Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Những ai chưa từng đau khổ thì những kẻ ấy không bao giờ biết tận hưởng được hạnh phúc.
Ugo Foscolo
Trang 3 / 3 ĐầuĐầu 123
Results 21 to 29 of 29

Chủ Đề: Chết Trước Hoàng Hôn

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,707
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    03 Rose Chết Trước Hoàng Hôn

    Chết Trước Hoàng Hôn

    Tác giả: Charlaine Harris






    Giới Thiệu

    Có lẽ, Sookie Stackhouse sẽ chỉ là một cô hầu bàn rất đỗi bình thường nếu không có một “khiếm khuyết” nhỏ - khả năng đọc tâm trí người khác. Vậy nhưng cô lại không tài nào nghe được suy nghĩ của Bill Compton – chàng ma cà rồng điển trai lạnh lùng ngày nọ bất ngờ bước vào cuộc sống của cô. Kể từ lúc anh xuất hiện, cuộc sống của cô và những người quanh cô đã như luôn bên bờ thảm họa. Bởi có bạn trai là ma cà rồng chưa chắc đã là điều tuyệt vời với cô…
    “Charlaine Haris đã tưởng tượng ra một cách vô cùng sống động hình ảnh cô hầu bàn có khả năng ngoại cảm trong thị trấn nhỏ thuộc bang Louisiana, nơi con người, ma cà rồng, người biến hình và tất cả những sinh vật sống khác cùng tồn tại…Sự nhào trộn của tác giả thật tuyệt vời, khiến câu chuyện thấm đượm đủ các yếu tố, từ kỳ bí, kinh dị đến những chi tiết lãng mạn tuyệt đẹp.” - Milwaukee Journal Sentinel

    Tác Giả
    Charlaine Harris (25/11/1951) sinh ra và lớn lên tại Tunica, Mississippi và hiện giờ đang sống ở Arkansas cùng chồng và ba người con. Bà sáng tác thơ, truyện ngắn, kịch và tiểu thuyết. Chết trước hoàng hôn (Dead Until Dark) là tập đầu tiên trong bộ tiểu thuyết ăn khách The Southern Vampire Mysteries (Bí ẩn ma cà rồng miền Nam), từng giành được giải Anthony Award cho Tác phẩm thần bí xuất sắc nhất 2001. Bộ tiểu thuyết này cũng được đạo diễn Alan Ball chuyển thể thành series phim truyền hình ăn khách nhiều năm liên tiếp True Blood.

    Lời Khen Tặng Dành Cho Chết Trước Hoàng Hôn

    "Một cuốn sách bạn muốn đọc trước giờ đi ngủ, chắc mẩm sẽ chỉ theo dõi hết chương đầu tiên, nhưng hóa ra lại chỉ dừng lại được khi đã đi đến trang cuối cùng.” - Alan Ball, biên kịch American Beauty và đạo diễn True Blood
    “Thật khó tưởng tượng ra cảnh ma cà rồng và người sói cùng lượn lờ ở mỗi góc đường, nhưng Harris đã biết cách khiến người đọc yêu thích, bị lôi cuốn và cuối cùng là mê mệt những câu chuyện của bà." - The Monroe News-star
    “Bằng sự hòa quyện của những pha hành động, tình cảm và các chi tiết hài hước, Harris đã tạo ra một thế giới sống động đầy tính hiện thực, tất nhiên, nếu không kể đến ma cà rồng và những sinh vật siêu nhiên khác.” - The Toronto Stars

  2. #21
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,707
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 8
    Khi lại bên nhau,sự hoài nghi của tôi ít nhất cũng được tạm thời dẹp sang một bên bởi nỗi sợ mất anh, vậy là Bill và tôi bắt đầu hình thành một nhịp sống thường nhật không thoải mái lắm.
    Nếu tôi làm ca đêm, tôi sẽ qua nhà Bill khi xong việc, và thường ở đó luôn đến sáng. Nếu tôi làm ca ngày, Bill sẽ đến nhà tôi lúc chạng vạng tối, và chúng tôi có thể cùng nhau xem ti vi, đi xem phim hoặc chơi giải ô chữ. Cứ sau ba đêm là tôi lại nghỉ ngơi dưỡng sức, hoặc đêm đó Bill sẽ phải kiềm chế để không cắn tôi; bằng không tôi sẽ cảm thấy yếu ớt bơ phờ. Sẽ rất nguy hiểm nếu Bill hút máu tôi quá nhiều... Tôi vẫn đều đặn uống vitamin và sắt cho đến khi Bill phàn nàn về mùi vị. Vậy là tôi bỏ những viên sắt tổng hợp ra khỏi thực đơn của mình.
    Khi tôi ngủ vào ban đêm, Bill sẽ làm việc khác. Thi thoảng anh đọc sách, đôi khi đi dạo hoặc ra ngoài làm vườn cho tôi dưới ánh đèn bão.
    Nếu có uống máu của người khác thì anh cũng không để lộ ra, và anh luôn làm chuyện đó ở xa Bon Temps, như tôi đã yêu cầu.
    Tôi nói nhịp sống đó không thoải mái bởi lẽ tôi có cảm giác cả hai đều đang chờ đợi. Chuyện người ta đốt nhà những ma cà rồng ở Monroe đã chọc tức Bill và (theo tôi) đã làm anh sợ. Hẳn anh phải rất khó chịu vì lúc tỉnh giấc thì tràn đầy sức mạnh nhưng khi đã chìm trong giấc ngủ rồi thì lại hoàn toàn bất lực.
    Cả hai chúng tôi đều băn khoăn không biết sự chống đối ma cà rồng đã dịu bớt chưa kể từ khi những kẻ gây rối tồi tệ nhất vùng đã chết.
    Mặc dù Bill không nói thẳng, nhưng từ những cuộc nói chuyện hàng ngày giữa cả hai, tôi biết anh vẫn lo lắng cho sự an toàn của tôi vì tên sát nhân đã ám hại Dawn, Maudette, và có thể là cả bà nữa vẫn còn nhởn nhơ ngoài kia.
    Nếu dân Bon Temps và những thị trấn lân cận nghĩ rằng chỉ cần thiêu rụi đám ma cà rồng Monroe là họ có thể khỏi phải nặng đầu với những vụ giết người thì họ đều nhầm to. Kết quả giám định tử thi của cả ba nạn nhân cuối cùng cũng cho thấy khi bị giết, họ đều còn nguyên lượng máu trong cơ thể. Thêm vào đó, những vết cắn trên cơ thể Maudette và Dawn không phải có vẻ cũ, mà thực sự đã có từ lâu rồi. Nguyên nhân tử vong là do bị bóp cổ. Maudette và Dawn đều quan hệ tình dục trước khi chết. Và cả sau đó nữa.
    Arlene, Charlsie và tôi đều hết sức cẩn thận mỗi khi phải ra bãi đỗ xe một mình, và trước khi vào nhà đều phải đảm bảo rằng cửa giả vẫn được khóa cẩn thận, thêm vào đó luôn nhớ để mắt đến những chiếc xe xung quanh khi đi trên đường. Nhưng khó mà cẩn thận như thế mãi được, thật sự rất căng thẳng thần kinh, và tôi tin chắc rồi cũng đến lúc tất cả chúng tôi sẽ lại ngựa quen đường cũ thôi. Arlene và Charlsie thì có thể không sao, vì khác với hai nạn nhân đầu tiên, họ không sống một mình; Arlene ở với con (và thỉnh thoảng thêm cả Rene Lenier nữa) còn Charlsie sống với chồng, Ralph.
    Tôi là người duy nhất sống một mình.
    Jason ghé quán hầu như mỗi tối, và luôn tìm ra cớ bắt chuyện với tôi. Tôi nhận ra anh đang cố gắng hàn gắn mối quan hệ giữa hai anh em, và tôi cũng hưởng ứng hết khả năng. Nhưng Jason cũng uống nhiều hơn, và chiếc giường của anh có nhiều người chiếm hữu như thể đó là nhà vệ sinh công cộng vậy, mặc dù anh vẫn giữ mối quan hệ nghiêm túc cùng Liz Barrett. Chúng tôi cẩn trọng bàn bạc với nhau về những vấn đề liên quan đến phần bất động sản mà bà và ông cậu Bartlett để lại, mặc dù anh bận rộn hơn tôi nhiều. Ông cậu Bartlett đã để lại cho Jason tất cả mọi thứ trừ phần thừa kế của tôi.
    Một đêm nọ, khi đã uống quá lượng bia bình thường, Jason kể với tôi anh bị mời lên đồn cảnh sát thêm hai lần nữa, và chuyện đó khiến anh phát điên. Anh cuối cùng cũng đã nói chuyện với Sid Matt Lancaster, và Sid Matt khuyên anh đừng đến đồn cảnh sát nếu không có anh ta cùng đi.
    “Sao họ cứ lôi anh vào thế?” tôi hỏi Jason. “Chắc hẳn phải có điều gì đấy anh chưa kể với em. Andy Bellefleur đâu có bám theo ai khác đâu, mà em biết Dawn cũng như Maudette chẳng mấy kén chọn khi dẫn đàn ông về nhà.”
    Jason trông có vẻ xấu hổ. Tôi chưa bao giờ thấy ông anh đẹp trai của mình ngại ngùng đến thế.
    “Phim,” anh lẩm nhẩm.
    Tôi cúi xuống gần hơn để chắc rằng mình nghe đúng. “Phim ư?” tôi hoài nghi hỏi lại.
    “Suỵt,” anh thốt lên, trông hết sức tội lỗi. “Bọn anh có quay phim.”
    Tôi dám chắc mình cũng xấu hổ không kém gì Jason. Anh trai và em gái không cần phải biết hết về nhau. “Và anh đưa cho họ bản sao à?” tôi thăm dò, cố hình dung ra Jason đã ngốc đến độ nào.
    Anh đánh mắt về hướng khác, đôi mắt xanh mơ màng lấp lánh những giọt nước mắt.
    “Anh ngốc thật,” tôi nói. “Cứ cho rằng anh không nghĩ đến chuyện nó sẽ bị công khai đi, nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu anh quyết định kết hôn chứ? Nếu một người tình cũ nào đó gửi cho vợ chưa cưới của anh một bản copy vũ điệu ân ái đó thì sao?”
    “Cảm ơn đã thêm dầu vào lửa nhé, em gái.”
    Tôi hít thở thật sâu. “Được rồi, được rồi. Anh đã thôi hẳn việc quay phim này rồi chứ?”
    Anh quả quyết gật đầu. Còn lâu tôi mới tin.
    “Và anh cũng kể hết với Sid Matt rồi chứ?”
    Anh gật đầu với vẻ thiếu quyết đoán hơn.
    “Và anh nghĩ đó là lý do Andy cứ bám theo anh mãi?”
    “Phải,” Jason ủ ê đáp.
    “Vậy nếu người ta kiểm tra tinh trùng của anh và thấy chúng không trùng khớp với mẫu tinh trùng trong người Maudette và Dawn thì anh sẽ được chứng minh vô tội.” Bây giờ thì trông tôi cũng không đáng tin chẳng kém gì anh. Từ trước tới nay chúng tôi chưa bao giờ đề cập đến mẫu thử tinh trùng.
    “Sid Matt cũng nói vậy đấy. Chỉ có điều anh không tin vào mấy thứ đó.” Anh trai tôi không tin vào những bằng chứng đáng tin cậy nhất có thể được sử dụng trong phiên tòa. “Anh nghĩ Andy sẽ làm giả kết quả à?”
    “Không, Andy thì ổn. Anh ta chỉ làm đúng phận sự thôi. Chỉ là anh không biết về mấy thứ như ADN.”
    “Anh ngốc quá,” tôi thốt lên, và quay đi lấy thêm bia cho bốn gã sinh viên Ruston đi chơi đêm nơi miền quê.
    Tôi chỉ có thể hy vọng Sid Matt Lancaster là người giỏi thuyết phục. Tôi nói chuyện với Jason một lần nữa trước khi anh rời Merlotte. “Em giúp anh được không?” anh hỏi, vẻ mặt kỳ lạ đến nỗi chính tôi còn không nhận ra. Tôi đứng cạnh bàn anh, còn cô gái hẹn hò với anh tối đó đang trong phòng vệ sinh.
    Anh trai tôi chưa bao giờ nhờ tôi giúp đỡ gì cả.
    “Bằng cách nào?”
    “Em có thể đọc tâm trí của những gã đàn ông đến đây và tìm ra thủ phạm không?”
    “Không dễ như anh tưởng đâu Jason,” tôi nói chậm rãi, cân nhắc ngôn từ cẩn thận. “Một là vì hắn phải đang nghĩ về tội ác của mình khi ngồi đây, đúng vào thời điểm em lắng nghe. Lý do khác nữa là không phải lúc nào em cũng nhận được những thông điệp rõ ràng. Giống như khi dò sóng radio, có một vài người em sẽ nghe được mọi chuyện. Nhưng có những người em chỉ bắt được một khối cảm xúc chứ không phải lời nói; giống như nghe người khác nói mơ vậy, anh hiểu không? Anh có thể nghe thấy họ nói, anh có thể biết họ đang vui hay buồn, nhưng không thể nắm bắt được từ ngữ chính xác. Đôi lúc, em có thể nghe được một suy nghĩ nhưng không tài nào dò ra nguồn gốc của nó nếu trong phòng quá đông.”
    Jason nhìn tôi chăm chăm. Đây là lần đầu tiên chúng tôi nói chuyện cởi mở với nhau về khiếm khuyết của tôi.
    “Sao em không phát điên lên chứ?” Anh lắc lắc đầu vẻ ngỡ ngàng.
    Tôi định giải thích về việc dựng rào cản tâm trí, nhưng Liz Barrett đã quay lại, mới tô thêm son và chải lại tóc. Tôi nhìn Jason ngay lập tức khôi phục lại vẻ quyến rũ của mình, thầm tiếc đã không nói chuyện với anh nhiều hơn khi anh chỉ có một mình. Tối đó, khi nhân viên trong quán đã sẵn sàng ra về, Arlene hỏi xem tôi có thể trông con cho chị ấy tối ngày kia được không. Hôm đó hai chúng tôi đều được nghỉ, và chị muốn đến Shreveport với Rene để xem phim và ăn tối.
    “Chắc chắn rồi!” tôi đáp. “Lâu lắm rồi em không gặp lũ trẻ.”
    Đột nhiên, khuôn mặt Arlene đông cứng lại. Chị hơi quay về phía tôi, mở miệng, cân nhắc từng từ một, rồi lại suy nghĩ. “Bill... ờ... sẽ ở đó à?”
    “Vâng ạ, bọn em định xem phim. Sáng mai em sẽ ghé qua chỗ thuê đĩa. Nhưng bây giờ chắc em phải đổi qua thứ gì đó để bọn trẻ cùng xem.” Bất chợt, tôi hiểu ra ý chị. “Này. Ý chị là chị không muốn để bọn trẻ ở cùng em nếu Bill ở đó phải không?” Tôi có thể cảm thấy mắt mình nheo lại và giọng trở nên giận dữ.
    “Sookie,” chị chật vật mở lời “Cưng à, chị rất quý em. Nhưng em không hiểu đâu; em chưa làm mẹ. Chị không thể để bọn trẻ ở chung với ma cà rồng được. Chị không thể.”
    “Cho dù em ở đó và em cũng yêu bọn trẻ thì vẫn chẳng có gì khác cả, phải không? Cho dù Bill cả đời chẳng làm hại đứa trẻ nào thì vẫn chẳng có gì khác cả, phải không?” Tôi hất chiếc túi xách qua vai và sải bước về phía cửa sau, bỏ lại Arlene đứng như trời trồng. Chúa ơi, chắc chị sẽ buồn lắm!
    Tôi bình tĩnh hơn một chút khi đánh xe ra đường cái để về nhà, nhưng vẫn vô cùng tức giận. Tôi lo cho Jason, phật ý với Arlene, và gần như đóng băng quan hệ với Sam, dạo này anh đang vờ như tôi chỉ là một người quen biết bình thường. Tôi đấu tranh giữa việc về nhà hay đến chỗ Bill, và cuối cùng rút ra kết luận về nhà là ý tưởng hay.
    Chắc hẳn Bill rất lo lắng cho tôi vì chỉ mười lăm phút sau khoảng thời gian đáng ra tôi phải có mặt ở chỗ anh, anh đã xuất hiện tại nhà tôi.
    “Em không đến; em cũng chẳng gọi điện,” anh khẽ nói khi tôi ra mở cửa. “Em đang bực mình,” tôi đáp. “Bực kinh khủng.”
    Anh đủ thông minh để giữ khoảng cách với tôi.
    “Em xin lỗi vì đã làm anh lo lắng,” tôi nói sau một lúc. “Em sẽ không lặp lại chuyện này đâu.” Tôi sải bước ra xa anh, đi thẳng về bếp. Anh theo đằng sau, hay ít nhất là tôi đoán thế. Bill luôn lặng lẽ đến độ chỉ khi nhìn thì mới biết anh đang làm gì.
    Anh dựa vào khung cửa trong lúc tôi đứng giữa sàn bếp, băn khoăn không hiểu mình vào đây làm gì và cảm giác cơn tức giận trào dâng trong lòng. Tôi lại thấy cáu điên. Tôi thực sự muốn quăng quật hay phá phách gì đó. Nhưng đây không phải cách tôi được dạy để tiêu diệt những cơn bốc đồng kiểu này. Tôi cố kiềm chế, nhắm mắt lại, nắm chặt tay.
    “Em đi đào hố đây,” tôi nói, hùng dũng lao về phía cửa sau. Tôi mở cánh cửa dẫn vào kho dụng cụ, lấy xẻng, rồi nện bước về phía sân sau. Ở đó có một khoảng đất chưa trồng gì cả, tôi cũng chẳng hiểu tại sao. Tôi ấn xẻng xuống mặt đất, dận chân lên lưỡi xẻng rồi xúc lên một đống đất. Tôi cứ tiếp tục làm vậy. Đống đất mỗi lúc một cao lên khi cái hố sâu hơn. “Bắp tay bả vai của em tuyệt lắm đấy,” tôi nói, dựa vào cái xẻng mà thở.
    Bill đang ngồi quan sát trên chiếc ghế xếp. Anh chẳng nói gì cả.
    Tôi tiếp tục đào.
    Cuối cùng, tôi đã có một cái hố khá tươm tất.
    “Em định chôn cái gì à?” Bill hỏi, khi chắc chắn là tôi đã xong rồi.
    “Không.” Tôi nhìn xuống lỗ hổng trên mặt đất. “Em sẽ trồng cây.”
    “Cây gì?”
    “Sồi thường xanh,” tôi buột miệng. “Em định kiếm ở đâu ra?”
    “Ở Trung tâm Làm Vườn. Em sẽ ghé qua đó trong tuần này.”
    “Chúng lớn chậm lắm đấy.”
    “Với anh thì có gì khác chứ?” tôi đốp lại. Tôi dựng xẻng vào trong kho, rồi dựa vào đó, đột nhiên thấy rã rời.
    Bill có vẻ như định bế tôi lên.
    “Em là phụ nữ trưởng thành “ tôi gầm ghè. “Em có thể tự đi vào nhà của mình.”
    “Anh đã làm gì sai à?” Bill hỏi. Giọng anh chẳng mấy âu yếm, và chính điều này đã thức tỉnh tôi. Tôi nuông chiều bản thân thế là đủ rồi.
    “Em xin lỗi,” tôi nói. “Một lần nữa.”
    “Sao em giận dữ thế?”
    Tôi chẳng thể kể với anh chuyện Arlene.
    “Khi giận anh thường làm gì, Bill?”
    “Anh nhổ cây,” anh đáp. “Đôi khi trút giận vào ai đó.”
    Đào một cái hố xem chừng cũng không tệ lắm. Ít nhất thì nó vẫn mang tính chất xây dựng. Nhưng người tôi vẫn căng lên - có vẻ như làm thế thôi vẫn chưa đủ để xả cơn giận trong lòng. Tôi không ngừng đảo mắt ra xung quanh xem mình còn có thể trút giận vào đâu không.
    Bill dường như hiểu được tôi đang nghĩ gì. “Làm tình,” anh gợi ý. “Yêu anh đi.”
    “Em chẳng có tâm trạng đâu để yêu với đương.”
    “Để anh thử thuyết phục em nhé.” Hóa ra anh có thể làm vậy. Ít nhất nó cũng làm tiêu tan năng lượng giận dữ trong tôi, nhưng vẫn còn sót lại một cảm giác buồn bã mà tình dục không thể làm tan biến được. Arlene đã làm tôi tổn thương. Tôi nhìn mông lung trong khi Bill bện tóc cho tôi, một trò tiêu khiển mà có vẻ như anh nghĩ có thể giúp tôi xoa dịu.
    Có những lúc tôi cảm thấy mình như cô búp bê của Bill vậy.

  3. #22
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,707
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    “Jason có ghé qua quán tối nay,” tôi kể.
    “Anh ta muốn gì?”
    Đôi khi Bill quá giỏi đọc được ý nghĩ của người khác.
    “Anh ấy muốn viện đến khả năng đọc tâm trí của em. Anh ấy muốn em kiểm tra tâm trí của cánh đàn ông đến quán cho đến khi em tìm ra kẻ sát nhân.”
    “Ngoại trừ cả đống thứ bất khả thi thì ý đó cũng không tồi đâu.”
    “Anh nghĩ thế à?”
    “Cả anh trai em và anh đều sẽ ít bị nghi ngờ hơn khi kẻ sát nhân đã ngồi tù. Và em cũng sẽ an toàn nữa.”
    “Đúng là thế, nhưng em không biết nên bắt đầu từ đâu. Sẽ rất khó khăn, đau đớn và tẻ nhạt khi cố gắng moi móc cả đống thứ chỉ để dò tìm một thông tin nhỏ nhoi, một suy nghĩ chớp nhoáng.”
    “Không gì đau đớn và khó khăn hơn việc bị nghi ngờ là kẻ sát nhân. Chỉ là em quá quen với việc hạn chế tài năng của mình thôi.”
    “Anh thật sự nghĩ vậy à?” Tôi dợm quay người nhìn mặt anh, nhưng anh giữ tôi ngồi yên để hoàn thành nốt mấy cái bím tóc. Tôi chưa từng nghĩ việc không lục lọi tâm trí người khác là ích kỷ cả, nhưng trong trường hợp này, có vẻ như đúng thế thật. Tôi sẽ phải xâm phạm vào cả đống thứ riêng tư. “Điều tra viên,” tôi lẩm bẩm, cố nhìn bản thân bằng một cái nhìn tích cực hơn so với việc chỉ là kẻ tọc mạch.
    “Sookie này,” Bill nói, và có gì đó trong giọng anh làm tôi chú ý. “Eric bảo anh đưa em đến Shreveport lần nữa.”
    Mất một lúc tôi mới nhớ ra Eric là ai. “Ồ, tay ma cà rồng Viking đó à?”
    “Một ma cà rồng lão làng,” Bill sửa lại.
    “Ý anh là, anh ta ra lệnh cho anh đưa em đến đó?” Tôi chẳng thích cách nói này chút nào. Tôi đang ngồi bên mé giường, Bill ngồi đằng sau tôi, và tôi quay lại nhìn thẳng vào mặt anh. Lần này anh không ngăn tôi lại. Tôi nhìn Bill chăm chăm, và bắt gặp một vẻ mặt tôi chưa từng thấy bao giờ. “Anh phải làm chuyện này,” tôi kinh hãi nói. Tôi không tưởng tượng nổi lại có kẻ có thể ra lệnh cho Bill.
    “Nhưng, cưng à, em không muốn đến gặp Eric.”
    Tôi có thể nhận ra điều đó thay đổi được gì.
    “Anh ta là ai chứ, Bố già của ma cà rồng à?” tôi hỏi, hoài nghi và giận dữ. “Anh ta đề nghị mà anh không thể từ chối được sao?”
    “Hắn già hơn anh. Nói thẳng ra, hắn hơn.”
    “Chẳng ai khỏe hơn anh được,” tôi quả quyết.
    “Ước gì em đúng.”
    “Vậy anh ta là trùm của Ma cà rồng Khu vực Mười hay sao?”
    “Ừ. Đại loại thế.”
    Bill luôn luôn kín tiếng về cách ma cà rồng kiểm soát tình hình công việc của mình. Điều này cũng chẳng làm tôi phiền lòng, cho đến giờ.
    “Anh ta muốn gì? Nếu em không đi thì sao?”
    Bill bỏ qua câu hỏi đầu tiên. “Hắn sẽ cử ai đó - một vài ai đó - đến để đưa em đi.”
    “Những ma cà rồng khác.”
    “Phải.” Đôi mắt nâu của Bill tối sầm, sáng lên với vẻ khác lạ.
    Tôi cố suy nghĩ thông suốt. Tôi không quen bị ra lệnh. Tôi không quen với việc không có sự lựa chọn nào. Bộ óc ngu ngốc của tôi phải mất vài phút mới đánh giá được tình hình.
    “Vậy, anh sẽ cảm thấy buộc phải đấu với họ?”
    “Tất nhiên. Em là của anh mà.”
    Lại cái phần “của anh” một lần nữa.
    Có vẻ như anh hoàn toàn nghiêm túc khi nói vậy. Tất nhiên tôi chỉ muốn rên rỉ than van, nhưng biết thừa làm vậy cũng chẳng ích gì.
    “Em đoán mình phải đi thôi,” tôi nói, cố để giọng mình không toát lên vẻ cay đắng. “Đây chỉ là trò tống tiền cũ rích.”
    “Sookie, ma cà rồng không giống con người đâu. Eric sẽ sử dụng những công cụ tốt nhất để đạt được mục đích, có nghĩa là đưa em đến Shreveport. Hắn không cần phải nói ra thành lời; anh hiểu điều đó mà.”
    “Thôi được, bây giờ thì em hiểu rồi, nhưng em không thích thế. Em đi không nổi mà ở cũng chẳng xong đây! Mà hắn muốn em làm gì chứ?” Một câu trả lời hiển nhiên lóe lên trong đầu tôi, và tôi nhìn Bill, hoảng hốt. “Ôi, không, em không làm thế đâu!”
    “Hắn sẽ không cắn em hay bắt em làm tình với hắn đâu, bằng không hắn sẽ phải bước qua xác anh đã.” Gương mặt lờ mờ sáng của Bill mất hết những nét thân thuộc và anh trở thành một kẻ hoàn toàn xa lạ.
    “Và hắn cũng biết vậy,” tôi ướm lời, “vậy nên chắc hẳn phải có lý do khác để hắn muốn em đến Shreveport.”
    “Đúng thế,” Bill đồng ý, “nhưng anh không biết lý do đó là gì.”
    “Xem nào, nếu nó không liên quan gì đến sự quyến rũ thể xác, và chất lượng máu bất thường của em, thì chắc hẳn chỉ còn là... cái thói quen vặt vãnh đó.”
    “Thiên khiếu của em.”
    “Phải,” tôi đáp, sự mỉa mai thấm trong từng câu chữ. “Thiên khiếu quý giá của em.” Tất cả nỗi bực tức tưởng chừng đã trôi mất nay lại quay về đè lên vai tôi như một con tinh tinh hai trăm cân vậy. Và tôi sợ phát khiếp. Tôi băn khoăn không biết Bill cảm thấy thế nào. Tôi thậm chí còn không dám hỏi.
    “Khi nào?” tôi hỏi một câu khác.
    “Tối mai.”
    “Em nghĩ vậy là ta có một buổi hẹn hò bất thường rồi đấy.” Tôi nhìn qua vai Bill về phía mẫu giấy dán tường bà đã chọn mười năm trước. Tôi tự hứa với mình nếu có thể bình an sau chuyện này, tôi sẽ thay toàn bộ giấy dán tường.
    “Anh yêu em.” Giọng anh chỉ như một lời thầm thì.
    Đây không phải là lỗi của Bill. “Em cũng yêu anh,” tôi đáp. Tôi phải cố gắng để không cầu xin, Xin đừng để những ma cà rồng xấu làm hại em, xin đừng để ma cà rồng cưỡng hiếp em. Nếu tôi đang trong tình thế tiến thoái lưỡng nan thì với Bill mọi chuyện còn khó khăn hơn nhiều. Tôi thậm chí không thể áng chừng được sự kiềm chế trong Bill. Trừ khi anh có thể bình tĩnh được thật? Liệu một ma cà rồng có thể đối mặt với đau khổ và vô vọng mà không cảm thấy chút hoang mang nào không?
    Tôi dò xét gương mặt anh, vẫn những đường nét quen thuộc, màu da trắng ngà, vòng cung tối sẫm của khuôn mày và cánh mũi đầy kiêu hãnh. Tôi nhận ra răng nanh của Bill ban đầu chỉ hơi nhú ra, nhưng sự giận dữ và thèm khát đã khiến chúng dài hết cỡ.
    “Tối nay,” anh nói. “Sookie...”Tay anh bắt đầu kéo tôi nằm xuống cạnh anh.
    “Sao cơ?”
    “Tối nay, anh nghĩ, em nên uống máu anh.”
    Tôi nhăn mặt. “Khiếp! Không phải anh cần tối đa sức mạnh cho tối mai sao? Em có đau đớn gì đâu.”
    “Em cảm thấy thế nào từ khi uống máu của anh? Từ anh rót máu của mình vào trong em?”
    Tôi suy đi nghĩ lại. “Tốt,” tôi thừa nhận.
    “Em có thấy khó ở không?”
    “Không, nhưng em có mấy khi đau ốm đâu.”
    “Năng lượng trong em dồi dào hơn chứ?”
    “Nếu anh không lấy nó lại!” tôi chanh chua đáp, nhưng tôi có thể nhận thấy khóe môi mình đang nhếch lên thành nụ cười mỉm.
    “Em thấy khỏe hơn chứ?”
    “Em... có, em nghĩ vậy.” Tôi nhớ lại tuần trước, lần đầu tiên trong đời mình đã bộc lộ sức khỏe phi thường đến thế nào khi tự vác cái ghế mới vào trong nhà.
    “Em có thấy dễ kiểm soát sức mạnh của mình hơn không?”
    “Có, em có để ý thấy điều đó.”
    “Nếu uống máu anh tối nay, tối mai em sẽ có nguồn dự trữ dồi dào hơn.”
    “Nhưng anh sẽ yếu hơn.”
    “Nếu em không uống quá nhiều, anh sẽ hồi phục sau giấc ngủ ban ngày. Và có thể tối mai anh sẽ tìm ai đó để hút máu ngay trước khi ta đi.”
    Khuôn mặt tôi ngập tràn vẻ tổn thương. Nghi ngờ anh làm điều đó và biết chắc chắn anh có làm là hai chuyện hoàn toàn khác nhau.
    “Sookie à, anh làm vậy vì chúng ta. Không ngủ với bất kỳ ai khác, anh hứa đấy.”
    “Anh thật sự nghĩ toàn bộ chuyện này đều cần thiết?”
    “Có lẽ cần. Ít nhất nó cũng có ích. Và chúng ta cần mọi sự trợ giúp có thể.”
    “Được rồi. Ta sẽ làm như thế nào đây?” Tôi chỉ nhớ mang máng về cái đêm cảnh sát càn quét kia, và tôi mừng thầm vì điều đó.
    Anh nhìn tôi dò hỏi. Tôi có cảm tưởng rằng anh đang thích thú. “Em không thấy phấn khích à, Sookie?”
    “Uống máu từ anh ấy à? Xin lỗi nhé, đó không phải thứ kích thích em đâu.”
    Anh lắc đầu, cứ như thể anh không sao hiểu được. “Anh quên mất,” anh nói đơn giản. “Anh đã quên mất nó khác biệt như thế nào. Em muốn ở cổ, cổ tay, hay háng?”
    “Đừng vào háng,” tôi đáp ngay tắp lự. “Em không biết nữa, Bill. Ghê quá. Sao cũng được.”
    “Vậy thì cổ nhé,” anh nói. “Nằm lên anh đi, Sookie.”
    “Vậy thì có khác gì làm tình đâu?”
    “Đó là cách dễ nhất.”
    Tôi leo lên người anh và nhẹ nhàng nằm xuống. Chuyện này thật kỳ quặc. Đây là tư thế chúng tôi thường dùng để yêu nhau, và chỉ thế thôi. “Cắn đi, Sookie,” anh thì thầm.
    “Em không làm được!” tôi phản đối. “Cắn đi, nếu không anh sẽ phải dùng dao đấy.”
    “Răng em đâu có sắc như của anh.”
    “Chúng đủ sắc mà.”
    “Em làm anh đau mất.”
    Anh khẽ cười. Tôi có thể cảm nhận được lồng ngực anh rung rung bên dưới mình.
    “Chết tiệt.” Tôi hít thở, vận hết sự cứng rắn trong tâm và cắn cổ anh. Tôi làm khá tốt vì không cần phải kéo dài công đoạn này. Tôi nếm vị máu tanh tanh trong miệng. Bill rên nhẹ, tay anh vuốt ve lưng tôi và chạy dần xuống dưới. Những ngón tay anh tìm đến đúng chỗ.
    Tôi há hốc miệng vì kích động.
    “Uống đi,” anh hổn hển nói, và tôi mút mạnh. Anh rên rỉ, lớn hơn, trầm hơn, và tôi cảm thấy anh đang áp sát vào người mình. Một cảm giác điên cuồng chảy khắp người tôi, vậy là tôi bám chặt lấy anh như con đỉa đói, và anh đi vào trong tôi, bắt đầu di chuyển, hai bàn tay anh giờ siết chặt xương chậu tôi. Tôi uống, và tâm trí tràn ngập các hình ảnh, tất cả đều có bóng tối làm nền, những bóng sáng nhô lên từ lòng đất và lao vào cuộc săn, cảm giác rùng mình khi chạy xuyên qua cánh rừng, con mồi đang thở hổn hển phía trước, sự phấn khích trước nỗi khiếp sợ của nó; săn đuổi, chân nhịp nhàng, lắng nghe nhịp đập dồn dập của mạch máu con mồi...
    Bill bật thốt ra một tiếng trầm trầm trong cổ họng, khuấy động bên trong tôi. Tôi nhấc đầu lên khỏi cổ anh và một cơn sóng khoái cảm tối tăm cuốn tôi trôi ra biển.
    Đó là những trải nghiệm lạ kỳ vô cùng tuyệt diệu đối với một cô hầu bàn có khả năng ngoại cảm ở miền Bắc Louisiana.

  4. #23
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,707
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết




    Chương 9
    Chạng vạng tối ngày hôm sau, tôi đã sẵn sàng. Bill nói anh sẽ đi tìm máu ở đâu đó trước khi chúng tôi lên đường, và dù ý nghĩ đó có làm tôi buồn đến thế nào, tôi vẫn phải thừa nhận thế là hợp lý. Anh cũng đã đúng về cảm giác của tôi sau khi được bổ sung thứ vitamin không chính thức tối hôm qua. Tôi cảm thấy tuyệt diệu. Tôi cảm thấy vô cùng khỏe khoắn, vô cùng tỉnh táo, vô cùng nhanh nhẹn, và kỳ lạ thay, cả vô cùng xinh đẹp nữa.
    Tôi nên mặc gì đến buổi phỏng vấn nho nhỏ với một ma cà rồng đây? Tôi không muốn trông mình như đang cố tỏ ra quyến rũ, nhưng cũng không muốn biến mình thành con ngốc khi mặc một bộ đồ tầm thường nào đó.
    Quần bò xanh có vẻ là một lựa chọn không tồi, đúng như từ xưa đến nay vẫn thế. Tôi đi xăng đan trắng và mặc áo không cổ màu xanh nhạt. Tôi đã không mặc nó kể từ sau khi bắt đầu hẹn hò với Bill vì nó sẽ phơi trần vết răng nanh của anh. Nhưng tối nay, tôi cho rằng sự “sở hữu” của Bill với tôi có được củng cố đến thế nào đi chăng nữa cũng vẫn chưa đủ. Nhớ lại chuyện tay cớm lần trước đã kiểm tra cổ mình, tôi nhét chiếc khăn quàng bỏ vào xắc tay. Tính toán một hồi, tôi đem thêm chiếc vòng cổ bằng bạc nữa. Tôi chải tóc rồi thả xõa xuống lưng, những lọn tóc trông có vẻ nhạt màu hơn trước.
    Ngay lúc tôi đang vật lộn với hình ảnh tưởng tượng Bill ân ái với một người khác thì anh gõ cửa. Tôi mở cửa, và chúng tôi đứng nhìn nhau cả phút. Môi anh đỏ hơn bình thường, vậy nghĩa là anh đã làm chuyện đó rồi. Tôi cắn môi để ngăn mình nói điều gì ngu ngốc.
    “Em thay đồ rồi à,” anh bắt đầu trước.
    “Anh có nghĩ mọi người sẽ để ý không?” Tôi hy vọng là không.
    “Anh cũng không biết.” Anh chìa tay ra, và chúng tôi bước tới xe anh. Anh mở cửa, và tôi phải lách qua anh mới vào được xe. Người tôi cứng đờ lại. “Có chuyện gì thế?” anh hỏi sau một lúc.
    “Không sao đâu,” tôi đáp, cố giữ giọng bình thường, rồi ngồi yên ở ghế cạnh anh, mắt đăm đăm nhìn thẳng về phía trước.
    Tôi tự nhủ có khi mình còn cáu tiết với cả con bò được dùng làm món thịt băm cho anh cũng không chừng. Nhưng sự so sánh đó chẳng có hiệu quả gì cả.
    “Anh có mùi khác,” tôi nói khi chiếc xe đã lăn bánh ra đường lộ được vài phút. Trong suốt thời gian ấy, chẳng ai nói gì cả.
    “Bây giờ thì em biết cảm giác của anh nếu Eric đụng vào em rồi đấy,” anh nói với tôi. “Nhưng anh nghĩ cảm giác của anh tồi tệ hơn nhiều vì Eric sẽ rất thích thú khi được chạm vào em, trong khi anh chẳng hào hứng gì với bữa ăn của mình.”
    Tôi đoán điều đó không hoàn toàn đúng: Tôi biết mình vẫn luôn thích ăn kể cả khi đó không phải món ưa thích. Nhưng những gì anh nói làm tôi nhẹ lòng phần nào.
    Chúng tôi không nói nhiều. Cả hai đều lo lắng về những gì sắp xảy ra.
    Chẳng mấy chốc, chiếc xe đã lại tấp vào bãi đỗ quán Fangtasia, nhưng lần này là bãi phụ. Trong lúc Bill giữ cánh cửa mở, tôi phải cố lắm mới chống lại được mong muốn cứ ngồi lì ở đây. Khi đã quyết tâm ra khỏi xe rồi, tôi lại phải đánh vật với nỗi khao khát được trốn sau Bill. Tôi thở hắt ra, nắm lấy tay anh và chúng tôi bước tới cửa cứ như thể một cặp đôi đang vui vẻ đi dự tiệc vậy.
    Bill nhìn tôi khích lệ.
    Tôi phải cố để không cau mày với anh. Anh gõ vào cánh cửa kim loại có dòng chữ FANGTASIA tô đậm.
    Chúng tôi đang đứng trong hành lang vận chuyển hàng hóa và lối đi dành cho người phục vụ nằm phía sau toàn bộ dãy cửa hàng cửa hiệu của trung tâm thương mại nhỏ. Có một số xe khác đỗ ở bãi sau này, chiếc xe thể thao mui trần màu đỏ của Eric cũng nằm trong số đó. Tất cả xe ở đây đều thuộc hàng cao cấp.
    Chẳng thể tìm được một ma cà rồng nào cưỡi chiếc Ford Fiesta cà tàng đâu.
    Bill gõ cửa, ba lần nhanh, hai lần cách quãng. Chắc hẳn đó là Kiểu Gõ Cửa Bí Mật Của Ma Cà Rồng. Có lẽ tôi cũng phải học lỏm Cách Bắt Tay Bí Mật mới được.
    Một nàng ma cà rồng tóc vàng xinh đẹp ra mở cửa, chính là người ngồi cùng bàn với Eric khi tôi đến quán này lần trước. Cô ta lẳng lặng lùi lại để chúng tôi bước vào.
    Nếu Bill là con người, hẳn anh sẽ không muốn tôi nắm tay anh quá chặt như thế.
    Người phụ nữ trong chớp mắt đã ở ngay phía trước chúng tôi, khiến tôi giật mình choáng váng. Lẽ tất nhiên, Bill thì chẳng bất ngờ chút nào. Cô ta đưa chúng tôi qua một phòng chứa đồ giống ở Merlotte đến mức không tin nổi rồi đến một hành lang nhỏ. Chúng tôi bước vào căn phòng bên tay phải.
    Eric ở trong một căn phòng nhỏ, sự hiện diện của hắn dường như trấn áp tất cả. Bill không quỳ xuống hôn nhẫn hắn, nhưng anh cúi đầu khá thấp. Còn một ma cà rồng khác ở trong phòng, tay pha chế rượu, Long Shadow; tối nay trông anh ta rất bảnh với chiếc áo không cổ bó sát và quần thể thao, tất cả đều màu xanh sẫm. “Bill, Sookie,” Eric chào chúng tôi.
    “Bill này, cậu và Sookie chắc hẳn đều đã biết Long Shadow. Sookie, cô còn nhớ Pam chứ.” Pam chính là cô nàng tóc vàng. “Còn đây là Bruce.” Bruce là con người, một con người trong trạng thái hoảng sợ nhất mà tôi từng gặp. Tôi rất thông cảm với điều đó. Trạc tuổi trung niên và bụng phệ, Bruce có mái tóc mỏng tối màu uốn xoăn thành những lọn cứng quèo trên đầu. Ông ta miệng thì nhỏ, má thì sệ. Ông ta mặc bộ vest khá bảnh màu be, với áo sơ mi trắng kèm theo cà vạt nâu sọc xanh, ông ta đang nhễ nhại mồ hôi. Bruce ngồi trên chiếc ghế tựa, đối diện với Eric qua chiếc bàn. Lẽ đương nhiên, Eric đang ngồi trên chiếc ghế đa năng. Pam và Long Shadow đứng dựa vào bức tường trước mặt Eric, cạnh cửa ra vào. Bill đến đứng cạnh họ, nhưng khi tôi định bước theo anh, Eric liền ngăn lại.
    “Sookie, cô nghe Bruce đi.”
    Trong một thoáng, tôi đứng nhìn chăm chăm Bruce, đợi xem ông ta nói gì, cho đến khi tôi hiểu ra ý Eric. “Chính xác thì tôi phải nghe cái gì?” tôi hỏi, nhận thấy rõ ràng giọng mình hơi sắc.
    “Có kẻ đã biển thủ sáu mươi ngàn đô la của bọn này,” Eric giải thích.
    Chúa ơi, có kẻ muốn chết đây.
    “Và thay vì tra tấn hay giết chết tất cả những nhân viên là con người, bọn này nghĩ có thể cô sẽ xâm nhập vào tâm trí họ và tìm ra kẻ ăn cắp là ai.” Hắn nói từ “tra tấn hay giết chết” nhẹ nhàng như không vậy.
    “Vậy sau đó anh sẽ làm gì?” tôi hỏi.
    Eric có vẻ ngạc nhiên.
    “Dù đó là ai đi nữa thì hắn cũng phải trả tiền lại cho bọn này,” hắn nói đơn giản.
    “Và sau đó?”
    Đôi mắt to màu xanh da trời nheo lại nhìn tôi.
    “Sao chứ, nếu tìm đủ bằng chứng phạm tội, bọn này sẽ nộp tên khốn đó cho cảnh sát,” hắn đáp nhẹ nhàng.
    Đồ dối trá. “Chúng ta thỏa thuận nhé, Eric,” tôi nói, không thèm kèm theo nụ cười, vẻ tươi tỉnh chẳng tác động gì đến Eric hết, và hắn còn khuya mới nghĩ đến chuyện động vào tôi. Trong lúc này.
    Hắn cười bao dung. “Thỏa thuận thế nào, Sookie?”
    “Nếu anh thật sự nộp kẻ phạm tội cho cảnh sát, tôi sẽ sẵn sàng giúp anh thế này lần nữa, bất kể khi nào anh muốn.”
    Eric nhíu mày.
    “Phải, tôi biết dù gì tôi cũng phải làm theo ý anh thôi. Nhưng chẳng phải tốt hơn là tôi nên tự nguyện và chúng ta nên tin tưởng lẫn nhau sao?” Tôi toát mồ hôi hột. Không thể ngờ được là tôi đang ngã giá với một ma cà rồng.
    Eric có vẻ đang cân nhắc cẩn thận. Và đột nhiên, tôi nghe được suy nghĩ của hắn. Hắn đang nghĩ hắn có thể bắt tôi làm bất kỳ việc gì hắn muốn, ở bất kỳ đâu, bất kỳ lúc nào, chỉ cần đe dọa mạng sống của Bill hay người nào đó tôi yêu quý. Nhưng hắn cũng muốn chung sống với con người, một cách hợp pháp tối đa, và giữ cho mối quan hệ của hắn với người thường được quang minh chính đại, hay ít nhất cũng là quang minh chính đại ở mức chấp nhận được giữa người và ma cà rồng. Hắn không muốn giết ai trừ trường hợp bắt buộc.
    Cứ như thể đột nhiên rơi vào trong một cái hố đầy những con rắn độc lạnh lẽo. Đó chỉ như một ánh chớp, một mẩu tâm trí của Eric, kiểu như vậy, nhưng nó cũng buộc tôi phải đối diện với một thực tế hoàn toàn mới. “Bên cạnh đó,” tôi nói nhanh trước khi Eric biết tôi đọc được tâm trí hắn, “làm sao anh dám chắc kẻ biển thủ là con người?”
    Pam và Long Shadow đều đột ngột chuyển động, nhưng Eric đã trấn áp cả căn phòng bằng sự có mặt của mình, ra lệnh cho tất cả đứng yên. “Đó là một ý tưởng thú vị đấy,” hắn đáp. “Pam và Long Shadow là đối tác của ta trong quán bar này, và nếu không có con người nào làm chuyện đó, thì chắc hẳn ta sẽ phải điều tra họ.”
    “Tôi chỉ nghĩ vậy thôi,” tôi ngoan ngoãn thêm vào, và Eric nhìn tôi với đôi mắt xanh lạnh lẽo của kẻ không thể nhớ nổi làm người là như thế nào.
    “Bắt đầu đi, với người đàn ông này,” hắn ra lệnh.
    Tôi quỳ xuống cạnh ghế của Bruce, cố gắng quyết định xem mình nên làm gì tiếp. Tôi chưa bao giờ chính thức hóa một điều vẫn còn bấp bênh. Sự động chạm có thể hữu ích, những liên hệ trực tiếp có thể khiến sự truyền dẫn rõ ràng hơn. Tôi cầm tay Bruce, nhưng rồi nhận ra như thế quá riêng tư (và cũng hơi nhiều mồ hôi nữa), nên bèn gạt tay áo của ông ta ra. Tôi túm lấy cổ tay ông ta. Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt nhỏ kia.
    Mình không lấy tiền, kẻ nào đã làm chuyện đó vậy, kẻ điên rồ ngu ngốc nào đã đặt tất cả mọi người vào nguy hiểm như thế này đây, Lillian sẽ ra sao nếu chúng giết mình, cả Bobby và Heather nữa, tại sao mình lại làm việc cho ma cà rồng cơ chứ, mình ngu ngốc quá, và mình đang phải trả giá đây, Chúa ơi, mình sẽ chẳng bao giờ làm việc cho những kẻ này một lần nào nữa làm sao mà cô ả điên khùng này có thể biết ai lấy khoản tiền khốn khiếp đó cơ chứ, và sao ả không buông ta ra, ả là cái giống gì vậy, ả cũng là ma cà rồng hay một thứ ác quỷ nào đó, đôi mắt ả lạ quá, đáng lẽ mình nên phát hiện chuyện mất tiền sớm hơn, và tìm ra kẻ lấy chúng trước khi thông báo mọi chuyện cho Eric...
    “Ông có lấy tiền không?” Tôi thở ra, mặc dù tôi gần như biết chắc chắn câu trả lời.
    “Không,” Bruce rên lên, mồ hôi lăn dài trên khuôn mặt, và suy nghĩ của ông ta, phản ứng của ông ta trước câu hỏi, đã xác nhận những điều mà tôi vừa nghe thấy.
    “Ông có biết ai làm chuyện đó không?”
    “Ước gì tôi biết.”
    Tôi đứng dậy, quay về phía Eric rồi lắc đầu. “Không phải ông ta,” tôi nói. Pam giải Bruce tội nghiệp ra ngoài, và đem một nghi phạm khác vào.
    Lần này là một cô phục vụ bàn mặc bộ đồ đen với rất nhiều đường cắt tà lộ liễu, mái tóc vàng xoăn xõa dài xuống lưng. Tất nhiên, làm việc ở Fangtasia là công việc trong mơ với bất kỳ kẻ nhân tình răng nanh nào, và cô ả này có vô số vết sẹo chứng tỏ cô ta thích thú với những bổng lộc của mình. Cô ta đủ liều lĩnh để toét miệng cười với Eric, đủ ngu ngốc để tự tin ngồi tót lên chiếc ghế gỗ, thậm chí còn vắt chân theo kiểu Sharon Stone nữa - ít nhất thì cô ta đang cố làm vậy. Cô ả bất ngờ trước sự hiện diện của một ma cà rồng lạ mặt cùng một cô gái mới trong phòng, và không thích thú lắm với sự hiện diện của tôi, nhưng Bill thì khiến ả thèm khát.
    “Chào cưng,” cô ta nói với Eric, và tôi đi đến kết luận người phụ nữ này chẳng có óc tưởng tượng gì cả. “Ginger, hãy trả lời những câu hỏi của người phụ nữ này,” Eric nói. Giọng anh ta chắc nịch như một bức tường đá, phẳng và không lay chuyển được.
    Ginger có vẻ như lần đầu tiên trong đời đã hiểu ra đến lúc cần phải nghiêm túc rồi. Giờ thì cô ta bắt tréo hai bàn chân, ngồi ngay ngắn với tay đặt trên đùi, và khuôn mặt trở nên nghiêm nghị. “Vâng, thưa ông chủ,” cô ta nói, khiến tôi suýt nữa thì phát nôn.
    Cô ta vẫy tay hống hách với tôi, cứ như thể nói, “Bắt đầu đi, cô nàng đầy tớ cho ma cà rồng.” Tôi vươn tay nắm lấy cổ tay ả, nhưng bị cô nàng hất ngay ra. “Đừng động vào tôi,” ả rít lên.
    Phản ứng quá khích đó khiến tất cả ma cà rồng đều trở nên căng thẳng, và tôi có thể cảm nhận được bầu không khí ngột ngạt trong phòng. “Pam, giữ Ginger ngồi yên,” Eric ra lệnh, liền sau đó, Pam lặng lẽ xuất hiện phía sau chiếc ghế của Ginger, ngả người về phía trước và túm lấy bắp tay Ginger. Tôi dám chắc Ginger đang cố phản kháng lại vì đầu cô ả quay tới quay lui, nhưng Pam áp người ả chặt đến nỗi Ginger hoàn toàn bất động.
    Tôi siết ngón tay quanh cổ tay cô gái. “Cô có lấy tiền không?” Tôi hỏi, nhìn thẳng vào đôi mắt màu nâu sẫm của Ginger.
    Cô ta thét lên, rồi cứ thế ré ầm ĩ. Tôi lắng nghe mớ hỗn loạn trong bộ não bé tí của cô ả. Cứ như thể đang cố băng qua con đường rải đầy bom vậy.
    “Cô ta biết ai đã lấy tiền,” tôi nói với Eric. Ginger đột nhiên im lặng, mặc dù vẫn nức nở. “Cô ta không nói ra cái tên đó được,” tôi nói với ả ma cà rồng tóc vàng. “Hắn đã cắn cô ta.”
    Tôi chạm vào những vết sẹo trên cổ Ginger cứ như thể cần minh họa thêm. “Nó giống như sự cưỡng bách,” tôi thông báo, sau khi thử lắng nghe một lần nữa. “Cô thậm chí không thể hình dung ra kẻ đó.”
    “Thôi miên,” Pam nhận xét. Đứng gần một cô gái đang hoảng sợ làm răng nanh Pam nhô hết ra. “Một ma cà rồng rất mạnh.”
    “Hãy mang người bạn thân nhất của Ginger vào đây,” tôi gợi ý.
    Ngay lúc đó, Ginger run lên bần bật bởi những suy nghĩ mà ả bị cưỡng ép không được nghĩ tới giờ lại đang dồn dập thúc bách ả từ bên trong cái kho chứa khóa kín của chúng.
    “Nên để cô ta ở đây hay đưa đi?”
    Pam hỏi thẳng tôi.
    “Cô ta nên đi. Chuyện này chỉ làm người kia sợ thôi.”
    Tôi dồn sự tập trung vào chuyện này, tập trung sử dụng năng lực kỳ lạ của mình đến nỗi tôi không nhìn Bill lần nào. Chẳng hiểu sao tôi có cảm giác nếu nhìn anh, sự mạnh mẽ của tôi sẽ không còn nữa. Tôi biết anh đang đứng ở đâu, biết rõ anh và Long Shadow không hề cử động kể từ khi màn tra hỏi bắt đầu.
    Pam lôi cô nàng Ginger đang run bần bật ra ngoài. Tôi không biết cô ta sẽ làm gì với cô phục vụ bàn, nhưng chỉ một lúc sau, Pam quay trở lại, dẫn theo một cô hầu bàn khác với bộ trang phục tương tự. Người phụ nữ này tên là Belinda, lớn tuổi hơn và cũng khôn ngoan hơn Ginger.
    Belinda có mái tóc nâu, đeo kính, và một khuôn miệng hờn dỗi quyến rũ nhất tôi từng thấy.
    “Belinda, Ginger đang hẹn hò với tay ma cà rồng nào?” Eric hỏi nhẹ nhàng khi Belinda đã ngồi xuống, và tôi chạm vào cô ta. Cô hầu bàn đủ tỉnh táo để lặng lẽ tiếp nhận quá trình này, và cũng đủ thông minh để nhận ra mình không nên nói dối.
    “Ai mà cô ta chẳng đi cùng chứ,” Belinda cắm cảu.
    Tôi nhìn thấy một hình ảnh hiện ra trong tâm trí Belinda, nhưng cô ta phải nghĩ đến một cái tên nào đó cơ. “Ai đó ở đây cơ?” tôi hỏi đột ngột, và ngay sau đó, tôi đã có cái tên cần tìm. Đôi mắt tôi đảo về góc phòng nơi hắn đứng trước khi tôi kịp mở miệng, và rồi hắn lao vào tôi, Long Shadow, nhảy qua cái ghế Belinda đang ngồi để đè lên người tôi khi tôi đã cố nấp xuống trước mặt cô ta. Tôi bật ngửa về phía sau, ngã dúi vào bàn của Eric, và chỉ nhờ cánh tay đang chới với trên cao mà tôi mới thoát được cảnh cổ họng bị răng hắn cắm vào mà cắn xé. Hắn hung dữ cắn cẳng tay tôi, khiến tôi hét lên; ít nhất thì tôi cũng cố làm thế, nhưng với chút không khí ít ỏi còn sót lại sau cú va chạm ấy thì tiếng kêu thoát ra chẳng khác gì một âm thanh nghẹn ngào hoảng loạn.
    Tôi chỉ ý thức được về thân hình nặng nề đang đè lên mình, về sự đau đớn ở cánh tay cùng với nỗi sợ hãi của chính bản thân. Tôi không hề sợ rằng nhà Chuột sẽ giết mình, cho đến tận khi đã quá muộn, nhưng tôi hiểu rõ để tôi không tố cáo tên hắn, Long Shadow sẵn sàng giết tôi ngay lập tức, và khi nghe thấy tiếng động đáng sợ đó, cảm nhận thấy cơ thể hắn áp sát hơn nữa vào người mình, tôi chẳng biết điều đó có nghĩa là gì nữa. Tôi có thể nhìn thấy đôi mắt hắn qua cánh tay mình. Chúng mở to, màu nâu, điên loạn và lạnh lẽo. Đột nhiên, chúng trở nên mờ đục, và gần như dịu hẳn. Máu trào ra từ khóe miệng Long Shadow, thấm ướt cánh tay tôi. Chúng chảy vào khóe miệng đang mở của tôi, làm tôi nôn ọe.
    Hàm răng của hắn lơi dần, còn khuôn mặt đờ ra. Nó bắt đầu nhăn nhúm lại. Mắt hắn trở thành hai cái hố chứa thứ dung dịch sền sệt.
    Những nắm tóc đen dày của hắn rơi trên mặt tôi.
    Tôi sốc đến nỗi chẳng thể di chuyển được. Có một đôi tay nào đó nắm lấy vai tôi và bắt đầu lôi tôi ra khỏi cái xác chết đang phân hủy ấy. Tôi cố đứng dậy để loạng choạng lùi nhanh hơn.
    Không có mùi gì bốc lên, chỉ có một thứ vật chất nhờn nhờn vằn vện màu đen cùng cảm giác kinh hoàng tột độ xen lẫn ghê tởm khi chứng kiến Long Shadow rữa nát ra với tốc độ chóng mặt. Có một chiếc cọc chĩa ra từ lưng hắn. Eric đứng nhìn, như tất cả chúng tôi; nhưng trong tay hắn có một chiếc búa. Bill đứng sau tôi, chính anh vừa kéo tôi ra khỏi Long Shadow. Pam đứng cạnh cửa, giữ chặt cánh tay Belinda. Gương mặt cô hầu bàn trắng bợt như tôi vậy.
    Ngay cả cái chất nhờn nhờn kia cũng bắt đầu tan thành khói. Tất cả chúng tôi đều đứng bất động cho đến khi làn khói cuối cùng tan biến. Trên tấm thảm lưu lại một vết cháy sém.
    “Có lẽ anh nên thay thảm,” tôi nói, hoàn toàn bất ngờ. Thề có Chúa, tôi không thể chịu đựng nổi sự im lặng này nữa.
    “Miệng cô có máu kìa,” Eric nói.
    Răng nanh của mọi ma cà rồng trong phòng đều đã dài ra hết cỡ. Chắc hẳn bọn họ đều đã bị kích thích.
    “Máu của hắn đấy.”
    “Cô có nuốt chút nào không?”
    “Có thể. Thế thì sao chứ?”
    “Cứ chờ rồi sẽ biết,” Pam đáp. Giọng cô ả khàn khàn nham hiểm. Ánh mắt cô ả nhìn Belinda làm tôi phát sợ, nhưng Belinda, thật không tin nổi, lại có vẻ khá hài lòng. “Thông thường,” Pam nói tiếp, mắt dán vào đôi môi hờn dỗi của Belinda, “bọn này hút máu con người, chứ không phải ngược lại.”
    Eric nhìn tôi với vẻ thích thú, theo đúng kiểu Pam đang quan sát Belinda. “Mọi thứ với cô giờ thế nào, Sookie?” hắn nhẹ nhàng hỏi, cứ như thể hắn chưa từng ra tay kết liễu mạng sống của một người bạn cũ vậy.
    Mọi thứ với tôi giờ như thế nào? Sáng sủa hơn. Âm thanh trong trẻo hơn, và tôi có thể nghe rõ hơn. Tôi muốn quay lại nhìn Bill, nhưng lại không dám rời mắt khỏi Eric.
    “Vậy có lẽ Bill và tôi đi được rồi,” tôi nói, như thể chẳng có lựa chọn nào khác. “Tôi đã làm theo ý anh, Eric, và giờ chúng tôi đi đây. Không trả miếng Ginger, Belinda hay Bruce đâu, được chứ? Chúng ta đã thỏa thuận rồi mà.” Tôi đi về phía cửa với vẻ tự tin giả tạo. “Chắc hẳn anh cần ngó xem tình hình quán thế nào chứ? Tối nay ai sẽ pha chế rượu?”
    “Bọn tôi có người thay thế,” Eric đáp lơ đãng, ánh mắt không hề rời khỏi cổ tôi. “Cô có mùi khác thật, Sookie,” hắn lẩm bẩm, tiến một bước gần hơn.
    “Này, nhớ rằng chúng ta có thỏa thuận rồi đấy nhé, Eric,” tôi nhắc, nụ cười của tôi căng ra, giọng tôi vui vẻ. “Bill và tôi giờ về được rồi, phải không?” Tôi đánh liều liếc mắt ra sau về phía Bill. Tim tôi trùng xuống. Mắt anh đang mở to, không chớp, môi anh kéo trễ xuống trong một tiếng gầm câm lặng, để lộ ra những chiếc răng nanh nhô dài. Đôi đồng tử của anh giãn rộng hết mức. Anh đang nhìn chằm chằm Eric.
    “Pam, tránh ra nào,” tôi nói bằng giọng nhỏ nhưng sắc lẻm. Một khi cơn khát máu của Pam đã bị làm xao nhãng, cô ta chỉ mất vài giây để đánh giá tình hình. Ả mở tung cửa văn phòng, đẩy Belinda xuyên qua cửa, rồi đứng dẹp sang một bên để cho chúng tôi ra ngoài. “Gọi Ginger đi,” tôi gợi ý, và nhận thức được điều mình vừa nói đã xuyên thủng màn sương ham muốn của Pam. “Ginger,” cô ta khàn giọng gọi, và cô gái tóc vàng lập bập đẩy cửa bước ra. “Eric muốn cô,” Pam nói với cô hầu bàn. Gương mặt Ginger sáng rỡ như thể cô ta được hẹn hò với chàng diễn viên điển trai David Duchovny, và nhanh không kém gì ma cà rồng, thoáng cái cô ta đã vào phòng và bắt đầu vuốt ve Eric. Cứ như được đánh thức khỏi bùa mê, Eric cúi nhìn Ginger khi bàn tay cô ả mơn trớn lồng ngực hắn. Và hắn cúi xuống hôn ả, rồi nhìn về phía tôi. “Tôi sẽ gặp lại cô sau,” hắn nói, vậy là tôi kéo Bill ra khỏi cửa trong chớp mắt. Bill không muốn đi. Cứ như thể tôi đang cố kéo một tảng núi vậy. Nhưng khi đã ra được đến sảnh, anh có vẻ ý thức được rõ hơn việc cần phải ra khỏi đây, vậy là chúng tôi lao ra khỏi Fangtasia và vào trong xe Bill.
    Tôi liếc nhìn xuống người mình. Chỗ nào cũng dính máu, quần áo nhàu nhĩ, cả người toát ra một mùi kỳ cục. Eo ơi. Tôi nhìn về phía Bill để chia sẻ sự ghê tởm cùng anh, nhưng anh đang nhìn tôi với ánh mắt không lẫn vào đâu được.
    “Không,” tôi nói giọng chắc nịch. “Anh khởi động xe đi, và ra khỏi đây ngay trước khi có chuyện gì khác xảy ra, Bill Compton. Em chắc chắn đấy, em không có hứng.”
    Anh vươn người về phía tôi, cánh tay cuốn lấy tôi trước khi tôi kịp nói gì.
    Rồi môi anh chạm vào môi tôi, và chỉ một giây sau, lưỡi anh đã bắt đầu liếm những vệt máu trên mặt tôi.
    Tôi thực sự khiếp sợ. Và thực sự tức giận. Tôi túm tai anh, vận hết sức đẩy đầu anh ra xa, nhận thấy hóa ra tôi khỏe hơn mình tưởng tượng nhiều.
    Đôi mắt anh vẫn đờ đẫn ngây dại. “Bill!” tôi hét lên. Tôi lắc người anh. “Thôi đi nào!”
    Từng chút một, đôi mắt anh trở lại bình thường. Anh buông ra một tiếng thở dài run rẩy. Anh hôn nhẹ vào môi tôi.
    “Được rồi, giờ chúng ta về nhà chứ?” tôi hỏi, hơi xấu hổ với giọng nói run run của mình.
    “Chắc rồi,” anh đảm bảo, giọng cũng không hề bình tĩnh.
    “Nó có giống như cá mập đánh hơi thấy máu không?” tôi hỏi anh, sau mười lăm phút lái xe yên lặng giúp chúng tôi gần như đã thoát hẳn ra khỏi Shreveport.
    “So sánh chuẩn đấy.”
    Anh không cần phải xin lỗi. Anh chỉ đang hành động theo đúng bản năng của mình, ít nhất cũng là bản năng của loài ma cà rồng. Anh không buồn bận tâm. Nhưng tôi vẫn muốn nghe một lời xin lỗi.
    “Vậy, em có gặp rắc rối nào không?” cuối cùng tôi cũng hỏi. Đã hai giờ sáng, và tôi nhận thấy câu hỏi đó cũng chẳng khiến tôi bận tâm như lẽ ra phải thế.
    “Eric sẽ giữ lời hứa với em,” Bill đáp. “Còn liệu hắn có để em yên không thì anh không biết nữa. Chỉ hy vọng...” Nhưng giọng anh tắt dần. Đó là lần đầu tiên tôi nghe thấy Bill hy vọng điều gì.
    “Chắc chắn sáu mươi ngàn đô la không phải khoản tiền lớn với một ma cà rồng,” tôi nhận định. “Bọn anh đều có vẻ nhiều tiền lắm mà.”
    “Tất nhiên ma cà rồng lấy tiền từ các nạn nhân,” Bill nói với vẻ đương nhiên. “Hồi trước, bọn anh lấy tiền từ những xác chết. Sau này, khi có nhiều kinh nghiệm hơn, bọn anh đủ khôn khéo để dụ dỗ con người tự nguyện đưa tiền cho bọn anh rồi sau đó quên hết mọi chuyện. Trong số bọn anh có người thuê nhân viên quản lý tài chính, có người mua bất động sản, cũng có người sống dựa vào lợi nhuận từ các khoản đầu tư. Eric và Pam cùng nhau mở quán bar. Eric đóng góp phần lớn tiền, còn lại là của Pam. Hai người họ biết Long Shadow cả trăm năm nay rồi, và họ đã thuê hắn làm người pha chế rượu. Hắn đã phản bội họ.”
    “Sao hắn phải ăn cắp cơ chứ?”
    “Chắc hẳn có vụ đầu cơ nào đó cần tiền vốn,” Bill đáp lơ đãng. “Mà hắn lại đang cố hòa nhập với con người. Hắn chẳng thể cứ thế ra ngoài giết chết một giám đốc nhà băng sau khi thôi miên, dụ ông ta đưa tiền cho hắn được. Nên hắn lấy của Eric.”
    “Không mượn Eric được à?”
    “Mượn được, miễn là Long Shadow không quá kiêu hãnh đến mức không chịu hỏi,” Bill đáp.
    Chúng tôi lại yên lặng một lúc lâu nữa. Cuối cùng, tôi nói, “Em luôn nghĩ ma cà rồng thông minh hơn người, nhưng hóa ra lại không vậy nhỉ?”
    “Không phải lúc nào cũng vậy,” anh đồng tình.
    Khi chúng tôi đến vùng ngoại vi Bon Temps, tôi nhờ Bill đưa tôi về nhà. Anh liếc nhìn tôi, nhưng chẳng nói gì cả. Có lẽ, rốt cuộc ma cà rồng vẫn thông minh hơn con người.

  5. #24
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,707
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 10
    Hôm sau, khi tôi chuẩn bị đi làm, tôi nhận ra mình sẽ có một khoảng thời gian hoàn toàn không dính líu đến ma cà rồng. Kể cả với Bill.
    Tôi đã sẵn sàng để tự nhắc nhở rằng mình vẫn là con người.
    Vấn đề là, tôi không được phép quên mình là một con người đã thay đổi. Cũng chẳng có gì lớn lao. Sau lần đầu tiên uống máu Bill trong cái đêm nhà Chuột cố giết tôi, tôi cảm thấy mình hồi phục, khỏe khoắn và mạnh mẽ hơn. Nhưng sự khác biệt không quá rõ ràng. Có thể là... Vậy đấy, quyến rũ hơn.
    Lần thứ hai nếm máu anh, tôi cảm thấy khỏe thật sự, và cũng dũng cảm hơn vì sự tự tin của tôi đã tăng lên. Tôi cảm thấy tin tưởng hơn vào bản năng giới tính của mình cùng uy quyền của nó. Tôi cũng sử dụng khiếm khuyết của mình một cách tự tin và hiệu quả hơn.
    Máu của Long Shadow đi vào cơ thể tôi hoàn toàn tình cờ. Sáng hôm sau, khi soi gương, tôi nhận ra răng mình trắng và sắc hơn. Mái tóc nhạt màu và bóng mượt hơn, đôi mắt cũng long lanh hơn. Tôi trông hệt như những cô gái trên áp phích tuyên truyền vệ sinh hiệu quả hay những quảng cáo liên quan đến vấn đề sức khỏe như dùng vitamin hay uống sữa. Vết cắn ác độc trên cánh tay tôi (tôi nhận ra đó cũng là vết cắn cuối cùng Long Shadow để lại trên cõi đời này) chưa khỏi hoàn toàn, nhưng cũng đang bình phục nhanh chóng. Rồi khi tôi định nhặt ví lên thì lại làm rơi xuống sàn, và mấy đồng xu lẻ lăn xuống dưới gầm ghế. Tôi nâng đầu ghế lên chỉ bằng một tay trong khi tay kia thu mấy đồng xu lại.
    Ái chà chà.
    Tôi duỗi thẳng người và hít thở sâu.
    Ít nhất thì ánh mặt trời cũng không làm tổn thương mắt tôi, và tôi cũng chẳng muốn cắn bất kỳ ai mình gặp. Tôi vẫn khoái dùng bánh mì nướng cho bữa sáng thay vì thèm khát món nước cà chua. Tôi không bị biến thành ma cà rồng. Có lẽ tôi đã thành một dạng người tiến hóa nào đó? Cuộc sống này rõ ràng là đơn giản hơn rất nhiều nếu như tôi không hẹn hò.
    Khi tôi đến Merlotte, mọi thứ đều đã sẵn sàng trừ việc thái lát đám chanh vàng và chanh lá cam. Chúng tôi phục vụ cả hai loại quả kèm theo đồ uống hỗn hợp hay trà, vậy là tôi lấy thớt và con dao sắc ra. Lafayette đang thắt tạp dề thì tôi đến mở cái tủ lạnh khổng lồ ra để lấy chanh.
    “Em nhuộm tóc đấy à Sookie?”
    Tôi lắc đầu. Bên dưới tấm tạp dề màu trắng, Lafayette là một bản giao hưởng của những màu sắc; anh ta đang mặc áo hai dây màu hồng, quần tím sẫm kèm xăng đan da màu đỏ, và anh ta còn đánh viền mắt màu đỏ thẫm nữa.
    “Chắc chắn chúng nhạt màu hơn,” anh ta nói với vẻ hoài nghi, nhướn hai hàng lông mày tỉa tót.
    “Em ra ngoài nắng nhiều mà,” tôi quả quyết. Dawn chưa bao giờ hòa hợp được với Lafayette, hoặc tại anh ta là người da màu hoặc do anh ta là dân đồng tính, tôi cũng không chắc lắm... mà cũng có thể là cả hai. Arlene và Charlsie chấp nhận anh đầu bếp, nhưng cũng không tỏ ra thân thiện.
    Nhưng tôi thì luôn thích Lafayette bởi dẫu cuộc sống có lắm khó khăn đến đâu, anh ta lúc nào cũng vẫn hòa nhã và tràn đầy nhiệt huyết.
    Tôi liếc xuống chiếc thớt. Tất cả đám chanh vàng đã được cắt làm tư.
    Toàn bộ chanh lá cam đã được thái lát. Tay tôi đang cầm con dao, và bàn tay ướt đẫm nước chanh. Tôi đã hoàn thành công việc mà không hề ý thức được mình đang làm gì. Trong khoảng ba mươi giây. Tôi nhắm mắt lại. Chúa ơi.
    Khi tôi mở mắt ra, Lafayette đang nhìn chằm chằm hết khuôn mặt đến bàn tay tôi.
    “Đừng nói những gì anh vừa nhìn thấy đều là thật đấy nhé,” anh gợi ý. “Không phải thật đâu,” tôi đáp. Giọng tôi vẫn điềm tĩnh và thản nhiên, nhưng tôi đang kinh ngạc hết sức. “Để em cất đống này đã.” Tôi đem đám chanh vừa thái cất vào từng ngăn riêng trong tủ lạnh đằng sau quầy, nơi Sam vẫn dùng để trữ bia. Khi tôi đóng cửa tủ lại, Sam đã đứng đó, tay khoanh trước ngực. Trông anh chẳng vui vẻ gì.
    “Em ổn đấy chứ?” anh hỏi. Đôi mắt xanh sáng săm soi tôi từ trên xuống dưới. “Em vừa đi làm tóc đấy à?” anh hỏi với vẻ không chắc chắn lắm.
    Tôi cười phá lên. Tôi nhận ra hàng rào tâm trí đã được dựng lên một cách dễ dàng chứ không còn là quá trình đau đớn nữa. “Em ra nắng quá nhiều thôi,” tôi đáp.
    “Tay em làm sao vậy.”
    Tôi nhìn xuống cẳng tay bên phải của mình. Tôi đã dùng băng để che vết cắn.
    “Em bị chó cắn.”
    “Nó đã được tiêm phòng chưa?”
    “Tất nhiên rồi.”
    Tôi ngước lên nhìn Sam đang ở ngay bên cạnh, và nhận thấy dường như mái tóc vàng sẫm thô xoăn của anh đang tràn trề năng lượng.
    Dường như tôi có thể nghe tiếng tim anh đập. Tôi có thể cảm nhận được sự lưỡng lự của anh, khao khát của anh. Cơ thể tôi phản ứng lại ngay lập tức. Tôi chú tâm vào đôi môi mỏng của anh, và mùi nước thơm nồng nồng xức sau khi cạo râu tràn ngập buồng phổi tôi. Anh tiến lại gần hơn chút nữa. Tôi có thể cảm nhận được từng nhịp thở của anh. Tôi biết rằng cái ấy của anh đang cương cứng. Đúng lúc đó Charlsie Tooten bước vào và sập cửa lại. Cả hai chúng tôi đều bước lùi lại. Chúa phù hộ Charlsie, tôi nhủ thầm. Mũm mĩm, lơ đãng, hiền hậu và chăm chỉ, Charlsie là hình mẫu nhân viên đáng mơ ước. Chị kết hôn với Ralph, anh chàng người yêu từ thời trung học hiện làm việc ở một trại gà và hai vợ chồng có một cô con gái đang học lớp mười một và một cô khác đã xây dựng gia đình. Charlsie yêu công việc ở quán, vì chị có thể gặp gỡ mọi người, và chị luôn có vài mánh nho nhỏ để những tay say rượu bình yên ra về mà không gây nên vụ xô xát nào. “Chào hai người!” chị chào vui vẻ. Mái tóc nâu sẫm (thuốc nhuộm L’Oreal, theo lời Lafayette) được buộc cao từ trên đỉnh đầu, những lọn tóc xoăn chảy dài xuống lưng như một dòng thác. Chị mặc áo phông trơn và túi quần soóc phồng lên vì đầy nhóc những đồ là đồ. Charlsie đi tất dài mỏng màu đen kèm theo giày Keds, và bộ móng giả được sơn màu đỏ tía.
    “Con bé nhà chị có mang rồi. Chuẩn bị gọi chị là bà được rồi đấy!” chị nói, và tôi có thể chắc chắn Charlsie đang vui mừng khôn xiết. Tôi ôm lấy chị, còn Sam vỗ vỗ vai. Cả hai chúng tôi đều mừng vì chị đã đến.
    “Đứa trẻ sẽ ra đời khi nào?” tôi hỏi, vậy là Charlsie được dịp thao thao bất tuyệt. Tôi không phải nói thêm gì trong suốt năm phút sau đó. Rồi Arlene bước vào, những nốt mụn trên cổ được che đậy một cách vụng về bằng lớp phấn trang điểm, và chị lại phải nghe bản trường ca của Charlsie một lần nữa. Ánh mắt tôi chạm mắt Sam một lần, nhưng ngay lập tức, cả hai đều quay nhìn chỗ khác.
    Rồi sau đó, chúng tôi bắt đầu phục vụ khách khứa đến ăn trưa, và sự việc lúc nãy xem như là chuyện đã qua.
    Hầu hết mọi người đều không uống nhiều vào buổi trưa, nếu có thì cũng chỉ một vại bia hay ly rượu. Phần lớn uống nước lọc hoặc trà đá. Thực khách đến vào giờ ăn trưa bao gồm những người tình cờ ở gần Merlotte đúng giờ dùng bữa, những khách quen coi việc đến quán là lẽ đương nhiên, và cả những con sâu rượu địa phương lấy giờ ăn trưa làm cơ hội được uống lần thứ ba thứ tư trong ngày. Lúc bắt đầu nhận yêu cầu của khách, tôi nhớ lại lời đề nghị khẩn thiết của ông anh trai.
    Tôi lắng nghe suốt cả ngày, và mệt lử. Tôi chưa bao giờ dành cả ngày để nghe; tôi chưa bao giờ hạ rào chắn của mình lâu đến vậy. Có lẽ nó không còn đau đớn như hồi trước nữa; có lẽ tôi đã cảm thấy lạnh nhạt hơn với những gì mình nghe thấy. Cảnh sát trưởng Bud Dearborn ngồi cùng bàn với ngài thị trưởng, một người bạn của bà, Sterling Norris. Ông Norris đứng lên vỗ vai tôi, và tôi nhận ra đó là lần đầu tiên tôi gặp ông kể từ đám tang của bà.
    “Cháu dạo này thế nào, Sookie?” ông hỏi bằng giọng cảm thông. Trông ông có vẻ không khỏe.
    “Mọi chuyện đều ổn, còn ông thì sao ạ?”
    “Ta già rồi, Sookie,” ông nói kèm theo nụ cười ngập ngừng, ông thậm chí chẳng thèm đợi tôi phản đối. “Những vụ giết người đó đã vắt kiệt sức ta. Chúng ta có vụ sát hại nào ở Bon Temps đâu, kể từ khi Darryl Mayhew bắn chết Sue Mayhew. Và chuyện đó cũng chẳng có gì là bí ẩn cả.”
    “Chuyện đó... sao nhỉ? Sáu năm trước phải không ạ?” tôi hỏi viên cảnh sát trưởng, chỉ để tìm cớ đứng lại đó. Ông Norris đang rất buồn khi nhìn thấy tôi bởi ông nghĩ Jason sắp bị bắt vì tội giết người, vì đã sát hại Maudette Pickens, và ngài thị trưởng cũng liệt Jason vào danh sách tình nghi giết bà. Tôi cúi đầu xuống để che nước mắt.
    “Có lẽ vậy. Để xem nào, ta nhớ hôm đó chúng ta đã ăn mặc rất diện để tham dự buổi độc tấu múa của Jean- Anne... Vậy là... đúng đấy, cháu nhớ đúng đấy, Sookie, là sáu năm trước.” Viên cảnh sát trưởng gật đầu tán đồng với tôi. “Jason hôm nay có đến không?” ông hỏi giọng thản nhiên, cứ như thể chỉ tình cờ thôi vậy.
    “Không, cháu vẫn chưa thấy anh ấy,” tôi đáp. Viên cảnh sát trưởng gọi trà đá và bánh hamburger; trong lúc đó ông nghĩ đến lần ông bắt gặp Jason và Jean-Anne của mình đang điên cuồng âu yếm nhau trên chiếc giường trong xe tải của Jason.
    Ôi, Chúa ơi. Ông ta đang nghĩ Jean- Anne thật may mắn vì đã không bị bóp cổ. Và rồi, ông ta nảy ra một suy nghĩ rõ ràng đã chạm đúng vào điểm nhạy cảm của tôi: cảnh sát trưởng Dearborn nghĩ, “Bọn con gái này dù gì cũng chỉ là dạng cá ăn sát đáy nước mà thôi.”
    Tôi có thể đọc được những suy nghĩ đó rõ đến từng lời vì tình cờ thay, cảnh sát trưởng lại là một trường hợp dễ dò xét. Tôi có thể cảm nhận được đầy đủ sắc thái, ông ta đang nghĩ, “Công việc thấp kém, học hành chẳng ra gì, ngủ với ma cà rồng... cặn bã cả.”
    Tổn thương và tức giận chưa đủ để miêu tả cảm xúc của tôi trước lối đánh giá này.
    Tôi máy móc đi từ bàn này sang bàn khác, mang đồ uống và bánh sandwich cho khách, dọn bàn, làm việc chăm chỉ như thường lệ, nụ cười dễ sợ đó vẫn kéo căng da mặt. Tôi nói chuyện với khoảng hai mươi người quen, hầu hết đều có những suy nghĩ vô tội kiểu như ngày sao mà dài thế. Phần lớn khách hàng đều suy nghĩ về công việc, hay những nhiệm vụ phải hoàn thành ở nhà, hay vấn đề lặt vặt nào đó cần giải quyết, như thuê thợ của Sears đến sửa máy rửa bát, hay dọn dẹp nhà cửa đón đồng nghiệp đến chơi cuối tuần. Arlene thở phào nhẹ nhõm khi lại có kinh.
    Tâm trí Charlsie thì tràn ngập những suy nghĩ màu hồng về đứa cháu ngoại. Chị thành tâm cầu nguyện cho con gái mình được mẹ tròn con vuông.
    Lafayette nghĩ làm việc cùng tôi có phần đáng sợ.
    Viên cảnh sát Kevin Prior băn khoăn không hiểu cộng sự Kenya sẽ làm gì vào ngày nghỉ. Còn anh ta thì sẽ giúp mẹ dọn dẹp nhà kho, và ghét cay ghét đắng công việc này.
    Tôi nghe được rất nhiều lời bình luận, to có, nhỏ cũng có, về mái tóc, nước da, và miếng băng gạc trên tay tôi. Dường như tôi trở nên khêu gợi hơn đối với nhiều người đàn ông hơn, và cả một phụ nữ nữa. Một vài tay tham gia vào vụ thiêu ma cà rồng nghĩ rằng chúng không có cơ hội với tôi vì tình cảm của tôi dành cho ma cà rồng, và chúng đang hối tiếc vì hành động lỗ mãng của mình. Tôi ghi nhớ danh tính của chúng trong đầu. Tôi không đời nào quên chuyện suýt nữa chúng đã giết chết Bill của tôi, cho dù lúc này, tôi cũng chẳng ưa gì ma cà rồng.
    Andy Bellefleur và em gái của anh ta, Portia, đang dùng bữa trưa cùng nhau, một hoạt động được họ duy trì ít nhất một lần mỗi tuần. Portia là phiên bản nữ của Andy: chiều cao trung bình, thân hình rắn chắc và khuôn miệng và quai hàm kiên quyết. Sự giống nhau giữa hai anh em có lợi rất nhiều cho Andy, chứ không phải Portia. Tôi nghe đồn chị ấy là một luật sư rất thạo việc. Tôi lẽ ra đã gợi ý Jason chọn chị khi anh tính chuyện thuê luật sư, nếu chị ấy không phải là phụ nữ... Và tôi nghĩ thế vì lợi ích của Portia nhiều hơn là của Jason.
    Hôm nay nữ luật sư đang cảm thấy thất vọng tràn trề, vì dẫu được ăn học đến nơi đến chốn và kiếm được kha khá, nhưng chị lại chưa từng hẹn hò với ai. Đó là mối bận tâm thầm kín của chị.
    Andy ghê tởm khi thấy tôi vẫn tiếp tục giao du với Bill Compton, nhưng cũng thấy khá hứng thú với vẻ ngoài đã được cải thiện của tôi, và tò mò không hiểu ma cà rồng làm tình như thế nào. Hắn cũng lấy làm buồn vì có lẽ phải bắt Jason. Andy nghĩ Jason cũng chẳng đáng nghi hơn những người khác là bao, nhưng Jason lại là kẻ có vẻ sợ hãi nhất, nghĩa là anh ấy đang giấu giếm điều gì đó. Và còn cả những cuốn băng ghi lại cảnh Jason đang làm tình - không hẳn là theo cung cách quen thuộc - với Dawn và Maudette.
    Tôi nhìn Andy chăm chăm trong lúc xử lý những suy nghĩ trong đầu hắn, vậy nên khiến hắn cảm thấy khá khó chịu. Andy quả thực biết rõ khả năng của tôi. “Sookie, lấy bia cho tôi nhé?” Cuối cùng hắn cũng mở miệng, vẫy vẫy bàn tay khổng lồ trong không khí để chắc chắn rằng tôi có chú ý.
    “Chắc chắn rồi, Andy à,” tôi đáp lơ đãng, và lôi một chai bia ra khỏi thùng ướp lạnh. “Chị có dùng thêm trà không, Portia?”
    “Không, cảm ơn em, Sookie,” Portia đáp lịch sự rồi dùng khăn giấy chấm chấm miệng. Portia đang nhớ lại thời trung học, lẽ ra chị nên bán cả linh hồn để được hẹn hò với chàng Jason Stackhouse điển trai. Chị tự hỏi bây giờ Jason đang làm gì, liệu anh có khi nào từng thấy hứng thú với chị không - nhưng có lẽ thân hình của trong đầu anh ta có ý tưởng nào khiến chị hứng thú đồng cảm về mặt trí tuệ? Vậy là Portia vẫn chưa xem mấy cuộn băng đó, chưa biết về sự tồn tại của chúng; Andy là một cảnh sát biết giữ mồm giữ miệng đấy chứ. Tôi cố tưởng tượng ra cảnh Portia cùng với Jason, và không thể nhịn được cười. Chắn hẳn đó sẽ là kinh nghiệm để đời cho cả hai bọn họ. Tôi ao ước, không phải lần đầu tiên, rằng mình có thể gieo ý nghĩ vào đầu mọi người cũng giỏi không kém gì việc đọc được tâm trí người khác.
    Khi ca làm gần kết thúc, tôi phát hiện ra... chẳng điều gì cả. Ngoại trừ việc những cuốn băng do ông anh tôi ngu ngốc quay lại có cả những màn câu thúc tình dục nhẹ nhàng, nguyên nhân khiến Andy liên tưởng đến những vết trói quanh cổ nạn nhân. Vậy nên, chung quy lại, để mở tâm trí mình vì ông anh trai là một việc làm hoàn toàn vô ích. Tất cả những gì tôi nghe thấy chỉ làm tôi lo lắng hơn, và chúng chẳng cung cấp thêm được thông tin gì giúp ích cho Jason cả.
    Tối nay một đám đông khác sẽ đến. Tôi chẳng bao giờ đến Merlotte để giải trí cả. Tối nay tôi có nên đến không nhỉ? Bill sẽ làm gì? Tôi có muốn gặp anh không?
    Tôi cảm thấy thật cô đơn. Tôi chẳng thể kể cho ai về Bill, chẳng ai lại không choáng váng khi nghe chuyện tôi hẹn hò cùng Bill. Làm sao tôi có thể kể với Arlene rằng mình buồn vì đám bạn ma cà rồng của Bill thật đáng sợ và tàn nhẫn, rằng một tay trong số chúng đã cắn tôi vào đêm hôm trước, đã làm tràn máu vào miệng tôi và rồi bị cắm cọc khi đang nằm đè lên tôi? Đó không phải kiểu vấn đề Arlene có thể xử lý được.
    Tôi cũng chẳng nghĩ ra ai là người có thể.
    Tôi không thể nhớ ra có người nào từng hẹn hò với ma cà rồng mà lại không thuộc nhóm hâm mộ ma cà rồng bị phân biệt đối xử, một nhân tình răng nanh sẵn sàng đi với bất kỳ kẻ hút máu nào.
    Khi tôi rời khỏi quán, kể cả vẻ ngoài hoàn thiện hơn cũng chẳng thể cho tôi sự tự tin nữa. Tôi cảm thấy mình như một kẻ dị hợm.
    Tôi lăng xăng quanh nhà, chợp mắt một chút, tưới đám hoa của bà. Đến lúc chạng vạng, tôi ăn thứ gì đó đã được hâm trong lò vi sóng. Băn khoăn do dự cho tới tận phút cuối về chuyện có nên ra ngoài hay không, cuối cùng tôi mặc áo sơ mi đỏ và quần trắng, đeo trang sức rồi lái xe trở lại Merlotte.
    Tôi có cảm giác rất lạ khi vào quán với tư cách khách hàng. Sam đứng đằng sau quầy, và đôi mày của anh nhướn lên khi thấy tôi bước vào. Ba cô phục vụ bàn mà tôi chỉ biết mặt đang làm việc tối đó, và qua cửa sổ chuyển đồ, tôi thấy một tay đầu bếp khác đang nướng hamburger.
    Jason đang ở quán. Ngạc nhiên là chiếc ghế bên cạnh anh vẫn còn trống, và tôi chiếm luôn chỗ đó.
    Anh quay lại nhìn tôi với khuôn mặt sẵn sàng chào đón một nàng mới: miệng nhoẻn một nụ cười, đôi mắt mở to sáng rỡ. Nhưng khi nhìn ra tôi, vẻ mặt anh thay đổi nhanh như phản ứng hạt nhân vậy. “Em làm cái quái gì ở đây thế, Sookie?” anh hỏi bằng giọng phẫn nộ.
    “Anh không vui khi gặp em,” tôi bình luận. Khi Sam dừng trước mặt tôi, tôi gọi một ly bourbon pha Coke mà không ngước lên nhìn anh. “Em đã làm theo ý anh, và đến giờ vẫn chẳng được gì cả,” tôi thì thầm với ông anh trai. “Em đến đây tối nay để thử với vài người khác.”
    “Cảm ơn em, Sookie,” anh đáp sau một lúc lâu im lặng. “Có lẽ anh đã không nhận ra mình đang đòi hỏi gì. Này, em vừa làm tóc đấy à?”
    Anh thậm chí còn trả tiền nước cho tôi khi Sam mang đến.
    Chúng tôi không có nhiều chuyện để mà nói, thực ra cũng chẳng sao, vì tôi còn bận lắng nghe tâm trí các vị khách khác. Quán có vài khách lạ, và tôi kiểm tra họ trước, để xem liệu họ có thể là kẻ tình nghi không. Nhưng tôi phải miễn cưỡng rút ra kết luận họ có vẻ không có khả năng đó. Một người đang nhớ vợ khủng khiếp, và thêm vào đó anh ta hoàn toàn chân thành với cô ấy. Người kia lại nghĩ đây là lần đầu tiên anh ta đến đây, và đồ uống khá ngon đấy chứ. Người cuối cùng thì chỉ tập trung giữ tỉnh táo và hy vọng có thể lái xe an toàn về nhà trọ.
    Tôi gọi thêm một ly rượu khác.
    Jason và tôi ước tính chi phí thuê luật sư khi việc nhà cửa của bà được ổn định. Anh liếc nhìn ra cửa và thốt lên, “Ối chà.”
    “Sao vậy?” tôi hỏi, không buồn quay lại xem anh đang nhìn gì.
    “Em gái à, bạn trai em đang ở đây kìa. Mà hắn không đi một mình.”
    Ý nghĩ đầu tiên đến với tôi là Bill mang theo một gã bạn ma cà rồng nào đó, một hành động đáng lo và không hề sáng suốt. Nhưng khi quay lại, tôi nhận ra tại sao Jason lại có vẻ giận dữ đến thế. Bill đi cùng một ả người. Anh nắm chặt cánh tay cô ta, còn cô ta bám theo anh như một ả điếm, và mắt anh đang quét qua đám đông. Tôi nhận ra anh đang trông chờ phản ứng của tôi.
    Tôi nhảy ra khỏi chiếc ghế và nhận ra thêm một điều nữa.
    Tôi say mất rồi. Tôi hiếm khi uống rượu, và hai ly bourbon pha Coke được tiêu thụ trong vài phút ấy đã khiến tôi nếu không phải say bí tỉ thì ít ra cũng hơi chếnh choáng.
    Bill bắt gặp ánh mắt tôi. Anh không thật sự mong sẽ gặp được tôi ở đây. Tôi chẳng thể đọc được tâm trí anh giống như đã làm với Eric trong khoảng thời gian khủng khiếp ấy, nhưng tôi có thể hiểu được ngôn ngữ cơ thể của anh.
    “Này, ma cà rồng Bill!” Hoyt, một tay bạn của Jason, lên tiếng. Bill gật đầu lịch sự về phía Hoyt, nhưng bắt đầu lôi cô ả - nhỏ bé, da màu - hướng về phía tôi.
    Tôi chẳng biết nên làm gì.
    “Em gái này, hắn định chơi trò gì thế?” Jason hỏi. Anh đang tức nghẹn họng rồi. “Ả đó là một nhân tình răng nanh ở Monroe. Anh biết ả hồi ả còn thích con người kìa.”
    Tôi vẫn chẳng biết nên làm gì. Sự tổn thương đã lên tới cùng cực, nhưng lòng kiêu hãnh của tôi vẫn cố gắng che giấu điều đó. Tôi phải thêm vào cảm xúc của mình một chút mặc cảm tội lỗi. Tôi đã không đến nơi Bill mong tôi sẽ đến, và tôi cũng chẳng để lại lời nhắn cho anh. Ngẫm cho kỹ - mặt khác (đây là lần thứ năm hay thứ sáu gì rồi) - tôi đã gặp quá nhiều cú sốc trong màn tra hỏi ở Shreveport tối hôm trước; và chỉ có tình cảm của tôi dành cho anh mới khiến tôi đâm đầu vào mớ rắc rối đó. Sự thôi thúc muốn đánh nhau đã giữ tôi đứng yên. Tôi muốn nhảy bổ vào cô ả kia và đập cho cô nàng khỏi ngóc đầu dậy, nhưng từ bé tôi đã được dạy là không được ẩu đả trong quán rượu. (Tôi cũng muốn đập cho Bill khỏi ngóc đầu dậy, nhưng làm thế thì cũng ngang với tự đập đầu mình vào tường). Ngay lúc đó, tôi cũng muốn khóc òa lên bởi sự tổn thương - nhưng làm vậy thì yếu đuối quá. Sự lựa chọn tốt nhất là đừng thể hiện gì cả bởi Jason đã sẵn sàng nhảy bổ vào Bill rồi, và chỉ cần một hành động nào đó từ tôi là anh sẽ bùng nổ ngay lập tức.
    Quá nhiều mâu thuẫn góp thêm vào quá nhiều chất cồn.
    Trong khi tôi vẫn đang tính toán các lựa chọn thì Bill đã đến gần, đi xuyên qua những dãy bàn, vẫn kéo theo cô ả kia. Tôi nhận thấy căn phòng trở nên yên lặng hơn. Thay vì quan sát người khác, giờ chính tôi lại bị theo dõi.
    Tôi có thể cảm nhận được những giọt nước mặt chực trào ra trong khi đôi tay siết lại thành nắm đấm. Tuyệt. Phản ứng tồi tệ nhất của cả hai phương án trả lời.
    “Sookie,” Bill nói, “Eric đã thả cô gái này ngay trước bậc thềm nhà anh.”
    Tôi khó có thể hiểu được anh đang nói gì.
    “Thì sao?” tôi giận dữ hỏi. Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt cô ả kia. Chúng to, đen và đầy phấn khích. Tôi cũng cố giữ mắt mình mở to, biết rõ rằng chỉ cần tôi chớp mắt thì nước mắt sẽ tuôn ra mất.
    “Coi như phần thưởng,” Bill nói. Tôi không thể hiểu anh cảm thấy sao về chuyện này.
    “Món đồ uống miễn phí à?” tôi hỏi lại, không ngờ rằng giọng mình có thể cay nghiệt đến thế.
    Jason đặt tay lên vai tôi. “Bình tĩnh nào, em gái,” anh nói, giọng khẽ và độc địa không kém gì tôi. “Hắn không đáng đâu.”
    Tôi không biết Bill không đáng với cái gì, nhưng tôi cũng sắp biết được rồi. Sau cả đời phải sống trong sự kiềm chế, tôi hầu như cảm thấy hân hoan khi không biết mình sẽ làm gì tiếp theo.
    Bill đang quan sát tôi với sự chú tâm sắc lạnh. Dưới ánh đèn huỳnh quanh, trông anh trắng đến khác thường. Anh vẫn chưa hút máu cô ả. Và răng nanh của anh đang thụt vào. “Ra ngoài nói chuyện đi,” anh nói. “Với ả ta à?” tôi gầm ghè.
    “Không,” anh đáp. “Với anh. Anh phải trả cô ta lại.”
    Sự ghê tởm trong giọng Bill đã tác động đến tôi, và tôi theo anh ra ngoài, ngẩng cao đầu và không nhìn ánh mắt ai. Anh vẫn túm tay cô ả, và ả ta đang phải kiễng chân lên để theo kịp. Tôi không biết Jason vẫn đang đi theo cho đến khi đã vào đến bãi đậu xe, tôi quay lại và nhìn thấy anh đang ở ngay đằng sau. Ở ngoài, người ra kẻ vào tấp nập, nhưng thế vẫn còn hơn cái quán bar đông đúc.

  6. #25
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,707
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    “Xin chào,” cô ả mở lời. “Tên em là Desiree. Em nghĩ ta đã gặp nhau trước đây rồi, Jason.”
    “Em đang làm gì ở đây thế, Desiree?” Jason hỏi nhỏ. Nghe qua thì cứ tưởng anh đang bình tĩnh lắm. “Eric đưa em đến Bon Temps làm phần thưởng cho Bill,” cô nàng rụt rè đáp, liếc mắt nhìn Bill. “Nhưng anh ấy có vẻ chỉ thấy ghê tởm. Em chẳng biết tại sao nữa. Em cũng đặc biệt hấp dẫn đấy chứ.”
    “Eric nào?” Jason hỏi tôi.
    “Một ma cà rồng ở Shreveport. Chủ quán bar. Ông trùm.”
    “Hắn để cô gái này ở thềm nhà anh,” Bill nói với tôi. “Anh không yêu cầu có cô ta.”
    “Anh định làm gì?”
    “Trả lại cô ta,” anh đáp với vẻ sốt ruột. “Anh và em cần nói chuyện.”
    Tôi nuốt khan. Những ngón tay nới lỏng dần.
    “Cô ta cần quá giang đến Monroe à?” Jason hỏi.
    Bill trông có vẻ ngạc nhiên, “Ừ. Anh tiện đường chứ? Tôi cần nói chuyện với em gái anh.”
    “Chắc chắn rồi,” Jason đáp với vẻ rộng lượng. Tôi nghi ngờ ngay lập tức.
    “Em không thể tin được anh lại từ chối em,” Desiree thốt lên, ngước nhìn Bill và bĩu môi. “Trước đây chưa từng có ai từ chối em.”
    “Tất nhiên tôi rất biết ơn, và tôi tin chắc cô là một người đặc biệt hấp dẫn, đúng như cô nói,” Bill đáp lịch sự. “Nhưng tôi đã có hầm rượu của mình rồi.”
    Desiree bé nhỏ ngây ra nhìn anh trong một vài giây trước khi vẻ thấu hiểu chậm chạp sáng lên trong đôi mắt nâu của cô ả. “Người phụ nữ này là của anh?” cô ta hỏi, hất đầu về phía tôi.
    “Phải.”
    Trông Jason có vẻ lo lắng trước sự khẳng định đơn giản của Bill.
    Desiree nhìn tôi một lượt. “Mắt cô ấy ngộ quá,” cuối cùng cô ả thốt lên.
    “Đó là em gái anh,” Jason nói.
    “Ồ. Em xin lỗi. Anh thì... bình thường hơn nhiều.” Desiree cũng quay nhìn Jason một lượt, và có vẻ hài lòng với những gì mình thấy. “Mà họ của anh là gì nhỉ?”
    Jason nắm tay cô nàng dẫn ra chiếc xe tải của anh. “Stackhouse,” anh vừa đáp vừa ve vuốt đôi mắt cô nàng sau khi cả hai đã bước ra xa. “Có lẽ trên đường về nhà, em có thể kể cho anh nghe em đã làm gì...”
    Tôi quay về phía Bill, đang băn khoăn không hiểu Jason có động cơ gì trong hành động hào hiệp này thì chạm phải ánh mắt Bill. Thật không khác gì đang đi thì va vào tường vậy. “Vậy, anh muốn nói chuyện à?” tôi hỏi vội vàng.
    “Không phải ở đây. Về nhà với anh.”
    Tôi lấy ngón chân cào cào đám sỏi. “Không phải nhà anh.”
    “Vậy thì nhà em.”
    “Không.”
    Anh nhướn đôi mày cong cong của mình lên. “Vậy thì ở đâu?”
    Câu hỏi hay đấy.
    “Hồ nước chỗ anh trai em.” Vì Jason còn mải đưa Cô Nàng Da Màu Bé Nhỏ về, nên anh ấy sẽ không ở đó. “Anh sẽ theo em” anh nói ngắn gọn, và chúng tôi tách ra người nào về xe người nấy.
    Căn nhà tôi đã sống trong mấy năm đầu đời nằm ở phía Tây Bon Temps. Tôi rẽ vào con đường rải sỏi quen thuộc và đỗ xe trước nhà, một nông trại khiêm tốn được Jason chăm sóc khá tốt. Khi tôi chui ra khỏi xe thì Bill cũng bước xuống đường, và tôi ra hiệu cho anh đi theo mình. Chúng tôi đi vòng qua căn nhà, leo xuống dốc và lần theo con đường được lát bằng những phiến đá lớn. Chỉ một phút sau, chúng tôi đã đứng bên cái hồ nhân tạo mà bố tôi đã xây ở sân sau với hy vọng đó sẽ là nơi ông được cùng con trai câu cá hằng năm.
    Có một hành lang lộ thiên nhìn ra mặt hồ, và trên một trong những cái ghế sắt đặt ở đó, có một tấm chăn được gấp lại cẩn thận. Chẳng cần hỏi ý kiến tôi, Bill cầm chăn lên giũ mạnh, rồi trải nó trên thảm cỏ dốc xuống từ phía hành lang. Tôi miễn cưỡng ngồi lên, thầm nghĩ tấm chăn này chẳng hề an toàn chút nào, bởi cùng những lý do khiến việc gặp gỡ hoặc ở nhà anh hoặc ở nhà tôi trở nên không an toàn. Khi ở gần Bill, tôi chỉ nghĩ đến việc được ở gần anh hơn nữa.
    Tôi ngồi bó gối, nhìn chăm chăm ra mặt nước. Người ta đã lắp một chiếc đèn bảo vệ phía bên kia hồ, và tôi có thể nhìn thấy hình phản chiếu của nó trên mặt nước phẳng lặng. Bill ngả lưng xuống cạnh tôi. Tôi có thể cảm nhận được ánh mắt anh trên khuôn mặt mình. Anh đan tay trước ngực, tỏ rõ anh sẽ giữ tay mình ở nguyên chỗ.
    “Tối hôm trước đã làm em sợ,” anh nhận xét với vẻ khách quan.
    “Anh không sợ chút nào sao?” tôi hỏi bằng giọng nhỏ hơn mình tưởng.
    “Sợ cho em. Và hơi sợ cho bản thân.”
    Tôi muốn nằm sấp xuống, nhưng lại e như thế sẽ gần anh quá. Làn da lấp lánh dưới ánh trăng của anh khiến tôi khao khát được chạm vào anh.
    “Em sợ Eric có thể điều khiển cuộc sống của chúng ta khi chúng ta ở bên nhau.”
    “Em không muốn chúng ta ở bên nhau nữa sao?”
    Ngực tôi nhói đau đến nỗi tôi phải chặn tay lên, ép vào vùng da phía trên hai bầu ngực.
    “Sookie?” Anh quỳ xuống bên cạnh rồi vòng tay ôm tôi.
    Tôi không thể trả lời được. Tôi chẳng còn thở nổi nữa.
    “Em có yêu anh không?” anh hỏi.
    Tôi gật đầu.
    “Tại sao em lại nói đến chuyện rời xa anh?”
    Cơn đau giờ đã chạy lên trên mắt tôi, hiện hình trong những giọt lệ.
    “Em quá sợ những ma cà rồng khác và lối sống của chúng. Hắn sẽ yêu cầu em làm gì nữa đây? Hắn sẽ cố gắng bắt em phải làm chuyện gì đó nữa. Hắn sẽ dọa giết anh. Hoặc đe dọa Jason. Và hắn có thể làm chuyện đó.”
    Giọng Bill khẽ khàng như tiếng một chú dế trong bãi cỏ. Một tháng trước, có lẽ tôi đã không thể nghe rõ được. “Đừng khóc,” anh thì thầm với tôi. “Sookie, anh phải nói với em một chuyện hơi khó chịu đây.”
    Điều dễ chịu duy nhất mà anh có thể kể với tôi trong thời điểm này là Eric đã chết.
    “Eric giờ bị em hớp hồn rồi. Hắn biết chắc em có những năng lực trí tuệ mà hầu hết con người không có, hoặc nếu có thì cũng chối bỏ việc sở hữu nó. Hắn đoán rằng máu của em sẽ ngọt ngào và ngon lành hết sức.” Giọng Bill khàn đi khi nói điều đó, và tôi rùng mình. “Mà em còn xinh đẹp nữa. Bây giờ thậm chí em còn xinh đẹp hơn nhiều. Hắn không nhận ra em đã uống máu của bọn anh ba lần rồi.”
    “Anh biết máu của Long Shadow đã chảy vào người em?”
    “Phải. Anh đã thấy.”
    “Ba lần thì có gì thần kỳ không?”
    Anh cười thành tiếng, một điệu cười trầm khàn khùng khục. “Không. Nhưng em uống càng nhiều máu ma cà rồng thì em càng trở nên quyến rũ hơn đối với giống loài của anh, và thực ra là, quyến rũ hơn đối với bất kỳ ai. Thế mà cô ả Desiree nghĩ mình là người hấp dẫn đấy! Anh chẳng hiểu thằng cha ma cà rồng nào nói thế với cô ả nữa.”
    “Gã nào đó muốn chui vào quần ả,” tôi nhận xét thẳng thừng, và anh lại cười. Tôi yêu điệu cười của anh quá. “Với toàn bộ câu chuyện về sự xinh đẹp này của em, có phải anh định nói là Eric, kiểu như, thèm khát em?”
    “Phải”
    “Vậy thì điều gì có thể ngăn cản hắn chiếm đoạt em? Anh bảo hắn khỏe hơn anh mà.”
    “Trên hết là phong tục tập quán và phép xã giao.”
    Tôi suýt nữa thì đã khịt mũi.
    “Đừng xem nhẹ chuyện đó. Tất cả ma cà rồng bọn anh đều tuân thủ phong tục tập quán. Bọn anh phải sống cùng nhau suốt nhiều thế kỷ mà.”
    “Còn gì khác không?”
    “Anh không khỏe bằng Eric, nhưng anh cũng không phải ma cà rồng tập sự. Hắn có thể bị thương nặng khi chiến đấu với anh, hoặc anh thậm chí có thể thắng nếu may mắn.”
    “Còn gì nữa?”
    “Có lẽ,” Bill cẩn thận ướm lời, “bản thân em nữa.”
    “Làm sao thế được?”
    “Mặt khác nếu em có thể trở thành người quan trọng với hắn, hắn có thể sẽ để em yên nếu biết đó là mong muốn thành tâm của em.”
    “Nhưng em không muốn thành người quan trọng với hắn! Em không muốn gặp lại hắn một lần nào nữa!”
    “Em đã hứa với Eric rằng sẽ lại giúp đỡ hắn,” Bill nhắc tôi.
    “Nếu hắn nộp kẻ phạm tội cho cảnh sát,” tôi nói. “Và Eric đã làm gì nào? Hắn giết Long Shadow luôn!”
    “Có lẽ việc đó đã cứu mạng em.”
    “Vậy đấy, em đã tìm ra kẻ trộm cho hắn!”
    “Sookie, em vẫn chưa biết nhiều về thế giới này đâu.”
    Tôi nhìn anh chăm chăm, ngạc nhiên. “Em cũng cho là thế.”
    “Mọi thứ không thể lúc nào cũng... công bằng.” Mắt Bill dán vào bóng tối. “Thậm chí anh nghĩ, có những lúc chính anh cũng không hiểu nhiều lắm.” Thêm một khoảng lặng ảm đạm nữa. “Trước đây, anh chỉ một lần nhìn thấy ma cà rồng đóng cọc giết lẫn nhau thôi. Eric đã vượt quá giới hạn của giống loài anh rồi.”
    “Vậy thì chưa chắc hắn sẽ quá chú ý đến cái phong tục tập quán và phép xã giao mà anh vừa mới đề cập đến đâu.”
    “Pam có thể giữ hắn tuân theo lề thói cũ.”
    “Cô ta là gì với Eric?”
    “Hắn đã biến đổi cô ta. Nghĩa là hắn đã biến cô ta thành ma cà rồng, hàng thế kỷ trước. Cô ta quay lại bên hắn hết lần này đến lần khác, giúp đỡ bất kể việc gì hắn đang làm vào thời điểm đó. Eric luôn là kẻ đểu giả lừa lọc, và càng già hắn càng ngang ngạnh hơn.” Với tôi, gọi Eric là kẻ ngang ngạnh thì có vẻ là nói nhẹ đi quá nhiều rồi.
    “Vậy chẳng phải chúng ta không có lối thoát nào sao?” tôi hỏi.
    Bill có vẻ đang cân nhắc câu trả lời. “Phải,” anh thừa nhận, giọng nhuốm chút nuối tiếc. “Em không thích giao du với ma cà rồng nào khác ngoài anh, nhưng chúng ta không còn sự lựa chọn nào khác.”
    “Vậy còn chuyện Desiree là sao?”
    “Hắn sai người thả cô ta trước cửa nhà anh, hy vọng anh sẽ thấy hài lòng với món quà khá khẩm đó. Nó cũng như một bài kiểm tra sự chung thủy của anh đối với em, để xem anh có uống máu cô ta không. Có thể hắn đã đầu độc máu cô ả bằng cách nào đó, và nó sẽ làm anh yếu đi. Mà cũng có thể anh đã suy luận nhầm lẫn.” Anh nhún vai. “Em nghĩ anh hẹn hò với người khác à?”
    “Phải.” Tôi cảm thấy mặt mình đanh lại, khi nghĩ đến cảnh Bill bước vào cùng cô gái đó.
    “Em không có ở nhà. Anh phải đi tìm em.” Giọng anh không có vẻ buộc tội, nhưng cũng chẳng hề vui vẻ.
    “Em đang cố giúp Jason bằng cách lắng nghe. Thêm vào đó em vẫn còn hơi khó chịu chuyện hôm trước.”
    “Bây giờ thì chúng ta ổn cả rồi chứ?”
    “Chưa đâu, nhưng ít ra cũng là ổn hết mức rồi,” tôi đáp. “Có lẽ cho dù em để tâm đến người nào đi chăng nữa thì chuyện cũng chẳng bao giờ suôn sẻ cả. Nhưng em chẳng bao giờ ngờ được những trở ngại lại dữ dội đến mức này. Không có cách nào để anh vượt lên cấp cao hơn Eric, phải không, vì tuổi tác là tiêu chuẩn?”
    “Không,” Bill đáp. “Không vượt lên cấp cao hơn...” Và đột nhiên trông anh có vẻ trầm ngâm. “Tuy nhiên có lẽ anh có thể làm được điều gì đó dựa theo các quy tắc ấy. Anh không muốn vậy - nó đi ngược lại bản tính của anh - nhưng chúng ta sẽ được an toàn hơn.”
    Tôi để anh suy nghĩ.
    “Được,” anh kết luận, kết thúc quá trình nghiền ngẫm của mình. Anh không giải thích gì cả, và tôi cũng chẳng hỏi.
    “Anh yêu em,” anh nói, như thể đó là điểm mấu chốt cho kế hoạch mà anh đang cân nhắc. Khuôn mặt anh hiện ra trên đầu tôi, tỏa sáng và đẹp đẽ trong cảnh tranh tối tranh sáng.
    “Em cũng vậy,” tôi đáp, rồi đặt tay lên ngực anh để anh khỏi quyến rũ mình. “Nhưng hiện giờ, chúng ta gặp quá nhiều khó khăn. Nếu chúng ta thoát khỏi Eric được thì đỡ quá. Thêm vào đó, chúng ta phải chấm dứt được cuộc điều tra án mạng này. Đó sẽ là gánh nặng lớn thứ hai được cất khỏi lưng chúng ta. Kẻ sát nhân này đã gây ra cái chết của bạn anh, của Maudette và Dawn.” Tôi dừng lại một chút, hít thở thật sâu. “Và cả cái chết của bà em nữa.” Tôi cố nuốt nước mắt. Tôi đã thích ứng được với việc thiếu vắng bà mỗi khi tôi về nhà, đã dần quen với việc không nói chuyện, không chia sẻ cả ngày dài của tôi với bà, nhưng thỉnh thoảng, nỗi đau buồn vẫn buốt nhói, làm tôi không thở nổi.
    “Sao em nghĩ tên giết người này cũng chính là kẻ đã thiêu các ma cà rồng ở Monroe?”
    “Em nghĩ chính kẻ sát nhân ấy đã gieo rắc ý nghĩ này, cái tư tưởng trừng phạt này, vào đầu óc đám đàn ông ở quán bar tối đó. Em nghĩ chính tên sát nhân đã đi từ bàn này đến bàn khác, xúi giục mọi người.
    Em đã sống ở đây từ bé đến giờ nhưng chưa bao giờ thấy mọi người xung quanh hành xử theo kiểu đó. Chắc hẳn phải có lý do nào đó.”
    “Hắn kích động họ? Xúi giục họ đốt phá?”
    “Phải.”
    “Việc nghe ngóng tâm trí của em chưa thu được kết quả gì sao?”
    “Chưa,” tôi rầu rĩ thú nhận. “Nhưng như thế không có nghĩa là ngày mai cũng vậy.”
    “Em đúng là người lạc quan, Sookie.”
    “Đúng vậy. Em phải thế thôi.” Tôi vỗ vỗ má anh, thầm nghĩ sự lạc quan của mình đã thay đổi thế nào từ khi có anh trong đời.
    “Em cứ tiếp tục lắng nghe nhé, nếu em nghĩ việc đó có thể có ích,” anh nói. “Bây giờ anh sẽ phải giải quyết một số chuyện khác. Tối mai anh gặp em ở nhà em nhé, được chứ? Có lẽ anh sẽ... thôi, để đến lúc đó giải thích với em vậy.”
    “Được thôi.” Tôi hơi tò mò, nhưng Bill rõ ràng chưa sẵn sàng tiết lộ gì cả.
    Trên đường về nhà, trong lúc bám theo ánh đèn pha xe Bill, tôi thầm nghĩ mấy tuần vừa qua hẳn sẽ còn đáng sợ hơn biết bao nhiêu nếu không tôi không được che chở bởi sự hiện diện của Bill. Trong lúc cẩn thận lái xe trên lối vào nhà, tôi thầm mong Bill sẽ không phải về nhà để gọi vài cuộc điện thoại cần thiết nào đó. Trong một vài tối hiếm hoi chúng tôi không ở cạnh nhau, tất nhiên tôi không nói rằng mình co rúm lại vì sợ hãi, nhưng đúng là tôi rất bồn chồn lo lắng. Ở nhà một mình, tôi dành rất nhiều thời gian đi từ cánh cửa khóa kín này đến cánh cửa khóa kín khác, và tôi vẫn không quen được với cách sống này. Trái tim tôi chùng xuống khi nghĩ về những buổi tối phía trước.
    Trước khi ra khỏi xe, tôi quét mắt khắp sân, lòng mừng thầm vì mình đã nhớ bật đèn bảo vệ trước khi đến quán. Mọi thứ vẫn ở nguyên vị trí. Thường thường Tina sẽ chạy đến khi tôi về, sốt ruột được vào nhà để kiếm ít thức ăn cho mèo, nhưng tối nay, chắc hẳn cô nàng đang bận đi săn trong rừng.
    Tôi lựa chiếc chìa khóa nhà trong chùm chìa khóa của mình. Lao ra khỏi xe để tới cửa ra vào, tôi tra chìa vào ổ và xoay chìa trong một thời gian kỳ lục, rồi tôi vào nhà, sập cửa và khóa lại cẩn thận. Như thế này không gọi là sống, tôi thầm nghĩ, lắc đầu thất thần; và ngay khi tôi vừa nghĩ thế, có thứ gì đập vào cửa đánh sầm một cái. Tôi hét lên trước khi kịp ngăn mình lại.
    Tôi chạy lại chỗ chiếc điện thoại không dây đặt cạnh trường kỷ. Vừa nhấn số Bill, tôi vừa đi quanh phòng để kéo các cửa chớp xuống. Nếu máy bận thì sao? Anh nói anh phải về nhà để gọi điện thoại mà!
    Nhưng tôi gọi được cho anh đúng lúc anh vừa vào trong nhà. Anh gần như hụt hơi khi nhấc ống nghe. “Vâng?” anh hỏi. Giọng anh luôn có vẻ nghi ngờ.
    “Bill,” tôi thở hổn hển, “có ai đó ở ngoài kia!”
    Anh ném ống nghe xuống. Một ma cà rồng hành động.
    Chưa đầy hai phút sau, anh đã đến. Đang liếc nhìn ra ngoài qua tấm rèm mở hé thì tôi thoáng thấy bóng anh từ ngoài rừng bước vào trong sân, di chuyển với tốc độ và sự im lặng mà không con người nào sánh được. Sự nhẹ nhõm khi nhìn thấy anh tràn ngập trong lòng. Trong một thoáng, tôi cảm thấy xấu hổ vì đã gọi điện nhờ Bill giải cứu: Đáng ra tôi phải tự mình giải quyết chứ. Rồi tôi lại nghĩ, Sao nào? Khi một người ta quen biết từng công khai thừa nhận yêu thương ta lại là người không thể bị đánh bại, một người gần như không thể bị giết, một người có sức khỏe siêu phàm, thì tất nhiên đó sẽ là người ta gọi rồi.
    Bill kiểm tra sân và khu rừng, di chuyển một cách nhanh nhẹn, lặng lẽ và cẩn thận. Cuối cùng, anh khẽ khàng bước lên thềm. Anh cúi xuống một thứ gì đó đang nằm trên hiên nhà. Góc nhìn quá khuất, tôi không thể biết đó là cái gì. Khi đứng thẳng lên, anh đã ôm thứ đó trong tay, và vẻ mặt của anh hoàn toàn... không chút cảm xúc.
    Chuyện này thực sự tồi tệ rồi.
    Tôi miễn cưỡng bước tới cửa trước và mở khóa. Tôi đẩy cửa lưới ra.
    Bill đang ôm xác con mèo của tôi. “Tina?” Giọng tôi run run, nhưng tôi cũng không màng nữa. “Nó chết rồi sao?”
    Bill gật đầu, đầu anh giật giật.
    “Cái gì... như thế nào?”
    “Bị bóp cổ, anh nghĩ vậy.”
    Tôi có thể cảm nhận được khuôn mặt mình co rúm lại. Bill phải đứng đó, giữ xác con mèo, trong khi tôi khóc nức nở.
    “Em vẫn chưa trồng cây sồi thường xuân đâu,” tôi nói sau khi đã trấn tĩnh lại được một chút. Giọng tôi vẫn còn run. “Chúng ta có thể chôn nó ở cái hố đó.” Vậy là chúng tôi đi vòng tới sân sau, Bill tội nghiệp ôm xác Tina, cố gắng tỏ ra không hề lo lắng, còn tôi thì cố gắng cầm nước mắt. Bill quỳ xuống, đặt cái cơ thể lông lá nhỏ bé màu đen ấy xuống đáy chiếc hố tôi đào hôm trước. Tôi lấy xẻng và bắt đầu đổ đất vào hố, nhưng khi nhìn thấy những cục đất đầu tiên rơi lên bộ lông của Tina, tôi lại chẳng thể cầm lòng được nữa. Một cách lặng lẽ, Bill lấy chiếc xẻng từ tay tôi. Tôi quay đi, và anh hoàn thành nốt công việc kinh khủng đó.
    “Vào nhà thôi,” anh nói nhẹ nhàng khi mọi việc đã xong xuôi.
    Chúng tôi đi vào nhà, phải đi vòng tới cửa trước vì tôi vẫn chưa mở khóa cửa sau.
    Bill vỗ về tôi, cố gắng an ủi tôi, dù rằng tôi biết anh cũng chẳng yêu quý Tina nhiều lắm. “Chúa phù hộ anh, Bill à,” tôi thì thầm. Tôi siết chặt vòng tay quanh người anh, đột nhiên lo sợ rằng anh cũng sẽ bị tước mất khỏi tôi. Khi cơn nức nở đã dịu xuống thành những tiếng nấc, tôi ngước lên, mong rằng anh không cảm thấy khó chịu với dòng cảm xúc tuôn trào đó.
    Bill đang giận dữ. Anh hướng ánh mắt qua vai tôi, nhìn chăm chăm vào bức tường, đôi mắt anh sáng rực.
    Tôi chưa bao giờ thấy sợ hãi như khi nhìn anh lúc này.
    “Anh tìm thấy gì trong sân à?” tôi hỏi. “Không. Anh thấy vài dấu vết của hắn. Vài dấu chân, mùi rơi rớt. Chẳng thứ gì có thể làm bằng chứng để em trình trước tòa đâu,” anh tiếp tục, đọc được suy nghĩ của tôi.
    “Anh có thể ở lại đây với em cho đến khi anh phải đi... tránh ánh mặt trời không?”
    “Tất nhiên rồi.” Anh nhìn tôi chăm chăm. Tôi dám chắc anh sẽ quyết tâm làm thế, kể cả tôi có đồng ý hay không.
    “Nếu anh cần gọi điện, cứ gọi ở đây. Em không quan tâm đâu.” Ý tôi là nếu chúng được liệt kê trong hóa đơn điện thoại của tôi.
    “Anh có thẻ điện thoại đây rồi,” anh nói, một lần nữa làm tôi ngạc nhiên. Ai mà ngờ được chứ?
    Tôi rửa mặt rồi uống một viên thuốc an thần trước khi tròng bộ đồ ngủ vào người, cảm thấy buồn hơn bất kỳ lúc nào khác kể từ khi bà bị giết, và buồn hơn theo một cách khác. Cái chết của một con vật cưng lẽ đương nhiên làm sao có thể được xếp cùng phạm trù với cái chết của một người thân trong gia đình chứ, tôi tự trách mình, nhưng điều đó có vẻ chẳng làm nỗi đau khổ trong tôi vơi bớt được. Tôi lập luận đủ cách nhưng chẳng nghĩ ra được gì ngoài chuyện mình đã nuôi nấng, chăm sóc, và yêu thương Tina suốt bốn năm qua, và mình sẽ nhớ nó lắm.

  7. #26
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,707
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 11
    Ngày hôm sau, sự căng thẳng của tôi vẫn vô cùng sống động. Khi tôi đến chỗ làm và kể cho Arlene nghe chuyện đã xảy ra, chị ôm tôi thật chặt, mà nói, “Chị muốn giết chết thằng đốn mạt đã gây ra chuyện này cho Tina tội nghiệp!” Chẳng hiểu sao, câu nói của chị làm tôi thấy dễ chịu hơn rất nhiều. Charlsie cũng chia sẻ niềm cảm thông tương tự, tuy nhiên nó liên quan đến cú sốc của tôi nhiều hơn là cái chết đau đớn của con mèo. Sam thì trông có vẻ đằng đằng sát khí.
    Anh ấy nghĩ tôi nên gọi cảnh sát trưởng, hay Andy Beliefleur, và kể cho họ nghe về chuyện đã xảy ra. Cuối cùng, tôi gọi cho Bud Dearborn. “Thường thường những chuyện như thế này luôn xảy ra thành chuỗi,” Bud nhận xét. “Vậy nhưng không có ai khác thông báo thú nuôi của họ mất tích hay bị chết. Ta e rằng đây có thể là chuyện cá nhân, Sookie à. Anh bạn ma cà rồng của cháu có thích mèo không?”
    Tôi nhắm mắt lại và hít thở thật sâu. Tôi đang dùng điện thoại trong văn phòng Sam, và anh đang ngồi sau bàn tính toán đơn đặt hàng rượu tiếp theo.
    “Bill đang ở nhà khi kẻ giết Tina vứt xác nó lên hiên nhà cháu,” tôi nói bình tĩnh hết mức. “Cháu gọi cho anh ấy ngay sau đó, anh ấy trả lời điện thoại.” Sam ngước nhìn với vẻ giễu cợt, và tôi đảo tròn mắt để cho anh biết ý kiến của tôi về những nghi ngờ của ngài cảnh sát trưởng.
    “Và anh ta nói với cháu rằng con mèo bị bóp cổ,” Bud tiếp tục màn thẩm tra chán ngắt.
    “Vâng.”
    “Có sợi dây nào không?”
    “Không ạ. Cháu thậm chí còn không dám nhìn nó.”
    “Vậy cháu làm gì với con mèo đó roi?”
    “Bọn cháu chôn nó.”
    “Đó là ý cháu hay ý của Compton?”
    “Của cháu ạ.” Bọn tôi còn làm gì khác với Tina được nữa chứ?
    “Có lẽ chúng ta cần đào xác con mèo lên. Nếu có cả sợi dây và con mèo, có lẽ chúng ta sẽ biết được phương thức siết cổ có giống như cách tên sát nhân dùng để giết Dawn và Maudette không,” Bud giải thích bằng giọng đều đều.
    “Cháu xin lỗi. Cháu chưa nghĩ đến chuyện đó.”
    “Ồ, nó cũng chẳng phải vấn đề quan trọng. Nếu không có sợi dây.”
    “Vâng ạ, tạm biệt bác.” Tôi dập máy, có lẽ hơi mạnh hơn cần thiết. Chân mày của Sam nhướn lên.
    “Bud là một gã dở hơi,” tôi nói với anh.
    “Bud không phải cảnh sát tồi đâu,” anh khẽ nhận xét. “Chúng ta chưa ai từng gặp vụ giết người nào bệnh hoạn đến vậy.”
    “Anh nói đúng,” tôi thừa nhận sau một lúc. “Em đã không công bằng. Ông ta cứ lải nhải ‘sợi dây sợi dây’ như thể tự hào mình vừa học được một từ mới vậy. Em rất tiếc vì đã nổi nóng với ông ta.”
    “Em đâu cần phải thành người hoàn hảo, Sookie.”
    “Ý anh là em cứ việc hết lần này đến lần khác cáu điên lên và bớt cảm thông độ lượng đi chứ gì? Cảm ơn nhé, ông chủ.” Tôi mỉm cười với anh, cảm nhận được đó là một nụ cười méo xẹo, rồi rời khỏi chỗ tựa ở mép bàn lúc nãy đã ngồi khi gọi điện. Tôi vươn vai. Chỉ đến khi nhận ra Sam đang chăm chú nhìn mình, tôi mới trở nên e dè. “Làm việc tiếp thôi!” Tôi nói vội, rồi sải bước rời khỏi phòng, cố gắng không lắc hông.
    “Tối nay em trông bọn trẻ vài giờ được không?” Arlene hỏi với vẻ hơi ngượng ngùng. Tôi nhớ lại lần trước hai chị em nói đến chuyện trông con hộ chị, và tôi nhớ tôi đã bị tổn thương thế nào trước vẻ miễn cưỡng của chị khi để con mình ở gần một ma cà rồng. Tôi đã không suy nghĩ dựa trên quan điểm của một người mẹ. Và bây giờ, Arlene đang cố xin lỗi tôi.
    “Em rất sẵn lòng.” Tôi đợi xem Arlene có đề cập đến Bill nữa không, nhưng chị không nhắc đến một lời. “Mấy giờ đến mấy giờ ạ?”
    “Ừm, chị và Rene sẽ đi xem phim ở Monroe,” chị nói. “Vậy sáu rưỡi được không?”
    “Được ạ. Bọn trẻ sẽ ăn tối trước đó chứ?”
    “Ừ, chị sẽ cho chúng ăn. Hẳn được gặp dì Sookie chúng sẽ vui lắm.”
    “Em cũng thế.”
    “Cảm ơn em,” Arlene nói. Chị dừng một chút, dường như định nói gì đó, nhưng rồi có vẻ như đã nghĩ lại.
    “Gặp lại em lúc sáu rưỡi nhé.”
    Tôi về nhà khoảng năm giờ, gần như suốt cả quãng đường đều phải phơi mình dưới ánh nắng chói chang như đang nhìn tôi chằm chằm. Tôi thay bộ quần áo lửng màu xanh, chải tóc rồi cặp lại bằng chiếc kẹp dọc. Tôi ăn một chiếc sandwich, bồn chồn ngồi một mình ở bàn bếp. Căn nhà có vẻ quá rộng rãi, quá trống trải, và tôi thấy mừng khi nhìn thấy Rene đánh xe đưa Coby và Lisa đến.
    “Arlene đang gặp rắc rối với một cái móng tay giả của mình,” anh giải thích, có vẻ ngượng ngùng khi phải trình bày lại một vấn đề phụ nữ như vậy. “Còn Coby và Lisa thì rất háo hức được đến đây.” Tôi nhận ra Rene vẫn đang mặc bộ đồ đi làm - bốt thô, dao phết hồ, mũ và đủ thứ khác. Arlene chắc chắn sẽ không đời nào cho phép anh ta đưa mình đi đâu nếu anh ta không gội đầu và thay đồ.
    Coby tám tuổi còn Lisa mới lên năm, và cả hai đứa đu lấy người tôi trong lúc Rene cúi xuống hôn tạm biệt chúng. Sự yêu thương bọn trẻ của Rene để lại trong tôi ấn tượng rất tốt, và tôi mỉm cười tán đồng với anh ta.
    Tôi nắm tay bọn trẻ dẫn vào bếp ăn kem.
    “Bọn anh sẽ về khoảng lúc mười rưỡi, mười một giờ,” anh nói. “Nếu được.” Anh ta đặt tay lên nắm đấm cửa.
    “Chắc chắn rồi,” tôi đồng ý. Tôi định đề nghị giữ bọn trẻ lại qua đêm, như những lần trước, nhưng rồi hình ảnh cái xác mềm oặt của Tina trở lại. Tôi quyết định rằng tối đó bọn trẻ tốt hơn không nên ở lại. Tôi lùa hai đứa vào bếp, và một vài phút sau nghe thấy tiếng chiếc xe bán tải cổ lỗ của Rene chạy ầm ĩ trên lối đi.
    Tôi bế Lisa lên. “Dì có khi chẳng nhấc nổi cháu nữa đâu, cô bé à, xem cháu lớn thế nào rồi này! Và cả Coby nữa, cháu phải dùng đến dao cạo râu chưa đấy?” Chúng tôi ngồi quanh bàn bếp tận hưởng ba mươi phút dễ chịu khi bọn trẻ vừa ăn kem vừa ba hoa chích chòe về một lố thành tích chúng đạt được kể từ lần cuối mấy cô cháu gặp nhau.
    Sau đó Lisa muốn đọc sách cho tôi nghe, vậy nên tôi liền lấy cho cô bé cuốn sách tô màu in những chữ cái sặc sỡ, và cô bé tự hào đọc cho tôi nghe. Coby, tất nhiên, phải chứng tỏ mình đọc thạo hơn nhiều, và sau đó chúng đòi xem chương trình ti vi yêu thích. Trước khi tôi kịp nhận ra, màn đêm đã buông xuống tự bao giờ.
    “Bạn của dì tối nay sẽ đến chơi,” tôi nói với bọn trẻ. “Tên chú ấy là Bill.”
    “Mẹ có kể rằng dì có một người bạn đặc biệt,” Coby nói. “Cháu sẽ thích chú ấy. Chú ấy phải đối xử tốt với dì.”
    “Ôi, chú ấy tốt với dì lắm,” tôi trấn an Coby, thằng bé đang ưỡn ngực ra, sẵn sàng bảo vệ tôi nếu người bạn đặc biệt kia không đủ tốt với tôi theo nhận định của thằng bé.
    “Chú ấy có tặng hoa dì không?” Lisa hỏi với vẻ mơ màng.
    “Không, vẫn chưa. Cháu có thể gợi ý cho chú ấy biết dì thích hoa không?”
    “Ôiiiiii. Được chứ, cháu làm được thế mà.”
    “Chú ấy đã hỏi cưới dì chưa?”
    “Ồ, chưa. Nhưng dì cũng chưa hỏi chú ấy.”
    Đúng lúc đó, Bill gõ cửa.
    “Em có khách đấy,” tôi mỉm cười nói khi ra mở cửa cho anh.
    “Anh nghe thấy tiếng rồi,” anh đáp. Tôi nắm tay anh dẫn vào trong bếp. “Bill à, đây là Coby, còn thiếu nữ xinh đẹp đây là Lisa,” tôi giới thiệu với vẻ trang trọng.
    “Tuyệt quá, chú mong gặp hai đứa từ lâu rồi,” Bill nói, trước sự ngạc nhiên của tôi. “Chú ở đây chơi với dì Sookie của các cháu được chứ, Lisa, Coby?”
    Bọn trẻ nhìn anh cân nhắc. “Thật ra dì ấy không phải dì của bọn cháu,” Coby nói, vẻ thăm dò. “Dì ấy là bạn thân của mẹ cháu.”
    “Đúng vậy à?”
    “Vâng ạ, và dì nói chú chẳng bao giờ gửi tặng hoa cho dì cả,” Lisa nói. Lần này, giọng cô bé vang lên trong vắt như pha lê. Tôi vui mừng nhận thấy cô bé đã sửa được cái tật líu ríu của mình.
    Bill liếc sang tôi. Tôi nhún vai.
    “Chúng hỏi em mà,” tôi đáp với vẻ bất lực.
    “Hừm,” anh nói với vẻ đắn đo. “Có lẽ chú phải sửa sai thôi, Lisa. Cảm ơn cháu đã nhắc nhở nhé. Cháu có biết khi nào là sinh nhật dì Sookie không?”
    Tôi cảm thấy mặt mình nóng bừng. “Bill,” tôi cao giọng. “Thôi đi.”
    “Cháu có nhớ không, Coby?” Bill hỏi thằng bé.
    Coby lắc đầu với vẻ tiếc nuối. “Nhưng cháu biết đó là vào mùa hè vì lần trước khi mẹ đưa dì Sookie đến Shreveport ăn trưa để mừng sinh nhật cho dì ấy, hôm đó là giữa hè. Chúng cháu ở cùng chú Rene.”
    “Cháu nhớ được thế là thông minh lắm đấy, Coby,” Bill nói với thằng bé. “Cháu còn thông minh hơn ấy chứ! Chú thử đoán xem cháu đã học được gì ở trường hôm nọ nào.” Và Coby bắt đầu thao thao bất tuyệt. Suốt thời gian Coby nói, Lisa chăm chú quan sát Bill, và khi Coby ngừng lại, con bé nhận xét, “Trông chú trắng quá, chú Bill.”
    “Ừ,” anh đáp. “Đó là nước da bình thường của chú đấy.”
    Bọn trẻ liếc nhìn nhau. Tôi dám chắc chúng đã kết luận rằng “nước da bình thường” đó là một căn bệnh, và chúng quá lịch sự nên không hỏi thêm gì cả. Đôi khi, trẻ con chứng tỏ chúng rất lịch thiệp.
    Lúc đầu Bill hơi thiếu tự nhiên, nhưng càng lúc anh càng tỏ ra thoải mái hơn. Tôi sẵn sàng thừa nhận rằng đến chín giờ thì mình đã mệt lử, nhưng anh vẫn hăng hái chơi cùng bọn trẻ cho đến tận khi Arlene và Rene đến đón chúng lúc mười một giờ.
    Tôi giới thiệu hai người với Bill, và họ vừa bắt tay nhau một cách hoàn toàn bình thường thì một vị khách nữa xuất hiện.
    Một ma cà rồng đẹp trai với mái tóc đen dày bồng bềnh sải bước ra từ phía bìa rừng đúng lúc Arlene lùa bọn trẻ vào trong xe còn Bill và Rene đang trò chuyện. Bill vẫy tay chào gã ma cà rồng đó, và anh ta cũng vẫy lại, rồi sau đó nhập hội với Bill và Rene như thể anh ta đã được chờ đón vậy.
    Từ chiếc xích đu trước hiên nhà, tôi quan sát Bill giới thiệu hai người, rồi tay ma cà rồng và Rene bắt tay nhau. Rene há hốc miệng ngạc nhiên nhìn vị khách mới, và tôi có thể đoán chắc anh ta đã nhận ra ma cà rồng này.
    Bill liếc nhìn Rene đầy ẩn ý và lắc đầu, vậy là Rene không bình luận gì hết.
    Vị khách vừa đến khá vạm vỡ, cao hơn Bill, anh ta mặc quần bò cũ cùng áo phông “Tôi đã đến Graceland”.
    Đôi bốt thô của anh ta đã sờn gót. Anh ta cầm một chai máu nhân tạo có ống hút, và thỉnh thoảng anh ta lại chiêu một ngụm. Ngài Kỹ năng Giao tiếp.
    Có lẽ tôi đã được đánh động bởi thái độ của Rene, nhưng càng nhìn tay ma cà rồng đó, cảm giác quen thuộc càng rõ hơn. Tôi cố gắng tưởng tượng ra anh ta với màu da ấm áp hơn, thêm một vài nếp nhăn, để anh ta đứng thẳng hơn và thổi một chút sức sống vào gương mặt đó.
    Ôi Chúa ơi.
    Đó chính là gã ở Memphis.
    Rene quay người rời gót, còn Bill bắt đầu dẫn vị khách mới hướng về phía tôi. Khi còn cách khoảng mười bước chân, tay ma cà rồng hỏi to, “Này, Bill vừa kể rằng có kẻ đã giết con mèo của cô!” Giọng hắn đặc sệt chất miền Nam.
    Bill nhắm mắt lại trong một giây, còn tôi chỉ gật đầu chẳng nói gì.
    “Tôi thật sự lấy làm tiếc. Tôi thích mèo lắm,” tay ma cà rồng cao ráo nói, và tôi nhận ra rất rõ rằng ý anh ta không phải là thích vuốt ve mèo. Tôi mong rằng bọn trẻ không nghe được câu nói đó, nhưng gương mặt lộ rõ vẻ kinh tởm của Arlene đã hiện ra ở cửa sổ xe. Toàn bộ thiện chí mà Bill đã tạo dựng từ trước đến giờ có lẽ coi như đổ xuống sông xuống bể cả. Rene lắc đầu sau lưng tay ma cà rồng, rồi trèo vào ghế lái, vẫy tay tạm biệt trong lúc khởi động máy. Anh ta thò đầu ra ngoài cửa sổ một lúc khá lâu để nhìn lần cuối vị khách mới đến. Hẳn Rene đã nói gì đó với Arlene vì chị cũng thò đầu ra ngoài cửa sổ, nhìn chăm chăm về phía chúng tôi. Tôi thấy chị ngạc nhiên đến độ há hốc cả miệng khi nhìn kỹ hơn người đứng cạnh Bill. Rồi đầu chị biến mất vào trong xe, và tôi nghe thấy một tiếng rít chói tai khi chiếc xe lăn bánh.
    “Sookie,” Bill nói bằng giọng cảnh báo, “đây là Bubba[3].”
    “Bubba,”tôi lặp lại, không tin tưởng lắm vào những gì mình vừa nghe được.
    “Phải, Bubba,” tay ma cà rồng đáp lại vui vẻ, sự thân thiện tỏa rạng từ nụ cười rụt rè đó. “Đó chính là thằng này. Rất vui được gặp cô.”
    Tôi bắt tay anh ta, cố mỉm cười đáp lại. Chúa ơi, tôi chẳng bao giờ có thể ngờ được rằng một ngày nào đó mình sẽ được bắt tay với anh ấy. Nhưng chắc chắn anh ta đã thay đổi theo chiều hướng tồi tệ hơn.
    “Anh đợi tôi ngoài hiên này một lát được không, Bubba? Để tôi giải thích với Sookie sự sắp xếp của chúng ta đã.”
    “Thế cũng được,” Bubba đáp lại bằng giọng thản nhiên. Rồi anh ta ngồi xuống chiếc xích đu, vô cùng vui vẻ và vô tư lự.
    Chúng tôi bước vào phòng khách, nhưng trước đó, tôi đã để ý thấy từ lúc Bubba xuất hiện, hầu như mọi âm thanh của ban đêm - tiếng sâu bọ, ếch nhái - đều đã im bặt. “Anh đã hy vọng có thể giải thích mọi chuyện cho em trước khi Bubba đến đây,”
    Bill thì thầm. “Nhưng không được.” Tôi hỏi lại, “Đó có phải là người mà em nghĩ không?”
    “Phải. Vậy nên bây giờ em đã biết rằng ít nhất có một vài câu chuyện đồn thổi là hoàn toàn có thật. Nhưng đừng gọi anh ta bằng tên cũ. Cứ gọi là Bubba thôi! Đã có chuyện không ổn khi anh ta chuyển hóa - từ người thành ma cà rồng - có lẽ là do những thứ hóa chất trong máu anh ấy.”
    “Nhưng anh ta chết thật rồi, phải không?”
    “Cũng... không hẳn. Trong bọn anh có một ma cà rồng làm quản lý nhà xác, đồng thời cũng là một người hâm mộ cuồng nhiệt của Bubba, và hắn có thể nhận ra chút ít sự sống còn lại, nên đã biến đổi anh ta, một cách hơi hấp tấp.”
    “Biến đổi ư?”
    “Biến anh ta thành ma cà rồng,” Bill giải thích. “Nhưng làm thế là sai lầm. Theo như bạn anh kể lại thì anh ta chẳng bao giờ bình thường được. Anh ta cứ đụt đụt như vậy nên phải kiếm sống bằng cách làm việc vặt cho bọn anh. Bọn anh không thể để anh ta ra trước bàn dân thiên hạ được, em hiểu tại sao mà.”
    Tôi gật đầu, miệng vẫn há hốc. Tất nhiên là không rồi. “Chúa ơi,” tôi lẩm bẩm, choáng váng sững sờ trước con người vĩ đại đang đứng trong sân nhà mình.
    “Em hãy nhớ rằng anh ta ngu ngốc đến thế nào, bốc đồng đến thế nào... nên đừng ở một mình với anh ta, và cũng đừng gọi anh ta bằng bất kỳ cái tên nào khác ngoài Bubba. Thêm vào đó, anh ta thích thú nuôi, như anh ta nói với em đấy, và việc kiêng khem máu cũng không biến anh ta thành kẻ đáng tin hơn chút nào đâu. Nào, về lý do anh mang anh ta đến đây...” Tôi đứng khoanh tay trước ngực, háo hức chờ đợi sự giải thích của BNI.
    “Cưng à, anh phải ra đi khỏi đây một thời gian,” Bill nói.
    Sự bất ngờ làm tôi hoàn toàn chưng hửng.
    “Cái gì... tại sao chứ? Không, đợi đã. Em không muốn biết.” Tôi xua xua tay trước mặt, tỏ rõ anh không cần phải giải thích công việc riêng của anh cho tôi nghe.
    “Khi nào về anh sẽ kể cho em nghe,” anh nói vẻ kiên quyết.
    “Vậy tay bạn anh - Bubba - thì liên quan gì?” Tuy nhiên tôi có một cảm giác khó chịu là mình biết thừa câu trả lời rồi.
    “Bubba sẽ bảo vệ em khi anh đi vắng,” Bill nói một cách thiếu tự nhiên.
    Tôi nhướn mày lên.
    “Được rồi. Anh ta không phải người đáng tin cậy trong...” Anh cố tìm từ. “...bất kỳ trường hợp nào,” cuối cùng anh thừa nhận. “Nhưng anh ta khỏe mạnh, sẵn sàng làm bất kỳ điều gì anh bảo, và anh ta sẽ đảm bảo rằng không ai có thể đột nhập vào nhà em được.”
    “Anh ta sẽ ở ngoài rừng chứ?”
    “Ồ, tất nhiên rồi,” Bill quả quyết. “Anh ta thậm chí còn không được lại gần nói chuyện với em. Buổi tối, anh ta chỉ việc tìm chỗ nào đó tiện quan sát ngôi nhà rồi canh gác đến hết đêm.” Tôi sẽ phải nhớ kéo hết rèm cửa vào. Chẳng có gì thú vị khi nghĩ đến chuyện có một ma cà rồng ngu độn đang nhòm vào cửa sổ nhà mình. “Anh thực sự nghĩ chuyện này là cần thiết?” tôi hỏi với vẻ bất lực. “Em không nhớ là anh đã hỏi ý kiến em đấy.”
    Bill thở hổn hển, đây là kiểu hít thở sâu của riêng anh. “Cưng à,” anh bắt đầu bằng giọng kiên nhẫn quá độ, “Anh đang cố hết sức để làm quen với cách đối xử mà các thiếu nữ ngày nay mong muốn. Nhưng chuyện này trái với bản tính của anh, đặc biệt là khi anh sợ em gặp nguy hiểm. Anh đang cố hết sức để có thể thanh thản đi lo mọi chuyện. Ước gì anh không phải đi, và đây cũng chẳng phải chuyện anh muốn, chỉ có điều anh buộc phải làm vậy, vì hai ta.”
    Tôi nhìn vào mắt anh, “Em hiểu rồi,” cuối cùng tôi nói. “Em không thấy chuyện này có gì to tát, nhưng vào ban đêm em sẽ sợ, và em nghĩ... thôi được rồi.”
    Thành thật mà nói, tôi không nghĩ chuyện mình đồng ý hay không lại có thể thay đổi được gì. Xét cho cùng, làm sao tôi có thể bắt Bubba bỏ đi nếu anh ta không muốn cơ chứ? Ngay cả những nhân viên thực thi luật pháp trong cái thị trấn bé nhỏ này cũng không có đủ phương tiện để đương đầu với ma cà rồng, và nếu phải đối mặt với tay ma cà rồng này thì chắc hẳn họ sẽ há hốc miệng ra mà đứng chết trân ở đó lâu đến mức anh ta thừa sức xé tan xác tất cả ra rồi. Tôi vô cùng cảm kích vì sự quan tâm Bill giành cho mình, và tôi biết mình phải bày tỏ thái độ hợp lẽ. Tôi khẽ ôm anh.
    “Thôi được, nếu bắt buộc phải đi thì anh nhớ phải cẩn thận nhé,” tôi nói, cố không để lộ sự đau khổ. “Anh có chỗ ở rồi chứ?”
    “Rồi. Anh sẽ đến New Orleans. Có một phòng trống ở khách sạn Máu Trong Phố.”
    Tôi đã từng đọc một bài báo về khách sạn này, nơi đầu tiên trên thế giới phục vụ riêng cho ma cà rồng. Khách sạn đã cam đoan đảm bảo an ninh tuyệt đối cho khách khứa, và tính cho đến nay thì nó đã thực hiện được lời hứa đó. Nơi này nằm ngay giữa Phố Pháp. Và khi bóng tối buông xuống, khu vực này đầy nhóc nhân tình răng nanh và du khách đang ngóng chờ sự xuất hiện của các ma cà rồng.
    Tôi bắt đầu cảm thấy ghen tị. Cố không tỏ ra như một chú cún u sầu bị chủ bỏ lại nhà, tôi cố nhoẻn miệng cười. “Anh đi vui nhé,” tôi vui vẻ nói. “Anh sắp xếp hành lý rồi chứ? Đi đến đó cũng mất vài giờ đấy, mà trời đã tối rồi.”
    “Xe sẵn sàng rồi.” Đến giờ tôi mới nhận ra chuyến đi của anh đã bị trì hoãn để anh có thời gian bên tôi và bọn trẻ con Arlene. “Anh nên đi thôi.” Anh trù trừ, có vẻ như cố tìm từ phù hợp. Rồi anh chìa tay ra trước mặt tôi. Tôi nắm hai bàn tay anh, và anh khẽ kéo tôi lại gần. Tôi lao vào vòng tay của anh. Tôi dụi mặt mình vào áo anh. Vòng tay tôi cuốn quanh anh, áp anh lại gần.
    “Anh sẽ nhớ em lắm,” anh nói. Giọng anh khẽ như hơi thở, nhưng tôi vẫn nghe rõ. Tôi cảm nhận nụ hôn của anh trên trán, rồi anh lùi lại, đi ra khỏi cửa trước. Tôi nghe thấy tiếng anh ở trước hiên nhà khi anh căn dặn Bubba những lời cuối cùng, rồi tôi nghe tiếng xích đu cọt kẹt khi Bubba đứng dậy.
    Tôi không nhìn ra ngoài cửa sổ cho đến khi nghe thấy tiếng xe Bill chạy trên đường. Rồi tôi thấy Bubba đi thong dong vào rừng. Đứng tắm dưới vòi hoa sen, tôi tự nhủ rằng chắc hẳn Bill rất tin tưởng Bubba nên mới giao cho anh ta trách nhiệm canh gác cho tôi. Nhưng tôi vẫn không biết mình sợ ai hơn: kẻ sát nhân mà Bubba đang canh chừng hay chính tay Bubba đó.
    HÔM SAU, lúc ở quán, Arlene hỏi tôi lý do tay ma cà rồng đó đến nhà tôi. Tôi chẳng bất ngờ trước sự tò mò của chị.
    “Ừm, Bill có việc phải rời thị trấn, và anh ấy lo lắng, chị biết mà...” Tôi hy vọng mình có thể dừng ở đây. Nhưng Charlsie đã trờ tới (tất cả chúng tôi đều không bận rộn lắm: Phòng Thương mại đang tổ chức ăn trưa kèm tọa đàm ở quán Fins and Hooves, trong khi nhóm Những Củ Khoai Tây Và Lời Nguyện Cầu Của Các Quý Bà thì đang tập trung nướng bánh khoai tây ở căn nhà cổ rộng thênh thang của bà Bellefleur) “Ý em là,” Charlsie tròn mắt, “bạn trai em sắp xếp cả một vệ sĩ riêng cho em?”
    Tôi miễn cưỡng gật đầu. Hiểu như thế cũng chẳng sao.
    “Thật lãng mạn quá,” Charlsie thở dài.
    Hiểu như thế lại càng chẳng sao hết. “Nhưng đáng ra chị phải thấy anh ta,” Arlene nói với Charlsie, sau khi đã phải hết sức giữ mồm giữ miệng rồi. “Anh ta trông hệt như...!”
    “Ôi, không, nói chuyện với anh ta rồi thì chị không còn thấy giống nữa đâu,” tôi xen vào. “Chẳng giống chút nào luôn.” Đó đúng là sự thật. “Và anh ta thực sự không thích bị gọi bằng cái tên đó.”
    “Ôi,” Arlene thì thầm, cứ như thể Bubba có thể nghe được giữa ban ngày ban mặt vậy.
    “Em cảm thấy an toàn hơn khi có Bubba ở trong rừng,” tôi nói, ít nhiều cũng đúng sự thực.
    “Ồ, anh ta không ở trong nhà sao?” Charlsie hỏi, rõ ràng hơi thất vọng. “Chúa ơi, không!” tôi nói, thầm xin lỗi Chúa vì đã nhắc tên ngài một cách vô ích. Dạo này tôi hay làm thế lắm. “Không, ban đêm Bubba sẽ ở trong rừng, canh chừng ngôi nhà.”
    “Chuyện về những con mèo là thật à?” Arlene lộ vẻ ghê tởm.
    “Anh ta chỉ đùa thôi. Không phải là người hài hước lắm hả?” Tôi nói dối ngọt xớt. Tôi thực sự tin rằng thức uống khoái khẩu của Bubba là máu mèo.
    Arlene lắc lắc đầu với vẻ không tin. Đã đến lúc đổi chủ đề rồi. “Chị và Rene đi chơi vui vẻ chứ?” tôi hỏi.
    “Tối qua Rene tuyệt lắm, phải không?” chị hỏi, má ửng hồng.
    Một phụ nữ mấy đời chồng đang e thẹn. “Chị kể em nghe xem nào.” Arlene thích những trò đùa hơi tục tĩu một chút.
    “Ôi cái cô này! Ý chị là, anh ấy đã rất lịch sự với Bill và kể cả với Bubba nữa.”
    “Tại sao anh ấy lại không thế chứ?”
    “Anh ấy vốn không ưa ma cà rồng, Sookie.” Arlene lắc đầu. “Chị biết chị cũng thế,” chị thú nhận khi thấy đôi chân mày của tôi nhướng lên. “Nhưng Rene quả thật có vài định kiến. Lúc trước, Cindy từng có thời gian hẹn hò với một gã ma cà rồng, chuyện đó làm Rene lo lắng kinh khủng.”
    “Cindy vẫn ổn chứ?” Tôi vô cùng quan tâm đến tình hình sức khỏe của người từng hẹn hò với ma cà rồng. “Chị chưa gặp cô bé,” Arlene thừa nhận, “nhưng Rene đến thăm nó hàng tuần. Nó vẫn ổn, giờ thì bình thường cả rồi. Cô bé được nhận vào làm ở căn tin trong bệnh viện.”
    Sam đang đứng phía sau quầy để cất máu nhân tạo đóng chai vào tủ lạnh bèn xen vào, “Biết đâu Cindy lại muốn quay về nhà. Lindsey Krause vừa xin nghỉ để chuyển đến Little Rock đấy.”
    Chuyện này chắc chắn là tâm điểm chú ý của chúng tôi. Merlotte đang trở nên thiếu thốn nhân viên trầm trọng. Vì một lý do nào đó, trong vài tháng vừa qua, công việc phục vụ không đòi hỏi nhiều kỹ năng đã không còn thu hút mọi người nữa. “Anh đã phỏng vấn ai khác chưa?” Arlene hỏi.
    “Anh phải xem hồ sơ đã,” Sam mệt mỏi đáp. Tôi biết trong số các hầu bàn, phục vụ bàn, người chạy bàn (hay bất cứ cái tên nào khác mà bạn muốn gọi) chỉ có tôi và Arlene được Sam gắn bó quá hai năm. Không, cũng không hẳn thế, còn Susanne Mitchell làm lệch ca với chúng tôi nữa. Sam đã dành rất nhiều thời gian cho công việc thuê, và thỉnh thoảng là sa thải, nhân viên. “Em ngó qua đống hồ sơ hộ anh được không, Sookie, xem thử liệu có ai em quen đã chuyển đi, hay đã có việc làm rồi, hoặc giới thiệu giúp anh một người phù hợp được không? Như thế sẽ tiết kiệm thời gian cho anh được phần nào đấy.”
    “Không vấn đề gì,” tôi nói. Tôi nhớ hai năm trước Arlene cũng làm chuyện tương tự khi Sam thuê Dawn. Chúng tôi có mối quan hệ xã hội rộng hơn Sam, anh có vẻ như chẳng bao giờ tham gia vào bất cứ cái gì. Sam đã ở Bon Temps được sáu năm, và tôi chưa từng gặp ai có vẻ biết về cuộc đời của Sam trước khi anh mua lại quán bar ở thị trấn này.
    Tôi ngồi xuống bàn Sam bên đống hồ sơ dày cộp. Sau vài phút, tôi có thể nói mình đã làm nên chuyện. Tôi sắp xếp hồ sơ thành ba chồng: người đã chuyển đi, đã có việc làm ở nơi khác, và những người phù hợp. Rồi tôi thêm vào đó chồng thứ tư và thứ năm: những người tôi không thể làm việc cùng vì không thể chịu nổi họ, và những người đã chết. Hồ sơ đầu tiên ở chồng thứ năm là của một cô gái chết vì tai nạn ô tô Giáng sinh năm ngoái, và một lần nữa, khi nhìn thấy cái tên ghi trên đầu hồ sơ, tôi lại cảm thấy tiếc thương cho gia đình cô. Một ứng viên khác có tên là “Maudette Pickens”.
    Maudette đã xin việc ở chỗ Sam ba tháng trước khi chết. Tôi đoán công việc ở Grabbit Kwik không mấy sáng sủa. Khi liếc qua những ô trống đã được điền, và để ý đến nét chữ viết tay cùng lỗi chính tả của Maudette tội nghiệp, tôi lại cảm thấy ngập tràn thương cảm. Tôi cố tưởng tượng ra lối tư duy của Jason cho rằng ngủ với cô nàng này - lại còn quay phim nữa chứ - là một cách tiêu tốn thời gian đáng đồng tiền bát gạo, và tôi lấy làm ngạc nhiên trước tâm tính kỳ lạ của ông anh trai mình. Kể từ hôm Jason đưa cô nàng Desiree đó về, tôi vẫn chưa gặp lại anh. Tôi mong anh về nhà được bình yên vô sự. Cô nàng đó cũng chẳng phải tay vừa đâu. Giá mà Jason chịu yên ổn với Liz Barrett: nàng ta đủ sức chịu ông anh tôi mà.
    Dạo gần đây cứ mỗi lần nghĩ về Jason là một lần tôi lại thấy lo. Giá như anh ấy không thân thiết với Dawn và Maudette đến thế! Có vẻ như rất nhiều gã trong vùng này biết cả hai, biết sơ sơ cũng có mà quan hệ tình dục với nhau rồi cũng có. Cả Dawn và Maudette đều đã bị ma cà rồng cắn. Dawn thích bạo dâm, còn Maudette thì tôi không rõ lắm. Đàn ông trong vùng không thiếu người mua xăng hay uống cà phê ở Grabbit Kwik, và cũng rất nhiều gã đến đây uống rượu. Nhưng chỉ có mỗi ông anh ngu ngốc của tôi là đi quay phim những cảnh giường chiếu nóng bỏng của mình với Maudette và Dawn.
    Tôi nhìn chăm chăm vào chiếc cốc nhựa to đùng đựng trà đá trên bàn Sam. Dòng chữ “Big Kwencher của Grabbit Kwik” màu cam sáng chạy ngang thân cốc xanh. Sam cũng biết cả hai cô gái. Dawn từng làm việc trong quán, còn Maudette thì đã có lần xin việc ở đây.
    Sam chắc chắn không thích tôi hẹn hò với ma cà rồng. Có thể anh chẳng thích bất kỳ ai hẹn hò với ma cà rồng.
    Đúng lúc đó Sam bước vào, và tôi nhảy dựng lên như vừa làm chuyện gì xấu vậy. Mà đúng thế thật. Nghĩ xấu về bạn mình cũng là một hành động tồi tệ rồi.
    “Chồng hồ sơ nào có vẻ ổn đây?” anh hỏi, nhưng nhìn tôi với vẻ bối rối. Tôi đưa anh một chồng mỏng gồm khoảng mười bộ hồ sơ. “Cô này, Amy Burley,” tôi nói, chỉ vào bộ hồ sơ trên cùng, “có kinh nghiệm, mới chỉ làm nhân viên thay thế ở quán Phút Giây Hạnh Phúc, và từng có thời làm cùng với Charlsie ở đó. Anh có thể hỏi qua ý kiến của Charlsie trước.”
    “Cảm ơn em, Sookie. Thứ này giúp được anh khối chuyện đấy.”
    Tôi gật đầu cụt lủn để đáp lại.
    “Em ổn chứ?” anh hỏi. “Trông em hôm nay có vẻ xa cách lắm.”
    Tôi nhìn anh chăm chú. Anh trông vẫn y hệt như bình thường. Nhưng tâm trí anh hoàn toàn khép kín đối với tôi. Làm sao anh làm vậy được? Tâm trí duy nhất hoàn toàn đóng lại trước tôi là của Bill, vì anh là ma cà rồng. Nhưng Sam chắc chắn không thuộc giống loài ấy.
    “Chỉ vì em nhớ Bill thôi,” tôi đáp thận trọng. Liệu anh có lên giọng giáo huấn về những tai họa khi hẹn hò với ma cà rồng không?
    Sam đáp, “Ban ngày mà. Làm sao anh ta bình an đến đây được.”
    “Tất nhiên là không rồi,” tôi nói cứng nhắc, định thêm vào, “anh ấy đã rời thị trấn.” Nhưng rồi tôi tự hỏi liệu đây có phải hành động khôn ngoan không khi trong thâm tâm tôi đã có sẵn một mối nghi ngờ, dù chỉ chút xíu, đối với ông chủ của mình? Tôi rời khỏi văn phòng đột ngột đến nỗi Sam kinh ngạc nhìn theo chăm chăm.
    Một lúc sau, khi tôi thấy Arlene và Sam nói chuyện rất lâu với nhau, ánh mắt liếc ngang liếc dọc của họ đủ cho tôi hiểu mình chính là chủ đề của cuộc nói chuyện. Sam trở lại văn phòng, trông có vẻ lo lắng hơn bao giờ hết. Nhưng từ đó cho đến hết ngày, chúng tôi không chuyện trò với nhau thêm lần nào nữa.
    Trở về nhà tối đó là một việc thật sự khó khăn bởi tôi biết mình sẽ cô đơn cho đến sáng. Vào những buổi tối cô đơn trước đây, tôi vẫn lấy làm an tâm rằng Bill chỉ cách mình có một cú điện thoại thôi. Giờ thì không phải thế. Tôi cố tỏ ra thoải mái với việc được trông chừng khi màn đêm buông xuống, lúc Bubba bò ra khỏi cái hố chết tiệt được anh ta dùng làm chỗ ngủ, nhưng tôi không thể làm vậy được.
    Tôi gọi cho Jason, nhưng anh ấy không có nhà. Tôi gọi đến Merlotte, nghĩ rằng anh ấy có thể ở đó, nhưng Terry Bellefleur trả lời điện thoại và thông báo anh ấy không đến quán. Tôi băn khoăn không biết Sam làm gì tối nay. Tôi băn khoăn không hiểu tại sao anh lại có vẻ ít hẹn hò đến thế. Không phải vì muốn làm cao, tôi đã chứng kiến chuyện này nhiều rồi mà. Dawn quả thật là một cô nàng hung hăng.
    Tối đó, tôi chẳng nghĩ ra được bất cứ điều gì có thể làm mình thoải mái cả.

  8. #27
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,707
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Tôi bắt đầu tự hỏi liệu Bubba có phải tay sát thủ chuyên nghiệp - ma cà rồng sát thủ chuyên nghiệp? - mà Bill đã gọi để giải quyết ông cậu Bartlett không. Tôi băn khoăn không hiểu tại sao Bill lại chọn một kẻ tối dạ như thế để canh gác cho tôi.
    Mọi cuốn sách tôi cầm lên không hiểu sao đều có vẻ không phù hợp. Mọi chương trình ti vi tôi cố xem đều có vẻ hoàn toàn ngớ ngẩn. Tôi cố nhồi tờ tạp chí Times vào đầu, nhưng rồi lại trở nên cáu tiết với quyết tâm tự tử đang ám ảnh người dân rất nhiều nước. Tôi liệng tờ báo sang bên kia phòng.
    Tâm trí tôi sục sạo khắp nơi như một chú sóc đang cố thoát khỏi lồng. Không thể nghĩ ra việc gì cho thông suốt, không thoải mái được trước bất cứ chuyện gì.
    Khi điện thoại reo, tôi lao ngay đến. “Alô?” tôi hỏi gắt lên.
    “Jason ở đây rồi,” giọng Terry Bellefleur vang lên. “Cậu chàng muốn mời em một ly đấy.”
    Tôi khó chịu nghĩ đến chuyện phải ra ngoài lấy xe lúc trời đã tối thế này; lại còn lúc trở về căn nhà trống trải, ít nhất cũng là một căn nhà mà tôi buộc phải hy vọng là trống trải. Rồi tôi thầm mắng mình vì, xét cho cùng, vẫn có người đang trông chừng ngôi nhà, một người cực kỳ khỏe mạnh, nếu không kể đến việc anh ta quá thộn.
    “Được rồi, em sẽ đến ngay,” tôi đáp. Terry dập máy. Ngài Ba Hoa.
    Tôi mặc chiếc váy vải bông kèm áo phông màu vàng, nhìn trước ngó sau chán chê rồi băng qua sân đến chỗ để xe. Vừa vào trong xe, tôi khóa ngay cửa lại.
    Đây chắc chắn không phải một cuộc sống đáng mong chờ.
    ĐẾN MERLOTTE, tôi máy móc đánh xe vào bãi để xe của nhân viên. Có một chú chó đang quanh quẩn cạnh mấy cái thùng rác, và tôi vỗ vỗ lên đầu nó trên đường bước vào. Tuần nào chúng tôi cũng phải một lần gọi cho trung tâm nhốt chó mèo lạc để họ đến mang hết tụi chó hoang đi, sự mắn đẻ của chúng chỉ làm tôi phát bệnh.
    Terry đang đứng sau quầy.
    “Chào anh,” tôi nói, nhìn quanh quất. “Jason đâu rồi?”
    “Anh ta đâu có ở đây đâu,” Terry đáp. “Tối nay anh không gặp anh ta. Anh nói trên điện thoại rồi mà.”
    Tôi há hốc miệng nhìn anh ta.
    “Nhưng sau đó anh đã gọi lại bảo anh ấy vừa đến mà.”
    “Không, anh có làm thế đâu.”
    Chúng tôi nhìn nhau không chớp mắt một lúc. Tôi dám chắc Terry đang có một buổi tối tệ hại. Đầu óc anh ta đang đau đớn vật vã với hình ảnh về những con rắn hồi anh ta tại ngũ, và cuộc vật lộn với rượu và ma túy. Ở bên ngoài, ta có thể thấy anh ta mồ hôi mồ kê nhễ nhại bất chấp điều hòa đang bật, động tác của anh ta thì vụng về lóng ngóng. Terry tội nghiệp. “Anh không gọi thật sao?” tôi hỏi lại lần nữa, cố gắng để giọng bình thường hết mức.
    “Chẳng phải anh đã bảo thế là gì?” Giọng anh ta đã trở nên mất bình tĩnh.
    Tôi mong rằng tối đó sẽ không vị khách nào gây chuyện với Terry.
    Tôi rút lui kèm theo nụ cười cầu hòa. Chú chó vẫn đứng ở cửa sau. Nó rên rỉ khi thấy tôi.
    “Đói hả, anh bạn?” tôi hỏi. Nó đi thẳng đến chỗ tôi thay vì co rúm lại như những con thú lạc khác. Khi con chó di chuyển đến chỗ sáng hơn, tôi nhận ra nó chỉ vừa bị chủ bỏ lại, một kết luận hiển nhiên dựa trên bộ lông bóng mượt của nó. Nó thuộc giống chó Ê cốt, ít nhất là gần như vậy. Tôi định vào trong nhà để hỏi đầu bếp xem có miếng đầu thừa đuôi thẹo nào cho anh bạn này không, nhưng rồi tôi nảy ra một ý tưởng còn tuyệt hơn nhiều.
    “Tao biết anh già xấu bụng Bubba đang ở nhà, nhưng mày có thể vào trong nhà cùng tao,” tôi nói bằng giọng nựng nịu quen dùng với bọn thú những khi chắc mẩm không có ai ở gần. “Mày tè trước ở ngoài nhé, để chúng ta không làm loạn nhà lên? Được chứ, cún ngoan?”
    Cứ như thể hiểu tôi nói gì, con chó Ê cốt hướng thẳng đến cạnh thùng rác. “Ngoan lắm! Lên xe không nào?” Tôi mở cửa xe, thầm mong con chó không dây bẩn lên ghế. Nó chần chừ. “Vào đi, cưng. Tao sẽ cho mày món gì đó ngon lành khi về đến nhà, được không nào?” Hối lộ không phải bao giờ cũng xấu.
    Sau khi nhìn ngó và hít ngửi tay tôi, con chó cuối cùng cũng nhảy lên ghế phụ và ngồi nhìn qua kính chắn gió như thể đã sẵn sàng chấp nhận chuyến phiêu lưu này.
    Tôi khen con chó và gãi gãi tai nó. Bọn tôi khởi hành, và con chó rõ ràng đã quen với việc đi xe lắm rồi.
    “Nghe này anh bạn,” tôi nói với con chó bằng giọng kiên quyết, “khi về đến nhà, chúng ta sẽ đi thẳng đến cửa ra vào, được chứ? Có một gã yêu tinh ở trong rừng chỉ mong được xơi tái mày thôi đấy!”
    Con chó ve vẩy đuôi đáp lại.
    “Ôi, hắn sẽ không có cơ hội nào đâu,” tôi xoa dịu nó. Thật dễ chịu biết bao khi có đối tượng để tôi nói chuyện. Và cũng thật tuyệt biết bao khi kẻ đó không thể đáp lại lời tôi, ít nhất cũng là tạm thời. Và tôi cũng chẳng cần phải giữ rào chắn tâm trí của mình, bởi nó có phải con người đâu. Thư giãn. “Chúng ta phải nhanh lên thôi.”
    “Gâu,” người bạn đồng hành của tôi tán đồng.
    “Tao cũng phải nghĩ cho mày một cái tên gì đó nữa,” tôi nói. “... Buffy thì sao?”
    Con chó gầm gừ.
    “Thôi được. Rover vậy nhé?”
    Rên rỉ.
    “Cũng không thích hả. Hừm” Tôi rẽ vào con đường lái xe vào nhà.
    “Có lẽ mày đã có sẵn tên rồi?” tôi hỏi. “Để tao kiểm tra cổ mày xem nào.” Sau khi tắt máy, tôi lùa ngón tay mình qua lớp lông dày. Cả vòng cổ chống rận cũng không có nữa. “Người ta chăm sóc mày thật tệ, cưng à,” tôi nói. “Nhưng bây giờ thì không thế nữa đâu. Tao sẽ là một bà mẹ tốt.” Nói xong câu đó, tôi lôi sẵn chìa khóa nhà ra rồi mở cửa xe. Nhanh như chớp, con chó lách qua tôi mà đứng ra giữa sân, nhìn quanh với vẻ cảnh giác. Nó hít ngửi không khí, rồi gầm gừ trong cổ họng.
    “Chỉ là một ma cà rồng tốt thôi, cưng, anh ta đang canh chừng ngôi nhà đấy. Mày vào trong đi.” Với vài lời dỗ ngon dỗ ngọt, tôi đã dụ được con chó vào nhà. Tôi khóa cửa lại ngay lập tức.
    Con chó rảo bước quanh phòng khách, hít ngửi săm soi. Sau khi quan sát nó một lúc để chắc chắn nó sẽ không nhai bất cứ thứ gì hay ghếch chân lên, tôi vào bếp kiếm thức ăn cho nó. Tôi đổ nước đầy một bát to. Tôi lôi ra một chiếc bát nhựa bà thường dùng đựng rau salad và đổ nốt chỗ thức ăn cho mèo của Tina vào đó, cộng thêm một ít thịt bánh taco còn thừa. Tôi nghĩ rằng nếu đang đói lả thì bữa ăn như thế đã là chấp nhận được rồi. Con chó cuối cùng cũng đi vào bếp, hướng về hai cái bát. Nó hít ngửi bát thức ăn, rồi ngước lên nhìn tôi một lúc lâu.
    “Tao xin lỗi. Tao chẳng có chút thức ăn cho chó nào cả. Đó là những thứ tốt nhất mà tao có thể tìm được rồi. Nếu mày muốn ở lại đây, tao sẽ mua ít Kibbles ‘N Bist.” Con chó nhìn tôi thêm vài giây nữa, rồi cúi đầu xuống chiếc bát. Nó ăn chút thịt, tợp ngụm nước, rồi lại ngước lên nhìn tôi chờ đợi.
    “Tao gọi mày là Rex được không?” Lại một tiếng gầm gừ nho nhỏ.
    “Vậy Dean thì sao?” tôi hỏi. “Tên Dean hay đấy chứ.” Một anh chàng dễ mến ở hiệu sách Shreveport thường giúp đỡ tôi tên là Dean. Đôi mắt anh ta trông khá giống mắt con chó này, tinh khôn và lanh lợi. Và Dean cũng là một cái tên khá đặc biệt; tôi chưa từng gặp chú cún nào tên Dean. “Tao cá là mày còn thông minh hơn cả Bubba nữa,” tôi trầm ngâm nói, và chú chó đáp lại bằng một tiếng sủa đanh gọn.
    “Được rồi, đi nào Dean, đến giờ đi ngủ rồi,” tôi nói, thích thú khi có kẻ để nói chuyện. Con chó theo tôi vào phòng ngủ, kiểm tra kỹ càng mọi đồ nội thất trong phòng. Tôi cởi váy áo quẳng sang một bên, rồi chui ra khỏi chiếc quần trong và mở móc khóa áo lót. Con chó nhìn tôi không chớp mắt trong khi tôi lôi ra một chiếc đầm ngủ sạch sẽ rồi vào phòng tắm. Khi tôi bước ra, sạch sẽ và nhẹ nhàng, Dean đang ngồi trên ngưỡng cửa, đầu ngả về một bên.
    “Làm thế để cho sạch sẽ, con người thích tắm táp mà,” tôi nói với nó. “Tao biết chó thì không thế. Tao đoán đó chỉ là chuyện của loài người thôi.”
    Tôi đánh răng và tròng bộ đồ ngủ vào người. “Sẵn sàng đi ngủ chưa, Dean?”
    Để trả lời, con chó phóc ngay lên giường, cuộn tròn lại và nằm xuống. “Này! Đợi đã!” Tôi thật sự không thấy hứng thú với chuyện đó. Bà sẽ nộ khí xung thiên nếu biết có một con chó đang nằm trên giường mình. Bà tin rằng các loài thú nuôi thì cũng tốt thôi, miễn là chúng ngủ đêm ở bên ngoài. Người ở trong, thú ở ngoài luôn là quy luật của bà. Thế đấy, giờ thì tôi có một gã ma cà rồng ở ngoài, và một con chó trên giường.
    Tôi nói “Mày xuống ngay đi!” và chỉ vào tấm thảm sàn.
    Con chó chậm rãi và miễn cưỡng nhảy khỏi giường. Vừa ngồi xuống thảm, nó vừa nhìn tôi trách móc. “Mày ở nguyên đó đấy nhé,” tôi nghiêm khắc nói và chui vào chăn. Hôm nay tôi đã quá mệt mỏi rồi, và sự lo lắng đã vơi bớt khi có con chó nằm cạnh, mặc dù tôi chẳng biết mình có thể trông đợi gì ở nó nếu có kẻ đột nhập vào nhà, vì nó chưa đủ thân thiết với tôi để có thể bày tỏ sự trung thành. Nhưng vào lúc này, bất cứ thứ gì xoa dịu được tâm trí tôi đều đáng giá, và tôi bắt đầu thư giãn, chìm dần vào giấc ngủ. Ngay khi vừa thiu thiu, tôi cảm thấy chiếc giường lún xuống bởi sức nặng của con chó.
    Một cái lưỡi nhỏ liếm nhẹ má tôi.
    Con chó nằm xuống cạnh tôi. Tôi quay qua vuốt ve nó. Thật dễ chịu biết bao khi có nó ở đây.
    Tôi mở mắt ra thì trời đã sáng rồi. Tôi có thể nghe rõ tiếng chim líu lo, cảm thấy thật tuyệt khi được cuộn mình trên giường. Tôi cảm nhận được hơi ấm của con chó qua lằn váy ngủ; chắc hẳn ban đêm nóng quá nên tôi đã tung chăn ra. Tôi vỗ vỗ lên đầu con chó, rồi bắt đầu vuốt ve lông nó, những ngón tay uể oải vuốt lớp lông dày. Nó nhích lại gần hơn nữa, ngửi ngửi mặt tôi, vòng tay qua người tôi. Tay ư?
    Tôi bật ra khỏi giường, hét lên một tiếng kinh hoàng.
    Trên giường tôi, Sam đang chống khuỷu tay xuống, ánh nắng nhuộm vàng cơ thể anh, anh nhìn tôi với vẻ thích thú.
    “Ôi, Chúa ơi! Làm sao anh vào đây được, Sam? Anh làm gì ở đây thế? Dean đâu?” Tôi lấy tay che mặt và quay lưng lại, nhưng tất nhiên tôi đã thấy hết những gì không nên thấy của Sam.
    “Gâu,” Sam trả lời bằng giọng của anh, và tôi điếng người nhận ra sự thật.
    Tôi quay lại đối mặt với anh, tức giận đến nỗi sắp nổ tung đến nơi.
    “Tối qua anh đã nhìn em thay đồ... anh... anh... đồ tồi!”
    “Sookie,” anh phân trần. “Nghe anh đã”
    Thêm một suy nghĩ khác lóe lên trong tâm trí tôi. “Ôi, Sam à. Bill sẽ giết anh mất.” Tôi ngồi thụp xuống chiếc ghế lùn ở góc phòng cạnh cửa phòng tắm. Tôi chống khuỳu tay lên đầu gối, gục đầu xuống, “ôi, không,” tôi thốt lên, “Không, không, không.” Anh quỳ trước mặt tôi. Lông ngực anh cũng xoăn xoăn vàng sẫm như mái tóc, kéo thành một đường thẳng xuống... Tôi nhắm mắt lại.
    “Sookie, anh rất lo khi nghe Arlene kể em sẽ phải ở một mình,” Sam bắt đầu.
    “Chị ấy không kể cho anh nghe về Bubba sao?
    “Bubba?”
    “Gã ma cà rồng mà Bill nhờ canh gác ngôi nhà.”
    “Ồ. Có, cô ấy bảo hắn giống một tay ca sĩ nào đó.”
    “Tên anh ta là Bubba. Anh ta thích tiêu khiển bằng cách uống máu động vật.”
    Tôi khá mãn nguyện khi thấy (qua kẽ tay) gương mặt Sam tái xanh lại.
    “Ồ, vậy thì đúng là may mà em cho anh vào nhà,” cuối cùng anh nói.
    Đột nhiên nhớ lại hình hài của anh đêm qua, tôi hỏi, “Anh là gì hả Sam?”
    “Anh là người biến hình. Anh nghĩ đã đến lúc em nên biết rồi.”
    “Anh phải làm điều đó bằng cách này sao?”
    “Thật ra,” anh nói, có vẻ ngượng ngùng, “anh đã định rời khỏi đây trước khi em dậy. Nhưng anh ngủ quên mất. Chạy bằng bốn chân suốt khiến anh mệt nhoài.”
    “Em tưởng người ta chỉ biến thành sói thôi chứ.”
    “Không. Anh có thể biến thành bất cứ thứ gì.”
    Tôi quá hứng thú đến nỗi thả cả hai tay xuống và cố dán mắt vào mặt anh. “Có thường xuyên không?” tôi hỏi. “Anh có được chọn không?”
    “Anh phải đợi đến lúc trăng tròn,” anh giải thích. “Nếu không, anh phải thực sự quyết tâm; sẽ khó hơn và cần nhiều thời gian hơn. Anh sẽ biến thành bất cứ loài động vật nào anh nhìn thấy trước khi biến hình. Nên trên bàn cà phê, anh luôn để một cuốn sách về loài chó mở đúng trang có bức ảnh chó Ê cốt. Loài chó này to lớn nhưng hiền lành.”
    “Vậy anh cũng có thể biến thành chim sao?”
    “Ừ, nhưng bay khó lắm. Anh luôn sợ bị mắc vào đường dây cáp, hay đâm vào cửa sổ.”
    “Tại sao? Tại sao anh lại muốn em biết?”
    “Em có vẻ ứng phó khá tốt chuyện Bill là ma cà rồng. Thật ra em còn có vẻ thích thú nữa. Nên anh muốn xem liệu em có thể ứng phó với... tình trạng của anh không.”
    “Nhưng việc anh như thế này,” tôi cắt ngang, “không thể giải thích bởi vi rút được! Anh hoàn toàn thay đổi kia mà!”
    Anh chẳng nói gì hết. Anh chỉ nhìn tôi, đôi mắt giờ đã chuyển thành màu xanh, nhưng vẫn toát lên vẻ lanh lợi và thông minh.
    “Làm người biến hình là một khả năng siêu nhiên. Nếu như vậy thì những khả năng khác cũng thế. Vậy...” tôi nói chậm rãi và cẩn trọng, “Bill chẳng mắc vi rút gì cả. Thật ra không thể giải thích việc biến thành ma cà rồng bằng chứng dị ứng với bạc, tỏi hay ánh sáng mặt trời... Đó chỉ là những thứ vớ vẩn mà ma cà rồng tuyên truyền, phổ biến... để họ được chấp nhận dễ dàng hơn, như với các bệnh nhân nhiễm phải những căn bệnh khủng khiếp. Nhưng thực sự, họ đã... họ thực sự đã...”
    Tôi lao vào phòng tắm và nôn thốc nôn tháo. May mà tôi nôn vào bồn cầu.
    “Phải,” Sam nói vọng từ cửa vào, giọng buồn buồn. “Anh xin lỗi, Sookie. Nhưng Bill chẳng mắc vi rút nào cả. Anh ấy đã chết, thực sự đã chết rồi.”
    TÔI RỬA MẶT và đánh răng hai lần liền. Tôi ngồi xuống mép giường, cảm thấy quá mệt mỏi không thể tiếp tục câu chuyện này. Sam ngồi cạnh tôi. Anh vòng tay ôm tôi, vỗ về an ủi, và sau một lúc, tôi nhích sát vào người anh hơn, áp má vào vai anh. “Anh biết không, một lần em nghe đài NPR,” tôi nói, hoàn toàn ngẫu nhiên. “Họ phát một chương trình về kỹ thuật làm lạnh, về việc rất nhiều người chỉ muốn ướp lạnh đầu vì như thế rẻ hơn rất nhiều so với ướp lạnh cả cơ thể.”
    “Ừm?”
    “Anh biết họ phát bản nhạc gì khi kết thúc chương trình không?”
    “Bản gì vậy, Sookie?”
    “‘Put Your Head on My Shoulder.’” (Hãy ngả đầu vào vai anh).
    Sam bật ra một âm thanh gần như bị mắc nghẹn, rồi gập người lại mà cười.
    “Nghe này, Sam,” tôi nói khi anh đã bình tĩnh lại. “Em đã nghe những gì anh kể với em, nhưng em vẫn phải làm rõ chuyện này với Bill. Em yêu Bill. Em chung thủy với anh ấy. Và anh ấy lại không có mặt ở đây để bày tỏ quan điểm của mình.”
    “Ôi, không phải anh đang cố cướp em từ tay Bill đâu. Mặc dù làm được vậy thì tuyệt thật.” Và Sam nở nụ cười rạng rỡ hiếm hoi. Anh có vẻ trở nên thoải mái với tôi hơn sau khi tôi đã biết bí mật của anh.
    “Vậy thì mục đích của anh là gì?”
    “Chỉ là muốn giữ em sống sót cho đến khi tên sát nhân bị bắt thôi.”
    “Vậy ra đó là lý do khiến anh thức dậy, khỏa thân trên giường của em? Để bảo vệ em?”
    Anh có vẻ ngượng ngùng. “Thôi được, có lẽ anh nên chuẩn bị kế hoạch chu đáo hơn. Nhưng anh đã nghĩ em cần có ai đó ở bên cạnh, vì Arlene kể với anh là Bill đã rời khỏi thị trấn rồi. Anh biết em sẽ chẳng đời nào cho anh ở lại trong hình thức một con người.”
    “Bây giờ thì anh đã biết Bubba đang trông chừng ngôi nhà rồi, anh yên tâm được rồi chứ?”
    “Ma cà rồng rất khỏe và tàn bạo,”
    Sam thừa nhận. “Anh đoán Bubba nợ Bill thứ gì đó, nếu không còn lâu hắn mới giúp anh ta. Ma cà rồng không tận tâm giúp đỡ nhau đâu. Chúng có rất nhiều hệ thống tổ chức xã hội trong thế giới của mình.”
    Đáng ra phải chú tâm hơn vào lời Sam, nhưng tôi lại đang mải nghĩ đến chuyện tốt nhất là mình không nên giải thích về nguồn gốc của Bubba.
    “Nếu đã có anh và Bill thì em nghĩ chắc hẳn phải có hàng đống sinh vật siêu nhiên khác,” tôi nói, nhận ra có cả một kho báu tri thức đang chờ mình phía trước. Kể từ khi gặp Bill, tôi chưa từng nghĩ phải suy tính đến những vấn đề mang tính hệ thống, nhưng chẳng hại gì nếu chuẩn bị sẵn sàng. “Hôm khác anh sẽ phải kể hết cho em đấy.” Quái vật Big Foot thì sao? Cả quái vật hồ Loch Ness nữa? Tôi vẫn tin rằng quái vật hồ Loch Ness là có thật.
    “Thôi, chắc anh phải về nhà thôi,” Sam nói. Anh nhìn tôi đầy hy vọng. Anh vẫn đang không mặc gì.
    “Phải, em nghĩ anh nên về. Nhưng, không, chết tiệt, anh... Ôi, khỉ thật.” Tôi lao lên trên gác tìm quần áo.
    Hình như Jason vẫn cất vài thứ trong tủ phòng trường hợp khẩn cấp.
    Quả vậy thật, có một chiếc quần bò xanh và áo sơ mi công sở ở phòng ngủ ngay trên gác. Ở trên này nóng quá, vì tầng này nằm ngay dưới mái tôn và trên bộ ổn nhiệt. Tôi quay xuống dưới nhà, nhẹ cả người vì những luồng gió mát mẻ từ điều hòa phả ra.
    “Đây,” tôi nói, đưa cho Sam chỗ quần áo. “Hy vọng anh mặc vừa.” Anh có vẻ muốn nối lại câu chuyện lúc nãy, nhưng bây giờ tôi đã ý thức quá rõ trên người mình chỉ là một bộ váy ngủ mỏng tang, còn anh thì chẳng mặc gì.
    “Anh mặc quần áo vào đi,” tôi nói kiên quyết. “Và ra phòng khách mà mặc.” Tôi đuổi anh ra ngoài rồi đóng sập cửa lại. Tôi nghĩ nếu khóa luôn cửa lại thì xúc phạm anh quá, nên đành thôi. Tôi thay quần áo với tốc độ kỷ lục, mặc bộ đồ lót sạch kèm chiếc váy vải bông và áo sơ mi màu vàng của ngày hôm qua. Tôi phủ thêm một lớp phấn trang điểm, đeo khuyên tai và buộc vổng tóc lên, chồng cái buộc tóc màu vàng ra ngoài sợi dây chun. Tôi cảm thấy phấn chấn hơn khi nhìn bóng mình trong gương. Nhưng nụ cười tắt lịm khi tôi nghe thấy tiếng xe đang chạy vào sân.
    Tôi lao như bay ra khỏi phòng ngủ, mong rằng Sam đã mặc quần áo xong và trốn đâu đó rồi. Anh thậm chí còn làm tốt hơn. Anh đã lại biến thành chó. Quần áo vương vãi trên sàn nhà, tôi liền vơ lấy tống vào tủ quần áo trong hành lang.
    “Giỏi lắm!” Tôi phấn khởi nói và gãi gãi tai chú chó. Dean đáp lại bằng cách dụi chiếc mũi đen lành lạnh vào váy tôi. “Thôi ngay trò đó đi nhé,” tôi nói, rồi liếc mắt ra ngoài cửa sổ phòng. “Andy Bellefleur đấy,” tôi nói với con chó.
    Andy nhảy ra khỏi chiếc Dodge Ram, vươn vai trong vài giây rồi sải bước về phía cửa trước. Tôi mở cửa, Dean đứng bên cạnh.
    Tôi nhìn Andy với vẻ dò hỏi. “Anh trông như đã thức trắng cả đêm qua đấy, Andy. Anh dùng cà phê chứ?” Con chó quẫy đuôi không ngừng bên cạnh tôi.
    “Thế thì tuyệt quá,” hắn ta đáp. “Tôi vào nhà được chứ?”
    “Tất nhiên rồi.” Tôi đứng sang một bên. Dean gầm gừ.
    “Cô có chú chó vệ sĩ được việc thật đấy. Lại đây nào, anh bạn.” Andy ngồi xổm xuống, chìa bàn tay về phía con chó - tôi không sao coi nó là Sam được. Dean hít ngửi bàn tay Andy một lát, nhưng không liếm. Thay vào đó, nó vẫn đứng chắn giữa tôi và Andy.
    “Vào bếp thôi nào,” tôi nói, vậy là Andy đứng dậy đi theo tôi. Tôi cho cà phê vào trong máy pha và nhét vài lát bánh mì trong lò nướng. Mất thêm vài phút để lấy kem, đường, thìa và cốc chén, nhưng rồi tôi vẫn phải tự hỏi tại sao Andy đến đây. Gương mặt hắn ta thật sầu não, trông như già đi gần mười tuổi. Đây rõ ràng không phải chuyến thăm viếng xã giao.
    “Tối qua cô ở nhà à, Sookie? Cô không đi làm à?”
    “Không. Tôi ở đây suốt, chỉ tạt qua Merlotte một lúc thôi.”
    “Bill có ở đây cùng cô lúc nào không?”
    “Không, anh ấy đang ở New Orleans. Anh ấy ở một khách sạn mới mở dành riêng cho ma cà rồng trong Phố Pháp.”
    “Cô chắc chắn anh ta ở đó chứ?”
    “Vâng.” Khuôn mặt tôi đanh lại. Có chuyện không ổn rồi đây.
    “Tôi đã thức trắng cả đêm qua,” Andy nói.
    “Tôi biết.”
    “Tôi vừa từ hiện trường một vụ án mạng nữa về.”
    “Vâng.” Tôi xâm nhập vào tâm trí hắn ta. “Amy Burley à?” Tôi nhìn chăm chăm vào mắt hắn, cố để chắc chắn rằng mình không nhầm. “Amy, người làm việc ở quán Phút Giây Hạnh Phúc?” Cái tên nằm đầu tiên trên chồng hồ sơ những nhân viên triển vọng, cái tên tôi đã đưa cho Sam. Tôi cúi nhìn con chó. Nó nằm trên sàn, mõm để giữa hai bàn chân, trông buồn bã và kinh ngạc như tôi vậy. Chú chó rên rỉ thê lương.
    Đôi mắt nâu sẫm của Andy nhìn xoáy vào tôi. “Sao cô biết?”
    “Thôi chuyện tào lao ấy đi, Andy, anh biết thừa là tôi có thể đọc được tâm trí người khác. Chuyện này chẳng làm tôi vui vẻ gì đâu. Amy tội nghiệp. Cái chết tương tự à?”
    “Phải,” tay cảnh sát đáp. “Giống hệt các lần trước. Chỉ có điều những vết cắn thì mới hơn.”
    Tôi nhớ lại cái đêm cùng Bill đến Shreveport theo lệnh triệu tập của Eric. Có phải chính Amy là người đã cho Bill uống máu tối đó không? Tôi chẳng thể nhớ chính xác là bao nhiêu ngày rồi, mấy tuần qua, lịch trình của tôi đã bị đảo lộn hết cả bởi hàng loạt sự kiện kỳ lạ và khủng khiếp.
    Tôi ngồi phịch xuống chiếc ghế gỗ, lắc lắc đầu lơ đãng trong vài phút, ngạc nhiên với những thay đổi trong cuộc sống của mình.
    Cuộc đời của Amy Burley thì chẳng thể thay đổi được nữa rồi. Tôi cố xua đuổi cảm giác thờ ơ, đứng dậy rót cà phê.
    “Bill không ở đây từ tối hôm kia,” tôi nói.
    “Và cô ở đây suốt đêm à?”
    “Phải. Chú chó này có thể làm chứng.” Tôi mỉm cười với Dean, nó rên ư ử khi được chú ý. Nó đến gác chiếc đầu lông lá lên đầu gối tôi trong khi tôi uống cà phê. Tôi vuốt ve tai nó.
    “Cô có nghe tin gì từ anh trai mình không?”
    “Không, nhưng tôi nhận được một cuộc điện thoại kỳ cục nói rằng anh ấy đang ở Merlotte.” Sau khi tồng tộc thế, tôi mới nhận ra chắc hẳn Sam chính là người gọi cuộc điện thoại đó, cố dụ tôi đến Merlotte để anh có thể theo tôi về nhà. Dean ngáp dài, một cái ngáp sái quai hàm đủ để chúng tôi thấy rõ hết những chiếc răng trắng sắc nhọn của nó.
    Tôi ước gì mình đã giữ mồm giữ miệng.
    Nhưng giờ thì tôi phải giải thích mọi chuyện cho Andy, hắn đang ngồi gà gật trên ghế, chiếc áo trơn nhăn nhúm dính vết cà phê, còn cái quần ka ki thì nhàu nhĩ. Andy đang mong được ngủ không kém gì một chú ngựa khao khát được về chuồng. “Anh nên nghỉ ngơi một lát,” tôi nói nhẹ nhàng. Ở Andy Bellefleur có một nét u sầu nào đó, vẻ chán nản nào đó.
    “Vì những vụ sát hại này đấy,” hắn ta nói, giọng run run vì mệt mỏi. “Những người phụ nữ tội nghiệp này. Và họ đều giống hệt nhau trên rất nhiều phương diện.”
    “Không học hành đàng hoàng, lao động chân tay ở quán bar? Và không ngại yêu đương ma cà rồng bất cứ lúc nào?”
    Hắn ta gật đầu, đôi mắt díu lại.
    “Nói cách khác là những người phụ nữ giống hệt tôi?”
    Mắt hắn ta mở to. Hắn có vẻ hốt hoảng vì sai lầm của mình.
    “Sookie...”
    “Tôi hiểu, Andy,” tôi đáp. “Trên một số phương diện, chúng tôi giống hệt như nhau, và nếu anh tán thành suy luận vụ tấn công bà tôi thật ra là được nhắm vào tôi, thì vậy đấy, tôi đoán tôi là người duy nhất còn sống sớt.”
    Tôi băn khoăn không biết tên sát nhân còn định giết ai nữa. Liệu tôi có phải người duy nhất còn sống phù hợp với những tiêu chuẩn của hắn? Đó là suy nghĩ đáng sợ nhất của tôi trong ngày hôm đó.
    Andy đang gà gật trên tách cà phê của mình.
    “Anh vào ngả lưng ở phòng ngủ dành cho khách nhé?” tôi gợi ý nhẹ nhàng. “Anh phải chợp mắt chút đi. Lái xe thế này nguy hiểm lắm.”
    “Cô thật tử tế quá,” Andy đáp lại với giọng ê a. Hắn ta có vẻ hơi bất ngờ, như thể không ngờ sẽ nhận được sự tốt bụng từ tôi. “Nhưng tôi phải về nhà, đặt chuông đồng hồ. Tôi có thể ngủ khoảng ba tiếng.”
    “Tôi hứa sẽ gọi anh dậy,” tôi nói. Tôi không muốn Andy ngủ ở nhà mình, nhưng cũng không muốn hắn ta gặp tai nạn trên đường về nhà. Bà Bellefleur sẽ chẳng đời nào để tôi yên, có lẽ Portia cũng thế. “Anh nằm ở phòng này nhé.” Tôi dẫn hắn ta vào phòng ngủ cũ của tôi. Chiếc giường đơn đã được dọn gọn gàng. “Anh nằm lên giường đi, tôi sẽ đặt báo thức.” Tôi vặn dây cót trong khi Andy quan sát. “Nào, chợp mắt chút đi. Tôi còn vài việc vặt phải làm, nhưng tôi sẽ quay lại ngay.” Chẳng cần tôi thuyết phục thêm, Andy ngồi phịch xuống giường ngay khi tôi sập cửa lại.
    Con chó vẫn lẽo đẽo bám theo trong lúc tôi đưa Andy vào phòng, và bây giờ tôi nói với nó, bằng một tông giọng khác hẳn, “Anh mặc đồ ngay bây giờ đi!”
    Andy thò đầu ra khỏi cửa. “Cô đang nói chuyện với ai đấy, Sookie?”
    “Con chó,” tôi đáp ngay tắp lự. “Nó luôn đeo vòng cổ, và tôi ngày nào cũng phải đeo cho nó.”
    “Sao cô lại tháo nó ra?”
    “Chuông kêu suốt đêm làm tôi không ngủ được. Thôi, anh đi ngủ đi.”
    “Được rồi.” Có vẻ thỏa mãn với câu trả lời của tôi, Andy đóng cánh cửa lại.
    Tôi lấy đống quần áo của Jason ra khỏi tủ, đặt lên cái ghế trước mặt con chó, rồi ngồi xoay lưng lại. Nhưng tôi nhận ra mình có thể thấy hết qua tấm gương treo trên bệ lò sưởi.
    Quanh con chó Ê cốt cuộn lên một lớp sương mỏng, dường như chúng đang kêu o o và rung nhẹ đầy năng lượng, rồi sau đó, hình hài đó biến đổi giữa lớp điện tích dày đặc. Khi lớp sương mù tan, Sam đang quỳ trên sàn, trần như nhộng, ôi, cái vòng ba mới tuyệt làm sao chứ. Tôi buộc mình phải nhắm mắt lại, và nhắc đi nhắc lại với bản thân rằng tôi phải chung thủy với Bill. Vòng ba của Bill, tôi kiên quyết tự nhủ, là chuẩn không cần chỉnh.
    “Anh xong rồi,” giọng Sam vang lên, sát sạt đến nỗi thiếu điều tôi nhảy dựng lên. Tôi đứng phắt dậy và quay lại đối diện với anh, nhận ra mặt anh chỉ cách tôi có vài phân.
    “Sookie,” giọng anh tràn ngập hy vọng, tay anh đặt trên vai tôi, xoa nhè nhẹ. Tôi nổi giận, vì một phần trong tôi cũng muốn đáp lại.
    “Nghe đây, anh bạn, anh đã có thể nói sự thật cho em biết trong suốt mấy năm qua rồi. Chúng ta biết nhau bao lâu rồi, bốn năm phải không? Mà có khi còn lâu hơn! Ấy vậy mà, Sam à, dù rằng em gặp anh hằng ngày, anh vẫn phải chờ đến lúc Bill quan tâm đến em thì anh mới...” Và không biết nên tiếp tục thế nào, tôi đành vung tay lên trời.
    Sam lùi lại, tốt đấy.
    “Anh không hề nhận ra những thứ vẫn hiển hiện trước mắt mình cho đến tận khi chúng sắp sửa bị lấy đi,” anh khẽ đáp.
    Tôi chẳng biết nên đối đáp thế nào nữa. “Anh nên về đi,” tôi nói. “Và tốt hơn hết là đừng để ai bắt gặp. Em nghiêm túc đấy.”
    Chẳng có gì chắc chắn là sẽ không có một kẻ độc mồm độc miệng nào đó kiểu như Rene nhìn thấy Sam trong xe tôi vào buổi sáng sớm và đưa ra những phán đoán sai lầm. Và đưa chuyện đến tai Bill.
    Vậy là chúng tôi đi, Sam ngồi thụp xuống ghế sau. Tôi cẩn trọng dừng xe đằng sau Merlotte. Một chiếc xe tải đã chờ sẵn ở đó, màu đen, với những vệt xanh và hồng ở hai bên thành xe. Xe của Jason.
    “Ôi,” tôi thốt lên.
    “Cái gì thế?” Giọng Sam hơi nghèn nghẹt khi ở trong tư thế đó.
    “Để em đi xem sao đã,” tôi nói, bắt đầu thấy hơi lo. Tại sao xe của Jason lại đỗ trong bãi xe nhân viên chứ? Và có vẻ như trong xe đang có người. Tôi mở cửa xe. Tôi đợi một lúc để tiếng ồn đánh động người đang ở trong xe. Tôi quan sát xem có dấu hiệu chuyển động nào không. Khi chẳng thấy có gì xảy ra, tôi bắt đầu sải bước trên nền sỏi, chưa bao giờ sợ đến thế giữa ban ngày ban mặt. Khi đến gần cửa sổ xe hơn, tôi có thể nhận ra người bên trong xe chính là Jason. Anh đang ngồi sụp xuống sau vô lăng. Tôi có thể thấy áo anh bị vấy bẩn, cằm gục hẳn xuống ngực, tay buông sõng soài trên ghế, và trên gương mặt điển trai có một vết xước đỏ dài. Tôi có thể nhìn thấy cuộn băng video nằm ngay trên bảng đồng hồ xe, không nhãn mác gì hết.
    “Sam,” tôi gọi, căm ghét sự run sợ trong giọng mình. “Anh đến đây được không.”
    Nhanh như chớp, Sam đã ở ngay bên cạnh tôi, rồi anh lách qua tôi để mở cửa xe. Vì chiếc xe có vẻ như đã nằm đây mấy tiếng đồng hồ - sương vẫn còn đọng trên nóc xe - trong một ngày đầu hè, và các cửa sổ đều đóng kín, nên mùi trong xe vẫn còn khá đậm, một hỗn hợp của ít nhất ba nguyên liệu: máu, tình dục, và rượu. “Gọi xe cứu thương đi!” tôi hối thúc trong lúc Sam bắt mạch Jason. Sam nhìn tôi với vẻ nghi ngờ. “Em có chắc muốn làm vậy không?” anh hỏi lại. “Tất nhiên! Anh ấy bất tỉnh rồi kìa!”
    “Đợi đã, Sookie. Nghĩ cho kỹ xem.” Nhưng tôi mới cân nhắc được có một phút thì đúng lúc đó, Arlene đã tấp chiếc Ford xanh lơ cà tàng vào bãi đỗ, vậy là Sam đành thở dài rồi vào trong chiếc xe moóc của mình để gọi điện thoại.
    Tôi quá ngây thơ. Đó chính là kết quả của việc gần như cả đời làm một công dân luôn tuân thủ pháp luật.
    Tôi đưa Jason vào một bệnh viện nhỏ, không biết rằng cảnh sát đang khám xét từng li từng tí chiếc xe tải của Jason, cũng chẳng nhận ra xe tuần tra đã theo đuôi chiếc xe cứu thương, và hoàn toàn tin tưởng tay bác sĩ trong phòng cấp cứu khi hắn bảo tôi về nhà, nói rằng sẽ gọi tôi ngay khi Jason tỉnh lại. Tay bác sĩ vừa nhìn tôi với vẻ tò mò vừa cho biết Jason đang ngủ dưới tác dụng của rượu và ma túy. Nhưng trước đây Jason chưa bao giờ say đến mức thế, và anh không dính dáng đến ma túy: cô em họ Hadley của chúng tôi từng sống lang bạt giang hồ, và chuyện đó đã gây ấn tượng sâu sắc lên cả hai anh em tôi. Tôi kể hết với tay bác sĩ, hắn lắng nghe, rồi đuổi tôi đi.
    Không biết nghĩ gì nữa, tôi trở về nhà, nhận thấy Andy Bellefleur đã bị cấp trên điều động. Hắn ta viết giấy nhắn để lại cho tôi như vậy, và chẳng có gì khác nữa. Sau này, tôi mới biết thật ra hắn đã ở trong bệnh viện cùng lúc với tôi, và chờ đến khi tôi ra về để còng tay Jason vào giường bệnh.
    Chú thích
    [3] Trong truyện, Bubba là một ma cà rồng đặc biệt, các nhân vật khác trong thế giới “chết trước hoàng hôn” đều nhận ra anh ta chính là một ca sĩ nổi tiếng xuất thân từ Memphis, tuy rằng tác giả không bao giờ nói thẳng tên thật của Bubba, nhưng rất nhiều người hâm mộ trên các diễn đàn sách quốc tế đều cho rằng anh chính là một nhân vật cực kỳ nổi tiếng - ông hoàng nhạc Rock & Roll Elvis Presley!

  9. #28
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,707
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 12
    Sam đến báo tin cho tôi lúc 11 giờ. “Họ sẽ bắt giam Jason ngay khi anh ta tỉnh lại, Sookie à, mà có vẻ chẳng lâu nữa đâu.”
    Sam không nói làm sao anh biết được chuyện đó, và tôi cũng chẳng hỏi.
    Tôi nhìn anh chăm chăm, nước mắt lăn dài trên má. Nếu vào một ngày khác, có lẽ tôi đã nghĩ đến chuyện trông mình xơ xác đến thế nào khi khóc, nhưng hôm nay không phải ngày để quan tâm đến chuyện nhan sắc. Tôi đang gặp rắc rối nghiêm trọng, lo sợ cho Jason, buồn chuyện của Amy Burley, giận dữ vì nhầm lẫn ngu ngốc của cảnh sát, và ẩn dưới tất cả những cảm xúc đó, là nỗi nhớ Bill da diết.
    “Họ nghĩ có vẻ như Amy Burley đã gây chiến. Họ nghĩ anh ta đã uống say sau khi giết cô ta.”
    “Cảm ơn vì đã báo cho em, Sam à.” Giọng tôi như cất lên từ một nơi rất xa nào đó. “Anh nên đi làm thôi.”
    Sau khi Sam đã nhận ra tôi cần được ở một mình, tôi gọi đến tổng đài hỏi số điện thoại của Máu Trong Phố. Tôi quay số, chẳng hiểu sao cứ cảm thấy như mình đang làm một chuyện gì đó Xấu xa.
    “Máuuuuu... Trong Phố xin nghe,” một giọng nói trầm trầm đột ngột vang lên. “Quan tài của bạn khi xa nhà.”
    Chúa ơi. “Xin chào. Tôi là Sookie Stackhouse, gọi từ Bon Temps,” tôi lịch sự nói. “Tôi cần để lại một lời nhắn cho Bill Compton. Anh ấy là khách ở đây.”
    “Răng nanh hay người?”
    “À... răng nanh.”
    “Làm ơn đợi một chút.”
    Sau một lúc giọng nói trầm trầm đó lại vang lên. “Lời nhắn là gì, thưa cô?”
    Tôi chần chừ một lúc.
    “Làm ơn nhắn với ông Compton rằng... anh trai tôi vừa bị bắt, và tôi sẽ rất cảm kích nếu anh ấy về nhà ngay khi hoàn thành xong công chuyện.”
    “Tôi ghi lại rồi.” Tiếng bút nguệch ngoạc. “Cô nhắc lại tên được không?”
    “Stackhouse. Sookie Stackhouse.”
    “Được rồi, thưa cô. Tôi sẽ để lại lời nhắn cho anh ấy.”
    “Cảm ơn.”
    Và đó là việc duy nhất tôi có thể nghĩ ra được, cho đến khi nhận ra sẽ thực tế hơn rất nhiều nếu tôi liên lạc với Sid Matt Lancaster ngay, ông ta cố hết sức ra vẻ kinh hoàng khi nghe tin Jason sẽ bị bắt, hứa hẹn sẽ cấp tốc đến bệnh viện ngay khi xong việc ở tòa án chiều nay, và rằng anh ta sẽ thông báo lại tình hình với tôi.
    Tôi lái xe trở lại bệnh viện xem có được phép ngồi với Jason cho đến khi anh tỉnh lại không. Họ không cho tôi làm thế. Tôi băn khoăn không biết có phải anh đã tỉnh lại nhưng họ không cho tôi biết hay không? Tôi nhìn thấy Andy Beliefleur ở cuối hành lang, và hắn quay lại, rẽ sang hướng khác.
    Thằng hèn.
    Tôi trở về nhà vì chẳng biết phải làm gì khác. Tôi nhận ra dù sao hôm đấy mình cũng được nghỉ làm, một chuyện tốt dù vào lúc này tôi thật ra cũng chẳng quan tâm lắm. Tôi chợt nghĩ rằng mình đã không xử lý mọi việc tốt đẹp như đáng ra phải thế, rằng hồi bà mất tôi đã tỏ ra bình tĩnh hơn nhiều.
    Nhưng hồi đó mọi chuyện không phải đã lâm vào ngõ cụt. Chúng tôi sẽ chôn bà, kẻ sát hại bà sẽ bị bắt, và chúng tôi sẽ tiếp tục sống. Nếu cảnh sát quả thật tin rằng Jason đã giết bà cũng như những người khác, thì thế giới này đúng là một nơi ghê tởm và bấp bênh mà tôi chẳng muốn tồn tại trong đó nữa.
    Nhưng tôi vỡ lẽ ra, sau một buổi chiều dài đằng đẵng ngồi nhìn chăm chăm về phía trước, rằng chính sự ngây thơ của mình đã dẫn đến việc Jason bị bắt. Nếu tôi đưa anh vào trong toa xe moóc của Sam, lau rửa sạch sẽ cho anh rồi giấu cuộn băng đi cho đến khi tìm hiểu được nội dung trong đó, và trên hết là không gọi xe cứu thương... đó chính là những gì Sam đã tính đến khi anh ấy nhìn tôi với vẻ nghi ngờ như vậy. Tuy nhiên, sự xuất hiện của Arlene đã không cho tôi có lựa chọn nào khác. Tôi nghĩ điện thoại sẽ bắt đầu réo ầm ĩ ngay khi mọi người biết tin. Nhưng chẳng ai gọi cả.
    Họ không biết phải nói gì.
    Sid Matt Lancaster đến vào khoảng bốn rưỡi chiều.
    Không cần chào hỏi dông dài, ông ta nói luôn, “Họ bắt anh ấy rồi. Tội danh giết người mức độ một.”
    Tôi nhắm mắt lại. Khi tôi mở mắt ra, Sid đang nhìn tôi, trên khuôn mặt ôn hòa toát lên vẻ thấu hiểu. Cặp kính gọng đen kiểu cổ điển càng làm nổi bật đôi mắt màu nâu bùn, còn bộ xương hàm cùng với chiếc mũi gãy làm ông ta trông có phần giống một con chó săn.
    “Anh ấy bảo sao?” tôi hỏi.
    “Rằng hôm qua anh ấy đã qua đêm cùng với Amy.”
    Tôi thở dài.
    “Anh ấy khai rằng họ đã lên giường cùng nhau, và đó không phải là lần đầu tiên. Anh ấy nói đã lâu rồi không gặp Amy, và lần gần đây nhất họ ở cùng nhau, Amy có vẻ ghen với những phụ nữ mà anh ấy gặp gỡ, cực kỳ tức giận. Nên anh ấy rất ngạc nhiên khi tối qua được cô ta chủ động tiếp cận ở quán Phút Giây Hạnh Phúc. Jason bảo cả đêm Amy đã cư xử rất kỳ lạ, cứ như thể cô ta có những kế hoạch bí mật nào đó. Anh ấy nhớ đã làm tình với cô ta, nhớ cả chuyện sau đó họ nằm trên giường uống rượu, nhưng chẳng nhớ đã có chuyện gì từ lúc đó cho đến khi tỉnh dậy trong bệnh viện.”
    “Anh ấy bị gài bẫy rồi,” tôi khẳng định, nghe chẳng khác gì một bộ phim dở ẹc.
    “Tất nhiên rồi.” Mắt Sid Matt toát lên vẻ chắc chắn và quả quyết cứ như thể ông ta đã có mặt ở chỗ Amy Burley tối qua vậy.
    Trời ạ, có thể lắm chứ.
    “Nghe này, Sid Matt.” Tôi rướn người về phía trước để ông ta có thể nhìn thẳng vào mắt tôi. “Kể cả vì lý do nào đó mà tôi tin rằng Jason đã giết Amy, Dawn và kể cả Maudette nữa, tôi cũng không bao giờ tin anh ấy dám làm tổn thương bà.”
    “Thôi được rồi.” Sid Matt đã sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ của tôi, thẳng thắn và không úp mở, cơ thể ông ta đã nói lên điều đó. “Cô Sookie ạ, cứ giả sử rằng Jason có liên quan phần nào đến những cái chết đó đi. Mà cảnh sát cũng có thể nghĩ ông bạn Bill Compton của cô đã giết bà của cô vì bà cụ ngăn cản chuyện của hai người.”
    Tôi cố tỏ ra là mình đang cân nhắc câu nói ngu si này. “Thế này nhé, Sid Matt, bà tôi thích Bill, và bà hạnh phúc khi thấy tôi hẹn hò với anh ấy.” Trước khi Sid Matt đeo lại bộ mặt chuyên nghiệp, tôi thoáng nhận thấy ánh mắt nghi ngờ của ông ta. Ông ta sẽ chẳng đời nào vui vẻ nổi nếu con gái mình hẹn hò với ma cà rồng. Ông ta không thể tưởng tượng nổi bất kỳ bậc cha mẹ có trách niệm nào lại không phản đối chuyện đó. Và Sid cũng chẳng thể tưởng tượng nổi cảnh ông ta phải cố gắng thuyết phục bồi thẩm đoàn rằng bà tôi rất vui vẻ khi tôi hẹn hò với một gã thậm chí chẳng còn sống nữa, thêm vào đó lại còn già hơn tôi đến hàng trăm tuổi. Đó là suy nghĩ của Sid Matt.
    “Ông gặp Bill bao giờ chưa?” tôi hỏi. Ông ta có vẻ chưng hửng. “Chưa,” ông ta thú nhận. “Cô biết đấy, cô Sookie, tôi không ủng hộ chuyện ma cà rồng này. Tôi nghĩ đã có một kẽ nứt trên bức tường mà chúng ta đáng lẽ phải không ngừng xây dựng, một bức tường ngăn cách giữa chúng ta và những kẻ được-coi-là nhiễm-vi-rút ấy. Tôi nghĩ Chúa muốn có bức tường đó, và riêng tôi sẽ không bao giờ từ bỏ khu vực do mình phụ trách.”
    “Vấn đề nằm ở chỗ, chính tôi đã được Ngài tạo ra để đứng trên bức tường ngăn cách đó đấy, Sid Matt.” Sau suốt hai mươi lăm năm giữ im lặng về “món quà” của mình, tôi nhận ra nếu có thể giúp được Jason, tôi sẵn sàng cho tất cả mọi người biết sự thật.
    “Ừm,” Sid Matt nói với vẻ gan góc, đẩy cặp kính cho ngay ngắn trên sống mũi gẫy. “Tôi chắc chắn Chúa Lòng Lành có lý do riêng khi mang đến cho cô cái vấn đề rắc rối mà tôi đã nghe nói đến đó. Cô cần phải học cách sử dụng nó để vinh danh người.”
    Chưa có ai hiểu vấn đề của tôi theo cách đó. Và tôi sẽ suy ngẫm về ý tưởng này khi nào có thời gian.
    “Tôi e rằng chúng ta đã lạc đề rồi, và tôi biết thời gian của ông rất quý giá.” Tôi tập trung suy nghĩ. “Tôi muốn bảo lãnh Jason ra khỏi tù. Vẫn chưa có bằng chứng cụ thể kết tội anh ấy đã giết Amy, phải không?”
    “Anh ấy đã thú nhận là mình ở cùng nạn nhân ngay trước khi vụ ám sát xảy ra, và theo lời bóng gió khá lộ liễu của một tay cớm thì cuốn băng video đã cho thấy cảnh anh trai cô làm tình với nạn nhân. Và thời gian in trên phim chỉ ra rằng nó đã được quay ngay trước khi cô ta chết vài giờ, thậm chí có khi không quá một tiếng đồng hồ.”
    Quỷ tha ma bắt cái thú vui giường chiếu của Jason đi. “Jason không uống nhiều rượu. Mà lúc ở trong xe tải, người anh ấy nồng nặc mùi cồn. Tôi nghĩ người khác đã đổ rượu lên người anh ấy. Tôi nghĩ chỉ cần làm xét nghiệm là sẽ chứng minh được điều đó ngay thôi. Có thể Amy đã pha ma túy vào rượu của Jason.”
    “Sao cô ta lại làm thế chứ?”
    “Bởi, giống như tất cả những phụ nữ khác, cô ta phát điên lên với Jason vì quá thèm muốn anh ấy. Anh trai tôi có thể cưa đổ bất cứ cô nàng nào mà anh ấy muốn. Đấy là tôi còn nói trại đi nhiều rồi đấy.”
    Sid Matt trông có vẻ ngạc nhiên khi tôi biết từ đó.
    “Gần như anh ấy có thể lên giường với bất kỳ ai anh ấy muốn. Một cuộc sống trong mơ với hầu hết mọi gã trai.” Tôi cảm thấy mệt mỏi rã rời. “Và giờ thì anh ấy đang ngồi trong tù.”
    “Cô nghĩ là có kẻ khác đã gây ra chuyện này? Đổ tội giết người cho Jason?”
    “Phải, tôi tin vậy.” Tôi rướn người về phía trước, cố gắng dùng niềm tin sắt đá của mình thuyết phục viên luật sư đa nghi. “Kẻ nào đó ganh tị với Jason. Kẻ biết rõ lịch trình của anh ấy và đã giết những người phụ nữ đó khi Jason không đi làm. Kẻ biết rằng Jason đã quan hệ với tất cả những cô gái đó. Kẻ biết rằng anh ấy thích quay phim chuyện đó.”
    “Có thể là bất kỳ ai,” tay luật sư của Jason nhìn nhận một cách thực tế.
    “Phải,” tôi nói với giọng ủ dột. “Kể cả khi Jason có đủ tử tế để giữ im lặng về danh tính những phụ nữ anh ấy đã lên giường cùng thì ai cũng đều có thể thấy người ra khỏi quán bar cùng Jason lúc quán đóng cửa. Chỉ cần là người biết quan sát, hoặc có thể đã hỏi về những cuốn băng khi đến nhà anh ấy.” Anh trai tôi có thể là một kẻ đồi bại theo nghĩa nào đó, nhưng tôi không nghĩ anh ấy lại cho bất kỳ ai khác xem những cuốn băng này. Tuy nhiên, có thể Jason đã kể cho một gã đàn ông khác rằng anh ấy thích quay băng. “Vậy, gã này, bất kể gã là ai cũng vậy, đã thỏa thuận với Amy, biết rằng cô nàng đang tức giận Jason. Có lẽ hắn nói với cô ta rằng hắn đang định chơi khăm Jason một vố, hay sao sao đó.”
    “Anh trai cô chưa bao giờ bị bắt,” Sid Matt nhìn nhận.
    “Chưa từng.” Mặc dù theo lời Jason thì cũng một đôi lần xém chút là chuyện đó xảy ra rồi.
    “Không tiền án tiền sự, một thành viên trung thực của cộng đồng, công việc ổn định. Có khi tôi xin bảo lãnh cho anh ấy được. Nhưng nếu anh ấy bỏ trốn, chúng ta sẽ mất tất cả.”
    Tôi chưa bao giờ nghĩ Jason sẽ vắng mặt tại phiên tòa. Tôi không biết chút gì về việc bảo lãnh, chẳng hiểu mình phải làm những gì, nhưng tôi muốn Jason ra khỏi tù. Chẳng hiểu sao, ở trong tù đợi cho đến khi mọi quy trình pháp luật trước vụ xử được xong xuôi... chẳng hiểu sao, chuyện đó khiến anh ấy giống kẻ phạm tội hơn.
    “Anh tìm hiểu rồi cho tôi biết phải làm gì nhé,” tôi nói. “Trong thời gian đó, tôi có thể đến thăm anh ấy không?”
    “Anh ấy không muốn vậy,” Sid Matt đáp.
    Chuyện này làm tôi tổn thương kinh khủng. “Tại sao?” tôi hỏi, cố hết sức để không òa khóc.
    “Anh ấy xấu hổ,” viên luật sư đáp. Thật thú vị khi nghĩ đến chuyện Jason cũng biết xấu hổ.
    “Thôi vậy,” tôi nói, cố gắng tiếp tục, đột nhiên cảm thấy mệt mỏi với buổi gặp gỡ khó chịu này. “Hãy gọi cho tôi nếu cần tôi làm bất cứ việc gì nhé?” Sid Matt gật đầu, quai hàm hơi rung rung. Tôi đã làm ông ta khó chịu. Chắc hẳn ông ta mừng lắm khi được ra khỏi đây.
    Viên luật sư lái xe đi, giữa chừng ấn chiếc mũ cao bồi lên trên đầu.
    Khi trời tối hẳn, tôi ra ngoài xem Bubba thế nào. Anh ta đang ngồi dưới gốc sồi già, máu nhân tạo đóng chai xếp thành hàng ở hai bên, một bên là chai đã cạn, bên kia chai vẫn còn đầy.
    Tôi mang theo đèn pin, và dù biết rõ Bubba đang ở đó, tôi vẫn giật mình khi thấy anh ta dưới ánh đèn. Tôi lắc mạnh đầu. Thật sự đã có chuyện không ổn khi Bubba “ghé qua”, chắc chắn vậy. Tôi thành thực mừng rằng mình không đọc được tâm trí của Bubba. Đôi mắt anh ta làm tôi ghê sợ.
    “Chào cưng,” anh ta nói bằng giọng miền Nam nặng trịch. “Em thế nào rồi? Thích anh bầu bạn hả?”
    “Em chỉ muốn chắc rằng anh thấy thoải mái,” tôi nói.
    “Có những chỗ thoải mái hơn nhiều, nhưng vì em là bồ của Bill nên anh sẽ không nói về những chỗ đó đâu.”
    “Tuyệt,” tôi đáp giọng chắc nịch.
    “Có chú miu nào gần đây không? Anh chán ngấy những thứ chai lọ này rồi.”
    “Không có mèo. Em chắc rằng Bill sẽ về sớm thôi, rồi anh sẽ được về nhà.” Tôi rảo bước quay vào nhà, không thoải mái lắm khi nói chuyện với Bubba, nếu ta có thể gọi đó là một cuộc nói chuyện. Tôi băn khoăn không hiểu Bubba nghĩ gì trong suốt những đêm dài canh gác; không biết anh ta có nhớ về quá khứ của mình không.
    “Chú chó sao rồi?” anh ta gọi với theo.
    “Nó về nhà rồi,” tôi hét lại qua vai.
    “Tệ thật,” Bubba lẩm nhẩm, nhỏ đến nỗi tôi gần như không nghe thấy.
    Tôi dọn giường đệm sẵn sàng. Tôi xem ti vi. Tôi ăn ít kem, và thậm chí đã cắt một thanh Heath Bar để làm lớp phủ. Những thứ bình thường vẫn làm tôi thấy dễ chịu riêng tối nay lại chẳng hề phát huy hiệu quả. Anh trai tôi ở trong tù, bạn trai ở New Orleans, bà vừa mất, và có kẻ đã giết con mèo của tôi. Tôi không lúc nào không thấy cô đơn và cám cảnh cho bản thân mình.
    Đôi khi, bạn phải đương đầu với đủ vấn đề trên đời.
    Bill không gọi điện lại.
    Hành động đó chẳng khác gì đổ thêm dầu vào ngọn lửa thống khổ trong lòng tôi. Có thể anh ấy đã tìm thấy một nàng bán hoa dễ dãi nào đó ở New Orleans, hoặc một ả nhân tình răng nanh, giống như những kẻ đêm đêm vẫn lảng vảng ở Máu Trong Phố, hy vọng được “vui vẻ” cùng ma cà rồng.
    Nếu là một con sâu rượu, tôi sẽ uống cho đến khi say bí tỉ. Nếu là một phụ nữ bình thường, tôi sẽ gọi chàng JB du Rone dễ thương đến để làm tình. Nhưng tôi không phải loại người sầu bi hay mạnh mẽ đến thế, vậy nên tôi chỉ ăn kem và xem những bộ phim cũ rích trên ti vi. Tình cờ làm sao, người ta đang chiếu Blue Hawaii[4]. Cuối cùng đến nửa đêm thì tôi cũng đi ngủ.
    Một tiếng hét thất thanh ngoài cửa sổ phòng ngủ đánh thức tôi. Tôi ngồi thẳng dậy trên giường. Tôi nghe tiếng đánh đấm, tiếng thình thịch, và cuối cùng là một tiếng hét mà tôi dám chắc là giọng Bubba, “Quay lại đây, thằng chết dẫm kia!”
    Sau một vài phút không thấy có thêm động tĩnh gì, tôi khoác áo choàng tắm rồi đi về phía cửa trước. Sân nhà, dưới ánh sáng đèn bảo vệ, vắng tanh vắng ngắt. Tôi thoáng thấy có chuyển động bên tay trái, và khi thò đầu ra khỏi cửa, tôi thấy Bubba, đang chậm chạp bước về chỗ ẩn náu của mình.
    “Có chuyện gì thế?” tôi hỏi khẽ. Bubba chuyển hướng và lừ đừ đi phía hiên.
    “Chắc chắn là một con lợn nào đó, thông cảm nhé, đã lảng vảng xung quanh ngôi nhà,” Bubba nói. Đôi mắt nâu sáng lên, và anh ta trông càng giống con người trước đây của mình. “Anh nghe thấy tiếng hắn vài phút trước khi hắn đến đây, và cứ tưởng đã tóm được hắn rồi. Nhưng hắn chạy tắt qua rừng, và hắn đã đậu sẵn xe tải bên đường.”
    “Anh có nhận ra hắn không?”
    “Không rõ lắm,” Bubba nói với vẻ ngượng ngùng. “Hắn lái một chiếc xe bán tải, nhưng đến màu sắc anh cũng không nhận ra được. Tối quá.”
    “Nhưng anh đã cứu mạng em,” tôi nói, hy vọng giọng mình toát lên được sự biết ơn chân thành. Tôi cảm thấy trào dâng tình yêu dành cho Bill vì đã sắp xếp người bảo vệ tôi. Kể cả Bubba trông cũng có vẻ tử tế hơn hẳn. “Cảm ơn anh, Bubba à.”
    “Ôi, đừng bận tâm,” anh ta hòa nhã đáp, và đúng giây phút anh ta đứng thẳng dậy, tóc hất ngược ra đằng sau, nụ cười mơ màng trên khuôn mặt... đó là anh ta, và tôi đang định nói ra cái tên đó thì những lời cảnh báo của Bill quay trở lại khiến tôi im bặt.
    JASON ĐƯỢC BẢO LÃNH ngay ngày hôm sau.
    Việc này tốn cả đống tiền. Tôi ký mọi thứ giấy tờ mà Sid Matt bảo ký, mặc dù trong số tài sản bảo lãnh, phần lớn là nhà, xe và chiếc thuyền câu cá của Jason. Nếu Jason từng có lần bị bắt, kể cả là do vi phạm luật giao thông đi nữa, tôi tin rằng anh còn lâu mới được phép nộp tiền bảo lãnh.
    Tôi đứng trước cửa tòa án, dưới cái nắng gắt cuối buổi sáng, trong bộ đồ tệ hại màu xanh hải quân. Mồ hôi túa ra trên mặt, chạy xuống kẽ môi mang lại một cảm giác khó chịu làm ta chỉ muốn đi tắm ngay lặp tức. Jason dừng lại ngay trước mặt tôi. Tôi không biết chắc anh sẽ nói gì. Khuôn mặt anh già xọm. Những rắc rối nghiêm trọng đang đè nặng lên vai anh, những rắc rối nghiêm trọng không dễ gì được xoa dịu hay xóa bỏ, hệt như đối với sự đau khổ.
    “Anh không thể nói gì với em về chuyện này,” anh nói, nhỏ đến nỗi tôi gần như không nghe thấy được. “Em biết đó không phải là anh. Sự bạo lực của anh cùng lắm cũng chỉ ở mức tranh cãi ẩu đả ngoài bãi xe vì một cô ả nào đó.”
    Tôi chạm vào vai anh, rồi buông thõng xuống khi không thấy anh phản ứng gì. “Em chưa bao giờ nghĩ đó là anh. Và sẽ không bao giờ nghĩ vậy. Em xin lỗi vì đã ngu ngốc gọi 911 ngày hôm qua. Nếu biết đó không phải máu của anh, em đã đưa anh tới xe Sam để lau rửa sạch sẽ, rồi đốt cuốn băng đó đi. Em quá sợ hãi, cứ tưởng đó là máu của anh.” Tôi cảm thấy mắt mình ầng ậc nước. Nhưng đây không phải lúc để khóc, và tôi mím chặt môi, cảm thấy khuôn mặt mình căng ra. Tâm trí Jason là một đống hỗn loạn, không khác gì một cái chuồng heo tâm tưởng.
    Trong đó đang sôi sục một hợp chất độc hại trộn giữa nỗi hối hận, sự xấu hổ vì thói quen tình dục bị công khai, cảm giác tội lỗi vì đã không thấy buồn đau gì trước cái chết của Amy, nỗi sợ hãi rằng bất cứ ai trong thị trấn cũng có thể nghĩ anh đã giết chính bà của mình trong lúc nằm chờ cô em gái.
    “Chúng ta sẽ vượt qua mọi chuyện,” tôi bất lực nói.
    “Chúng ta sẽ vượt qua mọi chuyện,” anh lặp lại, cố nói một cách mạnh mẽ và tự tin. Nhưng tôi nghĩ sẽ phải mất một thời gian, một thời gian rất lâu thì sự tự tin, vốn là nhân tố quyết định mang lại nét quyến rũ khôn cưỡng của Jason, mới quay trở lại trong dáng điệu, nét mặt và giọng nói của anh.
    Mà cũng có thể chẳng bao giờ.
    Chúng tôi chia tay ở đó, trước cửa tòa án. Chẳng có gì để nói nữa cả. Tôi ngồi ở quán suốt cả ngày, nhìn những người đàn ông bước vào và rà soát tâm trí họ. Chẳng ai trong số đó nghĩ rằng mình đã giết bốn người phụ nữ mà cho đến giờ vẫn thoát được lưới trời. Vào giờ ăn trưa, Hoyt cùng Rene bước qua cửa, nhưng lập tức trở ra khi thấy tôi ngồi đó. Có lẽ họ quá xấu hổ nếu nói chuyện với tôi. Cuối cùng, Sam bắt tôi về. Anh bảo trông tôi đáng sợ đến nỗi sẽ đuổi bất kỳ vị khách nào có thể mang đến thông tin hữu dụng.
    Tôi lê bước ra ngoài trời giữa cái nắng chang chang. Mặt trời sắp lặn rồi. Tôi nghĩ về Bubba, về Bill, về tất cả những sinh vật sắp thức dậy từ giấc ngủ sâu để bước đi trên mặt đất Tôi dừng xe ở Grabbit Kwik để mua sữa ăn kèm ngũ cốc điểm tâm. Nhân viên bán hàng mới của cửa hàng là một thằng nhóc mặt đầy mụn với yết hầu to tướng, và nó nhìn tôi hăm hở như cố in sâu vào trong đầu hình ảnh em gái một tay sát nhân. Tôi dám chắc nó chỉ mong tôi rời đi cho chóng để nó có thể chộp lấy điện thoại gọi cho bạn gái. Nó đang mong sao có thể nhìn thấy những vết răng trên cổ tôi. Nó cũng băn khoăn không biết có cách nào để biết ma cà rồng hút máu kiểu gì không.
    Đó là những thứ rác rưởi mà tôi phải nghe hàng ngày. Dù có cố gắng tập trung vào những thứ khác thế nào đi chăng nữa, dù có giữ cho rào chắn tâm trí vững vàng đến đâu chăng nữa, và dù nụ cười có rạng rỡ ra sao thì tôi vẫn không ngăn được những thứ rác rưởi như thế lọt vào đầu mình.
    Tôi về đến nhà khi trời sắp tối. Sau khi cất sữa và cởi đồ, tôi mặc quần soóc, áo phông Garth Brooks và cố nghĩ xem tối nay mình nên làm gì.
    Tôi không thể ngồi yên đọc sách được; và nếu muốn làm vậy thì tôi cũng phải ghé qua thư viện để đổi sách mới, chuyện này thì quả tình bất khả thi. Chẳng có chương trình hay ho gì trên ti vi, ít nhất tối nay là vậy. Tôi nghĩ mình có thể xem lại phim Trái tim dũng cảm: Hình ảnh Mel Gibson mặc váy Scotland luôn là yếu tố làm tinh thần hưng phấn. Nhưng bộ phim lại quá máu me so với tâm trạng của tôi. Tôi chẳng thể chịu nổi cảnh cô gái bị cắt cổ, mặc dù tôi thừa biết mình cần bịt mắt lại vào lúc nào.
    Vừa vào phòng tắm để rửa sạch lớp trang điểm nhễ nhại mồ hôi thì, qua tiếng nước chảy, tôi nghĩ mình nghe thấy một tiếng mèo kêu bên ngoài.
    Tôi tắt vòi nước. Tôi đứng yên, cảm thấy sợi dây cảm ứng trong mình đang rung lên bần bật, và căng tai ra lắng nghe. Cái quái gì...? Nước trên mặt tôi nhỏ tong tong xuống chiếc áo phông.
    Không âm thanh. Chẳng có tiếng động nào cả.
    Tôi rón rén tiến về phía cửa trước, vì đó là nơi gần với điểm canh gác của Bubba ở trong rừng nhất.
    Tôi mở hé cửa. Tôi hét to, “Bubba?” Không có ai trả lời.
    Tôi thử lần nữa.
    Tôi cảm thấy dường như đến cả ếch nhái côn trùng cũng đang nín thở. Đêm tối tĩnh mịch đến mức có thể nắm bắt được từng chuyển động. Có thứ gì đó đang lảng vảng ngoài kia, trong màn đêm dày đặc.
    Tôi cố suy nghĩ, nhưng tim tôi đập thình thịch khiến tôi không sao tập trung được.
    Trước tiên phải gọi cảnh sát.
    Tôi nhận ra đó không phải một lựa chọn. Điện thoại hỏng rồi.
    Vậy một là tôi ở yên trong nhà chờ rắc rối đến với mình, hai là đi thẳng vào rừng.
    Đây là một quyết định khó khăn. Tôi cắn môi, đi quanh nhà để tắt đèn, cố vạch ra một kế hoạch hành động.
    Căn nhà có một số phương tiện bảo vệ: khóa, tường, các ngóc ngách và góc khuất. Nhưng tôi biết, nếu thật sự quyết tâm, bất kỳ kẻ nào cũng có thể dễ dàng lọt vào nhà, và lúc đó thì tôi chết chắc.
    Được rồi. Làm sao tôi có thể ra ngoài mà không bị phát hiện bây giờ? Trước tiên, tôi tắt đèn ngoài sân.
    Cửa sau gần khu rừng hơn, vậy nên đó sẽ là một lựa chọn đúng đắn. Tôi rành rẽ về khu rừng. Tôi có thể trốn trong đó đến khi trời sáng. Tôi cũng có thể ghé sang nhà Bill; chắc chắn điện thoại nhà anh đang hoạt động, mà tôi lại có chìa khóa nhà.
    Hoặc tôi có thể tìm cách chạy ra xe và rồ máy phóng đi. Nhưng như thế tôi sẽ mất vài giây ở yên một chỗ. Không, cánh rừng có vẻ là lựa chọn khả quan hơn.
    Tôi đã nhét chìa khóa nhà Bill vào túi quần, kèm theo con dao gấp của ông vốn vẫn được bà cất trong chiếc tủ ở phòng khách để mở bao bì. Ở túi bên kia, tôi nhét chiếc đèn pin siêu nhỏ. Bà còn để một khẩu súng trường cũ trong tủ đựng áo khoác cạnh cửa trước. Khẩu súng thuộc về bố tôi hồi bố còn nhỏ, và bà chủ yếu dùng nó để bắn rắn; vậy đấy, giờ tôi cũng đang có một con rắn cần triệt hạ đây. Tôi ghét khẩu súng chết tiệt đó, ghét nghĩ đến việc phải dùng nó, nhưng có lẽ, giờ đã đến lúc rồi.
    Nó không còn ở đó nữa.
    Tôi không thể tin vào các giác quan của mình. Tôi sục sạo khắp cả tủ. Hắn đã vào nhà tôi!
    Nhưng không phải do đột nhập.
    Hắn đã được tôi mời vào. Ai đã từng đến đây? Trong lúc đi về phía cửa hậu, tôi cố liệt kê tất cả những người từng xuất hiện trong nhà, tôi đã buộc lại dây giày để không vướng víu. Tôi túm vổng tóc lên, hầu như chỉ bằng một tay, để chúng không xòa xuống mặt, rồi lấy dây chun buộc lại. Nhưng suốt thời gian đó, tôi không ngớt nghĩ về khẩu súng bị mất cắp.
    Ai đã ở nhà tôi chứ? Bill, Jason, Arlene, Rene, hai đứa trẻ, Andy Bellefleur, Sam, Sid Matt; tôi dám chắc tất cả bọn họ đều được ở một mình khoảng một hai phút, có lẽ đủ lâu cho họ thó khẩu súng ra khỏi tủ để sau này đến lấy lại.
    Rồi tôi nhớ lại hôm tang lễ. Khi bà mất, hầu như tất cả mọi người tôi quen biết đều đã ra vào ngôi nhà, và tôi không nhớ nổi kể từ sau hôm đó tôi có lần nào nhìn thấy khẩu súng ấy không. Nhưng thật khó có thể mang theo khẩu súng mà đường hoàng đi ra khỏi một ngôi nhà đông đúc tấp nập. Và nếu nó biến mất lúc đó, tôi nghĩ mình hẳn sẽ phát hiện ra ngay rồi. Thực ra tôi tin rằng mình chắc chắn sẽ phát hiện ra.
    Tôi buộc phải dẹp chuyện đó sang một bên để tập trung tìm cách đánh lừa kẻ đang ẩn trong bóng đêm ngoài kia.
    Tôi mở cửa sau. Cúi thấp hết mức, tôi lò dò ra ngoài và nhẹ nhàng khép cánh cửa lại. Thay vì đi qua bậc thềm, tôi ngồi xổm trên hiên, duỗi thẳng một chân ra, khẽ đập đập xuống mặt đất; tôi dồn trọng lượng xuống bên chân này rồi kéo nốt chân kia xuống. Tôi lại cúi xuống. Y hệt hồi nhỏ chơi trốn tìm với Jason ở trong rừng.
    Tôi thầm cầu mong không phải mình lại đang chơi trốn tìm với Jason.
    Đầu tiên tôi nấp sau những chậu hoa um tùm bà trồng hồi trước, rồi bò đến chiếc xe của bà, đích đến thứ hai.
    Tôi ngước nhìn trời. Trăng tròn vành vạnh, và đêm quang quẻ đủ để những ngôi sao lộ diện. Không khí ẩm ướt, và trời vẫn nóng. Cánh tay tôi chẳng mấy chốc rít rịt mồ hôi. Bước tiếp theo, từ chiếc xe đến cây mimosa.
    Lần này tôi không di chuyển lặng lẽ được. Tôi vấp phải gốc cây và ngã phịch xuống đất. Tôi cắn răng ngăn tiếng hét. Cơn đau buối nhói ở chân và hông, và tôi biết cái gốc cây lởm chởm đã rạch khá sâu vào bắp chân mình. Sao trước đây tôi không nghĩ ra mà đốn quách gốc cây này đi cho rồi chứ? Bà đã nhờ Jason nhưng anh ấy cứ lần lữa mãi.
    Tôi lắng nghe, cảm nhận, di chuyển. Không còn nghĩ gì đến cẩn với chẳng thận nữa, tôi bật dậy và lao vội về phía hàng cây. Ai đó đang đâm xuyên qua bìa rừng bên phải, hướng thẳng đến chỗ tôi. Nhưng tôi biết mình phải đi đâu, và trong một cú bật cao đến không ngờ, tôi tóm được một cành tháp trên cái cây hồi bé hai anh em thường leo trèo, rồi đu người lên. Nếu tôi có thể sống đến ngày hôm sau, những bắp thịt hẳn sẽ đau nhức, nhưng cũng đáng mà. Tôi giữ thăng bằng trên cành cây, cố thở khẽ khàng trong khi chỉ mong sao được thở hổn hà hổn hển và rên lên như con chó đang mơ.
    Tôi ước gì đây chỉ là một giấc mơ.
    Ấy vậy nhưng chẳng thể phủ nhận được rằng, tôi, Sookie Stackhouse, cô hầu bàn có khả năng đọc tâm trí người khác, đang ngồi trên một cành cây trong rừng vào giữa đêm khuya khoắt, chẳng có thứ vũ khí nào ngoài con dao gấp.
    Có chuyển động ngay bên dưới tôi, một gã đàn ông đang băng qua đám cây cối. Trên cổ tay hắn lủng lẳng một sợi thừng dài. Ôi, Chúa ơi. Dù trăng sáng vằng vặc, nhưng khuôn mặt hắn khuất sau bóng cây, và tôi không thể nhận ra đó là ai. Hắn đi ngay dưới chỗ tôi mà không hề hay biết. Khi hắn đi khuất tầm mắt, tôi mới dám thở. Lặng lẽ hết mức, tôi bò xuống. Tôi bắt đầu hành trình xuyên qua rừng để đến đường cái. Sẽ mất thời gian, nhưng nếu ra được đường cái, có thể tôi sẽ vẫy được chiếc xe nào đó. Rồi tôi nhớ ra con đường bình thường vốn ít người qua lại đến mức nào; có lẽ an toàn nhất là đi xuyên qua nghĩa trang để đến nhà Bill. Tôi nghĩ đến khu nghĩa trang ban đêm, nghĩ đến kẻ sát nhân đang truy đuổi mình, và rùng mình.
    Có sợ thêm nữa cũng chẳng để làm gì. Tôi phải tập trung vào thực tại. Tôi quan sát từng điểm đặt chân, di chuyển chậm rãi. Một cú ngã sẽ gây nên âm thanh không nhỏ trong không gian tĩnh mịch đến nhường này, và hắn sẽ chộp được tôi trong phút chốc.
    Tôi tìm thấy xác một con mèo cách cái cây tôi vừa trốn khoảng mười mét về hướng Đông Nam. Cổ họng con mèo đã bị rách. Tôi chẳng thể nhận ra màu lông của nó là gì dưới ánh trăng trắng lóa, nhưng những vệt đen xung quanh cái xác nhỏ bé kia chắc chắn là máu. Thêm vài bước chân rón rén nữa, tôi tìm thấy Bubba. Anh ta đang bất tỉnh hoặc đã chết. Với một ma cà rồng, thật khó để phân biệt được hai chuyện này. Nhưng chẳng có chiếc cọc nào đóng xuyên qua tim anh ta, và chiếc đầu vẫn còn đó, tôi có cơ sở để hy vọng rằng anh ta chỉ bất tỉnh mà thôi.
    Chắc hẳn đã có kẻ mang cho Bubba con mèo bị đánh thuốc. Kẻ nào đó biết chuyện Bubba đang canh gác cho tôi và đã nghe nói về sở thích hút máu mèo của anh ta.
    Tôi nghe thấy tiếng răng rắc đằng sau mình. Tiếng cành cây gẫy. Tôi luồn vào bóng cây lớn nhất gần đó. Tôi giận điên lên, giận dữ lẫn sợ hãi, và tôi không biết đêm nay mình có chết không.
    Tôi có thể không có khẩu súng trường, nhưng tôi vẫn còn một thứ vũ khí của riêng mình. Tôi nhắm mắt lại, và để mặc tâm trí mình tự do.
    Mớ hỗn độn tối tăm, màu đỏ, màu đen. Sự căm thù.
    Tôi do dự. Nhưng đây là chuyện cần thiết, đây là sự bảo vệ duy nhất tôi có được. Tôi gỡ bỏ mọi sự phòng vệ. Đầu óc tôi tràn ngập những hình ảnh buồn nôn và ghê tởm. Dawn đang yêu cầu ai đó đánh mình rồi phát hiện ra trên tay hắn là chiếc tất dài của cô ta, và hắn đang dùng ngón tay kéo căng nó ra, sẵn sàng siết quanh cổ Dawn. Một hình ảnh thoáng qua về Maudette, trần truồng và khẩn nài. Một phụ nữ tôi chưa bao giờ gặp, tấm lưng trần quay về phía tôi đầy những vết thâm tím và vệt máu. Và bà của tôi - người bà thân yêu của tôi - trong căn bếp quen thuộc của chúng tôi, đang giận dữ chống lại cái chết.
    Tôi đờ người ra vì choáng váng và kinh hoàng. Đây là những ý nghĩ của ai? Tôi bắt gặp hình ảnh lũ trẻ của Arlene, đang chơi trên sàn phòng khách nhà tôi; tôi thấy chính mình, nhưng trong một diện mạo hoàn toàn khác. Trên cổ là một cái lỗ rộng ngoác, và tôi là một ả dâm dục; tôi đang liếc mắt đưa tình với vẻ đĩ thõa, và tôi vỗ vỗ vào háng mình với vẻ mời gọi.
    Tôi đang ở trong tâm trí của Rene Lenier. Đây chính là cách Rene nghĩ về tôi.
    Rene đang điên cuồng giận dữ.
    Bây giờ thì tôi đã hiểu tại sao mình chẳng bao giờ đọc được rõ ràng tâm trí hắn; hắn giữ tất cả những suy nghĩ đó trong một góc bí mật, một nơi trong tâm trí được hắn giấu giếm che đậy khỏi chính ý thức của hắn. Bây giờ hắn đang nhìn thấy một hình dáng đằng sau một thân cây, và băn khoăn tự hỏi nó có giống với hình dáng phụ nữ hay không.
    Hắn đang nhìn thấy tôi.
    Tôi phóng vọt lên và chạy thẳng hướng Tây về phía nghĩa trang. Tôi chẳng thể lắng nghe tâm trí hắn nữa bởi bộ não của tôi giờ đang tập trung vào chuyện chạy, tránh những chướng ngại vật như cây cối, bụi rậm, cành cây gãy, một rãnh nước mưa nhỏ. Đôi chân khỏe mạnh của tôi guồng nhanh, đôi tay vung mạnh, và hơi thở như ống bễ.
    Tôi thoát ra khỏi rừng và chạy vào nghĩa trang. Khu vực lâu đời nhất của nghĩa địa này nằm ở phía Bắc, trên đường tới nhà Bill, và đó là nơi ẩn trốn tốt nhất. Tôi nhảy qua một tấm bia theo kiểu hiện đại, được đặt gần như nằm ngang với mặt đất, chẳng thể coi là một chỗ trốn an toàn. Tôi nhảy qua mộ của bà, đất vẫn còn thô, đá chưa được lát. Kẻ đã sát hại bà bám theo tôi. Như một con ngốc, tôi quay lại nhìn xem hắn còn cách mình bao xa, và dưới ánh trăng, tôi nhìn thấy rõ mồn một mái tóc bờm xờm của Rene khi hắn tăng tốc đuổi theo tôi.
    Tôi chạy xuống vùng lòng chảo hơi trũng do nghĩa trang này tạo nên, rồi bắt đầu chạy nước rút về phía bên kia. Khi cho rằng đã có đủ những tấm bia rộng bản và các bức tượng ngăn cách giữa mình và Rene, tôi liền ẩn mình đằng sau một cột đá granite cao có gắn cây thánh giá trên đỉnh. Tôi đứng thẳng, ép sát vào lớp đá cứng lạnh lẽo.
    Tôi chặn bàn tay ngang mồm để ngăn những tiếng nức nở đang chực thoát ra khỏi lồng ngực. Tôi buộc mình phải thật bình tĩnh để có thể lắng nghe Rene; nhưng những ý nghĩ của hắn chẳng đủ mạch lạc để tôi có thể giải mã được, trong tâm trí hắn chỉ toát lên sự căm phẫn. Rồi, tôi bất chợt nảy ra một ý nghĩ.
    “Em gái mày,” tôi hét lên. “Cindy còn sống chứ, Rene?”

  10. #29
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,707
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    “Đồ con lợn!” hắn ré lên, và trong chính khoảnh khắc đó, tôi nhận ra nạn nhân đầu tiên chính là em gái Rene, cô em gái thích ma cà rồng, cô em gái mà theo lời Arlene thì hắn đáng lẽ ra vẫn thi thoảng thăm viếng. Rene đã giết Cindy, cô em gái làm nghề phục vụ bàn, khi cô ấy vẫn đang mặc bộ đồ trắng sọc hồng đồng phục của căn tin bệnh viện. Hắn đã xiết cổ cô bằng sợi dây tạp dề. Và hắn làm tình với Cindy, sau khi cô đã chết. Hắn cho rằng Cindy đã lậm quá sâu rồi, chẳng còn bận tâm gì đến chính anh trai mình nữa. Bất cứ ai để ma cà rồng làm vậy với mình đều đáng chết. Và hắn đã giấu xác cô ấy đi để tránh sự ô nhục. Những nạn nhân khác chẳng phải máu mủ gì; cứ để họ nằm chết ở đó cũng chẳng sao.
    Tôi bị hút vào trong cái thế giới bệnh hoạn của Rene giống như cành cây con bị cuốn theo xoáy nước, và nó làm tôi dao dộng. Đến khi tôi tự làm chủ được tâm trí mình, hắn đã nằm đè lên tôi rồi. Hắn dồn hết sức đấm vào mặt tôi, chờ đợi tôi gục xuống.
    Cú đánh làm gãy sống mũi tôi và khiến tôi đau đớn đến mức suýt ngất đi, nhưng tôi vẫn không gục xuống. Tôi đấm lại hắn. Sự thiếu kinh nghiệm làm đòn đánh hầu như chẳng tác dụng. Tôi chỉ thụi vào xương sườn, và hắn rên lên, nhưng hắn đã trả đòn ngay lập tức.
    Nắm đấm của hắn đánh gẫy xương đòn của tôi. Nhưng tôi không gục xuống.
    Hắn đã không biết tôi khỏe đến thế nào. Dưới ánh trăng, gương mặt hắn lộ rõ vẻ choáng váng khi thấy tôi trả đòn, và tôi thầm cảm ơn Chúa vì mình đã được uống máu ma cà rồng. Nghĩ đến người bà dũng cảm của mình, tôi phóng thẳng vào hắn, nắm chặt tai và cố đập đầu hắn vào cột granite. Nhưng hắn đã chộp được khuỷu tay tôi, và cố đẩy tôi ra khiến tay tôi lơi dần. Cuối cùng, hắn cũng thoát ra được, nhưng nhìn vào mắt hắn, tôi có thể thấy hắn vô cùng kinh ngạc và cảnh giác hơn. Tôi cố đá hắn vào đầu gối, nhưng hắn đã đoán trước được và vặn người ra xa để tránh. Trong lúc tôi đang mất đà, hắn liền đẩy mạnh, và tôi ngã xuống uỵch xuống nền đất cứng.
    Rene ngồi đè lên người tôi. Nhưng sợi dây thừng đã rơi trong cuộc ẩu đả vừa rồi, và một tay giữ cổ tôi, tay còn lại hắn dò dẫm tìm thứ công cụ hắn đã lựa chọn. Tay phải tôi đã bị đè chặt, nhưng tay trái lại hoàn toàn tự do, và tôi hết đập lại cào hắn. Tên sát nhân phải cố chịu đựng để tìm cho ra sợi dây thừng siết cổ, vì đó là một phần nghi thức của hắn. Bàn tay quờ quạng của tôi vớ được một hình dạng quen thuộc.
    Rene vẫn đang mặc bộ đồ lao động, con dao vẫn được dắt bên thắt lưng. Tôi mở chốt khóa, rồi rút con dao ra khỏi bao, và khi hắn vẫn còn đang nghĩ, “Đáng lẽ mình nên tháo nó ra,” thì tôi đã thọc con dao vào bụng hắn, ấn thật sâu. Rồi tôi rút ra.
    Hắn thét lên.
    Hắn lảo đảo, vặn vẹo phần thân trên, cố dùng hai tay ngăn dòng máu đang tuôn ra từ vết thương.
    Tôi chạy lùi về sau, đứng lên, cố giữ cho khoảng cách giữa mình và con quái vật đó đủ xa.
    Rene rống lên. “ôi Chúa ơi, con đàn bà thối tha! Mày đã làm gì thế này? Đau quá, Chúa ơi!”
    Máu vẫn tuôn.
    Hắn đang sợ hãi, sợ bị bại lộ, sợ rằng trò chơi của hắn sẽ kết thúc, sợ cuộc trả thù của hắn sẽ kết thúc. “Những ả đàn bà như mày đáng phải chết,” tên sát nhân gầm ghè. “Tao có thể cảm thấy mày đang ở trong đầu tao, đồ quái vật!”
    “Ở đây ai mới là con quái vật cơ chứ?” tôi rít lên. “Đi chết đi, thằng khori.”
    Tôi không biết mình đang nghĩ gì nữa. Tôi vẫn đứng khom mình cạnh tấm bia mộ, tay nắm chặt con dao đẫm máu, chờ hắn phản đòn.
    Rene lảo đảo đi thành vòng tròn, trong lúc tôi quan sát với gương mặt đanh lại. Tôi khép tâm trí mình lại, tránh xa cảm giác của hắn về cái chết đang đến gần. Khi Rene đổ sụp xuống đất, tôi vẫn đang đứng lăm lăm con dao trong tay. Khi chắc chắn hắn không thể cử động nữa, tôi bèn tiến về phía nhà Bill, nhưng đi chứ không chạy. Tôi tự nhủ đó là vì mình không thể: nhưng tôi cũng không chắc. Tôi vẫn nhìn thấy hình ảnh bà, bị đóng khung vĩnh viễn trong tâm trí Rene, đang đấu tranh vì sự sống của bà trong chính ngôi nhà của bà.
    Tôi lục túi tìm chìa khóa nhà Bill, có chút ngạc nhiên khi thấy nó vẫn còn ở đó.
    Bằng cách nào đó, tôi tra được chìa vào ổ, loạng choạng bước vào phòng khách rộng lớn, dò tìm điện thoại. Những ngón tay tôi chạm vào phím bấm, cố hình dung đâu là số chín, và đâu là số một. Tôi nhấn những phím bấm đủ mạnh để chúng kêu, và sau đó, đột ngột, tôi ngất lịm.
    TÔI BIẾT mình đang ở trong bệnh viện: xung quanh tôi là mùi khăn trải giường sạch sẽ ở bệnh viện.
    Điều tiếp theo mà tôi nhận ra là khắp người ê ẩm.
    Và có ai đó đang ở trong phòng với tôi. Tôi cố mở mắt ra.
    Andy Bellefleur. Khuôn mặt vuông vức của hắn ta còn có vẻ mệt mỏi hơn cả lần trước tôi gặp.
    “Cô có nghe thấy tôi nói không?” hắn ta hỏi.
    Tôi gật đầu, chỉ là một cử động khẽ khàng, nhưng vẫn khiến đầu tôi đau đớn vô cùng.
    “Bọn tôi bắt được hắn rồi,” hắn ta nói, và hắn còn nói cả đống chuyện nữa, nhưng tôi đã lại thiếp đi.
    Lần tiếp theo tôi tỉnh giấc, trời đã sáng, và lần này tôi có vẻ tỉnh táo hơn. Có ai đó đang ở trong phòng.
    “Ai đó?” tôi nói, giọng ken két đau đớn.
    Kevin đứng dậy từ chiếc ghế ở góc phòng, cuộn tròn tờ báo với phần giải ô chữ lại, nhét vào túi quần bộ đồng phục.
    “Kenya đâu rồi?” tôi thì thầm.
    Anh ta bất ngờ toét miệng cười. “Cô ấy ở đây vài tiếng rồi,” anh ta giải thích. “Cô ấy sẽ quay lại sớm thôi. Tôi đã buộc cô ấy phải đi ăn trưa.” Gương mặt mỏng và thân hình gầy guộc của anh ta tạo thành một đường thẳng khẳng khiu. “Cô thật cứng cỏi,” anh ta nói.
    “Bây giờ thì chẳng cứng cỏi lắm đâu,” tôi cố gắng đáp lời.
    “Cô bị thương mà,” anh ta nói, cứ như thể tôi không nhận ra điều đó vậy.
    “Rene.”
    “Chúng tôi tìm thấy hắn trong nghĩa trang,” Kevin trấn an tôi. “Cô đã đâm cho hắn một nhát ra trò đấy. Nhưng hắn vẫn tỉnh, và hắn nói với bọn này là hắn đã cố giết cô.”
    “Tốt.”
    “Hắn thật sự hối tiếc vì chưa hoàn thành được nhiệm vụ. Thật không tin nổi hắn lại bệnh hoạn đến thế, nhưng lúc bị bắt, hắn cảm thấy bị tổn thương và sợ hãi. Hắn cho rằng tất cả đều là lỗi của cô, vì cô không nằm chịu chết như những người khác. Hắn nói chắc là do gene di truyền, vì bà của cô...” Kevin dừng lại, sợ làm tôi buồn.
    “Bà cũng chống trả lại,” tôi thì thầm. Đúng lúc đó Kenya bước vào, to lớn, bình thản, cầm theo một tách cà phê nghi ngút khói.
    “Cô ấy tỉnh rồi,” Kevin nói, cười rạng rỡ với viên đồng sự.
    “Tốt,” giọng Kenya có vẻ kém vui hơn Kevin với thông tin đó. “Cô ấy nói đã có chuyện gì vậy? Có lẽ ta nên gọi Andy.”
    “Phải, anh ấy muốn vậy. Nhưng anh ấy mới chỉ ngủ được bốn tiếng thôi.”
    “Anh ta đã bảo phải gọi.”
    Kevin nhún vai, bước tới chiếc điện thoại đặt cạnh giường. Tôi lơ mơ ngủ giữa lúc anh ta nói, nhưng vẫn có thể nghe thấy tiếng anh ta rì rầm với Kenya trong khi chờ đợi. Anh ta đang nói về những con chó săn của mình. Kenya chắc hẳn đang lắng nghe. Andy bước vào, tôi có thể cảm nhận được suy nghĩ, cảm giác của hắn ta. Hắn ta đứng sừng sững cạnh giường. Tôi mở mắt ra khi hắn ta cúi xuống nhìn tôi. Chúng tôi nhìn nhau chăm chăm một lúc lâu.
    Hai đôi giày quân phục hướng ra ngoài hành lang.
    “Hắn vẫn còn sống,” Andy đột ngột nói. “Và hắn cứ nói không ngừng.”
    Tôi thoáng cử động đầu, hy vọng ra dấu được mình muốn gật đầu.
    “Hắn khai tất cả chuyện này bắt đầu từ em gái hắn, hồi ấy đang hẹn hò với ma cà rồng. Rõ ràng cô ta thiếu máu trầm trọng đến nỗi Rene cho rằng nếu hắn không ngăn cô ta lại thì chính cô ta cũng sẽ biến thành ma cà rồng. Một buổi tối, trong căn hộ của Cindy, hắn đã ra tối hậu thư cho cô ta. Cô ta phản đối, kiên quyết không từ bỏ người yêu. Lúc hai anh em bắt đầu tranh cãi thì Cindy đang xỏ tất vào chân để đi làm, Hắn đã giằng lấy, xiết cổ cô ta... rồi làm thêm chuyện khác nữa.”
    Andy trông có vẻ buồn nôn.
    “Tôi biết,” tôi thì thầm.
    Andy nói tiếp, “Có vẻ như bằng một cách nào đó, Rene đã rút ra kết luận rằng hắn sẽ cảm thấy mình có lý do chính đáng để thực hiện hành vi khủng khiếp đó nếu hắn tự thuyết phục được bản thân rằng rằng bất kỳ ai ở trong hoàn cảnh giống như em hắn đều đáng phải chết. Thực ra, những vụ ám sát ở đây cũng tương tự như hai vụ cho đến giờ vẫn chưa phá được ở Shreveport, và chúng tôi đang hy vọng trong lúc huyên tha huyên thuyên, Rene sẽ đả động đến hai vụ đó. Nếu hắn là thủ phạm.”
    Tôi mím chặt môi lại vì thương cảm cho số phận những người phụ nữ tội nghiệp khác.
    “Cô có thể kể lại chuyện đã xảy ra với cô không?” Andy hỏi khẽ. “Cứ chậm rãi, từ từ, và chỉ thì thầm thôi nhé. Cổ họng cô bị sưng nặng lắm.” Tự tôi cũng biết chuyện đó, cảm ơn nhiều nhé. Tôi lẩm nhẩm kể về những sự kiện trong buổi tối đó, chẳng bỏ sót bất cứ chi tiết nào. Andy đã bật chiếc máy ghi âm nhỏ lên sau khi hỏi ý kiến tôi. Hắn ta đặt nó trên gối, ngay sát miệng tôi khi tôi ra dấu rằng ghi âm cũng được, để hắn ta biết toàn bộ câu chuyện.
    “Ông Compton vẫn đi vắng?” hắn ta hỏi, sau khi tôi kết thúc câu chuyện. “New Orleans,” tôi thì thầm, gần như không nói nổi nên lời.
    “Chúng tôi sẽ tìm khẩu súng trường trong nhà Rene, giờ khi đã biết đó là của cô rồi. Đó sẽ là một bằng chứng xác đáng.”
    Sau đó, một phụ nữ trẻ xinh đẹp bận đồ trắng bước vào phòng, nhìn tôi rồi bảo Andy để lúc khác hãy quay lại. Hắn ta gật đầu với tôi, vỗ vỗ lên tay tôi một cách kỳ cục rồi đi ra. Trước khi ra đến cửa, Andy liếc lại nhìn cô bác sĩ với vẻ ngưỡng mộ. Cô ta chắc chắn đáng được ngưỡng mộ rồi, nhưng cô ta còn đeo nhẫn cưới nữa, vậy nên Andy lại một lần nữa chậm chân rồi.
    Cô ta nghĩ Andy là người quá nghiêm túc và tàn nhẫn.
    Tôi không muốn nghe chuyện này. Nhưng tôi vẫn chưa đủ khỏe khoắn để có thể tống khứ những suy nghĩ của họ ra khỏi đầu mình.
    “Cô Stackhouse, cô cảm thấy thế nào?” vị bác sĩ trẻ hỏi hơi to. Cô ta có nước da ngăm đen và người eo ót, đôi mắt nâu mở to và khóe miệng rộng.
    “Như chết rồi,” tôi thì thầm.
    “Tôi có thể hiểu được,” cô ta đáp, gật gù quan sát tôi từ trên xuống dưới. Chẳng hiểu sao tôi không nghĩ là cô ta có thể hiểu được. Tôi dám cá rằng cô nàng chưa bao giờ bị một tên sát nhân hàng loạt đập cho tơi tả ở nghĩa địa.
    “Cô cũng vừa mất bà phải không?” cô ta hỏi với giọng thương cảm. Tôi gật đầu, chỉ nhúc nhích cổ vài phân. “Chồng tôi mất sáu năm trước,” cô ta nói. “Tôi biết về nỗi đau khổ. Thật khó khăn khi phải tỏ ra dũng cảm, đúng không?”
    Ôi, ôi, ôi. Tôi để vẻ mặt mình hỏi tiếp. “Anh ấy mắc bệnh ung thư,” cô ta giải thích. Tôi cố bày tỏ sự thương cảm mà không cần dịch chuyển tí cơ nào, nhưng gần như chẳng thể làm vậy được.
    “Ừm,” cô ta nói, đứng thẳng dậy, trở lại với vẻ hoạt bát ban đầu, “chắc chắn cô sẽ sống, cô Stackhouse. Cô chỉ bị gãy xương vai, hai xương sườn và mũi thôi.”
    Đức mẹ ơi! Thảo nào tôi đau đến thế.
    “Mặt và cổ bị thâm tím nghiêm trọng. Tất nhiên là cổ họng cô cũng đau nữa.”
    Tôi cố tưởng tượng xem mình trông như thế nào. May mà tôi không có chiếc gương cầm tay nào ở đây cả. “Và còn rất nhiều các vết sưng và vết xước không nghiêm trọng ở chân và tay nữa.” Cô ta mỉm cười. “Dạ dày vẫn ổn, và bàn chân cũng vậy!”
    Hô hô hô. Vui quá cơ.
    “Tôi đã kê thuốc giảm đau rồi, nên bất cứ khi nào cảm thấy đau đớn, chỉ cần nhấn chuông gọi y tá thôi.”
    Một vị khách thò đầu vào trong phòng phía sau lưng cô bác sĩ. Cô ta quay lại, che mất tầm nhìn của tôi, và nói, “Xin chào?”
    “Đây là phòng của Sookie phải không?”
    “Phải, tôi vừa khám cho cô ấy xong. Anh có thể vào thăm được rồi.” Cô bác sĩ (theo bảng tên là Sonntag) nhìn tôi như muốn hỏi ý kiến, và tôi cố gắng thì thào, “Chắc chắn rồi.”
    JB du Rone lướt đến cạnh giường tôi, trông điển trai như người mẫu trên bìa tiểu thuyết lãng mạn. Mái tóc vàng nâu sáng rỡ dưới ánh đèn, đôi mắt cùng màu, và chiếc áo không tay để lộ ra những cơ bắp cuồn cuộn, như được tạc đẽo bởi - vậy đấy, một cái đục. Anh ta cúi nhìn tôi, còn bác sĩ Sonntag nhìn anh ta thèm khát. “Em ổn chứ, Sookie?” anh ta hỏi.
    Anh khẽ chạm ngón tay lên má tôi. Anh ta hôn lên chỗ trán không bị sưng.
    “Cảm ơn anh,” tôi thì thầm. “Em sẽ ổn thôi. Đây là bác sĩ của em.”
    JB hướng đôi mắt tròn xoe về phía bác sĩ Sonntag, người đang nôn nóng muốn được tự giới thiệu.
    “Hồi tôi phải tiêm thuốc, bác sĩ không xinh đẹp đến nhường này,” JB nói chân thành và đơn giản.
    “Anh chưa bao giờ đi khám bệnh kể từ khi còn bé ư?” bác sĩ Sonntag hỏi với vẻ bất ngờ.
    “Tôi chẳng bao giờ bị ốm cả.” Anh ta cười rạng rỡ với cô bác sĩ. “Khỏe như bò mộng vậy.”
    Và ngu cũng tương đương. Nhưng có lẽ trí thông minh của bác sĩ Sonntag đủ dùng cho cả hai.
    Cô ta không nghĩ ra được lý do nào để nán lại, tuy nhiên trước khi ra khỏi phòng, cô nàng ném lại phía sau một ánh nhìn nuối tiếc.
    JB cúi xuống, sốt sắng, “Anh mang chút gì cho em nhé, Sookie? Bánh quy Nabs hay thứ gì đó?”
    Chỉ cần nghĩ về việc ăn bánh quy giòn cũng làm tôi ứa cả nước mắt. “Không, cảm ơn anh,” tôi thì thầm. “Chồng của cô bác sĩ ấy mất rồi.”
    Ta có thể đổi chủ đề khi nói chuyện với JB mà chẳng sợ anh ta băn khoăn.
    “Ôi chào,” anh ta thốt lên, bị ấn tượng. “Cô ấy thông minh và còn độc thân à.”
    Tôi nháy mắt khích lệ.
    “Em nghĩ anh nên mời cô ấy đi chơi sao?” JB trông trầm ngâm như thể anh ta cũng biết suy nghĩ vậy. “Đó có vẻ là một ý hay đấy.” Anh ta mỉm cười với tôi. “Trừ phi em sẽ đi chơi với anh, Sookie. Em luôn là số một trong anh. Chỉ cần em ngoắc tay một cái, anh sẽ đến bên em ngay tức thì.” Anh chàng này mới ngọt ngào làm sao. Tôi không tin vào sự tận tâm của anh ta, nhưng tôi tin anh ta biết cách làm phụ nữ dễ chịu, kể cả khi cô ta trông tệ hại kinh khủng như tôi bây giờ. Tôi cảm thấy khá đau đớn. Những viên thuốc giảm đau ở đâu nhỉ? Tôi cố cười với JB.
    “Em đang đau,” anh ta nói. “Để anh gọi y tá nhé.”
    Ôi, may quá. Tôi càng cố cử động tay thì cái nút nhỏ kia dường như càng lúc càng chạy ra xa.
    Anh ta hôn tôi một lần nữa trước khi ra về và nói, “Anh đi tìm cô bác sĩ của em đây, Sookie. Có lẽ nên hỏi thăm chút về bệnh tình của em.”
    Sau khi được y tá tiêm thuốc, tôi đang trông chờ cơn đau dịu đi thì cánh cửa mở ra một lần nữa.
    Ông anh trai của tôi bước vào. Anh đứng cạnh giường một lúc lâu, nhìn chăm chăm vào mặt tôi. Cuối cùng anh cũng lên tiếng, một cách nặng nhọc, “Anh đã nói chuyện với bác sĩ của em ngay trước khi cô ấy đến căng tin cùng JB. Cô ấy bảo anh rằng tình trạng của em rất nghiêm trọng.” Anh lùi xa khỏi tôi, bước một vòng quanh phòng rồi quay lại. Lại nhìn chăm chăm. “Em trông tệ quá.”
    “Cảm ơn anh,” tôi thì thầm.
    “Ôi, phải rồi, cổ họng em. Anh quên mất.”
    Anh bắt đầu vỗ về tôi, nghĩ rằng làm thế sẽ giúp tôi dễ chịu hơn.
    “Nghe này, em gái, anh phải cảm ơn em, nhưng anh thấy xấu hổ vì khi có chuyện em lại là người bảo vệ anh.” Nếu có thể, tôi đã đá cho anh một cú rồi.
    Bảo vệ anh, chết tiệt thật.
    “Anh nợ em nhiều lắm, em gái à. Anh quá ngu khi nghĩ Rene là thằng bạn tốt.”
    Phản bội. Anh ấy cảm thấy bị phản bội.
    Đúng lúc đó, Arlene bước vào, khiến không khí dễ thở hơn hẳn.
    Chị trông vô cùng luộm thuộm. Chị không trang điểm, mái tóc đỏ rối bù, và quần áo thì vớ được bộ nào mặc đại bộ ấy. Tôi chưa bao giờ thấy Arlene trong tình trạng chưa uốn tóc và thiếu lớp trang điểm dày tươi tắn.
    Chị ấy cúi nhìn tôi - Chúa ơi, giá như tôi đứng dậy được - và trong một giây, khuôn mặt chị cứng như đá, nhưng khi đã thực sự nhận ra khuôn mặt tôi rồi, chị bắt đầu run lên bần bật.
    “Chị đã tức điên lên với em, chị đã không tin nổi chuyện đó, nhưng giờ khi nhìn thấy em, và những gì hắn ta làm... Ôi, Sookie, em sẽ tha thứ cho chị chứ?”
    Chúa ơi, tôi muốn chị ấy ra khỏi đây. Tôi cố ra dấu cho Jason, và ngay lập tức, anh hiểu, anh vòng tay quanh vai Arlene, đưa chị ra ngoài. Chưa ra đến cửa Arlene đã khóc òa lên. “Chị đâu có biết...” Chị nói, gần như không thành lời. “Chị đâu có biết!”
    “Quái quỷ thật, anh cũng đâu có biết chứ,” Jason nói giọng nặng trình trịch.
    Tôi chợp mắt một chút sau khi ăn ít thạch xanh ngon lành.
    Chiều đó, tôi vô cùng phấn khích khi vào phòng tắm, một mình. Tôi ngồi trên ghế khoảng mười phút, và muốn quay lại giường. Tôi liếc mắt qua tấm gương giấu sau chiếc bàn gập, và ngay lập tức thấy hối hận.
    Tôi bật điều hòa pha phả, chỉ đủ để thấy mát mẻ và cho da đỡ khô nẻ. Mặt tôi thâm tím hết cả, mũi sưng phồng ra gấp hai lần. Mắt phải thì sưng húp, gần như híp tịt lại. Tôi rùng mình, chỉ thế thôi cũng thấy đau. Chân tôi... Ôi, khỉ thật, tôi còn chẳng muốn kiểm tra nữa. Tôi cẩn thận nằm lại vào giường, thầm mong ngày hôm nay sớm kết thúc. Có thể khoảng bốn hôm nữa, tôi sẽ hoàn toàn khỏe mạnh trở lại. Làm việc!
    Bao giờ tôi mới đi làm lại được đây? Một tiếng gõ cửa khe khẽ làm tôi xao lãng. Lại thêm một vị khách chết tiệt nữa đây. Ái chà, lần này là một người tôi không biết mặt. Một phụ nữ luống tuổi tóc xanh đeo kính gọng đỏ kéo một chiếc xe đẩy vào. Chị ta đang mặc chiếc áo vàng đồng phục của những tình nguyện viên bệnh viện, hay còn gọi là nhóm Những Quý Bà Ánh Dương.
    Chiếc xe chở hoa dành cho bệnh nhân ở khoa này.
    “Chị mang đến cho em những lời chúc tốt lành nhất!” người phụ nữ nói vui vẻ.
    Tôi mỉm cười, nhưng mặt tôi hẳn trông phải khủng khiếp lắm, vì gò má người phụ nữ khẽ run run.
    “Đây là dành cho em này,” chị ta nói, nâng lên một chậu cây buộc nơ đỏ. “Thiệp đây cưng. Xem nào, đây cũng là của em...” Đó là một bó hoa cắt trực tiếp từ vườn, gồm tầm xuân hồng, cẩm chướng hồng, xen lẫn baby trắng muốt. Chị ta cũng rút từ bó hoa ra một tấm thiệp. Kiểm tra kỹ chiếc xe, chị ta thốt lên, “Chà, em quả là người may mắn đấy! Thêm hoa cho em nữa này!”
    Điều đáng chú ý ở món quà thứ ba này là một bông hoa đỏ kỳ dị mà tôi chưa thấy bao giờ, được cắm giữa những bông hoa quen thuộc khác. Tôi nhìn bông hoa cuối cùng này với Vẻ nghi ngờ. Chị Quý Bà Ánh Dương trao cho tôi một tấm thiệp từ cái kẹp nhựa.
    Sau khi chị ta mỉm cười rời khỏi phòng, tôi mở mấy chiếc phòng bì nhỏ ra. Tôi nhận ra với chút châm biếm rằng khi tâm trạng tốt, mọi cử động đều có vẻ dễ dàng hơn.
    Trong tấm thiệp ghi chậu hoa là của Sam và “tất cả đồng nghiệp ở quán Merlotte”, nhưng nét chữ là của Sam. Tôi chạm vào đám lá xanh mơn mởn, băn khoăn không biết mình sẽ để nó ở đâu khi mang về nhà. Bó hoa được cắt từ vườn là của Sid Matt Lancaster và Elva Deene Lancaster - tên gì mà chuối thế. Bó hoa cuối cùng, với bông hoa đỏ kỳ lạ (tôi rút ra kết luận rằng chẳng hiểu sao nó trông có vẻ rất tục tĩu, nhìn y hệt chỗ kín của phụ nữ vậy) chắc chắn là món quà thú vị nhất. Tôi tò mò mở tấm thiệp. Nó chỉ có duy nhất một chữ ký, “Eric”.
    Tôi chỉ cần có thế mà thôi. Làm thế quái nào mà hắn biết tôi ở trong bệnh viện chứ? Sao đến tận giờ tôi vẫn chưa nhận được tin gì từ Bill?
    Sau khi ăn chút thạch đỏ ngon lành cho bữa tối, tôi tập trung xem ti vi vài tiếng, vì ở đây chẳng có gì để đọc, kể cả khi mắt tôi có đọc được đi nữa. Những vết thâm tím càng lúc càng trở nên quyến rũ hơn, còn xương cốt thì rã rời, dẫu rằng tôi mới chỉ đi một lần vào phòng vệ sinh và hai lần đi quanh phòng. Tôi tắt ti vi và xoay người nằm nghiêng. Tôi ngủ thiếp đi, và sự đau đớn khắp cơ thể tôi thấm vào cả trong giấc mơ khiến tôi có những cơn ác mộng. Tôi mơ thấy mình đang chạy, chạy xuyên qua nghĩa trang, lo sợ cho mạng sống của mình, rồi ngã lên đá, rơi xuống một nấm mồ để mở, và bắt gặp tất cả những người tôi quen biết đang nằm ở đó: ba mẹ, bà tôi, Maudette Pickens, Dawn Green, kể cả một người bạn thưở ấu thơ bị chết trong một tai nạn lúc đi săn. Tôi đang tìm một tấm bia mộ nào đó; nếu tìm thấy, tôi có thể tự do trở về nhà. Tất cả họ sẽ quay trở lại mộ và để cho tôi yên. Tôi chạy từ tấm bia này sang tấm bia khác, đặt tay lên từng cái một, hy vọng nó đúng là tám bia mình đang tìm. Tôi rên rỉ.
    “Cưng à, em an toàn rồi,” một giọng nói lạnh băng thân thuộc vang lên.
    “Bill,” tôi thì thầm. Tôi quay lại, đối mặt với một tấm bia mình vẫn chưa chạm vào. Khi đặt tay lên đó, tôi dò được dòng chữ “William Thomas Compton”. Như bị dội một gáo nước lạnh, tôi mở bừng mắt, cố lấy hơi để hét toáng lên, nhưng họng tôi nhói đau. Tôi nghẹn lại vì hít quá nhiều không khí, và bừng tỉnh giấc vì cơn ho khiến cho mọi vết thương trên người tôi đau như xé. Một bàn tay đang vuốt ve má tôi, những ngón tay lành lạnh khiến làn da nóng bỏng của tôi dễ chịu hẳn. Tôi cố không khóc, nhưng một âm thanh khe khẽ vẫn bật ra khỏi cổ họng.
    “Quay về phía ánh sáng đi, em yêu,” Bill nói, giọng nhẹ nhàng và bình thản.
    Tôi đang nằm quay lưng về phía chiếc đèn trong phòng tắm đã được cô y tá bật sẵn. Giờ tôi ngoan ngoãn xoay người lại và nhìn thẳng vào chàng ma cà rồng của mình.
    Bill rít lên.
    “Anh sẽ giết hắn,” anh nói, với một sự chắc chắn giản dị làm tôi rợn cả sống lưng.
    Sự căng thẳng tràn ngập căn phòng, làm tôi ngạt thở.
    “Chào anh, Bill,” tôi làu nhàu. “Rất vui khi được gặp anh. Anh đi đâu lâu thế? Cảm ơn rất nhiều vì đã đáp lại những cuộc gọi của em.”
    Anh đột ngột cứng người lại. Anh chớp chớp mắt. Tôi có thể cảm thấy anh đang cố gắng giữ bình tĩnh. “Sookie,” anh nói. “Anh không gọi vì muốn trực tiếp kể cho em nghe những chuyện đã diễn ra.” Tôi không thể đọc được vẻ mặt của anh. Nếu buộc phải nhận xét, tôi sẽ cho rằng anh có vẻ tự hào về bản thân mình. Anh dừng lại, quét mắt khắp những phần cơ thể có thể nhìn thấy được của tôi.
    “Có đau đớn gì đâu,” tôi lẩm bẩm, chìa tay ra cho Bill. Anh hôn tay tôi, đôi môi nấn ná khiến người tôi hơi râm ran. Tin tôi đi, hơi râm ran lên thế này là đã vượt quá khả năng của tôi rồi đấy.
    “Kể cho anh nghe hắn đã làm gì em,” anh yêu cầu.
    “Anh cúi xuống đi để em có thể thì thầm. Nói nhiều đau lắm.”
    Anh kéo một chiếc ghế lại gần giường, hạ thấp tay vịn xuống và tỳ cằm lên hai cánh tay đang khoanh lại. Khuôn mặt anh cách tôi có vài phân.
    “Mũi em bị gãy rồi,” anh nhận xét.
    Tôi đảo mắt. “Mừng là anh nhận ra điều đó,” tôi thì thầm. “Em sẽ kể với bác sĩ khi cô ấy đến.”
    Anh nheo mắt lại. “Đừng cố lừa anh.”
    “Được rồi. Mũi, hai xương sườn, và xương bả vai cũng đều gẫy cả.” Nhưng Bill muốn kiểm tra tôi một lượt, vậy nên anh kéo tấm chăn xuống. Sự xấu hổ của tôi lên đến cùng cực. Lẽ dĩ nhiên, tôi đang mặc một bộ quần áo bệnh nhân xấu xí kinh khủng, và tôi vẫn chưa tắm rửa sạch sẽ, khuôn mặt có đến tận mấy màu sắc khác nhau, tóc cũng chưa được chải.
    “Anh muốn đưa em về nhà,” anh tuyên bố, sau khi đã lướt tay kiểm tra khắp lượt, xem xét từng vết trầy xước. Bác sĩ Ma cà rồng.
    Tôi ra dấu cho anh cúi xuống. “Không,” tôi thì thầm. Tôi chỉ tay vào túi truyền dịch. Anh nhìn với vẻ nghi ngờ, nhưng tất nhiên anh biết nó là gì. “Anh có thể rút nó ra,” anh nói.
    Tôi lắc đầu quầy quậy.
    “Em không muốn anh chăm sóc em sao?”
    Tôi thở dài mệt mỏi, cảm thấy đau đớn kinh khủng.
    Tôi lấy tay ra dấu muốn viết, vậy là Bill lục lọi ngăn kéo lôi ra được một tập giấy. Kỳ quặc thay, anh mang theo bút. Tôi viết, “Họ sẽ để em ra viện vào ngày mai nếu em không còn sốt nữa.”
    “Ai sẽ đưa em về?” anh hỏi. Anh đang đứng bên giường, nhìn tôi với ánh mắt phản đối, giống như một thầy giáo có người học trò giỏi nhất thường xuyên đi muộn.
    “Em sẽ nhờ họ gọi Jason, hoặc Charlsie Tooten,” tôi viết. Nếu mọi chuyện khác đi, có lẽ tôi đã tự động viết tên Arlene rồi.
    “Anh sẽ ở đó lúc trời tối,” anh nói.
    Tôi ngước nhìn gương mặt xanh xao của anh, tròng trắng trong mắt anh gần như sáng long lanh trong căn phòng lờ mờ tối.
    “Anh sẽ chữa cho em,” anh đề nghị. “Uống chút máu của anh nhé.”
    Tôi nhớ lại mái tóc của mình đã nhạt màu đi như thế nào, nhớ lại mình gần như đã khỏe gấp đôi. Tôi lắc đầu.
    “Sao lại không chứ?” anh hỏi, cứ như thể tôi đã từ chối cốc nước anh mời khi tôi đang khát vậy.
    Tôi nắm tay anh, đưa nó lên miệng mình. Tôi dịu dàng hôn lòng bàn tay anh. Tôi áp bàn tay ấy vào bên má ít đau hơn.
    “Mọi người nhận thấy em đang thay đổi,” tôi viết, sau một lúc. “Em cũng nhận thấy mình đang thay đổi.”
    Anh cúi đầu một lúc, rồi nhìn tôi buồn bã.
    “Anh biết chuyện gì xảy ra rồi chứ?” tôi viết.
    “Bubba kể với anh một phần,” anh nói, gương mặt trở nên đáng sợ hẳn khi anh nhắc đến tay ma cà rồng ngu ngơ ấy. “Sam kể cho anh phần còn lại, rồi anh đến sở cảnh sát và đọc các bản tường trình.”
    “Andy để anh làm vậy sao?” tôi nghuệch ngoạc viết.
    “Chẳng ai biết anh ở đó cả,” anh nói với vẻ bất cần.
    Tôi cố tưởng tượng chuyện này, và khẽ rùng mình.
    Tôi nhìn anh bằng ánh mắt phản đối. “Kể cho em nghe chuyện xảy ra ở New Orleans đi,” tôi viết. Tôi lại cảm thấy buồn ngủ rồi.
    “Em sẽ phải biết một chút về bọn anh đấy,” anh nói với vẻ trù trừ.
    “Ôi, ôi, những bí mật thầm kín của ma cà rồng!” tôi lảm nhảm.
    Đến lượt anh nhìn tôi bằng ánh mắt phản đối.
    “Bọn anh cũng có tôn ti trật tự,” anh kể. “Anh đang cố tìm cách để chúng mình được an toàn trước Eric.” Bất giác, tôi quay nhìn bó hoa có bông hoa đỏ.
    “Anh biết nếu mình là một quan chức, kiểu như Eric, hắn sẽ gặp nhiều khó khăn hơn nếu muốn can thiệp vào cuộc sống riêng của anh.” Tôi nhìn anh khích lệ, hay ít nhất là cũng cố tỏ ra như vậy.
    “Nên anh tham dự một buổi họp ở địa phương, và dù trước đây chưa bao giờ dính líu đến các hoạt động chính trị của ma cà rồng, anh vẫn quyết định tranh cử một chức vụ. Và, với một số nỗ lực vận động hành lang có trọng điểm, anh đã thắng!” Chuyện này thật tuyệt vời. Bill là lãnh đạo ư? Tôi băn khoăn về nỗ lực vận động hành lang có trọng điểm đấy. Có phải Bill đã giết hết những kẻ đối đầu không? Hay anh mua chuộc mỗi cử tri bằng một chai máu A dương tính?
    “Công việc của anh là gì?” tôi viết chậm rãi, hình dung ra cảnh Bill đang ngồi trong phòng họp. Tôi cố tỏ vẻ tự hào, một phản ứng có lẽ Bill đang trông chờ.
    “Anh là điều tra viên của Khu vực Năm,” anh đáp. “Anh sẽ giải thích cụ thể với em khi em đã về nhà. Anh không muốn làm em kiệt sức đâu.” Tôi gật đầu, cười rạng rỡ với anh.
    Tôi hy vọng anh không bất thình lình hỏi chủ nhân của đống hoa kia là ai. Tôi không biết liệu mình có phải viết thiệp cảm ơn Eric không. Chẳng hiểu sao đầu óc tôi cứ quay cuồng hết cả lên thế này. Chắc là do mấy viên thuốc giảm đau.
    Tôi ra dấu cho Bill lại gần. Anh làm theo, khuôn mặt áp xuống giường ngay sát mặt tôi. “Đừng giết Rene,” tôi thì thầm.
    Anh trông thật lạnh lùng, lạnh lùng hơn, lạnh lùng hơn bao giờ hết.
    “Có lẽ em đã gần như làm xong việc đó rồi. Hắn đang được chăm sóc đặc biệt. Nhưng cho dù hắn còn sống, thì giết người thế cũng đủ rồi. Cứ để pháp luật xử lý. Em không muốn anh bị săn đuổi thêm chút nào nữa. Em muốn chúng ta được bình yên.” Tôi bắt đầu thấy khó nói chuyện. Tôi nắm tay anh bằng cả hai bàn tay, áp nó vào bên má ít sưng hơn. Đột nhiên, nỗi nhớ da diết mà tôi dành cho anh bao nhiêu ngày qua cuộn lên trong lồng ngực, và tôi chìa tay ra. Anh cẩn thận ngồi lên mép giường, ngả vào người tôi, rồi anh thận trọng, thận trọng hết sức luồn tay xuống dưới người tôi, kéo tôi vào lòng, nhích từng chút một, để tôi có thể báo cho anh biết nếu tôi bị đau.
    “Anh sẽ không giết hắn,” cuối cùng Bill cũng thì thầm vào tai tôi.
    “Cưng à,” tôi thì thầm, biết rằng đôi tai thính của anh có thể nghe rất rõ. “Em nhớ anh lắm.” Tôi nghe tiếng anh thở dài, và vòng tay anh xiết chặt hơn một chút. Tay anh bắt đầu nhẹ nhàng xoa lưng tôi. “Anh không hiểu em sẽ bình phục nhanh đến thế nào nếu không có sự giúp đỡ của anh,” anh nói.
    “Ôi, em sẽ cố bình phục thật nhanh,” tôi thì thầm. “Em cá là em sẽ làm bác sĩ phải ngạc nhiên cho xem.”
    Một chú chó Ê cốt lon ton chạy dọc hành lang, ghé mắt vào phòng qua cánh cửa để mở, sủa to, “Gâu”, rồi lại lon ton chạy đi. Bill ngạc nhiên liếc ra ngoài hành lang, ồ, phải rồi, tối nay trăng tròn mà - tôi có thể nhìn thấy ngoài cửa sổ. Tôi cũng có thể nhìn thấy một thứ khác nữa. Một gương mặt trắng bệch hiện ra từ bóng đêm, trôi lờ đờ giữa tôi và mặt trăng. Đó là một gương mặt điển trai, với mái tóc dài màu vàng. Ma cà rồng Eric đang toét miệng cười với tôi, rồi dần biến mất khỏi tầm nhìn.
    Hắn đang bay.
    “Chúng ta sẽ sớm trở lại bình thường thôi,” Bill nói, nhẹ nhàng đặt tôi nằm xuống để anh có thể tắt đèn trong phòng tắm. Trong bóng tối, anh tỏa sáng rực rỡ.
    “Phải,” tôi thì thầm. “Phải rồi. Quay trở lại bình thường.”
    Chú thích
    [4] Hawaii xanh thẳm, một bộ phim ra đời năm 1961 với sự góp mặt của Elvis Presley.


    Hết

Trang 3 / 3 ĐầuĐầu 123

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 05-28-2015, 01:29 PM
  2. Bữa trưa hoàn hảo
    By sophienguyen in forum Món Chính Chọn Lọc
    Trả Lời: 4
    Bài Viết Cuối: 01-12-2015, 02:56 AM
  3. Mộng bành trướng Trung Hoa : Giành đất với Ấn Độ
    By duyanh in forum Thời Sự Chính Trị
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 06-07-2014, 05:59 PM
  4. Hoa Trường Xuân vẫn Nở
    By giavui in forum Truyện Ngắn Audio
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-03-2013, 12:45 PM
  5. Một Mùa Thu Trước Hoàng Hôn
    By hailua in forum Audio Tiểu Thuyết Tinh Cảm
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-28-2013, 01:22 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •