Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Nếu những nỗi đau khổ hủy diệtt hạnh phúc thì những thú vui đều làm xáo trộn hạnh phúc.
Levis
Results 1 to 5 of 5

Chủ Đề: Vì sao người Trung Quốc trở nên xấu xí? (Phần 1)

  1. #1
    Join Date
    Nov 2010
    Bài Viết
    24,512
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 70 Lần
    Trong 70 Bài Viết

    Vì sao người Trung Quốc trở nên xấu xí? (Phần 1)

    Vì sao người Trung Quốc trở nên xấu xí? (Phần 1)




    Hiện nay, nhiều người có tâm lý ‘ghét người Trung Quốc’, bài người Trung Quốc, vậy vì sao có những tâm lý này?

    Những Võ Tòng, Lý Bạch, Nhạc Phi, ….mà ai ai cũng từng mến mộ đã đi về đâu? Phải chăng người Trung Quốc thực sự đáng ghét, hãy cùng tìm hiểu trong loạt bài ‘Vì sao nhiều người Trung Quốc trở nên xấu xí?’


    Ô! Người Trung Quốc bây giờ…

    Nếu có ai đó nói với một người Trung Quốc rằng hành vi và đạo đức của anh ta thấp kém. Anh ta sẽ không thể hiểu được chúng ta đang nói gì, vì đối với họ điều đó là bình thường, ai cũng sống và làm như thế cả, vậy thì thấp kém ở đâu?
    Một vài mẩu chuyện tiêu biểu về người Trung Quốc thời nay, thông qua đó phần nào chúng ta có thể phác họa được chân dung chung về họ, đồng thời cũng giật mình nhìn lại chính mình:

    1. Làm ơn giữ yên lặng… Tháng 09/2006, trang web chính thức Cục Du lịch quốc gia Trung Quốc công bố hành vi không văn minh khá phổ biến của du khách Trung Quốc khi du lịch trong và ngoài nước, do công chúng phản ánh. Những hành vi không văn minh thường thấy của công dân Trung Quốc khi ra nước ngoài như: Tùy tiện vứt rác, đi vệ sinh không xả nước, hút thuốc kể cả nơi có biển báo cấm hút, chen lấn, tranh cướp, ngôn ngữ cay độc nói thẳng vào mặt, trèo cây, hái hoa, nói năng ồn ào, thô lỗ v.v…

    Nhà thờ Đức Bà Paris, Pháp có câu “Làm ơn giữ yên lặng” (viết bằng tiếng Trung giản thể) chỉ để viết cho người Trung Quốc đọc, những người Trung Quốc đi qua nhà thờ Đức Bà Paris đều sẽ thấy được bảng ghi bằng tiếng Trung câu này. Ở Paris, những chỗ có tiếng Trung ở nơi công cộng cũng không nhiều, mà các quốc gia khác bao gồm du khách nước Pháp lại không hề có kiểu “lịch sự” này.



    Du khách Trung Quốc ngâm chân trong đài phun nước phía trước bảo tàng Louvre, Pháp. (Ảnh: The Journal )
    Trong toilet của Hoàng cung Thái Lan có bảng ghi tiếng Trung bắt mắt, “Làm ơn xả nước sau khi vệ sinh”.
    Thùng rác ở Trân Châu cảng, Mỹ đều có biển bằng tiếng Trung, “Thùng rác tại đây”. Kiểu bảng thông báo chỉ viết bằng tiếng Trung giản thể này, cũng có ở những điểm đến chủ yếu của khách nước ngoài người Trung Quốc, như Pháp, Đức, Nhật Bản, Thái Lan, Singapore.

    Nam thanh niên Trung Quốc thản nhiên ngồi lên một bức tượng nữ chiến binh. (Ảnh: dailymail.co.uk)

    [IMG]http://drive.kenh9.tv/http/1200x1200/tinhhoa.net-Y2DquP-20151130-vi-sao-nguoi-trung-quoc-tro-nen-xau-xi-phan-1.jpg[/IMG
    ]
    Biển lưu ý ở một nhà hàng buffet tại Thái Lan viết bằng tiếng Việt. Ngoài du khách Trung Quốc, khách du lịch Việt Nam cũng có đôi chút “tiếng tăm” khi đi nước ngoài…

    2. Đạo đức, nhân tính đã đi về đâu? Thực phẩm độc và thực phẩm giả lan tràn: Năm 2003, ở Phụ Dương, An Huy đã xảy ra sự kiện “sữa bột độc” khiến 171 trẻ bị suy dinh dưỡng, 13 trẻ tử vong. Năm 2006, Sở lương thực thành phố Bắc Kinh cho biết có 2.300 tấn gạo cũ độc hại lưu hành trên thị trường. Thờ ơ, xem thường tính mệnh người khác: Chuyện cô bé Duyệt Duyệt 2 tuổi bị xe van cán qua người vào tháng 10/2011 làm chấn động thế giới. Không chỉ 18 người qua đường không dừng lại cứu giúp, mà một chiếc xe tải khác chạy qua và tiếp tục cán lên người em mà chạy. Mãi cho đến khi một phụ nữ nhặt rác tốt bụng nhìn thấy và kéo em vào bên trong. Những câu chuyện thấy người gặp nạn không cứu giúp không còn là điều mới lạ ở Trung Quốc nữa. Thậm chí tài xế sẵn sàng cán qua cán lại cho người bị nạn chết đi để bồi thường ít hơn.

    Bé Duyệt Duyệt nằm đó trong con mắt thờ ơ lảng tránh của người qua đường. (Ảnh: nld.com.vn)

    Quy định của Sở giáo dục “Nghiêm cấm quấy rối tình dục nữ sinh”: Ngày 16/04/2001, Thủ tướng Chu Dung Cơ khi thị sát Học viện Kế toán Quốc gia Thượng Hải, đã viết một lời giáo huấn: “Không làm tài khoản giả”. Trong báo cáo “Báo đô thị Tam Tương” ngày 24/03/2003, một số sở giáo dục xuất bản “Tám điều nghiêm cấm” về “ba cái loạn” trong quản lý giáo dục, trong đó “nghiêm cấm quấy rối tình dục nữ sinh” là một trong số điều được xếp vào loại thực sự đáng chú ý. Người ta không biết cách giáo huấn và quy định như thế này có thể khiến nhân dân yên tâm hay là càng lo lắng hơn.

    Tham nhũng tràn lan và hơn một nửa quan chức có nhân tình: Từ sau Đại hội 18 Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đến nay, đã có hơn 22 quan chức cao cấp bị đưa ra tòa xét xử, hơn 100 “hổ già” ngã ngựa trong chiến dịch đả hổ diệt quan tham. Chỉ riêng gia tộc cựu Bí thư Ban Chính trị và Pháp luật Chu Vĩnh Khang đã tham nhũng đến 100 tỷ nhân dân tệ; cựu Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Từ Tài Hậu tham nhũng 20 tỷ nhân dân tệ. Một báo cáo được Học viện Quốc gia về Phát triển và Chiến lược tại Đại học Nhân dân cùng Viện Nghiên cứu và Sáng tạo Thâm Quyến, một viện chính sách ở Thâm Quyến công bố ngày 15/4 tiết lộ rằng gần nửa số quan chức quyền lực ở Trung Quốc bị thanh trừng từ năm 2000 có ít nhất một người tình – được hỗ trợ với những món lợi bất chính của họ. Các quan chức Trung Quốc thường bao các nhân tình để vui thú và để chứng tỏ vị thế, nhưng họ cũng có thể chán tình trạng này nếu người phụ nữ trở thành gánh nặng cho sự nghiệp hay túi tiền của họ. Đỉnh điểm thường gặp của những mâu thuẫn này bao gồm việc đòi hỏi phải cưới xin hoặc hỗ trợ tài chính trong khi mang thai. Đôi khi họ gây ra những vụ giết người để tránh bị hăm dọa tống tiền mà truyền thông đã đưa tin như: đâm người tình 8 nhát, cho thuốc nổ tung người tình v.v…

    Nói như chính một người dân Trung Quốc đã bình luận trên mạng rằng: Đây là một xã hội không bình thường.

    Song người Trung Quốc trước kia có như vậy chăng? Trung Quốc vốn được coi là “lễ nghi chi bang”, tức mảnh đất lễ nghi, đã có mấy nghìn năm lịch sử. Trong Lục Nghệ truyền thống “Lễ Nhạc Xạ Ngự Thư Số” của Trung Quốc, chữ “Lễ” đứng đầu, đã đủ để nói lên rằng người Trung Quốc coi trọng truyền thống lễ nghi. “Luận Ngữ” có một chuyện cổ, Khổng Tử cảnh cáo con trai Khổng Lý rằng: “Bất học lễ, vô dĩ lập”. Ý nghĩa là, nếu như không học lễ, thì không có cách nào để lập chỗ đứng. Cuốn “Tam tự kinh” từng được biết đến rộng rãi có chỉ ra, làm con cái, từ bé khi lớn lên, phải nên thành thục các loại lễ tiết trong các trường hợp khác nhau, học tập những việc lễ tiết nghĩa văn. Trong lịch sử trong một số “gia huấn”, “học quy” nổi tiếng, đều có một lượng lớn quy phạm lễ nghĩa liên quan đến các phương diện như ăn ở đi lại, đối nhân xử thế hàng ngày. Giao lưu giữa người và người, xưng hô đối phương thế nào, có hai bên thì đứng thế nào, đón tiếp thế nào, v.v.. đều có quy định về lễ. Ngay cả là ăn cơm, cũng nên thể hiện ra tu dưỡng của bản thân trong từng cử chỉ chân tay, gọi là ‘thực lễ’. Hành vi hợp với lễ, là có biểu hiện của tu dưỡng, ngược lại ắt không thể leo lên nơi thanh nhã.


    Lễ nghi của người Trung Quốc xưa. (Ảnh: Đại Kỷ Nguyên)

    Có thể nói, khi đó chủ lưu của xã hội là yêu cầu văn minh, tu dưỡng, lễ nghi, hành vi thanh cao lễ độ, nếu như muốn được xã hội thừa nhận, thì phải tu thân dưỡng đức mà quy phạm hành vi của bản thân.
    Vậy thì vì sao người Trung Quốc giờ đây lại trở nên xấu xí như vậy? Mời các bạn đón đọc

    Phần 2


    Theo daikynguyenvn.com

    VietFreeFun



  2. #2
    Join Date
    Nov 2010
    Bài Viết
    24,512
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 70 Lần
    Trong 70 Bài Viết
    Phần 2


    Hiện nay, nhiều người có tâm lý ‘ghét người Trung Quốc’, bài người Trung Quốc, vậy vì sao có những tâm lý này? Những Võ Tòng, Lý Bạch, Nhạc Phi, ….mà ai ai cũng từng mến mộ đã đi về đâu? Phải chăng người Trung Quốc thực sự đáng ghét, hãy cùng tìm hiểu trong loạt bài ‘Vì sao nhiều người Trung Quốc trở nên xấu xí?



    Năm 2014, tại tỉnh Cam Túc, một chiếc xe tải chở quýt mất lái, thế là người dân Trung Quốc ào ra hôi của bất chấp cảnh sát chĩa súng vào mặt. (Ảnh: internet)
    Phần 2: Vì sao từ những người dân chân chất hiền lành bỗng hóa thành kẻ cướp hung hăng?

    Tư duy lý luận và văn hóa ứng xử của một dân tộc không phải là điều được hình thành chỉ trong một giai đoạn nhất thời, mà phải trải qua cả một quá trình lịch sử lâu dài tích lũy kinh nghiệm và thấm nhuần tư tưởng chung của dân tộc đó. Để có thể lý giải được vì sao một dân tộc được mệnh danh là “Thần châu”, tức vùng đất thiêng liêng được các vị Thần dẫn dắt, có 5 nghìn năm văn hiến trải dài cùng biết bao triều đại với vô vàn những câu chuyện cổ và điển tích, với lịch sử huy hoàng vẻ vang thấm đẫm tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo lại trở nên suy đồi và bại hoại như ngày nay, chúng ta cần lội ngược dòng về giai đoạn xuất hiện những biến cố lớn, có sự ảnh hưởng lớn, là tác nhân chính làm thay đổi hoàn toàn nhận thức và văn hóa của dân tộc đó để tìm lời giải cho vấn đề này…
    Trong lịch sử nhân loại, chưa từng có một quốc gia nào mà trong chính thời hòa bình lại có tới gần 100 triệu người bị giết như ở Trung Quốc (cao hơn dân số Việt Nam hiện tại). Điều này hẳn là một tác nhân không hề nhỏ ấn sâu trong tư tưởng và góp phần hình thành nên tư duy nhận thức cũng như phản ứng tự nhiên của người dân nơi đó. Vì sao người Trung Quốc lại trở nên xấu xí đến như vậy? Hãy nhìn vào lịch sử hàng loạt các cuộc vận động, thanh trừng và đàn áp mà họ đã trải qua trong gần 100 năm trở lại đây, chúng ta sẽ phần nào hiểu được nỗi kinh hoàng tột độ, không thể dùng lời tả xiết mà dân tộc này đã phải gánh chịu.

    Cũng là để xem họ đã biến đổi nhiều thế nào sau mỗi cuộc đàn áp giết chóc đẫm máu này. Dường như những cuộc “đấu đá sinh tồn”, đã hằn sâu thành đặc tính của họ cho tới tận ngày hôm nay…

    “Tám trăm triệu người, không đấu đá là không được” – “danh ngôn” của Mao Trạch Đông

    Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân Trung Hoa hiện nay tin rằng đấu tranh giai cấp là động lực duy nhất giúp xã hội phát triển. Chính vì điều ấy, họ mới sùng tín vào đấu tranh, cho rằng đó là phương tiện để thâu đoạt và duy trì chính quyền. Một trong những ‘danh ngôn’ của Mao Trạch Đông là “Tám trăm triệu người, không đấu đá là không được” — đã nói trắng ra quan điểm ‘cạnh tranh sinh tồn’ trong chính trị của Đảng. Mao Trạch Đông còn có một ‘danh ngôn’ tương tự, rằng Cách mạng Văn hoá (1966-1976 vì mục đích thanh trừng nội bộ, tẩy não nhân dân, kiểm soát tư tưởng đã khiến 10 triệu người bị giết và chết đói) cần “bảy tám năm làm lại một lần”.

    Sử dụng bạo lực nhiều lần lặp lại là một trong những thủ đoạn quan trọng bậc nhất của ĐCSTQ nhằm duy trì quyền thống trị của mình. Dùng bạo lực là để dân sợ, là để khủng bố người dân. Mỗi phong trào đấu tranh của ĐCSTQ, đều là một lần huấn luyện bằng bạo lực của Đảng, nhằm dằn mặt người dân Trung Quốc khiến họ run sợ mà khuất phục. Đó là một hình thức nô dịch bằng khủng bố.

    1. Cải cách ruộng đất đã biến người nông dân hiền lành chân chất trở thành kẻ cướp đáng sợ hung hăng? Cải cách ruộng đất thực chất là gì? ĐCSTQ nghĩ rằng phải thực hiện cải cách ruộng đất để lập lại công bằng xã hội. Đồng thời thông qua cải cách ruộng đất để đàn áp những người phản cách mạng, tiêu diệt các thành phần bị xem là “bóc lột”, “phản quốc”, “phản động” (thường là những người theo phe Đảng Quốc Dân). Trong một tài liệu xuất bản năm 1948, Mao Trạch Đông dự định rằng “một phần mười tá điền, địa chủ” (ước tính khoảng 50 triệu người) “cần phải bị loại bỏ” để cải cách ruộng đất. Cải cách ruộng đất là tịch thu tài sản, đất đai của những người này và chia cho bần nông, cố nông; đồng thời tiến hành đấu tố và xử tội họ. Dưới chiêu bài “đả đảo địa chủ để lấy ruộng”, ĐCSTQ triển khai rộng thủ đoạn trấn lột ra toàn xã hội, vứt bỏ truyền thống và thay vào đó là ‘trật tự mới’ của Đảng. ĐCSTQ làm đủ điều ác, to có nhỏ có, và không làm được điều gì thiện cho nhân dân.


    Cải cách ruộng đất năm 1953 ở Trung Quốc. (Ảnh: internet)

    ĐCSTQ thường dùng những món lợi nhỏ để kích động một bộ phận nhân dân đấu tố một bộ phận nhân dân khác. Khiến những giá trị thiện đức trong xã hội bị chà đạp, chỉ còn đấu tranh và giết chóc. Lý tưởng công bằng thực tế chính là trấn lột giữa ban ngày.

    2. Kích thích thù hận giai cấp Vừa mới được ba tháng sau khi thành lập chính quyền, ĐCSTQ đã kêu gọi tiêu diệt giai cấp địa chủ như là một trong những đường lối chỉ đạo cho chương trình cải cách ruộng đất trên toàn quốc của mình. Khẩu hiệu của Đảng “dân cày có ruộng” đã kích động tính ích kỷ, tư lợi của những người nông dân không có ruộng đất, xúi giục họ đấu tranh với những người nông dân có sở hữu ruộng đất bằng bất cứ phương kế gì và không thèm đếm xỉa gì đến khía cạnh đạo đức trong hành động.

    Chiến dịch cải cách ruộng đất đã đề ra rõ ràng việc tiêu diệt giai cấp địa chủ, và phân loại dân nông thôn thành nhiều nhóm trong xã hội. Hai mươi triệu dân nông thôn trên toàn quốc đã bị dán nhãn là “địa chủ”, “phú nông”, “phản động“, và “phần tử xấu”. Những con người mới bị xã hội ruồng bỏ này đã phải đối mặt với sự phân biệt đối xử, nhục nhã, và đã mất đi tất cả các quyền công dân của mình. Khi ĐCSTQ muốn đánh đổ một người nào đó, chỉ cần gọi người này là địa chủ hay tư bản, còn lại không cần tốn lời, giàu có đại diện cho “bóc lột”, đại diện cho “trấn áp”, đại diện cho “tội ác.” “Không được quên sự đau khổ của các giai cấp (nghèo khổ), và luôn luôn ghi nhớ sự thù hận trong máu và nước mắt” đã trở thành một chính sách quốc gia cơ bản. Sự tàn nhẫn đối với các kẻ thù giai cấp được ca ngợi như là một đức hạnh. ĐCSTQ dạy rằng “Hãy gặm nhấm lòng thù hận, hãy nhai và nuốt nó. Hãy gieo lòng căm thù trong tim để nó nảy mầm.”

    Cảnh đấu tố địa chủ trong cải cách ruộng đất. (Ảnh: Internet)

    3. Hậu quả tàn khốc của chiến dịch cải cách ruộng đất Theo wikipedia, trên thực tế, ít nhất một triệu người đã bị giết trong cuộc cải cách ruộng đất. Cuộc đàn áp những người bị cho là “phản cách mạng” chủ yếu nhắm vào thành viên của Đảng Quốc Dân, vốn là phe đối lập của ĐCSTQ, và những quan chức bị tình nghi là “phản bội” lại ĐCSTQ. Ước tính đã có khoảng 712.000 đến 10 triệu người bị xử tử trong cuộc đàn áp đẫm máu. Hơn một triệu người bị đưa vào các trại cải tạo lao động và khoảng 1.200.000 người bị “theo dõi”. Khi chiến dịch cải cách ruộng đất vươn đến các vùng xa xôi và các làng mạc của những người dân tộc thiểu số, thì cũng là lúc các tổ chức của ĐCSTQ cũng được mở rộng rất nhanh. Các chi bộ Đảng ở các khu thành thị nhỏ và các làng xã đã lan ra khắp nơi trên lãnh thổ Trung Quốc. Các chi bộ Đảng tại địa phương cũng là những cái loa tuyên truyền các chỉ thị từ Ban Chấp hành Trung ương Đảng và là tuyến đầu của cuộc đấu tranh giai cấp, kích động nông dân đứng lên chống lại địa chủ. Gần một 100.000 địa chủ đã bị giết chết trong chiến dịch này. Ở một số vùng, Đảng Cộng sản và nông dân đã giết chết toàn bộ gia đình địa chủ, bất kể là già hay trẻ, như là một cách để nhổ tận gốc giai cấp địa chủ.

    Mục đích ban đầu của phong trào Cải cách ruộng đất là để giải phóng cho nhân dân, vậy tại sao lại dùng cách khủng bố đẫm máu như thế? Chẳng lẽ không giết chết địa chủ và phú nông thì không thể Cải cách ruộng đất thành công được hay sao?

    Tháng 9/1956, Phó chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ khi làm Báo cáo tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 8 đã giải thích: “Đảng ta không dùng mệnh lệnh hành chính đơn thuần để thực hiện cải cách ruộng đất nhằm ‘ban’ ruộng đất cho nông dân… Triệt để dùng phương pháp đường lối quần chúng, phát động quần chúng nông dân, đặc biệt là giác ngộ giai cấp bần nông thông qua đấu tranh để thực hiện nhiệm vụ này… Do chúng ta áp dụng phương pháp này nên nông dân phải đứng lên đoàn kết lại, dưới sự dẫn dắt của ĐCSTQ và chính quyền nhân dân, làm vững chắc chính quyền và lực lượng vũ trang tại các hương thôn. Vì thế, Cải cách ruộng đất về kinh tế không chỉ thủ tiêu giai cấp địa chủ và làm suy yếu tầng lớp phú nông mà còn lật đổ tận gốc giai cấp địa chủ và cô lập phú nông.”
    Từ những lời lẽ này của ông Lưu Thiếu Kỳ có thể thấy, Cải cách ruộng đất không phải lấy mục đích chính là chia ruộng đất và điều chỉnh giàu nghèo, mục đích của nó là muốn nông dân đi theo Đảng để đánh địa chủ và phú nông.

    Đáng sợ là việc giết địa chủ trong Cải cách ruộng đất là tính theo theo tỉ lệ, theo số lượng người chết để đánh giá mức hoàn thành nhiệm vụ, hoàn toàn không quan tâm đến chuyện phải trái.

    Phú nông và địa chủ bị chôn sống trong cải cách ruộng đất. (Ảnh: internet)

    Đồng thời, ĐCSTQ cũng phát động làn sóng tuyên truyền đầu tiên của mình, nói rằng “Mao Chủ tịch là vị cứu tinh vĩ đại của nhân dân” và rằng“chỉ có tài năng của ĐCSTQ mới có thể cứu được Trung Quốc”. Trong cuộc cải cách ruộng đất, những người nông dân không có ruộng đất đã nhận được những gì họ muốn thông qua chính sách của ĐCSTQ là thu hoạch mà không cần lao động: cưỡng đoạt bằng bất cứ cách nào. Nông dân nghèo đã mang ơn ĐCSTQ vì những cải thiện trong cuộc sống của mình và vì vậy họ đã tin vào những tuyên truyền của ĐCSTQ rằng Đảng làm việc vì lợi ích của nhân dân. 4. Nhưng sự thật phũ phàng… Bi kịch ở chỗ, thành quả mà người nông dân được hưởng trong cải cách ruộng đất không kéo dài được bao lâu, chỉ sau đó vài năm, số ruộng đất mà nông dân được chia lại bị Mao Trạch Đông dùng danh nghĩa hợp tác hóa, công xã hóa và thu hồi lại, cho đến tận ngày nay người nông dân Trung Quốc vẫn không có quyền sở hữu ruộng đất.

    Thêm vào đó ĐCSTQ đã thiết lập một hệ thống đăng ký hộ khẩu nhằm ngăn cản việc nông dân đi đến các thành thị để tìm việc và sinh sống. Những người bị phân loại là dân nông thôn không được phép mua thóc lúa tại các cửa hàng của nhà nước và con cái của họ cũng bị cấm không được đi học ở thành phố. Con nông dân chỉ có thể là nông dân, biến 360 triệu dân nông thôn trong những năm 1950 trở thành những công dân hạng hai. Ngày nay, khoảng cách thu nhập giữa dân thành thị và dân nông thôn đã tăng lên mạnh mẽ, và sự chênh lệch kinh tế tiếp tục mở rộng. Những người địa chủ và phú nông mới đã xuất hiện trở lại ở những vùng nông thôn. Trung Quốc hiện nay là đất nước có chệnh lệch giàu nghèo lớn nhất thế giới, trái ngược hẳn với khẩu hiệu “công bằng xã hội” mà ĐCSTQ đưa ra.

    Một báo cáo của Đại học Bắc Kinh công bố ngày 25/7/2014 đưa ra những con số báo động về khoảng cách giàu nghèo trong xã hội Trung Quốc. Dựa trên số liệu thu thập năm 2012, báo cáo cho biết 1% các gia đình giàu có nhất ở Trung Quốc hiện sở hữu tới hơn 1/3 giá trị tài sản của toàn bộ đất nước.

    Trong khi đó, tổng giá trị tài sản của 25% các gia đình nghèo nhất chỉ chiếm 1%. Và cho đến ngày nay, tại Trung Quốc không ngừng diễn ra hàng loạt các cuộc biểu tình khắp nơi vì bị cưỡng chế đất đai. “Nông dân có ruộng”, lời nói dối “ngọt ngào” của ĐCSTQ đã lừa mị tầng lớp cùng khổ, hứa hẹn một tương lai tươi sáng về công bằng, ấm no, nhưng đến cuối cùng họ vẫn là người khổ nhất trong xã hội, đến cả quyền sở hữu đất đai cũng còn không giữ được. Nghe theo lời xúi bẩy của ĐCSTQ, cướp bóc, giết hại tầng lớp địa chủ, để rồi cuối cùng mọi tội lỗi, đau khổ, ê chề, cùng cực cũng vẫn là tầng lớp này bị chà đạp đến không thương xót. Theo thống kê, tính đến cuối năm 2012, Trung Quốc có gần 100 triệu nông dân sống trong cảnh nghèo đói, có khoảng 300 triệu người Trung Quốc có mức chi tiêu hàng ngày chỉ tương đương 1 USD hoặc thấp hơn (theo số liệu của Ngân hàng Thế giới).

    5. Ngày xưa có như thế chăng? Kỳ lạ thay, ý thức hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp nói trên lại đảo ngược lại với những giá trị truyền thống của Trung Quốc xưa. Ngày xưa, vinh quy bái tổ, hiển hách đỗ trạng nguyên, qua chế độ khoa cử mà chọn người tài lên làm rường cột cho đất nước. Người hiền tài, giỏi giang, học sâu hiểu rộng sẽ được chọn làm chỗ dựa cho muôn dân. Còn ý thức hệ giai cấp của ĐCSTQ thì ngược lại, như một câu chuyện đùa, lại đặt bần cố nông, hay vô sản lưu manh không kiến thức lên làm lãnh đạo, có quyền sinh quyền sát với muôn người, thì kết cục nguy hiểm nhường nào.

    Hiền tài đức độ sẽ qua chế độ khoa cử đỗ đạt mà nắm giữ vị trí rường cột của đất nước. Đó là trật tự của xã hội xưa.

    Trật tự của xã hội truyền thống là một trật tự bền vững, như xếp đá tảng, những tảng đá to, nặng cần được đặt ở dưới, làm bệ đỡ, làm rường cột cho những tảng đá nhỏ ở bên trên. Còn ĐCSTQ đã biến mối quan hệ xã hội “cộng sinh” tự nhiên (chủ đất- tá điền, chủ xưởng- công nhân), vốn dĩ không hề là mâu thuẫn, trở thành mối hận thù giai cấp, tạo cơ sở từ học thuyết đấu tranh sinh tồn của loài động vật đem áp dụng cho xã hội con người. Cũng như giờ đây, liệu có thể nào hàng vạn nhân viên của những tập đoàn lớn như Google, Facebook, Microsoft lại có thể căm thù địa vị ông chủ của Mark Jukeberg, Bill Gates… thay vì cảm kích họ đã tạo công ăn việc làm ổn định cho hàng vạn người? Để cuối cùng, giá trị Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín của người xưa chỉ còn biến thành đấu đá, cướp bóc dẫm đạp và thù hận. Khổng Tử nói rằng: “Chính giả, chính dã. Tử suất dĩ chính, thục cảm bất chính?” (Người cầm quyền phải chính. Lấy chính dẫn dắt người, ai dám không chính?) Lại nói rằng: “Quân tử chi đức phong, tiểu nhân chi đức thảo, thảo thượng chi phong, tất yển.” Đạo đức của người quân tử như gió, đạo đức của kẻ tiểu nhân như cỏ, gió thổi hướng nào, cỏ rạp hướng đó. Chính hay không là ở người nắm quyền, một người nhân đức, một nước nhân đức, một người không tranh, cả nước không tranh; một kẻ tham lam tàn bạo, một nước làm loạn. Đây gọi là một lời mà hỏng việc, một người định quốc. Những minh quân thời xưa đều biết rõ đại nghĩa trị quốc này nên đều tu dưỡng thiện tính thiên phú của bản thân, tu thành quân tử đại đức xứng với Trời đất, điều này được coi là nhiệm vụ chính yếu của người cầm quyền, không dám có chút trễ nải.

    6. Hệ lụy của cải cách ruộng đất

    Công cuộc cải cách ruộng đất với tuyên truyền của ĐCSTQ phần nào đã khiến người dân Trung Hoa thay đổi nhận thức về phân biệt đúng sai, tốt xấu. Lấy của người khác làm của riêng mình, thậm chí sử dụng vũ lực để cướp bóc giết hại, vu khống đàn áp, đấu tố lẫn nhau, hoàn toàn trái ngược hẳn với những gì họ đã hấp thụ trong văn hóa truyền thống, những Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín của Nho giáo, thuyết Nhân Quả của Phật giáo và con đường thoát tục của Đạo giáo. Những người nông dân hiền lành chân chất, dưới bàn tay nhào nặn và lý thuyết phản nhân tính mà ĐCSTQ nhồi nhét, đã trở nên đáng sợ và hung hăng, trong lòng chỉ biết có thù hận, thù hận và thù hận tất cả những ai có đời sống tốt hơn mình, giàu có hơn mình, sẵn sàng đạp đổ, cướp của người khác và vươn lên làm giàu bằng mọi giá, bản thân họ không còn nhận ra tốt xấu đúng sai được nữa. Thật ra mà nói, họ là đáng tội hay đáng thương?


    Mời quý độc giả đón đọc ngoài tầng lớp nông dân bị biến đổi tâm tính, các giai tầng xã hội khác thì như thế nào…

    VietFreeFun



  3. #3
    Join Date
    Nov 2010
    Bài Viết
    24,512
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 70 Lần
    Trong 70 Bài Viết
    Phần 3



    Một cảnh nhậu nhẹt của quan chức quân đội ĐCSTQ. (Ảnh: internet)

    Những Võ Tòng, Lý Bạch, Nhạc Phi, ….mà ai ai cũng từng mến mộ đã đi về đâu? Thời báo Đại kỷ nguyên mở cuộc thảo luận và đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi vì sao người Trung Quốc ngày nay trở nên xấu xí bằng việc lội ngược dòng lịch sử… Có lẽ thông qua loạt bài “giải mã” này, bạn sẽ có một cái nhìn mới hơn về người Trung Quốc, sẽ thấy rằng họ thực sự khổ và đáng thương thế nào… Phần 3: sao người Trung Quốc ngày nay vừa thù ghét người giàu, lại vừa ước ao làm giàu bằng mọi giá bất chấp thủ đoạn?


    Nếu như cuộc Cải cách ruộng đất đã biến người nông dân hiền lành chất phác trở nên hung hãn đáng sợ, thì những gì ĐCSTQ đã làm trong công cuộc “Cải cách công nghiệp và thương mại” đã dẫn đến những hệ lụy kinh hoàng cho nền kinh tế Trung Quốc ngày nay, tạo nên thương hiệu mà ai thấy cũng sợ mang tên “Made in China”. Đó là kiếm tiền bất chấp thủ đoạn, kiếm tiền bằng tội ác.


    Tại xã hội Trung Quốc thời xưa hay như các nước dân chủ tự do phương Tây, Đài Loan và Hàn Quốc ngày nay, người giàu có thuộc tầng lớp “chủ lưu”, đại diện cho giới được kính nể không chỉ bởi khối lượng tài sản, mà còn là quá trình xây dựng sự nghiệp, học thức, thanh thế dòng tộc, văn hóa, phong cách sống và cả sự nghiệp làm từ thiện của họ. Tại Trung Quốc ngày nay thì trái lại, nhắc tới giới “siêu giàu” người ta thường hay nghĩ tới tham ô, giàu xổi, hủ bại, luồn cửa sau, làm ăn bất chính, vô đạo đức, và chỉ nhận được sự khinh ghét của các tầng lớp dân chúng.

    Có lẽ sự khác biệt nằm ở chính chỗ: “làm giàu có gốc” “làm giàu mất gốc”. Ngày nay làm giàu bằng tội ác nhưng lại được chính quyền bảo hộ:


    1. Chính quyền bảo hộ cho những kẻ làm ăn bất chính: làm giàu mất gốc Ngày 22/10/2015, hàng ngàn thương nhân ở Vũ Hán tỉnh Hồ Bắc đã túa ra đường biểu tình phản đối công ty vận tải bản địa Cẩm Kim Hồng và cơ quan quản lý cấu kết làm lũng loạn thị trường hàng hóa, khiến phí vận chuyển hàng hóa ngày càng tăng cao. Một người dân cho biết, công ty Cẩm Kim Hồng thuê xã hội đen chặn ở các giao lộ trung tâm thương mại, hàng hóa chỉ vào được mà không ra được nếu không sử dụng dịch vụ do công ty này cung cấp. Các thương nhân tham gia biểu tình giăng băng rôn, khẩu hiệu tại hiện trường. (Ảnh: internet)

    Theo các thương hộ, việc phí vận chuyển hàng từ Vũ Hán đến Trịnh Châu lên đến hơn 500 tệ, trong khi phí vận chuyển của các công ty vận tải khác chuyển hàng từ Quảng Châu đến Trịnh Châu chỉ hơn 200 tệ, đây là mức chênh lệch quá lớn.
    Vậy mà điều vô lý như thế lại được chính quyền bảo hộ. Họ cho lực lượng cảnh sát xuống đường ngăn chặn cuộc biểu tình và đánh đập người dân. Họ bảo vệ cho phe làm ăn bất chính, bất chấp vì có cùng chung lợi ích.

    2. “Cưỡng bức di dời” đẩy người dân đen đến cảnh bần cùng


    Khi Trung Quốc trải qua sự bùng nổ ồ ạt của bất động sản, rất nhiều người dân nghèo đã trở thành nạn nhân của những nhà phát triển bất động sản giàu có. Với những khoản bồi thường rất nhỏ, đất đai của họ gần như bị cướp đoạt. “Cưỡng bức di dời”, từ nông thôn đến thành thị Trung Quốc, từ người dân thường đến cảnh sát hình sự đã nghỉ hưu, ai dám cam đoan rằng mình không phải là người bị “cưỡng bức di dời” tiếp theo? Trong mắt những người cưỡng bức, cái họ muốn là tiền bạc và chiến tích, mặc kệ sự sống chết của dân chúng, khoản đền bù tổn thất cũng bị từng cấp, từng cấp cắt xén đi một phần. Vì bảo hộ cho quyền lợi của chủ đầu tư và cũng là của chính mình, chính quyền thẳng tay đàn áp người dân. “Cưỡng bức di dời”, có người bị thương, có người chết, có người trở nên cùng quẫn không biết phải kêu ai.


    Đàn áp người biểu tình để bảo vệ cho những người làm giàu bất chấp, đã trở thành một hành động quen thuộc của chính quyền. Biết bao nhiêu người đã bị đánh đập và bắt giam, thậm chí oan mạng vì dám phản đối xây dựng các nhà máy hóa chất paraxylene (PX), một loại hóa chất dùng để chế tạo nhựa và sợi tổng hợp polyester, ngay khu dân cư.

    3. Quyền sinh sát nằm trong tay chính quyền


    Ngày 12/9, Tân Hoa xã đã cho đăng một bài báo dài với tiêu đề “Đừng để Lý Gia Thành bỏ chạy” trên trang lwinst.com. Theo bài báo: “Ông Lý Gia Thành giàu lên nhờ gần 20 năm tham gia vào thị trường Trung Quốc, tuy nhiên ông ta không đơn thuần là một doanh nhân làm thương mại. Ai cũng biết ở Trung Quốc hành nghề bất động sản không thể tách khỏi hệ thống quyền lực, nếu không cấu kết với quan chức có quyền lực thì không thể tham gia vào thị trường bất động sản. Vì thế, tài sản ông ta có được một phần lớn không xuất phát từ nền kinh tế thị trường sòng phẳng. Ông ta không thể nói muốn đi là đi.”

    Có phân tích cho rằng, truyền thông nhà nước Trung Quốc phê bình Lý Gia Thành, đã thể hiện ra tâm lý thù địch, khiến cho giới kinh doanh lạnh tóc gáy, hậu quả là dẫn đến càng nhiều người đầu tư ra nước ngoài để chạy thoát thân. Bài báo ít nhiều đã phản ánh rõ bản chất làm kinh doanh dưới chính quyền của ĐCSTQ: Anh không thể giàu có hoặc kinh doanh được nếu anh không cấu kết với chính quyền và cùng có qua có lại. Bình luận viên Lưu Duệ Thiệu nhận xét thêm: “Nếu như anh nghe lời thì tôi sẽ cho anh ăn, nếu như anh không nghe lời, thì một ngón tay cũng có thể hạ gục anh. Đây là thái độ quản lý Hồng Kông của Đảng cộng sản Trung Quốc.”


    Kỳ thực mà nói, đây không phải là cách quản lý mới mẻ của chính quyền ĐCSTQ. Hãy cùng lội ngược dòng lịch sử để nhận thấy rằng, bản chất này của Đảng đã có từ giai đoạn khi mới thành lập chính quyền, trải dài cho đến tận hôm nay.

    Chính quyền cướp của – “làm giàu mất gốc” đã xuất phát từ lịch sử cuộc Cải cách công thương 1. Lừa dối để chiếm đoạt và giết chết nếu cần thiết. Thuận ta thì sống, nghịch ta thì chết Trước năm 1949, trong thời kỳ Cách mạng Dân chủ, khi cần giai cấp tư sản ủng hộ trong cuộc nội chiến đối đầu với Quốc Dân Đảng, Đảng thổi phồng họ lên thành “bạn đồng hành của cách mạng vô sản” rồi hứa hẹn một chế độ “dân chủ cộng hoà.” Thế nhưng, sau khi ĐCSTQ giành chính quyền vào năm 1949, ĐCSTQ đã tuyên bố rằng giai cấp tư sản và giai cấp công nhân là khác nhau về bản chất: giai cấp thứ nhất là giai cấp bóc lột trong khi giai cấp thứ hai là giai cấp không bóc lột và chống bóc lột. ĐCSTQ biện minh rằng “giai cấp tư sản đã được sinh ra để bóc lột và sẽ không ngừng làm như thế cho đến khi nó bị diệt vong”, từ đó đưa ra kết luận: giai cấp tư sản chỉ có thể bị tiêu diệt chứ không thể cải tạo được.


    Dưới cái tiền đề ấy, ĐCSTQ đã sử dụng cả việc giết chóc và tẩy não để “chuyển hóa” tư sản và thương nhân. ĐCSTQ đã sử dụng phương pháp đã được kiểm nghiệm lâu dài là thuận theo nó thì sống, chống lại nó thì chết.

    Nếu ai hiến dâng tài sản của mình cho chính quyền và ủng hộ ĐCSTQ thì sẽ được coi như chỉ là một vấn đề nhỏ trong nhân dân. Nếu, ngược lại, ai bất đồng với hoặc phàn nàn về chính sách của ĐCSTQ thì sẽ bị dán nhãn là “phản động” và trở thành mục tiêu của chế độ độc tài tàn bạo của ĐCSTQ
    .

    Trong thời khủng bố xảy ra giữa các cuộc cải cách đó, tất cả những nhà tư sản và những người chủ doanh nghiệp đều đã bị bắt buộc phải giao nộp tài sản của mình. Nhiều người trong số họ đã không thể chịu đựng được sự nhục nhã mà họ phải đối mặt và đã tự tử. Trong chỉ có vài năm, ĐCSTQ đã hoàn toàn tiêu diệt sự sở hữu tư nhân ở Trung Quốc. Trong khi thi hành các chương trình cải cách công thương và cải cách ruộng đất, ĐCSTQ đã phát động nhiều phong trào để khủng bố nhân dân Trung Quốc. Những phong trào này bao gồm: đàn áp “phản cách mạng”, các chiến dịch cải tạo tư tưởng, đả đảo nhóm chống Đảng do Cao Cương và Nhiêu Sấu Thạch cầm đầu, và điều tra nhóm “phản cách mạng” Hồ Phong, chiến dịch Tam Phản, Ngũ Phản, và thanh trừng hơn nữa những người “phản cách mạng”.

    2. Chiến dịch Tam Phản và chiến dịch Ngũ Phản: Giết hại các nhà tư sản để cướp tiền của họ


    “Chiến dịch Tam Phản” được bắt đầu vào tháng 12 năm 1951 và được gọi là “nhằm vào nạn tham nhũng, lãng phí và quan liêu” trong số những cán bộ của ĐCSTQ. Không lâu sau đó, ĐCSTQ đã quy tội rằng sự tham nhũng của các quan chức chính quyền của nó là do sự cám dỗ của các nhà tư sản.



    Đấu tố trong thời tam phản ngũ phản (Ảnh: internet)
    “Chiến dịch Ngũ Phản” được bắt đầu vào tháng 1 năm 1952, được gọi là “nhằm vào nạn hối lộ, trốn thuế, trộm cắp tài sản nhà nước, sự xây dựng vội vàng và cẩu thả bằng vật liệu xấu, và tội làm gián điệp thu thập các thông tin kinh tế của nhà nước”. Chiến dịch với cái tên mỹ miều và nghe có vẻ rất công chính này đã dẫn tới hàng trăm ngàn người phải tự tử. “Chiến dịch Ngũ Phản” về thực chất là chiến dịch ăn cướp tài sản của các nhà tư sản hay đúng hơn là chiến dịch giết hại các nhà tư sản để lấy tiền của họ.
    Trần Nghị, Thị trưởng Thượng Hải lúc bấy giờ, được báo cáo vắn tắt tình hình trên ghế sô-fa với một cốc trà trong tay hàng đêm. Ông ta hỏi một cách nhàn nhã, “Có bao nhiêu lính dù hôm nay?”, có nghĩa là: “Có bao nhiêu thương gia nhảy lầu tự tử trong ngày hôm nay?”
    Nguyên soái Lâm Bưu từng nói: “Chính quyền chính là quyền trấn áp, có chính quyền rồi, hàng triệu phú ông, hàng tỷ phú ông, trong một đêm có thể đánh ngã.” Không một nhà tư sản nào có thể trốn thoát “Chiến dịch Ngũ Phản”.

    3. Nghịch cảnh: Những cái chết thương tâm


    Những nhà tư sản bị yêu cầu phải đóng thuế mà họ “đã trốn” cách đó từ tận…200 năm, từ tận thời Quang Tự (1875-1908) trong triều đại nhà Thanh (1644-1911) khi thị trường thương mại Thượng Hải mới bắt đầu được thành lập. Các nhà tư sản không thể có cách nào để trả những thứ “thuế” đó, thậm chí bằng tất cả tài sản của họ. Họ không có cách nào khác hơn là tự kết liễu cuộc đời của mình, nhưng họ không dám nhảy xuống sông Hoàng Phố. Nếu xác của họ mà không được tìm thấy, ĐCSTQ sẽ buộc tội họ là chạy trốn sang Hồng Kông, và người nhà của họ sẽ vẫn phải chịu trách nhiệm trả những khoản thuế đó. Các nhà tư sản đành phải nhảy lầu và để lại xác cho ĐCSTQ thấy bằng chứng về cái chết của họ. Người ta nói rằng mọi người không dám đi bộ bên cạnh các tòa nhà cao tầng ở Thượng Hải thời bấy giờ vì sợ bị những người nhảy lầu từ trên cao xuống rơi vào mình. Trang wikipedia cho biết khoảng 20.000 đảng viên và 6.000 công nhân đã qua huấn luyện thực hiện nhiệm vụ gián điệp theo dõi các hoạt động kinh doanh của người dân Trung Quốc. Báo chí thì tuyên truyền theo đường lối của chính quyền cộng sản Trung Quốc. Đến cuối năm 1951, có tới 15.000 tuyên truyền viên chuyên nghiệp hoạt động ở Thượng Hải. Tới 2/1952, ĐCSTQ tổ chức các cuộc diễu hành chống tư bản chủ nghĩa, đi tới từng nhà của các chủ doanh nghiệp, tạo ra áp lực tinh thần cực lớn lên giới thương nhân.


    Cảnh công nhân trong hệ thống công thương nghiệp Tô Châu tố cáo lên chính phủ trong Phong trào “tam phản”, “ngũ phản” (Ảnh: internet) Theo “Sự thực về các chiến dịch chính trị sau khi thành lập Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”, đồng biên soạn bởi 4 cơ quan chính phủ trong đó có Trung tâm Nghiên cứu Lịch sử ĐCSTQ năm 1996:
    Trong thời kỳ “Chiến dịch Tam Phản” và “Chiến dịch Ngũ Phản”, hơn 323.100 người đã bị bắt và hơn 280 người đã tự tử hoặc mất tích. Con số thống kê này xem ra là ít hơn nhiều so với thực tế.
    Theo chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO EPOCHE xuất bản, chỉ trong vòng vài tháng sau khi thực hiện hai chiến dịch này, một vài ngành công thương nghiệp đã suy sụp. Nhiều doanh nghiệp phải dựa vào các hợp đồng với nhà nước cộng sản Trung Quốc và vì thế mà ít nhiều đã trở thành nhân viên của nhà nước. Vào ngày 24 tháng 9 năm 1952, Mao Trạch Đông tuyên bố trong một bài diễn văn: “trong vòng 15 năm tới, nền kinh tế tư nhân sẽ không còn tồn tại trong hình thức cũ nữa. Thay vào đó, nhà nước trực tiếp chỉ đạo và kiểm soát toàn bộ mọi thứ, bao gồm cả sản xuất và thương mại”.





    Năm 1956, 99% nền kinh tế Trung Quốc thuộc sở hữu nhà nước. Phần lớn dân số tiếp tục sống tại nông thôn và tham gia sản xuất nông nghiệp. Bất chấp những nỗ lực công nghiệp hóa của Chính phủ, kết quả đạt được rất khiêm tốn. (Ảnh: Getty Image)
    Trên thực tế, đấy chính là sự kết thúc cho tất cả các doanh nghiệp tư nhân. Từ bây giờ trở đi, không còn một ai có thể tự do quyết định mua hay bán bất cứ thứ gì, vào lúc nào và với giá nào. Một phần là vì doanh nghiệp nhà nước ngày càng chiếm tỷ lệ nhiều hơn, mặt khác thì do các nhà máy đều trở thành hợp tác xã. Cho tới năm 1956, kinh tế tư nhân gần như đã tan biến hoàn toàn. Chỉ còn 0,5% dân số thành thị là nhân viên của các doanh nghiệp tư nhân.

    Sau năm 1949, người dân Trung Quốc mất những gì?


    Năm 1949, ĐCSTQ đã tranh thủ cơ hội cướp chính quyền đại lục từ tay Quốc Dân Đảng khi đảng này suy yếu sau cuộc kháng chiến chống Nhật. Kể từ đó, cuộc sống của người dân Trung Quốc nói chung, và đặc biệt là giới công nhân, tư sản trong lĩnh vực công nghiệp và thương nghiệp nói riêng, đã hoàn toàn chuyển sang một bước ngoặt mới. Trước đây, Đại Kỷ Nguyên tiếng Việt đã đăng bài “Xã hội Trung Quốc trước và sau năm 1949, người dân mất những gì?”, trong đó liệt kê sơ bộ những quyền mà người dân Trung Quốc đại lục đã bị mất sau năm 1949. Trong đó, kể từ khi ĐCSTQ lên nắm chính quyền, đối với lĩnh vực công thương nghiệp, ít nhất thì người dân Trung Quốc đã mất các quyền sau đây:

    1. Quyền tư hữu tài sản:


    Trước năm 1949, đất đai, nhà cửa và những tài sản tư hữu khác của mọi người đều được chính phủ và xã hội bảo vệ; chỉ cần mình không bán, không tặng cho người khác là tài sản luôn là của mình, có thể thừa hưởng nhiều đời.

    Sau khi ĐCSTQ nắm quyền, mọi tài sản tư hữu đều bị dùng danh nghĩa“quốc gia” để tước đoạt; những tòa nhà có giá trị lợi dụng đều bị “trưng thu” mà không có bất cứ bồi thường nào; nhiều loại tài sản khác nhau của mọi người cũng đều bị ĐCSTQ lấy các loại danh nghĩa khác nhau để tước đoạt, tịch biên. Cho đến ngày nay, người dân đi mua nhà ở nhưng cũng bị hạn chế “quyền sở hữu 70 năm”, sau 70 năm lại bị ĐCSTQ tịch thu… Không chỉ thế, bất kể khi nào Đảng cần nhà của bạn thì bạn không thể từ chối, nếu không sẽ bị cưỡng chế di dời. Nhiều tài sản khác cũng khó được bảo đảm an toàn, chỉ cần Đảng ngắm tài sản của bạn là bạn có thể bị quy vào các loại tội danh, sau đó dùng các loại thủ đoạn để làm “hợp pháp” hòng trưng thu tài sản của bạn (pháp luật do ĐCSTQ tùy ý làm ra). Hiện nay đang có phong trào di dân mới, một trong những nguyên nhân chính là vì mọi người phải tìm cách để bảo vệ tài sản của mình.

    2. Tự do buôn bán, không có quản lý đô thị:


    Trước năm 1949, mọi người tự do lập quầy hàng của mình, dùng lao động vất vả của mình để kiếm sống mà không bị bất kỳ sự khống chế nào, không có tồn tại cái gọi là “quản lý đô thị”. Ngay cả Đài Loan ngày nay, nhiều quầy hàng ven đường vẫn là điểm sáng hấp dẫn vô số du khách. Sau khi ĐCSTQ nắm quyền, để che giấu sự thực về cuộc sống khó khăn của người dân, vì lo ngại sự phát triển của tự do thương mại sẽ uy hiếp quyền thống trị của mình, vì thế mà tự chế ra vô số các loại thuế trút vào người buôn bán, thành lập các loại tổ chức, nuôi một bọn thổ phỉ lưu manh gọi là “quản lý đô thị”, sách nhiễu cản trở hoạt động buôn bán kiếm sống của người dân, thậm chí còn hành hung, tước đoạt hàng hóa của họ tùy tiện.

    3. Tự do lập công đoàn, bãi công


    Trước năm 1949, việc bãi công là rất bình thường, trong đó có nhiều cuộc bãi công do chính ĐCSTQ âm mưu xúi giục. Ở các nước phương Tây ngày nay, chuyện bãi công của công nhân cũng là bình thường. Khi đó công nhân có thể tự do tổ chức công đoàn cho mình, không có chuyện chính phủ can thiệp vào. Sau khi ĐCSTQ cầm quyền, họ cũng lập “công đoàn” tại tất cả các đơn vị, nhưng thứ “công đoàn” này không phải là “công đoàn”. ĐCSTQ biến cái gọi là “công đoàn” thành một thứ công cụ của chính trị, mục đích tồn tại của nó chỉ đơn giản là để che mắt thiên hạ, lừa bịp công nhân và xã hội. Vì thứ công đoàn này không có công nhân thật sự được tham gia, miễn bàn đến bầu cử, xưa nay chưa bao giờ chúng ta được nghe nói đến thứ công đoàn này tự giác lộ diện đấu tranh vì lợi ích của công nhân.

    Dưới sự thống trị của ĐCSTQ, chuyện bãi công của công nhân là chuyện “phù vân” xa xôi, trong tầm kiểm soát nghiêm mật của ĐCSTQ. Công nhân muốn bãi công sợ rằng chưa kịp hành động đã bị bắt nhốt toàn bộ! Người công dân khởi xướng hoặc do được chọn ra làm đại biểu sẽ phải đối diện với cực hình tàn khốc. Khi ĐCSTQ giành chính quyền, họ dùng những lời dối trá để được giới công nhân ủng hộ, nhưng sau khi giành được chính quyền họ lộ hoàn toàn bộ mặt thật, chưa bao giờ người công nhân phải khổ như hiện nay.

    4. Làm giàu công bằng, tự do chọn nghề kinh doanh


    Trước năm 1949, chỉ cần chăm chỉ làm việc, cơ hội để mọi người trở nên giàu có là ngang nhau, con đường tiến thân lên thượng tầng xã hội không có trở ngại gì, mọi người có thể tự do chọn nghề kinh doanh, không bị xét duyệt qua vô số danh mục phức tạp. Nhưng sau khi ĐCSTQ nắm quyền, ban đầu là làm cơm tập thể, người giàu cũng biến thành người nghèo, còn người nghèo thì mãi mãi là người nghèo, không có cơ hội vươn lên, mọi người ăn không đủ no. Sau này xoay chuyển xu hướng chính trị và thực hiện cái gọi là cải cách mở cửa, nhưng có lợi nhất trong cải cách mở cửa cũng vẫn là giai cấp đặc quyền ĐCSTQ, người dân bình thường có rất ít cơ hội. Ngoài ra, ĐCSTQ vì kiểm soát mạch máu kinh tế quốc dân nên họ khống chế giới kinh doanh toàn xã hội, không có quyền tự do chọn lựa lĩnh vực kinh doanh. Những ngành nghề béo bở đều bị ĐCSTQ độc quyền thao túng, người dân thường chỉ có thể làm được những nghề vừa kiếm được ít tiền lại vừa khổ cực. Sử dụng dục vọng, kim tiền và nữ sắc để chiêu mộ thuộc cấp Nếu như bản thân chính quyền ĐCSTQ làm giàu mất gốc bằng cách đi cướp, thì những quan chức của Đảng là những ví dụ điển hình, không chỉ chính họ làm giàu mất gốc mà còn dùng lợi lộc, vật chất, nữ sắc để làm mồi nhử chiêu nạp đàn em và tay chân vây cánh để củng cố quyền lực. . Ông Giang Trạch Dân được ví như là một “bạo chúa độc tài” ở Trung Quốc. Từ khi lên nắm quyền, ông ta sẵn tay đàn áp những ai không cùng ý kiến và làm phật ý mình, đồng thời dung túng tham quan ô lại, dùng tiền bạc, vật chất và sắc dục để chiêu mộ khiến nhiều “hổ lớn” phải quy phục ông ta. Ông từng nói riêng với một Ủy viên Bộ Chính trị: Có hai cách để chi phối người khác, một là dùng lợi, hai là dùng dục. Đảng Cộng sản dùng hai cách này để khống chế kẻ khác sẽ bách chiến bách thắng!”


    Sau khi vào Trung Nam Hải, ông Giang đã áp dụng phương pháp này để kiểm soát hệ thống, một mặt dùng bạo lực để đàn áp những người đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền, mặt khác dùng sự hủ bại để lôi kéo quan to nghe theo lệnh của mình, dùng địa vị xã hội để dụ dỗ hàng loạt đám “văn nô” tuyên truyền dục vọng, kim tiền và nữ sắc trong xã hội, tuyên truyền cho tư tưởng “khinh kẻ nghèo chứ không khinh gái điếm.” “Mời khách” không còn hạn chế ở vấn đề ăn uống mà chiêu đãi kỹ nữ đã trở thành một tiết mục trong giao tế. Phần tử tri thức còn mấy người bênh vực cho người dân lao động? Họ dùng cái giọng ngụy biện là những người lao động tự nguyện gánh vác “cái giá không thể tránh khỏi trong sự đi lên của lịch sử!”


    Mục đích ông Giang dung túng cho thuộc cấp mặc sức tham nhũng và làm giàu bất chính là để đổi lấy sự phục tùng của họ. Vì thế xã hội Trung Quốc thời nay, nếu không có qua có lại với chính quyền thì đừng hòng làm ăn được. Và chính quyền thay vì bảo vệ lợi ích của người dân, lại đứng về phía những người làm ăn bất chính mà đàn áp lại họ.

    Ngày 31/10/2012, các điều tra viên chống tham nhũng đã bất ngờ tiến hành khám xét nhà ông Wei Pengyuan – Vụ phó Vụ khai thác than Trung Quốc. Kết quả, người ta đã phát hiện một khối lượng tiền mặt khổng lồ, tổng trị giá 33 triệu USD trong nhà quan chức này. Số tiền được cho là “sản phẩm” của các hành vi nhận hối lộ, đút lót. Tờ Caixin – ấn phẩm chuyên về tin tức tài chính – tiết lộ, các điều tra viên đã phải sử dụng tới 16 chiếc máy đếm tiền để kiểm kê số tiền thu được trong nhà ông Wei. (Ảnh: internet)


    Bạo lực kết hợp với tuyên truyền chủ nghĩa duy vật đã huỷ hoại hoàn toàn nền đạo đức Trung Quốc: Đạo đức bao nhiêu tiền một cân?


    Chủ nghĩa duy vật mà ĐCSTQ tuyên truyền đã tiến một bước phát sinh ra “chủ nghĩa tôn sùng vật chất”, “chủ nghĩa sùng bái kim tiền”, “chủ nghĩa hưởng lạc”, cuối cùng dẫn đến “chủ nghĩa duy lợi”, nó dẫn dắt con người thực sự đi đến chỗ đạo đức suy bại, tha hóa. Nhiều người Trung Quốc đương đại, gồm nhiều người thuộc “phần tử tri thức”, phủ phục dưới sự đàn áp bạo lực và chính sách thu mua kim tiền của Đảng, trở thành những người triệt để theo “chủ nghĩa duy lợi”. Chủ nghĩa duy vật phủ định tác dụng của đạo đức, cho rằng không có đạo đức phổ quát siêu việt đối với nhân loại. Cái gọi là đạo đức đều là thuộc về từ một giai cấp nào đó, mà tại Trung Quốc, những người dẫn giải và đặt định nghĩa về đạo đức tất yếu đều là Đảng Cộng sản. ĐCSTQ trong lịch sử đấu tranh chính trị tiến hành làm mưa làm gió lật đổ đạo đức phổ quát một cách triệt để. “Đạo đức bao tiền một cân?” – câu nói này chính là điển hình cho tư duy logic của “các nhà chủ nghĩa duy vật” chịu nhận giáo dục của ĐCSTQ mà sinh ra. Chính vì vậy, nó thờ ơ với sinh mệnh con người.

    Một cá nhân chết đi chẳng qua chỉ là một đám protein thay đổi hình thức tồn tại mà thôi, không có gì to tát cả, đây là cơ sở lý luận trọng yếu để có thể giết người mà không cảm thấy áy náy hay xót thương
    . Mao Trạch Đông nói: “Người theo Thuyết duy vật triệt để, không có gì phải sợ hãi.”

    Vì thế, người Trung Quốc ngày nay điều ác nào cũng dám làm. Vì kiếm tiền, chạy theo tiền mà có thể bất chấp đến tính mạng của người khác. Điều này lý giải cho các sản phẩm độc hại mang thương hiệu ‘Made in China” mà cả thế giới đều cảm thấy khiếp sợ.

    Trung Quốc truyền thống có vậy chăng? Người xưa nói: Đức là gốc, của cải là ngọn cây Người quân tử hiểu tầm quan trọng của nghĩa, kẻ tiểu nhân chỉ biết có lợi!


    Một trong bốn cuốn sách kinh điển của Nho gia, Đại học, có viết, “Một người quân tử phải chú ý tu đức bản thân. Nhờ đức, một người có được sự kính nể của người dân; nhờ dân, người đó có đất đai; nhờ đất đai, người đó tạo ra của cải; với của cải, người đó có thể dùng nó. Đức là gốc, và của cải là những ngọn cây”. Do đó, Khổng tử đã giảng, “Thấy lợi xét nghĩa”, “Làm giàu bất nghĩa đối với ta cũng tựa phù vân”, “Người quân tử hiểu tầm quan trọng của nghĩa, kẻ tiểu nhân chỉ biết sự quan trọng của lợi.” Những thương nhân thời xưa ở Trung Quốc quý trọng lời dạy của Nho giáo vốn tin vào nguyên tắc “Người quân tử muốn của cải sẽ kiếm nó bằng con đường ngay chính”. Chúng ta cùng xem lại những câu chuyện thời xưa để thấy những bậc minh quân, hiền thần trong quá khứ coi trọng chữ Tín Nghĩa và Đức hạnh như thế nào.

    Gương Quản Trọng nhận lỗi khi thấy dân mất ngựa mà không đi kiện


    Một lần vua Hoàn Công nước Tề đi săn, đuổi con hươu chạy vào trong cái hang, thấy có một ông lão, bèn hỏi rằng: “Hang này tên gọi là hang gì?”. Ông lão thưa: “Tên là hang Ngu Công”. – Tại làm sao mà đặt tên như thế? – Tại kẻ hạ thần đây mới thành có tên ấy. – Coi hình dáng lão không phải là người ngu, cớ gì lại đặt cái tên như thế? – Để hạ thần xin nói: Nguyên hạ thần có con bò cái đẻ được một con. Khi bò con đã lớn, hạ thần đưa đi bán, rồi lấy tiền mua một con ngựa con đem về cùng nuôi với bò cái. Một hôm, có một chàng thiếu niên đến lấy lý “Bò không đẻ ra được ngựa”, bèn bắt con ngựa con đem đi. Tôi chịu mất, không cãi được. Vì thế xa gần đâu cũng cho tôi là ngu mới gọi hang tôi ở đây là hang Ngu Công. Hoàn Công nói: “Lão thế thì ngu thật!”. Buổi chầu hôm sau, Hoàn Công đem câu chuyện kể lại cho Quản Trọng nghe. Quản Trọng nói: “Đó chính là cái ngu của Di Ngô này. Nếu được vua giỏi như vua Nghiêu, bầy tôi minh như Cao Dao, thì khi nào lại có kẻ dám ngỗ ngược, lấy không ngựa của người ta như vậy. Ngu Công mà đành để mất ngựa, chắc là biết rõ hình pháp ngày nay không ra gì. Xin nhà vua kịp chỉnh đốn các chính sách lại. Khổng Tử nghe thấy nói: – Đệ tử ta đâu, ghi lấy việc ấy! Hoàn Công là bá quân. Quản Trọng là hiền thần. Tuy đã vào bậc khôn ngoan, mà còn tự cho là ngu dại.


    Ông lão cam tâm mất ngựa, lại chịu cả cái tiếng “ngu” là ý nói gặp phải thời buổi người trên tham nhũng, kẻ dưới hung nghịch, đành chịu để êm chuyện đi, còn hơn dở khôn đi kiện, chẳng những mất ngựa mà có khi lại mất cả bò và bao nhiêu tiền của, thời giờ vào đấy nữa. Hoàn Công thấy chuyện mà lưu tâm đến, chứng tỏ ông là vị vua có tâm với dân. Quản Trọng nghe chuyện mà biết nhận ngay cái lỗi ấy tại mình, thế cũng là hai bậc bá quân, lương tướng hiểu rõ cái trách nhiệm chăn dắt muôn dân của mình. Nên Khổng Tử có lời khen quả thực đáng ghi sử sách. Vì rằng nắm vận mệnh một dân tộc mà không giữ chữ Tín Nghĩa, không lấy Đức làm trọng, thì chỉ đẩy dân vào cảnh khổ đau lầm than.

    Vị minh quân ngay chính: Vua Đường Thái Tông lấy mình làm tấm gương về chữ Tín


    Thời đầu những năm Trinh Quan (627-647) triều đại nhà Đường, có người đệ trình thư thỉnh cầu trừ bỏ nịnh thần. Đức Vua Đường Thái Tông hỏi: “Trẫm bổ nhiệm quan viên, là để họ trở thành những hiền thần. Theo khanh, làm thế nào phân biệt ai là nịnh thần?” Người đã viết thư đó trả lời: “Tâu bệ hạ, hạ thần ở nơi dân chúng, không biết rõ ai là nịnh thần trong cung. Nếu bệ hạ muốn biết, thì bệ hạ giả vờ nổi giận để thử lòng người. Nếu ai không sợ hãi mà đứng ra can gián, thì đó chắc chắn là người cương trực. Còn ai thuận theo mà a dua xu phụ thì quả nhiên là nịnh thần.” Bấy giờ, Đường Thái Tông nói với Phong Đức Di:

    Dòng nước chảy kia trong hay đục, ấy cũng là từ nguồn nước định ra. Vua ví như nguồn nước, trăm họ tựa như dòng. Vua tự thân làm điều giả dối, lại còn muốn triều thần công minh chính trực là sao? Đầu nguồn đã dơ bẩn, lại đòi có nước trong? Như thế không hợp đạo lý. Trẫm xưa nay vẫn cho rằng Ngụy Vũ Đế giảo trá, nên tự trong lòng khinh bỉ ông ta lắm. Lấy lối hành xử đó làm gương sao được?” Xong, Đường Thái Tông bảo người đã dâng thư: “Trẫm vẫn mong lấy ‘đại tín’ làm phương châm cho hành xử trong thiên hạ. Không dùng ‘lừa dối’ để giáo hoá dân chúng. Lời của khanh dẫu có chỗ hay, nhưng Trẫm không thể làm theo được.”

    Trong thực tế, những ai coi trọng giá trị công lý và chính nghĩa có vẻ bị bất lợi khi so sánh với những người chỉ biết lợi lộc và làm giàu. Tuy nhiên, chính nghĩa và lợi lộc có quan hệ tương hỗ căn bản; có một khoảng cách về thời gian – không gian giữa hai điều này. Một người phải nên tích đức hành thiện trước và lợi sẽ đến sau. Đạo đức vô hình, lợi ích hữu hình. Người thường không nhìn thấy đức và vì thế không tin tưởng vào điều này. Nhưng thực tế về nhân – quả: “ác giả ác báo” vốn đã quá rõ.
    Những ai hành thiện và theo đúng những nguyên tắc công lý và chính nghĩa là đang tạo nền móng vững chắc cho tương lai tốt đẹp cho chính họ. Những ai làm giàu bằng những hành động tà ác là đang đào sẵn nấm mồ cho chính mình.
    Như vậy mà nói, tầng lớp công, nông, thương, từ địa chủ, tư sản đến dân đen đều bị ĐCSTQ dùng lời ngon ngọt hứa hẹn một tương lai công bằng tươi sáng mà lừa gạt hết thảy. Khi cần sự ủng hộ thì chiêu mộ họ, khi nắm được chính quyền trong tay thì quay lại đàn áp và chiếm lợi riêng cho mình.


    Trung tâm điều tra Khoa học Xã hội Trung Quốc thuộc Đại học Bắc Kinh từng có “Báo cáo phát triển dân sinh Trung Quốc năm 2014” cho thấy, trong đó 1% gia đình sở hữu 1/3 tài sản (trở lên) của toàn quốc, còn 25% số gia đình ở tầng thấp nhất chỉ sở hữu 1% tài sản. Con số 1% số người giàu Trung Quốc Đại Lục kể trên đều là gia đình quan chức Cộng sản Trung Quốc hoặc người thân của họ. Vào tháng 8/2006, một báo cáo điều tra của chính quyền Trung Quốc cho thấy: những người giữ chức vụ quan trọng trong các lĩnh vực béo bở (tài chính, ngoại thương, phát triển đất đai, các dự án lớn, năm lĩnh vực chính của chứng khoán) toàn là con cháu của quan chức cấp cao. Giới nhà giàu ở Trung Quốc có đến trên chín phần là con cháu của quan chức cấp cao, trong đó có hơn 2.900 con quan chức cấp cao có tổng tài sản 2 nghìn tỷ nhân dân tệ. Người nghèo ngày càng nghèo hơn. Người giàu thì phải cấu kết với chính quyền mới đảm bảo được công việc kinh doanh kiếm tiền. Trước đây Đảng kích động người dân coi tầng lớp giàu có là thế lực thù địch, là giai cấp bóc lột cần phải hận, cần phải tiêu diệt, hiện giờ những người giàu có đa phần đều là quan chức, dòng họ của quan chức hoặc những người có liên kết với quan chức. Xã hội Trung Quốc hiện nay, tâm lý con người đầy lệch lạc và mâu thuẫn, một mặt chửi kẻ có tiền, một mặt lại muốn trở thành người có tiền bằng mọi giá bất chấp đạo đức. Hiện tượng vừa tham giàu vừa thù người giàu song song tồn tại.

    Như vậy mà nói, người dân Trung Quốc thực ra chỉ là nạn nhân bị nhào nặn bởi ĐCSTQ độc tài tà ác hơn nửa thế kỷ nay. Họ là đáng tội hay thực sự đáng thương?


    Mời quý độc giả đọc tiếp phần 4“Giải mã toàn tập: Vì sao người Trung Quốc trở nên xấu xí” để xem vì sao người Trung Quốc bây giờ điều ác gì cũng dám làm.
    Theo daikynguyenvn.com

    VietFreeFun



  4. #4
    Join Date
    Nov 2010
    Bài Viết
    24,512
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 70 Lần
    Trong 70 Bài Viết
    Phần 4



    ĐCSTQ huấn luyện sư bắn súng

    Phần 4: Vì sao người Trung Quốc ngày nay điều ác nào cũng dám làm? Nói về xã hội Trung Quốc thời nay, không ít người phải thốt lên rằng “sao mà ác quá!” Cái ác thể hiện trong cuộc sống hàng ngày, qua những cậu chuyện chấn động khó tin: thấy người gặp nạn không cứu để mặc họ chết; lỡ gây tai nạn rồi cán cho chết luôn để bồi thường ít hơn; sữa, thực phẩm và đồ chơi trẻ em độc hại gây chết người, v.v… cho đến những việc gây sốc hơn nữa là cưỡng ép phá thai thứ hai trong chiến dịch kế hoạch hóa gia đình khiến hàng triệu sinh linh bé nhỏ phải vong mạng, bắt bớ, đàn áp và giết hại hàng triệu người dân để mổ cướp nội tạng_việc tà ác chưa từng có trên địa cầu này… Vì sao ở Trung Quốc lại xuất sinh những việc tàn ác đến như vậy?

    Câu trả lời có lẽ là: hệ thống đạo đức cộng đồng ở Trung Quốc đã bị phá hủy do ĐCSTQ cưỡng bức người dân từ bỏ chính tín trên toàn xã hội Trung Quốc…
    Hậu quả của “cưỡng bức từ bỏ chính tín” trên diện rộng: vì sao người Trung Quốc ngày nay vừa đi chùa vừa không tin nhân quả?
    Có một câu chuyện, con trai của nhà bác học nổi tiếng thế giới Einstein (Anh-xtanh) là Edward (Ét-uốt), có một lần hỏi Anh-xtanh là vì sao ông ta nổi tiếng như vậy. Anh-xtanh chỉ vào một con bọ bị mù trên một quả bóng da và trả lời là nó không biết con đường mà nó bò là cong, nhưng “Anh-xtanh biết”. Câu trả lời của Anh-xtanh quả thật có hàm nghĩa sâu xa. Một câu thơ cổ Trung Quốc cũng có một ý nghĩa tương tự, “Ta không biết bộ mặt thật của núi Lư Sơn bởi vì ta đang ở trên núi đó”. Để hiểu một hệ thống, ta cần phải ‘bước’ ra khỏi hệ thống đó để quan sát nó. Tuy nhiên, dùng những quan niệm có hạn để quan sát thời không vô hạn của vũ trụ, nhân loại sẽ không bao giờ có thể hiểu được cấu trúc hoàn chỉnh của vũ trụ, và vì vậy vũ trụ sẽ vĩnh viễn là một điều bí mật đối nhân loại. Thế giới mà khoa học không thể vượt qua được thuộc về thế giới tinh thần hay trừu tượng, thế giới của “đức tin”. Từ lịch sử nhân loại mà nói, tín ngưỡng đối với Thần và tôn giáo đã duy trì đạo đức của nhân loại ở mức độ cao. Nếu không còn tin tưởng Thần, cũng chính là không còn ước thúc về đạo đức, không có ước thúc về đạo đức, thì ước thúc về pháp luật cũng chỉ có thể là hữu danh vô thực, người ta vẫn không e ngại làm điều xấu. Thậm chí, vì để đạt mục đích mà có thể sẽ không từ thủ đoạn nào. Không tin vào ý nghĩa nhân sinh, không tin vào làm việc xấu sẽ có báo ứng, từ đó, làm việc gì cũng không tính đến hậu quả, việc xấu nào cũng dám làm. Đó là hiện trạng của số đông người Trung Quốc ngày nay, hệ quả của việc chính tín bị phá hoại và chịu nhận tuyên truyền thuyết vô thần độc hại của ĐCSTQ.



    Một ngôi chùa ở Thượng Hải năm 1900



    Sau này đứng tại tương lai nhìn lại lịch sử nhân loại hôm nay, người ta sẽ thực sự thấy được ĐCSTQ đã ngang nhiên tuỳ tiện với mảnh đất Trung Hoa từng màn một mà kinh tâm động phách, huyên náo ầm ĩ và gió tanh mưa máu. Trong vòng vỏn vẹn mấy chục năm, trên mảnh đất mệnh danh “Thần Châu”, ĐCSTQ dựa vào từng lần từng lần giết chóc, từng vòng từng vòng phê phán, từng đợt từng đợt nhồi nhét, tuyên truyền “Vô Thần luận”, tuyên truyền “Duy vật luật”, phủ định văn hoá truyền thống và Thần truyền, đàn áp tôn giáo tín ngưỡng, tuyên truyền sự vĩ đại của Marx-Engels-Lenin-Stalin-Mao Trạch Đông, từ đó thay thế một cách có hệ thống văn hoá truyền thống.

    Mao Trạch Đông tuyên bố: “Nếu chúng ta muốn lật đổ một chính thể, trước tiên chúng ta phải tuyên truyền, và làm công tác trong lĩnh vực tư tưởng.”





    Nông dân Trung Quốc trong giờ giải lao cùng nhau đọc cuốn sách Đỏ (tuyển tập) của Mao chỉ lớn bằng bàn tay, có thể bỏ túi được.
    2. Tín ngưỡng truyền thống và ý thức hệ của ĐCSTQ khác nhau ở những điểm nào?


    [/URL]
    Tiền đề chỉ đạo của ĐCSTQ là vô thần luận: cho rằng không có Phật, không có Đạo, không có đời trước, không có đời sau, và không có quả báo. Vì vậy ĐCSTQ phê phán Nho giáo, Phật Giáo, Đạo Giáo, phê phán quan niệm truyền thống, nhồi nhét tư tưởng đấu tranh, tà thuyết “yếu thì thịt mạnh thì ăn” (cá lớn nuốt cá bé), kẻ thích ứng là kẻ sinh tồn.

    Vì vậy họ dạy người bần cùng và giai cấp vô sản lưu manh rằng họ không cần tin vào Thần Linh, họ không phải trả giá cho những gì họ làm, và họ không cần tôn trọng luật pháp hay đạo đức trong hành động của mình, mà ngược lại, họ nên dùng mưu kế và bạo lực để cưỡng đoạt của cải vật chất.


    Tuy nhiên, văn hóa truyền thống lại là linh hồn của dân tộc. Đối với nhân loại nhân tố tinh thần này cũng quan trọng không kém các nhân tố vật chất như giống nòi và đất đai. Các tín ngưỡng Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo đã đem lại cho người Trung Quốc xưa một hệ thống đạo đức rất ổn định, không thay đổi chừng nào Trời đất vẫn còn tồn tại “Thiên bất biến, đạo cũng bất biến”. Hệ thống đạo đức này là cơ sở cho sự bền vững, hòa bình, và sự hài hòa trong xã hội. Văn hóa truyền thống Trung Quốc tràn đầy các khái niệm và nguyên tắc như Thiên, Đạo, Thần Phật, mệnh, duyên, nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, liêm, sỉ, trung, hiếu, tiết… Văn hóa truyền thống kính trọng Thiên ý, như Khổng Tử nói Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên”, Phật giáo, Đạo giáo đều tin vào luân hồi sinh tử, quy luật nhân quả, thiện ác hữu báo. Đảng Cộng Sản thì trái lại, không những không tin vào thuyết vô thần mà còn “vô pháp vô thiên”.

    Nho giáo coi trọng gia đình, còn Bản tuyên ngôn của ĐCSTQ lại chủ trương bãi bỏ gia đình. Văn hóa Nho giáo đề cao lòng tốt đối với người khác, còn ĐCSTQ thì khuyến khích đấu tranh giai cấp. Nho giáo đề cao lòng trung thành với vua và tình yêu với đất nước, còn ĐCSTQ thì đề xướng việc loại bỏ quốc gia.


    Văn hóa truyền thống quý trọng sinh mạng, còn ĐCSTQ diệt chủng hàng loạt và thống trị bằng bạo lực. Văn hóa truyền thống Trung Quốc tin vào Thần và Thiên ý. Còn ĐCSTQ tuyên truyền chủ nghĩa duy vật lịch sử, nói rằng chủ nghĩa cộng sản là thiên đường trên mặt đất, và con đường đi tới đó là do những người vô sản tiên phong hay ĐCSTQ lãnh đạo. 3. Giải tán các tôn giáo và giết chóc, bắt các thành viên phải “hối cải” vì đã tham gia Mao Trạch Đông từng “tự hào” tuyên bố về năng lực giết chóc của mình: “Tần Thủy Hoàng đáng kể gì? Ông ta chỉ giết 46 chục nho sĩ, còn chúng ta đã giết cả 46 ngàn thằng trí thức hủ nho ấy chứ. Trong cuộc trấn áp phản cách mạng, chẳng phải chúng ta đã giết cả những thằng trí thức phản cách mạng hay sao? Tôi đã tranh luận với những người theo phái dân chủ buộc tội chúng ta là hành động như Tần Thủy Hoàng.

    Tôi nói rằng họ đã nhầm. Chúng ta còn vượt xa ông ta đến cả trăm lần ấy chứ.”
    Ngay sau khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, ĐCSTQ đã làm một việc tàn bạo là đàn áp dã man các tôn giáo và cấm hoàn toàn tất cả các tín ngưỡng chính. ĐCSTQ bắt đầu phá hủy đền chùa, đốt kinh thư và bắt các tăng ni Phật tử phải hoàn tục. ĐCSTQ cũng không nương tay với các tôn giáo khác, và là thể chế duy nhất đã đồng thời tiêu diệt cả 3 tôn giáo.




    Đập phá chùa chiền, tượng Phật

    Động cơ chiến dịch đàn áp tín ngưỡng này chỉ đơn giản xuất phát từ mục tiêu muốn hoàn tất việc thâu tóm quyền lực tuyệt đối của ĐCSTQ trên mảnh đất Trung Hoa, sau khi đã triệt hạ các giai cấp khác trong xã hội như “địa chủ” và “tư sản”. Năm 1950, ĐCSTQ đã chỉ đạo cho các chính quyền địa phương cấm tất cả các tín ngưỡng tôn giáo không chính thức và các “hội kín”. ĐCSTQ tuyên bố rằng các tổ chức “phong kiến” này chỉ là những công cụ trong tay của địa chủ, phú nông, phần tử phản động, và đặc vụ Quốc Dân Đảng. Trong cuộc đàn áp trên phạm vi toàn quốc này, chính quyền đã huy động các giai cấp mà họ tin cậy để xác định và đàn áp những người theo các tín ngưỡng tôn giáo.




    Bắt bớ người tu hành

    Chính quyền các cấp đã trực tiếp tham gia vào việc giải tán các “nhóm mê tín” như Cơ Đốc giáo, Thiên Chúa giáo, Đạo giáo, và Phật giáo. Họ đã ra lệnh cho tất cả các thành viên của những nhà thờ, chùa, và các giáo hội này phải đăng ký với chính quyền và phải “hối cải” vì đã tham gia vào các tổ chức này. Nếu không đăng ký sẽ bị trừng phạt nghiêm trọng. Năm 1951, chính quyền đã chính thức ban hành quy định đe dọa rằng những người tiếp tục các hoạt động của những tín ngưỡng không chính thức sẽ bị phạt tù chung thân hoặc tử hình. Cuộc vận động này đã đàn áp một số lớn những người có đức tin vào thần thánh, lương thiện và tuân thủ pháp luật. Con số thống kê không đầy đủ cho thấy rằng trong những năm 1950, ĐCSTQ đã đàn áp ít nhất là ba triệu tín đồ tôn giáo và thành viên bang hội.

    Bắt bớ người tu hành tại Tây Tạng

    4. Phá hủy chính tín, phá hủy tôn giáo từ bên trong: bắt tăng ni lập gia đình, uống rượu và ăn thịt! Đó cũng chính là phá hủy đạo đức xã hội từ bên trong! Năm 1952, ĐCSTQ cử đại diện đến tham dự lễ ra mắt của Giáo hội Phật giáo Trung Quốc. Tại buổi lễ, nhiều “Phật tử” trong Giáo hội đã đề nghị bãi bỏ những giới cấm của Phật. Họ nói rằng những quy định này đã gây ra cái chết của nhiều thanh niên nam nữ. Một số người thậm chí còn biện hộ rằng “Tăng ni nên được tự do lập gia đình, uống rượu, và ăn thịt. Không ai nên can thiệp vào những việc này.”





    Đập phá chùa chiền, tượng Phật

    Vào lúc đó, Sư Phụ Hư Vân có mặt tại buổi lễ và thấy rằng Phật giáo đang phải đối mặt với nguy cơ bị hủy diệt ở Trung Quốc. Ông đã bước lên phản đối những đề xuất này và đề nghị giữ gìn những giới cấm và y phục của Phật giáo. Sư Phụ Hư Vân sau đó đã bị phỉ báng, và bị dán nhãn là “phản cách mạng.” Ông bị giam giữ trong phòng trụ trì, và không được ăn uống gì cả. Thậm chí ông còn không được ra khỏi phòng để sử dụng nhà vệ sinh. Ông cũng bị ra lệnh phải giao nộp vàng, bạc và súng đạn. Khi ông trả lời rằng ông không có những thứ đó, ông đã bị đánh đập tàn nhẫn tới mức xương sọ của ông bị rạn nứt, chảy máu và gẫy xương sườn. Lúc đó ông đã 112 tuổi. Quân cảnh đã đẩy ông ngã từ trên giường xuống đất. Ngày hôm sau, khi chúng quay trở lại và thấy ông vẫn còn sống, chúng lại tiếp tục đánh đập ông rất tàn nhẫn.

    Sư phụ Hư Vân

    ĐCSTQ đã tịch thu các tài sản của chùa, bắt các tăng ni phải nghiên cứu chủ nghĩa Mácxít-Lêninnít để tẩy não họ, và thậm chí còn bắt họ phải lao động cưỡng bức. Ví dụ, có một “công trường Phật giáo” ở thành phố Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang. Hơn 25.000 tăng ni đã từng bị bắt phải làm việc ở đó. Điều lố bịch hơn là ĐCSTQ khuyến khích các tăng ni lập gia đình để làm cho Phật giáo tan rã. Ví dụ, ngay trước Ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3 năm 1951, Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố Tràng Sa, tỉnh Hồ Nam đã ra lệnh cho tất cả các ni cô trong tỉnh phải quyết định lập gia đình trong một vài ngày. Hơn nữa, các hòa thượng trẻ khỏe đã bị bắt phải nhập ngũ và bị đưa ra chiến trường làm bia đỡ đạn!





    Cho nổ tung tượng Phật

    5. Giáo Hội Phật Giáo và Giáo Hội Đạo giáo trở thành những tổ chức hoàn toàn trần tục và hình thành nên 1 tầng lớp xã hội mới: “sư quốc doanh”


    Giáo hội Phật giáo Trung quốc được thành lập năm 1952 và Giáo hội Đạo giáo Trung quốc được thành lập vào năm 1957, cả hai đều đã tuyên bố rõ ràng trong bản tuyên bố thành lập của mình rằng họ sẽ “theo sự lãnh đạo của chính quyền nhân dân.” Trên thực tế, họ phải theo sự lãnh đạo của ĐCSTQ vô thần. Cả hai giáo hội đều ngụ ý rằng họ sẽ tích cực tham gia vào các hoạt động sản xuất và xây dựng, và thực thi các chính sách của chính quyền. Họ đã bị biến thành các tổ chức hoàn toàn trần tục và những con người hoàn toàn trần tục nhưng khoác áo nhà sư.





    Sư quốc doanh Trung Quốc

    Còn những Phật tử và Đạo sĩ hết lòng tuân theo các giới cấm thì bị dán nhãn là phản cách mạng hay thành viên của các giáo phái mê tín và hội kín. Dưới khẩu hiệu cách mạng là “làm trong sạch các Phật tử và Đạo sĩ”, họ đã bị bỏ tù, bị bắt phải đi “cải tạo lao động” hoặc thậm chí bị tử hình. Ngay cả các tôn giáo được truyền đến từ phương Tây, như Cơ Đốc giáo và Thiên Chúa giáo cũng không thoát khỏi bị phá hoại.


    Huấn luyện sư bắn súng

    Những hành động này đã củng cố thông điệp của ĐCSTQ rằng ý thức hệ cộng sản là hệ tư tưởng hợp pháp duy nhất và niềm tin hợp pháp duy nhất. Khái niệm tín đồ “ái quốc” ngay sau đó đã xuất hiện. Hiến pháp của nhà nước chỉ bảo vệ những tín đồ “ái quốc”. Thực tế là đối với bất cứ tôn giáo nào mà một người tin theo, chỉ có một tiêu chuẩn là phải theo sự chỉ đạo của Đảng và phải công nhận rằng Đảng là ở trên tất cả các tôn giáo.
    Đối với các tín đồ đạo Cơ Đốc, thì ĐCS là Thiên Chúa của Thiên Chúa. Đối với các tín đồ Phật giáo thì ĐCS là Phật tổ của Phật tổ. Đối với đạo Hồi thì ĐCS là Ala của Ala. Còn đối với Phật sống của Phật giáo Tây Tạng thì ĐCS là người quyết định ai sẽ là Phật sống.

    6. Đàn áp Phật giáo Tây Tạng và quyết định việc chuyển sinh của Đức Đạt Lai Lạt Ma


    Trong những năm 1950, quân đội của Chủ tịch Mao Trạch Đông đổ dồn vào vùng đất Tây Tạng, giết sư, đốt chùa và gây ra vô số tội ác đối với dân tộc này. Năm 1959, một cuộc nổi dậy của nhân dân Tây Tạng đã bùng nổ, và bị quân đội Trung Quốc nghiền nát. Để tìm con đường hòa bình cho nhân dân Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma cùng với 80.000 người dân đã phải vượt qua dãy Hymalaya để tị nạn tại Ấn Độ.


    Đức Đạt Lai Lạt Ma

    Kể từ đó, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nỗ lực để tìm sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong việc chấm dứt đàn áp bằng con đường hòa bình, kiên quyết không sử dụng bạo lực và loại bỏ hận thù. Việc từ chối sự thống trị tuyệt đối và các chính sách kìm hãm của ĐCSTQ ở Tây Tạng đã khiến Tây Tạng trở thành vấn đề nhức nhối trong nền chính trị Trung Quốc. Một cách hệ thống, ĐCSTQ đã thương mại hóa Tây Tạng, loại bỏ những gì về tự do tín ngưỡng, và có cả một lịch sử khủng bố tàn bạo bất cứ điều gì thuộc về tâm linh và nằm ngoài sự kiểm soát của Đảng. Trong nhiều năm qua, chính quyền Trung Quốc liên tục ngăn cản các cuộc gặp gỡ giữa Đức Đạt Lai Lạt Ma và giới chức Tây phương và Hoa Kỳ. Những căng thẳng trong quan hệ của ĐCSTQ với Đức Đạt Lai Lạt Ma, có lẽ, không còn là điều gì mới mẻ.


    Cuộc bức hại của chính quyền Trung Quốc trong nửa thế kỷ qua đã làm hơn một triệu người Tây Tạng bị thiệt mạng. Những người Tây Tạng đã phải dùng đến một hình thức cực đoan để phản đối Trung Quốc, đó chính là tự thiêu. (Ảnh chụp màn hình NTDTV) Và gần đây, Đức Đạt Lai Lạt Ma 79 tuổi đã tuyên bố rằng ngài có thể là vị Đạt Lai Lạt Ma cuối cùng. Ông Chu Duy Quần, người dẫn đầu ủy ban về các vấn đề sắc tộc và tín ngưỡng của Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc (CPPCC), đã trả lời các ký giả tại Bắc Kinh vào thứ Tư (11/3) rằng Đạt Lai Lạt Ma không cho biết liệu ngài sẽ tái sinh hay không. Ông Chu khẳng định, rốt cuộc chính phủ Trung Quốc mới có quyền quyết định: “Quyền quyết định về việc chuyển sinh của Đức Đạt Lai Lạt Ma, và về việc kết thúc hay tồn tại của dòng truyền thừa này, là nằm trong tay của chính phủ trung ương Trung Quốc.” Bình luận về phát biểu của ông Chu, thủ tướng chính phủ Tây Tạng lưu vong, ông Lobsang Sangay, so sánh: “Giống như Fidel Castro nói: ‘Tôi sẽ chọn Giáo hoàng tiếp theo và tất cả các tín đồ Công giáo đều phải tuân theo’.” Đã từ lâu, các tín đồ Tây Tạng cho rằng họ sẽ không bao giờ công nhận một người lãnh đạo do chính phủ Trung Quốc chỉ định, và họ vẫn tiếp tục tin rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ tái sinh.
    Cuộc bức hại của chính quyền Trung Quốc trong nửa thế kỷ qua đã làm hơn một triệu người Tây Tạng bị thiệt mạng.
    7. Nền tảng để duy trì đạo đức và ổn định của xã hội ngày xưa là gì? Câu chuyện người xưa kính Trời kính Phật tự câu thúc đạo đức, vua được coi là Thiên Tử, thay Trời hành đạo


    Đế Nghiêu đến vùng nông thôn

    Vào thời xưa, một lần vua Nghiêu tới vùng nông thôn và đã nhìn thấy hai người làm trái luật phát và đang bị áp giải tới nhà tù. Vua Nghiêu đi qua và hỏi, “Tại sao hai ngươi lại làm trái luật như vậy? Các ngươi đã phạm tội gì?” Họ đáp lại, “Hạn hán kéo dài đến nỗi mà chúng tôi chẳng còn gì để ăn, vì thế chúng tôi đã đến nhà của người khác và ăn trộm chút thức ăn.” Khi vua Nghiêu nghe thấy vậy liền nói với quân lính rằng: “Thả họ ra và nhốt ta lại đi!” Người lính đó đã bị sốc vì làm sao anh ta có thể nhốt một vị vua chứ? Vua Nghiêu nói: “Ta đã phạm phải hai tội lớn và hai người đó đều không có tội tình gì cả. Thứ nhất, ta đã không dạy bảo thần dân của mình được tốt, vì thế mà họ đã đánh cắp thức ăn của người khác. Thứ hai là ta không có đức hạnh cho nên chúng ta mới không có chút mưa nào như thế. Tất cả đều là lỗi của ta.

    ” Sự chân thành này của ông đã làm cảm động Trời đất và trời bắt đầu mưa. Khi vị vua này đã nhận ra rằng những thần dân của mình có sai sót và phạm tội, ông liền nhìn vào trong để tìm xem ông đã phạm lỗi ở đâu. Vì ông là một vị vua, việc giáo dục và quản lý họ sao cho tốt là trách nhiệm của ông, và ông phải chịu trách nhiệm cho những lỗi lầm của họ. Như Khổng Tử đã nói trong Luận Ngữ: “Khắp nơi có tội, tội là ở chính Trẫm. Bách tính có đổ tội thì đổ lên chính ta.”Thực ra họ vốn đã có đạo đức, nhưng chuẩn mực họ tự đặt ra cho mình là vô biên, vì vậy họ lại xét mình một lần nữa, chân thành ăn năn hối cải, tu đức tiến thiện. Khi một nhân được gieo thì một quả sẽ được sinh ra. Việc vua Nghiêu chân thành tự nhận lỗi về mình khiến cảm động Trời đất đã chứng minh điều này. Cũng giống như nông dân gieo hạt; gieo hạt đậu sẽ thu hoạch đậu, gieo hạt dưa sẽ thu hoạch dưa.

    8. Hệ lụy của việc bị cưỡng bức từ bỏ chính tín của người Trung Quốc:


    “Vô Thần luận cưỡng bức” và “vô thần luận tuyệt đối hóa” là một trong những hạch tâm trong văn hoá ĐCSTQ mang lại, mà thực chất là một công cụ của chính quyền để tẩy não nhân dân. Một con người có quyền tự do tín ngưỡng, đó là quyền căn bản mà bản thân Hiến Pháp Trung Quốc cũng phải công nhận. Sự tự do tín ngưỡng tạo nên sự hài hòa tốt đẹp cho một xã hội.




    Người Trung Quốc ngày nay đi chùa cầu phúc, mấy ai còn tin vào luật nhân quả nữa.

    ĐCSTQ có thể nhờ công cụ tẩy não đó mà tuỳ ý cải tưởng tư tưởng người ta, chính là đang cắt đứt Văn hoá truyền thống của dân tộc, dùng chủ nghĩa Mác-Lê để thay thế văn hoá nửa thần của Trung Quốc trong mấy nghìn năm, từ đó thuyết “Vô Thần luận tuyệt đối” làm chủ Trung Quốc. Kính Trời sợ Thần, thiện ác hữu báo đã biến thành mê tín phong kiến và vô tri ngu muội. Trên thực tế, ĐCSTQ qua việc cưỡng bức toàn bộ xã hội trở nên “vô thần”, cũng đã đồng thời phá hủy toàn bộ hệ thống đạo đức xã hội. Ngay cả từ lịch sử nhân loại mà nói, tín ngưỡng đối với Thần và tôn giáo đã duy trì đạo đức của nhân loại ở mức độ cao. Nếu không còn tin tưởng Thần, cũng chính là không còn ước thúc về đạo đức, thì vì để được mục đích mà có thể không từ thủ đoạn. Không tin vào ý nghĩa nhân sinh, không tin vào làm việc xấu sẽ có báo ứng, từ đó, làm việc gì cũng đều không tính đến hậu quả, việc xấu gì cũng dám làm.
    Những gì thấy ở người Trung Quốc ngày nay là việc mở miệng có thể nói dối, coi thường sinh mệnh, tùy ý giết người không sợ hậu quả, hành vi thấp kém, tình dục tràn lan, thực phẩm giả, thực phẩm độc, điều xấu nào cũng dám làm….


    Bằng cách tiêu diệt giai cấp địa chủ và giai cấp tư sản và bằng cách đàn áp một số lượng lớn những người dân tôn trọng luật pháp và kính ngưỡng thần thánh, ĐCSTQ đã dọn sạch con đường để cho chủ nghĩa cộng sản trở thành tôn giáo bao trùm toàn Trung Quốc, xóa bỏ chính tín và niềm tin vào Thần ở trong sâu thẳm người dân Trung Quốc, tạo ra những thế hệ người Trung Quốc hoàn toàn mất đi ước chế câu thúc của đạo đức và không việc xấu nào không dám làm.
    Như vậy mà nói, người dân Trung Quốc dưới sự cai trị của ĐCSTQ là đáng tội hay đáng thương?


    Vì sao người Trung Quốc trở nên xấu xí” để xem tầng lớp trí thức trong xã hội đã bị ĐCSTQ nhào nặn thành ra thế nào mà cảm thấy quá xót xa…

    VietFreeFun



  5. #5
    Join Date
    Nov 2010
    Bài Viết
    24,512
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 70 Lần
    Trong 70 Bài Viết
    Phần 5



    Con dao đồ tể của Mao Trạch Đông đã được mài sẵn từ lâu, “dụ rắn ra khỏi hang” chính là để lừa tầng lớp trí thức rơi vào cái bẫy này.

    Phần 5: Bi kịch của xã hội Trung Quốc: Kẻ giàu thiếu tầm nhìn, trí thức thiếu lương tâmHiền tài là nguyên khí quốc gia”, đó là câu nói nổi tiếng của tiến sĩ Thân Nhân Trung (1419-1499) dưới triều Lê, khiến ai ai cũng hiểu được vị trí rường cột của lớp trí thức đối với vận mệnh của đất nước. Tư tưởng và phong thái của họ ảnh hưởng trực tiếp đến dân chúng, nếu họ kiên cường sáng suốt thì dân tộc cũng vậy, và ngược lại. Vì lẽ đó từ xưa đến nay, các quốc gia đều coi trọng hiền tài, khơi gợi bồi dưỡng trí thức, trừ ĐCSTQ là luôn mưu tính đàn áp và khủng bố họ. Đó hẳn là một trong số các lý do đã nhào nặn nên ‘người Trung Quốc xấu xí’ như hôm nay. 1. Trí thức mất lương tri, xã hội trở nên như thế nào? Lẽ thường, ở bất kỳ thời đại hay quốc gia nào thì trí thức đều là lớp người tiên tiến dẫn dắt xã hội. Nhưng tri thức Trung Quốc ngày nay xuất phát từ một nền giáo dục có vấn đề bởi chính những người trí thức bị khống chế nói trên nên họ không thể phát huy được tác dụng này. Những vấn đề liên quan đến phần tử tri thức có rất nhiều, nhưng “thiếu lương tri” là vấn đề chủ yếu.

    Phần tử trí thức Trung Quốc

    “Lương tri” là gì? Đó là ý thức mạnh mẽ về trách nhiệm xã hội và bảo vệ đạo đức; là dũng khí sống vì chân lý; là kiên quyết không vì những cái lợi trước mắt mà bị thế lực đen tối mua chuộc.

    Một người dân bình thường có thể “lương tri” còn yếu; nhưng phần tử tri thức tuyệt đối không thể thiếu “lương tri”! Một dân tộc mà phần tử tri thức thiếu lương tri thì dân tộc đó không có hy vọng gì!

    Thực ra Trung Quốc ngày nay vẫn còn những phần tử tri thức biết giữ “lương tri”, nhưng số người này đặt trong tập đoàn khổng lồ chỉ có thể là con số “vô cùng nhỏ nhoi”. Trung Quốc có bao nhiêu giáo sư đại học “luồn cúi quyền lực” hoặc “tham lợi bán điểm”? Có bao nhiêu người làm khoa học nhưng là để trà trộn ăn cắp bản quyền tại các phòng thí nghiệm trên thế giới? Có bao nhiêu tên đổ tể khoác áo bác sỹ đang mổ cướp hàng triệu người sống? Có bao nhiêu người làm nghề chữ nghĩa vì chút tiền mà đưa tin giả, tô vẽ hỗ trợ bọn tham quan? Có bao nhiêu “nhà văn” đánh bóng tiểu sử cho những nhân vật bại hoại của quốc gia? Có bao nhiêu “nhân sĩ nổi tiếng” vì áo quan đung đưa trước mắt mà vứt bỏ nguyên tắc? Có bao nhiêu thầy thuốc làm nghề “môi giới dược phẩm”? Có bao nhiêu thầy cô tìm mọi cách thu tiền trong túi học trò? Có bao nhiêu “nhà kinh tế học” vì “tiền thưởng” của bọn tài phiệt mà đứng trên danh nghĩa chức vị uy quyền nói ra những lời lẽ hoang đường? Có bao nhiêu tên lưu manh văn hóa biến bọn trùm xã hội đen thành doanh nhân? Có bao nhiêu quan chức tham nhũng, có bồ nhí, tham gia vào ức hiếp dân lành, chống lưng cho nạn mại dâm ma túy trong xã hội ngày nay? Thực sự không thể kể hết!


    Thực ra Trung Quốc ngày nay vẫn còn những phần tử tri thức biết giữ “lương tri”, nhưng số người này đặt trong tập đoàn khổng lồ chỉ có thể là con số “vô cùng nhỏ nhoi”.

    2. Người xưa trọng kẻ sĩ, còn ĐCSTQ đã làm gì?
    Đất nước Trung Hoa kinh qua 5000 năm lịch sử, mỗi triều đại một triều tinh anh đều kế thừa, phát triển và tích lũy lại những kiến thức văn minh cho nhân loại. Mỗi triều đại huy hoàng đều là nhờ vào các vị hoàng đế tài giỏi sáng suốt trọng vọng những kẻ sĩ. Trong xã hội truyền thống Trung Quốc có 4 giai tầng là “Sĩ, Nông, Công Thương”. Trong đó “” được gọi tắt là những phần tử trí thức, họ là những người chịu trách nhiệm gìn giữ tinh hoa dân tộc, gìn giữ truyền thống đạo đức, làm gương cho người người học theo. Vì thế, họ, ở một góc độ nào đó, còn có tiếng nói hơn cả người thống trị. Trong tác phẩm nổi tiếng ‘Tam Quốc Diễn Nghĩa’ của La Quán Trung, Lưu Bị vì mến mộ tài đức của Khổng Minh mà đích thân ba lần đến lều tranh mời bằng được Khổng Minh làm quân sư cho nước Thục. Các bậc quân vương mến mộ kẻ sĩ, những ví dụ như thế không hiếm trong lịch sử.

    Lưu Bị 3 lần đến lều cỏ mời Khổng Minh

    Tuy nhiên, ĐCSTQ lại coi những kẻ sĩ như cái gai trong mắt, muốn phải nhổ cho bằng được. Đảng cũng hiểu rằng giới trí thức là những tinh anh của xã hội, đại diện cho quan niệm đạo đức truyền thống và có sức ảnh hưởng đến mạnh quần chúng. Do vậy ĐCSTQ một mặt tiêu diệt những trí thức có nguy cơ cho sự cai trị của nó, một mặt tẩy não những ai có thể và rồi dùng họ làm trung gian cải tạo tư tưởng của những người khác. Ngay khi vừa mới lên năm quyền vào năm 1949, ĐCSTQ đã thể hiện quyết tâm phải cải tạo tư tưởng của phần tử trí thức để phục vụ cho mục tiêu quyền lực độc tài của mình. Cho dù những người trí thức là ai, thì Mao Trạch Đông không bao giờ ưa họ. Ông ta đã sớm công kích trí thức, bóp mép hình ảnh trí thức trong dân chúng. Ông ta nói: “Họ [những người trí thức] phải nhận ra sự thực rằng trên thực tế nhiều người được gọi là trí thức, nói một cách tương đối, hết sức ngu dốt và những người công nhân và nông dân đôi khi còn biết nhiều hơn họ.” “So với công nhân và nông dân, thì những người trí thức chưa qua cải tạo là không sạch sẽ, và theo phân tích trên đây, thì công nhân và nông dân là những người sạch sẽ nhất, mặc dù tay họ bẩn và chân họ dính phân bò…”.

    Mao Trạch Đông quyết tâm hủy hoại tầng lớp trí thức.

    3. Lương tri toàn dân bắt đầu bị hủy diệt kể từ thời điểm nào?
    Cũng giống như các cuộc đàn áp trước đó, cuộc đàn áp trí thức của ĐCSTQ đã bắt đầu bằng nhiều hình thức buộc tội, từ việc phê bình Vũ Huấn năm 1951 vì đã “mở trường dạy học bằng tiền ăn xin” (hành khất biện học) đến việc đích thân Mao Trạch Đông đả kích kết tội nhà văn Hồ Phong là phản cách mạng năm 1955. Ban đầu, giới trí thức chưa bị liệt vào giai cấp phản động, nhưng đến năm 1957, sau khi một số tôn giáo chính đã đầu hàng sau cuộc vận động “mặt trận thống nhất”, ĐCSTQ đã có thể tập trung lực lượng vào giới trí thức. Cuộc vận động “chống cánh hữu” vì vậy đã được phát động.


    Phong trào phản hữu khiến gần một nửa trí thức tinh hoa Trung Quốc bị xem là cánh hữu

    3.1 Chiến thuật hiểm độc khó tưởng tượng “dụ rắn ra khỏi hang” của ĐCSTQ
    Với chiến thuật “dụ rắn ra khỏi hang”, vào cuối tháng 2 năm 1957, ĐCSTQ tuyên bố “trăm hoa đua nở, trăm phái tranh luận”, ĐCSTQ đã kêu gọi những người trí thức nói lên các đề xuất và phê bình của mình với Đảng, và hứa là sẽ không trả thù. Những người trí thức vốn đã không hài lòng với ĐCSTQ trong một thời gian dài vì sự kiểm soát của Đảng trên mọi lĩnh vực mặc dù Đảng không phải là chuyên gia trong các lĩnh vực đó, và vì việc Đảng giết hại dân thường vô tội trong các cuộc vận động “trấn áp phản cách mạng” trong thời kỳ 1950-1953 và “tiêu diệt phản cách mạng” trong thời kỳ 1955-1957. Họ đã tưởng rằng ĐCSTQ cuối cùng đã trở nên cởi mở. Vì vậy họ đã bắt đầu nói ra những cảm nghĩ thực của mình và sự phê bình của họ ngày càng mạnh lên. Nhiều năm sau đó, vẫn có nhiều người tin rằng Mao Trạch Đông chỉ bắt đầu tấn công những người trí thức sau khi không thể chịu đựng được những lời phê bình quá gay gắt của họ. Tuy nhiên, sự thực hóa ra lại không phải như vậy. Con dao đồ tể đã được mài sẵn từ lâu, “dụ rắn ra khỏi hang” chính là để lừa họ rơi vào cái bẫy này.


    Cuộc vận động “chống cánh hữu”

    Ngày 15 tháng 5 năm 1957, Mao Trạch Đông viết một bài có nhan đề “Sự tình đang bắt đầu thay đổi” và cho lưu hành trong nội bộ các quan chức cao cấp của ĐCSTQ. Bài đó viết rằng, “Trong những ngày gần đây những kẻ cánh hữu… đã cho thấy chúng kiên quyết nhất và điên cuồng nhất. Những kẻ cánh hữu, là những kẻ chống cộng, đang liều lĩnh cố gắng khuấy động lên một cơn bão trên cấp 7 ở Trung Quốc… và quyết tâm tiêu diệt Đảng Cộng sản.” Sau đó, những quan chức đã thờ ơ với chiến dịch “trăm hoa đua nở, trăm phái tranh luận” đột nhiên trở nên hăng hái và “sốt sắng”. Trong hồi ký của mình “Quá khứ không biến mất như làn khói”, con gái của Chương Bá Quân đã kể lại: Lý Duy Hán, Bộ trưởng Bộ Công tác Mặt trận Thống nhất, đã đích thân gọi Chương Bá Quân để mời ông đến dự một cuộc họp chỉnh đốn để bày tỏ quan điểm của ông về ĐCSTQ. Chương Bá Quân được sắp xếp ngồi trên hàng ghế đầu. Không biết rằng đó là một cái bẫy, Chương Bá Quân đã nói rõ những phê bình của mình về ĐCSTQ. Trong suốt buổi họp, “Lý Duy Hán có vẻ thoải mái. Chương Bá Quân có thể đã tưởng rằng Lý Duy Hán đồng ý với những điều mình nói. Ông đã không biết rằng thực ra Lý Duy Hán vui mừng khi thấy con mồi của mình đang sa vào bẫy.” Sau cuộc họp, Chương Bá Quân bị coi là kẻ cánh hữu số một ở Trung Quốc. Hàng loạt những buổi họp “dụ rắn” như với Chương Bá Quân đã diễn trong năm 1957, các tác giả sau đó đều được đưa vào danh sách những phần tử cánh hữu cần bị thanh trừ. Có hơn 550,000 những “kẻ cánh hữu” như vậy trên toàn quốc.

    Chương Bá Quân bị sập bẫy, bị coi là kẻ cánh hữu số một ở Trung Quốc

    Song, tất cả chỉ là những đề xuất mang tính xây dựng!
    Thực ra, khi người ta đọc lại các ý kiến đề xuất với ĐCSTQ, thì không có một ai trong số những người bị buộc tội là “cánh hữu” đề xuất rằng Đảng Cộng sản nên bị lật đổ; tất cả những gì mà họ đề xuất là những lời phê bình mang tính xây dựng. Vậy mà chính vì những đề xuất này mà hàng chục nghìn người đã bị mất tự do, và hàng triệu gia đình đã phải chịu thống khổ. Tiếp theo là các cuộc vận động khác nữa như “giãi bày tâm sự với Đảng”, để moi ra những người có chủ trương cứng rắn, chiến dịch mới “Tân Tam Phản”, nhằm đẩy những người trí thức về nông thôn để lao động khổ sai, và bắt những người cánh hữu đã bị sót trong lần đầu.


    Bắt bớ tầng lớp trí thức trong cuộc vận động chống cánh hữu

    Bất cứ ai bất đồng ý kiến với lãnh đạo ở nơi làm việc, đặc biệt là với các bí thư chi bộ đảng, sẽ bị dán nhãn là chống đảng. Đảng sẽ thường xuyên phê phán họ, hoặc đưa họ tới các trại lao động tập trung để bắt buộc cải tạo. Đôi khi đảng còn di chuyển toàn bộ gia đình họ về nông thôn, và cấm không cho con cái họ được học đại học hoặc đi bộ đội. Họ cũng không thể xin việc ở thành phố hoặc thị xã. Những gia đình này bị mất đi bảo đảm về công ăn việc làm và các chế độ phúc lợi y tế. Họ đã trở nên không bằng nông dân và bị xã hội ruồng bỏ thậm chí không bằng cả những công dân hạng hai.


    Xử tử những phần tử được liệt vào phản động, gián điệp, cánh hữu.

    3.2 Bị bịa đặt tội danh và ngụy tạo dân ý, các trí thức Trung Quốc đã bị đẩy vào tình thế “chết hoặc chịu nhục” Một trong những thủ đoạn mà ĐCSTQ thường xuyên sử dụng trong mỗi cuộc vận động là đẩy các ‘đối tượng’ vào tình thế đối lập với đại đa số dân chúng, khiến họ bị cô lập và cảm giác trùng trùng vây ráp. Một mặt ĐCSTQ sử dụng tuyên truyền một chiều, bóp méo sự thật và bịa đặt tội danh cho những người hay nhóm người mà Đảng muốn loại bỏ, một mặt lôi kéo quần chúng đứng về phía Đảng, bảo vệ quyền lợi cho Đảng và kích động họ sử dụng bất cứ hình thức nào để tiêu diệt một cách không thương tiếc những “phản động” mà Đảng đã chụp mũ. Đảng cũng thường xuyên ngụy tạo dân ý, lợi dụng quyền lực, phát động tấn công tâm lý. Trong cuộc vận động chống cánh hữu này, trên báo chí đều tràn ngập những bài viết với tiêu đề: “Giai cấp công nhân đã lên tiếng”, “Các đảng phái dân chủ toàn quốc đều đứng về phía Đảng Cộng sản cùng trừng phạt cánh hữu”,
    Chỉ huy và chiến sĩ toàn quân phẫn nộ lên án”, “Cánh hữu thiểu số đã rơi vào trùng trùng bao vây của quần chúng dân chủ”, “Cánh hữu chỉ là một nhóm nhỏ cặn bã, tuyệt đại đa số trí thức đồng tâm đồng lòng với đảng”… Cứ như vậy, Đảng tẩy não toàn dân và lôi kéo tất cả vào cuộc để cô lập rồi sử dụng bạo lực lên hết nhóm người này đến nhóm người khác.

    Đấu tố, làm nhục trí thức trong cuộc vận động chống cánh hữu

    Truyền thống Trung Quốc là “Học giả thà chết chứ không chịu nhục” (sĩ khả sát bất khả nhục). ĐCSTQ có một biệt tài là có khả năng làm nhục những người trí thức bằng cách từ chối quyền được sống của họ và thậm chí kết tội cả gia đình họ trừ khi họ chịu nhục. Nhiều trí thức đã đầu hàng. Trong suốt quá trình, một số đã kể tội người khác để cứu mình, làm tan nát trái tim của bao nhiêu người. Những người không chịu nhục đã bị giết chết để làm gương đe dọa các trí thức khác. Tầng lớp học giả truyền thống, những người mẫu mực của đạo đức xã hội, vì thế mà đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Mao Trạch Đông đã nói một cách không che dấu: “Tần Thủy Hoàng đáng kể gì? Ông ta chỉ giết 46 chục nho sĩ, còn chúng ta đã giết cả 46 ngàn thằng trí thức hủ nho ấy chứ. Trong cuộc trấn áp phản cách mạng, chẳng phải chúng ta đã giết cả những thằng trí thức phản cách mạng hay sao? Tôi đã tranh luận với những người theo phái dân chủ buộc tội chúng ta là hành động như Tần Thủy Hoàng. Tôi nói rằng họ đã nhầm. Chúng ta còn vượt xa ông ta đến cả trăm lần ấy chứ.” Đúng vậy, Mao không chỉ đã giết rất nhiều trí thức. Nghiêm trọng hơn là, ông ta đã hủy diệt cả tâm trí và lương tâm của họ. [I]

    [/
    I]
    Mao không chỉ đã giết rất nhiều trí thức. Nghiêm trọng hơn là, ông ta đã hủy diệt cả tâm trí và lương tâm của họ.

    4. Đảo lộn tốt xấu, ĐCSTQ đã bắt những người trí thức phải bị giáo dục lại bởi nông dân nghèo như thế nào? Nhân loại tiến bộ được là nhờ tích lũy kiến thức, nhưng, dưới thời ĐCSTQ, đạt được kiến thức lại bị coi là xấu. Những người trí thức bị xếp vào loại hôi thối thứ chín – tệ nhất trên bậc thang từ một đến chín.
    ĐCSTQ bảo những người trí thức phải học hỏi những người mù chữ, và cần phải bị giáo dục lại bởi những người nông dân nghèo để được cải tạo và bắt đầu một cuộc sống mới. Trong việc tái giáo dục những người trí thức, các giáo sư của trường Đại học Thanh Hoa, một trường đại học danh tiếng của Trung Quốc, bị đi đày đến Đảo Như Châu ở Nam Xương, tỉnh Giang Tây. Bệnh sán máng là một bệnh rất phổ biến ở khu vực này, và thậm chí một trại lao động cải tạo trước kia ở đây cũng đã phải rời đi nơi khác. Ngay sau khi tiếp xúc với nước sông, những vị giáo sư này đã bị nhiễm sán và bị xơ gan, và bị mất khả năng sống và làm việc. 5. Mọi thứ đều có nguyên do, mọi thứ đều có lịch sử: Lịch sử cai trị của ĐCSTQ luôn gắn liền với đàn áp trí thức Xuyên suốt quá trình tồn tại của ĐCSTQ là việc sử dụng bạo lực không ngừng lên những người trí thức, bất kể đó là những sinh viên trẻ tuổi hay những nhà trí thức kỳ cựu đang đóng góp tích cực cho thành tựu xã hội. Nổi đình đám gần đây nhất là sự kiện đàn áp sinh viên biểu tình đòi dân chủ tại quảng trường Thiên An Môn vào tháng 6 năm 1989 và cuộc đàn áp các học viên Pháp Luân Công từ tháng 7 năm 1999 đến nay. Song hành cùng những chiến dịch đàn áp đó luôn là phong toả thông tin Internet, cấm đoán tự do ngôn luận, cũng chính là bịt mắt, bịt tai, bịt miệng, trói tay, trói chân, toàn bộ lương tri của thành phần trí thức.

    Người chết tại quảng trường Thiên An Môn sau vụ thảm sát

    5.1 Nghiền nát sinh viên tại quảng trường Thiên An Môn, giấc mơ dân chủ đã tiêu tan như thế nào? Trong sự kiện Thiên An Môn năm 1989, mặc dù ĐCSTQ đã hoàn toàn có thể giải quyết bằng một giải pháp ôn hòa, và thực tế Tổng bí thư lúc bấy giờ, ông Triệu Tử Dương đã gặp các sinh viên để đối thoại. Tuy nhiên, một mình ông đã không đi ngược lại được với bản tính tà ác của ĐCSTQ, lệnh đàn áp đã được ban ra. Đặng Tiểu Bình nói “Chúng ta sẽ giết 200 nghìn người để đổi lấy 20 năm ổn định”, tất nhiên, đó không phải ổn định cho nhân dân, mà là ổn định cho đảng. Ngày 2/6/1989, ông Đặng Tiểu Bình nói, “Tôi đề nghị để cho quân đội khẩn cấp thực hiện kế hoạch giải tỏa quảng trường vào tối nay và kết thúc trong vòng hai ngày.”


    Người chết tại quảng trường Thiên An Môn sau vụ thảm sát

    Và như vậy, binh lính cùng với xe tăng và súng đạn đã được điều động đến. Rạng sáng ngày 04 tháng 06 năm 1989 đánh dấu thêm một vết đen với sự bạo tàn của ĐCSTQ: Tiếng súng nổ… Nhiều người trúng đạn đổ vật xuống trong vũng máu, tiếng xe tăng gầm lên san bằng tất cả. Quảng trường Thiên An Môn ngập trong máu, hàng ngàn sinh viên đã bị giết hại. Trước đó, những người lính bị điều động tham gia sự kiện này được thông báo rằng “Bắc Kinh có một cuộc bạo động, nhiều người lính đã bị bắt cóc và giết chết. Quảng trường Thiên An Môn hiện đang bị chiếm giữ bởi những kẻ bạo loạn phản cách mạng và cần phải bị tiêu diệt.”

    Sau này những người lính mới hiểu rằng đấy chỉ là thông tin bịa đặt, nhiều người vì điều này mà cho đến ngày nay vẫn còn bị dằn vặt trong nước mắt. 5.2 Vu khống những người học viên Pháp Luân Công như những kẻ tâm thần rồi tiến hành đàn áp Khác biệt với những môn khí công bình thường khác, trong số các học viên Pháp Luân Công có rất nhiều người thuộc tầng lớp trí thức, có học vị Tiến sĩ, thạc sĩ, kỹ sư, chủ doanh nghiệp, quan chức cao cấp, giáo viên… Tuy nhiên trong cuộc đàn áp Pháp Luân Công, ĐCSTQ không quan tâm về vị trí xã hội của các học viên Pháp Luân Công, không đếm xỉa tới những đóng góp mà một học viên có thể tạo dựng cho xã hội hay người đó có năng lực thế nào, hoặc những tác động tiêu cực sẽ xảy ra ở trong nước hay quốc tế. Cuộc bức hại đã được tiến hành một cách hết sức tàn nhẫn, tiếp tục phá hủy một bộ phận lớn thành phần tinh túy, và là hiện thân của những tiêu chuẩn đạo đức, cuộc bức hại đã giáng một đòn mạnh vào toàn thể xã hội và người dân Trung Quốc.

    [I]Người tu Pháp Luân Công tưởng niệm những học viên vì tu luyện Pháp Luân Công mà bị ĐCSTQ giết hại[/I

    5.3 Phong toả Internet, trói buộc tự do ngôn luận: lương tri người trí thức bị giam cầm Xã hội Trung Quốc là một xã hội kiểm duyệt thông tin tuyệt đối: từ website, blog cho đến thư điện tử cá nhân, chat cá nhân, cuộc gọi, tin nhắn v.v… đều không nằm ngoài sự kiểm duyệt kiểm soát của chính quyền. Nếu như với một người nông dân, ngửa mặt lên là bầu trời và cúi xuống là ruộng đồng, thì với người trí thức hiện đại, đặc tính của họ là làm việc cùng chiếc máy tính, và trao đổi thông tin nghề nghiệp qua các phương tiện điện tử như email, chát, blog, diễn đàn v.v… Khi những phương tiện này bị kiểm duyệt, ngăn chặn cấm đoán, thì cũng bằng như thân xác họ được tự do nhưng lương tri họ bị giam cầm. Ở Trung Quốc, chính quyền không cho phép trang web tìm kiếm toàn cầu là Google và mạng xã hội Facebook hoạt động. Những phần mềm tìm kiếm nội địa như baidu, weibo…thì là hiện trạng: chính quyền cho “tìm được” gì thì người dân “tìm được” nội dung ấy, hay mạng chát QQ cũng bị kiểm soát tuyệt đối. Đương nhiên các website quốc tế có tư tưởng tự do, dân chủ như BBC, RFA v.v… bị chặn hoàn toàn. Các website ủng hộ dân oan, tố cáo cường quyền, hay ủng hộ các cộng đồng tín ngưỡng đang bị đàn áp như Tây Tạng, Duy Ngô Nhĩ …cũng có thể cùng chung một số phận.


    Ngày 23/3/2010, người dân đứng tại trụ sở chính của Google ở Trung Quốc biểu thị không muốn Google rời đi.

    Tường lửa nổi tiếng của Trung Quốc mang tên Vạn Lý Hỏa Thành, chỉ với cái tên thôi cũng đủ hình dung mức độ ngăn chặn cấm đoán. Tinh thần bị giam cầm, thể xác cũng sẽ bị đưa vào quản thúc nếu vẫn dám lên tiếng và bị lộ danh tính: Những người trí thức dám đưa tin trung thực chịu số phận bị bắt và giam cầm, kể cả các luật sư nổi tiếng trên trường quốc tế (như Luật Sư Cao Trí Thịnh) cũng bị đối xử như vậy. Shi Tao- nhà báo, nhà thơ, nhà văn đã bị kết án 10 năm tù giam vì đã đưa thông tin trung thực về vụ thảm sát Thiên An Môn cho một trang web dân chủ Trung Quốc ở nước ngoài. Sau khi quốc hội Mỹ phát hiện ra rằng Yahoo Trung Quốc đã tạo điều kiện cho ĐCSTQ bắt Shi Tao bằng việc cung cấp cho ĐCSTQ thông tin cá nhân của ông, Yahoo đã bị quở trách nặng nề bởi Quốc Hội Mỹ, bị gia đình ông Shi khởi kiện và phải hứa cải cách hoạt động của mình.

    Như một bức tranh đen trắng đối lập, ngay sau khi ông Shi bị ĐCSTQ bắt giữ, ông đã giành được hai giải thưởng báo chí quốc tế lớn: Giải thưởng Tự Do Báo Chí Quốc Tế của Ủy ban Bảo vệ Nhà báo, và giải thưởng Cây Bút Vàng Tự Do của Hiệp Hội Báo Chí Toàn Cầu.

    Shi Tao- nhà báo, nhà thơ, nhà văn đã bị kết án 10 năm tù giam vì đã đưa thông tin trung thực về vụ thảm sát Thiên An Môn cho một trang web dân chủ Trung Quốc ở nước ngoài.

    6. Đâu là một trong những nguyên nhân chính tạo ra bi kịch cho xã hội ngày nay? Đàn áp trí thức, ĐCSTQ phá hủy văn minh tinh thần và vật chất. Các con số về sự phát triển kinh tế thời nay cũng như sự hiện diện của Trung Quốc trong nhiều lĩnh vực khác nhau khiến nhiều người tin rằng Trung Quốc là một cường quốc đang trỗi dậy. Tuy nhiên, nếu tìm hiểu thêm một chút, người ta sẽ thực sự bàng hoàng vì những gì đang diễn ra ở đó: xã hội khủng hoảng niềm tin và đạo đức băng hoại, nhân quyền tại đó không đáng giá hai xu. Điều này là hệ quả tất yếu sau các cuộc vận động chính trị liên miên mà ĐCSTQ đã tiến hành trong những năm qua, đặc biệt là sự đàn áp đối với giới trí thức.

    Trí thức trở thành những cái “ốc vít” cho ĐCSTQ, cùng hùa theo cái ác? Sau bao cuộc đàn áp, giới trí thức bị tổn hại nặng nề, người nào chết đã chết, còn lại nhiều người nào bị tổn thương thì tê liệt trong cái trường tà ác đen ngòm của ĐCSTQ, nhiều người vì sự sống còn của bản thân và gia đình mình mà quay sang chịu “tẩy não” hoặc giả câm giả điếc. Số lượng người còn đủ dũng khí đứng lên theo đúng nghĩa một kẻ sĩ còn lại hết sức ít ỏi. Những người thỏa hiệp với ĐCSTQ, chịu tẩy não theo những tà thuyết và dần dần trở thành công cụ đắc lực trong tay Đảng, thậm chí cùng hủ bại với Đảng. Họ trợ giúp ĐCSTQ tuyên truyền những tư tưởng biến dị, sản xuất ra những tác phẩm biến dị đầy tính bạo lực kích động đấu tranh, bóp méo lịch sử và văn hóa truyền thống, rồi đưa vào nhồi nhét tẩy não toàn dân, từ già đến trẻ.

    Từng thế hệ một, dân chúng trở thành những người ngoan ngoãn khuất phục dưới sự cai trị của ĐCSTQ, nghĩ và làm theo cách mà Đảng muốn, và lại tiếp tục đầu độc những lớp người kế tiếp. Bản tính của con người vốn là lương thiện, nhưng ĐCSTQ khiến người ta tin rằng đấu tranh là điều tất yếu, và là vĩ đại vinh quang. Không chỉ đấu với quân địch như trên chiến trường xưa, mà thực tế họ đã đấu với cả cha mẹ anh em của mình nếu như ĐCSTQ muốn điều ấy. Những ví dụ như thế thật sự không hiếm. Trong cuộc vận động chống cánh hữu, sau khi Chương Bá Quân bị đánh hạ xuống thành cánh hữu, con trai, em gái của ông đều phát biểu trên báo lên tiếng phê phán ông. Trữ An Bình sau khi bị đích thân Mao Trạch Đông chỉ định là cánh hữu, con trai ông đã giáo huấn cha mình như sau: “Tôi xin nói với ngài Trữ An Bình một câu trung nghĩa: Hy vọng ông sớm tỉnh ngộ quay đầu vào bờ, hãy chăm chú lắng nghe ý kiến của nhân dân đào sâu nguồn cội tư tưởng phản Chủ nghĩa xã hội, triệt để đối đãi với vấn đề của bản thân mình, để tránh cự tuyệt với nhân dân”.

    Chương Bá Quân bị sập bẫy và bị liệt vào cánh hữu

    Ngày nay, thứ trưởng bộ Y Tế Trung Quốc Hoàng Khiết Phu, không những không thể có được tiêu chuẩn đạo đức ngành Y là “Lương Y phải như từ mẫu”, mà còn được người Trung Quốc mệnh danh là “đồ tể”, bởi tội ác lớn như núi bao xung quanh việc chính quyền mổ cướp tạng sống của hơn 2 triệu học viên Pháp Luân Công trong suốt 16 năm ròng.


    Ông Hoàng Khiết Phu và tội ác mổ cướp nội tạng học viên Pháp Luân Công.

    Những lãnh đạo cao nhất của cơ quan ngôn luận lớn nhất -Đài Truyền Hình TW Trung Quốc (CCTV) – như Lý Đông Sinh, Chu Vĩnh Khang, Lệnh Kế Hoạch bị vào nhà giam trong thời gian gần đây khi những bê bối liên quan đến CCTV liên tục bị đưa ra ánh sáng. 7. Xã hội truyền thống có thế chăng? Báu vật của người xưa là gì? Hiền nhân thường thường là nói về những người có tài năng cứu nhân độ thế, đức hạnh cao thượng. Bất luận là Đông Tây kim cổ, mọi thời phồn vinh và hùng cường của bất kỳ dân tộc nào đều không tách khỏi coi trọng trí thức: người đức độ và có tài. Đây là chân lý bất di bất dịch của nhân loại. Cổ nhân luôn luôn lấy tiêu chuẩn chọn người gồm nhiều mặt cả đức lẫn tài, và không hề coi đức với tài như nhau, mà là vô cùng coi trọng vị trí thống soái và tác dụng chủ đạo của đức đối với tài, đặt đức lên trên cùng. “Tài giả đức chi tư, đức giả tài chi soái” (Người có tài chỉ là phụ, người có đức mới quan trọng). Tư Mã Quang thời Bắc Tống căn cứ theo quan hệ giữa đức với tài đã chia người ta ra làm 4 loại:

    Đức tài toàn vẹn là Thánh nhân, đức tài đều kém là người ngu, đức trên tài là quân tử, tài hơn đức là tiểu nhân. Khi dùng người, tốt nhất là lựa chọn Thánh nhân, sau đó là quân tử. Có tài mà vô đức là loại người nguy hiểm nhất, so với loại người không tài không đức thì còn tồi tệ hơn.


    Nhân sĩ thời xưa

    Khang Hy thời nhà Thanh dùng người tài thì có một tiêu chuẩn nhất quán như sau: Quốc gia dùng người, cần phải lấy đức làm căn bản, tài nghệ chỉ là thứ yếu”. “Tài đức đều cao thì tốt, nếu có tài mà kém đức, thì cũng không bằng có đức mà không có tài”. Câu chuyện về bảo vật quốc gia nước Tề


    Thời kỳ Chiến quốc có một câu chuyện rằng: Ngụy Huệ Vương hỏi Tề Uy Vương: “Ông là Vương nước Tề, chắc hẳn là thu thập được nhiều bảo vật?”
    Tề Uy Vương đáp: “Không có”. Ngụy Huệ Vương nói: “Nước nhỏ như nước tôi, cũng đều có tàng trữ mấy viên minh châu lớn đường kính cả tấc, loại trân châu ấy phát ra ánh sáng có thể chiếu rọi 12 chiếc xe. Ông là vua nước lớn như thế, tại sao một chút bảo vật cũng chẳng có?”. Tề Uy Vương nói: Châu báu quý nhất của nước tôi là người hiền tài, bảo vật này so với bảo vật mà ông nói thì không như nhau. Tôi có một bề tôi tên là Đàn Tử, tôi phái ông ta trấn thủ Cao Đường, người nước Triệu ở phương Bắc không dám xâm phạm. Có một bề tôi khác tên là Kiềm Phu, tôi phái ông ta đóng ở Từ Châu, có thể quản lý hơn 7000 hộ dân từ bốn phương trời lui tới. Tôi còn có một bề tôi tên là Loại Thủ, dưới sự quản lý của ông ta trăm họ an cư lạc nghiệp, đồ vật đánh rơi trên đường không ai nhặt lấy, đêm không cần phải khóa cửa. Châu báu như thế, quang minh chói lọi nghìn dặm, chứ đâu chỉ có 12 cỗ xe?”. Tề Uy Vương như vậy là đã nói ra nguyên nhân tại sao nước Tề giàu mạnh. Gia Cát Lượng Khổng Minh dùng đức hạnh để mang lợi ích cho trăm họ


    Gia Cát Lượng bản thân là một nhân tài, ông vì kế hoạch thống nhất Trung Quốc mà đã “Cúc cung tận tụy, đến chết không thôi”. Ông ở trong “Xuất sư biểu” trao cho Hậu Chủ có viết: “Nhà thần có 800 cây dâu tằm, áo cơm con cháu có thể tự lo được. Ngày thần chết, không muốn trong nhà có dư dả lụa là gấm vóc hay tiền của lợi tức, cũng giúp được cho bệ hạ”. Người mà ông bổ nhiệm cũng đều thanh liêm biết tự giữ mình. Tương Uyển“Tính cách cao thượng khiêm tốn, trong nhà không tích cóp tài sản gì. Con cái ông đều làm ăn một cách bình dân, không khác gì trăm họ”. Khương Duy cũng là “Nhà cửa thanh đạm, không có tài sản gì đáng kể, ra vào cung chẳng có xe đưa đón”. Sau khi Khổng Minh qua đời, vùng đất Thục (Tứ Xuyên ngày nay) toàn dân quấn khăn tang. Khiến hình thành phong tục là người Thục (Tứ Xuyên) quấn khăn trắng như thế.

    Khổng Minh

    Làm việc chính sự có dựa trên đức hạnh hay không, nó quan hệ đến việc một người phải chăng có thể dùng quyền hạn trong tay mà mưu lợi cho trăm họ, quan hệ đến tác phong và uy tín của nhân dân và quan lại, và sự an nguy của chính quyền. Từ xưa đến nay, quan lại có đức hạnh cao, phẩm cách tốt là cơ sở của một nền chính trị liêm khiết sáng sủa, họ vào bất kỳ lúc nào cũng có thể đặt lợi ích của trăm họ lên hàng đầu, đó cũng là giá trị chân chính của việc chọn người tài đức. Ngược lại, chỉ chọn dùng kẻ thân thích thì có thể làm cho đất nước và dân tộc suy yếu nguy vong.

    Bởi vì nó lấy lợi ích cá nhân làm căn bản, khiến cho lòng ích kỷ ham muốn cá nhân bành trướng, những kẻ kém cỏi hoành hành, vô cùng tai hại. Những loạn thần tặc tử xưa nay, phần nhiều không phải là vì kém tài mà là vì kém đức. Vô đức mới là mối họa lớn của con người.
    Từ đó có thể thấy, bất kể là người tài năng, trí óc tới đâu, nếu như trong lòng không chính, không những là không thể cống hiến cho đất nước, mà ngược lại sẽ tạo thành nguy hại to lớn. Ngày nay, đạo đức xã hội mỗi ngày trượt dốc hàng vạn dặm, pháp luật chỉ ràng buộc hành vi của con người, còn đạo đức ràng buộc tâm người, “Pháp trị tiểu nhân, đức trị quân tử”. Ai giữ vững tâm pháp đạo đức, mới có thể đi trên con đường chính, mới có được tương lai tươi sáng, mới có thể khiến phong tục tập quán của người dân đi theo đường chính, vạn sự được hưng vượng phồn vinh, thiên hạ được thái bình. Ngày nay, ĐCSTQ đã tiến thêm một bước nữa trong việc quản lý và kiểm soát thành phần tri thức. Cụ thể là Đảng tiến hành tẩy não người dân từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, từ khi còn là đứa con nít chưa hiểu biết sự đời, bóp méo sự thật về lịch sử, không ngừng tuyên truyền thuyết đấu tranh, vô thần của chủ nghĩa Mác-Lê-Mao, dạy người dân biết phục tùng, ca ngợi và yêu mến Đảng, không được có tư tưởng và suy nghĩ của riêng họ. Như vậy mà nói, các thế hệ người Trung Quốc sau này quả thật không còn có thể tự lập về suy nghĩ được nữa, những gì Đảng nói đúng là đúng, sai là sai, không có sự suy xét tìm hiểu của riêng cá nhân mình. Mà cũng rất khó có thể tự tìm hiểu, vì Trung Quốc nơi ấy đã được Đảng bao bọc một bức tường lửa (fire-wall) khiến họ không thể truy cập được bất kỳ tin tức gì mà Đảng không muốn. Các nhà trí thức có ý kiến bất đồng, các luật sư nhân quyền dám cất lên tiếng nói vì dân tộc, vì người dân thì đa phần đều bị đàn áp, bắt bớ, giam cầm.

    Vậy là, nhiều người tri thức, vì sinh tồn, đã học cách tỏ vẻ lạnh lùng để bọc lại thậm chí hủy bỏ cái lương tri của mình, không dám nói lời công lý, luôn nghi ngờ phòng thủ, thậm chí học cách đả kích hãm hại người khác để tỏ vẻ trung thành với ĐCSTQ cũng chỉ vì muốn được yên ổn hoặc giữ miếng cơm đời thường.


    Những kẻ sĩ là rường cột của quốc gia, khi những người này không còn xứng danh là “sĩ” nữa, nguy hiểm đã cận kề họ. Họ đã chịu sự nhào nặn tàn ác của ĐCSTQ một thời gian dài để giờ đây biến thành những “người Trung Quốc xấu xí”.
    Xét cho cùng, họ, tất cả cũng chỉ là nạn nhân đáng thương của sự tẩy não và hủy hoại lâu dài trong lịch sử bởi ĐCSTQ cùng các tà thuyết của nó.


    Theo Daikynguyenvn.com

    VietFreeFun



Chủ Đề Tương Tự

  1. 5 loại rau củ nhập khẩu từ Trung Quốc mà bạn nên tránh
    By sophienguyen in forum Mẹo Vặt-Khéo Tay
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 09-21-2015, 02:48 AM
  2. Người Trung Quốc Xấu Xí - Bá Dương
    By sophienguyen in forum Thư Viện E-Books
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-17-2015, 02:00 AM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 05-27-2014, 11:41 AM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 05-09-2014, 11:18 AM
  5. Phạt người Trung Quốc trộm đồ trên máy bay 1,5 triệu đồng
    By duyanh in forum Văn Hóa-Xã Hội-Kinh Tế
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 05-02-2014, 12:29 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •