Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ *Khó mà thương yêu được một lần thứ hai người mà mình đã hết thương yêu.
La Rocheffoucauld
Trang 2 / 2 ĐầuĐầu 12
Results 11 to 20 of 20

Chủ Đề: Đêm Đen Buông Xuống

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Đêm Đen Buông Xuống

    Đêm Đen Buông Xuống
    \
    Tác giả: Dean R_Koontz








    Chương 1: Dẫn Nhập
    1
    giờ 12’ sáng thứ tư ngày 8 tháng 12.
    Penny Dawson thức giấc và nghe trong đêm có một tiếng động vụng trộm lén lút.
    Bé tưởng mình vẫn đang mơ. Lúc nãy, trong giấc ngủ bé đã mơ thấy các chú ngựa và đó là giấc mơ tuyệt vời nhất trong suốt quãng đời ngắn ngủi mười một năm của bé. Bé cố ngủ lại để trở về với giấc mơ dịu dàng đó, nhưng tiếng động lạ thường làm bé khiếp sợ. bé thầm nghĩ: Hẳn đó chỉ là tiếng động gây ra bởi con ngựa trong giấc mơ của bé hoặc tiếng rơm rạ trong chuồng ngựa và chẳng có gì để phải hốt hoảng. Tuy vậy, ý nghĩ đó không làm bé an tâm; bé không thể tin cái tiếng động lạ lùng đó xuất phát từ giấc mơ và vì thế bé sực tỉnh hẳn.
    Tiếng động đó xuất phát từ giường Davey ở cuối căn phòng! Nhưng đó chẳng phải là tiếng khò khè của đứa bé trai đang ngủ sau bữa ăn tối no nê. Đó là thứ tiếng xuẫn động, vờ vĩnh. Rõ ràng là thế.
    Penny thầm nghĩ: Không biết thằng bé đang giở trò gì đây?
    Cô bé ngồi dậy và nhướng mắt nhìn vào bóng đêm dày đặc nhưng không thể trông thấy gì. Bé ngẩng đầu, lắng tai nghe ngóng.
    Sự tĩnh mịch của đêm bị phá vỡ bởi tiếng rì rào, một tiếng thở dài. Rồi im bặt. Penny nín thở, cố lắng tai nghe cho rõ.
    Một tiếng rít. Rồi một thứ tiếng giống như tiếng cào hoặc tiếng cọ xát.
    Tối đen như mực, nhưng cửa phòng vẫn để hé mở. Hai đứa bé luôn để cửa mở khi ngủ để cha chúng có thể nghe thấy tiếng, trong trường hợp chúng thức giấc và gọi bố. Tuy nhiên, mọi ngọn đèn trong căn hộ đều tắt cả.
    Penny gọi nhỏ:
    Davey?
    Không có tiếng trả lời.
    Davey, em đó hả?
    Hou-Hou. Hou-Hou...
    Thôi đi Davey!
    Vẫn không có tiếng trả lời.
    Penny thầm nghĩ: Bọn nhóc bảy tuổi quá tinh nghịch đến mức không thể chịu nổi. cô bé nói:
    Nếu em còn tiếp tục chơi cái trò ngu xuẩn đó thì em sẽ biết tay chị!
    Một tiếng động khô khốc, tựa như chiếc lá vàng bị bàn chân ai giẫm và thứ tiếng động đó đang tiến gần lại.
    Này Davey, chớ có làm trò quỷ quái!
    Và tiếng động lại càng gần hơn! Một cái gì đó đang đi ngang qua căn phòng, hướng về cái giường. Penny biết đó không phải Davey bởi thằng bé còn quá nhỏ để có thể đùa dai ở mức độ tài tình như vậy.
    Tim Penny đập nhanh trong lồng ngực khi cô bé cho rằng đây có thể là mơ, tựa như giấc mơ về ngựa ban nãy, nhưng lần này thì ko êm ái chút nào.
    Nhưng đồng thời Penny biết rõ mình đang tỉnh.
    Cô bé chảy nước mắt khi nhìn chăm chăm vào bóng tối. Bé đưa tay bật cây đèn ngủ ở đầu giường nhưng trong một lúc lâu, bé ko tìm được công tắc. Bé vô vọng sờ soạng trong bóng tối.
    Giờ đây, có thứ âm thanh êm nhẹ đang phát ra cạnh giường bé. Cái vật đó đang ở rất gần!
    Cuối cùng, bàn tay bé đã chạm được công tắc đèn. Ánh sáng tỏa xuống giường và sàn nhà. Chẳng thấy một sinh vật đáng sợ nào trong vùng sáng cả. Tuy sánh sáng ko đủ mạnh để đẩy lùi toàn bộ bóng tối nhưng cũng đủ để Penny hiểu rằng chẳng có gì nguy hiểm và đáng sợ. Ở giường bên kia, Davey đang ngủ ngon lành.
    Penny không còn nghe thấy tiếng động lạ nữa. Nhưng bé đã biết đây không phải mình tưởng tượng và bé cũng không phải loại người chỉ biết tắt đèn rồi trùm kín chăn để quên đi mọi chuyện. Bố thường bảo bé là người tò mò nhất trên đời mà! Và thế là bé tung chăn, ra khỏi giường và đứng lặng im để nghe ngóng.
    Không một tiếng động.
    Penny bước về phía giường Davey để nhìn kỹ thằng bé hơn. Ở đây tuy không sáng lắm, nhưng đủ để bé thấy Davey đang ngủ say. Penny cúi người để xem đôi mi của Davey có xao động không và cô bé biết thằng bé không hề giả vờ ngủ.
    Tiếng động lại phát ra từ phía sau Penny.
    Cô bé quay phắt lại.
    Lúc này, tiếng động phát ra từ dưới giường. Đó là thứ tiếng nghe như tiếng rít, tiếng cào cào hoặc như tiếng cái lúc lắc ngân lên nhè nhẹ, không ồn lắm những cũng chẳng êm tai.
    Cái vật dưới giường hình như hiểu rõ Penny đang nghĩ gì và nó cố ý gây ra tiếng động để trêu chọc, dọa dẫm bé!
    Penny nghĩ thầm: Hẳn vật đó không phải ông Ba Bị đi. Chuyện ông ba bị chỉ mỗi Davey mới tin...chứ Penny này thì lớn rồi mà. Chắc là con chuột. Đúng vậy!
    Penny cảm thấy đôi chút nhẹ nhõm. Bé ko thích chuột, nhất là khi chúng chui xuống giường để phá phách. Nhưng một chú chuột nhắt thì không việc gì phải sợ chứ!
    Penny đứng như thế một lúc, tự hỏi bây giờ mình nên làm gì.
    Cuối cùng bé nghĩ đến bố.
    Penny không muốn đánh thức bố dậy khi mà bé chưa biết chắc đó có phải chuột hay không. Nếu bố sang mà không nhìn thấy con chuột nào chẳng phải mất mặt lắm sao? Trong hai tháng nữa, bé sẽ được mười hai tuổi và điều mà bé ghét nhất là bị xem như con nít.
    Bé biết mình không thể nhìn xuống dưới giường bởi dưới đó quá tối, đã vậy còn bị chăn mền che khuất.
    Vật dưới giường (hay con chuột) rít lên rồi phát ra tiếng ùng ục như tiếng người, thứ tiếng khàn đục, lạnh lùng, hung dữ, như muồn nói với Penny bằng một thứ ngôn ngữ mà cô bé không thể hiểu.
    Penny thắc mắc, không biết con chuột có thể gây ra tiếng động như vậy chăng?
    Rồi bé nhìn sang Davey. Thằng nhóc đang ngủ, nơi góc tường cạnh giường nó là cây gậy bóng chày bằng nhựa. Penny cầm lấy.
    Dưới giường, cái tiếng động lạ lùng khó chịu đó – thứ tiếng rít – cào – cọ xát – vẫn liên tục vang lên.
    Penny đi về phía giường và quỳ xuống. Bé cầm gậy bóng chày trong tay, hất mớ chăn mền lên. Không thể nhìn thấy gì: dưới giường tối thui như hang động.
    Tiếng động ngưng hẳn.
    Penny cảm thấy khiếp đảm. Bé tưởng chừng như có cái gì đó núp trong bóng tối rình rập bé ... một cái gì đó không phải chuột ... Một cái gì đó biết rằng bé chỉ là đứa bé gái nhỏ ... Một cái gì đó quỷ quái, xảo trá, có thể vồ lấy bé mà nuốt chửng!
    Rồi bé thầm nghĩ: Đó chỉ là ý tưởng của một đứa con nít!
    Bé cắn môi, dứt khoát không thể cam chịu như vậy. Rồi bé dùng gậy bóng chày quơ lung tung dưới giường nhằm để con chuột kêu lên hoặc buộc nó phải chạy ra.
    Khổ nỗi, có cái gì đó đã bấu vào đầu cây gậy! Penny cố đẩy nó ra nhưng không thể được. Bé cố lắc mạnh cây gậy, vặn vẹo đủ kiểu nhưng không bứt ra được.
    Thế rồi bỗng nhiên, cây gậy vuột khỏi tầm tay bé và biến mất dưới giường trong một tiếng động khô đục. Penny ngã bật ra sau, chạm vào giường Davey, vậy mà bé tưởng mình bất động. chỉ mới vài giây trước, bé đã quỳ bên giường Davey nhìn thằng nhóc ngủ. Vậy mà bây giờ, đầu bé đập xuống trên tấm nệm của giường nó. Trong giấc ngủ, Davey ú ớ vài tiếng, thở dài rồi lại tiếp tục say ngủ.
    Dưới giường Penny, chẳng còn một tiếng động nào nữa.
    Giờ đây, Penny đang nghĩ đến chuyện kêu cứu bố. Cô bé gào lên nhưng tiếng kêu chỉ vang vang trong tâm trí. ‘Ba, ba, ba ơi!’, không một thanh âm nào thoát ra. Trong phút chốc bé hoàn toàn chết lặng.
    Ánh đèn bỗng dưng nhấp nháy. Sợi dây đèn được cắm vào một ổ điện phía sau giường và cái vật đó đang tìm cách rút sợi dây.
    “Ba!” Penny rốt cuộc thốt lên nhưng chỉ là tiếng thì thào bị bóp nghẹn.
    Cây đèn nhấp nháy một lúc rồi tắt ngấm.
    Một lần nữa, căn phòng lại chìm vào bóng tối. Penny nghe có sự chuyển động. Cái vật đó đã ra khỏi gầm giường và chạy trên sàn.
    “Ba ơi!”, Penny lại gào lên.
    Nhưng vẫn chỉ là tiếng thều thào. Cổ họng cô bé khô khốc. Bé cố nuốt nước bọt để cổ họng thông thoáng.
    Có tiếng ken két.
    Nhìn chăm chăm vào bóng đèn bằng đôi mắt sợ hãi, Penny bắt đầu run rẩy và thốt lên những tiếng kêu nho nhỏ.
    Thế rồi bé hiểu ra rằng tiếng ken két là tiếng cái bản lề cửa bị khô dầu.
    Bé đoán rằng cái cửa đang chuyển động tuy ko nhìn thấy, cánh cửa vốn hé mở và giờ đây, nó được mở toang. Không còn tiếng ken két cũng như cái tiếng rít – cào bí ẩn đó đang xa dần. Dẫu sao, cái vật đó sẽ không tấn công bé.
    Bây giờ, nó đang ở ngưỡng cửa.
    Bây giờ, nó đang ở ngoài hành lang.
    Bây giờ, nó đang cách cánh khoảng ba bốn bước.
    Và ... nó đi rồi!
    Những giây phút trôi qua chậm như cả thế kỷ.
    Đó không phải chuột, cũng không phải mơ.
    Thế thì là cái gì nhỉ?
    Cuối cùng, Penny nhổm dậy. Đôi chân bé mềm nhũn. Bé bước đi, dò dẫm trong bóng tối để tìm cây đèn ngủ ở đầu giường Davey. Công tắc phát ra tiếng kêu ‘tách’ và ánh sáng tỏa xuống đứa bé trai đang ngủ. Penny vội vàng đưa tay đẩy chụp đèn sang một bên.
    Rồi bé đi về phía cửa, đứng im mà lắng nghe. Tất cả đều im lặng. Vẫn còn run rẩy, bé đóng cửa lại rồi chùi hai tay ướt đẫm mồ hôi vào áo ngủ. Giờ đây căn phòng đã đủ sáng để bé có thể trở lại giường. Bé khom người nhìn xuống dưới giường một lần nữa. Chẳng còn gì đáng sợ nữa rồi. Bé cầm lấy cây gậy bóng chày: đầu cây gậy đã bị khoét sâu bởi những lỗ nhỏ. Penny thắc mắc không hiểu nó bị đục thủng bởi cái gì? Móng vuốt à?
    Penny vặn người để cắm lại sợi dây đèn đã bị rời ra khỏi ổ. Rồi bé tắt cây đèn ngủ trên đầu giường Davey.
    Ngồi ở đầu giường, bé nhìn chăm chăm cái cửa đang đóng kín một lúc. Cuối cùng bé thốt lên:
    Chuyện gì đã xảy ra vậy nhỉ?
    Càng suy nghĩ bé càng thấy sự việc vừa xảy ra thật không thực tế. Có thể cây gậy bóng chày đã bị vướng trong giắt lò xo giường và bị mớ đinh ốc ở đó đâm thủng chăng? Còn cái cửa có thể bị gió đẩy ra cũng không chừng?
    Có thể lắm chứ ...
    Cuối cùng, không dằn được sự tò mò, bé đứng dậy, đi ra hành lang, bật đèn sáng rồi cẩn thận đóng cửa lại.
    Yên lặng ...
    Như thường lệ, cánh cửa phòng bố vẫn mở hé. Bé thò đầu vào nghe ngóng. Có tiếng ngáy đều đều của bố, ngoài ra chẳng còn tiếng động gì khác lạ. Một lần nữa, bé nghĩ liệu mình có nên đánh thức bố dậy không. Bố là sỹ quan cảnh sát: trung úy Jack Dawson. Và bố có súng. Nếu thực sự căn hộ này bị xâm nhập thì bố sẽ bắn kẻ thù ngay. Nhưng nếu bé đánh thức bố rồi sau đó không phát hiện được gì thì bố sẽ xem bé như trẻ con cho xem. Nếu thế thì xấu hổ lắm! Nghĩ đến đó, bé thở dài và trở về phòng. Hồi hộp, bé đi dọc hành lang, đến cửa chính để kiểm tra: cửa đã khóa kỹ. Nơi mắc áo gắn trên tường, gằn cửa, có treo cây dù. Bé cầm lấy nó, chĩa cái mũi nhọn về phía trước, đi vào phòng khách, bật sáng đèn và quan sát mọi nơi. Rồi bé sang phòng ăn và căn bếp nhỏ hình chữ L.
    Không có gì khác thường cả.
    Phía trên bồn rửa chén, cửa sổ để mở. Không khí lạnh tháng mười hai len qua khe hở khoảng vài chục phân thổi vào.
    Penny biết rõ cái cửa sổ này đã được đóng lại và cài chốt lúc chập tối, trước khi cô bé đi ngủ. Bé biết chắc như thế. Nếu sau đó bố có mở ra để hít thở đôi chút khí trời thì hẳn bố đã đóng lại rồi.
    Kéo chiếc ghế lại gần bồn rửa chén, bé leo lên đẩy cửa để có thể nghiêng người nhìn ra ngoài. Cơn gió lạnh buốt khiến bé nhăn mặt. Mọi vật đều yên tĩnh. Dọc theo tòa nhà, gần cửa sổ phòng ngủ, có một cái thang cấp cứu bằng sắt chạy thẳng xuống con hẻm. Nhưng phía căn bếp thì chẳng có thang cũng chẳng có mép tường. Chẳng một phương tiện khả dĩ để cho kẻ trộm có thể leo lên hoặc bám vào để xâm nhập cả. Bé biết thứ tiếng động phát ra lúc nãy không phải do trộm bởi hắn không thể nào núp dưới giường của bé được.
    Penny đóng cửa sổ lại, đặt chiếc ghế vào chỗ cũ. Bé miễn cưỡng cất cây dù. Luyến tiếc phải rời bỏ vũ khí, bé tắt đèn và không dám nhìn về khoảng tối đằng sau. Bé về phòng, nằm xuống giường và kéo chăn lên cổ.
    Davey vẫn ngon giấc. Bên ngoài cửa sổ, gió đêm rít lên từng cơn. Xa xa có tiếng còi hụ thê lương của một xe cấp cứu.
    Penny ngồi dậy, tựa người vào gối kê, dưới vùng sáng che chở của ngọn đèn ngủ. Bé cảm thấy thiu thiu, muốn ngả lưng xuống nhưng lại sợ phải tắt đèn. Nỗi sợ làm bé khó chịu. Bé thầm nghĩ: Ta đã lớn rồi chứ? Kể từ khi mẹ mất, ta đã là người nội trợ cai quản gia đình mà. Khoảng mười phút sau, tự ái nổi lên, bé tắt đèn và ngã người xuống giường. Tuy vậy, tâm trí bé vẫn còn ray rứt. Bé thầm nghĩ: Đó là cái gì chứ?
    Bé chờ đợi ...
    Im lặng ...
    Rồi bé chìm vào giấc ngủ.

  2. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 11
    Đại úy Walter Gresham thuộc đội Trọng Án, đến khách sạn khi gần đúng ngọ và gặp Jack cùng Rebecca đứng bên cửa sổ, gần thang máy của tầng thứ mười lăm.
    - Chúng ta đang phải đối phó với một cuộc chiến tranh giữa các băng nhóm. Từ lâu rồi, chúng ta chưa có dịp chứng kiến chuyện này. Cứ như chúng ta đang ở thập niên ba mươi ấy nhỉ! Tuy nạn nhân chỉ toàn là bọn xã hội đen, nhưng tôi đã quá ngán cái chuyện giết chóc này rồi. Tôi không muốn nó tiếp tục xảy ra trong địa bàn của tôi nữa. Trước khi đến đây, tôi đã nói chuyện với ông quận trưởng cảnh sát và ông đã đồng ý với tôi rằng, chúng ta không thể tiếp tục tiến hành điều tra theo lối thông thường. Chúng ta sẽ tổ chức một đội đặc nhiệm. Chúng ta sẽ chuyển hai văn phòng ở sở cảnh sát thành bộ chỉ huy và thiết lập những đường dây đặc biệt.
    Rebecca hỏi:
    - Như vậy có nghĩa là tôi và Jack không còn đảm trách việc điều tra vị án này nữa phải không?
    Gresham lắc đầu:
    - Không phải vậy. Tôi sẽ chuyển hai người sang đội đặc nhiệm. Tôi muốn hai người về văn phòng để nghiên cứu một phương án tấn công, một chiến lược mà trong đó hai người sẽ tiên liệu những gì mà chúng ta cần phải có để hành động. Chẳng hạn, chúng ta sẽ cần bao nhiêu người. bao nhiêu trinh sát và sỹ quan cảnh sát? Bao nhiêu nhân viên hành chánh? Bao nhiêu xa cộ? Chiều nay năm giờ, tôi sẽ đợi hai người tại văn phòng của tôi.
    Jack nói:
    - Chúng tôi vẫn còn nhiều việc phải làm ở đây mà.
    - Những người khác có thể làm thay - Gresham đáp. À, tôi đã có một số lời đáp cho những thắc mắc của anh về Lavelle này.
    - Có phải chuyện liên quan đến công ty điện thoại không?
    - Đúng vậy. Theo tôi được biết, hiện nay không có khách hàng thuê bao điện thoại nào tên Baba Lavelle cả. Năm ngoái thì có hai người thuê bao mang tên Lavelle. Sáng nay tôi đã cho người đi kiểm tra và được biết hai người này đều là dân da trắng và cả hai không hề quen biết với ai tên Baba hết. Cả hai ông Lavelle này đều không phải người đáng để bị tình nghi.
    - Còn bên điện lực thì sao?
    - Cũng thế. Không có khách hàng nào tên Baba Lavelle hết - Gresham đáp.
    - Có thể tên Baba này đã dùng tên một người bạn của y để đăng ký cũng nên.
    Gresham nói:
    - Sở di trú cho biết không hề cung cấp một thứ giấy tờ nào cho người có tên Baba Lavelle.
    Jack cau mày:
    - Vậy có thể hắn nhập cư lậu.
    - Hoặc hắn không hề có mặt trong thành phố này - Rebecca nói.
    Jack và Gresham nhìn Rebecca với vẻ thắc mắc. Cô giải thích:
    - Tôi không mấy tin rằng hiện có một người mang tên Baba Lavelle.
    - Có chứ. - Jack nói.
    - Thiên hạ đã nghe nói nhiều về y và biết chút ít tông tích ... Nhưng, để có một chứng cớ vững chắc về sự hiện diện của y thì ...
    Gresham tỏ vẻ quan tâm:
    - Như vậy cô cho rằng Lavelle chỉ là mục tiêu giả, một con mồi dỏm sao? Phải chăng y chỉ là con bù nhìn che giấu ở phía sau những tên giết người đích thực?
    - Có thể lắm.
    Gresham gật gù:
    - Như vậy, có thể chúng ta đang lần theo một dấu vết dỏm và trong thực tế, hẳn có một đại gia nào đó của Mafia đang tìm cách hất cẳng đại gia Carramazza để leo lên cao hơn.
    Jack nói:
    - Nhân vật Lavelle là hoàn toàn có thật.
    - Tại sao anh khẳng định như thế?
    - Thú thật, tôi không cách nào giải thích được - Jack nói. (Anh nhìn ra cửa sổ, hướng mắt về những tháp nhà cao vút, phủ tuyết của Manhattan). Tôi không cho rằng mình có thể cung cấp những lý lẽ chính xác. Chỉ là ... trực giác! Và tôi đã cảm nhận điều đó bằng tất cả sự sáng suốt của tôi. Lavelle không phải là nhân vật trong tưởng tượng đâu, y hoàn toàn có thật. Và y đang có mặt trong thành phố này ... và tôi biết y là hung thủ điên cuồng và nguy hiểm nhất mà chúng ta sẽ phải đương đầu.
    o O o
    Tại trường Welton, lúc này đã đến giờ cơm trưa, nhưng Penny Dawson không thấy đói. Bé không buồn đi lấy phần cơm mà ngồi lại bàn học, gục đầu trên hai cánh tay đan chéo, nhắm mắt lại, giả vờ ngủ. Bé cảm thấy sợ, rất sợ, sợ đến phát bệnh.
    Bé chẳng nói với ai về chuyện những con vật quỷ quái có đôi mắt trắng bạc mà bé đã gặp ở tầng hầm. Sẽ chẳng ai tin bé đã gặp chúng, và cũng sẽ chẳng ai tin rằng những con vật quỷ quái đó muốn giết bé.
    Nhưng bé biết điều gì sẽ xảy đến cho mình. Bé không hiểu vì sao bé lại gặp phải chuyện này và bé cũng không biết được lúc nào thì chúng sẽ hại bé và chúng sẽ làm như thế nào. Bé không biết giống vật quỷ quái đó từ đâu đến và không hiểu liệu mình có cơ may nào để thoát khỏi khỏi chúng hay không. Có thể bé sẽ không thoát khỏi, tuy bé biết rõ ý đồ của chúng nhưng bé chỉ lo cho Davey. Nếu bọn chúng muốn giết bé thì đương nhiên chúng cũng sẽ không thể nào tha cho Davey.
    Bé cảm thấy mình có trách nhiệm phải che chở cho Davey, nhất là từ sau khi mẹ mất. Dù sao, bé cũng là chị cả của Davey mà. Và một người chị cả thì phải biết lo lắng cho em mình.
    Vào lúc này, Davey đang ở lầu một với bạn bè và thầy cô. Ít nhất bây giờ thằng bé cũng được an toàn. Bầy thú đó dĩ nhiên không dám ló đầu ra giữa chốn đông người rồi.
    Nhưng khi tan học về thì sao đây? Bé chẳng biết phải làm sao để có thể che chở cho Davey và bảo vệ cho chính mình.
    Vẫn gục mặt, nhắm mắt, bé lặng lẽ cầu nguyện.
    o O o
    Jack và Rebecca dừng lại ở tiền sảnh khách sạn để gọi điện thoại. Jack tìm cách liên lạc với Nayva Rooney. Vì phải thành lập đội đặc nhiệm nên Jack không thể nào đến trường đón hai con như dự liệu được. Anh thầm mong bà Rooney được rảnh rang để đi đón hai đứa bé và đưa chúng về nhà bà chăm nom hộ trong khi chờ anh. Không gọi được số máy của bà Rooney, Jack gọi về nhà nhưng cũng không ai nhấc máy. Cuối cùng, anh đành phải gọi Faye Jamison, chị vợ và cũng là người chị duy nhất của Linda. Cũng như Jack, Faye rất thương Linda và chính vì thế mà Jack cũng rất mến Faye, tiu tính tình Faye không thường xuyên dễ mến cho lắm. Faye thường cho rằng ý kiến của chị ta là số một và thiên hạ sẽ không thể nào xoay trở nổi nếu không nghe theo lời khuyên của chị ta.
    Khi nghe Jack nhờ đến trường đón hai đứa bé, Faye nói ngay:
    - Đồng ý, tôi sẽ đón hai cháu, nhưng tôi nghĩ chúng sẽ buồn khi không thấy cậu đến và nếu chuyện này cứ thường xuyên tiếp diễn thì chúng sẽ mang mặc cảm bị bỏ rơi đấy!
    - Chị Faye à ...
    - Các nhà tâm lý học bảo rằng những đứa trẻ mất mẹ hay bố thì cần ...
    - Chị Faye à, nói thật là, hôm nay tôi bận việc mà.
    - Nhưng cậu phải biết thu xếp giờ giấc chứ!
    - Vâng, tôi sẽ cố gắng - Jack thở dài.
    - Trong thời buổi này, các bậc làm cha làm mẹ phải am hiểu tâm lý trẻ con mới được.
    Jack liếc nhìn Rebecca và thấy cô đang tỏ vẻ sốt ruột. Anh cau mày và nhún vai trong khi Faye vẫn huyên thuyên.
    - Cậu chưa chu toàn trách nhiệm làm cha. Cậu tưởng chỉ thương yêu con mình và cho chúng bánh kẹo là đủ sao? Dĩ nhiên, tình yêu và kẹo bánh là những điều đáng kể, nhưng còn có nhiều điều khác nữa chứ ...
    - Chị Faye à, chị hãy hiểu cho, nghề nghiệp của tôi giờ giấc vốn không ổn định. Một sỹ quan cảnh sát không thể ngưng ngang việc truy bắt tội phạm chỉ đơn giản vì đã đến giờ nghỉ được. Hơn nữa, dạo này công việc cũng bề bộn lắm. Chị đón hai cháu giùm tôi nhé?
    - Được thôi. Cậu không cần lo. Davey và Penny sẽ ở lại ăn tối với chúng tôi luôn nhé?
    - Thế thì tốt quá, vì tôi không hy vọng sẽ được về sớm.
    - Này, cậu không nên để hai đứa bé phải thường xuyên ăn tối một mình đâu đấy. Bữa ăn tối là dịp để gia đình sum họp và chia sẻ với nhau về những chuyện buồn vui trong ngày kia mà.
    - Vâng, tôi hiểu.
    - Bọn trẻ cần những giây phút thanh thản sau một ngày ở trường.
    - Vâng, tôi hiểu mà.
    - Chúng sẽ ở lại nhà tôi chứ?
    - Tôi nghĩ mình sẽ không về muộn thế đâu. Chị Faye à, tôi rất cám ơn chị. Nói thật thì, tôi cũng không biết mình sẽ phải xoay sở ra sao nếu không có chị và anh Keith nữa. Giờ thì tôi phải đi rồi, hẹn chị sau nhé.
    Nói xong, Jack vội vã gác máy.
    Ra khỏi khách sạn, Jack và Rebecca kéo cao cổ áo choàng và thận trọng bước đi trên vỉa hè trơn trượt.
    Khi đến gần xe, họ trông thấy một gã dong dỏng cao, da ngăm đen, ăn mặc lịch sự tiến về phía họ.
    Gã ta nói:
    - Có phải trung úy Rebecca Chandler không? Và ông đây là trung úy Jack Dawson? Ông chủ tôi muốn gặp các vị.
    - Ông chủ cậu là ai? - Rebecca hỏi.
    Thay cho câu trả lời, gã ta chỉ tay về chiếc Mercedes màu đen bề thế đang đậu gần khách sạn. Rồi gã ta bỏ đi, ngầm ý rằng hãy đi theo gã và đừng hỏi han gì cả. Khi đến bên chiếc xe Mercedes, kiếng cửa màu đen của chiếc xe hạ xuống và Jack nhận ra ngay người ngồi trong xe là Gennaro Carramazza, trưởng tộc của đại gia hùng mạnh nhất New York.
    Gã da ngăm đen ngồi vào băng trước, cạnh tài xế. Carramazza ngồi một mình ở băng ghế sau. Lão mở cửa, mời Jack cùng Rebecca vào xe.
    Vẫn đứng yên, Rebecca hỏi:
    - Ông muốn gì?
    - Tôi muốn nói chút chuyện với hai vị - Carramazza nói.
    Giọng ông ta nghe rất lịch sự, lơ lớ chút âm giọng Sicilia.
    - Vậy thì nói đi - Rebecca nói.
    - Không như thế được. Trời quá rét, hai vị không thể đứng ngoài đó được. Nào, hãy vào đây ngồi để được thoải mái.
    - Không sao, tôi vẫn thấy thoải mái.
    Carramazza cau mày:
    - Tôi thì không. Coi nào, tôi có một thông tin cực kỳ quý giá đối với hai vị và tôi muốn đích thân cho hai vị biết. Bản thân tôi phải làm điều này, bộ hai vị không thấy nó quan trọng đến mức độ nào sao? Tuy nhiên, tôi không muốn hai vị phải đứng ngoài đường để nói chuyện!
    - Nào, lên xe đi Rebecca!
    Rebecca miễn cưỡng bước vào xe. Jack vào theo.
    Rudy, gã tài xế, chạm nhẹ vào một nút bấm và tấm kính trồi lên, ngăn cách hai gã đang ngồi phía trước với những người ngồi phía sau. Carramazza cầm lấy chiếc vali nhỏ, đặt lên đùi nhưng không mở ra. Với vẻ xảo trá, lão chăm chú nhìn Jack và Rebecca.
    Lão già trông tựa như con thằn lằn với mí mắt dày cộm, cái đầu hói, làn da nhăn sạm và đôi môi mỏng. Cử chỉ của lão cũng y hệt như con thằn lằn: hoàn toàn bất động trong một lúc lâu rồi đột nhiên lắc lư cái đầu, sang phải rồi sang trái.
    Cái đầu đó quay sang Rebecca:
    - Cô không có lý do gì phải sợ tôi.
    Rebecca ngạc nhiên:
    - Tại sao tôi lại phải sợ ông nhỉ?
    - Vì thấy cô không muốn lên xe nên tôi đã nghĩ ...
    Rebecca lạnh lùng nói:
    - Đó không phải do sợ nhưng vì tôi thắc mắc không biết tiệm giặt ủi có tẩy sạch nổi mớ quần áo của tôi sau khi đã ngồi ở đây không.
    Đôi mắt ti hí, lạnh như thép của Carramazza mở to hơn.
    Jack sững người, không ngờ Rebecca lại bạo đến thế.
    Carramazza nói:
    - Tôi thấy không có lý do gì để chúng ta phải lời qua tiếng lại, nhất là khi cần phải hợp tác vì lợi ích của đôi bên.
    Carramazza trông như một ông chủ ngân hàng hơn là một Bố Già.
    Rebecca nhướng mày:
    - Thật sao? Ông không thấy có lý do hả? Vậy thì để tôi giải thích cho ông nhé?
    - Thôi mà, Rebecca - Jack nói.
    Rebecca vẫn bướng bỉnh:
    - Ông là một tên sát nhân, trộm cắp, buôn ma túy và là một gã ma cô. Giải thích như thế ông đã thấy đủ chưa hả?
    Jack nguyên can:
    - Rebecca ... cô đừng quên rằng ông Carramazza đây vừa phải gánh chịu sự mất mát của đứa em trai và người cháu.
    Rebecca nói ngay:
    - Cả hai tên đó cũng đâu tốt lành gì! Cũng đều là những tên buôn ma túy, những kẻ sát nhân. Bộ anh thương tiếc chúng lắm sao, Jack?
    Rồi quay sang Carramazza, cô nói:
    - Tôi trông ông không mấy u buồn trước cái chết của người em trai nhỉ.
    Không chút nóng giận hoặc cáu kỉnh trong âm giọng, Carramazza nói, điềm tĩnh như một ông chủ ngân hàng:
    - Dân Sicilia vốn không thích khóc lóc, nhưng điều đó không có nghĩa chúng tôi là những người không có tình cảm và không biết báo thù.
    Rebecca nhìn Carramazza với vẻ khinh tởm. Đôi tay nhăn nheo tựa loài bò sát của lão vẫn đặt trên chiếc vali nhỏ, hoàn toàn bất động. Đôi mắt rắn của lão hướng về Jack.
    - Trung úy Jack Dawson, có lẽ tốt hơn tôi nên nói chuyện này với anh thì hơn. Có lẽ anh không ... có những định kiến như trung úy Rebecca đây.
    Jack lắc đầu:
    - Ông nhầm rồi. Tôi hoàn toàn nhất trí với cô ấy, nhưng có điều tôi không nói ra mà thôi.
    Jack nhìn Rebecca. Cô mỉm cười, hài lòng.
    Bằng giọng mỉa mai cay độc, Carramazza nói:
    - Thế thì tôi đang tiếp xúc với những ai đây? Những người đạo đức dỏm hay các vị thánh? Nếu tôi không lầm thì có lẽ các vị là những người chưa từng biết nhận tiền đút lót, kể từ khi các vị mới tập tễnh bước vào ngành cảnh sát với số lương chỉ đủ trả tiền thuê nhà ấy nhỉ?
    Carramazza nhìn Jack bằng ánh mắt lạnh và dè chừng.
    Jack nói:
    - Đúng vậy. Tôi không khi nào nhận hối lộ.
    - Kể cả tiền boa ...
    - Cũng không.
    - Kể cả không qua đêm với một gái điếm nhằm giúp cô ta khỏi phải đi tù ...
    - Không.
    - Và không hề nhận một chút cocaine hoặc một chút cần sa để làm ngơ cho bọn con buôn?
    - Không.
    - Không một chai rượu hoặc hai mươi đô la vào dịp Noel?
    - Không.
    Carramazza nhìn chăm chăm Rebecca và Jack một lúc lâu. Bên ngoài, bông tuyết tung tóe trong cơn gió giật.
    Cuối cùng, lão nói:
    - Vậy thì tôi đang nói chuyện với những người quái đản thật.
    Lão nói đến hai chữ ‘quái đản’ với vẻ khinh bỉ thấy rõ khiến ta có thể hiểu ngay lão rất chán ghét những quan chức thanh liêm.
    Jack nói:
    - Ông nhầm rồi, chúng tôi không có gì là quái đản cả. không phải bất cứ nhân viên cảnh sát nào cũng tham ô, biến chất cả đâu. Điều đó hiếm hoi nữa là đằng khác.
    - Hầu hết đều dễ bị mua chuộc - Carramazza nói.
    Jack dứt khoát:
    - Không hề. Dĩ nhiên, có những kẻ biến chất, nhưng không nhiều. Nói chung, tôi rất hãnh diện khi được làm việc với các đồng nghiệp của tôi.
    - Bằng cách này hay cách khác, họ là những kẻ tham ô.
    - Tôi không tin.
    Rebecca nói:
    - Jack à, có ích gì khi tranh luận với ông ta. Ông ta cần phải tin rằng mọi người đều tham ô, biến chất, như thế mới có thể biện minh cho những hành vi của ông ta mà.
    Carramazza thở dài. Lão mở cái vali nhỏ, lấy ra một bao thư và trao cho Jack.
    - Hẳn cái này sẽ giúp ích cho anh.
    Jack cầm lấy bao thư, với đôi chút ngần ngại:
    - Cái gì ở trong này vậy?
    Carramazza nói:
    - Anh không cần lo lắng đâu. Đây không phải là tiền hối lộ mà là thông tin. Đây là tất cả những gì mà chúng tôi được biết về con người mang tên Baba Lavelle. Trong này có địa chỉ sau cùng của y, những nhà hàng mà y thường lui tới trước khi ẩn núp và tuyên chiến. Ngoài ra, cũng có tên và địa chỉ của những kẻ bán lẻ hàng do Lavelle cung cấp trong hai tháng vừa qua, tuy tôi biết anh không thể thẩm vấn tất cả.
    - Vì ông đã thủ tiêu bọn chúng rồi phải không?
    - Có thể một số đã rời khỏi thành phố này.
    - Đương nhiên.
    - Dù sao, mọi thông tin đều có trong bao thư này. Có thể anh đã biết hoặc không biết những thông tin này. Mà theo tôi nghĩ thì chắc là không.
    Jack nói:
    - Tại sao ông lại cung cấp thứ này cho chúng tôi?
    Lão già nhướng mắt:
    - Bộ anh không rõ hay sao? Tôi muốn các anh tìm thấy Lavelle và vô hiệu hóa y.
    - Vậy mà tôi lại nghĩ ông có nhiều cơ may tìm thấy hắn hơn so với chúng tôi chứ? Dù sao, y cũng là dân buôn ma túy và thuộc thế giới của ông kia mà. Ông nắm trong tay mọi nguồn thông tin, mọi mối quan hệ ...
    Carramazza nói:
    - Những nguồn thông tin thông thường và những quan hệ của tôi chẳng giúp ích được gì nhiều trong vụ này. Tên Lavelle đó ... hoạt động đơn độc. Hay đúng hơn, y như thể là cơn gió ...
    Rebecca hỏi:
    - Ông có chắc Baba Lavelle có thật không? Hay y chỉ là nhân vật hư cấu do kẻ thù của ông dựng nên để ẩn núp đằng sau.
    Carramazza nhấn mạnh:
    - Lavelle là người hoàn toàn có thật! Vào mùa xuân vừa qua, y đã nhập lậu vào nước này. Y đến từ Jamaica, qua ngã Porto Rico. Trong bao thư có bức ảnh của y.
    Jack vội vã mở bao thư, tìm trong mớ giấy tờ và lấy ra một bức ảnh.
    Carramazza giải thích:
    - Đây là phóng ảnh của một bức ảnh chụp Lavelle trong một nhà hàng, một thời gian ngắn sau khi y bắt đầu hoạt động trong vùng lãnh thổ của tôi.
    Vùng lãnh thổ của tôi. Jack thầm nghĩ, mẹ kiếp Carramazza nói cứ như một quận công Anh đang than phiền về nạn săn trộm xảy ra trong lãnh địa của ngài vậy.
    Tuy ảnh hơi mờ nhưng cũng đủ để Jack có thể xác định Lavelle và sẽ không lầm nếu có gặp y ngoài phố. Lavelle là một gã da đen rất điển trai, với vầng trán rộng, mắt sâu, gò má cao và miệng rộng. Trong hình, y mỉm cười với ai đó ngoài tầm ngắm của máy ảnh. Nụ cười của y khá quyến rũ.
    Jack trao bức ảnh cho Rebecca.
    Carramazza nói:
    - Lavelle muốn thâu tóm các thương vụ của tôi, phá mất uy tín của tôi trong giới đại gia, làm tôi suy yếu và buộc tôi phải khoanh tay. Y dám động đến tôi, người đã nắm Tổ Chức với bàn tay sắt trong hai mươi tám năm. Y dám động đến tôi mới kinh chứ!
    Lần này, giọng nói Carramazza đã để lộ cảm xúc: một cơn giận dữ lạnh lùng, khôn nguôi. Bằng giọng nhát gừng, lão nói tiếp:
    - Nhưng như thế chưa hết. Chưa hết đâu! Các vị biết không, gã Lavelle đó không thật sự muốn làm chủ thị trường. Một khi nắm được thị trường, hắn sẽ vứt bỏ cho các đại gia khác xâu xé, chỉ đơn giản là vì hắn không muốn cho tôi hay bất cứ ai thuộc gia đình Carramazza làm chủ. Đây không phải là cuộc chiến với mục tiêu tầm thường là tranh giành lãnh địa hay vùng ảnh hưởng. Với Lavelle, đây hoàn toàn là vấn đề trả thù. Hắn muốn thấy tôi quằn quại đau khổ bằng đủ mọi cách. Hắn muốn cô lập tôi, làm cho tôi sụp đổ bằng cách tước đi lãnh địa của tôi, giết chết con cháu tôi. Hắn đe dọa giết chết bạn bè tôi và những người tôi thương mến. Hắn thề sẽ giết năm đứa cháu thân yêu của tôi. Hai vị thấy có kinh khiếp không? Hắn nhẫn tâm đe dọa đến cả những đứa bé!
    Rebecca hỏi:
    - Có thật sự Lavelle đã nói với ông là y sẽ thực hiện những chuyện đó hay không? Y đã nói với ông khi nào vậy?
    - Nhiều lần rồi.
    - Vậy ông và Lavelle đã gặp nhau à?
    - Không có. Nếu gặp hắn chắc tôi đã không để cho hắn sống đâu.
    Cái dáng vẻ lịch thiệp, trầm tĩnh, quyền quý theo lối chủ ngân hàng đã biến mất. Giờ đây, Carramazza trông y hệt như con rắn, một con rắn trong lớp quần áo trị giá cả ngàn đô la. Một con rắn rất độc.
    Lão nói:
    - Thằng khốn kiếp Lavelle đã nói chuyện với tôi qua điện thoại. Hắn biết số điện thoại riêng của tôi trong danh sách đỏ. Tôi đã nhiều lần đổi số, nhưng thằng khốn đó vẫn biết ngay. Hắn đã nói với tôi ... hắn nói ... hắn sẽ giết hết bạn bè tôi, các cháu họ, các con trai của tôi, cháu ruột của tôi và sau đó ... hắn nói hắn sẽ ... hắn sẽ ...
    Trong một lúc, khi nhớ lại những lời đe dọa đầy ngạo mạn của Lavelle, Carramazza tức tối đến nỗi không nói nên lời. Cuối cùng, lão nói tiếp, nhưng lần này giọng lão chỉ còn là tiếng thì thầm tàn bạo:
    - Thằng mọi đen dơ bẩn đó ... bảo rằng hắn sẽ lột da Nina, vợ tôi. Lột da, đúng là cái từ mà hắn đã dùng. Và sau đó, đến lượt con gái tôi, hắn đã bảo thế. (Đến đây thì giọng nói của lão đã dịu lại). Đến lượt con gái Rosie thân yêu của tôi. Rosie tuy đã hai mươi bảy tuổi, nhưng trông cứ như mới mười bảy vậy. Nó còn là sinh viên y khoa nữa. Năm nay, Rosie đã bắt đầu chương trình học nội trú và sẽ trở thành bác sỹ. Rosie nó có đôi mắt tuyệt đẹp. Lavelle bảo sẽ bắt cóc con bé và băm thay, xé xác nó ... trước mắt tôi. Hắn khá can đảm khi nói với tôi điều đó đấy!
    Rồi, sau một lúc im lặng, thở hổn hển, tay xòe ra rồi nắm lại, lão nói:
    - Tôi muốn tên khốn kiếp đó bị bắt giữ!
    Jack hỏi:
    - Vậy, ông đã sử dụng toàn bộ các tay đàn em của ông để truy lùng y hay chưa? Ông đã sử dụng tất cả những nguồn thông tin rồi chứ?
    - Tôi đã xuất ra toàn lực rồi!
    - Nhưng vẫn không tìm được y à?
    - Không - Carramazza nói. Hắn đã rời khỏi ngôi nhà ở Greenwich Vilage, nơi hắn trú ẩn. Chính vì thế mà tôi trao cho các vị những thông tin này. Bây giờ, khi đã có được hình ảnh của y, các vị có thể ra lệnh truy nã, công bố trên báo chí để mọi người biết. Vì không tóm được y nên tôi mong các vị ra tay và tống y vào tù. Một khi y vào đó thì...
    Rebecca nói tiếp như đã hiểu rõ ý đồ của Carramazza:
    - Thì ông sẽ tìm cách thủ tiêu hắn chứ gì. Nếu chúng tôi bắt giữ y, y sẽ không có dịp được xét xử mà sẽ bị chết trong tù hả?
    Tuy Carramazza không trả lời, nhưng cả ba đều biết đó là chuyện sẽ xảy ra.
    Jack nói:
    - Theo lời ông nói thì ý đồ của Lavelle là trả thù hả? Nhưng vì sao chứ? Ông đã làm gì Lavelle đến nỗi y muốn tiêu diệt cả gia đình ông chứ, kể cả những đứa cháu của ông nữa?
    - Tôi sẽ không nói điều gì về chuyện này đâu! Tôi không thể nói ra vì nếu làm thế tôi sẽ hại chính mình.
    Rebecca nói:
    - Ông sẽ cáo buộc chính mình chứ gì.
    Jack nhét bức ảnh Lavelle vào bao thư:
    - Tôi có một số thắc mắc về người em Dominick của ông.
    Gennaro Carramazza xem chừng quắc lại khi nghe đến tên của người quá cố.
    Jack giải thích:
    - Tôi muốn nói rằng em trai ông đã ẩn nấp tại khách sạn đó và bị Lavelle phát hiện. Vì sao biết bị đe dọa mà Dominick không ở yên chỗ cũ mà đến khách sạn làm gì chứ? Vì sao Dominick không chạy đến ông để xin được che chở? Vậy thì, nhà ông không phải là nơi an toàn nhất sao? Theo tôi được biết thì đó là nơi được bảo vệ vững chắc như một pháo đài mà.
    Lão già gật đầu:
    - Đúng vậy, nhà tôi quả thật giống như một pháo đài (Carramazza chớp mắt, chậm như một con thằn lằn). Một pháo đài nhưng không an toàn lắm đâu! Lavelle đã tấn công vào nhà tôi rồi, ngay cả khi nó được bảo vệ bằng mọi biện pháp an ninh.
    - Ông muốn nói rằng y đã gây án tại nhà ông sao?
    - Đúng vậy!
    - Nạn nhân là ai?
    - Ginger và Pepper.
    - Ai chứ?
    - Hai con chó nhỏ của tôi!
    - Chúng bị giết tại nhà ông?
    Carramazza nhướng mắt:
    - Bị xé xác đêm qua. Lavelle hoặc một trong tay em của hắn đã đột nhập vào nhà tôi và chẳng hiểu bằng cách nào hắn đã giết hai con chó của tôi rồi ra đi mà không hề bị phát hiện. (Carramazza vỗ mạnh tay lên cái vali nhỏ). Mẹ kiếp! Không hiểu nổi! Mọi cửa ngõ đều được khóa kỹ và nhà được bảo vệ bởi một lực lượng khá hùng hậu. Hai con chó của tôi chúng rất hiền, chẳng khi nào cắn ai bao giờ. Chúng không đang để bị bị giết một cách dã man như thế!
    Jack sững người. Bố Già, vốn nổi tiếng là tay bản lĩnh, lạnh lùng, giờ xem chừng nước mắt lưng tròng khi nhắc đến hai con chó cưng.
    Rebecca nói:
    - Dù sao, chúng cũng không phải là giống chó được huấn luyện để canh giữ nhà. Chỉ là chó kiểng ...
    Không muốn trông thấy cảnh một Bố Già như Carramazza phải xúc động vì chuyện hai con chó, Jack hướng sang một đề tài khác:
    - Người ta đồn rằng Lavelle đang sử dụng ma thuật của đạo Vaudou để chống lại ông.
    Carramazza gật đầu:
    - Lavelle cũng đã khoe như thế.
    - Ông có tin không?
    - Hình như đó không giống như một chuyện đùa.
    Tuy thấy Rebecca cau mày với vẻ không hài lòng. Jack vẫn hỏi:
    - Theo ông nghĩ thì chuyện đó có thật không?
    - À, cách đây một tháng cũng có người hỏi tôi một câu như thế. Lúc đó tôi đã cười phá lên, nhưng bây giờ ...
    Jack nói:
    - Bây giờ, ông tự hỏi, nếu chẳng may ...
    - Đúng. Nếu chẳng may ...
    Ánh mắt của lão già đã thay đổi. Tuy vẫn là ánh mắt đanh thép, lạnh lùng, đa nghi, nhưng ngoài ra còn có một cảm xúc mới đó là sự sợ hãi, một cảm xúc mà lão ta đã bỏ quên từ khá lâu.
    Lão nói:
    - Các vị hãy truy lùng hắn đi.
    - Đương nhiên - Jack nói.
    - Vì đó là nhiệm vụ của chúng tôi - Rebecca nói nhanh, như thể cắt đứt mọi ý nghĩ cho rằng họ phải làm việc này vì đại gia Carramazza.
    Chiếc Mercedes nổ máy và mất hút trong tuyết trắng, để lại Jack và Rebecca đứng trên lề đường nhìn theo một lúc.
    Rebecca nói:
    - Chúng ta nên về sở thôi.
    Jack lấy ra bức ảnh của Lavelle từ bao thư rồi nhét vào áo khoác.
    - Anh làm gì thế? - Rebecca hỏi.
    Jack trao bao thư cho cô:
    - Một tiếng nữa tôi sẽ về văn phòng.
    - Anh nói sao?
    - Chậm nhất thì là hai tiếng.
    - Anh đi đâu chứ?
    - Tôi có điều cần kiểm chứng.
    - Jack, trước mắt chúng ta là chuyện tổ chức lực lượng đặc nhiệm và chuẩn bị ...
    - Cô hãy bắt tay vào việc trước đi.
    - Nhưng một mình tôi làm sao kham nổi bao công việc ...
    - Tôi sẽ có mặt ở văn phòng lúc hai giờ chiều, trễ lắm là hai giờ mười lăm.
    - Mẹ kiếp, Jack!
    - Hãy cố gắng làm việc một mình nhé. Chỉ một lúc thôi mà!
    - Anh xuống khu Harlem phải không?
    - Rebecca ...
    - Anh muốn tìm đến cái tiệm Vaudou quỷ quái đó chứ gì?
    Jack lặng im.
    Rebecca nói tiếp:
    - Tôi biết ngay mà. Anh đi tìm Carver Hampton, tên lang băm, bịp bợm đó chứ gì!
    - Carver không phải là người bịp bợm. Ông ta tin tưởng vào điều mà mình đang làm. Tôi có hẹn hôm nay sẽ đến gặp ông ta.
    - Quả là điên khùng!
    - Thật sao? Bây giờ, khi đã có bức ảnh trong tay, chúng ta đã biết rằng Lavelle là nhân vật hoàn toàn có thật nhé.
    - Hắn có thật thì đã sao nào? Điều đó không có nghĩa là bùa phép của đạo Vaudou linh nghiệm!
    - Tôi hiểu mà.
    - Nếu anh đến đó thì tôi về sở bằng cách nào?
    - Cô có thể sử dụng xecủa tôi. Tôi sẽ nhờ một nhân viên chở tôi đi.
    - Mẹ kiếp, Jack!
    - Rebecca, tôi có linh cảm.
    - Nói nghe phát chán.
    - Tôi có linh cảm rằng, bằng cách này hay cách khác, những hiện tượng của đạo Vaudou - không chủ yếu về phương diện siêu nhiên mà là một hiện tượng văn hóa - là điều có liên quan mật thiết đến vụ án này. Trực giác cho tôi biết tôi đang nắm được đầu mối.
    - Chúa tôi! Và nếu anh không về đúng giờ, nếu tôi phải một mình xoay trở suốt buổi chiều, nếu tôi phải đương đầu với Gresham ...
    - Tôi sẽ về văn phòng, trễ lắm là hai giờ rưỡi ...
    - Tôi sẽ không tha thứ cho anh đâu Jack!
    - Cô hãy xem xét các chi tiết về việc thành lập đội đặc nhiệm trong khi tôi đến gặp Carver Hampton nhé, đồng ý chứ?
    Rebecca căn dặn:
    - Không được trễ quá hai giờ rưỡi đâu đấy!
    - Tôi sẽ cố gắng, càng nhanh càng tốt - Jack nói.
    Anh đi về phía các nhân viên cảnh sát đang dừng chờ bên dãy xe.

  3. #12
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết





    Chương 12
    T
    uyết trắng khiến cho con phố trở nên xinh đẹp hơn hẳn. Hôm qua, khi đến đây lúc trời chưa đổ tuyết, Jack đã thấy rõ bộ mặt nghèo khổ của nơi đây với những bức tường cũ kỹ, hoen ố, những ngôi nhà xập xệ cáu bẩn và rác rưởi vứt khắp nơi.
    Cửa tiệm của Carver Hampton nằm ở góc phố, kế bên cửa hàng bán tượng ảnh tôn giáo với cửa kính được che chắn bởi hàng song sắt, tương tự như những cửa hàng khác trong khu phố này. Chỉ có cửa tiệm của Hampton là không có chấn song bảo vệ, và xem chừng đây là cửa tiệm duy nhất có vẻ phát đạt. Nơi cửa ra vào của tiệm, Hampton có ghi dòng chữ: Rađa. Hôm qua khi đến đây, Jack có hỏi về ý nghĩa của nó và được giải thích rằng, trong đạo Vaudou có ba nghi thức thờ cúng chính. Hai nghi thức là dành cho các tà thần được gọi là Congo và Pétro. Nghi thức thờ cúng dành cho các thiên thần được gọi là Rađa.
    Cánh cửa phát ra tiếng leng keng khi Jack bước vào, để lại sau lưng cơn gió rét căm của tháng chạp. Carver Hampton từ nhà sau bước ra và có vẻ ngạc nhiên khi nhìn thấy Jack.
    - Ồ, thanh tra Jack Dawson! Rất hân hạnh được gặp lại anh. Tôi không ngờ anh sẽ quay lại nơi này, nhất là trong thời tiết như thế này đấy. Tôi nghĩ anh sẽ gọi điện cho tôi mà thôi.
    Jack bước đến, bắt tay Hampton. Carver Hampton là một người cao lớn, vai rộng, trông như cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp. Tuy không điển trai, nhưng Hampton trông rất hiền, cứ như một vị thánh da đen vậy.
    Hampton nói:
    - Tôi rất tiếc khi thấy anh phải nhọc lòng đến tận đây mà không đạt được điều gì cả.
    - Vậy là từ hôm qua đến bây giờ anh vẫn không có phát hiện được điều gì sao?
    - Không có gì đáng kể. Tôi đã hỏi vài nơi, cũng đã lục lọi vài chỗ nhưng cho đến giờ tôi chỉ biết đó là nhân vật tên Baba Lavelle, người này có thật, và người này tự nhận mình là một Boko.
    - Boko? Có phải là thầy cúng chuyên sử dụng ma thuật, thần chú không?
    - Đúng vậy. Tất cả những gì mà tôi biết, đó là Lavelle có thật. Phải chi anh gọi điện cho tôi thì đỡ nhọc công ...
    - À, hôm nay tôi đến đây là cho anh xem tấm hình của Baba Lavelle này.
    - Thật ư?
    - Đúng.
    - Thế là anh đã biết hắn hoàn toàn có thật rồi. Cho tôi xem hình nào. Như vậy tôi sẽ dễ dàng hỏi tông tích hắn ta hơn.
    Jack lấy từ túi áo choàng ra tấm hình của Lavelle và trao cho Hampton.
    Chỉ xem qua, sắc mặt Hampton bỗng thay đổi, trở nên xám xịt và không còn vẻ sinh động như trước. Đôi mắt Hampton như người mất hồn.
    Hampton nói:
    - Thì ra là hắn!
    - Sao? - Jack hỏi.
    Hai tay Hampton run rẩy khi trao lại bức hình cho Jack, cứ như nó đang bốc lửa trong tay gã, tưởng như chỉ việc đụng vào ảnh của Lavelle thôi cũng đủ nguy hại rồi vậy.
    Jack lại hỏi:
    - Có chuyện gì vậy?
    - Tôi biết hắn! Tôi đã ... từng trông thấy hắn. Chỉ có điều tôi không biết tên hắn mà thôi.
    - Anh đã gặp hắn ở đâu?
    - Ở đây.
    - Trong tiệm này sao?
    - Vâng.
    - Khi nào?
    - Tháng chín vừa rồi.
    - Từ đó đến giờ còn gặp lại không?
    - Không có.
    - Hắn đến đây làm gì?
    - Để mua dược thảo và các loại bột.
    - Vậy mà tôi tưởng anh chỉ thực hiện những nghi thức nhằm mang lại những điều tốt đẹp cho con người thôi chứ!
    - Một số dược thảo và ngải cứu của Rađa cũng đồng thời được Boko và Hougan sử dụng mà. Cửa tiệm của tôi có bán một số cây cỏ và các loại bột cực hiếm, không thể kiếm thấy ở nơi nào khác tại New York này đâu!
    - Có nhiều cửa tiệm giống như của anh tại thành phố này không?
    - Có một cái, nhưng nhỏ hơn cửa hàng của tôi, do hai gã Hougan không mấy am tường, làm chủ. Tuy nhiên, cửa hàng của họ có khá nhiều mặt hàng và vì hám lợi nên họ bán cho bất cứ ai. Boko cũng như Hougan. Họ bán cả những công cụ dùng để tế lễ nữa, những cái rìu để cử hành nghi thức cúng tế, những cái thìa có mép sắt mặt bên để móc mắt. Hai gã Hougan đó khiếp thật! Họ bán hàng cho bất cứ ai, ngay cả bán cho những bọn ranh ma, những bọn hèn hạ.
    - Vậy là Lavelle đã đến tiệm của anh chỉ vì không tìm được thứ hắn cần tại cửa tiệm của hai gã Hougan đó?
    - Đúng như vậy. Lavelle bảo rằng y đã tìm được hầu hết những gì mà y cần, nhưng tiệm của tôi là nơi duy nhất có nhiều thứ dùng để ếm và luyện thần chú. Điều đó là có thật. Tôi hãnh diện về điều đó cũng như về chất lượng các sản phẩm của tôi. Nhưng, trái với những nhà buôn khác, tôi không bán cho những người theo nghi thức Boko nếu tôi nhận ra họ. Tôi có thói quen phân loại khách hàng. Tôi cũng không bán hàng cho bọn tập tễnh, bọn amatơ có ý đồ xấu, dùng bùa ngải đẻ ếm đối thủ. Nói tóm lại, người trong ảnh đúng là ...
    - Lavelle - Jack nói.
    - Nhưng lúc đó tôi không biết tên hắn. Trong khi gói hàng cho hắn thì tôi sực biết hắn là một Boko. Và thế là tôi ngưng ngang, không bán nữa. Hắn tức giận vì thấy tôi không giống những chủ tiệm khác, có thể bán cho bất cứ ai miễn họ có tiền. Lúc đó, tôi mời hắn ra cửa, và cứ tưởng vậy là xong.
    Jack hỏi:
    - Không lẽ không xong à?
    - Không hề.
    - Hắn quay trở lại sao?
    - Không có.
    - Vậy thì chuyện gì đã xảy ra?
    Hampton bước đến gần hàng kệ, nơi hàng trăm chai hũ được sắp xếp ngăn nắp. Jack bước theo sau. Bằng giọng nghèn nghẹn, Hampton kể:
    - Hai ngày sau, khi tôi đang một mình ngồi đọc sách ở đây, ngay phía sau quầy, thì bỗng dưng tất cả chai lọ trên kệ đều rơi xuống đất, tất cả! Thật là một tai họa! Một nửa số chai lọ vỡ nát, những thứ chứa bên trong lẫn lộn vào trong như đống xà bần. Tôi chạy đến và thấy các loại thảo dược, các loại bột và đủ các loại rễ cây tung tóe trên đất bắt đầu chuyển động ... kết hợp lại ... và sinh động. Những vụn vỡ tung tóe trên sàn gồm nhiều loại khác nhau đã kết hợp lại để hình thành một con rắn đen, dài khoảng bốn mươi centimét, với đôi mắt vàng khè, nanh nhọn và cái lưỡi thè dài ra. Không khác gì con rắn thật.
    Jack sững sờ nhìn Hampton, không biết mình phải nghĩ sao về y và câu chuyện của y. Cho đến lúc này, Jack vẫn nghĩ Hampton là người thẳng thắn, thành thật tin vào tôn giáo của y, tựa như bao tín đồ khác. Đặt niềm tin vào một tôn giáo, vào những phép lạ và những chuyện siêu nhiên, đó là điều có thể chấp nhận; nhưng dám tuyên bố mình đã chứng kiến một phép lạ, lại là chuyện khác ...
    Nhìn chăm chăm vào mớ chai lọ trên các kệ, Hampton nói tiếp:
    - Con rắn trườn về phía tôi, tôi đã lùi lại nhưng không biết phải chạy đi đâu bây giờ. Thế là tôi quỳ xuống và bắt đầu cầu nguyện. Có những bài kinh dành cho những tình huống như thế này và chúng đã phát huy tác dụng. Nếu không ... thì có lẽ Lavelle không có ý hãm hại tôi. Có lẽ đó chỉ là một cảnh cáo để trả đũa cái cách ứng xử mà tôi đã dùng khi tôi tống cổ y ra khỏi cửa tiệm. Dù gì chăng nữa, con rắn cũng đã biến mất.
    Jack hỏi:
    - Làm sao anh biết chính Lavelle đã gây nên chuyện này chứ?
    - Một lúc sau khi con rắn biến mất thì điện thoại reng. Chính là hắn đã gọi đến. Y nói rằng tôi có quyền không bán hàng cho y, y không tức giận; nhưng y không chấp nhận cái lối đụng đến người y như tôi đã làm. Vì vậy, để trừng phạt, y đã khiến con rắn phá hủy các chai lọ đựng rễ cây và các lọ bột của tôi. Y chỉ nói thế thôi rồi gác máy.
    - Anh chưa nói rõ cho tôi biết anh đã tống y ra khỏi cửa như thế nào vậy?
    - À thì lúc đó tôi chỉ đơn giản nắm lấy cánh tay của y và, như thế nào nhỉ ... chỉ cho y lối ra. Tôi đồng ý là tôi đã tỏ ra hơi dứt khoát, nhưng đâu có hung bạo đâu! Nhưng dù sao cũng đủ để làm y thấy tức tối và nghĩ đến chuyện trả thù.
    - Chuyện đó đã xảy ra vào tháng chín à?
    - Đúng vậy.
    - Và từ đó y cũng không có quay lại?
    - Không hề.
    - Y có gọi điện làn nữa không?
    - Không có. Tôi phải mất ba tháng mới có thể săn lùng và mua được những thứ đã bị thiệt hại đó.
    - Chắc anh có đủ lý do để mong cho gã Lavelle đó bị bắt giữ?
    Hampton lắc đầu:
    - Trái lại là đằng khác.
    - Hả?
    - Tôi không muốn liên quan đến chuyện này nữa.
    - Nhưng ...
    - Trung úy à, tôi e là mình không thể giúp anh được nữa đâu.
    - Tôi không hiểu ...
    - Chuyện quá rõ mà. Nếu tôi giúp anh, Lavelle sẽ giết tôi ngay. Lần này có lẽ còn tệ hơn lần trước ...
    Jack nhận ra Hampton có vẻ khiếp sợ. Gã hoàn toàn tin vào những quyền năng của đạo Vaudou. Jack nói:
    - Nhưng cũng như tôi, chắc anh mong hắn sẽ bị bắt chứ?
    - Anh không thể nào bắt giam y được đâu!
    - Được chứ!
    - Dù sao đi nữa, anh cũng sẽ không thể tóm được hắn.
    - Anh không cần lo, chúng tôi sẽ sớm bắt được hắn thôi.
    - Không đâu, vì Lavelle là một Boko đầy quyền năng. Y không phải là tay mơ đâu. Y nắm trong tay sực mạnh của âm ty, của cái chết, của bóng tối. Hắn nắm trong tay cái tăm tối của cõi bên kia. Đó là một sức mạnh của vũ trụ, vượt qua tầm hiểu biết của con người. Trung úy phải biết rằng y là đệ tử của tất cả những ác thần Châu Phi đã tồn tại từ thời Cổ Đại. Một đạo quân quỷ dữ đang tuân lệnh Lavelle và bám riết theo y. Y chính là cánh cửa để quỷ dữ có thể nhập vào thế giới này. Bọn chúng thèm khát được gieo rắc kinh hoàng, máu me, đau khổ, bất hạnh vào thế giới này, và vì cánh cửa của bọn chúng đang bị sức mạnh của các Thiện thần ngăn cản.
    Hampton im lặng một lúc, hầu như hụt hơi. Mồ hôi lấm tấm trên trán gã, gã đưa tay vuốt mặt, hít vài hơi chậm và sâu; rồi y nói tiếp bằng giọng điệu cố giữ bình tĩnh:
    - Trung úy à, Lavelle là một kẻ nguy hiểm, cực kỳ nguy hiểm. Toi nghĩ rằng rất có thể y là một kẻ loạn trí, điên rồ. Y là sự kết hợp của cái ác không giới hạn, sự điên loạn và quyền năng của một Boko đầy kinh nghiệm.
    - Nhưng anh có nói với tôi rằng anh là một Hougan kia mà! Vậy anh không thể dùng quyền năng của anh để chống lại Lavelle sao?
    - Tuy tôi là một Hougan, nhưng tôi không đủ tầm cỡ để đương đầu với y đâu. Chẳng hạn, tôi có thể nỗ lực làm đổ vỡ một vài chai lọ từ xa nếu tôi biết trước vị trí của chúng. Nhưng tôi không thể làm như cùng một mức độ của Lavelle. Tôi cũng không thể làm con rắn xuất hiện được như y đã làm. Với khả năng đó, hắn có thể dễ dàng giết chết chính tôi ấy chứ!
    Hampton bước về phía trước và mở cửa ra, cái chuông treo ở cửa phát ra tiếng leng keng, Jack vờ như không nhìn thấy cử chỉ đó. Anh nói:
    - Anh hãy nghe tôi, Lavelle không thể nào biết anh đang giúp tôi đâu. Y ...
    - Rồi y sẽ biết thôi! Y có thể biết mọi chuyện, biết tất cả!
    - Nhưng ...
    - Truy úy! Anh hãy đi đi, làm ơn ...
    - Anh hãy nghe tôi nói, tôi ...
    - Đi đi.
    - Nhưng ...
    Bằng giọng hoảng loạn, tức giận và khiếp đảm, Hampton nói:
    - Anh hãy đi đi! Đi ngay đi!
    Nỗi sợ hãi kinh khiếp của Hampton khiến Jack rùng mình. Anh thở dài, gật đầu:
    - Được rồi.
    Jack ra khỏi cửa hàng.

  4. #13
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết





    Chương 13
    C
    ánh cửa có ghi chữ Rađa đóng mạnh lại sau lưng Jack. Trên conphố nhỏ phủ đầy tuyết, thứ tiếng đó nghe cứ như tiếng súng. Jack nhìn lui lại và thấy Carver Hampton đang hạ bức mành sáo xuống sau ô cửa kính. Trên bức sáo có ghi chữ: Đóng cửa. Rồi ánh đèn cửa tiệm cũng tắt theo. Tuyết vẫn đang rơi trên bầu trời càng lúc càng âm u, Jack đi về phía chiếc xe cảnh sát đang đợi anh. Thế rồi chưa đi được ba bước, anh bỗng ngừng lại, ngạc nhiên vì một âm thanh nghe rất khó chịu trong khu phố giá rét này: tiếng chuông điện thoại. Trong sự tĩnh mịch của tuyết, tiếng chuông nghe sao mà chối tai, cứ như nó đang rung lên ngay bên cạnh anh.
    Jack chưng hửng nhìn cái máy điện thoại công cộng gắn nơi cái trụ. Nhiều khi anh vẫn hay đi ngang qua những chiếc điện thoại đang reo lên như vậy, và không bao giờ quan tâm đến, cũng không bao giờ nghĩ đến chuyện nhấc máy để xem là ai gọi vì điều đó không liến quan đến anh. Cũng như hôm nay vậy. Nhưng mà, lần này ... có hơi khác. Tiếng chuông buông ra như một sợi dây thừng, níu kéo, trói buộc anh.
    Reng ... Reng ...
    Tiếng chuông dai dẳng.
    Gọi Jack.
    Reng ...
    Anh bị thu hút phải bước đến. Anh cố cưỡng lại, nhưng ...
    Reng ...
    Anh bỗng dưng nhận ra anh đã bước một bước về phía tủ máy điện thoại công cộng.
    Và thêm một bước nữa.
    Rồi lại thêm bước nữa.
    Anh thấy mình như đang trôi bềnh bồng .
    Reng ...
    Anh bước đến, như trong một giấc mơ mụ mị.
    Thêm một bước nữa.
    Anh muốn dừng lại mà không được.
    Anh muốn đi tiếp về chiếc xe cảnh sát mà không được.
    Tim anh đập mạnh.
    Tuy trời rét nhưng mồ hôi lại đang chảy dọc lưng anh.
    Anh biết có ai đó đang gọi điện cho mình. Anh biết thế nhưng không hiểu vì sao mình lại chắc như vậy. Anh nhấc máy:
    - Alô!
    - Xin chào thanh tra Jack Dawson! Tôi rất vui sướng khi có dịp được nói chuyện cùng anh. Anh bạn à, quả là hơi muộn khi giờ này chúng ta mới nói chuyện với nhau.
    Giọng nói nghe khá lịch sự, trầm và không có vẻ trịnh thượng chút nào.
    Jack hỏi:
    - Lavelle?
    - Đương nhiên rồi! Còn ai khác nữa chứ?
    - Nhưng làm sao anh ...
    - Làm sao tôi biết anh đang ở đâu hả? này anh bạn, thật tình mà nói thì, anh vẫn luôn ở trong tầm mắt của tôi mà!
    - Anh đang ở gần chỗ tôi à? Anh đang ở trong khu phố này hoặc anh đang ở trong một căn hộ nào gần đây đúng không?
    - Không phải đâu! Tôi đang ở khá xa chỗ anh, vì tôi không mấy ưa thích khu Harlem.
    - Tôi muốn được nói chuyện với anh.
    - Thì chúng ta đang nói chuyện đây còn gì!
    - Mặt đối mặt!
    - Tôi nghĩ điều đó không cần thiết đâu.
    - Tôi sẽ không bắt giữ anh.
    - Anh đâu cách nào bắt giữ tôi. Anh không có chứng cớ!
    - Vậy thì ...
    - Nhưng anh sẽ viện một lý do nào đó để giữ tôi ở lại một hoặc hai ngày.
    - Không đâu.
    - Và tôi thì không muốn bị giam giữ vì tôi phải hoàn tất một số việc.
    - Tôi có thể hứa danh dự với anh, chúng tôi sẽ không bắt giữ anh quá một hay hai tiếng đồng hồ đâu. Chúng tôi chỉ muốn hỏi anh một vài chuyện thôi mà.
    - Vậy sao?
    - Anh hãy tin tôi. Tôi sẽ không nuốt lời.
    - Điều đó kể ra cũng lạ! Nhưng tôi biết anh đang nói thật.
    - Vậy thì vì sao chúng ta không gặp mặt nhau, trả lời một số câu hỏi để xua đi những nghi ngờ mà chúng tôi có về anh nhỉ?
    Lavelle cười phá lên:
    - Thú thật, tôi e là mình không cách nào có thể xua đi những nghi ngờ của các vị vì thủ phạm đích thật là tôi mà!
    - Anh muốn nói chính anh đã nhúng tay vào những án mạng đó sao?
    - Đương nhiên. Bộ thiên hạ không có nói cho anh biết sao?
    - Vậy là anh gọi điện thoại cho tôi để tự thú à?
    Lavelle lại một lần nữa bật cười:
    - Không hề. Tôi chỉ muốn cho anh một vài lời khuyên thôi.
    - Lời khuyên sao?
    - Anh hãy ghi nhận chúng như cảnh sát của nước tôi đã từng ghi nhận ấy.
    - Họ ghi nhận ra sao?
    - Họ không chống đối một Boko có quyền năng như tôi.
    - Không ư?
    - Đúng vậy! Họ không dám.
    - Anh hãy nhớ rằng chúng ta đang ở New York chứ không phải Haiti đâu đấy! Trường cảnh sát không có dạy chúng tôi mê tín dị đoan.
    Jack cố giữ giọng trầm tĩnh, tuy vậy tim chàng vẫn đập mạnh trong lồng ngực.
    Lavelle nói:
    - Ở Haiti, cảnh sát không hề cản trở những kế hoạch của một Boko, nhất là khi nhằm xóa sạch thứ rác rưởi như nhà Carramazza. Trung úy à, anh không nên xem tôi là kẻ sát nhân mới phải chứ. Anh hãy cứ xem tôi là kẻ hủy diệt đi! Tôi đang ra tay giúp ích cho xã hội này mà! Ở Haiti, người ta nhìn nhận vấn đề như thế đó.
    - Chúng tôi thì khác.
    - Rất tiếc phải nghe anh nói như vậy.
    - Chúng tôi nghĩ rằng giết người là tội ác, dù cho người bị hại có là kẻ xấu xa đến mức nào chăng nữa.
    - Xu hướng bắt chước nguyên thủy!
    - Chúng tôi tin rằng mạng sống con người là linh thiêng.
    - Thật bậy bạ! Nếu gia đình Carramazza chết đi, thì thế giới này có mất mát gì nào? Bọn chúng chỉ là những tên sát nhân, trộm cướp, ma cô. Rồi những tên sát nhân, trộm cướp, ma cô khác sẽ thay thế chúng thôi. Nhưng tôi thì không! Anh hiểu chứ? Anh có thể nghĩ rằng tôi cũng là tên sát nhân tầm thường như chúng, nhưng tôi không phải hạnh người đó đâu. Tôi là một tu sỹ. Mục tiêu của tôi không phải làm chủ thị trường mua túy của New York. Tôi chỉ muốn tước lấy cái thị trường này từ tay Gennero Carramazza mà thôi. Đó chỉ là một phần của hình phạt dành cho y. Tôi muốn làm y phá sản, phải chịu nhục nhã, phải mất đi gia đình, bạn hữu. Tôi muốn giết những người thân của Gennaro, cho lão biết thế nào buồn khổ. Một khi những điều đó đã được thực hiện, một khi lão ta đã bị cô lập, cô đơn, khiếp đảm, ê chề, khi lão đã rơi xuống đáy sâu đen tối của tuyệt vọng, thì tôi sẽ xuống tay, nhưng chậm thôi, để lão nếm mùi cực hình. Sau đó, tôi sẽ ra đi, trở về Đảo và sẽ không bao giờ gây phiền hà cho anh nữa. Trung úy Jack Dawson à, tôi chỉ là công cụ của công lý mà thôi.
    - Công lý đòi hỏi phải giết hại những đứa cháu của Carramazza à?
    - Đúng vậy.
    - Giết những đứa trẻ vô tội đó ư?
    - Chúng không hề vô tội, vì chúng mang dòng máu của Carramazza!
    Jack thầm nghĩ, Carver Hampton nói không sai: Lavelle đúng là một tên loạn trí!
    Lavelle nói:
    - Tôi hiểu anh sẽ bị cấp trên quở trách nếu không tóm được thủ phạm để đưa ra xét xử. Ngoài ra, ngành cảnh sát sẽ bị báo chí chỉ trích đủ điều. Tôi hiểu rõ chứ! Vì vậy, nếu anh muốn, tôi có thể thu xếp để tạo ra một loạt chứng cứ để nhằm buộc tội một đai gia khác của Mafia. Anh có thể kết tội chúng đã gây ra những chết chóc cho gia đình Carramazza, bắt nhốt chúng và như thế có thể loại bỏ được những tên trùm đang làm anh phải bận tâm. Tôi rất hài lòng khi được giúp anh bằng cách đó.
    Jack thầm nghĩ, cuộc nói chuyện này xem chừng không thực, không thể nào tin nổi.
    Anh hỏi:
    - Bộ anh thật sự tin rằng tôi có thể chấp nhận một sự giúp đỡ như vậy sao?
    - Tôi sẽ tạo ra những chứng cứ không thể bác bỏ được và anh sẽ không phải lo lắng gì đâu!
    Jack nói:
    - Tôi không quan tâm đến chuyện đó. Ý tôi muốn nỏi, có phải anh thật sự tin rằng tôi sẽ nghe theo anh để cáo buộc những người vô tội sao?
    - Bọn chúng có vô tội đâu. Đó là điều chắc chắn! Những kẻ bị kết án sẽ là những tên sát nhânm trộm cướp và ma cô.
    - Nhưng với những vụ án vừa xảy ra thì chúng vô can.
    - Chuyện nhỏ mà.
    - Tôi không nghĩ vậy.
    Sau một thoáng im lặng, Lavelle nói:
    - Trung úy à, anh là một người khá lạ lùng đấy nhỉ. Ngờ nghệch, ngu xuẩn nhưng đáng để tôi quan tâm đó.
    - Gennaro Carramazza cho chúng tôi biết vì muốn trả thù nên anh đã gây án.
    - Đúng vậy.
    - Vì sao?
    - Lão ta không nói sao?
    - Không. Chuyện gì đã làm anh phải gây ra tất cả những chuyện này?
    Lặng im, Jack chờ đợi. Khi anh định nhắc lại câu hỏi thì Lavelle trả lời, giọng đanh thép, hung dữ:
    - Tôi có một đứa em út tên Gregory Pontrain. Đúng hơn là người em cùng mẹ khác cha. Gregory không quan tâm đến đạo Vaudou, né tránh những chuyện bùa chú, ma thuật. Nó có một tâm hồn rất hiện đại, sự bén nhạy của kỷ nguyên điện tử. Nó rất tin ở khoa học chứ không tin ma thuật. Nó đặt tất cả niềm tin vào sự tiến bộ, vào khoa học kỹ thuật và không tin rằng tôi có thể mang lại hạnh phúc cho bất cứ ai. Nó nghĩ rằng tôi chỉ là một người chân chất vô hại. Tuy nhiên, dù với những suy nghĩ sai trái của nó, anh em chúng tôi rất thương yêu nhau. Vì nó, tôi có thể làm bất cứ chuyện gì.
    Bằng giọng nghĩ ngợi, Jack nói:
    - Gregory Pontrain à ... cái tên sao mà nghe quen quen ...
    - Cách đây nhiều năm, Gregory đã nhập cư vào Hoa Kỳ, nhập cư hợp pháp. Nó đã làm việc cật lực, vào đại học và còn được học bổng nữa. Nó có tài viết lách ngay từ nhỏ nên đã chọn hướng đi đúng theo khả năng của mình. Nó đỗ đầu trong kỳ thi tốt nghiệp khoa báo chí trường đại học Columbia và vào làm việc cho tờ New York Times. Suốt một năm sau đó, nó không viết lách gì mà chỉ biên tập những bài viết do các phóng viên gửi về. Rồi nó bắt đầu viết nhiều bài phóng sự. Bình thường thôi. Nhưng bài viết không gây ấn tượng lắm, những bài mà các vị hay gọi là “có tính quan tâm đến con người”. Và rồi ...
    Jack nói:
    - À, tôi nhớ ra rồi! Gregory là nhà báo viết về những vụ trọng án.
    - Lúc đầu, Pontrain được yêu cầu viết những bài phóng sự điều tra về những vấn đế tội phạm. Những vụ trộm cướp, bọn buôn bán ma túy. Dần dần, Gregory trở thành chuyên gia của tờ Times về vấn đề ma túy. Có thể nói Pontrain là người hiểu rõ nhất về những đường dây ma túy, về gia đình Carramazza, về những quan chức đã bị mua chuộc. Trong lĩnh vực này, không ai biết rõ hơn Pontrain và nó đã viết những bài báo ...
    - Vâng, tôi có đọc những bài đó. Viết rất hay, hình như có bốn bài thì phải.
    - Đúng vậy, Pontrain muốn tiếp tục viết và có ý định viết một loạt phóng sự. Thiên hạ đồn rằng Potrain sẽ là ứng viên của giải Pulizer. Em tôi đã gom góp đủ chứng cứ để cho cảnh sát phải quan tâm và bọn tội phạm sẽ phải đi tù. Nó có những nguồn thông tin từ cảnh sát, từ gia đình Carramazza và được những người cung cấp tin rất tin tưởng. Nó tin rằng nó đủ sức đốn gục Dominick. Tội nghiệp Pontrain, quá ngây thơ, quá anh hùng mã thượng. Nó nghĩ nhiệm vụ của nó là chiến đấu để tiêu diệt cái ác. Một ký giả lao vào cuộc thánh chiến. Nó tin rằng tuy chiến đấu đơn độc, nhưng nó có thể làm thay đổi xã hội này. Nó không biết rằng cách thức duy nhất để đương đầu với những quyền năng của bóng tối là phải thỏa hiệp với những quyền năng đó, như tôi đã làm. Và vào một đêm tháng ba vừa rồi, khi Pontrain và vợ đi ăn tối ...
    - Xe của họ bị gài bom - Jack nói nốt.
    - Cả hai vợ chồng đều tan xác. Lúc đó Ona đang mang thai đứa con đầu lòng. Như vậy là Gennaro Carramazza thiếu nợ tôi ba mạng người: Pontrain, Ona và đứa bé.
    - Vụ đó chưa được làm sáng tỏ mà. Không chứng cứ nào cho thấy Carramazza đã nhúng tay.
    - Tôi biết không ai khác ngoài y đã làm.
    - Không chắc lắm.
    - Tôi biết chắc mà. Tôi cũng có những nguồn thông tin như vậy chứ. Chính xác hơn Pontrain là đằng khác. Tôi có những tai mắt của Thế Giới Ngầm đang làm việc cho tôi mà. (Lavelle bật cười. Giọng cười du dương và quyến rũ khiến Jack phải giật mình). Trung úy à, tôi không nói về cái thế giới ngầm của bọn tội phạm hay xã hội đen đâu, bọn chết tiệt Cosa Nostra với lối kiêu hãnh và lề luật khốn kiếp của chúng. Thế Giới Ngầm mà tôi nói còn ngầm hơn cả Mafia, ngầm và âm u hơn nhiều. Tôi có tai mắt của Cổ Nhân, những báo cáo của quỷ dữ và ác thần. Họ nhìn thấy hết và biết tất cả mọi chuyện.
    Jack thầm nghĩ: tay này điên quá cỡ! Nhưng ngoài sự điên loạn đó, có một điều gì đó trong giọng nói của Lavelle đã đánh thức trực giác của một nhân viên hình sự như Jack. Khi nói về vấn đề siêu nhiên, giọng nói của Lavelle biểu lộ sự kính cẩn và niềm tin. Nhưng khi nhắc đến người em trai, giọng nói của y có vẻ giả dối và nỗi tiếc thương của y chẳng mang đến tính thuyết phục gì cả.
    Jack nhận thấy sự trả thù không phải là động cơ chủ yếu của Lavelle.
    Jack nói:
    - Ở bên kia thế giới, hẳn người em trai của anh không muốn anh báo thù như thế này đâu!
    - Muốn chứ! Trung úy không biết em trai tôi đâu.
    - Nhưng ít ra tôi cũng có thể khẳng định với anh Pontrain không giống như anh. Pontrain là người tốt và đương nhiên sẽ không muốn thấy cái cảnh giết chóc như thế. Điều đó chắc sẽ làm Pontrain phát tởm.
    Lavelle không nói năng gì nhưng sự im lặng đó đang che giấu một cơn giận dữ. Jack nói tiếp:
    - Pontrain hẳn không chấp nhận việc sát hại một đứa bé, sự trả thù lây lan đến thế hệ thứ ba như vậy, Pontrain không có điên rồ như anh.
    Lavelle nổi cáu:
    - Dù Pontrain có đồng ý hay không thì điều đó cũng không còn quan trọng nữa rồi.
    - Theo tôi nghĩ, sự trả thù không phải là động cơ thật sự của anh.
    Lavelle không trả lời. Jack nói:
    - Vì em trai anh chắc không hề ưa thích chuyện giết chóc này, vậy vì sao anh lại ra tay chứ?
    Lavelle nói, giọng nhát gừng, tức tối:
    - Thì tôi làm cho tôi, cho cá nhân tôi. Tôi hãnh diện trước những cái chết đó.
    - Hãnh diện ư? Giết người mà là hãnh diện ư? Thật là vô nghĩa, điên khùng!
    - Không hề vô nghĩa chút nào. Đó là lý lẽ của Cổ Nhân, những thần linh Pétro và Congo. Bất cứ ai dám động đến sinh mạng anh em của một Boko đều phải bị trừng trị. Việc sát hại em trai tôi là cái tát mà người ta dành cho tôi. Điều đó làm nhục tôi, hạ thấp tôi. Tôi không thể chấp nhận được. Quyền năng của một Boko như tôi sẽ bị suy yếu nếu tôi không trả thù. Các Cổ Nhân sẽ không kính trọng tôi nữa: họ sẽ quay mặt đi, không giúp đỡ và trao cho tôi sức mạnh của họ nữa. Nếu muốn được các thần linh Pétro và Congo nể trọng và che chở, tôi phải trả thù cho em trai tôi bằng ít nhất là hai mươi án mạng.
    - Quá điên rồ!
    - Một ngày kia anh sẽ thấy là không hề điên rồ chút nào.
    - Điên rồ! - Jack nhắc lại.
    Lavelle nói:
    - Tôi muốn khuyên anh một điều.
    - Trong số những kẻ tình nghi gây án mà tôi được biết, thì anh là người duy nhất thích đưa ra những lời khuyên bảo ấy nhỉ.
    - Tôi khuyên anh nên tránh xa vụ này.
    - Anh cứ nói như đùa!
    - Hãy tránh ra đi.
    - Không được!
    - Anh từ nhiệm đi.
    - Không!
    - Chắc anh sẽ nghe tôi nếu anh biết rằng điều đó sẽ có ích cho anh.
    - Anh là thằng khốn kiếp!
    - Tôi biết.
    - Anh phải hiểu tôi là một sỹ quan cảnh sát! Anh không thể làm tôi lùi bước bằng cách đe dọa tôi đâu! Càng dọa dẫm thì tôi lại càng lao vào. Cảnh sát ở Haiti cũng vậy, như tôi thôi. Vả lại, nếu tôi từ nhiệm thì anh được ích lợi gì hả? Một người khác cũng sẽ thay thế tôi và anh vẫn sẽ tiếp tục bị truy nã.
    - Đúng là vậy. Nhưng dù là ai chăng nữa thì người thay thế anh sẽ không có đầu óc đủ thoáng để có thể tin vào quyền năng của đạo Vaudou như anh. Y sẽ tiến hành điều tra như thường lệ và tôi không lo lắng chuyện đó.
    Jack sững sờ:
    - Anh cho rằng lối suy nghĩ thoáng rộng của tôi là sự đe dọa đối với anh à?
    Thay vì trả lời câu hỏi, Lavelle lại nói:
    - Được thôi, nếu anh không chịu từ nhiệm thì hãy ngưng cuộc tìm hiểu của anh về đạo Vaudou đi. Hãy tiến hành điều tra theo cái cách mà cô nàng đồng nghiệp của anh mong muốn ấy.
    - Anh thật quá quắt! - Jack nói.
    - Với sự tò mò của anh, rồi anh sẽ chỉ tìm thấy sự giải thích mang tính chất siêu nhiên mà thôi. Đừng tiếp tục con đường đó nữa, đấy là tất cả những gì mà tôi yêu cầu.
    - Thế thôi à! Nằm mơ đi ...
    - Hãy làm việc với những công cụ lấy dấu vân tay, với những chuyên gia pháp chứng và những kỹ thuật thông thường của anh đi. Hãy thẩm vấn các nhân chứng tùy thích ...
    - Cám ơn sự cho phép của anh nhé!
    - Điều đó không quan hệ gì đến tôi - Lavelle nói tiếp, không quan tâm đến lời nói của Jack. Rồi anh sẽ không còn dịp để nghe tôi nói những lời này nữa đâu. Khi nào dẹp xong gia đình Carramazza, tôi sẽ đi biệt trước khi anh có thể lần ra một dấu vết nào. Anh hãy quên đạo Vaudou đi.
    - Nếu tôi nói không thì sao?
    Có tiếng rít lên trong ống nghe khiến Jack nhớ đến con rắn màu đen mà Carver Hampton đã mô tả. Anh đưa ống nghe ra xa, nhìn nó với vẻ nghi ngờ rồi bỗng nhiên cảm thấy nực cười và lại áp ống nghe vào tai.
    - Nếu anh cứ khăng khăng như vậy, lần tìm theo cái hướng đó ... thì tôi sẽ băm xác hai đứa con của anh đấy!
    Jack cảm thấy ruột gan mình quặn thắt. Lavelle nói tiếp:
    - Chắc anh còn nhớ cái xác của Dominick Carramazza và hai tên cận vệ chứ?
    Rồi đột nhiên, cả Jack và Lavelle cùng nói một lúc: Jack gào thét trong khi Lavelle vẫn giữ giọng trầm tĩnh:
    - Mày là thằng chó chết, biết chưa ...
    - Bộ không nhớ đến cái xác bị xé nát của Dominick sao ...
    - Mày không được động đến ...
    - ... với hai con mắt bị móc và đầm đìa máu?
    - ... các con tao, nếu không ...
    - Một khi đã kết thúc Davey và Penny ...
    - ... Liệu hồn cái mồm bẩn thỉu của mày!
    - ... thì chúng chỉ còn là một đống thịt ...
    - Tao nói cho mày biết ...
    - ... thịt băm dành cho chó ...
    - ... tao sẽ tìm ra mày ... Đồ rác rưởi! Khi đe dọa các con của tao, mày đã từ bỏ cơ may sau cùng rồi đấy! Mày nghĩ mày là ai hả? Thượng Đế à? Đây là Hoa Kỳ, mày phải biết điều đó. Mày không thể trốn đi đâu được, một khi đã đe dọa các con tao!
    - Tôi sẽ cho anh thời gian để suy nghĩ, từ giờ cho đến cuối ngày. Sau đó, nếu anh không nhượng bộ, tôi sẽ giết Davey và Penny, sẽ rất khó khăn cho chúng đây!
    Nói xong Lavelle gác máy.
    - Mày chờ đó, thằng khốn - Jack gào lên.
    Nắm chặt ống nghe trong tay, anh cố nối lại cuộc nói chuyện, cố liên lạc lại với Lavelle. Anh thở hổn hển như chú bò tót trong đấu trường, đầu và dạ dày đau nhức.
    Một lúc sau, anh bỏ đi, run bần bật vì giận dữ. Rồi anh đứng im một lúc dưới trời tuyết và dần dần lấy lại được bình tĩnh.
    Anh thầm nghĩ, không có gì phải lo sợ hết. Penny và Davey đang yên ổn ở trường, nơi đó có nhiều người sẵn sàng bảo vệ hai bé. Dì Faye sẽ đến đón chúng vào lúc ba giờ để đưa về nhà dì. Dĩ nhiên, Lavelle không biết điều đó. Nếu tối nay hắn muốn ra tay sát hại hai đứa bé, chắc hắn sẽ nghĩ chúng phải ở nhà. Tuy Carver Hampton khiếp sợ đến thế, nhưng Lavelle không thể nào biết hết mọi chuyện được. Hắn đâu phải Thượng Đế chứ! Như vậy, hai đứa bé sẽ an toàn khi sống ở nhà dì Faye và Keith. Jack thấy giải pháp cho chúng qua đêm ở đó là ổn hơn hết. Cũng có thể chúng nên tạ ở đó ít ngày cho đến khi Lavelle bị bắt giữ. Cũng có thể anh sẽ cho chúng nghỉ học vài ngày cho đến khi vụ án kết thúc. Anh sẽ yêu cầu đại úy Gresham cho người bảo vệ chúng, và có thể một nhân viên cảnh sát sẽ được gởi đến nhà dì Faye trong những lúc Jack vắng mặt. Như thế là ổn. Anh quyết định sẽ gọi điện cho Faye để giải thích tình huống và báo cho Faye biết để đề phòng có người theo dõi khi đến đón các con của anh.

  5. #14
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết





    Chương 14
    T
    rên chiếc xe cảnh sát đưa về văn phòng, Jack ngồi thừ người cho đến khi giọng nói của Nick Iervolino làm anh sực tỉnh:
    - Hình như trung úy có vẻ e ngại khi tôi phóng xe trên những con đường trơn trượt như thế này nhỉ.
    - Ồ, không sao cả đâu - Jack nói.
    - Tôi lái xe cảnh sát này đã mười hai năm rồi và chưa để xảy ra tai nạn bao giờ.
    - Thật ư?
    - Ngay cả cọ quẹt cũng không.
    - Chúc mừng anh.
    - Trời mưa, trời tuyết, băng giá, cũng không hề gì với tôi. Không một sơ sẩy nào. Vậy nên trung úy không phải lo lắng đâu.
    - Vì sao anh nghĩ là tôi đang lo lắng chứ?
    - Tôi thấy trung úy cứ nghiến răng hoài.
    - Thật à? Vậy mà tôi không hay. Nhưng không phải vì tôi sợ tai nạn đâu.
    - Nếu không thì trung úy đang lo lắng chuyện gì chứ?
    Jack tần ngần một lúc rồi kể cho Nick nghe về cú điện thoại của Lavelle. Nick lắng nghe, tuy vẫn chú tâm vào việc cầm lái trên con đường trơn trượt.
    Rồi anh bật thốt lên, khi Jack chấm dứt câu chuyện:
    - Quái lạ thật!
    - Tôi cũng nghĩ như anh! - Jack nói.
    - Trung úy có tin rằng hắn ta có thể làm chuyện đó không? Trung úy có tin hắn đang nói thật không?
    Thay vì trả lời, Jack lại hỏi:
    - Anh nghĩ sao?
    Sau một lúc nghĩ ngợi, Nick nói:
    - Tôi không biết nữa. Như trung úy biết đó, chúng ta đang sống trong một thế giới lạ lùng với những điều kỳ bí ở khắp nơi, chẳng hạn như: Tam Giác Tử Thần, người ngoài hành tinh và đủ thứ chuyện. Tôi thích đọc các sách viết về đề tài đó. Có hàng triệu người cho rằng họ đã trông thấy những điều kỳ lạ. Có thể hầu hết đã bịa ra, nhưng không phải là tất cả.
    Jack gật đầu:
    - Đúng vậy. Không phải là tất cả.
    - Vậy thì, có thể những quyền năng của đạo Vaudou là có thật cũng không chừng. Dĩ nhiên, tôi mong chúng không phát huy tác dụng với trung úy và các bé đi.
    Jack và Nick cùng lặng im một lúc. Cuối cùng, Nick nói:
    - Trong những gì mà gã Lavelle đó nói với trung úy, có một điều làm cho tôi thắc mắc.
    - Điều gì vậy?
    - Cứ cho là quyền năng của đạo Vaudou là có thật đi ...
    - Đồng ý.
    - Tôi chỉ giả dụ thế thôi.
    - Tôi hiểu.
    - Vậy thì vì sao gã Lavelle này lại muốn dùng cái quyền năng đó để giết hại các con của trung úy? Vì sao gã không sử dụng quyền năng để chỉ hại một mình trung úy thôi? Như vậy có phải dễ dàng và chắc ăn hơn không?
    Jack cau mày:
    - Anh nói có lý.
    - Nếu trung úy bị giết thì sẽ có một thanh tra khác thay thế và người này sẽ không có đầu óc như trung úy để nghĩ đến chuyện ma thuật của đạo Vaudou đâu. Vậy thì cách đơn giản nhất để Lavelle đạt được điều mà gã muốn là dùng bùa phép để sát hại trung úy, thế thì vì sao hắn không ra tay nếu hắn có thể làm mọi chuyện bằng ma thuật chứ?
    - Tôi cũng không biết nữa.
    - Tôi cũng thế - Nick nói. Tôi không thể nào hiểu nổi. Nhưng theo tôi nghĩ thì đây là một chi tiết quan trọng, trung úy có nghĩ thế không?
    - Anh thì sao?
    - Dù cho gã Lavelle đó có là kẻ điên rồ, dù cho những ma thuật của đạo Vaudou chỉ là chuyện tưởng tượng, thì những phần còn lại của câu chuyện mà Lavelle kể cho trung úy, là điều khá logic. Không có gì mâu thuẫn hết, trung úy hiểu ý tôi nói không?
    - Tôi hiểu.
    - Câu chuyện của gã nghe có vẻ khá logic dù có lạ lùng. Chỉ có điều lời đe dọa giết con của trung úy là nghe không logic chút nào. Vì hắn có thể thủ tiêu trung úy mà còn nhắm vào con của trung úy để làm gì chứ?
    - Có thể hắn hiểu rằng hắn không thể nào làm gì được tôi nếu chỉ bằng lời đe dọa vào chính tôi chăng? Có thể hắn hiểu rằng cách duy nhất để uy hiếp tôi chính là dùng sự an toàn của các con tôi?
    - Nhưng nếu hắn có thể phanh thây trung úy như đã từng làm với những người kia, thì đâu cần đe dọa cho phiền phức chứ! Cứ ra tay luôn có phải dễ hơn không?
    Jack nhìn tuyết rơi trong khi cân nhắc những gì mà Nick nói. Anh có linh cảm đây đúng là một chi tiết quan trọng.
    o O o
    Trong nhà kho, Lavelle vừa cử hành xong nghi lễ. Y đứng trong thứ ánh sáng vàng cam, cả người ướt đẫm mồ hôi, thở dốc. Toàn thân y phủ một màu vàng cứ như được quét một lớp sơn lên người. Thứ ánh sáng siêu nhiên đó nhuộm vàng đôi mắt và các móng tay móng chân của y.
    Lavelle khép mắt lại và mường tượng những cái xác đầm đìa máu của Davey và Penny. Hắn rùng mình vì thích thú.
    Sát hại trẻ con là một hành vi nguy hiểm mà một Boko chỉ có thể thực hiện trong trường hợp không thể chọn một giải pháp nào khác hơn. Trước khi ra tay giết một đứa trẻ thì một Boko phải biết cách tự bảo vệ mình bằng những lời thần chú và bùa ngải trước sự tức giận của các vị thần Rađa, những Thiện thần mang phước lộc đến cho con người và sẽ rất phẫn nộ nếu thấy trẻ con bị hại. Bằng không y sẽ bị đau đớn nhiều ngày cho đến khi các vị thần Rađa xuống tay kết liễu đời ya. Lúc đó y sẽ xem cái chết là một ân huệ vì đã chấm dứt cho y những đau đớn khôn cùng.
    Lavelle am hiểu những phương cách nhằm phòng chống các vị thần Rađa. Y đã từng sát hại trẻ con và vẫn bình yên vô sự. Tuy nhiên, y cảm thấy căng thẳng bồn chồn, bởi chỉ một sai lầm đôi khi cũng có thể xảy ra. Mặc dù có quyền năng và sự am hiểu, y vẫn phải đương đầu với những nguy cơ bất trắc.
    Mặt khác, nếu một Boko, nhờ vào những quyền năng siêu nhiên để giết một đứa trẻ và có thể an toàn thoát khỏi sự trừng phạt của các Thiện thần, thì như thế các thần Pétro và Congo sẽ hài lòng về y và sẽ trao cho y quyền năng còn lớn hơn nữa. Nếu Lavelle có thể giết chết Davey và Penny, đồng thời tránh khỏi cơn thịnh nộ của các thần Rađa, thì ma thuật của y càng đang ngại hơn.
    Nhắm mắt lại, y trông thấy hình ảnh của những đứa con nhà Dawson bị xé xác, đầy máu.
    Y từ tốn cười.
    Ở một nơi khá xa nhà kho nơi Baba Lavelle cử hành nghi lễ, trong căn hộ của gia đình Dawson có khoảng hai chục con vật có đôi mắt trắng bạc đang đong đưa trong bóng tối, theo nhịp cầu kinh của tay phù thủy Boko. Dĩ nhiên, không hề có tiếng cáu kỉnh của y trong căn hộ này, tuy những con vật có đôi mắt điên dại đó đang nghe thấy. Chúng đong đưa trong căn bếp, trong phòng khách, ở lối vào, nơi chúng đang chăm chú nhìn cái cửa, nôn nao chờ đợi. Khi Lavelle kết thúc buổi cầu kinh, những con vật nhỏ bé cũng đồng thời chấm dứt đong đưa. Giờ đây, chúng hoàn toàn bất động. Chúng rình rập, cảnh giác, sẵn sàng.
    Trong đường cống dưới trường Welton, những con vật có đôi mắt sáng bạc cũng đang đong đưa trong bóng tối, theo điệu cầu kinh của Lavelle. Khi Lavelle chấm dứt cầu kinh, thì chúng cũng chấm dứt đong đưa, tương tự như bầy thú đang trong căn hộ của nhà Dawson.
    o O o
    Tan học lúc ba giờ, mười phút sau học sinh trường Welton ra cổng, như một cơn thủy triều đầy tiếng cười nói. Khu phố xám xịt vì bão tuyết bỗng tươi vui hẳn. Vào tuần này, cô giáo Shepherd là người có nhiệm vụ trực ở cổng trường. Cô đi đi lại lại trên vỉa hè, để mắt trông coi khắp nơi và vì có tuyết nên cô phải liên tục ngăn cấm bọn trẻ chơi trò ném tuyết vào nhau.
    Ban giám hiệu trường Welton đã được thông báo rằng dì Faye của Penny và Davey sẽ thay bố đến đón hai bé. Vậy mà, khi ra khỏi trường, hai bé không thấy dì Faye đâu. Chúng đi một quãng ngắn rồi dừng lại trước cái cổng sơn màu xanh ngọc của ngôi nhà kề cận trường. Chúng đứng đó, cố né tránh cơn gió rét căm căm.
    Davey hỏi:
    - Vì sao ba không đến đón tụi mình?
    - Có lẽ ba đang bận việc.
    - Tại sao chứ?
    - Ba có việc quan trọng cần giải quyết đột ngột.
    - Chuyện gì vậy?
    - Chị không biết.
    - Có nguy hiểm hay không?
    - Không đâu.
    - Người ta có bắn vào ba không?
    - Không đâu mà.
    - Làm sao chị biết chứ?
    - Thì chị biết - Penny đáp, tuy bé không chắc lắm.
    Khi hai bé đang trò chuyện thì có tiếng gọi:
    - Penny! Davey!
    Chiếc taxi vàng cập sát lề. Dì Faye thò đầu ra cửa xe, ra hiệu cho chúng. Trông thấy dì Faye, Davey chạy ào đến.
    Penny định chạy theo nhưng ngay lúc đó bé cảm thấy đau buốt ở mắt cá chân. Bé rụt nhanh chân, gào lên, nhìn xuống ... và sững sờ khiếp đảm.
    Giữa vỉa hè và cánh cổng màu xanh ngọc là khe hở khoảng mười centimét. Có một bàn tay thò qua khe và tóm lấy mắt cá chân của Penny.
    Giờ đây, bé không còn có thể la lên được nữa.
    Đó không phải là bàn tay con người. Vật đó to gấp đôi cái chân mèo, nhưng cũng không hẳn là chân nữa. Đó là một bàn tay - tuy thô kệch - gồm ngón cái và những ngón tay.
    Cổ họng Penny thắt lại, không phát ra nổi tiếng nào.
    Lớp da của bàn tay đó có màu xám - xanh lục - vàng và sần sùi, trông như đang bị thối rữa, thật kinh tởm. Đầu của những ngón tay thon nhỏ là những cái móng vuốt sắc bén. Chính chúng đang chọc thủng chiếc ủng cao su của bé. Penny chợt nhớ đến cây gậy bóng chày và chuyện xảy ra trong phòng hai bé. Bé không quên con vật dưới gầm giường.
    Bé cũng không quên những đôi mắt trắng bạc dưới tầng hầm của trường.
    Vậy mà bây giờ, chúng lại xuất hiện.
    Hai cái móng vuốt đã lún sâu vào chiếc ủng của bé và xé rách nó.
    Đột nhiên, bé không còn cảm thấy nghẹt thở nữa. Bé hít thật sâu không khí giá rét và điều đó giúp bé tạm thời đẩy lùi sự sợ hãi đang làm bé sững người. Bé vùng mình, rút chân ra khỏi các ngón tay và chạy ào về chiếc taxi, chui vào xe và đóng mạnh cửa. Chiếc taxi phóng đi.
    Dì Faye và Davey đang nói về cơn bão tuyết. Cả hai đều không biết rằng Penny đang điếng người vì sợ. Trong khi họ vẫn đang trò chuyện thì Penny cúi người xuống, đưa tay sờ chiếc ủng. Lớp cao su đã bị xé toạc, Penny rút khóa kéo của chiếc ủng xuống, thọc tay dưới vớ để sờ vết thương. Bé cảm thấy ran rát, khi lấy tay ra bé thấy có máu ở đầu các ngón tay.
    Dì Faye hỏi:
    - Chuyện gì thế bé cưng?
    - Cháu không sao - Penny nói.
    - Máu ở đâu vậy?
    - Cháu chỉ bị trầy sơ thôi ạ!
    Mặt của Davey tái xanh. Cố giữ giọng bình tĩnh để Davey yên tâm, Penny nói:
    - Chị không sao mà, Davey.
    Dì Faye cúi người, bảo Penny cởi ủng và vớ để nhìn kỹ bàn chân của bé. Có một vết thương khá rộng và nhiều vết cào ở mắt cá chân, nhưng máu đã ngưng chảy.
    Dì Faye hỏi:
    - Chuyện gì xảy ra thế?
    Penny ngập ngừng. Bé muốn kể hết cho dì Faye về chuyện những con vật có đôi mắt trắng bạc. Bé muốn được che chở, tuy vậy bé biết mình không thể nói ra bởi vì có nói thì dì Faye cũng sẽ không tin. Hơn nữa, người ta sẽ cho rằng tinh thần bé bất ổn và bé cần phải được đưa đến một bác sỹ tâm lý nào đó. Khi ấy, sẽ chẳng có ai bên cạnh Davey để che chở cho em.
    Dì Faye nói:
    - Penny à, con hãy nói thật cho dì biết, con đã làm gì để bị thương hả?
    - Sao ạ?
    - Vì sao con ngần ngại không nói? Con đã làm gì?
    - Con không làm gì hết - Penny nói.
    - Vậy tại sao con lại bị thương?
    - Chiếc ủng của con bị vướng vào cây đinh ạ.
    - Đinh à? Ở đâu?
    - Ở cổng ạ!
    - Cổng nào?
    - Cái cổng gần trường nơi tụi con đứng đợi dì đó.
    Dì Faye cau mày:
    - Cái đinh có bị rỉ sét hay không vậy con?
    - Con cũng không biết nữa.
    - Hẳn con phải thấy nó chứ? Nếu không thì sao con biết nó là một cây đinh.
    Penny gật đầu:
    - Vâng, có lẽ nó bị sét ạ.
    - Con đã tiêm ngừa uốn ván rồi hay chưa?
    - Rồi ạ.
    - Khi nào?
    - Tuần lễ đầu tháng mười ạ.
    - Được rồi. Khi nào về nhà, chúng ta sẽ lau rửa vết thương, đổ cồn iốt vào rồi băng lại.
    - Con chỉ bị trầy chút xíu thôi hà.
    - Nhưng phòng ngừa vẫn tốt hơn chứ con. Thôi, bây giờ con mang ủng vào lại đi.
    Penny ngã lưng vào ghế, nhắm mắt và nhớ lại cái bàn tay nhỏ bé xấu xí đã xé rách ủng của bé. Bé cố cho rằng đó là tay của một con vật nào đó, thế thôi. Bé không hiểu mình đã làm gì khiến chúng thù hận bé đến thế?

  6. #15
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết





    Chương 15
    T
    hứ tư 17h3 p - 23h.
    Tăm tối nuốt chửng cái rực rỡ của ngày
    Tăm tối đòi hỏi và luôn đạt được điều mà chúng muốn
    Tăm tối lắng nghe, rình rập, bất động
    Tăm tối vui thích đòi hỏi ánh sáng
    Đôi khi trong thanh vắng, tăm tối trở nên lớn mạnh
    Sau những hồi trống rền hoan hỉ.
    Kinh Khổ.
    o O o
    Vào lúc năm giờ rưỡi, Jack và Rebecca vào văn phòng đại úy Walter Gresham để đưa bảng danh sách những thứ cần thiết cho việc thành lập lực lượng đặc nhiệm và thảo luận về chiến lược cần phải thi hành.
    Trong buổi chiều, hai thành viên khác của gia đình Carramazza đã bị sát hại cùng với vệ sỹ của họ. Báo chí bắt đầu đăng tin và xem đây là cuộc chiến băng nhóm lớn nhất kể từ thập niên ba mươi. Nhưng có điều mà báo chí không biết đó là: các nạn nhân không hề bị đâm chém, siết cổ, thủ tiêu dã man theo truyền thống Cosa Nostra. Cảnh sát đã tìm cách bưng bít thông tin, không để cho cánh nhà báo biết rằng các nạn nhân đã bị cắn xé một cách dã man cho đến chết. Nếu bọn họ mà biết được các chi tiết bí ẩn này thì họ sẽ hiểu ra đây là một trong những vụ trọng án quan trọng nhất kể từ mười năm trở lại đây.
    Gresham nói:
    - Và lúc đó họ sẽ ào đến, bám riết chúng ta để phỏng vấn.
    Gresham có vẻ nóng ruột. Ông đi đi lại lại trong phòng, nhìn ra cửa sổ, đốt điếu thuốc, hút một phần ba, dụi đi, rồi sực nhận thức về hành vi của mình, ông lại đốt một điếu thuốc khác.
    Cuối cùng, Jack kể cho đại úy Gresham nghe về những gì đã xảy ra tại cửa tiệm của Carver Hampton và cú điện thoại khi anh rời khỏi đó. Jack cảm thấy bối rối khi kể ra những điều đó trước ánh mắt hoài nghi của đại úy Gresham.
    Khi Jack kể xong, đại úy Gresham quay sang hỏi Rebecca:
    - Cô nghĩ sao về những chuyện này?
    - Theo tôi nghĩ thì giờ đây chúng ta có thể khẳng định Lavelle là một tên loạn trí chứ không đơn giản là một tên trùm đang dành phần trong thị trường buôn bán ma túy nữa. Chúng ta không nên đơn giản xem như đây chỉ là chuyện thanh toán giữa các băng nhóm.
    - Vậy thì chúng ta nên có biện pháp gì?
    Rebecca nói:
    - Tôi thấy chúng ta nên lưu ý đôi chút đến Carver Hampton để có thể làm sáng tỏ một vài vấn đề. Có thể Hampton và Lavelle là cùng một bọn thì sao.
    Jack lắc đầu:
    - Không thể nào. Hampton không thể đóng kịch khi tỏ ra khiếp sợ Lavelle như vậy được.
    - Vậy thì tại sao Lavelle có thể gọi đúng ngay cái điện thoại công cộng đó chứ? - Rebecca hỏi. Làm sao hắn có thể biết rõ lúc đó anh đi ngang chứ? Theo tôi nghĩ, khi anh vào cửa hàng của Hampton thì Lavelle đang có mặt ở sau tiệm, nên biết rõ anh ra về lúc nào.
    Jack nói:
    - Tôi không tin. Hampton không thể đóng kịch giỏi đến vậy.
    Rebecca vẫn khăng khăng:
    - Hampton là một tên bịp bợm có tài. Nhưng ngay cả nếu hắn không phải là đồng bọn của Lavelle chăng nữa, thì tôi nghĩ chúng ta cũng nên gởi người đến khu Harlem để lục soát khu phố đó và vùng kề cận điện thoại công cộng. Nếu Lavelle không ở trong cửa tiệm của Hampton thì hẳn hắn đã rình rập ở đâu đó, trong một ngôi nhà của khu phố chẳng hạn. Chúng ta sẽ phải gởi người đến để điều tra các căn hộ ở đó, để xem Lavelle có ở đó không. Chúng ta sẽ công bố ảnh của hắn, may ra có người trong khu phố đã trông thấy hắn cũng nên.
    Gresham gật đầu:
    - Giải pháp khá đấy. Chúng ta sẽ thực hiện như vậy.
    - Ngoài ra, tôi thấy chúng ta không nên xem nhẹ những lời đe dọa đối với các con của anh Jack đây. Chúng ta cũng cần phải gởi người đến bảo vệ hai đứa bé trong những lúc Jack vắng mặt.
    Gresham nói:
    - Đồng ý! Tôi sẽ gởi người đến ngay.
    - Cám ơn đại úy - Jack nói. Nhưng tôi nghĩ có thể chờ đến sáng mai cũng được, dù gì hai đứa bé cũng đang ở nhà chị vợ tôi và có lẽ Lavelle không thể biết nơi đó. Vả lại, Lavelle bảo sẽ để cả ngày cho tôi suy nghĩ có từ bỏ hướng điều tra về ma thuật của đạo Vaudou hay không. Vậy, có lẽ phải tối nay mới hết hạn mà y dành cho tôi.
    Ngồi lên mép bàn giấy. Gresham nói:
    - Nếu anh muốn, tôi có thể chuyển anh sang công tác khác để khỏi dây dưa đến vụ này. Anh đừng ngại, không sao cả đâu!
    - Tôi không muốn chuyển công tác.
    - Anh có nghĩ rằng đó là những lời đe dọa nghiêm túc không?
    - Đương nhiên. Và tôi cũng tiến hành điều tra một cách nghiêm túc. Cho đến cuối cùng.
    Gresham đốt điếu thuốc nữa, rồi hít một hơi dài:
    - Jack này, anh có thật sự nghĩ rằng hắn có một điều gì đó quan trọng trong mớ hỗn độn Vaudou ấy hay không thế?
    Anh biết Rebecca đang chăm chăm nhìn mình, Jack liền nói:
    - Thật là vô lý khi cho rằng có một điều gì đó. Tuy vậy, tôi không thể hoàn toàn loại bỏ cái giả thuyết đó.
    Rebecca nói:
    - Tôi thì không tin một chút nào.
    - Vậy thì chúng ta phải giải thích ra sao về những cái xác bị xé nát đây? - Jack hỏi.
    - Có thể Lavelle đã sử dụng một loại thú đã được huấn luyện.
    Gresham nói:
    - Giả thuyết đó cũng không kém phần lạ lùng như giả thuyết về ma thuật Vaudou nhỉ?
    Jack nói:
    - Ngày hôm nay, tôi đã tìm hiểu nhiều về vấn đề này. Trong các loại vật. chỉ có giống chồn hương là đủ nhỏ bé, đủ hung dữ, và biết nghe theo lệnh chủ để có thể gây án như thế mà thôi. Nhưng theo báo cáo pháp y thì dấu răng ghi lại trên xác các nạn nhân không thuộc giống chồn hương. Cũng theo báo cáo pháp y, đó là dấu răng của một giống vật chưa từng được biết đến.
    Rebecca nói:
    - Lavelle đến từ vùng Carribean. Cũng có thể y đã sử dụng một loài vật của vùng đó để gây án, một loài mà các chuyên gia pháp y của chúng ta chưa nghĩ đến? Phải chăng đó là một giống thằn lằn vùng hải đảo đại loại thế?
    - Cô bám víu vào bất cứ giả thuyết nào - Jack nói.
    Gresham gật đầu:
    - Tôi đồng ý với anh, Jack à. Nhưng dù sao, ta cũng cứ nên kiểm tra xem. Nào, bây giờ hai người còn y kiến nào nữa không?
    - À, có một điều đó là tôi không thể nào giải thích cho đại úy hiểu được vì lý do nào mà tôi đã bị thôi thúc phải bước về cái điện thoại công cộng đó và nhấc máy lên, trong thâm tâm biết rằng Lavelle đang gọi?
    Gió đập mạnh vào những ô kính cửa sổ. Trong phòng chỉ còn tiếng tik tak của cái đồng hồ phía sau bàn giấy của đại úy Gresham. Cuối cùng, đại úy Gresham nhún vai:
    - E là không ai có thể giải đáp cho anh cái thắc mắc đó đâu.
    Rebecca nói:
    - Tôi cũng vậy, không biết giải thích sao luôn.
    Đại úy Gresham đứng lên:
    - Thôi, bây giờ hai người có thể về nghỉ ngơi. Bây giờ, các trinh sát của chúng ta đều đã nhận nhiệm vụ và tôi hy vọng họ sẽ hoạt động tốt trong đêm nay. Jack này, anh hãy ở lại đây thêm ít phút để tôi cho anh xem danh sách những sỹ quan của các đội, đồng thời anh có thể chọn ra những người sẽ bảo vệ cho các con anh.
    Trông thấy Rebecca đẩy cửa bước ra, Jack gọi và nói nhanh:
    - Cô hãy đợi tôi ở dưới đó nhé!
    Vẫn thản nhiên, cô đi ra khỏi phòng.
    o O o
    Có một nơi khiến Penny thích thú khi đến nhà dì Faye, đó là căn bếp của dì. Một căn bếp rộng gấp hai lần bếp nhà Penny, ấm cúng với sàn lót gạch bông màu xanh lục. Tủ kệ nơi đây sơn màu trắng với những ô kính trong suốt, với tay nắm bằng đồng. Nơi nấu nướng được lót gạch men màu lục. Trên bồn rửa chén là một ô trồng cây kiểng xanh tươi quanh năm, ngay cả trong mùa đông giá rét. Trong góc bếp là một cái bàn nhỏ với hai cái ghế. Đây là nơi duy nhất làm cho Penny thấy thoải mái khi ngồi xuống.
    Vào lúc sáu giờ hai mươi, Penny ngồi nơi chiếc bàn nhỏ này, cầm trong tay tờ tạp chí của dì Faye, nhưng không đọc được chữ nào. Thật ra, bé đang nghĩ đến những điều mà bé chỉ mong quên đi thôi: những con vật quái quỷ, cái chết. Và bé cũng thắc mắc, liệu mình còn có thể nhắm mắt ngủ được hay không.
    Dượng Keith đã đi làm về cách đây một tiếng. Dượng đầu tư trong lĩnh vực chứng khoán và làm ăn khá phát đạt. Dượng Keith là người dong dỏng cao, đầu hói như một quả trứng và đặc điểm của dượng là thích ngồi trầm ngâm hàng giờ, nhâm nhi ly rượu và hút thuốc liên tục. Chiều hôm đó, dượng ngồi trong phòng khách, nhâm nhi ly Martiny, xem bản tin truyền hình trong khi đọc tờ Wall Street Journal.
    Dì Faye đang chuẩn bị bữa tối trong khi Davey vẫn bám riết dì, nói năng không dứt:
    - Dì Faye ơi, con đói bụng lắm rồi!
    - Này chú bé, lúc nãy khi đi học về tôi đã cho chú ăn bánh biscuit với sữa, vậy mà đã đói rồi ư?
    - Dì ơi, con đói là vì hồi trưa con ăn ít lắm! Cô giáo Shepherd đã chia phần cơm trưa của cô cho con, nhưng chỉ có yougurt và cá hồi, những thứ con không thích ăn. Vì vậy, con phải cố ăn cho cô vui lòng và sau đó, con đã lén nhổ hết ra.
    Dì Faye hỏi ngay:
    - Chứ ba con không chuẩn bị bữa trưa cho con sao?
    - Có chứ ạ, những lúc bố không rảnh thì chị Penny thường nấu thay ba. Nhưng ...
    Dì Faye quay sang hỏi Penny:
    - Penny à, hôm nay thằng bé có mang phần ăn trưa đến trường không vậy? Không lẽ nó phải đi xin ăn hay sao?
    Ngước mắt lên, Penny nói:
    - Sáng nay con đã chuẩn bị phần ăn trưa cho Davey rồi mà. Một trái táo, sandwich jambon và hai cái bánh biscuit lúa mạch lớn.
    Dì Faye nói:
    - Dì thấy bữa ăn trưa như thế là khá đầy đủ dinh dưỡng đó chứ! Sao con vẫn còn đói vậy Dave?
    - À, là tại vì chuột dì ạ.
    Penny sững người, nhìn chăm chăm Davey.
    - Chuột á? Chuột ở đâu? - Dì Faye hỏi.
    Davey nói:
    - À, con quên kể dì nghe chuyện đó. Chuột đã chui vào túi đựng sách vở của con. Đó là những con chuột cống dì à, răng chúng vàng khè thật ghê tởm. Chúng đã gặm nát bữa ăn trưa của con.
    Penny bỗng thấy miệng mình khô khốc:
    - Dave ... em đã nhìn thấy chuột à?
    - Không có, chúng đã đi mất khi em đến lấy cái túi.
    - Em đã để túi xách ở đâu?
    - Thì trong tủ của trường chứ còn ở đâu nữa.
    - Bọn chuột có gặm nhấm thứ gì khác nữa không?
    - Ví dụ như thứ gì ạ?
    - Sách vở hay bất cứ thứ gì?
    - Chuột gặm sách vở để làm gì kia?
    - Vậy chúng chỉ gặm bữa trưa của em thôi à?
    - Dĩ nhiên rồi. Không lẽ chúng còn ăn những thứ khác sao?
    - Em có khóa kỹ tủ không?
    - Có chứ.
    Penny chực kể cho dì Faye và Davey nghe về chuyện đã xảy ra trong tủ đựng sách vở sáng nay và những gì bé thấy dưới tầng hầm nhà trường, vì những gì mà Davey kể xem chừng có thể xác định câu chuyện của bé. Nhưng trước khi bé kịp mở miệng thì dì Faye đã nói, giọng trách cứ:
    - Dì không hiểu vì sao ba lại để các cháu học ở một cái trường như thế! Trường Welton là một nơi dơ bẩn và tồi tệ.
    - Đó là một ngôi trường có uy tín mà dì - Penny nói.
    - Úy tín gì mà lại có chuột chứ? Ngay cả một ngôi trường tầm thường thôi cũng còn không có chuột nữa là. Chuột là loài dơ bẩn, mang đến nhiều bệnh tật. Quả là điều không thể tưởng tượng nổi khi người ta không đóng cửa một ngôi trường có chuột như vậy. Sáng mai, dì sẽ báo ngay cho ban vệ sinh phòng dịch.
    o O o
    Không đợi Jack, Rebecca mặc áo khoác và lái xe về nhà. Khi ra khỏi văn phòng của đại úy Gresham, Jack thở dài khi biết cô đã về.
    Trên bàn giấy của Jack có hai cuốn sách về đạo Vaudou mà anh đã mượn hồi sáng ở thư viện. Anh nhìn chúng một lúc, quyết định sẽ tìm hiểu thêm về Boko và Hougan. Rồi anh mặc áo khoác, cầm lấy hai cuốn sách và đi xuống bãi đậu xe ở tầng hầm.
    Là sỹ quan đội can thiệp đặc biệt nên Rebecca và Jack được cấp xe riêng. Xe của Jack là một chiếc Chevrolet màu xanh táo, model năm trước nên có phần trầy trụa và hơi cũ. Ra khỏi tầng hầm, Jack ngừng lại để dành quyền ưu tiên cho chiếc xe dọn tuyết đang nhấp nháy đèn hiệu.
    Đường phố vắng tanh. Jack biết, để đến căn hộ của Rebecca, anh phải rẽ trái. Còn đến nhà dì Faye thì rẽ phải.
    Những cây gạt nước ở kính ô tô không ngừng chuyển động. Phải, trái, phải, trái.
    Jack nghĩ thầm: lúc này chắc Penny và Davey không bị đe dọa bởi mối nguy hiểm nào đâu. Ngay cả nếu Lavelle có thực hiện lời đe dọa nào thì y cũng sẽ không ra tay sớm như vậy. Hơn nữa, chắc Lavelle không biết hai đứa trẻ bây giờ đang ở đâu.
    Nghĩ đến đó, Jack nhả thắng và cho xe quẹo trái.
    Anh muốn nói chuyện với Rebecca về điều đã xảy ra đêm qua. Suốt ngày nay, cô đã né tránh vấn đề và anh không muốn cô tiếp tục né tránh thêm nữa. Anh muốn cô phải nhìn thẳng vào chuyện đêm qua, những đổi thay đã tác động đến cuộc sống của cả anh và cô. Anh đã hoan hỉ đón nhận mà cô thì ...
    Núp trong bóng tối dày đặc gần lối ra của bãi đậu xe, con vật chăm chú nhìn Jack Dawson lái xe đi.
    o O o
    Lavelle cảm thấy bồn chồn. Hắn không bật đèn mà chỉ đi đi lại lại trong bóng tối. Y không tìm kiếm gì cả, chỉ đơn giản là y không thể ngồi yên, thế thôi. Tuy nhà tối om, nhưng Lavelle vẫn thoải mái đi lại mà không hề vấp phải bàn ghế hay bất cứ thứ gì, cư như y đang ở nơi sáng trưng vậy. Y cảm thấy ung dung trong bóng tối vì đó là một phần của bản thân y. Y luôn cảm thấy an tâm, vững tin. Vậy mà bây giờ, sự bình thản ấy đang dần sa sút.
    Sự bồn chồn hay dẫn đến lo âu, và lo âu sẽ nảy sinh sợ hãi. Lavelle vốn không quen thuộc với sợ hãi vì thế y không biết phải ứng xử như thế nào với nó. Vì vậy mà y lại càng bồn chồn hơn.
    Y lo âu về chuyện Jack Dawson. Có lẽ y đã phạm phải một sai lầm lớn khi chấp nhận cho Jack Dawson thời gian để suy nghĩ. Một kẻ như Jack có thể biết lợi dụng cái khoảng thời gian đó.
    Lavelle thầm nghĩ, nếu Jack biết ta e sợ hắn và nếu hắn tìm hiểu nhiều hơn về đạo Vaudou, thì có thể hắn sẽ hiểu ra lý do vì sao. Nếu Jack phát hiện ra thứ quyền năng mà hắn đang có và tìm cách sử dụng chúng, thì hắn sẽ tìm được ta, và sẽ chống lại ta. Jack là một trong số rất ít người có thể đương đầu với một Boko đầy kinh nghiệm, và có thể giành lấy chiến thắng cũng không chừng. Nếu Jack biết điều đó, thì ta sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
    Lavelle đi đi lại lại nhanh hơn. Y đắn đo không biết mình có nên ra tay giết phắt hai đứa trẻ kia hay không, cái chết của chúng sẽ làm Jack sụy sụp hoàn toàn. Sau khi mất vợ, nếu giờ lại mất thêm con, có lẽ thần kinh của Jack sẽ bị đả kích? Nhưng nếu Jack không phải là hạng người dễ bị đè bẹp bởi sự đau khổ thì sao? Nếu cái chết của hai đứa trẻ thay vì làm cho y chùn bước, lại làm cho y thêm quyết tâm đối đầu với Lavelle thì sao?
    Lavelle nhận thấy điều đó quả thật đáng ngại. Bất định, y đi ngang qua những căn phòng tăm tối như một bóng ma. Cuối cùng, y quyết định hỏi ý kiến của Cổ Nhân để tuân theo lời khuyên bảo của họ.
    Lavelle vào bếp, bật sáng ngọn đèn trần. Y mở tủ, lấy ra một hộp đựng đầy bột. Trên quầy bếp có cái máy thu thanh. Y cầm lấy, đặt nó ở giữa bàn, rồi y dùng bột vẽ lên mặt bàn quanh cái máy thu thanh, y vẽ ra một hình vẽ rất phức tạp, gọi là VéVé, biểu tượng của hình thể và sức mạnh vũ trụ.
    Y mở máy thu, máy đang phát bản nhạc Eleanor Rigby của ban nhạc Beatles. Y rà đài, lướt qua một loạt các làn sóng đang phát ra đủ loại nhạc, từ Pop đến Rock, từ dân ca đến cổ điển và Jazz. Cuối cùng, y tìm được một tần số trống, không bị nhiễu bởi những đài phát kề cận.
    Căn bếp giờ đây chỉ còn tiếng lạo xạo và tiếng rít nho nhỏ của những làn sóng điện.
    Y bốc nắm bột, cẩn thận vẽ lên máy thu thanh một VéVé nhỏ và đơn giản. Sau đó y rửa tay và lấy từ tủ lạnh ra một chai nhỏ đựng máu mèo, dùng để cử hành một số các nghi lễ.
    Y trở lại bên cái bàn, ngồi xuống, nhúng các ngón tay vào máu mèo, y vẽ lên bàn và lên mặt nhựa chiếc máy thu vài hình vẽ.
    Rồi y ngân nga cầu kinh, dừng lại, lắng nghe và lại tiếp tục cầu kinh cho đến khi y nhận thấy có một sự thay đổi trong những tiếng lạo xạo đang phát ra từ tần số trống. Giờ đây sự thay đổi có vẻ linh động hơn, tuy vẫn là tiếng lạo xạo, xèo, xèo, lách tách. Một thứ tiếng động mềm như lụa.
    Một cái gì đó đang sử dụng tần số, một cái gì đó đến từ cõi bên kia.
    Nhìn sững cái máy, Lavelle hỏi:
    - Có ai ở đó không?
    Có một thứ âm thanh của bụi và tro tàn:
    - Ta chờ đây.
    Đó là âm thanh của giấy khô, cát bụi và vụn vỡ. Tiếng nói âm u, lạnh lẽo, hung ác, tưởng chừng như phát ra từ đêm đen của thời gian. Hẳn đó là giọng nói của hàng trăm ngàn quỷ sứ hay những vị thần của Châu Phi Cổ Đại. Hoặc cũng có thể là giọng nói của một linh hồn bị đọa đầy.
    Lavelle hỏi:
    - Ngài biết rõ việc con đang làm chứ?
    - Biết.
    - Việc có liên quan đến gia đình Carramazza?
    - Biết.
    Nếu loài rắn độc được Thượng Đế ban cho tiếng nói thì hẳn chúng cũng sẽ có giọng nói như vậy.
    - Ngài có biết gã cảnh sát Jack Dawson không?
    - Biết.
    - Hắn ta có xin chuyển công tác?
    - Không bao giờ.
    - Hắn ta vẫn sẽ tìm hiểu về đạo Vaudou?
    - Đúng.
    - Nhưng con đã bảo hắn ngưng rồi kia mà!
    - Hắn không nghe theo.
    Nhiệt độ trong căn bếp xuống thấp dần, mặc dù hệ thống sưởi vẫn hoạt động bình thường. Không khí như đặc quánh, nhầy nhụa.
    Lavelle lại hỏi tiếp:
    - Con phải làm gì để loại bỏ Jack Dawson?
    - Ngươi biết rõ mà.
    - Xin ngài hãy chỉ bảo cho.
    Lavelle lặng im. Tiếng nói đó cất lên:
    - Ngươi đã biết rồi.
    Lavelle thắc mắc:
    - Liệu con có phải giết hai đứa bé ngay đêm nay không?

  7. #16
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết




    Chương 16
    R
    ebecca mở cửa ra và nhìn thấy Jack, nàng nói ngay:
    - Quả đúng là anh, như tôi nghĩ.
    Jack đứng ngay ngoài cửa, rét run:
    - Bên ngoài trời đang có bão.
    Rebecca mặc chiếc đầm màu xanh đậm. Tóc cô vàng óng như mật, cô thật đẹp. Cô nhìn anh, không nói năng gì.
    Jack nói:
    - Có lẽ đây là trận bão thế kỷ. Cũng có thể đây là khởi đầu của thời đại băng hà, của tận thế cũng nên. Anh tự hỏi, nếu là vậy thì mình sẽ trải qua những giờ phút sau cùng ở đâu.
    - Và anh quyết định đến đây? - Cô mỉm cười hỏi.
    - Anh vào nhà được không? Em thấy đó, anh đã cởi giày vì sợ làm bẩn tấm thảm của em.
    Nàng lùi lại một bước. Jack bước vào. Rebecca đóng cửa lại và nói:
    - Em phải nấu chút gì đó để ăn thôi. Anh có đói không?
    - Em định nấu món gì?
    - Một khi đã đột xuất đến thì không có quyền đòi hỏi được ăn ngon rồi.
    Cả hai cùng vào nhà bếp. Jack vứt chiếc áo khoác lên lưng ghế.
    Rebecca nói:
    - Tối nay ta sẽ ăn sandwich thịt nguội, súp rau và miến.
    - Súp do em nấu à?
    - Không. Súp đóng hộp.
    - Được mà.
    - Em hâm món súp trong khi anh cắt thịt nhé?
    - Đồng ý.
    - Thịt ở trong tủ lạnh, trong cái túi nhựa ở ngăn thứ hai đó, anh hãy cẩn thận.
    - Tại sao nó chông chênh vậy?
    - Vì tủ lạnh đầy ắp đồ mà. Nếu anh không cẩn thận, mọi thứ sẽ đổ ập xuống.
    Rồi họ không nói gì nữa.
    Cô bày chén bát và muỗng nĩa ra bàn trong khi anh cắt thịt và cà chua. Rồi cô quậy đều súp trong nồi, quay lưng về phía anh. Mái tóc cô dịu dàng óng ánh trên nền vải xanh đậm của chiếc đầm. Jack rùng mình vì khát khao. Anh như bị mê hoặc trước sự thay đổi của cô. Cô hoàn toàn khác hẳn với một Rebecca trước đó một tiếng đồng hồ, khi còn trong văn phòng. Cô không còn cái vẻ lạnh lùng, ngang tàng nữa. Cô trông nhỏ nhắn hơn, thon gọn hơn, mỏng manh hơn và nhiều nữ tính hơn.
    Không còn ý thức về hành động của mình, Jack bước đến và đặt tay lên vai cô.
    Rebecca không tỏ vẻ ngạc nhiên. Cô biết Jack bước đến và cũng có thể cô đã mong anh bước đến bên cô.
    Anh vén nhẹ mái tóc và hôn lên làn da êm dịu của cổ cô. Cô cảm thấy mình mềm đi và hơi ngả người về phía anh.
    o O o
    Bên ngoài, gió rít từng cơn.
    Lavelle chăm chú nhìn cái máy thu thanh rồi hỏi:
    - Con có nên giết hai đứa bé trong đêm nay không?
    - Nên.
    - Nếu giết hai đứa bé, phải chăng Jack sẽ điên tiết và dứt khoát đối chọi với con hơn?
    - Hãy giết chúng đi.
    - Như vậy là con có thể làm hắn suy sụp?
    - Đúng.
    - Con có thể hủy diệt y?
    - Đúng.
    - Con chắc chắn sẽ đạt kết quả như mong muốn chứ?
    - Giết chúng đi!
    - Con muốn biết chắc mình có đạt được kết quả như mong muốn hay không?
    - Hãy giết chúng đi! Một cách tàn bạo nhất!
    - Con hiểu rồi. Con sẽ làm mọi cách đê loại y ra khỏi con đường của con.
    o O o
    Trong phòng ngủ của Rebecca, họ nằm bên nhau, tay trong tay, trong thứ ánh sáng vàng óng của ngọn đèn ngủ.
    Rebecca nói:
    - Em không ngờ một lần nữa, chuyện đó lại xảy ra.
    - Chuyện gì em?
    - Thì chuyện vừa rồi đó.
    - À.
    - Em vẫn nghĩ chuyện đêm qua chỉ là ... một lúc thiếu tỉnh táo.
    - Thật à?
    - Em vẫn nghĩ chúng ta sẽ chẳng bao giờ quan hệ với nhau nữa.
    - Nhưng chúng ta lại gần gũi nhau đó thôi em.
    - Đúng vậy.
    Rebecca lặng im.
    - Em hối tiếc sao? - Jack hỏi.
    - Không.
    - Hôm nay sẽ không phải lần cuối cùng đâu. Ở bên nhau như thế này thật tuyệt vời.
    - Vâng, thật tuyệt...
    Lại một lúc im lặng.
    - Chuyện gì đã xảy ra giữa chúng ta vậy? - Rebecca hỏi.
    - Bộ em thấy không bình thường sao?
    - Không hoàn toàn bình thường.
    - Thì chúng ta yêu nhau chứ có sao đâu?
    - Nhưng sao lại nhanh như vậy?
    - Không nhanh đâu.
    - Trước đây chúng ta vẫn chỉ là đồng nghiệp ...
    - Thân nhau hơn cả đồng nghiệp đó chứ!
    - ... và rồi bỗng chốc, chúng ta hôn nhau!
    - Sao lại bỗng dưng? Anh đã yêu em từ lâu rồi mà.
    - Thật sao? Vậy mà em không hề biết.
    - Hẳn trong vô thức, em đã nhận ra rồi.
    - Cũng có thể.
    - Điều làm anh thắc mắc, là vì sao em lại cương quyết với anh như vậy?
    Cô không trả lời.
    - Anh từng nghĩ, có lẽ là do em coi thường anh.
    - Em thấy anh thu hút đến độ khổng thể cưỡng nổi, và điều đó làm em sợ.
    - Sợ?
    - Đúng vậy. em sợ phải đắm đuối vì một người, phải khổ tâm vì một người.
    - Có gì mà phải sợ?
    - Đó là nỗi sợ sẽ mất người mình yêu.
    - Điều đó thật ngốc nghếch mà.
    - Không đâu anh. Nếu anh có một cái gì đó anh yêu quý thì anh sẽ sợ phải mất nó ...
    - Anh hiểu ...
    - ... Hoặc tốt hơn, anh không nên có nó.
    - Với cái cách suy nghĩ đó thì em chỉ nhận lấy sự cô đơn mà thôi.
    Rồi anh hôn cô. Hôn và hôn nữa. Đó không phải là những nụ hôn say đắm, nhưng trìu mến và dịu dàng. Một lúc sau, anh nói:
    - Anh yêu em.
    - Đừng! Anh đừng nói thế.
    - Anh không chỉ nói thôi mà con luôn suy nghĩ về nó nữa.
    - Anh đừng nói.
    - Anh đâu phải loại người nói mà không suy nghĩ.
    - Em biết.
    Ánh mắt họ gặp nhau. Jack nói:
    - Anh cứ tưởng em hối tiếc vì chuyện đã xảy ra đêm qua. Thái độ của em đối với anh suốt ngày hôm nay làm anh tổn thương ghê lắm. Anh nghĩ em đã khinh thường anh.
    Rebecca lắc đầu:
    - Không. Không bao giờ.
    - Bây giờ anh đã hiễu. Nhưng anh thấy em lại có vẻ xa cách. Có điều gì không ổn sao em?
    - Em không biết nói sao đây. Em không biết phải giải thích thế nào. Em chưa từng giải thích điều này với ai hết.
    - Anh là người biết lắng nghe mà.
    - Để em suy nghĩ đã.
    - Em có thể suy nghĩ bao lâu cũng được.
    Cô hướng mắt nhìn lên trần nhà. Trong một lúc, họ nằm bên nhau, im lặng. Ở bên ngoài, gió vẫn đang gào thét. Cuối cùng, Rebecca nói:
    - Em mất ba khi lên sáu.
    - Khổ thân em. Điều đó thật khủng khiếp. Như vậy chắc em không biết rõ ba mình rồi.
    - Vâng, tuy nhiên em vẫn luôn thương nhớ ông ấy vô cùng. Mãi cho đến bay giờ em vẫn còn thương nhớ ổng ... một người cha mà em không mấy biết rõ.
    Jack chợt nhớ đến Davey, đứa con trai của anh mất mẹ khi gần lên sáu. Anh dịu dàng nắm chặt tay Rebecca. Cô nói:
    - Nhưng mất cha khi lên sáu ... cũng chưa đến nỗi thảm khốc. Bi kịch của em là em đã chứng kiến cái chết của ông ấy.
    - Chúa tôi! Sự việc ... đã xảy ra như thế nào vậy?
    - Dạo đó, cha mẹ em có một cửa hàng bán sandwich. Nhỏ thôi, đủ để kê bốn cái bàn. Chủ yếu là bán sandwich cho khách mang về, xà lách khoai tây, xà lách mỳ ống, vài món tráng miệng. Cha mẹ em không giàu. Họ phải làm việc cật lực mới có được chút vốn liếng. Sau giờ nghỉ bán, ba em còn phải giữ chân gác cổng đêm cho một công ty nữa. Tờ mờ sáng ông mới về nhà, ngủ được khoảng bốn, năm tiếng, sau đó đứng bán sandwich. Mẹ em lo nấu nướng, chạy bàn, dọn dẹp, thỉnh thoảng giúp việc đây đó kiếm thêm một vài đồng. Cuối cùng, cửa hàng bắt đầu mang lại lợi nhuận. Ba không cần đi làm đêm nữa, và mẹ cũng không cần đi làm công nữa. Thật ra, chuyện buôn bán phát đạt đến nỗi ba mẹ còn định thuê người giúp việc, tương lai thật rạng rỡ ... Thế rồi một buổi chiều ... trong khi em và cha đang ngồi trông tiệm ... thì gã đó bước vào ... với khẩu súng ngắn ...
    - Khốn thật! - Jack thốt lên.
    Anh biết chuyện gì đã xảy ra sau đó. Anh đã nhiều lần chứng kiến cảnh đó. Những người bán hàng ngã gục trên vũng máu, tiền trong quầy bị cướp sạch. Rebecca nói:
    - Tên khốn kiếp đó có một dáng vẻ thật lạ lùng. Tuy dạo đó em còn nhỏ, nhưng em đã nhận ra ngay hắn không bình thường khi vừa bước vào. Em đã đi ra sau bếp và quan sát hắn từ sau bức rèm. Hắn bồn chồn ... tái xanh ... quầng thâm ngay mắt.
    - Một tên nghiện?
    - Đúng vậy. Bây giờ nếu nhắm mắt, em vẫn còn có thể nhớ rõ khuôn mặt xanh mét, cái miệng giựt giựt vì chứng máy cơ của hắn. Khổ nỗi ... em có thể nhớ rõ khuôn mặt hắn còn hơn khuôn mặt của ba. Đôi mắt khủng khiếp của hắn ...
    Rebecca rùng mình. Jack nói:
    - Thôi đừng kể nữa em.
    - Không. Em phải kể cho anh nghe. Có như vậy, anh mới hiểu được thái độ của em ... trong một số vấn đề.
    - Vậy thì ... lúc ấy ba em không chịu đưa tiền cho tên khốn kiếp đó hay sao?
    - Ồ ba em đã đưa hết tiền cho hắn. Đưa sạch.
    - Ba em không chống cự à?
    - Không.
    - Vậy mà hắn vẫn không buông tha cho ông ấy sao?
    - Không! Thằng nghiện đó như người bị mất trí. Có lẽ do thiếu thuốc nên hắn không còn có thể suy nghĩ gì nữa. Hắn thù hận con người, mà cũng có thể hắn muốn giết người hơn là cướp của. Thế là ... hắn nổ súng.
    Jack ôm lấy Rebecca và kéo cô lại gần mình hơn.
    Cô nói tiếp:
    - Hai phát. Rồi thằng khốn nạn ấy bỏ chạy. Chỉ một phát trúng ba ... nhưng ngay mặt.
    - Chúa ơi! - Jack thốt lên, hình dung cô bé Rebecca sáu tuổi đang đứng trong bếp, chứng kiến cảnh tượng khủng khiếp đó.
    - Hắn xài khẩu 45.
    Jack sựng người khi nghĩ đến sức tàn phá của khẩu 45.
    - Vì bắn quá gần nên ba em chết ngay tại chỗ.
    - Thôi, hãy quên đi quá khứ em à, đừng đau buồn nữa.
    - Máu khắp nơi ... trên tường ...
    - Thôi em à, đừng kể nữa.
    - Em muốn anh hiểu.
    o O o
    Trong nhà kho, Lavelle cúi người trên cái hố và vứt xuống đó những bức ảnh của Penny và Davey. Chúng tan biến trong thứ ánh sáng màu da cam.
    Có tiếng hét rùng rợn vang lên từ nơi sâu thẳm của hố. Lavelle nói:
    - Hãy giết chúng đi!
    Giọng nói của y vang vang trong hố tựa như lòng giếng sâu.
    Bỗng chốc, sự dao động mơ hồ trong đáy hố trở nên dữ dội, sôi sục. Rồi có một cái gì đó bắt đầu thành hình.
    o O o
    Họ vẫn nằm trên giường, ôm nhau. Rebecca nói:
    - Cảnh sát chỉ có nhân chứng duy nhất là em.
    - Một đứa trẻ sáu tuổi phải làm nhân chứng lý tưởng.
    - Cảnh sát đã làm tất cả để truy lùng tên sát nhân.
    - Và họ có bắt được không?
    - Có. Nhưng quá muộn. Quá sức muộn màng.
    - Nghĩa là sao em?
    - Anh biết không, hung thủ đã cướp đi của ba em hai trăm đô la.
    - Sao kia?
    - Cách đây hơn hai mươi năm, hai trăm đô không phải một món tiền nhỏ. Có giá hơn bây giờ nhiều.
    - Anh không hiểu ý em.
    - Hắn thấy ngon ăn quá.
    - Mẹ kiếp! Ngon ăn cái gì chứ? Hắn đã giết một mạng người ...
    - Lẽ ra hắn không nên giết ba ...
    - Đúng. Nhưng hắn đã giết người cướp của trót lọt và thấy quá dễ dàng.
    Jack bỗng thấy sợ hãi:
    - Em muốn nói ...?
    - Đúng.
    - Hắn đã trở lại?
    - Với khẩu súng, cũng là khẩu súng đó.
    - Thằng đó điên quá rồi!
    - Mọi con nghiện đều điên khùng như vậy.
    Jack chờ đợi. Anh không muốn nghe tiếp, nhưng anh biết cô sẽ kể. Cô dứt khoát sẽ kể.
    - Lúc đó, mẹ em đang ở trong bếp.
    Jack nói nho nhỏ:
    - Thôi, đừng ...
    - Hắn đã giết mẹ em.
    - Rebecca à ...
    - Bằng năm phát súng.
    - Lần đó, em không chứng kiến chứ?
    - Không. Hôm đó em không ở nhà.
    - Cám ơn trời!
    - Và hung thủ đã bị bắt sau đó.
    - Quá muộn!
    - Đúng. Thật sự quá muộn. Nhưng sau đó em biết mình sẽ làm gì khi lớn lên. Em biết, nếu vào ngành cảnh sát thì em có thể ngăn chặn những hạng người như tên nghiện ngập điên loạn đó giết hại cha mẹ của những đứa trẻ vô tội. Dạo đó, trong ngành hình sự còn chưa có phụ nữ, ngoại trừ những nhân viên văn phòng. Nhưng em biết một ngày kia em sẽ đạt được ý nguyện. Em không mơ ước gì khác hơn là trở thành một trinh sát. Em không muốn lấy chồng, sinh con, vì em biết một ngày nào đó sẽ có kẻ bắn súng vào chồng em hoặc bắt cóc các con của em. Em nghĩ rằng em có lỗi trong cái chết của cha. Ngày ấy, em vẫn tưởng mình có thể làm một điều gì đó để cứu cha. Và em cũng thấy có lỗi với cả cái chết của mẹ nữa. Em tự trách mình đã không cung cấp cho cảnh sát những mô tả chính xác hơn về thủ phạm. Em giận vì mình sao mà quá ngu ngốc, quá vô tích sự! Em nghĩ, nếu trở thành một trinh sát, có lẽ em sẽ chuộc được lỗi lầm bằng cách khổng để cho bi kịch này xảy ra nữa.
    Jack khẳng định:
    - Chẳng có lý do nào khiến em thấy có lỗi hết. Em đã làm tất cả những gì có thể rồi. Hơn nữa, lúc ấy em chỉ mới sáu tuổi.
    Cuối cùng Jack bắt đầu hiểu Rebecca. Đồng thời, anh cũng hiểu vì sao tủ lạnh nhà cô luôn chứa đầy thức ăn. Dĩ nhiên, sau một tuổi thơ đầy chấn động và nghèo khổ thì việc có đầy thực phẩm trong tủ sẽ làm mình có cảm giác an toàn. Điều đó càng làm anh khâm phục và thương Rebecca hơn.
    o O o
    Thông thường, Penny có quyền đi ngủ sau Davey, nghĩa là bé có quyền lên giường một tiếng đồng hồ sau Davey, Penny luôn tranh đấu cho cái quyền lợi đó. Tuy nhiên, tối nay, lúc chín giờ, khi dì Faye lên tiếng đã đến giờ Davey phải đánh răng đi ngủ, thì Penny cho biết bé cũng muốn đi ngủ.
    Bé thấy không thể nào để Davey một mình trong đêm khi những con vật quỷ quái có thể bò lên giường thằng bé. Penny thấy mình cần phải thức để bảo vệ Dave cho đến khi bố đến. Lúc ấy, bé sẽ kể cho bố nghe về những việc đã xảy ra.
    Mười phút sau đó, Penny và Davey đã lên giường. Dì Faye chúc bé và Davey ngủ ngon, tắt đèn và đóng cửa phòng.
    Bóng tối dày đặc làm Penny thấy ngột ngạt. Bé cố chiến thắng nỗi sợ vô cớ này.
    Sau một lúc nằm im, Davey hỏi:
    - Chị Penny?
    - Hả?
    - Chị ngủ chưa?
    - Chưa.
    - Ba đâu rồi chị?
    - Ba đang làm việc mà.
    - Em muốn biết ba đang ở đâu.
    - Thì ba đang ở nơi làm việc.
    - Ba có bị thương không?
    - Ba không bị thương.
    - Người ta có bắn ba không vậy?
    - Không mà. Nếu ba có làm sao thì người ta đã đưa chúng ta đến bệnh việc thăm ba rồi.
    - Không đâu. Người ta sẽ không làm như vậy. Nếu ba có chuyện gì thì dì Faye hay dượng Keith sẽ biết ngay.
    - Nhưng biết đâu họ biết mà không nói với ta?
    - Sao mà có thể giấu được chúng ta những việc này chứ?
    - Em thấy thái độ của họ lạ lắm.
    - Chị thấy họ vẫn vậy mà.
    - Em muốn nói họ lạ ở chỗ họ dường như rất yêu thương chiều chuộng chúng ta. Vì sao vậy? Họ thương hại chị em mình à?
    Rồi cả hai cùng im lặng. Kê đầu lên gối, Penny nằm dài, lắng tai nghe ngóng. Không một tiếng động. Chỉ có tiếng gió rít lên bên ngoài và xa xa là tiếng xe dọn tuyết.
    Penny nhìn về phía cửa sổ, một ô chữ nhật màu trắng đục như sữa. Bé thầm nghĩ, liệu bọn thú quỷ quái kia sẽ vào qua lối cửa sổ chăng? Hay vào từ phía cửa? Hay chúng sẽ ào ra từ cái tử trong hốc tường? Penny hướng mắt về nơi tối nhất trong phòng, nơi có chiếc tủ hốc tường. Hoàn toàn tối đen. Bé không thể nhìn thấy gì.
    Bé không biết chúng sẽ vào bằng lối nào hay cách nào, nhưng trong thâm tâm, bé biết chắc thể nào chúng cũng sẽ đến.
    o O o
    Jack ngồi ở mép giường mặc quần áo. Ở bên kia giường, Rebecca đang đứng khoác lên mình cái đầm màu xanh.
    Thế rồi cả hai đều giật mình. Tấm bích chương triển lãm hội họa của Jaspers Johns, nằm trong khung kính một thước trên bảy mươi lăm centimét, rời khỏi tường và bay bổng. Trong ít giây, cái khung hình đó xem chừng lơ lửng trên không, rồi rơi xuống nơi chân giường, vỡ tung tóe.
    - Chúa tôi! - Jack thốt lên.
    - Sạo lại thế này? - Rebecca nói.
    Cửa tủ nơi hốc tường mở tung ra, đóng mạnh lại, rồi lại mở tung ra. Cái com-mốt tách ra khỏi tường, lắc lư về phía Jack khiến anh phải nghiêng người né tránh. Nó đổ ầm xuống sàn.
    Rebecca lùi ra đằng sau, sát tường và đứng đó, mắt trợn trừng.
    Căn phòng rét căm với cơn gió quay cuồng. Chẳng phải là luồng gió mà là cơn gió dữ dội, như cơn gió đang gào thét ở ngoài kia, qua các con phố. Tuy nhiên, không biết cơn gió từ đâu đến khi mà các cửa phòng đều đã đóng kín.
    Ở cửa sổ, giờ đây như có một bàn tay vô tình đang nắm lấy các tấm màn cửa, giựt mạnh và vứt xuống sàn. Các hộc tủ trượt xuống, làm tung tóe những đồ đạc bên trong. Giấy dán tường bị xé toạc từ trên xuống dưới.
    Jack quay đầu nhìn, sững sờ, khiếp đảm, không biết phải làm sao. Tấm gương trên bàn trang điểm rạn nứt như một mạng nhện. Bàn tay vô hình giựt lấy khăn trải giường và vứt nó lên trên tủ com-mốt ngả nghiêng.
    Rebecca gào lên:
    - Đủ rồi! Như thế là đủ rồi!
    Tuy vậy, bàn tay vô hình đó chẳng buồn nghe.
    Cái truyền hình đặt ở góc phòng bỗng dưng bật lên, âm thanh vặn tối đa.
    Lúc này đến lượt tấm nệm giường bị xé tung để lộ lò xo và lớp bông nhồi bên trong. Lớp giấy dán tường lại tiếp tục bị lột thành mảng. Màn ảnh truyền hình vỡ tung, lóe sáng, bốc khói. Rồi tĩnh lặng. Không còn một tiếng động nào.
    Jack liếc nhìn Rebecca. Cô há hốc miệng, khiếp đảm.
    Chuông điện thoại reo lên. Khi nghe tiếng chuông, Jack biết ngay người gọi là ai. Anh nhấc ống nghe, đưa lên tai và không nói gì.
    Có tiếng Lavelle vang lên:
    - Thanh tra Jack Dawson, anh thở hổn hển cứ như con chó vậy. Đang căng thẳng à? Nếu tôi không lầm thì màn biểu diễn của tôi đã làm anh kinh ngạc phải không?
    Jack không kềm chế được cơn run rẩy. Anh không trả lời, sợ rằng Lavelle sẽ phát hiện sự khiếp đảm qua giọng nói của mình. Nhưng dường như Lavelle chẳng quan tâm Jack có trả lời hay không, hắn lại nói tiếp:
    - Một khi anh thấy các con của mình đã chết, bị xé xác, móc mắt, với những ngón tay bị gặm tận xương thì đừng quên rằng lẽ ra anh đã cứu được chúng. Nhưng chính anh lại đã ký án tử cho chúng đó, chính anh hoàn toàn phải chịu trách nhiệm về cái chết của chúng đấy. Chính anh đã vứt bỏ mạng sống chúng như vứt bỏ túi rác vậy.
    Không dằn được, Jack tuôn ra:
    - Đồ chó chết! Khốn kiếp! Mày không được động đến các con tao! Mày không được ...
    Lavelle đã gác máy.
    - Ai vậy ...? - Rebecca hỏi.
    - Lavelle.
    - Anh muốn nói ... tất cả chuyện này?
    - Bây giờ em đã tin có ma thuật Vaudou hay chưa? Em đã tin có phù phép? Có âm binh hay chưa?
    - Ồ, Chúa ơi!
    Rebecca đảo mắt nhìn khắp phòng rồi lắc đầu, như không muốn tin những gì đã xảy ra.
    Vẫn cầm ống nghe trong tay, Jack nhấn số.
    - Anh gọi ai vậy? - Rebecca hỏi.
    - Gọi chị Faye. Anh muốn chị ấy phải đưa các con anh đi trốn ngay.
    - Nhưng Lavelle không thể nào biết hai đứa trẻ đang ở đâu được.
    - Chuyện anh ở đây mà hắn còn biết thì ... Anh không hề bị theo dõi, anh biết chắc như thế. Anh cho là Lavelle không biết anh ở đây ... vậy mà hắn đã gọi đến. Như vậy, dĩ nhiên hắn cũng biết các con anh đang ở đâu rồi. Mẹ kiếp, sao máy không liên lạc được vậy?
    Jack một lần nữa nhấn số Faye đã chấm dứt thuê bao. Buông ống nghe xuống, Jack thốt lên:
    - Lavelle đã cắt đường dây của Faye rồi. Chúng ta phải đưa hai đứa bé rời khỏi nơi đó ngay.
    Mặc nhanh quần Jean và áo thun, Rebecca nói:
    - Anh không nên quá lo lắng. Mọi chuyện sẽ ổn thôi mà. Chúng ta sẽ đến đó trước Lavelle.
    Nhưng Jack lại có linh cảm là đã quá muộn.

  8. #17
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết





    Chương 17
    N
    gồi trên giường, Penny lắng tai nghe ngóng.
    Lại một lần nữa, những tiếng động trỗi lên. Những tiếng cào, tiếng rít. Một tiếng khô khốc, tiếng va chạm nhẹ và một lần nữa tiếng động lại vang lên. Một thứ tiếng xa xăm, lê thê. Nhưng, tuy xa xăm, thứ tiếng đó dần dần lại đến gần.
    Penny bật ngọn đèn ngủ lên. Thứ ánh sáng dịu dàng của ngọn đèn làm bé an tâm.
    Davey vẫn mê ngủ, không hề hay biết gì về những âm thanh ma quái đó. Penny quyết định không đánh thức Davey lúc này vì bé biết chỉ cần một tiếng hét là đủ để dì Faye và dượng Keith sẽ chạy ngay sang đây.
    Vẫn là tiếng rít khàn đục, tuy không lớn lắm, nhưng giờ đây xem chừng gần hơn lúc nãy. Penny đứng dậy, bước đến bàn trang điểm, nơi ánh sáng của ngọn đèn ngủ không thể hắt đến. Trên tường, cách trần nhà khoảng ba mươi centimét có một lỗ thoát hơi của hệ thống sưởi. Penny trèo lên bàn trang điểm nhưng vẫn không với tới được cái nắp lỗ. Bé nhảy xuống, cầm lấy cái gối kê, đặt lên bàn trang điểm. Rồi lấy hai gối dựa của hai cái ghế gần cửa sổ, bé đặt chúng lên gối kê. Đứng trên bàn trang điểm, bé nhón chân, áp tai vào tấm lưới của nắp lỗ thông hơi.
    Bé vẫn tưởng loài thú quỷ quái vẫn còn xa lắm, mãi tận những căn hộ hoặc hành lang phía dưới. Nhưng bây giờ, bé phải đương đầu với một sự thật quá khủng khiếp: tiếng động đó đang vang đến từ những đường ống ngay sát bên. Ý đồ của chúng là muốn đột nhập vào phòng qua ngã đường ống của hệ thống sưởi.
    Run rẩy vì khiếp đảm, Penny nhìn vào bên trong nắp ống. Hoàn toàn tối đen, như hầm mộ.
    o O o
    Cứ mỗi lần Jack toan nhấn ga thì chiếc xe lại trượt bánh. Anh gừ lên:
    - Kiểu này thì đi bộ còn nhanh hơn!
    - Chúng ta sẽ đến kịp lúc mà - Rebecca nói.
    - Nhưng nếu Lavelle đến trước chúng ta thì sao?
    - Không thể nào đâu!
    Jack bỗng nhiên bị xao động bởi một ý tưởng khủng khiếp. Anh không dằn được phải nói ra:
    - Có khi nào lúc nãy Lavelle gọi đến từ nhà chị Faye hay không?
    - Không có đâu!
    Nhưng cái ý nghĩ khủng khiếp đó cứ ám ảnh Jack:
    - Nếu Lavelle đã giết hai đứa bé ... rồi gọi điện ... từ căn hộ của Faye ...
    Rebecca nói:
    - Thôi, anh đừng tự hành hạ mình bằng những chuyện tưởng tượng đó nữa đi. Chúng ta sẽ đến kịp mà.
    - Sao em biết chúng ta sẽ đến kịp chứ? Em làm sao biết chắc được!
    - Em biết chứ! Anh hãy bình tĩnh lái xe đi mà!
    - Mẹ kiếp!
    - Này, Jack ...
    - Chắc thằng khốn đó đã giết con anh mất rồi!
    Rebecca nói, giọng dịu dàng hơn:
    - Em hiểu những gì đang ám ảnh đầu óc anh. Nhưng anh cứ bình tĩnh đi, rồi mọi chuyện sẽ ổn thôi mà!
    o O o
    Lavelle đứng dậy. Hắn biết đây là lúc hắn phải thiết lập mối liên lạc tâm linh với những sát thủ nhỏ bé đã chui ra từ cái hố và đang rình rập những đứa con của Jack.
    Trong bóng tối, Lavelle bước đến bên cái bàn, kéo ngăn hộc và lôi ra một nắm dải lụa. Hắn đi về phía giường, bỏ mớ dải lụa xuống và cởi bỏ quần áo. Một khi đã trần trụi, hắn ngồi xuống mép giường và buộc dải lụa màu tím vào mắt cá chân phải, dải màu trắng buộc vào mắt cá chân trái. Ngay cả trong tăm tối, hắn vẫn có thể phân biệt được màu sắc rất rõ. Hắn buộc quanh ngực một dải lụa màu đỏ, quanh trán một dải lụa màu vàng, buộc dải lụa màu lục quanh cổ tay phải, dải màu đen quanh cổ tay trái. Những dải lụa này là mối dây giúp hắn liên hệ mật thiết với những sát thủ xuất phát từ địa ngục, một khi hắn đã thực hiện xong nghi thức buộc những dải lụa này.
    Với những dải lụa này, Lavelle có thể trông thấy bằng mắt của những sát thủ, nghe bằng tai của chúng, và cảm nhận những gì chúng đang cảm nhận. Khi những móng vuốt bén như dao cạo của chúng bấu lấy Davey Dawson, thì Lavelle sẽ cảm nhận được da thịt của thằng bé khi bị xé rách dưới những ngón tay của y. Khi loài thú bấu lấy cổ họng Penny, thì Lavelle cũng sẽ cảm nhận cái chết đang kề cận trên môi đứa bé.
    Với ý nghĩ đó, Lavelle run lên vì thích thú. Nếu Lavelle tính không lầm thì Jack sẽ đến nhà Faye, vừa kịp lúc hai đứa bé bị thảm sát, kịp để chứng kiến bầy thú đang tràn vào. Lúc ấy, Jack sẽ muốn cứu hai đứa bé nhưng đồng thời cũng hiểu ra rằng không có cách nào để đẩy lùi bầy thú mà không nguy đến tính mạng. Jack sẽ chết trân ở đó.
    Lavelle thầm nghĩ, đó là cái lúc tuyệt vời nhất. Y thầm nhủ, đúng vậy, đúng vậy.
    Lavelle thở dài, người bồn chồn nôn nóng. Cầm lấy cái chai nhỏ đựng máu mèo, y nhúng hai ngón tay vào đó, bôi máu lên hai má. Lại nhúng ngón tay, bôi máu lên môi. Rồi y dùng máu vẽ hình VéVé lên ngực.
    Y ngã người lên giường. Mắt hướng lên trần, y chậm rãi đọc lời ca tụng. Chẳng mấy chốc, tinh thần y đã rời khỏi thân xác và y thấy mình đang hòa làm một với bầy thú nhun nhúc trong đường ống của tòa nhà nơi có căn hộ của gia đình bà Faye.
    Giờ đây, bầy thú chỉ còn cách nắp đường ống sưởi của phòng hai đứa bé khoảng vài chục thước. Chúng đang kề cận hai đứa bé và gần với đứa bé gái hơn cả. Giống như bầy thú sát thủ, Lavelle có thể cảm nhận sự kề cận của đứa bé gái. Gần. Rất gần. Chỉ một khoảng ngắn nữa thôi.
    Đến lúc rồi.
    o O o
    Đứng trên bàn trang điểm, nhìn chăm chăm vào miệng đường ống sưởi, Penny nghe có tiếng nói xuất phát từ bên trong tường. Đó là tiếng thì thầm khàn đục khiến Penny thấy lạnh đến tận xương tủy.
    - Penny? Penny?
    Penny vội vã rời khỏi bàn trang điểm, suýt nữa bị ngã. Bé chạy đến ben Davey, lay mạnh vai em.
    - Davey, dậy đi! Dậy mau đi, Davey!
    - Hả? Chuyện gì vậy?
    - Bọn chúng đến rồi! Chúng ta phải mặc quần áo và rời khỏi đây ngay. Bọn chúng đã đến rồi!
    Penny hét lớn để gọi dì Faye.
    o O o
    Căn hộ của gia đình dì Faye tọa lạc tại tầng thứ mười một của một khu cao ốc nằm trong khu phố chưa được dọn tuyết. Vỉa hè hoàn toàn bị phủ lấp dưới ba mươi centimét tuyết. Jack thận trọng đạp thắng và nhảy ào ra khỏi xe. Cơn gió rét buốt quất mạnh vào người anh. Jack cúi đầu, lảo đảo bước trên vỉa hè, hầu như không thể nhìn thấy gì trong cơn bão tuyết.
    Khi Jack leo lên các bậc thang, đẩy cửa kính của tòa nhà thì Rebecca đã ở trong sảnh, trao cho người gác cửa xem thẻ hành nghề.
    - Chúng tôi là cảnh sát - Cô nói.
    Người gác cổng ngạc nhiên:
    - Chuyện gì thế này? Có chuyện gì không ổn à?
    Tòa nhà này là nơi cư ngụ của những người khá giả nên chẳng bao giờ xảy ra một rắc rối nào. Vì vậy, khi nhìn thấy cảnh sát đến, người gác cổng không khỏi ngạc nhiên và lo sợ. Khuôn mặt anh ta tái mét.
    Nhấn nút thang máy, Jack nói:
    - Chúng tôi lên nhà bà Faye Jamison, tầng mười.
    - Đúng, tôi biết. Nhưng tại sao ... - Người gác cổng bồn chồn hỏi.
    Cửa thang máy mở ra. Jack và Rebecca vào cabin. Cửa thang máy khép lại. Jack và Rebecca kiểm tra súng đạn.
    Tầng hai.
    Nhìn khẩu Smith Wesson, Jack run rẩy nói:
    - Súng ống cũng đâu có cứu được Dominick Carramazza.
    Tầng ba.
    - Có lẽ chúng ta sẽ không cần dùng đến súng. Em biết chúng ta sẽ đến trước Lavelle - Rebecca.
    Nhưng bây giờ, giọng nói của cô xem chừng thiếu tự tin. Jack hiểu rằng đoạn đường từ nhà Rebecca đến đây đã mất quá nhiều thời gian vì thế họ không hy vọng mình đến kịp lúc.
    Tầng thứ năm.
    Jack hỏi:
    - Cái thang máy chết tiệt này sao mà chậm thế?
    Tầng thứ sáu.
    Tầng thứ bảy.
    Tầng thứ tám.
    - Mẹ kiếp, nhanh lên nào!
    Tầng thứ chín.
    Tầng thứ mười.
    Cửa thang máy mở ra và Jack ào ra ngoài, theo sau là Rebecca.
    Tất cả xem chừng quá yên tĩnh rồi.
    Jack bước đến cửa căn hộ dì Faye rồi nép sang một bên, súng lăm lăm trên tay. Đối diện với anh là Rebecca, cũng trong tư thế đó.
    Họ nhìn nhau. Rebecca gật đầu. Đã sẵn sàng. Jack gõ cửa.
    o O o
    Trong căn phòng tối om, Lavelle nằm trên giường, thở nhanh và mạnh. Y hổn hển, run rẩy như một con thú. Thỉnh thoảng, người y giật nảy lên, quằn quại, như vừa chạm phải một dòng điện.
    Y đang trong cơn lên đồng và không hề ý thức về những cơn co giật đó. Đôi mắt mở lớn của y nhìn chăm chăm lên trần. Lúc này, ở một nơi nào đó trong thành phố, y đang nhìn sự vật qua đôi mắt của những sát thủ bé nhỏ mà y đã liên kết qua tâm linh.
    Lavelle rít lên. Y rên rỉ, nghiến răng ken két, giật nảy, quằn quại.
    Rồi bỗng nhiên y nằm im, hoàn toàn tĩnh lặng.
    Sau đó, y cào cấu vào lớp khăn trải giường, rít lên giận dữ. Cặp chân của y bỗng chốc như bị ma nhập. Y liên tục dộng hai gót chân xuống nệm, miệng gầm gừ. Tiếp đó, lặng im trong một lúc.
    Rồi lại tiếp tục hổn hển, hít hà và rít lên.
    Y đã ngửi thấy mùi của Penny Dawson.
    o O o
    Faye mở cửa và, trông thấy khẩu súng trong tay Jack, bà sững sờ:
    - Chúa tôi! Jack! Tại sao cậu phải lăm lăm khẩu súng trong tay như thế hả? Bộ cậu không biết tôi không thích súng ống hay sao vậy? Cất nó đi ngay đi!
    Faye né người sang một bên để Jack và Rebecca đi vào. Thấy thái độ bình thản của Faye, Jack hiểu ngay hai đứa bé vẫn ổn và anh cảm thấy an tâm hơn đôi chút.
    Anh hỏi:
    - Penny và Davey đâu rồi chị? Chúng vẫn yên ổn chứ?
    Faye liếc mắt về Rebecca, mỉm cười chào. Rồi bà cau mày khi nghe câu nói của Jack:
    - Dĩ nhiên, chúng vẫn ổn mà. Chúng hoàn toàn khỏe mạnh. Bộ cậu tưởng chúng không được an toàn khi ở nhà tôi sao? Cậu nghe đây Jack, tôi không ...
    Jack hỏi nhanh:
    - Khi đón hai đứa bé ở trường, chị có bị ai theo dõi không?
    - Chuyện gì nghe nhảm nhí vậy? - Faye hỏi.
    - Chuyện không nhảm nhí đâu. Tôi biết rõ mà. Chị có bị ai theo dõi không? Chị Faye, lúc đón hai cháu, chị có cẩn thận nhìn ra sau như tôi đã dặn hay không?
    - Đương nhiên rồi. Tôi đã thận trọng nhìn mọi phía. Không có ai theo dõi tôi hết. Và tôi không nghĩ là ...
    Họ vào phòng khách. Không nhìn thấy hai đứa bé đâu, Jack hỏi ngay:
    - Chúng đâu rồi, chị Faye?
    Faye nói, vẻ tức giận:
    - Chúng đang ở phòng bên với Keith. Chúng đi ngủ lúc chín giờ mười lăm và rồi sau đó, Penny đã hét lên ...
    - Hét lên ư?
    - ... Penny bảo trong phòng có chuột. Dĩ nhiên, làm gì có ...
    Vừa nghe thấy như vậy, Jack đã chạy ào ra hành lang để vào phòng hai bé.
    Trong phòng, đèn đuốc sáng trưng. Penny và Davey đang đứng bên chiếc giường đôi. Vừa nhìn thấy Jack, chúng đã vui sướng gào lên:
    - Ba! Ba!
    Rồi chúng nhào đến ôm lấy Jack. Thấy các con còn sống, Jack không nói nên lời. Anh chỉ biết ôm chặt các con mình.
    Tuy mọi đèn trong phòng đều được bật sáng, nhưng đứng cạnh bàn trang điểm, dượng Keith vẫn cầm trong tay cây đèn bấm. Ông đang rọi vào cái miệng lỗ thông hơi của hệ thống sưởi.
    Quay sang nhìn Jack, ông cau mày:
    - À, cậu đến rồi à? Tôi đang nhìn xem, có cái gì đó khá lạ lùng ở trong này. Tôi ...
    - Loài thú quỷ quái, loài yêu tinh! - Penny nói, bấu lấy cánh tay Jack - Ba ơi, chúng đang đến đó. Chúng thù ghét con và Davey. Đừng để chúng vào được đây ba ơi, đừng để chúng vào đây! Con đã lo sợ chúng đến và giờ chúng sắp xuất hiện rồi.
    Penny nói liền một hơi rồi bật khóc.
    Faye và Rebecca đã theo Jack bước vào phòng. Vốn tính trầm tĩnh và quyết đoán, Rebecca thu dọn đồ đạc của hai bé.
    Faye nói:
    - Lúc đầu, Penny đã hét lên, bảo rằng trong phòng có chuột. Sau đó nó bảo rằng có loài yêu tinh, nó cứ như lên cơn khủng hoảng đến nơi. Tôi đã cố dỗ nó, và nói với nó đó chỉ là cơn ác mộng mà thôi.
    - Không phải ác mộng mà! - Penny gào lên.
    - Chỉ là ác mộng thôi bé cưng à - Faye nói.
    Penny lắc đầu:
    - Chúng đã rình rập con suốt cả ngày hôm nay. Ba ơi, đêm qua con nhìn thấy có một con ở trong phòng của con. Và hôm nay, con thấy bọn chúng nhung nhúc trong tầng hầm của trường. Bọn chúng còn gặm nát phần ăn trưa của Davey và cả sách vở của con nữa. Con không hiểu bọn chúng muốn gì mà cứ theo đuổi tụi con mãi. Chúng là loài yêu tinh quỷ quái đó ba! Con biết mà!
    Jack nói:
    - Được, ba muốn nghe con kể ba nghe chuyện đó. Nhưng chậm đã. Bây giờ chúng ta phải rời khỏi đây. Bây giờ chúng ta phải rời khỏi đây ngay. Các con không cần thay đồ đâu, cứ mặc thêm một chiếc áo ấm bên ngoài là đủ.
    Rebecca đã mang quần áo đến:
    - Mặc vào đi các con!
    - Nhưng, tại sao ... - Faye nói.
    - Chúng em phải đưa ngay hai bé ra khỏi đây.
    Faye sững sờ:
    - Tôi không ngờ cậu có thể tin cái chuyện quỷ quái đó.
    Keith nói:
    - Tôi thì không tin có yêu tinh hay có thứ quỷ quái nào, nhưng tôi tin chắc là có chuột.
    Faye tức tối:
    - Không, không. Không thể nào. Tòa nhà này không thể nào có chuột được!
    - Có chuột trong đường ống của hệ thống sưởi thật đó. Anh đã nghe tiếng của chúng mà. Jack à, khi cậu vào đây, anh đang soi đèn để tìm chúng đấy.
    Rebecca thốt lên:
    - Suỵt!
    Mọi người đều lặng im. Thoạt tiên, Jack không nghe thấy gì. Thế rồi ... một tiếng rít ma quái, tiếng xì xào, tiếng gầm.
    Jack thầm nghĩ, không phải tiếng chuột.
    Có một vật gì đó cựa quậy bên trong bức tường. Rồi tiếng cào giận dữ, hối hả.
    - Chúa tôi! - Faye thốt lên.
    Cầm lấy cái đèn bấm từ tay Keith, Jack bước đến bên bàn trang điểm và rọi vào miệng ống thoát hơi. Lại một tiếng động nữa vang lên từ trong bức tường.
    Tiếng rít và tiếng gầm càng lúc càng lớn hơn.
    Jack rùng mình.
    Lúc này, từ đường ống phát ra một tiếng nói khô khốc, đầy đe dọa:
    - Penny? Davey? Penny đó hả?
    Faye hét lên, lùi lại hai bước. Ngay cả Keith, một người vạm vỡ to cao, cũng xanh mặt và lùi xa miệng ống thoát hơi. Ông thốt lên:
    - Chuyện gì thế này?
    Jack quay sang nói với Faye:
    - Áo khoác, ủng, găng tay của hai cháu đâu?
    - À ... trong ... bếp. Đang phơi khô.
    - Chị làm ơn đi lấy giùm em nhé.
    Faye tuy gật đầu nhưng vẫn đứng chết trân tại chỗ.
    Đặt tay lên vai Faye, Jack nói:
    - Chị hãy đi lấy áo khoác, ủng và găng tay cho các cháu đi rồi đợi chúng em ở cửa chính nhé.
    Thấy Faye nhìn sững vào miệng ống thoát hơi, Jack phải lay tay bà:
    - Chị Faye à, nhanh giùm em đi!
    Faye giật mình như thể vừa lãnh một cái tát. Rồi bà quay gót, vội vã ra khỏi phòng.
    Tiếng nói khô khốc lại vang lên:
    - Davey? Penny đó hả?
    Keith hỏi:
    - Jack à, có cái gì trong đó vậy?
    Không còn thời gian để trả lời, Jack lại rọi đèn vào lỗ thoát hơi và thấy một vật gì đó đang cựa quậy bên trong. Một vật gì đó sáng bạc, lấp lánh rồi biến mất để thay vào đó là một hình thể âm u, đang húc vào tấm lưới chắn nhằm làm bung nó ra. Jack không trông thấy rõ con vật.
    Keith nói:
    - Kìa Jack, cái vít.
    Jack đã nhận thấy điều đó. Cái vít đang xoay từ từ và không còn giữ chặt cái nắp kim loại. Ở bên trong, con vật đang liên tục vặn vít, mồm không ngớt làu bàu, rít lên.
    Cố giữ giọng trầm tĩnh, Jack nói:
    - Chúng ta đi thôi. Nào, nào, hãy ra khỏi đây ngay thôi.
    Cái vít rời khỏi nắp kim loại. Tấm lưới thép lắc lư vì vẫn còn bị giữ bởi một con vít khác.
    Rebecca đẩy hai đứa bé ra khỏi phòng. Tựa như con ác mộng, con vật trườn ra khỏi đường ống và bám vào tường như thể chân chúng có giác mút vậy.
    Chết điếng vì sợ, Keith thốt lên:
    - Chúa ơi!
    Con vật có hình dáng như con chuột cống với cái chân ngắn, thân dài, nhưng trông khỏe mạnh và rắn chắc hơn chuột cống nhiều. Tuy nhiên, không như chuột cống, con vật quỷ quái này không hề có sợi lông nào. Lớp da nhơn nhớt của nó có những đốm vàng lục trông tựa như một cây nấm nhầy nhụa. Ngoài ra, nó có cái đuôi dài hai mươi centimét, cong lên và có từng khoanh, như đuôi bò cạp. Đã vậy, cái đầu của nó trông còn kinh hãi hơn với hộp sọ dẹt gồm nhiều góc nhọn, u lồi, như thể được sáng tạo bởi một nhà điêu khắc vụng về. Mõm của nó dài và nhọn, một sự kết hợp lạ lùng của mồm sói và mõm cá sấu. Con vật quỷ quái há mồm và rít lên, để lộ hàm răng nhọn hoắc. Cái lưỡi dài, đen ngòm, thè ra.
    Nhưng, cái đáng sợ nhất là đôi mắt của chúng. Tuy gọi là mắt nhưng không giống mắt chút nào bởi chúng không có tròng đen cũng không có đồng tử. Chỉ là những hốc mắt trống trơn trong hộp sọ dị hình của con thú. Từ hốc mắt đó phát ra thứ ánh sáng lạnh căm. Thật không thể tin nổi. Tuy vậy ... con vật không hề mù và khi nó hướng đôi mắt rực lửa về Jack, anh cảm thấy như bị xuyên thủng bởi ánh mắt quỷ quái, tựa như bị một nhát dao đâm vào cổ họng. Khi nhìn vào đôi mắt điên dại đó, Jack có cảm tưởng như chạm phải cái lạnh của thần chết, sự thù hận nóng bỏng và sự lạnh lùng vô tâm.
    Tựa loài côn trùng, con vật bám vào tường để leo xuống.
    Rồi một con vật khác xuất hiện từ miệng ống thoát hơi. Khác hẳn với con đầu tiên, con vật này trông như một hình nhân khoảng hai mươi centimét. Nó đang núp nơi miệng ống. Tuy trông giống hình nhân nhưng con vật này có tay chân với đầy móng vuốt và ngòi nọc tua tủa, y hệt như con đầu tiên. Làn da của nó nhơn nhớt như cây nấm. Mắt nó có những quầng thâm và những đốm đen chạy dài tới mũi. Cái đầu của nó là một khối dị hình, bị xẻ ngang từ tai này sang tai kia bởi một cái mõm đầy răng nhọn. Và cũng những đôi mắt trắng bạc quái đản đó, tuy có phần nhỏ hơn. Con thú có hình dạng người đó đang cầm trong tay một hung khí trông tựa như một ngọn giáo nhỏ.
    Jack thầm nghĩ, phải chăng chúng là loài âm binh của đạo Vaudou? Hay là loài yêu tinh? Có phải đúng như thế? Phải chăng Lavelle đã dùng đất sét để nặn ra chúng và trao cho chúng sức mạnh cùng sự sống?
    Là quỷ sứ sao?
    Chúng từ đâu đến?
    Hình nhân thú đó không bám dọc theo tường nhưng nhảy từ ống thoát hơi xuống bàn trang điểm, trụ vững trên đôi chân nhanh nhẹn và khéo léo.
    Nó nhìn Jack và Keith rồi thốt lên:
    - Penny? Davey đó hả?
    Jack đẩy Keith ra khỏi phòng rồi lao theo và đóng sập cửa lại. Một lúc sau có tiếng động dồn dập đằng sau cánh cửa, hẳn là do con thú có hình người gây ra. Hai đứa bé đang ở trong phòng khách, Jack và Keith vội chạy về phía đó.
    Có tiếng hét của Faye:
    - Jack! Mau lên! Bọn chúng đã vào được đây rồi!
    - Bọn chúng đang tìm cách chặn lối ra của chúng ta! - Jack nói.
    Rebecca và Faye đang giúp hai bé mặc áo khoác và mang ủng trong tiếng rít, tiếng gầm gừ phát ra từ miệng ống thoát hơi bên trên trường kỷ. Xen lẫn với những âm thanh đó là tiếng lúng búng nôn nóng.
    Phía sau tấm lưới thép là những con mắt trắng bạc rực sáng trong bóng tối. Cái vít giữ nắp miệng ống giờ đã bắt đầu xoay tròn, do một bàn tay bên trong đang vặn nó. Davey vừa mang xong chiếc ủng, nhưng vì quá cấp bách nên Jack chụp lấy bé. Anh nói:
    - Chị Faye, chị hãy cầm hộ tôi chiếc ủng còn lại đi. Chúng ta đi thôi!
    Keith đang đợi họ ở cửa ra của căn hộ. Ông nắm lấy cánh tay Faye kéo bà đi nhanh. Có tiếng Penny hét lên. Jack vội ngoái cổ nhìn, ôm chặt Davey hơn. Tấm lưới thép đã bị phá bung và có một vật gì đó vừa xuất hiện trong vùng tối tăm ở phía trên ấy.
    Nhưng không phải điều đó đã khiến Penny phải la lên mà là một con vật khủng khiếp vừa chui ra từ bếp và đang tiến thẳng về phía họ. Tuy cũng quái dị và đáng kinh tởm như những con kia, nhưng con vật này lại có màu trắng vàng, đục ngầu và to gấp ba lần ‘con chuột’ đang ở trong phòng. Nó trông tựa như con kỳ nhông với đuôi và đầu thằn lằn. Con quỷ này có đôi cánh đã bị teo lại, nhưng nó vẫn cứ đập đập cánh như hai mái chèo, trông thật thảm hại. Con vật bò vào phòng khách, quất đuôi phành phạch. Nó há họng kêu lớn, đắc thắng.
    Quỳ xuống trên một chân, Rebecca nã đạn, không thể nào bắn trật được. Con vật bị hất tung lên như một cái giẻ lau rồi nặng nề rơi xuống. Có lẽ nó đã bị banh xác rồi. Chắc nó đã ... Có thể máu của nó đã văng tung tóe trên tường và sàn nhà ... Thế những ... không có gì hết!
    Con vật quằn mình trong vài giây rồi lảo đảo nhỏm dậy. Tuy sững sờ, lạc hướng, nhưng nó không hề hấn gì. Nó bắt đầu xoay tròn theo cái đuôi của nó. Jack nói:
    - Xem ra súng đạn không thể nào giết được loài này rồi.
    Âm binh có hình dạng con nhông đó tỉnh táo dần. Chẳng mấy chốc, nó sẽ lao về phía họ. Bây giờ, từ căn bếp đã xuất hiện hai con tương tự như vậy. Và chúng đang bò đến rất nhanh.
    Một tiếng hét đinh tai làm Jack phải quay đầu lại nhìn. Con vật hình người đang đứng ở cuối phòng khách. Nó làu bàu và đưa cao ngọn giáo lên trên đầu. Rồi nó chạy ào về phía họ, theo sau là một lũ âm binh hình dạng rắn rít, chó mèo, sâu bọ và những loài gặm nhấm.
    Đến lúc này, Jack thật sự hiểu ra rằng bầy thú này đến từ địa ngục. Chúng là âm binh do Lavelle dùng ma thuật để đưa đến đây.
    Jack đẩy Penny ra khỏi căn hộ. Bế Davey trên tay, anh đi theo Penny chạy dọc theo hành lang của cao ốc để đi ra thang máy, nơi mà Keith, Faye cùng người gác cổng đang chờ.
    Rebecca rút đi sau cùng. Cô bắn ba phát đạn về phía bầy thú. Nghe thấy tiếng súng, Jack muốn quay lại tiếp ứng nhưng không thể vì còn bận ẵm Davey.
    Đứng ở cửa thang máy, Penny gào lên:
    - Ba ơi, nhanh lên!!
    Jack nhẹ nhõm khi thấy Rebecca xuất hiện ở hành lang, bình yên vô sự. Cô bắn thêm một phát súng nữa trước khi đóng cửa căn hộ của Faye. Rồi tất cả cùng vào thang máy.
    Cửa thang máy đóng lại, bắt đầu chuyển động. Jack thấy có cái cửa sập dùng trong trường hợp khẩn cấp. Anh thầm cầu khấn: Lạy Trời, xin đừng để chúng vào được đây.
    Cửa mở, tầng dưới vắng tanh. Ho liền bước ra khỏi cửa thang máy. Faye hỏi:
    - Chúng ta biết đi đâu bây giờ?
    - Tôi và Rebecca có xe hơi ... - Jack nói.
    - Thời tiết thế này mà ...
    Jack nói ngay:
    - Tôi sẽ đưa các bé lên xe và chạy cho đến khi nào biết mình nên làm gì.
    - Chúng tôi sẽ đi cùng cậu - Keith nói.
    Đẩy hai bé ra khỏi tòa nhà, Jack nói:
    - Không! Anh không nên đi theo chúng tôi vì có thể sẽ chuốc lấy tai họa.
    - Tôi không muốn lên lại trên đó và phải đối diện với chúng! Tôi thật sự quá ngán những ... con vật yêu tinh quỷ quái đó.
    - Ôi dào! Chúng chỉ là chuột thôi chớ có gì đâu! - Faye nói. Chỉ cần đặt bẫy tiêu diệt là xong ngay mà.
    Keith nổi cáu:
    - Mẹ kiếp! Chuột mà biết gọi Penny và Davey từ trong tường à?
    Jack hỏi:
    - Anh Keith, anh có quen biết ai để có thể nghỉ qua đêm hay không?
    - Có chứ. Tôi có người bạn tên Anson Dorset ở gần đây, ngay bên kia đường. Vợ chồng tôi có thể tá túc ở đó.

  9. #18
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết




    Chương 18
    K
    eith và Faye vội vàng băng qua đường và mất hút trong cơn bào tuyết lung linh.
    Bước đến bên Rebecca cùng hai bé đang đứng bên cạnh xe, Jack nói:
    -Nào, vào xe đi. Chúng ta đi thôi!
    Ngay lúc đó, Jack nhận thấy có điều gì đó không ổn. Tuy đặt tay lên cửa xe, nhưng Rebecca vẫn bất động. Cô kinh ngạc nhìn chằm chằm vào trong xe. Tiến gần hơn, Jack nhìn qua kính xe và thấy điều đã làm Rebecca sững sờ: Có hai con vật đang ngồi ở băng ghế sau. Tuy khuất trong bóng tối, nhưng đôi mắt trắng bạc đã xác định sự hiện diện của chúng.
    -Mau rút thôi! - Jack nói.
    Họ nhanh chóng rời xa xe hơi.
    -Biết đi đâu bây giờ? - Rebecca hỏi, mắt vẫn hướng về xe, một tay giữ Davey, tay kia thọc vào túi áo khoác, chắc đang nắm chặt khẩu súng.
    -Thì cứ đi thôi - Jack nói, quá khiếp đảm để có thể đưa ra một quyết định nào.
    -Đi đến đâu? - Rebecca hỏi.
    -Cứ đi dọc theo đại lộ đi - Jack đáp.
    -Theo hướng đi của Keith sao?
    -Không! Chúng ta đi về Third Avenue, như vậy gần hơn.
    -Em hy vọng ở đó có người qua lại.
    -Cũng có thể ở đó sẽ có xe cảnh sát đi tuần tra.
    Penny nói:
    -Con thấy tốt hơn hết ta nên ở ngoài đường, nơi có người qua lại, như thế sẽ an toàn hơn.
    -Ba cũng nghĩ vậy - Jack nói.
    Loài âm binh tấn công thật đột ngột. Phóng ra từ phía sau xe, con vật rít lên và lao đến cực nhanh, tựa như con thằn lằn. Trong ánh sáng của những ngọn đèn đường, Jack nhìn thấy nó. Anh rút súng ra rồi lại sực nhớ, súng đạn không thể tiêu diệt được loài này. Chỉ trong giây lát suy nghĩ đó mà con vật đã kề cận họ. Nó nhe răng, kêu khèn khẹt. Davey thét lên. Thằng bé toan né tránh nhưng không kịp. Con nhông đã bò dọc theo cẳng chân Davey, thằng bé vùng vẫy, lảo đảo, gào lên kêu cứu rồi trượt ngã. Trong thoáng chốc, Jack tưởng như mình đang rơi vào hầm băng. Một, hai giây trôi qua, Jack nhảy bổ về phía Davey, Anh có cảm tưởng như đang lội bì bõm trong một thứ nước đặc quánh. Lúc này, con nhông đang bò lên ngực thằng bé, đập phành phạch cái đuôi, xé rách cái áo khoác của Davey bằng những cái móng vuốt sắc bén. Cái mõm há to của nó kề cận mặt bé.
    Rebecca lao đến trước Jack:
    -Không ....!
    Cô nhanh tay chụp lấy con vật quỷ quái. Nó kêu oe oe rồi cắn vào tay Rebecca. Cô gào lên đau đớn, vứt mạnh con vật trên mặt tuyết.
    Penny hét lớn:
    - Davey! Davey!
    Davey nhỏm dậy. Một lần nữa. con nhông lại lao đến. Lần này, Jack chụp lấy nó và giựt nó ra khỏi thằng bé trong tiếng xoạt của vải bị xé rách. Giữ chặt con vật trong tay, Jack rùng mình ghê tởm. Con vật nhơn nhớt lạnh. Nó vùng vẫy cố tìm cách để thoát, những cái cẳng đầy móng vuốt quẫy đạp trong không khí.
    Rebecca thắc mắc:
    - Sao nó không tìm cách để cắn anh vậy?
    - Anh cũng không biết - Jack hổn hển đáp.
    Anh bỗng nhớ đến những lời mà Nick Lervolino đã nói với mình trên xe cảnh sát. Và anh thầm nghĩ, phải chăng ...
    Anh hỏi:
    - Davey à, có sao không con?
    - Giết nó đi ba! Giết chết nó đi mà! - Thằng bé gào lên hãi hùng.
    Các ngón tay của Jack ấn sâu vào lớp da lạnh toát và nhầy nhụa của con vật đang vùng vẫy.
    - Rebecca, tay em có sao không?
    - Chỉ bị một vết cắn nhỏ thôi.
    - Còn con thì sao, Penny?
    - Con ... con không sao hết.
    - Rebecca à, em hãy dẫn hai con đi ngay đi. Hãy cứ đi dọc theo đại lộ này.
    - Còn anh? - Rebecca hỏi.
    - Anh sẽ giữ con vật này ở đây một lúc để em và hai con kịp chạy trốn (Con nhông vẫn đang vùng vẫy dữ dội). Sau đó anh sẽ vứt nó càng xa càng tốt và chạy theo em. Thôi em tranh thủ đi ngay đi!
    Rebecca và hai đứa bé vội vã bỏ chạy. Con nhông rít lên, kêu khèn khẹt. Jack nhìn thẳng vào đôi mắt bốc lửa của nó. Đôi mắt chất chứa những ngọn lửa trắng bạc, buốt giá.
    Jack muốn xâm nhập vào cái khối lửa lạ lùng đó. Anh đưa con vật đến gần mặt và chăm chú nhìn vào những hốc mắt trống rỗng của nó.
    Những ngọn lửa quay cuồng, nhảy múa.
    Anh linh cảm có một điều gì đó quan trọng và khủng khiếp đang được che giấu đằng sau những ngọn lửa đó. Anh đưa con nhông đến gần hơn nữa.
    Một thứ ánh sáng tàn khốc, lạnh căm. Thứ ánh sáng làm mê hoặc. Anh muốn khám phá cái bí ẩn lớn lao được che giấu phía sau tấm màn rực lửa đó.
    Anh muốn khám phá. Anh muốn am hiểu.
    Những ngọn lửa trắng. Những ngọn lửa tuyết, rét căm.
    Ngọn lửa đang gọi anh.
    Gọi anh ...
    Khiến cho anh hầu như chỉ nghe văng vẳng tiếng cửa xe mở ra sau lưng. Đôi mắt con vật đã hớp hồn Jack, khiến anh như bị thôi miên. Anh không còn biết mình đang đứng trong cơn bão tuyết, chỉ vài giây nữa là anh mất mạng. Nhưng vì bọn âm binh đã mở cửa xe hơi sớm nên anh đã nghe thấy tiếng động và sực tỉnh. Anh quay đầu lại và vứt con nhông đi thật xa trên tuyết. Rồi anh cắm cổ chạy một mạch không dám quay đầu lại nhìn xem cái gì đã ra khỏi xe. Phía trước anh, Rebecca và bọn trẻ đã chạy đến cuối phố. Họ rẽ vào đại lộ rồi mất hút.
    Jack lao đi trong tuyết, tim đập thình thịch. Anh trượt chân, lảo đảo và lại tiếp tục chạy. Anh chạy, chạy mãi như trong cơn ác mộng mê ảo.
    o O o
    Đến cuối phố, Jack quẹo vào đại lộ. Vì sợ phải nhìn thấy loài vật đó nên anh không dám ngoái cổ nhìn lại. Lúc này, Rebecca và hai bé đang ở phía trước anh, không còn ai trên đại lộ thênh thang. Jack đảo mắt, cố tìm một nơi có thể ẩn náu. Trước mặt anh là vài tòa nhà cổ ba tầng, nằm lọt giữa những cao ốc hiện đại.
    Anh nói với Rebecca:
    - Chúng ta phải tìm chỗ để ẩn núp thôi.
    Họ bước lên những bậc thang của tòa nhà cổ đầu tiên, đẩy cánh cửa kính và bước vào sảnh, đèn đuốc sáng trưng, sạch sẽ, sang trọng và có hệ thống sưởi. Tuy ở đây thật ấm cúng và thoải mái, nhưng họ không thể đứng mãi như vậy, rất dễ bị lộ.
    Jack tiến vào phía trong, đẩy cánh cửa và nhìn thấy cầu thang dẫn lên các tầng trên. Rebecca đẩy hai bé theo sau Jack. Họ chui xuống gầm cầu thang, nép sát vào nhau. Như vậy là không ai có thể trông thấy họ, từ ngoài đường cũng như từ trên các cầu thang nhìn xuống.
    Jack nói:
    - Chúng ta hãy nấp ở đây một lúc đi.
    - Núp bao lâu vậy ba? - Davey hỏi.
    Rebecca nói nhỏ:
    - Khoảng năm phút đi. Tối đa là mười phút. Lúc đó có lẽ bọn chúng đã đi xa rồi.
    Jack nhìn đồng hồ.
    Mười giờ mười bốn phút.
    Nép sát bên nhau, trong bóng tối dưới gầm cầu thang, họ chờ đợi.
    o O o
    Mười giờ hai mươi bốn phút.
    Đã mười phút trôi qua kể từ khi họ vào trong ngôi nhà ba tầng này. Rebecca nói:
    - Có thể chúng không đuổi theo chúng ta.
    - Đừng có vội. Hãy ráng đợi thêm hai phút nữa đi - Jack nói.
    Mười giờ hai mươi sáu.
    Mười giờ hai mươi bảy.
    Thấy không thể nấn ná thêm lâu hơn, Jack rón rén ra khỏi gầm cầu thang. Anh bước hai bước, đặt tay lên nắm cửa bằng đồng và ...chết sững.
    Chúng đang có mặt ở đó.
    Một trong bọn chúng đang bò dọc theo ô kính. Với bảy mươi centimét chiều dài, con vật trông tựa như con sâu với thân có khoanh và khoảng hai chục cái chân. Nó có cái miệng hình trái xoan của loài cá với bìu môi trề ra. Nó nhìn chằm chằm Jack bằng đôi mắt rực lửa.
    Đã có kinh nghiệm, Jack vội quay mặt đi. Phía sau con sâu nhung nhúc lũ âm binh.
    Kinh tởm, Jack rụt tay lại và nói:
    - Chúng đã tìm thấy chúng ta rồi! Chúng đang ở ngay ngoài đó. Nào, hãy ra khỏi gầm cầu thang ngay trước khi quá muộn.
    Rời khỏi nơi ẩn nấp, Rebecca và Penny há hốc miệng, sững sờ nhìn con sâu đang bò trên ô kính và phía sau nó là đủ loài quỷ dữ. Chỉ một mình Davey là có thể hét lên. Thằng bé bám chặt lấy cánh tay cha.
    Jack nói:
    - Bây giờ chúng đã tràn ngập tòa nhà, thậm chí chui đầy bên trong các bức tường rồi.
    - Chúng ta làm sao thoát khỏi đây? - Penny hỏi.
    Trong thoáng chốc, họ lặng im. Trên ô kính, ngoài con sâu ra, giờ đây còn có rất nhiều con vật khác đang bắt đầu bò lên.
    Rebecca hỏi:
    - Nhà này có cửa sau hay không vậy?
    - Có lẽ có - Jack đáp. Nhưng dĩ nhiên lũ quái vật cũng sẽ đợi chúng ta ở đó.
    Lại một lần nữa, im lặng.
    Một sự im lặng ngột ngạt, khủng khiếp, giống như trước giờ lâm chung.
    Jack liếc nhìn thang máy, đối diện với cầu thang và thầm nghĩ: Nếu cửa thang máy đột ngột mở ra, thì sẽ tuôn trào một làn sóng chết chóc, gầm gừ, gào thét ...
    Anh cầm lấy tay Davey và dẫn thằng bé lên cầu thang.
    - Anh đi đâu vậy? - Rebecca hỏi, nắm lấy tay Penny.
    - Lối này.
    Họ lên đến tầng một.
    Rebecca nói:
    - Nếu chúng đang trong các bức tường thì xem như ngôi nhà này đã bị bao vây rồi.
    - Nhanh lên nào - Jack hối.
    Và họ cố hết sức để tiến lên thật nhanh.
    o O o
    Tại khu Harlem, trong căn hộ của Carver Hampton, bên trên cửa tiệm Rađa của gã, mọi ngọn đèn đều được bật sáng. Ở những góc phòng, nơi ánh sáng không hắt đến, Carver thắp thêm cả nến, đặt trên đĩa, trên xoong, trên cả chảo nữa.
    Carver đang ngồi nơi chiếc bàn nhỏ trong bếp, cầm trong tay ly Chivas Regal. Gã lặng im nhìn tuyết rơi, thỉnh thoảng lại uống một ngụm rượu. Tuy đèn sáng rực là thế, nhưng trên bàn, trong tầm tay Carver còn để sẵn mớ hộp quẹt, ba bịch nến và hai cái đèn pin, đề phòng xảy ra cúp điện do bão tuyết.
    Carver biết rằng đêm nay, tốt hơn hết là không nên để nhà cửa tối tăm. Âm binh đã được thả ra rồi và chúng rất thích bóng tối.
    Mặc dù lũ âm binh không được lệnh truy tìm Carver, nhưng gã có linh cảm chúng đang lùng sục khắp các con phố dưới cơn bão tuyết. Chúng phát ra những làn sóng của cái ác,sự xấu xa. Là một người có khả năng phát hiện sự xâm nhập của những năng lực siêu nhiên trên cõi trần nên Carver hiểu rõ những dấu hiệu đó và chúng làm cho gã thấy ray rứt, căng thẳng. Carver biết đám âm binh đó đang tuân lệnh của Lavelle để tiêu diệt gia đình Carramazza, bởi ngoài Lavelle ra, không một Boko nào, ở New York này có thể sai khiến cái đạo binh đến từ địa ngục đó nữa.
    Carver nhấp từng ngụm whisky. Gã muốn uống cho say khướt. Nhưng lại không dám vì gã biết đêm nay là đêm gã cần phải tỉnh táo hơn bao giờ hết.
    Carver uống thêm một ngụm rượu whisky nữa, nhưng không thấy ấm lòng chút nào. Đêm nay, không có gì có thể giúp gã có được sự an ổn.
    Gã cảm thấy có lỗi và đó là một trong những lý do khiến gã muốn uống thật say. Gã ân hận vì đã không giúp đỡ trung úy Jack Dawson. Gã đã phạm phải một lỗi lầm. Tình huống đã quá khủng khiếp để có thể kích kỷ giữ mình rồi. Những cánh cửa địa ngục đã được mở để loài âm binh tràn ra ngoài gây tội ác. Một Boko ngạo mạn, khát máu, đã chấp nhận mọi rủi ro nguy hiểm chỉ để thỏa mãn sự thù hận cá nhân. Trong những trường hợp này, một Hougan phải nhận lấy phần nào trách nhiệm. Sở dĩ Carver hối hận là vì gã không cách nào quên được hình ảnh con rắn đen mà Lavelle đã gửi đến; cái hình ảnh đó làm cho gã khiếp sợ, cũng làm cho gã không còn nghị lực để có thể chu toàn công việc đang chờ đợi gã.
    Gã uống với hy vọng tìm thấy can đảm. Gã cần có can đảm để gọi Jack và nói: “Tôi muốn giúp anh”.
    Đồng thời Carver cũng biết chắc rằng, Lavelle sẽ tiêu diệt gã nếu gã xen vào chuyện này. Và cái chết do Lavelle ban phát chẳng phải loại dễ chiụ gì.
    Carver lại uống thêm một ngụm whisky nữa.
    Gã nhìn cái điện thoại và thầm nghĩ, “Hay mình gọi cho Jack Dawson luôn nhỉ?”
    Nhưng gã vẫn cứ ngồi im, rùng mình.
    o O o
    Hụt hơi, Jack, Rebecca và hai đứa bé đã lên đến thềm cầu thang tầng trên cùng. Jack quay đầu nhìn xuống. Cho đến lúc này vẫn không thấy gì phát sinh.
    Dọc theo hành lang là bốn cái cửa của bốn căn hộ. Jack đi ngang qua, không nhấn chuông cũng không gõ cửa. Những gia đình trong đó không thể giúp được gì. Anh biếtm anh, Rebecca và hai con đang hoàn toàn đơn độc.
    Ở cuối hành lang có một cái cửa. Jack thầm mong mình không mở nhầm. Anh xoay quả đấm cửa, cửa không có khóa. Anh thận trọng đẩy cửa, nơm nớp lo sợ loài vật kia đang chờ bên đó. Tối om. Không con vật nào nhảy ra cả. Anh mò mẫm tìm công tắc điện. Rồi, nhấn nút. Đèn bật sáng. Đúng như anh mong đợi: có một cầu thang hẹp và thẳng đứng, dẫn đến một cánh cửa có bọc lưới mắt cáo.
    - Nào, lên đây! - Jack nói.
    Không hỏi han gì, Davey, Rebecca và Penny trèo lên. Cửa được gài bằng một thanh sắt. Kẻ trộm không thể đột nhập vào đây từ mái nhà được. Jack kéo thanh sắt. Bên ngoài, gió ép mạnh vào cửa khiến Jack phải dùng vai đẩy mạnh. Cánh cửa mở ra và bị gió hết mạnh vào bức tường phía ngoài, gây nên một tiếng động lớn. Anh đang đứng trên sân thượng.
    Trong cơn gió dữ, Jack bước đến mép sân thượng và thấy mình đang kề cận với sân thượng của tòa nhà bên cạnh. Lan can sân thượng cao ngang tầm hông của anh. Anh khom người nhìn xuống bên dưới: khoảng cách giữa hai tòa nhà không quá một thước hai mươi. Rebecca và hai bé đã đến bên anh.
    Jack nói:
    - Chúng ta sẽ sang bên kia.
    - Lấy cái gì để làm cầu vắt sang bây giờ? - Rebecca hỏi.
    - Có lẽ chúng ta sẽ tìm thấy cái gì đó có thể sử dụng được.
    Jack quay lại, nhìn khắp sân thượng. Vì có ánh trăng bàng bạc trên tuyết nên ở đây không đến nỗi tối lắm. Nhưng Jack vẫn không thể nhìn thấy gì có thể dùng làm cầu. Lúc này, Penny và Davey đang ngồi xổm, nép mình vào lan can để tránh gió rét.
    Jack nói:
    - Phải nhảy qua bên đó thôi.
    - Không thể nào! - Rebecca phản đối.
    - Không xa lắm đâu. Khoảng một thước hai là cùng.
    - Nhưng chúng ta không thể lấy đà để nhảy.
    - Không cần lấy đà. Chỉ nhảy một bước là qua mà.
    Chỉ tay vào lan can, Rebecca nói:
    - Để nhảy được sang bên kia, chúng ta phải đứng trên lan can này?
    - Đương nhiên.
    - Và trong cơn gió dữ này thì chắc chắn chúng ta sẽ mất thăng bằng trước khi kịp nhảy mất!
    - Không sao đâu, em đừng lo - Jack nói, cố khơi dậy niềm tin.
    Rebecca lắc đầu:
    - Có thể, nếu may mắn, em và anh sẽ qua được bên đó. Nhưng còn hai bé ...
    - Được, vậy thì, một trong hai ta sẽ nhảy sang bên đó trước, rồi mỗi người một bên truyền hai đứa bé sang.
    - Làm chuyện đó ở độ cao mười lăm thước hả trời?
    - Chứ biết sao bây giờ? Em hãy bám một tay vào lan can trong khi anh cố trụ vững ở một bên để đưa hai con sang. Không sao đâu!
    - Nhưng ...
    - Rebecca! Bọn chúng đã xâm nhập được vào tòa nhà này rồi! Và không bao lâu nữa sẽ đuổi kịp chúng ta!
    - Ai sẽ là người sang bên đó trước đây?
    - Em!
    - Cám ơn anh đã nhường!
    - Anh sẽ giúp em leo lên lan can này, giữ cho em khỏi mất thăng bằng để em nhảy sang bên đó.
    - Nhưng sau khi em và hai bé đã sang bên kia rồi thì còn ai giúp anh đây?
    - Lúc đó hẵng hay đí.
    o O o
    Trái với thời tiết bên ngoài, không khí trong nhà kho thật nóng và ngột ngạt. Từ cái hố đào trên nền đất, thứ ánh sáng vàng cam giờ đây càng chói chang hơn. Ánh sáng bập bùng đó làm chao đảo những cái bóng và làm cho những đồ vật trên nền đất trở nên sống động. Cái giá rét của đêm đen và tiếng gào thét của gió không thể len qua những bức tường bằng kim loại của nhà kho. Bên trong nhà kho trĩu nặng thứ không khí bất thường, siêu nhiên, đáng sợ, như thể cái khối nhà bằng kim loại này đang bềnh bồng ngoài không gian và thời gian, lơ lửng bên trên hư vô.
    Từ những đáy sâu của cái hố, văng vẳng tiếng động. Một thứ tiếng gào rít - thì thầm - gầm gừ mơ hồ, như một tiếng vang vọng xa xa của một đám người giận dữ. Bỗng chốc, thứ tiếng ấy lớn dần cùng lúc với độ lớn mạnh của cái ánh sáng vàng cam, như thể một cái cửa lò vừa được hé mở khoảng vài centimét vậy.
    Nhiệt độ trong nhà kho nhích lên thêm vài độ nữa.
    Cái mùi lưu huỳnh trở nên nồng nặc hơn.
    Quanh cái hố những mảnh đất đang tách rời khỏi miệng, rơi xuống và biến mất trong thứ ánh sáng chói mắt này. Đường kính của cái hố giờ đây đã rộng hơn khoảng vài centimét nữa. Những mảnh đất không còn rơi xuống nữa.
    Một lần nữa, sự tĩnh lặng phủ xuống trên nhà kho.
    Và miệng hố đã lại rộng ra.
    o O o
    Thành lan can rộng khoảng hai mươi lăm centimét. Rebecca có cảm giác như mình đang trụ trên một sợi dây thừng căng thẳng. Cũng may nơi này không bị tuyết phủ bởi gió mạnh nên khá khô ráo và bằng phẳng.
    Được sự trợ giúp của Jack, cô leo lên gờ tường và lom khom trong tư thế ngồi xổm. Từng cơn gió quất mạnh làm Rebecca suýt té ngã nếu không có Jack chống đỡ.
    Cố xua đi nỗi ám ảnh của độ cao và gió tuyết, Rebecca tập trung tinh thần và hướng tầm mắt về sân thượng kế bên. Cô biết mình phải thực hiện một cú nhảy khá xa để có thể vượt qua phía bên kia lan can của tòa nhà kế cận. Nếu không thành công cô sẽ rơi xuống trên bức tường con và chỏng gọng. Trong trường hợp đó, gió sẽ thổi bạt và hất cô khỏi sân thượng hoặc kéo cô ra sau, rồi đẩy xuống khoảng trống giữa hai tòa nhà. Cô né tránh cái suy nghĩ đó và nhìn đi nơi khác.
    - Em nhảy đây! - Rebecca nói.
    Jack buông tay ra và Rebecca lao về phía trước trong đêm đen của tuyết và giá rét.
    Khi tung người lên, Rebecca biết ngay mình đã lấy đà không đủ mạnh, và cô sẽ không sang được bên kia. Cô sẽ ngã xuống và không thoát khỏi cái chết được.
    Nhưng điều đó đã không xảy ra.
    Cô đã vượt qua được bức tường con, trượt và té ngã, nhưng không hề hấn gì. Khi nhỏm dậy, cô trông thấy cái chuồng chim cũ kỹ dài khoảng một thước tám mươi. Chỉ nhìn qya, Rebecca biết nó đã bị vứt bỏ nhiều năm rồi.
    Hướng về phía Jack đang chăm chú nhìn từ sân thượng bên kia, Rebecca gào lớn:
    - Em tìm thấy cây cầu của chúng ta rồi!
    Biết tình huống khẩn cấp, Rebecca vội vã phủi đi lớp tuyết đóng trên mái chuồng và nhận ra nó được làm từ một ván ép dài và dày. Rebecca nghĩ: Như vậy là tạm ổn rồi. Lớp ván ép đã được sơn nhiều lớp, nhờ vậy nó không bị mối ăn và cũng đủ chắc để chịu được sức nặng của hai đứa bé, kể cả Jack. Toàn bộ một bên chuồng đã bị tháo đinh, nhờ vậy Rebecca có thể dễ dàng tháo rời miếng ván ép ra. Những cây đinh cuối cùng đã bung.
    Rebecca lôi tấm ván đến gần lan can. Cô biết, nếu đẩy tấm ván sang bên Jack, gió sẽ hất nó ra khỏi tay cô. Vì vậy, cô cố đợi gió tạm lắng xuống rồi vội vã nhấc tấm ván, cô đặt nó lên bức tường con và đẩy sang Jack. Vài giây sau đó, gió lại tiếp tục nổi lên, nhưng cây cầu đã nối liền, giữ ở hai đầu là Rebecca và Jack.
    Để làm gương cho em, Penny bò sang trước, hai tay bám vào mép ván. Vững tin, Davey theo sát đằng sau, rồi đến lượt Jack. Sau đó, anh giúp Rebecca rút tấm ván đi.
    - Bây giờ chúng ta phải làm gì tiếp theo đây? - Rebecca hỏi.
    - Sang đến đây rồi vẫn chưa ổn đâu. Phải tiếp tục chạy càng xa càng tốt.
    Cũng bắc cầu như thế, họ sang tòa nhà kế tiếp, rồi tòa nhà thứ tư và tòa nhà sau cùng.
    Nhìn xuống phía dưới, trong ánh đèn đường, Rebecca thấy phố xá vắng tanh, không một bóng người, cũng không thấy bóng dáng của con vật nào. Chỉ có tuyết và tuyết. Tuyết tung bay trong gió, phủ kín mặt đường, chất chồng thành từng đống trắng xóa.
    Ôm theo tường phía sau tòa nhà là một cầu thang khẩn cấp bằng sắt chạy theo hình chữ chi xuống con hẻm. Jack là người xuống trước, dừng lại ở mỗi tầng để chờ Penny và Davey, sẵn sàng ra tay nếu chúng trượt ngã.
    Rebecca là người sau cùng rời sân thượng. Ở mỗi thềm cầu thang, cô đề dừng lại, nhìn xuống con hẻm xem có con vật nào xuất hiện hay không.
    Không thấy gì lạ.
    Sau khi d ã xuống dưới, họ nhanh chóng rời khỏi con hẻm để chạy ra đường. Rồi họ chậm bước, bỏ lại sau lưng Third Avenue để về trung tâm thành phố.
    Họ không bị theo dõi.
    Không một con vật nào xuất hiện từ những cổng vòm âm u cả.
    Trong lúc này, họ xem như được an toàn. Nhưng ... không có ai ngoài họ, trong cái thành phố này. Họ không khác gì những kẻ sống sót sau ngày tận thế.
    Sau khi vượt được hai phần ba đoạn đường dẫn đến Lexington Avenue, Davey vấp ngã và nắm dài, kiệt sức. Jack phải ẵm thằng bé trên tay. Penny, cũng thế, xem chừng đã kiệt sức. Không bao lâu sau, Jack phải trao Davey cho Rebecca để mình ẵm Penny.
    Khi đến Lexington Avenue, Jack và Rebecca dừng lại gần một cái nắp hố bằng lưới thép gắn chặt trên vỉa hè, nơi thoát ra những làn khói hơi nước. Đây là miệng ống thông gió của một đường tàu điện ngầm. Jack và Rebecca bỏ hai đứa bé xuống.
    Thấy cần phải kiếm một chiếc xe để mang họ rời xa khu này, Jack nói:
    - Phải chi có cái điện thoại công cộng đâu đây thì ta có thể gọi về sở để xin xe rồi.
    - Hình như có một cái ở đằng kia thì phải? - Penny chỉ tay nói.
    - Tuyết rơi quá dày đặc, không thể nào nhìn thấy gì.
    Rebecca nói:
    - Chúng ta thử đi đến đó xem.
    Rebecca vừa nói xong câu đó thì có một bàn tay thò ra khỏi tấm lưới thép, giữa hai song sắt.
    Chính Davey nhìn thấy trước tiên; thằng bé hét lên và lùi lại.
    Bàn tay của con vật quỷ quái.
    Rồi lại thêm một bàn tay nữa bấu lấy chiếc ủng của Rebecca. Nhìn thấy đôi mắt trắng bạc sáng rực trong bóng đêm dưới tấm lưới thép, Rebecca nhảy dựng lên lùi ngay ra sau.
    Một bàn tay khác ló ra. Rồi bàn tay thứ tư. Penny và Jack cũng nhảy lùi ra sau. Đột nhiên, tấm lưới sắt bắt đầu chuyện động. Nó bị nhấc lên, rơi ầm xuống rồi lại bị nhấc lên, rơi xuống, rung chuyển và nhấc lên. Ở dưới đó, bầy thú đang tìm cách hất tung tấm lưới thép. Tuy tấm lưới rộng và rất nặng, nhưng Rebecca biết chắc chúng sẽ đạt được ý đồ của chúng nhanh thôi. Có lẽ Jack cũng biết điều đó vì anh vội vàng ẵm Davey và bỏ chạy. Nắm lấy tay Penny, Rebecca cũng chạy theo.
    Phía trước họ, có một chiếc xe Jeep đang rẽ ở ngã tư và chạy về phía họ. Đó là chiếc Jeep của quản lý đường bộ. Jack ào ra đó chiếc xe. Rebecca và Penny cũng chạy theo. Hình như người lái xe không nhìn thấy họ. Xe không ngừng lại. Vừa chạy theo, Rebecca vừa vẫy gọi một cách tuyệt vọng. Penny gào lên và ngay sau đó là Jack và Davey. Họ gào lên như những người điên.

  10. #19
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết




    Chương 19
    N
    gồi trong phòng bếp sáng trưng, Carver Hampton chơi trò bói bài, cố quên đi nỗi ám ảnh và hổ thẹn. Nhưng những lá bài không thể nào xua nổi điều đó. Carver nhìn chằm chằm về phía cửa sổ, bị ám ảnh bởi một sự hiện diện khó tả, trong vùng tăm tối ngoài kia.
    Nỗi ân hận dày vò Carver. Là một Hougan, gã biết mình có một số trách nhiệm cần phải gánh vác, nếu không gã sẽ bị đày đọa do lỗi lầm không thể cứu vãn.
    Carver sang phòng khách, lấy một cuốn sách trên kệ, cố đọc hai trang nhưng không hiểu gì vì chẳng thể tập trung tâm trí. Cuối cùng, gã đành trả sách về lại chỗ cũ.
    Rồi trở lại vô bếp, gã đến bên chiếc điện thoại, đặt tay lên máy, tần ngần do dự. Gã liếc mắt về phía cửa sổ và rùng mình: đêm đen như bị khuấy động bởi quỷ dữ.
    Carver nhấc ống nghe, áp vào tai và đứng sững một lúc. Trên một mảnh giấy đặt cạnh máy là số điện thoại nhà riêng và số cơ quan của trung úy Jack Dawson. Carver nhấn số điện thoại nhà riêng của Jack. Ở đầu dây bên kia chuông cứ reo mãi; Carver chực gác máy. Chính lúc đó, máy bên kia được nhấc lên. Nhưng không ai lên tiếng.
    Carver đợi một lúc rồi nói:
    - Allo!
    Không có tiếng trả lời.
    - Có ai ở đó không?
    Im lặng.
    Lúc đầu, Carver nghĩ đường dây bị hỏng. Nhưng khi định cúp máy, gã bỗng sững sờ vì một cảm giác lạ lùng và đáng sợ đang xâm chiếm đầu óc gã. Gã linh cảm có một sự hiện diện mà sự hắc ám của nó đa lan truyền qua cả đường dây điện thoại.
    Tim đập thình thịch, người ướt đẫm mồ hôi, Carver cảm thấy buồn nôn. Gã cảm thấy như mình vừa bị ô uế.
    Đặt mạnh ống nghe xuống, Carver chùi hai tay ướt đẫm vào quần rồi đến bên bồn rửa chén rửa tay thật kỹ, như thể việc cầm máy điện thoại đẽ làm gã phải tiếp xúc với con vật dơ bẩn gớm ghiếc vậy.
    Carver biết rằng kẻ vừa nhấc máy là một trong những âm binh do Lavelle sai khiến, nhưng nó đến nhà Jack làm gì chứ? Vì sao như vậy? Hay lavelle đã quá điên đến nỗi sai âm binh không những tiêu diệt gia đình Carramazza mà còn cả cảnh sát nữa? Carver thầm nghĩ, nếu điều gì xảy đến cho Jack Dawson, thì đương nhiên gã sẽ là người có lỗi vì không chịu giúp đỡ người ta.
    Dùng khăn lau đi mồ hôi trên mặt và cổ, Carver suy nghĩ về những việc mà gã cần phải làm.
    o O o
    Vì chỉ có hai người trong chiếc xe Jeep nên vẫn còn đủ chỗ cho Penny, Davey, Rebecca và Jack.
    Gã tài xế tên Burt, có khuôn mặt tươi vui, mũi dẹt, hai tai lớn. Sau khi xem kỹ thẻ cảnh sát của Jack, gã đồng ý đưa nhóm Jack về sở cảnh sát.
    Bên trong xe thật ấm cúng và khô ráo.
    Jack cảm thấy nhẹ nhõm khi xe lao đi và mọi cửa đã khóa chặt.
    Nhưng rồi, khi xe quay đầu trên đại lộ vắng tanh, người đồng hành với Burt, một chàng trai trẻ tuổi tên Léo, nhìn thấy một vật gì đó di chuyển trong tuyết và đang băng qua đường, đi về phía chiếc xe.
    Léo quay sang nói với Burt:
    - Này, chậm lại chút đi. Có phải đằng kia là con mèo không?
    - Thì sao nào? - Burt hỏi.
    - Không nên để nó ở ngoài gió tuyết như vậy.
    Burt nói:
    - Lũ mèo muốn đi đâu mặc chúng chứ! Là người thích nuôi mèo, chắc cậu phải biết chúng là loài không thích lệ thuộc chứ nhỉ.
    - Nhưng nó sẽ chết rét mất!
    Quay đầu xong, Burt chạy chậm lại để đích thân quan sát. Jack liếc nhìn cái hình dáng âm u đang mềm mại phóng đi trên tuyết kia. Anh biết, ở đằng kia, sau những bức màn tuyết, chắc lũ quái vật đang tiến về phía họ. Tuy vậy, lúc này họ chỉ nhìn thấy con vật đầu tiên, con âm binh - mèo, cách họ khoảng chục thước và đang tiến nhanh đến.
    Léo nói:
    - Này cậu, hãy ngừng xe lại để tôi cứu con mèo tội nghiệp nào!
    Vừa nghe vậy, Jack đã nói ngay:
    - Đừng ngừng xe! Chạy ngay đi! Đó không phải là mèo đâu!
    Ngạc nhiên, Burt liếc nhìn Jack. Ngay sau đó, Penny gào lên. Áp mặt vào kính xe, Léo kêu lên:
    - Ừ ha! Không phải mèo!
    Jack hét lớn:
    - Coi chừng!
    Con vật nhảy lên và đập mình vào kính xe, phía Léo. Tấm kính rạn nứt, nhưng không vỡ hẳn. Léo gào lên và né người ra sau, chạm phải Burt khiến gã ta nhấn vào chân ga. Chiếc xe trượt bánh.
    Con vật quái đản vẫn bám vào tấm kính rạn nứt. Penny và Davey hét lên trong khi Rebecca cố ngăn không để chúng thấy cảnh tượng khủng khiếp đó.
    Con yêu tinh nhìn chòng chọc vào những người trong xe bằng ánh mắt bốc lửa. Jack hầu như có thể cảm nhận cái nóng bỏng của ánh mắt yêu dị đó. Anh muốn xả súng vào con vật dù biết không có tác dụng gì.
    Burt đã làm chủ được tay lái, chiếc Jeep không còn trượt bánh nữa. Một tay giữ bánh lái, tay kia Burt cố đẩy Léo ra xa nhưng Léo vẫn không nhúc nhích. Anh ta không muốn phải sáp lại gần con vật - mèo đó.
    Con yêu tinh thè cái lưỡi đen ngòm ra liếm lên tấm kính rạn nứt. Chiếc Jeep lệch sang một bên và lại trượt bánh.
    - Mẹ kiếp! Giữ vững tay lái xem nào!
    - Tôi không thể cầm lái khi thằng cha này ép lên đùi như thế này được! - Burt nói.
    Sau đó, gã thúc mạnh vào sườn của Léo để hắn ta phải nhích ra một chút. Con vật - mèo nhe hàm răng nhọn hoắt, bóng lưỡng trong khi Burt kịp đưa chiếc Jeep lách sang một bên để khỏi tông vô cột điện.
    Máy xe rú lên.
    Quanh họ, tuyết vẫn không ngừng rơi.
    Léo thốt lên những tiếng khò khè lạ lùng xen lẫn với tiếng khóc của hai đứa trẻ. Trước tình huống này, Burt buộc phải bấm còi hụ, hy vọng tiếng còi đinh tai có thể đuổi được con vật kỳ quái đi.
    Cuối cùng, con vật quỷ quái rời khỏi tấm kính và rơi xuống trên tuyết.
    - Cám ơn trời! - Léo thốt lên, nép mình vào một góc.
    Jack nhìn ra cửa kính đằng sau. Trong cơn bão tuyết, những con vật khác cũng đã xuất hiện, phóng theo xe Jepp nhưng không đuổi kịp. Chúng khuất xa dần.
    o O o
    Thứ tư 23 giờ 2 - Thứ năm 2 giờ 3
    Hệ thống chiếu sáng của bãi đậu xe dưới tầng hầm sở cảnh sát không đủ để đẩy lùi những cái bóng đang núp trong những góc hầm giữa những cái bánh xe, trên trần, đang theo dõi những gì đang xảy ra tại nơi đây.
    Đêm nay, Jack cảm thấy sợ hãi khi đứng trong tầm hầm này. Anh cảm thấy như những cái bóng âm u đang lén lút bò đến. Rebecca và hai đứa bé cũng có cùng cảm giác như vậy. Họ đứng sát bên nhau, đảo mắt nhìn quanh, lo âu, sợ hãi.
    Nhân viên trực đêm, một gã tên Ernie Tewkes, có mái tóc rậm đen chải ngược ra sau và bộ ria mép tỉa mỏng trên đôi môi dày.
    Vỗ vỗ vào cuốn sổ, Ernie nói:
    - Quý vị đã được cấp mỗi người một xe rồi mà?
    - Đúng là thế, nhưng mà chúng tôi lại cần thêm hai chiếc nữa.
    - Trái với quy định, tôi ...
    Rebecca nôn nóng:
    - Quy định hay không, chúng tôi không cần biết. Anh hãy giao ngay cho chúng tôi hai chiếc xe mau! Chúng tôi đang cần gấp!
    Ernie hỏi:
    - Chứ hai chiếc kia đâu rồi? Hay hai người đã đụng nát cả hai rồi hả?
    - Không đâu, Chúng bị kẹt!
    - Hỏng máy hay sao?
    - Không phải, bị kẹt bởi tuyết đó mà - Jack nói dối.
    - Tuyết à? Chỉ vậy thôi sao? - Ernie hỏi. Chúng tôi sẽ cho xe đến kéo chúng về. Hai người cứ chờ ở đây đi.
    Jack nói, liếc mắt về những cái góc âm u của căn hầm:
    - Chúng tôi không có thời gian. Chúng tôi cần gấp hai chiếc xe ngay bây giờ.
    - Nhưng mà theo quy định thì ...
    Rebecca nói ngay:
    - Này, ở đây có một số chiếc xe dược giành cho lực lượng can thiệp nhanh đặc trách vụ án Carramazza và, như cậu biết đó, chúng tôi chuyên trách vụ án đó. Chúng tôi có việc khẩn cấp liên quan đến vụ án và cần có xe để đi.
    - Nhưng hai người đã được cấp xe rồi mà, và theo quy định thì hai người phải viết báo cáo về tai nạn hoặc mất xe trước khi ...
    - Hãy quên chuyện đó đi! Nghe đây Ernie, cậu có chịu đi lấy xe hay tôi phải đích thân đến lấy chìa khóa treo trên bảng hả?
    Rồi bước về phía Ernie, Rebecca nói:
    - Cậu hãy đi lấy xe ngay đi!
    Ernie tuận lệnh.
    Gã lái chiếc Chervolet màu xanh ra khỏi bãi đậu, giao cho Rebecca rồi đi lấy chiếc nữa.
    Jack và Rebecca thận trọng xem xét phía dưới các băng ghế, đề phòng loài thú quỷ quái. Theo kế hoạch, Rebecca sẽ lái xe đi suốt đêm với hai bé, theo những trục đường chính của thành phố, nơi các xe dọn tuyết đang liên tục làm việc, để tránh nguy cơ mắc kẹt trong bão tuyết. Trong lúc đó, Jack sẽ đến khi Harlem để gặp Carver Hampton, nhằm có thể truy tìm Lavelle.
    Khi lái xe ra khỏi tầng hầm, Rebecca ngoái cổ nhìn lại. Jack vẫy tay chào cô. Đối với Penny, bé tưởng như đó là hình ảnh cuối cùng của cha.
    o O o
    Đã quá nửa đêm.
    Jack lái xe đến khu Harlem và đậu xe gần cửa tiệm Rađa. Biết Carver Hampton sống trong một căn hộ bên trên cửa tiệm nên Jack đi ra sau nhà tìm một lối để đi lên. Cuối cùng, Jack cũng tìm thấy một cánh cửa có bảng số.
    Ở tầng trên, đèn đuốc sáng trưng. Mọi cửa sổ trên đó đều được thắp sáng. Quay lưng với con gió dữ dội, Jack nhấn mạnh chuông cửa. Ở bên trong, tiếng chuông vang lên, nhỏ lúc đầu rồi sau đó lớn dần, chát chúa. Anh thầm nghĩ, nếu Carver vẫn lì lợm không chịu mở cửa, thì hắn sẽ phải điên cái đầu đây. Chỉ cần kéo dài khoảng mười phút là tai y sẽ bị ù. Còn nếu y vẫn tiếp tục ngoan cố, Jack sẽ tìm đâu đây vài viên gạch hoặc chai lọ để ném vào những ô cửa.
    Nghĩ đến đó, Jack ngạc nhiên khi chỉ sau bao mươi giây nhấn chuông, thì cửa mở ra và Carver Hampton xuất hiện. Trái với dự đoán của Jack, Carver không cau có, cũng không xua đuổi và lại còn vui vẻ và tươi cười nữa.
    Trước khi Jack kịp lên tiếng, Carver đã nói ngay:
    - Thật may mắn anh vẫn bình an vô sự! Cám ơn Trời! Nào, vào đi. Tôi rất mừng khi gặp lại anh. Vào đi! Vào đi!
    Cánh cửa mở rộng ra và Jack bước vào. Carver đóng ngay cửa lại, nói tiếp:
    - Chúa tôi! Anh biết không, tôi điếng người vì lo lắng. Ổn cả chứ? Anh không sao chứ? Nào, anh hãy nói cho tôi biết là anh vẫn ổn đi!
    - Thì tôi vẫn ổn, nhưng chút chút thôi. Tôi có rất nhiều điều muốn hỏi anh đấy ...
    - Tôi biết. Tôi cảm nhận thấy điều đó mà. Đêm nay là đêm cực kỳ xao động.
    Cởi bỏ đôi ủng bám đầy tuyết rồi bước theo Carver, Jack nói:
    - Tôi đến đây để xin anh giúp đỡ. Và anh phải giúp tôi dù cho anh có muốn hay không!
    - Tôi rất vui mừng khi được giúp trung úy - Carver đáp.
    Câu nói đó càng làm Jack ngạc nhiên hơn.
    Họ bước vào phòng khách được trang trí khá đẹp với những hàng kệ chứa đầy sách chạy dọc theo bức tường. Có bốn ngọn đèn với chụp đèn bằng kính màu xanh. Lục, vàng thật vui mắt cùng với hai cây đèn cạnh hai chiếc ghế bành, tất cà đều được thắp sáng.
    Vậy mà Carver còn đốt thêm khoảng năm mươi cây nến nữa. Trước vẻ ngạc nhiên của Jack, Carver giải thích:
    - Trung úy à, đêm nay có hai thứ bóng tối đang phủ xuống thành phố này. Một, chỉ đơn giản là vì không có ánh sáng. Và hai, là do sự hiện hữu - sự thể hiện đích thực - của Satan. Thứ bóng tối ma quỷ đó bám vào thứ bóng tối thông thường để dùng nó làm vỏ bọc. Chính vì vậy mà đêm nay tôi phải thắp sáng nhà cửa.
    Rồi nhìn Jack, Carver nói tiếp:
    - Trung úy có vẻ đang bị lạnh đó, để tôi rót một ly cognac cho anh nhé.
    Jack nói ngay:
    - Tôi không có thời gian để uống đâu. Tôi muốn đi tìm Lavelle.
    - Để đi tìm và khống chế hắn, trung úy cần phải có thời gian để chuẩn bị chu đáo mới được. Chỉ có những tên ngốc mới chạy lung tung trong cơn bão tuyết như thế này khi mà y không biết đi đâu và làm gì. Tôi có thể giúp anh nhưng không thể nóng vội được.
    Vài phút sau đó, Jack đã ngồi xuống ghế bành, cầm trong tay ly Rémy Martin, đối diện với Carver.
    - Nhằm đề ra những biện pháp thích hợp, tôi muốn trung úy kể hết ...
    - Trước hết tôi cần nêu ra một số câu hỏi - Jack cướp lời.
    - Được thôi. Trung úy hỏi đi!
    - Trước đây, vì sao anh lại từ chối giúp đỡ tôi?
    - Như tôi đã nói, tôi sợ.
    - Bây giờ anh hết sợ rồi à?
    - Không phải.
    - Vậy thì vì sao bây giờ anh lại đồng ý giúp tôi?
    - Vì tôi ân hận. Và vì tôi cảm thấy xấu hổ. Là một Hougan, tôi thường cầu xin các vị thần Rađa phù hộ và ban ơn lành cho các khách hàng của tôi. Và dĩ nhiên, chính các thần linh ấy đã giúp cho bùa phép của tôi phát huy tác dụng. Để đền đáp, tôi có bổn phận phải đương đầu với cái ác, phải chiến đấu chống lại những thế lực xấu xa của Congo và Pétro. Thế mà tôi lại chạy trốn trách nhiệm.
    - Vì vậy mà anh đã quyết định giúp tôi à? Ít ra tôi đã thấy yên lòng khi biết điều đó.
    - Ngoài ra, còn có một lý do khác nữa. Hồi chiều khi đuổi trung úy ra khỏi cửa tiệm, tôi đã không hiểu hết mức dộ nguy hại của sự việc đang xảy ra. Như trung úy đã biết, nhằm để tiêu diệt gia đình Carramazza, Lavelle đã mở ra cánh cửa địa ngục, để một số âm binh có thể thoát ra và thực hiện ý đồ của hắn. Lavelle là một kẻ kiêu căng đến độ cuồng điên. Hắn là một tên ngu xuẩn, điên loạn dù cho hắn có là một Boko quyền năng nhất. Bây giờ cửa địa ngục đã được hé mở và Lavelle vẫn còn có thể kiểm soát được nó. Nhưng, vì là một gã điên, hắn có thể mở toang cửa trong phút bốc đồng. Hoặc cũng có thể do hắn mệt mỏi và suy yếu mà không giữ được cửa. Khi đó, vô số những con vật quỷ quái sẽ thoát ra và tiêu diệt những người hiền lành công chính. Lúc ấy, chỉ còn có cái ác là tồn tại và thế gian này sẽ biến thành địa ngục.
    o O o
    Rebecca đi theo America Avenue để đến Central Park rồi quay xe trở về lộ trình cũ. Chỉ có vài chiếc xe hơi đang dọn tuyết, xe cấp cứu, ba chiếc taxi, ngoài ra, đường phố vắng tanh.
    Ở băng ghế sau, Davey đã ngủ say vì mệt. Ngồi cạnh Rebecca, Penny cũng chìm vào giấc ngủ.
    o O o
    Jack kể cho Carver nghe về những chuyện đã xảy ra, từ cú điện thoại của Lavelle cho đến khi anh, Rebecca cùng hai đứa bé được Burt và Léo cứu thoát. Carver tỏ vẽ sững sờ khi nghe câu chuyện. Rồi khi Jack kể xong, Carver chớp chớp mắt, cầm lấy ly cognac và uống cạn một hơi.
    Jack nói:
    - Như anh thấy đó, khi anh nói những con vật đó xuất phát từ địa ngục, hẳn có nhiều người sẽ chế giễu anh, nhưng tôi thì không. Tôi đã tin anh dù cho tôi không hiểu chúng ra khỏi địa ngục bằng cách nào.
    Carver đứng dậy, đi tới đi lui trong phòng khách:
    - Tôi có biết đôi chút về cái nghi thức mà Lavelle đã cử hành. Chỉ một bậc thầy Boko mới có thể thực hiện được chuyện này. Nếu Lavelle không đủ quyền năng thì hẳn các Cổ Nhân sẽ không lên tiếng trả lời. Để làm được chuyện này, trước tiên một Boko sẽ phải đào một cái hố sâu khoảng một thước. Sau đó, hắn phải ngâm nga một số tụng ca ... sử dụng một số ngải ... đổ vào hố ba loại máu: máu mèo, máu chuột và máu người. Rồi kết thúc nghi lễ bằng một bài tụng ca dài. Lúc đó, đáy hố sẽ biến đổi một cách thần kỳ, một cách ... không thể giải thích nổi. Cái hố tự nó sẽ sâu thêm một thước nữa, nối liền với cửa Địa Ngục để trở thành nhịp cầu nối giữa thế gian và âm ti. Lúc này, nhiệt độ sẽ dâng lên cùng với mùi xú uế của địa ngục và đáy hố sẽ giống như một lò luyện kim. Một khi thấy mo Boko đã gọi lên những âm binh mà y đã chọn thì bọn chúng sẽ ra khỏi cửa địa ngục để lên miệng hố. Trong khi tiến lên như vậy, bọn chúng sẽ có được một hình dạng. Theo lời mô tả về những con vật mà trung úy đã nhìn thấy, tôi có thể nói chúng chỉ là loài yêu tinh cấp thấp, là những kẻ chỉ mới tiến vào địa ngục, những linh hồn đang trong thời gian đọa đầy ngắn ngủi. Quỷ sứ cấp cao là những linh hồn đã ở đó lâu dài, chúng to lớn, hùng mạnh, và gớm ghiếc hơn nhiều.
    - Loài yêu tinh mà tôi đã thấy đã quá ghe gớm rồi! - Jack nói.
    - Nhưng đám Cổ Nhân thì còn rùng rợn hơn và chỉ cần nhìn thấy thôi là ta đủ chết khiếp!
    Jack uống một ngụm rượu:
    Carver nói tiếp:
    - Hình dáng nhỏ bé của những con vật mà trung úy đã thấy giúp tôi khẳng định rằng Cửa Địa Ngục chỉ mới hé mở mà thôi. Loài quỷ sứ cấp cao còn chưa ra được.
    - Cám ơn Trời!
    - Đúng vậy. - Carver gật đầu. Nhưng cũng không còn lâu nữa đâu!
    o O o
    Davey và Penny vẫn say ngủ. Rebecca cảm thấy cô đơn khi phải lái xe trong đêm thanh vắng một mình. Cần gạt nước vẫn quét đều trên kính chắn gió. Gió thổi mạnh làm chiếc xe rùng mình, buộc Rebecca phải giữ vững tay lái hơn.
    Rồi, bỗng nhiên, có một tiếng động phía dưới sàn xe.
    Toc, toc.
    Như thể khung gầm bị chạm phải một cái gì đó. Rebecca giật mình.
    Lại một lần nữa: Toc, toc.
    Rebecca liếc mắt kiểm tra gương chiếu hậu để xem xe có cán phải một vật gì hay không, nhưng không thể nào nhìn thấy gì vì băng tuyết đã phủ kín kính và bánh xe làm văng tung tóe quá nhiều tuyết.
    Bồn chồn, cô liếc mắt kiểm tra những chiếc đồng hồ trong xe: xăng, dầu, nhớt, bình, tất cả đều ổn. Tiếng máy xe vẫn nổ đều.
    Xe vượt qua một khu phố nhưng không còn nghe thấy tiếng toc toc đó nữa. Rồi khi đến một khu phố khác, Rebecca cảm thấy đôi chút nhẹ nhõm. Cô thầm nghĩ, như vậy chắc là ổn rồi. Không có gì phải lo lắng cả. Hai đứa trẻ vẫn ngủ say, xe vẫn chạy êm ...
    Toc, toc, toc.
    o O o
    Jack thắc mắc:
    - Vì sao loài thú quỷ quái đó không cắn tôi? Vì sao ma thuật của Lavelle lại không phát huy tác dụng với tôi vậy?
    - Chỉ có một cách giải thích duy nhất đối với thắc mắc của trung úy - Carver nói. Đó là một Boko dù có quyền năng đến đâu, cũng không thể nào ám hại người Công Chính được. Ngườ Công Chính là người hùng mạnh.
    - Anh muốn nói gì? Tôi không hiểu.
    - Tôi muốn nói trung úy là người Công Chính. Trung úy là người có đức độ. Linh hồn của trung úy không bị vấy bẩn bởi những trọng tội.
    - Anh đang nịnh tôi đó hả?
    - Không hề. Nhờ có cuộc sống lương thiện nên trung úy được miễn nhiễm trước tất cả những bùa phép, ma thuật của những thầy mo như Lavelle. Hắn ta không thể nào động đến truy úy được.
    Cảm thấy có chút khó chịu khi bị gọi là Người Công Chính. Jack phản đối:
    - Anh nói nghe khó tin quá.
    - Tôi không đùa đâu, bởi nếu không công chính, trung úy đã bị Lavelle ám hại rồi.
    - Tôi không phải là một thiên sứ.
    - Thì tôi có nói trung úy là thiên sứ đâu! Tôi cũng đâu có nói anh là một thánh nhân đâu! Anh chỉ là một Người Công Chính, thế thôi. Như vậy là đủ rồi.
    - Thật phi lý! Tôi không phải là Người Công Chính hay ...
    - Nếu tự cho rằng mình là Người Công Chính thù trung úy đã phạm tội kiêu ngạo rồi. Nếu trung úy cảm thấy mình là người hoàn hảo, và tin rằng mình đạo đức hơn người khác, thì sự mãn nguyện làm lu mờ đi những thói hư tật xấu, đó là những yếu điểm mà trung úy không mắc phải.
    Jack cau mày:
    - Anh nói quá lời rồi!
    - Trung úy thấy chưa, anh đâu phải người kiêu căng!
    Jack nâng ly rượu lên:
    - Và còn thứ này? Tôi biết uống mà!
    - Trung úy có uống nhiều không?
    - Không. Tôi vẫn nguyện lòng phải né tránh rượu. Gặp những lúc phải nhậu nhẹt, tôi luôn cầu xin Thượng Đế giúp tôi đừng quá sa đà.
    - Rượu là cái xấu.
    - Tôi không đi nhà thờ.
    - Điều đó đâu liên quan gì đến đức độ. Điều thật sự quan trọng đó là cách cư xử của trung úy đối với những người xung quanh kìa. Chẳng hay trung úy có lấy cắp của ai bao giờ không?
    - Không.
    - Trung úy có lừa gạt ai trong kinh doanh?
    - Về chuyện làm ăn, tôi rất nghiêm túc và luôn tôn trọng chữ tín.
    - Là một sỹ quan cảnh sát, trung úy có nhận hối lộ không?
    - Không. Đã nhận hối lộ thì không thể nào trở thành một người cảnh sát tốt. Nhưng tôi luôn nghĩ tôi chỉ là một người bình thường như bao người khác, không quá tốt cũng không quá tệ.
    - Trung úy sẽ luôn nghĩ như vậy. Khiêm nhường là một trong những đức tính không thể thiếu của một Người Công Chính. Nhưng để đối phó với Lavelle, Chỉ cần trung úy là Người Công Chính là đủ rồi, anh không cần thắc mắc suy nghĩ nhiều đâu!
    - Nhưng Dâm dục là một tội xấu mà! - Jack thất vọng la lên.
    - Dâm dục là một tội lỗi khi nó là một sự ám ảnh, là ngoại tình hoặc là hiếp dâm. Sở dĩ nói ám ảnh tình dục là một tội lỗi vì nó vi phạm sự tiết chế. Trung úy có bị tình dục ám ảnh không?
    - Không ... nhưng tôi rất thích tình dục mà.
    - Nhưng có bị nó ám ảnh dẫn đến hành động bị chi phối không?
    - Vậy thì không.
    - Ngoại tình là một tội lỗi vì nó vi phạm sự giao ước giữa vợ và chồng. Nó là sự phản bội, một sự nhẫn tâm có chủ ý. Khi chưa góa vợ, có bao giờ trung úy ngoại tình hay không?
    - Không hề có chuyện đó. Tôi rất yêu Linda.
    - Trước khi kết hôn hoặc sau khi vợ mất, có khi nào trung úy qua lại với một người phụ nữ đã có chồng hay không?
    - Tuy tôi không phạm phải tội đó, nhưng tôi không xem mình là người có đức độ gì hết.
    - Như tôi đã nói với anh, để tìm thấy Lavelle và khống chế được y thì anh chỉ cần đích thật là Người Công Chính là được, anh không cần phải tin đâu.
    o O o
    Rebecca lắng tai nghe những tiếng động phát ra từ dưới gầm xe cùng với nỗi khiếp đảm càng lúc càng tăng. Giờ đây, có nhiều tiếng động khác vang lên từ bên dưới, không chỉ có những tiếng động quái lạ mà còn có cả những tiếng lách cách, tiếng rè rè, tiếng cào cấu. Những thứ tiếng đó tuy âm ỷ, nhưng rất đáng sợ.
    Rebecca nín thở, nghĩ rằng chẳng mấy chốc, chiếc xe sẽ tắt máy.
    Nhưng rồi những tiếng động đó lại ngưng hẳn. Không có gì khác ngoài tiếng gầm rú của gió lốc trong khi xe vẫn lao về phía trước. Tuy nhiên, lần này Rebecca không an tâm chút nào. Cô biết có điều gì đó không ổn và những tiếng động đó sẽ lại tiếp tục thôi.
    o O o
    Vẫn đang liên kết qua tâm linh với những con vật khát máu đã thoát ra từ cái hố đó, Lavelle động thình thịch hai chân vào tấm nệm và cào cấu trong bóng tối. Cả người y ướt đẫm mồ hôi, cả khăn trải giường cũng ướt sũng nhưng y không hề hay biết.
    Giờ phút quyết định đã rất kề cận rồi. Chỉ vài phút nữa thôi. Chỉ cần chờ đợi trong phút chốc là sự giết chóc sẽ tiến hành.
    o O o
    Đặt ly cognac xuống sau khi đã uống cạn, Jack nói:
    - Còn có vấn đề trong lời giải thích của anh đấy!
    - Vấn đề gì? - Carver hỏi.
    - Nếu vì tôi là Người Công Chính nên Lavelle không thể nào hại được tôi, vậy thì vì sao y có thể hại các con tôi? Chúng không hề hư hay phạm phải lỗi lầm gì.
    - Đối với những người ở cõi âm, trẻ con không phải là Người Công Chính, mà chỉ là những sinh vật ngây thơ vô tội. Chúng ta không sinh ra với đức độ sẵn có, đó là một hồng ân mà chúng ta nhận được sau bao nhiêu năm tuân thủ một cuộc sống có đức hạnh. Chúng ta chỉ có thể trở thành Người Công Chính khi biết lựa chọn một cách có ý thức cái thiện giữa muôn ngàn cái ác xuất phát từ những tình huống trong cuộc sống hằng ngày.
    - Tranh luận với anh thật đau đầu!
    - Thì đó là lĩnh vực của tôi mà! Tôi là một nhà thần học, chính vì vậy một số lập luận của tôi đã khiến trung úy khó hiểu.
    - Thế vì sao Rebecca, đồng nghiệp của tôi, lại bị cắn bởi một trong bọn chúng? Cô ấy cũng đâu phải người gian tham hay hư hỏng gì đâu?
    - Có nhiều cấp độ khác nhau trong sự tốt lành và trong sạch. Người ta có thể, về cơ bản, là người tốt nhưng không phải công chính. Tựa như trung úy là người công chính nhưng không phải là một vị thánh, chẳng hạn. Tuy tôi chỉ gặp cô ấy có một lần vào ngày hôm qua, nhưng theo tôi nhận định, Rebecca có vẻ cách biệt với con người; và như thế, trong một mức độ nào đó, cô ấy cũng xa cách với cuộc sống này. Các thần linh Rađa sẽ không giúp đỡ những ai né tránh những tình huống đòi hỏi họ phải lựa chọn giữa cái thiện và cái ác, cái thật và cái giả như vậy đâu. Chính những lựa chọn đó giúp cho ta đạt được hồng ân mà.
    Jack sưởi ấm tay trước lò sưởi. Nhưng rồi đột nhiên những ngọn lửa khiến anh liên tưởng đến những hốc mắt trống rỗng của loài vật kia. Anh quay đi và hỏi:
    - Thôi được rồi. Cứ cho tôi là người công chính gì đó đi. Vậy ... điều đó có giúp tôi tìm được Lavelle hay không?
    - Trước hết, chúng ta phải đọc một số kinh cầu. Rồi trung úy phải qua một nghi thức thanh tẩy. Chỉ sau khi thực hiện những điều đó, các thần linh Rađa mới dẫn dắt trung úy.
    Caver đứng dậy:
    - Trung úy không nên nóng vội. Chúng ta nên tiến hành một cách thận trọng thì tốt hơn.
    Chợt nghĩ đến Rebecca và hai đứa bé vẫn đang phải chạy trốn, Jack nói:
    - Thận trọng hay không thì nào có cần thiết gì bởi như anh nói đó, Lavelle đâu thể làm hại tôi đâu.
    - Tôi đồng ý là các thần linh đang bảo vệ trung úy trước những bùa phép và ma thuật cũng như trước những quyền năng xấu xa của bóng tối. Mọi tác hại của Lavelle về mặt đó đều không ảnh hưởng gì đến anh. Nhưng như vậy không có nghĩa là trung úy được an toàn trước những nguy hiểm từ cõi trần gian này. Nếu cảm thấy có nguy cơ bị bắt giữ vì tội giết người, Lavelle có thể dùng súng để hạ gục trung úy mà.
    o O o
    Khi xe đến Fifth Avenue, những tiếng động dưới gầm xe lại nổi lên, mãnh liệt hơn nữa. lần này, hai đứa bé đã thức giấc. Tiếng động không những xuất phát ở sàn xe phía dưới mà còn từ phía đầu xe, dưới nắp capô.
    Ngồi thẳng người lên, Penny hỏi:
    - Tiếng gì thế dì Rebecca?
    - Có lẽ máy xe bị trục trặc - Rebecca đáp, dù chiếc xe vẫn lăn bánh.
    Davey nói, giọng run run vì khiếp sợ và thất vọng:
    - Là bọn chúng đó!
    Rebecca nói:
    - Không có đâu! Từ khi rời khỏi bãi đậu xe, chúng ta đã chạy liên tục mà. Bọn chúng làm sao có thể bò được lên xe chứ?
    - Nếu vậy thì bọn chúng đã bò lên ngay từ đầu lúc xe còn trong bãi đậu rồi.
    - Thế vì sao bọn chúng không tấn công khi chúng ta đứng trong tầng hầm của bãi giữ xe chứ? - Davey hỏi.
    - Hay là bọn chúng sợ ba? - Penny nói.
    Davey góp ý:
    - Có lẽ chúng sợ bị ba tóm được như khi chúng ta vừa rời khỏi nhà dì Faye đó.
    - Và chúng đã bám vào xe để chờ dịp tấn công chúng ta khi không có ba ở bên cạnh.
    Rebecca biết hai đứa bé có lý, tuy nhiên, cô không muốn chấp nhận điều đó.
    Tiếng động, tiếng va chạm và sự chộn rộn dưới nắp capô xe càng lúc càng dồn dập và lớn dần.
    Penny nói:
    - Bọn chúng đang phá nát mọi thứ rồi kìa!
    - Bọn chúng sẽ làm hỏng động cơ xe mất! - Davey lo lắng.
    - Thôi đủ rồi! Các con đừng nói nữa. Bọn chúng sẽ không làm gì được chúng ta đâu!
    Đèn hiệu màu đỏ phía sau tay lái đột ngột sáng lên báo hiệu dầu máy xe đã cạn. Chiếc xe hơi giờ đây không còn là nơi trú ẩn mà đã trở thành một cái bẫy. Cơ may thoát khỏi cái chết bỗng chốc xem chừng vô vọng như đêm đông bên ngoài.
    Sau tấm màn tuyết, khoảng vài thước trước mặt họ là thánh đường St Patrick, sừng sững trong cơn bão như con tàu lớn trên đại dương âm u và lạnh lẽo.
    Rebecca thầm nghĩ, liệu loài âm binh Vaudou có dám xâm nhập vào thánh đường không nhỉ?
    Lại một đèn hiệu nữa sáng lên sau vô-lăng: máy xe đang nóng lên.
    Mặc cho hai ánh đèn hiệu màu đỏ đang lóe sáng, Rebecca vẫn nhấn mạnh ga. Chiếc xe lao vào thánh đường St Patrick. Máy xe kêu lên ọc ọc.

  11. #20
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết




    Chương 20
    Để thực hiện nghi thức thanh tẩy, Jack cần phải ngâm mình trong thứ nước đã được Carver chuẩn bị.
    Trong phòng tắm của Carver, Jack cởi bỏ hết quần áo, anh không mấy ngạc nhiên với niềm tin mới mẻ của mình đối với những nghi thức lạ lùng của đạo Vaudou bởi anh đã tận mắt nhìn thấy loài âm binh.
    Bồn tắm khá lớn và sâu, choáng hết một nửa căn phòng và, theo như lời Carver giải thích thì nó chủ yếu được giành cho nghi thức thanh tẩy.
    Cầm trên tay cục xà bông màu lục, Carver ngân nga những lời cầu kinh bằng tiếng nước ngoài và vẽ lên đầy bồn tắm những hình VéVé. Rồi Carver đổ vào bồn tắm đủ loại vật liệu mang từ cửa tiệm lên: những hoa hồng khô, ba bó mùi tây, bảy lá nho, những cành phong lan đã nghiền nát, bảy giọt nước hoa, ba đồng tiền, bảy viên đá cuội với bảy màu khác nhau đã được nhặt từ những dòng sông ở Châu Phi, một thìa muối, dầu chanh v.v...
    Khi Carver cho biết đã chuẩn bị xong, Jack bước vào bồn tắm thơm mùi dễ chịu. Tuy nước khá nóng nhưng Jack không chùn bước. Trong làn nước bốc hơi, anh ngồi xuống, đẩy những hòn đá và những đồng tiền sang một bên.
    Carver tiếp tục cầu kinh thêm một lúc nữa rồi nói với Jack:
    - Trung úy hãy cúi đầu xuống, để đầu chìm hẳn trong nước rồi đếm đến ba mươi.
    Nhắm mắt lại, Jack hít một hơi sâu rồi chìm hẳn người xuống. Chỉ đếm đến mười là Jack đã có cảm giác đích thật là anh đang được tẩy rửa ... không những thân xác mà còn cả tinh thần nữa. Những tư tưởng hắc ám, lo âu, sợ hãi, tuyệt vọng như đang bị một dòng nước phép loại bỏ đi hết.
    Anh đã sẵn sàng để đương đầu với Lavelle.
    o O o
    Xe tắt máy. Phía trước xe là một đống tuyết. Rebecca đạp mạnh thắng nhưng xem chừng không mấy kết quả. Chiếc xe vẫn lướt đến, húc mạnh vào đống tuyết. Cú va chạm gây ra một tiếng vụn vỡ đáng sợ, làm những người trong xe bị lắc mạnh, nhưng may thay không có ai bị thương cả.
    Tất cả đều lặng im.
    Trước mặt họ là cửa chính của thánh đường St. Patrick. Davey nói:
    - Có một cái gì đó ở trong băng ghế và hình như nó đang cố xuyên thủng ghế để ra ngoài kìa.
    - Cái gì? - Rebecca sửng sốt quay đầu hỏi.
    Rồi nhìn xuống băng ghế, cô nhìn thấy có sự chuyển động dưới nệm ghế cùng lúc với tiếng gầm gừ nho nhỏ.
    Cô thầm nghĩ: hẳn một con thú quỷ quái đã chui vào thùng xe. Nó đang gặm nhấm và cào cấu băng ghế.
    Rebecca nói:
    - Hai con hãy rời khỏi xe ngay lập tức và chạy nhanh vào nhà thờ mau!
    Vừa dứt lời, Rebecca cảm thấy sàn xe cộm phồng lên dưới chân mình. Cô vội vã ra hiệu cho hai đứa bé rời khỏi xe.
    Vượt qua đống tuyết, Penny và Davey cố chạy thật nhanh về phía nhà thờ, không dám ngoái cổ nhìn lại, sợ phải nhìn thấy bầy thú quỷ quái kia đang đuổi theo mình. Vì các bậc thang của thánh đường đã phủ đầy tuyết nên Penny phải bám tay vào lan can bằng đồng để khỏi trượt ngã. Bé cố lao lên thật nhanh, thầm nghĩ không biết cửa nhà thờ có luôn để mở hay không. Đến bên cửa, bé cầm lấy quả đấm, kéo ra. Trong thoáng chốc, bé tưởng cửa bị khóa, nhưng mà không, có điều cánh cửa quá nặng. Bé dùng cả hai tay để kéo nó ra rồi giữ yên nó.
    Davey đang leo lên những bậc thang, bóng dáng thằng bé trông thật nhỏ nhoi và mong manh. Xa hơn, ở phía dưới, Rebecca đang nhảy qua đống tuyết và bị vấp ngã.
    Phía sau Rebecca, hai con yêu tinh đã bò lên đống tuyết. Penny gào lên:
    - Nhanh lên dì Rebecca! Bọn chúng đến rồi kìa!
    Khi vấp ngã, Rebecca nghe thấy tiếng kêu của Penny. Cô gượng đứng dậy, nhưng chưa kịp bỏ chạy thì hai con yêu tinh đã vượt qua cô, nhanh như chớp, một con hình mèo, một con hình thằn lằn. Chúng kêu khèn khẹt. Bọn chúng không tấn công cô mà cũng không ngừng lại. Chúng chỉ muốn đuổi theo hai đứa trẻ mà thôi.
    Bây giờ, Davey đã đứng cạnh Penny, chúng gào lên, gọi Rebecca.
    Loài thú quỷ quái kia lao thật nhanh lên các bậc thang và rồi bỗng nhiên bị chậm lại, như thể chúng biết đang đến gần một nơi linh thiêng vậy.
    Rebecca hét lớn:
    - Đừng đợi dì, hãy chạy vào nhà thờ và đóng cửa lại nhanh lên!
    Cuối cùng, Penny đành đóng cửa lại khi loài yêu tinh đã đến gần.
    Con yêu tinh thằn lằn phóng về cánh cửa, rồi bật ngược ra và rơi xuống trong khi con yêu tinh mèo gừ lên giận dữ. Sau đó, chúng cào cấu cánh cửa, nhưng không mấy hung hãn, cứ như chúng biết đây là một việc vượt ngoài khả năng của chúng.
    Thất vọng, chúng quay đầu và chăm chú nhìn Rebecca bằng ánh mắt bốc lửa.
    Rebecca lùi lại một bậc thang rồi chạy ào xuống. loài yêu quái kia liền tiến nhanh về phía cô.
    o O o
    Nghi thức tắm thanh tẩy chỉ kéo dài trong có hai phút. Jack lau mình bằng ba cái khăn nhỏ có thêu những hình vẽ lạ lùng. Rồi anh mặc quần áo, theo Carver ra phòng khách và đứng ở giữa phòng, theo như lời dặn của Carver.
    Cầm trong tay cái lục lạc, Carver ngâm nga đọc kinh. Gã đưa nó lên đầu Jack rồi từ từ đưa nó xuống dọc theo người anh, trước và sau. Carver giải thích rằng cái lục lạc đó làm bằng trái đinh bầu và là biểu tượng cho những chức năng của một Hougan.
    Carver khua cái lục lạc trên đầu Jack, rồi đến trước mặt anh. Tiếp đó, gã giành cả một phút để khua cái lục lạc trước trái tim của Jack trong khi miệng không ngớt cầu kinh bằng một thứ cổ ngữ Phi Châu. Rồi Carver vẽ những hình trong khoảng không, trên hai tay và hai chân Jack.
    Dần dần, Jack ngửi thấy những mùi hương dễ chịu. Trước tiên, anh ngửi thấy mùi chanh. Sau đó là mùi hoa cúc. Rồi mùi hương mộc lan. Mùi cam. Mùi hoa hồng. Mùi quế. Những hương thơm càng lúc càng lan tỏa, quyện lẫn vào nhau thật hài hòa. Jack biết Carver không hề đốt nhang trầm hay sử dụng nước hoa gì cả. Sự tỏa hương đó tự nó xuất hiện. Rồi mùi hạnh nhân. Mùi tử đinh hương.
    Ngưng cầu kinh, Carver đặt cái lục lạc xuống. Jack thắc mắc:
    - Những hương thơm kỳ diệu đó ... là từ đâu bay đến?
    - Chúng tương ứng với những sự hiện diện.
    - Sự hiện diện? Anh muốn nói ... các hồn ma?
    - Đúng vậy. Những linh hồn tốt lành.
    - Nhưng sao tôi không thể nhìn thấy họ?
    - Trung úy không thể nhìn thấy vì những linh hồn đó chỉ hiện diện qua các mùi hương.
    Rồi mỉm cười, Carver nói tiếp:
    - Đó là những linh hồn hiền lành, nhân ái. Họ đang hiện diện rất đông ở nơi đây và đó là dấu hiệu đáng khích lệ. Họ là những sứ giả của các vị thần Rađa. Sự hiện diện của họ chứng tỏ những vị Thiện Thần sẽ trợ giúp anh trong cuộc chiến chống lại Lavelle.
    - Vậy thì tôi sẽ tìm thấy hắn ta có phải không? - Jack hỏi. Và tôi sẽ chiến thắng hắn? Mọi việc đã được an bài từ trước phải không?
    Carver lắc đầu:
    - Không phải vậy đâu. Điều đó chỉ có nghĩa trung úy đã được các vị thần Rađa giúp sức. Nhưng về phần Lavelle, y cũng được các ủng hộ bởi các Ác Thần. Nói chung, cả trung úy và hắn đều là công cụ của những sức mạnh vượt ngoài tầm hiểu biết của nhân loại. Một trong hai người sẽ chiến thắng, nhưng điều đó không thể nào định trước được đâu.
    Nơi các góc phòng, những ngọn nến đang tàn lụi dần. Những cái bóng sống động nhảy múa, vặn vẹo. Những cánh cửa sổ rung lên theo từng cơn gió thổi. Các cuốn sách rơi xuống từ trên kệ.
    Carver nói:
    - Ngoài những linh hồn nhân ái còn có cả những linh hồn hung ác nữa.
    Giờ đây, xen lẫn với hương thơm dễ chịu là một thứ mùi khác. Đó là thứ mùi của sự thối rữa, hư nát của cái chết.
    o O o
    Lúc này, loài âm binh chỉ cách Rebecca khoảng bốn thước, phát ra những tiếng kêu the thé, rùng rợn. Cô bỏ chạy dọc theo lề đường về phía khu phố kề cận, bỏ lại giáo đường St Patrick ở phía tay phải để dẫn dụ loài âm binh đuổi theo.
    Sau khi chạy được khoảng chục thước, Rebecca đột ngột chạy ngược trở lại, về phía giáo đường và leo vội vàng lên các bậc thang.
    Một lần nữa, cô nghe thấy tiếng loài âm binh eo éo phía sau và, khi đã vượt được nửa đoạn đường để đi đến giáo đường thì cô bỗng cảm thấy đau buốt ở bắp chân. Những móng vuốt của con âm binh thằm lằn đã xuyên thủng quần Jeans của cô. Quá đau đớn, Rebecca gào lên, lảo đảo rồi ngã xuống. Tuy nhiên, cô vẫn cố bò lên với con thằn lằn lủng lẳng ở chân.
    Ngay lúc đó, con âm binh mèo nhảy bổ lên lưng cô, toan cắn vào cổ họng nhưng nó chỉ có thể xé rách cổ áo và khăn quàng của cô.
    Rên lên nho nhỏ, Rebecca đã lên đến bậc thang sau cùng và tóm lấy con âm binh mèo đang bấu vào tay cô. Cô vứt nó ra xa. Rồi tóm lấy con thằn lằn đang bám vào đùi, cô vứt nó xuống các bậc thang.
    Trong thoáng chốc, con âm binh mèo đã quay trở lại tấn công, nhe nanh giương móng.
    Trong côn tuyệt vọng, Rebecca bám lấy cái lan can bằng đồng và tung một cú đá vào con âm binh mèo.
    Đến lượt con thằn lằn nhảy bổ đến.
    Chạm được vào cửa giáo đường, Rebecca cảm thấy kiệt sức vì những vết thương đau đớn. Con âm binh thằn lằn đang bấu vào áo khoác của cô và lần này, nó muốn cấu nát mặt cô trong khi con âm binh mèo đang bám riết chân Rebecca.
    Tựa lưng vào cửa giáo đường, cô không còn có thể thở nổi.
    Trước cửa giáo đường, loài âm binh bớt hung hăng hẳn. Bấu vào phía trước áo khoác của Rebecca, con âm binh thằn lằn quơ bàn tay dị dạng của nó vào mặt cô. Rebecca hất đầu ra sau để né tránh và móng vuốt của nó sượt qua cằm cô. Cô nhanh tay túm lấy nó, vứt ra thật xa. Rồi đến con âm binh mèo.
    Cuối cùng, cô kéo cửa, lẻn nhanh vào và đóng cửa lại.
    Có tiếng va chạm của loài âm binh vào cửa rồi im bặt.
    Trong giáo đường, Penny và Davey đang nói chuyện với một linh mục trẻ, có vẻ sửng sốt. Khi nhìn thấy Rebecca, chúng mừng rỡ reo lên và chạy đến, theo sau là vị linh mục.
    o O o
    Bước vào xe, Jack nổ máy và nhấn ga một hồi để sưởi ấm động cơ. Anh nói với Carver:
    - Anh thật sự là muốn đi theo tôi sao?
    - Tuy tôi không được miễn nhiễm trước những ma thuật của Lavelle như trung úy và ở trong nhà với đèn đuốc thắp sáng, nhưng điều sau cùng mà tôi muốn thực hiện là đi theo anh.
    - Sao anh không ở trong nhà nhỉ? Tôi nghĩ anh đã làm tất cả những gì có thể để giúp đỡ tôi rồi. Anh không còn một bổn phận nào nữa đâu!
    - Đó chính là bổn phận mà tôi đặt ra cho chính mình. Tôi phải đi theo và giúp đỡ trung úy... Tôi không muốn lẩn tránh theo con đường xấu nữa.
    Jack gật đầu:
    - Được, vậy thì anh hãy lên xe đi. Tôi cũng không biết làm cách nào để tìm ra Lavelle nữa.
    - Rồi trung úy sẽ biết thôi. Sau khi đã trải qua những nghi thức thanh tẩy, trung úy đã được bề trên dẫn dắt. Nhưng trước hết chúng ta nên ghé lại một giáo đường cách đây vài trăm thước để lấy nước thánh đã. ( Carver đưa hai cái lọ thủy tinh đang cầm trong tay lên.)
    Jack lái xe đi.
    Cả hai bước vào nhà thờ. Trong cảnh tranh tối tranh sáng của những ngọn nến và vài bóng đèn vàng vọt, Carver quỳ xuống, làm dấu thánh. Jack bắt chước theo, lòng thôi thúc bởi sự cần thiết phải tôn kính những vị thần của nhân ái và ánh sáng, Thượng Đế trong Cựu Ước cũng như Đấng Kito và Đức Phật. Anh thầm nghĩ, đây có thể là sự chỉ dẫn đầu tiên của sự “dẫn dắt” mà Carver đã nói.
    Rồi Carver đến bên âu nước thánh bằng đá cẩm thạch, mở nút lọ thủy tinh, múc đầy hai bình và nhét vào túi. Sau đó, Carver trao nó cho Jack.
    o O o
    Đứng bên cửa sổ, Lavelle nhìn cơn bão tuyết. Mối liên hệ tâm linh giữa y với bầy thú khát máu đã bị cắt đứt. Y thầm nghĩ, nếu gia hạn cho bầy thú thêm một chút thời gian nữa, đủ để chúng tập trung sức mạnh, thì chúng có thể giết chết hai đứa bé rồi. Và Lavelle hối tiếc đã không làm điều đó. Nhưng thời gian quá cấp bách. Jack Dawson sẽ đến và không một ma thuật nào, đầy quyền phép đến đâu, có thể ngăn chặn gã được.
    Lavelle không hiểu được vì sao các sự việc lại biến động theo chiều hướng xấu và nhanh đến như vậy. Phải chăng y đã quá nóng vội và mắc sai lầm khi toan tính giết chết hai đứa trẻ? Các thần linh Rađa luôn giáng những đòn giận dữ lên những Boko sử dụng quyền năng để làm hại trẻ con và đương nhiên, chúng đều mang tính chất hủy diệt. Lavelle không hiểu do đâu, tuy đã rất thận trọng áp dụng những phương pháp đề phòng, được sự bảo hộ của các Ác Thần, vậy mà ... Mẹ kiếp! Y luôn thận trọng và luôn chuẩn bị chu đáo mà?
    Vậy mà Jack Dawson lại đang trên đường đến tìm y.
    Rời khỏi cửa sổ, Lavelle ngang qua căn phòng tối om để đến bên cái bàn. Y mở ngăn kéo và lấy ra khẩu 32.
    Y thầm nhủ, Jack Dawson sắp đến rồi. Tốt thôi! Hắn cứ đến đi!
    o O o
    Rebecca ngồi xuống và kéo ống quần Jeans lên. Máu ra nhiều ở các vết thương, nhưng may thay không một động mạch hay tĩnh mạch chủ yếu nào bị xâm phạm. Các vết thương tuy sâu nhưng không trầm trọng lắm.
    Ngồi xổm xuống cạnh Rebecca, vị linh mục trẻ tên Walotsky lo lắng hỏi:
    - Chuyện gì đã xảy ra thế này? Ai đã gây thương tích cho con vậy?
    - Thưa cha, đó là loài yêu tinh - Penny và Davey đồng thanh trả lời nhưng không hề giải thích thêm điều gì.
    Rebecca cởi găng tay. Ở tay phải của cô có một vết thương đẫm máu, nhưng thịt không bị xé nát mà chỉ có bốn lỗ thủng nhỏ. Ở tay trái của cô cũng có hai vết thương đẫm máu. Cô cảm thấy đau đớn nhưng không nguy đến tính mạng.
    Cha Walotsky hỏi:
    - Cổ con cũng có máu nữa kìa. Con không sao chứ?
    - Dạ không sao! Tuy rất đau nhưng không nghiêm trọng.
    - Cha thấy con cần phải được chăm sóc. Nào, hãy theo cha.
    Rebecca kéo ống quần Jeans xuống. Vị linh mục trẻ đỡ cô đứng dậy:
    - Cha nghĩ con nên vào nhà của cha xứ thì hơn, ở đó có thuốc.
    Rebecca lắc đầu:
    - Thưa cha, không được đâu!
    - Nhà cha xứ không xa đây lắm đâu con.
    - Thưa cha, con nên ở đây thì hơn.
    - Nếu ta không đoán sai thì đó là những vết thương do súc vật cắn. Con không nên xem thường chúng. Lỡ đâu bị nhiễm trùng, hay bệnh dại ... Con nên đến nhà cha xứ đi. Không xa lắm đâu mà. Chúng ta không cần ra khỏi nhà thờ mới đến được đó, có đường hầm nối liền nhà thờ với ...
    Rebecca dứt khoát:
    - Con không đi đâu hết. Chỉ có ở đây mới được an toàn.
    Rebecca ra hiệu cho hai đứa bé đứng sát bên cô. Vị linh mục trẻ nhìn họ, mặt sa sầm:
    - Điều gì làm các con sợ?
    Rebecca hỏi:
    - Hai bé không kể cha nghe sao?
    - Có. Chúng có kể những chuyện về loài yêu tinh, nhưng ...
    - Đó không chỉ là những câu chuyện đâu cha à - Rebecca nói.
    Cô tần ngần một lúc rồi ngắn gọn kể cho vị linh mục về vụ án Carramazza, về Lavelle, về loài âm binh Vaudou bám riết theo hai đứa con của Jack Dawson. Khi Rebecca kể xong, linh mục Walotsky lặng im, mắt hướng xuống, nhìn nền nhà.
    Thấy ông không nói năng gì, Rebecca hỏi:
    - Cha không tin con sao?
    Vị linh mục ngước mắt, vẻ bối rối:
    - Ta không cho rằng con nói dối ... hoàn toàn. Ta biết con tin vào những gì con đã nói. Nhưng với ta, đạo Vaudou chỉ là sự gian trá, những mê tín từ nguyên thủy. Ta là linh mục của Giáo Hội Công Giáo La Mã và chỉ tin vào Chân Lý Duy Nhất, vào Đấng Cứu Chuộc.
    - Vậy cha tin có Thiên Đàng, có Địa Ngục hay không?
    - Đúng. Điều đó thuộc niềm tin Kito Giáo.
    - Thưa cha, những con vật đó đến từ địa ngục.
    - Ta nghĩ con nên ...
    Có tiếng hét của Davey:
    Và Penny nói lớn:
    - Chúng kìa!
    Rebecca quay phắt lại. Tim cô như ngừng đập.
    Trong bóng tối lấp lánh những ánh mắt trắng bạc. Những ánh mắt bốc lửa. Vô số.
    o O o
    Jack lao xe trong cơn bão tuyết và ở mỗi ngã tư đường, tuy không thể giải thích vì sao, nhưng anh luôn biết mình phải đi đâu, nên rẽ trái, phải hay đi thẳng.
    Ba mươi lăm phút sau khi đã lấy đầy hai lọ nước thánh, Jack rẽ trái để vào một con đường có những ngôi nhà kiến trúc cổ. Anh ngừng xe trước ngôi nhà số năm, một ngôi nhà ba tầng cũ kỹ. Toàn bộ ngôi nhà chìm trong bóng tối.
    o O o
    Theo lối đi chính của giáo đường, bốn con yêu tinh đang bò đến. Tuy ánh sáng nơi đây yếu ớt nhưng cũng đủ để nhìn thấy hình dáng thô kệch và đáng tởm của chúng.
    Dẫn đầu là một đám âm binh có hình dạng gần giống người, cao khoảng bao mươi centimét, có bốn mắt đỏ rực. Cái đầu dị dạng của nó to bằng trái táo với cái miệng tua tủa răng. Nó có bốn cánh tay trong đó có một tay với những ngón nhọn như đinh, đang cầm một ngọn giáo giơ cao trên đầu với vẻ gây hấn, thách thức.
    Âm binh đó làm cho Rebecca nghĩ trước kia, vào thời Cổ Đại, có lẽ nó từng là một chiến binh Phi Châu, kiêu hãnh và khát máu, đã bị đọa đày vì những tội ác mà nó đã phạm phải. Và giờ đây linh hồn nó phải khốn khổ và tủi nhục trong cái xác bé tí, dị hình.
    Rồi loài yêu tinh đang nhung nhúc trong bóng tối bắt đầu từ từ tiến ra, chậm chạp, như thể không khí của nơi linh thiêng này nặng trĩu đến nỗi bước đi của chúng trở nên đau đớn và khó khăn. Không gào rít, không gầm gừ, chúng tiến lên trong im lặng nhưng cần cù và dứt khoát.
    Phía sau đám yêu tinh, cửa giáo đường vẫn đóng. Có lẽ chúng xâm nhập vào đây bằng một đường khác, qua một ống thông hơi hay một đường ống nào đó.
    Sau một lúc sững sờ, cha Walotsky là người trước tiên phá vỡ sự im lặng. Thọc tay vào túi áo dòng, cha lấy ra xâu tràng hạt và lớn tiếng đọc kinh.
    Loài yêu tinh đang di chuyển quá chậm nên không thể là mối đe dọa nguy hiểm. Rebecca thầm nghĩ, nhưng liệu sẽ kéo dài bao lâu? Có lẽ chúng sẽ dần dần thích nghi với nơi này thôi. Khi đó chúng sẽ bạo dạn hơn, và ...
    Kéo hai bé lại gần, Rebecca luì dần về phía bàn thờ, theo sau là cha Walotsky.
    o O o
    Vượt qua lối đi ngập tuyết, họ đến trước hiên nhà. Lăm lăm khẩu súng trên tay, Jack nói:
    - Theo tôi nghĩ, anh nên ngồi lại trong xe.
    - Không.
    - Đây là chuyện của cảnh sát.
    - Còn hơn vậy ấy chứ! Anh hẳn phải biết mà.
    Jack thở dài, gật đầu. Họ leo lên những bậc thang. Jack thầm nghĩ, mang theo lệnh bắt giữ khẩn cấp, dộng cửa và lớn tiếng, “Cảnh sát đây!” - những điều đó hình như khá khôi hài trong tình huống lạ lùng này nhỉ.
    Carver xoay đấm cửa nhiều lần rồi nói:
    - Khóa mất rồi.
    Jack đã thấy điều đó nhưng trong lòng bị thôi thúc phải đưa tay thử xem. Nắm đấm cửa nhẹ nhàng xoay chuyển trong tay anh và cửa mở ra.
    Carver nói:
    - Với tôi thì cửa khóa, nhưng lại mở với anh.
    Họ bước vào và nép sang một bên, để phòng bị nhả đạn. Jack đưa tay mở rộng cửa rồi tiến vào trong tư thế bò, súng hướng về phía trước. Trong nhà tối đen như mực. Sau một lúc mò mẫm, cuối cùng Jack đã tìm thấy công tắc điện.
    Đèn bật lên chiếu sáng một gian sảnh rộng với phía bên trái là cầu thang gỗ có lan can chạm trổ. Bên kia cầu thang, sảnh hẹp dần, dẫn ra nhà sau. Phía tay phải, cách Jack gần một thước, có một cửa vòm dẫn vào một không gian tối om.
    Jack thận trọng tiến về phía đó và bật công tắc. Ngọn đèn trần thắp sáng căn phòng trống trơn, không có bàn ghế, không màn cửa, chỉ có lớp bụi xám xịt và bốn bức tường trần trụi.
    Đến bên Jack, Carver hỏi nhỏ:
    - Có đúng nhà này không?
    Jack chưa kịp trả lời thì một viên đạn đã xé gió sát đầu anh và liền sau đó là hai tiếng nổ. Áp sát sàn nhà, Jack lao mình ra giữa phòng, theo sau là Carver. Nhưng gã ta đã bị trúng đạn. Nhăn nhúm vì đau, gã ôm lấy đùi trái, nơi vết máu đang lan rộng dần.
    Carver hổn hển thở:
    - Y đang ở chỗ cầu thang! Tôi vừa thoáng nhìn thấy y.
    - Y hẳn ở trên đó.
    Jack tiến nhanh về phía bức tường nơi có cái cửa vòm. Anh ngồi xổm lên và hỏi:
    - Anh bị thương có nặng lắm không?
    - Không nặng lắm đâu. Y không hạ được tôi. Đừng lo lắng, hãy đuổi theo y ngay đi.
    Jack cúi người và nhả súng bừa về phía cầu thang.
    Lavelle đang ở đó, núp sau lan can lưng chừng cầu thang. Phát đạn của Jack làm tung tóe những mảnh cột lan can, cách đầu Lavelle chỉ vài centimét.
    Lavelle bắn trả, Jack ngã người ra sau. Viên đạn làm vỡ mảng thạch cao gần cửa.
    Một phát nữa. Rồi im lặng.
    Jack khom người và bắn liền ba phát nhưng Lavelle đã lên phía trên, ngoài tầm bắn.
    Jack nạp đạn, liếc nhìn Carver nói:
    - Anh có thể đi ra xe không?
    - Không. Tôi bị bắn vào chân, không thể di chuyển được. Nhưng không sao đâu. Anh đừng để hắn thoát.
    - Phải gọi xe cấp cứu thôi.
    - Coi nào, hãy đuổi theo hắn ngay đi. Đừng để hắn thoát.
    Jack gật đầu, bước ra khỏi cửa và thận trọng tiến về cầu thang.
    o O o
    Penny, Davey, Rebecca và cha Walotsky lùi nhanh về phía điện thờ, sau lan can. Rồi họ leo lên bàn thờ và đứng dưới thánh giá.
    Phía bên kia lan can, đám âm binh dừng lại. Một số xuất hiện trên những trụ chạm trổ, một số khác leo lên kệ ban Thánh Thể, thè ra những cái lưỡi đen ngòm giữa những hàm răng nhọn hoắc. Lúc này có ít nữa là năm chục con âm binh đang đứng đó và chúng đang kéo đến đông hơn, dọc theo lối đi chính.
    Penny hỏi Rebecca:
    - Dì ơi, liệu chúng có leo được lên đây hay không? Liệu chúng có dám đến gần Thánh Giá không dì?
    Ôm chặt hai bé, Rebecca nói:
    - Thì chúng đã ngừng lại rồi, như con thấy đó. Chúng không dám đến gần bàn thờ đâu. Bây giờ ổn rồi con à.
    Nhưng cô nghĩ thầm, liệu sẽ được bao lâu đây hả trời?
    o O o
    Áp sát lưng vào tường, Jack nhẹ nhàng leo lên cầu thang, anh lại tiếp tục tiến lên và khom người. Chính ngay lúc đó, cả hai đều nổ súng. Lavelle hai phát, Jack một.
    Vì nổ súng quá vội, Lavelle hụt mất mục tiêu.
    Jack thì ngược lại, anh đã bắn trúng Lavelle, xuyên thủng cánh tay hắn ngay sau khi y nổ súng. Hét lên đau đớn, y buông súng và lảo đảo.
    Jack lao nhanh lên về phía trên nhưng khi đến nơi thì Lavelle đã chui vào một căn phòng và đóng mạnh cửa.
    Ở dưới nhà, Carver nằm sóng xoài trên sàn nhà bụi bẩn, hai mắt nhắm nghiền. Gã cảm thấy yếu dần đi và cảm giác như đang trôi bồng bềnh trên một bể bơi với làn nước ấm ở một nơi nào đó của vùng nhiệt đới. Carver mơ hồ nhớ rằng mình đã bị trúng đạn, và đã ngã xuống. Gã biết mình đang mất máu dần. Nhưng dù sao, gã cũng đang trôi bềnh bồng với cơn đau đã nguôi ngoai. Gã đang nhảy múa trên nước, mặc cho dòng hải lưu xa xăm cuốn đi, dưới bầu trời nhiệt đới... Rồi gã sực tỉnh và mở mắt khi nghe tiếng súng và tiếng hét đau đớn. Carver chớp chớp mắt, nhìn quanh. Rồi gã thấy hối tiếc vì điều đó.
    Ở đây không chỉ có mình gã.
    Một con âm binh đang đứng đó, chăm chú nhìn gã.
    Cố mở cánh cửa, Jack hét lớn:
    - Lavelle!
    Không có tiếng trả lời.
    - Mau mở cửa! Trốn tránh cuãng chỉ vô ích thôi!
    Có tiếng kính vỡ vang ra từ căn phòng.
    - Mẹ kiếp! - Jack thốt lên.
    Anh lấy đà, đạp mạnh cửa cho đến khi ổ khóa bung ra. Rồi anh bật đèn lên. Không hề thấy dấu vết gì của Lavelle.
    Cửa sổ bằng kính của bức tường đối diện đã bị đập vỡ. Gió làm căng phồng màn cửa. Jack vội vã kiểm tra tủ hốc tường, đề phòng Lavelle trốn ở đó. Rồi bước đến bên cửa sổ, anh nhìn ra phía ngoài và thấy những dấu chân trên tuyết, phía trên mái của cổng vòm. Như vậy là Lavelle đã nhảy xuống sân rồi.
    Jack bám theo.
    Cảm giác bồng bềnh mất hẳn khi Carver nhìn thấy con âm binh. Tim đập thình thịch, Carver thấy hiện thực đã xua đi cái áo ảnh về vùng nhiệt đới. Từ trong sảnh, con âm binh bò về phía cửa. Nó có cái đầu bằng nắm tay và thân nó dài như cánh tay, nhìn giống con sâu. Những cái chân của nó gây ra những tiếng tóc tóc trên sàn nhà. Từ cái miệng giác mút đó phát ra điệu ngân nga tang tóc.
    Con âm binh vượt qua ngưỡing cửa và lao đến Carver.
    Nhảy xuống từ mái vòm, Lavelle trượt chân và ngã người trên cánh tay bị thương. Y suýt ngất đi vì đau đớn.
    Y lết một đoạn trên tuyết cho đến khi đủ sức gượng dậy, lòng sững sờ không hiểu vì sao mọi chuyện có thể chuyển biến tệ hại đến thế. Lần đầu tiên trong đời, y cảm thấy trần trụi và bất lực.
    Nghe có tiếng Jack Dawson đang gọi từ mái vòm, Lavelle vội vã tiến về phía nhà kho để tìm đến cái hố, nơi xuất phát mọi nguồn sức mạnh của y.
    Có tiếng súng của Jack, hẳn là một phát cảnh cáo.
    Suy yếu vì mất nhiều máu, mù quáng vì cơn bão hất tuyết vào mặt, Lavelle lảo đảo đến trước nhà kho, mở cửa và hét lên kinh ngạc khi thấy cái hố đã rộng hẳn ra. Bây giờ miệng hố đã lan đến các bức tường nhà kho và ánh sáng hắt ra không còn màu cam nữa mà là màu đỏ máu, chói chang đến độ làm y cảm thấy nhức mắt.
    Lavelle chợt hiểu ra vì sao các thần linh đã để mặc y thua cuộc. Họ đã để mặc y sai khiến bao lâu y cần đến họ. Đối với họ, y chỉ là mối dây giúp họ xâm nhập thế giới này. Nhưng bây giờ họ không cần đến y nữa, họ đã có được một cánh cửa thật sự để rời khỏi âm ti. Được vậy là nhờ Lavelle. Thoạt đầu, y chỉ hé cửa, y cho rằng mình có thể làm chủ được họ, và rồi y đã mất quyền kiểm soát. Chẳng mấy chốc, những Cổ Nhân sẽ xuất hiện và khi họ đến, thì cả thế giới này sẽ biến thành địa ngục.
    Dưới chân Lavelle, miệng hố liên tục vỡ ra, càng lúc càng nhanh. Y nhìn chằm chằm, khiếp đảm.
    Nhảy từ cổng vòm xuống, Jack vội vã lần theo dấu Lavelle. Anh nhìn thấy y mở cửa nhà kho và khựng lại vì thứ ánh sáng màu tím đỏ chói chang lạ thường.
    Đúng là cái hố như Carver đã mô tả rồi, nhưng sao nó quá rộng và không phát ra thứ ánh sáng da cam dịu dàng như gã đã nói nhỉ. Jack hiểu ra những lo sợ của Carver đã thành sự thật: cửa địa ngục đã được mở!
    Khi cái suy nghĩ điên rồ đó xuất hiện trong đầu Jack thì cũng là lúc miệng hố rộng ra hơn nữa và nuốt chửng những bức tường của nhà kho. Giờ đây, không còn gì khác ngoài cái hố, trông giống như ngọn đèn rọi với những tia sáng đỏ xuyên thủng bóng đêm và bầu trời giông bão.
    Lavelle lảo đảo lùi lại, quá khiếp đảm để có thể quay lưng chạy trốn.
    Mặt đất bắt đầu chuyển động. Có tiếng gầm gừ phát ra từ cái hố, làm rung chuyển đêm đen.
    Không khí sặc mùi lưu huỳnh. Một vật gì đó đang bò lên từ vực thắm, nhìn giống như cái vòi bạch tuộc với những gai nhọn, nhưng mềm mại và uốn lượn như con rắn. Nó vươn cao khoảng bốn thước với những phần phụ lê thê, uốn éo quanh cái mồm không răng há rộng, sùi bọt, một cái mồm đủ lớn để nuốt chửng cả một người. Và đó chỉ là một phần nhỏ của con vật đang còn ở dưới hố, giống như ngón tay so với toàn bộ cơ thể vậy.
    Cái vòi khổng lồ với những gai nhọn đó hạ xuống trên Lavelle. Những phần phụ trông như những ngọn roi đó xé gió, túm lấy Lavelle, nhấc bổng y lên, trên thứ ánh sáng đỏ máu. Lavelle gào lên, vùng vẫy, nhưng chẳng mấy chốc đã mất hút trong cái mốm nham nhở.
    o O o
    Bên trong thánh đường St Patrick, hàng trăm con yêu tinh đang nhìn chăm chăm Rebecca, Penny, Davey và cha Walotsky bằng ánh mắt bốc lửa.
    Lúc này, chúng bắt đầu rít lên và tiếng rít của chúng càng lúc càng lớn dần.
    Rồi đột nhiên con yêu tinh hình người với bốn cánh tay và bốn con mắt, nhảy vào điện thờ. Nó ngần ngại, lùi lại, nhìn quanh. Trông nó có vẻ e dè. Giơ cao ngọn giáo bé tí, nó thốt lên một tiếng đinh tai. Toàn bộ âm binh bắt chước hét theo.
    Một con yêu tinh liều lĩnh nhảy vào điện thờ. Rồi một con thứ ba. Con thứ tư ...
    Rebecca liếc nhanh về cửa kho đồ thờ và biết rằng chạy về phía đó cũng chẳng ích gì.
    Giờ chung cuộc đã điểm.
    Con yêu tinh có hình sâu bò bò đến bên Carver Hampton khi gã đã ngồi dậy, tựa lưng vào tường. Nó dựng đứng lên.
    Carver nhìn sững vào đôi mắt sâu hoắm, bốc lửa của nó và gã biết mình quá yếu để có thể chống trả.
    Ngay lúc đó, có tiếng gầm lớn phát ra từ phía sau nhà. Mặt đất rung chuyển, ngôi nhà chao đảo và con yêu tinh hình sâu xem chừng không còn quan tâm đến Carver nữa. Nó quay đi, lắc lư cái đầu sang phải, sang trái, theo một điệu nhạc mà Carver không thể nghe được.
    Điếng người vì sợ, Carver biết rằng con yêu tinh sâu đang bị mê hoặc bởi tiếng ca khàn đục của những linh hồn đọa đày đang trên đường thoát ra từ địa ngục, bởi tiếng gào thét đắc thắng của những Cổ Nhân được giải thoát.
    Giờ chung cuộc đã điểm.
    Jack tiến về cái hố. Mép hố đang rã dần theo từng giây. Cái vòi khổng lồ với những phần phụ trông như những ngọn roi ma quái đang đung đưa phía trên trên Jack, đầy đe dọa, nhưng anh biết nó không thể nào đụng đến mình được. Ít nhất là trong lúc này, khi cửa địa ngục chưa mở hết và những vị thần Rađa còn có thể phù hộ anh.
    Lấy từ túi áo ra lọ thủy tinh đựng nước Thánh, Jack mở nắp và vứt cái lọ xuống hố.
    Một hình thể đầy đe dọa khác xuất hiện từ đáy vực. Jack thấy nó như một cơn sóng âm u giữa cái ánh sáng chói chang, tru tréo như một đàn chó đói.
    Giờ đây, khi nhìn vào cái hố, Jack thấy mình đạt được một am hiểu sâu sắc hơn cả Carver lẫn Lavelle. Anh hiểu rằng địa ngục không phải là chuyện hoang đường, với quỷ dữ và những linh hồn đọa đày. Địa ngục, cũng như Thiên đàng là đều có thực, tựa như trần gian này. Có khác chăng là những chốn ấy tồn tại ở một chiều không gian khác, thuộc những bình diện khác của sự hiện hữu. Thông thường thì con người khó có thể đi từ bình diện này sang bình diện khác.
    Sau khi am hiểu điều đó thì ta có thể tin vào đạo Vaudou, vào Kito giáo, hay bất cứ tôn giáo nào, dễ dàng như tin rằng có sự hiện hữu của nguyên tử.
    Loài âm binh tràn qua kệ ban Thánh Thể, đến tận những bậc thang của bàn thờ.
    Hai đứa bé gào lên trong khi cha Walotsky giơ cao xâu tràng hạt, như để ngăn trở loài âm binh. Tuy biết không ích gì nhưng Rebecca vẫn rút súng và nhắm vào những con gần nhất ...
    Chính ngay lúc đó, hàng trăm con yêu bỗng biến thành những cục đất, vô hại, lăn xuống những bậc thang.
    Sau một lúc rít lên và lắc lư cái đầu nham nhở phía trên Carver, con yêu bỗng sà xuống, tấn công.
    Carver hét lên, rồi im bặt, ngạc nhiên: chỉ còn là một đám bụi đang rơi xuống như mưa.
    Khi lọ nước thánh rơi xuống hố thì những tiếng gầm gừ thù hận, những tiếng gào thét đắc thắng cũng đột ngột im bặt. Sự im lặng đó chỉ kéo dài trong một giây và sau đó vang lên trong đêm những tiếng hét giận dữ, kinh hãi.
    Mặt đất rung chuyển dữ dội.
    Jack choáng váng ngã người ra sau trong khi miệng hố không còn nở rộng ra nữa.
    Cái vòi khổng lồ uốn lượn bên trên Jack khựng lại rồi mềm mại rơi xuống trong khi cái mồm của con âm binh không ngớt hớp lấy bóng đêm.
    Chẳng mấy chốc, những khe hở trên nền đất khép lại, như thể không hề có gì xảy ra cả. Ánh sáng trong hố nhạt dần cùng lúc với những âm thanh của địa ngục.
    Cửa địa ngục dần dần khép lại.
    Lòng lâng lâng đắc thắng, Jack đến gần miệng hố nhìn xuống, cố nhận ra những cái bóng ma quái đang quằn quại vì điên tiết ở phía sau thứ ánh sáng chói chang.
    Bỗng chốc, từ hố lóe lên những tia lửa nóng bỏng khiến Jack giật mình. Tiếng gầm gừ gào thét tăng dần.
    Anh lùi lại.
    Ánh sáng phát ra từ hố đang nhạt dần bỗng nhiên bùng lên, lại nhạt dần rồi lại bùng lên. Loài yêu tinh vẫn đang cố đẩy cánh cửa.
    Mép hố lại bắt đầu vỡ ra, từng mảng đất rơi xuống. Rồi khựng lại. Rồi lại một lần nữa rộng ra.
    Jack thầm nghĩ, phải chăng Carver đã nhầm lẫn trong khi tiên đoán? Có lẽ nào nước thánh và lòng thành vẫn không đủ để trị tụi âm binh sao? Phải chăng đã quá muộn?
    Từ đáy hố vọt lên hai cái vòi đen bóng tựa như hai cây roi với đường kính hai centimét, uốn lượn quanh Jack. Một cái vòi quấn lấy mắt cá chân trái Jack trong khi vòi kia quấn quanh ngực anh, trườn dọc theo cánh tay, túm lấy cổ tay và các ngón tay của anh.
    Anh ngã xuống, cố vùng vẫy nhưng không thể nào thoát khỏi hai cái vòi giữ chặt như thép kia. Từ đáy hố, con vật đang dùng vòi để kéo anh xuống. Xuyên qua lớp quần áo, những gai nhọn tua tủa của hai cái vòi đang đâm sâu vào da thịt Jack. Anh cảm thấy đau đớn hơn bao giờ hết.
    Bò lết bên miệng hố, Jack gào lên, tuyệt vọng ... và, ngay lúc đó hai cái vòi đang giữ chặt anh bỗng nhả ra.
    Thứ ánh sáng ở miệng hố giảm dần. Con vật rống lên vì đau đớn. Những cái vòi của nó quất vùn vụt trong không khí như điên dại.
    Trong phút giây hỗn loạn đó, hẳn những thần linh Rađa đã giúp Jack chợt hiểu ra rằng chính máu của anh đã khiến cho con quái vật lui bước. Trong cuộc chiến đấu chống cái ác, máu người Công Chính mang tính thần kỳ không khác nào nước Thánh. Và có thể Jack đã thoát nạn nhờ điều đó.
    Một lần nữa, mép hố lại rã ra và hố lại rộng dần.
    Một lần nữa, thứ ánh sáng màu da cam lại trở nên tím đỏ.
    Quỳ bên miệng hố, Jack thận trọng nghiêng người và lắc mạnh cánh tay lẫn bàn tay đẫm máu lên đó. Những giọt máu đỏ rơi xuống trên thứ ánh sáng sôi sục.
    Nhiều tiếng thét the thé vang lên, như trong cơn hấp hối. Lửa trong hố yếu dần. Mép hố không còn rời ra nữa.
    Nhưng như vậy vẫn chưa hết.
    Tiếng gào thét lại một lần nữa vang lên, những đốm sáng lại bùng lên và miệng hố lại như muốn rã ra.
    Thở hổn hển, ướt đẫm mồ hôi, cố gắng không để mình ngã gục vì khiếp đảm và sự thôi thúc phải bỏ chạy, Jack biết rằng nếu không dứt khoát, cái hố sẽ lại rộng ra và nuốt chửng anh, dù anh có trốn ở nơi nào.
    Anh đưa tay phải, cào cấu những vết thương ở bàn tay và cánh tay trái, cốt cho máu tuôn ra nhiều hơn. Sự sợ hãi làm anh không còn biết đau nữa. Anh quơ mạnh tay, để máu nhỏ giọt trên miệng hố.
    o O o
    Những giãy dụa sau cùng của mãnh lực u tối đã rời khỏi những cục đất, khiến chúng hoàn toàn bất động. Cuối cùng, linh mục Walotsky cầm lên một cục đất và bóp nát nó trong tay. Penny và Davey kinh ngạc nhìn vị linh mục.
    Rồi Penny quay sang hỏi Rebecca:
    - Dì ơi, chuyện gì đã xảy ra vậy?
    - Dì cũng không biết nữa. Nhưng theo dì nghĩ thì có lẽ ba của con đã chiến thắng và Lavelle đã chết.
    Và Rebecca hướng mắt về cuối nhà thờ, nói nho nhỏ, như thể Jack sẽ bước vào:
    - Jack à, em yêu anh!
    Ánh sáng trong miệng hố nhạt dần, chuyển sang màu da cam, rồi màu xanh. Jack chăm chú quan sát, không dám tin rằng mọi chuyện đã kết thúc.
    Từ lòng đất phát ra tiếng ken két, như thể tiếng cửa đang đóng lại. Những tiếng la hét đầy thù hận và phẫn nộ đã chuyển thành những tiếng rên rỉ tuyệt vọng, thảm thương.
    Ánh sáng trong hố cũng tắt lịm cùng lúc với tiếng ken két và cái mùi lưu huỳnh nồng nặc. Không còn một tiếng động nào nữa. Cái hố giờ chỉ đơn giản là một cái lỗ trên nền đất.
    Bốc lấy một nắm tuyết, Jack đắp lên vết thương ở tay để ngăn xuất huyết. Anh ngạc nhiên khi nghe thấy trong gió giọng nói của Rebecca với câu nói mà anh thích nghe nhất, “Jack à, em yêu anh.”
    Và anh cũng nói nho nhỏ: “Anh cũng yêu em.”
    Bỏ lại cái hố sau lưng, Jack đi vào nhà. Anh biết mình phải gọi xe cấp cứu để đưa Carver vào bệnh viện, rồi còn phải đi đón Rebecca và bọn trẻ nữa.

Trang 2 / 2 ĐầuĐầu 12

Chủ Đề Tương Tự

  1. Đau, buông bỏ và buông xuôi
    By sophienguyen in forum Danh Ngôn - Lời Hay Ý Đẹp
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 09-10-2015, 11:53 PM
  2. Đêm buồn lặng lẽ
    By giavui in forum Thơ Sưu Tầm
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-09-2014, 03:55 AM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 10-23-2014, 01:39 PM
  4. Màn Đêm Buông Thủng
    By giavui in forum Audio Cổ Tích Thiếu Nhi
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 06-28-2014, 09:27 PM
  5. Một Đêm Xuân
    By hailua in forum Audio Cổ Tích Thiếu Nhi
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-31-2014, 12:49 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •