Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Kẻ nào không chịu đựng được đau khổ trong tình yêu thì không xứng đáng để hưởng hạnh phúc của tình yêu.
V.Ạ Sukhomlinski
Trang 3 / 3 ĐầuĐầu 123
Results 21 to 26 of 26

Chủ Đề: Dexter Và Giấc Mơ Hắc Ám

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,703
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Dexter Và Giấc Mơ Hắc Ám

    Dexter Và Giấc Mơ Hắc Ám

    Jeff Lindsay

    Người dịch: Lê Đình Chi





    Giới thiệu nội dung

    Dexter Morgan, một anh chàng đẹp trai quyến rũ, nhưng bên trong vẻ ngoài đẹp đẽ ấy là một bí mật chết người - anh là một kẻ giết người hàng loạt. Nhưng không giống như những tên cuồng sát khác, anh luôn hành động theo một quy tắc vàng: chỉ giết kẻ có tội. Công việc phân tích máu giúp cho anh có thể dễ dàng xác định mục tiêu và cô bạn gái Rita là một vỏ bọc tuyệt vời giúp anh giống như một người hoàn toàn bình thường.

    Nhưng tới một ngày, nhận được cuộc điện thoại từ cô em Deborah, anh tới hiện trường một vụ án mạng mà kẻ thủ ác có cách ra tay gần như y hệt anh, thậm chí còn tinh vi hơn. Khi càng ngày càng có nhiều nạn nhân hơn, anh quyết tâm tìm ra hung thủ, vừa để giúp cô em gái thăng tiến trong sự nghiệp, và cũng để trả lời câu hỏi kinh hoàng nhất: liệu kẻ đó có phải là chính anh?



    Giới thiệu tác giả

    Jeff Lindsay (14/7/1952) là bút danh của Jeffry P. Freundlich, nhà biên kịch, tiểu thuyết gia chuyên về thể loại tội phạm, hiện ông đang sống ở Florida với vợ - nhà văn Hilary Hemingway, cháu gái đại văn hào Ernest Hemingway.

    Dexter Và Giấc Mơ Hắc Ám đã nằm trong top Một trăm tiểu thuyết trinh thám kinh dị hay nhất mọi thời đại do website uy tín NPR tổ chức.

    Năm 2005, Dexter và Giấc Mơ Hắc Ám đoạt giải thưởng Dilys Award.

    Phần một của xê ri phim truyền hình ăn khách tại Mỹ ra mắt năm 2006, Dexter, được chuyển thể rất thành công từ cuốn tiểu thuyết này.



    Nhận định về tác phẩm

    Một trong những kẻ giết người hàng loạt được yêu mến nhất trong dòng văn học trinh thám ly kỳ. - The New Yorker

    Hắc ám và lắt léo… Táo bạo và bất ngờ. - USA Today

    Dexter là một nhân vật có sức lôi cuốn, dù anh chàng không phải là típ người bạn muốn mời dùng chung bữa tối. - Chicago Sun-Times



    Lời cảm ơn

    Cuốn sách này hẳn không thể được hoàn tất nếu không có sự giúp đỡ nhiệt thành về nghiệp vụ và tinh thần của Einstein và Deacon. Họ đại diện cho những gì tốt nhất của cảnh sát Miami, họ đã dạy cho tôi hình dung ra ít nhiều cách thức để thực hiện công việc cực kỳ khó khăn này, tại một nơi còn khó khăn hơn.

    Tôi cũng muốn gửi lời cám ơn tới những người đã đưa ra gợi ý hết sức hữu ích, đặc biệt là vợ tôi, gia đình Barclay, Julio S., bác sĩ Freudlich, bà A. L. Freudlich, Pookie, Bear và Tinky.

    Tôi biết ơn sâu sắc Jason Kaufman về sự sáng suốt và nhìn xa trông rộng của ông trong việc định hình nên cuốn sách này.

    Cũng xin được cám ơn Doris, Quý bà của Tiếng cười cuối cùng.

    Và xin gửi lời cảm ơn đặc biệt tới Nick Ellison, người có tất cả các tố chất của một người đặc vụ nhưng chưa bao giờ là đặc vụ.



    Thân tặng Hilary, người là tất cả với tôi.



    Chương 1

    Trăng. Trăng lộng lẫy. Mặt trăng tròn trịa, đầy đặn, đỏ quạch, đêm sáng như ban ngày, với ánh trăng ngập tràn mặt đất, mang tới sự hân hoan, vui sướng. Mang tới cả tiếng gọi vang vọng hết cỡ của đêm nhiệt đới, âm thanh mềm mại và hoang dã của gió rin rít lướt qua những sợi lông trên hai cánh tay bạn, tiếng thở than trống rỗng của ánh sao, tiếng nghiến răng kèn kẹt của ánh trăng lan ra trên mặt nước.

    Tất cả cùng kêu gọi Nhu Cầu. Ôi, bản đồng ca gầm rít của hàng nghìn giọng nói đang ẩn kín, tiếng gào thét của Nhu Cầu từ bên trong, “thực thể đó”, kẻ quan sát im lặng, thực thể lạnh lùng trầm mặc, kẻ phá lên cười, kẻ nhảy dưới trăng. Phần tôi mà không phải là tôi, thực thể luôn mỉa mai, cười cợt, song hành với sự thúc giục đầy thèm khát. Với Nhu Cầu. Và lúc này, Nhu Cầu trở nên rất mạnh mẽ, chậm rãi lách cách len lỏi đi một cách lạnh lùng, tỉnh táo và sẵn sàng - tuy nhiên nó vẫn chờ đợi và theo dõi, buộc tôi cũng phải chờ đợi và theo dõi.

    Tôi đã chờ đợi và theo dõi gã mục sư từ năm tuần nay. Nhu Cầu đã thúc giục, hành hạ, đòi hỏi tôi phải tìm ra một ai đó, tìm ra kẻ tiếp theo, tìm ra gã mục sư này. Từ ba tuần nay, tôi đã biết hắn chính là kẻ tôi tìm, là kẻ tiếp theo, chúng tôi thuộc về Người lữ hành Tối Tăm, cả hắn và tôi. Trong ba tuần vừa qua, tôi đã phải đấu tranh với sức ép, với Nhu Cầu đang lớn dần, dâng lên trong tôi như một con sóng lớn gầm gào tràn lên trên bãi biển và không hề rút xuống, đang càng ngày càng trào lên dữ dội hơn sau mỗi tiếng tích tắc của đồng hồ trong đêm trăng sáng này.

    Nhưng đây cũng là quãng thời gian phải thận trọng, thời gian để bảo đảm chắc chắn. Không phải bảo đảm chắc chắn về gã mục sư, không, tôi đã chắc chắn về hắn từ lâu. Thời gian là để bảo đảm việc này có thể được thực hiện một cách đúng đắn, gọn ghẽ, mọi thứ đều được gói ghém kỹ lưỡng, được dọn sạch sẽ. Tôi không thể để bị bắt, không phải lúc này. Tôi đã nỗ lực quá vất vả, quá lâu, để chuyện này phục vụ cho bản thân, bảo vệ cuộc sống hạnh phúc quý báu của chính mình.

    Tới lúc này tôi đã trải nghiệm được quá nhiều niềm vui nên không thể dừng lại.

    Chính vì thế tôi luôn cẩn trọng. Luôn ngăn nắp. Luôn chuẩn bị sẵn sàng từ trước để mọi chuyện đều ổn thỏa. Và khi đã ổn, bỏ ra thêm thời gian để thật sự chắc chắn. Đó là cách của Harry, Chúa ban phước lành cho ông ấy, người cảnh sát hoàn hảo nhìn xa trông rộng, bố nuôi của tôi. Hãy luôn bảo đảm chắc chắn, hãy cẩn trọng, chính xác, ông đã nói như thế, từ một tuần nay tôi tin chắc mọi việc đều đúng như Harry mong muốn - tốt đến mức tối đa có thể. Và khi tôi rời nhiệm sở tối nay, tôi biết đã đến lúc. Tối nay sẽ là Đêm Hành Động. Tối nay có gì đó thật khác biệt. Tối nay chuyện đó sẽ xảy ra, phải xảy ra. Như đã từng xảy ra trước đây. Như nó sẽ còn xảy ra nữa.

    Tối nay chuyện đó sẽ xảy đến với gã mục sư.

    Hắn là Cha Donovan. Hắn dạy nhạc cho đám trẻ tại trại trẻ mồ côi St. Anthony ở Homestead, Florida. Bọn trẻ yêu quý hắn. Lẽ tất nhiên, hắn cũng yêu quý trẻ con, phải, rất yêu. Hắn đã dành trọn cả một đời cho chúng. Học tiếng Creole và tiếng Tây Ban Nha. Học âm nhạc của họ nữa. Tất cả vì lũ trẻ. Cho dù hắn làm gì, tất cả đều vì lũ trẻ.

    Mọi thứ.

    Tôi theo dõi hắn tối nay giống như đã từng theo dõi hắn bao buổi tối trước. Theo dõi trong lúc hắn dừng lại trước của trại trẻ mồ côi, trò chuyện với một cô bé da đen vừa đi theo hắn ra ngoài. Cô bé vẫn còn nhỏ, không quá tám tuổi, vóc dáng quá nhỏ so với lứa tuổi này. Hắn ngồi xuống bậc thềm, trò chuyện với cô bé khoảng năm phút. Cô bé cũng ngồi xuống và không ngừng nhún nhảy. Họ cùng phá lên cười. Cô bé tựa người vào hắn. Hắn vuốt tóc cô bé. Sau đó, cô bé mỉm cười và chìa một bàn tay ra rồi gục đầu áp vào người gã mục sư. Cha Donovan vỗ về cô bé, đứng dậy, rồi hôn tạm biệt. Người nữ tu bé bỏng bật cười và nói gì đó với Cha Donovan. Hắn cũng nói lại gì đó.

    Rồi sau đó, hắn bắt đầu bước về phía chiếc xe của mình. Cuối cùng, tôi cũng thu mình lại để tấn công và...

    Chưa đến lúc. Một chiếc xe tải nhỏ của dịch vụ lao công đỗ cách cửa tòa nhà bốn mét rưỡi. Khi Cha Donovan đi ngang qua nó, cánh cửa bên sườn xe trượt mở ra. Một người đàn ông ló ra ngoài, miệng ngậm một điếu thuốc lá đang hút dở, lên tiếng chào gã mục sư, còn hắn tựa người lên thành chiếc xe và trò chuyện với người đàn ông kia.

    May mắn. Lại là may mắn. May mắn luôn hiện hữu trong những “đêm như thế này”. Tôi không hề trông thấy người đàn ông đó, thậm chí cũng không ngờ anh ta có mặt ở đó. Nhưng hẳn anh ta đã nhìn thấy tôi. Nếu không nhờ “may mắn”.

    Tôi hít một hơi thật sâu. Rồi thở ra từ từ, đều đặn, lạnh như băng. Chỉ là một chi tiết nhỏ. Tôi đã không quên mất bất cứ chi tiết nào khác. Tôi đã chuẩn bị tất cả rất chu đáo, tất cả đúng như cũ, tất cả theo đúng cách cần phải làm. Sẽ ổn thôi.

    Bây giờ.

    Cha Donovan lại tiếp tục bước về phía chiếc xe của hắn. Hắn quay lại phía sau một lần, lên tiếng gọi ai đó. Người lao công vẫy tay từ trên ngưỡng cửa trại trẻ mồ côi, sau đó ném điếu thuốc lá của anh ta đi và biến mất vào bên trong tòa nhà. Biến mất.

    May mắn. Lại là may mắn.

    Cha Donovan lục túi tìm chìa khóa, mở cửa, chui vào trong xe. Tôi nghe thấy tiếng chìa khóa cắm vào ổ. Nghe thấy tiếng động cơ khởi động. Và rồi...

    BÂY GIỜ.

    Tôi ngồi bật dậy trên băng ghế sau xe và quàng nút thòng lọng quanh cổ hắn. Một cử động nhanh nhẹn, trơn tru, đẹp mắt, và sợi dây câu đã được thử có thể chịu được sức nặng năm mươi pound 1 thít chặt lại. Hắn hơi quay đầu đi vì hoảng hốt và hiểu ra tất cả.

    “Giờ mày là của tao,” tôi nói với hắn, khiến hắn cứng người lại ngay lập tức, hoàn hảo như thể đã được luyện tập trước, gần như có thể cho rằng hắn đã nghe thấy giọng nói còn lại, nghe thấy kẻ theo dõi đang phá lên cười trong tôi.

    “Hãy làm chính xác như tao nói,” tôi lên tiếng.

    Hắn khò khè thở đầy khó khăn và liếc mắt nhìn vào gương chiếu hậu. Khuôn mặt của tôi đã ở đó, đợi hắn, được bọc kín trong chiếc mặt nạ bằng lụa trắng chỉ để hở ra hai mắt.

    “Mày hiểu chứ?” Tôi nói. Lớp lụa của mặt nạ gập lại giữa hai môi trong lúc tôi nói.

    Cha Donovan không nói gì, chỉ nhìn chằm chằm vào đôi mắt tôi. Tôi siết sợi thòng lọng.

    “Mày hiểu chứ?” Tôi nhắc lại, có phần nhẹ nhàng hơn.

    Lần này hắn gật đầu. Hắn đưa một bàn tay run rẩy sờ lên nút thòng lọng, có vẻ không dám chắc chuyện gì sẽ xảy ra nếu hắn tìm cách nới nó ra. Khuôn mặt hắn đã trở nên tím bầm.

    Tôi nới nút thòng lọng cho hắn. “Hãy biết điều,” tôi nói, “và mày sẽ sống lâu hơn.”

    Hắn hít một hơi thật sâu. Tôi có thể nghe thấy tiếng không khí rít lên trong họng hắn. Nhưng hắn vẫn ngồi im, không cố gắng tìm cách bỏ chạy.

    Vậy là rất tốt.

    Chúng tôi lái xe đi. Cha Donovan làm theo chỉ dẫn của tôi, không giở trò, không do dự. Chúng tôi đi về hướng nam, qua thành phố Florida và chạy theo tuyến đường Card Sound. Tôi có thể thấy rõ tuyến đường đó làm hắn bất an, nhưng hắn không hề phản đối. Hắn không tìm cách bắt chuyện với tôi. Hắn giữ cả hai bàn tay trên vô lăng, nhợt nhạt và nắm chặt, vì thế khớp các đốt ngón tay đều gồ lên. Điều đó cũng rất tốt.

    Chúng tôi đi xe về phía nam thêm năm phút nữa, đồng hành cùng chúng tôi không còn âm thanh nào ngoài tiếng động phát ra từ các lốp xe, tiếng gió thổi và mặt trăng tròn trên bầu trời đang dạo những nốt nhạc hùng tráng của nó trong các mạch máu khắp người tôi, kẻ đang thận trọng theo dõi thầm cười khoan khoái trước dòng chảy gấp gáp của cảm xúc dữ dội ban đêm.

    “Rẽ vào đây,” cuối cùng tôi lên tiếng.

    Đôi mắt gã mục sư hướng vào mắt tôi qua gương chiếu hậu. Cơn hốt hoảng đang cố bò ra khỏi đôi mắt hắn, leo xuống khuôn mặt, tìm tới miệng hắn để nói ra thành lời, nhưng...

    “Rẽ!” Tôi nói, hắn rẽ. Bất thình lình như thể hắn đã chờ đợi điều này từ lâu rồi, đã luôn chờ đợi nó và rẽ.

    Con đường đất nhỏ mờ ảo, ẩn hiện phía trước. Bạn gần như cần phải biết trước nó nằm ở đó. Nhưng tôi biết. Tôi đã từng tới nơi này trước đây. Con đường chạy dài hai dặm rưỡi, uốn khúc ba lần, xuyên qua những bụi cỏ răng cưa, qua những hàng cây, chạy dọc bên một con mương nhỏ, đi sâu qua vùng đầm lầy và dẫn vào một trảng trống.

    Năm mươi năm trước, ai đó đã xây ở đây một căn nhà. Phần lớn những gì được xây lên vẫn còn nguyên đó. Những gì còn lại vẫn rất rộng. Vẫn còn nguyên ba căn phòng, một nửa mái nhà, dẫu rằng nơi này đã hoàn toàn bị bỏ hoang từ nhiều năm qua.

    Ngoại trừ khu vườn rau cũ nằm bên cạnh căn nhà. Có những dấu vết cho thấy ai đó mới đào đất ở đó cách đây chưa lâu lắm.

    “Dừng xe lại,” tôi nói khi ánh đèn pha chiếu sáng căn nhà đổ nát.

    Cha Donovan lảo đảo làm theo lệnh. Nỗi sợ hãi giờ đây đã bó chặt hắn bên trong thân xác, tứ chi và suy nghĩ của hắn tất cả đều trở nên cứng đờ.

    “Tắt động cơ đi,” tôi ra lệnh và hắn làm theo.

    Tất cả đột ngột trở nên thật im ắng.

    Có con vật nhỏ bé nào đó líu ríu trên một ngọn cây. Tiếng gió thổi lào xào qua mặt cỏ. Rồi xung quanh lại trở nên im ắng hơn, một sự im lặng sâu hun hút, tới mức gần như nuốt chửng giai điệu đang gầm gào của điệu nhạc đêm đang vang lên từ bản thể bí mật của tôi.

    “Ra ngoài,” tôi nói.

    Cha Donovan không động đậy. Đôi mắt hắn nhìn chằm chằm về phía khu vườn rau.

    Trong đó có bảy đống đất nhỏ nhô lên, hiện rõ trong tầm mắt. Những đống đất vừa được xúc lên trông thật tối tăm dưới ánh trăng. Chắc hẳn trông chúng còn tối tăm hơn với Cha Donovan. Hắn vẫn không nhúc nhích.

    Tôi siết mạnh nút dây, mạnh hơn so với mức hắn nghĩ có thể sống sót được, hơn những gì hắn biết có thể xảy đến với mình. Lưng hắn cong ra sau, áp vào lưng ghế, những đường mạch máu nổi hằn lên trên trán, hắn nghĩ mình sắp chết.

    Nhưng không phải thế. Chưa đến lúc. Thực ra là chưa trong một quãng thời gian ngắn nữa.

    Tôi đá mở cửa xe, lôi hắn ra, chỉ để hắn cảm nhận thấy sức mạnh của tôi. Hắn ngã vật xuống nền đường đất bụi, quằn người lại như một con rắn bị thương. Người lữ hành Tối Tăm phá lên cười thích thú, còn tôi diễn nốt phần của mình. Tôi giẫm một chân ủng lên ngực Cha Donovan và giữ chặt nút thắt.

    “Mày phải nghe và làm như tao nói,” tôi nói với hắn. “Mày phải làm thế.” Tôi cúi xuống, nhẹ nhàng nới lỏng nút thắt. “Mày nên biết thế. Điều đó rất quan trọng,” tôi nói.

    Và hắn lắng nghe. Đôi mắt hắn vằn lên, đau đớn, ứa nước ròng ròng trên khuôn mặt, rồi bắt gặp ánh mắt tôi trong một thoáng vỡ lẽ và tất cả những gì phải xảy ra đang phơi bày trước mắt hắn. Hắn đã thấy. Hắn biết cách xử sự đúng đắn quan trọng đến mức nào với mình. Hắn bắt đầu hiểu.

    “Giờ thì đứng dậy,” tôi nói.

    Chầm chậm, thật chậm, với ánh mắt không rời khỏi mắt tôi, Cha Donovan đứng dậy. Chúng tôi cứ đứng như thế một hồi lâu, mắt nhìn thẳng vào nhau, như hòa làm một và cùng chung một nhu cầu, rồi hắn run lẩy bẩy. Hắn giơ một bàn tay đưa lên mặt sau đó lại buông thõng ngay xuống nửa chừng.

    “Vào trong nhà,” tôi nói, thật nhẹ nhàng. Trong nhà mọi thứ đã sẵn sàng.

    Cha Donovan cúi gằm mắt xuống. Mặt đưa lên, hướng về phía tôi, nhưng không thể nhìn được nữa. Hắn quay về phía ngôi nhà, nhưng đứng sững lại khi nhìn thấy những đống đất tối sẫm trong vườn. Hắn muốn nhìn vào mắt tôi, nhưng không thể, đặc biệt là sau khi đã nhìn qua những đống đất đen thui dưới ánh trăng ấy.

    Hắn bắt đầu bước đi về phía ngôi nhà, còn tôi giữ chắc sợi dây tròng vào cổ hắn. Hắn bước đi ngoan ngoãn, đầu cúi gằm, một nạn nhân ngoan ngoãn. Leo lên năm bậc thềm tàn tạ, bước qua lối đi hẹp dẫn tới cửa trước, rồi đẩy cửa. Cha Donovan dừng lại. Hắn không nhìn lên. Hắn không nhìn tôi.

    “Đi qua cửa,” tôi nói bằng giọng ra lệnh mềm mỏng của mình.

    Cha Donovan run sợ.

    “Giờ hãy đi qua cửa,” tôi lặp lại.

    Nhưng hắn không thể.

    Tôi cúi người qua trước hắn, đẩy cánh cửa mở ra. Tôi dùng chân đạp gã mục sư đi vào trong. Hắn loạng choạng, đứng thẳng người dậy, sững lại ngay ngưỡng cửa, hai mắt nhắm nghiền.

    Tôi đóng cửa lại. Tôi đã để sẵn dưới sàn ngay cạnh cửa một cây đèn pin và bật đèn lên.

    “Nhìn đi,” tôi thì thầm.

    Cha Donovan chậm chạp, thận trọng mở một mắt ra.

    Người hắn đông cứng.

    Thời gian như ngừng trôi với Cha Donovan.

    “Không,” hắn nói.

    “Có,” tôi nói.

    “Ôi, không,” hắn nói.

    “Ồ, có,” tôi nói.

    Hắn gào lên, “KHÔÔÔÔNG!”

    Tôi kéo giật dây thòng lọng. Tiếng hét bị cắt ngang, hắn quỳ sụp xuống hai đầu gối, miệng bật ra một tiếng rên rỉ nức nở và đưa tay lên ôm lấy mặt. “Phải,” tôi nói. “Đúng là một cảnh tượng ghê tởm, phải không nào?”

    Hắn dùng cả khuôn mặt để khép chặt đôi mắt lại. Hắn không muốn nhìn, không phải vào lúc này, không phải như thế này. Tôi không chê trách hắn, thực sự là thế, vì đó quả là một cảnh tượng ghê tởm. Tôi đã chỉ bận tâm về điều đó kể từ lúc sắp đặt nó dành cho hắn. Nhưng hắn phải nhìn thấy nó. Bắt buộc. Không chỉ vì tôi. Không chỉ vì Người lữ hành Tối Tăm. Vì hắn. Hắn buộc phải nhìn. Và hắn không chịu nhìn.

    “Mở mắt ra, Cha Donovan,” tôi lên tiếng.

    “Làm ơn,” hắn khẩn khoản thì thầm một cách thật ghê tởm. Tiếng cầu khẩn của hắn chạm đến thần kinh của tôi một cách thật khó chịu, đáng ra không nên như thế, đáng ra phải là sự kiểm soát trọn vẹn lạnh như băng, nhưng những lời nói ấy đã chạm tới tôi, sự rền rĩ trên khuôn mặt của cái đống thối tha đó, tôi đá hai chân hắn duỗi ra khỏi dưới thân người. Tôi giật mạnh nút thòng lọng lên, dùng bàn tay phải chộp lấy gáy hắn, rồi dập thẳng tay khuôn mặt hắn xuống những tấm ván sàn bẩn thỉu bụi bặm. Có chút máu trào ra, điều đó càng khiến tôi điên hơn.

    “Mở mắt ra,” tôi ra lệnh. “Mở mắt của mày ra. Mở ra NGAY. Nhìn đi.” Tôi chộp lấy tóc hắn, kéo giật đầu ra sau. “Làm như tao bảo,” tôi nói. “Nhìn đi. Nếu không tao sẽ xẻo hai mi mắt của mày.”

    Lời nói của tôi tỏ ra cực kỳ có sức thuyết phục. Thế là hắn làm theo. Hắn làm như tôi yêu cầu. Hắn nhìn.

    Tôi đã nỗ lực rất nhiều để thu xếp mọi thứ chỉn chu, nhưng bạn buộc phải làm tốt nhất có thể với những gì bạn phải xử lý. Có lẽ tôi đã không thể chuẩn bị được màn chào đón này nếu những đứa trẻ đó không ở ngoài vườn đủ lâu để mọi thứ trở nên khô ráo hết, nhưng chúng vẫn rất bẩn. Tôi đã cố lau chùi đi phần lớn đất bẩn, nhưng một số thi thể đã ở trong vườn lâu đến nỗi bạn khó lòng phân biệt rõ những gì thuộc về chúng và những gì thuộc về đất vườn. Sự thực là bạn không bao giờ có được câu trả lời, khi bạn dừng lại để tâm nghĩ về điều đó. Quá bẩn…

    Có tất cả bảy nạn nhân, bảy thi thể nhỏ bé, bảy đứa trẻ mồ côi lẫn lộn trong đất bẩn được bày ra trên những tấm nệm cao su, loại này sạch sẽ hơn và không gây rỉ nước. Bảy đường vạch thẳng nằm ngang trong căn phòng.

    Chỉ thẳng về phía cha Donovan. Vậy là hắn biết.

    Hắn sắp sửa gia nhập vào chúng.

    “Hỡi Mary, đầy màu nhiệm…” Hắn bắt đầu lên tiếng. Tôi siết mạnh nút thòng lọng.

    “Không thêm một lời nào như thế nữa, Cha. Không phải lúc này. Giờ là lúc dành cho sự thật.”

    “Làm ơn,” hắn sặc sụa.

    “Phải rồi, cầu xin tao đi. Thế là tốt đấy. Tốt hơn rất nhiều.” Tôi lại giật thòng lọng lần nữa. “Mày có nghĩ rằng kia là tất cả không, Cha? Bảy thi thể? Chúng có cầu xin không?” Hắn không có gì để nói. “Mày có nghĩ kia là tất cả chúng không, Cha? Chỉ có bảy thôi sao? Liệu tao đã tìm ra hết chưa?”

    “Ôi, Chúa ơi,” hắn rên lên, với âm hưởng đau đớn thật êm tai khi nghe.

    “Thế còn ở các thành phố khác thì sao, Cha? Ở Fayetteville thì sao? Mày có muốn nói về Fayetteville không?” Hắn chỉ bật ra một tiếng nức nở tắc nghẹn, không phải lời nói. “Ở East Orange thì sao? Có phải ở đó là ba không? Hay tao còn thiếu mất một đứa trẻ nữa ở đó? Thật khó lòng biết chắc được. Có phải ở East Orange có bốn đứa không, Cha?”

    Cha Donovan cố thét lên. Không còn đủ không gian trong cổ họng hắn cho một tiếng gào ra trò, nhưng tiếng gào này thực sự có cảm xúc đằng sau nó, điều này đã bù lại cho kỹ thuật tệ hại nó được phát âm ra. Rồi hắn đổ vật ra trước, úp mặt xuống, tôi để mặc cho hắn sụt sùi rên rỉ một hồi trước khi lôi đứng dậy. Hắn không còn đứng vững, không còn giữ được tự chủ. Ý chí của hắn đã xẹp xuống, cằm ướt sũng nước dãi.

    “Làm ơn,” hắn nói. “Tôi không thể ngừng được. Chỉ là tôi không thể ngừng được. Làm ơn, ông cần phải hiểu…”

    “Tao hiểu hết, Cha,” tôi nói, lúc này có điều gì đó trong giọng nói của tôi, giọng nói của Người lữ hành Tối Tăm, âm hưởng của nó khiến hắn như hóa đá. Hắn từ từ ngước lên nhìn, sững sờ trước những gì thấy trong đôi mắt tôi. “Tao hiểu rất rõ,” tôi nói rồi bước lại ghé sát vào mặt hắn. Những giọt mồ hôi trên hai má hắn đông cứng. “Mày thấy đấy,” tôi tiếp tục, “tao cũng không thể ngừng được.”

    Lúc này chúng tôi đứng sát kề nhau, gần như chạm vào nhau, sự bẩn thỉu của hắn đột nhiên trở nên quá nhiều. Tôi giật lấy nút thòng lọng, đá hai chân hắn khuỵu xuống lần nữa. Cha Donovan bò lăn ra dưới sàn.

    “Nhưng còn những đứa trẻ?” Tôi nói. “Tao sẽ không bao giờ làm chuyện này với những đứa trẻ.” Tôi giẫm chiếc ủng đế cứng sạch bóng của mình lên sau đầu hắn, ấn mặt hắn úp xuống. “Không giống mày, Cha. Không bao giờ là trẻ con. Tao cần phải tìm ra những kẻ như mày.”

    “Ông là thứ gì?” Cha Donovan thì thào.

    “Sự khởi đầu,” tôi nói. “Và sự kết thúc. Hãy gặp kẻ Hủy Diệt của mày, Cha.” Tôi chuẩn bị sẵn sàng cái kim tiêm, khi nó đâm xuyên vào cổ hắn đúng như dự kiến, có một chút phản kháng từ những múi cơ căng cứng, nhưng từ gã mục sư thì không. Tôi ấn pít tông và chiếc xi lanh trở nên rỗng không, khiến Cha Donovan chìm vào sự bình yên nhanh chóng, sạch sẽ. Vài khoảnh khắc, chỉ cần vài khoảnh khắc, đầu hắn bắt đầu bồng bềnh, rồi quay mặt về phía tôi.

    Liệu lúc này hắn có thực sự nhìn thấy tôi không? Liệu hắn có nhìn thấy những chiếc găng tay cao su, chiếc áo khoác cẩn thận che kín người, chiếc mặt nạ bằng lụa? Liệu hắn có thực sự thấy tôi không? Hay điều đó chỉ xảy ra trong căn phòng khác, căn phòng của Người lữ hành Tối Tăm, Căn phòng Sạch Sẽ? Hai tối trước, nó đã được sơn trắng, được quét, lau, rửa sạch hết mức có thể. Ở giữa căn phòng đó, nơi các cửa sổ đã được dán chặt bằng những dải băng dính cao su trắng dày, dưới ánh sáng của những ngọn đèn giữa phòng, liệu cuối cùng hắn có nhìn thấy tôi ở đó, bên chiếc bàn tôi đã chuẩn bị, với những chiếc hộp đựng túi rác màu trắng, những chai hóa chất và một hàng nhỏ những cái cưa và dao không? Liệu cuối cùng hắn có nhìn thấy tôi không?

    Hay liệu hắn có thấy bảy thi thể nhem nhuốc kia, ai biết được còn bao nhiêu nữa? Liệu cuối cùng, hắn có hình dung ra chính hắn, không thể gào thét được nữa, dần biến thành một đám xương tàn như thế ngoài vườn?

    Hắn không thể, tất nhiên rồi. Trí tưởng tượng của hắn không cho phép hắn nhìn nhận chính mình như cùng một giống loài. Và theo cách nào đó, hắn có lý. Hắn sẽ không bao giờ biến thành một nắm xương tàn giống như đã làm với những đứa trẻ. Tôi sẽ không bao giờ làm thế, không bao giờ cho phép điều đó xảy ra. Tôi không giống Cha Donovan, không phải là thứ quái vật đó.

    Tôi là một con quái vật rất gọn ghẽ, sạch sẽ.

    Sự gọn ghẽ đòi hỏi thời gian, tất nhiên rồi, nhưng cũng đáng công sức bỏ ra. Đáng để làm Người lữ hành Tối Tăm vui vẻ, để giữ cho anh ta lặng yên thêm một thời gian dài nữa. Đáng để hoàn tất những gì phải làm một cách đúng đắn và chu toàn. Loại bỏ bớt một đám rác rưởi khỏi thế giới này. Thêm vài túi rác được gói ghém gọn gàng nữa, và góc thế giới nho nhỏ của tôi trở thành một nơi sạch sẽ hơn, hạnh phúc hơn. Một nơi tốt đẹp hơn.

    Tôi có khoảng tám giờ đồng hồ trước khi phải biến khỏi nơi này. Tôi sẽ cần đến toàn bộ quãng thời gian đó để thu xếp cho thỏa đáng.

    Tôi trói chặt gã mục sư xuống bàn bằng băng dính, cắt bỏ hết quần áo của hắn. Tôi thực hiện công việc chuẩn bị sơ bộ rất nhanh, cạo, lau, cắt đi những thứ thò ra một cách không ngăn nắp. Như mọi lần, tôi cảm thấy luồng cảm hứng đầy phấn khích từ từ dâng lên và bắt đầu chạy rần rật khắp cơ thể. Nó sẽ chập chờn lướt qua người tôi trong lúc làm việc, rồi dâng lên và mang tôi theo cùng với nó, cho tới tận khoảnh khắc cuối cùng, khi Nhu Cầu và gã mục sư cùng nhau trôi đi theo một ngọn triều đang lui dần rồi tan biến.

    Ngay trước khi tôi bắt đầu phần việc hệ trọng, Cha Donovan mở mắt ra nhìn tôi. Giờ đây trong đó không còn nỗi sợ hãi nữa, chuyện này đôi khi vẫn xảy ra. Hắn nhìn thẳng vào tôi, khuôn miệng mấp máy.

    “Cái gì?” Tôi hỏi và ghé đầu lại sát hơn một chút. “Tao không nghe thấy mày nói.”

    Tôi nghe thấy tiếng thở, một nhịp thở chậm rãi, bình thản, rồi hắn nói lại lần nữa trước khi đôi mắt nhắm lại.

    “Sẵn sàng phục vụ mày,” tôi nói, rồi bắt tay vào việc.

  2. #21
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,703
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 22

    Cách thức ứng xử trong giới cảnh sát, như tôi đã cố gắng hết mức để chỉ cho Deborah hiểu, là một thứ trơn tuột với vô vàn xúc tu. Khi bạn để sát lại gần nhau hai lực lượng thực thi luật pháp thực sự chẳng buồn bận tâm đến nhau, các hoạt động phối hợp thường có xu hướng tiến triển rất chậm chạp, rất bài bản, với những chiêu ngáng chân, những màn xin lỗi, những lời nhục mạ và đe dọa ngấm ngầm. Tất nhiên, tất cả tạo thành một màn kịch thật thú vị khi theo dõi, nhưng cũng làm các quá trình lôi thôi rắc rối hơn mức cần thiết. Kết quả là phải mất đến vài giờ trôi qua sau màn la hét kinh hoàng của Steban trước khi lực lượng thực thi pháp luật được triển khai và đội của chúng tôi thực sự bắt tay vào xem xét điều ngạc nhiên nho nhỏ đầy hạnh phúc mà ông bạn mới Steban của chúng tôi khám phá ra khi mở cửa nhà kho.

    Trong quãng thời gian đó, Deborah chủ yếu đứng một chỗ, cố hết sức kiểm soát tâm trạng nóng ruột của mình, nhưng lại chẳng mấy nỗ lực trong việc che giấu nó đi. Đại úy Matthews xuất hiện, lôi theo LaGuerta. Hai người bắt tay với hai nhân vật đồng cấp của hạt Broward, đại úy Moon và thám tử McClellan. Một loạt lời qua tiếng lại được cố gắng kìm giữ ở mức lịch sự vang lên, tập trung sôi sục vào tâm điểm này: Matthews đoán chắc một cách khá có lý rằng việc tìm thấy sáu cánh tay và sáu cái chân ở Broward là một phần trong cuộc điều tra của sở ông ta, liên quan tới ba cái đầu thiếu mất đúng những phần cơ thể này được phát hiện ra ở Miami - Dade. Ông ta lý luận, với những lời lẽ thân thiện và đơn giản đến thái quá, rằng dường như có phần hơi không tự nhiên khi nghĩ ông ta có thể tìm thấy ba cái đầu không thân mình, rồi sau đó ba phần thân mình không đầu hoàn toàn khác lại xuất hiện tại nơi này.

    Moon và McClellan, cũng có lý chẳng kém, chỉ ra rằng việc người ta tìm thấy những cái đầu người tại Miami xảy ra như cơm bữa, nhưng ở Broward việc này có phần bất thường hơn một chút, cũng có lẽ vì thế họ nhìn nhận việc này có hơi nghiêm trọng hơn, dù thế nào đi nữa cũng chẳng có cách nào để biết chắc hai vụ việc có liên quan với nhau cho tới khi vài đánh giá sơ bộ được tiến hành, việc này rõ ràng phải do họ thực hiện, vì nơi này thuộc địa bàn quản lý của họ. Tất nhiên, họ sẽ hoàn toàn vui vẻ chia sẻ kết quả.

    Tất nhiên, đó là chuyện không thể chấp nhận được với Matthews. Ông ta thận trọng giải thích rằng người của bên Broward không biết cần tìm cái gì và có khả năng sẽ để sót điều gì đó hay phá hủy mất một tang vật tối quan trọng. Không phải vì bất tài hay ngu ngốc, tất nhiên rồi. Matthews chắc chắn người của bên Broward đương nhiên là hoàn hảo, xét về mặt năng lực.

    Tất nhiên, lời bày tỏ trên chẳng hề được Moon đón nhận một cách hân hoan, ông này bình luận với chút phật ý rằng nhận xét trên có vẻ muốn ám chỉ sở ông ta chỉ toàn những kẻ vô dụng hạng hai. Đến đây, đại úy Matthews đủ điên rồ để đáp lại một cách quá ư lịch sự, ồ, không, không phải là hạng hai. Tôi dám chắc màn đôi co hẳn đã kết thúc bằng màn so tài với nắm đấm nếu anh chàng lịch lãm từ Sở Điều tra Florida (FDLE 1) không tới đóng vai trọng tài.

    FDLE là một kiểu FBI cấp tiểu bang. Bọn họ có quyền thực thi pháp luật tại bất cứ nơi đâu trong phạm vi tiểu bang và vào bất cứ lúc nào, không giống đám đặc vụ liên bang, bọn họ được phần lớn cảnh sát địa phương tôn trọng. Viên sĩ quan vừa được nhắc đến là một anh chàng tầm vóc trung bình, đầu cạo nhẵn bóng và có bộ râu tỉa ngắn. Anh chàng này dường như không có gì khác thường với tôi, nhưng khi anh ta bước tới giữa hai tay đại úy cảnh sát đô con hơn nhiều, hai người này lập tức im bặt và cùng lùi một bước ra sau. Nói một cách ngắn gọn, anh ta đã đưa mọi thứ trở lại trật tự và có tổ chức, vậy là chúng tôi nhanh chóng trở lại là một hiện trường ngăn nắp, trật tự của một vụ giết người hàng loạt.

    Nhân vật từ FDLE tới đã phân xử rằng đây là cuộc điều tra của phía Miami - Dade trừ khi và cho tới lúc các mẫu mô thi thể chứng minh rằng những phần thân mình tìm thấy tại đây và những cái đầu tìm được bên đó không có liên hệ gì với nhau. Nói một cách thực tế và tức thời, điều đó có nghĩa là đại úy Matthews cần là người đầu tiên đứng ra cho đám phóng viên đã kịp xúm đông xúm đỏ bên ngoài chụp ảnh.

    Angel - không - họ - hàng xuất hiện và bắt tay vào việc. Tôi hoàn toàn không dám chắc mình có thể khai thác được gì từ chuyện này, ý tôi không hề muốn nói tới quyền hạn thực thi luật pháp. Không, tôi đang bận tâm hơn nhiều tới bản thân biến cố, điều đã khiến tôi có nhiều thứ phải suy nghĩ, không chỉ đơn thuần về hành động giết người và chia phần các xác chết, cho dù bản thân nó cũng đã đủ ấn tượng. Nhưng tất nhiên tôi đã tìm được cơ hội ngó qua căn nhà kho nhỏ bé kinh hoàng của Steban từ trước khi cảnh sát xuất hiện, các vị có thể trách cứ tôi được không, thú thật đi? Tôi chỉ muốn lấy mẫu từ hiện trường và cố hiểu tại sao anh bạn đồng nghiệp vô danh đáng mến của tôi lại chọn cách chất đống những phần thi thể còn lại trong đó, kỳ thực chỉ là một cái nhìn qua.

    Vậy là, ngay sau khi Steban bò lê bò càng qua cửa, quằn quại và rên rỉ như một con lợn bị hóc một quả bưởi, tôi đã hăng hái quay lại nhà kho để xem thứ gì đã làm ông ta bị kích động đến thế.

    Lần này, các phần thi thể không được gói ghém lại chu đáo. Thay vào đó, chúng được bày ra dưới sàn nhà thành bốn nhóm. Khi nhìn cận cảnh hơn, tôi nhận ra một điều kỳ thú.

    Một cái chân được để nằm dọc theo bên trái nhà kho. Nó nhợt nhạt, mang màu xanh - trắng không hề dính máu, quanh cổ chân có một sợi dây chuyền vàng nhỏ với một mặt dây hình trái tim. Quả thực rất bắt mắt, không hề bị những vết máu ghê tởm làm vấy bẩn, quả là một tác phẩm tuyệt đẹp. Hai cánh tay sẫm màu, cũng được cắt ra khéo léo tương tự, được uốn cong lại ở khuỷu và đặt dọc bên cạnh cái chân, với khuỷu tay chìa ra phía đối diện. Ngay bên cạnh là phần chân tay còn lại, tất cả đều được uốn cong tại các khớp và được xếp thành hai vòng tròn lớn.

    Màn sắp đặt khiến tôi phải mất một khoảnh khắc suy nghĩ. Tôi chớp mắt, rồi đột nhiên nó xuất hiện trong tầm chú ý, tôi phải cau mày hết cỡ để tránh không bật cười khúc khích thành tiếng chẳng khác gì một cô bé con, đúng như Deb vừa chỉ trích tôi lúc trước.

    Bởi vì hắn đã sắp xếp các cánh tay và chân thành các chữ cái, những chữ cái này tạo thành một từ bé nhỏ duy nhất: BOO.

    Ba khúc thân mình được cẩn thận sắp xếp dưới từ BOO thành phần tư vòng tròn, tạo nên một nụ cười nhỏ nhắn dễ mến theo phong cách Halloween.

    Thật là một tên đểu cáng tinh quái.

    Nhưng ngay trong lúc ngưỡng mộ thái độ đùa cợt của màn sắp đặt thể hiện, tôi băn khoăn tự hỏi tại sao hắn lại chọn thể hiện màn sắp đặt ở đây, trong một nhà kho, thay vì ngoài sân băng, nơi nó có thể được nhiều khán giả hơn chiêm ngưỡng. Đúng là nhà kho này khá rộng rãi, nhưng vẫn là một nơi khép kín, chỉ vừa đủ chỗ để trình bày. Vậy thì tại sao?

    Trong lúc tôi còn băn khoăn, cửa ngoài nhà thi đấu bật tung trong tiếng lạch cạch, đội tiếp ứng đầu tiên tới nơi, không nghi ngờ gì nữa. Một khoảnh khắc sau đó, khung cửa bị mở toang, hắt vào một luồng không khí lạnh trên mặt băng, vào lưng tôi...

    Luồng không khí lạnh lẽo xuyên qua xương sống tôi, được trả lời bằng một luồng nóng hổi di chuyển lên trên theo cùng con đường đó. Nó lướt đi như những ngón tay chạm nhẹ nhàng tới tận phần đáy tối tăm trong phần ý thức của tôi, có thứ gì đó thay đổi đâu đó sâu thẳm trong màn đêm không trăng nơi tiềm thức của tôi ẩn náu. Tôi cảm thấy Người lữ hành Tối Tăm đồng tình dữ dội với điều gì đó tôi thậm chí không thể nghe thấy hay hiểu được, ngoại trừ theo cách nào đó nó có liên quan tới cảm giác khẩn cấp nguyên thủy làn gió lạnh mang tới, những bức tường khép lại, cùng với một cảm giác mãnh liệt về...

    Sự đúng đắn. Không nghi ngờ gì nữa. Có điều gì đó đơn giản đã diễn ra đúng đắn hoàn toàn và làm kẻ đang chơi trò đuổi bắt với tôi trong bóng tối khoan khoái, phấn khích và hài lòng theo cách tôi chưa hiểu được. Bồng bềnh lơ lửng trên tất cả là ý niệm thật lạ lùng rằng chuyện này rất quen thuộc. Chẳng có điều gì trong nó có bất kỳ ý nghĩa nào với tôi, nhưng nó vẫn luôn hiện hữu ở đó. Và trước khi tôi có thể khám phá những điều hé lộ lạ lùng này xa hơn nữa, tôi bị một anh chàng trẻ tuổi thấp người, to bè bè mặc đồng phục màu xanh thúc giục đứng dậy và giơ hai tay ra rõ ràng trong tầm nhìn. Không nghi ngờ gì nữa, anh chàng này là người đầu tiên trong toán cảnh sát vừa tới nơi, anh ta đang chĩa súng của mình vào tôi một cách đầy thuyết phục. Vì anh chàng này chỉ có một dải lông mày đen sẫm chạy liền một lèo ngang mặt và không có phần trán nào rõ rệt, tôi quyết định làm theo ý nguyện của anh ta sẽ là một ý tưởng rất khôn ngoan. Anh ta có vẻ đúng là loại vai u thịt bắp đần độn có thể nã đạn vào một người vô tội - hay thậm chí cả tôi. Tôi bước ra khỏi nhà kho.

    Thật không may, cuộc rút lui của tôi làm hé lộ ra màn trình diễn nho nhỏ được trưng bày trong nhà kho, anh chàng trẻ tuổi kia đột nhiên hối hả lao đi tìm chỗ nào đó để cho ra bữa sáng của mình. Anh ta trút nó vào một thùng rác to cách đó chừng mười foot 2 trước khi bắt đầu những âm thanh ậm ọe kinh hồn. Tôi đứng khá im lìm, chờ đợi anh ta xong việc. Một thói quen xấu xa, phun thức ăn đang tiêu hóa dở dang tung tóe ra như thế. Thật mất vệ sinh. Đây lại là một người chăm lo cho an ninh cộng đồng nữa chứ.

    Thêm nhiều bộ đồng phục nữa bước vào và chẳng bao lâu sau, anh bạn có bộ mặt khỉ của tôi lại có thêm vài đồng nghiệp cùng chia sẻ cái thùng rác với anh ta. Âm thanh tạo nên quả là khó chịu đến cùng cực, chưa nói gì tới thứ mùi lúc này đang xộc thẳng về hướng tôi. Nhưng tôi vẫn lịch sự chờ họ kết thúc, vì một trong những điều đáng kinh ngạc nhất về một khẩu súng ngắn là nó vẫn có thể được sử dụng hiệu quả từ một người đang nôn ọe. Nhưng cuối cùng thì một trong số những anh chàng mặc đồng phục cũng đứng thẳng người dậy, lấy tay áo lau mặt, bắt đầu xét hỏi tôi. Tôi nhanh chóng được loại khỏi vòng nghi vấn, được đẩy sang bên với yêu cầu không được đi đâu hay động vào bất cứ thứ gì.

    Đại úy Matthews và thám tử LaGuerta xuất hiện không bao lâu sau đó, khi họ cuối cùng cũng kiểm soát hiện trường, tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn một chút. Nhưng bây giờ, khi thực sự có thể đi đâu đó và đụng chạm vào thứ gì đó, tôi chỉ ngồi và suy nghĩ. Những điều tôi nghĩ tới lúc này lại rắc rối một cách đáng ngạc nhiên.

    Tại sao màn sắp đặt trong nhà kho dường như lại quen thuộc đến thế?

    Trừ khi tôi sắp quay trở lại khoảnh khắc ngớ ngẩn trước đó trong ngày và thuyết phục bản thân rằng chính tôi đã thực hiện chuyện này, tôi hoàn toàn không hiểu nổi tại sao nó lại dường như chẳng có gì bất ngờ một cách thú vị đến thế. Tất nhiên, không phải tôi đã làm chuyện này. Tôi đã cảm thấy xấu hổ về sự ngớ ngẩn của ý tưởng ấy. Boo, hẳn rồi. Thậm chí còn chẳng đáng mất thời gian bận tâm tới nó. Thật lố bịch.

    Vậy, ừm - tại sao nó lại có vẻ quen thuộc đến thế?

    Tôi thở dài và trải nghiệm thêm một cảm giác nữa, sự bối rối khi không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Chỉ đơn giản là tôi không có chút ý tưởng nào về những gì đang diễn ra, ngoại trừ theo cách nào đó tôi là một phần của nó. Một khám phá dường như không hữu ích cho lắm, vì nó khớp hoàn toàn với những kết luận gần gũi khác mà tôi đi tới sau khi cân nhắc phân tích một cách hợp lý. Nếu loại bỏ ý tưởng ngớ ngẩn là tôi đã làm chuyện này mà không hề biết - và tôi đã loại bỏ nó - vậy thì mỗi lời giải thích tiếp theo đều trở nên còn khó chấp nhận hơn. Vậy là bản kết luận tóm tắt của Dexter về vụ án này có thể diễn đạt như sau: anh ta có can dự vào nó theo cách nào đó, nhưng thậm chí còn chẳng biết điều đó có nghĩa là gì. Tôi có thể cảm nhận thấy những chiếc bánh xe nho nhỏ trong bộ óc từng có lúc đầy tự hào của mình trật ra khỏi đường ray và rơi xuống sàn. “Choang, choang”. Ái chà. Vậy là Dexter trật bánh.

    Thật may làm sao, tôi đã được cứu thoát khỏi sụp đổ hoàn toàn nhờ sự xuất hiện của Deborah yêu quý. “Đi nào,” cô em tôi cộc cằn lên tiếng, “chúng ta đi lên tầng.”

    “Anh có thể hỏi vì sao được không?”

    “Chúng ta sẽ đi hỏi chuyện các nhân viên văn phòng,” cô nói. “Để xem họ có biết gì không.”

    “Bọn họ nhất định phải biết gì đó nếu họ có một văn phòng,” tôi đề xuất.

    Cô nhìn tôi giây lát, sau đó quay đi. “Đi thôi.”

    Có thể đó là do âm điệu ra lệnh trong giọng nói của cô, vậy là tôi đi theo. Chúng tôi đi sang phía đầu bên kia của nhà thi đấu, đối diện với chỗ tôi ngồi lúc trước, rồi đi vào sảnh, ở đó, một tay cảnh sát Broward đứng bên ngoài thang máy, ngay bên ngoài hàng cửa kính, tôi có thể thấy thêm vài người nữa đứng bên ngoài cạnh một rào chắn. Deb bước tới chỗ anh chàng cớm ở thang máy và nói, “Tôi là Morgan.” Anh ta gật đầu, bấm nút thang máy đi lên. Anh chàng nhìn tôi không chút biểu cảm, một thái độ nói lên khá nhiều điều. “Tôi cũng là Morgan,” tôi nói với anh ta. Anh chàng chỉ nhìn tôi, rồi quay mặt đi nhìn chằm chằm qua cửa kính ra ngoài.

    Có tiếng chuông nghèn nghẹt vang lên, thang máy đã tới nơi. Deborah hùng hổ bước vào, đấm tay vào nút mạnh đến mức đủ để làm tay cảnh sát ngước lên nhìn cô, cửa thang máy đóng lại.

    “Sao lại cáu bẳn thế, em gái?” Tôi hỏi cô. “Chẳng phải đây là việc em vẫn muốn làm sao?”

    “Nó chỉ là chuyện sai vặt, ai cũng biết thế,” cô em tôi hằm hè.

    “Nhưng là việc sai vặt kiểu dành cho thám tử,” tôi chỉ ra.

    “Ả điếm LaGuerta đó lại chọc ngoáy vào,” cô em tôi rít lên. “Chừng nào xong chuyện sai vặt ở đây, em sẽ phải quay về vai đứng đường.”

    “Ôi trời. Trong bộ đồ ngắn cũn cỡn khêu gợi của em sao?”

    “Trong bộ đồ ngắn cũn cỡn khêu gợi của em,” cô em tôi nói, trước khi tôi kịp pha chế ra một câu an ủi thần diệu nào đó, chúng tôi lên tới tầng đặt văn phòng và cửa thang máy mở ra. Deb hùng hục bước ra, tôi theo sau. Chúng tôi nhanh chóng tìm thấy phòng nhân viên, nơi những người làm việc bàn giấy đã bị tập trung lại để chờ tới khi công lý cao cả có thời giờ bận tâm tới bọn họ. Thêm một tay cớm Broward nữa đứng ngoài cửa phòng, có lẽ để bảo đảm chắc chắn không nhân viên văn phòng nào tẩu thoát tới biên giới Canada. Deborah gật đầu với anh chàng cảnh sát ngoài cửa và bước vào phòng. Tôi bám theo sau cô không mấy hào hứng, để mặc tâm trí lang thang theo vấn đề của mình. Một khoảnh khắc sau đó, tôi giật mình bừng tỉnh khỏi cơn mơ màng khi Deborah hất hàm về phía tôi và đưa một anh chàng trẻ tuổi mặt bóng nhờn, cau có với mái tóc dài thượt kinh khủng ra cửa. Tôi lại bám theo.

    Tất nhiên, cô em tôi đang cách ly anh chàng khỏi những người khác để thẩm vấn, một quy trình cảnh sát rất hay ho, nhưng nói một cách thực sự chân thành, nó chẳng hề làm tôi thấy hưng phấn lên chút nào. Tôi đoán biết rằng chẳng ai trong đám người này biết điều gì có ý nghĩa đó chia sẻ. Nếu phán đoán từ mẫu vật đầu tiên này, có thể yên tâm áp dụng phỏng đoán trúng đó cho cả cuộc đời anh ta cũng như cho vụ án mạng này. Đây chỉ là một việc vặt thường quy đã được đẩy cho Deb vì viên đại úy nghĩ cô em tôi đã làm tốt điều gì đó, nhưng cô vẫn chỉ là kẻ quấy rầy. Vậy là ông ta tống khứ cô em tôi đi chỗ khác với một chút mồi nhử mang mùi vị thám tử để giữ cho cô bận rộn và khuất mắt. Tôi đã bị lôi theo cô vì Deb muốn tôi đi cùng. Có thể cô em tôi muốn xem năng lực linh cảm thần diệu của tôi có thể giúp xác định xem bầy cừu văn phòng kia đã chén gì cho bữa sáng. Chỉ một cái liếc mắt nhìn qua nước da quý ông trẻ tuổi này là tôi có thể khá chắc chắn anh chàng đã xơi pizza lạnh, khoai tây rán, chắc là cả lít pepsi. Chế độ ẩm thực này đã phá hỏng nước da của anh ta và đem đến cho anh ta một vẻ thù địch trống rỗng.

    Dẫu vậy, tôi vẫn đi theo khi Quý ông Quàu Quạu dẫn Deborah tới một phòng họp ở đằng sau tòa nhà. Tại đó có một chiếc bàn dài bằng gỗ sồi với mười chiếc ghế tựa lưng cao màu đen kê giữa phòng, trong góc có một bàn làm việc với một bộ máy tính và vài thiết bị nghe nhìn. Trong lúc Deb và anh bạn trẻ mặt đầy mụn của cô ngồi xuống, bắt đầu cau mày nhìn nhau, tôi thơ thẩn bước tới chỗ cái bàn làm việc. Một giá sách nhỏ được kê dưới cửa sổ bên cạnh bàn. Tôi nhìn ra ngoài qua cửa sổ. Gần như ngay phía dưới mình, tôi có thể thấy đám phóng viên mỗi lúc một đông đang bu lại cũng như những chiếc xe tuần cảnh lúc này đang đậu quanh khung cửa nơi chúng tôi đã đi vào cùng Steban.

    Tôi nhìn sang giá sách, thầm nghĩ có thể dọn một khoảng trống nhỏ và tựa lưng vào đó, thoải mái lánh xa cuộc tra hỏi. Trên nóc giá sách có một chồng cặp tài liệu, đặt trên cùng là một vật thể nho màu xám. Nó vuông vắn, trông có vẻ như làm bằng nhựa. Một sợi dây đen chạy từ vật thể này tới sau bộ máy tính. Tôi nhấc nó lên để di chuyển.

    “Này!” Anh chàng ngốc cau có nói. “Đừng có động đến cái webcam!”

    Tôi nhìn Deb. Cô nhìn lại tôi, tôi dám thề hai lỗ mùi cô xì hơi ra như một con ngựa đua tại cổng xuất phát vậy. “Cái gì?” Cô em tôi khẽ nói.

    “Tôi đã chỉnh nó hướng xuống lối vào,” anh ta nói. “Bây giờ tôi sẽ phải chỉnh lại. Trời ạ, sao các người cứ phải động chạm vào đồ của tôi vậy chứ?”

    “Anh ta nói là webcam,” tôi nói với Deborah.

    “Một máy quay,” cô nói với tôi.

    “Phải.”

    Cô em tôi quay sang chàng Hoàng tử hào hoa trẻ tuổi. “Nó vẫn bật chứ?”

    Anh ta há hốc mồm nhìn cô, vẫn tiếp tục tập trung duy trì vầng trán cau có hết sức chính đáng của mình. “Cái gì?”

    “Cái máy quay,” Deborah nói. “Nó hoạt động chứ?”

    Anh ta khịt mũi, sau đó đưa một ngón tay lên quệt mũi. “Cô nghĩ gì thế, tôi có thể làm được việc gì không nếu nó không hoạt động? Hai trăm đô đấy. Nó hoạt động ngon lành.”

    Tôi nhìn qua cửa sổ nơi chiếc máy quay đã được chĩa ra trong lúc anh bạn trẻ nọ tiếp tục màn cằn nhằn cau có của anh ta. “Tôi có một trang web và đủ thứ, Kathouse.com. Người ta có thể quan sát đội hockey khi họ tới đây và ra về.”

    Deborah bước tới đứng cạnh tôi, nhìn qua cửa sổ. “Nó hướng về phía cửa ra vào,” tôi nói.

    “Đương nhiên,” anh bạn của chúng tôi hồ hởi nói. “Nếu không làm thế nào những người vào trang web của tôi thấy đội hockey được?”

    Deborah quay lại nhìn anh ta. Sau chừng năm giây, anh chàng đỏ mặt và cúi gằm mắt xuống bàn. “Tối qua máy quay có bật không?” cô em tôi hỏi.

    Anh ta không nhìn lên, chỉ lúng búng. “Tất nhiên. Ý tôi là tôi đoán vậy.”

    Deborah quay sang tôi. Hiểu biết về máy tính của cô ở mức vừa đủ để hoàn tất được các báo cáo giao thông tiêu chuẩn. Cô biết tôi khá hơn ít nhiều về chuyện này.

    “Anh đã thiết lập nó như thế nào?” Tôi hỏi cái đỉnh đầu của anh chàng trẻ tuổi. “Các hình ảnh có được tự động lưu trữ lại không?”

    Lần này anh ta nhìn lên. Tôi đã dùng “lưu trữ” như một động từ, vậy chắc chắn là ổn. “Phải,” anh ta nói. “Hình ảnh được cập nhật sau mỗi mười lăm giây và ghi thẳng vào ổ cứng. Tôi thường xóa vào buổi sáng.”

    Deborah quả thực đang nắm lấy tay tôi mạnh đến mức đủ làm bục lớp da. “Sáng nay anh đã xóa chưa?” Cô hỏi anh ta.

    Anh ta lại đảo mắt nhìn đi nơi khác. “Chưa,” anh ta nói. “Các vị xông vào, lùng sục, hò hét. Tôi thậm chí còn chưa kịp kiểm tra email.”

    Deborah nhìn tôi. “Hoan hô,” tôi nói.

    “Lại đây,” cô em tôi nói với anh chàng nhân viên bất hạnh.

    “Hả?”

    “Lại đây,” cô lặp lại, anh ta chậm chạp đứng dậy, miệng há hốc, xoa xoa các khớp ngón tay.

    “Cái gì,” anh ta nói.

    “Anh có thể làm ơn qua đây được không, thưa quý ông?” Deborah ra lệnh với đúng kiểu cách của một tay cớm kì cựu, anh chàng kia lập tức cựa quậy và lại gần. “Chúng tôi có thể xem qua những bức ảnh của tối qua được chứ?”

    Anh ta há hốc miệng nhìn về phía máy tính, sau đó về phía Deb. “Tại sao?” Anh ta hỏi. A, trí thông minh của con người quả là đầy ắp những bí ẩn.

    “Bởi vì,” Deborah nói, thật chậm rãi và thận trọng. “Tôi nghĩ có thể anh đã chụp được một bức hình của kẻ sát nhân.”

    Anh chàng kia tròn mắt nhìn cô chằm chằm, xương quai hàm buông thõng xuống. “Hay quá nhỉ,” anh ta thở hắt ra. “Không bỡn chứ? Ý tôi… Không, thật chứ? Ý tôi...” Mặt anh ta lại càng đỏ dữ hơn.

    “Chúng tôi có thể nhìn qua các bức hình không?” Deb nói. Anh ta đứng im giây lát, sau đó lao tới ngồi xuống cái ghế kê sau bàn làm việc và bấm chuột. Lập tức màn hình bừng sáng, anh ta bắt đầu gõ bàn phím và bấm chuột lia lịa. “Tôi cần bắt đầu từ lúc nào?”

    “Mọi người ra về khi nào?” Deborah hỏi anh ta.

    Anh ta nhún vai. “Tối qua chúng tôi không có việc gì. Mọi người về hết lúc mấy giờ nhỉ... tám giờ thì phải.”

    “Bắt đầu từ lúc nửa đêm,” tôi nói, anh ta gật đầu.

    “Bắt đầu nào,” anh ta nói. Anh chàng im lặng miệt mài một lát, sau đó, “Chạy đi nào,” anh ta lẩm bẩm. “Đường truyền chỉ có tốc độ 600 megahertz,” anh ta nói. “Họ không chịu nâng cấp. Họ cứ luôn nói nó ổn cả, nhưng nó chậm khủng khiếp và sẽ không... Được rồi,” anh ta nói, rồi đột ngột ngừng lại.

    Một hình ảnh tối đen xuất hiện trên màn hình: bãi để xe vắng tanh phía dưới chúng tôi. “Nửa đêm,” anh ta nói, nhìn chằm chằm lên màn hình. Sau mười lăm giây, bức hình được thay thế bằng một khuôn hình giống hệt.

    “Liệu chúng ta có phải xem liền năm giờ thứ này không?” Deborah hỏi.

    “Tua qua đi,” tôi nói. “Tìm ánh đèn pha hay thứ gì đó chuyển động.”

    “Đ... được thôi,” anh ta nói. Rồi thực hiện vài thao tác bấm, nháy chuột nhanh đến chóng mặt, các bức ảnh bắt đầu lướt qua một bức mỗi giây. Thoạt đầu chúng không thay đổi mấy: vẫn là bãi để xe tối om, một quầng sáng ở rìa khung hình. Sau khoảng chừng năm mươi khung hình trôi qua, một hình ảnh nhảy vào tầm nhìn. “Một chiếc xe tải!” Deborah nói.

    Anh chàng nghiện máy tính của chúng tôi lắc đầu, “An ninh,” anh ta nói, trong khuôn hình tiếp theo chiếc xe an ninh đã biến mất.

    Anh ta tiếp tục kéo chuột, các bức ảnh lướt đi, dài vô tận, không chút thay đổi. Cứ sau ba mươi hay bốn mươi khuôn hình, chúng tôi lại thấy chiếc xe an ninh lướt qua, rồi chẳng có gì hết. Sau vài phút như thế, quy luật này dừng lại, tiếp theo là một khoảng dài không có gì. “Khỉ thật,” anh bạn mới có khuôn mặt bóng nhẫy của chúng tôi nói.

    Deborah dành cho anh ta một cái nhìn gay gắt. “Máy quay hỏng à?”

    Anh ta đưa mắt nhìn cô em tôi, đỏ mặt và quay đi. “Đám nhân viên an ninh,” anh ta giải thích. “Đúng là lũ mắc dịch. Tối nào cũng thế, cứ vào lúc nào nhỉ, ba giờ thì phải? Bọn họ lại đậu xe ở bên phía đối diện và đi ngủ.” Anh ta gật gù trong lúc chuỗi dài những bức ảnh giống hệt nhau trôi qua. “Thấy không? Xin chào! Ngài bảo vệ mắc dịch? Vẫn mẫn cán với công việc ư?” Anh ta phát ra một âm thanh ướt nhẹp trong mũi mà tôi giả thiết đồng nghĩa với một tiếng cười. “Không dám đâu!” Anh ta lại tiếp tục khịt khịt và bấm cho những bức ảnh trượt đi.

    Thế rồi đột nhiên… “Đợi đã!” Tôi hô lớn.

    Trên màn hình, một chiếc xe tải nhỏ xuất hiện trong khung hình, bên cạnh cánh cửa phía dưới chúng tôi. Thêm một khung hình nữa, hình ảnh thay đổi, có một người đứng bên cạnh chiếc xe. “Anh có thể cho hình ảnh gần lại không?” Deborah hỏi.

    “Phóng to lên đi,” tôi nói trước khi anh ta kịp phản ứng nhiều hơn một cái nhíu mày khẽ. Anh ta di chuyển con trỏ, chọn lấy bóng đen trên màn hình và bấm chuột. Hình ảnh trở nên gần hơn.

    “Các vị sẽ không có được độ phân giải khá hơn đâu,” anh ta nói. “Số lượng điểm ảnh...”

    “Im đi,” Deborah nói. Cô em tôi đang nhìn chằm chằm vào màn hình dữ dằn đến mức đủ để khiến nó chảy ra, khi tôi cùng nhìn chăm chú vào màn hình, tôi có thể hiểu ngay tại sao.

    Khung hình tối đen, người nọ vẫn còn ở quá xa để có thể nhìn rõ tới mức chắc chắn, nhưng từ vài chi tiết tôi có thể nhìn rõ, có điều gì đó quen thuộc đến kỳ lạ ở anh ta; trong cách anh ta đứng đông cứng trong khung hình trên máy tính, cơ thể được phân phối cân đối trên hai chân, ấn tượng chung về dáng người. Bằng cách nào đó, cho dù thật mơ hồ, tất cả gộp lại thành một đáp án. Trong lúc một tiếng tặc lưỡi, kèm huýt sáo thật lớn dâng cuộn lên như một đợt sóng từ sâu dưới đáy bộ óc tôi, đáp án ấy ập xuống tôi với tác động như của một bản hòa nhạc piano lớn, quả thực kẻ trên khung hình trông thật giống với...

    “Dexter?” Deborah nói, như một tiếng rít và một tiếng rên kinh hoàng.

    Phải, đúng thế.

    Giống với Dexter.

    --------------------------------
    1 Florida Department of Law Enforcement.
    2 1 foot = 30,48 cm.
    Last edited by Nguy_Bien; 04-13-2011 at 04:41 PM.

  3. #22
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,703
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 23

    Tôi hoàn toàn chắc chắn là Deborah đã đem trả anh chàng trẻ tuổi kia trở lại phòng nhân viên, vì khi tôi lại ngẩng đầu nhìn lên, cô đang đứng trước mặt tôi, một mình. Bất chấp bộ đồng phục màu xanh, lúc này cô em tôi trông chẳng hề giống một cảnh sát chút nào. Trông cô có vẻ lo lắng, như thể chưa quyết định được nên gào lên thật to hay òa khóc, giống như một bà mẹ có đứa con trai cưng vừa khiến bà ta thất vọng cùng cực.

    “Thế nào?” Cô em tôi hỏi, tôi phải thừa nhận cô đã ghi được điểm.

    “Không kinh khủng lắm,” tôi nói. “Còn em?”

    Deborah đá vào một cái ghế. Nó đổ lăn kềnh. “Mẹ kiếp, Dexter, đừng làm bộ khôn ranh mắc dịch đó với em! Hãy nói cho em biết gì đó. Hãy nói với em đó không phải là anh!” Tôi không nói gì. “Được lắm, vậy hãy nói với em rằng đó là anh! Hãy nói GÌ ĐÓ đi! Bất cứ điều gì!”

    Tôi lắc đầu. “Anh...” Quả thực chẳng có gì để nói, vậy nên tôi lại lắc đầu. “Anh dám chắc đó không phải là anh,” tôi nói. “Ý anh là, anh không nghĩ đó là anh.” Ngay cả với tôi, nghe cũng có vẻ như tôi đang đứng cả hai chân trên lãnh địa của những câu trả lời ngớ ngẩn.

    “Ý anh là sao khi nói ‘dám chắc’?” Deb hỏi. “Có phải nó có nghĩa là anh không biết chắc hay không? Rằng có thể trong khuôn hình chính là anh?”

    “Được rồi,” tôi nói, một câu đáp trả thực sự thông minh. “Có thể lắm. Anh không biết.”

    “Và có phải ‘anh không biết’ có nghĩa là anh không biết liệu anh có muốn nói cho em biết hay không, hay nó có nghĩa là anh thực sự không biết có phải mình trong bức hình hay không?”

    “Anh dám chắc đó không phải là anh, Deborah,” tôi lặp lại. “Nhưng anh thực sự không biết hoàn toàn chắc chắn. Trông nó rất giống anh, phải không nào?”

    “Chết tiệt,” cô nói, đá một cú vào cái ghế đang nằm chỏng chơ dưới sàn. Nó đập vào bàn đánh “rầm”. “Làm thế nào mà anh lại không biết hả, quỷ tha ma bắt?”

    “Hơi khó để giải thích.”

    “Thử đi!”

    Tôi mở miệng, nhưng lần đầu tiên trong đời, chẳng có gì được phát ra. Như thể tất cả những thứ khác còn chưa đủ tồi tệ, lúc này dường như tôi vừa cạn kiệt nốt cả trí thông minh nữa. “Anh chỉ - anh đã có những... giấc mơ như thế, nhưng - Deb, anh thực sự không biết,” tôi nói, và có lẽ thực sự tôi đã lúng búng khi nói.

    “Chết tiệt, chết tiệt, CHẾT TIỆT!” Deborah nói. Và đá, đá, đá.

    Thật khó khi không đồng ý với cách cô phân tích tình thế hiện tại.

    Tất cả màn mơ màng ngu ngốc tự giày vò mình của tôi lập tức quay trở lại, rực sáng và giễu cợt. Tất nhiên đó không phải là mình - làm sao có thể là mình được? Chẳng lẽ mình lại không biết khi đó là mình sao? Có vẻ là không đấy, cậu nhóc yêu quý. Có vẻ cậu thực sự chẳng biết gì hết. Bởi vì bộ óc bé nhỏ tối om sâu thẳm của chúng ta nói với chúng ta đủ chuyện bồng bềnh cả bên trong lẫn bên ngoài thực tế nhưng các bức ảnh thì không biết nói dối.

    Deb tung ra một loạt đòn công kích dữ dội nữa vào cái ghế, sau đó đứng thẳng người dậy. Khuôn mặt cô đỏ lựng lên thật dữ dội, đôi mắt trông giống đôi mắt Harry hơn bất cứ lúc nào hết. “Được rồi,” cô nói. “Vậy nó là thế,” và cô chớp mắt, ngừng lời một lát trước khi cả hai chợt nhận ra cô vừa nói một câu đúng chất Harry.

    Trong một giây, Harry đang có mặt ở đây, trong căn phòng này, giữa tôi và Deborah, hai chúng tôi thật khác nhau, nhưng cả hai vẫn là những đứa con của Harry, hai nắm tay lạ lùng trong di sản duy nhất của ông. Deb mất đi một phần vẻ cứng rắn, cô em tôi trông có tình cảm hơn, một thứ đã lâu tôi không nhìn thấy. Cô nhìn tôi chăm chú hồi lâu, rồi sau đó quay đi. “Anh là anh trai em, Dex,” cô nói. Tôi tin chắc đó không phải là điều thoạt đầu cô định nói.

    “Sẽ không ai trách em cả,” tôi nói với cô.

    “Quỷ tha ma bắt anh đi, anh là anh trai em!” cô gắt lên và âm điệu dữ dằn của nó làm tôi hoàn toàn bất ngờ. “Em không biết chuyện gì diễn ra với anh và bố. Điều hai người chưa bao giờ nói đến. Nhưng em biết những gì ông hẳn sẽ làm.”

    “Tố cáo anh,” tôi nói, và Deborah gật đầu. Có thứ gì đó lấp lánh ươn ướt trong khóe mắt cô. “Anh là tất cả gia đình của em, Dex.”

    “Cũng không phải là một cân nhắc quá khó khăn với em, phải không?”

    Cô quay lại phía tôi, và lúc này tôi có thể thấy nước trong cả hai bên mắt. Suốt một hồi lâu, cô chỉ nhìn tôi. Tôi quan sát nước mắt chảy xuống từ mắt trái của Deb, lăn xuống gò má. Cô gạt nó đi, đứng thẳng người lên và hít một hơi thật sâu, rồi lại quay người ra phía cửa sổ lần nữa.

    “Đúng thế,” cô nói. “Ông chắc sẽ tố cáo anh. Cũng là điều em sẽ làm.” Cô đưa mắt rời khỏi tôi, hướng ra ngoài cửa sổ, ra xa tận chân trời.

    “Em cần hoàn tất những cuộc thẩm vấn này,” cô nói. “Em sẽ để anh xác định xem bằng chứng này có ý nghĩa không. Anh hãy mang nó về máy tính của mình ở nhà và xem xét tất cả những gì phải xem xét. Khi xong việc ở đây, trước khi em quay lại làm nhiệm vụ, em sẽ qua chỗ anh để nghe những gì anh có để nói.” Cô đưa mắt nhìn đồng hồ. “Tám giờ. Và nếu đến lúc đó em buộc phải bắt anh, em sẽ làm.” Cô quay lại nhìn tôi một hồi lâu. “Quỷ tha ma bắt chuyện này đi, Dexter,” cô nhẹ giọng nói và rời khỏi căn phòng.

    Tôi đi tới bên cửa sổ và tự mình quan sát. Phía dưới tôi, vòng xoáy của cảnh sát cùng đám phóng viên và những kẻ ngớ ngẩn vô công rồi nghề vẫn đang quay cuồng, không thay đổi. Ngoài xa, phía bên kia bãi để xe, tôi có thể nhìn thấy tuyến đường xa lộ đầy ắp xe con, xe tải đang vùn vụt lao đi ở mức giới hạn tốc độ của Miami, chín mươi lăm dặm 1 một giờ. Ngoài xa hơn nữa, lờ mờ hiện lên những đường viền vươn cao trên chân trời của Miami.

    Và ở đây, ở tiền cảnh, một anh chàng Dexter lờ mờ đang ngỡ ngàng, nhìn đăm đăm qua cửa sổ về phía một thành phố không chịu lên tiếng và sẽ chẳng đời nào cho anh ta biết bất cứ điều gì cho dù nó có lên tiếng đi chăng nữa.

    Quỷ tha ma bắt chuyện này đi, Dexter.

    Tôi không biết mình đã đứng nhìn chăm chăm qua cửa sổ bao lâu, nhưng cuối cùng tôi chợt nhớ chẳng có câu trả lời nào cho mình ngoài đó. Tuy thế, rất có thể trong máy tính của Anh chàng mặt nhờn sẽ có. Tôi quay lại bàn làm việc. Chiếc máy tính có ổ ghi đĩa CD. Trong ngăn kéo trên cùng, tôi tìm thấy một hộp đĩa CD dùng để ghi. Tôi cho một đĩa vào ổ ghi, sao lại toàn bộ file chứa các hình ảnh, rồi lấy chiếc đĩa CD ra. Tôi cầm nó lên, ngắm nhìn nó; cái đĩa không có gì nhiều để nói, có lẽ tôi đã tưởng tượng ra tiếng tặc lưỡi khe khẽ mà tôi nghĩ vừa nghe thấy từ giọng nói tối tăm trên băng ghế sau. Nhưng để cho an toàn, tôi xóa sạch file ảnh khỏi ổ cứng.

    Trên đường quay ra, mấy anh chàng cảnh sát bên Broward đang đứng gác chẳng hề chặn, hay thậm chí nói chuyện với tôi, nhưng với tôi, dường như họ đã nhìn theo với vẻ dửng dưng thật gay gắt và đầy ngờ vực.

    Tôi thầm tự hỏi cảm giác có một lương tâm sẽ như thế nào. Tôi đoán mình sẽ không bao giờ thực sự biết được - không giống như Deborah tội nghiệp, bị giằng xé bởi quá nhiều lòng trung thành khó mà chung sống được trong cùng một bộ óc. Tôi ngưỡng mộ sự quyết đoán của cô, để cho tôi toàn quyền quyết định xem bằng chứng này có ý nghĩa không. Rất rạch ròi. Nó mang một hơi hướng đậm chất Harry, giống như để một khẩu súng đã nạp đạn lại trên bàn trước mặt một người bạn có tội và bỏ đi, biết rằng kẻ tội lỗi sẽ siết cò và tiết kiệm cho thành phố chi phí của một phiên tòa. Trong thế giới của Harry, lương tâm của một con người không thể sống được với thứ nhục nhã đó.

    Nhưng như Harry biết quá rõ, thế giới của ông đã chết từ lâu - và tôi chẳng hề có bất cứ lương tâm, nhục nhã, hay cảm giác tội lỗi nào. Tất cả những gì tôi có là một cái đĩa CD với ít bức ảnh trong đó. Và tất nhiên, những bức ảnh ấy thậm chí còn ít có ý nghĩa hơn cả một lương tâm.

    Cần phải có một cách giải thích nào đó không dính dáng gì tới giả thiết Dexter lái một chiếc xe tải đi lòng vòng quanh Miami trong giấc ngủ của anh ta. Tất nhiên, phần lớn lái xe trên đường dường như đều thành công trong chuyện đó, nhưng ít nhất bọn họ cũng có nửa phần tỉnh táo khi khởi hành, phải không nào? Còn đây là tôi, với đôi mắt sáng trưng, tỉnh táo và hân hoan, không thể nào là loại người có lúc nào đó từng vật vờ trong thành phố và giết người một cách vô thức; không, tôi là loại người muốn tỉnh táo trong từng khoảnh khắc khi thực hiện chuyện đó. Để đi thẳng tới dòng cuối cùng, vẫn còn đó buổi tối trên cầu cạn. Về mặt vật lý, không thể có chuyện tôi đã ném cái đầu vào chính xe của mình, đúng không?

    Trừ khi tôi làm chính mình tin rằng bản thân có thể cùng một lúc phân thân ở hai nơi, một giả thiết nghe có vẻ rất hợp lý - nếu xét đến giả thiết duy nhất còn lại tôi có thể nghĩ tới là tin rằng mình chỉ đơn thuần ngồi đó, trong xe của tôi, quan sát ai đó ném tới một cái đầu, trong khi trên thực tế chính tôi quả thực đã ném cái đầu vào xe của mình và sau đó...

    Không. Thật lố bịch. Tôi không thể yêu cầu phần nhỏ nhoi còn sót lại từ bộ óc của mình tin vào thứ chuyện cổ tích này. Hẳn phải có một lời giải thích nào đó rất đơn giản, hợp lý, và tôi sẽ tìm ra nó, vậy là cho dù nghe giống như một người đang cố thuyết phục bản thân anh ta dưới gầm giường chẳng có gì, tôi nói to ý nghĩ ấy lên thành tiếng.

    “Có một cách giải thích đơn giản, hợp lý,” tôi nói với chính mình. Vì bạn chẳng bao giờ biết được có ai khác đang lắng nghe, tôi nói thêm. “Và dưới gầm giường chẳng có gì.”

    Nhưng thêm một lần nữa, lời đáp duy nhất là sự im lặng rất nhiều ngụ ý từ Người lữ hành Tối Tăm.

    Bất chấp sự khát máu đầy hân hoan thường lệ của những tay lái xe khác, tôi không tìm thấy câu trả lời nào trên đường lái xe về nhà. Hay để trung thực một cách hoàn hảo, tôi chẳng tìm ra câu trả lời nào nghe có lý cả. Có vô khối câu trả lời ngu ngốc. Nhưng tất cả chúng đều vây quanh một tiền đề trung tâm, đó là tất cả đều bất ổn trong hộp sọ của gã quái vật ưa thích của chúng tôi, và tôi thấy chuyện này thật khó lòng chấp nhận được. Có lẽ nguyên nhân chỉ vì tôi không cảm thấy điên rồ hơn mình từng cảm thấy trước đây. Tôi không hề nhận thấy mô chất xám nào bị mất, dường như cũng không suy nghĩ chậm chạp hơn hay kỳ quặc hơn, tới lúc này cũng chưa hề có cuộc trò chuyện nào với những anh bạn vô hình tôi vẫn cảm nhận thấy.

    Ngoại trừ trong giấc ngủ của tôi, tất nhiên rồi - mà việc này có thực sự đáng tính đến không? Chẳng phải tất cả chúng ta đều điên rồ trong giấc ngủ của mình sao? Giấc ngủ là gì, nói cho cùng, nếu không phải là tiến trình trong đó chúng ta nhấn chìm phần điên dại của bản thân vào một cái hố sâu vô thức tối om và chui ra ở đầu bên kia, sẵn sàng thưởng thức ngũ cốc thay vì những đứa trẻ nhà hàng xóm?

    Và ngoại trừ những giấc mơ tôi đã gặp phải, mọi thứ khác đều hợp lý: ai đó đã ném cái đầu vào xe tôi trên cầu cạn, để lại một con búp bê Barbie trong căn hộ của tôi, sắp xếp các thi thể theo cách đầy thách thức. Một ai đó, không phải tôi. Ai đó không phải là anh chàng Dexter tối tăm đáng mến. Cuối cùng kẻ đó bị chộp lại, ở ngay đây, trong những bức hình trên một đĩa CD. Tôi có thể nhìn vào những bức hình đó để chứng minh một lần dứt khoát rằng...

    Rằng trông rất có khả năng tên sát nhân chính là tôi?

    Tốt lắm, Dexter. Rất tốt. Tôi đã bảo với cậu là có một cách giải thích hợp lý. Ai đó khác thực sự là tôi. Tất nhiên rồi. Nghe vô cùng có lý, phải không nào?

    Tôi về đến nhà, thận trọng bước vào căn hộ. Không có vẻ gì là có ai đó chờ đợi tôi. Tất nhiên rồi, chẳng có lý do nào cho chuyện đó cả. Nhưng việc ý thức được rằng con quỷ Satan đang gieo rắc nỗi kinh hoàng lên thành phố này biết nơi tôi sống làm tôi ít nhiều thấy bất an. Hắn đã chứng minh mình là loại quái vật có thể làm bất cứ điều gì - thậm chí hắn có thể bước vào đây và để lại nhiều mảnh búp bê hơn vào bất cứ lúc nào. Đặc biệt nếu hắn chính là tôi.

    Nhưng tất nhiên là không rồi. Chắc chắn là không. Các bức hình sẽ cho thấy những chi tiết nhỏ nhặt nào đó chứng minh sự giống nhau chỉ là tình cờ - cũng như việc tôi có linh cảm lạ lùng như thế với những vụ án mạng cũng chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên, không nghi ngờ gì nữa. Phải, đây hiển nhiên là một chuỗi những sự tình cờ ngẫu nhiên quái đản một cách đầy logic. Có lẽ tôi nên gọi cho người của sách Kỷ lục Guiness. Tôi không rõ đâu là kỷ lục thế giới cho việc không chắc chắn liệu bạn có phải là thủ phạm của một chuỗi án mạng hay không?

    Tôi cho vào dàn âm thanh một đĩa CD của Philip Glass và ngồi xuống ghế. Âm nhạc khuấy động sự trống rỗng bên trong tôi và sau vài phút, thứ gì đó giống với tư duy bình thản, lạnh lùng bình thường của tôi quay trở lại. Tôi đi tới bên máy tính của mình, bật nó lên. Tôi cho chiếc đĩa CD vào ổ đọc, quan sát các tấm hình, rồi phóng to ra, thu nhỏ lại và làm tất cả những gì tôi biết để cố làm cho các hình ảnh rõ hơn. Tôi thử qua những cách mình mới chỉ nghe nói và những gì vừa chợt nghĩ ra, nhưng chẳng cách nào ăn thua. Cuối cùng, tôi vẫn chẳng tiến thêm được lấy một bước so với khởi đầu. Chỉ đơn giản là không thể nào cải thiện được độ phân giải tới mức làm khuôn mặt người trong hình trở nên rõ ràng. Dẫu thế, tôi vẫn nhìn chăm chăm vào các bức hình. Tôi xoay chuyển chúng theo các góc khác nhau. Tôi in chúng ra, giơ lên trước ánh sáng. Tôi làm tất cả những gì một người bình thường hẳn sẽ làm, và trong lúc lấy làm hài lòng với khả năng bắt chước của mình, tôi không khám phá ra được gì ngoại trừ việc người đàn ông trong ảnh trông giống mình.

    Chỉ đơn giản là tôi không thể có được một ấn tượng rõ ràng về bất cứ cái gì, thậm chí cả về trang phục của kẻ trong hình. Hắn mặc một chiếc áo sơ mi có thể màu trắng, màu nâu vàng hay thậm chí là xanh nhạt. Ánh sáng trong bãi để xe đã chiếu lên hắn một luồng sáng chói chang từ đèn Argon an ninh và gây nên một quầng sáng rực rỡ màu da cam ánh hồng; điều này cộng với độ phân giải kém của bức hình đã khiến việc khẳng định rõ hơn trở nên bất khả thi. Hắn mặc quần dài, ống rộng, màu sáng. Tóm lại là một kiểu trang phục tiêu chuẩn bất cứ ai cũng có thể mặc - trong đó có cả tôi. Tôi có khá nhiều món trang phục như thế, đủ để mặc cho cả một trung đội những kẻ nom giống Dexter.

    Tôi đã thành công trong việc phóng đại phần sườn chiếc xe tải lên đủ để nhận ra một chữ “A” và bên dưới nó, một chữ “B”, tiếp theo là một chữ “R” và một chữ “C” hoặc “O”. Nhưng chiếc xe tải quay nghiêng góc về phía máy quay và đó là tất cả những gì tôi có thể thấy.

    Không bức hình còn lại nào đem đến cho tôi dù chỉ một manh mối. Tôi xem lại cả chuỗi ảnh lần nữa: người đàn ông biến mất xuất hiện trở lại và chiếc xe tải nhỏ đã chạy đi. Không có góc nhìn tốt, không có thoáng tình cờ may mắn nào cho phép nhìn thấy biển số xe của hắn - và không có lý do nào để làm căn cứ cho rằng liệu đó có phải là anh chàng Dexter đang mơ màng vô thức hay không.

    Cuối cùng, khi tôi rời mắt khỏi màn hình máy tính, màn đêm đã buông xuống, bên ngoài trời đã tối mịt. Và tôi làm điều một người bình thường gần như chắc chắn đã làm từ vài giờ trước: bỏ cuộc. Chẳng còn gì khác tôi có thể làm ngoại trừ chờ đợi Deborah. Tôi sẽ phải để cô em nuôi tội nghiệp bị lương tâm giằng xé của mình điệu tôi tới nhà giam. Nói cho cùng, theo cách này hay cách khác, tôi là kẻ có tội. Tôi thực sự nên bị nhốt lại. Có khi thậm chí tôi còn chia sẻ cùng phòng giam với McHale. Anh ta có thể dạy tôi vũ điệu của loài chuột.

    Với ý nghĩ đó, tôi đã làm được một điều thực sự kỳ diệu.

    Tôi ngủ thiếp đi.

    --------------------------------
    1 1 dặm = 1,609 km.

  4. #23
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,703
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 24

    Tôi không có giấc mơ nào, không hề có cảm giác du hành ra khỏi thân thể mình, không thấy màn diễu hành nào của những hình ảnh ma quái hay những thi thể không đầu, không máu. Không có cả hình ảnh những viên kẹo bi nhảy múa trong đầu tôi. Không có gì trong đó, kể cả tôi, không gì ngoài một giấc ngủ tối đen, vô hạn. Ấy nhưng khi điện thoại reo làm tôi bừng tỉnh, tôi biết cuộc gọi của Deborah và tôi biết cô sẽ không tới. Bàn tay đã ướt đẫm mồ hôi khi tôi cầm lấy ống tổ hợp. “Vâng,” tôi nói.

    “Đại úy Matthews đây,” giọng nói trong máy vang lên. “Tôi cần nói chuyện với thám tử Morgan, làm ơn chuyển máy.”

    “Cô ấy không có ở đây,” tôi nói, một phần nhỏ trong tôi nặng nề chìm xuống vì câu nói này và ý nghĩa của nó.

    “Hừm. À, được rồi, chuyện đó không... Cô ấy ra về khi nào vậy?”

    Tôi bất giác đưa mắt về phía đồng hồ; đã chín giờ mười lăm và mồ hôi lại túa ra dữ hơn từ trong người tôi. “Cô ấy chưa hề tới đây,” tôi nói với viên đại úy.

    “Nhưng cô ấy ghi lại là tới chỗ anh. Cô ấy đang trong phiên trực - lẽ ra cô ấy phải có mặt ở đó.”

    “Cô ấy chưa bao giờ đến đây.”

    “À, quỷ tha ma bắt,” ông đại úy thốt lên. “Cô ấy nói anh có vài bằng chứng chúng tôi cần.”

    “Đúng thế,” tôi nói. Và gác máy.

    Tôi thực sự có một số bằng chứng, tôi chắc chắn một cách khủng khiếp về điều đó. Tôi chỉ không thể biết rõ nó là gì. Nhưng tôi cần phải tìm ra và không nghĩ mình còn quá nhiều thời gian. Hay nói cho chính xác, tôi không nghĩ Deb còn nhiều thời gian.

    Thêm một lần nữa, tôi lại không hiểu nổi bằng cách nào mình biết được điều đó. Tôi đã không nói với mình một cách có ý thức, “Hắn có Deborah”. Không có hình ảnh đáng báo động nào về số phận nguy ngập của cô lóe lên trong đầu tôi. Và tôi không cần phải trải nghiệm bất cứ ý thức vụn vặt nào hay nghĩ, “Ái chà, đáng ra giờ này Deb phải ở đây rồi mới phải; như thế này thật không giống cô ấy”. Tôi chỉ đơn giản biết, như đã biết khi tỉnh dậy, rằng Deb đã đến gặp tôi và không đến nơi được. Tôi biết điều đó có nghĩa là gì.

    Hắn đã bắt được cô.

    Hắn đã bắt Deb hoàn toàn vì lợi ích của tôi, điều này thì tôi biết. Hắn đang lượn lờ mỗi lúc một gần tôi hơn - đột nhập vào căn hộ của tôi, viết những thông điệp nho nhỏ bằng các nạn nhân của hắn, đùa bỡn tôi với những đầu mối, dấu hiệu mơ hồ của điều hắn đang làm. Và bây giờ hắn đang ở gần hết mức có thể mà không cần ở trong cùng một căn phòng với tôi. Hắn đã bắt Deb và đang đợi cùng cô. Đợi tôi.

    Nhưng ở đâu? Hắn sẽ đợi bao lâu trước khi trở nên mất kiên nhẫn và bắt đầu trò chơi không cần đến tôi?

    Không có tôi, tôi biết rõ bạn chơi của hắn lần này sẽ là ai - Deborah. Cô em tôi đã xuất hiện ở nhà tôi trong bộ trang phục làm việc của mình khi vào vai gái đứng đường, thực sự là một món quà được gói sẵn dành cho hắn. Chắc hắn đã nghĩ lúc đó là Giáng sinh. Hắn có cô và cô sẽ là người bạn đặc biệt tối nay của hắn. Tôi không muốn nghĩ về cô em mình như thế, bị dán băng dính bịt mồm, trói căng người ra và phải tận mắt chứng kiến một cách chậm chạp, ghê rợn từng mảnh cơ thể của mình biến mất mãi mãi. Nhưng đó là cách nó sẽ diễn ra. Dưới những hoàn cảnh khác, có thể nó sẽ đem lại một màn giải trí ban đêm tuyệt hảo - nhưng không phải với Deborah. Tôi hoàn toàn chắc mình không muốn điều đó, không muốn hắn thực hiện điều gì không thể đảo ngược và tuyệt diệu, không phải tối nay. Sau này, có thể lắm, với một ai khác. Khi chúng tôi đã biết nhau rõ hơn một chút. Nhưng không phải bây giờ. Không phải với Deborah.

    Với ý nghĩ đó, tất nhiên mọi thứ dường như tốt hơn. Thật hay khi sắp đặt được điều đó. Tôi muốn cô em tôi còn sống, hơn là ở trạng thái những miếng nhỏ không vết máu. Tôi thật đáng yêu làm sao, gần như đầy nhân tính. Còn bây giờ, khi chuyện đó đã an bài: Cần làm gì tiếp theo đây? Tôi có thể gọi Rita, có thể đi xem một bộ phim, hay đi dạo trong công viên. Hay, để xem nào - có thể, tôi không biết nữa... cứu Deborah chăng? Phải, nghe có vẻ vui đấy. Nhưng...

    Bằng cách nào đây?

    Tất nhiên tôi có vài manh mối. Tôi biết cách hắn suy nghĩ - nói cho cùng, chính tôi cũng suy nghĩ theo cách đó. Và hắn muốn tôi tìm ra. Hắn đã gửi đi thông điệp đó, thật lớn tiếng và rõ ràng. Nếu tôi có thể tống được hết những thứ ngu ngốc gây nhiễu ra khỏi đầu mình - mọi giấc mơ, cuộc rượt đuổi như trong truyện cổ tích Thời đại mới, và tất cả những thứ khác - khi đó tôi tin chắc mình có thể tìm ra vị trí của hắn, một cách hợp lý và chính xác. Hắn sẽ không bắt Deb trừ khi nghĩ đã cung cấp cho tôi mọi thứ một con quái vật thông minh cần đến để tìm ra hắn.

    Vậy thì được thôi, Dexter thông minh - hãy tìm hắn. Hãy lần theo dấu kẻ bắt cóc Deb. Hãy để khả năng suy luận sáng suốt của anh bạn đuổi theo dấu vết như một bầy sói tuyết. Hãy khởi động bộ não khổng lồ; hãy để từng cơn gió rít qua những dây thần kinh mạnh mẽ của anh bạn trong lúc nó tìm tới kết luận đẹp đẽ, không thể tránh khỏi. Tiến lên nào, Dexter, hãy tiến lên!

    Dexter?

    Xin chào? Có ai ở đây không?

    Có vẻ là không. Tôi không nghe thấy tiếng gió rít nào theo những đường dây thần kinh. Tôi trống rỗng như thể chưa từng tồn tại. Không có luồng xoáy nào của những cảm xúc đang bị khuấy động, tất nhiên rồi, vì tôi chẳng có bất cứ cảm xúc nào để khuấy lên cả. Nhưng kết quả cũng ngán ngẩm chẳng kém. Tôi đang đờ đẫn, kiệt quệ đến mức như thể thực sự cảm thấy gì đó. Deborah đã biến mất. Em tôi đang ở trong mối đe dọa khủng khiếp, bị biến thành một tác phẩm đáng kinh ngạc của nghệ thuật sắp đặt. Và hy vọng duy nhất của cô để duy trì bất cứ dạng tồn tại nào khác hơn một tập ảnh chụp được dán trên bảng của một phòng thí nghiệm pháp y cảnh sát là ông anh nuôi phờ phạc với bộ óc đã chết cứng này. Dexter khốn khổ rũ rượi như một chú chó mất trí, ngồi trên một cái ghế trong lúc bộ óc đang xoay vòng tròn, vừa đuổi theo cái đuôi của nó vừa nghếch mõm lên tru về phía mặt trăng.

    Tôi hít một hơi thật sâu. Trong tất cả những khoảnh khắc tôi từng cần là chính mình, đây là lúc khẩn cấp nhất. Tôi cố gồng mình lên tập trung hết sức, trấn tĩnh bản thân, và trong lúc một phần nhỏ của Dexter quay trở lại lấp đầy chỗ trống trong hộp sọ của tôi, tôi chợt nhận ra mình đã trở nên đầy chất người và ngu ngốc đến thế nào. Ở đây kỳ thực chẳng có sự bí hiểm lớn lao nào cả. Trên thực tế, câu trả lời đã quá rõ ràng. Ông bạn của tôi đã làm mọi thứ, ngoại trừ việc gửi tới một lời mời chính thức viết “Hân hạnh mời ông tới tham dự lễ cắt khúc em gái. Tùy chọn thêm trái tim đen”. Nhưng ngay cả chút tư duy hợp lý vừa ló ra này lại bị tống ra khỏi hộp sọ đang giần giật của tôi bởi một ý nghĩ mới đang lần mò chen vào, tỏa ra mùi logic thối rữa nồng nặc.

    Mình đã ngủ khi Deb biến mất.

    Chẳng lẽ điều đó có nghĩa là thêm một lần nữa tôi lại ra tay mà không hề biết? Thế nếu đúng tôi đã mang từng mảnh của Deb tới nơi nào đó, chất đống các mảnh vào một căn nhà kho đông lạnh nho nhỏ và...

    Kho chứa ư? Cái đó từ đâu ra vậy?

    Cảm giác khép kín... sự hợp lý của căn nhà kho bên sân hockey... luồng không khí lạnh thổi qua sống lưng tôi... Sao điều đó lại đáng bận tâm? Sao tôi cứ luôn quay trở lại với nó? Bởi vì bất chấp có chuyện gì khác xảy ra, tôi vẫn quay trở lại với những ký ức vô lý đó và chẳng thấy được lý do nào khiến chúng hiện diện. Chúng có nghĩa là gì? Tại sao trên thực tế tôi lại quan tâm tới ý nghĩa của chúng? Bởi vì cho dù chúng có ý nghĩa nào đó hay không, đó là tất cả những gì tôi có để tiếp tục. Tôi cần tìm ra một nơi khớp với cảm giác lạnh lẽo và sự phù hợp về sức ép chật chội. Chỉ đơn giản là không còn cách nào khác: cần tìm ra nơi đó. Tại đó, tôi sẽ tìm thấy Deb, cũng như tìm thấy chính mình, hoặc kẻ nào đó không phải mình. Có đơn giản đến vậy không?

    Không. Chuyện này chẳng đơn giản chút nào hết, thật ngớ ngẩn. Chẳng có lý chút nào khi bận tâm tới những thông điệp bí ẩn ma quái bồng bềnh từ những giấc mơ tôi gặp phải. Những giấc mơ không hề tồn tại trên thực tế, không để lại dấu vết của những vệt móng vuốt bắt chéo Freddy Krueger 1 trên thế giới thực tại. Tôi không giỏi lắm với việc lao vụt ra khỏi nhà và lái xe vòng vèo vô định ngoài đường như một gã tâm thần. Tôi là một tạo vật lạnh lùng, lý trí. Vậy là theo một cách lạnh lùng, lý trí, tôi khóa cửa căn hộ của mình lại và rảo bước đi ra xe. Tôi vẫn chưa biết mình sẽ đi đâu, nhưng sự cần thiết phải tới nơi đó thật nhanh đã giật lấy sợi dây cương điều khiển và quất roi thúc tôi xuống bãi để xe của tòa nhà, nơi đậu chiếc xe của mình. Nhưng khi còn cách chiếc xe đáng tin cậy hai mươi foot, tôi đứng sững lại như thể vừa đâm vào một bức tường vô hình.

    Đèn trên nóc trong khoang xe bật sáng.

    Chắc chắn tôi không bật nó lên - lúc tôi đậu xe đang là ban ngày và có thể thấy tất cả các cửa xe đều được đóng chặt. Một gã trộm thận trọng hẳn sẽ để cửa khép hờ nhằm tránh tiếng động phát ra khi đóng sập cửa lại.

    Tôi chậm rãi lại gần, không hề chắc mình đang trông đợi nhìn thấy gì hay liệu mình có thực sự muốn nhìn thấy nó không. Từ khoảng cách năm foot, tôi có thể thấy có thứ gì đó trên ghế hành khách. Tôi thận trọng vòng quanh xe, cúi xuống về phía vật đó, đầu căng như dây đàn, và lén nhìn. Nó ở đó.

    Lại là búp bê Barbie. Tôi đang dần có cả một bộ sưu tập.

    Con búp bê này được đội một chiếc mũ thủy thủ nhỏ và mặc một cái áo để hở bụng và một chiếc quần bó màu hồng. Một bàn tay cô nàng cầm lấy chiếc va li nhỏ có ghi chữ CUNARD bên sườn.

    Tôi mở cửa xe, cầm con búp bê lên. Tôi lấy chiếc vali nhỏ khỏi bàn tay Barbie và mở nó ra. Có thứ gì đó nho nhỏ rơi ra, lăn xuống sàn xe. Tôi nhặt nó lên. Trông nó giống chiếc nhẫn kỷ niệm ở lớp của Deborah đến phát sợ. Ở phía trong vành nhẫn có khắc D.M., hai chữ cái đầu tên của Deborah.

    Tôi ngồi phịch xuống ghế, nắm chặt con búp bê Barbie trong hai bàn tay đẫm mồ hôi. Tôi lật nó lại. Tôi uốn cong chân nó. Tôi vẫy tay nó. Anh bạn đã làm gì tối qua vậy, Dexter? Ồ, tôi chơi với những con búp bê của mình, trong lúc một người bạn chặt cô em tôi ra từng khúc.

    Tôi không để phí thời gian để băn khoăn về chuyện làm cách nào cô nàng Barbie Thủy thủ kiêm Gái làng chơi này lọt vào xe của tôi. Đây rõ ràng là một thông điệp - hay một đầu mối? Nhưng những đầu mối thực sự nhất thiết phải ám chỉ tới điều gì đó, và thứ này dường như đang chỉ sai hướng. Hiển nhiên hắn đã có Debbie - nhưng Cunard? Làm thế nào từ đó lại phù hợp với một không gian giết người lạnh lẽo chật chội được đây? Tôi không thể thấy được mối liên hệ nào. Nhưng thực sự chỉ có một nơi tại Miami khớp với nó.

    Tôi lái xe ngược lên Douglas và rẽ phải qua Coconut Grove. Tôi buộc phải đi chậm lại để luồn lách tìm đường qua đoàn diễu hành của những kẻ ngu xuẩn hạnh phúc đang nhảy múa giữa các cửa hàng và quán cà phê. Tất cả bọn họ dường như có quá nhiều thời gian và tiền bạc, cùng rất ít thứ khác đáng để quan tâm ngoài hai điều đó, tôi đã phải mất nhiều thời gian hơn mức bình thường để lách qua được bọn họ, nhưng thật khó để nổi xung lên quá mức vì kỳ thực tôi không rõ mình đang đi đâu. Hướng tới một nơi nào đó; chạy xe dọc theo Bayfront Drive, thẳng tới Brickle và tiến vào thị trấn. Tôi không hề nhìn thấy những ánh đèn neon lớn trang trí bằng những mũi tên nhấp nháy và những từ ngữ đầy khuyến khích để chỉ dẫn cho mình: “Đường tới địa điểm giải phẫu”. Nhưng tôi vẫn lái xe đi, tới gần American Airlines Arena 2 và, ngay phía bên trên nó, cầu cạn McArthur. Liếc mắt nhìn nhanh về phía gần bên cạnh của nhà thi đấu, tôi có thể thấy phần thân trên của một chiếc tàu viễn dương ở Government Cut, dĩ nhiên không phải một con tàu của Cunard Lines 3, nhưng tôi vẫn bồn chồn đưa mắt dõi theo để tìm kiếm một dấu hiệu. Có vẻ thật hiển nhiên là trên thực tế không phải tôi đang được chỉ dẫn tới một con tàu viễn dương: quá đông đúc, quá nhiều nhân viên công quyền rình mò. Nhưng đâu đó gần kề, một nơi nào đó có liên hệ tới con tàu - và điều này tất nhiên phải có nghĩa là? Chẳng có thêm manh mối cả. Tôi nhìn chằm chằm về phía chiếc tàu đủ dữ dội để làm cháy đuôi boong tàu, nhưng Deborah vẫn không hề nhảy ra từ trong khoang tàu và nhảy chân sáo xuống lối đi bên mạn tàu.

    Tôi nhìn thêm một lúc nữa. Bên cạnh con tàu, những cần cẩu bốc dỡ hàng vươn lên bầu trời đêm như những mô hình bị bỏ lại từ phim Chiến tranh giữa các vì sao. Xa hơn một chút, những chồng container hàng hóa chỉ có thể thấy loáng thoáng trong bóng tối bên dưới các cần cẩu, từng đám lộn xộn cẩu thả, nằm rải rác trên mặt đất như thể có một đứa trẻ khổng lồ đang buồn chán tột độ vừa hất tung đi cả thùng đồ chơi đựng đầy những khối xếp hình của nó. Một số trong những container này là container đông lạnh. Và sau đó, ở phía sau những container đó...

    Lui lại một chút, chàng trai thân mến.

    Là ai đang thì thầm với tôi, đang thì thầm những lời nhẹ nhàng ấy với anh chàng Dexter đang đơn độc lái xe trong bóng tối vậy? Là ai đang ngồi sau lưng tôi lúc này, với những tiếng tặc lưỡi khô khan đang ngân lên tràn ngập cả băng ghế sau vậy? Và vì sao? Thông điệp nào đang vang vọng vào cái đầu óc mụ mị trống rỗng đây?

    Những cái container.

    Một số là container đông lạnh.

    Nhưng sao lại là container? Có thể có lý do nào buộc tôi phải quan tâm tới một đống những không gian lạnh lẽo, khép kín chật hẹp?

    Ồ, có đấy. À phải. Vì anh bạn đã nói thế.

    Có thể nào đây sẽ là địa điểm, là chốn tọa lạc tương lai của Bảo tàng nơi chào đời của Dexter? Với những buổi triển lãm đích thực giống hệt như sự sống, bao gồm cả một màn trình diễn sống hiếm hoi từ cô em gái duy nhất của Dexter?

    Tôi đánh mạnh tay lái, vượt qua một chiếc BMW với cái còi ầm ĩ. Tôi vươn dài ngón tay giữa ra, trong một lần hiếm hoi lái xe đúng chất của một người Miami chính gốc, tôi tăng tốc lao vụt đi trên cầu cạn.

    Con tàu đã trôi dần về bên trái. Khu vực với tất cả các thùng chứa hàng nằm về bên phải, bao quanh là hàng rào mắt cáo, trên đỉnh rải dây thép gai. Tôi lái xe quanh một vòng tới con đường dẫn vào trong, đồng thời vật lộn với cảm giác chắc chắn đang dâng lên như một cơn thủy triều cùng màn đồng ca đang vang vọng dường như đang hát lên những bài ca chiến đấu từ Người lữ hành Tối Tăm. Con đường kết thúc trước một chốt bảo vệ khá xa trước khi tôi tới được chỗ đám container. Có một cổng vào với vài quý ông mặc đồng phục lượn lờ bên cạnh, chẳng có cách nào qua được mà không phải trả lời dăm câu hỏi hẳn sẽ rất gây bối rối. Vâng, thưa ngài bảo vệ, tôi không rõ mình có thể vào trong ngắm nghía một vòng không? Ông biết đấy, tôi nghĩ chỗ này có thể là địa điểm lý tưởng để một người bạn của tôi cắt cô em gái tôi ra thành từng khúc.

    Tôi lái xe qua một hàng vật cản hình nón màu cam đặt giữa đường cách cổng chừng ba mươi foot rồi đánh tay lái, vòng trở lại đường cũ. Lúc này con tàu viễn dương hiện lên lù lù ở bên phải. Tôi rẽ trái ngay trước khi tới cây cầu dẫn vào đất liền và lái xe vào một khu đất rộng với một khu nhà kho ở một đầu, đầu kia là một hàng rào mắt cáo. Hàng rào được trang hoàng thật vui mắt với những dấu hiệu de dọa sẽ trừng phạt nghiêm khắc bất cứ nhân vật nào xâm phạm vào khu vực này, được kí nhận bởi cục Hải quan Hoa Kỳ.

    Hàng rào dẫn trở lại một con đường lớn chạy dọc một bãi để xe rộng, vắng tanh vào lúc đêm khuya. Tôi chậm rãi lái xe men theo rìa khu vực này, chăm chú nhìn về phía những chiếc container ở phía xa. Chúng hẳn được chuyển tới từ các cảng biển nước ngoài, cần phải qua kiểm tra hải quan, và việc tiếp cận chúng bị kiểm soát gắt gao. Sẽ là quá khó khăn cho bất cứ ai để xâm nhập vào hoặc ra khỏi khu vực này, đặc biệt nếu kẻ đó lại mang theo một lô các mảnh thi thể rất đáng nghi ngờ hay thứ gì đó tương tự. Hoặc tôi sẽ cần phải tìm kiếm ở một nơi khác, hoặc phải thừa nhận việc đuổi theo những linh cảm mơ hồ xuất phát từ một chuỗi giấc mơ đầy ám ảnh và một con búp bê ăn mặc thoáng mát quả là chuyện tốn thời gian vô ích. Càng thừa nhận sớm bao nhiêu, tôi sẽ có nhiều cơ hội tìm thấy Deb hơn bấy nhiêu. Cô em tôi không có ở đây. Không có lý do nào để cô ở đây cả.

    Cuối cùng tôi cũng có được một suy nghĩ có lý. Tôi đã cảm thấy khá hơn, và hẳn sẽ tự mãn đầy thiển cận về nó - nếu tôi không nhìn thấy một chiếc xe tải quen thuộc đậu áp sát vào ngay phía trong hàng rào, được đậu theo cách để phô ra những chữ cái viết bên sườn ALLONZO BROTHERS 4. Ban đồng ca riêng tư của tôi đang hò hét quá lớn tiếng ở dưới sàn bộ não để tôi có thể nghe thấy bản thân mình cười một cách ngớ ngẩn, vậy là tôi dừng xe, đậu lại. Phần anh - chàng - khôn - ngoan trong tôi vừa gõ vào cửa trước bộ não và gọi ầm ĩ, “Nhanh lên! Nhanh lên! Đi - đi - đi nào!” Nhưng phần bản năng lại chậm rãi thò mặt lên cửa sổ, thì thầm giọng lưỡi dè dặt thận trọng của nó, vậy là tôi ngồi thừ ra hồi lâu trước khi cũng quyết định chui ra khỏi xe.

    Tôi bước tới bên hàng rào, đứng như diễn viên phụ trong một bộ phim về chủ đề trại tù binh trong Thế chiến thứ hai, các ngón tay tôi móc chặt lấy các mắt hàng rào, thèm thuồng nhìn chòng chọc về những thứ nằm phía sau, chỉ cách tôi vài yard 5 không thể vượt qua. Tôi tin chắc phải có một cách cực kỳ đơn giản nào đó để một tạo vật thông minh đến kỳ diệu như tôi đi vào trong, nhưng đó là một dấu hiệu thể hiện trạng thái tôi đang lâm vào, trong đó dường như tôi không thể gắn kết các ý nghĩ với nhau được. Tôi cần vào trong, nhưng không thể. Vậy là tôi đứng đó, nắm lấy hàng rào và nhìn vào trong, biết quá rõ rằng mọi thứ đáng quan tâm đều ở ngay kia, chỉ cách vài yard, tôi hoàn toàn không thể ném bộ óc khổng lồ của mình vào trở ngại đang gặp phải và chộp lấy một giải pháp khi nó bật trở lại. Trí tuệ luôn chọn thời điểm rất tệ để chuồn di dạo mát phải không nào?

    Hồi chuông báo động từ băng ghế sau của tôi tắt ngấm. Tôi cần di chuyển đi chỗ khác, ngay bây giờ. Tôi đang đứng một cách rất đáng ngờ ở một khu vực được canh phòng cẩn mật, lúc này đang là ban đêm, bất cứ lúc nào một trong số các nhân viên bảo vệ chắc chắn sẽ quan tâm tới anh chàng bảnh trai trẻ tuổi đang nhìn soi mói một cách thông minh qua hàng rào. Tôi cần rời đi, tìm cách khác trong lúc lái xe. Tôi lùi ra khỏi hàng rào, dành cho nó cái nhìn cuối cùng tràn ngập yêu thương. Ngay ở đó, đúng chỗ hai bàn chân tôi chạm sát hàng rào, có một khe hở hầu như khó lòng thấy nổi. Các mắt hàng rào đã được cắt đứt vừa đủ để cho phép một người chui qua, hay kể cả một bản sao rất giống con người như tôi. Vết cắt được ráp khít lại nhờ sức nặng của chiếc xe tải, nhờ thế nó sẽ không bị bung ra. Hẳn việc này mới được làm xong tối hôm nay, sau khi chiếc xe tải tới nơi.

    Lời mời cuối cùng dành cho tôi.

    Tôi chậm rãi lùi lại, cảm thấy một nụ cười “xin - chào” tự động lơ đãng đang leo lên mặt mình như một lớp hóa trang. Xin chào, ngài bảo vệ, chỉ tản bộ mấy bước thôi mà. Một buổi tối tuyệt vời để chặt chân tay ai đó, phải không nào? Tôi vui vẻ bước tới chỗ chiếc xe của mình, đưa mắt nhìn quanh, không tập trung vào thứ gì ngoài mặt trăng lơ lửng trên nước, huýt sáo một giai điệu hạnh phúc trong khi chui vào xe và lái đi. Dường như không ai có vẻ chú ý - ngoại trừ, tất nhiên rồi, bản đồng ca Hallelujah 6 trong đầu tôi. Tôi đưa xe vào một bãi để xe ngay gần văn phòng của con tàu viễn dương, có lẽ cách lối vào vào Thiên đường nhỏ nhắn tự tạo bằng tay chừng một trăm yard. Gần đó có vài chiếc xe nữa đậu rải rác. Sẽ chẳng có ai chú ý đến chiếc xe của tôi.

    Nhưng khi tôi dừng xe, một chiếc xe khác cũng dừng lại ở chỗ để xe ngay cạnh tôi, một chiếc Chevy màu xanh sáng với một phụ nữ ngồi sau tay lái. Tôi ngồi im một lát. Cô ta cũng ngồi im. Tôi mở cửa xe chui ra ngoài.

    Thám tử LaGuerta cũng làm tương tự.

    --------------------------------
    1 Nhân vật trong phim Cơn ác mộng ở phố Elm (1984), là linh hồn của kẻ sát nhân có thể nhập vào giấc mơ của những đứa trẻ vị thành niên, giết chết chúng trong mơ và gây ra cái chết của nạn nhân ngoài đời thực.
    2 Khu tổ hợp thể thao và giải trí ở Miami, Floria.
    3 Một công ty tàu biển chuyên vận tải hành khách có trụ sở tại Southampton, Anh.
    4 Anh em Allonzo.
    5 1 yard = 0,91 m.
    6 Tiếng Do Thái cổ có nghĩa là “Ngợi ca Chúa”, ở đây ám chỉ các bài thánh ca ban đồng ca nhà thờ hay hát.

  5. #24
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,703
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 25

    Tôi vẫn luôn rất giỏi trong việc ứng biến với những tình thế xã giao bất lợi, nhưng tôi buộc phải thú nhận tình huống này khiến tôi sững sờ. Tôi chỉ đơn giản là không biết phải nói gì, chỉ nhìn LaGuerta chằm chằm trong khoảnh khắc, còn cô ta cũng nhìn lại tôi không chớp mắt, những chiếc răng nanh của cô ta ít nhiều hé lộ, giống như một ả mèo cái đang săn mồi cố quyết định xem nên đùa bỡn hay ăn thịt bạn. Tôi không thể nghĩ ra được một phản ứng nào không bắt đầu bằng một tiếng lắp bắp, và dường như cô ta cũng chỉ quan tâm tới việc ngắm nghía tôi. Vậy là cả hai chúng tôi chỉ đứng đó hồi lâu. Cuối cùng, cô ta phá vỡ im lặng bằng một câu nước đôi lửng lơ.

    “Có gì trong kia vậy?” Cô ta hỏi, hất hàm về phía hàng rào, cách chỗ chúng tôi đứng chừng một trăm yard.

    “Sao cơ, thám tử!” Tôi bật ra, có lẽ hy vọng cô ta không nhận ra vừa nói gì. “Cô làm gì ở đây vậy?”

    “Tôi bám theo anh. Có gì ở trong kia?”

    “Trong kia ư?” Tôi hỏi lại. Tôi biết, một phản ứng thật ngớ ngẩn, nhưng thành thật mà nói, tôi vừa cạn kiệt những câu từ khôn ngoan khéo léo và không thể trông đợi mình nghĩ ra thứ gì hay ho trong hoàn cảnh này.

    Cô ta nghiêng đầu sang một bên và thè lưỡi ra, cho nó chạy theo môi dưới; chậm rãi sang trái, qua phải, sang trái, rồi rút lui trở lại vào trong miệng cô ta. Sau đó cô ta gật đầu. “Anh chắc phải nghĩ tôi là kẻ ngu ngốc,” cô ta nói. Và tất nhiên ý nghĩ đó đã lướt qua loáng thoáng trong đầu tôi một hai lần, nhưng có vẻ nói thế không được xã giao cho lắm. “Nhưng anh cần phải nhớ,” cô ta nói tiếp, “tôi là một thám tử chính thức, và đây là Miami. Anh nghĩ tôi đạt được điều đó bằng cách nào hả?”

    “Ngoại hình của cô chăng?” Tôi hỏi lại, thết đãi cô ta một nụ cười long lanh. Khen ngợi một phụ nữ chẳng làm hại ai bao giờ.

    Cô ta trưng ra cho tôi thấy bộ răng đẹp đẽ của mình, thậm chí còn sáng long lanh hơn dưới ánh đèn an ninh cường độ cao đang tỏa ra khắp bãi để xe. “Tốt đấy,” cô ta nói, rồi cử động đôi môi mình thành một nụ cười nửa miệng kỳ quặc làm hai má hóp lại, khiến cô ta trông già hẳn đi. “Đó là thứ thối tha tôi vẫn lầm tưởng khi nghĩ anh thích tôi.”

    “Tôi có thích cô, thám tử,” tôi nói với cô ta, có lẽ hơi nhiệt tình quá. Dường như cô ta chẳng buồn nghe.

    “Nhưng sau đó anh đẩy tôi xuống sàn nhà như thể tôi là một con lợn, và tôi tự hỏi có gì không ổn với mình vậy? Tôi có hơi thở nặng mùi chăng? Và rồi tôi hiểu ra. Lý do không phải là tôi. Mà là anh. Có cái gì đó không ổn ở anh.”

    Tất nhiên cô ta đúng rồi, nhưng phải nghe cô ta nói vậy vẫn thật đau lòng. “Tôi không... Ý cô là gì?”

    Cô ta lại lắc đầu. “Thượng sĩ Doakes muốn giết chết anh, thậm chí anh ta còn chẳng biết tại sao. Tôi đáng lẽ nên nghe theo anh ta. Có gì đó không ổn ở anh. Và anh có liên quan theo cách nào đó tới vụ những ả đứng đường bị giết.”

    “Có liên quan... Ý cô là gì?”

    Lần này, có chút khoái trá hoang dại trong nụ cười cô ta trưng ra trước mắt tôi, một chút khẩu âm lại len lỏi vào trong giọng nói của cô ta. “Anh có thể dành màn diễn trò dễ mến cho luật sư của mình. Và có thể là một thẩm phán. Vì tôi nghĩ lần này đã tóm được anh rồi.” Cô ta nhìn tôi gay gắt hồi lâu, đôi mắt đen sáng lấp lánh. Cô ta trông cũng thiếu vắng chất người hệt như tôi, và điều đó làm tôi thoáng thấy ớn lạnh dọc sống lưng, có phải thực sự tôi đã đánh giá thấp cô ta không? Chẳng lẽ cô ta thực sự giỏi đến thế này sao?

    “Vậy là cô theo dõi tôi?”

    Thêm nhiều răng hơn được trưng ra. “Đúng thế, phải,” cô ta nói. “Tại sao anh lại ngó nghiêng qua hàng rào? Có thứ gì trong kia vậy?”

    Tôi tin chắc dưới hoàn cảnh thông thường hẳn tôi đã nghĩ trước đến chuyện này, nhưng tôi đã bị hoàn cảnh ép buộc. Tôi thực sự không hề để tâm tới nó cho tới tận khoảnh khắc này. Nhưng khi nó xuất hiện, nó giống như một tia sáng nhỏ, đau đớn lập lòe. “Từ lúc nào cô bắt đầu bám theo tôi? Từ nhà tôi à? Vào lúc nào?”

    “Tại sao anh cứ cố thay đổi chủ đề vậy? Có thứ gì trong kia, phải không?”

    “Thám tử, làm ơn đi… chuyện này có thể rất quan trọng. Cô bắt đầu bám theo tôi khi nào, và từ đâu?”

    LaGuerta quan sát tôi một phút, khiến tôi bắt đầu hiểu ra đúng là mình đã đánh giá thấp cô ta. Trong người phụ nữ này còn có nhiều thứ hơn chỉ đơn thuần là các mánh khóe tiến thân. Dường như cô ta thực sự sở hữu thêm ít nhiều điều gì đó nữa. Tôi vẫn chưa bị thuyết phục rằng có chút gì trong chúng là trí thông minh, nhưng cô ta thực sự là người kiên nhẫn, đôi lúc phẩm chất này còn quan trọng hơn cả trí thông minh trong công việc của cô ta. Cô ta sẵn lòng chờ đợi và theo dõi tôi, không ngừng lặp đi lặp lại các câu hỏi cho tới khi có được câu trả lời. Và sau đó, nhiều khả năng cô ta sẽ hỏi lại cùng câu hỏi đó thêm vài lần nữa, chờ đợi và theo dõi thêm nữa, để xem tôi sẽ làm gì. Thông thường, tôi sẽ qua mặt được cô ta, nhưng có lẽ tôi khó lòng thắng được cô ta trong việc thi tính kiên nhẫn, không phải tối nay. Vậy là tôi phô ra khuôn mặt khúm núm hạ mình khéo léo nhất và lặp lại. “Làm ơn đi, thám tử...”

    Cô ta lại thè lưỡi ra, rồi cuối cùng cất nó đi. “Được thôi,” cô ta nói. “Khi cô em gái anh bỏ đi được vài giờ và không để lại bất cứ lời nhắn nào cho hay cô ta đi đâu, tôi bắt đầu nghĩ có thể cô ta đã phát hiện ra gì đó. Và tôi biết cô em anh không thể tự mình làm được gì, vậy cô ta có thể đi đâu nhỉ?” Cô ta nhướng một bên mày nhìn tôi, rồi tiếp tục với giọng đắc thắng, “Tới nhà anh, đúng thế! Để nói chuyện với anh!” Cô ta gật đầu, khoan khoái ra mặt với màn suy đoán sắc sảo của bản thân. “Vậy là tôi bắt đầu nghĩ về anh hồi lâu. Về cái cách anh luôn chường mặt ra và ngó nghiêng, thậm chí ngay cả khi không cần thiết. Về cách thỉnh thoảng anh vẫn tìm ra đáp án cho những vụ giết người hàng loạt trước đây, ngoại trừ vụ này? Sau đó đến cách anh chơi xỏ tôi với bản danh sách ngớ ngẩn đó, làm tôi trở nên ngu xuẩn, rồi đẩy tôi xuống cái sàn mắc dịch đó...” Khuôn mặt cô ta trở nên dữ dằn hơn, lại già đi một chút trong khoảnh khắc. Sau đó, cô ta mỉm cười và tiếp tục, “Tôi đã nói gì đó thành tiếng ở văn phòng của mình, và thượng sĩ Doakes nói, ‘Tôi đã nói với cô về thằng cha đó rồi nhưng cô đâu có nghe’. Đột nhiên, tôi chợt thấy khuôn mặt bảnh trai của anh khắp nơi, và đáng ra không nên như thế.” Cô ta nhún vai. “Vậy là tôi cũng tìm đến chỗ anh.”

    “Khi nào? Vào lúc mấy giờ, cô có để ý không?”

    “Không,” cô ta nói. “Nhưng tôi chỉ ở đó khoảng chừng hai mươi phút, sau đó anh chui ra khỏi nhà, đùa nghịch với cô ả Barbie đồng tính đó của anh rồi lái xe tới đây.”

    “Hai mươi phút…” Vậy là cô ta không kịp có mặt tại đó để nhìn thấy kẻ nào hay cái gì đã bắt Deborah mang đi. Nhiều khả năng LaGuerta đang nói sự thật và cô ta chỉ đơn thuần bám theo tôi để xem… xem cái gì?

    “Nhưng tại sao lại bám theo tôi?”

    Cô ta nhún vai. “Anh có liên quan tới vụ này. Có thể anh không làm chuyện đó, tôi không biết. Nhưng tôi sẽ tìm ra. Một phần những gì tôi tìm thấy sẽ dính dáng tới anh. Có gì ở trong kia, trong những cái container kia vậy? Anh có chịu nói cho tôi biết, hay chúng ta sẽ cứ đứng đây cả đêm như thế này hả?”

    Bằng cách riêng của mình, cô ta đã chạm ngón tay vào đúng chỗ. Chúng tôi không thể đứng đây cả đêm. Chúng tôi không thể, tôi dám chắc là thế, đứng đây lâu hơn chút nào nữa trước khi những chuyện khủng khiếp xảy đến với Deborah. Nếu không phải chúng đã xảy ra rồi. Chúng tôi cần phải đi, ngay bây giờ, tìm hắn và ngăn hắn lại. Nhưng làm thế nào tôi có thể thực hiện được điều đó với LaGuerta cứ luôn bám bên cạnh? Tôi có cảm giác mình giống như một thiên thạch phải mang thêm một cái đuôi không hề mong muốn.

    Tôi hít một hơi thật sâu. Rita từng một lần đưa tôi tới dự lớp Tập huấn Ý thức về Sức khỏe trong Thời đại mới, tại đó người ta đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của những hơi thở sâu cho phép thanh lọc cơ thể. Tôi thử một lần. Tôi chẳng hề thấy sạch sẽ hơn chút nào sau lần hít thở đó, nhưng ít nhất nó cũng thúc đẩy bộ não của tôi đi vào một hành động chớp nhoáng và nhận ra mình cần phải làm một điều hiếm khi làm trước đây - nói ra sự thật. LaGuerta vẫn đang nhìn tôi chằm chằm, chờ đợi một câu trả lời.

    “Tôi nghĩ tên sát nhân đang ở trong kia,” tôi nói với LaGuerta. “Và tôi nghĩ hắn đang giữ sĩ quan Morgan.”

    Cô ta quan sát tôi trong khoảnh khắc, không hề cử động. “Được lắm,” cuối cùng cô ta nói. “Vậy là anh tới đứng bên hàng rào và nhìn vào? Vì anh yêu cô em gái mình rất nhiều nên muốn quan sát ư?”

    “Bởi vì tôi muốn vào trong. Tôi đang tìm một cách để vượt qua hàng rào.”

    “Vì anh đã quên mất anh làm việc cho cảnh sát?”

    À phải, đúng thế đấy, tất nhiên rồi. Quả thực cô ta đã chạm trúng vào chỗ rắc rối thực sự, cũng chỉ nhờ chính bản thân cô ta. Tôi chẳng có câu trả lời nào chính đáng để đáp lại. Toàn bộ trò nói ra sự thật chỉ đơn giản là dường như chẳng bao giờ trôi chảy mà không kèm theo chút khó chịu chẳng thích thú gì. “Chỉ là tôi - tôi muốn đoán chắc, trước khi gây ra một vụ lôi thôi lớn.”

    Cô ta gật đầu. “Ra là thế. Nghe lọt tai lắm,” cô ta nói. “Nhưng tôi sẽ nói cho anh biết điều tôi nghĩ. Hoặc anh đã làm điều gì tồi tệ, hoặc là anh biết về nó. Hoặc anh đang muốn che giấu, hoặc muốn tự mình tìm ra.”

    “Tự mình? Sao tôi lại muốn thế?”

    Cô ta lắc đầu để cho biết câu hỏi này ngớ ngẩn đến mức nào. “Để anh giành hết công trạng. Anh và cô em gái của anh. Anh nghĩ tôi không nhận ra nổi sao? Tôi đã nói cho anh biết tôi không phải là đồ ngốc.”

    “Tôi không phải là người ngáng chân cô, thám tử,” tôi nói, trông đợi vào lòng từ tâm của cô ta, và giờ đây hoàn toàn tin tưởng rằng cô ta còn sở hữu nó ít hơn cả tôi. “Nhưng tôi nghĩ hắn ở trong kia, trong một container nào đó.”

    Cô ta liếm môi. “Tại sao anh lại nghĩ vậy?”

    Tôi do dự, nhưng cô ta vẫn giữ tia nhìn lạnh ngắt không chớp mắt hướng thẳng vào tôi. Cho dù điều đó vô cùng khó chịu, tôi buộc phải tiết lộ thêm một phần sự thật nữa. Tôi hất hàm về phía chiếc xe tải Allonzon Brothers đậu ngay phía trong hàng rào. “Đó là chiếc xe tải của hắn.”

    “Ái chà,” cô ta thốt lên, cuối cùng cũng chớp mắt. Cô ta rời sự tập trung khỏi tôi trong khoảnh khắc và dường như để nó lang thang tới đâu đó sâu hơn. Mái tóc của cô ta? Hay phấn trang điểm? Hay sự nghiệp của cô ta? Tôi không thể biết. Nhưng có vô vàn câu hỏi hóc búa một thám tử giỏi có thể đặt ra vào lúc này: Làm thế nào tôi biết đây là xe tải của hắn? Làm thế nào tôi tìm được nó ở đây? Tại sao tôi dám chắc không phải hắn chỉ vứt chiếc xe lại đây và chuồn đi nơi khác? Nhưng theo phân tích cuối cùng, LaGuerta không phải là một thám tử giỏi; cô ta chỉ gật đầu, liếm môi lần nữa, và nói, “Làm thế nào chúng ta có thể tìm ra hắn trong tất cả những thứ kia?”

    Hiển nhiên tôi đã thực sự đánh giá thấp cô ta. Cô ta đã chuyển từ “anh” sang “chúng ta” mà không cần bước trung gian rõ rệt nào. “Cô có muốn gọi yêu cầu tăng cường không?” Tôi hỏi. “Hắn là một kẻ rất nguy hiểm.” Tôi thừa nhận mình chỉ đang châm chọc cô ta. Nhưng cô ta lại nhìn nhận nó một cách rất nghiêm túc.

    “Nếu tôi không tự tay tóm được gã này, hai tuần nữa tôi sẽ là một cô ả đi viết giấy phạt,” cô ta nói. “Tôi có mang theo súng ở đây. Sẽ không ai thoát được khỏi tay tôi. Tôi sẽ gọi tăng viện khi đã bắt được hắn.” Cô ta nhìn tôi săm soi không chớp mắt. “Và nếu hắn không có ở trong đó, tôi sẽ bắt anh.”

    Dường như chấp nhận điều này là một ý tưởng hay. “Cô có thể giúp chúng ta qua được cổng không?”

    Cô ta bật cười. “Tất nhiên là có. Tôi có mang phù hiệu, nó sẽ cho phép chúng ta qua được bất cứ chỗ nào. Sau đó thì sao?”

    Bấy giờ đến phần mấu chốt. Nếu cô ta mắc lỡm, tôi có thể về nhà tự do. “Sau đó chúng ta tách ra, tìm kiếm cho tới khi tìm thấy hắn.”

    Cô ta quan sát tôi. Tôi lại thấy trên khuôn mặt đó thứ tôi đã thấy khi cô ta bước ra khỏi xe - cái nhìn của một con thú săn mồi đang đánh giá con mồi, tự hỏi cần tung ra đòn tấn công khi nào và vào đâu, cần dùng tới bao nhiêu móng vuốt. Thật kinh khủng - tôi thực sự thấy người mình nóng ran lên trước cô ta. “Được thôi,” cuối cùng cô ta nói và hất hàm về phía xe của mình. “Vào xe đi.”

    Tôi chui vào. Cô ta lái xe đưa chúng tôi quay trở lại con đường và tới chỗ cổng vào. Thậm chí vào giờ này vẫn còn xe cộ qua lại. Phần lớn dường như là người từ Ohio đến tìm kiếm con tàu viễn dương của họ, nhưng có vài người lạc đường tới trước cổng, tại đó các nhân viên an ninh yêu cầu họ quay trở lại lối cũ. Thám tử LaGuerta vượt qua tất cả những người này, đưa chiếc Chevy to sụ của cô ta lên hàng đầu. Kỹ năng lái xe miền Trung Tây của bọn họ đương nhiên không phải là đối thủ của một cô nàng người Miami gốc Cuba có bảo hiểm y tế chu đáo đang lái một chiếc xe mà cô ta không mấy bận tâm đến. Có những tiếng còi ré lên, vài câu chửi rủa khe khẽ và chúng tôi đã ở trước bốt gác.

    Tay nhân viên an ninh thò người ra, một anh chàng da đen gầy, cơ bắp. “Thưa cô, cô không thể...”

    Cô ta giơ phù hiệu lên. “Cảnh sát. Mở cổng ra.” Cô ta lên tiếng với vẻ quyền uy gay gắt tới mức thiếu chút nữa tôi đã đứng bật dậy khỏi ghế ngồi để đích thân chạy đi mở cổng.

    Nhưng tay gác cổng vẫn ngồi im như hóa đá, thở một hơi qua miệng, rồi bồn chồn liếc mắt trở vào trong bốt gác. “Cô muốn gì với...”

    “Mở cái cổng chết tiệt kia ra, đồ làm thuê,” cô ta quát anh chàng kia, giơ phù hiệu lên vung vẩy và cuối cùng anh ta cũng thôi không đờ ra nữa.

    “Hãy để tôi xem phù hiệu,” anh ta nói. LaGuerta ẻo lả giơ lên, buộc anh chàng phải bước tới thêm một bước để có thể nhìn được. Anh ta cau mày nhìn vào phù hiệu và chẳng tìm thấy gì để phản đối. “E hèm,” anh ta nói. “Cô có thể cho tôi biết cô muốn tìm gì trong kia không?”

    “Tôi có thể nói cho anh biết nếu anh không mở cổng sau hai giây nữa tôi sẽ nhét anh vào cốp xe của mình và ném anh vào buồng giam đầy ắp những gã đồng tính và sau đó quên khuấy luôn tôi đã nhét anh vào đâu.”

    Anh chàng bảo vệ đứng dậy. “Tôi chỉ muốn giúp thôi mà,” anh ta nói, ngoái đầu ra sau gọi. “Tavio, mở cổng!”

    Cánh cổng được nhấc lên và LaGuerta rồ ga lao qua. “Gã khốn đó đang làm trò gì đó hắn không muốn tôi biết,” cô ta nói. Có vẻ thú vị trong giọng nói của cô ta, đi kèm với tâm trạng phấn khích đang dâng lên. “Nhưng tối nay tôi không quan tâm tới mấy trò buôn lậu.” Cô ta nhìn tôi. “Chúng ta đi đâu đây?”

    “Tôi không biết,” tôi nói. “Tôi đoán chúng ta nên bắt đầu từ chỗ hắn đỗ cái xe tải lại.”

    Cô ta gật đầu, tăng tốc lao theo lối đi chạy giữa những chồng container. “Nếu hắn có mang theo một thi thể, có lẽ hắn sẽ đậu xe ngay gần chỗ hắn muốn tới.” Khi chúng tôi lại gần hàng rào, cô ta giảm tốc độ, hướng chiếc xe lặng lẽ đi tới cách chiếc xe tải năm mươi foot rồi dừng lại. “Hãy thử ngó qua hàng rào một chút,” cô ta nói, gạt cần số sang chế độ đậu xe và lao ra khỏi xe trong khi chiếc xe dừng khựng lại.

    Tôi theo sau. LaGuerta giẫm phải thứ gì đó cô ta không thích và giơ chân lên để xem chiếc giày. “Mẹ kiếp,” cô ta thốt lên. Tôi đi lên trước cô ta, cảm thấy mạch đập của mình thật nhanh, thật dữ dội, tiến tới bên chiếc xe tải. Tôi đi vòng quanh xe, thử các cửa. Chúng đều bị khóa, cho dù có hai khung cửa nhỏ ở đằng sau, chúng đều bị sơn kín từ bên trong. Dẫu vậy, tôi vẫn đứng lên thanh chống va đập và cố nhìn vào trong, nhưng trên lớp sơn không hề có khoảng hở nào. Không thể nhìn thấy gì từ phía này, nhưng tôi vẫn ngồi xổm xuống nhìn dưới gầm xe. Tôi cảm thấy, hẳn là nghe thấy, LaGuerta trườn tới phía sau mình.

    “Anh thấy gì chưa?” cô ta hỏi và tôi đứng lên.

    “Chẳng thấy gì hết,” tôi nói. “Các khung cửa đằng sau bị sơn kín từ bên trong.”

    “Anh có thể nhìn vào từ đằng trước không?”

    Tôi đi vòng ra phía trước chiếc xe. Nó cũng không mang tới bất cứ manh mối nào. Phía trong kính chắn gió, hai tấm chắn nắng vốn rất quen thuộc ở Florida đã được mở rộng ra trên bàn điều khiển, che kín mọi góc nhìn vào trong buồng lái. Tôi leo lên thanh chống va đập trước rồi trèo lên nóc, bò từ phải sang trái, nhưng không có kẽ hở nào giữa các tấm chắn nắng. “Chẳng thấy gì hết,” tôi nói và leo xuống.

    “Được rồi,” LaGuerta nói, nhìn tôi với đôi mắt nheo nheo và một chút đầu lưỡi thè ra. “Anh muốn đi đường nào?”

    Đường này, ai đó thì thầm nơi sâu thẳm trong tâm trí tôi. Hãy tới đây. Tôi liếc mắt sang phải, nơi những ngón tay trong tâm trí đang chỉ về, sau đó nhìn trở lại LaGuerta, lúc này đang nhìn tôi chăm chú với cái nhìn không chớp mắt như một con hổ cái. “Tôi sẽ sang trái và vòng một vòng,” tôi nói. “Gặp cô ở giữa đường.”

    “Được thôi,” LaGuerta nói với một nụ cười hoang dại. “Nhưng tôi sang trái.”

    Tôi cố làm ra vẻ ngạc nhiên và không vui, tôi đoán mình diễn xuất cũng không tồi, vì cô ta quan sát tôi rồi sau đó gật đầu. “Được,” cô ta lặp lại, rồi rẽ vào hàng đầu tiên của những chiếc container xếp chất lên nhau.

    Sau đó, tôi còn lại một mình cùng anh bạn e dè bên trong cơ thể. Giờ thì thế nào? Sau khi tôi đã lừa LaGuerta dành cho mình con đường bên phải, tôi sẽ làm gì với nó đây? Nói cho cùng, tôi chẳng có lý do gì để nghĩ nó khá hơn chút nào so với bên trái, hay thậm chí là khá hơn đứng cạnh hàng rào tung hứng mấy quả dừa. Chỉ có duy nhất tiếng huýt sáo giục giã trong đầu chỉ dẫn cho tôi, và như thế đã thật sự đủ hay chưa? Khi luôn là một tòa tháp băng giá thuần túy lý trí như trường hợp của tôi, hiển nhiên bạn sẽ tìm kiếm những manh mối hợp lý để định hướng hành động cho mình. Cũng tự nhiên như thế, bạn lờ đi những giọng nói rền rĩ đầy nhạc điệu vô lý và vô cớ vang lên từ dưới tầng sâu nhất của bộ não, cố đẩy bạn đi theo con đường đó, cho dù chúng có trở nên khẩn cấp đến thế nào đi nữa dưới ánh sáng chập chờn của mặt trăng.

    Còn về phần còn lại, phương hướng cụ thể của nơi tôi cần tìm đến vào lúc này - tôi nhìn quanh, theo dọc dãy dài những hàng container thập thò nhấp nhô. Về phía bên, nơi LaGuerta đã nhón chân lần theo, có vài hàng container xe kéo sơn màu sặc sỡ. Còn phía trước tôi, chạy dài về bên phải, là những container tàu biển.

    Đột nhiên, tôi trở nên cực kỳ không chắc chắn. Tôi không thích cảm giác này. Tôi nhắm mắt lại. Đúng khoảnh khắc đó, tiếng thì thầm trở thành một chùm âm thanh, và không hiểu vì sao, tôi chợt thấy mình đang đi về phía một đám container tàu biển nằm gần mép nước. Tôi không có cảm nhận từ ý thức nào mách bảo rằng những chiếc container này có gì khác biệt hay tốt hơn, hoặc hướng đi này đúng đắn và hứa hẹn hơn. Hai bàn chân tôi chỉ đơn giản bước đi và tôi đi theo chúng. Cứ như thể chúng đang lần theo một lối đi chỉ những đầu ngón chân mới thấy được, hoặc như thể một bài niệm chú nào đó đang được ban đồng ca bên trong tôi hát lên bằng tiếng thì thầm nức nở, và hai bàn chân của tôi tuân theo chúng, lôi tôi đi.

    Trong lúc chúng di chuyển, âm thanh lớn dần lên trong tôi, một tiếng gào thét câm lặng cuồng loạn, thúc giục tôi đi nhanh hơn đôi chân tôi có thể, lôi tôi chệnh choạng bước đi thật hậu đậu theo những ngóc ngách ngoằn ngoèo giữa các container bằng thứ lực kéo vô hình thật mạnh mẽ. Ấy vậy nhưng cùng lúc lại có một giọng nói mới, nhỏ nhẹ và vừa phải, đang đẩy tôi trở lại sau, nói rằng tôi không muốn có mặt ở đó hơn bất cứ nơi nào trên đời, kêu gọi tôi hãy bỏ chạy, hãy quay về nhà, rời xa chốn này, và nó cũng chẳng có lý hơn bất kỳ giọng nói nào khác. Cùng một lúc, tôi vừa bị kéo tới trước vừa bị lôi lại sau mạnh tới mức không làm sao điều khiển được đôi chân mình làm việc cho đàng hoàng, vậy là tôi vấp ngã ụp mặt xuống nền bê tông cứng như đá. Tôi nhổm dậy trên hai đầu gối, miệng khô khốc, tim đập như trống dồn, rồi dừng lại đưa ngón tay sờ tới vết rách trên chiếc áo sơ mi loại dành cho đấu thủ bowling đẹp đẽ hiệu Dacron của mình. Tôi luồn đầu ngón tay qua cái lỗ, ngoáy ngoáy nó cọ vào chính mình. Xin chào, Dexter, anh bạn đang định đi đâu vậy? Xin chào, ngài Ngón Tay. Tôi không biết, nhưng tôi sắp đến nơi rồi. Tôi nghe thấy các bạn tôi đang gọi.

    Vậy là tôi đứng dậy trên một đôi chân bỗng đột ngột trở nên run rẩy và lắng nghe. Giờ tôi có thể nghe thấy nó thật rõ ràng, thậm chí cả với đôi mắt mở to, cảm thấy nó mạnh tới mức thậm chí không thể bước đi được. Tôi đứng im trong khoảnh khắc, tựa người vào một chiếc container. Một ý nghĩ rất tỉnh táo, như thể tôi đang cần tới một ý nghĩ như thế vậy. Có thứ gì đó không tên đã được sinh ra tại nơi này, thứ gì đó đã sống trong những ngóc ngách sâu thẳm tối tăm nhất của cái tạo thành Dexter, và đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy sợ, theo những gì tôi còn nhớ được. Tôi không muốn có mặt ở đây, nơi có những thứ ghê rợn ẩn nấp. Dẫu vậy tôi vẫn phải có mặt ở nơi này để tìm Deborah. Tôi đang bị xẻ làm đôi trong một trò kéo co vô hình. Tôi có cảm tưởng như thể mình là một đứa trẻ bị đưa ra làm hình minh họa cho Sigmund Freud[55], và tôi muốn về nhà, muốn leo lên giường.

    [55] Sigmund Freud (1856 - 1939): Bác sĩ về thần kinh và tâm lý người Áo.

    Nhưng mặt trăng đang gào thét giữa bầu trời tăm tối trên đầu tôi, mặt nước đang tru lên dọc Government Cut, làn gió đêm hây hẩy rền rĩ thổi qua tôi như một bầy nữ thần báo tử, thúc ép hai bàn chân tôi dấn bước về phía trước. Và tiếng hát bùng lên căng phồng trong tôi như một dàn đồng ca cơ khí khổng lồ, giục giã tôi tiếp tục, nhắc nhở tôi cần bước chân đi như thế nào, ấn tôi bước đi như một cái máy xuống theo những hàng container. Tim tôi đập như búa máy, rền rĩ, những hơi thở ngắn hổn hển trở nên quá ầm ĩ, đây là lần đầu tiên tôi còn nhớ được mình có cảm giác yếu đuối, quay cuồng và ngớ ngẩn - giống như một con người, như một con người nhỏ bé, bất lực.

    Tôi nặng nề lê bước theo lối đi quen thuộc đến kỳ lạ trên một đôi chân như đi mượn cho tới khi không thể lê bước thêm được nữa, một lần nữa, tôi lại đưa một cánh tay ra để tựa mình vào một chiếc container, một container có gắn bộ phận điều hòa nhiệt độ đang không ngừng rung lên ở phía sau, hòa trộn với tiếng rền rĩ của màn đêm, tất cả vang lên trong đầu tôi ầm ĩ đến mức lúc này hầu như tôi chẳng thể nhìn thấy gì. Trong lúc tôi tựa lưng vào chiếc container, cánh cửa bật mở.

    Bên trong container được chiếu sáng nhờ hai chiếc đèn bão chạy pin. Kê sát vào thành phía trong là một chiếc bàn mổ tạm thời được tạo thành từ những chiếc thùng kê sát vào nhau.

    Và bị trói bất động trên cái bàn mổ đó là cô em gái Deborah yêu quý của tôi.


  6. #25
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,703
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 26

    Trong vài giây, dường như không thật sự cần thiết phải thở. Tôi chỉ nhìn. Những dải băng dính dài, bóng loáng quấn quanh cánh tay và chân Deb. Cô mặc một chiếc quần soóc vải bóng màu vàng và một chiếc áo lụa với hai bên vạt được buộc túm lại trên rốn. Mái tóc cô bị kéo ra sau, buộc chặt lại, đôi mắt mở to tới mức bất thường, mũi đang thở gấp gáp, vì cả miệng cũng đã bị bịt kín bởi một dải băng dính chạy ngang qua môi, kéo dài xuống tận bàn, giữ đầu cô nằm im.

    Tôi cố nghĩ tới điều gì đó để nói, nhưng nhận ra miệng mình đang quá khô để có thể nói được, vậy là tôi chỉ nhìn. Deborah nhìn lại. Có rất nhiều điều trong đôi mắt cô, nhưng rõ ràng nhất là sợ hãi, điều đó giữ chân tôi ở đó, trên ngưỡng cửa. Tôi chưa bao giờ thấy cái nhìn đó ở cô trước đây, và không dám chắc nên nghĩ gì về nó. Tôi đi nửa bước về phía Deborah, và cô vùng vẫy dưới những vòng băng dính. Sợ hãi ư? Tất nhiên rồi - nhưng sợ tôi sao? Tôi tới đây để cứu cô, có vẻ như chắc chắn là vậy. Thế thì tại sao cô em tôi lại sợ tôi? Trừ khi...

    Chẳng lẽ tôi đã làm chuyện này?

    Trong quãng thời gian “chợp mắt” lúc trước trong tối hôm nay, chẳng lẽ Deborah đã tới căn hộ của tôi đúng như hẹn trước và gặp phải Người lữ hành Tối Tăm của tôi ngồi sau tay lái của cỗ máy Dexter? Hoàn toàn không hề hay biết, tôi đã mang cô tới đây, trói lên bàn một cách đầy cám dỗ như thế kia mà không hề ý thức được việc mình làm - một giả thiết chẳng có lý chút nào, đương nhiên rồi. Chẳng lẽ tôi đã hối hả quay về nhà, tự mình để con búp bê Barbie ở đó, sau đó leo lên gác, leo lên giường và bừng tỉnh, lại là “tôi” như trước, như thể vừa trải qua một kiểu chạy tiếp sức gây án mạng vậy? Không thể nào: nhưng...

    Nếu không làm thế nào tôi biết mà mò tới chỗ này?

    Tôi lắc đầu, không thể có chuyện tôi có khả năng tìm tới đúng cái container lạnh này thay vì bất cứ nơi nào khác ở Miami, trừ khi tôi đã biết trước nó ở đâu. Và tôi đã làm được. Khả năng duy nhất hợp lý là có lẽ tôi đã từng tới đây từ trước. Nếu không phải vào ngay tối nay cùng Deb, thì khi nào, và với ai?

    “Tôi gần như tin chắc đúng là chỗ này,” một giọng nói cất lên, một giọng nói giống của tôi tới mức trong khoảnh khắc tôi đã nghĩ chính mình vừa nói, băn khoăn tự hỏi tôi nói như vậy có ý gì.

    Tóc gáy dựng đứng cả lên, tôi hoàn tất nốt nửa bước nữa tới phía Deborah... và hắn ta bước ra khỏi bóng tối. Ánh sáng dìu dịu của mấy cây đèn soi sáng hắn, ánh mắt chúng tôi gặp nhau. Trong giây lát, không gian bên trong chiếc container chao đảo và tôi không còn biết rõ mình đang ở đâu nữa. Ánh mắt tôi đưa đi đưa lại giữa tôi, đang ở gần cửa vào, và hắn, ở bên chiếc bàn mổ tự tạo, tôi trông thấy mình đang nhìn hắn, rồi thấy hắn nhìn tôi. Trong chớp mắt, tôi thấy mình ở dưới sàn, ngồi im không động đậy và không biết hình ảnh ấy có nghĩa là gì. Rất bất an... rồi lại là chính mình, cho dù tôi có phần không chắc chắn liệu ý nghĩa của khái niệm ấy là gì.

    “Gần như tin chắc,” hắn lại lên tiếng, một giọng nói nhẹ nhàng, đầy hạnh phúc, giống như đứa trẻ hay gây rắc rối của ông Rogers. “Nhưng vì giờ cậu đã ở đây, như thế có nghĩa nơi này chắc chắn là đúng chỗ. Cậu không nghĩ thế sao?”

    Chẳng có cách nào hay ho cho tôi để nói điều này, nhưng sự thật là tôi nhìn hắn chằm chằm với cái mồm há hốc. Tôi dám chắc mình đã gần như xều bọt xều dãi. Tôi chỉ biết nhìn chằm chằm. Đó là hắn. Không nghi ngờ gì nữa. Đây chính là gã đàn ông trong những bức hình chúng tôi tìm thấy nhờ chiếc webcam, kẻ mà cả Deb và tôi đều từng nghĩ rất có thể chính là tôi.

    Ở gần như lúc này, tôi có thể thấy kỳ thực hắn không phải là tôi; không hẳn, và tôi cảm thấy một chút cảm giác biết ơn nho nhỏ khi nhận ra điều đó. Hoan hô - tôi là một ai khác. Tôi vẫn chưa hoàn toàn điên. Một kẻ yếm thế nghiêm trọng, hẳn nhiên rồi và theo cách nào đó, thỉnh thoảng cũng là kẻ sát nhân, nhưng điều này thì chẳng hề sai. Nhưng tôi không điên. Có một kẻ khác, hắn không phải là tôi. Ba lần hoan hô cho bộ óc của Dexter.

    Nhưng hắn rất giống tôi. Có lẽ cao hơn một hay hai inch, vai và ngực nở nang hơn, như thể hắn đã tập tạ rất nhiều. Điều đó, cộng với vẻ nhợt nhạt trên khuôn mặt của hắn, khiến tôi nghĩ có thể gần đây hắn từng ngồi tù. Tuy vậy, đằng sau vẻ nhợt nhạt đó, khuôn mặt hắn rất giống khuôn mặt của tôi; cũng cái mũi và gò má đó, cùng cái nhìn trong đôi mắt cho hay đèn vẫn sáng nhưng không có ai ở nhà. Thậm chí cả mái tóc của hắn cũng có nét lượn sóng nửa vời, lúng túng, ngượng nghịu. Trông hắn không thực sự giống hệt tôi, nhưng rất giống.

    “Phải,” hắn nói. “Có chút gì đó như cú sốc của lần đầu tiên, phải không nào?”

    “Chỉ một chút thôi,” tôi nói. “Mày là ai? Và tại sao tất cả chuyện này lại...” tôi để lửng câu nói không kết thúc hẳn, bởi vì tôi không biết tất cả chuyện này là gì.

    Hắn nhăn mặt, một khuôn mặt thất vọng rất Dexter. “Ôi, trời ơi. Vậy mà tôi đã chắc mẩm cậu đã hiểu ra.”

    Tôi lắc đầu. “Tao còn không biết tao tới đây bằng cách nào,” tôi nói.

    Hắn mỉm cười nhẹ nhàng. “Ai đó đã lái xe tối nay phải không?” Trong lúc tóc gáy tôi dựng đứng lên, hắn hơi khẽ tặc lưỡi, một âm thanh cơ học chẳng đáng đề cập đến - ngoại trừ việc giọng nói từ trong tiềm thức dưới đáy bộ não của tôi lại giống nó tới từng âm điệu một. “Và thậm chí còn chưa tới trăng tròn, phải vậy không?”

    “Nhưng thực tế cũng chẳng phải là một đêm không trăng,” tôi nói. Khó có thể coi là tài trí tuyệt đỉnh, nhưng ít nhất cũng là một kiểu cố gắng, có thể coi là đáng kể trong hoàn cảnh này. Rồi tôi nhận ra mình đang có phần say sưa chếnh choáng với ý thức rằng ở đây cuối cùng cũng có ai đó biết. Không phải hắn đang đưa ra những nhận xét bâng quơ nhưng tình cờ lại đâm trúng vào những tâm tư cá nhân sâu kín nhất của tôi. Vì chúng cũng là tâm tư của hắn nữa. Hắn biết. Lần đầu tiên tôi có thể nhìn qua vực thẳm khổng lồ giữa đôi mắt mình và đôi mắt của một ai khác rồi nói không chút lo lắng, Hắn giống mình.

    Cho dù tôi có là cái gì đi nữa, hắn cũng là thứ tương tự.

    “Nhưng nói một cách nghiêm túc,” tôi nói. “Mày là ai?”

    Khuôn mặt hắn giãn ra thành một nụ cười đúng kiểu Dexter - chú - mèo - Cheshire[56], nhưng vì nó rất giống với của chính tôi, tôi có thể thấy đằng sau nó không hề có chút hạnh phúc thực sự nào. “Cậu có nhớ gì về trước đây không?” hắn nói. Và tiếng vọng của câu hỏi đó ngân lên trên các bức thành container, gần như làm bộ óc tôi vỡ tung ra.

    [56] Nhân vật con mèo trong chuyện “Alice ở xứ sở thần tiên” của Lewis Carroll.


  7. #26
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,703
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 27

    Con nhớ gì về trước đây? Harry từng hỏi tôi.

    Không gì hết, thưa bố.

    Ngoại trừ...

    Những hình ảnh quay cuồng trong phần vô thức của tâm trí tôi. Những bức hình tiềm thức - những giấc mơ chăng? Hay ký ức? - những hình ảnh rất rõ ràng, cho dù chúng có là gì đi nữa. Và chúng ở đây - trong không gian này? Không. Không thể nào. Cái container này không thể nằm ở đây quá lâu và tôi hoàn toàn chắc chắn chưa bao giờ có mặt tại đây. Nhưng vẻ chật chội của không gian, luồng không khí mát lạnh phả ra từ máy lạnh, thứ ánh sáng lờ mờ - mọi thứ đều ngân lên trong tôi thành một bản hòa tấu quen thuộc. Tất nhiên, không phải là cùng nơi này - nhưng khung cảnh thật rõ ràng, thật tương đồng, gần như giống hoàn toàn, ngoại trừ...

    Tôi chớp mắt; một hình ảnh vụt qua sau đôi mắt tôi. Tôi nhắm mắt lại.

    Và không gian bên trong một chiếc container khác vụt hiện về trong tôi. Trong nơi này không có thùng carton nào. Và có... có nhiều thứ ở đó. Có cả... Mẹ? Tôi có thể thấy khuôn mặt bà ở đó, có vẻ như bà đang ẩn nấp và nhìn qua - những thứ kia - chỉ khuôn mặt bà lộ ra, khuôn mặt không cau mày, không chớp mắt, không cử động. Thoạt đầu tôi muốn bật cười, vì Mẹ đã nấp rất khéo. Tôi không thể nhìn thấy phần còn lại của bà, chỉ khuôn mặt. Chắc bà đã đào một cái hố dưới sàn. Chắc bà đang náu mình dưới hố và ngước mắt nhìn lên - nhưng tại sao lúc này bà không trả lời tôi, khi tôi đã nhìn thấy bà? Tại sao bà không hề nháy mắt? Thậm chí cả khi tôi gọi bà thật to, bà cũng không trả lời, không cử động, không làm gì hết ngoài nhìn tôi. Và không có Mẹ, tôi chỉ còn một mình.

    Nhưng không - không hẳn một mình. Tôi quay đầu lại, và ký ức cũng quay theo tôi. Tôi không chỉ có một mình. Ai đó đang ở cùng tôi. Thoạt đầu chuyện này thật rối rắm, vì đó là tôi - nhưng đó lại là ai khác - nhưng người đó giống tôi - cả hai chúng tôi trông đều giống tôi...

    Nhưng chúng tôi đang làm gì ở đây, trong cái container này? Vì sao Mẹ lại không cử động? Mẹ đáng ra phải giúp chúng tôi. Chúng tôi ngồi đây, ngập trong một vũng sâu của, của... Mẹ cần di chuyển, cần đưa chúng tôi ra khỏi thứ này, ra khỏi...

    “Máu...?” Tôi thì thầm.

    “Cậu nhớ rồi,” hắn lên tiếng sau lưng tôi. “Tôi rất hạnh phúc.”

    Tôi mở mắt ra. Đầu tôi đang đập thình thịch, thật khủng khiếp. Tôi gần như có thể thấy không gian kia chồng khít lên không gian này. Và ở trong không gian kia, Dexter bé nhỏ ngồi ngay đó. Tôi có thể đặt bàn chân mình lên chỗ ấy. Cái tôi kia ngồi bên cạnh tôi, nhưng không phải là tôi, tất nhiên rồi; cậu ta là một ai khác, một người tôi biết cũng rõ như chính mình, một ai đó có tên là...

    “Biney...?” Tôi ngập ngừng nói. Âm thanh phát ra vẫn thế, nhưng cái tên dường như chưa được đúng.

    Hắn gật đầu đầy phấn chấn. “Đó chính là cách cậu gọi tôi. Hồi đó cậu không thể phát âm đúng cái tên Brian. Cậu gọi thành Biney.” Hắn đập lên tay tôi. “Cũng tốt thôi. Có một biệt danh cũng thật thú vị.” Hắn dừng lại, khuôn mặt mỉm cười, nhưng đôi mắt thì nhìn chằm chằm vào mặt tôi. “Em trai bé bỏng.”

    Tôi ngồi xuống. Hắn ngồi xuống cạnh tôi.

    “Cái gì...” đó là tất cả những gì tôi có thể thốt lên được.

    “Em trai,” hắn lặp lại. “Hai anh em sinh kề nhau. Cậu ra đời chỉ sau tôi một năm. Mẹ chúng ta có vẻ hơi bất cẩn.” Khuôn mặt hắn méo mó thành một nụ cười ghê rợn, cực kỳ hạnh phúc. “Theo nhiều cách khác nhau,” hắn nói.

    Tôi cố nuốt khan. Chẳng ăn thua. Hắn - Brian - anh trai tôi - tiếp tục.

    “Có một số chi tiết trong chuyện này tôi chỉ đoán,” hắn nói. “Nhưng tôi có chút thời gian trong tay, khi tôi được động viên để học một thứ hữu ích, tôi đã làm. Tôi rất cừ trong việc tìm hiểu mọi thứ bằng máy tính. Tôi tìm ra những hồ sơ cũ của cảnh sát. Mẹ yêu quý của chúng ta dính dáng với một đám rất hư hỏng. Trong lĩnh vực nhập khẩu, cũng hệt như tôi. Tất nhiên, sản phẩm họ nhập về có phần nhạy cảm hơn đôi chút.” Hắn với tay thò vào trong một thùng carton sau lưng mình và lấy ra một nắm mũ với hình con báo đang nhảy trên đó. “Những món hàng của tôi sản xuất ở Đài Loan. Hàng của họ đến từ Colombia[57]. Phỏng đoán khá nhất của tôi là Mẹ yêu quý cùng bạn bè của bà ấy đã thử một dự án độc lập nho nhỏ với một ít hàng mà nói chặt chẽ ra kỳ thực không thuộc về bà ấy, và các chiến hữu làm ăn của bà đã không được vui lắm với tinh thần độc lập của mẹ và quyết định làm bà nản lòng.”

    [57] Ám chỉ cocain.

    Hắn cẩn thận cất những cái mũ trở lại vào trong thùng carton, tôi cảm thấy hắn đang nhìn mình, nhưng thậm chí tôi không thể quay đầu đi. Sau một khoảnh khắc, hắn nhìn đi nơi khác.

    “Người ta tìm thấy chúng ta ở đây,” hắn nói. “Ngay chỗ này.” Bàn tay hắn đặt xuống sàn, chạm xuống đúng nơi đứa bé còn lại không - phải - là - tôi từng ngồi trước đây rất lâu trong cái container kia. “Hai ngày rưỡi sau. Dính chặt vào sàn trong máu khô dày cả inch.” Giọng nói của hắn rít lên chói tai, ghê rợn; hắn nói ra cái từ kinh khủng đó, máu, đúng hệt như cách hẳn tôi sẽ nói, với sự khinh miệt và ghê tởm tột cùng. “Theo các báo cáo của cảnh sát, ở đó cũng còn có cả vài người đàn ông. Có thể là ba hay bốn. Một người hoặc hơn trong số bọn họ rất có thể là bố của chúng ta. Tất nhiên, cưa máy đã làm cho việc nhận dạng trở nên cực kỳ khó khăn. Nhưng họ khá chắc chắn là chỉ có duy nhất một phụ nữ. Mẹ yêu quý của chúng ta. Khi đó cậu ba tuổi. Tôi bốn tuổi.”

    “Nhưng,” tôi nói. Không có âm thanh nào xuất hiện tiếp sau.

    “Đúng đấy,” Brian nói với tôi. “Và đúng là cũng rất khó để tìm ra cậu. Người ta rất lôi thôi rắc rối với những hồ sơ nhận con nuôi ở tiểu bang này. Nhưng rồi tôi cũng tìm được cậu, em trai bé nhỏ. Tôi đã tìm ra, phải không nào?” Hắn lại đập tay lên bàn tay tôi lần nữa, một cử chỉ lạ lùng tôi chưa từng thấy từ bất cứ ai khác trong cả đời mình. Tất nhiên, trước đây tôi chưa bao giờ trông thấy một người anh trai bằng xương bằng thịt. Có lẽ đập tay là một thứ đáng ra tôi phải thực hành cùng anh trai mình, hay với Deborah - và tôi nhận ra với chút bận tâm là mình đã hoàn toàn quên khuấy mất Deborah.

    Tôi đưa mắt nhìn về phía cô, cách chỗ tôi ngồi chừng sáu foot, được gắn gọn gàng bằng băng dính vào một chỗ.

    “Cô bé vẫn ổn cả,” anh trai tôi nói. “Tôi không muốn bắt đầu mà không có cậu.”

    Có thể đây là một điều lạ lùng cho câu hỏi rành mạch đầu tiên của tôi, nhưng tôi đã hỏi ông anh mình, “Làm sao anh biết tôi cũng sẽ muốn?” Câu hỏi có lẽ nghe dường như tôi thực sự muốn - tất nhiên tôi không hề thực sự muốn khám phá Deborah. Chắc chắn là không. Ấy vậy nhưng - đây là anh trai tôi, đang muốn chơi đùa, chắc chắn đây là một cơ hội khá hiếm hoi. Còn nhiều hơn mối liên hệ huyết thống, hơn rất nhiều, sự thật là anh ta giống tôi. “Anh không thể thực sự biết,” tôi nói, nghe có vẻ không chắc chắn hơn nhiều so với những gì tôi nghĩ có thể.

    “Tôi không biết,” ông anh tôi nói. “Nhưng tôi nghĩ có khả năng rất lớn. Cùng một chuyện đã xảy đến với cả hai chúng ta.” Nụ cười của ông anh tôi rộng thêm ra, anh ta giơ một ngón tay trỏ lên cao. “ ‘Biến cố gây sang chấn’ - cậu biết khái niệm đó chứ? Cậu đã bao giờ từng đọc để tìm hiểu về những con quái vật như chúng ta chưa?”

    “Có,” tôi nói. “Và Harry - bố nuôi tôi - nhưng ông chưa bao giờ nói chính xác chuyện gì đã xảy ra.”

    Brian vẫy một bàn tay quanh không gian bên trong container. “Chuyện này đã xảy ra, em trai. Cưa máy, những mảnh thi thể bay lượn... máu…” Lại với cùng kiểu nhấn mạnh ghê rợn đó. “Hai ngày rưỡi ngồi trong thứ đó. Thật kỳ diệu là chúng ta lại có thể sống sót, phải không nào? Gần như đủ để khiến người ta phải tin vào Chúa.” Đôi mắt anh ta sáng lấp lánh, vì một lý do nào đó, Deborah vặn vẹo người và phát ra một âm thanh ú ớ. Ông anh tôi tảng lờ cô. “Người ta nghĩ cậu còn đủ nhỏ tuổi để hồi phục. Tôi thì đã quá giới hạn độ tuổi một chút. Nhưng cả hai chúng ta đều đã phải chịu đựng một ‘Biến cố gây sang chấn’ điển hình. Tất cả các công trình nghiên cứu đều nhất trí như thế. Điều đó khiến tôi trở thành tôi - và tôi nghĩ rất có thể nó cũng gây nên điều tương tự với cậu.”

    “Đúng thế,” tôi nói, “hoàn toàn tương tự.”

    “Chẳng phải thật tuyệt sao,” ông anh tôi nói. “Mối liên hệ gia đình.”

    Tôi nhìn anh ta. Anh trai tôi. Cái danh xưng lạ lùng đó. Nếu tôi nói to nó lên thành tiếng, tôi tin chắc mình hẳn đã bị vấp. Thật hoàn toàn không thể tin nổi - và từ chối nó còn lố bịch hơn. Anh ta trông giống tôi. Chúng tôi cùng thích một thứ. Thậm chí anh ta còn có khẩu vị cay nghiệt của tôi trong đùa cợt.

    “Tôi chỉ...” tôi lắc đầu.

    “Phải,” anh ta nói. “Phải cần một phút để quen dần với ý tưởng chúng ta có hai người, phải không nào?”

    “Có lẽ là lâu hơn,” tôi nói. “Tôi không biết liệu mình...”

    “Ôi trời ơi, chẳng lẽ chúng ta đang trở nên dè dặt sao? Sau những gì đã xảy ra ư? Hai ngày rưỡi ngồi đây, ôi trời. Hai cậu nhóc con, ngồi hai ngày rưỡi trong máu,” anh ta nói và tôi cảm thấy buồn nôn, chóng mặt, tim đập loạn nhịp, đầu đau như búa bổ.

    “Không,” tôi bịt miệng và cảm thấy bàn tay anh ta đặt lên vai mình.

    “Không quan trọng,” anh ta nói. “Điều quan trọng là cái đang diễn ra lúc này.”

    “Cái... đang diễn ra,” tôi nói.

    “Phải. Cái đang diễn ra. Ngay bây giờ.” Anh ta phát ra một âm thanh khe khẽ, lạ lẫm, khụt khịt, khùng khục, chắc chắn được dự tính để giống với tiếng cười, nhưng có lẽ ông anh tôi đã không học được cách bắt chước giỏi như tôi. “Tôi nghĩ mình nên nói gì đó đại loại như: Cả cuộc đời tôi đã hướng tới điều này!” Anh ta lặp lại thứ âm thanh khụt khịt đó. “Tất nhiên, không ai trong chúng ta có thể làm được điều đó với cảm xúc thực sự. Nói cho cùng, thực ra chúng ta không thể cảm thấy gì cả, đúng không nào? Cả hai chúng ta đều trải qua đời mình để diễn một vai. Lang thang trong thế giới này, đọc ra những câu nói và giả bộ chúng ta thuộc về một thế giới dành cho nhân loại, bản thân chúng ta chưa bao giờ thực sự là những cá thể của nhân loại. Và luôn luôn, mãi mãi, tìm tới cách để cảm nhận điều gì đó! Tìm kiếm, em trai thân mến, một khoảnh khắc đúng như lúc này! Cảm xúc thật sự, chân chính, không giả tạo! Nó khiến cậu nín thở, phải không nào?”

    Và đúng thế thật. Đầu tôi đang quay cuồng, và không dám nhắm mắt lại nữa vì sợ điều có thể đang chờ đợi mình trong đó. Còn tồi tệ hơn nhiều, ông anh trai tôi lại đang ở ngay bên cạnh, quan sát, yêu cầu tôi phải là chính mình, giống như anh ta. Để là chính tôi, để đúng là em trai anh ta, là đúng con người thật của tôi, tôi cần phải, cần phải... làm gì? Đôi mắt tôi tự động tìm về phía Deborah.

    “Phải,” anh ta nói, trong giọng nói lúc này là toàn bộ cơn điên cuồng lạnh lẽo đầy hạnh phúc của Người lữ hành Tối Tăm. “Tôi biết cậu sẽ hiểu ra. Lần này chúng ta sẽ cùng nhau làm việc đó,” anh ta nói.

    Tôi lắc đầu, nhưng không được thuyết phục lắm. “Tôi không thể,” tôi nói.

    “Cậu phải làm,” anh ta nói, cả hai chúng tôi đều có lý. Cái lông vô hình lại chạm lên vai tôi, gần như hoàn toàn tương hợp với cú đẩy từ Harry mà ông có thể không bao giờ hiểu, ấy vậy nhưng dường như nó cũng mạnh không kém gì bàn tay của anh ta, khi nó kéo tôi đứng dậy, đẩy tôi bước về phía trước; một bước, hai - đôi mắt không chớp của Deborah đang dán chặt vào mắt tôi, nhưng với sự hiện diện kia đằng sau mình, tôi không thể nói với cô rằng tôi chắc chắn sẽ không...

    “Cùng nhau,” ông anh tôi nói. “Thêm một lần nữa. Đoạn tuyệt với cái cũ. Bắt đầu với cái mới. Tiến tới, đi lên, vào trong...!” Thêm nửa bước nữa... Đôi mắt Deborah đang gào thét với tôi, nhưng...

    Lúc này anh ta ở bên cạnh, đứng cùng tôi, có thứ gì đó lóe sáng trên bàn tay anh ta, hai thứ gì đó. “Một người vì tất cả, tất cả vì một người... Cậu đã bao giờ đọc Ba người lính ngự lâm chưa?” Anh ta tung một con dao lên không trung; nó vẽ thành một đường vòng cung và nằm gọn trong lòng bàn tay trái của anh ta rồi chìa nó về phía tôi. Tia sáng lờ mờ ánh lên trên hai lưỡi dao anh ta đang cầm và như thiêu đốt, xuyên sâu vào tôi, cũng như tia nhìn từ đôi mắt Brian. “Thôi nào, Dexter. Em trai. Cầm lấy dao đi.” Hai hàm răng anh ta sáng lên như những lưỡi dao. “Đến giờ biểu diễn rồi.”

    Deborah, từ dưới lần băng dính quấn chặt, phát ra một âm thanh nghèn nghẹn. Tôi ngước mắt lên nhìn cô. Có vẻ bồn chồn kinh hãi trong đôi mắt cô, cả sự điên cuồng đang lớn dần. Thôi nào, Dexter! Chẳng lẽ tôi thực sự đang nghĩ tới việc làm thế với cô? Hãy cắt dây trói cho cô và chúng ta cùng về nhà. Được chứ, Dexter? Dexter? Này, Dexter? Có phải anh bạn đấy không hả?

    Tôi không biết nữa.

    “Dexter,” Brian nói. “Tất nhiên tôi không có ý gây ảnh hưởng đến quyết định của cậu. Nhưng kể từ khi tôi biết được bản thân có một cậu em trai giống hệt như mình, đây là tất cả những gì tôi có thể nghĩ tới. Cậu cũng nghĩ như thế, tôi có thể thấy điều đó trên khuôn mặt cậu.”

    “Phải,” tôi nói, vẫn chưa rời mắt khỏi khuôn mặt hoang mang tột độ của Deborah, “nhưng sao lại phải là cô ấy?”

    “Sao lại không chứ? Cô ta là gì với cậu?”

    Đúng vậy, là gì chứ. Đôi mắt tôi nhìn chăm chăm vào mắt Deborah. Cô thực ra không phải là em gái tôi, không thực sự, không phải là một mối quan hệ huyết thống theo bất cứ hình thức nào, không hề. Tất nhiên tôi rất quý cô, nhưng...

    Nhưng sao? Sao tôi lại do dự? Tất nhiên chuyện này không thể. Tôi biết nó là điều không thể nghĩ tới, cho dù tôi đang nghĩ về nó. Không đơn thuần chỉ vì đó là Deb, cho dù đúng là vì thế, tất nhiên rồi. Nhưng một ý nghĩ thật lạ lẫm chợt len lỏi vào trong cái đầu đang bị dằn vặt bơ phờ của tôi và tôi không thể nào gạt nó đi được: Liệu Harry sẽ nói gì?

    Vậy là tôi đứng đó băn khoăn, vì cho dù tôi muốn bắt đầu đến thế nào đi nữa, tôi biết Harry sẽ nói gì. Ông đã nói rồi. Đó là chân lý không thể thay đổi của Harry: Hãy băm vằm những kẻ xấu, Dexter. Đừng làm thế với em gái con. Nhưng Harry chưa bao giờ lường trước điều gì như thế này - làm sao ông có thể chứ? Ông chưa bao giờ hình dung ra khi viết “Nguyên tắc của Harry” là tôi sẽ phải đối diện với một sự lựa chọn như thế này; đứng về phía Deborah - không phải là em gái thực sự của tôi - hay gia nhập cùng ông anh trai chính cống một trăm phần trăm còn sống sờ sờ của tôi trong một trò chơi tôi quả thật rất muốn tham gia. Và Harry không thể lường trước được điều đó khi ông hướng tôi vào con đường của mình. Harry chưa bao giờ biết tôi có một ông anh trai, người rồi đây sẽ...

    Nhưng đợi một lát đã. Làm ơn hãy lắng nghe. Harry có biết - Harry đã có mặt ở hiện trường khi chuyện đó xảy ra, phải không nào? Ông đã giữ kín chuyện ấy cho riêng mình, không bao giờ nói cho tôi biết tôi còn một người anh trai. Tất cả những năm tháng cô độc trống rỗng đó, khi tôi nghĩ mình là cái tôi duy nhất hiện diện - và ông biết không phải thế, biết và không nói với tôi. Sự thật quan trọng nhất về tôi - tôi không chỉ có một mình - và ông đã không cho tôi biết. Giờ đây thực sự tôi còn nợ Harry gì nữa đây, sau sự phản bội khó tin này?

    Quay trở về gần thực tại hơn, tôi còn nợ gì súc thịt động vật đang run rẩy bên dưới tôi, tạo vật mạo danh thành em gái tôi? Tôi có thể nợ gì cô ta nếu so sánh với mối liên hệ gắn kết tôi với Brian, người mang cùng dòng máu với tôi, anh trai tôi, một bản sao sống của chính thứ ADN quý báu của tôi?

    Một giọt mồ hôi lăn xuống trên trán Deborah, lăn vào trong mắt cô. Nó làm cô gái chớp mắt lia lịa, tạo thành những vẻ mặt nhăn nhó thật xấu xí trong nỗ lực tiếp tục quan sát tôi và đồng thời tống giọt mồ hôi ra khỏi mắt. Trông cô thực sự có vẻ thật khốn khổ, bị trói chặt và bất lực trong những vòng băng dính, vùng vẫy như một con vật ngu xuẩn; một con vật mang dáng người đầy ngu xuẩn. Chẳng hề giống tôi hay anh trai tôi; không hề có gì giống với anh chàng Dexter khôn ngoan sạch sẽ, không bao giờ gây bừa bãi, Kẻ nhảy dưới trăng với con dao sắc lẻm không dính máu, cũng như chính anh trai của anh ta.

    “Thế nào?” Ông anh tôi nói và tôi nghe thấy vẻ mất kiên nhẫn, sự phán xét, cả màn khởi đầu của sự thất vọng.

    Tôi nhắm mắt lại. Không gian bên trong container quay lượn quanh tôi, trở nên tối tăm hơn và tôi không thể di chuyển. Kia là Mẹ đang quan sát tôi không chớp mắt. Tôi mở mắt ra. Anh trai tôi đang đứng sau lưng, sát đến mức tôi có thể cảm thấy hơi thở của anh ta phả vào gáy mình. Cô em tôi ngước mắt lên nhìn tôi, đôi mắt mở to không chớp hệt như đôi mắt của Mẹ. Cái nhìn cô hướng về tôi bám riết lấy tôi, hệt như cái nhìn của Mẹ đã thu hút tôi. Tôi nhắm mắt lại: Mẹ. Tôi mở mắt ra: Deborah.

    Tôi cầm lấy con dao.

    Có một tiếng động nhỏ, một luồng gió ấm ào vào không gian mát lạnh bên trong container. Tôi quay người lại.

    LaGuerta đứng trên ngưỡng cửa, trên tay cô ta là một khẩu súng ngắn tự động nhỏ nhắn đầy phiền toái.

    “Tao biết chúng mày sẽ thử trò này,” cô ta nói. “Tao sẽ bắn cả hai chúng mày. Có khi cả ba,” cô ta nói, đưa mắt về phía Deborah, rồi nhìn trở lại tôi. “Ái chà,” cô ta nói, nhìn lưỡi dao trên tay tôi. “Thượng sĩ Doakes nên được thấy cảnh này. Anh ta đã đúng về mày.” Và cô ta chĩa súng về phía tôi, chỉ trong nửa giây.

    Thế là đủ lâu. Brian hành động thật nhanh, nhanh hơn những gì tôi nghĩ có thể. Dẫu vậy, LaGuerta vẫn kịp bắn đi một phát súng, Brian hơi chao đi khi anh ta đâm lưỡi dao vào đúng dưới cơ hoành của LaGuerta. Trong khoảnh khắc cả hai đứng im như thế, sau đó cả hai đều nằm bất động dưới sàn.

    Một vũng máu nhỏ bắt đầu lan ra trên sàn, thứ máu hòa lẫn của cả hai người, Brian và LaGuerta. Nó không quá lớn, không lan thật rộng, nhưng tôi bật lùi ra xa nó, thứ chất lỏng khủng khiếp, trong tâm trạng rất gần với sự hoảng loạn. Tôi chỉ lùi lại hai bước, rồi sau đó ngã nhào lên thứ gì đó phát ra những âm thanh ú ớ hoàn toàn tương xứng với sự hoảng loạn của chính mình.

    Deborah. Tôi lột băng dính khỏi miệng cô.

    “Chúa ơi, đau quá,” cô nói. “Vì Chúa hãy giúp em thoát khỏi thứ thối tha này và thôi diễn trò như một gã tâm thần mắc dịch đi.”

    Tôi nhìn xuống Deborah. Dải băng dính đã để lại một viền máu quanh bên ngoài môi cô, thứ máu đỏ ghê sợ đã khiến tôi lùi vào đằng sau đôi mắt mình, trở về với không gian trong quá khứ với Mẹ. Và cô nằm đó - hệt như Mẹ. Giống như lần cuối cùng trước đó, với thứ không khí lạnh lẽo trong container làm tóc gáy tôi dựng đứng lên và những hình bóng tối tăm đang lầm rầm trò chuyện quanh chúng tôi. Giống hệt như lần trước trong bộ dạng của cô nằm đó, bị buộc chặt bằng băng dính, nhìn chằm chằm, chờ đợi như một thứ...

    “Quỷ tha ma bắt anh đi,” cô nói. “Thôi nào, Dex. Tỉnh lại đi.”

    Thế nhưng lần này tôi có một con dao, cô vẫn bất lực, lúc này tôi có thể thay đổi mọi thứ, tôi có thể...

    “Dexter?” Mẹ nói.

    Ý tôi là Deborah. Tất nhiên ý tôi là thế. Không phải là Mẹ, người đã rời bỏ chúng tôi, cũng tại một nơi giống hệt chỗ này, bỏ chúng tôi lại ở đây, nơi chuyện đó đã bắt đầu và rất có thể bây giờ cuối cùng sẽ kết thúc, với sự thúc giục thiêu đốt “cần - phải - làm - thế” chắc chắn đã sẵn sàng trên con ngựa đen cao lớn của nó và phi nước đại dưới mặt trăng huyền diệu cùng một nghìn giọng nói thân thuộc đang thì thầm, Làm điều đó đi... ngay bây giờ... làm điều đó và mọi thứ có thể thay đổi... theo cách nó nên như thế... trở lại với...

    “Mẹ?” Ai đó nói.

    “Dexter, thôi nào,” Mẹ nói. Ý tôi là Deborah. Nhưng con dao đang di chuyển. “Dexter, vì Chúa, hãy cắt những thứ thối tha này ra! Là em! Debbie!”

    Tôi lắc đầu, tất nhiên đó là Deborah, nhưng tôi không thể ngừng con dao lại. “Anh biết, Deb. Anh thực sự rất tiếc.”

    Con dao vung lên cao hơn. Tôi chỉ có thể nhìn theo nó, giờ đây tôi không thể ngăn được nó vì bất kỳ lý do gì. Một chút ảnh hưởng của Harry vẫn quất vào tôi, ra lệnh cho tôi chú ý và dừng tay, nhưng nó thật khẽ và yếu ớt, còn nhu cầu thật lớn lao, mạnh mẽ hơn bao giờ hết, bởi vì đây là mọi thứ, sự khởi đầu và kết thúc, nó nâng tôi lên, kéo ra khỏi chính mình, đẩy tôi trôi tuột xuống đường ống kết nối giữa cậu bé ngồi trên vũng máu và cơ hội cuối cùng để chỉnh lại mọi thứ đúng đắn. Việc này sẽ làm thay đổi tất cả, sẽ trả lại Mẹ, sẽ cho bà thấy điều mình đã làm. Vì Mẹ đáng ra phải cứu chúng tôi, lần này phải khác. Thậm chí cả Deb cũng phải thấy được điều đó.

    “Bỏ dao xuống, Dexter.” Giọng nói của cô lúc này ít nhiều đã bình tĩnh hơn, nhưng những giọng nói khác vang lên to hơn nhiều, khiến cho tôi hầu như không thể nghe thấy cô. Tôi cố đặt con dao xuống, thực sự là thế nhưng tôi chỉ có thể làm nó hạ thấp xuống vài inch.

    “Anh xin lỗi, Deb, chỉ là anh không thể,” tôi nói, cố vật lộn để có thể nói được thành lời, giữa tất cả những tiếng gào rú đang cất lên quanh tôi của cơn bão tố đã dồn nén suốt hai mươi lăm năm - lúc này đây, với việc anh trai tôi và tôi được kết hợp lại với nhau như những tia sét trong một đêm tối tăm và có trăng...

    “Dexter!” Mẹ xấu xa nói, người đã muốn bỏ mặc anh em tôi ở đây, cô độc trong máu lạnh lẽo ghê tởm, giọng nói của anh trai tôi từ bên trong đồng thời cũng rít lên với giọng nói của tôi, “Đồ đĩ!” và con dao lập tức vung lên cao hết cỡ...

    Một tiếng động vang lên từ dưới sàn. LaGuerta chăng? Tôi không thể nói chắc, điều đó cũng không quan trọng. Tôi cần kết thúc, cần thực hiện việc này, cần để nó xảy ra ngay bây giờ.

    “Dexter,” Debbie nói. “Em là em gái anh. Anh không muốn làm thế này với em. Bố sẽ nói sao?” Điều đó thật đau đớn, tôi sẽ thừa nhận nó, nhưng... “Bỏ con dao xuống, Dexter.”

    Một âm thanh nữa vang lên sau lưng tôi, một tiếng òng ọc nhỏ. Con dao trong tay tôi vung lên.

    “Dexter, cẩn thận!” Deborah kêu lên và tôi quay lại.

    Thám tử LaGuerta đang quỳ trên một đầu gối, thở hổn hển, cố gắng giữ khẩu súng đột nhiên trở nên thật nặng nề của cô ta lên. Nòng súng hướng lên, từ từ, thật chậm - chĩa vào bàn chân tôi, đầu gối tôi...

    Nhưng liệu có quan trọng không? Bởi vì chuyện này sắp xảy ra, bất chấp tất cả và cho dù tôi có thể thấy ngón tay LaGuerta siết lại trên cò, con dao trong tay tôi thậm chí còn không chậm lại.

    “Cô ta sắp bắn anh, Dex!” Deb gọi, lúc này nghe có vẻ thật hốt hoảng. Khẩu súng đang chĩa vào rốn tôi, khuôn mặt LaGuerta đang méo mó lại trong một cái nhăn mặt của sự tập trung và nỗ lực tột độ, đúng là cô ta sắp bắn tôi. Tôi hơi quay người về phía LaGuerta nhưng con dao của tôi vẫn tiếp tục trên đường lao xuống...

    “Dexter!” Mẹ/Deborah trên bàn kêu lên, nhưng Người lữ hành Tối Tăm còn lên tiếng gọi lớn hơn và bước tới, chộp lấy bàn tay tôi để hướng con dao xuống...

    “Dex...!”

    “Con là một đứa bé ngoan, Dex,” Harry thì thầm từ sau bằng giọng nói nhẹ nhàng hơi khàn đầy ma quái của ông, vừa đủ để nhích con dao lên trên một chút.

    “Con không đừng được,” tôi thì thầm đáp lại, dồn sức xuống lưỡi dao đang run rẩy.

    “Hãy chọn thứ... hay người... con giết,” ông nói, với đôi mắt xanh sâu thẳm, nghiêm nghị của ông lúc này đang nhìn tôi từ chính đôi mắt của Deborah, quan sát dữ dội đến mức lần này đủ để đẩy lưỡi dao ra xa nửa inch. “Có vô số kẻ đáng bị như thế,” Harry dịu dàng nói, giọng của ông vang lên trên tiếng gầm gừ mỗi lúc một giận dữ của đám đông cuồng loạn bên trong.

    Mũi dao rung rung và khựng lại tại chỗ. Người lữ hành Tối Tăm không thể đẩy nó xuống được nữa. Harry cũng không thể đẩy nó ra xa. Chúng tôi chững lại ở đó.

    Sau lưng mình, tôi nghe thấy một âm thanh kèn kẹt, một tiếng ngã nặng nề, sau đó là một tiếng rên đầy ắp sự trống rỗng, đến mức nó lướt qua bên vai tôi như một chiếc khăn lụa chạm qua những chiếc chân nhện. Tôi quay lại.

    LaGuerta nằm dưới sàn với bàn tay cầm súng của cô ta duỗi ra, bị con dao của Brian cắm chặt xuống sàn, môi dưới của cô ta bị cắn chặt giữa hai hàm răng, đôi mắt hằn rõ vẻ đau đớn. Brian cúi xuống bên cạnh, quan sát vẻ sợ hãi lan ra trên khuôn mặt cô ta. Anh ta đang thở nặng nề qua một nụ cười tối tăm.

    “Chúng ta lau dọn chứ, em trai?” Anh ta nói.

    “Tôi... không thể,” tôi nói.

    Anh trai tôi đứng lên và bước tới đứng trước mặt tôi, hơi lảo đảo. “Không thể ư?” Anh ta hỏi. “Tôi không nghĩ tôi biết từ đó.” Anh ta giật con dao khỏi tay tôi và tôi không thể ngăn lại, cũng không thể giúp.

    Đôi mắt anh ta lúc này hướng về Deborah, nhưng giọng nói của anh ta lao qua tôi, đập xuống những ngón tay hồn ma của Harry đang đặt trên vai tôi. “Cần phải làm, em trai bé nhỏ. Cần phải làm. Không có cách nào khác.” Anh ta thở hắt ra và cúi gập người xuống giây lát, rồi từ tốn đứng thẳng người lên, chậm rãi giơ con dao lên. “Liệu tôi có phải nhắc lại cho cậu biết tầm quan trọng của gia đình không?”

    “Không,” tôi nói, với cả hai gia đình của tôi, còn sống và đã chết, đang đứng xúm quanh tôi, đòi hỏi tôi làm hay không làm. Với một lời thì thầm cuối cùng từ đôi mắt xanh của Harry trong ký ức tôi, đầu tôi bắt đầu tự động lắc, rồi tôi lặp lại, “Không,” lần này tôi thực sự có ý đó, “Không. Tôi không thể. Không thể là Deborah.”

    Anh trai tôi nhìn tôi. “Tệ quá,” anh ta nói. “Tôi rất thất vọng.”

    Và con dao lao xuống.

    Vĩ thanh

    Tôi biết đây gần như là một sự yếu đuối của con người, có thể không gì hơn ngoài sự đa cảm thông thường, nhưng tôi vẫn luôn thích các đám tang. Một lý do là chúng thật sạch sẽ, gọn gàng, hoàn toàn tuân theo những nghi thức cẩn thận. Đám tang này thực sự thật chỉn chu. Nó có từng hàng cảnh sát, cả nam và nữ, trong bộ đồng phục xanh, nhìn thật nghiêm trang và gọn ghẽ và... phải rồi, thật nghi thức. Có màn nghi thức bắn súng, màn gấp cờ thật cẩn thận, tất cả những bài bản trật tự - một màn trình diễn xứng đáng và tuyệt vời cho người đã khuất. Nói cho cùng, cô ta đã từng là một người trong chúng tôi, một phụ nữ từng phục vụ cùng một số ít những con người đầy tự hào. Hay đó là bên thủy quân lục chiến nhỉ? Không quan trọng, cô ta đã là một cảnh sát Miami, và những người cảnh sát Miami biết cách tổ chức tang lễ cho một người của họ. Họ đã được thực hành rất nhiều.

    “Ôi, Deborah,” tôi thở dài, rất khẽ, tất nhiên tôi biết cô không thể nghe thấy tôi, nhưng thực sự dường như đó là điều đúng đắn phải làm và tôi muốn làm chuyện này thật đúng đắn.

    Tôi gần như ước gì mình có thể ứa ra được một hay hai giọt nước mắt để lau đi. Cô ta và tôi đã từng rất gần gũi. Đó là một cái chết nhem nhuốc và chẳng thú vị gì, không phải cách để một cảnh sát ra đi, bị một tên sát nhân tâm thần hành hạ đến chết. Lực lượng tiếp cứu đã đến quá chậm; tất cả đã kết thúc từ lâu, trước khi có ai kịp đến chỗ cô ta. Dẫu vậy, với tấm gương về lòng quả cảm quên mình, cô ta đã cho thấy một cảnh sát nên sống và chết như thế nào. Tôi đang trích dẫn, tất nhiên rồi, nhưng đó là điều cốt yếu. Thực sự là những lời lẽ hay ho, khá rung động nếu người ta có thứ gì đó bên trong có thể rung động được. Điều mà tôi không có, nhưng tôi biết điều đó khi lắng nghe nó, đó là sự thật. Thực sự hòa nhập vào vẻ can đảm im lặng của các sĩ quan cảnh sát trong bộ đồng phục xanh sạch tinh tươm của họ, cũng như tiếng khóc lóc của các thường dân, tôi không thể đừng được bản thân. Tôi thở dài nặng nề. “Ôi, Deborah,” tôi thở dài, lần này lớn hơn một chút, đến mức gần như tôi cảm nhận thấy nó. “Deborah thân mến.”

    [Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]

    “Im lặng, đồ ngớ ngẩn!” Cô em tôi thì thầm, thúc cho tôi một cú cùi chỏ đau điếng. Trông cô thật đáng yêu trong bộ trang phục mới - cuối cùng cũng là một thượng sĩ, điều tối thiểu người ta có thể làm cho cô sau tất cả những nỗ lực để phát hiện và thiếu chút nữa tóm được tên Đồ Tể Tamiami. Với bản thông báo truy nã đã được ban hành để truy lùng anh ta, không nghi ngờ gì nữa, sớm muộn gì người ta cũng tìm ra ông anh tội nghiệp của tôi - nếu như anh ta không tìm đến họ trước, tất nhiên rồi. Vì tôi mới được nhắc nhở một cách mạnh mẽ về tầm quan trọng của gia đình, tôi thực sự hy vọng anh ta sẽ giữ được tự do. Deborah hẳn sẽ đi lùng sục, khi giờ đây cô đã chấp nhận việc thăng cấp. Cô thực sự muốn tha thứ cho tôi và cũng đã được “Sự thông thái” kiểu Harry thuyết phục quá nửa. Chúng tôi cũng là gia đình, điều đó đã thể hiện vào phút cuối cùng, phải thế không nào? Từ đó đến chấp nhận tôi đúng như con người của tôi cũng chẳng còn xa mấy nữa, đúng không? Sự đời luôn như chúng vốn thế. Đúng hơn là như chúng vẫn luôn thế.

    Tôi lại thở dài. “Thôi đi!” Cô em tôi rít lên khe khẽ, hất hàm về phía cuối hàng cảnh sát Miami đang đứng im như tượng. Tôi liếc nhìn theo hướng cô ra hiệu; thượng sĩ Doakes đưa mắt nhìn tôi. Anh ta không rời mắt khỏi tôi, không một giây nào trong suốt đám tang, ngay cả khi ném nắm đất của mình xuống quan tài của thám tử LaGuerta. Anh ta tin chắc mọi sự không hề giống như vẻ bề ngoài của chúng. Tôi biết với sự chắc chắn hoàn toàn là giờ đây anh ta sẽ điều tra về tôi, lần theo tôi như một con chó săn, đánh hơi từng vết chân của tôi, lần theo dấu vết tôi để lại, dồn tôi vào chân tường vì những gì tôi đã làm và một cách rất tự nhiên, rồi sẽ lại làm.

    Tôi siết nhẹ bàn tay Deb và với bàn tay còn lại, tôi mân mê những đường gờ lạnh lẽo cứng rắn của phiến kính thủy tinh nằm trong túi áo, một giọt máu nhỏ đã khô sẽ không xuống mồ cùng LaGuerta mà tiếp tục sống mãi trên chiếc giá của tôi. Nó giúp tôi thấy thoải mái và không còn bận tâm tới thượng sĩ Doakes, hay bất cứ điều gì anh ta có thể nghĩ hay làm. Làm sao tôi lại phải bận tâm? Anh ta cũng không thể kiểm soát được bản thân con người cũng như những gì anh ta làm hơn bất cứ ai khác. Anh ta sẽ săn lùng tôi. Đúng thôi, ngoài ra anh ta còn có thể làm gì khác?

    Bất kỳ ai trong chúng ta có thể làm gì được? Tất cả chúng ta đều bất lực, đều nằm trong vòng tay những giọng nói nho nhỏ của chính chúng ta, quả thực chúng ta có thể làm gì?

    Tôi thực sự ước gì mình có thể nhỏ một giọt nước mắt. Điều đó thật tuyệt đẹp. Cũng đẹp như lần trăng tròn tiếp theo, khi tôi tìm gặp thượng sĩ Doakes. Mọi thứ sẽ tiếp tục như chúng vốn thế, vẫn luôn như thế, dưới mặt trăng sáng rực rỡ và đáng yêu.

    Mặt trăng đỏ ối, tuyệt vời, tròn trịa, đầy nhạc điệu.

    Hết

Trang 3 / 3 ĐầuĐầu 123

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-29-2014, 02:07 PM
  2. Nóng: Giết vợ, xối nước định giết hại con thơ
    By duyanh in forum Văn Hóa-Xã Hội-Kinh Tế
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 10-07-2014, 01:18 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •