Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Một khoảnh khắc hạnh phúc là một niềm vui bất diệt.
Figuiere
Trang 1 / 2 12 Cuối Cuối
Results 1 to 10 of 20

Chủ Đề: Đêm Đen Buông Xuống

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Đêm Đen Buông Xuống

    Đêm Đen Buông Xuống
    \
    Tác giả: Dean R_Koontz








    Chương 1: Dẫn Nhập
    1
    giờ 12’ sáng thứ tư ngày 8 tháng 12.
    Penny Dawson thức giấc và nghe trong đêm có một tiếng động vụng trộm lén lút.
    Bé tưởng mình vẫn đang mơ. Lúc nãy, trong giấc ngủ bé đã mơ thấy các chú ngựa và đó là giấc mơ tuyệt vời nhất trong suốt quãng đời ngắn ngủi mười một năm của bé. Bé cố ngủ lại để trở về với giấc mơ dịu dàng đó, nhưng tiếng động lạ thường làm bé khiếp sợ. bé thầm nghĩ: Hẳn đó chỉ là tiếng động gây ra bởi con ngựa trong giấc mơ của bé hoặc tiếng rơm rạ trong chuồng ngựa và chẳng có gì để phải hốt hoảng. Tuy vậy, ý nghĩ đó không làm bé an tâm; bé không thể tin cái tiếng động lạ lùng đó xuất phát từ giấc mơ và vì thế bé sực tỉnh hẳn.
    Tiếng động đó xuất phát từ giường Davey ở cuối căn phòng! Nhưng đó chẳng phải là tiếng khò khè của đứa bé trai đang ngủ sau bữa ăn tối no nê. Đó là thứ tiếng xuẫn động, vờ vĩnh. Rõ ràng là thế.
    Penny thầm nghĩ: Không biết thằng bé đang giở trò gì đây?
    Cô bé ngồi dậy và nhướng mắt nhìn vào bóng đêm dày đặc nhưng không thể trông thấy gì. Bé ngẩng đầu, lắng tai nghe ngóng.
    Sự tĩnh mịch của đêm bị phá vỡ bởi tiếng rì rào, một tiếng thở dài. Rồi im bặt. Penny nín thở, cố lắng tai nghe cho rõ.
    Một tiếng rít. Rồi một thứ tiếng giống như tiếng cào hoặc tiếng cọ xát.
    Tối đen như mực, nhưng cửa phòng vẫn để hé mở. Hai đứa bé luôn để cửa mở khi ngủ để cha chúng có thể nghe thấy tiếng, trong trường hợp chúng thức giấc và gọi bố. Tuy nhiên, mọi ngọn đèn trong căn hộ đều tắt cả.
    Penny gọi nhỏ:
    Davey?
    Không có tiếng trả lời.
    Davey, em đó hả?
    Hou-Hou. Hou-Hou...
    Thôi đi Davey!
    Vẫn không có tiếng trả lời.
    Penny thầm nghĩ: Bọn nhóc bảy tuổi quá tinh nghịch đến mức không thể chịu nổi. cô bé nói:
    Nếu em còn tiếp tục chơi cái trò ngu xuẩn đó thì em sẽ biết tay chị!
    Một tiếng động khô khốc, tựa như chiếc lá vàng bị bàn chân ai giẫm và thứ tiếng động đó đang tiến gần lại.
    Này Davey, chớ có làm trò quỷ quái!
    Và tiếng động lại càng gần hơn! Một cái gì đó đang đi ngang qua căn phòng, hướng về cái giường. Penny biết đó không phải Davey bởi thằng bé còn quá nhỏ để có thể đùa dai ở mức độ tài tình như vậy.
    Tim Penny đập nhanh trong lồng ngực khi cô bé cho rằng đây có thể là mơ, tựa như giấc mơ về ngựa ban nãy, nhưng lần này thì ko êm ái chút nào.
    Nhưng đồng thời Penny biết rõ mình đang tỉnh.
    Cô bé chảy nước mắt khi nhìn chăm chăm vào bóng tối. Bé đưa tay bật cây đèn ngủ ở đầu giường nhưng trong một lúc lâu, bé ko tìm được công tắc. Bé vô vọng sờ soạng trong bóng tối.
    Giờ đây, có thứ âm thanh êm nhẹ đang phát ra cạnh giường bé. Cái vật đó đang ở rất gần!
    Cuối cùng, bàn tay bé đã chạm được công tắc đèn. Ánh sáng tỏa xuống giường và sàn nhà. Chẳng thấy một sinh vật đáng sợ nào trong vùng sáng cả. Tuy sánh sáng ko đủ mạnh để đẩy lùi toàn bộ bóng tối nhưng cũng đủ để Penny hiểu rằng chẳng có gì nguy hiểm và đáng sợ. Ở giường bên kia, Davey đang ngủ ngon lành.
    Penny không còn nghe thấy tiếng động lạ nữa. Nhưng bé đã biết đây không phải mình tưởng tượng và bé cũng không phải loại người chỉ biết tắt đèn rồi trùm kín chăn để quên đi mọi chuyện. Bố thường bảo bé là người tò mò nhất trên đời mà! Và thế là bé tung chăn, ra khỏi giường và đứng lặng im để nghe ngóng.
    Không một tiếng động.
    Penny bước về phía giường Davey để nhìn kỹ thằng bé hơn. Ở đây tuy không sáng lắm, nhưng đủ để bé thấy Davey đang ngủ say. Penny cúi người để xem đôi mi của Davey có xao động không và cô bé biết thằng bé không hề giả vờ ngủ.
    Tiếng động lại phát ra từ phía sau Penny.
    Cô bé quay phắt lại.
    Lúc này, tiếng động phát ra từ dưới giường. Đó là thứ tiếng nghe như tiếng rít, tiếng cào cào hoặc như tiếng cái lúc lắc ngân lên nhè nhẹ, không ồn lắm những cũng chẳng êm tai.
    Cái vật dưới giường hình như hiểu rõ Penny đang nghĩ gì và nó cố ý gây ra tiếng động để trêu chọc, dọa dẫm bé!
    Penny nghĩ thầm: Hẳn vật đó không phải ông Ba Bị đi. Chuyện ông ba bị chỉ mỗi Davey mới tin...chứ Penny này thì lớn rồi mà. Chắc là con chuột. Đúng vậy!
    Penny cảm thấy đôi chút nhẹ nhõm. Bé ko thích chuột, nhất là khi chúng chui xuống giường để phá phách. Nhưng một chú chuột nhắt thì không việc gì phải sợ chứ!
    Penny đứng như thế một lúc, tự hỏi bây giờ mình nên làm gì.
    Cuối cùng bé nghĩ đến bố.
    Penny không muốn đánh thức bố dậy khi mà bé chưa biết chắc đó có phải chuột hay không. Nếu bố sang mà không nhìn thấy con chuột nào chẳng phải mất mặt lắm sao? Trong hai tháng nữa, bé sẽ được mười hai tuổi và điều mà bé ghét nhất là bị xem như con nít.
    Bé biết mình không thể nhìn xuống dưới giường bởi dưới đó quá tối, đã vậy còn bị chăn mền che khuất.
    Vật dưới giường (hay con chuột) rít lên rồi phát ra tiếng ùng ục như tiếng người, thứ tiếng khàn đục, lạnh lùng, hung dữ, như muồn nói với Penny bằng một thứ ngôn ngữ mà cô bé không thể hiểu.
    Penny thắc mắc, không biết con chuột có thể gây ra tiếng động như vậy chăng?
    Rồi bé nhìn sang Davey. Thằng nhóc đang ngủ, nơi góc tường cạnh giường nó là cây gậy bóng chày bằng nhựa. Penny cầm lấy.
    Dưới giường, cái tiếng động lạ lùng khó chịu đó – thứ tiếng rít – cào – cọ xát – vẫn liên tục vang lên.
    Penny đi về phía giường và quỳ xuống. Bé cầm gậy bóng chày trong tay, hất mớ chăn mền lên. Không thể nhìn thấy gì: dưới giường tối thui như hang động.
    Tiếng động ngưng hẳn.
    Penny cảm thấy khiếp đảm. Bé tưởng chừng như có cái gì đó núp trong bóng tối rình rập bé ... một cái gì đó không phải chuột ... Một cái gì đó biết rằng bé chỉ là đứa bé gái nhỏ ... Một cái gì đó quỷ quái, xảo trá, có thể vồ lấy bé mà nuốt chửng!
    Rồi bé thầm nghĩ: Đó chỉ là ý tưởng của một đứa con nít!
    Bé cắn môi, dứt khoát không thể cam chịu như vậy. Rồi bé dùng gậy bóng chày quơ lung tung dưới giường nhằm để con chuột kêu lên hoặc buộc nó phải chạy ra.
    Khổ nỗi, có cái gì đó đã bấu vào đầu cây gậy! Penny cố đẩy nó ra nhưng không thể được. Bé cố lắc mạnh cây gậy, vặn vẹo đủ kiểu nhưng không bứt ra được.
    Thế rồi bỗng nhiên, cây gậy vuột khỏi tầm tay bé và biến mất dưới giường trong một tiếng động khô đục. Penny ngã bật ra sau, chạm vào giường Davey, vậy mà bé tưởng mình bất động. chỉ mới vài giây trước, bé đã quỳ bên giường Davey nhìn thằng nhóc ngủ. Vậy mà bây giờ, đầu bé đập xuống trên tấm nệm của giường nó. Trong giấc ngủ, Davey ú ớ vài tiếng, thở dài rồi lại tiếp tục say ngủ.
    Dưới giường Penny, chẳng còn một tiếng động nào nữa.
    Giờ đây, Penny đang nghĩ đến chuyện kêu cứu bố. Cô bé gào lên nhưng tiếng kêu chỉ vang vang trong tâm trí. ‘Ba, ba, ba ơi!’, không một thanh âm nào thoát ra. Trong phút chốc bé hoàn toàn chết lặng.
    Ánh đèn bỗng dưng nhấp nháy. Sợi dây đèn được cắm vào một ổ điện phía sau giường và cái vật đó đang tìm cách rút sợi dây.
    “Ba!” Penny rốt cuộc thốt lên nhưng chỉ là tiếng thì thào bị bóp nghẹn.
    Cây đèn nhấp nháy một lúc rồi tắt ngấm.
    Một lần nữa, căn phòng lại chìm vào bóng tối. Penny nghe có sự chuyển động. Cái vật đó đã ra khỏi gầm giường và chạy trên sàn.
    “Ba ơi!”, Penny lại gào lên.
    Nhưng vẫn chỉ là tiếng thều thào. Cổ họng cô bé khô khốc. Bé cố nuốt nước bọt để cổ họng thông thoáng.
    Có tiếng ken két.
    Nhìn chăm chăm vào bóng đèn bằng đôi mắt sợ hãi, Penny bắt đầu run rẩy và thốt lên những tiếng kêu nho nhỏ.
    Thế rồi bé hiểu ra rằng tiếng ken két là tiếng cái bản lề cửa bị khô dầu.
    Bé đoán rằng cái cửa đang chuyển động tuy ko nhìn thấy, cánh cửa vốn hé mở và giờ đây, nó được mở toang. Không còn tiếng ken két cũng như cái tiếng rít – cào bí ẩn đó đang xa dần. Dẫu sao, cái vật đó sẽ không tấn công bé.
    Bây giờ, nó đang ở ngưỡng cửa.
    Bây giờ, nó đang ở ngoài hành lang.
    Bây giờ, nó đang cách cánh khoảng ba bốn bước.
    Và ... nó đi rồi!
    Những giây phút trôi qua chậm như cả thế kỷ.
    Đó không phải chuột, cũng không phải mơ.
    Thế thì là cái gì nhỉ?
    Cuối cùng, Penny nhổm dậy. Đôi chân bé mềm nhũn. Bé bước đi, dò dẫm trong bóng tối để tìm cây đèn ngủ ở đầu giường Davey. Công tắc phát ra tiếng kêu ‘tách’ và ánh sáng tỏa xuống đứa bé trai đang ngủ. Penny vội vàng đưa tay đẩy chụp đèn sang một bên.
    Rồi bé đi về phía cửa, đứng im mà lắng nghe. Tất cả đều im lặng. Vẫn còn run rẩy, bé đóng cửa lại rồi chùi hai tay ướt đẫm mồ hôi vào áo ngủ. Giờ đây căn phòng đã đủ sáng để bé có thể trở lại giường. Bé khom người nhìn xuống dưới giường một lần nữa. Chẳng còn gì đáng sợ nữa rồi. Bé cầm lấy cây gậy bóng chày: đầu cây gậy đã bị khoét sâu bởi những lỗ nhỏ. Penny thắc mắc không hiểu nó bị đục thủng bởi cái gì? Móng vuốt à?
    Penny vặn người để cắm lại sợi dây đèn đã bị rời ra khỏi ổ. Rồi bé tắt cây đèn ngủ trên đầu giường Davey.
    Ngồi ở đầu giường, bé nhìn chăm chăm cái cửa đang đóng kín một lúc. Cuối cùng bé thốt lên:
    Chuyện gì đã xảy ra vậy nhỉ?
    Càng suy nghĩ bé càng thấy sự việc vừa xảy ra thật không thực tế. Có thể cây gậy bóng chày đã bị vướng trong giắt lò xo giường và bị mớ đinh ốc ở đó đâm thủng chăng? Còn cái cửa có thể bị gió đẩy ra cũng không chừng?
    Có thể lắm chứ ...
    Cuối cùng, không dằn được sự tò mò, bé đứng dậy, đi ra hành lang, bật đèn sáng rồi cẩn thận đóng cửa lại.
    Yên lặng ...
    Như thường lệ, cánh cửa phòng bố vẫn mở hé. Bé thò đầu vào nghe ngóng. Có tiếng ngáy đều đều của bố, ngoài ra chẳng còn tiếng động gì khác lạ. Một lần nữa, bé nghĩ liệu mình có nên đánh thức bố dậy không. Bố là sỹ quan cảnh sát: trung úy Jack Dawson. Và bố có súng. Nếu thực sự căn hộ này bị xâm nhập thì bố sẽ bắn kẻ thù ngay. Nhưng nếu bé đánh thức bố rồi sau đó không phát hiện được gì thì bố sẽ xem bé như trẻ con cho xem. Nếu thế thì xấu hổ lắm! Nghĩ đến đó, bé thở dài và trở về phòng. Hồi hộp, bé đi dọc hành lang, đến cửa chính để kiểm tra: cửa đã khóa kỹ. Nơi mắc áo gắn trên tường, gằn cửa, có treo cây dù. Bé cầm lấy nó, chĩa cái mũi nhọn về phía trước, đi vào phòng khách, bật sáng đèn và quan sát mọi nơi. Rồi bé sang phòng ăn và căn bếp nhỏ hình chữ L.
    Không có gì khác thường cả.
    Phía trên bồn rửa chén, cửa sổ để mở. Không khí lạnh tháng mười hai len qua khe hở khoảng vài chục phân thổi vào.
    Penny biết rõ cái cửa sổ này đã được đóng lại và cài chốt lúc chập tối, trước khi cô bé đi ngủ. Bé biết chắc như thế. Nếu sau đó bố có mở ra để hít thở đôi chút khí trời thì hẳn bố đã đóng lại rồi.
    Kéo chiếc ghế lại gần bồn rửa chén, bé leo lên đẩy cửa để có thể nghiêng người nhìn ra ngoài. Cơn gió lạnh buốt khiến bé nhăn mặt. Mọi vật đều yên tĩnh. Dọc theo tòa nhà, gần cửa sổ phòng ngủ, có một cái thang cấp cứu bằng sắt chạy thẳng xuống con hẻm. Nhưng phía căn bếp thì chẳng có thang cũng chẳng có mép tường. Chẳng một phương tiện khả dĩ để cho kẻ trộm có thể leo lên hoặc bám vào để xâm nhập cả. Bé biết thứ tiếng động phát ra lúc nãy không phải do trộm bởi hắn không thể nào núp dưới giường của bé được.
    Penny đóng cửa sổ lại, đặt chiếc ghế vào chỗ cũ. Bé miễn cưỡng cất cây dù. Luyến tiếc phải rời bỏ vũ khí, bé tắt đèn và không dám nhìn về khoảng tối đằng sau. Bé về phòng, nằm xuống giường và kéo chăn lên cổ.
    Davey vẫn ngon giấc. Bên ngoài cửa sổ, gió đêm rít lên từng cơn. Xa xa có tiếng còi hụ thê lương của một xe cấp cứu.
    Penny ngồi dậy, tựa người vào gối kê, dưới vùng sáng che chở của ngọn đèn ngủ. Bé cảm thấy thiu thiu, muốn ngả lưng xuống nhưng lại sợ phải tắt đèn. Nỗi sợ làm bé khó chịu. Bé thầm nghĩ: Ta đã lớn rồi chứ? Kể từ khi mẹ mất, ta đã là người nội trợ cai quản gia đình mà. Khoảng mười phút sau, tự ái nổi lên, bé tắt đèn và ngã người xuống giường. Tuy vậy, tâm trí bé vẫn còn ray rứt. Bé thầm nghĩ: Đó là cái gì chứ?
    Bé chờ đợi ...
    Im lặng ...
    Rồi bé chìm vào giấc ngủ.

  2. #2
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 2
    1
    giờ 34’ sáng Thứ Tư.
    Khi bước xuống cầu thang, Vince Vastagliano bỗng nghe có tiếng thét và tiếp theo là một tiếng gào khàn đục. Một thứ tiếng không hẳn là the thé cũng chẳng chói tai. Đó là tiếng kêu khiếp đảm, phát ra từ cổ họng mà hẳn Vince sẽ không thể nghe thấy nếu ông vẫn còn ở trên lầu; tuy vậy cái tiếng kêu đó biểu lộ một sự khiếp đảm tuyệt đối. Vince dừng lại, nắm lấy lan can cầu thang. Ông đứng im, đầu ngẩng cao, lắng tai nghe ngóng, sững sờ, không thể đưa ra quyết định gì. Tim ông đập mạnh.
    Lại một tiếng thét nữa.
    Ross Morrant, vệ sỹ của Vince, đang bận nấu bữa ăn qua loa trong bếp. Không còn nghi ngờ gì nữa, Vince biết ngay đó là tiếng kêu cứu của Morrant. Ngoài ra, ông cũng nghe có tiếng vật lộn, tiếng rổn rảng của chén đũa bị rơi vỡ. Rồi một tiếng động lớn và tiếng ly vỡ.
    Vang lên đến cầu thang là giọng hổn hển, tắt nghẹn vì khiếp đảm của Ross Morrant:
    Không ...không ...xin hãy ...Ồ, không ... hãy cứu tôi ... Chúa ơi, xin thương xót ... Không!
    Mặt Vince ướt đẫm mồ hôi. Morrant là một gã lựa lưỡng, khỏe mạnh và rất can đảm. Thuở trẻ, Morrant là tay côn đồ có hạng. Ở tuổi mười tám, y đã là tên giết mướn; giết vì thích thú và được trả tiền. Theo năm tháng, y càng dày dạn kinh nghiệm hơn, trở thành người có thể giải quyết mọi khó khăn, bất chấp hiểm nguy. Có thể nói Morrant chưa hề thất bại trong một công tác được giao phó nào. Từ mười lăm tháng nay, y làm vệ sỹ và là người đi thâu tiền hụi chết cho Vince và chưa một lần nào Vince thấy y sợ hãi. Vince chưa từng thấy y sợ bất kỳ ai hay bất kỳ việc gì. Vậy mà giờ đây, Morrant đang lạy lục van xin ... Vince tưởng chừng không thể tin nổi điều đó. Một tiếng rú khàn đục vang lên, hẳn không phải của Morrant đâu vì nó chẳng có tính người. Đó là tiếng rú hoang dại, đầy ức chế và thù hận, tưởng như được thốt ra từ nhân vật hoạt hình trong một bộ phim khoa học viễn tưởng – một thứ tiếng được phát ra từ bên kia thế giới.
    Từ nãy đến giờ, Vince nghĩ rằng Morrant đang bị các đối thủ trong giới xã hội đen thủ tiên nhằm
    giành thêm thị phần ma túy. Nhưng giờ đây, khi nghe tiếng than van rên rỉ lạ lùng đang phát ra từ bếp, Vince thắc mắc không hiểu phải chăng gã vệ sỹ đang chu du cõi âm ty? Đột nhiên Vince rùng mình, buốt lạnh đến xương tủy. Cùng với cơn đau buốt ở tim, ông thấy mình thật vô vọng, yếu đuối và cô đơn.
    Bước xuống hai bậc thang nữa, Vince hướng mắt về sảnh, nơi cửa ra vào. Chẳng có gì khác thường. Ông định chạy về phía đó, mở nhanh cửa rồi ra khỏi nhà trước khi bọn côn đồ kịp ra khỏi bếp và trông thấy ông. Ông thầm nghĩ: hẳn nên như thế. Nhưng rồi ông chần chừ và cái giây phút chần chừ đó quả thật tai hại.
    Từ căn bếp vang lên tiếng rú của Morrant, một tiếng rú khủng khiếp hơn cả. Đó là tiếng kêu sau cùng, lúc lâm chung và tuyệt vọng. Rồi đột ngột im bặt.
    Vince hiểu sự im lặng đó nghĩa là: gã cận vệ đã chết!
    Bỗng nhiên, đèn đuốc trong nhà tắt ngấm! có lẽ ai đó đã kéo cầu dao điện rồi.
    Trong bóng tối, Vince vội vã bước xuống cầu thang và đột ngột dừng lại khi nhận thấy có sự chuyển động. Cái mà ông nghe thấy không phải tiếng bước chân thông thường mà là thứ tiếng rít – sột soạt lạ kỳ, siêu tự nhiên, tựa như tiếng rung nhẹ của cái lúc lắc, khiến ông rùng mình, sởn tóc gáy. Vince cảm nhận có cái gì đó quỷ quái, một cái gì đó với đôi mắt trắng dã của tử thi, với đôi tay lạnh, nhơn nhớt đang đến gần ông. Một ý tưởng như thế quả là điều khá lạ lùng đối với người như Vince Vastagliano, một người có trí tưởng tượng không mấy phong phú. Tuy nhiên, ông không thể đẩy lùi cái mê tín kinh dị đang tràn ngập tâm trí ông được.
    Trái tim Vince muốn vỡ tung trong lồng ngực.
    Biết mình chẳng thể chạy thoát ra khỏi nhà, Vince quay ngược lên cầu thang. Trong đêm tối, ông xảy chân, suýt té ngã, rồi lấy lại thăng bằng. Cuối cùng ông lên được đến phòng. Phía sau ông, tiếng động trở nên hung tợn và dữ dội, càng lúc càng gần hơn. Cửa sổ phòng ngủ hắt vào thứ ánh sáng lờ mờ trên chiếc giường cổ có tán ô kiểu Ý thế kỷ XVIII, trên bàn ghế cổ và trên những cái chặn giấy bằng pha lê trên bàn, giữa hai cửa sổ. Nếu ngoái cổ lui lại, hẳn Vince có thể trông thấy cái bóng dáng đang đuổi theo ông. Nhưng ông không nhìn lại bởi ông sợ phải nhìn thấy.
    Có một mùi hôi thối không thể tả đang tràn ngập căn phòng. Phải chăng mùi lưu huỳnh? Không hẳn! Nhưng là một thứ tương tự thế.
    Tự thâm tâm, Vince biết cái gì đang đuổi theo mình. Tuy ý thức ông có thể phủ nhận điều đó, nhưng vô thức của ông biết rõ nó. Chính vì vậy mà Vince đã phải hoảng hốt chạy trốn, đôi mắt mở lớn khiếp đảm tựa con thú nghe tiếng súng nổ.
    Vince vội vã chạy vào phòng tắm. Trong bóng tối, ông va mạnh vào cái cửa hé mở. Choáng váng, ông quờ quạng tìm nó, đóng mạnh cửa và khóa lại.
    Trước khi cánh cửa kịp khép, ông đã trông thấy những đôi mắt trắng bạc, những đôi mắt ác mộng, rực sáng trong đêm. Có khoảng chục đôi mắt hoặc hơn thế nữa. Bây giờ, ông nghe thấy những tiếng giộng cửa. Rất nhiều tiếng giộng cửa. Ông biết chúng khá đông ở ngoài. Cánh cửa rung lên, ổ khóa kêu lách cách nhưng không hề hấn gì.
    Ở ngoài kia, trong phòng ngủ, liên tục phát ra những tiếng khàn đục và những tiếng rít càng lúc càng giận dữ hơn. Tuy thứ tiếng kêu đó nghe lạ lẫm, chẳng mang tính người, nhưng ý nghĩa của nó thì rất rõ: đó là biểu hiện của sự phẫn nộ và thất vọng. Những vật đó đuổi theo Vince, biết chắc ông sẽ không thể thoát khỏi chúng và đương nhiên chúng không chấp nhận thua cuộc.
    “Những con vật đó”, cái từ này xem chừng lạ thường, nhưng quả là thích hợp với chúng.
    Vince có cảm tưởng mình đang điên loạn, tuy nhiên ông không thể bỏ qua những cảm nhận nguyên thủy và cái trực giác báo nguy đã khiến ông sởn tóc gáy. “Những con vật đó”! Chúng không phải đám chó săn. Trong đời Vince chưa từng thấy và cũng chẳng nghe nói đến những thứ như vậy. Đó là thứ thoát ra từ cơn ác mộng; chỉ như vậy chúng mới có thể làm Ross Morrant tả tơi, van xin và vô phương chống đỡ.
    Những con vật đó đang cào cấu vào cửa, làm vỡ tung gỗ ra từng mảnh. Xét theo tiếng động phát ra thì móng vuốt của chúng chắc rất sắc bén. Cực kỳ sắc bén.
    Vince thầm hỏi: Chúng thực sự là cái gì chứ?
    Vince là người luôn sẵn sàng đương đầu với hiểm nguy, bởi nó luôn là điều không thể thiếu trong thế giới những tay trùm như ông ta. Một trùm ma túy thì không thể an hưởng cuộc sống êm đềm của một giáo viên. Tuy nhiên, Vince chưa từng nghĩ đến một cuộc tấn công như thế này. Tấn công bằng súng hay dao, ông có thể đương đầu. Gài bom trong xe cũng nằm trong dự liệu. Nhưng với lối chơi này thì lạ lùng quá. Trong khi những con vật đó đang cắn phá và cào cấu cánh cửa, Vince dò dẫm trong bóng tối để tìm đến bồn cầu. Ông đậy nắp lại và ngồi xuống, đưa tay cầm máy điện thoại. Thuở nhỏ, ở tuổi mười hai, Vince đã có dịp trông thấy máy điện thoại gắn trong toilet của cậu Gennaro Carramazza và từ dạo đó, đối với Vince, điện thoại trong toilet là biểu tượng của sự thành đạt, chứng tỏ ta là người giàu có, quyền lực và quan trọng. Giờ đây, ông cảm thấy hài lòng khi có điện thoại trong tay vì ông có thể kêu cứu.
    Chẳng một âm thanh nào trong ống nghe. Vince cố nhấn nhiều lần nhưng không được.
    Đường dây bị cắt rồi! Khốn kiếp!
    Bên ngoài, những con vật lạ lùng đó vẫn tiếp tục cào cấu, nện vào cửa và tìm cách phá tung ổ khóa.
    Vince ngước mắt nhìn cái cửa sổ duy nhất của phòng tắm: nó quá nhỏ để có thể thoát thân. Đã vậy, lớp kính mờ đục hầu như không để lọt chút ánh sáng nào.
    Vince vô vọng thầm nghĩ: Những con vật đó hẳn sẽ không thể phá tung cửa. Rồi chúng sẽ chán nản mà bỏ đi thôi! Chúng sẽ chán nản, chắc chắn như thế!
    Có tiếng ken két, lách cách của kim loại khiến Vince giật mình. Thứ tiếng đó phát ra từ trong phòng tắm, bên này cửa.
    Vince đứng phắt dậy, đảo mắt nhìn khắp nơi trong bóng tối dày đặc.
    Một vật bằng kim loại rơi xuống nền gạch. Vince nhảy nhỏm lên kêu kinh ngạc.
    Ông thầm nghĩ, chắc vật vừa rơi xuống là nắm đấm cửa và ổ khóa! Lạy Chúa! Cửa bị phá rồi! Vince nhảy bổ về phía cửa, quyết không để chúng mở ra, nhưng rồi nhận thấy đấm cửa và ổ khóa vẫn còn nguyên đó. Hai tay run run, Vince vô vọng mò mẫm trong bóng tối để tìm then cửa: chúng vẫn còn đó, nguyên vẹn.
    Vậy cái gì đã rơi xuống sàn?
    Vince quay lại, thở hổn hển, tựa người vào cửa, chớp chớp mắt, cố xuyên thấu thứ bóng tối dày đặc này, cố tìm hiểu cái tiếng động mà ông vừa nghe.
    Bỗng nhiên, Vince nhận ra bây giờ trong phòng tắm không chỉ có mình ông nữa. Ông rùng mình ớn lạnh. Tấm lưới thép gắn ở đầu ống thông hơi – đó chính là vật đã rơi xuống!
    Vince quay phắt lại và nhìn về bức tường, phía cửa. Hai con mắt ánh bạc đang chăm chăm nhìn ông. Đó là những gì mà ông có thể thấy về con súc sinh: một đôi mắt không có tròng đen cũng chẳng có đồng tử. Những đôi mắt lấp lánh như lửa, tàn bạo và hung ác!
    Vince thầm nghĩ: chuột ư?
    Không phái! Chuột làm sao có thể tháo tung tấm lưới thép chứ? Vả lại, chuột làm gì có đôi mắt như thế?
    Con súc sinh đó bắt đầu rít lên.
    “Đừng!”, Vince thốt lên nho nhỏ.
    Không một lối thoát!
    Con súc sinh lao ra từ tường và ập vào mặt Vince. Những móng vuốt của nó cào thủng hai má ông, kéo sâu xuống miệng, kéo rách lợi. vince cảm thấy đau buốt khôn tả. Ông nấc lên, chực nôn thốc vì ghê tởm và khiếp đảm. Nhưng vì sắp nghẹt thở, ông cố nén cơn buồn nôn.
    Những cái nanh xé toạc lớp da đầu. vince lảo đảo, vùng vẫy, va mạnh vào lavabo, nhưng sự va đập đó không tính là gì so với con đau cháy bỏng đang ngấu nghiến gương mặt ông.
    Trước đây, ông vẫn tin rằng điều này chẳng bao giờ có thật. Vậy mà nó lại đang xảy ra. Đây không phải là chuyến đi ngắn ngủi vào địa ngục, mà là một chuyến đi dài.
    Tiếng kêu gào của Vince bị bóp nghẹn bởi con vật lạ lùng đang bò lên đầu ông, và ông không còn thở được nữa. Ông đưa tay túm lấy con vật. Nó nhơn nhớt và lạnh ngắt tựa loài thủy quái trồi lên từ đáy biển. Ông giật nó ra khỏi mặt và đưa nó ra xa. Con vật phát ra những tiếng kêu khàn đục, rít lên, vùng vẫy tứ phía, cấu vào tay Vince nhưng ông vẫn giữ chặt nó. Ông quá sợ để phải buông nó ra. Ông biết rằng lần này nếu buông ra, nó sẽ nhảy vào cổ hoặc mặt ông.
    Trong thoáng chốc, Vince thắc mắc không hiểu nó là thứ gì? Nò từ đâu đến?
    Một phần trong tâm trí ông muốn nhìn nó cho rõ, buộc phải trông thấy nó và muốn biết con vật không tên này là thứ gì. Nhưng một phần khác của tâm trí thì lại đoán biết được toàn bộ sự khủng khiếp và ông thầm cảm ơn bóng tối.
    Vince cảm thấy mình vừa bị cắn ở mắt cá chân trái trong khi con vật thứ hai đang bò dọc theo cẳng chân phải và xé toạc ống quần của ông.
    Những con vật khác đang tiến vào từ ống thông hơi. Máu tuôn xuống từ trán đã giới hạm tầm nhìn của Vince. Nhưng ông vẫn có thể trông thấy hàng chục cặp mắt ánh bạc. Hàng chục ...
    Vince thầm nghĩ: Hẳn đây là ác mộng!
    Nhưng sự đau đớn mà ông cảm nhận là sự thật!
    Lũ thú hung ác giờ đây đang lúc nhúc trên ngực ông, dọc theo lưng và trên hai vai. Hình dạng của chúng như chuột, nhưng không phải chuột bởi chúng cào, cấu và cắn. Toàn thân Vince đầy kín những con vật đó. Chúng đang tìm cách làm ông ngã xuống. Buông con vật trên tay ra, Vince đập mạnh vào bầy thú. Dái tai của ông vừa bị cắn đứt; những cái nanh nhỏ, nhọn hoắc đang cắm sâu vào cằm ông.
    Ông nghe mình thốt lên những lời van xin nài nỉ thật đau xót, giống như Ross Morrant.
    Rồi bóng tối dày đặc hơn và Vince bị nuốt chửng bởi sự im lặng vĩnh hằng.

  3. #3
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 3
    T
    RÍCH DẪN
    Thứ Tư, 7h 53’ sáng – 15h 3 ’
    Thánh nhân dạy rằng: Đời sống là một bí ẩn.
    Vì họ mơ đến một bí ẩn tốt lành.
    Nhưng cũng có những bí ẩn cắn phá, những bí ẩn gào lên the thé.
    Những bí ẩn vồ lấy bạn trong tăm tối.
    Kinh khổ.
    Cơn mưa âm u, giông bão, gió loạt
    Đẩy lui nắng trời: đêm đem nuốt chửng tất cả.
    Nếu cái thiện là ánh sáng, nếu cái ác là bóng tối.
    Cái ác dựng lên quanh trần gian những thành lũy tang thương của nó.
    Và giờ đây rơi xuống sự kết thúc, sầu não vào màn đêm.
    Kinh khổ
    Sáng hôm sau, Rebecca báo với Jack Dawson:
    -Chúng ta có hai tử thi!
    -Cái gì?
    -Hai tử thi!
    -À, tôi hiểu.
    -Người ta vừa báo qua điện thoại.
    -Do cô đặt hàng phải không thế?
    -Bộ anh không thể nói chuyện nghiêm túc sao?
    -Tôi thì tôi không đặt hàng hai tử thi rồi đó.
    -Các trinh sát đang có mặt tại hiện trường – Rebecca nói.
    -Bảy phút nữa mới đến giờ làm việc mà?
    -Vậy, tôi phải trả lời sao với họ hả? Phải bảo họ rằng tại sao quý vị lại chọn giờ chết sớm quá chăng? Lẽ ra họ phải chờ đến giờ làm việc của anh rồi hẵng chết à?
    -Vậy là xem ra chúng ta không có thời gian trò chuyện đôi chút sao? – Jack hỏi.
    -Không!
    -Coi nào, chúng ta có thể nói với nhau đại loại như cô sẽ nói: ‘Chào thanh tra Dawson!’ và tôi sẽ trả lời: ‘Chào thanh tra Chandler!’. Rồi cô nói tiếp: ‘Sao, sáng nay anh khỏe chứ?’ và tôi nheo mắt và nói ...
    Rebecca cau mày:
    -Jack à, họ cũng đẫm máu và lạ lùng y như hai người trước đây, người chết hôm chủ nhật và người chết hôm qua ấy. Nhưng lần này, cả hai cùng chết một nơi. Nạn nhân xem chừng là hạng người thuộc xã hội đen.
    Đứng trong văn phòng đầy bụi bẩn của đội cảnh sát hình sự, Jack Dawson cởi chiếc áo khoác và mỉm cười nhìn Rebecca với vẻ không tin.
    Chẳng phải một hoặc vài cái chết làm Jack ngạc nhiên bởi anh thuộc đội hình sự và án mạng là chuyện thường ngày mà anh vẫn phải đương đầu, nhất là tại thành phố New York này. Điều làm Jack bối rối, đó là thái độ của Rebecca và cái lối nói chuyện của cô sáng nay.
    Rebecca nói:
    -Anh không cần cởi áo khoác đâu.
    -Rebecca ...
    -Họ đang chờ chúng ta.
    -Rebecca, đêm qua ...
    -Lại một chuyện huyền bí như chuyện vừa xảy ra chứ gì? – Rebecca nói và chụp lấy cái túi xách trên bàn.
    -Chúng ta chưa ...
    Bước về phía cửa,cô nói:
    -Có điều chắc chắn là lần này chúng ta phải đương đầu với một vụ án ghê tởm. thật sự ghê tởm.
    -Rebecca này ...
    Cô dừng lại, gật đầu:
    -Anh biết đôi khi tôi thích gì không?
    Jack nhìn cô, tròn xoe mắt:
    -Đôi khi tôi thích được làm vợ của Tiny Taylor. Nếu là vợ anh ta thì giờ này tôi đang sống ở Connecticut, êm ả trong că bếp đầy tiện nghi, ngồi nhâm nhi cà phê và bánh bisquit, các con tôi đả đến trường, cô người làm sẽ đến lau dọn nhà cửa hai lần mỗi tuần và tôi sẽ ăn trưa ở club ...
    Jack thầm nghĩ: Tại sao cô ấy lại kể lể với mình điều này nhỉ?! Rebecca lưu ý Jack nên mặc lại áo khoác.
    -Anh không nghe tôi nói gì sao? Các trinh sát sẽ gọi điện về đó.
    -Ừ, tôi ...
    -Chúng ta đang có thêm hai cái xác để giải quyết.
    Rebecca ra khỏi văn phòng khiến nó giờ đây càng trở nên lạnh giá và buồn thảm hơn.
    Jack thở dài và bước ra theo Rebecca.
    Jack cảm thấy rầu rĩ và mệt mỏi. Thời tiết và cả thái độ khác lạ của Rebecca làm anh không vui. Jack vốn là người nhạy cảm với thời tiết. Bầu trời xám xịt và rét căm căm. Những khối kiến trúc bằng bê tông và thép cao ngất trời của Manhattan trông xám xịt, buồn bã. Hàng cây trơ trụi cũng xám xịt, như bị thiêu cháy bởi ngọn lửa cuồng nộ.
    Cơn gió giá buốt quất mạnh vào cửa khi Jack bước ra khỏi chiếc xe xoàng xĩnh đậu gần Park Avenue. Có chút hơi hám của hầm mộ trong không khí lạnh và ẩm của tháng chạp. Jack thọc sâu hai tay vào túi. Rebecca Chandler ra khỏi xe và đóng mạnh cửa. mái tóc dài vàng óng của cô bay bay trong gió, chiếc áo khoác để hờ lất phất trên cặp đùi. Trông cô chẳng chút quan tâm đến cái lạnh cũng như cái xám xịt đang phủ trên thành phố.
    Jack thầm nghĩ: Người đàn bà này quả thật mạnh mẽ, quả quyết và kiên cường. Đường nét gương mặt nàng sao mà đẹp thế! Một gương mặt quý phái, nữ tính, khuôn mặt mà thuở trước các thủy thủ thường chạm khắc nơi mũi tàu của họ với niềm tin rằng cái đẹp có quyền năng xua đi loài quỷ dữ của biển cả và đẩy lùi những tai họa, rủi ro.
    Với chút tiếc nuối, Jack rời mắt khỏi gương mặt ấy để hướng về ba chiếc xe cảnh sát đang đậu bên đường. Harry Ulbeck, một sỹ quan cảnh sát khá quen với Jack, đang đứng ở bậc thềm của một ngôi nhà gạch khá đẹp, nơi xảy ra án mạng. Được che chắn kỹ dưới lớp áo da màu xanh đậm của cảnh sát, bao tay và khăn quàng cổ, vậy mà Harry vẫn run lẩy bẩy. Xét theo vẻ mặt của Harry, Jack hiểu anh ta không run vì lạnh: những gì Harry vừa trông thấy trong ngôi nhà đã làm anh phát run.
    Rebecca hỏi:
    -Có tệ lắm không?
    Harry gật đầu:
    -Tệ hơn những vụ khác, trung úy à.
    Chỉ mới hai mươi bốn tuổi vậy mà lúc này, Harry trông già hẳn với vẻ mặt căng thẳng.
    Jack hỏi:
    -Nạn nhân là ai?
    -Một gã tên Vince Vastagliano và vệ sỹ Ross Morrant.
    -Khu này sang trọng nhỉ!
    -Ở bên trong còn hơn thế nữa. Ngôi nhà đầy ắp đồ cổ, cưa như một cửa hàng ở Đại Lộ Số Năm.
    Rebecca hỏi:
    -Ai đã phát hiện các tử thi?
    -Một cô gái tên Shelly Parker, rất đẹp. Có lẽ là bồ nhí của Vastagliano.
    -Cô ấy có đây không?
    -Vâng, đang trong nhà. Nhưng tôi nghĩ cô ấy sẽ không giúp được gì nhiều. Tốt hơn quý vị nên hỏi Nevetski và Blaine.
    -Và họ là?
    Harry nói:
    -Trinh sát của đội Bài Trừ Ma Túy. Hai người này có nhiệm vụ theo dõi Vastagliano.
    -Và Vastagliano đã bị giết trước mũi hai anh ấy? – Rebecca hỏi.
    Harry khuyên can:
    -Chị không nên nói như thế. Tự ái của hai anh chàng này đã bị đụng chạm khá nhiều qua vụ này. Chẳng phải chỉ có hai anh chàng này thôi đâu. Đội của họ gồm cả thảy sáu người có nhiệm vụ canh chừng mọi ngõ ra vào của ngôi nhà. Vậy mà hung thủ đã có thể lẻn vào để giết Vastagliano và gã cận vệ rồi rút êm mà không ai hay biết. Tội nghiệp Nevetski và Blaine, rồi đây người ta sẽ cho rằng họ xao nhãng nhiệm vụ mất.
    Jack cảm thấy thương cảm cho hai gã Bài Trừ Ma Túy. Nhưng Rebecca thì không.
    Cô nói:
    -Mặc kệ họ chứ! Không lẽ tôi phải bênh vực họ à? Có lẽ lúc đó họ đang bận ôm ấp và hôn hít thì sao?
    Harry Ulbeck lắc đầu:
    -Tôi không tin như thế. Án mạng xảy ra khiến họ bị sốc thực sự. Họ thề đã không rời mắt khỏi ngôi nhà.
    Rebecca hỏi bằng giọng gay gắt:
    -Chứ anh muốn họ nói sao?
    Một chiếc vận tải nhẹ tấp sát lề rồi dừng lại. Ba người bước xuống; một người mang máy ảnh trong khi hai người kia xách hai cái valy nhỏ.
    Harry nói:
    -Mấy gã ở phòng thí nghiệm.
    Ba nhân viên phòng thí nghiệm vội vã bước vào nhà. Với khuôn mặt gầy đét và ánh mắt nhìn nghiêng, họ trông tựa loài chim cao đẳng đang hăm hở nhảy bổ vào cái xác còn tươi.
    Jack Dawson rùung mình.
    Một lần nữa, gió lại nổi lên. Những cành cây trụi lá quất mạnh vào nhau. Cảnh tượng trông như bức họa buồn bã với những bộ xương đang lắc lư trong điệu vũ ma quái.

  4. #4
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết





    Chương 4
    B
    ác sỹ pháp y cùng hai gã phòng thí nghiệm đang ở trong căn bếp, nơi vệ sỹ Ross Marrant nằm chết trên vũng máu, mù tạt và xúc xích. Ross đã bị tấn công và giết chết khi y đang làm bếp.
    Ở tầng trên, phòng tắm đầy những vết máu: những tia, những vệt kéo dài, những đốm, trên tường và trên thành bồn tắm.
    Jack và Rebecca đứng im ở cửa, cố không chạm đến bất cứ thứ gì. Mọi vật phải được giữ y nguyên cho đến khi những gã của phòng thí nghiệm xong việc.
    Vincent Vastagliano nằm đó, kẹt giữa bồn tắm và lavabo, đầu áp vào chân bồn cầu. Vastagliano là người to con với khuôn mặt bủng, tóc nâu, mày rậm. Quần áo ông ta đẫm máu. Một con mắt của ông ta đã bị bứt ra khỏi hốc mắt trong khi mắt kia mở lớn, nhìn chăm chăm, mờ đục. Một bàn tay co quắp, tay kia buông thả. Có nhiều vết thương nhỏ trên mặt, cổ và hai tay ông ta. Quần áo bị xé rách nhiều nơi và qua đó người ta có thể trông thấy những vết thương đẫm máu, tím đen.
    Rebecca thốt lên:
    - Còn tệ hơn ba cái xác trước đây ấy chứ!
    - Quá tệ. Jack công nhận.
    Đây là các xác thứ tư bị băm nát bởi những vết thương khủng khiếp mà họ trông thấy bốn ngày nay. Hẳn Rebecca có lý khi cho rằng có một kẻ tâm thần nào đó đang lảng vảng đâu đây.
    Nhưng có điều hung thủ không phải chỉ đơn giản giết người trong cơn cuồng điên khát máu của y. Điều đáng kể trong sự điên cuồng này là hình như hung thủ đang đeo đuổi một mục đích nào đó, giống như cuộc thánh chiến: cả bốn nạ nhân của y đều, bằng cách này hay cách khác, có liên quan đến chuyện buôn bán ma túy.
    Theo tin đồn thì đây là chiến tranh giữa các băng nhóm tranh giành thị phần và lãnh thổ, nhưng Jack không mấy tin vào cách giải thích này. Ít ra, các tin đồn xem chừng lạ lùng ở một điểm. Dẫu sao những cái chết này không giống với những cái chết xảy ra trong giới xã hội đen. Đây chắc chắn không phải công việc của một kẻ giết người chuyên nghiệp. những cái chết man rợ này là tác phẩm của một con người hung ác, xấu xa và quỷ quái.
    Jack nói:
    - Số vết thương trên mình các nạn nhân đều giống nhau.
    - Đúng, nhưng chúng không giống với những vết thương mà chúng ta đã trông thấy. Các vết thương ở những nạn nhân khác trông như do dao găm gây ra. Những vết thương của Vastagliano và vệ sỹ thì trông như bị gặm nhấm. Theo tôi nghĩ, những cái chết này không do cùng một hung thủ.
    - Cùng là một hung thủ cả đấy! – Jack nói.
    - Sao anh tự tin quá vậy?
    - Vì tôi có linh cảm.
    - Ồ! Tôi không muốn anh buộc tôi phải nghe theo những linh cảm thần bí như hôm qua nữa.
    - Tôi nào có buộc cô làm điều đó đâu!
    - Sao không chứ?
    - Hôm qua, chúng ta chỉ lần mò theo những dấu vết có thể.
    Jack và Rebecca im bặt và tiếp tục xem xét cái xác.
    Một lúc sau, Rebecca nói:
    - Có thể nói nạn nhân đã bị hàng trăm vết cắn. Như thể ông ta đã bị gặm nhấm.
    - Đúng vậy, nạn nhân bị gặm nhấm bởi những con vật nhỏ bé.
    - Chuột sao?
    - Ngôi nhà này thuộc khu sang trọng của thành phố đấy!
    - Dĩ nhiên, nhưng khu này cũng nằm trong thành phố lớn và cũng chia sẻ những con đường, những ống cống với các khu nghèo. Trò chơi dân chủ mà!
    - Nếu đúng là vết cắn của chuột thì có nghĩa là nạn nhân đã chết rồi sau đó mới bị loài thú khốn kiếp đóa gặm nhấm. Hẳn chúng đã đánh hơi thấy mùi máu. Chuột là loài ăn xác chết. Tuy nhiên, chúng nhút nhát và không dám tấn công con người.
    Rebecca gật đầu:
    - Đúng, chuột không khi nào tấn công người, ngay cả khi chúng đi thành đàn. Như vậy, nạn nhân đã chết và sau đó bị chuột gặm. Nhưng mà, tôi khuyên anh chớ xem đó là chuyện huyền bí.
    - Thì tôi có nói gì đâu nào?
    - Hôm qua, anh đã làm tôi rất phiền lòng.
    - Nhiệm vụ của chúng ta là lần theo những dấu vết khả dĩ mà.
    Rebecca mỉa mai:
    - Nghĩa là phải tiếp xúc với một bầy phù thủy. Nghĩa là phải ...
    - Đó không phải phù thủy mà là ...
    - Một lão điên! Và anh đã ngồi hơn ba mươi phút để lắng nghe lão nói.
    Jack thở dài. Rebecca nói tiếp:
    - Đây chỉ là những vết cắn của chuột và những vết cắn này đã che lấp những vết thương thật sự. Chúng ta phải chờ kết quả giải phẫu tử thi mới có thể biết nguyên nhân gây ra cái chết được.
    - Tôi hầu như tin chắc kết quả cũng sẽ giống như những cái xác thôi. Dưới những vất cắn này là đầy kín những lỗ nho nhỏ.
    - Có lẽ anh có lý – Rebecca nói.
    Jack quay mặt đi trong khi Rebecca van74 nhìn chăm chăm cái xác. Ổ khóa của phòng tắm đã bị phá bung. Xem xét những thiệt hại, Jack nói với một nhân viên cảnh sát to con đứng gần đó:
    - Cái cửa này đã bị phá khi anh đến đây à?
    - Không ạ! Thưa trung úy, khu chúng tôi đến thì cửa khóa.
    Ngạc nhiên, Jack hỏi ngay:
    - Cái gì?
    Rebecca quay lại nhìn viên cảnh sát hỏi:
    - Đã khóa sao?
    - Hẳn quý vị đã biết các cô gái ấy ... Cô Parker ... có giữ chìa khóa nhà. Cô ấy đã vào, gọi Vastagliano, tưởng ông ta còn ngủ, nên lên phòng đánh thức ông ấy dậy. Trông thấy cửa phòng tắm đóng kín và không nghe Vastagliano lên tiếng, cô Parker e rằng có thể ông ta bị đột quỵ. Nên cô đã cúi người nhìn vào khe cửa, trông thấy bàn tay và máu. Cô ta gọi ngay cảnh sát. Tony – đồng nghiệp của tôi – và tôi là những người đầu tiên đến đây.
    - Lúc đó, cửa phòng tắm đã khóa trái sao? – Jack hỏi.
    Viên cảnh sát gãi gãi cằm:
    - Đúng vậy mà, nếu không thì đâu cần phá ổ khóa làm gì đâu! Trung úy biết không, ổ khóa này có một “hệ thống an toàn”, nghĩa là nó không thể khóa từ bên ngoài.
    Rebecca cau mày:
    - Nghĩa là hung thủ không thể khóa cửa lại sau khi ra khỏi phòng tắm?
    - Đúng vậy – Jack nói khi nhìn kỹ ổ khóa – Có thể nói nạn nhân đã khóa cửa từ bên trong để tìm cách thoát khỏi kẻ săn đuổi mình.
    - Nhưng vẫn bị giết như thường – Rebecca nói.
    - Đúng!
    - Trong một căn phòng đã khóa kín cửa.
    - Đúng.
    - Một căn phòng với cửa số là những khe hẹp.
    - Đúng.
    - Cửa sổ quá hẹp để hung thủ có thể thoát ra bằng lối đó.
    - Đúng, quá hẹp.
    - Vậy thì, sự việc đã xảy ra như thế nào đây?
    - Tôi làm sao biết được? – Jack nói.
    Rebecca nhìn Jack, vẻ mặt dữ dội:
    - Anh không biết nên tái diễn cái trò ...
    - Tôi có nói gì đâu?
    - Sẽ có một cách giải thích cho vụ án này.
    - Tôi tin chắc như thế.
    - Và chúng ta sẽ tìm ra nó.
    - Chắc chắn rồi.
    - Chúng ta sẽ tìm ra lời giải thích hợp lý mà.
    - Dĩ nhiên.
    o O o
    Sáng hôm đó, ở trường, Penny Dawson đã gặp một sự cố khá phiền phức.
    Trường dân lập Welton là một tòa nhà gạch bốn tầng tọa lạc trong một khu phố êm đềm, bên một con đường có hàng cây rợp bóng. Penny học lớp sáu, ở tầng ba. Chính tại phòng gửi áo ở tầng ba này là nơi xảy ra sự cố phiền phức.
    Số là vài phút trước khi vào lớp, tất cả học sinh đều phải tập trung tại phòng gửi áo. Vào lúc này, trong phòng tràn ngập tiếng cười nói của bọn trẻ trong khi chúng cởi áo khoác, ủng và găng tay để vào lớp. Giữa đám học sinh rộn rã này, Penny Dawson đang cởi găng tay và khăn quàng cổ. Thế rồi cô bé nhận thấy cánh cửa tủ bằng sắt của mình hơi bị lõm vào, như thể đã bị ai đó cạy phá. Nhìn kỹ hơn, bé thấy ổ khóa đã bị phá vỡ. Bé cau mày, mở tủ và nhảy lùi ra sau khi cả chồng giấy rơi xuống tung tóe. Bé luôn sắp xếp ngăn nắp mọi thứ trong tủ, vậy mà giờ đây trông như đống rác. Và tệ hơn nữa, sách vở đều bị xé nát với những trang rời hoặc vo tròn. Bút viết của bé chỉ còn là những mảnh vụn vỡ, kể cả cái máy tính bỏ túi cũng thế. Đứng cạnh Penny, những bé khác há hốc mồm kinh ngạc trước cảnh tượng này. Sững sờ, Penny ngồi xổm xuống để nhìn ngăn tủ phía dưới, lôi ra vài đồ vật tả tơi và cuối cùng tìm thấy cái túi đựng cây kèn clarinet. Hôm qua, vì bận làm bài của trường nên bé không mang cây clarinet về nhà. Những cái chốt cài nhỏ trên túi đã bị ai đó phá hỏng.
    Penny không dám nhìn vào bên trong.
    Sally Wrathon, nhỏ bạn thân của Penny, ngồi xổm cạnh bé:
    - Chuyện gì thế bạn?
    - Mình cũng không biết nữa!
    - Bạn đã xáo tung mọi thứ à?
    - Dĩ nhiên là không rồi. Mình ... sợ cây clarinet của mình vỡ mất.
    - Đứa nào có thể gây ra chuyện này nhỉ? Trông tởm thật!
    Chris Howe, thằng bé ngỗ nghịch nhất lớp sáu nhưng đôi khi cũng dễ mến không kém, bước đến và cũng ngồi xổm xuống. Nó nói ngay:
    - Penny à, tôi không ngờ bạn có thể bê bối đến thế.
    - Chẳng phải Penny ... – Sally nói.
    - Hẳn phải có cả dòng họ gián đáng tởm trong đó ấy nhỉ.
    - Này Chris, hãy để tụi tớ yên!
    Mồm há hốc, Chris nhìn sững Sally bởi thường ngày Sally là một cô bé tóc hung rất dễ mến và ăn nói lịch sự. Nhưng phải lúc bênh vực bạn bè Sally trở thành một con cọp cái. Chris chơm chớp mắt:
    - Này, cậu vừa nói gì hả?
    - Tớ bảo cậu hãy vào toilet, úp mặt xuống bồn cầu và dội nước vài lần cho tỉnh đi! Ở đây không cần những trò đùa của cậu. Ai đó đã quậy nát tủ của Penny và chuyện đó chẳng có gì đáng đùa cợt cả.
    Chris quan sát kỹ hơn các mẩu vụn rồi nói:
    - Ồ, tớ hiểu rồi.
    Penny ngần ngại mở cái túi đựng cây clarinet. Những cái khóa bằng bạc đã bị tháo rời. Cây kèn vỡ đôi. Sally đặt tay lên vai Penny.
    Chris hỏi:
    - Ai đã gây ra chuyện này?
    - Chẳng biết nữa. – Sally nói khẽ.
    Penny nhìn chăm chăm cây đèn clarinet. Bé muốn bật khóc, không phải vì cây đèn vỡ (tuy lý do đó cũng đủ rồi!), mà là vì bé thầm nghĩ phải chăng người ta làm vậy là vì không muốn bé học ở đây? Ở Welton này, chỉ có bé và Davey là hai đứa có cha làm trong ngành cảnh sát. Những đứa khác là con bác sỹ, kỹ sư, nhà doanh nghiệp, nha sỹ, chuyên viên quảng cáo.
    Một số đứa trẻ, bắt chước cha mẹ, làm ra vẻ ta đây giàu có, cho rằng con của cảnh sát thì không thể theo học một trường tốn kém như vậy. May thay, số trẻ đó không nhiều và hầu hết đều không quan tâm đến nghề nghiệp của bố Penny.
    Giờ đây, trong phòng gửi áo, tất cả đều lặng im khi biết có một điều gì đó khá nghiêm trọng vừa xảy ra.
    Penny đứng dậy, quay người lại và nhìn từng gương mặt một.
    Bé thầm nghĩ: phải chăng một trong những đứa trưởng giả dỏm đã phá tung tủ của bé? Bé nhận ra Sissy Johansen và Cara Wallace, hai đứa ngạo mạn nhất lớp và bỗng dưng bé muốn nhào đến, túm lấy chúng, gào lớn để chúng hiểu.
    Tao không van xin được học chung trường với tụi mày! Nhờ tiền bảo hiểm của mẹ tao mà cha tao đã có thể chi trả học phí cho tao. Tụi mày tưởng rằng tao mong mẹ tao chết để được vào học cái trường này sao? Tụi mày lầm rồi! Lầm to! Phải chi mẹ tao còn sống, thì tao đếch cần học ở Welton. Đồ bẩn thỉu! Đỏng đảnh! Bộ tụi mày tưởng tao sung sướng khi mất mẹ ư? Đồ quỷ cái! Tụi mày cảm thấy khó ở ư?
    Nhưng Penny không gào lên.
    Bé cũng chẳng khóc.
    Bé cắn môi, cố bình tĩnh, quyết không phản ứng như một đứa trẻ con. Chẳng mấy chốc, bé thấy rằng mình đã có lý khi không nhảy bổ lên chửi rửa bởi, dù Sassy và Cara có ngạo mạn và đang ghét, chúng cũng không đủ can đảm để phá tủ và đập vỡ cây clarinet của bé được. Không, chẳng phải Sissy cũng không phải Cara. Chẳng đứa nào trong đám con nhà giàu có thể làm điều đó cả.
    Vậy thì ... là ai chứ?
    Vẫn còn ngồi xổm trước tủ của Penny, Chris mân mê những mảnh vụn. Rồi đứng bật dậy, hươ hươ trong tay mớ giấy bị khía rách, Chris nói:
    - Này, hãy nhìn xem. Thứ này không chỉ bị xé nát mà hình như còn bị gặm nhấm nữa!
    - Gặm nhấm? Sally Wrather hỏi.
    Chris nói:
    - Bạn có nhìn thấy vết răng không?
    Penny gật đầu.
    - Ai có thể gặm nát cả một đống sách chứ? – Sally hỏi.
    Penny thầm nghĩ: đúng là những vết răng thật!
    - Thì chuột chứ còn ai! – Chris nói.
    Penny bỗng nhớ đến những lỗ nhỏ khoét sâu vào cây gậy bóng chày của Davey.
    Sally cau mày:
    - Chuột? Chu choa!
    Penny bỗng nhớ rõ đêm qua và cái vật gì đó núp dưới giường.
    - Đám chuột ...
    - ... chuột ...
    - ... chuột ...
    Cái từ đó lan nhanh ra giữa đám trẻ.
    Một vài đứa chạy đến mách với các giáo viên về sự việc vừa xảy ra.
    Về những con chuột.
    Nhưng Penny biết rằng không phải chuột đã giựt phăng cay gậy bóng chày trên tay bé mà là ... một cái gì đó khác. Không phải chuột đã làm vỡ đôi cây kèn clarinet của bé đâu!
    Mà là cái gì khác kia.
    Nhưng là cái gì mới được chứ?

  5. #5
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết




    Chương 5
    B
    ước vào phòng làm việc của Vincent Vastagliano ở tầng trệt, Jack và Rebecca trông thấy Nevetski và Blaine đang lục xét các ngăn kéo bàn giấy của nạn nhân.
    Với áo sơ mi trắng, Roy Nevetski trông tựa như một giáo viên dạy tiếng Anh. Cạnh anh ta, Blaine trái lại trông như tên côn đồ với dáng dấp to khỏe và cái cổ như cổ bò tót. Trái với vẻ thông minh và đường nét thanh tú toát ra từ gương mặt Nevetski, khuôn mặt Blaine trông cục súc như một chú khỉ. Cả hai đang làm việc rất thận trọng và lớp lang.
    Trông thấy Jack và Rebecca, Nevetski tức tối gào lên:
    - Yêu cầu các vị chớ có chĩa mũi vào đây! Chúng tôi sẽ lục soát toàn bộ căn phòng này và chỉ ra đi sau khi đã tìm thấy cái muốn tìm! Nào, các vị hãy đi cho khuất mắt!
    Rebecca nói:
    - Giờ đây, vì Vastagliano đã chết rồi nên nhiệm vụ không còn thuộc về các anh nữa!
    Jack cau mày, cảm thấy khó chịu trước lời nói thẳng thừng và táo tợn của Rebecca. Cô nói tiếp:
    - Công việc giờ đây thuộc đội Trọng Án và chẳng còn liên quan gì đến đội Bài Trừ Ma Túy nữa.
    - À, thế ra cô chưa từng nghe nói về sự hợp tác liên ngành sao? – Nevetski hỏi.
    - Còn anh, anh có từng nghe nói về phép lịch sự chứ? – Rebecca trả đòn.
    Jack vội can ngăn:
    - Thôi nào, đừng nóng mà. Ở đây có đủ chỗ trống cho mọi người mà.
    Rebecca tức tối liếc nhìn Jack, nhưng anh chỉ vờ như không thấy. Anh đã quá kinh nghiệm với cái trò này rồi.
    Hướng về Nevetski, Rebecca hỏi:
    - Thôi, các vị hãy ngừng tay giùm tôi đi, đừng có biến căn phòng này thành chuồng heo nữa!
    Nevetski gật gù:
    - Vastagliano giờ đã cứng đơ rồi nên chúng tôi phải giúp y một tay.
    - Các vị chỉ gây thêm rắc rối cho tôi và Jack mà thôi! Rồi chúng tôi sẽ phải lục lọi trong cái mớ hỗn độn này.
    Nevetski nói:
    - Này, tôi không rảnh để tranh cãi với cô! Xin báo với cô rằng: một khi tôi tiến hành một vụ lục soát như thế này thì chẳng cần ai phải kiểm tra lại cả. Tôi sẽ không bỏ sót một thứ gì.
    Lúc này, Carl Blaine mới lên tiếng, với lối nói can gián và cử chỉ ôn tồn như Jack:
    - Thôi, cô hãy bỏ qua cho Nevetski.
    - Cậu nói nghe lạ nhỉ! – Nevetski thốt lên.
    Blaine nói tiếp:
    - Mong cô bỏ qua cho!
    - Cậu nói nghe lạ nhỉ?! – Nevetski nhắc lại.
    - Cô thông cảm cho, sáng nay anh ấy rất căng thẳng (Tuy vẻ mặt trông cục súc, nhưng giọng nói của Blaine thật dịu dàng và lịch sự). Vâng, rất căng thẳng.
    Rebecca nói:
    - Trông thấy mặt là biết ngay anh ta đang trong thời kỳ kinh nguyệt!
    Nevetski quắc mắt nhìn Rebecca.
    Jack thầm nghĩ: trong ngành cảnh sát, tình đồng đội là điều khiến ta phấn khởi hơn cả.
    Blaine giải thích:
    - Sở dĩ căng thẳng như thế là vì chúng tôi đã theo dõi Vastagliano, nhưng y lại bị giết mà chúng tôi không hay.
    Rebecca nói:
    - Theo lẽ phải theo sát hơn nữa.
    - Đó là chuyện đôi khi vẫn xảy ra, ngay cả đối với những trinh sát tài ba nhất – Jack nói, thầm mong Rebecca sẽ chấm dứt cái trò phê phán chỉ trích này.
    - Hung thủ đã ra vào ngôi nhà này mà chúng tôi không hề hay biết gì.
    - Mọi chuyện chẳng đâu vào đâu cả! – Nevetski nói và đóng mạnh hộc bàn.
    Blaine nói:
    - Lúc bảy giờ hai mươi, chúng tôi trông thấy cô Parker vào nhà và mười lăm phút sau đó, chiếc xe cảnh sát đầu tiên ập đến. Thế là chúng tôi biết Vastagliano đã bị thủ tiêu rồi. Dĩ nhiên, ông đại úy đội trưởng sẽ không tha cho chúng tôi. Mong rằng chúng tôi sẽ tìm thấy ở đây một số tên tuổi của các cộng tác viên, khách hàng của Vastagliano, gom góp đủ chứng cứ để có thể bắt giữ một vài tên quan trọng trong đường dây buôn ma túy.
    - À, thì ra gã Vincent Vastagliano này là dân buôn ma túy à? – Rebecca hỏi.
    Blaine gật đầu:
    - Y là thành viên của gia đình Carramazza, một trong ngũ đại gia gia của Mafia kiểm soát ngành cờ bạc, đĩ điếm và những đặc sản khác của New York, Vastagliano là cháu của Gennaro Carramazza, người đã chia cho y một thị phần béo bở. Vastagliano không bán ma túy cho học sinh bởi cậu y không cho phép làm những trò hèn hạ như thế. Thị phần của y là giới ca nhạc và giới giàu có, thời thượng.
    Nevetski nói:
    - Vastagliano là tên rác rưởi. Tất cả những thứ đồ đạc đẹp đẽ trong ngôi nhà này đều không giống như y. Đó chỉ là hình ảnh mà Vastagliano muốn tạo ra cho chính y mà thôi, chỉ để chứng tỏ y thuộc giới thượng lưu, thế thôi. Gần đây, chúng tôi nhận được tin Vastagliano sắp tiếp xúc với một tên Nam Phi chuyên cung cấp cocain tên René Oblido.
    - Nguồn tin cũng xác định rằng bọn chúng dự tính gặp nhau vào ngày hôm qua hoặc hôm nay.
    - Và như thế là chúng chẳng thể gặp nhau được nữa, giờ đây khi Vastagliano chỉ còn là cái xác bê bết máu.
    Rebecca gật đầu nói:
    - Anh nói có lý đấy. Như thế là xong! Vậy thì các anh cũng nên rời khỏi đây để cho chúng tôi còn làm việc.
    Cả Nevetski lẫn Blaine đều tức tối nhìn Rebecca, tưởng chừng muốn nện cho cô một trận. Thấy vậy, Jack nói ngay:
    - Các anh cứ yên tâm làm việc, chúng tôi sẽ không quấy rầy các anh đâu vì còn nhiều việc khác nữa. Nào Rebecca, chúng ta hãy sang gặp bác sỹ pháp y nào!
    Jack không dám nhìn Rebecca vì biết nàng đang nhìn mình bằng ánh mắt tức tối.
    Rebecca miễn cưỡng bước ra khỏi phòng. Trước khi ra theo, Jack dừng lại ở ngưỡng cửa để nói với Nevetski và Blaine:
    - Các anh có ghi nhận thấy cái gì có vẻ khác thường không?
    - Chẳng hạn như cái gì? – Nevetski hỏi.
    - Bất cứ cái gì. Một cái gì đó có tính lạ lùng, huyền bí, không bình thường, không thể giải thích được ấy?
    Bằng giọng cáu kỉnh, Nevetski hỏi.
    - Cái lạ thường nhất mà tôi biết đó là chẳng hiểu bằng cách nào hung thủ có thể đột nhập vào đây ấy!
    Jack hỏi:
    - Ngoài ra, không còn gì khác sao? Một điều gì đó làm cho anh nghĩ rằng đây không phải là chuyện thanh toán lẫn nhau vẫn thường xảy ra trong xã hội đen ấy?
    Nevetski và Blaine nhìn Jack với vẻ chưng hửng.
    - Thôi được rồi, ta hãy nói về cô bồ nhí cũa Vastagliano vậy.
    - Shelly Parker chứ gì? – Blaine hỏi. Cô ta đang chờ ở phòng khách.
    - Anh đã thẩm vấn cô ấy chưa? – Jack hỏi.
    - Một chút thôi. Cô ấy không phải là hạng lắm lời.
    Nevetski nói:
    - Thứ đĩ chính cống!
    - Không hợp tác – Blaine nói.
    - Một con gà ba xu. Đồ điếm. Nhưng rất đẹp.
    Jack hỏi:
    - Cô ấy có nói gì đến một người Haiti?
    - Một người gì?
    - Có phải anh muốn nói ... một người đến từ Haiti? Một đảo quốc?
    - Đúng, một đảo quốc.
    Blaine lắc đầu:
    - Không có! Tôi không có nghe cô Parker nói gì về người Haiti cả.
    Nevetski thắc mắc:
    - Người Haiti chết tiệt gì gì đó là ai?
    - Gã đó tên Lavelle. Baba Lavelle.
    - Baba? – Blaine hỏi.
    - Tên nghe sao mà hề quá vậy? – Nevetski nói.
    - Shelly Parker có nhắc đến cái tên đó không?
    - Không!
    - Gã Lavelle đó có liên quan gì đến việc này?
    Không trả lời câu hỏi, Jack nói:
    - Vậy cô Parker không nói với anh về ... chuyện ... Không biết cô ta có đề cập đến một điều gìmà cô ta cảm thấy lạ thường không?
    Nevetski và Blaine cùng cau mày.
    Blaine hỏi:
    - Anh muốn nói gì? Tôi không hiểu.
    Hôm qua Jack và Rebecca đã được trông thấy cái xác của nạn nhân thứ hai: một gã buôn ma túy cò con da đen tên Freeman Coleson. Xác của y bị băm nát bởi hàng trăm lỗ thủng nho nhỏ, tương tự như cái xác của nạn nhân đầu tiên, phát hiện vào tối chủ nhật. Carl Coleson, anh của Freeman, đã khóc sướt mướt và kể cho Jack cùng Rebecca nghe câu chuyện về một người Haiti đang tìm cách nuốt chửng toàn bộ thị trường heroin và cocain. Đây là câu chuyện lạ lùng nhất mà Jack được nghe và dĩ nhiên Carl Coleson tin chắc chuyện đó hoàn toàn có thật. Jack thầm nghĩ, nếu Shelly Parker cũng kể câu chuyện đó cho Nevetski và Blaine, thì hẳn hai người này không thể quên được. Và họ sẽ không ngạc nhiên khi nghe Jack nhắc đến chuyện “lạ thường”!
    Jack tần ngần rồi lắc đầu:
    - Không sao cả. chẳng có gì quan trọng cả đâu!
    Nói xong, Jack bước vội ra khỏi phòng trước khi hai gã trinh sát kịp lên tiếng hỏi.
    Rebecca đang chờ Jack ở sảnh, vẻ bực tức.

  6. #6
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết





    Chương 6
    J
    ack thường chơi bài poker với bạn bè hai lần mỗi tháng và cái thói quen này đã tồn tại từ hơn tám năm nay. Vào thứ năm tuần trước, trong khi chơi bài, Jack ngạc nhiên khi thấy mình đã vô tình bênh vực cho Rebecca. Số là hôm đó, các tay chơi – ba vị sỹ quan cảnh sát: Al Dufresne, Witt Yardman và Phil Abrahams – đã bôi bác Rebecca.
    Witt nói:
    - Jack à, tôi không hiểu làm sao cậu có thể chịu đựng nổi mụ đàn bà đó.
    - Lạnh hơn một cục nước đá – Al nói.
    - Đúng là một tảng băng – Phil lên tiếng.
    Trong khi những lá bài đang nhẹ nhàng được phát ra từ đôi tay thoăn thoắt của Al, những lời bôi bác vẫn tiếp tục:
    - Cô ta lạnh như một mụ phù thủy.
    - Đúng hơn như một con chó săn bị nhức răng và táo bón kinh niên.
    - Thứ làm vỡ “bìu” (O_o) - Al Dufresne nói.
    Cuối cùng Jack lên tiếng:
    - Cô ấy không có tệ như mọi người nghĩ đâu mà!
    - Thứ làm vỡ bìu - Al nhắc lại.
    Jack nói:
    - Này, nếu cô ấy là đàn ông thì hẳn các anh sẽ khen ngợi, cho rằng đó là một tay cừ khôi. Nhưng nếu tay cừ này là phụ nữ, thì các anh lại dè bỉu chê bai.
    Al đáp:
    - Gặp thứ làm vỡ bìu là tôi biết ngay, cậu khỏi phải giải thích!
    - Cô ta là kẻ gây phiền phức mà! - Witt nói.
    - Rebecca là người có nhiều đức tính - Jack nói.
    - Đức tính hả? - Phil vặn hỏi. Cậu hãy nói ra xem nào.
    - Cô ấy có óc quan sát.
    - Tựa con kền kền thì có!
    - Khôn ngoan và đầy hiệu năng - Jack nói. Ngoài ra, Rebecca luôn giúp đỡ đồng nghiệp trong tình huống khó khăn.
    - Cậu nói nghe lạ nhỉ! Có một tay cớm nào lại không giúp đỡ đồng nghiệp trong tình huống khó khăn nào? - Al hỏi.
    Jack nói:
    - Có chứ.
    - Nhưng không nhiều. Những tay đó thì sẽ không ở lâu trong ngành đâu.
    Jack nói:
    - Rebecca là người có bản lĩnh và luôn chu toàn những công tác khó khăn.
    Witt gật đầu:
    - Đồng ý, nhưng đâu phải vì thế mà cô ta luôn có vẻ khác người đâu!
    - Tôi chẳng khi nào trông thấy nụ cười của mụ ta - Phil nói.
    Al thắc mắc:
    - Không hiểu mụ ta có trái tim không nhỉ?
    Witt cười nói:
    - Dĩ nhiên có chứ! Nhưng là một trái tim bằng đá nhỏ xíu ...
    - Phải chăng cô ta dùng áo ngực bằng da?
    - Da ư? Mụ ấy thì phải xài thứ bằng thép mới đúng!
    - Các cậu khùng rồi! - Jack nói.
    Al nhướng mày nhìn Jack:
    - Tôi thấy từ hai tháng nay cậu hình như không được tỉnh táo đó Jack! Giờ thì tôi hiểu ra rồi, cậu đã trở thành cục cưng của mụ ta!
    Hiểu rằng mọi lời đối đáp của mình chỉ gây thêm đàm tiếu và trêu chọc nên Jack đành im lặng. Anh mỉm cười, để mặc cho đạn đại pháo thi nhau nổ cho đến chán thì thôi.
    Một lúc sau, Jack nói:
    - Này, các cậu đùa giỡn đã nư rồi đấy. Nhưng tôi không muốn các cậu phát tán những tin đồn nhảm nhí đó. Tôi mong các cậu hiểu rằng giữa tôi và Rebecca chẳng có gì cả. tôi nghĩ rằng dưới cái vẻ bề ngoài cương nghị cứng rắn, Rebecca là một người dịu dàng và tình cảm. Đó là điều mà tôi nghĩ, thế thôi! Các cậu đồng ý chứ?
    Phil nhận xét:
    - Có lẽ chẳng có gì giữa cậu và Rebecca, nhưng xét theo cái lối cậu thè lưỡi khi nói về cô ta thì cũng biết rõ cậu muốn lắm!
    Al nói:
    - Đúng! Anh ta thèm nhỏ dãi khi nhắc đến cô ấy!
    Và những lời diễu cợt lại vang lên. Nhưng lần này xem chừng gần với sự thật hơn. Tự thâm tâm, Jack biết mình rất thích được gần gũi với Rebecca. Jack ao ước được sống với Rebecca chứ không phải được ở cạnh cô mà thôi - bởi từ mười tháng nay, anh đã thường xuyên làm việc bên cạnh cô sáu ngày mỗi tuần. Đúng, Jack muốn sống cùng với cô, muốn chia sẻ những cảm nghĩ của cô - những cảm nghĩ mà cô vẫn khư khư giữ riêng cho mình.
    Dĩ nhiên Rebecca là một người đẹp, luôn toát ra sự hấp dẫn. Nhưng chẳng phải chỉ sắc đẹp của cô làm Jack quan tâm.
    Vẻ lạnh lùng, ngăn cách mà Rebecca dựng lên giữa cô và người khác là một thách đố mà bất cứ một người đàn ông nào cũng muốn phá vỡ. Nhưng đó cũng không phải là điều khiến Rebecca trở nên hấp dẫn với Jack hơn hết.
    Thỉnh thoảng, chỉ trong vài giây rất hiếm hoi, Rebecca đã để lộ ra, từ sau cái vỏ bề ngoài cứng rắn đó, một con người dịu dàng và tuyệt vời, một Rebecca mà Jack muốn theo đuổi và tìm hiểu. Và đó chính là điều làm mê hoặc Jack Dawson: cái thoáng nồng ấm và dịu dàng, cái rạng rỡ mà cô vội vàng che giấu đó.
    Chỉ mới đây thôi, trong tuần này, qua kinh nghiệm riêng tư, Jack đã có thể nhìn thấy cái mặt nạ cứng rắn của Rebecca rơi xuống. Và điều mà anh phát hiện quả thật kỳ diệu và xúc động đến không ngờ. Cô thật sự là một người phụ nữ tuyệt vời.
    Nhưng rồi sau đó, Rebecca tuyệt vời lại lặn mất tăm, chỉ còn lại trước mắt anh là một Rebecca lạnh lùng, xông xáo, như thể không có gì đã xảy ra giữa hai người vậy.
    Rebecca nói khi Jack bước vào sảnh:
    - Tôi nghe anh hỏi họ về chuyện gã Haiti.
    - Thì có sao?
    - Ôi, Jack! Tôi năn nỉ anh đấy!
    - Cho đến lúc này, kẻ tình nghi duy nhất của chúng ta là Baba Lavelle.
    - Điều kàm tôi khó chịu không phải vì anh hỏi về gã ta mà vì cái cách anh đã nêu lên câu hỏi ấy!
    - Không lẽ tôi nói tiếng nước ngoài à?
    - Jack ...
    - Hay tôi thiếu nhã nhặn khi nêu lên câu hỏi?
    - Này, Jack ...
    - Tôi không hiểu cô muốn nói gì?
    - Có chứ, anh hiểu rất rõ mà! Tại sao anh hỏi họ (cô bắt chước cách nói của Jack khi hỏi Nevetski và Blaine), các anh có nhận thấy một cái gì đó có vẻ khác thường hay không? Một cái gì đó có tính lạ lùng, huyền bí, không bình thường?
    Giữ thế phòng thủ, Jack hỏi:
    - Tôi chỉ lần theo dấu vết thôi mà!
    - Giống như hôm qua, anh đã lần theo dấu vết bằng cách đánh mất nửa buổi chiều trong thư viện để tham khảo tư liệu về đạo Vaudou.
    - Chúng ta chỉ ở thư viện không đến một tiếng mà.
    - Sau đó, anh đã vội vã xuống khu Harlem để nói chuyện với lão phù thủy đó.
    - Đó không phải phù thủy mà!
    - Thì là lão già điên!
    - Carver Hampton không điên - Jack nói.
    - Một lão điên chứ còn gì nữa - Rebecca nhắc lại.
    - Trong cuốn sách này có bài viết về ông ta.
    - Không lẽ chỉ vì được nêu tên trong sách mà ông ta đương nhiên trở thành người đang kính sao?
    - Ông ta là một thầy tu.
    - Chỉ là thầy tu dỏm thôi.
    - Carver Hampton là một thầy cúng Vaudou, nhưng là loại thầy cúng chỉ sử dụng pháp thuật có ích cho con người. Những thầy cúng loại này được gọi là Hougan, như ông ta nói.
    - Có gọi là gì đi chăng nữa thì lão ta cũng chỉ là lang băm! Tìm mọi cách moi tiền của những người nhẹ dạ.
    - Đối với chúng ta thì tôn giáo của Carver xem chừng khá lạ lùng.
    - Quỷ quái thì có! Thấy cái tiệm của ông ta mà phát tởm! lão bán đủ thứ cả, từ dược thảo đến máu dê, bùa ngải, và đủ cái phi lý.
    - Đối với Carter thì những thứ đó hoàn toàn có lý.
    - Đương nhiên.
    - Vì ông ta rất tin tưởng.
    - Vì ông ta bị điên!
    - Này Rebecca, cô cần phải dứt khoát quyết định xem Carter Hampton là một kẻ điên hay một thầy tu dỏm? Ông ta không thể nào một lúc kiêm hai vai!
    - Đúng đấy! Rất có thể là bốn nạn nhân mà chúng ta được biết là do một tay gã Baba Lavelle giết.
    - Cho đến lúc này thì hắn ta là kẻ tình nghi duy nhất của chúng ta.
    - Nhưng hắn ta không dùng ma thuật của đạo Vaudou. Bốn nạn nhân đó xem chừng không chết vì bùa phép. Jack à, hung thủ đã đâm chết họ. y đã nhúng tay vào máu, tương tự như bao kẻ sát nhân khác.
    Đôi mắt Rebecca có màu xanh lục, hung dữ, một màu xanh lục đậm hơn, trong hơn, mỗi khi nàng tức tối hoặc mất kiên nhẫn.
    Jack bẻ lại:
    - Tôi không thể nói rằng họ đã bị giết bởi ma thuật. Và tôi cũng không cho rằng tôi tin ở đạo Voudou. Nhưng như cô thấy đó, xác của các nạn nhân trông thật lạ lùng ...
    Bằng giọng khẳng định, Rebecca nói:
    - Tất cả đều bị đâm bằng dao! Hay nói đúng hơn, bị băm nát. Họ bị giết một cách rất dã man, với hàng trăm nhát dao hoặc hơn thế nữa.
    - Bác sỹ pháp y cho biết trong hai trọng án đầu tiên, hung khí mà thủ phạm sử dụng để gây án không lớn hơn cây dao nhíp.
    - Đúng thôi! Vậy là thủ phạm đã sử dụng cây dao nhíp!
    - Này Rebecca, điều đó chẳng có ý nghĩa gì cả.
    - Một vụ án mạng thì không bao giờ có nghĩa hết!
    - Nhưng điều làm tôi thắc mắc là kẻ sát nhân nào đã chọn hung khí là cây dao nhíp vậy?
    - Một tên thần kinh!
    - Thông thường những người điên đều thích chọn loại hung khí trông rùng rợn, ví dụ như: dao phay, rìu, súng săn ...
    - Đó chỉ có trên phim thôi !
    - Thực tế cũng có mà!
    Rebecca dứt khoát:
    - Hung thủ chỉ là một kẻ tâm thần! loại tâm thần mà thời đại này không thiếu. chẳng có gì lạ hết.
    - Nhưng làm sao mà hung thủ có thể khống chế các nạn nhân của y chỉ với một con dao nhíp trong tay được? Vì sao các nạn nhân của y không chống cự hay chạy trốn chứ?
    Rebecca vẫn bướng bỉnh:
    - Rồi chúng ta sẽ tìm thấy lời giải thích cho những vấn đề này.
    - Thông thường, nạn nhân luôn chống cự cho đến phút cuối. Tại hiện trường luôn có dấu vết ẩu đả. Vậy mà trong những trọng án vừa rồi, hình như không có một nạn nhân nào có thể gây thương tích cho hung thủ. Không hề có vết máu của kẻ sát nhân, đó là điều khá lạ. À, cô nghĩ sao về chuyện Vastagliano bị thủ tiêu trong phòng tắm đã khóa kín ?
    Rebecca lúng túng nhìn Jack, không nói gì nữa.
    - Rebecca này, tôi không cho rằng đó là do bùa phép của đạo Vaudou. Tôi không phải loại người mê tín. Nhưng theo tôi nghĩ những cái chết đó phải do một tín đồ của đạo Vaudou gây ra. Các nạn nhân trông như bị hiến tế cho thần linh vậy. tình trạng của những tử thi chỉ ra rằng ta nên điều tra theo hướng đó.
    - Tôi không nói đó là chủ trương của đạo Vaudou, tôi chỉ nghĩ là có thể hung thủ đã đặt niềm tin vào hành động của y và một tín đồ của đạo Vaudou có thể sẽ đưa ta đến hung thủ và cung cấp cho ta đủ chứng cứ để bắt giữ y.
    - Jack à, tôi nghĩ anh hầu như ...
    - Hầu như sao?
    - Đầu óc anh hơi mông lung đấy ...
    - Tại sao?
    - Khi Carl Coleman bảo rằng gã Baba Lavelle gì đó sẽ nuốt chửng các đường dây buôn bán ma túy bằng cách dùng bùa phép Vaudou để tiêu diệt các đối thủ, anh đã lắng nghe ... một cávh say sưa, giống như một đứa trẻ bị mê hoặc ấy.
    - Làm gì có!
    - Có đấy! Và điều đầu tiên mà chúng ta đã làm sau đó là đi ngay đến Harlem để vào một cửa tiệm Vaudou.
    - Nếu gã Baba Lavelle đó thật sự quan tâm đến đạo Vaudou, thì ta có thể suy ra rằng một người như Carver Hampton có thể biết y hoặc có thể khám phá một điều gì đó nơi y chứ.
    - Một gã gàn dở như Hampton sẽ chẳng giúp chúng ta được gì đâu! Hẳn anh còn nhớ vụ án Holderbeck chứ?
    - Vụ đó thì có liên quan gì?
    - Chắc anh còn nhớ bà cụ đã bị sát hại trong khi tham dự buổi lên đồng chứ?
    - Bà Emily Holderbeck, nhớ mà!
    - Vụ đó cũng đã từng hấp dẫn anh nhỉ?
    - Tôi chưa bao giờ nói rằng có cái gì đó siêu tự nhiên trong vụ án đó nha.
    - Anh đã hoàn toàn bị mê hoặc!
    - Thì đúng, vì đó là một vụ án thật lạ lùng mà! Hung thủ đã tỏ ra rất tài tình. Đồng ý là y đã ra tay trong một căn phòng âm u, nhưng trước một nhóm tám người chứ ít ỏi gì đâu.
    - Điều làm anh mê hoặc không phải là cách thức gây án mà là cô đồng Donatella với quả cầu pha lê của cô ta thì có! Anh say mê những chuyện gọi hồn, với cái gọi là trải nghiệm tâm linh.
    - Rồi sao nào?
    - Này Jack, anh tin có hồn ma sao?
    - Cô muốn biết tôi có tin sự tồn tại của thế giới bên kia không à?
    - Anh tin có hồn ma hay là không?
    - Tôi cũng không biết nữa. cũng có thể tin mà cũng có thể không ... nào ai có thể khẳng định chứ?
    - Nhưng tôi thì không tin có ma quỷ. Hơn nữa, lối tránh né của anh giúp tôi củng cố thêm quan điểm của mình.
    - Rebecca, có hàng triệu người lành mạnh, thông minh, nghiêm túc và họ tin rằng sau cuộc sống này vẫn còn có một cuộc sống khác.
    - Cũng giống như nhà khoa học, nhân viên hình sự cũng cần phãi logic.
    - Nhưng điều đó không buộc họ cũng phải vô thần!
    - Logic là công cụ tốt nhất mà chúng ta có trong tay.
    - Tất cả những gì tôi muốn nói đó là chúng ta đang đối đầu với một điều gì đó khá lạ lùng. Và vì người anh của một nạn nhân cho rằng đã có sự can thiệp của đạo Vaudou ...
    Rebecca vẫn dứt khoát:
    - Một nhân viên hình sự giỏi cần phải logic và biết làm việc có phương pháp ...
    - Chúng ta phải lần theo dấu vết dù cho điều đó xem chừng rất ngây ngô.
    - ... một nhân viên hình sự giỏi cần phải kiên định, thực tế.
    Jack bẻ lại:
    - Một nhân viên hình sự giỏi cần phải có trí tưởng tượng sáng tạo, cần phải uyển chuyển (Rồi đột ngột chuyển sang đề tài khác, anh hỏi: ) Rebecca, cô còn nhớ những chuyện tối qua chứ?
    Cô đỏ mặt:
    - Bây giờ, ta phải đi thẩm vấn cô Parker thôi - Rebecca nói và quay mặt đi.
    Jack nắm lấy cánh tay cô:
    - Tôi nghĩ là có một điều gì đó rất cá biệt xảy ra đêm qua.
    Rebecca không nói năng gì.
    Jack nói tiếp:
    - Hay là tôi chỉ nghĩ vẩn vơ?
    - Không phải lúc để nói chuyện này đâu!
    - Không lẽ cô xem chuyện đó tồi tệ lắm hả?
    - Để sau này hãy nói lại đi.
    - Tại sao cô lại đối xử với tôi như vậy?
    - Chuyện không đơn giản đâu Jack!
    - Tôi nghĩ chúng ta sẽ phải nói về chuyện đó thôi.
    - Tôi mong anh hãy để sau này hãy nói đi.
    - Sau này là khi nào?
    - Khi chúng ta có thời gian.
    - Khi chúng ta có thời gian sao? - Jack hỏi.
    - Nếu có thời gian cùng ăn trưa thì hẳn chúng ta sẽ có dịp đề cập đến chuyện đó.
    - Chúng ta sẽ dành ra chút ít thời gian thôi.
    - Chờ xem.
    - Đúng.
    Rồi Rebecca nói tiếp khi cố thoát khỏi bàn tay của Jack:
    - Bây giờ, chúng ta cần giải quyết công việc.
    Jack buông tay ra, và theo Rebecca bước vào phòng khách, lòng thầm nghĩ: tại sao mình muốn có mối quan hệ thân thiết với người đàn bà chỉ mang đến ưu phiền cho mình nhỉ? Có lẽ cô ấy là người gàn dở, đúng vậy. có lẽ cô ấy không đáng để mình phải phiền lòng đến thế. Phải chăng một ngày nào đó anh sẽ hối tiếc vì đã gặp cô? Đôi lúc anh thấy cô giống như một người loạn thần kinh. Anh nghĩ thầm: tốt hơn nên tránh xa cô ấy, và nếu khôn ngoan, anh nên dứt khoát ngay lúc này. Anh có thể yêu cầu cấp trên thay thế cô hoặc xin chuyển công tác. Anh đã chán cái nghề cứ mãi phải chạm trán với cái chết này rồi. Vậy mà sao anh cứ mãi theo đuổi.
    Dù sao, rất có thể là anh đang yêu cũng không chừng!

  7. #7
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết




    Chương 7
    Ở tuổi năm mươi tám, Nayva Rooney trông như một cụ già hom hem, một người phải suốt đời lao động cật lực, với mái tóc bạc, khuôn mặt tròn dễ mến nhưng có nhiều nếp nhăn hằn sâu. Sau khi Linda, vợ Jack qua đời, bà Rooney đã đến giúp việc cho gia đình Jack, mỗi tuần một lần và thỉnh thoảng ở lại để chăm sóc hai đứa trẻ mỗi khi Jack bận công tác.
    Sáng hôm đó, lúc đang uống cà phê trước khi bắt tay vào dọn dẹp bếp, bà Rooney bỗng nghe có tiếng động lạ phát ra từ phòng khách. Một thứ tiếng the thé, dữ dội, ngắn ngủi. Tiếng của thú vật. Bà Rooney bỏ bình cà phê xuống.
    Bà nghĩ thầm: là mèo à? Hay chó?
    Hình như đều không phải. Nhà Dawson có nuôi thú vật nào đâu!
    Khi bà Rooney chực bước trở lại thì tiếng động đó lại phát ra. Bà ngừng lại, sửng sốt, lòng cảm thấy bất an. Tiếng kêu nghe rất khó chịu và cũng giống như trước, ngắn ngủi, nhưng chối tai hơn, đầy giận dữ và đe dọa. Tiếng kêu đó hình như không giống tiếng thú, cũng không phải của con người.
    Tuy nhiên, bà Rooney vẫn lên tiếng hỏi:
    - Ai đó?
    Căn hộ chìm trong yên lặng và giờ đây sự im lặng xem chừng nặng nề hơn, như thể có ai đó đang rình rập, lắng nghe mỗi cử động của bà ta. Cũng may, bà Rooney không phải là người đễ bị hoảng loạn. bà là người luôn có thể tự xoay sở. Thế mà bỗng dưng, bà cảm thấy bị vây bủa bởi một nỗi khiếp đảm kỳ lạ mà từ trước đến giờ bà chưa từng gặp qua.
    Tĩnh mịch.
    Rooney lên tiếng lần nữa:
    - Ai đó?
    Lại một tiếng kêu đinh tai, giận dữ, đầy thù hận, khiến bà Rooney phải rùng mình.
    Bầ thầm nghĩ, phải chăng chuột? Chuột đôi khi cũng rít lên mà, nhưng không giống vậy.
    Tuy biết là ngây ngô, nhưng bà vẫn cầm lấy cây chổi và huơ huơ như một vũ khí.
    Từ phòng khách, tiếng kêu như thể khiêu khích bà hãy đến xem.
    Với cây chổi trong tay, bà Rooney ra khỏi bếp và ngần ngại đứng ở ngưỡng cửa phòng khách. Có một thứ gì đó đang động đậy bên trong. Tuy không thể nhìn thấy nó là cái gì, nhưng bà Rooney nghe có thứ âm thanh lạ lùng tựa như tiếng giấy bị vò nát hoặc tiếng lá khô bị giẫm và, cùng với thứ âm thanh đó là tiếng cào - rít tương tự như ai đó đang nói nho nhỏ bằng một ngoại ngữ lạ lùng.
    Bà Rooney can đảm bước vào phòng khách.
    Bà thoáng thấy một sự chuyển động. Lớp màn cửa màu vàng nhạt khẽ lay động, tuy không có gió.
    Bà Rooney bước nhanh hơn để có thể trông thấy phía dưới các bức màn. Nhưng màn cửa không còn lay động nữa. Rồi bà lại nghe thấy có tiếng kêu the thé, giận dữ ở phía sau lưng bà. Bà quay phắt lại, chổi đưa ra trước sẵn sàng để nện.
    Chẳng có gì.
    Bà bước ra sau cái ghế trường kỷ. Không thấy gì. Dưới những cái bàn, không thấy gì. Không có gì cả.
    Rồi tiếng kêu lại phát ra từ cửa vào nhà.
    Nhưng khi bà Rooney đến đó thì nó im bặt. Lúc nãy, khi vào nhà, bà không bật đèn nên tiền sảnh khá âm u. bà chờ đợi, lắng tai nghe ngóng.
    Lại có tiếng kêu, nhưng lần này thì phát ra từ phòng hai đứa trẻ. Bà Rooney băng qua hành lang để đến đó. Căn phòng tối om. Bà đứng một lúc nơi ngưỡng cửa, cố đảo mắt nhìn. Không một tiếng động. Bà nín thở, lắng nghe. Bà thầm nghĩ, nếu có một sinh vật nào đó ở đây thì hẳn nó phải bất động và cảnh giác như mình vậy. Cuối cùng, bà thận trọng bước vào, đi về phía giường Penny và bật cây đèn ngủ. khi bà quay sang giường của Davey để bật nốt cây đèn còn lại thì có gì đó dao động và rít lên.
    Bà Rooney la lên một tiếng ngạc nhiên. Vật đó lao đi như một mũi tên, qua cánh cửa tủ nơi hốc tường để mở dưới giường Davey, nhanh đến nỗi bà không kịp thấy rõ. Đó là một con vật nhỏ, trông như con chuột bóng lưỡng. Nhưng bà biết không có loài gặm nhấm nào có tiếng kêu như thế. Con vật không kêu nữa, giờ đây nó rít lên và ... lẩm nhẩm, như biết rằng đang lâm vào tình huống nguy kịch.
    Bà Rooney lùi lại, nhìn vào cây chổi trong tay, bà nghĩ thầm: liệu mình có nên quơ chổi vào gầm giường để đuổi nó ra để nhìn cho rõ không nhỉ?
    Nhưng trong khi bà còn đang suy nghĩ thì con vật đã chuồn nhanh ra khỏi giường và mất hút trong vùng tối của căn phòng. Con vật di chuyển rất nhanh và lần này cũng thế, bà vẫn không thể nhìn thấy nó rõ.
    - Suỵt! - Bà thốt lên.
    Thoáng chút lo sợ, bà nghĩ rằng phải chăng con vật đang xem thường bà và muốn trêu chọc bà? Nhưng như thế thì vô lý quá đi! Một con vật, dù cho nó là giống gì đi chăng nữa, cũng không có đủ thông minh để chơi trốn tìm như thế này.
    Từ một nơi nào đó trong căn hộ, con vật phát ra một tiếng kêu đinh tai, như một tiếng gọi.
    Bà Rooney thầm nghĩ: được rồi! Nếu mày muốn trêu chọc bà già này thì mày sẽ biết tay. Dù cho mày có tinh khôn và nhanh nhẹn đến đâu, tao cũng sẽ tìm cách tóm mày, dù có chết cũng được.
    o O o
    Suốt mười lăm phút, Jack và Rebecca liên tục thẩm vấn cô bồ nhí của Vince Vastagliano. Nevetski quả không có nói sai: Parker là một con người thiếu hợp tác. Jack Dawson nghiêng người về phía cô ả và nêu ra cá tên mà Carl đã cho chàng biết:
    - Cô có biết ai tên Baba Lavelle?
    Shelly Parker liếc nhanh Jack rồi nhìn xuống đôi tay đang cầm ly scotch. Tuy nhiên, chút sững sờ ngắn ngủi của Parker cũng đủ để Jack đọc được câu trả lời trong mắt cô ta.
    Parker chối phăng:
    - Tôi không biết người đó.
    Đối diện họ là Rebecca, với dáng ngồi bình thản và rất tự tin.
    Rebecca nói:
    - Không quen biết với Lavelle, nhưng có thể cô đã nghe nói đến cái tên đó chứ?
    - Không có! - Parker đáp.
    - Cô Parker, chúng tôi biết Vince Vastagliano là tay buôn ma túy và chúng tôi có thể bắt giữ cô vì có quan hệ với y.
    - Tôi không liên quan gì đến chuyện buôn bán ma túy!
    - ... Nhưng chúng tôi sẽ không truy tố cô ...
    - Các người không thể làm chuyện đó!
    - ... nếu cô chịu hợp tác.
    - Các người không thể làm gì tôi được.
    - Chúng tôi có thể làm cho cuộc sống của cô trở nên khó thở.
    - Gia đình Carramazza cũng có thể làm điều đó vậy. Tôi sẽ không nói bất cứ điều gì về họ.
    Rebecca nói:
    - Tôi không yêu cầu cô nói về họ. Chúng tôi chỉ muốn biết về Lavelle thôi.
    Lặng im, Parker cắn môi với vẻ lơ đễnh.
    Jack nói:
    - Đó là một gã người Haiti.
    - Một gã vàng ư? - Parker hỏi.
    Jack nhướng mắt:
    - Cô nói sao?
    - Gã Lavelle là dân da vàng ư? Tàu, Nhật hay Việt?
    - Không, gã là dân Haiti.
    - Thế là không phải dân da vàng.
    - Không. - Rebecca nói.
    - Thế thì da đen ư?
    - Đúng vậy. Hẳn cô đã rõ.
    Parker hất hàm với vẻ bực dọc:
    - Tôi không chơi với bọn đen.
    - Chúng tôi được biết Lavelle muốn thâu tóm thị trường ma túy.
    - Tôi không biết.
    - Cô Parker, cô có tin ở đạo Vaudou không?
    Rebecca thở dài với vẻ chán chường. Trông thấy thế, Jack nói với nàng:
    - Mong cô rộng lượng với tôi đôi chút.
    - Chuyện đó không liên quan gì đến vấn đề chúng ta muốn biết.
    - Tôi hứa sẽ không quá sa đà - Jack mỉm cười nói (Rồi quay sang Parker, anh hỏi: ) Cô có tin quyền năng của đạo Vaudou?
    - Dĩ nhiên là không!
    - Vậy mà tôi cho rằng chính vì e sợ quyền năng của đạo Vaudou mà cô đã không dám nói đến Lavelle. Cô sợ bị trừng phạt.
    - Chỉ là chuyện nhảm nhí.
    - Thật sao?
    - Tất cả những ma thuật Vaudou, chỉ là chuyện nhảm nhí.
    - Nhưng cô đã nghe nói đến Baba Lavelle rồi phải không? - Jack hỏi.
    - Không có, tôi đã nói rồi mà ...
    Jack nói:
    - Nếu thật sự không biết Lavelle thì sao cô không chút ngạc nhiên khi nghe tôi nói về đạo Vaudou, một tôn giáo khá lạ lùng như vậy? Theo lẽ cô phải thắc mắc hỏi tôi có gì liên quan giữa đạo Vaudou và vụ án vừa xảy ra chứ nhỉ. Vậy mà cô chẳng chút ngạc nhiên và điều đó cũng có nghĩa cô có biết một điều gì đó về Lavelle.
    Parker đưa tay lên miệng, định cắn móng tay nhưng rồi ngưng lại, hẳn cô ta sợ làm hỏng những cái móng tay đã được chăm sóc rất khéo.
    Cô ta nói:
    - Đúng vậy, tôi có biết đôi điều về Lavelle.
    Jack nhăn mặt nhìn Rebecca:
    - Cô thấy chưa?
    - Không đến nỗi tệ - Rebecca gật đầu.
    - Cô thấy không, tôi có một kỹ thuật thẩm vấn khá tài tình. Tưởng tượng sáng tạo đấy chứ!
    - Tôi có thể uống thêm một ly scotch nữa không? - Parker hỏi.
    Rebecca nói ngay:
    - Hãy đợi kết thúc thẩm vấn rồi cô muốn uống gì thì muốn.
    - Tôi có say đâu! - Parker phản đối.
    - Tôi đâu có nói cô sẽ say.
    - Tôi không bao giờ say xỉn cả. tôi không phải kẻ nát rượu - Parker nói.
    Cô ta đứng dậy, đi về quầy rượu, rót đầy ly trong khi Rebecca nhướng mắt nhìn Jack.
    Parker trở về chỗ cũ, ngồi xuống, đặt ly rượu trên cái bàn nhỏ, như muốn chứng tỏ cô ta vẫn tỉnh táo và có thể hoàn toàn làm chủ chính mình. Jack rùng mình khi trông thấy ánh mắt mà Parker nhìn Rebecca. Ánh mắt đó làm anh nhớ đến một con mèo hoang đang xù lông, chực tấn công. Tựa như Rebecca, Shelly Parker là một cô gái tóc vàng xinh đẹp, nhưng những điểm tương đồng của họ chỉ dừng ở đó. Những đường nét hài hòa, tinh tế nơi Rebecca chứng tỏ nàng là người có tri thức, khôn khéo và nhạy bén. Parker thì trái lại, chỉ có nét quyến rũ và gợi cảm với đôi gò má thấp và đôi môi quá dày. Đã vậy, cô ta quá chuộng son phấn. Đôi mắt xanh thoáng vẻ bối rối, khác hẳn với vẻ trung thực mà người ta có thể đọc được qua đôi mắt của Rebecca. Thêm nữa, thân hình Parker trông hơi đầy đặn và tròn trịa, tựa như một ổ bánh quá nhiều kem, bơ và trứng, quá ngọt, quá béo. Tuy nhiên, dưới lớp quần bó sát màu đen và ao thun tím, Parker trông rất hấp dẫn. Cô ta đeo khá nhiều nữ trang và, dù chỉ mới hai mươi tuổi, chút tàn phai đã ló dạng và chỉ vài năm nữa thôi, hẳn cô ta sẽ chẳng còn đủ hấp dẫn để người ta có thể tặng nữ trang cho nữa. Nói tóm lại, Shelly là người có thể làm cho đàn ông thèm muốn và mê hoặc. Rebecca cũng thế, cô cũng là người khiến đàn ông thèm muốn và mê hoặc nhưng hơn thế nữa, cô là mãu người vợ lý tưởng của đàn ông. Với Rebecca, người ta cứ muốn ở mãi cạnh cô. (Người nào ở trên mới nói muốn bỏ đi ta?! )
    Jack thầm nghĩ: trời ạ? Sao lại suy nghĩ lung tung thê này? Không lẽ mình yêu thật ta?
    Rồi anh quay sang Parker hỏi:
    - Thế cô biết gì về Baba Lavelle?
    Cô ta thở dài:
    - Tôi sẽ không nói gì về gia đình Carramazza đâu nhé!
    - Tôi cũng không muốn hỏi cô về họ. Tôi chỉ muốn biết về Lavelle.
    - Vậy thì hãy quên tôi đi. Tôi không có liên quan gì đến chuyện đã xảy ra đâu! Các người không thể giữ tôi ở lại như một nhân chứng được.
    - Cô không phải là nhân chứng. cô chỉ cần cho chúng tôi biết về Lavelle rồi chúng tôi sẽ để cô ra về, chỉ vậy thôi.
    - Thế thì tôi đồng ý! Lavelle đến thành phố này cách đây khoảng hai tháng để buôn cocain và heroin. Chỉ trong một tháng, hắn nắm trong tay hai mươi tụ điểm bán lẻ và rõ ràng là có khuynh hướng bành trướng. Ít ra, là theo lời Vince nói với tôi. Tôi chỉ biết thế thôi, vì tôi không muốn dây dưa đến chuyện buôn bán ma túy.
    - Tôi biết.
    - Bây giờ không một ai trong thành phố này có thể buôn bán ma túy nếu không biết dàn xếp với cậu của Vince. Thêm nữa, đó cũng chỉ là điều mà tôi nghe người khác nói.
    Jack trả lời khô khốc:
    - Đúng, tôi cũng nghe nói như vậy.
    - Và thế là các thành viên gia đình Carramazza đã bắn tiếng cho Lavelle biết y nên ngưng chuyện buôn bán cho đến khi đạt được thỏa thuận với đại gia. Một lời khuyên khá thân thiện đó chứ.
    - Như Abby chứ gì? - Jack hỏi.
    Parker gật đầu:
    - Đúng. Nhưng Lavelle đâu chịu ngừng. Gã Đen điên rồ đó viết thư cho đại gia Carramazza đề nghị chia đôi thị trường New York, mỗi bên một nửa, trong khi Carramazza đang làm chủ toàn bộ.
    Rebecca nói:
    - Lavelle hơi cứng rắn nhỉ!
    - Không có đâu, y chỉ láu cá thế thôi. Lavelle chỉ là thứ cò con. Trước đây, nào có ai biết đến y chứ. Theo lời Vince thì cậu Carramazza nghĩ rằng Lavelle không hiểu ý thông điệp đầu tiên đ đại gia gởi đến và thế là ông cậu đã gởi hai tay đàn em đến để giải thích cho y hiểu.
    - Chắc Lavelle bị bọn chúng bẻ gãy tay chân chứ gì? - Jack hỏi.
    - Còn tệ hơn! - Parker nói.
    - Bọn chúng luôn như vậy mà!
    - Nhưng đã có điều gì đó xảy ra cho hai tên đàn em kia - Parker nói.
    - Bị giết?
    - Tôi cũng không rõ lắm, nhưng theo như Vince nói thì có lẽ bọn chúng sẽ không bao giờ có thể trở lại nữa.
    - Như vậy là đã bị thủ tiêu rồi - Jack nói.
    - Rất có thể. Dù sao, Lavelle đã báo cho Carramazza biết y là một pháp sư Vaudou và toàn bộ gia đình Carramazza sẽ không thể nào đối đầu với y được. Dĩ nhiên, mọi người đều cười nhạo hắn. Và Carramazza đã gởi đi năm sát thủ ưu tú nhất, những tên biết rình rập, chờ đợi và nắm bắt thời cơ.
    Rebecca thắc mắc:
    - Bọn chúng có sao không?
    - Có chứ. Bốn trong năm tên đó không còn trở về.
    - Còn tên thứ năm? - Jack hỏi.
    - Bị vứt ra vỉa hè, trước nhà Carramazza ở Brooklyn, toàn thân bị cào nát, biến dạng nhưng vẫn còn sống. Có điều sống như thế thì chết đi còn sướng hơn.
    - Tại sao?
    - Hắn ta đã hoàn toàn mất trí.
    - Cái gì?
    - Hắn đã trở nên điên loạn - Parker nói, xoay xoay ly scotch trong những ngón tay thon dài. Theo như Vince biết thì tên sát thủ đó đã trông thấy những gì xảy ra cho đồng bọn y và vì quá khiếp đảm nên y đã mất trí.
    - Hắn ta tên là gì?
    - Vince không cho tôi biết.
    - Giờ đây hắn ở đâu?
    - Theo tôi nghĩ thì Carramazza có lẽ đã cho hắn trú ở một nơi an toàn nào đó rồi.
    - Và hắn vẫn ... điên?
    - Có lẽ vậy.
    - Carramazza có gởi thêm một toán thứ ba đi thủ tiêu Lavelle không?
    - Tôi không rõ. Tôi chỉ biết rằng sau vụ đó, gã Lavelle đã gửi thư cho Carramazza với ý tứ: ‘Nếu các vị muốn chiến tranh thì sẽ có chiến tranh ngay’. Rồi y cảnh báo đại gia chớ nên xem thường quyền năng của đạo Vaudou.
    - Làn này thì chắc không còn ai cười nữa chứ? - Jack đoán.
    Parker gật đầu:
    - Đúng.
    Cả ba đều im lặng. Jack quan sát Parker khi cô ta hướng mắt nhìn xuống. Chẳng thấy vẻ sưng húp nơi mắt Parker. Như thế là nàng ta chẳng thèm nhỏ nước mắt tiếc thương cho người tình Vince Vastagliano. Có tiếng gió hú ở bên ngoài. Jack nhìn về cửa sổ và thấy bông tuyết bay bay.
    Jack hỏi:
    - Này cô Parker, cô có tin rằng chuyện đó là do bùa phép của đạo Vaudou hay điều gì đó đại khái thế?
    - Không. Nhưng cũng có thể lắm chứ. Làm sao tôi biết được đây? Sau chuyện đã xảy ra trong mấy ngày qua, nào ai có thể nói trước được điều gì? Nhưng tôi biết chắc một điều, Baba Lavelle là một tên khốn kiếp!
    - Hôm qua, người anh của một nạn nhân cũng kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện tương tự, tuy không nhiều chi tiết như câu chuyện của cô. Người đó không thể biết Lavelle đang ở đâu, vậy còn cô?
    - Lavelle có một ngôi nhà ở Greenwich Village, nhưng y không còn ở đó nữa. theo Vince thì từ khi xảy ra sự việc, chẳng còn ai có thể biết Lavelle đang ở đâu. Hệ thống bán lẻ của y vẫn hoạt động bình thường. Vẫn nhận thuốc do y cung cấp, nhưng chẳng ai biết y đang ở đâu.
    Liếc nhìn Rebecca, Jack hỏi:
    - Cô muốn hỏi gì không?
    - Không!
    - Cô có thể ra về được rồi. - Jack nói với Parker.
    Parker uống thêm vài ngụm rượu rồi đặt ly xuống, đứng dậy nói:
    - Tôi chán bọn Mỳ Ống lắm rồi, đi với chúng chỉ tổ rắc rối mà thôi.
    Rebecca há hốc miệng nhìn nàng ta.
    - Tôi nghe nói dân da Vàng thì không đến nỗi tệ.
    Parker nhăn mặt rồi lắc đầu:
    - Bọn Vàng ư? Tôi không quan 6am đến họ! Vả lại, so với tôi, họ quá nhỏ con.
    Rebecca nói, giọng mỉa mai:
    - Sao cô khó thế nhỉ? Cho đến lúc này, tôi thấy cô đã chê bọn Đen, bọn Vàng, bọn Mỳ Ống (ý nói người Ý) rồi đấy. Người sao mà khó tánh!
    Không quan tâm đến lời nói mỉa mai của Rebecca, Parker mỉm cười:
    - Thú thật với chị, tôi không phải là hạng người có thể cặp với bất cứ ai. Tôi đâu đến nỗi tệ, vì thế tôi có quyền khó tính chứ!
    Rebecca nói:
    - Vậy thì cô cũng nên coi chừng cả bọn Tây Ban Nha luôn đi.
    - Thế à? Tôi chưa từng cặp với một gã Tây Ban Nha nào. Họ không tử tế sao?
    - Bọn Sherpa thì tệ hơn nữa - Rebecca nói.
    Jack đưa tay lên miệng làm bộ ho để nén cười. Cầm lấy áo khoác, Parker cau mày:
    - Sherpa là người gì vậy?
    - Dân Nepal.
    - Họ ở đâu?
    - Himalaya.
    - Vùng núi sao?
    - Đúng - Rebecca đáp.
    Parker tròn xoe mắt. Cô ta đã mặc xong áo khoác:
    - Chị chắc là đã đi du lịch nhiều nơi lắm?
    - Chút ít đây đó - Rebecca nói.
    Parker thở dài, gài nút áo khoác:
    - Tôi thì chẳng bao giờ có dịp đi đâu cả. Chỉ một lần đến Miami và Las Vegas, thế thôi.
    - À, tôi muốn nhắc cô là kể từ giờ phút này, nếu rời khỏi thành phố, cô sẽ phải báo cho chúng tôi biết đấy nhé.
    - Tôi sẽ không đi đâu cả - Parker khẳng định.
    Rồi ra đến ngưỡng cửa, cô ta quay lại nói:
    - Trung úy Rebecca! Nếu tôi có điều gì làm chị phiền lòng thì chị bỏ qua cho tôi nhé.
    - Ồ, không sao cả đâu! Cô hãy yên tâm.
    Parker rời khỏi văn phòng. Tiếng bước chân của cô nghe nhỏ dần.

  8. #8
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết





    Chương 8
    T
    uy là dân Do Thái, nhưng bác sỹ Ira Goldbloom trông như người Thụy Điển, với dáng người cao lớn, da trắng, mái tóc vàng và đôi mắt xanh. Bác sỹ Goldbloom đang trong phòng của Vince Vastagliano khi Jack và Rebecca bước vào. Ông đã khám nghiệm xong tử thi ở căn bếp và giờ đây đang lấy ra một số dụng cụ trong cái cặp da nhỏ để xem xét cái xác của Vince, chủ nhân ngôi nhà.
    Ông nói:
    - Vốn yếu bóng vía, theo lẽ tôi không nên chọn cái nghề này mới đúng!
    Jack thấy khuôn mặt Goldbloom tái xanh một cách khác thường. Anh hỏi:
    - Theo chúng tôi nghĩ thì hai cái chết trong ngôi nhà này có liên quan với cái chết của Charlie Nevell hôm chủ nhật và Coleson hôm qua. Bác sỹ có thể xác định điều đó không?
    - Có thể.
    - Chỉ có vậy thôi sao?
    Goldbloom gật đầu:
    - Đúng. Có nhiều cơ may để chúng ta có thể cho rằng những cái chết này có liên quan. Xét theo số các vết thương ... xét theo cách thức mà xác các nạn nhân đã bị hư hoại ... thì có một số điểm tương đồng. Nhưng tốt hơn, chúng ta nên chờ kết quả giải phẫu tử thi trước khi đưa ra kết luận.
    Jack ngạc nhiên hỏi:
    - Liệu chỉ với các vết thương không thôi thì chúng ta có thể xác định sự liên quan giữa các vụ án không?
    - Nếu căn cứ theo số vết thương trên mình các nạn nhân thì được thôi. Nhưng nếu dựa trên các loại vết thương khác nhau thì không thể. Anh đã xem các vết thương trên người họ chưa?
    - Thoạt nhìn thì trông như những vết cắn. những vết cắn của loài chuột hay sao đó.
    Rebecca nói:
    - Những vết cắn đó xem chừng che giấu những vết thương đích thực, gây ra bởi dao nhọn thì phải.
    - Rất có thể bọn chuột đã tấn công sau khi nạn nhân đã chết. Bác sỹ có nghĩ vậy không?
    Goldbloom lắc đầu:
    - Các vị lầm rồi! Qua những nhận xét đầu tiên, tôi có thể khẳng định nạn nhân không hề bị một nhát dao nào. Có thể thông qua giải phẫu tử thi chúng ta sẽ biết có hay không những vết do dưới các vết thương bị cắn nát, nhưng tôi không mấy tin có chuyện đó. Vastagliano và tên vệ sỹ đã bị cắn chết một cách dã man. Gã vệ sỹ đã bị cắn đứt ba động mạch: động mạch cánh, động mạch cánh tay trái và động mạch đùi. Xác Vastagliano đây còn tệ hơn, cứ như bị gặm nhấm toàn thân vậy.
    - Nhưng lũ chuột đâu đến nỗi hung dữ như vậy chứ! Chưa xảy ra trường hợp người bị chuột tấn công đến chết bao giờ, cho dù chúng có tấn công hàng đàn đi nữa.
    Bác sỹ Goldbloom cau mày:
    - Tôi không nghĩ đó là chuột đâu! Tôi đã từng nhìn thấy vết cắn của chuột, nên biết nó như thế nào. Vết cắn của chuột có nhiều điểm khác với vết thương của các nạn nhân.
    - Hay vết chó cắn chăng? - Rebecca hỏi.
    - Không đâu! Những vết cắn này quá nhỏ. Theo tôi nghĩ, chúng ta cũng không nên cho rằng đó là vế cắn của mèo.
    - Vậy, bác sỹ có ý kiến gì? - Jack hỏi.
    - Không có. Thật kỳ lạ. Có thể chúng ta sẽ biết rõ hơn sau khi giải phẫu tử thi.
    - Bác sỹ có biết, khi cảnh sát đến đây thì phòng tắm đã bị khóa trái bên trong hay không? Họ phải phá cửa mới vào được đấy!
    Bác sỹ Goldbloom gật đầu:
    - Tôi có nghe nói chuyện đó. Quả là một bí ẩn!
    Vẻ nghĩ ngợi, Rebecca nói:
    - Phải chăng có một bí ẩn nào đó trong phòng tắm? Nếu Vastagliano đã bị cắn chết bởi một con vật nào đó thì con vật này hẳn là đủ nhỏ để có thể chui qua dưới cửa phòng tắm.
    Bác sỹ Goldbloom lắc đầu:
    - Không đâu! Xét theo vết cắn thì con vật hẳn phải lớn hơn cái khe dưới cửa nhiều.
    - Theo bác sỹ thì nó phải lớn cỡ nào?
    - Khoảng bằng con chuột cống ấy.
    Suy nghĩ một lúc, Rebecca nói:
    - Trong phòng tắm có một lỗ thông hơi. Phải chăng nó đã chui vào bằng lối đó?
    - Nhưng miệng ống được đậy bằng lưới thép và những khe hở của lưới thép còn hẹp hơn cả khe dưới cửa nữa kìa. - Jack nói.
    Rebecca bước về phía nhà tắm rồi đứng ở ngưỡng cửa để ngước cổ nhìn vào phía trong.
    - Anh nói đúng! Hơn nữa, tấm lưới vẫn còn nguyên đó.
    - Và cửa sổ nhỏ cũng đã được đóng - Jack nói tiếp.
    - Không những đóng mà còn khóa kỹ - Goldbloom nói.
    Rebecca thắc mắc:
    - Còn các ống nước thì sao? Chuột có thể xâm nhập qua đường ống của bồn tắm chứ?
    - Với đường ống hiện đại thì không thể được đâu - Goldbloom nói.
    - Qua bồn cầu?
    - Khó có thể!
    - Nhưng khả dĩ chứ?
    - Theo tôi nghĩ, ta có thể ghi nhận giả thuyết đó. Nhưng có điều tôi biết chắc, không chỉ có một con.
    - Thế thì bao nhiêu? - Rebecca hỏi.
    - Tôi không thể nói con số chính xác. Nhưng ... có thể nói ... ít nhất phải hơn chục con.
    - Chà! - Jack thốt lên.
    - Có thể hai chục con hoặc hơn nữa.
    - Tại sao bác sỹ nghĩ vậy?
    - Bởi vì Vastagliano là một gã to con lực lưỡng và nếu chỉ với vài ba con vật cỡ chuột cống thì y có thể tóm ngay. Dĩ nhiên, y có thể một lúc đương đầu với nửa tá con chuột, bị cắn nhiều lần, nhưng có thể chống trả và tự bảo vệ. Tuy không giết sạch được bọn chúng, nhưng y có thể đập nát một vài con và làm cho những con còn lại phải khiếp sợ. Theo tôi nghĩ nạn nhân đã bị tấn công bởi một số rất đông và bị hạ gục ngay.
    Jack chợt rùng mình. Anh mường tượng đến một đám chuột đen kịt - hay một giống vật nào đó còn tệ hơn cả chuột - ào đến tấn công Vastagliano trongtiếng kêu rít chí chóe. Nạn nhân bị tấn công từ mọi phía, bị cắn xé trong khi không còn tỉnh trí để chống cự với đôi tay trĩu nặng bởi bầy thú, và phản xạ đã bị tê cứng vì sự khiếp đảm. Một cái chết đẫm máu, đơn độc và khủng khiếp.
    Jack bỗng thấy khiếp đảm.
    Rebecca hỏi:
    - Còn gã vẽ sỹ tên Ross thì sao? Bác sỹ có nghĩ hắn ta cũng bị tấn công bởi bầy thú không?
    - Đúng vậy. chúng ta phải nghĩ theo cách thức đó thôi.
    Rebecca thở dài:
    - Điều đó làm cho ta càng khó có thể giải thích vì sao căn phòng lại bị khóa trái cửa một cách bí ẩn như vậy. theo những gì mà tôi thấy thì hẳn lúc đó Vastagliano và gã vệ sỹ đang bận chuẩn bị một bữa ăn vội. Hiển nhiên, cuộc tấn công đã bắt đầu từ bếp. Ross đã nhanh chóng bị hạ gục. Vastagliano bỏ chạy. Y bị đuổi theo và không thể thoát khỏi nhà mình vì bị những kẻ tấn công chắn mất lối ra. Thế là y chạy lên lầu, chui vào phòng tắm và khóa trái cửa lại. Loài chuột - hay một loài gì đó - không thể chui vào phòng tắm. Vậy thì, tại sao bọn gây án có thể giết chết nạn nhân nhỉ?
    - Và sau đó, đã quay trở ra - Bác sỹ Goldbloom nhấn mạnh.
    - Hay bọn chúng đã chui qua bồn cầu?
    Bác sỹ Goldbloom nói:
    - Tôi không chấp nhận giả thuyết đó. Vì, theo tôi nghĩ, bọn chúng khá đông. Nếu muốn xâm nhập vào đây theo lối đó thì chúng phải lặn qua một hệ thống ống ngập nước rồi nối đuôi nhau tiến lên theo kiểu biệt kích. Bọn chuột sao có thể tinh khôn đến mức như vậy!
    Jack thấy miệng mình kho khốc.
    - Còn một điều nữa. Nếu Vastagliano và vệ sỹ của y bị cắn chết bởi số đông ... các con vật đó, thì hẳn hai người này cũng có thể giết chết một hoặc hai con vật chứ? Tuy nhiên, chẳng ai có thể tìm thấy xác con chuột hay con vật nào, ngoài xác hai nạn nhân.
    - Và cũng không thấy chút phân nào.
    - Cái gì chứ?
    - Phân súc vật. Nếu bầy thú lên đến hàng chục con thì hẳn chúng ta sẽ tìm thấy phân của chúng, ít nhất là vài mẫu phân, nếu không nói là cả đống.
    - Phải chi chúng ta tìm thấy cả lông của chúng nhỉ.
    Goldbloom gật đầu:
    - Đúng, ta phải cố tìm xem. Ta phải phân tích màu bụi xung quanh mỗi tử thi và nếu tìm thấy một vài cọng lông nào thì hẳn chúng ta sẽ có thể chọc thủng phần nào lớp màn bí ẩn bao quanh vụ án này.
    Bác sỹ Goldbloom đưa tay vuốt mặt, như thể xua đi sự căng thẳng và ghê tởm.
    - Còn một điều khác nữa làm tôi thắc mắc hoài, đó là loài thú không hề ăn thịt các nạn nhân. Chúng đã gặm nhấm, cắn nát, phanh thây ... có thể nói chúng không hề ăn bất cứ một mẩu thịt nào. Nếu là chuột thì hẳn chúng phải ăn những phần mềm, nhưng đằng này không hề có chuyện đó. Những con vật đó đã sát hại một cách rất khôn ngoan và có phương pháp. Sau đó, chúng bỏ đi mà không hề ăn xác nạn nhân. Đó là điều khá lạ lùng và đáng sợ. Phải chăng có một quyền năng nào đó đã ra lệnh cho chúng? Và tại sao?
    o O o
    Sau khi đã trao đổi với bác sỹ Goldbloom, Jack và Rebecca quyết định sang các nhà hàng xóm của Vastagliano để dò hỏi tin tức.
    Khi ra khỏi nhà, Rebecca nói với Jack:
    - Tôi e là cấp trên sẽ không cho chúng ta tiếp tục theo đuổi cuộc điều tra này đâu.
    - Cô muốn nói ... chúng ta sẽ được lệnh ngưng điều tra về hai cái chết này hay tất cả những cái chết khác vậy?
    - Hai cái chết này. Họ sẽ bảo rằng chúng chẳng liên quan gì với những trọng án trước đó cho xem.
    - Có chứ - Jack nói.
    - Tôi biết. Nhưng họ sẽ bảo rằng Vastagliano và Ross không liên quan gì đến vụ Novello và Coleson.
    - Tôi nghĩ rằng rồi bác sỹ Goldbloom sẽ cho chúng ta thấy mối liên quan đó.
    Bằng giọng cay đắng, Rebecca nói:
    - Tôi rất ghét bị ngưng công tác khi chưa hoàn tất!
    - Họ sẽ để chúng ta tiếp tục mà!
    - Hẳn anh biết chứ? Nếu một loài thú nào đó đã ...
    - Gì?
    - Thì họ đâu thể xem đó là một trọng án chứ?
    - Đó là một trọng án - Jack nói, giọng dứt khoát.
    - Nhưng người ta không thể kết tội thú được!
    Jack gật đầu:
    - Tôi hiểu cô muốn nói gì.
    - Mẹ kiếp!
    - Cô phải hiểu rằng, nếu những con vật đó đã được huấn luyện để giết người, thì những cái chết do chúng gây ra phải được xem là trọng án và thủ phạm là kẻ luyện thú.
    - Nếu Vastagliano và Ross bị chết do chó cắn thì các giả thuyết của anh có thể đứng vững. Nhưng đằng này không phải chó. Không hiểu chúng thuộc giống thú gì để có thể biết tuân lệnh. Chuột sao? Không phải. Hay mèo? Cũng không phải. Hay là loài chuột nhảy?
    - Người ta có thể huấn luyện loài chồn hương như một con thú săn mồi.
    - Chồn hương ư? Hẳn anh sẽ báo cáo với đại úy Gresham rằng thành phố này đang bị đe dọa bởi một hung thủ sử dụng một đàn chồn hương để gây án đấy nhỉ.
    - Chuyện này xem chừng khá kỳ cục - Jack nói.
    - Ít ra đó là cách giải thích mà chúng ta có thể nêu ra. Vậy thì, giờ đây chúng ta phải làm gì?
    Rebecca nhún vai.
    Jack chợt nghĩ đến Baba Lavelle và những quyền phép của đạo Vaudou.
    Nhưng anh không tin điều đó. Anh cho rằng Lavelle đã bao phủ những vụ án do y gây ra bằng những chuyện bí ẩn nhằm làm cho đối thủ của y phải khiếp sợ, thì có thể đồng ý, nhưng tin rằng bùa phép đã thực sự phát huy tác dụng thì không thể chấp nhận. Và, một lần nữa, ... Jack nghĩ đến phòng tắm bị khóa trái. Anh thắc mắc không hiểu sao Vastagliano và Ross đều không thể giết chết một con vật nào? Vì sao không tìm thấy chút phân nào của chúng?
    Có thể đoán được Jack đang nghĩ gì nen Rebecca cau mày, nói:
    - Thôi, chúng ta hãy vào hỏi chuyện những người hàng xóm này xem sao.
    Gió đột ngột nổi lên, rét buốt, lồng lộng trong con phố như loài thú dữ.
    o O o
    Cô Quillen, giáo viên chủ nhiệm của Penny, không thể nào hiểu được vì sao kẻ phá hoại chỉ nhắm đến một cái tủ mà thôi.
    Nhưng Penny thì biết đó không phải kẻ phá hoại mà là một thứ gì đó khác, kỳ lạ hơn. Bé biết rằng chuyện này có liên quan đến điều bí ẩn mà bé đã chứng kiến đêm qua. Tuy nhiên, bé không biết phải làm sao để xác định điều đó mà không bị mọi người cho rằng bé đã tưởng tượng ra mọi chuyện. Vì vậy, bé không tìm cách để giải thích cho cô Quillen điều đã làm bé thắc mắc.
    Sau một lúc hỏi han, an ủi Penny, cô Quillen bảo bé xuống tầng hầm để lấy sách vở.
    Tầng hầm là một gian với chiều dài tương đương với tòa nhà, được ngăn đôi, một bên là khu đặt hệ thống sưởi có cửa khóa kín và bên kia là một phòng rộng với cái bàn lớn và những hàng kệ bằng kim loại chạy dọc theo các bức tường, chứa đầy sách vở.
    Cầm lấy cái túi trên kệ, Penny nhét tất cả những thứ bé cần vào đó. Thế rồi, khi vừa tìm thấy cuốn sách sau cùng còn thiếu, Penny bỗng nghe có tiếng động lạphía sau bé. Đúng là cái tiếng đó. Thứ tiếng rít - cào - làu bàu mà bé đã nghe thấy đêm qua trong phòng ngủ của bé.
    Bé quay phắt lại.
    Bé đang ở một mình và thật ra, không thể nhìn thấy hết mọi nơi ở đây bởi dưới cầu thang là những vùng tối dày đặc. Ở một góc phòng, gần cửa ngăn đôi phòng đặt hệ thống sưởi, bóng đèn trần đã bị cháy. Xa hơn, toàn bộ phần dưới của hàng kệ khuất trong bóng tối. có quá nhiều nơi để một con vật nhỏ bé có thể ẩn núp.
    Sựng người, Penny đứng đó, lắng nghe nhưng không có bất kỳ một tiếng động nào nữa. Điều đó làm bé nghĩ có lẽ nào do mình tưởng tượng? Những giây trôi qua dài như từng phút, rồi một tiếng động phát ra từ cầu thang. Tiếng của cánh cửa tầng hầm mà ban nãy khi vào đây, bé đã để mở.
    Ai đó đã đóng cửa lại.
    Cầm lấy cái túi đựng đầy sách, Penny đi về phía cầu thang nhưng rồi dừng ngay lại khi nghe có tiếng động ở đầu cầu thang. Những tiếng rít, tiếng làu nhàu, tiếng thì thầm.
    Đêm qua, Penny đã thầm nhủ rằng con vật động đậy trong phòng bé là không có thật, chỉ là dư âm của giấc mơ mà thôi. Vậy mà bây giờ, bé biết nó không phải mơ mà la thứ gì thật khác lạ. Như cái gì nhỉ? Ma chăng? Nhưng hồn ma của ai chứ? Hẳn không phải của mẹ rồi. Nếu là của mẹ, mẹ sẽ bảo vệ bé. Nhưng đằng này, nó thật hung dữ và có thể nói, gây nguy hại. Hồn của mẹ đâu có hung dữ như vậy. Thêm nữa, linh hồn không thể bám riết theo ta đi khắp nơi. Hồn ma thường chỉ lai vãng ở một nơi nào đó cho đến khi tìm được sự an nghỉ, chứ không thể nào rong ruổi qua các con phố để đi theo một đứa trẻ.
    Vậy mà cái cửa tầng hầm đã bị đóng lại.
    Gió sao?
    Cũng có thể. Nhưng có cái gì đó đang động đậy ở cầu thang. Cái gì đó mà Penny không thể thấy rõ. Đó không phải là gió. Chắc chắn.
    Penny thầm nghĩ: hay do mình tưởng tượng? Thật sao?
    Penny đứng đó, gần cầu thang, ngước mắt lên, cố tìm kiếm, tự trấn an mình.
    Lại thêm một tiếng động nữa. Nhưng lần này khác với tiếng cánh cửa đóng lại. Và một tiếng Crak nữa.
    Thêm một tiếng nữa. Như thể có vật gì đó đập vào tường. Tiếng động ngưng bặt, rồi trong tăm tối, những tiếng động bí ẩn và kiên trì đó như đồng loạt vang lên ở khắp nơi và Penny nghe thấy có sự chuyển động. Trong tầng hầm này không chỉ có mỗi con vật đó mà có rất nhiều,rất nhiều nữa.
    Có gì đó lướt nhẹ trên chân Penny rồi lủi nhanh vào bóng tối. Bé hét lên nhưng tiếng hét không thể thoát khỏi tầng hầm. Ngay lúc đó, ở phòng bên trên tầng hầm, cô March, giáo viên dạy nhạc, đang dạo dương cầm và bọn trẻ bắt đầu hát theo.
    Giờ đây, vì tiếng hát và tiếng dương cầm nên Penny không còn có thể nghe thấy tiếng chuyển động quanh bé nữa. Nhưng bé biết chúng vẫn đang ở đó.
    Bé hít một hơi thật sâu, dứt khoát sẽ không để mất bình tĩnh vì bé biết mình đã lớn rồi.
    Nhưng cái suy nghĩ đó không làm cho bé vững tin hơn. Bé lê bước đến cầu thang, tay cầm cái túi đựng sách, tay kia vươn ra phía trước như người mù. Đến bậc thang đầu tiên, bé ngước mắt lên. Hoàn toàn tối đen.
    Ở tầng trên, cô March vẫn đánh đàn, đệm thêm tiếng hát của bọn trẻ.
    Penny nhấc chân định bước lên thì phía bên kia lấp lánh một đôi mắt, trôi nổi trong khoảng không. Dù cho Penny biết đôi mắt ấy hẳn phải của con vật giống như mèo nhưng không phải mèo. Bé vần thầm mong phải chi nó thật sự là mèo thì tốt biết mấy. Đôi mắt ấy rất to, rất sáng như thứ ánh sáng siêu nhiên. Thứ ánh sáng này có một màu sắc rất ma quái: trắng bạc như ánh trăng với chút màu xanh bạc. Đôi mắt lạnh lùng chăm chú nhìn bé, thật hung ác.
    Penny rút chân lại. Ở đầu cầu thang, con vật đang di động.
    Penny lùi lại, con vật bây giờ đã xuống đến lưng chừng cầu thang và vẫn tiếp tục xuống nữa. Penny bỗng thấy mắc tiểu. Bé tựa người vào hàng kệ và khép chặt hai đùi.
    Penny nhìn thấy có cái gì đó ở bên phải: một tia sáng dịu, một ánh chớp, một đốm đỏ sục sôi, một sự chuyển động. Điều này làm bé không còn theo dõi đôi mắt con vật đang xuống cầu thang nữa. Bé đảo mắt nhìn căn phòng tối om ... và liến ngay sau đó, cảm thấy ân hận.
    Những đôi mắt.
    Những đôi mắt trắng bạc.
    Căn phòng tối om đầy ngập những đôi mắt trắng bạc, rực sáng trên sàn nhà, cách bé khoảng một thước. Chúng đang nhìn bé từ các kệ sách, từ cái bàn giữa phòng và từ những nơi khác nữa. Một số chạy lăng xăng lui tới, số khác lại đứng im trong khi một số khác nữa từ từ lướt về phía bé. Những đôi mắt nhìn chăm chăm, không hề chớp.
    Con vật xuất hiện một phút trước đây ở đầu cầu thang giờ đã xuống đến bậc thang cuối.
    Giờ đây nó đã xuống đến tầng hầm rồi nhẹ nhàng tiến về phía Penny, dừng lại rồi nhìn bé chằm chằm.
    Penny không thể lùi thêm được nữa vì vai cô bé đang áp sát vào kệ sách. Đột nhiên, bé nhận ra tiếng nhạc đã dứt, ít giây im lặng trôi qua.
    Không thể chậm trễ, bé há miệng kêu cứu, nhưng tiếng nhạc đã lại vang lên. Bây giờ, tuy mắt đã quen với bóng tối, nhưng Penny vẫn không thể thấy rõ chúng. Bé không thể biết chúng có nanh vuốt hay không, bé chỉ có thể nhìn thấy những cặp mắt đe dọa, bất động, trong đó đang nhảy múa một ngọn lửa trắng bạc.
    Ở phía tay phải bé, những con vật khác bắt đầu di động, hầu như theo cùng sự chuyển động và cùng hướng đến một mục tiêu duy nhất.
    Penny nhìn chúng, cổ họng thắt lại, tim đập dồn dập. Bé nghĩ thầm: bọn chúng đang tiến về phía mình!
    Hai con vật nãy giờ ở trên bàn, giờ đã nhảy xuống đất. Penny hét thật to. Ở tầng trên tiếng nhạc vẫn không ngừng, và không ai có thể nghe thấy tiếng kêu của bé.
    Tất cả các con vật đều đã tập hợp lại, ngoại trừ con đang đứng ở chân cầu thang. Đôi mắt chúng lấp lánh tựa như kim cương trên nền nhung đen.
    Chúng bất động và chờ đợi.
    Penny nhìn về phía cầu thang. Con vật đứng một mình ở đó bắt đầu di chuyển, nó không hướng về phía Penny mà là hướng về phía bầy thú.
    Bây giờ lối lên cầu thang đã trống. Penny thầm nghĩ, chỉ là trò xảo trá thôi.
    Nhưng rõ ràng không có con vật nào chắn lối lên cầu thang nữa và bé có thể leo nhanh lên.
    Bọn trẻ vẫn đang hát theo nhạc. Penny liền chạy ào về phía cầu thang. Bé tưởng chừng bầy thú sẽ cắn vào gót chân bé, bám vào người bé làm cho bé phải ngã quỵ. Vì quá vội, bé vấp phải bậc thang, bé liền bám lấy lan can và tiếp tục chạy lên. Cuối cùng bé đã lên được đến đầu cầu thang. Bé mò mẫm quả đấm cửa rồi thoát ra hành lang. Đèn sáng trưng. Thoát rồi! Bé đóng cửa tầng hầm lại, và tựa lưng vào đó, thở dốc.
    Hành lang vắng tanh.
    Bé cảm thấy choáng váng. Không còn có thể đứng vững nữa, bé ngồi bệt xuống. Một lúc sau, bé dần bình tĩnh và lấy lại sức, đầu óc cũng sáng suốt hơn. Bé thắc mắc về những con vật nhỏ đáng ghê tởm đó. Chúng từ đâu ra và chúng muốn gì ở bé?
    Bé biết chúng hoàn toàn có thật chứ không phải ở trong truyện cổ tích. Nhưng nếu bé kể ra chuyện này, sẽ chẳng ai tin. Nếu kể lại cho cô Quillen hay bố, họ sẽ tưởng rằng bé chỉ muốn gây sự chú ý và muốn được thương xót. Họ sẽ cho rằng bé vẫn chưa vượt qua được cú sốc khi mất mẹ. Dù cho quả thật suốt vài tháng sau khi mẹ qua đời, bé đã trải qua một đoạn thời gian khá tồi tệ, với tính tình khi thì cáu kỉnh, khi thì hoảng loạn, khiếp sợ. Trong khoảng thời gian đó, bé cần có người chăm sóc. Bây giờ nếu kể ra chuyện dưới tầng hầm, họ sẽ đưa bé đến gặp bác sỹ tâm lý mất! Họ sẽ quan tâm yêu thương, chiều chuộng bé, nhưng họ sẽ không tin những gì bé nói.
    Cho đến khi họ tận mắt nhìn thấy.
    Hoặc, cho đến khi quá muộn.
    Hoặc họ sẽ tin bé một lúc nào đó, nhưng có khi lúc ấy bé đã chết rồi cũng nên.
    Bé biết sớm muộn gì chúng cũng sẽ tìm cách giết bé. Tuy không hiểu nguyên nhân, nhưng bé biết chúng cực kỳ thù ghét bé. Dù cho bây giờ chúng chưa làm hại bé, nhưng rồi chúng sẽ tàn bạo hơn. Đêm qua con vật trong phòng bé chỉ làm hư cây gậy bóng chày, nhưng sáng nay chúng dám cắn nát mọi thứ trong tủ đồ của bé. Và mới đây, chúng còn dám xuất hiện và dọa bé nữa.
    Không biết sẽ còn trò gì nữa đây?
    Chắc sẽ tồi tệ hơn thôi.
    Đám súc vật đó xem chừng rất thích thú trước sự khiếp đảm của bé. Chúng sẽ tái diễn cái trò đó, tựa mèo vờn chuột, cho đến khi thấy chán. Và lúc đó ...
    Bé rùng mình và thầm nghĩ, mình sẽ làm gì đây?

  9. #9
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết





    Chương 9
    S
    au gần một tiếng đồng hồ hỏi chuyện những người hàng xóm của Vastagliano, giờ đây Jack và Rebecca đã trở ra đường, trong những cơn gió quất mạnh tuyết vào mặt. Chẳng bao lâu nữa, mặt đường nhựa này sẽ bị phủ kín bởi lớp tuyết trắng.
    Khi gần đến nhà Vastagliano, Jack và Rebecca nghe thấy có người gọi. Họ quay lại và nhìn thấy Harry Ulbeck đang thò đầu ra từ cửa của một trong ba xe cảnh sát. Anh ta đang nói gì đó nhưng vì gió thổi mạnh quá nên nghe không rõ. Jack bước đến xe, hỏi:
    - Xin lỗi, tôi không nghe thấy gì.
    - Có điện gọi anh về sở ngay. Anh và trung úy Rebecca nữa.
    - Có chuyện gì vậy?
    - Hình như có liên quan đến vụ án mà anh đang điều tra ấy. Có một trọng án vừa xảy ra. Tương tự như vụ này nhưng ... còn đẫm máu hơn!
    o O o
    Đó là một trong những khách sạn hàng đầu của thành phố, nhìn ra Ceentral Park. Chính tại khách sạn này mười ba năm trước, Jack và Linda đã đến hưởng tuần trăng mật. Dạo đó vì không thể đi Bahamas hoặc Florida, nên họ ở lại New York và sống ba ngày trong khách sạn sang trọng này.
    Bây giờ, Linda đã qua đời được một năm. Và, từ dạo mất cô, Jack vẫn thường nghĩ đến vùng đảo Bahamas, nơi hẳn là anh sẽ chẳng muốn đặt chân đến cái khách sạn sang trọng như thế này.
    Án mạng đã xảy ra tại tầng mười lăm, nơi giờ đây sở đã gởi đến Yeager và Tufton, có nhiệm vụ canh giữ hiện trường và không để cho ai vào tầng này ngoại trừ các nhân viên hình sự và khách hàng đã mướn phòng ở đó.
    Rebecca hỏi Yeager:
    - Nạn nhân là ai vậy? những người Bắc Kinh à?
    - Không phải. hai trong số các nạn nhân là những vệ sỹ chuyên nghiệp.
    Tufton giải thích:
    - Họ là những người lực lưỡng, gan lì, được huấn luyện để đương đầu với những cược tấn công bất ngờ.
    Yeager nói:
    - Nạn nhân thứ ba là Dominick Carramazza, thuộc hàng đại gia.
    Jack thốt lên:
    - Mẹ kiếp! Có phải là em ruột của Gennaro không thế?
    - Đúng rồi! Y là em út của bố già và được bố rất cưng. - Tufton nói ngay.
    Jack thầm nghĩ, vậy mà bọn chúng không những dám giết y mà còn băm nát xác y nữa chứ. Chẳng có nhà đòn nào có thể tẩm liệm chu đáo để thân nhân có thể nhìn mặt lần cuối theo đúng nghi lễ của dân Sicilia đâu.
    Rồi anh chán ngán thốt lên:
    - Chẳng bao lâu nữa sẽ có những trận thanh toán đẫm máu trên đường phố cho xem.
    Tufton nói:
    - Sẽ có chiến tranh giữa các băng nhóm, điều mà mấy năm nay chúng ta chưa có dịp chứng kiến.
    Rebecca hỏi:
    - Dominick ...? Có phải cái tên đã được báo chí đăng tải trong mùa hè qua không?
    Yeager gật đầu:
    - Đúng vậy. ông biện lý cho rằng chính y ...
    Tufton nói xen vào:
    - Là trùm buôn ma túy. Y bị cáo buộc là người đứng đầu Tổ Chức. Bên tư pháp đang tìm cách để y lãnh hai mươi năm tù hoặc hơn nữa, nhưng y luôn may mắn được an ủi bước ra khỏi các phiên tòa.
    Jack hỏi:
    - Y làm cái gì tại khách sạn này nhỉ?
    - Theo tôi nghĩ chắc y đang trốn ở đây.
    - Đăng ký dưới một cái tên giả - Yeager nói.
    - Được bảo vệ chu đáo bởi hai vệ sỹ. Vậy mà y vẫn bị thủ tiêu. Chắc bọn giết người cũng biết y là tay có tầm cỡ trong đại gia. Nhưng mà, chúng vẫn không hề kiêng nể gì.
    - Kiêng nể ư? Chúng không những giết, mà còn băm nát nạn nhân ấy chứ! Tôi cư tưởng ba gã này đã bị gặm nhấm, cắn nát thành từng mảnh ấy.
    Án mạng xảy ra trong căn hộ hai phòng. Khi đến đây, cảnh sát đã phải phá cửa mới vào được. Bây giờ thì đã có bác sỹ pháp y, một nhân viên nhiếp ảnh của cánh sát và hai kỹ thuật viên của phòng thí nghiệm đang làm việc. Phòng khách ở đây, với bàn ghế phong cách Pháp có hai màu chủ lực là xanh và be, xem chừng rất ấm cúng và hiếu khách, nếu không có nhiều vết máu tung tóe khắp nơi.
    Cái xác đầu tiên nằm trong tư thế ngửa, cạnh cái bàn nhỏ hình bầu dục. Nạn nhân là một gã khoảng ba mươi, lực lưỡng, to con. Cái quần màu sẫm của y đã bị xé rách, áo sơ mi trắng của y cũng thế, đẫm máu. Trông không khác gì Vastagliano, nghĩa là: bị cắn nát một cách dã man. Thảm lót sàn đầy máu, nhưng sự tàn bạo không chỉ giới hạn ở đây bởi vệt máu ngoằn ngoèo từ đầu này đến đầu kia của phòng khách. Chắc nạn nhân, trong cơn hoảng loạn, đã cố thoát khỏi những kẻ vây bủa y.
    Jack cảm thấy bườn nôn.
    Rebecca thốt lên:
    - Trông như lò sát sinh!
    Cạnh xác nạn nhân là khẩu 38 có gắn ống hãm thanh.
    Jack hỏi một nhân viên cảnh sát đang lấy mẫu máu từ mọi nơi trong phòng khách:
    - Anh có chạm vào khẩu súng này chưa?
    - Dĩ nhiên là không tồi. Chúng tôi sẽ cho nó vào túi nhựa để mang về phòng thí nghiệm lấy dấu vân tay.
    - Không biết nạn nhân có bắn được phát nào không?
    - Có chứ, chúng tôi đã tìm thấy bốn vỏ đạn.
    - Cùng cỡ với khẩu súng chứ?
    - Đương nhiên.
    - Thế các anh có tìm thấy đầu đạn không? - Rebecca hỏi.
    - Cả bốn đầu đạn luôn. Hai trong bức tường này, một ở cánh cửa đằng kia và viên sau cùng ở lưng ghế bành.
    Rebecca hỏi:
    - Hình như nạn nhân không bắn trúng mục tiêu?
    - Có lẽ vậy vì chúng tôi đã tìm đủ bốn đầu đạn của bốn vỏ đạn.
    - Ở cự ly ngắn thế này thì làm sao có thể bắn hụt đến bốn lần nhỉ?
    - Làm sao tôi biết được? - Nhân viên pháp chứng nhún vai rồi quay lại với công việc.
    Phòng ngủ trông còn đẫm máu hơn, với hai cái xác. Nhân viên nhiếp ảnh liên tục bấm máy từ mọi góc cạnh. Brendan Mulgrew, bác sỹ pháp y, đang xem xét tư thế của hai cái xác.
    Một trong hai nạn nhân nằm sóng xoài trên cái giường rộng lớn, mặc áo choàng tắm đầu ở cuối giường, mắt nhìn trừng trừng lên trời, một tay đưa lên cổ đã bị xé toạc, tay kia mở rộng, kề cận.
    Jack nói:
    - Dominick Carramazza đấy!
    Nhìn khuôn mặt đã bị hủy hoại đó, Rebecca nói:
    - Làm sao mà anh có thể khẳng định?
    - Chỉ đoán thế thôi!
    Xác kia nằm sấp trên sàn nhà, đầu quay về một bên, mặt bị băm nát, túi đeo súng ở vai, áo trắng quần sậm màu y như gã ngoài phòng khách.
    Cả hai nạn nhân trong phòng này đều có súng nhưng, giống như gã kia, súng chẳng có ích lợi gì. Gã nằm trên sàn cũng xài khẩu 38. Súng gã trên giường thì bị buông rơi trên lớp khăn trải giường nhàu nát.
    Jack nói:
    - Khẩu Smith Weesson 357 Magnum này đủ mạnh để phá xuyên một lỗ thủng bằng nắm tay của tôi đấy!
    Súng không gắn ống giảm thanh.
    - Nếu bắn trong phòng, nó gây ra tiếng nổ lớn như đại pháo và vang dội cả tầng của tòa nhà.
    Jack hỏi Mulgrew:
    - Cả hai nạn nhân đều có nổ súng chứ?
    Bác sỹ pháp y gật đầu:
    - Căn cứ theo vỏ đạn thì hai người này đã bắn cả thảy mười phát. Gã có khẩu Magnum bắn được năm phát.
    - Nhưng không trúng kẻ tấn công y sao? - Rebecca hỏi.
    - Hình như không - Mulgrew đáp. Chúng tôi đang tiến hành lấy mẫu máu để xem có nhóm nào nào khác với nhóm máu của ba nạn nhân hay không.
    Chỉ tay vào hai cái lỗ lớn ở trên tường, phái bên trái giường, Jack hỏi:
    - Cái này có phải do khẩu 357 gây ra không?
    - Đúng rồi - Mulgrew gật đầu. Hai phát đạn này đã xuyên thủng cả phòng bên cạnh.
    - Trời! Có ai bị thương không?
    - Không có. Nhưng người khách ở phòng bên đã bị một phen khiếp đảm.
    - Tôi hiểu - Jack nói.
    Rebecca hỏi:
    - Người khách ấy đã kể cho ai nghe về sự việc chưa?
    Mulgrew nói:
    - Có thể người đó đã kể lại cho các nhân viên cảnh sát, nhưng hình như chưa được thẩm vấn bởi các thanh tra.
    Rebecca quay sang nói với Jack:
    - Nào, chúng ta hãy sang đó đi!
    Jack gật đầu:
    - Đồng ý! Nhưng cô hãy đợi tôi một chút nhé.
    Nói rồi, Jack quay sang Mulgrew hỏi: “Có phải cả ba nạn nhân này ... đều bị cắn chết hay không?”
    - Hình như thế.
    - Chuột cắn à?
    - Tôi không thể xác định trước khi có kết quả của phòng pháp y và pháp chứng.
    - Thưa bác sỹ, tôi muốn biết ý kiến của riêng bác sỹ ... cảm nghĩ riêng tư của ông đó.
    - À ... theo tôi nghĩ thì ... không phải chuột đâu!
    - Vậy phải chăng là chó? Hay là mèo?
    - Cũng không phải.
    - Bác sỹ có phát hiện ra mẫu phân súc vật nào không?
    Ngạc nhiên, Mulgrew hỏi:
    - Lạ thật, cũng như anh, tôi đã nghĩ đến chuyện đó và tôi đã nhìn kỹ khắp nơi. Nhưng chẳng thấy gì cả.
    - Bác sỹ có thấy điều gì bất thường không?
    - Anh đã nhìn thấy cái cửa rồi chứ?
    - Ngoài chuyện đó ra, còn gì nữa không ạ?
    Mulgrew sững sờ:
    - Bộ chừng đó còn chưa đủ sao? Anh phải hiểu rằng các nhân viên cảnh sát đầu tiên đến đây đã phải phá cửa mới vào được. Căn phòng đã bị khóa trái bên trong, các cửa sổ cũng khóa chặt đến nỗi tôi tưởng chừng như chúng bị dính chặt bởi sơn. Vậy thì ... dù là gì đi nữa - người hay thú - thì những sát thủ đó đã thoát đi bằng lối nào chứ? Tôi thấy điều đó khá kỳ lạ, anh có đồng ý không?
    Jack thở dài:
    - Khổ nỗi, dạo sau này, điều đó đã trở thành bình thường mất rồi!
    o O o
    Kề cận với dãy phòng của Dominick Carramazza là một căn phòng rộng, với tường màu hồng san hô, giường rộng, một cái bàn giấy, tủ côm-mốt và hai cái ghế.
    Khách thuê phòng là Burt Wicke, bốn mươi tuổi. Wicke cao lớn và trước đây chắc ông ta là một người rắn chắc, khỏe mạnh, nhưng giờ đây chỉ còn là con người béo phệ. Một chế độ dinh dưỡng quá nhiều chất béo cộng với nhiều thuốc lá, rượu và nhiều thứ khác nữa đã làm chảy xệ gương mặt ông. Trong căn phòng xinh đẹp này, Wicke trông như một chú ếch xấu xí trên ổ bánh sinh nhật. ( Ờ, hừm... mình không hiểu cách ví von này lắm!).
    Giọng nói the thé của Wicke khiến Jack giật mình. Jack vẫn tưởng Wicke là người có giọng nói trầm, chậm chạp trong cung cách vậy mà ông ta ăn nói khá nhanh và thường xuyên đi tới đi lui trong phòng. Ngồi ít lúc trên giường, ông đứng dậy, đi đi đứng đứng, rồi ngồi xuống ghế, nói vài câu, rồi lại đứng dậy, đi tới đi lui, không ngừng nói, không ngừng trả lời những câu hỏi và không ngừng than vãn.
    Wicke nói:
    - Các vị thẩm vấn tôi trong bao lâu? Tôi đã phải hủy một cái hẹn liên quan đến công việc làm ăn rồi đấy. Nếu quý vị cứ tiếp tục thì tôi lại phải hủy thêm một cái hẹn nữa.
    Wicke nói:
    - Quý vị thẩm vấn tôi trong bao lâu? Tôi đã phải hủy một cái hẹn có liên quan đến công việc làm ăn rồi đấy. Nếu mấy người cứ tiếp tục thế này thì tôi lại phải hủy thêm một cuộc hẹn nữa mất!
    - Chúng tôi sẽ không kéo dài lâu đâu! - Jack nói.
    Wicke kể lể:
    - Tôi đã ăn sáng trong căn phòng này, một bữa sáng chẳng ngon lành gì. Nước cam vắt thì quá nóng trong khi cà phê thì nguội tanh. Trứng gà chưa được chín lắm. Thật không ngờ có bữa ăn sáng như thế trong một khách sạn có tầm cỡ như thế này. Tuy nhiên, tôi cũng vẫn phải cạo râu và thay đồ. Lúc đang chải tóc trong phòng tắm, tôi nghe thấy tiếng kêu của ai đó. Rồi lại thêm tiếng hét. Tôi liền ra khỏi phòng tắm, lắng tai nghe ngóng. Chắc chắn tiếng hét đó được phát ra từ phòng bên cạnh, nhưng tôi lại không nghe thêm một tiếng động nào nữa.
    - Họ đã hét lên như thế nào? - Rebecca hỏi.
    - Đó là thứ tiếng kinh ngạc, khiếp đảm. Thật sự khiếp đảm.
    - Tôi muốn biết ... ông có nhớ họ đã hét lên những từ gì không?
    - Đó chẳng phải là những từ.
    - Hay là những cái tên?
    - Đó chỉ là tiếng hét thế thôi. Không một từ nào, cũng chẳng có cái tên nào.
    - Vậy thì ...?
    - À ... cũng có thể là những từ hoặc những cái tên, hoặc có khi là cả hai thứ đó hợp lại cũng nên, nhưng vì bị ngăn cách bởi bức tường nên tôi không nghe rõ được. Lúc đó, tôi thầm nghĩ, thêm cái điều đó nữa thì đúng là một chuyến du lịch thối ngay từ đầu!
    - Rồi sao nữa? - Rebecca hỏi tiếp.
    - À, những tiếng hét đó không kéo dài lâu. Ngay sau đó là tiếng nổ súng.
    Chỉ tay lên tường, Jack hỏi:
    - Và hai viên đạn đã xuyên thủng tường?
    - Không phải ngay lúc đó đâu! Mà chỉ sau một phút nổ súng. Chẳng hiểu cái khách sạn này xây bằng thứ gì mà đạn có thể xuyên thủng tường như vậy chứ?
    - Đó là loại đạn 357 Magnum cực mạnh đấy.
    Wicke lắc đầu:
    - Tường ở đây cứ như là giấy lụa! Ngay khi súng nổ, tôi đã gọi xuống nhân viên lễ tân để bảo họ gọi cảnh sát ngay vậy mà thật lâu sau họ mới đến. Sau đó, tôi gác máy, không biết phải xử trí ra sao. Ở bên ấy, người ta gào thét và nổ súng loạn cả lên. Lúc đó, tôi chợt hiểu rằng có thể mình đang ở trong tầm súng và muốn chạy ngay vào phòng tắm để núp. Nhưng tôi chưa kịp chạy thì một viên đạn đã xuyên thủng tường và xẹt ngang cách mặt tôi khoảng mười lăm centimét. Viên thứ hai còn gần hơn. Tôi nằm sát xuống sàn, úp mặt lên thảm. Cũng may, đó là những phát súng sau cùng. Vài giây sau, tiếng gào thét cũng chấm dứt.
    - Rồi sau đó? - Jack hỏi.
    - Thì tôi chờ cảnh sát đến chứ gì nữa!
    - Ông không ra ngoài hanh lang sao?
    - Ra để làm gì?
    - Để xem chuyện gì đã xảy ra.
    - Bộ anh điên à? Làm sao tôi có thể biết được chuyện gì đã xảy ra nếu chỉ đứng ở hành lang?
    - Vậy ông có trông thấy bất cứ ai hay không? Hay ông có nghe thấy một điều quan trọng nào đó, như một cái tên chẳng hạn hay không?
    - Tôi đã bảo không có rồi mà!
    Jack không còn câu hỏi nào để nêu ra nữa. Anh nhìn Rebecca và thấy cô cũng không biết phải hỏi thêm gì nữa.
    Cả hai cùng đứng dậy trong khi Burt Wicke vẫn cáu kỉnh, than vãn:
    - Chuyến du lịch này của tôi thối hoắc ngay từ đầu. Trên chuyến bay từ Chicago, tôi đã phải ngồi bên cạnh một mụ già nói năng luôn mồm. Rõ quá chán! Đã vậy, máy bay còn bị nhồi xóc. Rồi hôm qua, hỏng bét hai thương vụ và chuột xuất hiện trong phòng. Thử nghĩ xem, một khách sạn tầm cỡ này mà lại có chuột ...
    - Chuột ư? - Jack hỏi.
    - Hả?
    - Ông vừa bảo có chuột trong khách sạn.
    - ừ, có mà!
    - Ông có nhìn thấy chúng không? - Rebecca hỏi.
    - Thật là tệ hại. Một khách sạn nổi tiếng thế này mà đầy nhóc chuột!
    - Ông có nhìn thấy chúng không? - Rebecca hỏi lại.
    Wicke ngẩng đầu, cau mày:
    - Tại sao cô quá quan tâm đến chuột như vậy? Chúng thì có liên quan gì đến vụ án mạng chứ?
    Rebecca nhắc lại câu hỏi, giọng đanh hơn:
    - Ông có nhìn thấy chúng hay là không?
    - Tôi ... không thực sự thấy nhưng mà tôi nghe thấy chúng bên trong những bức tường.
    - Trong tường ư?
    - Nói đúng hơn là trong những đường ống của hệ thống sưởi ấy! Tưởng chừng chúng rất gần nhưng, như cô biết đấy, trong những cái ống trống rỗng đó thì mỗi một tiếng động đều phát ra thứ tiếng khá lớn. Có thể lũ chuột cựa quậy ở tầng dưới hoặc ở một nơi khác trong khách sạn, nhưng tôi nghe rất rõ tiếng của chúng. Lúc đó, tôi đã leo lên bàn giấy ở đằng kia và áp tai vào ống thông gió. Tôi biết chúng không xa, Chúng rít lên. Một thứ tiếng lạ lùng, gồm những tiếng chiêm chiếp, líu lo như chim. Xét theo âm thanh thì có khoảng chục con. Tôi còn nghe thấy tiếng móng vuốt của chúng sào sạo trên lớp kim loại ... nó khiến tôi nổi da gà.
    - Ông đã nghe thấy thứ tiếng đó lúc nào?
    - Sáng nay sau khi ăn sáng, tôi đã gọi xuống khách sạn để nói rằng bữa điểm tâm quá tệ. Sau một hồi nói chuyện không mấy vui vẻ, tôi gác máy - và ngay lúc đó, tôi nghe thấy tiếng chuột. Tôi lắng nghe một chút và sau khi biết chắc, tôi đã gọi điện cho ông giám đốc than phiển về chuyện đó, nhưng chẳng nhận được một lời giải thích thỏa đáng nào. Chán ngán, tôi quyết định đi tắm, thay quần áo, và thu xếp hành lý để chuyển sang một khách sạn khác.
    - Ông có còn nhớ chính xác giờ mà ông đã nghe thấy tiếng chuột không?
    - Lúc đó là vào khoảng tám giờ rưỡi. Một tiếng trước khi xảy ra chuyện nổ súng ở phòng bên.
    Jack liếc nhìn Rebecca.
    Vẻ bối rối, cô thốt lên:
    - Lạ thật nha!

  10. #10
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,679
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết




    Chương 10
    T
    rong dãy phòng tang tóc, ba cái xác vẫn còn đó. Các nhân viên của phòng pháp chứng đã hoàn tất công việc.
    Jack và Rebecca bước đến bên lỗ thông hơi của một hệ thống sưởi - một ô hình chữ nhật khoảng hai mươi trên ba mươi mét, gần sát trần. Jack kéo chiếc ghế lại để quan sát ô lưới.
    Anh nói:
    - Ở đầu ống có một vòng đệm. Mép lưới được vít vào vòng đệm và ống.
    - Đúng vậy. Tôi thấy có hai con vít - Rebecca nói.
    - Chỉ có hai con vít thôi, nhưng nếu muốn ra khỏi ống, ít nhất ta phải tháo một con để có thể xê xịch tấm lưới.
    - Và chuột thì đâu đến nỗi thông minh để làm chuyện đó nhỉ?
    - Hơn nữa, chuột không thể dùng răng hay chân để vặn con vít này.
    Rồi, cố lay chuyển tấm lưới nhưng không được, Jack nói:
    - Gắn khá chắc đó!
    - Ta thử kiểm tra những miệng ống khác xem sao ...
    Họ lần lượt kiểm tra các miệng ống sưởi: hai trong phòng khách, một trong phòng ngủ và một trong phòng tắm. Tất cả các tấm lưới đều được gắn rất chặt.
    Jack nói:
    - Chẳng có người nào hay vật nào có thể xâm nhập vào đây qua qua đường ống sưởi hết. Dù cho tôi có muốn tin rằng bọn chuột có thể phá tung lưới thép để vào thì tôi cũng không thể chấp nhận giả thuyết cho rằng chúng có thể gắn lưới lại sau khi rút đi được! không một giống thú nào có thể tinh khôn như thế!
    - Dĩ nhiên. Giả thuyết đó xem ra thật nực cười!
    - Vậy thì ... - Jack ướm lời.
    Rebecca thở dài:
    - Vậy thì ... phải chăng chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên đến lạ lùng nếu những nạn nhân ở đây đã bị cắn chết trong khoảng thời gian ngắn sau khi Wicke nghe thấy tiếng chuột trong các bức tường?
    - Tôi không thích những chuyện “trùng hợp” đó xíu nào.
    - Tôi cũng vậy!
    - Thông thường, những điều trùng hợp sẽ đưa đến một kết quả khác.
    - Đúng như vậy!
    - Nhưng giả thuyết về sự trùng hợp là điều dễ chấp nhận nhất. Trừ phi ...
    - Trừ phi thế nào? - Rebecca hỏi.
    - Trừ phi cô nhấp nhận có ma thuật của đạo Vaudou ...
    - Không, tôi không chấp nhận chuyện đó!
    - ... và có bọn quỷ dữ len lỏi giữa những bức tường ...
    - Thôi mà Jack, đừng có ở đó mà nói chuyện tào lao nữa!
    - ... để xuất hiện, giết chóc, rồi chui vào tường và biến mất.
    - Tôi không nghe anh nói nữa đâu!
    Jack mỉm cười:
    - Chỉ đùa một chút thôi mà!
    - Theo tôi nghĩ, có lẽ anh cho rằng anh không tin vào những chuyện quái đản đó, nhưng trong thâm tâm, anh đã phần nào ...
    - Chất chứa một tâm lý phóng khoáng.
    - Nếu anh cứ dứt khoát đùa bỡn với chuyện đó ...
    - Tôi dứt khoát!
    - Thì có thể nó sẽ là chuyện có thật.
    - Tôi có thể chứng tỏ mình là người có tâm trí phóng khoáng ...
    - Đúng.
    - Nhưng ít ra, tôi không phải là người ngoan cố!
    - Tôi cũng vậy.
    - Cũng không phải là người cứng nhắc.
    - Tôi cũng vậy.
    - Cũng chẳng phải là người khiếp sợ.
    - Anh muốn ám chỉ điều gì?
    - Cô hiểu rõ mà.
    - Anh muốn nói tôi là người khiếp sợ?
    - Bộ không phải sao Rebecca?
    - Tôi sợ gì chứ?
    - Đêm qua, có một điều ...
    - Chớ có ngu ngốc!
    - Vậy thì, ta hãy nói chuyện đó đi!
    - Bây giờ không phải là lúc nói chuyện đó!
    Jack nhìn đồng hồ:
    - Mười một giờ hai mươi. Chúng ta sắp ngưng công việc để ăn trưa và, như cô đã hứa, chúng ta sẽ nói đến chuyện đó trong bữa ăn nhé.
    - Nếu chúng ta đủ thời gian để ăn trưa, như tôi đã nói.
    - Chúng ta có thời gian rảnh mà!
    - Tôi không nghĩ thế! Còn bao nhiêu việc phải làm đây này!
    o O o
    Ra khỏi nhà bằng cửa sau, Lavelle đứng gần bồn cỏ đã ngả sang màu nâu vì giá rét. Y nhìn các bông tuyết bay bay trong gió. Đây là lần đầu tiên y thật sự trông thấy tuyết bởi từ ba mươi năm nay, y chỉ sống ở Haiti, Saint - Domingue, Jamaica và một vài đảo trong vùng Caribean.
    Trước đây y tưởng rằng với một người quen sống ở vùng nhiệt đới thì mùa đông ở New York hẳn phải khắc nghiệt, buồn bã lắm. Vậy mà, mùa đông ở đây đã mang lại cho y nhiều điều thích thú và một tâm trạng tích cực.
    Nhằm thực hiện được mục tiêu, y đã phát hiện trong thành phố này nhiều nguồn dự trữ cung cấp cho y sức mạnh: một sức mạnh cực kỳ hữu ích của cái ác. Ở nơi đây, cái ác nở rộ khắp nơi, từ vùng ngoại ô cho đến trung tâm New York. Dĩ nhiên, tại vùng Caribean, nơi y từng sinh sống và hành nghề Boko - thầy cúng đạo Vaudou chuyên về ma thuật - từ năm hai mươi hai tuổi, thì đối với y cái ác cũng không thiếu. Nhưng chính tại New York này, nơi có quá đông người chen chúc trong một không gian chật hẹp, nơi mỗi tuần xảy ra ít nhất hai mươi vụ trọng án; nơi hiếp dâm, cướp của, lường gạt, trộm cắp và đủ chuyện khùng điên khác diễn ra như cơm bữa, là thành phố mà những người như Lavelle ngửi thấy trong không khí cái mùi của cái ác đang bao trùm. Mỗi hành vi xấu xa của con người lại giải phóng những luồng âm khí gây nguy hại và củng cố sức mạnh tàn phá của cái ác. Có thể nói, đó là những dòng sông vô hình, phi vật chất. Nhưng sức mạnh của chúng là có thật và có thể gây chết người.
    Tuy nhiên, cũng có những dòng sông mang tính chất khác đang cùng chảy trong thành phố này, đó là những luồng sinh khí được bồi đắp bởi những sinh năng phát ra từ cái thiện. Đó là những dòng sông của hy vọng, tình nghĩa, can đảm, bác ái, phẩm cách, tình bạn và sự trung thực.
    Một Hougan - thầy cúng của đạo Vaudou dùng phép thuật để trị bệnh và cầu xin ơn phước cho mọi người - là người biết sử dụng cái sinh năng tích cực đó. Nhưng Lavelle không phải là Hougan, mà là một Boko. Y đã chôn kín đời mình trong ma thuật và bừa chú gây hại, theo những nghi thức của Congo và Pétro.
    Mặc dù đã dài hơi sánh vai cùng cái ác, nhưng Lavelle trông chẳng có vẻ gì là âm u, buồn bã và chán nản cả. Trái lại là đằng khác, y có vẻ hạnh phúc, sung sướng. Đứng sau nhà, y mỉm cười thích thú khi nhìn những bông tuyết bay bay. Y cảm thấy mạnh mẽ, thư thái và hài lòng với chính mình.
    Lavelle cao một mét chín mươi, nhưng với chiếc quần ống hẹp và chiếc áo khoác dài casơmia, trong y còn cao hơn. Tuy với tấm thân gầy đét, nhưng trong y lại toát ra một ấn tượng quyền lực và vững tin với khuôn mặt thanh tú tựa diễn viên da đen nổi tiếng Sydney Poitier. Y có làn da đen sậm, những bông tuyết tan trên mặt y, bám vào đôi lông mày và phủ giá lên mái tóc xoăn.
    Sau khi đã chán chê nhìn tuyết, Lavelle đi vào nhà kho kế bên nhà để xe, mở cửa rồi bước vào.
    Y cảm thấy ngột ngạt. Tuy nhà kho không có hệ thống sưởi nhưng ở đây lại nóng đến khó thở. Chưa kịp đóng cửa lại, Lavelle đã cởi ngay áo khoác trị giá chín trăm đô ra, để dễ thở hơn.
    Không khí ở đây sực nức mùi lưu huỳnh, một cái mùi khó chịu đối với nhiều người. Nhưng với Lavelle thì y lại thích thú hít đầy phổi và mỉm cười. Y thưởng thức cái mùi hôi hám đó. Với y, đó là hương thơm dịu ngọt của sự báo thù.
    Mình mẩy Lavelle đã ướt đẫm mồ hôi.
    Y cởi áo sơmi, lẩm nhẩm cầu kinh bằng một thứ ngôn ngữ lạ lùng.
    Y cởi giày, quần và cả quần áo lót.
    Hoàn toàn trần trụi, y quỳ gối trên nền đất.
    Rồi y bắt đầu bài ca nho nhỏ, một giai điệu thanh khiết, mê hoặc, bằng một giọng trầm, khá hay.
    Mồ hôi nhỏ giọt trên tấm thân đen bóng lưỡng.
    Lavelle từ tốn đong đưa thân mình theo khúc ca đơn điệu, được hát bằng một thứ thổ ngữ của Haiti nửa Jamaica.
    Bài ca nói đến sự trả thù.
    Về cái chết. Máu của kẻ thù. Lavelle cầu xin sự hủy diệt tất cả những thành viên của gia đình Carramazza, lần lượt từng tên một, theo danh sách mà y đã soạn sẵn.
    Tiếp đó, y khẩn cầu thần linh hãy sát hại hai đứa bé con của gã sỹ quan cảnh sát đó, một điều đã trở nên cần thiết vào bất cứ lúc nào.
    Cái ý nghĩ giết chết hai đứa bé đó không làm y bứt rứt chút nào mà trái lại, còn khiến y thích thú là đằng khác.
    Người y đang trong trạng thái nhãp đồng. Đôi mắt y ngời sáng, những ngón tay dài ve vuốt tấm thân gầy theo một dáng điệu gợi cảm.
    Hơi thở của y càng lúc càng nặng nề hơn. Y hít vào một thứ không khí nặng, nóng và thở ra một làn khói còn nặng và nóng hơn.
    Trong ánh sáng vàng cam ấy, những giọt mồ hôi lấp lánh trên làn da đen mun. Tuy không bật đèn sáng khi vào nhà kho, và dù nơi đây không có cửa sổ nên khá tối, nhưng ở giữa phòng vẫn bàng bạc một thứ ánh sáng vàng cam. Thứ ánh sáng này phát ra từ một cái lỗ có đường kính khoảng một thước rưỡi mà Lavelle đã đào trong một buổi tế lễ với những nghi thức rất phức tạp kéo dài suốt sáu tiếng đồng hồ. Trong buổi lễ này, Lavelle đã tiếp xúc với rất nhiều ác thần - Congo Savannan, Congo Maussai, Congo Moudougue - và những sứ thần của Diêm vương như Ibo, Pétro Maman Pemba và Tie Jean Pie Fin.
    Cái lỗ có hình dạng như một miệng hố do thiên thạch gây ra, với chiều sâu không quá một thước. Nhưng nếu nhìn một lúc lâu, cái hố xem chừng càng lúc càng sâu hơn. Điều lạ lùng là khi ta nhìn chăm chăm vào cái ánh sáng lập lòe đó trong vài phút, khi ta tìm cách xác d ịnh cái nguồn sáng đó, thì cảnh tượng trước mắt ta bỗng chốc biến đổi và ta thấy rằnng cái hố này sâu thăm thẳm. Đó không còn là cái hố đơn giản đào trên nền đất nữa, mà là một cánh cửa thần kỳ mở vào lòng đất.
    Không ngừng hát, Lavelle nghiêng người về phía trước.
    Y chăm chú nhìn ngọn lửa vàng cam đang lập lòe, mắt y hướng vào miệng hố và chìm trong đó.
    Y đang đắm chìm trong ...
    Địa ngục!
    o O o
    Đã gần mười hai giờ trưa khi bà Nayva Rooney quét dọn xong căn hộ của gia đình Dawson.
    Sau khi săn lùng con chuột - hay con vật gì đó - khắp các phòng, bà không còn nghe thấy một tiếng động nào nữa. Nó đã biến mất.
    Bà ghi lên giấy vài dòng, căn dặn Jack Dawson gọi điện ngay cho bà khi anh về đến nhà. Bà muốn báo cho Jack biết vụ con chuột và khuyên anh nên gọi dịch vụ diệt chuột để giải quyết vấn đề. Viết xong, bà Rooney dán mẫu giấy lên tủ lạnh, rồi khoác áo choàng, tắt điện và ra về. Giờ đây, căn hộ chìm trong thứ ánh sáng xám nhạt hắt vào từ những cửa sổ. Bước ra khỏi cửa, bà Rooney đứng im một lúc.
    Vắng lặng.
    Cuối cùng, bà khóa cửa lại.
    Ít phút sau khi bà Rooney ra về, có một vật gì đó vụt chạy ra khỏi phòng Penny và Davey. Nếu Bà Rooney còn ở đó, hẳn bà sẽ có thể nhìn thấy đôi mắt lóe sáng, rực lửa đang tiến về phòng khách và nghe thấy tiếng sào sạo của móng vuốt con vật trên sàn nhà cùng với tiếng rít lạnh lùng và hằn học của nó.
    Một con vật thứ hai vụt ra khỏi phòng hai đứa trẻ, tuy toàn thân nó khuất hẳn trong bóng tối, nhưng đôi mắt thì lóe sáng.
    Rồi một con vật thứ ba xuất hiện, đen thui, rít lên từng cơn.
    Và con thứ tư, thứ năm, thứ sáu, ...
    Chẳng mấy chốc, chúng tràn ngập căn hộ. Một số núp trong các góc phòng, số khác leo lên bàn ghế hoặc núp phía dưới, chạy dọc theo ván chân tường hay bò lên tường, lên màn cửa, như loài côn trùng. Chúng đánh hơi, rít lên, chạy từ phòng này sang phòng khác, mồm không ngừng làu bàu một thứ ngôn ngữ lạ lùng, như được phát ra từ cổ họng.
    Rồi bỗng nhiên, bọn chúng đứng khựng lại, như được lệnh. Sau đó, chúng bắt đầu đong đưa. Trong bóng tối, ánh mắt chúng tạo thành những vòng cung nhỏ, phát sáng. Ở đầu kia của thành phố, điệu ngân nga của Baba Lavelle đang dần dắt nhịp đong đưa của bầy thú.
    Cuối cùng, chúng ngừng lại.
    Trong bóng tối, chúng bất động chờ đợi, mắt lóe sáng.
    Chẳng bao lâu nữa, chúng sẽ nhận được tín hiệu.
    Chúng nôn nóng chờ đợi.

Trang 1 / 2 12 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Đau, buông bỏ và buông xuôi
    By sophienguyen in forum Danh Ngôn - Lời Hay Ý Đẹp
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 09-10-2015, 11:53 PM
  2. Đêm buồn lặng lẽ
    By giavui in forum Thơ Sưu Tầm
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-09-2014, 03:55 AM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 10-23-2014, 01:39 PM
  4. Màn Đêm Buông Thủng
    By giavui in forum Audio Cổ Tích Thiếu Nhi
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 06-28-2014, 09:27 PM
  5. Một Đêm Xuân
    By hailua in forum Audio Cổ Tích Thiếu Nhi
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-31-2014, 12:49 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •