

    Thêm một ngày Miami tuyệt đẹp nữa. Những xác chết bị chặt thành từng khúc cùng cơ hội được tắm mưa vào buổi chiều. Tôi mặc quần áo vào rồi đi làm.

    Tôi thừa nhận mình còn một động cơ nội tâm nho nhỏ nữa cho việc đi làm sớm như vậy, tôi nạp thêm năng lượng bằng cách dừng lại mua bánh ngọt. Tôi mua hai chiếc bánh ca vát, một bánh táo và một cuộn bánh quế có cỡ bằng chiếc lốp dự phòng của mình. Tôi ăn cái bánh táo và một cái bánh ca vát trong lúc hân hoan luồn lách trong dòng xe cộ đầy hiểm họa chết người. Tôi không biết tại sao mình vẫn ổn trong khi ăn nhiều bánh ngọt đến vậy. Tôi không lên cân mà cũng chẳng nổi nhọt cho dù chuyện này có thể không công bằng, trong thâm tâm tôi không thấy có lý do nào để phàn nàn cả. Tôi có vẻ may mắn về mặt di truyền: trao đổi chất cao, vóc dáng và sức khỏe tốt, tất cả đều giúp tôi được thoải mái với sở thích của mình. Người ta từng nói với tôi rằng trông tôi chẳng tệ chút nào, tôi tin đó là một lời khen ngợi.

    Tôi cũng không cần phải ngủ quá nhiều, điều này thật tốt vào sáng hôm nay. Tôi hy vọng đến được đủ sớm để có mặt trước Vince Masuoka, và có vẻ tôi đã đạt được mục đích. Phòng làm việc của anh ta vẫn tối om khi tôi đến nơi, tôi cầm chặt lấy chiếc túi giấy màu trắng để ngụy trang - nhưng cuộc ghé thăm của tôi không có gì liên quan tới bánh ngọt. Tôi nhanh chóng liếc qua khu vực làm việc của anh ta, tìm kiếm cái hộp đựng bằng chứng có dán cái nhãn JAWORSKI và ngày hôm qua.

    Tôi tìm ra nó và nhanh chóng lấy ra vài mẫu mô. Có lẽ chừng đó là đủ. Tôi luồn tay vào một đôi găng cao su và trong nháy mắt đã ép các mảnh mẫu nọ lên một phiến kính sạch. Tôi ý thức được việc đặt bản thân vào một nguy cơ nữa đúng là ngu ngốc, nhưng tôi cần phải có phiến kính của mình.

    Tôi vừa kịp nhét nó vào một cái túi có khóa kéo khi nghe thấy anh ta bước vào từ phía sau. Tôi nhanh chóng trả mọi thứ về chỗ cũ và quay mặt ra cửa, đúng lúc Vince bước vào và nhìn thấy tôi.

    “Chúa ơi,” tôi nói. “Cậu đi nhẹ chân quá. Vậy là cậu đã qua khóa huấn luyện ninja.”

    “Tôi có hai ông anh trai,” Vince nói. “Điều đó cũng tương tự.”

    Tôi giơ cái túi giấy trắng lên và cúi đầu. “Ông chủ, tôi mang quà đến.”

    “Mong đức Phật ban phúc cho cậu, đồ châu chấu. Cái gì thế này?”

    Tôi ném cái túi cho anh ta. Nó đập thẳng vào ngực anh chàng rồi rơi xuống sàn. “Quá tệ cho một khóa huấn luyện ninja,” tôi nói.

    “Cơ thể cân đối của tôi cần cà phê để vận động,” Vince nói trong lúc cúi xuống nhặt cái túi lên. “Có gì trong này vậy? Đau quá.” Anh ta cúi nhìn vào trong túi, cau mày. “Tốt hơn không nên là những mảnh xác chết.” Anh ta lấy cái bánh quế to kếch xù ra ngắm nghía. “Ái chà, chết tiệt thật. Năm nay làng ta không bị đói rồi. Tất cả chúng ta đều rất biết ơn, châu chấu.” Anh ta cúi người xuống, giơ cao cái bánh lên. “Một món nợ được trả là lời ban phúc cho tất cả chúng ta, con của ta.”

    “Trong trường hợp đó,” tôi nói, “cậu có hồ sơ về cái xác họ tìm thấy tối qua ở gần Old Cutler không?”

    Vince cắn một miếng to bánh quế. Môi anh ta bóng nhẫy mỡ trong lúc thong thả nhai. “Mmmm,” anh ta nói, rồi nuốt xuống. “Có phải chúng ta cảm thấy bị bỏ rơi không nhỉ?”

    “Nếu chúng ta có nghĩa là Deborah, thì đúng đấy,” tôi trả lời. “Tôi đã nói rằng sẽ ngó qua hồ sơ một chút giúp cô ấy.”

    “Ái chà,” anh ta thốt lên, mồm đầy bánh ngọt, “út nhít lùn nừi ũng cú đùi mứu.”

    “Thứ lỗi cho tôi, ông chủ,” tôi nói. “Ngôn ngữ của ông hoàn toàn lạ lẫm với tôi.”

    Anh ta nhai rồi nuốt. “Tôi nói, ít nhất lần này cũng có đầy máu. Nhưng anh vẫn là tay số đỏ. Lần này Bradley lại phải nhận cuộc gọi.”

    “Tôi có thể xem qua hồ sơ không?”

    Anh ta cắn một miếng. “Hứn vữn cùn sún...”

    “Hẳn là đúng rồi, tôi chắc thế. Và bằng tiếng Anh là gì?”

    Vince nuốt. “Tôi nói là hắn vẫn còn sống khi chân bị cắt rời ra.”

    “Con người ta thật kiên cường, phải không nào?”

    Vince nhét cái bánh vào mồm và cầm hồ sơ lên, đưa cho tôi, cùng lúc cắn một miếng bánh lớn. Tôi cầm lấy hồ sơ.

    “Tôi cần phải đi,” tôi nói. “Trước khi cậu cố nói tiếp gì đó.”

    Anh ta nhả cái bánh quế khỏi miệng. “Quá muộn rồi,” anh ta nói.

    Tôi chậm rãi quay về góc riêng nho nhỏ của mình, liếc nhìn nội dung của hồ sơ. Gervasio César Martez đã tìm ra thi thể. Lời khai của anh ta nằm ở trên cùng của hồ sơ. Anh ta là một nhân viên bảo vệ làm hợp đồng cho Sago Security Systems. Anh ta đã làm việc cho công ty này được mười bốn tháng và không có tiền án tiền sự. Martez đã tìm thấy thi thể vào khoảng mười giờ mười bảy phút tối và lập tức tiến hành tìm kiếm nhanh quanh hiện trường trước khi gọi cảnh sát. Anh ta muốn tóm gã khốn đã gây ra chuyện này vì không ai được phép làm những việc như thế và bọn chúng lại làm điều đó khi anh ta, Gervasio, đang làm nhiệm vụ. Cứ như thể bọn chúng đã làm chuyện đó với anh ta vậy, các vị hiểu chứ? Vậy là anh ta muốn tự mình tóm cổ con quái vật. Nhưng đã không thể. Không có dấu hiệu nào của kẻ gây án, ở bất cứ chỗ nào, vậy là anh ta gọi cảnh sát.

    Anh chàng khốn khổ đã coi đó là trách nhiệm của mình. Tôi chia sẻ sự phẫn nộ của anh ta. Những hành động tàn bạo như thế không thể được chấp nhận. Tất nhiên, tôi cũng lấy làm biết ơn vì ý thức danh dự của anh ta đã cho tôi thời gian để rút lui. Vậy đấy, tôi vẫn luôn nghĩ đạo đức thật vô nghĩa.

    Tôi rẽ về phía căn phòng bé nhỏ tối tăm của mình và bắt gặp thám tử LaGuerta ngay trước mặt. “Ái chà,” cô ta nói, “trông anh không được khá lắm.” Nhưng người chẳng hề nhúc nhích.

    “Tôi không phải là người sớm sủa,” tôi đáp lại. “Nhịp sinh học của tôi chưa khởi động cho tới tận trưa.”

    Cô ta ngước mắt nhìn tôi ở khoảng cách một inch 2. “Với tôi trông chúng có vẻ được lắm,” cô ta giễu.

    Tôi lách qua LaGuerta để tới bàn làm việc của mình. “Tôi có thể đóng góp phần nhỏ mọn nào cho công lý cao cả vào sáng nay đây?” Tôi hỏi.

    Cô ta nhìn tôi chằm chằm. “Anh có một lời nhắn,” cô ta nói. “Trên hộp thư thoại của mình.”

    Tôi nhìn sang chiếc máy trả lời tự động. Hẳn rồi, đèn báo đang nhấp nháy. Cô nàng này đúng là một thám tử.

    “Là một cô gái nào đó,” LaGuerta nói. “Nghe giọng cô ta có vẻ ngái ngủ và hạnh phúc. Anh có bạn gái sao, Dexter?” Có chút âm hưởng thách thức lạ lùng trong giọng nói của cô ta.

    “Cô biết chuyện này là thế nào mà,” tôi nói. “Phụ nữ thời nay rất thẳng thắn và khi người ta đẹp trai như tôi, chắc chắn họ sẽ lao mình vào đầu tôi.” Có lẽ là một cách lựa chọn từ ngữ chẳng hay ho gì. Khi nói ra, tôi không thể không nghĩ tới cái đầu phụ nữ đã bị ném vào tôi cách đây chưa lâu.

    “Cẩn thận đấy,” LaGuerta nói. “Sớm muộn gì một trong số họ sẽ bám dính lấy anh đấy.” Tôi không rõ cô ta có ý ám chỉ điều gì, nhưng đó quả là một hình ảnh thật bất an.

    “Tôi chắc là cô đúng,” tôi đáp lại. “Cho tới lúc đó, carpe diem 3.”

    “Đó là tiếng Latin,” tôi trả lời. “Có nghĩa là phàn nàn vào ban ngày.”

    “Anh đã tìm hiểu được gì về vụ tối qua?” cô ta đột ngột hỏi.

    Tôi giơ cặp hồ sơ lên. “Tôi vừa xem qua nó,” tôi trả lời.

    “Không phải là một,” cô ta nói, cau mày. “Cho dù đám phóng viên thối tha có nói gì đi nữa. McHale có tội. Hắn đã thú tội. Vụ này không cùng thủ phạm.”

    “Tôi đoán có vẻ như là một trùng hợp ngẫu nhiên,” tôi nói. “Hai gã sát nhân tàn bạo vào cùng thời điểm.”

    LaGuerta nhún vai. “Đây là Miami, bọn họ nghĩ gì nữa không biết? Đây là nơi những gã như thế đến nghỉ. Có vô số những kẻ xấu xa ngoài kia. Tôi không thể bắt hết chúng được.”

    Nói một cách chân thành, cô ta chẳng thể bắt được gã nào trong chúng trừ khi chúng lao ra khỏi một tòa nhà và chui thẳng vào băng ghế trước chiếc xe của cô ta, nhưng lúc này, có lẽ không phải là thời điểm thích hợp để nói những chuyện như vậy. LaGuerta bước lại gần hơn, dùng một cái móng tay đỏ thẫm gõ lên cặp hồ sơ. “Tôi cần anh tìm ra thứ gì đó ở đây, Dexter. Để chứng tỏ không phải cùng một thủ phạm.”

    Một tia sáng lóe lên. Cô ta đang phải chịu một áp lực chẳng thích thú gì, có thể là từ đại úy Matthews, một người luôn tin vào những gì đọc được trên báo chừng nào bọn họ viết đúng tên họ của ông ta. Cô ta cần chút vốn liếng để phản kích. “Tất nhiên là không phải cùng thủ phạm,” tôi nói. “Nhưng tại sao lại tìm đến tôi?”

    LaGuerta nhìn tôi chằm chằm trong giây lát với đôi mắt khép hờ, một hiệu ứng thật đáng tò mò. Tôi nghĩ mình đã từng thấy cái nhìn chăm chú như thế trong những bộ phim Rita rủ tôi đi xem, nhưng vì lý do quỷ quái nào mà thám tử LaGuerta lại chĩa cái nhìn ấy sang tôi thì thật khó lý giải. “Tôi đã cho anh tham gia buổi họp sau bảy mươi hai giờ,” cô ta nói. “Cho dù Doakes muốn bóp chết anh, tôi đã để anh ở lại.”

    “Cảm ơn rất nhiều.”

    “Bởi vì đôi lúc anh có một dự cảm cho những thứ này. Những kẻ giết người hàng loạt. Đó là điều mọi người đều nói. Dexter đôi khi lại có một dự cảm.”

    “Ồ, thật thế sao,” tôi nói, “chỉ là một hai lần phán đoán may mắn thôi mà.”

    “Và tôi cần một người ở phòng thí nghiệm có thể tìm ra thứ gì đó.”

    “Vậy tại sao cô không hỏi Vince?”

    “Anh ta không hay ho tới mức đó,” cô ta nói. “Anh đã tìm ra thứ gì đó.”

    Cô ta vẫn ở gần đến mức bức bối, gần tới mức tôi có thể ngửi thấy mùi dầu gội đầu của cô ta. “Tôi sẽ tìm ra thứ gì đó,” tôi nói.

    LaGuerta hất hàm về phía máy trả lời tự động. “Anh sẽ gọi lại cho cô ta chứ? Anh sẽ không có thời gian đuổi theo các ả mèo cái đâu.”

    Cô ta vẫn chưa lùi lại, tôi phải mất một lúc để hiểu ra cô ta đang nói về lời nhắn trên máy của tôi. Tôi dành cho cô ta nụ cười xã giao tuyệt hảo nhất của mình. “Tôi nghĩ họ đang đuổi theo tôi, thám tử.”

    “À. Anh nói có vẻ đúng đấy.” Cô ta nhìn tôi hồi lâu, rồi quay gót và đi ra.

    Tôi không biết tại sao, nhưng tôi quan sát cô ta đi ra. Tôi thực sự không thể nghĩ ra điều gì khác để làm. Ngay trước khi quặt vào góc và biến mất khỏi tầm nhìn, cô ta vuốt phẳng váy quanh hông và quay lại nhìn tôi. Sau đó cô ta biến mất, trở lại với những bí ẩn mơ hồ của những thủ đoạn tranh đấu tại Ban Án mạng.

    Còn tôi? Anh chàng Dexter tội nghiệp đang ngơ ngẩn? Tôi còn có thể làm gì đây? Tôi ngồi phịch xuống chiếc ghế trong phòng làm việc của mình và bấm nút khởi động trên máy trả lời tự động. “Chào, Dexter. Em đây.” Tất nhiên rồi. Và cho dù có lạ kỳ đến thế nào đi nữa, giọng nói chầm chậm, hơi cọt kẹt nghe như “tôi” kia chính là Rita. “Ừm… em đang nghĩ về tối qua. Gọi cho em nhé, quý ông.” Đúng như LaGuerta để ý, nghe cô có vẻ mệt mỏi và hạnh phúc. Có vẻ như giờ đây tôi đã có một cô bạn gái thực sự.

    Sự điên rồ sẽ còn đi tới đâu nữa đây?

    --------------------------------
    1 Nơi kết nối giữa hai tế bào thần kinh để tín hiệu thần kinh được truyền đi.
    2 1 inch = 2,54 cm.
    3 Hãy cứ sống với ngày hôm nay (tiếng Latinh).
    “Cái gì?”


  8. #17
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 18

    Trong suốt một hồi sau đó, tôi chỉ ngồi ngẫm nghĩ về những điều trớ trêu tàn nhẫn của cuộc đời. Sau bấy nhiêu năm cô độc tự trông cậy vào bản ân, đột nhiên tôi lại bị những cô nàng đang bừng bừng ham muốn eo đuổi từ mọi hướng. Deb, Rita, LaGuerta - tất cả họ có vẻ đều không ể tồn tại mà không có tôi. Ấy ế nhưng người duy nhất tôi muốn cùng trải qua một quãng ời gian ật giá trị lại cứ lẩn như trạch, để lại con búp bê Barbie trong tủ lạnh của tôi. Ở đây có gì có ể gọi là công bằng không?

    Tôi đút tay vào túi có khóa kéo, cảm nhận ấy phiến kính nho nhỏ, nằm yên vị và an toàn trong đó. Trong giây lát, nó giúp tôi cảm ấy dễ chịu hơn đôi chút. Ít nhất tôi cũng đang làm gì đó. Nói cho cùng, yêu cầu duy nhất của cuộc sống là cần phải có mối quan tâm, điều chắc chắn tôi đang có vào lúc này. “Mối quan tâm” không bắt đầu bằng việc mô tả nó. Tôi sẵn sàng đánh đổi một năm của cuộc đời mình để tìm ra được nhiều hơn những kẻ vô hình đang bỡn cợt tôi một cách không ương tiếc với những tác phẩm ật anh lịch. Kỳ ực tôi đã gần như đánh đổi còn nhiều hơn cả một năm đời mình sau cuộc phiêu lưu nho nhỏ với anh chàng Jaworski bé nhỏ.

    Phải, những chuyện này ực sự đáng quan tâm. Chẳng lẽ người ta đang ực sự nói ở sở rằng tôi có một linh cảm đặc biệt với những vụ giết người hàng loạt sao? Chuyện này ật phiền toái. Nó có nghĩa là toàn bộ màn ngụy trang cẩn ận của tôi rất có ể đang cận kề nguy cơ bị xé bung ra từng mảnh. Tôi đã tỏ ra quá xuất chúng trong quá nhiều trường hợp. Việc đó có ể trở ành một rắc rối. Nhưng tôi có ể làm gì đây? Tỏ ra ngu ngốc một ời gian chăng? Tôi không dám chắc mình biết cách làm như thế nào, ậm chí ngay cả sau bao nhiêu năm cẩn ận quan sát.

    A, được ôi. Tôi mở tập hồ sơ về vụ Jaworski, anh chàng tội nghiệp. Sau một giờ nghiên cứu, tôi đi tới hai kết luận. ứ nhất, phần quan trọng nhất, tôi sẽ oát được khỏi vụ này, bất chấp sự bột phát không ể a ứ được khi ực hiện nó. Và ứ hai, có ể có một cách để Deb am gia vào vụ này. Nếu cô em tôi có ể chứng minh đây là tác phẩm từ nghệ sĩ độc nhất vô nhị của chúng tôi, trong khi LaGuerta bám lấy giả iết về một kẻ giết người do bắt chước, Deb sẽ có ể đột nhiên từ một người bọn họ không tin tưởng ậm chí để pha cà phê cho họ, trở ành ngôi sao của áng. Tất nhiên, kỳ ực đây không phải là tác phẩm của cùng một gã, nhưng cứ băn khoăn như vậy xem ra có phần quá kén cá chọn canh vào ời điểm này. Vì tôi biết chắc chắn, chẳng bao lâu nữa sẽ có êm những i ể mới được tìm ra, chuyện này cũng chẳng đáng để lo lắng.

    Tất nhiên, lúc này tôi cũng cần cung cấp cho cô nàng ám tử LaGuerta phiền toái đủ dây ừng để cô ta tự treo cổ mình lên. eo tôi nghĩ, chuyện này cũng có ể xoay xở được ở một mức độ cá nhân hơn. Bị dồn vào chân tường và làm cho giống một ả ngốc, LaGuerta đương nhiên sẽ cố trút trách nhiệm xuống đầu gã nhân viên phòng í nghiệm dốt nát đã cung cấp cho cô ta những kết luận sai lầm - anh chàng Dexter đần độn gà mờ. Danh tiếng của tôi sẽ rớt xuống cỡ ảm hại. Tất nhiên, chuyện này chẳng ể nguy hại đến công việc của tôi, vì tôi được trông đợi làm chuyên gia phân tích vết máu chứ không phải làm nhiệm vụ xác lập đặc điểm gây án của ủ phạm. Vì ế nó sẽ giúp LaGuerta hiện rõ mồn một là kẻ bất tài đúng như bản chất của cô ta và nâng cao êm uy tín của Deborah.

    ật đáng yêu khi sự đời gọn ghẽ như ế. Tôi gọi điện cho Deborah.

    Vào lúc một rưỡi ngày hôm sau, tôi gặp Deb tại một nhà hàng nhỏ nằm cách sân bay vài khối nhà về phía bắc. Nơi này nằm trong một khu siêu ị nhỏ, kẹp giữa một cửa hàng bán phụ tùng xe hơi và một tiệm bán súng. Đó là một chỗ cả hai chúng tôi đều biết rõ, nằm không xa trụ sở cảnh sát quận Miami - Dade, tại nơi này người ta bán những chiếc sandwich kiểu Cuba ngon nhất trên đời. Chuyện này nghe có vẻ nhỏ nhặt, nhưng tôi cam đoan với các vị có những khi chỉ một cái medianoche 1 mới ỏa mãn được yêu cầu và những lúc như vậy, Café Relampago là nơi duy nhất để tìm được một cái bánh như ế. Gia đình Morgan đã tới chỗ này từ năm 1974.

    kẹp ịt lợn nướng, ịt muối, pho mát…

    Tôi ực sự cảm ấy tia sáng vừa lóe lên trong đầu mình ật là một dịp phù hợp - nếu không phải ực sự là một lễ ăn mừng, ì ít nhất cũng là dịp ghi nhận mọi sự đang có vẻ sáng sủa lên, cho dù chỉ chút ít. Có lẽ tôi chỉ cảm ấy vui vẻ vì đã xả hơi được ít nhiều cùng anh bạn đáng mến Jaworski, nhưng dù ế nào đi nữa tôi ực sự ấy cực kì khoan khoái. ậm chí tôi còn gọi loại batido de mamé, một món sữa lắc ướp hương liệu độc nhất vô nhị của Cuba, có vị giống như sự kết hợp của dưa hấu, đào và xoài.

    Deb, tất nhiên, không ể chia sẻ được tâm trạng không bình ường của tôi. Trông cô như ể đang ngắm nghía những nét biểu cảm trên mặt một con cá to xù, khắc khổ và ủ rũ đến cùng cực.

    “Làm ơn đi nào, Deborah,” tôi nài nỉ, “nếu em không ôi đi, khuôn mặt em sẽ mãi mãi bị đổ khuôn như ế đấy. Người ta sẽ tưởng em là một con cá mú.”

    “Chắc chắn là người ta sẽ chẳng coi em là cớm rồi,” cô nói. “Vì em quả ực đâu còn là ế nữa.”

    “Vớ vẩn,” tôi nói. “Không phải anh đã hứa rồi sao?”

    “Phải. Anh cũng hứa rằng chuyện này sẽ suôn sẻ. Nhưng anh chẳng nói gì về cái nhìn em nhận được từ đại úy Matews.”

    “Ôi, Deb,” tôi nói. “Ông ta nhìn em sao? Anh lấy làm tiếc.”

    “Quỷ a ma bắt anh đi, Dexter. Anh chẳng có mặt ở đó, cũng không phải đời anh đang trôi tuồn tuột xuống cống.”

    “Anh đã nói với em là sẽ có một quãng ời gian khó khăn, Deb.”

    “À, ít nhất anh cũng đúng về chuyện đó. eo Matews, em gần như đã cận kề chuyện bị treo phù hiệu rồi.”

    “Nhưng ông ta cũng cho phép em dùng ời gian rảnh để ngó ngàng nhiều hơn tới vụ này đúng không?”

    Cô em tôi bĩu môi. “Ông ta nói, ‘Tôi không ể ngăn cản cô, Morgan. Nhưng tôi rất ất vọng. Và tôi tự hỏi không rõ bố cô sẽ nói gì’.”

    “Và có phải em đã nói, ‘Bố tôi sẽ không bao giờ khép cuộc điều tra lại với một kẻ bị bắt nhầm ngồi nhà đá?’ phải không?”

    Trông cô em tôi có vẻ ngạc nhiên. “Không,” cô nói. “Nhưng em đã nghĩ ế. Sao anh biết được?”

    “Nhưng em không thực sự nói ra như ế đúng không nào, Deborah?”

    “Không,” cô nói.

    Tôi đẩy một chiếc ly về phía cô. “Hãy uống chút mamé đi, em gái. Mọi việc đang sáng sủa dần lên.”

    Cô nhìn tôi. “Anh dám chắc sẽ không đẩy em vào rắc rối đấy chứ?”

    “Không bao giờ, Deb. Sao anh có ể chứ?”

    “ật nhẹ nhõm làm sao.”

    “ật đấy, em gái. Em cần tin anh.”

    Deb nhìn vào mắt tôi một lát rồi cúi gằm xuống. Cô vẫn chưa động tới ly sữa lắc của mình, ật đáng tiếc. Món đồ uống này ật ngon. “Em tin anh. Nhưng em xin ề có Chúa, em không rõ tại sao.” Cô ngước mắt lên nhìn tôi, một cảm xúc lạ lùng chập chờn trên khuôn mặt. “Đôi lúc em không ực sự nghĩ mình nên tin anh, Dexter.”

    Tôi dành cho cô nụ cười trấn an uyết phục nhất có ể của một ông anh trai. “Trong vòng hai ba ngày tới, sẽ có một điều mới mẻ diễn ra. Anh xin hứa.”

    “Anh không ể biết điều đó được,” cô nói.

    “Anh biết không ể, Deb. Nhưng anh biết. ực sự là ế.”

    “Vậy tại sao nghe anh có vẻ phấn khởi vì nó đến ế?”

    Tôi muốn nói ra bởi vì ý tưởng này làm tôi vui vẻ. Ý tưởng được thấy nhiều hơn những kỳ quan sạch sẽ không vết máu làm tôi ích ú hơn bất kỳ điều gì khác tôi có ể nghĩ tới. Nhưng tất nhiên, đây không phải là một điều Deb có ể ực sự chia sẻ cùng tôi, vậy nên tôi giữ lại nó cho riêng mình. “Tự nhiên ôi, anh chỉ phấn khởi vì em.”

    Cô bĩu môi. “Phải rồi, em quên mất,” cô nói. Nhưng ít nhất cô cũng ử một ngụm món sữa lắc của mình.

    “Nghe này,” tôi nói, “hoặc là LaGuerta đúng....”

    “Có nghĩa là em coi như chết toi và bị giẫm nát bét rồi.”

    “Hoặc là LaGuerta sai và em còn sống, nguyên vẹn. Vẫn nghe anh nói chứ, em gái?”

    “Ừm,” cô nói, quá cộc cằn nếu so với chuyện tôi đã tỏ ra kiên nhẫn đến ế nào.

    “Nếu em là một tay cá cược, em có đặt cược vào khả năng LaGuerta đúng không? Về bất cứ cái gì?”

    “Có lẽ là về ời trang,” cô em tôi nói. “Cô ta ực sự ăn mặc rất đẹp.”

    Những chiếc sandwich được mang đến. Người phục vụ, chẳng nói chẳng rằng, ô lỗ ném chúng xuống giữa bàn và quay trở về sau quầy. Dẫu vậy, đó vẫn là những cái sandwich ật ngon. Tôi không biết điều gì làm chúng ngon hơn tất cả những chiếc medianoche khác trong ành phố, nhưng kỳ ực đúng là vậy, bánh mì giòn tan bên ngoài, mềm bên trong, vừa đúng tỷ lệ cân đối giữa ịt lợn và dưa chuột muối, pho mát chảy ra hoàn hảo - một kiệt tác ực sự. Tôi cắn một miếng to. Deborah mân mê ống hút trong ly sữa lắc của cô.

    Tôi nuốt miếng bánh. “Deb, nếu những lý luận nặng mùi chết chóc của anh chẳng làm em vui lên được và một chiếc sandwich của Relampago cũng không ể làm em phấn chấn hơn, ì đúng là quá muộn rồi. Em đã chết.”

    Deborah nhìn tôi với bộ mặt cá mú rồi cắn một miếng vào chiếc sandwich của mình. “Ngon lắm,” cô nói không chút cảm xúc. “ấy em phấn khởi lên chưa?”

    Cô bé tội nghiệp vẫn chưa bị uyết phục, một cú giáng khủng khiếp vào cái tôi của tôi. Nhưng nói cho cùng, tôi đã ết đãi cô tại một nơi ưa ích truyền ống của gia đình Morgan. Tôi đã mang tới cho cô những ông tin tuyệt vời, cho dù cô không nhận ra điều đó. Nếu tất cả những việc này trên ực tế không làm cô mỉm cười - à phải, ực sự. Không ể trông đợi tôi làm hết mọi ứ.

    Dẫu vậy, còn một điều nho nhỏ nữa tôi có ể làm, đó là mớm mồi cho cả LaGuerta nữa - một ứ không khoái khẩu như những chiếc sandwich của nhà hàng Relampago, cho dù cũng đầy hương vị theo phong cách riêng của nó.

    Vậy là chiều hôm đó tôi đến gặp cô ám tử đáng mến tại nơi làm việc của cô ta, một góc nhỏ đẹp đẽ tại một căn phòng lớn chứa sáu góc nhỏ nữa như ế. Góc làm việc của cô ta, tất nhiên rồi, là nơi anh lịch nhất, với vài bức hình rất bắt mắt của cô ta chụp cùng các nhân vật tiếng tăm treo trên vách ngăn. Tôi nhận ra Gloria Estefan, Madonna và Jorge Mas Canosa. Trên mặt bàn làm việc, ở bên kia một tấm kê màu xanh ngọc có khung viền da là giá cắm bút lịch làm bằng mã não xanh lục, ở giữa có một chiếc đồng hồ bằng ạch anh.

    LaGuerta đang cầm điện oại, nói bằng tiếng Tây Ban Nha nhanh như súng liên anh khi tôi bước vào. Cô ta đưa mắt lên nhìn về phía tôi nhưng không trông ấy tôi, rồi lại nhìn đi chỗ khác. Nhưng chỉ một giây sau, đôi mắt cô ta đã quay trở lại. Lần này, cô ta nhìn tôi chăm chú, cau mày và nói. “Okay - okay. Ta luo,” trong tiếng Cuba có nghĩa là hasta luego 2. Cô ta dập máy và tiếp tục nhìn tôi.

    “Anh có gì cho tôi rồi?” cuối cùng cô ta nói.

    “Tin vui,” tôi nói với cô ta.

    “Nếu có nghĩa là tin tốt, tôi sẵn lòng nghe.”

    Tôi dùng chân khều một cái ghế gấp, lôi nó vào góc làm việc của cô ta. “Không còn gì để nghi ngờ nữa,” tôi nói, trong lúc ngồi xuống cái ghế gấp, “cô đã tống được đúng người vào nhà đá. Vụ án mạng ở Old Cutler do một kẻ khác gây ra.”

    Cô ta chỉ nhìn tôi một lát. Tôi tự hỏi liệu có phải cô ta cần nhiều thời gian đến ế để xử lý dữ liệu và trả lời. “Anh có ể chứng minh được điều đó chứ?” Cuối cùng cô ta hỏi tôi. “Một cách chắc chắn?”

    Tất nhiên tôi có ể chứng minh một cách chắc chắn, nhưng tôi sẽ không làm vậy, cho dù ú tội có tốt cho linh hồn đến đâu đi chăng nữa. ay vào đó, tôi ném cặp tài liệu xuống bàn làm việc của cô ta. “Các dữ kiện tự nói lên tất cả,” tôi nói. “Không còn câu hỏi nào ở đây nữa.” Và tất nhiên, chẳng còn câu hỏi nào hết, chỉ mình tôi biết rõ điều đó. “Nhìn xem...” tôi nói với cô ta và lấy ra một tờ tổng kết những điểm so sánh được lựa chọn cẩn ận mà tôi đã đánh máy ra. “ứ nhất, nạn nhân này là nam giới. Tất cả các nạn nhân khác đều là phụ nữ. Nạn nhân này được tìm ấy ở khu Old Cutler. Tất cả các nạn nhân của McHale đều được tìm ấy ở khu vực Tamiami Trail. Nạn nhân này vẫn còn tương đối nguyên vẹn khi được tìm ấy, ở ngay tại nơi anh ta bị giết. Các nạn nhân của McHale đều hoàn toàn bị chặt nhỏ và đưa tới một địa điểm khác để phi tang.”

    Tôi tiếp tục, còn cô ta chăm chú lắng nghe. Bản danh sách được lập ra rất ấn tượng. Tôi đã mất vài giờ để đi tới những điểm so sánh ngu ngốc hiển nhiên nhất, lố bịch một cách rõ ràng nhất, tôi cần phải nói mình đã làm được một công việc rất xuất sắc. LaGuerta cũng làm phần của cô ta tuyệt vời chẳng kém. Cô ta đón nhận toàn bộ. Tất nhiên rồi, cô ta đang lắng nghe những gì muốn nghe.

    “Tóm lại,” tôi nói, “vụ án mạng mới mang dấu hiệu giết người xuất phát từ động cơ trả ù, nhiều khả năng liên quan tới ma túy. Gã đang bị giam ực hiện những vụ giết người khác, chắc chắn một trăm phần trăm chúng đã chấm dứt hoàn toàn và mãi mãi. Không bao giờ tái diễn nữa. Khép lại hồ sơ.” Tôi ném tập tài liệu xuống bàn và đưa tờ danh sách của mình ra.

    Cô ta cầm lấy tờ giấy từ tay tôi, nhìn vào nó một hồi lâu rồi cau mày, đôi mắt lướt lên lướt xuống tờ giấy vài lần, một bên mép môi dưới hơi nhếch lên. Sau đó cô ta cẩn ận để nó xuống bàn, dưới một chiếc dập ghim nặng màu xanh ngọc.

    “Được rồi,” cô ta nói, chỉnh lại chiếc dập ghim để nó ẳng góc với rìa tấm kê. “Được. Tốt lắm. ứ này có ể có ích.” Cô ta nhìn tôi, nếp cau mày đầy tập trung vẫn còn giữ nguyên, rồi đột nhiên mỉm cười. “Tốt. Cảm ơn anh, Dexter.”

    Đó là một nụ cười chân ành và bất ngờ tới mức nếu có một tâm hồn hẳn tôi phải cảm ấy khá tội lỗi.

    Cô ta đứng dậy, vẫn mỉm cười, trước khi tôi kịp rút lui, cô ta quàng hai cánh tay quanh cổ tôi để ôm lấy. “Tôi ực sự đánh giá cao chuyện này,” cô ta nói. “Anh làm tôi cảm ấy... rất biết ơn.” Cô ta cọ cơ ể mình vào người tôi eo một cách chỉ có ể gọi là khêu gợi. Tất nhiên ở đây không ể có chuyện, ý tôi là, ở đây cô ta là một người bảo vệ trật tự cộng đồng, ấy vậy mà ngay ở chốn công cộng này, ậm chí ngay cả trong không gian riêng tư dưới hầm một ngân hàng, hẳn tôi cũng hoàn toàn chẳng có hứng ú gì với việc được cơ ể cô ta cọ xát vào. Chưa kể tới chuyện tôi vừa cung cấp cho cô ta một sợi dây ừng với hy vọng cô ta sẽ dùng nó để tự treo cổ mình lên, một sự kiện xem chừng khó lòng có ể coi là loại được tán ưởng bởi... A, thực vậy, chẳng lẽ cả ế giới hóa điên rồi sao? Có chuyện gì với nhân loại vậy? Không lẽ đó là tất cả những gì bất cứ ai trong bọn họ từng nghĩ tới?

    Cảm ấy một ứ rất gần với hoảng loạn, tôi cố gỡ mình oát ra. “Làm ơn nào, ám tử...”

    “Gọi tôi là Migdia,” cô ta nói, ôm chặt lấy tôi và cọ xát còn mạnh hơn. Cô ta đưa một bàn tay xuống chà lên trước quần khiến tôi nhảy dựng lên. Về phần tích cực, hành động này cho phép tôi tách rời khỏi cô nàng ám tử đang hứng tình. Về mặt tiêu cực, cô ta lảo đảo ngã nghiêng người, đập hông vào bàn làm việc, vấp phải cái ghế của chính cô ta và hạ cánh xuống sàn nhà trong tư ế nằm ườn ra.

    “Tôi, à, ực sự tôi cần quay lại làm việc,” tôi lắp bắp. “Có một việc quan trọng, à...” Tuy vậy, tôi không ể nghĩ tới điều gì quan trọng hơn chạy trốn để toàn mạng, vậy là tôi lùi dần ra ngoài, để cô ta lại nhìn eo tôi.

    Tất nhiên, đó không phải là một cái nhìn vô cùng trìu mến.

    --------------------------------
    1 Tên một loại sandwich có nguồn gốc từ Cuba và Puerto Rico, gồm bánh mì trứng.
    2 Hẹn gặp lại (tiếng Tây Ban Nha).

  9. #18
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 19

    Tôi bừng tỉnh khi đứng trước bồn rửa đang mở nước chảy ào ào. Tôi đã có một khoảnh khắc kinh hoàng tột độ, với cảm giác hoàn toàn mất phương hướng, tim đập thình thịch trong lúc đôi mí mắt chớp liên hồi cố thức tỉnh. Nơi này không đúng. Cái bồn rửa nom không đúng. Thậm chí tôi còn chẳng rõ mình là ai, trong giấc mơ của mình tôi đang đứng trước bồn rửa ở nhà với vòi nước để mở, nhưng không phải là cái bồn rửa này. Tôi đã rửa tay, xoa xà phòng thật mạnh, rửa sạch làn da khỏi mọi dấu vết li ti nhất của thứ máu đỏ khủng khiếp, rửa trôi chúng đi bằng nước nóng đến mức làn da đỏ ửng, sạch sẽ và vô trùng. Sức nóng của nước càng bỏng rát hơn sau cái mát dịu của căn phòng tôi để lại sau lưng mình; căn phòng giải trí, căn phòng giết chóc, căn phòng của những nhát cắt khô ráo, cẩn thận.

    Tôi tắt nước, đứng đó một lát, run rẩy tựa người vào cái bồn rửa mát lạnh. Tất cả đều quá thực, quá ít giống với bất cứ thứ giấc mơ nào tôi từng biết đến. Tôi nhớ rất rõ ràng căn phòng đó. Chỉ cần nhắm mắt lại là tôi nhìn thấy nó.

    Tôi đứng phía trên người phụ nữ, quan sát miệng cô ta vùng vẫy cựa quậy dưới những dải băng dính đang trói chặt, quan sát nỗi kinh hoàng sống động lớn dần lên trong đôi mắt đờ dại, chứng kiến nó bừng nở thành nỗi tuyệt vọng, tôi cảm thấy cơn phấn khích thần kỳ dâng trào trong người, lan nhanh xuống cánh tay tới con dao. Tôi vung dao lên để bắt đầu...

    Nhưng đây không phải là sự khởi đầu. Bởi vì dưới bàn còn một người nữa, đã khô ráo và được gói ghém tinh tươm. Trong góc xa có một người nữa, đang đợi đến lượt cô ta với nỗi kinh hoàng tăm tối không hề giống bất cứ thứ gì tôi từng thấy trước đây, cho dù theo cách nào đó nó có vẻ quen thuộc và cần thiết, sự giải thoát khỏi tất cả những khả năng khác trọn vẹn tới mức nó tẩy rửa tôi bằng một thứ năng lượng sạch sẽ, tinh khiết khiến người ta mê đắm hơn cả...

    Ba.

    Lần này có tất cả ba người.

    Tôi mở mắt ra. Trong gương chính là tôi. Xin chào, Dexter. Lại mơ sao, anh bạn già? Thú vị, phải không nào? Ba người, vậy ư? Nhưng chỉ là một giấc mơ. Không hơn. Tôi mỉm cười với mình, kéo thử các múi cơ mặt, hoàn toàn không bị thuyết phục. Cho dù giấc mơ có thích thú đến thế nào đi nữa, giờ tôi cũng đã thức dậy và chẳng còn gì ngoài chút dư vị khó chịu và hai bàn tay ướt sượt.

    Điều đáng ra phải là một màn giải lao thú vị trong phần vô thức lại khiến tôi run rẩy, bất an. Tôi chìm trong nỗi kinh hoàng với ý nghĩ tâm trí mình đã chuồn mất, bỏ mặc tôi ở lại để trả giá. Tôi nghĩ tới tới ba cô nàng gái gọi đã được trói lại cẩn thận và muốn quay lại với họ để tiếp tục. Tôi nghĩ tới Harry và biết mình không thể làm thế. Tôi đã bị giằng xé giữa một ký ức và một giấc mơ, hơn thế nữa tôi không thể nói trong đó thứ nào hấp dẫn hơn.

    Chuyện này chỉ đơn giản là chẳng còn chút vui vẻ nào nữa. Tôi muốn lấy lại bộ óc tỉnh táo của mình.

    Tôi lau khô tay và quay lại giường, nhưng tối nay chẳng còn thêm một khoảnh khắc được ngủ ngon nào nữa cho anh chàng Dexter bị giày vò thảm hại. Tôi chỉ nằm ngửa quan sát những mảng tối đen lướt đi trên trần nhà cho tới khi điện thoại đổ chuông vào lúc sáu giờ kém mười lăm.

    “Anh nói đúng,” Deb nói khi tôi nhấc máy.

    “Quả là một cảm giác tuyệt vời,” tôi nói với một nỗ lực tột độ để vào vai cái tôi xuất sắc thường ngày của mình. “Đúng về chuyện gì?”

    “Về tất cả,” Deb nói với tôi. “Em đang có mặt tại một hiện trường vụ án ở Tamiami Trail. Và anh thử đoán xem nào?”

    “Anh đúng ư?”

    “Là hắn, Dexter. Chắc chắn là thế. Trông còn be bét hơn rất nhiều.”

    “Be bét hơn là thế nào, Deb?” Tôi hỏi, thầm nghĩ ba thi thể, hy vọng cô em tôi sẽ không nói vậy, đồng thời gai người với cảm giác chắc chắn cô sẽ nói thế.

    “Có vẻ có nhiều nạn nhân,” cô em tôi nói.

    Một cơn choáng váng lan khắp người, chạy ngược lên thẳng từ dạ dày, như thể tôi vừa nuốt chửng cả một bộ ắc quy. Nhưng tôi đã nỗ lực hết mức để có một câu trả lời đúng với phong cách thông minh điển hình của mình. “Tuyệt quá, Deb. Em nói hệt như trong một bản báo cáo án mạng vậy.”

    “Vâng, đúng thế. Em bắt đầu cảm thấy một ngày nào đó mình có thể sẽ viết một báo cáo như thế. Em chỉ lấy làm mừng đó không phải là vụ này. Nó quá quái đản. LaGuerta không biết phải nghĩ gì nữa.”

    “Hay thậm chí nên nghĩ như thế nào. Có gì quái đản với nó vậy, Deb?”

    “Em phải đi đây,” cô em tôi đột ngột nói. “Hãy tới đây, Dexter. Anh cần phải nhìn cảnh này.”

    Khi tôi tới đó, đám đông đã xúm xít lại đông tới ba hàng quanh dây chắn, phần lớn là phóng viên. Lách qua một đám đông phóng viên đang ngửi thấy mùi máu trong mũi luôn là chuyện cực kỳ vất vả. Các vị có thể không nghĩ thế, vì trước máy quay trông họ chẳng khác gì những gã ngớ ngẩn bị tổn thương nào kèm theo chứng rối loạn ăn uống trầm trọng. Nhưng cứ thử đặt bọn họ trước một hàng dây chắn của cảnh sát, một điều kỳ diệu lập tức xảy ra. Bọn họ trở nên mạnh mẽ, hung hãn, sẵn sàng và có thể hất văng bất cứ cái gì, bất cứ ai khỏi đường đi rồi giẫm đạp những kẻ đó dưới chân họ. Điều này cũng hơi giống các câu chuyện về những bà mẹ già nhấc bổng xe tải lên khi con của họ bị mắc kẹt bên dưới. Sức mạnh đến từ một nơi huyền bí nào đó - và bằng cách nào đó, khi có máu xuất hiện trên mặt đất, những sinh vật biếng ăn này có thể vượt qua bất cứ thứ gì. Mà không hề làm tóc bị rối.

    Thật may, một trong những cảnh sát mặc đồng phục đứng ở gác chắn nhận ra tôi. “Để cậu ta đi qua nào, các vị,” anh ta nói với đám phóng viên. “Để cậu ta đi qua.”

    “Cảm ơn, Julio,” tôi nói với anh chàng cớm. “Dường như mỗi năm lại có nhiều phóng viên hơn.”

    Anh ta bĩu môi. “Chắc hẳn ai đó đang nhân bản bọn họ. Với tôi trông tất cả giống hệt như nhau.”

    Tôi cúi người chui qua dải dây vàng, khi vươn thẳng người dậy ở phía bên kia, tôi có cảm giác lạ lùng như thể ai đó đang làm thay đổi hàm lượng oxy trong không khí ở Miami. Tôi đang đứng giữa một đống ngổn ngang bẩn thỉu của một công trường xây dựng. Có vẻ như ở đây người ta đang xây một tòa nhà văn phòng ba tầng, loại nhà các công ty phát triển dự án nhỏ hay chọn để đặt văn phòng. Trong lúc tôi từ tốn bước tới, lần theo những hoạt động diễn ra quanh công trình đang xây dở dang này, tôi biết việc tất cả chúng tôi được đưa đến đây không phải là trùng hợp ngẫu nhiên. Chẳng có gì ngẫu nhiên với gã sát nhân này cả. Mọi thứ đều có chủ ý, được tính toán cẩn thận để tạo ra tác động mong muốn, được khai thác cho sự cần thiết về mặt mỹ thuật.

    Chúng tôi đang ở một công trường xây dựng vì điều đó là cần thiết. Hắn đang đưa ra thông điệp của mình, đúng như tôi từng nói với Deborah là hắn sẽ làm. Các người bắt nhầm người rồi, hắn đang muốn nói. Các người bắt giam một gã ngốc vì tất cả các người đều là những kẻ ngốc. Các người quá ngu xuẩn để có thể nhận ra điều đó trừ khi ta gí mũi các người vào tận nơi, vậy hãy nhận lấy.

    Tôi đoán, đáng ra chuyện này phải làm tôi ít nhiều lo lắng.

    Nhưng không hề.

    Nó làm tôi gần như phát cuồng lên vì phấn khích, chẳng khác gì một cô nữ sinh trung học đứng quan sát trong lúc anh chàng đội trưởng đội bóng đá đang cố thu nhặt đủ can đảm để nói ra lời đề nghị hẹn hò. Ý anh là em sao? Chính em sao? Ôi những vì sao chiếu mệnh của tôi, có thật thế không? Thứ lỗi cho em khi em chớp mi.

    Tôi hít một hơi thật sâu và cố nhắc mình nhớ rằng tôi là một cô gái ngoan và không làm những trò đó. Nhưng tôi biết hắn có làm vậy, và thực sự muốn ra ngoài cùng hắn. Làm ơn được không, Harry?

    Bởi vì vượt xa việc chỉ đơn thuần làm vài điều thú vị với một người bạn mới, tôi cần tìm ra tên sát nhân này. Tôi cần thấy mặt nói chuyện với hắn, chứng minh với chính mình rằng hắn có thật và...

    Và sao?

    Hắn không phải là tôi chăng?

    Tôi không phải là kẻ đã làm những việc khủng khiếp, thú vị này chăng?

    Sao tôi phải nghĩ thế? Thật còn hơn cả ngu xuẩn, hoàn toàn không xứng nhận được sự chú ý từ bộ óc từng đầy kiêu hãnh của tôi. Ngoại trừ, hiện giờ, khi ý tưởng ấy đang thực sự hiện hữu quanh đây, tôi không thể buộc dòng suy nghĩ kia hãy ngồi xuống và biết cư xử cho phải phép. Thế nếu thực sự đúng là tôi thì sao? Sẽ thế nào nếu chính tôi, bằng cách nào đó, đã thực hiện những vụ án mà không hề hay biết? Không thể nào, tất nhiên rồi, hoàn toàn không thể, nhưng…

    Tôi bừng tỉnh trước bồn rửa, cọ sạch máu khỏi hai bàn tay sau một “giấc mơ” trong đó tôi đã cẩn thận và hào hứng để máu dính khắp hai bàn tay trong khi làm những việc mà lệ thường tôi chỉ nằm mơ tới thực hiện chúng. Bằng cách nào đó, tôi biết nhiều điều về cả chuỗi án mạng, những điều đáng ra tôi không thể nào biết trừ khi...

    Chẳng trừ khi gì hết. Hãy uống thuốc an thần đi, Dexter. Bắt đầu lại. Hít thở đi, đồ sinh vật ngu ngốc, hít không khí trong lành vào, tống thứ không khí xấu xa ra. Nó chẳng là gì cả ngoài thêm một triệu chứng nữa của tình trạng yếu đuối về tinh thần tôi mới sa vào gần đây. Tôi chỉ đơn thuần bị già trước tuổi vì sức ép căng thẳng từ toàn bộ lối sống sạch sẽ của mình. Cần phải thừa nhận tôi đã trải nghiệm qua một hay hai khoảnh khắc ngốc nghếch của nhân loại trong vài tuần gần đây. Thế thì sao? Điều đó không nhất thiết chứng minh rằng tôi là một thực thể thuộc về nhân loại. Hay tôi đã tỏ ra sáng tạo trong khi ngủ.

    Không, đương nhiên là không rồi. Cũng khá có lý, nó chẳng hề có ý nghĩa nào theo chiều hướng đó. Vậy, ừm, nó có nghĩa là gì đây?

    Tôi từng cho rằng, chỉ đơn giản là tôi đang hóa điên, ném đi vài nắm cẩm thạch vào thùng rác. Rất nhẹ nhõm, nhưng nếu tôi sẵn sàng giả thiết như thế, tại sao không thừa nhận luôn rất có thể tôi đã gây ra một chuỗi những trò tinh nghịch nho nhỏ vui vẻ mà chẳng hề nhớ ra chúng, ngoại trừ những mảnh giấc mơ gián đoạn? Liệu có phải sự điên rồ thật sự dễ chấp nhận hơn vô thức? Nói cho cùng, đó chỉ là một dạng mộng du nâng cao mà thôi. “Sát nhân trong khi ngủ”. Có khả năng rất phổ biến. Sao không? Tôi vẫn thường xuyên để phần tỉnh táo của mình nhường lại ghế lái xe khi Người lữ hành Tối Tăm lén đi chơi. Quả thực không phải là một bước đi quá xa để tới chỗ chấp nhận điều tương tự đang xảy ra ở đây, lúc này, dưới một hình thức hơi khác biệt. Người lữ hành Tối Tăm chỉ đơn giản đã mượn xe để đi trong lúc tôi ngủ.

    Còn có thể giải thích bằng cách nào khác nữa đây? Rằng tôi đã được các vì tinh tú dẫn đường trong lúc ngủ và hoàn toàn tình cờ chúng đã căn chỉnh những hành động của tôi hệt như phong cách của tên sát nhân vì mối liên hệ của chúng tôi trong một cuộc đời nào đó ở quá khứ chăng? Hiển nhiên việc này nghe cũng có thể có lý, nếu nơi đây là miền nam California. Ở Miami, nghe có vẻ khó lòng xảy ra. Vậy là nếu tôi bước vào tòa nhà xây dở dang này và tình cờ nhìn thấy ba thi thể được trình bày theo cách dường như có ý nghĩa nào đó với mình, tôi sẽ phải tính đến khả năng chính mình đã tạo ra thông điệp đó. Chẳng phải như thế nghe còn có lý hơn so với tin rằng tôi đang gây án trong tình trạng vô thức sao?

    Tôi đã tới chỗ chiếu nghỉ cầu thang ngoài của tòa nhà. Tôi dừng lại đó giây lát và nhắm mắt lại, tựa lưng vào khối tường bê tông trần trụi. Nó có phần lạnh hơn không khí và thô nhám. Tôi áp má vào đó, cảm thấy một cảm giác lơ lửng đâu đó giữa khoái cảm và đau đớn. Cho dù tôi có muốn leo lên trên và nhìn những gì được trưng bày trên đó tới mức nào đi nữa, ham muốn không phải nhìn nó cùng nhiều ngần ấy.

    Nói với tao đi, tôi thì thầm với Người lữ hành Tối Tăm. Hãy cho tao biết mày đã làm gì.

    Nhưng tất nhiên, chẳng có câu trả lời nào cả, ngoài tiếng tặc lưỡi xa xăm, thản nhiên như thường lệ. Trên thực tế, chẳng có sự giúp đỡ nào hết. Tôi cảm thấy hơi váng vất, có chút quay cuồng chóng mặt, cảm thấy không chắc chắn, và tôi không thích cảm giác khi mang trong mình những cảm giác này chút nào. Tôi hít ba hơi thật dài, đứng thẳng người lên và mở mắt ra.

    Thượng sĩ Doakes đang nhìn tôi chằm chằm từ khoảng cách ba foot 1, ngay bên trong chiếu nghỉ cầu thang, một bàn chân đặt trên bậc thang thứ nhất. Khuôn mặt anh ta là một chiếc mặt nạ tối sầm của sự thù địch được chạm trổ một cách đáng tò mò, trông giống như một con chó giống rottweiler đang muốn giật đứt cánh tay bạn ra nhưng lại có chút tò mò muốn biết trước hết hương vị của bạn ra sao. Có điều gì đó trong vẻ mặt của anh ta tôi chưa từng bao giờ thấy trên khuôn mặt của bất cứ ai khác, ngoại trừ trong gương. Đó là một vẻ trống rỗng sâu thăm thẳm và vĩnh cửu, từng lướt qua toàn bộ màn hài kịch của cuộc đời con người và đọc tới dòng cuối cùng.

    “Mày nói chuyện với ai vậy?” Anh ta hỏi tôi, những cái răng đói khát sáng bóng nhô ra. “Mày đưa ai đi cùng vào đó với mày hả?”

    Những lời nói, cùng giọng điệu của kẻ biết tất cả anh ta dùng để nói ra chúng, đâm xuyên qua người tôi, làm bên trong tôi như đông cứng lại. Sao lại chọn những từ đó? Ý anh ta là gì khi nói “vào đó với tôi”? Có lẽ nào anh ta biết về Người lữ hành Tối Tăm? Không thể! Trừ khi...

    Doakes biết con người thật của tôi là ai.

    Cũng như tôi từng biết về Y tá cuối cùng.

    Kẻ nằm bên trong cất tiếng gọi vọng qua không gian trống rỗng khi nó nhìn thấy đồng loại. Không lẽ thượng sĩ Doakes cũng mang trong anh ta một Người lữ hành Tối Tăm? Có thể nào lại là như thế? Một thượng sĩ Ban Án mạng, một kẻ săn mồi trong bóng tối như Dexter? Không thể tin nổi. Nhưng còn cách giải thích nào khác đây? Tôi không thể nghĩ ra điều gì, và trong một quãng thời gian quá lâu tôi chỉ nhìn anh ta chằm chằm. Anh ta gườm gườm nhìn lại.

    Cuối cùng anh ta lắc đầu, nhưng vẫn không rời mắt khỏi tôi. “Đến một ngày nào đó như hôm nay,” anh ta nói. “Mày và tao.”

    “Tôi sẽ nhớ,” tôi trả lời anh ta với tất cả thái độ vui vẻ có thể tạo ra được. “Trong khi chờ đợi, nếu anh không phiền...?”

    Anh ta đứng đó, chắn hết cầu thang, chỉ gườm gườm nhìn. Nhưng cuối cùng anh ta cũng khẽ gật đầu và dịch sang bên. “Một ngày nào đó như hôm nay,” anh ta lặp lại trong lúc tôi đi qua bên cạnh để lên cầu thang.

    Cú sốc từ cuộc chạm trán này ngay lập tức làm tôi bừng tỉnh khỏi chút băn khoăn dằn vặt về bản thân. Tất nhiên không thể có chuyện tôi đang gây ra những vụ án mạng một cách vô thức. Bên cạnh sự lố bịch hiển nhiên của ý tưởng này, việc thực hiện những việc đó mà lại chẳng nhớ gì đúng là sự phí phạm không thể tưởng tượng nổi. Chắc chắn phải có một cách lý giải nào khác, một điều gì đó đơn giản và lạnh lẽo. Hiển nhiên tôi không phải là người duy nhất ở quanh đây sở hữu khả năng sáng tạo kiểu này. Nói cho cùng, tôi đang ở Miami, đang bị bao quanh bởi những tạo vật nguy hiểm như thượng sĩ Doakes.

    Tôi hối hả bước lên cầu thang, cảm thấy cơn phấn khích đang cuồn cuộn chảy trong người và gần như trở lại là chính mình. Trong nhịp bước chân có một lực đẩy đầy sức sống mà nguyên do chỉ một phần là vì tôi đã thoát khỏi anh chàng thượng sĩ đáng mến. Thậm chí còn hơn thế, tôi háo hức muốn tận mắt được nhìn thấy đòn tấn công mới nhất nhằm vào an ninh của cộng đồng, một sự tò mò hoàn toàn tự nhiên, không hơn không kém. Tôi chắc chắn sẽ không tìm thấy bất cứ dấu vân tay nào của chính mình.

    Tôi leo cầu thang lên lầu hai. Một phần khung nhà đã được lắp vào vị trí, nhưng phần lớn sàn vẫn chưa có tường ngăn. Khi bước ra khỏi đầu cầu thang sang phần chính của sàn lầu, tôi nhìn thấy Angel - không - họ - hàng đang ngồi xổm giữa sàn nhà, không cựa quậy. Hai khuỷu tay anh ta đang chống lên đầu gối, hai bàn tay ôm quanh mặt và đang nhìn chằm chằm. Tôi dừng bước, nhìn xuống anh ta và sững người. Đó là một trong những cảnh ấn tượng nhất tôi từng thấy, một kỹ thuật viên pháp y Miami chuyên điều tra án mạng bị làm cho cứng đờ bất động vì thứ anh ta tìm thấy tại hiện trường một vụ án.

    Thứ anh ta tìm thấy thậm chí còn đáng quan tâm hơn nhiều.

    Đó là một bối cảnh từ một vở kịch kinh dị hắc ám, một chương trình tạp kỹ dành riêng cho ma cà rồng. Cũng giống như tại nơi tôi đã ra tay với Jaworski, ở đây cũng có một đống vách thạch cao gói trong vải nhựa. Nó đã được đẩy sát vào một bức tường và giờ đây ngập trong ánh sáng từ những ngọn đèn công trường và cả vài cây đèn nhóm điều tra đã lắp đặt.

    Ở trên đỉnh đống vách thạch cao, được xếp lên như một ban thờ, là một bàn gia công di động màu đen. Nó đã được kê đúng chính giữa để được ánh sáng chiếu thẳng vào, hay nói đúng hơn là để ánh sáng soi đúng vào thứ được đặt trên bàn.

    Đó, tất nhiên rồi, là một cái đầu phụ nữ. Trong miệng cái đầu ngậm một cái gương chiếu hậu của một chiếc xe con hay xe tải nào đó, làm khuôn mặt bị kéo căng ra thành một bộ dạng tỏ vẻ ngạc nhiên gần như hài hước.

    Phía trên nó, ở bên trái, là cái đầu thứ hai. Phần thân của một con búp bê Barbie được đặt dưới cằm, làm nó trông như một cái đầu khổng lồ đi kèm một thân hình tí hon vậy.

    Ở bên phải là cái đầu thứ ba. Cái đầu nằm ngay ngắn trên một mảnh vách thạch cao, hai tai được cẩn thận ghim vào bằng loại đinh vít dùng cho vách thạch cao. Không có chút máu nào vương vãi quanh màn trưng bày. Cả ba cái đầu đều không dính chút máu nào.

    Một cái gương, một búp bê Barbie và vách thạch cao.

    Ba vụ giết người.

    Khô ráo sạch sẽ.

    Xin chào, Dexter.

    Hoàn toàn chẳng còn gì để nghi ngờ nữa. Phần thân búp bê Barbie rõ ràng ám chỉ tới con búp bê trong ngăn đá tủ lạnh của tôi. Cái gương là từ cái đầu bị ném lại trên cầu cạn và bức vách thạch cao liên hệ tới Jaworski. Hoặc đang có ai đó đã xâm nhập sâu vào đầu óc tôi đến mức gần như chẳng khác gì chính tôi, hoặc kẻ đó đích thực chính là tôi.

    Tôi hít một hơi chậm rãi, đầy phẫn nộ. Tôi hoàn toàn chắc các cảm xúc của mình không hề giống của anh ta, nhưng tôi muốn ngồi xổm xuống giữa sàn bên cạnh Angel - không - họ - hàng. Tôi cần một lát để nhớ xem cần suy nghĩ như thế nào và sàn nhà dường như là nơi rất tuyệt để bắt đầu. Thay vào đó, tôi nhận ra mình đang từ tốn đi về phía ban thờ, bị kéo về phía trước như thể đang lướt đi trên những thanh ray được bôi dầu trơn tru. Tôi không thể buộc mình dừng hay đi chậm lại, hoặc làm bất kỳ điều gì khác ngoài việc tiến tới gần hơn. Tôi chỉ có thể ngắm nhìn, ngỡ ngàng, tập trung vào việc có được hơi thở hít vào và thở ra đúng chỗ. Nhìn khắp xung quanh, dần dần tôi bắt đầu hiểu ra mình không phải là người duy nhất không tin nổi vào những gì đang nhìn thấy.

    Trong suốt quãng thời gian thực hiện công việc, ấy là chưa nói gì tới thú vui của bản thân, tôi đã có mặt tại hiện trường của hàng trăm vụ án mạng, rất nhiều vụ ghê rợn và tàn khốc đến mức khiến cả tôi cũng cảm thấy sốc. Ở từng vụ, trong tất cả những vụ án mạng đó, đội khám nghiệm hiện trường của sở cảnh sát Miami - Dade đều triển khai và bắt tay vào việc của họ một cách thư thái, chuyên nghiệp, ở mỗi vụ trong tất cả các vụ đó, luôn có ai đó xì xụp uống cà phê, ai đó được cử ra ngoài mua bánh gối hay bánh ngọt, ai đó pha trò hay buôn chuyện trong lúc lấy mẫu từ vết máu. Ở mỗi vụ đó, tôi đều thấy một nhóm người hoàn toàn không bị cảnh tàn sát gây ấn tượng chút nào tới mức có thể nghĩ họ đang chơi bowling trong giải của nhà thờ vậy.

    Cho tới lúc này.

    Lần này, cả căn phòng bê tông trơ trụi chìm trong không khí im lặng đến bất thường. Các sĩ quan và nhân viên pháp y đứng im lặng thành từng nhóm hai hay ba người, như thể sợ phải ở một mình, chỉ nhìn về thứ được trưng bày ở phía cuối phòng. Nếu ai đó vô tình gây ra một tiếng động nhỏ, mọi người đều giật mình quay sang nhìn gườm gườm về phía kẻ đó. Toàn bộ khung cảnh này lạ lùng một cách khôi hài đến mức tôi dám chắc có lẽ tôi đã phá lên cười nếu không phải đang bận bịu với việc nhìn chằm chằm như tất cả những kẻ chán ngắt còn lại.

    Có phải tôi đã làm chuyện này không?

    Nó thật đẹp đẽ - theo một cách khủng khiếp, tất nhiên rồi. Nhưng dẫu vậy, phải nói phần sắp đặt thật hoàn hảo, hấp dẫn, sạch máu một cách tuyệt mỹ. Nó thể hiện một trí tuệ xuất chúng và khả năng sắp đặt tuyệt vời. Ai đó đã bỏ ra không ít công sức để biến chuyện này thành một tác phẩm nghệ thuật thực sự. Ai đó có phong cách, tài năng và một gu khôi hài quái gở. Trong suốt cuộc đời mình tôi mới chỉ biết có một người như thế.

    Có thể nào ai đó kia lại chính là Dexter trong một giấc mơ hắc ám?

    --------------------------------
    1 1 foot = 30,48 cm.

  10. #19
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 20

    Tôi đứng gần màn trưng bày hết mức có thể để không thực sự đụng chạm vào nó, mà chỉ nhìn. Ban thờ nhỏ vẫn chưa được rắc bột tìm vân tay, người ta vẫn chưa làm gì với nó hết, mặc dù tôi đoán nó đã được chụp ảnh. Tôi thật lòng rất muốn có được một bức ảnh trong số đó để mang về nhà. Cỡ bưu thiếp, đầy đủ sắc màu, không hề vương máu. Nếu tôi đã làm chuyện này, tôi quả là một nghệ sĩ xuất sắc hơn nhiều những gì chính tôi từng nghi ngờ. Thậm chí ngay cả khi nhìn thật gần từ vị trí này, những cái đầu dường như bồng bềnh trong không gian, lơ lửng trên trần gian chết chóc trong một màn nhạo báng phi thời gian, không máu me của thiên đường, bị cắt lìa khỏi thân mình theo đúng nghĩa đen...

    Thân thể của họ, tôi đưa mắt nhìn quanh. Không có lấy một dấu vết, không có các chồng lộ liễu của các bọc được gói ghém chỉn chu quen thuộc nào. Chỉ có màn trưng bày của những cái đầu.

    Tôi nhìn chăm chú thêm một hồi. Một lát sau, Vince Masuoka chậm rãi bước lại gần, miệng há ra, khuôn mặt tái nhợt. “Dexter,” anh ta nói và lắc đầu.

    “Xin chào, Vince,” tôi nói. Anh ta lại lắc đầu. “Những phần thân mình đâu rồi?”

    Vince chỉ nhìn chằm chằm vào mấy cái đầu thêm một hồi lâu. Sau đó, anh ta nhìn tôi với một khuôn mặt đầy ắp vẻ ngây thơ của kẻ không có bất cứ manh mối nào. “Ở đâu đó,” anh ta đáp.

    Có tiếng bước chân vang lên trên cầu thang khiến tôi bừng tỉnh. Tôi rút lui ra xa màn trưng bày đúng lúc LaGuerta bước vào cùng vài tay phóng viên được lựa chọn cẩn thận, một gã Nick - Gì đó và Rick Sangre từ kênh truyền hình địa phương và Eric - người Viking, một phóng viên báo viết kỳ lạ và đáng vị nể. Trong chốc lát, căn phòng trở nên thật bận rộn. Nick cùng Eric thử ngó qua một cái rồi chạy vội xuống cầu thang, tay bịt chặt lấy mồm. Rick Sangre cau trán thành những rãnh sâu, nhìn vào ánh sáng, sau đó quay sang LaGuerta.

    “Có nguồn điện ở đấy không? Tôi sẽ gọi tay máy quay đến,” anh ta nói.

    LaGuerta lắc đầu. “Hãy đợi những người khác,” cô ta nói.

    “Tôi cần hình ảnh,” Rick Sangre khăng khăng.

    Thượng sĩ Doakes xuất hiện sau lưng Sangre. Tay phóng viên đưa mắt ra sau và nhìn thấy anh ta. “Không hình ảnh,” Doakes nói. Sangre mở miệng, nhìn Doakes giây lát, sau đó ngậm miệng lại. Thêm một lần nữa, những phẩm chất chân chính của anh chàng thượng sĩ đáng mến lại cứu vãn tình hình. Anh ta quay lại, đứng canh chừng bên những phần thi thể đang bị trưng bày, như thể nơi này là một hội chợ khoa học còn anh ta là nhân viên bảo vệ.

    Có những tiếng ho ở trạng thái cố kìm nén vang lên ngoài cửa, Nick - Gì đó cùng Eric - người Viking đang quay trở lại, chậm rãi lần bước trên cầu thang, trở lại lầu hai như hai ông già. Eric không còn nhìn về phía cuối phòng nữa. Nick cố không nhìn, nhưng cái đầu anh ta dường như cứ bị quay dần về phía cảnh tượng khủng khiếp nọ, sau đó anh ta lại phải chỉnh nó quay lại đối diện với LaGuerta.

    LaGuerta bắt đầu nói. Tôi tiến lại gần hơn để lắng nghe. “Tôi đề nghị ba người các anh tới nhìn tận mắt thứ này trước khi chúng tôi chính thức cho phép báo chí tới đưa tin,” cô ta nói.

    “Nhưng chúng tôi có thể đưa tin không chính thức về nó chứ?” Rick Sangre ngắt lời.

    LaGuerta tảng lờ anh ta. “Chúng tôi không muốn bất cứ giả định hoang tưởng nào từ phía báo chí về những gì đã xảy ra tại đây,” cô ta nói. “Như các vị có thể thấy, đây là một tội ác bệnh hoạn và kỳ quái...” cô ta dừng lại giây lát, sau đó nói tiếp, rất thận trọng. “Không Giống Bất Cứ Thứ Gì Chúng Ta Từng Thấy Trước Đây.” Bạn có thể thực sự nghe thấy cô ta viết hoa từng chữ cái đầu.

    Nick bật ra “Hừ” một tiếng, nom có vẻ nghĩ ngợi. Eric lập tức chộp ngay được thông điệp. “Ái chà, đợi một phút đã,” anh ta nói. “Cô đang nói đây là một tên sát nhân mới tinh? Đây là một chuỗi vụ giết người hoàn toàn khác biệt?”

    LaGuerta nhìn anh ta đầy ngụ ý. “Tất nhiên, vẫn còn quá sớm để có thể nói chắc được bất cứ điều gì,” cô ta nói, nghe có vẻ đầy tự tin. “Nhưng hãy nhìn vào vụ việc này một cách hợp lý, được chứ? Thứ nhất,” cô ta giơ một ngón tay lên, “chúng tôi tóm được một gã đã thú tội về những vụ khác. Hắn đang ngồi trong nhà giam, chúng tôi không thả hắn ra để gây nên vụ này. Thứ hai, vụ này không hề giống bất cứ thứ gì tôi từng thấy, phải vậy không? Bởi vì ở đây có ba nạn nhân và cả ba được trình bày rất ấn tượng, được chứ?” Xin cảm ơn chân thành, cô ta đã nhận ra.

    “Sao tôi không thể gọi tay máy quay của tôi lên?” Rick Sangre hỏi.

    “Có phải từng có một cái gương được tìm thấy ở hiện trường một vụ án mạng khác không?” Eric yếu ớt hỏi, cố hết sức để không phải nhìn cảnh tượng đang bày ra.

    “Các vị đã nhận diện được, ừ...” Nick nói. Đầu anh ta lại bắt đầu quay về phía màn sắp đặt và anh ta lại giữ mình quay lại phía LaGuerta. “Các nạn nhân có phải là gái điếm không, thám tử?”

    “Nghe này,” LaGuerta nói. Trong giọng cô ta thoáng chút khó chịu, một chút thổ âm Cuba thoáng hiện trong giọng nói chỉ vẻn vẹn một giây. “Hãy cho phép tôi dải hích một điều. Tôi không quan tâm liệu họ có phải gái điếm hay không. Tôi không quan tâm liệu người ta có tìm thấy một cái gương hay không. Tôi không quan tâm tới những chuyện đó.” Cô ta thở lấy hơi rồi nói tiếp, lần này đã bình tĩnh hơn. “Chúng tôi đã tóm được tên sát nhân kia và nhốt vào nhà giam. Chúng tôi đã có lời thú tội. Đây là một vụ hoàn toàn mới, hiểu chứ? Đó là điểm quan trọng. Các vị có thể thấy nó... vụ này hoàn toàn khác.”

    “Vậy tại sao cô lại được chỉ định phụ trách điều tra vụ này?” Eric hỏi, một cách rất có lý, tôi thầm nghĩ.

    LaGuerta trưng hàm răng cá mập ra. “Tôi đã giải quyết được vụ trước,” cô ta nói.

    “Nhưng cô tin chắc đây là một tên sát nhân mới toanh chứ, thám tử?” Rick Sangre hỏi.

    “Không còn nghi ngờ gì nữa. Tôi không thể cho các vị biết bất cứ chi tiết nào, nhưng tôi có kết quả từ phòng thí nghiệm pháp y để chứng minh cho mình.” Tôi dám chắc cô ta đang ám chỉ tôi. Tôi cảm thấy chút phấn khích đầy tự hào.

    “Nhưng ở đây cũng có điểm tương đồng, đúng không? Cùng khu vực, cùng phương thức chung...” Eric - người Viking bắt đầu lên tiếng. LaGuerta lập tức cắt ngang anh ta.

    “Hoàn toàn khác biệt,” cô ta nói. “Hoàn toàn.”

    “Vậy cô hoàn toàn thấy thuyết phục rằng McHale đã gây ra tất cả những vụ án mạng khác và vụ này khác hẳn,” Nick - Gì đó nói.

    “Một trăm phần trăm,” LaGuerta nói. “Bên cạnh đó, tôi chưa bao giờ nói McHale là thủ phạm những vụ khác.”

    Trong khoảnh khắc, các phóng viên đều quên mất nỗi kinh hoàng vô hình. “Cái gì?” Nick - Gì đó cuối cùng thốt lên.

    LaGuerta đỏ mặt, nhưng vẫn khăng khăng. “Tôi chưa bao giờ nói McHale gây ra nó. Chính McHale nói anh ta là thủ phạm, được chưa? Vậy tôi phải làm gì đây? Nói với anh ta hãy đi đi, tôi không tin anh chắc?”

    Eric và Nick trao đổi với nhau một cái nhìn đầy ngụ ý. Hẳn tôi cũng đã làm thế nếu ở đây có ai đó để tôi nhìn sang. Vậy là thay vì làm điều đó, tôi đưa mắt về phía cái đầu ở giữa trên ban thờ. Nó không hẳn là nháy mắt với tôi, nhưng tôi tin chắc nó cũng kinh ngạc chẳng kém gì mình.

    “Thật ngớ ngẩn,” Eric lẩm bẩm, nhưng anh ta đã bị Rick Sangre át đi.

    “Cô có sẵn lòng cho chúng tôi phỏng vấn McHale không?” Sangre đề nghị. “Với một máy quay?”

    Chúng tôi được miễn câu trả lời của LaGuerta nhờ sự xuất hiện của đại úy Matthews. Ông ta bước lên cầu thang và đứng chết sững khi trông thấy màn sắp đặt nghệ thuật nho nhỏ của chúng tôi. “Lạy Chúa tôi,” ông ta thốt lên. Sau đó tia nhìn của ông đại úy hướng sang nhóm phóng viên đang xúm quanh LaGuerta. “Các anh đang làm cái quỷ quái chết toi gì trên này vậy?” Ông ta hỏi.

    LaGuerta đưa mắt nhìn quanh phòng, nhưng không ai tình nguyện lên tiếng. “Tôi cho phép họ vào,” cuối cùng cô ta nói. “Không chính thức. Không được ghi âm.”

    “Cô đâu nói không được ghi âm,” Rick Sangre phản đối. “Cô chỉ nói là không chính thức.”

    LaGuerta trừng mắt nhìn anh ta. “Không chính thức có nghĩa là không ghi âm.”

    “Biến khỏi đây,” Matthews gầm lên. “Chính thức và có ghi âm. Biến.”

    Eric - người Viking hắng giọng. “Đại úy, ông có nhất trí với thám tử LaGuerta rằng đây là một chuỗi án mạng hoàn toàn mới, một kẻ sát nhân khác không?”

    “Biến,” Matthews lặp lại. “Tôi sẽ trả lời các câu hỏi dưới nhà.”

    “Tôi cần hình ảnh,” Rick Sangre nói. “Sẽ chỉ mất một phút thôi.”

    Matthews hất hàm về phía lối ra. “Thượng sĩ Doakes?”

    Doakes xuất hiện, chộp lấy khuỷu tay Rick Sangre. “Mời các vị,” anh ta nói bằng giọng nói nhẹ nhàng, đáng sợ của mình. Ba tay phóng viên nhìn anh ta. Tôi thấy Nick - Gì đó nuốt khan khó nhọc. Sau đó, cả ba cùng lặng lẽ quay ra và rút lui.

    Matthews quan sát họ ra ngoài. Khi họ đã an toàn ở ngoài tầm nghe, ông ta quay sang LaGuerta. “Thám tử,” ông đại úy nói bằng giọng đầy nham hiểm, hẳn ông ta đã học nó từ Doakes, “nếu có lúc nào đó cô lại giở trò thối tha này ra, cô sẽ rất may mắn nếu có được chân an ninh tại bãi gửi xe ở Wal-Mart 1.”

    LaGuerta tái xanh, rồi sau đó đỏ lựng. “Đại úy, tôi chỉ muốn...” cô ta nói. Nhưng Matthews đã quay đi. Ông ta chỉnh lại cà vạt, dùng một bàn tay vuốt tóc ra sau gáy, rồi hối hả lao xuống cầu thang theo sau đám phóng viên.

    Tôi lại quay sang quan sát ban thờ. Nó vẫn không thay đổi, nhưng lúc này người ta đang bắt đầu rắc bột để tìm dấu vân tay. Sau đó, người ta sẽ tách nó ra để phân tích từng thành phần. Chẳng bao lâu nữa, nó sẽ chỉ còn là một ký ức đẹp đẽ.

    Tôi quay ra ngoài, đi xuống cầu thang tìm Deborah.

    Bên ngoài, Rick Sangre đã có một máy quay vào cuộc. Đại úy Matthews đứng trong vầng ánh sáng với những chiếc microphone thi nhau chĩa về phía cằm ông ta, lúc này đang đưa ra tuyên bố chính thức của mình. “… chính sách của sở chúng tôi luôn là để sĩ quan phụ trách điều tra được toàn quyền hoạt động độc lập trong một vụ án, cho tới thời điểm có bằng chứng rõ ràng rằng một loạt những sai lầm nghiêm trọng trong phán đoán đòi hỏi phải xem xét lại năng lực của người sĩ quan phụ trách. Thời điểm đó vẫn chưa tới, nhưng tôi đang theo dõi sát sao tình hình. Với những hệ lụy nghiêm trọng đến thế cho cộng đồng...”

    Tôi trông thấy Deborah và lách qua đám người. Cô đang đứng ở chỗ dải dây vàng dùng làm vành đai an ninh, mặc bộ đồng phục tuần cảnh màu xanh. “Bộ đồ đẹp lắm,” tôi nói với cô.

    “Em thích nó,” cô nói. “Anh thấy chưa?”

    “Thấy rồi,” tôi nói với cô. “Anh cũng thấy đại úy Matthews bàn bạc về cuộc điều tra với thám tử LaGuerta.”

    Deborah nín thở. “Bọn họ đã nói những gì?”

    Tôi vỗ lên cánh tay cô. “Anh nghĩ từng có lần nghe bố dùng một cách diễn đạt rất màu mè có thể áp dụng cho trường hợp này. Ông ta đang ‘khoan cho cô ả một cái hậu môn mới’. Em biết câu này chứ?”

    Cô em tôi có vẻ ngỡ ngàng, sau đó tỏ vẻ khoái trá. “Tuyệt lắm. Bây giờ em thực sự cần anh giúp, Dex.”

    “Tất nhiên là đối nghịch lại với những gì anh đã làm chứ gì?”

    “Em không biết anh nghĩ mình đã làm gì, nhưng như thế là chưa đủ.”

    “Thật bất công quá, Deb. Và không tử tế nữa. Nói gì thì nói, lúc này em đang có mặt tại hiện trường vụ án, và mặc đồng phục cảnh sát nữa. Hay em thích những bộ cánh khêu gợi hơn?”

    Cô em tôi rùng mình. “Ý em không phải là thế. Suốt từ đầu đến giờ anh vẫn đang giấu giếm điều gì đó, bây giờ em muốn biết nó.”

    Trong giây lát, tôi chẳng biết phải nói gì, một cảm giác luôn thật khó chịu. Tôi không ngờ cô em tôi lại có khả năng quan sát sắc sảo đến mức này. “Tại sao, Deborah...”

    “Nghe này, anh nghĩ em không biết những trò nịnh nọt cần được thực hiện thế nào, có thể về chuyện ấy em không được tài năng bằng anh, nhưng em biết tất cả bọn họ sắp có một quãng thời gian bận rộn che chắn cho cặp mông của chính bọn họ. Điều đó có nghĩa là sẽ chẳng có ai thực hiện công việc cảnh sát đúng nghĩa.”

    “Ý em là em vừa nhìn ra cơ hội để tự làm ít nhiều việc đó ư? Hoan hô, Deb.”

    “Và cũng có nghĩa là em cần anh giúp hơn bao giờ hết.” Cô đưa một bàn tay ra nắm chặt lấy tay tôi. “Làm ơn được không, Dexy?”

    Tôi không biết điều gì làm mình bị sốc nhiều hơn, sự sắc sảo của Deb, việc cô nắm tay tôi, hay cách cô dùng biệt danh “Dexy”. Tôi không còn được nghe cô nhắc tới biệt danh ấy từ khi mười tuổi. Cho dù cô có chủ ý hay không, khi gọi tôi là Dexy, cô đã đưa cả hai chúng tôi quay về giữa Miền đất của Harry, nơi gia đình là điều quan trọng nhất, những bổn phận cũng hiện hữu thật không kém gì những cô gái điếm không đầu. Tôi còn biết nói gì đây?

    “Tất nhiên rồi, Deborah,” tôi nói. Đúng là Dexy. Như thế gần như đủ để tôi cảm thấy mình có cảm xúc.

    “Tốt lắm,” cô nói và quay lại luôn với công việc, một sự thay đổi chóng vánh thần kỳ khiến tôi phải ngưỡng mộ. “Vậy thì ngay lúc này, cái gì là điều cần quan tâm đến?” Cô hỏi, đồng thời hất hàm lên phía lầu hai.

    “Các mảnh thi thể,” tôi nói. “Theo những gì em biết, có ai đang tìm kiếm chúng chưa?”

    Deborah dành cho tôi một trong những vẻ mặt của Tay cớm thạo đời mới toanh của cô, một khuôn mặt chua chát. “Theo như em biết, có nhiều nhân viên cảnh sát được điều động đến để giữ cho các máy quay truyền hình ở yên ngoài hiện trường hơn là thực sự làm gì phục vụ cuộc điều tra này.”

    “Tốt,” tôi nói. “Nếu chúng ta có thể tìm được các mảnh thi thể, có thể chúng ta sẽ tiến triển được ít nhiều.”

    “Được. Vậy chúng ta sẽ tìm ở đâu?”

    Một câu hỏi rất đúng đắn, thật tự nhiên đẩy tôi vào thế bất lợi. Tôi chẳng có ý tưởng nào về việc cần tìm ở đâu. Liệu có phải phần thân mình bị bỏ lại ở căn phòng giết người không? Tôi không cho là vậy, với tôi như thế thật cẩu thả, nếu hắn muốn sử dụng lại căn phòng đó lần nữa, chuyện đó sẽ trở thành bất khả thi vì những thứ ghê tởm nằm vương vãi xung quanh.

    Được rồi, vậy tôi có thể giả thiết rằng chỗ thịt còn lại đã biến đi đâu đó. Nhưng đi đâu mới được chứ?

    Hay có lẽ, một ý tưởng từ từ lóe rạng trong tôi, câu hỏi thực sự cần đặt ra phải là: Tại sao? Việc trưng bày những cái đầu nhằm tới một lý do. Vậy thì lý do để cất phần còn lại của các thi thể đi chỗ khác có thể là gì? Chỉ đơn giản để giấu giếm thôi sao? Không, chẳng có gì đơn giản ở gã sát nhân này cả, giấu giếm hiển nhiên không phải là thứ hắn đánh giá quá cao. Nhất là vào lúc này, khi hắn đang tỏ ra ít nhiều phô trương. Trong trường hợp đó, hắn có thể để một đống những phần thừa còn lại ở đâu đây?

    “Thế nào?” Deborah hỏi. “Chuyện đó thì thế nào? Chúng ta nên tìm ở đâu bây giờ?”

    Tôi lắc đầu. “Anh không biết,” tôi chậm rãi nói. “Cho dù hắn để phần còn lại ở đâu, đó cũng là một phần thông điệp của hắn. Chúng ta vẫn chưa biết chắc thông điệp của hắn là gì, phải không nào?”

    “Quỷ tha ma bắt, Dexter…”

    “Anh biết hắn ta muốn đùa bỡn với chúng ta bằng điều đó. Hắn cần nói rõ rằng chúng ta đã làm một điều ngu dốt tới mức không thể tin nổi, thậm chí chúng ta có không làm thế, hắn vẫn khôn ngoan hơn chúng ta.”

    “Cho tới giờ thì hắn có lý,” cô nói, lại trưng khuôn mặt cá mú ra.

    “Vậy nên... cho dù hắn có vứt phần còn lại ở đâu, chúng nhất định phải tiếp tục thông điệp của hắn. Rằng chúng ta ngu xuẩn, không, anh nói nhầm. Rằng chúng ta đã làm một điều ngu xuẩn.”

    “Phải. Một sự khác biệt thật quan trọng.”

    “Thôi nào, Deb, cứ như thế em sẽ làm đau mặt mình đấy. Nó quan trọng, vì hắn sẽ đưa ra bình luận về MÀN KỊCH chứ không phải DIỄN VIÊN.”

    “A ha. Thật tốt quá, Dex. Vậy chúng ta có lẽ nên tìm tới nhà hát diễn tối gần đây nhất và tìm một anh chàng diễn viên dính máu tới tận khuỷu tay, phải vậy không nào?”

    Tôi lắc đầu. “Không có máu, Deb. Không hề có. Đó là điểm quan trọng nhất.”

    “Làm sao anh biết chắc được?”

    “Bởi vì không hề có máu tại bất cứ hiện trường nào. Việc này là có chủ ý và quan trọng sống còn với điều hắn đang làm. Lần này, hắn sẽ lặp lại những chi tiết quan trọng, nhưng đưa ra bình luận về những gì hắn đã làm trước đây, vì chúng ta đã bỏ qua không nhận ra, em hiểu không?”

    “Chắc rồi, em hiểu. Nghe hoàn toàn có lý. Vậy sao chúng ta không tới kiểm tra ở Office Depot Center? Có thể hắn lại tống các mảnh thi thể vào lưới khung thành lần nữa.”

    Tôi mở miệng để đưa ra một câu trả lời thông minh tuyệt vời nào đó. Chuyện xảy ra ở sân hockey từ đầu đến cuối đều không hợp lý, không hợp lý một cách hoàn toàn và rõ ràng. Đó là một thử nghiệm, một điều gì đó khác biệt, nhưng tôi biết hắn sẽ không lặp lại nó. Tôi bắt đầu định giải thích chuyện này với Deb, rằng lý do duy nhất khiến hắn có lúc nào đó lặp lại với sân đấu chỉ có thể là... tôi chợt sững lại, miệng há hốc. Tất nhiên rồi, tôi nghĩ. Hoàn toàn tự nhiên.

    “Giờ thì mặt ai trông như cá mú đây, hả? Có chuyện gì thế, Dex?”

    Trong giây lát, tôi không nói lấy một lời. Tôi đang quá bận bịu với việc nắm bắt lấy những suy nghĩ đang quay cuồng của mình. Lý do duy nhất có thể làm hắn lặp lại với sân hockey là để cho chúng ta thấy chúng ta đã tóm nhầm người.

    “Ôi, Deb,” cuối cùng tôi lên tiếng. “Tất nhiên rồi. Em nói đúng, nhà thi đấu. Em đã đúng vì đủ thứ lý do sai lầm, nhưng dẫu sao...”

    “Mặc xác lý do sai lầm đó đi,” cô em tôi nói, rồi lao về phía xe của cô.

    --------------------------------
    1 Tên một hệ thống siêu thị lớn tại Mỹ.

  11. #20
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 21

    “Em không hiểu ý tưởng này quá vu vơ sao?” Tôi hỏi. “Nhiều khả năng chúng ta sẽ chẳng tìm thấy gì hết.”

    “Em biết thế,” Deb nói.

    “Chúng ta cũng không có bất cứ quyền hạn tư pháp nào ở đây cả. Chúng ta đang ở Broward. Và đám Broward chẳng ưa gì chúng ta, vậy nên...”

    “Vì Chúa hãy thôi đi, Dexter,” cô em tôi gằn giọng. “Anh lảm nhảm cứ như một cô nhóc con vậy.”

    Có lẽ chẳng sai, cho dù cô em tôi quả là không được tử tế lắm khi nói ra như thế. Deborah, mặt khác, lại tỏ ra có một hệ thần kinh thép được tổ chức đâu ra đấy. Trong khi chúng tôi rời khỏi đường cao tốc Sawgrass và rẽ vào bãi để xe của Office Depot Center, cô em tôi nghiến răng còn mạnh hơn lúc trước. Tôi gần như có thể nghe thấy quai hàm cô kêu răng rắc. “Dirty Harriet 1,” tôi khẽ nói với chính mình, nhưng có vẻ Deb đang dỏng tai lên nghe trộm.

    “Chết tiệt,” cô em tôi văng ra.

    Tôi đưa mắt từ khuôn mặt lạnh tanh như bằng đá hoa cương của Deborah sang nhà thi đấu. Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, với ánh mặt trời buổi sáng chiếu vào nó vừa đúng góc độ, khu nhà thi đấu trông hệt như bị cả một hạm đội đĩa bay vây quanh. Tất nhiên, đó chỉ là những dàn đèn chiếu sáng được gắn xung quanh bên ngoài nhà thi đấu, chĩa ra như những cái mũ nấm quá khổ bằng thép. Ai đó hẳn đã nói với tay kiến trúc sư rằng chúng thật nổi bật. “Trẻ trung và mạnh mẽ” nữa, nhiều khả năng là thế. Tôi tin chắc chúng đúng là vậy, khi được chiếu sáng đúng góc độ. Tôi thực sự hy vọng đến lúc nào đó chúng sẽ sớm tìm thấy thứ ánh sáng phù hợp.

    Chúng tôi lái xe một vòng quanh nhà thi đấu, tìm xem có bóng dáng ai không. Tới vòng thứ hai, một chiếc Toyota tã như xơ mướp chạy tới dừng lại bên ngoài một khung cửa. Cánh cửa dành cho khán giả được giữ đóng lại nhờ một vòng dây thừng thò ra ngoài và chằng vào khung cửa. Dừng xe lại và mở cửa ra, Deborah lao ra khỏi xe khi nó còn chưa kịp dừng hẳn bánh.

    “Xin chào ông,” cô nói với người đàn ông vừa chui ra khỏi chiếc Toyota. Ông ta chừng năm mươi tuổi, một người đàn ông thấp lùn to ngang mặc một cái quần màu xanh lục tồi tàn và một chiếc áo khoác màu xanh bằng vải nylon. Ông ta đưa mắt nhìn Deb trong bộ đồng phục và lập tức tỏ vẻ lúng túng.

    “Cái gì vậy?” ông ta nói. “Tôi chẳng làm gì cả.”

    “Ông có làm việc ở đây không, thưa ông?”

    “Tất nhiên. Hẳn rồi, thế cô nghĩ vì sao tôi lại ở đây lúc tám giờ sáng thế này?”

    “Ông làm ơn cho biết tên, thưa ông.”

    Ông ta loay hoay tìm ví. “Steban Rodriguez. Tôi có giấy chứng minh thư.”

    Deborah phẩy tay gạt đi. “Không cần đâu,” cô nói. “Ông đang làm gì ở đây vào giờ này, thưa ông?”

    Ông ta nhún vai, nhét ví vào trong túi. “Tôi có nhiệm vụ phải có mặt tại đây sớm hầu như mọi ngày, nhưng lúc này đội nhà đang đi du đấu, ở Vancouver, Ottawa và Los Angeles. Vậy nên tôi tới muộn hơn một chút.”

    “Lúc này còn ai ở đây nữa không, Steban?”

    “Không, chỉ có tôi thôi. Tất cả những người khác đều ngủ muộn.”

    “Thế còn ban đêm thì sao? Có một bảo vệ chứ?”

    Ông ta vung tay quanh một vòng. “Nhân viên an ninh đi vòng quanh bãi để xe vào ban đêm, nhưng cũng không thường xuyên lắm. Hầu hết mọi ngày tôi là người đầu tiên có mặt ở đây.”

    “Ý ông muốn nói ông là người đầu tiên đi vào trong?”

    “Phải, đúng thế, tôi đã nói gì sao?”

    Tôi xuống xe, đứng tựa người vào nóc xe. “Ông có phải là người lái chiếc máy Zamboni chuẩn bị sân cho buổi tập sáng không?” Tôi hỏi ông ta. Deb đưa mắt nhìn tôi khó chịu. Steban nhìn tôi săm soi, để ý tới chiếc áo sơ mi Hawaii đỏm dáng và cái quần vải gabardine tôi đang mặc. “Anh là kiểu cớm quái gì vậy?”

    “Tôi là một tay cớm nghiện máy tính,” tôi nói. “Tôi chỉ làm việc trong phòng thí nghiệm.”

    “Ố ồ, hẳn rồi,” ông ta nói, gật gù như thể thấy việc đó hoàn toàn có lý.

    “Ông có lái chiếc Zamboni không, Steban?” Tôi hỏi lại.

    “Phải, các vị biết đấy. Bọn họ không cho tôi lái nó vào các trận đấu, các vị biết đấy. Việc đó là dành cho những anh chàng áo quần bảnh bao. Bọn họ muốn để một đứa nhóc làm việc đó, các vị biết đấy. Có thể là ai đó có tiếng tăm. Lượn một vòng và vẫy tay, cái trò thối tha đó. Nhưng tôi cần làm việc ấy cho buổi tập sáng, các vị biết đấy. Khi đội nhà có mặt tại thành phố. Tôi chỉ lái chiếc Zamboni vào buổi sáng, thật sớm. Nhưng giờ họ đang vi vu trên đường nên tôi đến muộn hơn.”

    “Chúng tôi muốn xem qua bên trong nhà thi đấu một chút,” Deb nói, rõ ràng rất nóng ruột với việc tôi hỏi chuyện con cà con kê. Steban lại quay sang cô, một bên mắt lóe lên một tia nhìn tinh quái.

    “Hẳn rồi,” ông ta nói. “Các vị có lệnh khám chứ?”

    Deborah đỏ mặt. Nó tạo nên một sự tương phản tuyệt vời với màu xanh trên bộ đồng phục của cô, nhưng có lẽ không phải là lựa chọn hiệu quả nhất để áp đặt uy quyền. Vì tôi biết rõ cô em mình, biết rằng cô sẽ nhận ra mình đang đỏ mặt và nổi khùng. Vì chúng tôi không có lệnh khám và kỳ thực chẳng có việc gì ở đây có thể coi là ít nhiều chính thức được phép, tôi không cho rằng nổi khùng là chiến thuật lý tưởng nhất lúc này.

    “Steban,” tôi lên tiếng trước khi Deb kịp nói ra điều gì đó đáng hối tiếc.

    “Hả?”

    “Ông làm việc ở đây bao lâu rồi?”

    Ông ta nhún vai. “Từ khi chỗ này khai trương. Trước đó, tôi từng làm việc hai năm ở nhà thi đấu cũ.”

    “Vậy chắc ông cũng đang làm việc tại đây tuần trước khi người ta tìm thấy xác chết dưới sân băng chứ?”

    Steban nhìn lảng đi. Dưới làn da rám nắng, khuôn mặt ông ta trở nên xanh lét. Ông ta khó nhọc nuốt khan. “Tôi không bao giờ muốn phải nhìn lại thứ gì tương tự nữa, anh bạn,” ông ta nói. “Không bao giờ.”

    Tôi gật đầu với sự thông cảm chân thành. “Thực lòng tôi cũng không thể trách ông,” tôi nói. “Và đó là lý do tại sao chúng tôi ở đây, Steban.”

    Ông ta cau mày. “Ý anh là gì?”

    Tôi đưa mắt nhìn Deb để chắc rằng cô em tôi không phải đang rút vũ khí ra hay làm điều gì tương tự. Cô liếc nhìn tôi với đôi môi mím chặt không tán đồng và gõ gõ chân xuống đất, nhưng không nói gì.

    “Steban,” tôi nói, bước lại gần người đàn ông hơn một chút và làm cho giọng nói của mình có vẻ bí mật và nghiêm trọng nhất có thể, “chúng tôi nghĩ rất có khả năng khi ông mở những cánh cửa kia ra sáng nay, ông sẽ tìm thấy điều tương tự đang chờ đợi ông.”

    “Mẹ kiếp!” Ông ta nổi khùng. “Tôi không muốn dây dưa gì với mấy thứ đó nữa.”

    “Tất nhiên là không rồi.”

    “Quỷ tha ma bắt thứ thối tha đó đi,” ông ta nói.

    “Chính xác,” tôi tán đồng. “Vậy sao không để chúng tôi thử ngó qua trước đã? Chỉ để bảo đảm chắc chắn thôi.”

    Ông ta há hốc mồm nhìn tôi giây lát, sau đó nhìn sang Deborah, lúc này vẫn đang cau mày, một bộ dạng đầy ấn tượng, được tôn lên thật đẹp nhờ bộ đồng phục.

    “Tôi có thể gặp rắc rối,” ông ta nói. “Có thể mất việc.”

    Tôi mỉm cười với vẻ thông cảm thứ thiệt. “Hoặc ông có thể đi vào trong và tự mình tìm thấy một đống chân tay bị chặt thành từng khúc. Và lần này còn nhiều hơn nhiều.”

    “Mẹ kiếp,” ông ta lại văng ra. “Tôi rúc đầu vào rắc rối, để rồi mất việc ư? Sao tôi lại phải làm thế hả?”

    “Thế còn bổn phận công dân thì sao?”

    “Thôi nào, anh bạn,” ông ta nói. “Đừng có bỡn với tôi. Các người liệu có quan tâm nếu tôi mất việc không hả?”

    Tuy không thực sự chìa tay ra, một thái độ tôi nghĩ rất cao quý, nhưng rõ ràng ông ta hy vọng có được một món quà nho nhỏ để an ủi mình trước nguy cơ có thể mất việc. Một điều hoàn toàn hợp lý, nếu nhớ ra đây là Miami. Nhưng tôi chỉ có vẻn vẹn năm đô la, tôi thực sự cần một cái bánh ca vát và một tách cà phê. Vậy nên tôi chỉ gật đầu với vẻ thấu hiểu đậm chất đàn ông.

    “Ông nói đúng,” tôi nói. “Chúng tôi hy vọng ông không phải nhìn những mảnh thi thể đó, có phải tôi đã nói là lần này sẽ có rất nhiều rồi không nhỉ? Nhưng tất nhiên tôi không muốn ông mất việc. Rất xin lỗi đã làm phiền ông, Steban. Chúc một ngày tốt lành!” Tôi mỉm cười với Deborah. “Đi thôi nào, sĩ quan. Chúng ta cần quay lại hiện trường còn lại và tìm kiếm những ngón tay.”

    Deborah vẫn còn càu cạu, nhưng ít nhất cô em tôi vẫn đủ trí khôn để gia nhập màn kịch. Cô mở cửa xe trong lúc tôi vui vẻ vẫy tay chào Steban và leo vào.

    “Đợi đã!” Steban gọi với theo. Tôi đưa mắt nhìn ông ta với vẻ quan tâm đầy lịch thiệp. “Tôi thề có Chúa, tôi không bao giờ muốn phải tìm thấy thứ thối tha đó lần nữa,” ông ta nói. Ông ta nhìn tôi giây lát, có lẽ hy vọng tôi sẽ nới tay hơn và ném ra một nắm tiền xu, nhưng như tôi đã nói, cái bánh ca vát kia đang đè nặng trong tâm trí và tôi không nhượng bộ. Steban liếm môi, sau đó hối hả quay đi và tra một chiếc chìa khóa vào ổ khóa của khung cửa lớn hai cánh. “Vào đi. Tôi đợi ngoài này.”

    “Nếu ông chắc rằng...” tôi nói.

    “Nhanh lên, anh bạn, anh còn muốn gì ở tôi nữa? Vào đi!”

    Tôi đứng dậy, mỉm cười với Deborah. “Ông ấy chắc rồi,” tôi nói. Cô chỉ lắc đầu nhìn tôi, một sự pha trộn kỳ lạ giữa sự thất vọng của một cô em gái và vẻ chua chát của cớm. Cô đi vòng quanh xe, tiến tới bước qua cửa vào trong và tôi theo sau.

    Bên trong, nhà thi đấu mát mẻ và tối tăm, một điều đáng ra chẳng nên làm tôi ngạc nhiên. Nói cho cùng, đây là một sân hockey vào buổi sáng. Hẳn Steban biết công tắc hệ thống chiếu sáng ở đâu, nhưng ông ta đã không cho chúng tôi biết. Deb lấy chiếc đèn pin lớn đeo ở thắt lưng ra và lia chùm sáng quanh sân băng. Tôi nín thở khi ánh sáng quét qua tấm lưới của một khung thành, rồi của khung thành bên kia. Cô từ tốn đi vòng quanh mép sân một vòng, dừng lại một hai lần, rồi quay trở lại cạnh tôi.

    “Không có gì hết,” cô em tôi nói. “Chết tiệt.”

    “Nghe như em có vẻ thất vọng.”

    Cô hầm hừ với tôi và quay trở ra. Tôi đứng lại giữa sân băng, cảm thấy hơi lạnh từ mặt băng phả lên và nghĩ ngợi về những ý nghĩ vui vẻ của mình. Hay nói cho chính xác hơn, không hẳn là những ý nghĩ vui vẻ của tôi.

    Bởi vì trong khi Deb quay người đi ra ngoài, tôi nghe thấy một giọng nói khe khẽ vọng tới từ đâu đó phía trên vai tôi, một tiếng tặc lưỡi bình thản, khô khan, một sự lay động quen thuộc nhè nhẹ như của một chiếc lông chim, chỉ vừa ở ngay trên ngưỡng nghe. Trong lúc Deborah yêu quý quay ra, tôi đứng im lìm ở đó, trên mặt băng, nhắm mắt lại, lắng nghe những gì người bạn lâu năm muốn nói. Cũng không nhiều, chỉ là một tiếng thì thầm mơ hồ, một thoáng thanh âm, nhưng tôi vẫn lắng nghe. Tôi nghe thấy anh ta tặc lưỡi, thì thầm những điều êm ái và khủng khiếp vào một bên tai, trong lúc tai bên kia cho tôi hay Deborah đã gọi Steban vào bật hệ thống chiếu sáng lên. Việc này được ông ta thực hiện vài khoảnh khắc sau đó, khi tiếng thì thầm khe khẽ không rõ giọng đột ngột vút lên tận đỉnh cao của sự hài hước bỡn cợt pha lẫn sự kinh hãi chân thành.

    Có gì vậy? Tôi lịch thiệp hỏi. Câu trả lời duy nhất của tôi là cảm giác thú vị đầy thèm muốn trào dâng. Tôi không rõ điều đó có nghĩa là gì. Nhưng tôi không mấy ngạc nhiên khi những tiếng la hét bắt đầu cất lên.

    Steban la hét thực sự khủng khiếp. Đó là một tiếng gào thảng thốt lạc giọng, nghe có vẻ giống như ông ta đang nôn ọe dữ dội hơn bất cứ điều gì khác. Ông ta chẳng đem tới chút nhạc điệu nào cho phản ứng của mình.

    Tôi mở mắt ra. Thật không thể nào tập trung được trong những hoàn cảnh thế này, nhưng dù thế nào đi nữa cũng chẳng có gì thêm để nghe. Tiếng thì thầm đã dừng lại khi màn la hét bắt đầu. Nói cho cùng, tiếng la hét đã nói lên tất cả rồi, phải không nào? Vậy là tôi mở mắt ra vừa kịp lúc để thấy Steban bay vọt ra khỏi nhà kho nhỏ ở đầu đối diện nhà thi đấu như bị ném đi từ máy bắn đá và bay theo đường vòng cung xuống giữa sân băng. Ông ta đập xuống mặt băng, trượt văng đi, lăn lộn, rên la hoảng loạn bằng tiếng Tây Ban Nha và cuối cùng đâm thẳng đầu vào rào chắn. Ông ta lảo đảo đứng lên, loạng choạng đi tới cửa ra, run lẩy bẩy vì kinh hoàng. Một vệt máu nhỏ loang ra trên mặt băng ở chỗ ông ta rơi xuống.

    Deborah vội vã lao qua cửa, súng trong tay, Steban cuống cuồng bò ngang qua bên cạnh cô, loạng choạng lao ra ánh sáng ban ngày. “Cái gì vậy?” Deborah hỏi, giơ súng lên sẵn sàng.

    Tôi nghiêng đầu, lắng nghe dư âm vọng lại từ tiếng tặc lưỡi khô khan cuối cùng, và lúc này, với tiếng la hét kinh hoàng vẫn còn ong ong trong tai mình, tôi hiểu ra.

    “Anh tin Steban đã tìm thấy thứ gì đó,” tôi nói.

    --------------------------------
    1 Dirty Harry là nhân vật thanh tra cảnh sát do Clint Eastwood đóng trong một loạt phim hình sự nổi tiếng hồi những năm 70. Ở đây Dexter đang nói kháy Deborah.

Trang 2 / 3 ĐầuĐầu 123 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-29-2014, 02:07 PM
  2. Nóng: Giết vợ, xối nước định giết hại con thơ
    By duyanh in forum Văn Hóa-Xã Hội-Kinh Tế
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 10-07-2014, 01:18 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •