Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “* Muốn hiểu thế nào là Tình Yêu và Hạnh Phúc, phải biết sống cho kẻ khác, nghĩa là phải biết yêu
Godwin
Trang 1 / 3 123 Cuối Cuối
Results 1 to 10 of 29

Chủ Đề: Chết Trước Hoàng Hôn

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    03 Rose Chết Trước Hoàng Hôn

    Chết Trước Hoàng Hôn

    Tác giả: Charlaine Harris






    Giới Thiệu

    Có lẽ, Sookie Stackhouse sẽ chỉ là một cô hầu bàn rất đỗi bình thường nếu không có một “khiếm khuyết” nhỏ - khả năng đọc tâm trí người khác. Vậy nhưng cô lại không tài nào nghe được suy nghĩ của Bill Compton – chàng ma cà rồng điển trai lạnh lùng ngày nọ bất ngờ bước vào cuộc sống của cô. Kể từ lúc anh xuất hiện, cuộc sống của cô và những người quanh cô đã như luôn bên bờ thảm họa. Bởi có bạn trai là ma cà rồng chưa chắc đã là điều tuyệt vời với cô…
    “Charlaine Haris đã tưởng tượng ra một cách vô cùng sống động hình ảnh cô hầu bàn có khả năng ngoại cảm trong thị trấn nhỏ thuộc bang Louisiana, nơi con người, ma cà rồng, người biến hình và tất cả những sinh vật sống khác cùng tồn tại…Sự nhào trộn của tác giả thật tuyệt vời, khiến câu chuyện thấm đượm đủ các yếu tố, từ kỳ bí, kinh dị đến những chi tiết lãng mạn tuyệt đẹp.” - Milwaukee Journal Sentinel

    Tác Giả
    Charlaine Harris (25/11/1951) sinh ra và lớn lên tại Tunica, Mississippi và hiện giờ đang sống ở Arkansas cùng chồng và ba người con. Bà sáng tác thơ, truyện ngắn, kịch và tiểu thuyết. Chết trước hoàng hôn (Dead Until Dark) là tập đầu tiên trong bộ tiểu thuyết ăn khách The Southern Vampire Mysteries (Bí ẩn ma cà rồng miền Nam), từng giành được giải Anthony Award cho Tác phẩm thần bí xuất sắc nhất 2001. Bộ tiểu thuyết này cũng được đạo diễn Alan Ball chuyển thể thành series phim truyền hình ăn khách nhiều năm liên tiếp True Blood.

    Lời Khen Tặng Dành Cho Chết Trước Hoàng Hôn

    "Một cuốn sách bạn muốn đọc trước giờ đi ngủ, chắc mẩm sẽ chỉ theo dõi hết chương đầu tiên, nhưng hóa ra lại chỉ dừng lại được khi đã đi đến trang cuối cùng.” - Alan Ball, biên kịch American Beauty và đạo diễn True Blood
    “Thật khó tưởng tượng ra cảnh ma cà rồng và người sói cùng lượn lờ ở mỗi góc đường, nhưng Harris đã biết cách khiến người đọc yêu thích, bị lôi cuốn và cuối cùng là mê mệt những câu chuyện của bà." - The Monroe News-star
    “Bằng sự hòa quyện của những pha hành động, tình cảm và các chi tiết hài hước, Harris đã tạo ra một thế giới sống động đầy tính hiện thực, tất nhiên, nếu không kể đến ma cà rồng và những sinh vật siêu nhiên khác.” - The Toronto Stars

  2. #2
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 1
    Trước ngày anh bước chân vào quán, tôi đã chờ đợi suốt một thời gian dài để được gặp ma cà rồng.
    Kể từ khi loài ma cà rồng bước ra khỏi quan tài (như cách họ hay nói đùa) hai năm trước, tôi đã hy vọng sẽ có một người đến Bon Temps. Thị trấn nhỏ bé của chúng tôi đã có đủ mọi kiểu người thiểu số khác rồi - vậy tại sao lại không thể có thêm những con người bất tử mới được luật pháp công nhận chứ? Nhưng hình như miền quê phía Bắc Louisiana không cuốn hút loài ma cà rồng cho lắm; mặt khác, New Orleans mới là trung tâm đích thực của họ - truyện của Anne Rice[1] chẳng thế là gì, phải không?
    Quãng đường đi xe từ Bon Temps đến New Orleans cũng không xa, và mọi người đến quán bar đều nói rằng chỉ cần ném đá vào góc phố là thể nào bạn cũng đụng trúng ma cà rồng. Tuy nhiên tốt nhất là đừng nên làm thế.
    Nhưng tôi vẫn chờ đợi chàng ma cà rồng của riêng mình.
    Bạn có thể thấy ngay tôi không đi chơi nhiều lắm. Và không phải do tôi không xinh đẹp. Tôi khá ưa nhìn đấy chứ. Tôi có mái tóc vàng óng, mắt xanh lơ và mới hai mươi lăm tuổi, cộng thêm đôi chân thuôn dài, bộ ngực nở nang và vòng eo thon gọn. Tôi trông khá ổn trong bộ đồng phục bồi bàn mùa hè mà Sam chọn cho chúng tôi: quần short đen, áo phông trắng, tất trắng, giày Nike đen. Nhưng tôi có một khiếm khuyết. Tôi đang cố suy nghĩ về chuyện này theo chiều hướng đó.
    Khách quen của quán thì chỉ cho rằng tôi bị điên.
    Dù hiểu theo cách nào đi nữa, kết quả vẫn là tôi chưa từng có một buổi hẹn hò nào cho ra hồn cả. Vậy nên chỉ một sự biệt đãi nhỏ nhặt cũng có rất nhiều ý nghĩa đối với tôi.
    Và anh - chàng ma cà rồng - ngồi ở bàn tôi phụ trách.
    Tôi nhận ra ngay lập tức anh là ai.
    Tôi ngạc nhiên khi chẳng có ai quay lại nhìn anh chằm chằm. Họ không phân biệt được! Nhưng theo tôi thấy, làn da anh hơi sáng lên lấp lánh, và thế là tôi biết thôi.
    Tôi có thể nhảy múa vì sung sướng, và thật ra đúng là tôi có nhảy chân sáo vài bước ở gần quầy bar. Sam Merlotte, ông chủ của tôi, dời mắt khỏi món đồ uống đang pha chế mà khẽ ngước lên mỉm cười với tôi. Tôi vớ lấy cái khay cùng cuốn sổ và đi về phía bàn nơi chàng ma cà rồng đang ngồi. Hy vọng là màu son của tôi vẫn chưa phai và mái tóc đuôi ngựa vẫn gọn gàng. Tôi vốn dễ căng thẳng, và tôi có thể cảm nhận được nụ cười đang kéo căng khóe môi mình.
    Anh có vẻ đang chìm trong dòng suy nghĩ, và tôi có cơ hội ngắm nhìn anh kỹ hơn trước khi anh ngước lên. Tôi ước chừng anh cao xấp xỉ mét tám. Tóc anh màu nâu và dày, chải hất về phía sau gần chạm vào cổ áo, còn tóc mai thì dài và đậm chất cổ điển một cách lạ thường. Anh trông nhợt nhạt, tất nhiên rồi; này nhé, nếu bạn tin vào những câu chuyện cổ thì anh đã chết rồi mà. Theo cách nói giảm nói tránh, mà chính giới ma cà rồng cũng công khai ủng hộ lối nói này, thì anh đã bị nhiễm một loại vi rút và chết lâm sàng vài ngày rồi từ đó bị dị ứng với ánh sáng mặt trời, bạc và tỏi. Chi tiết thế nào còn tùy vào tờ báo bạn đọc. Dạo gần đây báo nào cũng nhan nhản tin tức về ma cà rồng.
    Dù sao thì, đôi môi của anh được tạc một cách quyến rũ với những đường nét rõ ràng, còn đôi chân mày sẫm màu thì cong cong hình vòng cung. Mũi anh bổ nhào thẳng tắp ra khỏi đường cung đó, giống như mũi một vị hoàng tử trong bức tranh khảm theo lối Byzantine. Cuối cùng khi anh ngước lên, tôi thấy mắt anh còn sậm màu hơn cả tóc, tròng trắng thì trắng đến không ngờ.
    “Xin hỏi, anh muốn dùng gì?” tôi hỏi, sự vui mừng lồ lộ trong từng câu chữ.
    Anh nhướng mày. “Ở đây có máu nhân tạo đóng chai không?” anh hỏi.
    “Không, tôi rất tiếc! Sam đã đặt hàng rồi. Có lẽ tuần sau mới nhận được.”
    “Vậy cho tôi rượu vang đỏ,” anh đáp lại bằng giọng nói trong trẻo quyến rũ, giống như dòng nước lướt trên những phiến đá trơn mượt. Tôi cười thành tiếng. Tất cả đều quá hoàn hảo.
    “Anh đừng bận tâm đến Sookie làm gì, con bé bị điên đấy mà,” một giọng nói quen thuộc vang lên từ quầy nước sát tường. Mọi niềm hạnh phúc của tôi trôi sạch, mặc dù tôi có thể cảm thấy nụ cười vẫn đang kéo căng đôi môi mình. Chàng ma cà rồng nhìn tôi chằm chằm, quan sát sinh khí bị rút cạn khỏi khuôn mặt tôi.
    “Tôi sẽ lấy rượu cho anh ngay,” tôi nói, rồi sải bước đi mà không thèm nhìn bộ mặt tự mãn của Mack Rattray. Hầu như tối nào hắn cũng ở đó, hắn cùng với mụ vợ Denise. Tôi gọi chúng là vợ chồng nhà Chuột. Kể từ khi chuyển đến căn nhà di động thuê ở góc đường Four Tracks, chúng đã làm đủ mọi chuyện để khiến tôi khổ sở. Tôi chỉ mong sao chúng sẽ biến mất khỏi Bon Temps cũng nhanh như khi đến vậy.
    Lần đầu tiên vợ chồng nhà Rattray bước vào quán Merlotte, tôi đã chẳng ngại ngần gì khi đọc suy nghĩ của chúng - tôi biết mình làm thế thì có phần hạ cấp. Nhưng tôi cũng có lúc buồn chán như tất cả mọi người, và dù đã dành hầu hết thời gian để ngăn chặn suy nghĩ của người khác xâm nhập vào tâm trí mình, đôi khi tôi vẫn đành chịu thua. Vậy nên tôi biết vài chuyện về nhà Rattray mà có lẽ chẳng ai biết cả. Ví dụ như chúng đã từng vào tù, với tội danh gì thì tôi cũng không biết. Hay có lần tôi đã đọc được những suy nghĩ bẩn thỉu của Mack Rattray dùng để tự tiêu khiển. Và tôi còn nghe được suy nghĩ trong đầu Denise về chuyện mụ đã bỏ rơi một đứa bé mụ sinh ra hai năm trước, một đứa bé không phải con của Mack.
    Và chúng cũng chẳng bao giờ boa tiền cả.
    Sam rót rượu vang đỏ vào ly, nhìn về phía bàn của chàng ma cà rồng trong lúc đặt ly rượu lên khay của tôi.
    Khi Sam quay lại nhìn tôi, tôi có thể đoán được rằng anh cũng nhận ra vị khách mới của chúng tôi thuộc giống loài bất tử. Sam có đôi mắt màu xanh của diễn viên huyền thoại Paul Newman, như để đối lập với màu mắt xanh xám của tôi. Tóc Sam cũng vàng, nhưng thô xoăn, hơn nữa đó gần như là màu vàng nâu sậm. Da anh hơi luôn có phần rám nắng; và mặc dù bộ quần áo khiến anh nhìn có vẻ mảnh khảnh, nhưng tôi đã từng nhìn thấy anh cởi trần dỡ hàng xuống khỏi xe tải, phần thân trên của anh cuồn cuộn bắp. Tôi chưa từng đọc suy nghĩ của Sam. Anh là ông chủ của tôi. Trước đây tôi phải nhiều lần bỏ việc vì đã khám phá ra những điều tôi không muốn biết về chủ của mình.
    Nhưng Sam không bình luận gì mà chỉ đưa rượu cho tôi. Tôi kiểm tra chiếc ly cho chắc là nó sạch bong, rồi sau đó quay lại bàn của chàng ma cà rồng.
    “Rượu của anh đây,” tôi nói kiểu cách và cẩn thận đặt ly rượu ngay trước mặt anh. Anh nhìn tôi lần nữa, và tôi chớp lấy cơ hội chăm chú ngắm nhìn đôi mắt tuyệt đẹp của anh. “Mời anh,” tôi nói đầy tự hào. Mack Rattray hét vọng lên sau lưng tôi, “Này, Sookie! Mang cho bọn này một bình bia nữa nhé!” Tôi thở dài quay lại lấy chiếc bình rỗng ở bàn nhà Chuột. Tôi để ý thấy tối nay Denise ăn bận rất bắt mắt với áo yếm và quần soóc, mái tóc xoăn nâu bung quanh khuôn mặt mụ theo đúng phong cách thời thượng. Denise không thật xinh đẹp, nhưng trông mụ thời trang và tự tin đến nỗi phải mất một lúc mới nhận ra điều đó.
    Một lát sau, tôi chết trân khi thấy nhà Rattray đã chuyển đến ngồi ở bàn của chàng ma cà rồng. Bọn chúng đang nói chuyện với anh. Tôi để ý thấy anh không đáp lại nhiều, nhưng anh cũng không bỏ đi.
    “Nhìn kìa!” tôi ghê tởm nói với Arlene, chị bạn bồi bàn của tôi. Arlene có mái tóc đỏ, mặt nhiều tàn nhang, lớn hơn tôi mười tuổi, và đã kết hôn bốn lần. Chị có hai đứa con, đôi lúc tôi có cảm giác chị coi tôi như đứa con thứ ba của mình.
    “Chàng mới đấy hả?” chị nói mà chẳng chú tâm gì lắm. Arlene đang hẹn hò với Rene Lenier, và mặc dù tôi chẳng thấy hay hớm gì, chị lại có vẻ khá hài lòng. Tôi nghĩ Rene là người chồng thứ hai của chị.
    “Anh ấy là ma cà rồng đấy,” tôi nói, thấy cần phải chia sẻ niềm vui của mình với người khác.
    “Thật à? Ở đây sao? Thôi được, cứ coi là vậy đi,” chị nói, hơi mỉm cười để chứng tỏ chị ý thức được niềm vui của tôi. “Nhưng mà cậu chàng cũng chẳng thông minh lắm đâu, cưng à, nếu cậu ta ngồi với vợ chồng Chuột. Thêm vào đó, Denise đang diễn cho cậu chàng xem kìa.”
    Tôi hình dung mọi chuyện rõ ràng hơn sau khi nghe Arlene giải thích; chị hiểu những động tác mơn trớn gợi tình rõ hơn tôi vì chị có kinh nghiệm còn tôi thì không.
    Chàng ma cà rồng đang khát. Tôi thường nghe nói loại máu tổng hợp mà người Nhật sản xuất ra chỉ cung cấp đủ dinh dưỡng cho ma cà rồng chứ không làm họ hoàn toàn đã khát được, chính vì thế nên thỉnh thoảng mới xảy ra những “tai nạn không may”. (Đấy là cách nói tránh của ma cà rồng về việc giết người hút máu một cách dã man). Thế mà con mụ Denise Rattray lại ngồi đây vuốt ve yết hầu và xoay cổ qua qua lại lại... Đồ quỷ cái.
    Anh trai tôi, Jason, bước vào quán rồi thong dong bước đến ôm tôi. Anh ấy biết rõ phụ nữ thích mẫu đàn ông đối xử tử tế với gia đình và người tàn tật, vậy nên hành động ôm tôi khiến cho sức hấp dẫn của anh tăng lên gấp đôi. Nói thế không có nghĩa là Jason cần phải ghi thêm điểm làm gì. Anh vốn đẹp trai. Tuy đôi lúc cũng tỏ ra xấu tính thật đấy, nhưng hầu hết cánh phụ nữ sẵn sàng bỏ qua điều đó.
    “Thế nào, em gái, bà sao rồi?”
    “Bà ổn, vẫn như thế. Anh ghé thăm bà đi chứ.”
    “Anh sẽ qua mà. Thế tối nay có nàng nào rảnh không?”
    “Anh tự tìm đi.” Tôi để ý thấy khi Jason bắt đầu liếc quanh quán, có không ít phụ nữ bối rối đưa tay vuốt tóc, vuốt áo, vuốt môi.
    “Này. Anh thấy có DeeAnne. Cô ấy rỗi chứ?”
    “Cô ấy đi cùng một tay tài xế từ Hammond. Hắn đang trong nhà vệ sinh. Cẩn thận đấy.”
    Jason toét miệng cười với tôi, và tôi không tin nổi những phụ nữ khác lại không nhận thấy sự ích kỷ trong nụ cười đó. Kể cả Arlene cũng nhét áo vào trong quần khi Jason bước vào, đáng ra sau bốn đời chồng chị ấy phải biết cách đánh giá đàn ông hơn rồi mới phải. Một đồng nghiệp khác của tôi, Dawn, hất mái tóc ra sau và đứng thẳng lưng để bộ ngực căng phồng hơn. Jason nhã nhặn vẫy tay chào cô ta. Cô ta giả vờ cười khẩy. Cô nàng không còn quan hệ thân mật với Jason nữa, nhưng vẫn muốn anh chú ý đến mình.
    Tôi bận tối tăm mặt mũi - mọi người đều đến quán Merlotte vào tối thứ Bảy để làm vài ly - nên tôi đã mất dấu chàng ma cà rồng trong thoáng chốc. Khi đã có thời gian để quay lại với anh, tôi thấy anh đang nói chuyện với Denise. Mack đang nhìn anh với vẻ thèm khát lồ lộ đến nỗi tôi đâm lo. Tôi bước gần lại, nhìn chằm chằm vào Mack. Cuối cùng, tôi rũ bỏ bức tường chắn của mình và lắng nghe. Mack và Denise từng vào tù vì tội rút máu ma cà rồng.
    Rối bời đến cực độ, tôi cứ thế tự động mang bình bia và vài chiếc cốc đến một chiếc bàn bốn người huyên náo. Kể từ khi máu của ma cà rồng được cho là có thể tạm thời loại bỏ được vài chứng bệnh và làm tăng khả năng chăn gối, kiểu như thuốc kháng sinh và Viagra hợp lại làm một, thì có cả một thị trường đen khổng lồ chuyên buôn bán máu ma cà rồng nguyên chất chính hiệu. Có cầu thì ắt có cung; trong trường hợp này, như tôi vừa được biết, là vợ chồng nhà Chuột cặn bã. Trước đây chúng đã đánh bẫy rồi rút cạn máu ma cà rồng, bán mỗi lọ máu nho nhỏ với giá hai trăm đô. Món thuốc này thịnh hành ít nhất hai năm trở lại đây, Vài khách hàng đã phát điên sau khi uống máu ma cà rồng tinh khiết, nhưng điều này chẳng hề làm giảm nhu cầu của thị trường.
    Thông thường, ma cà rồng bị rút máu sẽ chẳng sống lâu được. Những Kẻ Rút Máu thường trói ma cà rồng vào cột hoặc đơn giản hơn là cứ để mặc họ lại ngoài trời. Khi mặt trời mọc, mọi thứ sẽ tự chấm dứt. Nhưng thỉnh thoảng, bạn cũng đọc được về những lần lật ngược thế cờ, ma cà rồng tìm được cách thoát ra. Khi đó thì Kẻ Rút Máu cũng chẳng sống thêm được nữa.
    Bây giờ thì chàng ma cà rồng của tôi đã đứng dậy để rời đi cùng vợ chồng Chuột. Mack bắt gặp ánh mắt của tôi, và tôi nhận thấy hắn sững người lại trước vẻ mặt tôi. Hắn quay người, nhún vai lờ tôi đi như tất cả những kẻ khác.
    Điều này làm tôi phát điên. Thực sự phát điên.
    Tôi nên làm gì đây? Khi tôi còn đang đấu tranh với bản thân thì họ đã ra đến cửa. Liệu chàng ma cà rồng có tin tôi không nếu tôi chạy theo kể cho anh tất cả? Ai mà tin được cơ chứ. Mà nếu có tin đi chăng nữa, họ cũng sẽ thấy căm ghét và sợ hãi tôi vì tôi có khả năng đọc được suy nghĩ của người khác. Arlene đã năn nỉ tôi đọc suy nghĩ người chồng thứ tư của chị khi anh ta đến đón chị vào một đêm nọ, vì chị tin chắc anh ta đang tính chuyện rời bỏ ba mẹ con, nhưng tôi đã không làm thế bởi tôi muốn giữ lại người bạn duy nhất mình có. Và ngay cả Arlene cũng chưa bao giờ hỏi thẳng tôi, bởi vì như thế là thừa nhận tôi có khả năng này, có lời nguyền này. Mọi người không thể chấp nhận nó. Họ buộc phải nghĩ là tôi bị điên. Mà thỉnh thoảng đúng là tôi điên điên thật đấy chứ!
    Tôi rùng mình, hoang mang, sợ hãi rồi giận dữ, và tôi biết đã đến lúc phải hành động. Tôi phát điên trước cái nhìn Mack dành cho tôi - cứ như thể tôi là kẻ chẳng đáng để tâm vậy. Tôi đi dọc quán bar đến chỗ Jason, lúc này anh đang cố tán tỉnh DeeAnne. Cô nàng không cần đến quá nhiều lời tán tỉnh, nhìn là thấy rõ ngay. Tay tài xế từ Hammond ngồi bên cạnh cô nàng đang quắc mắt nhìn.
    “Jason,” tôi nói gấp gáp. Anh quay người ném cho tôi ánh mắt cảnh cáo “Nghe này, sợi xích vẫn còn sau xe tải chứ?”
    “Tao chẳng bao giờ đi đâu mà thiếu nó cả,” anh uể oải nói, quét ánh mắt khắp gương mặt tôi để dò tìm dấu hiệu không ổn. “Chuẩn bị đánh nhau với ai à, Sookie?”
    Tôi cười đáp lại anh, một nụ cười toét miệng vốn được sử dụng thường trực đến nỗi chẳng cần cố cũng vẫn trưng ra được. “Em chắc chắn là không mong vậy rồi,” tôi vui vẻ đáp.
    “Cần tao giúp không?” Rốt cuộc, anh vẫn là anh trai tôi.
    “Không cần đâu, cảm ơn anh,” tôi nói, cố sao cho giọng bình thường hết mức. Rồi tôi bước đến chỗ Arlene. “Em có việc phải về sớm một chút. Mấy bàn của em cũng vắng thôi, chị lo giúp em nhé?” Tôi chưa từng nghĩ sẽ có ngày mình nhờ Arlene những việc như thế này, mặc dù tôi đã giúp chị khá nhiều lần rồi. Chị cũng từng đề nghị được giúp tôi. “Được rồi,” tôi nói. “Em sẽ quay lại nếu có thể. Nếu chị lau dọn khu vực bàn của em luôn thì em sẽ dọn hộ chị chiếc xe moóc nhé.”
    Arlene phấn khởi gật mái đầu có bờm tóc đỏ.
    Tôi tiến về phía cửa dành cho nhân viên, một mình, và giơ ngón tay ra dấu cho Sam hiểu mình đang định đi đâu.
    Anh gật đầu. Trông anh chẳng vui vẻ gì- Vậy là tôi đi ra theo lối cửa sau, cố bước thật êm trên con đường rải sỏi. Bãi đỗ xe của nhân viên nằm ở đằng sau, nối với quán bar bằng một cánh cửa dẫn vào nhà kho. Xe của tay đầu bếp đỗ ở đó, cả của Arlene, của Dawn và của tôi nữa. Bên phải tôi, về phía Đông, chiếc xe tải của Sam đỗ trước toa xe moóc của anh.
    Tôi băng qua khu vực đỗ xe rải sỏi của nhân viên đến bãi đỗ xe dành cho khách rộng hơn và được rải nhựa nằm ở phía Tây của quán. Cây cối bao quanh khoảng đất trống của Merlotte, và phần rìa của bãi đỗ xe hầu hết cũng đều được rải sỏi. Sam đã bố trí hệ thống chiếu sáng rất tốt, thứ ánh sáng siêu thực của những cột đèn cao áp nơi bãi đỗ xe làm mọi thứ trông thật lạ lùng.
    Nhìn thấy chiếc xe thể thao màu đỏ bị móp lõm của vợ chồng Chuột, tôi biết chúng chắc hẳn ở gần đây thôi. Cuối cùng tôi cũng tìm được xe tải của Jason. Đó là một chiếc xe sơn đen viền xanh dương và có những xoáy màu hồng ở hai bên thành xe. Anh hẳn rất thích được chú ý. Tôi nhoài người qua cửa sau, mò mẫm trên băng ghế để tìm sợi xích vừa dày vừa dài mà Sam luôn mang theo phòng trường hợp đánh nhau với ai. Tôi cuộn sợi xích lại và ép chặt vào người để nó khỏi kêu xủng xoẻng.

  3. #3
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Tôi suy nghĩ trong giây lát. Nơi kín đáo duy nhất mà nhà Rattray có thể dụ chàng ma cà rồng đến chỉ có thể là ở cuối bãi đỗ, nơi bóng cây phủ kín những chiếc xe. Vậy là tôi rón rén đi về phía ấy, cố cúi thấp người xuống và di chuyển thật nhanh.
    Cứ đi được một lúc tôi lại dừng chân nghe ngóng. Chẳng mấy chốc tôi đã nghe thấy tiếng rên rỉ và tiếng người lao xao. Tôi luồn vào giữa đám xe, thì thấy chúng đang ở đúng nơi tôi đoán. Chàng ma cà rồng đang nằm ngửa trên nền đất, gương mặt nhăn nhó vì đau đớn, những sợi xích bắt chéo siết chặt từ cổ tay xuống mắt cá chân anh lờ mờ sáng. Là bạc. Có hai lọ máu nhỏ nằm cạnh chân Denise, và tôi quan sát thấy ả đang lắp một ống đựng máu khác vào đầu kim. Miếng ga rô trên khuỳu tay thắt chặt cẳng tay anh một cách thô bạo. Chúng quay lưng về phía tôi, và chàng ma cà rồng cũng chưa nhìn thấy tôi. Tôi nới lỏng cuộn dây xích để có khoảng một mét xích tự do.
    Tấn công tên nào trước bây giờ? Cả hai đều nhỏ người và rất nguy hiểm. Tôi nhớ lại thái độ xua đuổi khinh khỉnh của Mack và chuyện hắn chưa bao giờ để lại tiền boa. Trước tiên là Mack.
    Trước đây tôi chưa bao giờ đánh nhau với ai. Chẳng hiểu sao, tôi mong ngóng được thử.
    Từ phía sau một chiếc xe tải, tôi nhảy ra rồi vung sợi xích. Nó văng mạnh vào lưng Mack ngay khi hắn cúi người xuống sát nạn nhân. Hắn rống to và nhảy dựng lên. Trong chớp mắt, Denise đã gắn xong ống đựng máu thứ ba. Bàn tay Mack thọc sâu vào chiếc ủng rút ra một vật sáng lấp lánh. Tôi nuốt nước bọt. Hắn cầm một con dao.
    “Ái chà,” tôi nhe răng cười.
    “Con khốn!” hắn hét lên. Nghe cứ như thể hắn sắp giết tôi đến nơi vậy. Tôi không còn quá để tâm đến việc rào chắn tâm trí mình nữa, và tôi nắm bắt ngay được Mack định làm gì. Điều này làm tôi thật sự phát khùng. Tôi tiến về phía hắn, rắp tâm vận hết khả năng để khiến hắn đau đớn tột độ. Nhưng khi tôi vung sợi xích thì hắn cũng đã sẵn sàng lăm lăm con dao lao về phía trước. Hắn nhằm vào cánh tay tôi nhưng trượt. Sợi xích theo đà quấn quanh chiếc cổ gầy nhẳng của Mack như một người tình yêu dấu. Tiếng kêu đắc thắng tắc nghẹn trong cổ Mack. Hắn buông dao, dùng cả hai cánh tay để cố cào thoát khỏi sợi xích. Nghẹn thở, hắn khuỵu xuống vỉa hè gồ ghề, giật sợi xích tuột khỏi tay tôi.
    Vậy đấy, sợi xích của Jason đã tuột khỏi tay tôi. Tôi liền cúi xuống lượm con dao của Mack, nắm thật chặt cứ như thể đã quá thành thục với những thứ như thế này. Denise lao về phía trước, không khác gì mụ phù thủy lỗ mãng dưới ánh đèn cao áp.
    Mụ khựng lại khi thấy tôi đang cầm con dao của Mack. Mụ nguyền rủa và chửi bới bằng những ngôn từ thô bỉ nhất. Tôi đợi đến lúc mụ nói xong rồi mới hét lên, “Cút. Ngay.”
    Denise ném cho tôi cái nhìn uất hận. Mụ cố với tay lấy mấy ống đựng máu, nhưng tôi huýt sáo ra hiệu cho ả để chúng ở yên đấy. Vậy là mụ đành lôi Mack đi. Hắn vẫn chưa thôi khò khè, tay vẫn nắm chặt sợi xích. Denise phải kéo lê hắn đến xe và tống hắn vào ghế phụ. Lôi phắt chìa khóa ra khỏi túi, Denise quăng mình vào ghế tài xế.
    Khi nghe thấy tiếng động cơ xe gầm lên, tôi đột ngột nhận ra giờ đây vợ chồng nhà Chuột đã có một thứ vũ khí khác. Chưa bao giờ nhanh như thế, tôi hổn hển chạy đến chỗ chàng ma cà rồng, “Dùng chân đẩy đi!”
    Tôi kẹp chặt anh dưới cánh tay mình và vận hết sức kéo anh lùi về phía sau, còn anh thì cố dùng chân đẩy mạnh. Khi cả hai vừa vào được giữa hàng cây thì cũng là lúc chiếc xe màu đỏ điên cuồng lao tới. Denise đâm trượt vài thước vì phải cua tay lái tránh một gốc sồi. Rồi tôi nghe tiếng động cơ xe của vợ chồng nhà Chuột xa dần.
    “Ôi,” tôi thở dốc và khuyu xuống cạnh chàng ma cà rồng vì đầu gối chẳng thể chống được sức nặng của cơ thể mình nữa. Tôi thở nặng nhọc đến cả phút, cố giữ mình khỏi quỵ hẳn. Chàng ma cà rồng khẽ cử động, và tôi nhìn anh. Tôi kinh hoàng nhận ra một làn khói mỏng lờ lững trôi từ cổ tay anh, nơi vong đai bạc đang thít chặt.
    “Ôi, tội nghiệp anh,” tôi thốt lên, tự trách mình vì đã không lo cho anh ngay. Vừa cố lấy lại nhịp thở, tôi vừa bắt đầu tháo vòng đai mỏng bằng bạc có lẽ đã được cắt ra từ một sợi xích rất dài. “Tội nghiệp cưng,” Tôi thì thầm, mãi về sau này mới nhận ra câu nói ấy nghe kỳ cục đến mức nào. Tôi vốn có đôi bàn tay khéo léo, nên chẳng mấy chốc đã tháo được vòng đai ra khỏi cổ tay anh. Tôi tự hỏi không biết làm sao vợ chồng nhà Chuột có thể đánh lạc hướng anh để mà tròng những thứ này vào, và tôi có thể cảm thấy mặt mình đang đỏ dần lên khi hình dung ra chuyện đó. Chàng ma cà rồng ghì chặt cánh tay vào ngực trong khi tôi cố tháo những vòng đai bạc quấn quanh chân anh. Mắt cá chân anh trông có vẻ ổn hơn vì bọn Rút Máu kia chẳng buồn kéo cao quần anh lên để tròng sợi dây bạc vào làn da trần.
    “Tôi xin lỗi vì đã không đến nhanh hơn được,” tôi nói với vẻ hối lỗi. “Anh sẽ thấy khá lên ngay thôi, đúng không? Anh có muốn tôi đi không?”
    “Không.”
    Câu trả lời làm tôi cảm thấy khá dễ chịu, cho đến khi anh thêm vào, “Chúng có thể quay lại, mà tôi thì vẫn chưa đánh đấm được.” Giọng nói điềm tĩnh của anh không được bình thường, nhưng tôi không dám chắc là anh có thở gấp hay không.
    Tôi nhìn anh với vẻ cáu kỉnh, và khi anh đang dần phục hồi, tôi thận trọng hơn một chút. Tôi quay lưng lại, cho anh chút riêng tư. Lúc bị thương mà cứ có ai nhìn chằm chằm vào mình thì thật chẳng thoải mái chút nào. Tôi quét mắt dọc vỉa hè, chú ý quan sát bãi đỗ xe. Một số xe đã rời đi, nhiều chiếc khác đỗ vào thế chỗ, nhưng chẳng ai đi đến cuối con đường cạnh cánh rừng. Dựa vào sự biến động của luồng không khí xung quanh mình, tôi biết chàng ma cà rồng đã đứng dậy.
    Anh không lên tiếng ngay. Tôi quay đầu sang trái nhìn anh. Anh đứng gần hơn tôi nghĩ. Cặp mắt đen huyền của anh nhìn thẳng vào mắt tôi. Răng nanh của anh đã thu lại; tôi hơi thất vọng vì chuyện này.
    “Cảm ơn,” anh nói một cách khó nhọc.
    Vậy chàng ta không thích thú gì chuyện được phụ nữ giải cứu. Một anh chàng điển hình.
    Vì anh đã tỏ ra khiếm nhã quá mức, tôi cảm thấy mình cũng có thể đáp lại bằng một hành động thô lỗ, vậy là tôi mở hết tâm trí để lắng nghe anh.
    Và tôi... chẳng nghe được gì cả.
    “Ồ,” tôi thốt lên, nghe rõ sự sửng sốt trong giọng nói của chính mình, gần như chẳng ý thức được mình đang nói gì. “Tôi không nghe thấy anh.”
    “Cảm ơn!” chàng ma cà rồng đáp, miệng nhành ra.
    “Không, không... tôi có thể nghe thấy anh nói, nhưng...” Và trong nỗi phấn khích, tôi đã làm một chuyện mà như bình thường chắc chắn tôi sẽ không bao giờ làm, vì đó là một hành động vừa mang tính cá nhân, vừa có vẻ tự đề cao mình, đồng thời lại chứng tỏ tôi là một kẻ không bình thường. Tôi xoay hẳn người về phía anh, đặt hai bàn tay lên đôi má xanh nhợt của anh và nhìn anh chăm chú. Tôi dồn tất cả sự chú tâm của mình. Chẳng có gì cả. Cứ như thể bạn suốt ngày phải nghe radio, nghe đủ mọi kênh mà bạn không hề chủ tâm chọn, rồi đột nhiên bạn chẳng nhận được tín hiệu nào nữa.
    Cảm giác thật tuyệt.
    Cặp mắt anh mở lớn hơn, đen hơn, mặc dù anh vẫn không hề cử động. “Xin lỗi anh,” tôi nói, thở hổn hển vì xấu hổ. Tôi vội buông tay, tiếp tục nhìn chằm chằm về phía bãi đỗ xe. Rồi tôi bắt đầu huyên thuyên đủ chuyện về Mack và Denise, trong khi vẫn không ngừng nghĩ về sự tuyệt diệu khi có một người bạn mà mình chẳng thể nghe được suy nghĩ của họ trừ phi họ nói ra. Sự im lặng của anh mới tuyệt diệu làm sao.
    “... vậy nên tôi nghĩ mình nên ra đây xem anh có ổn không,” tôi kết luận mà chẳng biết nãy giờ mình huyên thuyên những gì.
    “Cô đến đây để cứu tôi. Thật dũng cảm,” anh nói bằng một giọng quyến rũ đến độ có thể lôi tuột DeeAnne ra khỏi chiếc quần lót đỏ của cô nàng. “Anh thôi ngay cái giọng đó đi,” tôi chanh chua, giậm chân thình thịch xuống đất.
    Anh kinh ngạc nhìn tôi vài giây, trước khi khuôn mặt anh trở lại sắc trắng nhẹ nhàng.
    “Cô không sợ phải ở một mình cạnh một tên ma cà rồng đang đói sao?” anh hỏi, có chút gì đó tinh quái và nguy hiểm ẩn trong từng câu chữ.
    “Không.”
    “Có phải cô cho rằng vì đã cứu tôi nên cô sẽ được an toàn, rằng sau bao nhiêu tháng năm, trong tôi vẫn nhen nhúm một thứ cảm xúc ủy mị? Ma cà rồng thường xuyên phản bội lại những người tin họ. Chúng tôi không có nhân tính, cô biết rồi đấy.”
    “Có cả đống người cũng phản bội lại những người tin mình,” tôi chỉ ra. Tôi chỉ thực tế thôi. “Tôi không hoàn toàn ngu ngốc đâu.” Tôi chìa cánh tay ra và xoay cổ lại. Trong lúc anh đang phục hồi, tôi đã quấn sợi xích của vợ chồng Chuột quanh cổ và tay mình. Anh run bần bật.
    “Nhưng ở đùi non cô có những mạch máu ngon lành lắm đấy,” anh đáp sau một thoáng dừng để trấn tĩnh, giọng anh trở nên hiểm độc như một con rắn trơn tuột.
    “Đừng nói chuyện bậy bạ,” tôi nói với anh. “Tôi không nghe đâu.”
    Một lần nữa chúng tôi lại nhìn nhau trong im lặng. Tôi sợ rằng mình sẽ chẳng bao giờ gặp lại anh nữa; xét cho cùng, chuyến viếng thăm Merlotte lần đầu tiên của anh rõ ràng chẳng hề mỹ mãn. Nên tôi cố thu thập mọi chi tiết có thể; tôi quý trọng cuộc gặp gỡ này và sẽ còn nhâm nhi nó trong một khoảng thời gian rất dài nữa. Nó rất hiếm hoi, như một phần thưởng vậy. Tôi muốn chạm vào làn da anh lần nữa. Tôi chẳng thể nhớ được cảm giác đó. Nhưng hành động đó sẽ vượt quá những ranh giới ứng xử, và cũng có thể khiến anh lại tiếp tục màn quyến rũ vớ vẩn đó.
    “Cô có muốn uống chỗ máu chúng thu được không?” anh hỏi đột ngột. “Đó sẽ là cách tôi tỏ lòng biết ơn của mình.” Anh ra hiệu về phía mấy cái lọ nằm trên mặt đường. “Máu của tôi được cho là có khả năng cải thiện sức khỏe cũng như đời sống chăn gối của cô đấy.”
    “Tôi khỏe như vâm,” tôi thành thực đáp. “Và tôi cũng chẳng có đời sống chăn gối để mà nhắc đến nữa. Anh thích làm gì với chúng thì làm.”
    “Cô có thể bán chúng đi,” anh gợi ý, nhưng tôi nghĩ anh chỉ đợi xem tôi phản ứng thế nào thôi.
    “Tôi không đụng đến chúng đâu,” tôi nói với vẻ bị xúc phạm.
    “Cô thật khác thường,” anh nói. “Cô là gì vậy hả?” Từ ánh mắt của anh, có vẻ như anh đang lập ra trong đầu cả một danh sách các khả năng. Tôi thích thú nhận ra mình chẳng thể nghe thấy một ý nghĩ nào trong số đó.
    “Được thôi. Tôi là Sookie Stackhouse, và tôi làm phục vụ bàn,” tôi đáp. “Còn anh tên gì?” Tôi cho là ít ra mình cũng có thể hỏi điều đó mà không bị cho là quá mạo muội.
    “Bill,” anh đáp Tôi cười lăn lộn mà chẳng thể dừng kịp được.
    “Ma cà rồng Bill!” tôi nói. “Tôi cứ tưởng là Antoine, Basil hay Langford kia đấy! Bill!” Đã lâu lắm rồi tôi không cười đã đời như thế. “Vậy, gặp anh sau nhé, Bill. Tôi phải quay lại làm việc đây.” Tôi cảm thấy hơi căng thẳng khi nghĩ về việc quay lại Merlotte. Vịn tay vào vai Bill, tôi đứng dậy. Bờ vai anh rắn chắc như đá, và tôi bật dậy quá nhanh đến nỗi suýt ngã. Tôi xem lại đôi tất để chắc cổ tất vẫn đều nhau, kiểm tra lại quần áo xem có bị rách ở đâu trong cuộc giằng co với lũ Chuột không. Tôi phủi quần, vì lúc nãy lỡ ngồi trên vỉa hè bẩn, vẫy tay chào Bill rồi băng qua bãi xe.
    Đó là một buổi tối thú vị và đầy cảm xúc. Tôi cảm thấy rộn ràng vui sướng mỗi lần nghĩ về nó.
    Nhưng Jason sẽ cáu điên lên về chuyện sợi xích cho xem.
    SAU CA LÀM tối hôm đó, tôi lái xe trở về căn nhà nằm cách quán bar bốn dặm về phía Nam. Khi tôi quay lại làm việc, Jason đã đi (và lẽ dĩ nhiên DeeAnne cũng thế), lại thêm một chuyện hay ho nữa. Tôi ngẫm đi ngẫm lại về buổi tối đó trên đường lái xe về nhà bà, nơi tôi đang sống. Nó nằm ngay trước nghĩa trang Tall Pines, cách xa con đường hẹp hai làn của vùng xứ đạo. Cụ cố của tôi đã xây dựng ngôi nhà này, và cụ đã ấp ủ những mong muốn về sự riêng tư, nên để đến được ngôi nhà, bạn phải rẽ khỏi con đường xứ đạo, băng qua rừng, rồi mới đến một khoảng rừng thưa nơi ngôi nhà tọa lạc.
    Tôi dám chắc chẳng còn dấu tích gì của ngôi nhà hồi xưa nữa, vì qua năm tháng, tất cả những phần cũ nhất đã bị gỡ đi để thay mới, và tất nhiên ngôi nhà có điện, nước và tất cả những vật dụng tân tiến khác. Nhưng nó vẫn có mái nhà bằng thiếc, sáng lóa lên trong những ngày nắng. Hồi mái cần phải sửa, tôi muốn thay vật liệu bằng thứ ngói lợp thông thường nhưng bà không đồng ý. Tiền của tôi, nhưng nhà của bà, nên lẽ đương nhiên, mái nhà vẫn làm bằng thiếc.
    Cho dù ngôi nhà có cổ kính hay không thì tôi vẫn sống ở đây từ năm lên bảy, và trước đó tôi cũng thường xuyên đến đây, nên tôi rất yêu nó. Đó là một ngôi nhà lâu đời rộng lớn, theo tôi là quá lớn khi chỉ dành cho hai bà cháu.
    Mặt tiền rộng rãi của ngôi nhà được che bằng một cổng vòm to sơn trắng, bà vốn thuộc mẫu người cổ điển. Tôi đi xuyên qua phòng khách rộng mênh mông chất đầy những món đồ mòn vẹt được sắp xếp tùy ý hai bà cháu, rồi bước xuống hành lang để đến căn phòng ngủ đầu tiên bên tay trái, căn phòng to nhất.
    Adele Hale Stackhouse, bà tôi, đang ngồi trên chiếc giường cao, dựa lưng vào đống gối đệm lấp ló sau bờ vai gầy gò. Bà mặc bộ đồ ngủ cotton tay dài bất chấp tiết trời ấm áp đêm xuân, và đèn ngủ của bà vẫn sáng. Trong lòng bà là một cuốn sách.
    “Con về rồi,” tôi nói.
    “Chào con.”
    Bà nhỏ người và đã già lắm rồi, nhưng tóc vẫn rất dày, và trắng đến nỗi gần như có màu xanh nhẹ. Ban ngày bà thường búi tóc ngang vai nhưng đến tối sẽ để xõa hoặc thắt bím. Tôi nhìn bìa cuốn sách bà đang đọc.
    “Bà lại đọc Danielle Steele à?”
    “Ồ, người phụ nữ đó rất biết cách kể chuyện.” Thú vui lớn nhất của bà là đọc truyện của Danielle Steele, theo dõi phim truyền hình (được bà gọi là những “câu chuyện”) và tham gia các buổi gặp mặt của vô số những câu lạc bộ có vẻ như đã gắn bó với bà suốt từ khi bà còn trẻ. Những câu lạc bộ yêu thích nhất của bà là Hậu Duệ Của Những Người Hy Sinh Vinh Quang và Cộng Đồng Làm Vườn Bon Temps.
    “Bà đoán thử xem tối nay đã có chuyện gì nào?” tôi bảo bà.
    “Sao? Con hẹn hò à?”
    “Không ạ,” tôi nói, cố gắng giữ nụ cười trên khuôn mặt. “Một ma cà rồng đã đến quán.”
    “Ái chà, hắn có răng nanh không?” Tôi đã nhìn thấy chúng sáng lóa lên dưới ánh đèn của bãi xe khi cặp vợ chồng nhà Chuột đang rút máu anh, nhưng chẳng cần phải kể chuyện đó cho bà nghe. “Có chứ, nhưng chúng được thu vào rồi ạ.”
    “Ma cà rồng ở ngay tại Bon Temps.” Bà có vẻ cực kỳ hài lòng. “Anh ta có cắn ai ở quán không?”
    “Ôi, không đâu bà! Anh ấy chỉ ngồi uống vang đỏ thôi. Thực ra, anh ấy gọi nhưng không uống. Con nghĩ anh ấy chỉ muốn có bầu bạn thôi.”
    “Không biết anh ta sống ở đâu nhỉ.”
    “Có vẻ như anh ấy sẽ chẳng nói cho ai biết đâu.”
    “Chắc vậy,” bà đáp, ngẫm nghĩ một hồi. “Chắc là không rồi. Con thích anh ta không?”
    Một câu hỏi hóc búa. Tôi nghĩ tới nghĩ lui. “Con cũng chẳng biết nữa. Nhưng anh ấy rất thú vị,” tôi đáp thận trọng.
    “Bà cũng mong được gặp anh ta.”
    Tôi không hề thấy bất ngờ khi bà nói thế, vì bà cũng thích những điều mới lạ chẳng kém gì tôi. Bà không nằm trong số những kẻ phản động cho rằng ma cà rồng phải bị đày xuống địa ngục ngay lập tức. “Nhưng có lẽ bà phải đi ngủ rồi. Bà chỉ đợi con về để tắt đèn thôi.”
    Tôi cúi xuống hôn bà và nói, “Chúc bà ngủ ngon.”
    Tôi khép hờ cánh cửa phòng khi đi ra và nghe thấy tiếng bà với tay tắt đèn. Nàng mèo của tôi, Tina, rời khỏi chỗ ngủ của mình để cọ người vào chân tôi, và tôi bế cô nàng lên vuốt ve một lúc trước khi thả cho nó đi chơi đêm.
    Tôi liếc nhìn đồng hồ. Đã gần hai giờ, và mắt tôi đã díp cả lại.
    Phòng của tôi nằm đối diện phòng bà. Khi tôi sử dụng căn phòng này lần đầu tiên, sau khi cha mẹ tôi qua đời, bà đã chuyển mọi đồ đạc của tôi từ nhà cũ tới đây để tôi có thể cảm thấy như vẫn đang ở nhà. Và đến giờ tất cả vẫn vậy, chiếc giường đơn và bàn trang điểm bằng gỗ sơn trắng, cái rương quần áo nho nhỏ.
    Tôi bật đèn, đóng cửa lại rồi bắt đầu thay quần áo. Tôi có ít nhất năm cái quần soóc đen và rất, rất nhiều áo phông trắng, vì chúng rất dễ ố. Ngoài ra còn vô số tất trắng cuộn lại để trong ngăn kéo. Vậy nên tối nay tôi không phải giặt đồ. Tôi cũng mệt đến nỗi chẳng tắm táp nổi. Tôi đánh răng, rửa sạch lớp phấn trang điểm, vỗ vỗ ít kem giữ ẩm và tháo dây buộc tóc ra.
    Tôi chui vào chăn trong chiếc áo chuột Mickey yêu thích dài gần đến gối. Tôi nằm nghiêng như thường lệ và tận hưởng sự tĩnh lặng của căn phòng. Vào lúc khuya khoắt thế này thì hầu như ai nấy đều đã ngủ, mọi hoạt động đều đã ngừng, và sẽ chẳng ai làm phiền tôi nữa. Trong không gian yên bình đó, tôi nhanh chóng chìm vào giấc ngủ vùi sau một ngày mệt mỏi, chỉ kịp nghĩ về đôi mắt đen huyền của chàng ma cà rồng trước khi khép mi mắt lại.
    TRƯA HÔM SAU, tôi nằm tắm nắng trên chiếc ghế gấp bằng nhôm ở trước hiên nhà. Tôi bận một bộ đồ hai mảnh không quai màu trắng yêu thích, và vì chúng có vẻ rộng hơn hè năm trước nên tôi cảm thấy rất thoải mái.
    Rồi tôi nghe thấy tiếng động cơ xe đang tiến lại, và chiếc xe tải viền xanh và hồng của Jason xuất hiện ngay bên cạnh.
    Jason trèo xuống - tôi đã kể là chiếc xe lắp lốp cao chưa nhỉ? - đứng ra oai trước mặt tôi. Anh mặc bộ đồ lao động hằng ngày, quần và áo kaki, kèm theo một bao đựng dao dắt ở lưng quần, trông y hệt những công nhân làm đường khác ở vùng này. Nhìn vào cách Jason bước lại, tôi biết anh đang điên tiết.
    Tôi đeo kính râm vào.
    “Sao tối qua mày không nói với anh là mày định tẩn vợ chồng Rattray?” Anh tôi quăng người vào chiếc ghế nhôm ngay cạnh ghế của tôi. “Bà đâu rồi?” anh hỏi.
    “Đang phơi đồ,” tôi đáp. Những khi cần kíp bà vẫn sử dụng máy sấy, nhưng thường thì bà thích phơi quần áo ngoài nắng hơn. Tất nhiên dây phơi quần áo nằm ở sân sau, như mọi dây phơi quần áo khác. “Bà đang chuẩn bị món bít tết quê, khoai tây ngọt và đậu xanh bà trồng năm ngoái cho bữa trưa,” tôi thêm vào, biết rằng làm như thế có thể khiến Jason sao nhãng đi phần nào. Tôi hy vọng bà vẫn đang ở sân sau. Tôi không hề muốn bà nghe thấy cuộc nói chuyện này. “Anh nói nhỏ thôi,” tôi nhắc anh. “Rene Lenier cứ sôi lên xình xịch, chỉ mong sáng nay gặp mặt để kể lại cho anh. Tối qua hắn tạt vào chỗ xe moóc nhà Rattray để mua cỏ thì thấy Denise đang lái xe như sắp giết người đến nơi. Rene bảo suýt nữa hắn đã toi mạng, mụ ta như phát điên vậy. Rene và Denise phải cố lắm mới lôi được Mack lên xe moóc rồi chở hắn đến bệnh viện ở Monroe.” Jason trừng trừng nhìn tôi với vẻ kết tội.
    “Thế Rene có kể với anh là Mack đã cầm dao tấn công em trước không?” tôi hỏi, quyết định rằng tấn công sẽ là cách tốt nhất để giải quyết chuyện này. Tôi dám chắc thái độ tức giận của Jason phần nhiều là do anh nghe câu chuyện từ người khác.
    “Nếu Denise có kể với Rene thì hắn cũng không cho anh biết,” Jason đáp lại chậm rãi, gương mặt điển trai của anh tối sầm lại vì giận. “Hắn tấn công em bằng dao à?”
    “Nên em phải tự vệ thôi,” tôi nói, cứ như thể đó là chuyện hiển nhiên vậy. “Hắn còn lấy sợi xích của anh đi nữa.” Tất cả đều là sự thật, chỉ được biến tấu đi một chút xíu thôi.
    “Em quay lại để kể với anh,” tôi tiếp tục, “nhưng khi về đến quán thì anh đã đi với DeeAnne rồi, và vì em vẫn ổn nên em nghĩ cũng chẳng cần phải tìm anh làm gì. Em biết rõ nếu nghe về chuyện con dao, anh chắc chắn sẽ muốn đuổi theo hắn,” tôi bồi thêm vào. Quả là thế thật, vì Jason cực kỳ hứng thú với mấy chuyện đấm đá. “Nhưng lúc đấy em làm cái quái gì ở đó chứ?” Jason hỏi, nhưng có vẻ đã dịu xuống, và tôi biết anh đã chấp nhận câu chuyện của tôi.
    “Anh có biết là, ngoài việc bán thuốc phiện, bọn Chuột còn rút máu ma cà rồng không?”
    Đến lượt anh kinh ngạc. “Không... thế thì sao?”
    “Tối qua một khách hàng của em là ma cà rồng, và bọn chúng đã rút máu anh ta ở bãi xe của quán Merlotte! Em không thể để chuyện đấy xảy ra được.”
    “Có ma cà rồng ở Bon Temps ư?”

  4. #4
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    “Phải. Cho dù không muốn thân thiết với ma cà rồng thì ta cũng đâu thể để bọn rác rưởi như vợ chồng Chuột rút máu anh ta được. Đấy có phải chuyện hút xăng từ xe hơi đâu chứ. Và chúng sẽ bỏ mặc anh ta trong rừng cho đến chết.” Tuy vợ chồng Chuột không nói với tôi dự định của chúng, tôi cũng dám cá là chúng sẽ làm thế. Cho dù bọn chúng có cho anh nằm trong bụi rậm để anh vẫn có thể sống sót trước ánh sáng ban ngày đi chăng nữa thì một ma cà rồng bị rút máu vẫn phải mất khoảng hai mươi năm để hồi phục hoàn toàn, ít nhất thì đó là những gì tôi nghe trên Oprah. Và đó là trong trường hợp anh ấy có một ma cà rồng khác chăm sóc.
    “Khi anh đến quán tay ma cà rồng có ở đó không?” Jason sững sờ hỏi.
    “Ờ. Anh chàng tóc sẫm màu ngồi với nhà Chuột ấy.”
    Jason nhe răng cười trước cách tôi gọi nhà Rattray. Nhưng anh vẫn chưa buông tha chuyện tối qua. “Sao em biết anh ta là ma cà rồng?” Jason hỏi, nhưng khi anh nhìn tôi, tôi có thể dám chắc anh ước gì mình đã không hỏi thế.
    “Em biết thế thôi,” tôi nói với giọng dứt khoát hết mức.
    “Được rồi.” Và sau đó không ai nói thêm gì nữa.
    “Ở Homulka không có ma cà rồng,” Jason nói với vẻ trầm ngâm. Anh nghiêng đầu đón ánh mặt trời, và tôi biết chuyện vậy là ổn thỏa rồi.
    “Đúng thế,” tôi đồng tình. Homulka là thị trấn bị người dân Bon Temps ghét cay ghét đắng. Hai thị trấn cạnh tranh nhau từ bóng đá, bóng rổ cho tới những dấu ấn lịch sử suốt bao thế hệ.
    “Cả Roedale cũng không có đâu,” bà cất tiếng ngay sau lưng hai anh em, khiến Jason và tôi nhảy dựng lên vì bất ngờ. Tôi ra dấu để Jason giữ mồm giữ miệng, anh lao đến ôm bà thật chặt giống như mọi lần anh gặp bà.
    “Bà ơi, bà nấu đủ thức ăn cho cả con chứ?”
    “Thêm hai đứa nữa cũng vẫn đủ,” bà đáp. Bà cười với Jason. Bà biết hết mọi lỗi lầm của Jason (hay của tôi), nhưng bà vẫn yêu anh. “Everlee Mason vừa gọi đến. Bà ta kể đêm qua con đã đong đưa DeeAnne.”
    “Chúa ơi, chẳng thể thoải mái làm điều mình thích trong cái thị trấn này nữa rồi,” Jason thốt lên, nhưng không có vẻ giận dữ thật sự.
    “Cô DeeAnne đó,” bà nói với giọng cảnh báo khi ba bà cháu bước vào nhà, “bà nhớ là cô ta đã có mang một lần rồi. Cẩn thận đừng làm cô ta dính bầu lần nữa, không thì con sẽ phải trả giá cho tới tận cuối đời đấy. Nhưng xem chừng đó là cách duy nhất để ta có chắt thì phải!”
    Bà dọn đồ ăn lên bàn, và ngay sau khi Jason treo mũ, chúng tôi ngồi cả xuống và cầu nguyện. Rồi bà và Jason bắt đầu buôn chuyện (tuy nhiên cả hai bà cháu đều gọi đó là “tìm hiểu tí chút”) về mọi người dân trong cái thị trấn nhỏ bé này. Anh tôi làm việc cho hạt, giám sát đội làm đường. Theo như tôi biết thì cả ngày Jason chỉ lái xe công vụ đi loanh quanh, chờ đến hết giờ làm thì rong ruổi cả đêm trên chiếc xe tải của mình. Rene thuộc đội công nhân do anh tôi giám sát, họ là bạn từ hồi phổ thông. Hai người và Hoyt Fortenberry luôn kè kè với nhau.
    “Sookie này, có khi anh phải thay cái bình nóng lạnh ở nhà,” đột nhiên Jason nói. Anh sống ở căn nhà cũ của gia đình, nơi chúng tôi đã cùng sống cho đến khi cha mẹ tôi mất trong một trận lũ. Kể từ đó chúng tôi chuyển về sống với bà, nhưng sau khi học xong hai năm đại học rồi ra làm việc cho hạt, Jason đã quay lại căn nhà cũ, mà trên giấy tờ thì một nửa là của tôi.
    “Anh cần tiền để thay không?” tôi hỏi.
    “Khỏi, anh có đủ mà.”
    Cả hai anh em đều có lương, nhưng chúng tôi còn có thêm khoản thu nhập nho nhỏ từ một quỹ được lập ra khi có một giếng dầu lấn vào phần bất động sản thuộc quyền sở hữu của cha mẹ tôi. Giếng dầu chỉ vài năm là cạn, nhưng cha mẹ và bà đã đảm bảo tiền được mang đi đầu tư. Món thêm nếm đó đã nhiều lần giúp Jason và tôi thoát khỏi tình cảnh bi đát. Tôi cũng chẳng biết nếu không có khoản tiền đó thì bà sẽ xoay xở nuôi nấng hai anh em ra sao. Bà đã hạ quyết tâm sẽ không bán bất kỳ phần đất đai nào, nhưng thu nhập của bà cũng chẳng lớn hơn tiền phúc lợi xã hội là bao. Đó cũng là lý do tôi không ra ở riêng. Nếu tôi mua thứ này thứ nọ khi sống cùng bà, thì bà sẽ thấy thế cũng là chuyện hợp tình hợp lẽ, nhưng nếu tôi mua mang đến đặt trên bàn nhà bà rồi sau đó lại quay về nhà mình thì đó là đồ bố thí và sẽ làm bà cáu điên lên.
    “Anh định mua loại nào?” tôi cố tỏ ra quan tâm.
    Jason chỉ chờ có thế; anh nghiện đồ máy móc kinh khủng và rất mong muốn được trình bày kỹ càng quá trình anh so sánh chọn lựa để mua được cái bình nóng lạnh mới. Tôi cố vận toàn bộ khả năng tập trung của mình để lắng nghe.
    Và rồi anh đột ngột chuyển sang đề tài khác. “Sook này, em có nhớ Maudette Pickens không?”
    “Chắc chắn rồi,” tôi ngạc nhiên nói. “Bọn em là bạn học mà.”
    “Tối qua có kẻ đã giết chết Maudette trong căn hộ của cô ấy.”
    Bà và tôi trở nên tập trung hơn. “Bao giờ?” bà hỏi lại, cứ như thể mình nghe nhầm vậy.
    “Sáng sớm nay họ vừa tìm thấy xác cô ấy trong phòng ngủ. Ông chủ của Pickens đã cố gọi để xem tại sao hai hôm nay cô ấy không đi làm nhưng chẳng thấy ai bắt máy cả, vậy nên ông ấy lái xe qua nhà dựng viên quản lý dậy, rồi họ phá khóa. Hai người biết là căn hộ của cô ấy nằm đối diện nhà DeeAnne chứ?” Bon Temps chỉ có một khu chung cư, một khu liên hợp hình chữ U gồm ba tòa nhà hai tầng, vậy nên hai bà cháu đều biết đích xác anh muốn ám chỉ nơi nào.
    “Cô ấy bị giết ở đấy à?” Tôi cảm thấy hơi choáng. Tôi nhớ Maudette khá rõ. Maudette có chiếc cằm bạnh và vòng ba vuông chằn chặn, thêm mái tóc đen và bờ vai thô khỏe. Maudette con người cần cù, chẳng thông minh và cũng không tham vọng. Tôi nhớ hình như cô làm ở Grabbit Kwik, một cửa hàng tiện ích kèm cây xăng.
    “Ừ, anh nghĩ cô ấy làm ở đó ít nhất là một năm rồi,” Jason xác nhận.
    “Cô ấy chết ra sao?” bà hỏi, với ánh mắt nói-ngay-cho-bà-biết-đi-nào của một người tốt đang hỏi han về những chuyện không may.
    “Cô ấy bị vài vết cắn của ma cà rồng ở - ừm - đùi non,” anh tôi đáp, nhìn chằm chằm xuống đĩa thức ăn. “Nhưng đó không phải nguyên nhân cái chết. Cô ấy bị bóp cổ. DeeAnne kể với con là nếu được nghỉ vài ngày, Maudette thích đến quán bar dành cho ma cà rồng ở Shreveport, nên có lẽ cô ấy bị cắn ở nơi đó. Có lẽ không phải chàng ma cà rồng của Sookie đâu nhỉ.”
    “Maudette là nhân tình răng nanh à?” tôi thấy hơi lợm giọng khi hình dung ra cô nàng Maudette ù lỳ chậm chạp trong bộ đồ đen kỳ dị mà đám nhân tình răng nanh rất ưa chuộng.
    “Nghĩa là sao?” bà hỏi. Chắc hẳn bà đã bỏ qua chương trình talk show Sally Jessy hôm chiếu phóng sự về hiện tượng này.
    “Đó là cách gọi những người đàn ông đàn bà quan hệ tình dục với ma cà rồng và thích bị cắn. Những kẻ hâm mộ ma cà rồng. Con nghĩ họ cũng chẳng sống lâu được đâu, vì họ muốn bị cắn nhiều mà, không sớm thì muộn cũng thành quá đà thôi.”
    “Nhưng Maudette đâu có chết vì vết cắn.” Bà muốn đảm bảo mình đã hiểu rõ vấn đề.
    “Đúng vậy, bị bóp cổ.” Jason đã giải quyết xong bữa trưa.
    “Anh thường xuyên đến mua xăng ở Grabbit đúng không?” tôi hỏi.
    “Ừ. Cả đống người cũng thế mà.”
    “Và con cũng hẹn hò với cô Maudette đó vài lần đúng không nhỉ?” bà hỏi bồi thêm.
    “Theo một cách nào đó thì đúng vậy,” Jason đáp với vẻ cảnh giác.
    Tôi hiểu thế có nghĩa là anh ấy sẽ ngủ với Maudette khi không tìm được ai khác.
    “Bà hy vọng cảnh sát trưởng không có ý định nói chuyện với con.” Bà vừa nói vừa lắc đầu, cứ như thể nói “không” vẫn còn chưa đủ.
    “Sao cơ ạ?” Mặt Jason đỏ bừng, trông có vẻ đề phòng.
    “Anh thường xuyên gặp Maudette ở cửa hàng khi anh đến đó đổ xăng, anh nói-theo-cách-nào-đó đã hẹn hò với cô ấy, và cô ấy chết trong căn hộ mà anh đã quá quen thuộc,” tôi chỉ ra mấu chốt vấn đề. Không nhiều, nhưng cũng có vài vấn đề đáng nghi ngờ, và ở Bon Temps này có ít kẻ sát nhân ẩn danh đến nỗi tôi dám chắc người ta sẽ lôi mọi thứ khả nghi vào cuộc điều tra.
    “Anh đâu phải người duy nhất chứ. Có cả tá gã mua xăng ở đó, gã nào mà lại không biết Maudette chứ.”
    “Đúng thế, nhưng theo kiểu nào?” bà hỏi huỵch toẹt. “Cô ta đâu phải gái bán hoa, phải không? Vậy nên người ta sẽ biết cô ta đã gặp gỡ những ai.”
    “Cô ta chỉ muốn vui vẻ thôi, cô ta không phải dân chuyên nghiệp.” Jason rõ là tử tế khi cố bảo vệ Maudette, khác hẳn với tính cách ích kỷ lúc thường của anh. Tôi bắt đầu suy nghĩ tích cực hơn một chút về ông anh mình. “Anh đoán có lẽ cô ấy cảm thấy hơi cô đơn,” anh thêm vào. Rồi Jason nhìn hai bà cháu tôi, và thấy rõ cả hai đều bất ngờ và cảm động.
    “Nhắc đến gái bán hoa,” anh nói tiếp luôn, “có một cô ả ở Monroe chuyên phục vụ ma cà rồng. Cô ta luôn trói khách hàng vào cọc phòng trường hợp hắn say sưa quá mức. Cô ta còn uống cả máu nhân tạo để đảm bảo lượng máu của mình không cạn kiệt.” Đúng là một cách chuyển chủ đề không tồi, cả bà và tôi đều phải cố nghĩ ra một câu hỏi sao cho không tỏ ra quá sỗ sàng.
    “Chẳng biết cô ta tính tiền thế nào nhỉ?” tôi đánh bạo hỏi, và khi Jason nói ra số tiền anh nghe đồn, cả hai bà cháu tôi đều choáng váng.
    Khi chúng tôi kết thúc chủ đề về cái chết của Maudette, bữa trưa lại tiếp tục như bình thường, và đến lúc rửa bát thì Jason vội nhìn đồng hồ rồi la lên rằng anh phải đi ngay.
    Nhưng tôi biết bà vẫn mải nghĩ về chuyện ma cà rồng. Một lúc sau bà vào phòng tôi, khi tôi đang bận rộn trang điểm để chuẩn bị đi làm.
    “Con nghĩ anh chàng ma cà rồng con gặp khoảng bao nhiêu tuổi?”
    “Con chẳng biết nữa, bà à.” Tôi đang chuốt mascara, mắt mở to và cố không chớp để que chải không chọc vào mắt, vậy nên giọng tôi nghe thật buồn cười, cứ như thể tôi bắt chước nhân vật trong phim kinh dị vậy.
    “Con nghĩ... anh ta còn nhớ về Cuộc Chiến đó không?”
    Tôi chẳng cần phải hỏi cuộc chiến nào. Dù sao thì bà cũng là thành viên tiêu biểu của câu lạc bộ Hậu Duệ Của Những Người Hy Sinh Vinh Quang.
    “Có thể ạ,” tôi vừa đáp vừa quay mặt sang hai bên để xem phấn má đã đánh đều chưa.
    “Con nghĩ anh ta có chịu đến nói chuyện về cuộc chiến không? Chúng ta có thể tổ chức một cuộc họp mặt đặc biệt.”
    “Vào buổi đêm,” tôi nhắc bà.
    “Ồ. Phải, tất nhiên rồi.” Câu lạc bộ Hậu Duệ này thường họp vào buổi trưa ở thư viện, và các thành viên tự mang theo bữa trưa cho mình.
    Tôi đắn đo. Sẽ thật thô lỗ nếu yêu cầu chàng ma cà rồng đến nói chuyện tại câu lạc bộ của bà để đáp lại việc tôi đã cứu anh thoát khỏi bọn Rút Máu, nhưng biết đâu anh sẽ tự đề nghị nếu tôi gợi ý bóng gió? Tôi không thích chuyện này, nhưng tôi sẽ làm vì bà. “Con sẽ hỏi khi anh ấy quay trở lại quán,” tôi hứa.
    “ít nhất thì anh ta cũng có thể đến nói chuyện với bà, và bà có thể ghi âm lại những hồi tưởng của anh ta,” bà nói. Tôi có thể nghe thấy tâm trí bà kêu lên lách ca lách cách trong lúc bà suy nghĩ đây sẽ là hành động phi thường đến thế nào. “Các thành viên khác của câu lạc bộ sẽ thích thú lắm cho mà xem,” bà nói đầy hứng khởi. Tôi cố nén cười. “Con sẽ gợi ý cho anh ấy,” tôi đáp. “Chúng ta cứ đợi rồi sẽ biết.”
    Khi tôi rời khỏi nhà, bà rõ ràng vẫn đang ngồi đếm cua trong lỗ.
    TÔI KHÔNG NGHĨ là Rene Lenier sẽ đến chỗ Sam ba hoa về vụ đấm đá ngày hôm qua ở bãi đỗ xe. Nhưng Rene vốn là người bận rộn. Khi đến chỗ làm chiều hôm đó, tôi cứ tưởng tâm trạng lo âu bao trùm quán là do cái chết của Maudette. Hóa ra lại không phải vậy.
    Sam gọi tôi vào kho ngay khi tôi đến. Anh nhảy dựng lên vì giận. Anh trút hết cơn thịnh nộ lên tôi.
    Trước đây Sam chưa bao giờ nổi cáu với tôi, nên chẳng mấy chốc nước mắt tôi đã chực trào ra.
    “Và nếu em nghĩ một khách hàng không được an toàn, em phải nói với anh, anh sẽ lo việc đó, không phải em,” Sam nhắc lại câu nói đến lần thứ sáu, và rồi tôi nhận ra anh đang lo cho tôi.
    Tôi vội dựng hàng rào tâm trí lên trước khi “nghe” Sam một cách rõ ràng. Nghe được suy nghĩ của ông chủ chỉ tổ dẫn đến tai họa.
    Tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện nhờ Sam - hay bất kỳ ai khác - giúp đỡ “Và nếu em nghĩ có người bị hại ở bãi xe của chúng ta, em nên gọi ngay cho cảnh sát chứ không được liều lĩnh xông ra như thế,” Sam cáu tiết. Nước da hồng hào của anh đỏ hơn bao giờ hết, mái tóc vàng ánh kim của anh xù lên như thể chưa được chải.
    “Được rồi,” tôi nói, cố giữ giọng bình tĩnh và mở to mắt để những giọt lệ không ứa ra. “Anh sẽ sa thải em à?”
    “Không! Không!” anh la lên, trông có vẻ còn giận hơn nữa. “Anh không muốn mất em!” Anh tóm chặt bờ vai tôi, lay nhẹ. Rồi anh nhìn thẳng vào tôi với đôi mắt to xanh thẳm khiến tôi cảm nhận được từ anh một luồng nhiệt nóng bỏng. Những đụng chạm đó khiến tôi bất lực, làm tôi không thể ngăn được việc lắng nghe tâm trí người chạm vào mình. Tôi nhìn sâu vào đôi mắt anh một lúc lâu, rồi chợt bừng tỉnh và nhảy lùi lại làm cánh tay anh rơi thõng xuống.
    Tôi quay đi, kinh hãi rời khỏi phòng. Tôi đã nắm bắt được vài thông tin rời rạc. Sam thèm muốn tôi; và tôi không thể nghe được những suy nghĩ của anh rõ ràng như với người khác. Tôi cảm nhận được những làn sóng cảm xúc của anh, chứ không phải là suy nghĩ. Cứ như thể đeo một chiếc nhẫn bộc lộ cảm xúc thay vì nhận được một bức fax.
    Vậy thì, tôi nên làm gì với những mẩu thông tin đó đây?
    Tuyệt đối chẳng làm gì.
    Trước đây tôi chưa bao giờ cho rằng Sam là mẫu người gợi tình - hay ít nhất là xét trên quan điểm của tôi - vì cả đống lý do. Nhưng lý do đơn giản nhất là tôi chưa từng nhìn ai theo cách đó, không phải vì tôi không có hoóc môn - Chúa ơi, tôi có đấy chứ - có điều chúng thường xuyên bị dẹp sang một bên vì với tôi, tình dục là thảm họa. Bạn có thể tưởng tượng được cảm giác khi biết bạn tình của mình đang nghĩ gì không? Đúng vậy đấy. Kiểu như “Chúa ơi, nhìn cái nốt ruồi đó kìa... Mông cô ấy hơi to quá... Ước gì cô ấy nhích sang phải một chút... Sao cô ấy không hiểu ý mình và...?” Bạn hiểu rồi đấy. Những cái đó phá tan nát cảm xúc, tin tôi đi. Và trong suốt cuộc ân ái, dựng rào cản tâm trí cho mình đâu có phải chuyện đơn giản.
    Một lý do nữa là tôi thích Sam bằng thứ tình cảm của nhân viên dành cho ông chủ, và tôi thích công việc của mình, một công việc đã kéo tôi ra ngoài và giúp tôi không trở nên trì trệ, lại còn cho tôi mức thu nhập đủ để tôi thoát khỏi nguy cơ biến thành kẻ ẩn dật như bà tôi thường lo ngại. Công việc văn phòng quá khó đối với tôi, còn đại học thì gần như điều không thể vì nó cần sự tập trung cao độ. Sinh lực của tôi sẽ bị hút kiệt mất.
    Vậy nên, ngay lúc này đây, tôi muốn suy ngẫm thật cẩn thận về thứ cảm xúc thèm muốn mà tôi đã cảm nhận được từ Sam. Sẽ không mấy khả năng anh đưa ra một gợi ý bằng lời hay ấn tôi xuống nền nhà kho. Tôi cảm nhận được cảm xúc của anh, và tôi có thể lờ đi nếu muốn. Tôi mừng vì anh đã cư xử lịch sự như vậy, và tự hỏi không biết Sam có cố ý chạm vào tôi không, không biết anh có thật sự hiểu tôi là con người như thế nào không.
    Tôi sẽ cẩn thận tránh ở một mình với anh, nhưng tôi phải thừa nhận rằng tối đó mình cũng có phần dao động. HAI BUỔI TỐI SAU tình hình đã khá hơn. Chúng tôi quay trở lại với mối quan hệ thoải mái như cũ. Tôi nhẹ cả người. Nhưng tôi cũng hơi thất vọng. Và vì cái chết của Maudette đã làm cho Merlotte trở nên hết sức nhộn nhịp nên tôi cũng mệt đến bở hơi tai. Có đủ mọi loại tin đồn vo ve xung quanh Bon Temps, và đội buôn chuyện của thành phố Shrevenport cũng thêm thắt tí chút vào cái chết rùng rợn của Maudette. Tôi không đến dự đám tang của cô ấy nhưng bà tôi thì có, và bà kể là nhà thờ hôm đấy chật chội hết mức. Với những vết cắn ở đùi ấy, sự quan tâm mà chúng tôi dành cho cái chết của cô nàng Maudette khù khờ tội nghiệp còn lớn hơn nhiều so với những tình cảm cô nhận được khi còn sống.
    Tôi chuẩn bị được nghỉ hai ngày, và lo rằng mình có thể bị mất liên lạc với chàng ma cà rồng, Bill. Tôi cần phải chuyển lời đề nghị của bà. Anh vẫn chưa quay trở lại, và tôi bắt đầu tự hỏi liệu anh có quay lại hay không. Mack và Denise cũng không thấy trở lại quán Merlotte, nhưng Rene Lenier và Hoyt Fortenberry thì không lúc nào quên nhắc nhớ tôi về những đe dọa khủng khiếp mà vợ chồng nhà Chuột đã dành cho tôi. Thực ra thì tôi cũng chẳng quan tâm lắm. Những tên tội phạm rác rưởi như vợ chồng nhà Chuột nhan nhản khắp các cao lộ và các bãi xe moóc nước Mỹ, chẳng đủ thông minh cũng như phẩm hạnh để có được một cuộc sống ổn định hữu ích. Chúng chẳng bao giờ có được đóng góp tích cực cho thế giới, theo cách nghĩ của tôi. Tôi nhún vai phớt lờ những cảnh báo của Rene.
    Nhưng anh ta chắc chắn rất thích thú khi được cảnh báo tôi hết lần này đến lần khác. Rene Lenier cũng nhỏ người giống như Sam, nhưng Sam thì hồng hào và tóc vàng, còn Rene da ngăm đen, có một nùi tóc đen rối bù điểm những sợi bạc. Rene thường ghé vào quán uống bia và gặp Arlene bởi vì (như anh ta luôn hào hứng kể với bất kỳ ai có mặt ở quán) chị ấy là người vợ cũ được anh ta dành nhiều tình cảm nhất. Anh ta có ba đời vợ. Hoyt Fortenberry thì tầm thường hơn Rene rất nhiều. Da anh ta không đen cũng chẳng trắng, vóc người chẳng to cũng chẳng nhỏ. Anh ta luôn tỏ ra vui vẻ và boa hậu. Hoyt ngưỡng mộ anh trai tôi, Jason, nhiều hơn nhiều so với mức Jason đáng được hưởng, theo ý tôi.
    Tôi mừng là Rene và Hoyt không ở đó vào buổi tối chàng ma cà rồng quay lại.
    Anh vẫn ngồi ở chiếc bàn hôm rước. Giờ đây khi chàng ma cà rồng đã thực sự ở trước mặt, tôi lại cảm thấy hơi ngượng ngùng. Tôi nhận ra mình đã quên mất thứ ánh sáng lấp lánh gần như không thể nhận thấy được của làn da anh. Tôi đã phóng đại chiều cao và những đường nét dứt khoát trên khóe miệng anh.
    “Anh dùng gì?” tôi hỏi.
    Anh ngước nhìn tôi. Tôi cũng đã quên mất chiều sâu đôi mắt anh. Anh không cười cũng không nháy mắt; anh hoàn toàn bất động. Lần thứ hai, tôi cảm thấy thoải mái trước sự tĩnh lặng đó. Khi dỡ bỏ sự đề phòng, tôi có thể cảm thấy khuôn mặt mình giãn ra. Tuyệt vời như khi được mát xa vậy (tôi đoán thế).
    “Cô là gì vậy?” anh hỏi tôi. Lần thứ hai câu hỏi ấy được đưa ra.
    “Tôi là phục vụ bàn”,” tôi đáp, một lần nữa cố tình hiểu nhầm ý anh. Tôi cảm nhận được nụ cười chuyên nghiệp của mình đang trở lại.
    Khoảnh khắc yên bình ít ỏi đã tan biến.
    “Rượu vang đỏ,” anh yêu cầu, giọng nói không để lộ dấu hiệu thất vọng nào.
    “Hẳn rồi,” tôi nói. “Ngày mai máu nhân tạo sẽ được xe hàng chuyển đến. Nghe này, sau giờ làm, tôi có thể nói chuyện với anh một lát không? Tôi cần nhờ anh một việc.”
    “Chắc chắn rồi. Tôi nợ cô mà.” Và chắc chắn anh chẳng có có vẻ gì là vui cả.
    “Thực ra không phải giúp tôi!” Tôi cảm thấy hơi chạnh lòng. “Mà là cho bà tôi. Nếu có thể - tôi đoán chắc là được thôi - thì anh chờ tôi lúc một rưỡi ở cửa dành cho nhân viên đằng sau quán được không?” tôi hất đầu ra dấu, túm tóc đuôi ngựa lúc lắc trên vai. Ánh mắt anh dõi theo chuyển động của mái tóc tôi.
    “Tôi rất hân hạnh.”
    Tôi không biết có phải anh đang thể hiện sự nhã nhặn mà bà vẫn luôn khẳng định là một chuẩn mực của thời xa xưa không, hay đơn giản chỉ là anh đang cợt nhả tôi.
    Tôi cố kìm để không thè lưỡi hay bĩu môi với anh. Tôi quay gót trở lại quầy bar. Khi tôi mang rượu đến, anh boa tôi hai mươi phần trăm. Một lúc sau, khi tôi ngó về phía bàn anh, anh đã không còn ở đó nữa. Tôi băn khoăn không biết anh có giữ lời không.
    Vì một vài lý do, chủ yếu là tại hầu hết hộp đựng giấy ăn ở khu vực tôi phụ trách đều sắp hết đến nơi, nên khi tôi sẵn sàng rời khỏi quán thì Arlene và Dawn đã về được một lúc rồi. Khi lấy ví ra khỏi tủ đồ có khóa trong văn phòng Sam, nơi tôi vẫn cất nó khi làm việc, tôi lớn tiếng chào tạm biệt ông chủ của mình. Tôi nghe tiếng loảng xoảng trong phòng vệ sinh nam, có lẽ anh đang cố sửa một ống nước bị rò. Tôi tạt qua phòng vệ sinh nữ để kiểm tra tóc tai và trang điểm.
    Khi bước ra ngoài, tôi nhận thấy Sam đã tắt đèn ở bãi xe dành cho khách. Chỉ còn đèn an ninh lắp trên cột điện trước toa xe lưu động của anh là vẫn còn chiếu sáng bãi đỗ xe dành cho nhân viên. Arlene và Dawn đã rất thích thú khi Sam dựng một hàng rào gỗ bạch dương ngay trước toa xe lưu động của anh, và họ vẫn không ngừng trêu chọc anh về hàng rào quá nổi đó.
    Tôi thì nghĩ nó rất đẹp.
    Như thường lệ, xe tải của Sam đỗ ngay trước toa xe lưu động, nên chỉ còn độc chiếc xe con của tôi nằm trong bãi.
    Tôi duỗi mình, nhìn quanh quất. Không thấy Bill. Tôi bất ngờ vì lại cảm thấy thất vọng đến thế. Tôi thật tình trông chờ anh cư xử một cách lịch sự, kể cả khi trái tim anh (liệu anh có trái tim không nhỉ?) không mách bảo anh làm điều đó.
    Có thể, tôi mỉm cười nghĩ, anh sẽ nhảy ra từ một cái cây nào đó, hoặc bất thình lình xuất hiện trước mặt tôi trong chiếc áo choàng đen viền đỏ. Nhưng chẳng có gì xảy ra cả. Tôi đành lê bước về xe.
    Tôi đã mong có một bất ngờ, nhưng bất ngờ đó lại khác hoàn toàn với những gì tôi nghĩ.
    Mack Rattray nhảy ra từ sau xe tôi và chỉ với một sải chân, hắn đã đến đủ gần để tung một cú móc mạnh mẽ vào quai hàm tôi. Hắn đánh liên tiếp, và tôi đổ sụp xuống mặt sỏi như một bao xi măng. Tôi bật hét lên khi ngã xuống, nhưng mặt đất đã lôi tuột toàn bộ không khí trong buồng phổi và thêm cả vài mảng da của tôi, vậy là tôi im lặng, ngộp thở và bất lực. Rồi tôi nhìn thấy Denise, thấy mụ hất chiếc bốt nặng trịch của mụ, và tôi chỉ kịp cuộn người lại như một quả bóng khi nhà Rattray bắt đầu đá tôi. Cơn đau cực độ đến ngay lập tức, buốt nhói. Tôi giơ tay che mặt theo bản năng, hứng chịu những đòn đánh vào tay, chân và lưng.
    Trong khi chịu đựng những cú đòn đầu tiên, tôi đã tin chắc rồi chúng sẽ dừng lại, chửi rủa tôi và bỏ đi thôi. Nhưng tôi vẫn còn nhớ như in khoảnh khắc tôi bất chợt nhận ra chúng định giết chết tôi.
    Tôi có thể nằm đó một cách bị động để hứng đòn, nhưng tôi không đời nào nằm đó chịu chết.
    Chờ tới khi một cái cẳng chân tiến lại gần, tôi tung người chộp lấy và vận hết sức để giữ thật chặt. Tôi cố cắn, cố gắng ít nhất cũng phải để lại dấu vết trên người chúng. Tôi không nhận ra được đó là chân của ai.
    Rồi, từ đằng sau, tôi nghe vang đến tiếng gầm gừ. Ôi không, chúng mang theo chó, tôi nghĩ. Tiếng gầm gừ rõ ràng đầy thù địch. Nếu tôi còn sức để biểu lộ cảm xúc, chắc tóc gáy tôi đã phải dựng ngược hết lên rồi.
    Tôi nhận thêm một cú đá nữa, và sau đó trận đòn chấm dứt.
    Cú đá sau cùng là một đòn chí mạng đối với tôi. Tôi có thể nghe thấy hơi thở khò khè và tiếng bong bóng khí dường như phát ra từ chính buồng phổi của mình.
    “Cái quái gì vậy?” Mack Rattray thốt lên, giọng vô cùng khiếp sợ.
    Tôi nghe thấy tiếng gầm gừ đó một lần nữa, gần hơn, ở ngay đằng sau tôi. Rồi tôi lại nghe thấy tiếng gầm gừ xuất phát từ một hướng khác. Denise bắt đầu rền rĩ. Mack văng tục.
    Denise cố rút chân ra khỏi vòng tay đang dần tê bại của tôi. Hai cánh tay tôi buông thõng xuống đất. Chúng dường như đã bị mất kiểm soát. Dù không còn nhìn rõ nữa, tôi vẫn có thể nhận ra cánh tay phải của mình đã gãy. Mặt thì ướt nhoét. Tôi chẳng dám ước tính những vết thương của mình nữa.
    Mack bắt đầu thét lên, sau đó là Denise, và dường như xung quanh tôi đang diễn ra đủ mọi hoạt động, nhưng tôi không tài nào cử động được. Trong tầm nhìn của tôi chỉ có cánh tay bị gãy, hai đầu gối dập nát cùng bóng tối bao phủ dưới gầm xe. Một lúc sau, mọi thứ lại trở nên yên lặng. Đằng sau tôi, con chó đang rên rỉ. Một chiếc mũi lạnh toát cù vành tay tôi, và chiếc lưỡi ấm áp liếm nhẹ. Tôi cố giơ tay lên để vuốt ve chú chó vừa cứu sống mình, nhưng không thể. Tôi có thể nghe thấy tiếng thở dài của chính mình. Cứ như thể nó vọng lại từ nơi xa lắm.
    Tôi đối mặt với thực tế, “Mình sắp chết rồi.” Điều đó dường như đang càng lúc càng trở nên thực hơn. Sự ồn ào náo động của bãi để xe đã làm bọn dế bọn ếch ồn ã thường ngày im bặt, nên tiếng thì thào của tôi vang lên rõ ràng và rơi tõm vào bóng tối thăm thẳm. Lạ lùng thay, ngay sau đó, tôi nghe thấy hai giọng nói.
    Rồi trước mắt tôi xuất hiện hai ống quần jean màu xanh bê bết máu. Ma cà rồng Bill cúi xuống để tôi có thể nhìn thấy khuôn mặt anh. Có vệt máu dính trên khóe miệng anh, và những chiếc răng nanh của anh nhe ra, sáng bóng nơi vành môi dưới. Tôi cố mỉm cười với anh, nhưng không thể.
    “Tôi sẽ giúp cô hồi phục,” Bill nói. Giọng anh nghe thật bình tĩnh.
    “Anh làm vậy thì tôi chết mất,” tôi thì thầm.
    Anh chăm chú nhìn tôi khắp lượt. “Chưa đâu,” anh nói, sau khi ước lượng tình trạng của tôi. Lạ lùng thay, việc này khiến tôi cảm thấy dễ chịu hơn rất nhiều, chắc là trong đời mình anh đã nhìn thấy nhiều vết thương lắm rồi.
    “Sẽ đau đấy,” anh cảnh báo.
    Thật khó để tưởng tượng rằng sẽ chẳng đau đớn gì.
    Anh luồn cánh tay xuống dưới người tôi trước khi tôi có đủ thời gian để mà lo sợ. Tôi hét lên, nhưng tiếng hét chỉ vang lên yếu ớt.
    “Nhanh lên,” một giọng nói hối thúc.

  5. #5
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    “Chúng ta sẽ lánh vào rừng cho khuất tầm mắt,” Bill nói, nhấc bổng tôi lên như thể tôi chỉ nhẹ như một chú mèo con vậy.
    Có phải anh sẽ chôn tôi ở đó, để khuất tầm mắt mọi người? Sau khi anh vừa cứu tôi khỏi nhà Chuột? Tôi hầu như chẳng thèm quan tâm nữa. Tôi chỉ cảm thấy nhẹ nhõm hơn chút xíu khi anh đặt tôi xuống thảm lá thông trong khu rừng tối đen. Xa xa, tôi vẫn có thể nhìn thấy ánh đèn từ bãi đỗ xe. Tôi cảm thấy máu đang nhỏ giọt trên tóc mình, cảm nhận được sự đau đớn từ cánh tay gãy và những vết tím bầm nhức buốt, nhưng điều đáng sợ nhất nằm ở những gì tôi không cảm nhận được. Tôi không cảm nhận được đôi chân mình.
    Bụng tôi có cảm giác đầy ứ và nặng nề. Cụm từ “chảy máu trong” như bị ghim lại trong suy nghĩ của tôi.
    “Cô sẽ chết nếu không làm theo lời tôi,” Bill nói.
    “Xin lỗi, tôi không muốn trở thành ma cà rồng đâu,” tôi đáp, giọng yếu ớt và mỏng manh.
    “Không, cô sẽ không biến thành ma cà rồng đâu,” anh nói với giọng dịu dàng hơn nữa. “Cô sẽ khỏe lại. Rất nhanh. Tôi biết cách chữa trị. Nhưng cô phải sẵn lòng hợp tác.”
    “Vậy thì anh chữa đi,” tôi thì thầm. “Tôi sẵn sàng rồi đây.” Tôi cảm nhận được rằng ý thức đang dần rời bỏ mình.
    Ở một góc xa xăm nhỏ xíu nào đó trong tâm trí, tôi vẫn nhận được những tín hiệu của thế giới, tôi nghe thấy Bill rên rỉ như thể chính anh mới là người bị thương. Rồi có thứ gì đó được ấn vào miệng tôi.
    “Uống đi,” anh nói.
    Tôi cố thè lưỡi ra và rốt cuộc cũng làm được. Anh đang chảy máu, đang cố ép cho dòng máu từ cổ tay mình chảy vào họng tôi. Tôi nôn khan. Nhưng tôi không muốn chết. Tôi ép bản thân mình phải nuốt. Và lại nuốt.
    Đột nhiên, vị máu trở nên ngon lành hơn, mặn mà, đầy sức sống. Cánh tay còn lành lặn của tôi giơ lên, bàn tay tôi ép chặt cổ tay của chàng ma cà rồng vào miệng mình. Sau mỗi một lần nuốt, tôi lại càng đỡ hơn. Và sau gần một phút, tôi chìm vào giấc ngủ.
    Khi tỉnh dậy, tôi vẫn đang ở trong rừng, vẫn nằm trên mặt đất. Có ai đó đang duỗi người bên cạnh tôi; đó là chàng ma cà rồng. Tôi có thể thấy thân thể anh phát sáng. Tôi cảm nhận được lưỡi anh đang di chuyển trên đầu mình. Anh đang liếm vết thương trên đầu tôi. Thật khó bực mình với anh được.
    “Vị của tôi có khác với mọi người không?” tôi hỏi.
    “Có,” anh đáp lại bằng giọng chắc nịch. “Cô là gì?”
    Đây là lần thứ ba anh hỏi câu này. Quá tam ba bận, bà vẫn thường nói thế “Này, tôi vẫn chưa chết,” tôi nói. Tôi đột ngột nhớ ra mình đáng lẽ phải vĩnh viễn biến mất khỏi cõi đời này rồi mới phải. Tôi ngọ nguậy cánh tay bị gãy. Nó vẫn yếu ớt, nhưng không còn buông thõng xuống nữa. Tôi nhận thấy đôi chân đã có cảm giác trở lại nên cũng bèn ngọ nguậy chúng nữa. Tôi thử hít vào thở ra và hài lòng khi thấy chỉ bị vài cơn đau nhẹ. Tôi cố ngồi dậy. Việc đó chẳng đơn giản chút nào, nhưng không phải là không thể làm được. Cảm giác không khác gì khi vừa dứt cơn sốt sau trận viêm phổi hồi còn nhỏ. Yếu ớt nhưng thật hạnh phúc. Tôi biết mình vẫn sống sót sau một sự kiện cực kỳ kinh khủng.
    Trước khi tôi kết thúc màn co duỗi, anh luồn cánh tay xuống dưới người tôi kéo tôi về phía anh. Anh dựa lưng vào thân cây. Cảm giác ngồi trong lòng anh, dựa đầu vào ngực anh mới thoải mái làm sao.
    “Tôi là người có khả năng ngoại cảm,” tôi đáp. “Tôi có thể nghe được suy nghĩ của người khác.”
    “Kể cả của tôi à?” anh hỏi lại bằng giọng tò mò thuần túy.
    “Không. Vậy nên tôi mới thích anh đến thế,” tôi đáp, ngập tràn trong cảm giác ngượng ngùng hạnh phúc. Có vẻ như tôi chẳng còn bận tâm giấu giếm suy nghĩ của mình nữa.
    Tôi cảm thấy lồng ngực anh rung rung khi anh cười thành tiếng. Giọng cười hơi khàn khàn.
    “Tôi chẳng thể nghe thấy anh,” tôi tiếp tục bằng giọng mơ màng. “Anh không biết điều đó mang lại cảm giác bình yên đến thế nào đâu. Sau cả đời phải chịu đủ thứ tào lao bá láp, rồi... chẳng nghe thấy gì cả.”
    “Vậy làm sao em có thể xoay xở để hẹn hò với cánh đàn ông được? Đàn ông ở tuổi em chỉ độc có nghĩ đến cách lôi em lên giường thôi.”
    “Vậy đấy, tôi không cần làm thế. Xoay xở ấy. Và thành thật mà nói, đàn ông ở tuổi nào thì cũng chỉ có độc một mục tiêu là lôi phụ nữ lên giường thôi. Tôi chẳng hẹn hò với ai cả. Mọi người đều cho rằng tôi bị điên, anh biết đấy, vì tôi không thể nói thật với họ; rằng tôi phát điên vì tất cả những suy nghĩ đó, những tâm trí đó. Hồi mới làm cho quán bar tôi cũng có hẹn hò vài lần, với những anh chàng chưa nghe đồn về tôi. Nhưng lần nào cũng như lần nào. Ta làm sao tập trung nổi để có thể tỏ ra thoải mái với một anh chàng hay nỗ lực hết sức trong khi nghe thấy rõ rành rành chàng ta đang băn khoăn không biết ta có nhuộm tóc không, hay đang cho rằng vòng ba của ta không đẹp, và tưởng tượng ngực ta trông như thế nào chứ.”
    Đột nhiên tôi cảnh giác hơn, và nhận ra mình đã tiết lộ cho sinh vật này quá nhiều thứ về bản thân mình.
    “Xin lỗi anh,” tôi nói tiếp. “Tôi không định làm anh nặng đầu với những rắc rối của mình. Cảm ơn anh đã cứu tôi khỏi bọn Chuột.”
    “Do lỗi của tôi nên chúng mới có cơ hội tiếp cận em,” anh đáp. Tôi có thể nhận ra sự giận dữ đang lẩn khuất sau giọng nói bình tĩnh của anh. “Nếu tôi lịch sự đến đúng giờ thì đã chẳng có chuyện này. Nên tôi nợ em máu của mình. Tôi nợ em sự chữa trị đó”
    “Chúng đã chết chưa?” Thật xấu hổ, nhưng giọng tôi nghe ráo hoảnh.
    “Ồ, tất nhiên rồi.”
    Tôi nuốt khan. Tôi không nuối tiếc gì khi thế giới này không còn đôi nhà Chuột. Nhưng khi nhìn thẳng vào anh, tôi không thể né tránh suy nghĩ mình đang ngồi trong lòng một kẻ sát nhân. Dù vậy, tôi vẫn thấy hạnh phúc khi ngồi đây, trong vòng tay anh. “Đáng lẽ tôi nên lo lắng về điều này mới phải, thế mà lại không,” tôi nói, trước khi kịp nhận ra mình đang nói gì. Giọng cười khàn khàn đó lại vang lên lần nữa.
    “Sookie, sao tối nay em muốn nói chuyện với tôi?”
    Tôi phải cố lắm mới nhớ lại được. Dù những tổn thương thể chất đã hồi phục một cách kỳ diệu, tâm trí tôi vẫn còn hơi quay cuồng một chút.
    “Bà tôi thật sự rất muốn biết anh bao nhiêu tuổi,” tôi lưỡng lự. Tôi không biết câu hỏi đó có quá riêng tư với một ma cà rồng hay không. Chàng ma cà rồng đang vuốt ve lưng tôi cứ như thể tôi là một chú mèo con vậy. “Tôi trở thành ma cà rồng năm 1870, sau ba mươi năm làm người.” Tôi nhìn lên, khuôn mặt mờ sáng của anh chẳng biểu lộ cảm xúc gì, đôi mắt anh sẫm hơn cả bóng tối của khu rừng.
    “Anh có tham gia Nội Chiến không?”
    “Có.”
    “Tôi có cảm giác anh sẽ nổi điên lên thôi. Nhưng bà và câu lạc bộ của bà sẽ rất vui nếu anh có thể kể cho họ nghe một chút về Nội Chiến, về bản chất của nó.”
    “Câu lạc bộ?”
    “Bà tôi tham gia hội Hậu Duệ Của Những Người Hy Sinh Vinh Quang.”
    “Những Người Hy Sinh Vinh Quang.” Giọng nói của anh thật khó dò, nhưng tôi có thể dám chắc anh chẳng vui vẻ gì.
    “Nghe này, anh không phải kể cho họ nghe về đám giòi bọ, những căn bệnh truyền nhiễm hay đám người chết vì đói đâu,” tôi nói. “Tự họ cũng có những hình dung riêng về Nội Chiến, và dù sao thì họ cũng không phải người ngu ngốc - họ cũng đã sống qua chiến tranh mà - họ chỉ muốn biết lúc đó người ta sống như thế nào, quân phục và cách thức hành quân nữa.”
    “Những thứ sạch sẽ.”
    Tôi hít một hơi thật sâu. “Phải.”
    “Tôi mà làm thế thì em có vui không?”
    “Có gì khác chứ? Điều này sẽ làm bà vui, và vì anh đang ở Bon Temps, thêm vào đó hình như anh cũng muốn sống ở đây, nên đó sẽ là bước khởi đầu cho những mối quan hệ tốt đẹp.”
    “Em sẽ vui chứ?”
    Anh không phải người tôi có thể lảng tránh được. “Được rồi, phải.”
    “Vậy thì tôi sẽ làm thế.”
    “Bà mong anh ăn xong rồi hãy đến,” tôi nói.
    Một lần nữa tôi lại nghe thấy giọng cười của anh, lần này sâu hơn trước.
    “Giờ thì tôi háo hức được gặp bà của em rồi đấy. Tôi ghé qua một tối nào đó được chứ?”
    “Chắc chắn rồi. Tối mai tôi còn ca làm cuối, rồi sau đó được nghỉ hai ngày, nên tối thứ Năm thì sẽ hợp lý đấy.” Tôi giơ cánh tay để xem đồng hồ. Nó vẫn còn chạy, nhưng mặt thủy tinh dính đầy máu khô. “Khỉ thật,” tôi thốt lên, dấp nước bọt lên tay và cố chà sạch mặt đồng hồ. Tôi bấm nút đèn dạ quang và hốt hoảng khi biết được thời gian.
    “Chúa ơi, tôi phải về nhà thôi. Hy vọng bà đã ngủ rồi.”
    “Bà hẳn phải lo lắng lắm khi em ở một mình bên ngoài muộn như thế này,” Bill nhận xét. Anh có vẻ không bằng lòng. Có khi anh đang nghĩ tới Maudette chăng? Tôi có chút bứt rứt không yên, băn khoăn không hiểu Bill có biết cô ta không, hay cô ta đã lần nào mời anh về nhà mình chưa. Nhưng tôi bác bỏ ý nghĩ đó ngay, bởi tôi kiên quyết không muốn dấn sâu thêm vào cuộc sống và cái chết của cô nàng Maudette kỳ quặc ấy nữa; tôi không muốn sự kinh hoàng đó phá vỡ mất hạnh phúc nhỏ nhoi của mình.
    “Đó là một phần công việc của tôi,” tôi đáp với giọng chua chát. “Chẳng làm sao khác được. Dù sao thì tôi cũng không làm ca tối cả tuần. Nhưng nếu có thể thì tôi sẽ làm.”
    “Tại sao?” Chàng ma cà rồng giúp tôi giữ thăng bằng, rồi tự mình đứng lên một cách rất dễ dàng.
    “Tiền boa hậu hơn. Công việc vất vả hơn. Chẳng còn thời gian để nghĩ ngợi nữa.”
    “Nhưng ban đêm thì nguy hiểm hơn,” anh phản đối.
    Bill phải biết. “Này, anh đừng có nói như bà tôi thế,” tôi nhẹ nhàng trách anh. Chúng tôi gần đến bãi đậu xe rồi.
    “Tôi còn lớn tuổi hơn cả bà em nữa đấy,” anh nhắc tôi. Câu nói làm câu chuyện của chúng tôi bị ngắt quãng. Sau khi bước ra khỏi cánh rừng, tôi cứ đứng đó mà nhìn chằm chằm. Bãi đỗ xe trông có vẻ yên ắng thanh bình cứ như thể chẳng có gì xảy ra, như thể tôi không bị đánh suýt chết trên đoạn đường rải sỏi một tiếng đồng hồ trước, như thể nhà Chuột chưa gặp phải kết cục đẫm máu vậy.
    Ánh đèn trong quán và trong toa xe lưu động của Sam đã tắt.
    Con đường rải sỏi ẩm ướt, nhưng không có vết máu.
    Ví xách tay của tôi nằm trên nóc xe. “Thế còn chú chó thì sao?” tôi hỏi. Tôi quay về phía ân nhân của mình. Anh đã không còn ở đó.
    Chú thích
    [1] Anne Rice (sinh năm 1949) nhà văn Mỹ nổi tiếng với bộ tiểu thuyết Ma cà rồng kí sự ba tập gồm Phỏng vấn ma cà rồng (1976), Ma cà rồng Lestat (1985) và Nữ hoàng của những kẻ bị nguyền rủa (1988). Tiểu thuyết của bà đều lấy bối cảnh là thành phố New Orleans, bang Louisiana.

  6. #6
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết




    Chương 2
    Sáng hôm sau tôi dậy rất muộn, một chuyện cũng chẳng quá bất ngờ. Lúc tôi về thì bà đã ngủ rồi, ơn trời, và tôi có thể trèo lên giường mà không đánh thức bà dậy. Tôi đang uống cà phê ở bàn bếp còn bà đang lau dọn chạn bát đĩa thì điện thoại reo. Bà thả người xuống chiếc ghế đẩu cạnh quầy bếp, vị trí quen thuộc của bà khi cần tán chuyện, và nhấc máy.
    “A lô,” bà nói. Vì một lý do nào đó, giọng trả lời điện thoại của bà luôn có vẻ cấm cảu, như thể bà không muốn nhận bất cứ cuộc điện thoại nào cả. Nhưng tôi biết thực ra không phải vậy.
    “Chào Everlee. Không, đang ngồi nói chuyện với Sookie thôi, con bé vừa dậy. Không, hôm nay tôi chưa nghe tin gì hết. Không, chưa ai gọi cho tôi. Sao? Lốc xoáy nào? Hôm qua trời quang mà. Góc đường Four Tracks ư? Thế à? Không! Không, không hề! Thật sao? Cả hai vợ chồng à? ừm, ừm, ừm. Thế Mike Spencer nói sao?” Mike Spencer là nhân viên điều tra những cái chết bất đắc kỳ tử ở khu vực này. Tôi bắt đầu thấy sởn tóc gáy. Tôi uống nốt tách cà phê và rót thêm một cốc khác. Tôi nghĩ mình rồi sẽ cần đến nó.
    Bà dập máy một phút sau đó.
    “Sookie này, con sẽ không tin nổi đã có chuyện gì đâu!”
    Tôi sẵn sàng cá là mình chắc chắn sẽ tin.
    “Chuyện gì ạ?” tôi hỏi lại, cố không toát lên vẻ tội lỗi.
    “Dù tối qua trời có quang đến mấy thì chắc chắn vẫn có lốc xoáy ở góc đường Four Tracks! Nó lật nhào chiếc xe moóc ở khoảng rừng thưa chỗ đó. Trong xe vẫn còn một đôi vợ chồng, cả hai đều thiệt mạng, chẳng hiểu sao họ lại mắc kẹt dưới chiếc xe và bị nghiền nát cả. Mike nói ông ta chưa từng chứng kiến chuyện nào tương tự.
    “Ông ta sẽ đưa mấy cái xác đi khám nghiệm tử thi chứ ạ?”
    “Ồ, chắc thế, mặc dù theo Stella thì nguyên nhân tử vong đã rõ rành rành rồi. Cái xe moóc bị lật nghiêng, xe hơi của họ thì chênh vênh ở trên, cây cối xung quanh bị nhổ bật cả gốc.”
    “Chúa ơi,” tôi thì thầm, nghĩ đến sức mạnh cần thiết để tạo dựng nên cái hiện trường đó.
    “Cưng à, con vẫn chưa nói cho bà biết tối qua anh bạn ma cà rồng của con có đến hay không?”
    Tôi giật bắn người vì cảm giác tội lỗi cho tới khi nhận ra bà đang nghĩ gì, bà muốn thay đổi chủ đề. Suốt mấy hôm nay bà đều hỏi tôi có gặp Bill không, và giờ thì cuối cùng tôi đã có thể trả lời bà là có - nhưng với một trái tim nặng trĩu phiền muộn.
    Không ngoài dự đoán của tôi, bà phấn khích đến độ không kiềm chế nổi. Bà lướt quanh gian bếp như thể thái tử Charles sắp đến vậy.
    “Tối mai à. Vậy mấy giờ anh ta đến?” bà hỏi.
    “Sau hoàng hôn. Con đoán sớm nhất là khoảng đó.”
    “Vậy thì ta có thể chuẩn bị vào ban ngày, chúng ta còn ít thời gian quá.” Bà ngẫm nghĩ. “Được rồi, ta sẽ có thời gian ăn tối và thu dọn bàn ăn. Và ta có cả ngày mai để dọn dẹp nhà cửa. Bà cá là tấm thảm trải sàn chẳng được để mắt tới cả năm nay rồi?
    “Bà ơi, chúng ta đang nói đến một anh chàng ngủ trong lòng đất cả ngày đấy,” tôi nhắc bà. “Con nghĩ là anh ấy chẳng bao giờ để mắt đến thảm trải sàn đâu.”
    “Thôi được, nếu không làm vì anh ta thì là vì bà vậy, để bà còn được tự hào chứ,” giọng bà chắc nịch. “Thêm nữa, cô gái à, làm sao con biết anh ta ngủ ở đâu chứ?”
    “Câu hỏi hay lắm bà. Con không biết. Nhưng anh ấy không được ra ngoài ánh sáng nên con đoán vậy thôi.” Chẳng mất nhiều thời gian để tôi nhận ra rằng không gì có thể ngăn bà tôi chìm đắm trong khát khao được thể hiện niềm tự hào về nhà cửa. Khi tôi chuẩn bị đi làm, bà đã đến tiệm tạp hóa, thuê một chiếc máy hút bụi rồi bắt tay vào việc dọn dẹp.
    Trên đường đến quán Merlotte, tôi đi vòng sang phía Bắc và lái xe qua góc đường Four Tracks. Đó là một ngã tư có từ rất lâu rồi. Giờ nó đã được chính thức hóa bằng những tấm biển chỉ đường và vỉa hè, còn dân địa phương thì bảo đây là giao lộ của hai đường mòn dẫn đến các bãi săn. Tôi đoán sớm muộn gì ở chỗ này cũng sẽ mọc lên các khu nhà trại và trung tâm mua sắm, nhưng giờ nó vẫn là rừng và theo Jason thì chỗ đó vẫn đầy nhóc thú để săn.
    Vì chẳng bị thứ rào chắn nào ngăn cản, tôi lái xe vào con đường mòn dẫn đến bãi đất nơi nhà Rattray đỗ chiếc xe moóc đi thuê của mình. Tôi dừng lại và nhìn chằm chằm qua cửa kính chắn gió, kinh hãi. Chiếc xe moóc nhỏ cũ rích nằm bẹp gí cách vị trí ban đầu gần ba mét. Chiếc xe con màu đỏ lồi lõm của vợ chồng Rattray vẫn còn bám vào mép ngôi nhà di động dúm dó. Cây bụi và những mảnh vỡ nằm rải rác quanh khu đất trống, còn khu rừng phía sau xe moóc trông rõ là đã bị một sức mạnh cực lớn quét qua; các nhánh cây rơi vương vãi, trên một ngọn thông treo lủng lẳng đủ thứ hầm bà lằng. Trên cành cây vắt vẻo cả quần áo lẫn một chiếc chảo rán.
    Tôi từ từ bước ra khỏi xe và đảo mắt nhìn xung quanh. Sự tàn phá thật quá mức tưởng tượng, nhất là khi tôi biết rõ nguyên nhân không phải do cơn lốc; chàng ma cà rồng Bill đã dàn dựng hiện trường này để giải thích cho cái chết của nhà Rattray. Một chiếc Jeep cũ kỹ lao trên con đường mòn, dừng lại ngay cạnh tôi. “Này, Sookie Stackhouse!” Mike Spencer gọi. “Làm gì ở đây thế, cô gái? Không phải đi làm à?”
    “Có chứ ạ. Cháu có quen gia đình Chuột - ý cháu là nhà Rattray. Chuyện này thật khủng khiếp.” Tôi nghĩ câu nói đó đã đủ độ mơ hồ rồi. Giờ tôi đã thấy cảnh sát trưởng đi cùng Mike.
    “Thật khủng khiếp. Quả thế,” cảnh sát trưởng Bud Dearborn nói trong lúc bước xuống chiếc Jeep. “Ta nghe nói tuần trước cháu có va chạm với Denise và Mack ở bãi đậu xe quán Merlotte.”
    Tôi cảm thấy một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng khi hai người đàn ông bước đến đứng trước tôi.
    Mike Spencer là giám đốc một trong hai nhà tang lễ ở Bon Temps. Mặc dù Mike luôn chỉ ra một cách nhanh chóng và rõ ràng rằng nếu muốn, bất cứ ai cũng đều có thể được chôn cất ở nhà tang lễ Cha Con Spencer nhưng dường như chỉ người da trắng là tỏ ra hứng thú. Tương tự thế, chỉ người da màu mới chọn cách yên nghỉ tại Sweet Rest. Mike là một người đàn ông trung niên nặng nề với râu tóc màu trà loãng, thích giày cao bồi cùng cà vạt dây, những thứ ông ta không thể mang khi làm việc ở Cha Con Spencer. Lúc này ông đang mặc cả hai.
    Cảnh sát trưởng Dearborn, vốn nổi tiếng là người tử tế, lớn tuổi hơn Mike một chút, nhưng từ mái tóc xám dày đến đôi giày nặng trịch đều toát lên vẻ gọn gàng cứng rắn. Ông có gương mặt khắc khổ và cặp mắt nâu tinh anh. Ông là bạn thân của bố tôi hồi trước.
    “Vâng ạ, bọn cháu có chút bất đồng,” tôi thú thực bằng giọng nhã nhặn nhất.
    “Cháu có muốn kể ta nghe không?” Cảnh sát trưởng rút điếu Marlboro ra và châm thuốc với chiếc bật lửa trơn bằng kim loại.
    Và tôi đã phạm phải một sai lầm. Đáng ra tôi nên kể cho ông. Tôi vốn bị cho là điên, cũng có vài người nghĩ tôi ngốc nghếch. Nhưng tôi thấy mình chẳng việc gì phải thanh minh với Bud Dearborn phải giải thích với Bud Dearborn. Chẳng có lý do nào cả, trừ vấn đề tình cảm.
    “Tại sao ạ?” tôi hỏi lại.
    Đôi mắt nhỏ màu nâu của ông đột nhiên sáng lên sắc lẻm, không khí dễ chịu tan biến ngay tức thì.
    “Sookie,” ông nói, giọng đầy thất vọng. Tôi mất cả phút mới hiểu ra vấn đề.
    “Cháu không làm chuyện này,” tôi nói, vẫy tay về phía cảnh tan hoang. “Không, tất nhiên là cháu không làm,” ông đồng tình. “Nhưng dù sao đi nữa, vừa tuần trước gây gổ với người ta thì tuần này họ chết, và ta thấy cần hỏi han một chút.”
    Tôi cân nhắc khả năng nhìn chằm chằm trả lại khiến ông phải cụp mắt xuống. Làm được thế hẳn sẽ dễ chịu lắm, nhưng tôi không cho là cảm giác dễ chịu ấy sẽ đáng đồng tiền bát gạo. Tôi dần ý thức được rõ ràng rằng đôi khi mang tiếng là ngốc nghếch cũng có cái lợi của nó.
    Tôi có thể không được học hành đến nơi đến chốn và hơi xa rời thực tế, nhưng tôi không ngốc nghếch hay dốt nát.
    “Thật ra thì, chúng đã làm hại bạn cháu,” tôi thú nhận, cúi gằm đầu xuống dán mắt vào đôi giày của mình.
    “Có phải là anh chàng ma cà rồng sống ở ngôi nhà cổ của gia đình Compton không?” Mike Spencer và Bud Dearborn đánh mắt sang nhau. “Vâng ạ.” Tôi hơi bất ngờ khi biết Bill đang sống ở đâu, nhưng họ không nhận ra. Hàng năm trời cố gắng không phản ứng trước những điều không muốn nghe mà vẫn phải nghe đã giúp tôi điều khiển được khá tốt nét mặt của mình. Ngôi nhà cũ của gia đình Compton nằm ngay phía bên kia cánh đồng đối diện với nhà tôi, trên cùng một bên đường. Hai ngôi nhà chỉ bị ngăn cách bởi cánh rừng và nghĩa trang. Thật tiện cho Bill, tôi nghĩ thầm, và mỉm cười. “Sookie Stackhouse, bà cháu có cho cháu giao du với tay ma cà rồng đấy không?” Mike hỏi chẳng hề giữ kẽ. “Chú cứ việc hỏi bà cháu thoải mái,” tôi đáp với giọng ác ý, nóng lòng muốn biết bà sẽ nói sao khi có người cho rằng bà không quan tâm đến tôi. “Chú biết không, vợ chồng Rattray đã cố rút máu Bill.”
    “Vậy ra tay ma cà rồng đó bị vợ chồng Rattray rút máu à? Và cháu đã ngăn chúng lại?” cảnh sát trưởng ngắt lời tôi.
    “Vâng,” tôi đáp, cố tỏ vẻ cương quyết.
    “Rút máu ma cà rồng là phạm pháp,” ông đăm chiêu.
    “Nếu giết một ma cà rồng không có ý làm hại mình thì có tính vào tội sát nhân không ạ?” tôi hỏi.
    Có lẽ tôi đã tỏ ra ngây thơ hơi thái quá.
    “Cháu biết thừa câu trả lời là có mà, mặc dù ta không đồng tình với cái luật đó. Đó là luật, và ta phải tuân theo,” viên cảnh sát trưởng nói, giọng kiên quyết.
    “Vậy tay ma cà rồng đó để mặc họ đi mà không đe dọa trả thù à? Không nói gì đại loại như chỉ muốn họ chết quách đi cho xong sao?” Mike Spencer quả là ngu ngốc.
    “Đúng thế.” Tôi mỉm cười với cả hai người họ rồi liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Tôi nhớ lại vệt máu trên mặt đồng hồ, máu của tôi khi chịu đòn của vợ chồng Rattray. Tôi phải nhìn xuyên qua vệt máu đó để xem giờ. “Thứ lỗi cho cháu, cháu phải đi làm,” tôi nói. “Tạm biệt chú Spencer, tạm biệt bác cảnh sát trưởng.”
    “Chào cháu, Sookie,” cảnh sát trưởng Dearborn đáp. Dường như ông vẫn muốn hỏi tôi nữa nhưng chưa nghĩ ra cách nói sao cho phải. Tôi có thể nhận thấy ông vẫn chưa thỏa mãn với những gì nhìn thấy ở hiện trường, và tôi ngờ rằng hệ thống ra đa chẳng phát hiện ra cơn lốc nào cả. Tuy nhiên, chiếc xe moóc vẫn lù lù ra đấy, lại cả chiếc xe hơi và cây cối, còn vợ chồng nhà Rattray thì nằm chết dưới đống đổ nát. Nếu không phải do cơn lốc xoáy thì ông ta nghĩ còn có thứ gì khác đã gây ra tất cả chứ? Tôi đoán những cái xác đã được đưa đi khám nghiệm, nhưng chắc cũng chẳng có kết luận nào khác trong trường hợp này.
    Trí óc con người thật kỳ diệu. Cảnh sát trưởng Dearborn hẳn phải biết ma cà rồng rất khỏe. Nhưng ông lại chẳng thể tưởng tượng chính xác họ khỏe thế nào: khỏe đến độ lật đổ một chiếc xe moóc và nghiền nát nó.
    Ngay cả tôi cũng thấy khó mà hiểu được, trong khi tôi rõ ràng đã biết là chẳng có cơn lốc nào ở góc đường Four Tracks cả.
    Cả quán rộn rạo tin tức về những cái chết. Việc Maudette bị ám hại đã thêm mắm thêm muối cho cái chết của Denise và Mack. Tôi bắt gặp Sam nhìn mình vài lần, và tôi thầm nghĩ về chuyện tối qua, băn khoăn tự hỏi anh biết được đến đâu. Nhưng tôi không dám hỏi vì biết đâu anh chẳng biết gì cả. Tôi biết là đêm hôm trước đã xảy ra những chuyện mà tôi chưa thể tự mình giải thích được, nhưng tôi quá hạnh phúc vì mình vẫn còn sống nên quyết định không nghĩ ngợi lung tung nữa.
    Tôi chưa bao giờ mỉm cười nhiều đến thế khi rót rượu, cũng chưa bao giờ mang đồ ra nhanh hay chạy bàn hiệu quả như thế. Kể cả Rene tóc-rối-bù cũng chẳng thể làm tôi chậm lại được, mặc dù anh ta cứ nhất định kéo bằng được tôi vào những cuộc trò chuyện tràng giang đại hải của anh ta mỗi khi tôi đến gần chiếc bàn anh ta đang ngồi cùng Hoyt và mấy thằng cha khác.
    Đôi lúc Rene lại giở cái giọng Cajun điên khùng của anh ta ra, mặc dù tất cả mọi người đều biết giọng Cajun đó không phải là giọng thật. Di sản họ hàng anh ta để lại chẳng nhiều nhặn gì cho cam. Mọi phụ nữ anh ta cưới đều sống bất cần và vất vả. Cuộc tình ngắn ngủi của anh ta và Arlene xảy ra khi chị còn quá trẻ và dại dột, chị đã rất nhiều lần kể với tôi là hồi đó chị đã làm nhiều chuyện mà đến bây giờ nghĩ lại chị vẫn còn sởn tóc gáy. Kể từ đó, chị đã trưởng thành hơn rất nhiều, nhưng Rene thì không. Và tôi ngạc nhiên khi thấy Arlene vẫn còn khoái anh ta đến vậy.
    Tối đó mọi người trong quán đều hết sức hưng phấn trước những sự kiện bất thường ở Bon Temps. Một phụ nữ bị giết hại, và đó là một bí ẩn; thông thường những vụ giết người ở Bon Temps đều được giải quyết dễ dàng. Cả chuyện một đôi vợ chồng bị thiên nhiên quái ác giết chết một cách tàn nhẫn nữa. Và đến lượt tôi đổ thêm dầu vào ngọn lửa phấn khích đó. Đây là một quán bar ở khu dân cư nhỏ, vài dân thị trấn vẫn thường xuyên ghé qua, vậy nên tôi chưa bao giờ vướng phải những sự quan tâm không mong muốn. Nhưng tối đó, một gã tóc vàng to xác khuôn mặt to bành đỏ au trong đám đàn ông ngồi cạnh bàn của Rene và Hoyt đã vuốt tay lên đùi tôi khi tôi mang bia đến.
    Chuyện này không được chấp nhận ở quán Merlotte.
    Tôi đang định đập cái khay vào đầu hắn thì cảm thấy bàn tay ấy đã rời khỏi đùi tôi. Tôi nhận ra có người đang đứng ngay sau mình. Khi quay lại, tôi nhìn thấy Rene, anh ta đã đứng dậy khỏi bàn từ lúc nào không rõ. Tôi đưa mắt theo tay anh ta và nhận ra nó đang siết chặt bàn tay của gã tóc vàng. Gương mặt đỏ au của gã tóc vàng trở nên tím tái.
    “Này, bỏ ra!” gã tóc vàng phản kháng. “Tao chẳng có ý gì cả.”
    “Mày không được đụng vào bất cứ ai làm việc ở đây. Đó là luật.” Rene có thể thấp và nhỏ người thật, nhưng bất cứ ai trong quán cũng sẵn sàng đặt cược vào anh chàng người nhà này thay vì gã khách to bự kia.
    “Được rồi, được rồi.”
    “Xin lỗi cô ấy đi.”
    “Xin lỗi Sookie Khùng hả?” Giọng hắn thoáng ngờ vực. Chắc hắn cũng đến đây vài lần rồi.
    Hẳn bàn tay Rene đã xiết chặt hơn. Tôi có thể nhìn thấy khóe mắt gã tóc vàng ngân ngấn nước.
    “Tôi xin lỗi, Sookie, được chưa?”
    Tôi gật đầu theo cách bề trên hết mức. Rene đột ngột bỏ bàn tay gã tóc vàng ra rồi ra dấu cho cả bọn cuốn xéo khỏi đây. Gã tóc vàng ngay lập tức lao về phía cửa. Lũ bạn của hắn theo sau.
    “Rene à, đáng lẽ anh phải để em tự lo,” tôi nói nhỏ với anh ta khi cả quán bắt đầu quay lại với những cuộc trò chuyện của mình. Chúng tôi đã cho họ đủ vốn liếng để buôn chuyện ít nhất là trong vài ba ngày nữa. “Nhưng cũng cảm ơn anh vì đã bảo vệ em.”
    “Anh không muốn bất cứ ai gây phiền hà cho bạn của Arlene,” Rene nói với vẻ hiển nhiên. “Quán Merlotte là một nơi rất tuyệt; tất cả chúng ta đều muốn giữ gìn vẻ đẹp cho nó. Thêm nữa, đôi lúc em làm anh nhớ đến Cindy, em biết thế phải không?” Cindy là em của Rene. Cô đã chuyển đến Baton Rouge một hai năm trước. Cindy có mái tóc vàng và đôi mắt xanh: ngoài hai điều đó ra thì tôi chẳng thấy còn nét gì chung giữa tôi và cô nữa. “Anh có gặp Cindy thường không?” tôi hỏi. Hoyt và mấy người khác quanh bàn đang trao đổi về điểm số và chiến thuật của đội Shreveport Captains.
    “Cũng thỉnh thoảng,” Rene đáp, lắc đầu như muốn nói anh ta muốn gặp em gái mình nhiều hơn. “Con bé làm ở căn tin bệnh viện.”
    Tôi vỗ vai anh ta. “Em phải làm việc đây.”
    Khi tôi quay lại quầy để lấy đồ cho khách, Sam nhướng mày lên với ý dò hỏi. Tôi mở to mắt để chứng tỏ mình kinh ngạc đến thế nào trước sự can thiệp của Rene, vậy là Sam khẽ nhún vai, cứ như thể muốn nói còn lâu mới giải thích được thái độ của con người.
    Nhưng khi ra phía sau quầy để lấy thêm giấy ăn, tôi để ý thấy anh đã lôi chiếc gậy bóng chày thường được sử dụng trong trường hợp nguy cấp ra.
    Bà khiến tôi bận rộn cả ngày hôm sau. Bà lau chùi và hút bụi còn tôi chà rửa phòng tắm - ma cà rồng có cần sử dụng phòng tắm không nhỉ? Tôi tự hỏi trong lúc chà bàn chải quanh bồn cầu. Bà bắt tôi hút hết lông mèo ở ghế bành. Tôi dọn sạch chỗ rác tồn đọng. Tôi cọ bóng loáng các mặt bàn. Tôi còn lau cả máy rửa bát và máy sấy nữa, Chúa ơi!
    Khi bà thúc tôi đi tắm và thay quần áo, tôi nhận ra bà coi chàng ma cà rồng Bill là bạn trai của tôi. Điều này làm tôi có cảm giác hơi kỳ cục. Thứ nhất, bà đã quá tuyệt vọng trước cuộc sống xã hội của tôi đến nỗi ngay cả ma cà rồng cũng đủ tư cách để nhận được sự chú ý của tôi; thứ hai, tôi có một vài cảm nhận củng cố cho ý kiến này; thứ ba, rất có thể Bill cũng nhận ra điều này; và thứ tư, ma cà rồng có thể làm chuyện đó như người bình thường được không nhỉ?
    Tôi đi tắm, trang điểm rồi mặc váy vì biết chắc bà sẽ bực mình nếu tôi không làm vậy. Đó là một chiếc váy màu xanh dương bằng sợi cotton in đầy những bông cúc nhỏ tí xíu, nó vừa bó hơn so với mức bà muốn lại vừa ngắn hơn so với những gì Jason cho là phù hợp với em gái mình. Tôi đã nghe hai người nói thế khi tôi mặc nó lần đầu. Tôi đeo thêm đôi khuyên tai có hình viên bi nhỏ màu vàng và vấn tóc lên với một chiếc kẹp dọc vàng ruộm.
    Bà nhìn tôi với ánh mắt lạ lùng mà tôi chẳng thể dịch nghĩa được. Chỉ cần lắng nghe là tôi có thể dễ dàng khám phá ra bà nghĩ gì, nhưng thật khủng khiếp nếu làm thế với người sống cùng mình, nên tôi sẽ cẩn thận để không làm vậy. Bà mặc chân váy và áo cánh như những lúc tham gia buổi gặp mặt của Hậu Duệ Của Những Người Hy Sinh Vinh Quang, không đủ trang trọng cho buổi lễ ở nhà thờ nhưng cũng không đơn giản như đồ mặc hàng ngày.
    Tôi đang quét sân trước, việc mà hai bà cháu quên khuấy đi mất, thì anh đến. Anh đến đúng theo kiểu ma cà rồng, vừa phút trước chưa có ai phút sau đã thấy người xuất hiện, đứng ngay dưới bậc thềm, ngước mắt lên nhìn tôi.
    Tôi cười toe. “Không làm em sợ được đâu,” tôi nói.
    Anh có vẻ hơi xấu hổ. “Tôi quen xuất hiện thế này rồi,” anh đáp. “Tôi vốn không gây ra quá nhiều tiếng động.”
    Tôi mở cửa. “Anh vào đi,” tôi mời, và anh bước lên bậc thềm, mắt nhìn quanh.
    “Tôi vẫn nhớ chỗ này,” anh nói. “Nhưng nó không lớn đến thế này.”
    “Anh nhớ ngôi nhà này ư? Bà hẳn sẽ thích lắm đấy.” Tôi dẫn anh vào phòng khách, vừa đi vừa gọi bà.
    Bà tôi bước vào phòng khách với dáng điệu nghiêm trang, và tôi nhận ra rằng lần đầu tiên bà đã dám hy sinh mái tóc dày mềm mượt trắng như cước của mình cho một kiểu đầu mới, cuốn tóc quanh đầu thành một búi phức tạp. Bà cũng thoa son nữa.
    Bill tỏ ra thành thạo các phương thức giao tiếp xã hội không kém gì bà. Họ chào nhau, cảm ơn, khen ngợi và cuối cùng Bill ngồi xuống chiếc ghế băng còn bà ngồi ở cái ghế mây sau khi mang ra chiếc khay đựng ba tách trà đào, vậy là hiển nhiên tôi sẽ ngồi cạnh Bill. Chẳng biết thoái thác bằng cách nào cho lịch sự, tôi đành ngồi cạnh anh, nhưng nhích ra tận mép ghế, ra vẻ như bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng lao đi để rót thêm nước vào cốc trà lạnh ngắt tượng trưng của anh.
    Anh lịch sự chạm môi vào miệng cốc rồi ngồi xuống. Bà và tôi lo lắng uống một ngụm lớn.
    Bà khai mào bằng một chủ đề không thích hợp chút nào. Bà nói, “Chắc anh đã nghe nói về cơn lốc kỳ lạ đó.”

  7. #7
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    “Bà cứ kể đi ạ,” Bill nói, giọng êm như nhung. Tôi không dám nhìn anh mà cứ ngồi yên đó, dán mắt vào hai bàn tay đang chắp lại.
    Vậy là bà kể cho anh nghe về cơn lốc xoáy kỳ quái và cái chết của nhà Chuột. Bà kể toàn bộ câu chuyện nghe có vẻ kinh hoàng đó, nhưng chẳng có chi tiết mới mẻ nào cả, và tôi cho là Bill đã cảm thấy thoải mái hơn chút xíu.
    “Hôm qua con có ghé vào trên đường đi làm,” tôi nói, vẫn không hề ngước mắt lên. “Chỗ chiếc xe moóc.”
    “Thế chúng có giống với hình dung của em không?” Bill hỏi, trong giọng nói chỉ toát lên vẻ tò mò.
    “Không,” tôi đáp. “Nó không hề giống với hình dung của em. Em thật sự... ngạc nhiên.”
    “Sookie, hồi trước con từng chứng kiến những thiệt hại do lốc xoáy gây ra rồi mà,” bà kinh ngạc nói.
    Tôi bèn đổi chủ đề. “Bill này, anh mua áo sơ mi ở đâu thế? Trông đẹp quá.” Anh đang mặc quần kaki hiệu Dockers và áo chơi gôn sọc xanh nâu, đôi giày lười bóng loáng đi kèm tất mỏng màu nâu.
    “Ở hiệu Dilliard,” anh đáp, vậy là tôi cố tưởng tượng ra hình ảnh anh tại trung tâm thương mại ở Monroe, giữa những con người có lẽ đều quay nhìn sinh vật kỳ lạ với làn da óng ánh và đôi mắt tuyệt đẹp này. Anh kiếm đâu ra tiền để mua chúng nhỉ? Anh giặt quần áo bằng cách nào? Lúc nằm trong quan tài có phải anh không mặc gì không? Anh có xe hơi không hay cứ muốn đến đâu là lướt tới đó?
    Bà có vẻ hài lòng với thói quen mua sắm khá bình thường của Bill. Tôi lại thấy nhói đau khi chứng kiến bà vui đến thế nào vì được đón tiếp trong phòng khách nhà mình người được cho là bạn trai tôi, kể cả khi (theo văn học bình dân) anh ta đã bị nhiễm một loại virus gây ra cái chết lâm sàng.
    Bà hỏi Bill đủ mọi chuyện. Anh trả lời hết sức nhẹ nhàng nhã nhặn. Thôi được, anh là một xác chết hết sức lịch sự.
    “Vậy gia đình anh cũng là người vùng này à?” bà hỏi.
    “Họ của bố tôi là Compton, của mẹ là Loudermilk,” Bill đáp nhanh chóng. Anh có vẻ khá thoải mái.
    “Còn rất nhiều người nhà Loudermilk ở đây,” bà vui vẻ nói. “Nhưng ta e rằng ông Jessie Compton đã qua đời năm ngoái rồi.”
    “Tôi biết,” Bill đáp nhẹ nhàng. “Vì thế tôi mới quay lại. Mảnh đất đó được để lại cho tôi, và vì nền văn hóa của chúng ta đã có nhiều thay đổi đối với giống loài đặc biệt của tôi nên tôi quyết định sẽ xác nhận quyền sở hữu đó.”
    “Anh biết dòng họ Stackhouse chứ? Nghe Sookie nói thì anh sống cũng khá lâu rồi.” Tôi nghĩ bà hỏi thật khéo. Tôi mỉm cười nhìn đôi tay mình.
    “Tôi vẫn nhớ Jonas Stackhouse,” Bill đáp lại trước sự thích thú của bà.
    “Họ hàng tôi đã ở đây từ hồi Bon Temps chỉ là một chốn hoang vu. Jonas Stackhouse chuyển đến đây cùng vợ và bốn người con lúc tôi mười sáu tuổi. Có phải căn nhà này do ông ấy xây không, ít nhất là một phần?”
    Tôi để ý thấy khi Bill nghĩ về quá khứ, anh dùng một hệ thống từ ngữ và nhip điệu hoàn toàn khác. Tôi tự hỏi không biết tiếng Anh của anh đã thay đổi nhiều như thế nào trong suốt cả thập kỷ qua.
    Dĩ nhiên bà đang đắm chìm trong nỗi háo hức tìm hiểu về phả hệ. Bà muốn biết tất cả mọi điều về Jonas, cụ cố tổ của ông tôi. “ông ấy có sở hữu nô lệ không?” bà hỏi.
    “Thưa bà, nếu tôi nhớ chính xác thì ông ấy có một nô lệ làm việc nhà và một nô lệ ở bãi rào. Người nô lệ làm việc nhà là một phụ nữ trung niên còn người ở bãi rào là một thanh niên lực lưỡng, khỏe mạnh tên là Minas. Nhưng nhà Stackhouses tự làm hầu hết công việc đồng áng, giống như gia đình tôi.”
    “Ôi, đó chính xác là điều mà câu lạc bộ nhỏ của ta muốn nghe đấy! Sookie có kể với anh...” Bà và Bill, sau đủ mọi trao đổi lịch sự, đã ấn định được thời gian Bill đến tham gia buổi gặp mặt của hội Hậu Duệ.
    “Và bây giờ, nếu bà không phiền, tôi muốn mời Sookie đi dạo một lúc. Đêm nay đẹp quá.” Một cách chậm rãi, để tôi có thể nhận ra được, anh bước lại gần và nắm tay tôi, đỡ tôi đứng dậy. Tay anh cứng lạnh và trơn nhẵn. Bill không phải đang xin phép bà, nhưng cũng không hẳn là không.
    “Ôi, cả hai cứ đi đi,” bà đáp hết sức vui vẻ. “Ta còn nhiều thứ phải tra cứu lắm. Anh sẽ phải kể cho ta tên tất cả những người dân địa phương anh nhớ được từ hồi là...” Bà bỏ dở câu, không muốn nói điều gì có thể gây tổn thương.
    “Một cư dân ở Bon Temps,” tôi giúp bà.
    “Tất nhiên rồi,” chàng ma cà rồng nói, và dựa vào đôi môi đang mím chặt lại của anh, tôi biết anh đang cố nhịn cười.
    Chẳng hiểu bằng cách nào mà chúng tôi đã đứng ở cửa, nhưng tôi biết Bill đã bế tôi đi thật nhanh. Tôi mỉm cười, thực lòng cảm thấy vui. Tôi thích những điều bất ngờ.
    “Bọn con về ngay thôi,” tôi nói với bà. Tôi không biết bà có để ý đến cách thức di chuyển kỳ quái của tôi không, vì bà vẫn đang thu dọn mấy tách trà.
    “Ồ, cả hai không cần lo cho ta đâu,” bà đáp. “Ta sẽ ổn thôi mà.”
    Bên ngoài, cóc nhái sâu bọ đang cùng ca vang một bản hòa âm giữa đêm khuya nơi thôn dã. Bill nắm tay tôi bước vào sân nhà tràn ngập mùi cỏ mới cắt và hoa mới nở. Cô mèo của tôi, Tina, bước ra khỏi bóng tối đòi được vuốt ve, vậy là tôi cúi xuống gãi đầu cho cô nàng. Tôi ngạc nhiên thấy con mèo dụi đầu vào chân Bill, và anh chẳng có vẻ gì là phật ý cả. “Em thích con vật này à?” anh hỏi bằng giọng trung tính.
    “Nó là mèo của em,” tôi đáp. “Tên nó là Tina, và em rất yêu nó.”
    Chẳng nhận xét gì thêm, Bill đứng nguyên đó cho đến khi Tina bỏ đi về phía bóng tối ngoài tầm chiếu sáng của chiếc đèn nơi hiên nhà.
    “Anh thích ngồi ở xích đu, ghế ngoài vườn hay đi dạo?” tôi hỏi, cảm thấy giờ mình đang là chủ nhà.
    “Đi dạo một chút đi. Tôi cần giãn gân giãn cốt.”
    Câu nói chẳng hiểu sao làm tôi hơi lúng túng, nhưng tôi cũng bắt đầu thả bước dọc lối đi dài thông với con phố hai làn chạy phía trước nhà của cả hai chúng tôi.
    “Chuyện cái xe moóc có làm em lo lắng không?”
    Tôi cố nghĩ cách trả lời sao cho phù hợp.
    “Em cảm thấy... ừm. Yếu ớt. Khi nghĩ về chiếc xe đấy.”
    “Em biết tôi rất khỏe mà.”
    Tôi nghiêng đầu sang hai bên, ngẫm nghĩ. “Phải, nhưng em không ý thức được đầy đủ về sức mạnh của anh,” tôi nói với anh. “Hay trí tưởng tượng của anh nữa.”
    “Qua bao nhiêu năm, bọn tôi đã trở nên rất giỏi che giấu những việc mình làm.”
    “Vậy, em đoán chắc hẳn anh cũng giết cả đống người rồi.”
    “Một vài,” giọng anh đầy ẩn ý.
    Tôi chắp tay ra sau lưng. “Thời gian đầu bị biến đổi thành ma cà rồng, anh có thấy đói hơn không? Chuyện xảy ra như thế nào?”
    Anh không ngờ đến câu hỏi đó. Anh nhìn tôi. Tôi có thể cảm nhận được ánh mắt anh ngay cả khi cả hai đang ở trong bóng tối. Khu rừng bao bọc chúng tôi. Hai đôi chân bước lạo xạo trên mặt đường rải sỏi.
    “Việc tôi trở thành ma cà rồng là một câu chuyện rất dài,” anh nói. “Nhưng quả vậy, hồi còn trẻ - một vài lần - tôi đã vô ý giết người. Tôi không bao giờ biết chắc khi nào mình lại được ăn, em hiểu chứ? Bọn tôi luôn đi săn, theo bản năng, và thời đó làm gì có những thứ như máu nhân tạo đâu. Và con người cũng ít hơn bây giờ. Nhưng hồi còn sống tôi vốn là người tốt - ý tôi là, trước khi bị nhiễm virus. Vậy nên tôi cố sống cho văn minh, luôn chọn kẻ ác làm con mồi, không bao giờ lấy trẻ con làm thức ăn. Ít nhất tôi cũng cố hết sức để không bao giờ giết một đứa trẻ. Bây giờ thì khác rồi. Giờ tôi có thể ghé qua bất cứ phòng khám thâu đêm ở bất kỳ thành phố nào để mua máu nhân tạo, mặc dù mùi vị của chúng rất kinh tởm. Hay tôi có thể trả tiền cho một ả bán hoa để kiếm đủ máu cho vài ngày. Hay có thể quyến rũ ai đó, để họ cho tôi cắn yêu và sau đó quên hết mọi chuyện. Giờ tôi cũng không cần nhiều lắm.”
    “Hoặc anh có thể gặp gỡ một cô nàng có vấn đề về đầu óc,” tôi nói. “Ôi, em chỉ là món tráng miệng thôi. Nhà Rattray mới là bữa chính.”
    Ôi trời.
    “Ái chà,” tôi thốt lên, cảm thấy nghẹt thở. “Cho em một phút nhé.”
    Và anh làm theo thật. Có mò mẫm trong cả triệu người đàn ông thì cũng sẽ chẳng tìm ra được một ai sẵn lòng cho tôi từng đấy thời gian im lặng.
    Tôi mở tâm trí, tháo dỡ hoàn toàn sự phòng bị của mình và thư giãn. Sự im lặng của anh tràn khắp tâm trí tôi. Tôi đứng đó, nhắm nghiền mắt, rồi thở ra với một cảm giác nhẹ nhõm quá sâu sắc đến nỗi không nói được thành lời.
    “Bây giờ em vui rồi chứ?” anh hỏi, cứ như thể anh đoán được vậy.
    “Vâng,” tôi thở phào. Ngay trong giây phút đó, tôi cảm thấy rõ rệt rằng cho dù sinh vật đang đứng bên tôi đây có làm gì đi nữa, thì sự bình yên này vẫn thật vô giá, sau cả một khoảng thời gian dài không ngừng nghe thấy những suy nghĩ của kẻ khác rên rỉ trong đầu mình.
    “Tôi cũng thấy thoải mái,” anh nói, làm tôi bất ngờ.
    “Sao lại thế?” tôi hỏi bằng giọng mơ màng chậm rãi.
    “Không sợ hãi, không sốt ruột, không chỉ trích. Tôi không cần phải vận đến sức mê hoặc của mình để bắt em em đứng yên và nói chuyện với tôi.”
    “Sức mê hoặc?”
    “Giống như thôi miên,” anh giải thích. “Dù nhiều hay ít thì mọi ma cà rồng đều sử dụng nó. Vì trước khi người ta phát minh ra máu nhân tạo, muốn thỏa mãn được cơn đói, bọn tôi phải thuyết phục người khác rằng mình vô hại... hoặc làm họ tưởng là bọn tôi không có ở đó... hoặc đánh lừa để họ nghĩ rằng họ đang nhìn thấy một thứ khác.”
    “Có hiệu quả với em không?”
    “Tất nhiên,” anh đáp, giọng có vẻ kinh ngạc.
    “Được rồi, anh thử đi.”
    “Nhìn tôi đi.”
    “Trời tối mà.”
    “Không sao. Cứ nhìn vào mặt tôi đi.” Và anh bước đến trước mặt tôi, đặt hờ tay lên vai tôi và nhìn xuống. Tôi có thể thấy ánh sáng mờ mờ phát ra từ làn da và đôi mắt anh, và tôi ngước lên, băn khoăn không biết mình có tự dưng quàng quạc như gà hay lột hết quần áo ra không.
    Nhưng chuyện xảy ra là... chẳng có gì cả. Tôi chỉ nhận thấy một cảm giác thoải mái như đang dùng thuốc an thần vì được ở bên anh.
    “Em có cảm thấy tác động của tôi không?” anh hỏi. Giọng anh có phần hụt hơi.
    “Không hề, em rất tiếc,” tôi nhún nhường đáp. “Em chỉ thấy anh phát sáng thôi.”
    “Em thấy được à?” Anh lại có vẻ bị bất ngờ.
    “Tất nhiên. Những người khác không thấy à?”
    “Không. Lạ thật đấy, Sookie.”
    “Nếu anh đã nói vậy. Mà anh bay lên cho em nhìn được không?”
    “Ngay ở đây à?” Bill có vẻ thích thú.
    “Đúng vậy, sao lại không chứ? Trừ phi có lý do nào đó?”
    “Không, chẳng có lý do gì cả.” Anh buông tay tôi ra và bắt đầu bay lên. Tôi thở dài sung sướng. Anh bay lên giữa trời đêm, sáng lấp lánh như phiến đá cẩm thạch trắng dưới ánh trăng. Khi nâng người lên gần một mét, anh bắt đầu trôi lơ lửng. Tôi nghĩ anh đang mỉm cười với tôi.
    “Mọi ma cà rồng đều có thể làm vậy à?” tôi hỏi.
    “Em hát được không?”
    “Không, chẳng cất nổi giai điệu nào cả.”
    “Vậy đấy, không phải tất cả chúng tôi đều có những khả năng giống nhau.” Bill hạ dần xuống và nhẹ nhàng đáp xuống mặt đất. “Mọi người đều quá hà khắc với ma cà rồng. Còn em thì có vẻ không như vậy,” anh bình luận. Tôi nhún vai. Tôi là ai mà có thể hà khắc với những gì bất bình thường được chứ? Anh có vẻ hiểu, bởi vì sau một lúc chúng tôi cùng rảo bước trong im lặng, Bill hỏi, “Nó luôn khiến em thấy nặng nề à?”
    “Vâng, luôn luôn.” Tôi chẳng nói khác được, mặc dù không hề muốn kêu ca. “Hồi em còn nhỏ là quãng thời gian tệ hại nhất, vì em chưa biết cách dựng lên rào cản tâm trí nên đành phải nghe cả những suy nghĩ mà đáng ra em không nên nghe, và tất nhiên, em lặp lại nó như bất kỳ đứa trẻ nào khác. Ba mẹ không biết phải làm gì với em. Đặc biệt, chuyện đó làm ba em xấu hổ. Mẹ cuối cùng cũng quyết định đưa em đến bác sĩ tâm lý, những người biết chắc chắn em là ai, nhưng mẹ không chấp nhận điều đó và cứ nói đi nói lại với họ hàng là do em biết đọc ngôn ngữ cơ thể và rất giỏi quan sát nên em cứ tưởng là mình có thể nghe được tâm trí của người khác. Tất nhiên, bà chẳng đời nào thừa nhận là em nghe được tâm trí của người khác theo đúng nghĩa đen, bởi vì điều đó không phù hợp với thế giới của bà. “Và kết quả học tập của em rất kém vì em chẳng thể tập trung gì được khi những đứa khác hầu hết đều xao nhãng. Nhưng khi kiểm tra, điểm số của em rất cao vì những học sinh khác cũng đều tập trung làm bài... điều đó giúp em thoải mái phần nào. Do kết quả học tập không mấy khả quan nên đôi khi gia đình em vẫn cho rằng em lười biếng. Thầy cô giáo thì nghĩ em chậm hiểu; ôi, anh không tin được những giả thuyết này đâu. Cứ hai tháng một lần em lại phải đi khám mắt khám tai, chụp não, kiểu thế... Chúa ơi. Gia đình nghèo túng của em đã phải tiêu tốn cả đống tiền cho những chuyện đó. Nhưng họ không bao giờ có thể chấp nhận một sự thật đơn giản. Ít nhất thì cũng là ở bề ngoài, anh hiểu không?”
    “Nhưng trong thâm tâm, họ vẫn biết.”
    “Phải. Có một lần, ba em đang rất băn khoăn không biết có nên hậu thuẫn cho một ông bạn mở cửa hàng phụ tùng ô tô không, ba gọi em vào ngồi cùng khi ông bạn kia đến nhà. Sau khi ông ta đi rồi, ba đưa em ra ngoài, nhìn ra chỗ khác và hỏi em, ‘Sookie này, ông ta có nói thật không?’ Đó là khoảnh khắc kỳ lạ nhất.”
    “Lúc đó em bao nhiêu tuổi?”
    “Chắc chưa đến bảy tuổi vì ba mẹ mất hồi em lớp hai.”
    “Như thế nào?”
    “Lũ quét. Cuốn họ đi ngay chỗ cây cầu phía Tây đằng kia.”
    Bill không bình luận gì. Dĩ nhiên, anh đã chứng kiến quá nhiều cái chết rồi. “Người đàn ông đó có nói dối không?” anh hỏi sau vài giây.
    “Ồ, có. Ông ta định cuỗm hết tiền của ba rồi bỏ trốn.”
    “Em có một món quà trời cho.”
    “Món quà. Đúng vậy.” Tôi có thể cảm thấy khóe miệng mình trễ xuống. “Điều đó làm em khác với những con người khác.”
    “Đúng thế thật.” Chúng tôi im lặng đi thêm một lúc nữa. “Vậy anh hoàn toàn không coi mình là người sao?”
    “Tôi không là người từ rất lâu rồi.”
    “Anh có thực sự tin rằng mình đã mất linh hồn rồi không?” Đó là điều Giáo hội Thiên chúa vẫn rao giảng về ma cà rồng.
    “Tôi không cách nào biết chắc được,” Bill đáp, hầu như chẳng để tâm. Có vẻ như anh đã nghiền ngẫm về điều này quá nhiều đến nỗi nó đã trở nên quá tầm thường. “Cá nhân mà nói, tôi không nghĩ vậy. Có một phần con người tôi không hề độc ác, không hề tàn nhẫn, kể cả sau bao nhiêu năm tháng ấy. Tuy nhiên tôi cũng hoàn toàn có thể trở thành như thế.”
    “Bị nhiễm virus đâu phải lỗi của anh.”
    Bill khịt mũi, cố gắng sao cho âm thanh phát ra thật nhã nhặn. “Chừng nào còn ma cà rồng thì chừng đó vẫn còn các giả thuyết. Có khi giả thuyết đó đúng đấy.” Rồi anh nhìn tôi như thể rất tiếc vì đã nói thế. “Nếu do virus mà con người trở thành ma cà rồng,” anh nói tiếp với giọng thoải mái hơn, “thì đó là loại virus được tuyển lựa rất kỹ càng đấy.”
    “Làm sao mà anh trở thành ma cà rồng?” Tôi đã đọc đủ loại giả thuyết, nhưng đây là câu trả lời trực tiếp từ người thật việc thật.
    “Tôi sẽ phải rút máu em, một, hai hay ba ngày một lần, đến khi em sắp chết thì cho em máu của mình. Em sẽ nằm như một cái xác trong vòng bốn mươi tám tiếng đồng hồ, đôi khi đến tận ba ngày, rồi tỉnh lại và lang thang trong đêm. Rồi em sẽ đói.”
    Cách anh nói từ “đói” làm tôi rùng mình.
    “Không còn cách nào khác sao?”
    “Các ma cà rồng khác có kể cho tôi là những người bị họ cắn thường xuyên, hết ngày này sang ngày khác, có thể bất ngờ trở thành ma cà rồng. Nhưng những lần cắn đó phải sâu, liên tục và khiến họ no nê. Những người khác, trong hoàn cảnh tương tự, sẽ chỉ đơn thuần trở nên thiếu máu trầm trọng. Mặt khác, khi người ta cận kề cái chết vì lý do nào đó, có khi là một vụ tai nạn ô tô hay dùng ma túy quá liều, quá trình biến đổi có thể... đi theo chiều hướng tệ hại.”
    Tôi bắt đầu cảm thấy sởn cả gai ốc. “Đến lúc đổi đề tài rồi. Anh định làm gì với mảnh đất nhà Compton?”
    “Tôi định sống ở đó, càng lâu càng tốt. Tôi chán cái cảnh phải lang thang từ thành phố này sang thành phố khác rồi. Tôi sinh trưởng ở vùng nông thôn. Bây giờ khi đã có quyền tồn tại hợp pháp, khi đã có thể đến Monroe, Shreveport hoặc New Orleans để mua máu nhân tạo hoặc tìm gái bán hoa chuyên phục vụ những kẻ như tôi, tôi muốn ở lại đây. Ít nhất cũng để xem có được không. Tôi đã lang thang nay đây mai đó hàng bao nhiêu thập kỷ rồi.”
    “Tình trạng căn nhà thế nào?”
    “Khá tệ,” anh thừa nhận. “Tôi đang cố dọn dẹp sạch sẽ. Tôi có thể làm chuyện này vào ban đêm. Nhưng có một số vấn đề tôi cần phải thuê thợ. Tôi làm mộc không tồi, nhưng lại chẳng biết gì về điện đóm cả.”
    Tất nhiên là anh không biết rồi.
    “Có vẻ như ngôi nhà cần được mắc lại dây điện,” Bill tiếp tục, nghe giống hệt mọi gia chủ háo hức muốn tân trang nhà cửa khác.
    “Anh có điện thoại không?”
    “Tất nhiên rồi,” anh nói, có vẻ bất ngờ.
    “Thế thì chuyện thuê thợ có vấn đề gì chứ?”
    “Rất khó liên lạc với họ vào ban đêm và cũng rất khó thuyết phục họ gặp tôi để trao đổi những chuyện cần thiết. Họ sợ, hoặc họ nghĩ đó chỉ là cú điện thoại phá rối thôi.” Giọng Bill lộ rõ sự thất vọng, dù anh đã tránh quay mặt về phía tôi.
    Tôi bật cười. “Nếu anh muốn thì để em gọi họ cho,” tôi đề nghị. “Họ biết em mà. Cho dù mọi người đều nghĩ em điên nhưng họ vẫn biết em là người trung thực.”
    “Thế thì thật tuyệt,” Bill đáp, sau một lúc chần chừ. “Họ có thể làm vào ban ngày, sau khi tôi đã gặp họ để trao đổi về công việc và giá thành.”
    “Không được ra ngoài vào ban ngày chắc bất tiện lắm nhỉ,” tôi vô tư nói. Tôi thật tình chẳng cân nhắc gì cả. Giọng Bill khô khốc. “Chắc chắn rồi.”
    “Và phải che giấu nơi nghỉ ngơi của mình nữa,” tôi nói tiếp mà không suy nghĩ.
    Khi nhận ra sự im lặng của Bill, tôi vội xin lỗi.
    “Em xin lỗi,” tôi nói. Nếu trời không tối thế này, anh chắc sẽ thấy mặt tôi đang đỏ bừng.
    “Nơi nghỉ ngơi vào ban ngày của mỗi ma cà rồng là bí mật cần phải được anh ta giữ gìn cẩn thận nhất,” Bill nói khô khốc.
    “Em xin lỗi.”
    “Lời xin lỗi được chấp nhận,” anh đáp sau vài giây im lặng nặng nề. Chúng tôi đã ra đến đường cái và nhìn trước nhìn sau như thể đang đón taxi. Giờ khi cả hai đã ra khỏi hàng cây, tôi có thể nhìn rõ anh dưới ánh trăng. Anh cũng có thể nhìn thấy tôi. Anh nhìn khắp người tôi.
    “Bộ váy hợp với màu mắt em.”
    “Cảm ơn anh.” Tôi chắc chắn không thể nhìn thấy anh rõ đến mức đấy. “Mặc dù nó hơi thiếu vải.”
    “Xin lỗi?”
    “Tôi vẫn thấy khó mà quen được với cách ăn mặc mát mẻ của các thiếu nữ bây giờ,” Bill nói.
    “Vài chục năm nữa là anh quen ngay mà,” tôi nói vẻ chanh chua. “Thôi nào, Bill! Người ta mặc váy ngắn bốn chục năm nay rồi!”
    “Tôi vẫn thích váy dài hơn,” anh nói với vẻ lưu luyến. “Tôi thích những bộ váy lót phụ nữ thường mặc. Những chiếc váy lót dài.”
    Tôi bật ra một âm thanh thô lỗ.
    “Mà em có mặc váy lót dài không thế?” anh hỏi.
    “Em mặc một chiếc quần lót nylon màu be có đăng ten rất đẹp,” tôi nói với vẻ bị xúc phạm. “Nếu anh là con người, em sẽ nghĩ anh đang lái câu chuyện về đồ lót của em đấy!”
    Anh bật cười, tiếng cười khùng khục trầm trầm không tự nhiên đã tác động đến tôi một cách mãnh liệt. “Em có mặc chiếc quần trong đó đàng hoàng không thế, Sookie?”
    Tôi lè lưỡi về phía anh vì tôi biết anh có thể nhìn thấy tôi. Rồi tôi vén mép váy lên, để lộ dải đăng ten của chiếc quần lót và vài phân của vòng hông mình.
    “Anh vừa lòng chưa?” tôi hỏi.
    “Em có đôi chân rất đẹp, nhưng tôi vẫn thích váy dài hơn.”
    “Đồ ương bướng,” tôi nói với anh.
    “Vợ tôi cũng thường nói tôi như vậy.”
    “Anh đã kết hôn rồi à?”
    “Ừ, tôi trở thành ma cà rồng khi ba mươi tuổi. Tôi đã có vợ và hai con. Em gái tôi, Sarah, sống cùng gia đình tôi. Con bé chẳng bao giờ lập gia đình. Người yêu của con bé đã chết trong Cuộc chiến.”
    “Cuộc nội chiến.”
    “Phải. Tôi đã trở về từ chiến trường. Tôi là một trong số những người may mắn. Ít nhất thì lúc đó tôi cũng nghĩ vậy.”
    “Anh thuộc phe miền Nam,” tôi nói với vẻ ngạc nhiên. “Nếu anh còn giữ bộ quân phục và mặc nó đến buổi họp mặt thì các bà ở câu lạc bộ đó sẽ ngất vì sung sướng mất.”
    “Cuối cuộc chiến thì tôi chẳng còn quân phục nữa,” anh u sầu nói. “Chúng tôi ai nấy đều quần áo rách bươm còn bụng thì đói meo.” Anh có vẻ xúc động mạnh. “Nhưng điều đó cũng chẳng có ý nghĩa gì nữa sau khi tôi trở thành ma cà rồng,” Bill nói, giọng anh lại trở nên lạnh lùng lạnh nhạt.
    “Em đã khơi lại chuyện buồn của anh rồi,” tôi nói. “Em xin lỗi. Chúng ta nên nói chuyện gì bây giờ?” Chúng tôi quay lại và bắt đầu rảo bước về nhà.
    “Cuộc sống của em,” anh nói. “Kể cho tôi nghe mỗi sáng thức dậy em làm gì.”
    “Em ra khỏi giường. Rồi em dọn giường ngay lập tức. Em ăn sáng. Bánh mì nướng, đôi khi là ngũ cốc, đôi khi là trứng, và cà phê - sau đó em đánh răng, tắm rồi thay quần áo. Thi thoảng em phải cạo lông chân, anh biết đấy. Nếu là ngày phải làm việc thì em đi làm. Nếu không phải làm ca ngày thì em có thể đi mua sắm, đưa bà đến cửa hàng, thuê phim về xem hoặc tắm nắng. Em cũng đọc rất nhiều sách. May cho em là bà vẫn còn nhanh nhẹn hoạt bát. Bà giặt giũ, là ủi và đảm nhiệm phần lớn việc nấu nướng.”
    “Thế chuyện hẹn hò thì sao?”

  8. #8
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    “Ồ, em nói anh rồi mà. Chuyện đó không thể được.”
    “Vậy em sẽ làm gì, Sookie?” anh hỏi nhẹ nhàng.
    “Già đi rồi chết.” Giọng tôi cụt ngủn. Anh đã động chạm đến những đề tài nhạy cảm của tôi quá thường xuyên. Trước sự ngạc nhiên của tôi, Bill giơ tay ra nắm lấy tay tôi. Bây giờ, khi cả hai đều đã gây khó chịu cho nhau một chút, đều đã động đến một số vấn đề dễ chạm lòng nhau, bầu không khí dường như dễ chịu hơn phần nào. Trong màn đêm tĩnh lặng, một cơn gió nhẹ thổi mái tóc tôi lòa xòa khắp mặt.
    “Em tháo kẹp tóc ra chứ?” Bill hỏi. Chẳng có lý do gì để không làm thế cả. Tôi rút tay lại rồi gỡ chiếc kẹp ra. Tôi lắc đầu để mái tóc xõa xuống. Tôi nhét chiếc kẹp tóc vào túi áo anh, vì chẳng biết để ở đâu khác cả. Cứ như thể đang làm một việc hết sức bình thường, Bill luồn tay vào tóc tôi, chải mái tóc chảy trên hai vai tôi.
    Tôi chạm vào tóc mai anh, vì có vẻ như bây giờ hành động đó hoàn toàn được phép. “Chúng dài quá,” tôi nhận xét.
    “Kiểu này từng là mốt đấy,” anh nói. “May mà tôi không để râu như nhiều người khác, chứ không tôi phải để râu cả đời rồi.”
    “Anh không bao giờ phải cạo râu sao?”
    “Không, may mà hồi trước tôi đã cạo rồi.” Anh có vẻ rất thích thú với mái tóc của tôi. “Dưới ánh trăng, chúng trông như dải bạc vậy,” anh nói khẽ.
    “Chà. Còn sở thích của anh thì sao?” Tôi có thể thấy thấp thoáng nụ cười trong bóng tối.
    “Tôi cũng thích đọc sách.” Anh trầm ngâm. “Tôi thích xem phim... tất nhiên, tôi đã theo dõi toàn bộ quá trình khởi đầu của điện ảnh. Tôi thích giao lưu với những con người có cuộc sống bình thường. Đôi khi, tôi cũng khao khát được bầu bạn với những ma cà rồng khác, mặc dù cuộc sống của họ khác xa của tôi.” Chúng tôi im lặng một lúc.
    “Anh có thích xem ti vi không?”
    “Thỉnh thoảng,” anh thú nhận. “Có một thời gian ngắn tôi thường thu lại các bộ phim truyền hình để xem vào buổi tối vì tôi sợ mình có thể quên mất cuộc sống con người. Sau đó thì tôi dừng lại, bởi vì qua những gì tôi xem được trên các chương trình đó thì quên được cuộc sống con người cũng là một điều hay.”
    Tôi bật cười. Chúng tôi bước vào vùng ánh sáng bao quanh ngôi nhà. Tôi phần nào hy vọng bà đang ngồi trên xích đu đợi hai chúng tôi, nhưng bà không ở đó. Chỉ có một bóng đèn mờ sáng trong phòng khách. Tôi nghĩ quả thật bà đang trầm trọng hóa tình hình.
    Chuyện này cũng chỉ giống như việc được một anh chàng mới quen đưa về nhà sau buổi hẹn hò đầu tiên thôi mà. Thật ra tôi đang băn khoăn không hiểu anh có định hôn tôi không. Với quan điểm của anh về chuyện váy áo thì chắc hẳn anh sẽ cho rằng hành động đó là rất không phù hợp. Nhưng cũng ngu ngốc không kém việc hôn ma cà rồng, tôi nhận ra mình thật sự muốn được làm thế, hơn bất kỳ thứ gì khác.
    Ngực tôi thắt lại với cảm giác cay đắng vì một điều nữa mà mình không được nhận. Và rồi tôi nghĩ, sao lại không cơ chứ?
    Tôi kéo nhẹ tay anh để anh dừng lại. Tôi rướn người đặt môi lên gò má mờ sáng của anh. Tôi hít thật sâu mùi da thịt anh, không có gì đặc biệt nhưng hơi mằn mặn. Anh thoang thoảng mùi nước hoa.
    Tôi cảm thấy anh rùng mình. Anh quay đầu lại để môi anh chạm vào môi tôi. Sau một thoáng, tôi vòng tay qua cổ anh. Nụ hôn của anh sâu hơn, và tôi tách khóe môi mình ra.
    Tôi chưa bao giờ được hôn như vậy. Nụ hôn cứ kéo dài mãi, dài mãi cho đến khi tôi tưởng như cả thế giới nằm trọn trong nụ hôn này, trong sự hòa quyện giữa môi chàng ma cà rồng và môi tôi. Tôi có thể cảm nhận được nhịp thở của mình trở nên gấp gáp hơn, và tôi bắt đầu muốn những chuyện khác nữa.
    Bill đột nhiên lùi lại. Anh hình như hơi run rẩy, và tôi vô cùng hài lòng vì điều đó. “Chúc em ngủ ngon, Sookie,” Anh nói, vuốt tóc tôi lần cuối.
    “Anh cũng ngủ ngon nhé, Bill,” tôi đáp. Giọng tôi cũng có vẻ run rẩy. “Mai em sẽ cố liên lạc với mấy tay thợ điện. Em sẽ báo lại cho anh sau.”
    “Tối mai em qua nhà anh nhé - nếu em không phải đi làm?”
    “Vâng,” tôi nói. Tôi vẫn đang cố định thần.
    “Gặp lại sau nhé. Cảm ơn em, Sookie.” Và anh quay đi, băng qua cánh rừng để về nhà mình. Một khi đã bước vào bóng tối, anh trở nên hoàn toàn vô hình.
    Tôi cứ đứng đó, nhìn chằm chằm như một con ngốc cho đến khi giật mình tỉnh lại và bước vào nhà để lên giường đi ngủ.
    Tôi không biết mình đã nằm thao thức bao lâu, băn khoăn không biết giống người bất tử ấy có thật sự làm được... chuyện ấy không. Tôi cũng đắn đo không hiểu mình có thể trao đổi thẳng thắn với Bill về vấn đề này hay không. Đôi khi anh có vẻ hơi quá cổ hủ, nhưng cũng có lúc lại dường như bình thường như bất cứ anh chàng hàng xóm nào khác. Thực ra thì không hẳn là bình thường, nhưng cũng phần nào như vậy.
    Mọi chuyện có vẻ vừa tuyệt vời vừa thảm hại khi sau từng đấy năm, người đàn ông đầu tiên tôi muốn làm tình lại không hẳn là con người. Khả năng ngoại cảm đã hạn chế rất khắt khe những lựa chọn của tôi. Nếu làm tình chỉ để cho có thì chắc chắn chẳng thành vấn đề với tôi; nhưng tôi đã chờ đợi rất lâu để có một lần ân ái thật sự khiến tôi hạnh phúc.
    Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng tôi ân ái, và rồi sau bao nhiêu tháng năm chờ đợi, tôi phát hiện ra mình không có khả năng làm chuyện đó? Hay biết đâu cảm giác cũng chẳng tuyệt vời gì cho cam. Có thể tất cả những bộ phim những cuốn sách đó chỉ nói quá lên mà thôi. Kể cả Arlene nữa, chị dường như chẳng bao giờ hiểu được rằng tôi không có hứng thú gì với việc nghe chị kể về đời sống chăn gối của chị.
    Cuối cùng tôi cũng chìm vào giấc ngủ, với những giấc mơ dài u ám.
    Buổi sáng hôm sau, chen giữa những câu hỏi của bà về chuyến đi dạo với Bill và chuyện tương lai của hai đứa, tôi gọi vài cuộc điện thoại.
    Tôi tìm được hai thợ điện, một thợ sửa ống nước và vài người làm dịch vụ cho tôi số điện thoại để liên lạc vào ban đêm, và tôi nhắc để họ biết rằng một cuộc điện thoại từ Bill Compton không phải là trò chơi khăm.
    Cuối cùng, khi tôi đang nằm tắm nắng thì bà mang điện thoại ra cho tôi.
    “Sếp của con,” bà nói. Bà thích Sam, và anh ấy hẳn vừa nói điều gì đó làm bà rất vui vì bà đang cười tươi như mèo Cheshire[2] vậy.
    “Chào anh, Sam,” tôi trả lời điện thoại, giọng không mấy vui vẻ vì biết chắc quán hẳn đang có chuyện. “Dawn không đến được, cô gái thân mến.” anh nói.
    “Ôi... chết tiệt,” tôi bật thốt, biết rõ mình sẽ phải đến làm thế. “Em cũng có kế hoạch mà, Sam.” Đó là màn phủ đầu. “Anh cần em khi nào?”
    “Em làm từ năm đến chín giờ được không? Thế thì đỡ cho anh quá.”
    “Rồi em có được nghỉ bù buổi khác không?”
    “Dawn sẽ chia ca với em một buổi tối nào đó nhé?”
    Tôi văng vài lời tục tĩu, trong khi bà đứng ngay cạnh với vẻ mặt nghiêm nghị. Tôi biết thừa lát nữa mình sẽ nhận được một bài giáo huấn đây. “Ôi, được rồi,” tôi miễn cưỡng đáp. “Vậy gặp lại anh lúc năm giờ.”
    “Cảm ơn em, Sookie,” anh nói. “Anh biết có thể trông cậy vào em mà.”
    Tôi cố vui với câu khen của anh. Nó có vẻ là ưu điểm chẳng mấy tích cực. Bạn luôn có thể nhờ Sookie giúp đỡ vì cô ấy không có cuộc sống riêng!
    Tất nhiên, đến chỗ Bill sau chín giờ cũng chẳng vấn đề gì. Dù sao thì anh cũng thức cả đêm mà.
    Công việc chưa bao giờ có vẻ chậm chạp như thế. Tôi không tài nào tập trung đủ độ để có thể giữ vững rào cản tâm trí của mình vì tôi không ngừng nghĩ về Bill. May là không có quá nhiều khách hàng, nếu không thì có khi tôi đã buộc phải nghe đủ thứ rác rưởi rồi. Dù sao thì, tôi đã phát hiện ra Arlene bị chậm kinh, và chị sợ mình đã có mang, vậy là trước khi có thể kiềm chế được, tôi đã ôm chị thật chặt. Chị nhìn tôi với ánh mắt dò hỏi, và rồi mặt chị đỏ bừng lên.
    “Em đọc tâm trí chị đấy à, Sookie?” chị hỏi bằng giọng cảnh cáo. Arlene là một trong số ít người đơn giản chấp nhận khả năng của tôi mà chẳng cần một lời giải thích và cũng không xếp tôi vào loại gàn dở vì đã sở hữu một khả năng như thế. Chị cũng không thường nói về chuyện ấy.
    “Em xin lỗi, em không cố tình,” tôi xin lỗi. “Hôm nay em không tập trung lắm.”
    “Được rồi. Nhưng từ giờ đừng có làm thế nữa nhé.” Arlene lúc lắc ngón tay trước mặt tôi, những búp tóc đỏ rực của chị ôm lấy hai gò má. Tôi những muốn òa khóc.
    “Em xin lỗi,” tôi nói lần nữa, rồi lao vào kho để cố trấn tĩnh lại. Tôi phải giữ bộ mặt bình thường và kìm nén những giọt nước mắt sắp trào ra.
    Tôi nghe thấy tiếng cửa mở đằng sau mình.
    “Em nói em xin lỗi rồi mà, Arlene!” tôi cáu bẳn gắt, chỉ muốn được ở một mình. Đôi lúc Arlene không phân biệt được khả năng ngoại cảm với năng lực siêu linh. Tôi sợ chị sẽ hỏi tôi xem liệu chị có mang thực hay không. Tốt hơn hết là chị ấy nên sớm mua một bộ thử thai.
    “Sookie.” Đó là Sam. Anh đặt tay lên vai tôi, xoay tôi lại. “Có chuyện gì thế?”
    Giọng anh thật dịu dàng, và lại càng làm tôi muốn khóc hơn.
    “Anh nên nói bằng giọng thật tàn nhẫn vào, để em không khóc!” tôi đáp.
    Anh cười, không phải cười phá lên mà chỉ khe khẽ thôi. Rồi anh vòng tay qua người tôi.
    “Có chuyện gì thế?” Anh chắc chắn sẽ không bỏ cuộc mà đi chỗ khác. “Ôi, em...” Và rồi tôi ngưng bặt. Tôi không bao giờ, chưa bao giờ nói một cách thẳng thắn về vấn đề của mình (đó là cách tôi nghĩ về chuyện này đấy) với Sam hay bất kỳ ai khác. Mọi người ở Bon Temps đều biết những chuyện đồn đại về lý do tôi kỳ lạ đến thế, nhưng chẳng ai có vẻ nhận ra rằng dù muốn hay không tôi vẫn không ngừng phải nghe tâm trí họ huyên thiên đủ chuyện - ngày nào cũng vậy, tiếng rên rỉ rên rỉ rên rỉ... “Em nghe thấy chuyện gì làm em buồn à?” Giọng anh nhẹ nhàng như thể mọi-thứ-đương-nhiên-là-thế. Anh chạm tay vào giữa trán tôi, ra dấu anh biết chính xác tôi có thể “nghe” theo kiểu nào.
    “Vâng.”
    “Em không tránh được, phải không?”
    “Không.”
    “Ghét lắm, phải không, cô gái thân mến.”
    “Ôi, vâng.”
    “Đâu phải lỗi của em, phải không?”
    “Em đã cố không nghe gì cả, nhưng không phải lúc nào em cũng giữ được rào cản của mình.” Tôi cảm thấy một giọt nước mắt mình không thể kìm giữ nổi bắt đầu chảy xuống má.
    “Đó là cách em làm à? Làm sao em dựng rào cản lên được, Sookie?” Giọng anh toát lên vẻ quan tâm chân thành, không giống như kiểu anh nghĩ tôi là đồ bỏ đi. Tôi ngước lên, ở một khoảng cách không quá xa, nhìn thẳng vào đôi mắt xanh long lanh của anh.
    “Em chỉ... Thật khó giải thích trừ phi chính anh là người trong cuộc... Em dựng một hàng rào - không, không phải hàng rào, nó giống như là em xếp những tấm kim loại lại với nhau vậy - giữa tâm trí em và tâm trí người khác.”
    “Và em phải giữ những tấm kim loại đấy không đổ?”
    “Vâng. Chuyện này cần sự tập trung cao độ. Giống như em luôn phải chia đôi tâm trí của mình. Đó cũng là lý do mọi người nghĩ em điên. Một nửa bộ não em phải cố giữ những tấm kim loại đó không đổ, nửa còn lại xử lý yêu cầu của khách hàng, và có những khi, chẳng còn lại mấy sự tập trung để có thể trò chuyện mạch lạc được.” Thật nhẹ nhàng biết bao khi tôi có thể nói ra chuyện đó.
    “Em nghe thấy các từ ngữ hay chỉ thu được những cảm giác?”
    “Còn tùy vào người em đang nghe. Và trạng thái của họ. Nếu họ đang say, hay thực sự khó chịu, những gì em thu được chỉ là hình ảnh, cảm giác, ý định. Nếu họ bình tĩnh và tỉnh táo, thì đó là ngôn từ và vài hình ảnh.”
    “Tay ma cà rồng nói em không nghe được hắn ta.”
    Tôi cảm thấy hơi khó chịu khi nghĩ rằng Bill và Sam đã nói chuyện với nhau về tôi. “Đúng vậy,” tôi thú nhận. “Chuyện đó làm em thoải mái hơn không?”
    “Ôi, có.” tôi nói thật lòng.
    “Em có nghe được anh không, Sookie?
    “Em không muốn thử!” tôi nói ngay tắp lự. Tôi bước đến cửa phòng kho, rồi dừng tại đó, tay để lên nắm cửa. Tôi rút từ túi quần soóc của mình ra mẩu khăn giấy và khẽ chấm vết nước mắt trên má. “Em sẽ phải bỏ việc nếu đọc được tâm trí của anh, Sam ạ! Em thích anh, em thích công việc ở đây.”
    “Thỉnh thoảng cứ thử xem sao, Sookie,” anh nói tỉnh bơ, rồi quay lại mở thùng đựng whiskey bằng con dao xén anh luôn mang theo mình. “Đừng lo về anh. Em sẽ luôn có một công việc ở đây chừng nào em muốn.”
    Tôi lau chiếc bàn lúc nãy đã bị Jason làm đổ muối lên. Anh đã đến đây ăn hamburger, khoai tây chiên và uống vài cốc bia.
    Tôi ngẫm nghĩ về lời đề nghị của Sam.
    Hôm nay tôi sẽ không thử nghe anh. Anh đã chuẩn bị sẵn rồi. Tôi sẽ đợi đến khi anh đang bận bịu việc gì đó. Tôi chỉ việc lẻn vào và lắng nghe tâm trí anh. Anh đã mời tôi cơ mà, lời mời đến là kỳ cục.
    Được mời như thế cũng thật tuyệt. Tôi sửa lại lớp trang điểm và chải tóc. Tôi buông lơi tóc, vì Bill có vẻ thích như thế. Cũng sắp đến giờ về nên tôi lấy ví ra khỏi tủ để đồ trong văn phòng Sam.
    NHÀ COMPTON, cũng như nhà của bà, nằm cách xa đường cái. Từ ngoài đường nhìn vào, nó nằm ở vị trí dễ quan sát hơn so với nhà bà, và từ đây cũng có thể nhìn thấy cả nghĩa trang, nơi vốn khuất hẳn tầm mắt nếu đứng từ nhà bà. Đó là vì (ít nhất cũng một phần nào) nhà Compton được xây cao hơn hẳn. Nó nằm trên một ngọn đồi và có hai tầng đâu ra đấy. Nhà bà có vài phòng trống trên gác, và cả gác mái nữa, nhưng nó có vẻ giống ngôi nhà một tầng hơn.
    Trong suốt chiều dài lịch sử dòng họ, hẳn từng có thời gia đình Compton được sở hữu một ngôi nhà rất đẹp. Kể cả trong bóng tối, nơi đây vẫn có một vẻ nhã nhặn đặc biệt. Nhưng tôi chắc chắn rằng vào ban ngày, ta có thể thấy những cột trụ đang tróc ra từng mảng, lớp ván gỗ đã cong vênh còn sân vườn thì như khu rừng rậm. Thời tiết nóng ẩm ở Louisiana đã làm khu vườn nhanh chóng phát triển ngoài tầm kiểm soát, mà ông cụ Compton lại chẳng thuê ai làm vườn hộ. Khi ông yếu quá rồi, khu vườn bị bỏ mặc muốn phát triển ra sao thì ra. Con đường vòng xuyến dẫn vào nhà chắc hẳn nhiều năm nay chưa được thay sỏi mới, và chiếc xe của tôi lắc lư tiến đến trước cửa ra vào. Tôi thấy khắp nơi trong ngôi nhà đều sáng ánh đèn, và tôi bắt đầu nhận ra rằng buổi tối hôm nay sẽ chẳng giống như hôm qua được nữa. Có một chiếc xe khác đỗ trước cửa nhà, một chiếc Lincoln Continental thân trắng mui xanh. Một miếng dán màu trắng- xanh dính vào hãm xung có dòng chữ MA CA RỒNG HÚT MÁU. Một miếng dán khác màu đỏ và vàng ghi CỨ VIỆC BÓP CÒI NẾU MUỐN HIẾN MÁU! Tấm biển số giả thì ghi đơn giản, RĂNG NANH 1.
    Nếu Bill đã có khách thì có lẽ tôi nên lẳng lặng quay về nhà thôi.
    Nhưng tôi đã được mời và người ta đang chờ gặp tôi. Tôi do dự đưa tay lên gõ cửa.
    Cửa được mở bởi một ả ma cà rồng. Ả tỏa sáng rực rỡ. Ả có nước da sậm màu và cao ít nhất một mét tám. Ả mặc quần áo bằng vải sợi plandex.
    27554 Chiếc áo chẽn ngực màu hồng sậm và quần tất lửng bó đồng màu, kèm theo chiếc sơ mi nam thùng thình màu trắng không cài cúc, rõ là đúng kiểu trang phục ma cà rồng.
    Tôi nghĩ ả trông thật rẻ tiền, và chắc chắc sẽ khiến cánh đàn ông thèm nhỏ dãi.
    “Chào cô em người,” giọng ả ma cà rồng đầy mơn trớn.
    Và đột nhiên, tôi nhận ra mình đang gặp nguy hiểm. Bill đã không chỉ một lần cảnh báo với tôi là không phải ma cà rồng nào cũng giống anh, và kể cả anh cũng có những lúc không tốt đẹp gì. Tôi không thể đọc được tâm trí của sinh vật này, nhưng tôi có thể nghe thấy sự tàn nhẫn trong giọng ả. Có thể ả vừa làm hại Bill. Cũng có thể ả là người yêu của anh ấy.
    Tất cả những suy nghĩ này cuồn cuộn trong tâm trí tôi, nhưng tôi không để lộ gì trên nét mặt. Tôi đã có rất nhiều năm kinh nghiệm trong việc kiểm soát nét mặt mình rồi. Tôi có thể cảm thấy một nụ cười phòng bị đang rạng rỡ trên môi mình, cảm thấy đốt sống lưng duỗi thẳng ra, và tôi nói vui vẻ, “Chào chị! Tôi được mời ghé qua tối nay để bàn vài chuyện với Bill. Anh ấy có nhà không?”
    Ả ma cà rồng cười phá lên, điều này thì tôi cũng quen rồi. Nụ cười của tôi lại càng tươi hơn nữa. Sinh vật này toát ra sự nguy hiểm theo đúng cách chiếc bóng đèn tỏa ra hơi nóng vậy.
    “Cô em người bé nhỏ này nói là có vài thông tin cho anh này, Bill!” ả hét vọng lại qua bờ vai (nâu, thon gọn và đẹp).
    Tôi cố không để lộ sự nhẹ nhõm của mình.
    “Anh có muốn gặp cô em bé nhỏ này không? Hay là để em cắn yêu bé một phát nhỉ?”
    Bước qua xác tôi trước đã, tôi giận dữ nghĩ thầm, nhưng rồi nhận ra cũng dễ thế lắm.
    Tôi không nghe thấy tiếng Bill, nhưng ả ma cà rồng đã đứng lùi lại, nên tôi bước vào ngôi nhà cũ kỹ. Bỏ chạy cũng chẳng ích lợi gì; ả ta chắc chắn sẽ đuổi kịp trước khi tôi chạy đủ năm bước chân. Thêm vào đó tôi vẫn chưa nhìn thấy Bill đâu cả, và chưa nhìn thấy anh thì tôi không cách nào biết chắc liệu anh có ổn hay không. Tôi đành liều mạng mà hy vọng vào những gì tốt đẹp nhất. Chuyện này thì tôi giỏi lắm.
    Gian phòng khách rộng rãi chật chội hẳn bởi những đồ nội thất cũ kỹ tối màu và người. Không, không hoàn toàn là người, tôi nhận ra sau một lúc quan sát kỹ càng; có hai người, và thêm hai ma cà rồng lạ nữa.
    Hai ma cà rồng đều là đàn ông da trắng. Một tên có vết sẹo dài và chi chít hình xăm trên cơ thể. Tên kia còn cao hơn cả ả ma cà rồng vừa rồi, có lẽ tầm hơn một mét chín, có mái tóc đen dài gợn sóng và cơ bắp cuồn cuộn.
    Hai con người thì ít ấn tượng hơn. Người phụ nữ thì tóc vàng mập mạp, tầm trên dưới ba mươi lăm tuổi. Lớp phấn trang điểm của cô ta dày cũng độ vài tấc. Cô ta trông tã như một chiếc giày cũ vậy. Anh chàng kia thì khác. Anh ấy có vẻ đáng yêu, đẹp hơn bất cứ người đàn ông nào tôi từng gặp. Anh ta chắc chắn không quá hai mươi mốt tuổi. Anh ta da ngăm đen, có lẽ gốc Tây Ban Nha hoặc Bồ Đào Nha, nhỏ người và rắn chắc. Anh ta chỉ mặc độc một chiếc quần soóc bằng vải bông. Cộng thêm lớp trang điểm. Tôi để ý thấy điều này khi đang sải bước vào nhà, nhưng chẳng thấy có gì hấp dẫn.
    Rồi Bill bước ra và tôi nhìn thấy anh, đứng trong bóng tối của hành lang dài nối từ phòng khách tới các gian trong. Tôi nhìn anh, cố đoán định vai trò của mình trong tình huống bất ngờ này. Tôi bàng hoàng khi thấy anh trông không hề có vẻ an lòng vững dạ. Khuôn mặt anh vẫn kín như bưng, không thể dò được. Dù không thể tin nổi mình sẽ có lúc nghĩ như thế này, nhưng tôi ước gì mình có thể lắng nghe tâm trí anh dù chỉ một chút.
    “Thế đấy, giờ chúng ta có thể có một buổi tối tuyệt vời rồi,” tay ma cà rồng tóc dài nói. Giọng hắn nghe có vẻ hứng khởi. “Đây là cô bạn bé nhỏ của anh, phải không Bill? Cô bé tươi quá.”
    Tôi thầm nhớ lại những từ ngữ chọn lọc ít ỏi mà mình học được từ Jason. “Nếu mọi người cảm phiền cho tôi và Bill,” tôi nói rất lịch sự, cứ như thể đây là một buổi tối hoàn toàn bình thường vậy, “tôi đang thu xếp thợ sửa chữa căn nhà này.” Tôi cố nói bằng giọng khách quan và mang tính công việc, mặc dù bộ áo phông, quần soóc và giày Nike không hề toát lên vẻ chuyên nghiệp. Nhưng tôi hy vọng mình tạo được ấn tượng rằng những con người tử tế tôi gặp gỡ trên đường công cán chẳng đời nào có lấy dù chỉ một chút nguy hiểm.
    “Bọn này nghe nói Bill đang ăn kiêng chỉ bằng máu nhân tạo thôi,” tay ma cà rồng xăm trổ nói. “Chắc chúng ta nghe nhầm rồi, Diane.”
    Ả ma cà rồng gục gặc đầu và quan sát tôi thật kỹ. “Em không chắc lắm. Cô bé trông vẫn có vẻ trinh trắng lắm.”
    Tôi không nghĩ Diane đang nói về chuyện màng trinh của tôi.
    Tôi bước vài bước bình thường về phía Bill, mong mỏi anh sẽ bảo vệ tôi nếu điều tệ nhất xảy ra, nhưng cũng nhận thấy rõ mình không hoàn toàn chắc chắn. Tôi vẫn mỉm cười, hy vọng anh sẽ di chuyển hoặc nói điều gì đó.
    Và rồi anh nói thật. “Sookie là của tôi,” anh nói bằng giọng lạnh lùng và mềm mại như hơi thở.
    Tôi ném cho anh cái nhìn sắc lẻm, nhưng vẫn đủ khôn ngoan để ngậm chặt miệng mình lại.
    “Cô em chăm sóc Bill tử tế đến mức nào thế?” Diane hỏi.
    “Chẳng dính dáng mẹ gì đến cô cả,” tôi trả lời, sử dụng một trong những từ ngữ của Jason trong khi miệng vẫn mỉm cười. Tôi cảm nhận cơn giận dữ của mình đang âm ỉ.
    Một khoảng lặng ngắn ngủi đè nặng bầu không khí. Tất cả, con người cũng như ma cà rồng, đều có vẻ đang đánh giá tôi kỹ đến từng lỗ chân lông. Rồi tay ma cà rồng cao lêu nghêu phá lên cười, đập tan sự im lặng, và những kẻ khác bèn hùa theo. Khi chúng ngừng cười, tôi tiến thêm vài bước đến gần Bill hơn. Đôi mắt sậm màu của anh dán chặt vào tôi - không hề có vẻ cười cợt - và tôi mơ hồ cảm nhận được rằng cũng giống như tôi, anh đang ước gì tôi có thể đọc được tâm trí anh.
    Tôi có thể dám chắc anh đang gặp nguy hiểm. Và nếu anh gặp nguy hiểm, thì tôi cũng vậy.
    “Cô em có nụ cười ngồ ngộ,” tay ma cà rồng cao trầm ngâm nhận xét. Tôi thích hắn cứ cười phá lên hơn.
    “Ôi, Malcolm,” Diane nói. “Cô ả người nào mà chẳng ngồ ngộ với anh cơ chứ.”
    Malcolm kéo chàng người về phía mình và hôn anh ta thật lâu. Tôi bắt đầu cảm thấy hơi buồn nôn. Chuyện này đáng lẽ phải thật riêng tư mới phải. “Đúng vậy,” Malcolm nói, hơi lùi lại trước sự thất vọng ra mặt của anh chàng nhỏ bé kia. “Nhưng ở cô ta có điều gì đó rất hiếm hoi. Có lẽ máu cô ta rất đậm đà.”
    “Ôi giời,” ả tóc vàng thốt lên bằng một giọng chói lói, “chỉ là Sookie Stackhouse điên khùng thôi mà.”
    Tôi quan sát ả tóc vàng chăm chú hơn. Cuối cùng tôi cũng nhận ra ả, sau khi đánh vật với tâm trí để lờ mờ hình dung ra khuôn mặt thật ẩn dưới cả tấn phấn kia. Janella Lennox đã từng làm việc ở quán Merlotte khoảng hai tuần trước khi bị Sam đuổi việc. Theo lời Arlene thì ả đã chuyển đến Monroe.
    Tay ma cà rồng xăm trổ vòng tay qua Janella và xoa bóp ngực ả. Tôi cảm thấy mặt mình tịnh không còn giọt máu nào. Tôi thấy thật kinh tởm. Mọi chuyện càng lúc càng tệ hơn. Janella cũng thản nhiên y hệt gã ma cà rồng, ả đặt tay lên đũng quần của gã và bắt đầu xoa bóp.
    Ít nhất thì tôi đã thấy rõ rành rành là ma cà rồng cũng có thể làm tình. Nhưng biết được chuyện đó vào lúc này thì chẳng còn mấy thích thú. Malcolm vẫn quan sát tôi, ấy vậy mà tôi lại biểu lộ sự kinh tởm của mình. “Cô bé còn ngây thơ lắm,” hắn nói với Bill, kèm theo nụ cười khoái chí.
    “Cô ấy là của tôi,” Bill lập lại. Lần này giọng anh trở nên gay gắt hơn. Sự cảnh báo trong giọng nói đó chẳng thể rõ ràng hơn được nữa.
    “Thôi nào, Bill, anh đừng hòng nói rằng con bé này đã làm anh thỏa mãn đấy nhé,” Diane nói. “Anh trông xanh xao vàng vọt quá. Cô ta không chăm sóc anh cẩn thận rồi.”
    Tôi nhích đến gần Bill hơn.

  9. #9
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    “Đây này,” Diane mời mọc, và tôi bắt đầu cảm thấy ghét mụ ta rồi, “anh thử ả đàn bà của Liam đi, hay chàng Jerry kháu khỉnh của Malcolm cũng được,”
    Janella không phản ứng gì khi được mời quanh như thế, có lẽ chỉ vì ả ta quá bận bịu kéo khóa quần Liam xuống, nhưng gã bạn trai đẹp mã của Malcolm, Jerry, thì háo hức trượt về phía Bill. Tôi toét miệng cười đến độ quai hàm tưởng như sắp vỡ vụn ra khi thấy anh chàng vòng tay qua người Bill, hít ngửi cổ rồi cọ ngực mình vào áo Bill.
    Vẻ căng thẳng trên gương mặt chàng ma cà rồng của tôi thật khó coi. Răng nanh của anh trồi ra. Cuối cùng thì tôi cũng được chứng kiến chiều dài hoàn chỉnh của nó. Máu nhân tạo quả không đáp ứng đủ nhu cầu của Bill.
    Jerry bắt đầu liếm hõm cổ của Bill.
    Giữ rào cản tâm trí giờ đã trở nên quá sức với tôi. Vì tôi chẳng thể nghe được tâm trí của ba ma cà rồng kia, còn Janella thì đang quá bận bịu nên chỉ còn lại Jerry. Tôi lắng nghe và nghẹn cả giọng.
    Bill không thể cưỡng nổi sự cám dỗ nữa và đang cúi người định cắm răng nanh vào cổ Jerry, thì tôi hét lên, “Đừng! Hắn bị nhiễm virus Sino đấy!”
    Như thể vừa được giải bùa, Bill nhìn qua vai Jerry về phía tôi. Nhịp thở của anh gấp gáp, nhưng những chiếc răng nanh đã được thu lại. Tôi lợi dụng khoảnh khắc đó để tiến thêm mấy bước nữa. Tôi chỉ còn cách Bill vài bước chân nữa thôi. “Sino-AIDS,” tôi nói.
    Máu của người nghiện rượu hay thuốc kích thích thường ảnh hưởng tạm thời đến ma cà rồng, và nghe nói một vài ma cà rồng khá thích thú cảm giác phấn chấn đó; nhưng máu của người nhiễm AIDS giai đoạn cuối hay những căn bệnh lây truyền qua đường tình dục hoặc bệnh dịch thì không ảnh hưởng gì đến ma cà rồng cả.
    Trừ Sino-AIDS. Kể cả Sino-AIDS cũng không giết chết hẳn ma cà rồng như AIDS giết người, nhưng nó khiến cho kẻ bất tử đó kiệt quệ trong gần một tháng, và trong suốt khoảng thời gian này, người ta có thể tương đối dễ dàng bắt bọn họ để phơi ra ngoài ánh sáng. Và thông thường, nếu ma cà rồng hút phải máu nhiễm virus nhiều lần, họ sẽ chết - hay chết tiếp nhỉ? - mà chẳng cần bị phơi phiếc gì. Sino-AIDS vẫn còn hiếm ở Mỹ, mới chỉ kiếm được chỗ đứng ở những cảng biển như New Orleans, nơi thủy thủ và du khách từ đủ mọi quốc gia hào hứng hân hoan dạo khắp nơi trong thành phố.
    Tất cả ma cà rồng trong phòng như bị đông cứng lại, nhìn chằm chằm vào Jerry cứ như thể hắn là tử thần đội lốt người; mà có lẽ đối với họ thì hắn đúng là vậy thật.
    Gã thanh niên đẹp trai đó bất ngờ tấn công tôi. Hắn quay người nhảy bổ vào tôi. Hắn không phải ma cà rồng nhưng rất khỏe, hiển nhiên mới đang ở giai đoạn đầu nhiễm virus, và hắn xô mạnh tôi vào bức tường bên tay trái. Một tay hắn bóp chặt cổ tôi, tay kia giơ lên đấm vào mặt tôi. Tôi đang giơ cánh tay lên phòng hộ thì bàn tay Jerry đã bị tóm gọn và hắn như hóa đá.
    “Bỏ cổ họng cô ấy ra,” Bill hầm hè bằng giọng mà ngay cả tôi cũng thấy sợ. Lúc này, nỗi sợ hãi đong đầy nhanh đến nỗi tôi không nghĩ là mình còn tìm lại được cảm giác an toàn nữa. Nhưng những ngón tay của Jerry vẫn không buông lỏng, khiến tôi khẽ bật ra một tiếng rên rỉ không hề mong muốn. Tôi liếc mắt sang bên, và khi nhìn thấy gương mặt tái xám của Jerry, tôi nhận ra Bill đang nắm chặt tay còn Malcolm thì giữ chặt chân hắn, và Jerry sợ đến nỗi không hiểu ra người ta đang muốn hắn làm gì nữa.
    Căn phòng bắt đầu trở nên mờ nhạt và các giọng nói vo vo trong đầu tôi. Tâm trí Jerry nện thình thịch vào tâm trí tôi. Tôi chẳng thể giữ hắn ở bên ngoài được. Tâm trí hắn bị che phủ bới những hình ảnh u ám về ả người yêu đã truyền virus cho hắn và bỏ đi theo một ma cà rồng, ả người yêu đã bị chính tay Jerry giết chết trong cơn ghen điên cuồng. Jerry biết rõ hắn sắp chết dưới tay những ma cà rồng hắn muốn giết, và hắn vẫn chưa thỏa mãn với sự trả thù giáng xuống những tên ma cà rồng đã bị hắn truyền bệnh.
    Tôi có thể nhìn thấy khuôn mặt Diane qua vai Jerry, và cô ả đang mỉm cười.
    Bill bẻ gẫy cổ tay của Jerry.
    Hắn hét lên và đổ gục xuống sàn.
    Máu một lần nữa trào lên đầu tôi khiến tôi suýt ngất. Malcolm nhấc Jerry lên và thản nhiên mang hắn đến chiếc trường kỷ như thể đang mang tấm thảm được cuộn lại.
    Nhưng vẻ mặt của Malcolm không như bình thường. Tôi biết rằng Jerry sẽ thật may mắn nếu cái chết đến với hắn nhanh hơn.
    Bill bước đến trước mặt tôi thế chỗ cho Jerry. Những ngón tay anh, những ngón tay vừa bẻ gãy cổ tay Jerry, dịu dàng xoa bóp cổ tôi như cách bà vẫn làm. Anh đặt một ngón tay lên môi tôi để đảm bảo tôi biết đường giữ im lặng.
    Rồi, vòng tay quanh người tôi, anh quay lại nhìn những ma cà rồng khác.
    “Toàn bộ chuyện này quả rất thú vị,” Liam nói. Giọng hắn vẫn trầm tĩnh cứ như thể không phải Janella đang xoa bóp bộ phận cực kỳ tế nhị của hắn trên chiếc trường kỷ kia vậy. Hắn cũng chẳng thèm nhúc nhích khi cuộc xô xát xảy ra. Và hắn để lộ thêm những hình xăm mà tôi chẳng bao giờ có thể tưởng tượng ra được. Tôi buồn nôn khủng khiếp. “Nhưng tôi nghĩ có lẽ ta nên quay lại Monroe thôi. Chúng ta cần phải nói chuyện tí chút với anh bạn Jerry đây khi cậu ta tỉnh lại, phải không, Malcolm?” Malcolm vác Jerry đang bất tỉnh lên trên vai và gật đầu với Liam. Diane trông có vẻ thất vọng.
    “Nhưng này,” ả ta phản đối, “chúng ta vẫn chưa biết làm sao con bé kia biết được mọi chuyện.”
    Hai tay ma cà rồng kia đồng thời hướng ánh mắt về phía tôi. Cũng cùng lúc đó, Liam đạt đến đỉnh. Vậy là rõ, ma cà rồng có thể làm chuyện đó được. Sau một tiếng thở dài khe khẽ đầy thỏa mãn, hắn nói, “Cảm ơn em, Janella. Câu hỏi hay đấy, phải không Malcolm. Như mọi khi, Diane của chúng ta lại chạm vào điểm nhạy cảm nhất.” Và cả ba vị khách ma cà rồng cười phá lên như thể đó là một trò đùa rõ hay ho, trong khi tôi thấy đáng sợ thì đúng hơn.
    “Em vẫn chưa nói được, phải không, cưng?” Bill vừa hỏi vừa khẽ siết vai tôi, cứ như thể tôi không hiểu được ẩn ý của anh vậy.
    Tôi lắc đầu.
    “Em có thể làm nó nói ra,” Diane đề nghị.
    “Diane, quên chuyện đó đi,” Bill đáp nhẹ nhàng.
    “Ồ, phải rồi. Nó là của anh,” Diane nói. Nhưng giọng ả không hề tỏ ra sợ hãi hay bị thuyết phục.
    “Chúng ta phải đợi lần khác thôi,” Bill nói, và giọng anh biểu lộ rõ rằng nếu không muốn đấu với anh thì bọn họ phải đi khỏi đây ngay.
    Liam đứng dậy, kéo khóa quần lên và ra dấu cho ả người của hắn. “Đi thôi, Janella, chúng ta bị đuổi rồi”. Những hình xăm gợn sóng lăn tăn trên cánh tay chắc nịch của hắn khi hắn duỗi người ra. Janella lướt cánh tay dọc lưng hắn cứ như thể ả thấy thế vẫn là chưa đủ, và tay ma cà rồng phũ phàng gạt ả đi không khác gì xua một con ruồi. Ả lộ rõ sự bực tức, nhưng không có vẻ mất thể diện như cảm giác của tôi nếu ở vào hoàn cảnh tương tự. Có lẽ Janella đã quen với cách đối xử như vậy.
    Malcolm nhấc Jerry lên và lẳng lặng vác hắn ra ngoài cửa trước. Nếu Malcolm đã bị nhiễm virus do hút máu Jerry thì chắc chắn những con virus này vẫn chưa phát huy tác dụng. Diane là người cuối cùng rời đi, lẳng chiếc ví lên vai và ném một cái nhìn sắc lẻm về phía sau.
    “Vậy thì em sẽ để đôi chim cúc cu được ở riêng với nhau vậy. Vui vẻ đi nhé, cưng,” ả nói nhẹ bẫng và đóng sầm cửa lại.
    Ngay khi nghe tiếng động cơ xe khởi động phía bên ngoài, tôi ngất lịm.
    Cả đời tôi chưa bao giờ bị như vậy, và tôi cũng hy vọng sẽ không bao giờ bị vậy nữa, nhưng tôi cảm thấy mình có lý do để bào chữa cho chuyện này.
    Có vẻ như tôi đã bất tỉnh quá nhiều trước sự hiện diện của Bill. Đó là một ý nghĩ quan trọng, và tôi biết mình cần phải ngẫm nghĩ về nó thật cẩn thận, nhưng không phải ngay bây giờ. Khi tôi tỉnh lại, mọi thứ tôi vừa chứng kiến và nghe thấy ào ạt quay trở lại, và tôi nôn khan. Ngay lập tức Bill đỡ tôi nghiêng đầu ra ngoài mép ghế. Nhưng tôi đã nhịn được, không nôn gì ra ngoài, có lẽ vì trong dạ dày tôi cũng chẳng có gì mà cho ra.
    “Tất cả các ma cà rồng đều xử sự như vậy à?” tôi thì thầm. Nơi cổ họng tôi bị Jerry bóp xiết vẫn còn đau và thâm tím. “Họ kinh khủng quá.”
    “Anh đã cố gặp em ở quán khi anh biết em không ở nhà,” Bill nói. Giọng anh trống rỗng. “Nhưng em đã đi rồi.” Mặc dù biết rõ cũng chẳng được tích sự gì, nhưng tôi vẫn òa khóc. Tôi dám chắc bây giờ Jerry đã chết rồi, và tôi có cảm giác đáng ra mình nên làm gì đó, nhưng tôi không thể im lặng khi hắn sắp truyền bệnh cho Bill. Trong quãng thời gian ngắn ngủi này đã xảy ra quá nhiều chuyện khiến tôi bị dằn vặt sâu sắc đến nỗi tôi không biết mình nên bắt đầu từ đâu. Trong suốt khoảng mười lăm phút, tôi đã lo sợ cho cuộc sống của mình, cho cuộc sống của Bill (thôi được, đúng ra là sự tồn tại), tôi đã buộc phải chứng kiến những ve vuốt xác thịt đáng ra chỉ nên diễn ra ở nơi riêng tư nhất, phải chứng kiến cảnh bạn trai tiềm năng của mình trong tình trạng thèm khát máu tươi (nhấn mạnh vào chữ ‘thèm khát’), và rồi tôi cũng suýt bị bóp cổ đến chết bởi một kẻ mắc bệnh truyền nhiễm.
    Cứ nghĩ như thế, tôi lại càng không thể ngừng khóc được. Tôi ngồi dậy, lau khô nước mắt bằng chiếc khăn tay Bill đưa cho. Sự tò mò về lý do ma cà rồng cần khăn tay chỉ là chút suy nghĩ bình thường còn sót lại khi tâm trí tôi đã ngập lụt trong những giọt nước mắt lo lắng.
    Bill đủ sáng suốt để không vòng tay ôm tôi. Anh chỉ ngồi trên sàn, lịch sự tránh ánh mắt sang hướng khác trong khi tôi lau nước mắt.
    “Khi ma cà rồng sống trong sào huyệt của mình,” anh đột nhiên nói, “họ thường trở nên tàn nhẫn hơn bởi họ thúc đẩy lẫn nhau. Họ thường xuyên gặp gỡ những người giống mình nên không nhận ra bản thân mình đã đi xa khỏi cái gọi là nhân tính nhiều như thế nào. Họ trở nên bất chấp mọi luật lệ. Những ma cà rồng sống một mình như anh thì vẫn còn chút nhân tính.” Tôi lắng nghe giọng nói mềm mại của anh, chậm rãi trôi theo dòng suy nghĩ của anh khi anh cố giải thích cho tôi những điều chẳng tài nào giải thích nổi.
    “Sookie, trong bọn anh có một số ma cà rồng hàng bao thế kỷ nay chỉ biết đến cuộc sống gắn liền với sự quyến rũ và cám dỗ. Máu nhân tạo và sự chấp nhận bất đắc dĩ của con người cũng chẳng thể thay đổi điều đó trong một sớm một chiều được. Diane, Liam và Malcolm đã sống với nhau suốt năm mươi năm rồi đấy.”
    “Thật ngọt ngào,” tôi nói, và giọng tôi ẩn chứa một sắc thái tôi chưa từng thấy trước đây: sự chua chát. “Vậy là họ kỷ niệm đám cưới vàng rồi.”
    “Em có thể quên chuyện này được không?” Bill hỏi. Đôi mắt to sẫm màu của anh tiến đển càng lúc càng gần hơn. Miệng anh chỉ còn cách miệng tôi vài phân.
    “Em không biết.” Từ ngữ cứ thế tuôn ra khỏi miệng tôi. “Anh biết không, em không biết liệu anh có thể làm chuyện đó được không?”
    Lông mày anh nhướn lên dò hỏi.
    “Làm gì...”
    “Đạt được...” và tôi dừng lại, cố tìm ngôn từ phù hợp nhất. Tối nay, tôi đã chứng kiến nhiều chuyện thô tục gấp bội phần so với những gì tôi từng gặp suốt từ khi sinh ra cho đến giờ, và tôi không muốn cho thêm điều này vào nữa. “Sự cương cứng,” tôi nói, tránh nhìn vào mắt anh.
    “Bây giờ thì em biết rõ hơn rồi đấy.” Giọng anh nghe như đang cố không tỏ ra thích thú. “Bọn anh có thể làm tình, nhưng không thể có con được. Em có thấy dễ chịu hơn không nếu biết rằng Diane không thể sinh con?” Cầu chì thần kinh của tôi đứt phựt. Tôi mở to mắt và nhìn vào anh kiên quyết. “Đừng-có-cười-em-đấy.”
    “Ôi, Sookie,” anh nói, và anh đưa tay vuốt má tôi.
    Tôi né bàn tay anh và cố gắng đứng dậy. Anh không giúp tôi, điều này làm tôi thoải mái hơn, mà anh cứ ngồi yên trên sàn quan sát tôi với khuôn mặt kín bưng không thể dò được. Răng nanh của Bill đã thu vào, nhưng tôi biết anh vẫn đang phải vật lộn với cơn khát. Tệ thật.
    Ví của tôi nằm trên sàn gần cửa ra vào. Dù hơi lảo đảo nhưng tôi vẫn đi được. Tôi lôi danh sách thợ điện ra khỏi túi và đặt trên bàn.
    “Em phải đi thôi.”
    Anh đột nhiên xuất hiện trước tôi.
    Anh lại hành xử theo kiểu ma cà rồng. “Anh hôn tạm biệt em được không?” anh hỏi, tay để xuôi bên sườn, tỏ rõ anh sẽ không chạm vào tôi nếu không được sự chấp thuận.
    “Không,” tôi từ chối thẳng thừng. “Sau tất cả mọi chuyện, em không chịu nổi điều đó đâu.”
    “Anh sẽ gặp em sau nhé.”
    “Vâng. Có thể.”
    Anh vươn người qua tôi để mở cửa, nhưng tôi lại tưởng anh định chạm vào mình, và tôi giật mình lùi lại.
    Tôi xoay gót giày và đi như chạy về phía xe, nước mắt một lần nữa làm mờ tầm nhìn của tôi. May mà đoạn đường lái xe về nhà không quá dài.
    Chú thích
    [2] Chú mèo nổi tiếng với nụ cười quái dị trong câu chuyện bất hủ “Alice lạc vào xứ sớ thần tiên”.

  10. #10
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 3
    Điện thoại đang reo, tôi kéo gối trùm qua đầu. Bà chắc chắn sẽ nhấc máy chứ? Nhưng khi thứ âm thanh khó chịu đó cứ kéo dài mãi, tôi nhận ra hẳn bà đã đi mua sắm hoặc đang làm gì đó ngoài sân rồi. Tôi bèn trườn ra gần bàn ngủ, miễn cưỡng mà làm chứ chẳng hứng thú gì.
    Trong cơn đau đầu và với cảm giác hối hận của một người vừa trải qua cuộc rượu chè trác táng (dù rằng trong trường hợp của tôi nó liên quan đến cảm xúc chứ không phải chất cồn), tôi run run vươn tay ra tóm lấy ống nghe.
    “Vâng?” tôi trả lời. Giọng tôi chưa tỉnh táo lắm. Tôi hắng giọng thử lại một lần nữa. “Xin chào?”
    “Sookie à?”
    “Ừm, Sam à?”
    “Ừ. Nghe này, cô gái thân mến, em giúp anh một chuyện được không?”
    “Gì cơ?” Dù sao hôm nay tôi vẫn phải đi làm mà, và tôi không muốn gánh thêm ca của Dawn nữa.
    “Em ghé qua chỗ Dawn xem cô ấy có chuyện gì được không? Cô ấy không trả lời điện thoại, và cũng không đi làm. Xe chở hàng vừa mới đến, anh phải chỉ cho mấy tay khuân vác chỗ dỡ hàng xuống.”
    “Bây giờ ư? Anh muốn em đi bây giờ ư?” Chiếc giường thân thuộc của tôi chưa bao giờ níu giữ tôi mãnh liệt đến thế.
    “Em giúp anh được không?”. Lần đầu tiên anh có vẻ nắm bắt được tâm trạng bất thường của tôi. Tôi chưa bao giờ từ chối Sam điều gì.
    “Chắc là được,” tôi nói, cảm thấy mệt mỏi khi hết lần này đến lần khác phải làm những việc như thế này. Tôi không quá bận tâm đến Dawn, và cô ta cũng thế. Dawn tin rằng tôi đã thâm nhập vào tâm trí cô ta và kể với Jason vài suy nghĩ của cô ta về anh ấy, khiến anh chia tay cô nàng. Nếu hứng thú kiểu đấy với chuyện tình ái của Jason thì tôi đã chẳng có thời gian ăn ngủ rồi.
    Tôi tắm rửa và uể oải thay quần áo. Mọi hứng thú dành cho công việc đã trôi sạch đi đâu mất như bong bóng xà phòng. Tôi ăn ngũ cốc, đánh răng và thông báo tình hình với bà; bà đang lúi húi trồng mấy khóm dạ yến thảo vào chậu hoa đặt gần cửa sau. Có vẻ bà không hiểu chính xác lời tôi, nhưng vẫn mỉm cười và vẫy chào tạm biệt. Càng ngày bà càng trở nên nặng tai hơn, nhưng tôi nhận ra đó chẳng phải vấn đề to tát vì dù sao bà cũng bảy mươi tám tuổi rồi. Nội chuyện bà vẫn khỏe mạnh tinh tường như vậy đã là tuyệt vời quá rồi.
    Trong khi tiếp tục nhiệm vụ không chút hào hứng này, tôi nghĩ về những khó khăn của bà khi phải gánh vác thêm hai đứa trẻ sau khi đã phải nuôi dạy các con của mình. Bố tôi, con trai bà, mất khi tôi bảy tuổi còn Jason mới lên mười. Khi tôi hai mươi ba, con gái bà, cô Linda, qua đời vì bệnh ung thư tử cung. Trước đó, con gái cô, Hadley, đã bỏ nhà đi theo chính thứ tiểu văn hóa từng sản sinh ra những kẻ như gia đình Rattray, và đến tận bây giờ, chúng tôi vẫn không biết liệu Hadley đã nhận được tin mẹ nó mất hay chưa. Quá nhiều đau buồn đè nặng lên đôi vai bà, nhưng bà vẫn luôn làm chỗ dựa cho chúng tôi.
    Tôi nhìn qua kính chắn gió về phía ba ngôi nhà hai hộ nhỏ ở bên kia đường Berry và một hai khối nhà ọp ẹp nằm ngay phía sau khu vực lâu đời nhất của trung tâm Bon Temps. Dawn sống ở một trong hai khối nhà này. Tôi nhận ra chiếc xe bốn chỗ màu xanh lá của cô ta đậu trên lối vào của khối nhà trông có vẻ bớt xập xệ hơn, vậy là tôi đánh xe vào sau nó. Dawn treo một chậu thu hải đường trước cửa nhà, nhưng chúng có vẻ héo quắt héo queo. Tôi gõ cửa. Tôi đợi vài phút. Rồi tôi gõ cửa lần nữa.
    “Sookie, em cần giúp gì không?” Giọng nói có vẻ quen thuộc. Tôi quay người và phải che mắt lại vì ánh mặt trời buổi sáng. Rene Lenier đang đứng cạnh chiếc xe bán tải của anh ta, đậu bên kia đường trước một trong những ngôi nhà nhỏ là nơi ở của những cư dân còn lại.
    “Ừm,” tôi ậm ừ, không chắc mình có cần giúp đỡ hay không, và nếu cần thì Rene có phải là người phù hợp không? “Anh có thấy Dawn đâu không? Cả hôm qua lẫn hôm nay cô ấy đều không đi làm. Sam nhờ em ghé qua xem thế nào.”
    “Lẽ ra Sam nên tự đi mà làm những việc dớ dẩn của anh ta,” Rene nói, khiến tôi phải ngang bướng bảo vệ ông chủ của mình.
    “Xe tải vừa đến, hàng phải được dỡ xuống chứ.” Tôi quay lại gõ cửa một lần nữa. “Dawn,” tôi hét lên. “Ra mở cửa đi nào.” Tôi nhìn xuống hiên nhà bằng bê tông. Phấn thông bắt đầu rụng từ hai ngày trước. Hiên nhà Dawn tràn ngập màu vàng. Chỉ thấy độc vết chân của tôi. Da đầu tôi bắt đầu nhoi nhói.
    Tôi nhận thấy Rene vẫn lúng túng đứng bên cửa xe, không biết nên đi hay ở.
    Ngôi nhà hai hộ Dawn ở chỉ có một tầng, khá nhỏ, và cửa căn hộ bên cạnh chỉ cách vài bước. Chỗ đỗ xe chật chội trước cửa căn hộ kề bên trống trơn, và trên cửa sổ không treo rèm. Có vẻ như Dawn đang tạm thời không có hàng xóm. Dawn vẫn còn đủ sĩ diện để treo rèm cửa, màu trắng điểm hoa vàng sậm. Rèm vẫn đang khép, nhưng vải vừa mỏng vừa không có lớp lót, và Dawn cũng không thèm đóng tấm chắn sáng rẻ tiền bằng nhôm xuống. Tôi liếc vào và nhận thấy trong phòng khách chỉ có vài thứ đồ nội thất mua từ chợ trời. Một cốc uống cà phê nằm trên cái bàn kê sát chiếc ghế tựa nứt nẻ và một cái trường kỷ cũ kỹ phủ khăn bằng len đan được đẩy vào sát tường.
    “Em sẽ đi vòng ra đằng sau,” tôi nói to với Rene. Anh ta bèn băng qua đường như thể nhận được hiệu từ tôi, còn tôi rời khỏi hiên. Chân tôi xục trong đám cỏ dại bụi bặm vương đầy phấn thông vàng, và tôi biết mình sẽ phải phủi bụi ở giày và có thể là thay cả tát trước khi đi làm. Trong suốt mùa phấn thông, mọi thứ đều chuyển thành màu vàng, ô tô, cây cối, mái nhà, cửa sổ, tất cả đều chìm trong lớp bụi vàng. Ao hồ hay bể bơi cũng có rìa nước màu vàng.
    Cửa sổ phòng tắm của Dawn rất cao và kín đáo nên tôi không nhìn vào trong được. Cô ta đã kéo tấm mành che phòng ngủ xuống, nhưng không khép kín hẳn. Tôi vẫn có thể nhìn qua khe hở. Dawn nằm ngửa trên giường. Quần áo ngủ bị vất vương vãi xung quanh. Chân cô ta dang ra. Gương mặt nhợt nhạt trương phình, lưỡi thè ra ngoài miệng. Ruồi nhặng bâu đầy trên đó.
    Tôi có thể nghe tiếng bước chân của Rene đang lại gần.
    “Anh đi gọi cảnh sát đi,” tôi nói.
    “Em nói gì, Sookie? Em thấy cô ấy chưa?”
    “Đi gọi cảnh sát đi!”
    “Được rồi, được rồi!” Rene vội vã quay lại.
    Chút đồng cảm giữa cánh phụ nữ với nhau khiến tôi không muốn Rene nhìn thấy Dawn trong tình cảnh này khi chưa được sự ưng thuận của Dawn. Mà cô phục vụ bàn đồng nghiệp của tôi có muốn cũng chẳng thể đồng ý được nữa rồi.
    Tôi đứng tựa lưng vào cửa sổ, lòng dấy lên một mong muốn khủng khiếp có thể nhìn vào trong một lần nữa với niềm hy vọng hão huyền vừa nãy mình đã nhìn nhầm. Tôi đứng nhìn chằm chằm vào ngôi nhà sát nhà Dawn, có lẽ chỉ cách đấy tầm năm sáu bước chân, tự hỏi làm sao những người sống trong đó có thể không nghe thấy động tĩnh gì từ cái chết dữ dội của Dawn kia chứ.
    Rene đã quay lại. Gương mặt sạm nắng của anh ta cau lại với vẻ lo lắng cực độ, và đôi mắt nâu sáng có vẻ long lanh một cách đáng ngờ.
    “Anh gọi cả Sam nữa được không?” tôi hỏi. Không nói thêm một lời nào, anh ta quay người lê bước trở về xe. Anh ta đang tỏ ra vô cùng tử tế. Mặc dù thích buôn chuyện nhưng Rene luôn là người sẵn lòng giúp đỡ mỗi khi thấy cần. Tôi nhớ có lần anh ta đến giúp Jason treo xích đu ở sân nhà bà, một ký ức bất chợt về một ngày khác hẳn ngày hôm nay.
    Ngôi nhà hai căn hộ bên cạnh cũng giống hệt nhà Dawn, nên tôi đang nhìn thẳng vào cửa sổ phòng ngủ của nó. Một gương mặt bất chợt hiện ra, rồi cửa sổ được nâng lên. Một mái đầu bù xù thò ra. “Em làm gì ở đây thế, Sookie Stackhouse?” một giọng đàn ông trầm ấm vang lên chậm rãi. Tôi lom lom ngó anh ta cả phút, cuối cùng cũng tập trung được vào khuôn mặt trong khi cố gắng không dán mắt vào vồng ngực trần mạnh mẽ bên dưới.
    “JB?”
    “Chuẩn luôn.”
    Tôi học phổ thông cùng với JB du Rone. Thực ra, trong những lần hẹn hò ít ỏi của tôi, có một số là với JB, một con người đáng yêu nhưng đơn giản đến nỗi chẳng thèm quan tâm xem tôi có đọc tâm trí của anh ta hay không. Ngay cả trong tình huống này, tôi vẫn có thể ý thức được vẻ đẹp của JB. Khi hormone của bạn bị kìm giữ lâu ngày như của tôi, sẽ chẳng mất nhiều thời gian để chúng rộn rạo trở lại. Tôi nén tiếng thở dài khi nhìn thấy cánh tay cơ bắp cuồn cuộn của JB “Em làm gì ở đây thế?” anh ta hỏi một lần nữa.
    “Có vẻ như Dawn đã gặp chuyện không hay,” tôi trả lời, không biết mình có nên kể cho anh ta nghe không, “ông chủ của em bảo em ghé qua xem vì cô ấy không đến làm.”
    “Cô ấy có ở trong này không?” JB cứ thế phóng thẳng qua cửa sổ. Anh ta chỉ mặc độc chiếc quần đùi chẽn. “Làm ơn đừng nhìn vào,” tôi nói, nắm chặt tay lại, và bất chợt òa khóc. Dạo này tôi khóc quá nhiều. “Trông cô ấy kinh khủng lắm, JB.”
    “Ôi, cưng ơi,” anh ta nói, và, cầu Chúa phù hộ cho trái tim mộc mạc của JB, anh vòng tay ôm lấy tôi, vỗ về đôi bờ vai. Nếu quanh đây có phụ nữ nào cần sự an ủi, thì thề có Chúa, cứ phải ưu tiên JB du Rone.
    “Dawn thích những thứ dữ dội,” anh nói giọng an ủi, cứ như thể nó giải thích được mọi chuyện vậy.
    Có thể với vài người thì đó là lời giải thích đầy đủ, nhưng với tôi thì không. “Dữ dội là sao?” tôi hỏi, thầm hy vọng trong túi quần có khăn giấy.
    Tôi ngước lên, nhận thấy gương mặt JB đang ửng đỏ.
    “Cưng ơi, cô ấy thích... Ôi, Sookie, em không cần nghe chuyện này đâu.”
    Tôi vốn nổi tiếng là người ngây thơ, một tiếng tăm có phần khá mỉa mai. Vào lúc này, điều đó thật bất tiện. “Anh cứ nói đi, em làm việc cùng cô ấy,” tôi nói, và JB gật đầu nghiêm trang, như thể điều đó có ý nghĩa lắm vậy.
    “Thôi được, cưng à, cô ta thích đàn ông... đại loại là đánh và cắn mình.” JB có vẻ không hiểu nổi sở thích này của Dawn. Chắc tôi đã nhăn mặt lại, vì anh nói tiếp, “Anh biết, anh cũng không thể hiểu tại sao có người lại thích thế được.” JB, vốn không bao giờ từ bỏ bất kỳ cơ hội nào, vòng cả hai tay qua người tôi, không ngừng vỗ về, nhưng có vẻ tập trung vào giữa lưng tôi (để xem tôi có mặc áo lót hay không) và sau đó hạ thấp xuống một chút (tôi nhớ là JB đặc biệt thích phần hông rắn chắc).
    Vô vàn câu hỏi chầu chực trên đầu lưỡi, nhưng tôi vẫn không mở miệng. Cảnh sát đã đến, đích thân Kenya Jones và Kevin Prior. Khi cảnh sát trưởng phân cặp Kenya và Kevin, cả thị trấn đều đoán rằng chắc hẳn ông ta đang cố tình chọc cười mọi người, vì Kenya cao ít nhất là một mét tám, nước da màu sô cô la đậm, cơ thể cường tráng. Còn Kevin chỉ khoảng hơn mét bảy, chi chít tàn nhang trên làn da nhợt nhạt, còn người thì hẹp và mỏng dính như vận động viên điền kinh. Lạ lùng thay, hai K đã phối hợp rất tốt, mặc dù thỉnh thoảng cũng có xích mích này nọ.
    Bây giờ cả hai đều trông rất hình sự. “Chuyện này là sao, cô Stackhouse?” Kenya hỏi. “Rene nói Dawn Green có chuyện à?” Cô vừa nói vừa rà soát khắp mặt JB, còn Kevin thì nhìn chằm chằm xuống mặt đất xung quanh. Tôi không biết tại sao, nhưng chắc hẳn phải có một nguyên do mang tính-chất-cảnh-sát nào đó.
    “Ông chủ nhờ tôi ghé qua xem tại sao hôm qua Dawn không đến làm và hôm nay cũng không xuất hiện,” tôi đáp. “Tôi gõ cửa, nhưng cô ấy không trả lời, xe thì vẫn ở đây. Tôi thấy lo nên bắt đầu đi quanh ngôi nhà để ngó qua các cửa sổ, và cô ấy nằm đó.” Tôi chỉ về phía sau họ, vậy là hai viên cảnh sát bước đến nhìn qua khung cửa. Rồi họ nhìn nhau và gật đầu cứ như thể đã trao đổi cặn kẽ với nhau lắm vậy. Trong khi Kenya bước lại gần cửa sổ, Kevin vòng tới cửa hậu.
    JB đã quên béng mất chuyện vuốt ve vỗ về khi nhìn hai viên cảnh sát làm việc. Thực ra miệng anh ta còn hơi hé mở, để lộ hàm răng hoàn hảo. Mong muốn lớn nhất của anh ta là được nhìn qua cửa sổ, nhưng anh ta không thể nhòm qua vai Kenya, vốn lúc này đã chiếm hết mọi khoảng trống có thể tận dụng rồi.
    Tôi không muốn chỉ biết riêng suy nghĩ của mình nữa. Tôi thư giãn, dỡ bỏ hàng rào xuống, và lắng nghe suy nghĩ của mọi người. Giữa những con sóng cuồn cuộn, tôi chộp được một dòng suy nghĩ và tập trung vào nó.
    Kenya Jones quay lại nhìn chằm chằm vô định về phía chúng tôi. Cô ấy đang nghĩ về tất cả mọi chuyện cô và Kevin cần làm để vụ điều tra diễn ra suôn sẻ hết mức. Cô nghĩ đến những tin đồn không hay về Dawn và sở thích bạo dâm của cô ta. Cô cho rằng cũng chẳng có gì bất ngờ khi Dawn gặp phải kết cục bi thảm, mặc dù cô cũng thấy tiếc thương cho bất cứ ai giã từ cuộc đời với đám ruồi bu trên mặt. Kenya cũng thấy hối tiếc vì sáng đó đã ăn thêm một cái bánh rán ở Nut Hut, vì biết đâu chuyện đó có thể lặp lại và sẽ khiến một nữ cảnh sát da màu như cô phải xấu hổ.
    Tôi chuyển sang dòng suy nghĩ khác.
    JB đang nghĩ về việc Dawn bị giết trong cơn bạo dâm chỉ cách anh ta có vài bước chân, và mặc dù chuyện ấy kinh khủng thật nhưng anh ta cũng thấy hơi phấn khích và trông Sookie vẫn rất ngon lành. Anh ta ước gì có thể mây mưa với cô nàng ngay lúc này. Cô ấy vẫn thật ngọt ngào và tử tế. Anh ta đang cố dập tắt cảm giác nhục nhã từng có khi không thể đánh Dawn khi cô ta yêu cầu, và nỗi nhục nhã ấy xưa quá rồi.
    Tôi chuyển lần nữa.
    Kevin đang loay hoay trong góc, nghĩ rằng tốt hơn hết anh ta và Kenya không nên phá hỏng bất cứ bằng chứng nào, và anh ta mừng vì không ai biết anh ta từng ngủ với Dawn Green. Anh ta tức giận vì có kẻ đã giết một phụ nữ anh ta quen, và hy vọng đó không phải một gã da màu, bởi điều đó sẽ làm mối quan hệ giữa anh ta và Kenya xấu đi.
    Tôi chuyển.
    Rene Lenier đang mong sao chóng có người đến mang cái xác đi khỏi ngôi nhà. Anh ta hy vọng không ai biết anh ta từng ngủ với Dawn Green. Tôi không thể đọc chính xác suy nghĩ của anh ta, chúng rất tối và mơ hồ. Có một vài người tôi không thể lắng nghe một cách rõ ràng được. Anh ta giờ đang quá bối rối. Sam vội vã bước về phía tôi, chỉ chậm lại khi thấy JB đang vỗ về tôi. Tôi cũng không thể đọc được tâm trí của Sam. Tôi có thể cảm nhận được những xúc cảm của anh (ngay lúc này là sự lo lắng, băn khoăn trộn lẫn tức giận) nhưng không thể đọc được từng suy nghĩ riêng lẻ. Chuyện này thú vị và bất ngờ đến nỗi tôi rời khỏi vòng tay JB, mong muốn được tiến đến chộp lấy tay Sam rồi nhìn sâu vào mắt anh để thăm dò xem trong tâm trí người đàn ông này có gì. Tôi nhớ lại khi anh chạm vào tôi, tôi đã né tránh. Bây giờ, anh đang cảm nhận được sự hiện diện của tôi trong tâm trí anh, và mặc dù chân vẫn tiếp tục bước về phía tôi, tâm trí anh lại thoái lui. Mặc dù đã mời tôi, anh vẫn không biết rằng tôi sẽ thấy anh khác với những người khác: tôi bám vào suy nghĩ này cho đến khi anh đóng sập tâm trí lại.
    Tôi chưa bao giờ có cảm giác tương tự. Cứ như thể một cánh cửa sắt to đùng đã sập xuống. Ngay trước mặt tôi.
    Tôi giơ tay về phía anh theo bản năng, nhưng rồi lại buông thõng xuống. Anh đang hướng cái nhìn chăm chú của mình về phía Kevin chứ không phải về tôi.
    “Có chuyện gì vậy, ngài cảnh sát?” Sam hỏi.
    “Ông Merlotte, chúng tôi có lẽ phải phá cửa ngôi nhà này, trừ khi ông có chìa khóa dự phòng.”
    Sao Sam lại có chìa khóa chứ?
    “Anh ta là chủ nhà của anh đấy,” JB thì thầm vào tai tôi, và tôi nhảy dựng lên.
    “Thật sao?” tôi hỏi một cách ngu ngốc.
    “Anh ta sở hữu cả ba ngôi nhà kép này.”
    Sam lục trong túi và lôi ra một chùm chìa khóa. Anh lật đống chìa khóa với vẻ thành thạo, rồi dừng lại ở một chiếc, tách tiêng nó ra tháo khỏi móc và đưa cho Kevin.
    “Đây là chìa khóa của cả cửa trước lẫn cửa sau à?” Kevin hỏi. Sam gật đầu. Anh vẫn không nhìn tôi.
    Kevin vòng ra cửa hậu của ngôi nhà, khuất khỏi tầm nhìn, và bầu không khí quanh chúng tôi tĩnh lặng đến nỗi mọi người có thể nghe rõ tiếng chìa xoay trong ổ khóa. Rồi anh ta bước vào căn phòng ngủ có xác người phụ nữ, và chúng tôi có thể thấy gương mặt anh ta co rúm lại khi mùi bốc lên.
    Đưa một tay lên bịt miệng và mũi, anh ta cúi xuống cái xác, đặt ngón tay lên cổ cô ta. Sau đó Kevin nhìn ra ngoài cửa sổ và lắc đầu với người cộng sự. Kenya gật đầu, đi về phía chiếc xe cảnh sát đang đậu ngoài đường để sử dụng bộ đàm.
    “Này, Sookie, em đi ăn tối với anh nhé?” JB hỏi. “Chuyện này chắc làm em mệt mỏi lắm, em cần phải thư giãn một chút để bù đắp chứ.”
    “Cảm ơn anh, JB.” Tôi ý thức rõ Sam đang lắng nghe. “Anh thật tử tế khi mời em. Nhưng có lẽ hôm nay em sẽ phải làm thêm ca.”
    Trong một thoáng, gương mặt đẹp trai của JB ngây ra. Rồi nó toát lên vẻ thấu hiểu. “Phải rồi, Sam phải thuê người khác chứ,” anh ta nhận xét.
    “Anh có đứa em họ ở Springhill đang tìm việc làm. Để anh gọi cho nó xem. Bây giờ thì bọn này có thể làm hàng xóm của nhau rồi.”
    Tôi mỉm cười với anh ta, mặc dù tôi đoan chắc nụ cười chẳng khác gì hoa héo, trong khi bước đến đứng kề vai với người đàn ông đã làm việc cùng mình suốt hai năm nay.
    “Anh xin lỗi, Sookie,” anh nói nhỏ.
    “Vì chuyện gì?” Giọng tôi cũng nhỏ không kém. Có phải anh định nói về chuyện vừa xảy ra giữa hai chúng tôi - hay nói cho chính xác hơn là chuyện đã không xảy ra?
    “Vì đã nhờ em đến kiểm tra Dawn. Đáng ra anh phải tự mình đến. Anh đã tin chắc cô ấy chỉ cặp với anh chàng mới nào đó thôi và cần phải có người nhắc cho cô ấy nhớ là còn phải làm việc nữa. Lần trước khi anh phải đến gặp Dawn, cô ấy la hét anh dữ dội đến nỗi anh không muốn lặp lại điều đó một lần nữa. Nên, như một thằng hèn, anh nhờ em đến, khiến em phải phát hiện ra cô ấy trong tình trạng này.”
    “Anh là người đầy những bất ngờ, Sam à.”
    Anh không quay nhìn tôi, cũng không đáp lại lời nào cả. Nhưng, những ngón tay anh đan qua tay tôi. Một lúc lâu, tay nắm tay, chúng tôi đứng dưới ánh mặt trời, giữa đám đông ồn ã. Lòng bàn tay anh khô và nóng, những ngón tay mạnh mẽ. Tôi cảm thấy mình đã có được sự kết nối đích thực với một con người khác. Nhưng rồi, nắm tay của anh lỏng dần và Sam tiến đến hỏi chuyện tay điều tra viên vừa bước ra khỏi ô tô, còn JB bắt đầu hỏi tôi Dawn trông như thế nào, và thế giới lại trở về trạng thái cũ rích vốn có của nó.
    Sự tương phản thật tàn nhẫn. Tôi lại cảm thấy rã rời, và ký ức về tối hôm trước trở nên rõ rệt hơn nhiều so với mong muốn của tôi. Thế giới dường như là một nơi kinh khủng và tệ hại, tất cả các cư dân của nó đều đáng nghi ngờ, còn tôi là chú cừu non lang thang qua thung lũng tử thần với sợi dây chuông đeo trên cổ. Tôi lê bước về phía xe của mình, mở cửa và nghiêng người chui vào ghế. Hôm nay tôi đã đứng quá nhiều rồi nên sẽ ngồi nếu có thể.
    JB bước theo tôi. Bây giờ, khi vừa gặp lại tôi, anh ta sẽ chẳng đời nào tránh đi.Tôi nhớ hồi tôi còn học phổ thông, bà đã biết bao hy vọng rằng hai chúng tôi sẽ duy trì được mối quan hệ bền vững. Nhưng nói chuyện với JB, thậm chí là nghe tâm trí anh ta, cũng nhạt nhẽo chẳng kém gì sách vỡ lòng của trẻ mẫu giáo trong mắt người lớn vậy. Chúa thật biết đùa khi đặt một bộ não ngu ngốc dường ấy vào cái cơ thể tráng kiện đến vậy.
    Anh ta quỳ xuống và nắm tay tôi. Tôi nhận ra mình đang mong sao có một quý cô giàu có khôn ngoan nào đó xuất hiện, kết hôn với JB, chăm sóc anh ta và thích thú với những gì mà anh ta trao gửi. Cô ta sẽ kiếm được món hời cho mà xem.
    “Anh dạo này làm ở đâu thế?” tôi hỏi, chỉ để làm mình mất tập trung.
    “Ở kho của bố,” anh ta đáp.
    Đó là công việc dự bị luôn được JB tiếp nhận mỗi khi anh ta bị đuổi khỏi những công việc khác vì đã làm trò ngu ngốc, vì không đi làm đầy đủ, hoặc xúc phạm nghiêm trọng cấp trên. Bố JB điều hành một cửa hàng phụ tùng ô tô.
    “Nhà anh dạo này thế nào?”
    “Vẫn ổn cả thôi. Sookie này, chúng mình nên làm gì đó cùng nhau đi.”
    Đừng có cám dỗ, tôi nghĩ thầm.
    Một lúc nào đó, khi lượng hormone vượt tầm kiểm soát, tôi sẽ làm những chuyện khiến mình sau đó phải hối tiếc; và chuyện đó có thể còn tệ hơn nhiều so với việc ngủ với JB. Nhưng tôi sẽ tiếp tục chờ đợi, và hy vọng vào điều tốt đẹp hơn. “Cảm ơn, cưng à,” tôi đáp. “Có lẽ một lúc nào đó. Còn ngay bây giờ thì em đang mệt mỏi quá.”
    “Em có yêu tay ma cà rồng đó không?” anh ta hỏi thẳng.
    “Anh nghe chuyện đó ở đâu ra thế?”
    “Dawn bảo thế.” Khuôn mặt JB tối sầm lại khi anh ta nhớ ra Dawn đã chết. Sau khi quét qua tâm trí JB, tôi phát hiện ra những gì Dawn đã nói là “Tay ma cà rồng mới đó có cảm tình với Sookie Stackhouse. Em phù hợp hơn cô nàng nhiều. Anh ta cần một người phụ nữ có thể chịu được cách đối xử mãnh liệt. Sookie sẽ hét toáng lên nếu anh ta chạm vào cô ả cho mà xem.”
    Thật vô nghĩa khi tức giận một người đã chết, nhưng trong một thoáng, tôi để mặc cho thứ cảm xúc đó thỏa mãn mình.
    Đến lúc đó thì tay điều tra viên tiến về phía chúng tôi, vậy là JB đứng dậy bỏ đi chỗ khác.
    Tay điều tra viên thế ngay vào chỗ JB, ngồi xổm trên mặt đất ngay trước mắt tôi. Tôi không làm sao tránh ánh mắt khỏi hình dạng xấu xí đó.
    “Cô Stackhouse?” anh ta hỏi. Anh ta sử dụng kiểu nói nhỏ nhẹ giàu cảm xúc mà những tay chuyên nghiệp rất chuộng trong tình trạng khủng hoảng. “Tôi là Andy Bellefleur.” Nhà Beliefleur đã ở Bon Temps từ hồi thị trấn này mới ra đời, nên tôi chẳng thấy có chút buồn cười nào ở người đàn ông có tên “bông hoa tươi đẹp” này. Thực ra, khi nhìn vào khối cơ bắp mang tên điều tra viên Bellefleur, tôi thấy thương cho bất kỳ ai nghĩ chuyện đó là buồn cười. Anh ta đã tốt nghiệp trước Jason, còn tôi thì học sau em gái Portia của anh ta một khóa.
    Anh ta cũng thăm dò tôi. “Anh cô vẫn ổn chứ?” anh ta hỏi, giọng vẫn nhỏ nhẹ, nhưng không hoàn toàn trung tính nữa. Có vẻ như anh ta đã cãi nhau vài lần với Jason rồi.
    “Theo tôi biết thì anh ấy vẫn ổn,” tôi đáp.
    “Còn bà của cô thì sao?”
    Tôi mỉm cười. “Sáng nay bà vẫn đang trồng hoa.”

Trang 1 / 3 123 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 05-28-2015, 01:29 PM
  2. Bữa trưa hoàn hảo
    By sophienguyen in forum Món Chính Chọn Lọc
    Trả Lời: 4
    Bài Viết Cuối: 01-12-2015, 02:56 AM
  3. Mộng bành trướng Trung Hoa : Giành đất với Ấn Độ
    By duyanh in forum Thời Sự Chính Trị
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 06-07-2014, 05:59 PM
  4. Hoa Trường Xuân vẫn Nở
    By giavui in forum Truyện Ngắn Audio
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-03-2013, 12:45 PM
  5. Một Mùa Thu Trước Hoàng Hôn
    By hailua in forum Audio Tiểu Thuyết Tinh Cảm
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-28-2013, 01:22 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •